![]()  | 
     Bài mới   Thành viên   Lịch   Tìm kiếm   | 
 
|    | 
 
| Lịch Sử - Nhân Văn | |
|   | 
       | 
 
| Người gởi | Nội dung | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Chủ đề: Lịch sử VĂN HỌC-GIÁO DỤC VIET-NAMGởi ngày: 29/Nov/2013 lúc 5:18am  | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
    Lịch sử VIET-NAM quốc ngữ 
 
 Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 05/Dec/2013 lúc 2:44am  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 05/Dec/2013 lúc 2:42am | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
   
    
			
	
	
		
			
				
	
				*****Mời vào link bên dưới xem trọn vẹn hình ảnh và bài viết :Một nền giáo dục tử tế thì như thế này này, thưa quí vị ! |Dr. Nikonian*****Một nền giáo dục tử tế thì như thế này này, thưa quí vị !Hôm nay, VietNam Net đăng bài viết đặc sắc này. Xét vì giá trị lịch sử sống động, chứng cứ xác thực, hình ảnh minh hoạ rất công phu…, tôi xin phép tác giả đăng lại nguyên văn bài viết ở đây. Tự thân những dẫn chứng và hình ảnh trong bài viết này đã nói lên chân lý: “vì lợi ích trăm năm trồng người” và chỉ cách để biến chân lý ấy thành sự thực, thay vì những khẩu hiệu suông, Là người đã được may mắn hấp thu một phần của nền giáo dục ưu tú này và là thành viên của một gia đình giáo chức miền Nam, tôi chia sẻ “niềm tiếc nuối vô bờ bến” của người đã dụng công viết bài này. Chân thành cảm ơn tác giả. ____________________________________ Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bếnPhòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet) Tổng quan Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình. Một buổi lễ ở trường Petrus Ký ( trường Lê Hồng Phong ngày nay ) Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng). Cảnh giờ rước học sinh tan trường. Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh vànhững bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam. Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH 
 Triết lý giáo dụcNăm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967). Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm. 1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa cáccá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôngiáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. 2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong nhữngnền văn hóa khác. Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964. 3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếpnhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinhthần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việchiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minhthế giới. Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại. Mục tiêu giáo dục thời VNCH:Bích chương của Bộ Y Tế VNCH 1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào. Thanh nữ VNCH 2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập. Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974 3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ýthức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệmvà kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại. Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường 
 Giáo dục tiểu học:Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961. Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. 
 Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học(chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc). Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa. ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ. ) Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lậphay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần. Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ. Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết). Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản 
 Giáo dục trung học:Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Ch***eloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. 
 Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký Trung học đệ nhất cấp: Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73 Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàngnăm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trảhọc phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. Sân trường Marie Curie Trung học đệ nhị cấp: Nam sinh Võ Trường Toản Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn. 
 Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinhđậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20). Thầy trò trường nữ Gia Long Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương. Nữ sinh Lê Văn Duyệt Trung học tổng hợp: Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đemáp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinhnhững kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trunghọc. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị nhữngmôn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp,nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và SươngNguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960 Trung học kỹ thuật: Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáodục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấphọc bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắtbuộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầuhết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM). Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng. 
 Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa TửCác trường tư thục và Bồ đề: 
 Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974 Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tưthục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo. Sân trường Bác ái (Collège Fraternité) Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng sốhọc sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhấtđịnh cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học chính trongcác trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới). Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan. Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử: Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhậnhọc sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúpđỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầuhoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế,và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gianghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không đượchuấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinhquân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể. 
 
 Giáo dục đại học: Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên. Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh 
 
 Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học. Đại học Luật khoa Sài Gòn Mô hình các cơ sở giáo dục đại học: Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứngvới một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay). Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên. Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa. Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí. Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngànhhọc. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, vàTrường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học”cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình việnđại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của QuốcHội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các“đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”. Các viện đại học công lập: Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Namđổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trướcnăm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưngsau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từnăm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn. Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa. Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965 Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa. Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức:Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972). Các viện đại học tư thục Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người. Viện Đại học Đà lạt Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoađại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học& Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên. Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973 Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm việntrưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thậpniên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh. Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phânkhoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quảntrị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo. Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây 
Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư 
phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoahọc Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại họcnày do Giáo hội Công Giáo điều hành. Các học viện và viện nghiên cứu Viện Pasteur Nha Trang Học Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền nhưthuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự. Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974. Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt. Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc. Các trường đại học cộng đồng: Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở ĐàNẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. Các trường kỹ thuật và huấn nghệ: Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học. Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương 
thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành 
Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích 
vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn
 cây công nghiệp, lúa thóc.[74] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành 
Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp
 (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng 
Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương. Trường Cao đẳng Điện học Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà 
gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, 
Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 
lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật 
đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường 
Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp. Các trường nghệ thuật: Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn TâyPhương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ. Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh). Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy. Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940). Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60 Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hìnhvới các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966). Sinh viên du học ngoại quốc: Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư. TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOATrang trong sách Địa Lý lớp Ba Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967 
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82] Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam. 
 NHÀ GIÁOĐào tạo giáo chức:Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn[85] Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.[86] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[87] Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[88] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[89] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm).[90] Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.[91] Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường 
sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội 
thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ 
Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu 
nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…[87] Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
 Đời sống và tinh thần giáo chức:Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.[87] Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm. 
 THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬPChứng chỉ Tú Tài 1 Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.[27] Chứng chỉ Tú Tài 2 Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[27] Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểuTrong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:[96] Ông Phan Huy Quát 
 ĐÁNH GIÁHọc bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950 Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau: “Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày 
xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các
 thí dụ trên đây. Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104] Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…“[106] Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107] (Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen) Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet) http://www.drnikonian.com/2013/12/mot-nen-giao-duc-tu-te-thi-nhu-the-nay-nay/ Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 05/Dec/2013 lúc 2:54am  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 07/Dec/2013 lúc 6:52am | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
    Đọc chơi cuối tuần ! mk SỬ DỤNG TỪ VIỆT CHO CHÍNH XÁC
Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính 
của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính 
xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư 
duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc 
đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp 
nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến 
cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt 
kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
 1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt. 
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn
 phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là
 Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có 
nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở 
chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi 
từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn. 
KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con
 người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những
 câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò
 nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho 
rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) 
với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ
 thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để 
nói về năng lực mà con người mà thôi. 
QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn 
đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá 
trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy 
trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp 
tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp 
nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và 
tương lai. 
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người 
có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán 
để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn
 cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo 
chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe 
thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao 
nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không 
có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo 
ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra 
trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những
 huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là 
huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng
 chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài 
của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường 
nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?” 
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng,
 thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên
 gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi 
hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê 
thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói 
hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy. 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 (trich TrieuThanh Magazine)  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 23/Nov/2014 lúc 11:06pm | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
   
   
		
		Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến Sách giáo khoa thời VNCH(Phần 1)** (Huỳnh Minh Tú)
	Sách giáo khoa thời VNCH 
		Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
 Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại 
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư 
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới 
địa phương. 
	
			Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet) 
	Tổng quan
		Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp
 ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, 
Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc 
có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương 
trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở
 Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn 
ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình 
học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam,
 vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục 
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình 
Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng
 từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò 
lãnh đạo thực sự của mình. 
	Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên ( công viên 30/4 hiện tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ). 
	 Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa,
 những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng 
quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn 
đề giáo dục cốt yếu.  
	Những vấn đề đó là: triết 
lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và 
phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết
 bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn 
chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những 
năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo
 một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý 
thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và 
thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) 
dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. 
Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học;
 số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, 
tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng). 
			Cảnh giờ rước học sinh tan trường. 
	
		Mặc dù tồn tại chỉ 
trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và
 những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần
 lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% 
ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ 
khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng 
Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng 
của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng 
chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp 
vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này 
có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý 
thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm 
nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã 
đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những 
nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại
 sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam. 
			Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH Triết lý giáo dục 
		Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế,
 Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài 
Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học 
giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại 
diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ 
thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
 được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền 
tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong 
tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967). 
	
			Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm. 
	
		1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản. 
		Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
 cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người 
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ 
cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
 lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không 
chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không 
chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, 
chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. 
	
		2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc. 
		Giáo dục tôn trọng giá 
trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, 
nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những 
tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính
 trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để
 không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác. 
			Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964. 
	
		3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng. 
		Tinh thần dân tộc không 
nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo
 dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến 
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị 
văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, 
làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới. 
		Từ những nguyên tắc căn 
bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau
 đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm
 trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học 
sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, 
quốc gia, xã hội, và nhân loại. 
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
			Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH 
	
		1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. 
		Trong
 tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục
 hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên 
của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân
 cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho 
học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; 
không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu
 trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào. 
	
			Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa 
	
		2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. 
		Điều này thực hiện bằng 
cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối 
sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương
 xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong 
việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử 
dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp 
của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm
 hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống
 tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh 
thần tự tin, tự lực, và tự lập. 
			Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974. 
	
		3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. 
		Điều này thực hiện bằng 
cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát 
triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc
 phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò
 mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá
 trị văn hóa của nhân loại. 
	
			Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường 
	Chiến Sĩ) Giáo dục tiểu học:
			Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961. 
	
		Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).
   Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập 
(bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi 
học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai 
thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. 
 Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc). 
			Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ). 
	
		Tất cả trẻ em từ 6 tuổi 
đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn
 lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường 
công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. 
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư),
 quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở 
lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần. 
	
			Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ. 
	
		Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết). 
			Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản 
	Giáo dục trung học:
			Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn 
	
		Tính đến đầu những năm 
1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% 
tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung 
học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có 
khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường 
trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long,
 Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Ch***eloup Laubat, Quốc Học 
(Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ 
Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. 
 
			Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký 
	
		Trung học đệ nhất cấp: 
			Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73 
	
		Trung
 học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp 
đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học 
phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập 
không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh 
vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá 
cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số 
trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông 
vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả 
học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”).
 Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh 
hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
 Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào 
giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ 
nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 
bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ
 hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. 
			Sân trường Marie Curie 
	
		Trung học đệ nhị cấp: 
			Nam sinh Võ Trường Toản 
	
		Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12,
 trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ 
thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, 
tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo 
một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D 
theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban 
toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài 
ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11 
thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm
 lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài
 phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn
 Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ 
bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn. 
 Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20). 
			Thầy trò trường nữ Gia Long 
	
		Một số trường trung học 
chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, 
Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học 
(Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà 
Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh 
và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học 
Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ 
Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần 
Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc 
bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay 
đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương. 
	
			Nữ sinh Lê Văn Duyệt 
	
		Trung học tổng hợp: 
		Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school)
 là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục 
của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. 
Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo
 dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng 
nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, 
công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn,
 giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa 
phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học 
đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. 
		Thời
 Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung 
học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này 
được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) ,
 sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 
đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc 
đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. 
			Nhạc sĩ Nguyễn Đức 
Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh
 trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960 
	
		Bổ sung ( theo góp ý của độc giả Nguyễn ): 
		Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường 
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở). 
		Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ. 
			Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975 
	
		Trung học kỹ thuật: 
			Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao 
	
		Các trường trung học kỹ
 thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với 
giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật 
thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; 
hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung 
học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì 
có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là
 Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao 
Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường 
Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ 
thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia 
Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM). 
	
			Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng. 
	Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
		Các trường tư thục và Bồ đề : 
			Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974 
	
		Ngoài hệ thống trường 
công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các 
trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. 
Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu 
học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam 
Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
 Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; 
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi 
(Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều 
hành của Giáo Hội Công Giáo. 
			Sân trường Bác ái (Collège Fraternité) 
	
		Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có
 hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, 
tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 
trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số 
trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và 
Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể
 trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ 
nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học 
chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục 
đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới). 
	
			Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan. 
	
		Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử: 
			Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử. 
	
		Ngoài hệ thống các trường
 công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba 
là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không 
đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ
 hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như
 là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà 
cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài 
Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng
 có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến 
binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo 
trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa 
tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không 
đượchuấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể. 
		Giáo dục đại học: 
		Học sinh đậu được Tú tài 
II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại 
Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất
 có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất 
cao; các trường này thường là  Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành 
chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh
 viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. 
Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí
 thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học
 bổng cho sinh viên. 
			Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh 
	
 
		Chương trình học trong 
các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu 
theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương
 đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian 
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
 học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học. 
Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):
			Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩ Phạm Duy. 
	Ecole Normale Supérieure Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou 
		Theo hệ 
thống của Pháp (ngày trước): Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ 
Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État). 
		Theo hệ thống của Hoa Kỳ: Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD). 
		Khó có thể so 
sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau.   ( 
Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người 
).  
		Từ “Thạc Sĩ” 
trước đây được dùng để chỉ những người thì đậu một kỳ thi rất khó của 
Pháp (agrégation), người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng 
Anh tương đương cho từ này. 
	
			Đại học Luật khoa Sài Gòn 
	
		Mô hình các cơ sở giáo dục đại học: 
	
		Phần
 lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ 
chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí 
Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của 
Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng 
Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng 
Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa
 Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học 
(tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, 
Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường 
đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về 
mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; 
tương đương với đơn vị khoa hiện nay). 
	Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật 
		Về mặt tổ chức, viện đại 
học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại 
học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ 
Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên. 
		Trong hai thập niên 1960 
và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam 
Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh 
là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành
 lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào 
xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại 
học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa. 
		Trường đại học cộng đồng 
là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để
 chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, 
hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành 
lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm 
đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, 
và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của 
ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào 
một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 
1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái
 niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công 
cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là 
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định 
Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng 
trong dân chúng. 
	Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật 
		Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly)
 được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh 
vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại
 học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ 
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế 
đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các 
cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo
 một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được 
thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng
 hiệu năng và giảm chi phí. 
	
			Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn 
	
		Sau năm 1975, dưới chính 
thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại 
học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo
 dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa 
đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục
 đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng 
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngànhhọc. Các 
“trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này 
( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và 
Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì
 chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học 
tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp 
TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành 
khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 
1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại 
học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô 
hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại
 biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại 
học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”. 
		Các viện đại học công lập: 
		Viện Đại Học Sài Gòn: 
Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia 
Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, 
Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây 
là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp
 được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng 
Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng 
Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70%
 sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn. 
		Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa. 
	
			Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965 
	
		Viện Đại Học Cần Thơ: 
Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & 
Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa. 
		Viện Đại Học Bách Khoa 
Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật 
(1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972). 
	
				Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet) 
		
	© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 23/Nov/2014 lúc 11:14pm | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
   
   Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến Sách giáo khoa thời VNCH(Phần 2)**(Huỳnh Minh Tú)
		Các viện đại học tư thục 
		Viện
 Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của 
Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. 
Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học,
 Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975  
viện đại học này đã giáo dục 26.551 người. 
			Viện Đại học Đà lạt 
	
		Viện Đại Học Vạn Hạnh: 
Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; 
thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng 
(sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa 
đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn 
học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 
3.000 sinhviên. 
			Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973 
	
		Viện Đại Học Phương Nam: 
Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau 
năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối 
Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim 
Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3 phân khoa đại học: 
Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại
 học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh. 
			Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn 
	
		Viện Đại Học An 
Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại 
học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản 
trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo. 
		Viện Đại Học Cao Đài: 
Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại 
học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực 
thuộc Giáo hội Cao Đài. 
		Viện Đại Học Minh Đức: 
Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: 
Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ
 thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành. 
		Các học viện và viện nghiên cứu 
			Viện Pasteur Nha Trang 
	
		Học Viện Quốc Gia Hành 
Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký 
ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực 
công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 
thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển 
về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là
 đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay 
Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có 
chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham
 sự. 
		Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974. 
		Ngoài những học viện 
trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học 
như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha 
Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện 
Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt. 
	
			Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc. 
	
		Các trường đại học cộng đồng: 
		Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của
 Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở 
Nha Trang, Quảng Đà ở  Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. 
		Trường Đại học Cộng đồng 
Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên
 Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa 
hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có 
Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ 
sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. 
		Các trường kỹ thuật và huấn nghệ: 
			Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật 
	
		Ngoài những trường đại 
học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và 
Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được 
nâng lên tươngđương với cấp đại học. 
		Trường quốc gia Nông Lâm mục:
 Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở
 này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với 
chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia 
thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua 
từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc 
(1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc 
gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được
 sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường 
Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và 
Bình Dương. 
			Trường Cao đẳng Điện học 
	
		Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ:
 Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao 
đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công 
nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa
 học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia 
Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo 
nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức 
		Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp. 
			Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia 
	
		Các trường nghệ thuật: 
		Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ:
 Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương 
trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây 
Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ. 
			Các giáo sư Trường Quốc 
gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn 
Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh 
Bảo (đờn tranh). 
	
		Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:
 Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt 
Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy. 
		Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:
 Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ 
thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 
1940). 
			Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60 
	
		Trường Quốc Gia Cao 
Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ 
thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên
 là họa sĩ Lê Văn Đệ  (1954-1966). 
		Sinh viên du học ngoại quốc: 
		Một số sinh viên bậc đại 
học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận 
nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), 
đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư. 
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
			Trang trong sách Địa Lý lớp Ba 
	
		Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho
 lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách 
giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82] 
	
			Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba 
	
		Các giáo chức và họa sĩ 
làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ
 sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách 
đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu 
tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do 
Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ 
của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để
 viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các 
nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế 
giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu
 học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam. 
	Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm. NHÀ GIÁOĐào tạo giáo chức:
					Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế. 
			Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères 
		Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu 
	khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên. Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt. Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp 
		. 
			Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn 
	
		Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn
 hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức
 các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức 
có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh 
niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v… 
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa. 
			Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
	Đời sống và tinh thần giáo chức:
		Chỉ số lương của giáo 
viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo 
sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp 
hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm 
phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa,
 đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật 
hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc 
nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm 
(người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng 
đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới
 chức chính quyền địa phương. 
			Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm. 
	THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
			Chứng chỉ Tú Tài 1 
	
		Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974,
 toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm.
 Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về
 cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở
 nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu 
hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích
 hợp. 
			Chứng chỉ Tú Tài 2 
	
		Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để
 điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo 
danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả
 lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để
 đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, 
chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm 
mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn. 
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
		Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã
 có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo
 dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu: 
			Ông Phan Huy Quát 
	
 ĐÁNH GIÁ
		Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau: 
		“Điểm nhận xét 
đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, 
ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.…Vậy
 phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua
 đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi
 quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá 
nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các 
trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét ) 
		Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc
 thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó 
khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong 
nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các 
nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc 
điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những 
đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận 
sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104] 
		Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc
 đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi 
vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục
 cũ của miền Nam là
 điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành 
giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ 
nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền
 giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó 
của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ 
chịu nô lệ về tư tưởng…“[106] 
		Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có
 thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ 
nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống 
giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử 
và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học
 học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình 
độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, 
sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư 
tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một 
nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn 
Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị
 này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị 
của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây 
dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần 
chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của 
mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, 
chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn 
áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ 
báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107] 
	
		(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen) 
		Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet) 
	
			© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam 
	http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchphn-2huynh-minh-tu-&catid=6:tai-liu&Itemid=5  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 16/Dec/2014 lúc 5:24am | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
    KHO SÁCH XƯA == Một tài liệu hết sức quan trọng và hữu ích:  đó là một KHO SÁCH XƯA. Bộ
 tư liệu nầy gồm có nhiều sách giá trị lịch sử rất cao và thuộc loại quí
 hiếm, như các quyển " AN NAM CHÍ LƯỢC ", " ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ 
",... Bấm ngay chữ " Sách Xưa " thì lần lượt sẽ có các bộ sách hiện lên. Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 16/Dec/2014 lúc 12:51pm  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   cao the
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 15/Jul/2011 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 589  | 
  ![]()   Gởi ngày: 16/Dec/2014 lúc 11:52am | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
    
   Chị Mỹ Kiều kính !
 
   
  Bài viết chất lượng tuyệt hão, Cám ơn Chị  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
   mykieu
    Senior Member  
   Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471  | 
  ![]()   Gởi ngày: 16/Dec/2014 lúc 1:37pm | 
 ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
   
   Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến Huỳnh Minh Tú http://gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7708&PID=41876#41876  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| 
   
     
     mk
     
   
   | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     IP Logged |  
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
     | 
 ||
   
 Chuyển nhanh đến  | 
  Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài  | 
 |