Lịch sử VĂN HỌC-GIÁO DỤC VIET-NAM
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12646
Ngày in: 19/Feb/2025 lúc 4:46am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Lịch sử VĂN HỌC-GIÁO DỤC VIET-NAM
Người gởi: mykieu
Chủ đề: Lịch sử VĂN HỌC-GIÁO DỤC VIET-NAM
Ngày gởi: 29/Nov/2013 lúc 5:18am
Lịch sử VIET-NAM quốc ngữ
Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách
(tại Đức)
Lisboa - Bồ Đào
Nha
Bồ Đào Nha là dân tộc của những người
đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường.
Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước
công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay
trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây
Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn
sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người
Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc
số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập,
Ấn Độ và Trung Quốc.
. . .
Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt
đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường
biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.
|
Nhà truyền giáo đến
với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam
xưa |
Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để
buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù
lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung
Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền
giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam,
nhưng cuối cùng bỏ cuộc.
Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng
Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm
1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc,
đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de
Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng
Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn
bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế
nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn
trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ
tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản
xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm
ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ
Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng
ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông
đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và
lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm
thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi
nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như
thế.
Năm 1624 Francisco de Pina mở trường
dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có
hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?),
sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh
tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột
cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào
năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong
thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng,
Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm,
Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.
Sau cái chết bi thảm của Pina, các
nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai
nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral
(1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì
bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm
1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh
viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho
xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum
seu tunquinense lusitanum et latinum).
Trong các đời sau, nhiều người tôn
Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là
công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là
Francisco de Pina.
Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị
giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa
lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để
diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng
chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo
nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng
chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng
không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp
là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là
lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.
Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ
viết chính thức của người Việt.
Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những
Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường
Bách, tên bài viết do blog tự đặt.
¤¤¤
.CHỮ QUỐC
NGỮ.
Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919)
và
80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ
vào dạy
tại cấp tiểu học Việt
Nam
___
Sự ra đời của chữ quốc ngữ
-
Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn
Vĩnh
 Alexandre de
Rhodes (1591 -
1660) |
 Nguyễn Văn Vĩnh (1882 -
1936) |
Chữ
Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận
đầu thế kỷ thứ 20.
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp;
mất năm 1660 tại Ispahan, Ba
Tư) đã sang Việt Nam
truyền đạo trong vòng sáu năm (1624
-1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng
Việt
(nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự
chữ cái tiếng Việt hiện nay
là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ
La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ
Jesuit (dòng Tên)
người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v.
trong việc La-mã hóa
tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên
bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm
1651 tại Rome.
*** Hệ thống chữ viết tiếng
Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc
ngữ
(chữ viết của quốc gia)
***Nguyễn Văn Vĩnh
sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do
đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/anhhung/hoangdieu.htm - thắt cổ tự vẫn.
Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh
nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh
đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc của cậu lúc đó là làm thằng
nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người
Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả
lời được các câu hỏi
của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn
đương lúng
túng.
Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng
giúp tiền cho cậu vào học
chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất
sắc.
Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc
Ninh. Năm 1906, lúc ông 24
tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại
Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo
chí.
Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền
Pháp. Trở về Việt Nam, Nguyễn
Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức
và bắt đầu làm báo tự do.
Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ
Đăng Cổ Tùng
Báo - tờ báo đầu tiên
bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân
Việt viết văn bằng quốc
ngữ.
Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm
của các đại văn hào Pháp như
Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v.
và cũng là người đầu tiên dịch Truyện Kiều sang tiếng
Pháp.
Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ
dịch cả câu mà còn dịch nghĩa
từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có
những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm),Trung
Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm
được.
Sự cố gắng và sức làm
việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc
truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy
xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc
ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi
(Hương - Hội - Đình) ở Bắc
Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở
Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho,
thay thế bằng hệ thống trường Pháp -
Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin
ký quyết định đưa chữ Quốc
Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt
– La - Bồ của Alexandre de
Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết
của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc
ngữ.
Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong
đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô
hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt
Nam.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống
bằng nghề báo của
mình.
Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc
của Pháp đối với thuộc địa,
là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân
chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là
người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối
việc bắt giữ cụ http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/anhhung/phanchutrinh.htm - .
Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng
ưa gì
ông.
Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên.
Ông bỏ đi đào vàng ở
Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt
rét.
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc
mộc trên một dòng sông ở
Sepole.
Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một
quyển sổ ghi chép: Ông đang
viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một tháng với những người tìm
vàng. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến
ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên
lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn
ông
Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi
của Mình đã góp phần làm cho
chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân
Việt.
---Tôi đã vẽ bức tranh http://www.qgeejv265fw8lk.readverify.com/tg/qgeejv265fw8llhttp/ribf.riken.go.jp/%7Edang/paintings/Rhodes.html - với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với
hai vĩ nhân nói trên của dân
tộc Việt Nam –
Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn
Vĩnh.
------ Lời cảm
ơn:
Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình
–
nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả
về cuộc đời và sự nghiệp của
cụ Nguyễn Văn Vĩnh
từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi
Alexandre Rhodes là
gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của
Pháp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn
Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì
những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn
Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.
Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn
Vĩnh , đồng thời từng là thày
dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung
học.
http://www.qgeejv265fw8lk.readverify.com/tg/qgeejv265fw8llhttp/ribf.riken.go.jp/%7Edang - Tokyo,
10/11/2004 |
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/Dec/2013 lúc 2:42am
http://www.drnikonian.com/">
*****
Mời vào link bên dưới xem trọn vẹn hình ảnh và bài viết : http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&sqi=2&ved=0CCsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.drnikonian.com%2F2013%2F12%2Fmot-nen-giao-duc-tu-te-thi-nhu-the-nay-nay%2F&ei=Uy-gUo29FKiTiAfYloGwDQ&usg=AFQjCNErfI-n_o3pAoSRwEd-V8mHxGM7zQ&sig2=7cVTeWUq74Twl8LDD7fqeQ&bvm=bv.57155469,d.aGc - Một nền giáo dục tử tế thì như thế này này, thưa quí vị ! |Dr. Nikonian
Một nền giáo dục tử tế thì như thế này này, thưa quí vị !
http://www.drnikonian.com/2013/12/mot-nen-giao-duc-tu-te-thi-nhu-the-nay-nay/#comments - 6 Replies
Hôm nay, VietNam Net đăng http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/151893/nhung-hinh-anh-ve-giao-duc-mien-nam-truoc-1975.html?fb_action_ids=10152398402634045&fb_action_types=og.likes - bài viết đặc sắc này. Xét vì giá trị lịch sử sống động, chứng cứ xác thực, hình ảnh minh hoạ rất công phu…, tôi xin phép tác giả đăng lại n http://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/ - guyên văn bài viết
ở đây. Tự thân những dẫn chứng và hình ảnh trong bài viết này đã nói
lên chân lý: “vì lợi ích trăm năm trồng người” và chỉ cách để biến chân
lý ấy thành sự thực, thay vì những khẩu hiệu suông,
Là người đã được may mắn hấp thu một phần của nền giáo dục ưu tú
này và là thành viên của một gia đình giáo chức miền Nam, tôi chia sẻ
“niềm tiếc nuối vô bờ bến” của người đã dụng công viết bài này.
Chân thành cảm ơn tác giả.
____________________________________
Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năngmà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/1468720_354694488000497_1492264788_n.jpg">
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống
giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng
Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung
học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút
sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp
làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam
tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi
là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim -
được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam,
vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình
Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng
từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò
lãnh đạo thực sự của mình.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/pkc3bd-le1bb85.jpg">
Một buổi lễ ở trường Petrus Ký ( trường Lê Hồng Phong ngày nay )
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Đệ Nhất Cộng Hòa ,
những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng
quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn
đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu
giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập,
vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh
giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô
hình giáo dục ở M http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_Nam_%28Vi%E1%BB%87t_Nam%29 - iền Nam Việt Nam trong
những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng
đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về
lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng
và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%)
dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục.
Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học;
số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975,
tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_vi%E1%BB%87n_Qu%E1%BB%91c_gia_H%C3%A0nh_ch%C3%A1nh - Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/ce1baa3nh-gie1bb9d-rc6b0e1bb9bc-he1bb8dc-sinh-te1baa1i-trc6b0e1bb9dng-hie1bb87n-ce1bb95ng-nc3a0y-ne1bab1m-trc3aan-me1bab7t-tie1bb81n-c491c6b0e1bb9dng-n.jpg">
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng
nề bởi chiến tranh vànhững bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì
ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng
và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13%
cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng
nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có
khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự
nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả
này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục,
có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm
nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã
đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những
nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại
sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/750thay_co_truong_qgnt.jpg">
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_H%E1%BB%AFu_Th%E1%BA%BF - Trần Hựu Thế ,
Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài
Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học
giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại
diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ
thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng
cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài
liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong http://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1967 - Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vnch-giao-duc6.jpg">
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa cáccá nhân, nhưng không chấp
nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp
nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôngiáo, chủng tộc…
Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vnch-giao-duc1-1.jpg">
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh
hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo
tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của
văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết
đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong
nhữngnền văn hóa khác.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sinh-vic3aan-c491e1baa1i-he1bb8dc-dc6b0e1bba3c-khoa-sc3a0i-gc3b2n-gc3b3i-bc3a1nh-chc6b0ng-c491e1bb83-c491em-gic3bap-c491e1bb93ng-bc3a0o-mie1bb81n-trung-b.jpg">
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết
phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếpnhận những kiến
thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinhthần dân
chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào
việchiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với
văn minhthế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề
ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục
tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự
giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá
nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/164-1-c491e1bbabng-khe1baa1c-nhe1bb95.jpg">
Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh,
giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính
tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về
thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý
đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh
phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những
thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định
sẵn nào.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vn_vnch_thanhnuconghoa_01.jpg">
Thanh nữ VNCH
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã
hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết
lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn
kết,tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc;
giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả;
giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên
phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp
học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của
quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vn_vnch_bieutinh_hoangsa_vnch-bieutinh.jpg">
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm
việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ýthức tập thể;
giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệmvà kỷ
luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có
khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/saigon_university.jpg">
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
chiến sĩ)
Giáo dục tiểu học:
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/tieu-hoc-vnch.jpg">
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập
(bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi
học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai
thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NNB46-7 - [8] |
Niên học |
Số học sinh |
Số lớp học |
1955 |
400.865 |
8.191 |
1957 |
717.198 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9] |
|
1960 |
1.230.000 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9] |
|
1963 |
1.450.679 |
30.123 |
1964 |
1.554.063 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10] |
|
1970 |
2.556.000 |
44.104 |
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào
đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học,
chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu
học(chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/he1bb8dc-le1bb9bp-nhe1baa5t-le1bb9bp-nhc3ac-he1bb93i-xc6b0a-h2.jpg">
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa. ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ. )
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu
học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc
tiểu học trong các trường công lậphay tốn học phí (tùy trường) tại các
trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư),
quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở
lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/gie1bb9d-sinh-hoe1baa1t-ce1bba7a-toc3a0n-trc6b0e1bb9dng-the1bb9di-be1baa5y-gie1bb9d-mc.jpg">
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/04c-the-hoc-sinh-57-64.jpg">
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung học:
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/he1bb93-nge1bb8dc-ce1baa9n.jpg">
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học
sinh trung học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến
18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác trường trung học công
lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long,
Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Ch***eloup Laubat, Quốc Học
(Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ
Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học |
trước 1971 |
sau 1971 |
lớp năm |
lớp một |
lớp tư |
lớp hai |
lớp ba |
lớp ba |
lớp nhì |
lớp tư |
lớp nhất |
lớp năm |
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp |
lớp đệ thất |
lớp sáu |
lớp đệ lục |
lớp bảy |
lớp đệ ngũ |
lớp tám |
lớp đệ tứ |
lớp chín |
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp |
lớp đệ tam |
lớp mười |
lớp đệ nhị |
lớp 11 |
lớp đệ nhất |
lớp 12 |
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/me1bb99t-le1bb9bp-the1bbad-nghie1bb87m-hoc3a1-che1baa5t-te1baa1i-trc6b0e1bb9dng-petrus-kc3bd.jpg">
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-trung-he1bb8dc-ce1bb99ng-c491e1bb93ng-que1baadn-8-nc483m-72-73.jpg">
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện
nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường
trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàngnăm đều
tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có
tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng
62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những
học sinhkhông vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục
nhưng phải trảhọc phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt”
(hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ,
thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với
lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ http://vi.wikipedia.org/wiki/Vovinam - Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp.
Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần
vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ
thi Trung học đệ nhất cấp.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/02-marie-curie-sc3a2n-trc6b0e1bb9dng.jpg">
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/vc3b5-trc6b0e1bb9dng-toe1baa3n-hoc-sinh.jpg">
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước
1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông
hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức
bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một
trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo
thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban
văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học
sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11 thì học
sinh phải thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - Tú tài I rồi thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - Tú tài II năm
lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài
phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn
Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ
bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NNB46-7 - [8] |
Niên học |
Số học sinh |
Số lớp học |
1955 |
51.465 |
890 |
1960 |
160.500 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9] |
|
1963 |
264.866 |
4.831 |
1964 |
291.965 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10] |
|
1970 |
623.000 |
9.069 |
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.
Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công
lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã
được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá
thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp
thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinhđậu
Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ
một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở
lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/truonggialong-3.jpg">
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có
trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia
Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh
(Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành
cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn
Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi
Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ
Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài
trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu
xanh dương.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/ne1bbaf-sinh-lc3aa-vc483n-duye1bb87t.jpg">
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - John Dewey ,sau
này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và
đemáp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp
chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn
tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị
cho học sinhnhững kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi
rời trường trunghọc. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà
giáo có thể đề nghị nhữngmôn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở
nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử
nghiệm chương trình trung học tổng hợp,nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại
với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu
mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho
nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và SươngNguyệt Ánh (cho nữ
sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và
Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/nhe1baa1c-sc4a9-nguye1bb85n-c491e1bba9c-quang-ce1baa7m-c491c3a0n-trong-me1bb99t-bue1bb95i-sinh-hoe1baa1t-ce1bba7a-nhc3b3m-du-ca-ve1bb9bi-cc3a1c-he1bb8dc-sin.jpg">
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm
Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập
niên 1960
Trung học kỹ thuật:
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-que1bb91c-gia-nc3b4ng-lc3a2m-me1bba5c-blao-2.jpg">
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật,
kết hợp việc dạy nghề với giáodục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển
vào trung học kỹ thuật thường được cấphọc bổng toàn phần hay bán phần.
Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắtbuộc là tiếng Anh và tiếng
Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầuhết ở các tỉnh, thành phố;
ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập
năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài
Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông
Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì
có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/hie1bb87u-trc6b0e1bb9fng-cao-thanh-c491e1baa3nh-vc3a0-cc3a1c-gic3a1o-trc6b0e1bb9dng-trung-he1bb8dc-ke1bbb9-thue1baadt-cao-the1baafng.jpg">
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề:
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/le1bb83-ke1bbb7-nie1bb87m-100-nc483m-thc3a0nh-le1baadp-ce1bba7a-trc6b0e1bb9dng-lasan-taberd-17-thc3a1ng-2-nc483m-1974-h08.jpg">
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư
thục. Vào năm 1964 các trường tưthục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62%
học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm
17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính
đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh;
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi
(Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều
hành của Giáo Hội Công Giáo.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sc3a2n-trc6b0e1bb9dng-bc3a1c-c3a1i-collc3a8ge-fraternitc3a9.jpg">
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_Hoa_%28Vi%E1%BB%87t_Nam%29 - người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_h%E1%BB%99i_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam_Th%E1%BB%91ng_nh%E1%BA%A5t - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có
hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành,
tính đến năm 1970trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65
trường trung học với tổng sốhọc sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số
trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và
Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể
trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ
nhấtđịnh cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học
chính trongcác trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục
đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/le-collc3a8ge-fraternitc3a9-bac-ai-datant-de-1908-se-situe-4-rue-nguyc3aan-trai-cho-quan.jpg">
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/saigon-17-march-1971-bc3a0-nguye1bb85n-vc483n-thie1bb87u-de1bbb1-le1bb85-khc3a1nh-thc3a0nh-thc6b0-vie1bb87n-trc6b0e1bb9dng-qg-nghc4a9a-te1bbad.jpg">
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng
Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là
trường công lập nhưng không đón nhậnhọc sinh bình thường mà chỉ dành
riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như
là một đặc ân của chính phủ giúpđỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả
việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầuhoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn,
sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế,và Biên Hòa. Tổng cộng có 7
cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản
lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của
Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gianghĩa tử là giáo
dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không đượchuấn luyện
quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinhquân. Sau
năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/viendaihocvanhanh-saigon.jpg">
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong
các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì
số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ
thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược,
Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh
viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền.
Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí
thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học
bổng cho sinh viên.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trong-khuc3b4n-vic3aan-he1bb8dc-vie1bb87n-que1bb91c-gia-hc3a0nh-chc3a1nh-h2.jpg">
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học |
Niên học |
Số sinh viên |
1960-61 |
11.708 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-44 - [45] |
1962 |
16.835 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10] |
1964 |
20.834 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10] |
1974-75 |
166.475 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-45 - [46] |
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba
cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học,
v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương
đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/luat-khoa-sai-gon.jpg">
Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứngvới một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/c491e1baa1i-he1bb8dc-sc6b0-phe1baa1m-ke1bbb9-thue1baadt-the1bba7-c491e1bba9c-h3.jpg">
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối
phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường
phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của
Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở
Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau
chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính
phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được
đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai
mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình
thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa
ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học
lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường
đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và
quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương
trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo
dục này là một nghiên cứu của ông https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái
niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công
cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định
Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng
trong dân chúng.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/25-khach_vieng_truong_01.jpg">
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly)
được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh
vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế
đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các
cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo
một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được
thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng
hiệu năng và giảm chi phí.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-sc6b0-phe1baa1m-thue1bb99c-vie1bb87n-c491h-sc3a0i-gc3b2n.jpg">
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn
bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị
phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo
đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi
trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô
hình phân tán ngànhhọc. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập
dưới hai chính thể này( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học
Bách Khoa TPHCM, vàTrường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô
hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ
thuật Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng
Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp
Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang
tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học”cấp quốc gia và 3 “đại học”
cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình việnđại học. Vào
tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của QuốcHội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các“đại học” cấp quốc gia và cấp
vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906),
rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học
Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Namđổi tên thành
Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trướcnăm 1964,
tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưngsau
đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi
từnăm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm
năm1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện
Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/hc3a0ng-c491e1baa7u-bc3aan-trc3a1i-c3b4ng-nguye1bb85n-c491c483ng-trc3acnh-be1bb99-trc6b0e1bb9fng-be1bb99-qg-gic3a1o-de1bba5c-vie1bb87n-trc6b0e1bb9fng-vi.jpg">
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục ,
Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng
thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện
trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966với 4 phân khoa đại học: Khoa
học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức:Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung
tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vie1bb87n-c491e1baa1i-he1bb8dc-c491c3a0-le1baa1t.jpg">
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Ấn Quang của
Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10
năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ),
Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoađại học: Giáo dục, Phật Học,
Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học& Khoa học nhân văn.
Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/le1bb85-phc3a1t-be1bab1ng-ce1bbad-nhc3a2n-ce1bba7a-vie1bb87n-c491e1baa1i-he1bb8dc-ve1baa1n-he1baa1nh-1973.jpg">
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16
đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3Tháng Hai), Quận 10, Sài
Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm việntrưởng. Viện Đại học Phương
Namcó 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa.
Vào thậpniên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/thc6b0-vie1bb87n-c491e1baa1i-he1bb8dc-ve1baa1n-he1baa1nh-sc3a0i-gc3b2n.jpg">
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5
phânkhoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế,
Khoa học Quảntrị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật
Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây
Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư
phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# -
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn
với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoahọc Kỹ thuật, Kinh tế
Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại họcnày do Giáo hội
Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/vinpasteur.jpg">
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc
Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự
chuyên môn trong lãnh vực công quyền nhưthuế vụ và ngoại giao. Trường
sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de
Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc
đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện
này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc
Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia
thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Pasteur Sài Gòn , https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Pasteur Đà Lạt , https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Pasteur Nha Trang , https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Hải dương học Nha Trang , https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Nguyên tử lực Đà Lạt , https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sa_gon__entr_e_de_l_institut_pasteur.jpg">
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của
Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở
Nha Trang, Quảng Đà ở ĐàNẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp;
Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường
Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa
bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng
vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo
triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-ke1bbb9-sc6b0-cc3b4ng-nghe1bb87-trc6b0e1bb9dng-hc3a0ng-he1baa3i-thue1bb99c-trung-tc3a2m-que1bb91c-gia-ke1bbb9-thue1baadt.jpg">
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường
Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang
thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương
thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành
Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích
vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn
cây công nghiệp, lúa thóc.[74] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành
Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp
(1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng
Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương. https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# -
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-cao-c491e1bab3ng-c491e1bb87n-he1bb8dc.jpg">
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà
gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học,
Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968
lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật
đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường
Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# -
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm
1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao
gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn TâyPhương và truyền thống Việt Nam cùng
kịch nghệ.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/cc3a1c-gic3a1o-sc6b0-trc6b0e1bb9dng-que1bb91c-gia-c3a2m-nhe1baa1c-vc3a0-ke1bb8bch-nghe1bb87-c491e1bb93ng-te1baa5u-tre1baa7n-thanh-tc3a2m-c491e1bb9dn-k.jpg">
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh
Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn
Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát https://www.facebook.com/notes/tuyen-nguyen/n%E1%BB%81n-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BB%99-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a-s%E1%BB%B1-ti%E1%BA%BFc-nu%E1%BB%91i-v%C3%B4-b%E1%BB%9D-b%E1%BA%BFn/354691764667436# - Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:thành lập năm 1971, trên cơ sở
nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là
Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/bue1bb95i-he1bb8dc-hc3acnh-he1bb8da-te1baa1i-le1bb9bp-de1bbb1-be1bb8b-ce1bba7a-trc6b0e1bb9dng-que1bb91c-gia-me1bbb9-thue1baadt-sc3a0i-gc3b2n-c491e1baa7.jpg">
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954;
chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hìnhvới các chương trình học 3 và 7
năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước
ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là
Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội
và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sc3a1ch-gic3a1o-khoa1.jpg">
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
http://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n_Ki%E1%BB%81u - Truyện Kiều bản http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_N%C3%B4m - chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1958 - 1958 , chính phủ http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhất Cộng hòa cho
lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách
giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1962 - 1962 , Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-81 - [82]
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sc3a1ch-c491e1bb8ba-lc3bd-le1bb9bp-3-h1.jpg">
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/sc3a1ch-c491e1bb8ba-lc3bd-le1bb9bp-3.jpg">
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn
bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung
lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học
sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và
trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản
xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung
tâm này còn hợp tác với http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95_ch%E1%BB%A9c_Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c,_Khoa_h%E1%BB%8Dc_v%C3%A0_V%C4%83n_h%C3%B3a_Li%C3%AAn_Hi%E1%BB%87p_Qu%E1%BB%91c - UNESCO để
viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các
nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế
giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu
học cho gần 30 http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_t%E1%BB%99c_Vi%E1%BB%87t_Nam - sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/kohoreader.jpg">
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn,
Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên
môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua
Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và
khoa học. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL34-82 - [83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_N%C3%B4m - chữ Nôm .
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-c491h-sc6b0-phe1baa1m-thue1bb99c-vie1bb87n-c491h-hue1babf.jpg">
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_S%C3%A0i_G%C3%B2n - Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-83 - [84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Bu%C3%B4n_Ma_Thu%E1%BB%99t - Ban Mê Thuột , http://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BF - Huế , http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh_Long_%28th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91%29 - Vĩnh Long , http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_An - Long An , và http://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_Nh%C6%A1n - Quy Nhơn http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-84 - [85] http://vi.wikipedia.org/wiki/Nha_Trang - Nha Trang , http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_Tho - Mỹ Tho , http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7n_Th%C6%A1 - Cần Thơ , http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Xuy%C3%AAn - Long Xuyên . http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-85 - [86] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Hu%E1%BA%BF - Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%A0_L%E1%BA%A1t - Viện Đại học Đà Lạt . http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL135-138-86 - [87] Vào
thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với
chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương
trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-87 - [88] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-88 - [89] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-89 - [90] Sinh viên các trường sư phạm được cấp http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_b%E1%BB%95ng - học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-90 - [91]
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/c491e1bb99i-ngc5a9-gic3a1o-sc6b0-tre1babb-nhie1bb87t-tc3acnh-te1bb91t-nghie1bb87p-c491e1baa1i-he1bb8dc-sc6b0-phe1baa1m-sc3a0i-gc3b2n.jpg">
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường
sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội
thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ
Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu
nghiệp ở các nước như http://vi.wikipedia.org/wiki/Anh - Anh , http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp , http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - Hoa Kỳ , http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n - Nhật , http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c - Đức , v.v… http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL135-138-86 - [87]
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng - Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1954 - 1954 . Số khác được đào tạo ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp , http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c - Đức và http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9 - Mỹ . Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Higher_Education-55 - [56]
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/le1bb85-khai-gie1baa3ng-trc6b0e1bb9dng-c491e1baa1i-he1bb8dc-que1bb91c-gia-vie1bb87t-nam-ngc3a0y-15-thc3a1ng-11-nc483m-1945-khc3b3a-c491e1baa7u-tic3aan-dc6b0.jpg">
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần giáo chức:
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ
túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư
trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn
bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhị Cộng hòa , đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh - Sài Gòn và http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_N%E1%BA%B5ng - Đà Nẵng .
Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của
nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc
thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và
với cả giới chức chính quyền địa phương. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL135-138-86 - [87]
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/scan_pic0046.jpg">
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/tutai1.jpg">
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa http://vi.wikipedia.org/wiki/1965 - 1965 - http://vi.wikipedia.org/wiki/1966 - 1966 . Đến năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1974 - 1974 ,
toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm.
Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về
cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở
nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu
hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích
hợp. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL38-44-26 - [27]
http://i1.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/tutai2.jpg">
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1970 - 1970 , Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty http://vi.wikipedia.org/wiki/IBM - IBM để
điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo
danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả
lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - Hoa Kỳ , và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_1230&action=edit&redlink=1 - IBM 1230 . Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_534&action=edit&redlink=1 - IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_360&action=edit&redlink=1 - IBM 360 để
đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn,
chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm
mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL38-44-26 - [27]
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_Nam_Vi%E1%BB%87t_Nam - miền Nam Việt Nam . Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL8-95 - [96]
http://i2.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/phan_huy_quat.jpg">
Ông Phan Huy Quát
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Huy_Qu%C3%A1t - Phan Huy Quát : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1911 - 1911 , mất năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1979 - 1979 ; Tổng trưởng Giáo dục http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam - Quốc gia Việt Nam http://vi.wikipedia.org/wiki/1949 - 1949 . Ông mất trong http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o - tù cải tạo dưới chính thể http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam .
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguy%E1%BB%85n_Th%C3%A0nh_Giung&action=edit&redlink=1 - Nguyễn Thành Giung : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1894 - 1894 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Sa_%C4%90%C3%A9c - Sa Đéc ; tiến sĩ http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=V%E1%BA%A1n_v%E1%BA%ADt_h%E1%BB%8Dc&action=edit&redlink=1 - vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam - Quốc gia Việt Nam , kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-96 - [97]
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_H%E1%BB%AFu_Th%E1%BA%BF - Trần Hữu Thế : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1922 - 1922 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_Tho - Mỹ Tho , mất năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1995 - 1995 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp ; http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFn_s%C4%A9_khoa_h%E1%BB%8Dc - tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon ( http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp ) và làm http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_s%C6%B0 - giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_S%C3%A0i_G%C3%B2n - Viện Đại học Sài Gòn ; từ http://vi.wikipedia.org/wiki/1958 - 1958 đến http://vi.wikipedia.org/wiki/1960 - 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Philippines - Philippines .
Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng
nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng
thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh - Sài Gòn vào năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1958 - 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng - Nguyễn Văn Trường : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1930 - 1930 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh_Long - Vĩnh Long ; giáo sư tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Hu%E1%BA%BF - Viện Đại học Huế ; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhất và http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhị Cộng hòa . Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_C%E1%BA%A7n_Th%C6%A1 - Viện Đại học Cần Thơ vào năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1966 - 1966 .
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tr%E1%BA%A7n_Ng%E1%BB%8Dc_Ninh&action=edit&redlink=1 - Trần Ngọc Ninh : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1923 - 1923 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i - Hà Nội ; bác sĩ giải phẫu và giáo sư http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - Trường Đại học Y khoa Sài Gòn , giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_V%E1%BA%A1n_H%E1%BA%A1nh - Viện Đại học Vạn Hạnh ; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhất và http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhị Cộng hòa . http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-97 - [98]
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=L%C3%AA_Minh_Tr%C3%AD&action=edit&redlink=1 - Lê Minh Trí : bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - Trường Đại học Y khoa Sài Gòn , http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-98 - [99] làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1u_%C4%91%E1%BA%A1n - lựu đạn năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1969 - 1969 . http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-99 - [100]
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguy%E1%BB%85n_L%C6%B0u_Vi%C3%AAn&action=edit&redlink=1 - Nguyễn Lưu Viên : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1919 - 1919 ; bác sĩ, từng làm việc tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - Trường Đại học Y khoa Sài Gòn , http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_Ch%E1%BB%A3_R%E1%BA%ABy - Bệnh viện Chợ Rẫy , và http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vi%E1%BB%87n_Pasteur_S%C3%A0i_G%C3%B2n&action=edit&redlink=1 - Viện Pasteur Sài Gòn ; từ http://vi.wikipedia.org/wiki/1969 - 1969 đến http://vi.wikipedia.org/wiki/1971 - 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Thi%E1%BB%87n_Khi%C3%AAm - Trần Thiện Khiêm .
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ng%C3%B4_Kh%E1%BA%AFc_T%C4%A9nh&action=edit&redlink=1 - Ngô Khắc Tĩnh : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1922 - 1922 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Rang - Phan Rang , mất năm http://vi.wikipedia.org/wiki/2005 - 2005 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - Hoa Kỳ ; dược sĩ (tốt nghiệp ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp ); từ năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1971 - 1971 đến http://vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975 đến http://vi.wikipedia.org/wiki/1988 - 1988 bị http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o - tù cải tạo dưới chính thể http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam .
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BB%97_B%C3%A1_Kh%C3%AA&action=edit&redlink=1 - Đỗ Bá Khê : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1922 - 1922 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_Tho - Mỹ Tho , mất năm http://vi.wikipedia.org/wiki/2005 - 2005 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - Hoa Kỳ ; tiến sĩ giáo dục ( http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Southern_California&action=edit&redlink=1 - Viện Đại học Southern California ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhị Cộng hòa . Ông là người đã thiết lập hệ thống các http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_c%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BB%93ng&action=edit&redlink=1 - trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_B%C3%A1ch_khoa_Th%E1%BB%A7_%C4%90%E1%BB%A9c - Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1974 - 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở http://vi.wikipedia.org/wiki/California - California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
- http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguy%E1%BB%85n_Thanh_Li%C3%AAm&action=edit&redlink=1 - Nguyễn Thanh Liêm : sinh năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1934 - 1934 tại http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_Tho - Mỹ Tho ; tiến sĩ giáo dục ( http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Iowa_State&action=edit&redlink=1 - Viện Đại học Iowa State , Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - Đệ nhị Cộng hòa .
- Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình
ĐÁNH GIÁ
http://i0.wp.com/tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/hocba1950.jpg">
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày
xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các
thí dụ trên đây.
…
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực
bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải
chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi
hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng
nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn http://www.google.de/imgres?rlz=1C1AFAB_enDE498&espv=210&es_sm=122&biw=1294&bih=639&tbs=simg:CAESSQnv7_1pgG88uRho1CxCwjKcIGiwKKggBEgTYB9UHGiCrpZiJuwqcWG5VuXJVUKSGnsRDZYMCbdzn93VwVkWYhgwhEZZMWEVX6cA&tbm=isch&tbnid=7-_6YBvPLkYhBM:&imgrefurl=http://xacbacxangbang.blogspot.com/2011/06/nhin-lai-viec-thi-tu-tai-o-viet-nam.html&docid=EZZMWEVX6cDwWM&imgurl=http://4.bp.blogspot.com/-sTD9d0_m4D8/Tf6mZQqat7I/AAAAAAAAAVc/NOd0kmYPoOg/s1600/examen-1897.jpg&w=600&h=627&ei=ieKaUuPIMYSVswbMsIH4CA&zoom=1&iact=rc&dur=390&page=1&tbnh=135&tbnw=130&ved=1t:429,r:0,s:0,i:85&tx=75&ty=92 - Blog Lý Toét )
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975 ( tức là sáu tuần sau http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_30_th%C3%A1ng_4,_1975 - sự kiện ngày 30 tháng 4 ), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Yale - Viện Đại học Yale , viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc
thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó
khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong
nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các
nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc
điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những
đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận
sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Hi%E1%BB%87u - Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_V%C4%83n_%C4%90%E1%BB%93ng - Phạm Văn Đồng (Thủ tướng http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_ngh%E1%BB%87 - kỹ thuật và http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_t%E1%BB%AD - điện tử cùng hệ thống các http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_c%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BB%93ng&action=edit&redlink=1 - trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Anh - tiếng Anh : “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”). http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-103 - [104]
Lời chứng và đánh giá của ông http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mai_Th%C3%A1i_L%C4%A9nh&action=edit&redlink=1 - Mai Thái Lĩnh , cựu sinh viên http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%A0_L%E1%BA%A1t - Viện Đại học Đà Lạt , http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-104 - [105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_L%E1%BA%A1t - Đà Lạt dưới chính thể http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam : “Tôi là con của một cán bộ http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Minh - Việt Minh – tham gia http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch_m%E1%BA%A1ng_th%C3%A1ng_T%C3%A1m - Cách mạng tháng Tám tại http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_%C4%90%E1%BB%93ng - Lâm Đồng sau đó tập kết ra http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_B%E1%BA%AFc_Vi%E1%BB%87t_Nam - miền Bắc [...] Chế độ http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Việt Nam Cộng hòa lúc
đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi
vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục
cũ của http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_Nam_Vi%E1%BB%87t_Nam - miền Nam là
điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành
giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ
nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền
giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó
của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ
chịu nô lệ về tư tưởng…“ http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-105 - [106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có
thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn
của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo
dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn
học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học
sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú
tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh
viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng
Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch
thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong
hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các
giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính
quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được
một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc
giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và
cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại
chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật
giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng
Thần) thời ông Thiệu.“ http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-106 - [107] http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-106 -
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - Wikipedia , FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet) http://www.drnikonian.com/2013/12/mot-nen-giao-duc-tu-te-thi-nhu-the-nay-nay/
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Dec/2013 lúc 6:52am
Đọc chơi cuối tuần ! mk
SỬ DỤNG TỪ VIỆT CHO CHÍNH XÁC
Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính
của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính
xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư
duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc
đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp
nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến
cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt
kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn
phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là
Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có
nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở
chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi
từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con
người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những
câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò
nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho
rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable)
với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ
thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để
nói về năng lực mà con người mà thôi.
QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn
đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá
trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy
trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp
tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp
nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và
tương lai.
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người
có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán
để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn
cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo
chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe
thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao
nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không
có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo
ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra
trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những
huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là
huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng
chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài
của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường
nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng,
thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên
gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi
hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê
thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói
hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là
đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình,
không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả
tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc
gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong
các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim,
Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là
rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt
ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan
đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai
thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong
tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong
kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một
vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ
thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước
của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong
kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ
phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung
cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité)
mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế
độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo
rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn
nữa.
TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta
gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt
thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực.
Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich
cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định
cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước
thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong
một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu
nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc
phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái
độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực
nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có
xấu đâu.
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ
tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm
chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được.
Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước,
vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một
vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt
khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ
trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế
là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ
được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán
Việt) thì mới đúng.
ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm
du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất
thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước
chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều
phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là
bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo
tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là
chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong
trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ
hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh
viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó
chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và
một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là
tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử
dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ
đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi
rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng
là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong
chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ
dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia
X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không
kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng
rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng
của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã
bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở
miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam.
Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói
chữ” hay sao?
BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu,
hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì
cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp
(béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng
sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến
hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói
một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo
chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu
hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn
ngữ Việt Nam!
NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I
rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ
phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt
Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là
quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói
“nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt:
“nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không
biết điều nầy sao?
TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện
rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên
song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa
khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương
đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều
cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ
cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào
cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi.
Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên
(mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại
chúng.
HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện
tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam
trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái
nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn
phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang
dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt”
hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt
vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa
lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản
ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình
dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách
rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc,
để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất
là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn
Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là
ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn
của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là:
bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ
đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên
đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn
toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai
nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói
một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp, Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ Siêu bền, phải sửa lại rất bên Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…
5.- Dùng từ vô nghĩa
Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng
chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới
biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất!
Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một
cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ
điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép
“bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người
hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai
rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng
chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện
chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn
dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào
gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì
dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn
trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì
chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà
là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó
để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước
nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang
được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong
tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì
có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực
là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết:
“Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin
thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có
chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại
Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công
và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý
của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều
chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán
Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà
hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ
rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế
là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức
không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng
với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi
xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn
như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một
giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó
thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một
đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không
còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên
và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới
cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học
sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng
ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu
hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do
người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập
viết nên.
KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một
câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi
không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ
ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người
khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo
như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng
được.
TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại
các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để
thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị,
tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”
7.- Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong
một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm
được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của
một vật có thể đo lường được ( m***e). Thí dụ: “khối lượng hay chất
lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ
chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được
(qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống
không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể
do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về
khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người
ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình
nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất
tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta
lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan
điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống
nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường
dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc
cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho
vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là
giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật
được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài”
Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con
người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.- Từ vựng lộn xộn.
LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng
hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay
người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy,
người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác
cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước
đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là
người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?),
tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi
yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính
thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến
hẳn thành danh từ.
NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt.
Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì
sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học,
giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ
ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết
những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế
là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng
印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào
óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người
ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa,
như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng
cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần
tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động
từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ
lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên
bảo, dưới không nghe”.
LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho
danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm
trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm
giỏi, học giỏi.
LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong
các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và
có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một
động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh
đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực
là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp,
ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa
và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có
lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng,
ai cũng rõ điều đó.
9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp
thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng
với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là
lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do
đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn
chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu
ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại
lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam
sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí
dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được
chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh
thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán
Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ
làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng
Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều
với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 ,
tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế
trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa
là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây
và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng
xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là
ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi
vào tiếng Việt.
10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép
theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo
ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn
toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một
cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng
theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên
trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp
lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm
thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa
là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng
khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn
cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp
điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong
một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết
là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi,
chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ
cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa
bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược
vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển /
triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền;
minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha
thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây /
ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng /
hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc
được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo
quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh
sĩ-liệt”!!!
12.- Ghép từ bừa bãi.
KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu
tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối
tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công
chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai
nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài
mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phài
một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy
sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí
giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết
cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13.- Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao
thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn
luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết
tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi
ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang
nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao
giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh.
Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc.
Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức,
hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong
cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua
cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai
cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản
bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người
ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân
vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi
là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu.
Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc,
chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng
bốc mình là đi nghiên cứu.
14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư
tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và
dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc
tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa
“… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy
ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy
ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào
xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng
hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị
và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm
trọng mà thôi.
BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo
cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì
cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể
bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị
đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái
tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên
thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có
một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ
riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù
thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì
dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm
để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm
hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần
Việt của dân tộc mình.
16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa
đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức
năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà
chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn
từ cho chính xác.
INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần
xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một
chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2
từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới
là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến
thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch
sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2
từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự
bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.
(trich TrieuThanh Magazine)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Nov/2014 lúc 11:06pm
http://diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=797:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchhuynh-minh-tu&catid=6:tai-liu&Itemid=5 - - http://diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=797:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchhuynh-minh-tu&catid=6:tai-liu&Itemid=5 - Sách giáo khoa thời VNCH(Phần 1) **
http://diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=797:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchhuynh-minh-tu&catid=6:tai-liu&Itemid=5 -
http://diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_mailto&tmpl=component&link=ebdd7d680f7bf04115832611bf13146c82f2aafd">
http://diendannguoidanvietnam.com/index.php?view=article&catid=6%3Atai-liu&id=797%3Anhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchhuynh-minh-tu&tmpl=component&print=1&layout=default&page=&option=com_content&Itemid=5">
Sách giáo khoa thời VNCH
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ năm 1917, http://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn_bang_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng - - Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam,
vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình
Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng
từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò
lãnh đạo thực sự của mình.
Một buổi lễ khánh thành tượng http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng_V%C4%A9nh_K%C3%BD -
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - móng
quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn
đề giáo dục cốt yếu.
Những vấn đề đó là: triết
lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và
phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết
bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn
chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những
năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo
một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý
thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và
thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%)
dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục.
Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học;
số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975,
tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_vi%E1%BB%87n_Qu%E1%BB%91c_gia_H%C3%A0nh_ch%C3%A1nh - và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ
trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và
những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần
lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40%
ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ
khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng
Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng
của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng
chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp
vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này
có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý
thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm
nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã
đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những
nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại
sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_H%E1%BB%AFu_Th%E1%BA%BF - - Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không
chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không
chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo,
chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá
trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình,
nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những
tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính
trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để
không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không
nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo
dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị
văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội,
làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn
bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau
đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm
trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học
sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình,
quốc gia, xã hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong
tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục
hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên
của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân
cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho
học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn;
không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu
trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng
cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối
sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương
xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong
việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử
dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp
của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm
hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống
tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh
thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng
cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát
triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc
phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò
mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá
trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
Chiến Sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập
(bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi
học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai
thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NNB46-7 - [8]
|
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1957
|
717.198 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9]
|
|
1960
|
1.230.000 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9]
|
|
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1964
|
1.554.063 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10]
|
|
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu
học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường
tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi
đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn
lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường
công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư),
quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở
lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung học:
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm
1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20%
tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung
học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có
khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường
trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long,
Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Ch***eloup Laubat, Quốc Học
(Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ
Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
|
trước 1971
|
sau 1971
|
lớp năm
|
lớp một
|
lớp tư
|
lớp hai
|
lớp ba
|
lớp ba
|
lớp nhì
|
lớp tư
|
lớp nhất
|
lớp năm
|
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
|
lớp đệ thất
|
lớp sáu
|
lớp đệ lục
|
lớp bảy
|
lớp đệ ngũ
|
lớp tám
|
lớp đệ tứ
|
lớp chín
|
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
|
lớp đệ tam
|
lớp mười
|
lớp đệ nhị
|
lớp 11
|
lớp đệ nhất
|
lớp 12
|
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung
học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp
đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học
phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập
không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh
vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá
cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số
trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông
vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả
học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”).
Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh
hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào
giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ
nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959
bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ
hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12,
trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ
thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp,
tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo
một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D
theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban
toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài
ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11
thì học sinh phải thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - rồi thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - năm
lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài
phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn
Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ
bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NNB46-7 - [8]
|
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
51.465
|
890
|
1960
|
160.500 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-M.E1.BB.99t-8 - [9]
|
|
1963
|
264.866
|
4.831
|
1964
|
291.965 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10]
|
|
1970
|
623.000
|
9.069
|
Mỗi năm có hai đợt thi
Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I
(15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ
đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ
thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại
học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay
“ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu
thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này,
có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình
thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học
chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An,
Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học
(Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà
Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh
và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học
Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ
Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần
Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc
bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay
đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school)
là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục
của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B.
Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo
dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng
nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh,
công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn,
giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa
phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học
đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời
Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung
học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này
được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) ,
sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93
đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc
đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh
trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Bổ sung ( theo góp ý của độc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên http://truongkieumauhue.org/ -
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ
thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với
giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật
thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ;
hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung
học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì
có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là
Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao
Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường
Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ
thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia
Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề :
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống trường
công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các
trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.
Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu
học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam
Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh;
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi
(Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều
hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_Hoa_%28Vi%E1%BB%87t_Nam%29 - cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_h%E1%BB%99i_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam_Th%E1%BB%91ng_nh%E1%BA%A5t - có
hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành,
tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65
trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số
trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và
Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể
trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ
nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học
chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục
đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường
công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba
là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không
đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ
hoặc thương phế binh của http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - như
là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà
cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài
Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng
có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến
binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo
trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa
tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không
đượchuấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Học sinh đậu được Tú tài
II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại
Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất
có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất
cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành
chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh
viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền.
Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí
thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học
bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học
|
Niên học
|
Số sinh viên
|
1960-61
|
11.708 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-44 - [45]
|
1962
|
16.835 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10]
|
1964
|
20.834 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-Smith-9 - [10]
|
1974-75
|
166.475 http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-45 - [46]
|
Chương trình học trong
các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu
theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương
đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):

http://www.phamduy2010.com/phamduy_viethtml/PDFamily/pdkhiem/trongnhan.html - - Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy -
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp http://vi.wikipedia.org/wiki/Georges_Pompidou -
Theo hệ
thống của Pháp (ngày trước): Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ
Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa Kỳ: Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD).
Khó có thể so
sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau. (
Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người
).
Từ “Thạc Sĩ”
trước đây được dùng để chỉ những người thì đậu một kỳ thi rất khó của
Pháp (agrégation), người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng
Anh tương đương cho từ này.
Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần
lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ
chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí
Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của
Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng
Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng
Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa
Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học
(tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp,
Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường
đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về
mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department;
tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại
học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại
học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ
Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960
và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh
là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành
lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào
xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại
học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng
là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để
chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức,
hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành
lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội,
và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của
ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào
một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm
1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái
niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công
cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định
Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng
trong dân chúng.
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly)
được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh
vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế
đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các
cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo
một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được
thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng
hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính
thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại
học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo
dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa
đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục
đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngànhhọc. Các
“trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này
( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và
Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì
chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học
tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp
TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành
khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên
1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại
học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô
hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại
biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại
học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn:
Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia
Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957,
Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây
là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp
được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng
Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng
Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70%
sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.
Viện Đại Học Cần Thơ:
Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa &
Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa
Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật
(1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
(Còn tiếp Phần 2)
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - , FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)
© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam
http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Nov/2014 lúc 11:14pm
http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchphn-2huynh-minh-tu-&catid=6:tai-liu&Itemid=5 - http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchphn-2huynh-minh-tu-&catid=6:tai-liu&Itemid=5 - Sách giáo khoa thời VNCH(Phần 2) **
http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchphn-2huynh-minh-tu-&catid=6:tai-liu&Itemid=5 - Các viện đại học tư thục
Viện
Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của
Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo.
Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học,
Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975
viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại Học Vạn Hạnh:
Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất;
thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng
(sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa
đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn
học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn
3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam:
Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau
năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối
Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim
Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3 phân khoa đại học:
Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại
học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An
Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại
học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản
trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài:
Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại
học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực
thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức:
Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học:
Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ
thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Học Viện Quốc Gia Hành
Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký
ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực
công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956
thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển
về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là
đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay
Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có
chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham
sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện
trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học
như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha
Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện
Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của
Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở
Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng
Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên
Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa
hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có
Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ
sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại
học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và
Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được
nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục:
Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở
này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với
chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia
thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua
từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc
(1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc
gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được
sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường
Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và
Bình Dương.
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ:
Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao
đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công
nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa
học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia
Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo
nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ:
Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương
trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây
Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc
gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn
Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh
Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:
Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt
Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:
Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ
thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm
1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao
Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ
thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên
là họa sĩ http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_V%C4%83n_%C4%90%E1%BB%87 - (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại
học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận
nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399),
đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
http://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n_Ki%E1%BB%81u - bản http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_N%C3%B4m - - chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1958 - , chính phủ http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - cho
lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách
giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1962 - , Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-81 - 
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba

Các giáo chức và họa sĩ
làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ
sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách
đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu
tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do
Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ
của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95_ch%E1%BB%A9c_Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c,_Khoa_h%E1%BB%8Dc_v%C3%A0_V%C4%83n_h%C3%B3a_Li%C3%AAn_Hi%E1%BB%87p_Qu%E1%BB%91c - để
viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các
nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế
giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu
học cho gần 30 http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_t%E1%BB%99c_Vi%E1%BB%87t_Nam - khác nhau ở Việt Nam.

Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các
danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn
thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn
thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong
lĩnh vực văn học và khoa học. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-NTL34-82 - .
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_S%C3%A0i_G%C3%B2n - (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu
khai giảng năm 1958. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-83 - và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%A0_L%E1%BA%A1t - . Vào
thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với
chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương
trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm
chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. Giáo viên
trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2
hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_b%E1%BB%95ng - nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp
.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn
hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức
các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức
có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh
niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như http://vi.wikipedia.org/wiki/Anh - , http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - , http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - , http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n - , http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c - , v.v…
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng - ở Hà Nội từ trước năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1954 - .
Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941
giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần giáo chức:
Chỉ số lương của giáo
viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo
sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp
hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm
phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - ,
đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật
hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc
nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm
(người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng
đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới
chức chính quyền địa phương.
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_t%C3%A0i_I_v%C3%A0_II - từ niên khóa http://vi.wikipedia.org/wiki/1965 - - http://vi.wikipedia.org/wiki/1966 - . Đến năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1974 - ,
toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm.
Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về
cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở
nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu
hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích
hợp.
Đầu những năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1970 - , Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty http://vi.wikipedia.org/wiki/IBM - để
điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo
danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả
lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3 - , và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_1230&action=edit&redlink=1 - . Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_534&action=edit&redlink=1 - để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=IBM_360&action=edit&redlink=1 - để
đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn,
chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm
mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - đã
có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo
dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
-
http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Huy_Qu%C3%A1t - - Quốc gia Việt Nam http://vi.wikipedia.org/wiki/1949 - - tù cải tạo dưới chính thể http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - - Nguyễn Thành Giung : sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=V%E1%BA%A1n_v%E1%BA%ADt_h%E1%BB%8Dc&action=edit&redlink=1 - - Quốc gia Việt Nam , kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.
-
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_H%E1%BB%AFu_Th%E1%BA%BF - - tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_s%C6%B0 - - Viện Đại học Sài Gòn ;
từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ
của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế,
số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến
trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục
Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba
nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý
giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
-
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng - - Viện Đại học Huế ; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BA%A5t_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - - Đệ nhị Cộng hòa . Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_C%E1%BA%A7n_Th%C6%A1 - - Trần Ngọc Ninh : sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - - Viện Đại học Vạn Hạnh ; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-97 - - Lê Minh Trí : bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - - Nguyễn Lưu Viên : sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Y_khoa_S%C3%A0i_G%C3%B2n - - Bệnh viện Chợ Rẫy , và http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vi%E1%BB%87n_Pasteur_S%C3%A0i_G%C3%B2n&action=edit&redlink=1 - - Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Thi%E1%BB%87n_Khi%C3%AAm - - Ngô Khắc Tĩnh :
sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt
nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo
dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o - - Đỗ Bá Khê : sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục ( http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Southern_California&action=edit&redlink=1 - - Đệ nhị Cộng hòa . Ông là người đã thiết lập hệ thống các http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_c%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BB%93ng&action=edit&redlink=1 - - Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào
năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa
ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của
viện đại học này.
-
http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguy%E1%BB%85n_Thanh_Li%C3%AAm&action=edit&redlink=1 - - Viện Đại học Iowa State , Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_nh%E1%BB%8B_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Vi%E1%BB%87t_Nam - ĐÁNH GIÁ
http://tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/hocba1950.jpg">
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm nhận xét
đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế,
ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.…Vậy
phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua
đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi
quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá
nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các
trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn http://www.google.de/imgres?rlz=1C1AFAB_enDE498&espv=210&es_sm=122&biw=1294&bih=639&tbs=simg:CAESSQnv7_1pgG88uRho1CxCwjKcIGiwKKggBEgTYB9UHGiCrpZiJuwqcWG5VuXJVUKSGnsRDZYMCbdzn93VwVkWYhgwhEZZMWEVX6cA&tbm=isch&tbnid=7-_6YBvPLkYhBM:&imgrefurl=http://xacbacxangbang.blogspot.com/2011/06/nhin-lai-viec-thi-tu-tai-o-viet-nam.html&docid=EZZMWEVX6cDwWM&imgurl=http://4.bp.blogspot.com/-sTD9d0_m4D8/Tf6mZQqat7I/AAAAAAAAAVc/NOd0kmYPoOg/s1600/examen-1897.jpg&w=600&h=627&ei=ieKaUuPIMYSVswbMsIH4CA&zoom=1&iact=rc&dur=390&page=1&tbnh=135&tbnw=130&ved=1t:429,r:0,s:0,i:85&tx=75&ty=92 - Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_30_th%C3%A1ng_4,_1975 - ), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Yale - , viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - ). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1975 - thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc
thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó
khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong
nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các
nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc
điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những
đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận
sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Hi%E1%BB%87u - (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_V%C4%83n_%C4%90%E1%BB%93ng - (Thủ tướng http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - ), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_c%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BB%93ng&action=edit&redlink=1 - hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Anh - : “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”). http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-103 - Lời chứng và đánh giá của ông http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mai_Th%C3%A1i_L%C4%A9nh&action=edit&redlink=1 - , cựu sinh viên http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_%C4%90%C3%A0_L%E1%BA%A1t - , http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-104 - - Việt Minh – tham gia http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch_m%E1%BA%A1ng_th%C3%A1ng_T%C3%A1m - - Việt Nam Cộng hòa lúc
đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi
vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục
cũ của http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_Nam_Vi%E1%BB%87t_Nam - - [106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có
thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ
nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống
giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử
và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học
học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình
độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học,
sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư
tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một
nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn
Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị
này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị
của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây
dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần
chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của
mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng,
chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn
áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ
báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“ http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-106 - (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a - FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)
© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam
http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=799:nhin-li-nn-giao-dc-vnch-s-tic-nui-vo-b-bn-sach-giao-khoa-thi-vnchphn-2huynh-minh-tu-&catid=6:tai-liu&Itemid=5
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Dec/2014 lúc 5:24am
==
Một tài liệu hết sức quan trọng và hữu ích: đó là một KHO SÁCH XƯA.
Bộ
tư liệu nầy gồm có nhiều sách giá trị lịch sử rất cao và thuộc loại quí
hiếm, như các quyển " AN NAM CHÍ LƯỢC ", " ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
",...
Trước nhứt
là để cùng nhau lưu trữ tài liệu lịch sử cho mai sau; thứ hai là nếu ai
thích thì có thể in ra từ từ mà đọc trong lúc rỗi rãnh làm cho mình ôn
lại kiến thức và hiểu thêm những gì trong lịch sử mà mình đã quên hay
chưa hiểu; thứ ba là làm nguồn tài liệu để truyền dạy lại cho các cháu
nhỏ giúp bọn trẻ ở Mỹ nầy không quên lịch sử Việt Nam.
Bấm ngay chữ " http://ndclnh-mytho-usa.org/Sach%20Xua.htm - - Sách Xưa " thì lần lượt sẽ có các bộ sách hiện lên. http://ndclnh-mytho-usa.org/Sach%20Xua.htm -
------------- mk
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 16/Dec/2014 lúc 11:52am
Chị Mỹ Kiều kính !
Bài viết chất lượng tuyệt hão, Cám ơn Chị
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Dec/2014 lúc 1:37pm
Nhìn lại nền Giáo dục VNCH :
Sự tiếc nuối vô bờ bến Huỳnh Minh Tú
http://gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7708&PID=41876#41876
------------- mk
|
|