Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 136 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 03/May/2016 lúc 1:38pm

Tình yêu Mẹ và Vợ...


Câu chuyện xưa cô gái hỏi một lời. Giữa mẹ và em nếu phải chọn một người. Vậy anh sẽ vì ai mà rơi lệ ?

Câu chuyện xưa cô gái hỏi một lời.
Giữa mẹ và em nếu phải chọn một người.
Vậy anh sẽ vì ai mà rơi lệ ?
Em biết không dù cho anh mạnh mẽ....
Trước cuộc đời sóng gió chẳng chùn chân.
Sẽ vì em mà cố gắng bội phần
Nhưng anh lại thương mẹ hơn em ạ.
Lời thật tâm anh không hề dối trá
Bởi anh yêu tha thiết cả hai người.
Mẹ và em điều quan trọng trên đời.
Nên không thể đem ra mà so sánh.
Anh nói thật và chưa từng chốn tránh.
Bởi cả đời anh chỉ một mẹ thôi
Cũng như em anh yêu chỉ một người.
Nên em nhé đừng bắt anh phải chọn.
Mẹ và em không phải là những món.
Mà tiền bạc mua được phải không em ?
Cuộc đời anh dẫu gia cảnh sang hèn.
Vẫn hạnh phúc vì có em và mẹ
Tình yêu ấy anh chưa từng xem nhẹ.
Ước mong sao hai cá tính hòa đồng.
Mẹ thương anh tình thương ấy mênh mông.
Còn em lại yêu anh hơn tất cả
Ơn sinh thành chưa một ngày đáp trả.
Em hãy cùng chăm sóc mẹ với anh.
Khi cho đi sẽ nhận lại chân thành.
Một mái ấm rộn tiếng cười em ạ !
Rồi một ngày em sẽ thành người mẹ.
Là tấm gương cho dâu trẻ nhìn vào !
Con dâu mẹ không muốn chồng phải chọn.
Bởi trên đời chỉ có một mẹ mà thôi
Anh yêu vợ xin đừng làm mẹ khóc
Vợ yêu anh không nên để mẹ buồn
Em muốn mẹ cười vui khi có đàn cháu nhỏ.
Thương con dâu suốt đời vì giống mẹ ngày xưa !

Mẹ bảo :
1. Hạnh phúc của người phụ nữ đơn giản lắm ! Đừng nên tham lam và đòi hỏi ở người đàn ông mình yêu tròn vẹn và tuyệt đối. Một người đàn ông tốt và yêu thương con, không phải là người đàn ông sẽ mở toang cánh cửa trái tim mình để con có thể nhòm vào đó, nhìn thấu rõ tâm can.Đàn ông chỉ cho con thấy tình yêu bằng miệng, là đàn ông vứt đi. Miệng nói thì gió bay, những kẻ rơi nước mắt vì tìn...h yêu, những kẻ luôn mồm sống chết vì tình yêu, sẵn sàng vứt bỏ cả mạng sống mình vì tình yêu là những kẻ không thể và sẽ không bao giờ là chỗ dựa tin cậy và bền vững. Một người có thể tự giết bản thân mình, cũng sẽ có ngày cầm được dao đâm người khác.

CON HÃY NHỚ NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÁNG ĐỂ CON DỰA VÀO - LÀ NGƯỜI CÓ THỂ ĐI TRĂM NGÀN NẺO ĐƯỜNG VẪN QUAY VỀ BÊN GIA ĐÌNH, BÊN VỢ CON

2. Còn con, hãy luôn khắc ghi: Một người vợ tốt là gì? Là không nên và tuyệt đối không bao giờ được mở miệng ra đòi hỏi bình đẳng ngang hàng ngang vế với chồng. Hạnh phúc của người phụ nữ là giữ lửa cho gia đình, cho dù có lúc con thấy trăm bề thiệt thòi, trăm bề vất vả, con phải luôn nhắn nhủ mình rằng - người phụ nữ sinh ra vốn không phải để tranh đấu quyền lực. Thượng đế cho phụ nữ một trái tim nóng là để sưởi ấm gia đình. Chỉ có gia đình mới là hạnh phúc suốt đời của người phụ nữ. 

MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG THÀNH CÔNG LUÔN CÓ MỘT NƯỜI PHỤ NỮ ÂM THẦM Ở ĐẰNG SAU. MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ HẠNH PHÚC LÀ NGƯỜI NỮ LUÔN CÓ NGƯỜI ĐÀN ÔNG TIN CẬY

3. Không có vợ chồng nào đi đến trọn vẹn cuối đời mà không trải qua sóng gió. Những khi bát đũa xô lệch, con hãy đặt tay lên trái tim mình mà nhớ lại tháng ngày con và chồng đã yêu thương nhau. Tình yêu không phải là tất cả để người ta đồng hành với nhau đến hết đời, có những thứ lớn hơn cả tình yêu đó là khi hai con đủ tin cậy và hiểu nhau để giữ cho mình một chữ Nghĩa.

Để đi hết con đường, thì người ta phải có đủ niềm tin, có đủ kiên nhẫn, có đủ vị tha, có đủ cảm thông, yêu thương thôi thì không đủ!
Vì thế, đừng bao giờ - cố gắng bước vào tận sâu trong trái tim người đàn ông để cân đo đong đếm tình yêu người ấy dành cho con.

GIỮ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG GIỐNG NHƯ GIỮ MỘT SỢI DÂY, KÉO CĂNG THÌ ĐỨT, CHÙN TAY THÌ RƠI - CON CÓ ĐỦ THĂNG BẰNG - CON SẼ LÀ NGƯỜI HẠNH PHÚC !
st.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 04/May/2016 lúc 8:20am

Gieo Gì Gặt Nấy


Ðời sống là một chuỗi ngày gieo giống. Mỗi ngày ta gieo trong tư tưởng lời nói và hành động để một ngày kia ta sẽ gặt. Mặc dù khoảng thời gian có thể rất xa xôi như thể không bao giờ gặt, nhưng chắc chắn mùa gặt sẽ tới. Nhiều bó lúa phải gặt trước khi ta chết, và nhiều bó khác sẽ phải gặt trong cõi vĩnh hằng.
Một người giàu có đã cao tuổi, để lại tất cả tài sản cho đứa con duy nhất và dự định sống với nó cho đến khi chết. Nhưng sau một thời gian chung sống, người con dâu chán không muốn thấy bố chồng ở mãi trong nhà nên bảo chồng phải đưa bố đi nơi khác ở. Người con không muốn mất cảm tình với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nơi rẻ tiền nhất.
Một tuần sau đó hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Ði được một lúc bỗng nhiên người cha bật khóc, Lương tâm người con không chịu nổi, anh nói vài câu xin lỗi cha.
Sau một vài phút, người cha bị hất hủi nghẹn ngào nói:
- Con ơi, cha không khóc vì con đưa cha vào nhà dưỡng lão dành cho những người già nua tàn tạ, nhưng cha khóc vì nhớ lại cách đây bốn mươi năm, cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con và cũng đưa người vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ gặt lấy những gì mà cha đã gieo khi trước thôi.
*
* *
Bạn thì sao? Bạn có sống với những nghĩa cử thương yêu hay đang chắt bóp và chỉ lo cho chính mình. Hãy đem đời mình đặt dưới ánh sáng của lời Chúa, và hãy nghĩ đến cõi vĩnh hằng. Vì nhớ rằng: ta gặt những gì mình đã gieo.
st.

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 05/May/2016 lúc 11:35am

Tổ quốc tôi ,Ông là ai ??


Bài diễn văn của một nữ sinh 17 tuổi “Nếu tôi sống thêm hai nghìn năm nữa thì tổ quốc của tôi, ông sẽ là ai?”, có lẽ sẽ cho chúng ta một cái nhìn khác về ‘giấc mơ Trung Hoa’.

Bài diễn văn của một nữ sinh 17 tuổi “Nếu tôi sống thêm hai nghìn năm nữa thì tổ quốc của tôi, ông sẽ là ai?”, có lẽ sẽ cho chúng ta một cái nhìn khác về “giấc mơ Trung Hoa”.

 

Một trường trung học phổ thông tại Trung Quốc, tổ chức hội diễn văn với chủ đề “Tổ quốc thân yêu”, dưới đây là bản thảo bài diễn văn của nữ sinh thể hiện những nhận thức rất lí trí và sáng suốt, vượt xa phần đông thế hệ thanh niên Trung Quốc hiện tại. Liệu cô gái này có thể thay đổi Trung Quốc?

Dưới đây là toàn bộ bài nội dung bài diễn văn:

“Kính thưa các thầy cô,bạn bè thân mến: Tôi tên Vương Khả Nhi, là học sinh lớp 10A6, tiêu đề bài diễn văn của tôi hôm nay là “Nếu tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì tổ quốc của tôi, ông sẽ là ai ?”. Tôi không có những ngôn ngữ hùng hồn như mọi người, cũng không có nhiệt huyết dâng trào như những người khác; đối với hai từ “tổ quốc”, cái tôi có chính là suy nghĩ độc lập của riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy rằng xã hội chúng ta không thiếu những người đứng đầu về tri thức, mà cái thiếu chính là những người có tư duy vậy.

Tôi đang nghĩ rằng: Nếu như tôi có thể sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi tổ quốc của tôi sẽ là ai? Vào thời nhà Hán, tổ quốc của tôi chính là nhà Hán, chính là Đại Hán đã tiêu diệt hết thảy những kẻ xâm phạm bờ cõi. Vào triều đại nhà Đường, tổ quốc của tôi chính là Đại Đường, triều đại hưng thịnh bậc nhất khiến cho hàng nghìn nước khác đến viếng thăm. Vào thời Tống, tổ quốc của tôi là triều đại nhà Tống, triều đại đứng đầu về khoa học kỹ thuật, kinh tế phồn vinh. Vào triều đại nhà Nguyên, vó ngựa Mông Cổ đã chà đạp giày xéo chúng tôi thành những người dân thấp kém, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Nguyên sao? Và tôi phải yêu thương nó sao? Vào thời nhà Thanh, người Mãn giết người ngoài biên ải, để đầu không để tóc, để tóc không để đầu, cuộc tàn sát tại Dương Châu cũng ảm đạm thê lương không khác gì cuộc tàn sát tại Nam Kinh, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Thanh sao? Tôi phải yêu thương nó sao?

Thời gian lâu dần, tôi đã dần dần nhận ra rằng, nếu như có ai cưỡng đoạt mẹ của các vị, vậy thì mọi người đều nhận kẻ đó là cha của mình sao, chúng ta không có lòng tự trọng đến như thế sao? Có những lúc tôi cũng nghĩ rằng, nếu như lúc đầu Nhật Bản chiếm lĩnh Trung Quốc chúng ta, hỡi các bạn, có phải hôm này chúng ta sẽ hô lớn lên rằng “thiên hoàng vạn tuế” hay sao?

Nếu như tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi xem, ai sẽ là tổ quốc của tôi đây, thật khiến cho tôi rất mơ màng khó hiểu .

Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là một nơi công bằng, công chính và không có sự bất công nào cả; trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là nơi để cho bạn chiến thắng, chiến thắng một cách đường đường chính chính. Còn thua thì sao, chính là thua một cách tâm phục khẩu phục. Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó là nơi mà ông lúc nào cũng có thể dang rộng đôi cánh che chở cho tôi; trong lòng tôi có một tổ quốc, bất luận cuộc sống của tôi vất vả gian khổ đến thế nào, thì tổ quốc cũng sẽ khiến cho lòng bạn tràn đầy hy vọng về một tương lai không xa.

Nước Mỹ sinh ra Washington, còn nước Anh thì sinh ra Churchill, nhưng họ đều đã ra đi vĩnh viễn; trách nhiệm hôm nay đây, không thể trông cậy vào họ nữa, mà là nằm ở thế hệ trẻ chúng ta. Trí tuệ của thế hệ trẻ chính là trí tuệ của quốc gia, thế hệ trẻ hùng mạnh chính là quốc gia hùng mạnh, thế hệ trẻ độc lập chính là quốc gia độc lập, thế hệ trẻ đứng đầu thế giới chính là quốc gia đứng đầu thế giới. Trong tay thế hệ trẻ chúng ta nhất định sẽ được cầm tờ báo nói về tổ quốc tân tiến văn minh bậc nhất của chúng ta, ông sẽ để cho mỗi người đều yêu mến ông sâu sắc từ tận đáy lòng, ông sẽ khiến cho nước Mỹ phải ngưỡng mộ về chế độ dân chủ của chúng ta, khiến cho nước Đức phải ngưỡng mộ về những thành tựu khoa học kỹ thuật của chúng ta, khiến cho Nhật Bản phải ngưỡng mộ đất nước dân giàu nước mạnh của chúng ta, khiến cho Singapore phải ngưỡng mộ về môi trường sạch đẹp của chúng ta. Nhìn xem ngày đó, tổ quốc của tôi, tất nhiên sẽ là một bầu trời rực sáng, một tổ quốc khiến cho con cháu muôn vàn đời sau cũng không thể nào quên được.

Người Trung Quốc cổ nuôi dưỡng ba giấc mộng Trung Hoa: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng minh quân, chính là hy vọng có được một hoàng đế tốt, hy vọng tất cả vấn đề đều được giải đáp và hiện thành. Tất cả mọi đều tốt đẹp đến từ sự ban ơn của kẻ thống trị. Giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng thanh quan, nếu như hoàng đế đã không thể trông cậy được nữa, thì người dân hy vọng sẽ có một vị thanh quan, thanh liêm chính trực, còn có thể trực tiếp nói lời can gián lên bề trên, mà không sợ xúc phạm đến những người có quyền có thế. Giấc mộng thứ ba gọi là giấc mộng hiệp khách, nếu như thanh quan cũng không thể trông cậy được nữa, thì hy vọng sẽ có một vị hiệp khách thay dân báo thù rửa hận.

Ba giấc mộng của người Trung Quốc thời nay: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng tự do, chính là thoát ra khỏi  sự chuyên chế của bộ máy chính trị một đảng độc tài, không còn bị đàn áp bức hại bởi những kẻ thống trị cậy quyền cậy thế cũng như bè lũ quan lại quyền quý hống hách lộng hành, giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng nhân quyền, chính là tất cả người dân đều có thể hưởng quyền lợi bình đẳng, không còn có  bất cứ tầng lớp nào có đặc quyền cao hơn quảng đại quần chúng nhân dân để rồi khiến cho những người dân thấp cổ bé họng chỉ có thể uất ức căm hận mà chẳng làm được gì. Giấc mộng thứ ba chính là giấc mộng chính trị dân chủ, cũng chính là chế độ dân chủ toàn dân, tất cả người dân trong cả nước cùng nhau lập ra hiến pháp căn bản dựa trên cơ sở người người bình đẳng, đồng thời sẽ theo đó mà làm việc.

Ba giấc mộng thời xưa chính là “giấc mộng kê vàng” giữa ban ngày, mang tính bị động tiêu cực đối với nhân dân, là chính sách ngu dân mang lại ác mộng nghìn năm, chỉ có thể khiến cho dân chúng trở thành những con cừu ngoan ngoãn, mặc cho kẻ thống trị làm mưa làm gió, xâu xé giết hại, thống trị vĩnh viễn.

Ba giấc mộng thời nay chính là yêu cầu tất yếu của văn minh thương nghiệp, là một xã hội dân chủ khai sáng mà người người đều đã thấy rõ, là biểu hiện của toàn dân thức tỉnh, là kết quả mà tất cả kẻ sĩ và những người nhân nghĩa đều đang mong chờ, và ngày ấy nhất định sẽ đến”.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/May/2016 lúc 11:42am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/May/2016 lúc 8:08am

Câu Chuyên Về Mẹ


"Tiền nhiều quá, mẹ xài không hết con à. Mẹ nhớ con lắm..." 

Câu chuyện về một bà mẹ già ở Miền Tây, vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi con được 25 năm. Lúc đứa con gái lớn khôn thành danh ở Mỹ, tháng nào cũng gửi về cho bà một lá thư và 200$ tiêu xài. Hết xuân này đến xuân kia, cô con gái luôn viện cớ này cớ nọ, không chịu về thăm người mẹ thương yêu. Khi người mẹ mất, cô về làm đáng tang rất to nhưng tuyệt nhiên cô không rơi một giọt nước mắt. Đến khi mở chiếc rương mà bà cụ luôn để ở đầu giường, bỗng cô òa lên khóc nức nở, ôm lấy quan tài mẹ mình hét lên như điên dại: "Mẹ...Mẹ ơi..."


Mọi người vây nhau xem trong chiếc rương có gì. À, thì ra là những tờ đô-la mới toanh còn buộc dây. Và còn một mảnh giấy đã úa vàng, viết nguệch ngoạc được dán dính lại với tấm hình cô con gái lúc mới lọt lòng: "Tiền nhiều quá, mẹ xài không hết con à. Mẹ nhớ con lắm, mỗi khi nghe tiếng xe ông-đa (honda) là mẹ chạy ra. Lần nào cũng không phải là con hết. Số tiền này mẹ để lại cho con, CON ĐỂ DÀNH PHÒNG KHI ĐAU ỐM nghe con."

Cô con gái đã có tất cả những gì một người phụ nữ có thể có: tiền, danh vọng, địa vị, chồng thành đạt, con ngoan. Nhưng cô đã mất một điều vô cùng thiêng liêng: MẸ! Đôi khi trong cuộc sống, cứ mải miết đuổi theo những thứ phù du mà đã quá vô tâm với những người yêu thương mình nhất.

Sưu tầm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22317
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/May/2016 lúc 10:10am
SÀI GÒN BÂY GIỜ

.


Thỉnh thoảng tôi có nghe ai đó nói gọn lỏn : Saigon bây giờ… rồi thôi.  Câu nói đột nhiên đứt quãng, tôi hồi hộp chờ mãi cái đoạn tiếp, nhưng không còn được biết gì hơn.

Phải chăng chính từ người phát ra câu nói cũng bỗng thấy lòng mình chùng xuống, nghẹn ngào, hoặc nơi đuôi mắt nghe cay cay, tức tưởi, để rồi cố nuốt câu bỏ lửng vào trong tâm tưởng của mình.

Bản than tôi thường tự mình xoay trở, cố tìm hiểu, cố lắng sâu, để may ra bắt gặp một lóe sáng nào đó, mà dường như bất lực.  Câu nói Saigon bây giờ vẫn luôn ám ảnh tôi, đã bao lần tồi tò mò gạn hỏi bạn bè, các người lớn tuổi, những người còn ở lại đất Saigon, nhưng luôn luôn tôi bị từ khước một lời giải đáp.

Nhớ có lần, thong dong bước trên cầu Thị Nghè, đoạn gần Sở Thú, tôi nhìn lên tàng cây cao vút, cố tìm lại một dáng Saigon xưa, nhưng đầu óc tôi vẫn bất định, không tạo nên được một sự chân như để nghĩ cho ra cái điều mình muốn biết.

Bởi vì những hàng cây vẫn xanh, vẫn lừng lững chĩa thẳng lên trời, vẫn cho tôi nhận ra con đường dẫn tôi về phía Thạnh Mỹ Tây, nơi đã có một thời gian tôi sống khá lâu.

Tôi nhớ đến chợ Thị Nghè, ngôi nhà thờ với gác chuông sừng sững, mỗi buổi sáng tinh mơ lanh lảnh thả tiếng ngân nga kêu gọi giáo dân đi lễ.  Ngôi nhà thờ mà họ xứ đã chẳng thấy cần thiết xây một hàng rào ngăn cách, để mặc ai muốn dùng làm lối đi tắt từ mặt đường Nguyễn BỈnh Khiêm sang con đường Dương Công Trừng ở phía sau thì cứ tự nhiên.

Tôi nhớ mãi cái bưu điện con con và một con hẻm dẫn sâu vào nhà anh bạn cũ, và nếu đi tiếp một đoạn thì gặp nhà dưỡng lão Thị Nghè và ăn ra phía Hàng Xanh, xa lộ.

Tôi cũng nhớ đoạn đường dẫn đến một số phân khoa đại học, nguyên là một trại lính Pháp ngày trước, sau này được xẻ thành con đường thông thương, nối đường Thống Nhất với miệt Dakao.

Ngày ấy mỗi sáng tôi vẫn đưa mấy đứa con đến học trường Thạnh Mỹ Tây 2, băng qua một trụ sở hội đồng xã với những dãy phố thấp lè tè.

Saigon không phải chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu khu vực, nhưng với tôi đó là một góc cỏn con đầy kỷ niệm mà gom góp lại sẽ là một Saigon khiến ai chưa biết đều mong đến, và ai đã ở rồi thì khi xa sẽ chẳng thể nào quên.

Còn Saigon bây giờ e chừng lạ hoắc, chính những người đã từng được sinh ra, lớn lên, sống triền miên qua bao lần đổi thay thời thế, có khi cũng không nhận ra nữa.

Tầm nhìn bây giờ bị vướng vì những tòa nhà cao ngất ngưỡng, cái được xây sau thường vượt cao hơn cái trước.  Người ta tự hào tranh nhau thể hiện sự giàu sang, lẫn một chút kiêu ngạo vì hàng của mình không đụng với bất cứ ai khác.

Vâng, Saigon bây giờ đa dạng và tân kỳ.  Báo chí thi nhau khoe về thành tích những căn hộ giá tiền tỷ mà người mua trả xoạch một lần bằng tiền măt, không phải mượn vay ngân hàng chi cho lôi thôi.

Vâng, Saigon bây giờ đua nhau thể hiện lối kiến trúc xa lạ, bao gồm kiểu mẫu của những nước nổi danh trên thế giới, có bao lơn quay gắn kính cường lực, có ban công lộ thiên ngồi nhâm nhi uống rượu và xem cảnh, có cả mái hiên dành cho máy bay trực thăng đậu.

Vâng, Saigon bây giờ chi chít bao cầu vượt, vòng xoay, ngã bảy, ngã chín, xe đi như mắc cửi, người giành chen, như chỉ sợ mất giờ.  Người ta hối hả tranh nhau từng cái nhích đầu xe, ào ào đua nhau tràn lên vỉa hè, chạy ngược chiều, len lách, uốn lượn, thể hiện tài năng ngón nghề, để vút đi và sẵn sàng cà khịa khi có ai muốn lấn, hoặc kiếm chuyện hơn thua.

Những lân bang một thời của Saigon giờ cũng bị xóa dần vết tích.  Nếu hồi nao vùng Hạnh Thông Tây, Xóm Gà, Cây Quéo, ngã Năm Bình Hòa, Quán Tre, Trung Chánh còn gọi là vùng ngoại ô, ngồi thổ mộ cả giờ lâu lắc thì giờ mấy ai còn nhớ đến cái tên chớ đừng nói là hiểu rành thổ địa.

Có một thời người dân tảng sáng lo chuyển hoa màu từ các miệt An Phú Đông, Nhà Bè, Vườn Lài về cung cấp dân thành phố thì giờ những nơi ấy cũng chẳng còn mấy hình bóng vườn tược mà cũng thi nhau mọc lên nhưng bin đinh, nhà cao tầng, cầu cao, lối mở.

Chắc vì những đổi thay nhanh chóng đó mà người Saigon mới bày câu nói ngắn ngủi, vắn tắt để nhắc ngầm lại một giai đoạn ngày trước chăng ?

Đừng nói đâu xa, ngay giữa lòng Saigon bây giờ cũng đổi thay đến chóng mặt.  Có những nơi chốn đầy ắp tình tự của một thời thì giờ cũng vội bị xóa đi một cách không thương tiếc, để rồi người Saigon cũ khi có dịp quay về cũng thấy lòng se sắt nao nao.

Với cái đà xóa bỏ thương xá Tax, khu Eden, vườn hoa Lê Thánh Tôn, người ta e rồi sẽ có lúc những cột cờ Thủ Ngữ, tòa hành chánh Saigon, nhà hàng Continental, bưu điện và chưa chừng ngay cả nhà Thờ Đức Bà, Thảo Cầm Viên, chợ Bến Thành, nhà thương Đô Thành, nhà hát thành phố có khi cũng được nghe bùi tai mà bị xóa dời đi để mọc lên những khu xây dựng mới.

Biết đâu đươc !  Lúc ấy người ta sẽ nhân danh đủ thứ lợi ích, đủ thứ triển vọng, đủ thứ kế hoạch đã được đặt định từ lâu để biện minh cho sự đổi thay đó.

Tôi nghĩ câu nói lơ lửng Saigon bây giờ… hẳn mang một ngụ ý gì gì tương tự như thế.  Có thể là một lời than, có thể là một tiếc nuối, có thể là biểu lộ của một sự bất lực, nhưng gì thì gì cái của Saigon mất đi cũng là một điều chua xót.

Bởi vì chưa mấy ai tin tưởng rằng kỹ thuật xây dựng, kiến trúc của công trình sau sẽ đẹp, vững, bền, tỏa sáng và trang trọng hơn công trình trước.  Trái lại, ai cũng e là vì chút lợi lộc trước mắt mà Saigon nỡ để mất đi những nét đặc biệt của mình.

Người Saigon nói không dứt câu hẳn cũng đem tâm tư ra giãi bày với những ai còn yêu đất Saigon.  Mong rằng mỗi đổi thay nên được cân nhắc tỉ mỉ, thận trọng, thấu đáo, không vội vàng, nôn nóng, để Saigon còn giữ được dáng nét của Saigon mà không bị xóa đi quá nhanh.

ĐỖ THÀNH


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22317
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/May/2016 lúc 12:27pm

Cuộc Trùng Phùng Bi Thảm


Theo đoàn quân tiếp thu Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và hầu hết các đồng chí của ông ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị đánh tan tác gần như phải xóa sổ trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung xong, và đám bộ đội còn sống sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột mất, Tây Nguyên, Vùng 2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ trong vòng bốn mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài Hà Nội cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút..

Từ ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.

Hai Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.

Nhờ có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.
Giữa tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

Sư Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.

Vợ chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.

Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.

Những năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.

Bé Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi.

Điều may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc.

Chưa bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà.

Ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi mới tư duy”

Vốn là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.

Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.

Đạt có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.

Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.

Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.

Tuy Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”
****
Trận chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.

Ngày 2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân quen nào.

Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu tình hình hầu tìm một con đường sống.

May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.

Men rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.

Chỉ hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to:
-Tôi là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt.
Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:
-Khi bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.

Tất cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau
Khi thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới thốt ra lời:
-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!

Ông Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.

Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho biết:
-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.

Là một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên thắng cuộc”.

Buổi chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.

Bà Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.

Không khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.

Giữa tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:

Mười Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.

Ngày 1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.

Lần đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!

Sau đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.

Biết không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.

Tất nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.
Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.

****
Mùa Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.

Tôi cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng khoan hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về tội đồng lõa và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau hai năm thụ án, do chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng trại, đánh lén bằng cuốc trong giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai Chi đã khai hắn là tay chân đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng, nên nhà cửa bị tịch thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù.

Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.

Về sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.

Phạm Tín An Ninh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22317
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/May/2016 lúc 1:44pm

Một Xã Hội Cởi Mở Và Bao Dung 


Có lẽ không có câu viết nào, chỉ có 4 chữ ngắn gọn, nhưng mang cả một thông điệp lớn được quảng bá rộng rãi nhất trên thế giới bằng câu In God We Trust.  Vì đây là câu được in trên tất cả các loại giấy bạc hiện tại của Hoa Kỳ. 

Là câu viết cô đọng Đức tin của người Hoa Kỳ từ ngày tìm được vùng Đất Hứa để lập quốc! 

Ban đầu là cuộc di cư của một số người phản đối sự hà khắc của Thanh giáo ở Anh nên lần lượt tìm cách sang các nước lân cận để thực hiện quyền được tự do thờ phượng Thượng Đế theo đức tin của họ.  Từ năm 1607, 1608 họ đã lần lượt đến Hòa Lan, rồi sau đó chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài bằng tàu để đi tìm một vùng đất mới, vùng đất mà họ hoàn toàn được Tự do.

Tháng 9 năm 1620 một con tàu nhỏ, tên là Mayflower, rời Plymouth ở Anh mang theo 102 người bắt đầu cuộc hành trình tìm Tự do mà sau nầy sách vở gọi họ là đoàn người Hành Hương (Pilgrims).  Họ phó thác mạng sống, vượt đại dương và chỉ trông cậy hoàn toàn vào đức tin.  Sau 66 ngày chịu bao khắc nghiệt của thời tiết, giông bão, sóng gió, đói khát để cuối cùng thả được neo ở Cap Cod, cách xa nơi dự trù là Hudson River.  Tiếp tục cuộc hành trình, một tháng sau họ đến được M***achusetts Bay và quyết định ở lại đây.  Dần dần làng Plymouth, cái tên mang kỷ niệm nơi xuất phát được hình thành.  Năm sau đó, tháng 11 năm 1621, nhờ được mùa, chỉ còn 53 người sống sót đã cùng với một số người da Đỏ, những người đã giúp đỡ họ trong những ngày khốn khổ khi vừa đặt chân đến một vùng đất vừa xa lạ vừa gặp lúc thời tiết vô cùng khắc nghiệt, tổ chức lễ Tạ ơn đầu tiên.  Cho dù đã hoàn tất cuộc hành trình và số người bị chết gần phân nửa nhưng đức tin vào Thượng Đế của họ vẫn không hề thay đổi.  Rồi diễn biến theo thời gian dài đằng đẵng, ngót 3 thế kỷ sau, qua rất nhiều tranh cãi, từng bước, từng bước để cuối cùng, năm 1941, Tổng thống Roosevelt đã ký ban hành đạo luật, quyết định chọn ngày Thứ Năm, tuần lễ thứ tư của tháng Mười Một hàng năm làm ngày lễ Tạ ơn của đất nước và dân tộc Hoa Kỳ.   

Một ngày lễ đặc biệt, mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng của mọi sắc dân sinh sống trên đất nước nầy.

Câu In God We Trust  được khởi đầu từ lá thư ghi ngày 13 tháng 11 năm 1861 của Mục sư Watkinson ở Ridleyville, Pennsylvania gửi ông Bộ trưởng Tài chánh Salmon P. Chase lúc bấy giờ, nói về đức tin và dòng chữ tổng cộng có 13 chữ cái (letter) là God, Liberty, Law trên lá cờ Hoa Kỳ lúc đó, tượng trưng cho con số 13 tiểu bang đầu tiên.  Yếu tố quan trọng của dòng chữ nầy là God (Thượng Đế) đứng trước tiên, kế đến là Liberty (Tự do) và sau cùng là Law (Luật pháp) đã diễn tả đúng theo trình tự họ thực hiện được.
Đề nghị của Mục sư Watkinson được nhiều người thảo luận đã đưa đến việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật ngày 22 tháng 4 năm 1864 cho phép đúc 4 chữ In God We Trust (thay cho God, Liberty, Law) đầu tiên trên đồng coin 2 xu và đến ngày 30  tháng 7 năm 1956 thì chính thức in trên tất cả giấy bạc đưa vào sử dụng từ năm 1957.

Từ một nhóm người Hành Hương nhỏ bé tiến đến hình thành một quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một đất nước giàu mạnh và văn minh nhất thế giới, thì câu viết In God We Trust không đơn giản chỉ là câu chữ được quảng bá toàn cầu mà chính nó còn mang theo sự thiêng liêng của đất nước và dân tộc Hoa Kỳ kể từ ngày lập quốc!

Tuần trước, một cơ sở lớn mới xây, đã khánh thành khoảng 3 tháng qua, tại thành phố tôi đang ở, tốn 80 triệu, dành cho các ban ngành làm việc.  Tất cả được trải thảm màu xanh.  Phòng khách khu vực dành cho văn phòng Pinnellas County Sheriff  được trải thảm có dệt thêm huy hiệu của cảnh sát, một biểu tượng thật trang trọng, cũng giống như một số cơ sở về an ninh tại Hoa Kỳ, bỗng có người phát hiện trên cái huy hiệu hình tròn đó, sai một chữ.  Nhưng chữ sai lại mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đức tin của người Hoa Kỳ (như đã tóm lược bên trên)  Câu đó đúng phải là In God We Trust  nhưng trên tấm thảm dệt là In Dog We Trust!  Chữ God là Thượng Đế biến thành Dog là con chó!  Trị giá tấm thảm chỉ 500 đô, vì thế cảnh sát thông báo cho hãng dệt thảm.  Hãng dệt thảm nhận trách nhiệm và sẽ thay tấm mới.  Nhưng chuyện không dừng ở đó khi bên ngoài hay tin nội vụ.  Ban đầu cảnh sát dự trù sau khi thay thảm mới họ sẽ đem vứt tấm thảm cũ vào thùng rác nhưng khi bức ảnh chụp tấm thảm với dòng chữ In Dog We Trust  được đưa ra công luận thì có một số người gọi điện thoại và gửi email đòi giữ lại.  Họ muốn mua nó thay vì vứt đi, vì họ là những người yêu chó!  Rồi nhiều người cũng muốn mua nên sau cùng cảnh sát quyết định rao bán đấu giá tấm thảm trong vòng một tuần.  Có 83 người tham dự, kể cả một số nơi trên thế giới, và kết quả là một người, không cho biết danh tánh, đã mua được tấm thảm tình cờ nổi tiếng nầy, với giá 9,650 đô!  Cảnh sát cho biết họ sẽ dùng số tiền nầy gửi tặng cho một trung tâm chăm sóc chó mèo bị bỏ rơi hay thương tật mà chưa có người nhận nuôi!   

Tờ báo thuộc loại Best Newspaper của Tiểu bang đã có 3 số tường thuật về diễn tiến sự việc nhưng không đưa câu chuyện vừa kể lên trang nhất mà chỉ đăng ở trang giữa của phần tin tức về Tiểu bang và Thành phố với tựa đề rất nhẹ nhàng, “đánh vần sai” (misspelled), cho dù đây là tấm thảm được dệt thành chứ không phải viết tay.  Vì nếu là viết tay thì cách giải thích viết sai chính tả có lẽ dễ được nhiều người đồng ý hơn!  Nhưng, “chuyện chẳng có gì mà ầm ĩ”, nó chỉ là thứ tin tức lặt vặt, không đáng quan tâm!  Còn TV hình như cũng muốn phớt lờ.   

Liệu tin và ảnh tấm thảm nầy được phổ biến mà có liên quan đến đạo Hồi thì bọn thánh chiến Hồi giáo cực đoan sẽ phản ứng ra sao?

Vì thế, cùng một vấn đề nhưng mức độ hiểu biết­­ của người dân khác nhau sẽ có kết quả khác nhau, đôi khi còn trái ngược đến bất ngờ như đang xảy ra.  Một bên là sự thân thiện, cởi mở và bao dung, đã làm lợi cho công ích xã hội, còn bên kia thì máu người vô tội phải đổ!  Cực đoan, cho dẫu cực đoan về vấn đề gì thì cũng dễ đưa đến xung đột đôi khi không cần thiết.  Là bài học mà Charlie Hebdo đã vướng phải tại Pháp với cái giá phải trả trước tiên chính là mạng sống con người.


Hồ Phú Bông
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22317
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/May/2016 lúc 9:29am

ÔNG MAI



Trong kho tàng ca dao tục ngữ của quê hương mình có câu:

“Ở đời có bốn cái ngu. Làm mai, lảnh nợ, gát cu, cầm chầu”, bốn cái ngu này nó được truyền miệng tự bao đời nay rồi, nó xuất phát từ vùng miền nào thì chắc khó có ai biết đích xác. Sống trong xã hội nhân quần hàng ngày việc giúp nhau hoặc làm điều gì mình thích mà vô tình vướng vào một trong bốn cái ngu này không phải là hiếm, tôi đã vướng vào cái ngu thứ nhất một cách cố ý, về sau mỗi khi tôi nhớ lại cái ngu này tôi  hay cười một mình khiến đôi lúc có người nói sau lưng tôi:

– Cha nội Hai này chắc bị  “té giếng” nên thỉnh thoảng tui thấy ổng cười có mình ên hà.
* * *
Thằng Cừ vốn là đứa bạn thân thiết nhất của tôi thời trung học, trong trường tôi và nó được chúng bạn gán cho cái biệt danh “hai con quỷ phá nhà chay”, vì ngoài chuyện học hành ra hai đứa tôi hay chọc phá các bạn, nhiều khi còn phá cả thầy.

Tôi còn nhớ như in một tiết học nọ trong giờ anh văn của một giáo sư tên Thái, người chịu trách nhiệm dạy môn anh văn cho lớp chúng tôi, thằng Cừ không nghe thầy Thái giảng bài đã vậy nó còn chọc ghẹo con Nhàn ngồi kề bên, khiến Nhàn tức tối đứng bật dậy rồi méc ngay với thầy Thái:

– Dạ thưa thầy bạn Cừ cứ quậy phá hoài, nãy giờ em không thể chú ý nghe thầy giảng bài được ạ.

Trên bục giảng thầy Thái chẳng cần dò hỏi sự tình, thầy nói ngay:

-Tôi yêu cầu em Cừ ra khỏi lớp ngay cho tôi, ngay tức khắc.

Cừ thất thần khi nghe thầy Thái đưa ra hình phạt hơi nghiêm khắc, thay vì chỉ cảnh cáo trong lớp là tương xứng với tội trạng của nó rồi, đàng này Thầy Thái thẳng tay đuổi nó ra ngoài lớp, có nghĩa là sẽ phải đối mặt với thầy giám thị, một người thực thi các hình thức kỷ luật cho học sinh khi phạm lỗi, thời ấy tên nào “được” thầy giám thị chiếu cố thì mệt mõi vô cùng.

Sau một hồi răn đe tại phòng giám thị, cuối cùng thằng Cừ cũng được cho về lớp, nó đến bên Thầy Thái khoanh tay xin lỗi thầy, cả lớp nhìn gương mặt của nó lúc bấy giờ thông thật thãm hại.

Đến giờ ra chơi, tôi khoác vai nó hai đứa đến ngồi trên ghế đá cạnh cây phượng già, không hiểu vô tình hay cố ý con Nhàn và đám bạn gái kéo nhau đến ngồi trên cái ghế đá gần chúng tôi, bổng dưng con Nhàn nói trỏng:

– Học không lo, quậy phá quá ai mà chịu được.

Tôi thấy thằng Cư nó vẫn tĩnh bơ sau câu nói của con Nhàn đã ám chỉ hành động của nó lúc nãy, đã vậy nó còn cười nhẹ một mình, tôi lấy làm lạ hôm đó sao nó lại có thái độ “lòng chợt từ bi bất ngờ”.

Một lúc sau thằng Cừ ngồi xích lại gần tôi, nó ghé sát vào rồi thì thầm bên tai tôi cách chọc phá để trả thù thầy Thái, nghe xong câu nói của nó tôi tá hỏa tam tinh vội can nó liền:

– Không được, mầy làm vậy nhà trường biết được thì bị đuổi học chắc luôn đó.

Nó không thèm phản ứng gì sau câu nói của tôi, vừa lúc ấy chuông reo vào lớp.

Hôm ấy trên đường lội bộ về nhà, tôi hết lời can ngăn nó, nó cứ ậm ừ mà chẳng hề có thái độ dứt khoát nào, các buổi học tiếp theo diễn ra bình thường như mọi khi, rồi một hôm nọ chuông reo báo giờ tan học, mọi người túa xuống sân trường chuẩn bị ra về, chờ cho vơi bớt vì quá đông người chen chút xuống cầu thanh rất nguy hiểm, một lúc sau tôi và thằng Cừ cùng vài đứa trong lớp mới xuống sân trường, lúc này sân trường không còn cảnh nhộn nhịp như bầy ong vỡ tổ nữa, còn lại dăm ba nhóm nhỏ đang tụ tập trao đổi nhau điều gì đó, thỉnh thoảng có đứa phá lên cười, có vài đứa rượt nhau chạy quanh góc phượng ở cuối sân trường, có vài cơn gió nhẹ thổi làm vạc áo dài của các cô nàng lất phất tung bay khiến tôi liên tưởng đến những cánh bướm trắng đang cùng nhau nô đùa trong một ngày chớm vào hạ. Cũng có nhóm cùng nhau ăn hàng, các món mà các nàng tiên áo trắng thích nhất là trái Cóc xanh được tách ra từng cánh như một đóa hoa được ngâm trong nước đường hóa học có pha chút ít màu vàng vàng, món này rất  khoái khẩu là nhờ có vị chua chua của Cóc, vị hơi ngọt của đường hóa học, khi chấm vào dĩa muối ớt mặn mặn cay cay, khi các nàng đưa vào miệng nhai rao ráo những vị vừa kể trên nó hòa vào nhau thật ngon khiến các nàng tốn tiền khá bộn mỗi ngày cho món  ăn này, gần chổ Căng Tin có quầy xe gỏi đu đủ trộn khô bò, bà Xẫm vừa bán vừa quảng cáo món hấp dẩn này, có hôm đông quá bà quên xịt giấm và tương ớt vào dĩa gỏi, hoặc quên bỏ đậu phộng hay ít rau răm vô dĩa khô bò, lơ đễnh có chút xíu mà bà bị các cô nàng nhà ta nhắc ngay, thậm chí có lúc tôi còn nghe:

– Chời ơi! Hôm nay thím Xẫm ghét con hay sao vậy? chế cho con ít giấm quá nó không thấm đâu vào đâu hết nên ăn dỡ ẹc hà, nè thím xịt cho con một ít giấm nữa đi thím.

Thím Xẫm đáp ứng liền, thím còn nói vui:

– Hà cái lầy hôm nay lông quá, ngộ pán không kịp, xưng lỗi xưng lỗi nhe.

Có cô nàng không thích chua, không thích mặn nên chọn món me ngào đường xút bánh tráng giòn hoe, bên trên được rắc thêm một ít hạt mè trắng mùi thơm phưn phức …

Hôm nọ giờ tan học đã điểm, khi xuống sân trường, tình cờ nhìn về phía nhà để xe của các Thầy Cô, tôi thấy thầy Thái đang gò lưng đạp máy rất lâu, vậy mà chiếc xe Push ba đèn màu đỏ của thầy nó im thin thít, dựng chống xe lên thầy cố đạp nhiều vòng nữa chiếc xe cũng chẳng có dấu hiệu gì sẳn sàng nổ máy, trời ban trưa nắng nóng như lò lửa, tôi thấy lưng áo thầy thấm ướt mồ hôi, thỉnh thoảng thầy tháo cái bugi ra vừa chà giấy nhám vừa thổi cho sạch bụi, ráp bugi vào và bằng mọi nỗ lực nhưng chiếc xe vẫn bất động.

Thấy cảnh nọ tôi than thầm trong bụng:
– Vụ này thằng Cừ mắc dịch phá thầy đây, ngoài nó ra thì còn ai trồng khoai đất này.

Tôi chợt nhớ lại hôm nó nói thầm bên tai tôi, nó đưa ra đủ cách để phá thầy, sở dĩ nó không ra tay ngay vì mới bị thầy Thái phạt nếu ra tay phá xe thầy thì hóa ra: “lạy ông tôi ở bụi này”, như vậy dễ bị phát giác thủ phạm gây ra cái tội tày đình này cho nên mãi đến hôm nay nó mới ra tay, nó đã làm điều gì khiến xe của thầy Thái không nổ máy được, đó là câu hỏi cứ lỡn vỡn trong đầu lúc bấy giờ, tôi định bụng hỏi nó cho ra lẽ nhưng ngại trong lòng nhỡ nó không là thủ phạm thì tình bạn của tôi và nó chắc cũng được chấm dứt từ đây.

Hôm sau quay lại trường, khi vừa bước chân lên cầu thang đễ về lớp, con Nhàn từ phía sau lưng níu vai tôi lại rồi hỏi:

– Ông Hai nè, nãy giờ có nghe tin tức gì bạn Cừ của ông chưa?

– Mới sáng sớm vô trường làm sao biết được, hôm nay nó xin nghỉ học hả, bà làm trưởng lớp bà biết chứ lính lát như tui lấy gì mà biết.

Con Nhàn nở một nụ cười thỏa mãn:

– Ai biểu quậy phá, hết quậy tui nay còn dám phá đến thầy Thái, thiệt là gan cùng mình.

– Sao bà biết thằng Cừ nó phá thầy Thái, à tại cái vụ xe thầy hư hôm qua phải không?

– Chứ còn gì nữa, ông với ổng như cật với ruột không lẽ ông không biết, coi chừng chút nữa vạ lây đến ông đó, chuẩn bị lấy mo bịt mông đi là vừa.

Thấy mình không hề liên can đến câu chuyện này, tôi nỗi máu yên hùng lên cố cãi lại cái “Mụ” trưởng lớp chằn lửa liền một khi:

-Tui chưa thấy ai vô duyên như bà, ai làm nấy chịu mắc mớ gì bà nói tui lấy mo bịt đít (xin lỗi).

Con Nhàn cũng chẳng vừa, nó đớp lại tôi tức thì:

– Không thèm cãi với ông nữa, lên lớp làm vệ sinh đi, bạn ông bị “câu lưu” ở phòng giám thị rồi, ông gánh luôn việc của ông quậy đó đi, đừng réo tụi tui phụ một tay mắc công lắm nghe.

– Làm thì làm, bà ngon quá mà, trưởng lớp gì tối ngày cứ canh hai đứa tui hoài ai chịu đời cho thấu.

Chẳng nói chẳng rằng con Nhàn nó nguýt tôi một cái rồi nhanh chóng lên cầu thang để lại cho tôi một cục tức cành hông trong người, nhìn theo dáng con Nhàn tôi thấy nó thướt tha trong tà áo trắng, với gương mặt đẹp lại học giỏi chỉ có cái tội dữ như bà chằn lửa khiến tôi buộc miệng:

“Con gái gì dữ thấy ớn, cái ngữ này lớn lên ăn hiếp chồng là cái chắc”.

Ở đời hầu như ít có việc gì được giấu kín bí mật mãi mãi với thời gian, chẳng hạn sau chiến tranh thì từ từ người ta sẽ bật mí giải mã những trận đánh những chỉ thị tối mật để cho công chúng biết. Hoặc do bên này bên kia biết được hành vi của nhau, nên họ đưa ra công khai để cố đỗ lỗi cho phía đối phương.

Xe thầy Thái bị phá tưởng chừng chẳng ai biết được thủ phạm, và họ đã dùng cách gì khiến xe thầy không thể chạy được, không ngờ chưa đầy hai mươi bốn giờ thủ phạm bị lật tẩy mà hắn ta không thể nào ngờ tới.

Hôm qua đạp máy xe một lúc muốn rã cặp giò mà chẳng ăn thua gì, thầy Thái đành dắt xe ra trước cổng trường, ông Năm chuyên sửa xe gắn máy đã phát giác ra nguyên nhân xe bị hư là do ai đó bỏ đường cát vào bình xăng xe của thầy, vì vậy xe thầy không thể nào khởi động được, sau khi đỗ bỏ và châm xăng mới vào, chiếc Push của thầy nổ máy ngọt xớt, chiều hôm ấy thầy kể lại cho mọi người nghe nguyên nhân khiến xe thầy bị “pan”,  đúng như câu :”Thiên Bất Dung Gian” nếu thầy Thái không kể ra thì mọi chuyện sẽ sớm rơi vào quên lãng, nghe thầy Thái vừa kể xong câu chuyện, chú Bảy bán nước đá đậu bánh lọt ở Căn Tin  lóe lên ý nghĩ trong đầu chú nói:

-Có khi nào thằng Cư không cà, mua ly đá đậu xong nó còn mua của tui năm cắc bạc  đường cát vàng, không biết nó mua để mần chi?  Nhưng tui cũng bán .

Ông Chín gát gian chuyên giữ xe cho trường lên tiếng tiếp theo:

– Nói như ông Bảy tui thấy chắc là nó rồi,  hôm đó tui thấy thằng Cư nó cứ xà quần xà quần gần xe thầy Thái, tui có hỏi nó làm gì ở đó thì nó nói tìm cái xe đạp của con Hương lớp đệ lục để sửa lại cái ống bơm xe con Hương, ai dè đâu nó bỏ đường cát vô  bình xăng báo hại thầy Thái đạp gần chết.

Vậy đó, thằng Cư bị hội đồng kỷ luật phạt nghỉ học một tuần khiến ba má nó lo sốt vó?, hai ông bà lật đật vào trường tìm thầy Thái, vừa chạm mặt thầy Thái hai ông bà chắp tay lạy thầy Thái  như tế sao, nhằm xin thầy bỏ qua cho cái dại dột thiếu suy nghĩ của thằng Cư, thầy Thái thấy thái độ ăn năn của Cư và sự nhận lỗi của ba má thằng Cư thiếu để mắt đến việc học hành của con nên sinh ra nông nỗi nên thầy đồng ý xin ban giám hiệu giảm bớt hình phạt, thằng Cư được cho học lại sau hai ngày buộc phải ở nhà, hai ngày đó đối với Cư nó ví như dài gần hai thế kỷ.

Sau lần đó nó chăm chỉ học hành, bảng danh dự tháng nào cũng đề danh nó, con Nhàn và đám con gái trong lớp không còn nhìn nó với đôi mắt đầy ác cảm nữa, và tôi cũng được thơm lây có thằng bạn học thật siêu trong lớp.

    * * *

Thời gian thắm thoát thoi đưa, chúng tôi ra trường mỗi đứa một phương trời, tôi thì vào lính rày đây mai đó, thằng Cư dọn nhà đi về đâu ở đâu tôi cũng chẳng còn tin tức về nó.

Cơn binh lửa trên quê hương lụi tàn, trở về đời sống dân sự tôi làm đủ thứ nghề để mưu sinh, còn đám bạn học ngày xưa vẫn biền biệt nơi đâu, đôi lúc rảnh rang tôi ngồi thừ người bên ly cà phê bốc khói tôi nhớ da diếc những gương mặt thân thương của một thời áo trắng ngày xưa, Cư ơi mầy ở đâu? Nhàn ơi! cái bà chằn lửa trưởng lớp của tôi giờ ở đâu, bất chợt tôi thèm nghe lại những lúc cãi vả cùng Nhàn, tất cả đã xa rồi đúng là thời gian trôi qua thì chẳng bao giờ trở lại, bao câu chuyện ngày xưa, hình bóng cũ năm nào vừa quay lại đã nhanh chóng nhòe đi trong mắt tôi. Tôi muốn hét lớn lên Cư ơi! Nhàn ơi!…

    * * *

Thế giới ngày càng thu hẹp lại, ngày xưa muốn gửi một bức thư và chờ thư hồi âm có khi cả tháng. Từ khi có mạng Internet toàn cầu thì chuyện thư từ, điện thoại, tin nhắn và các mạng xã hội rầm rộ ra đời thật tiện lợi, ban đầu bở ngở với E-mail, Facebook..v.v.. nhưng dần dà tôi cũng lảnh hội được các tiện ích này.

Một hôm đang lòng vòng cố tìm người quen trên Facebook, chợt thấy cái tên quen quen mà cũng hơi lạ lạ, thằng Cư bạn tôi tên nó là Nguyễn Văn Cư mà trước mắt tôi Cu Van Nguyen, tên này có cái hình đại diện là chiếc Push ba đèn màu đỏ, tôi nghi nghi không lẽ là thằng Cư bạn tôi năm nào, tôi gỏ mấy chữ vào tin nhắn hỏi thăm, cuối cùng chúng tôi tìm lại được nhau trên mạng ảo sau bao năm xa cách.

Từ phương trời xa tít cách nửa vòng trái đất, chúng tôi thường xuyên thăm hỏi nhau hàng ngày, qua tâm sự tôi biết được nó vẫn còn tôn thờ chủ nghĩa độc thân.

Trong một chuyến trở về quê cùng thằng bạn thân sau này, khi trà dư hậu tửu bạn tôi nói đùa nhờ tôi tìm người mai mối cho cô em gái của hắn để có nơi nương tựa, Ngân em gái hắn ta có làn da trắng hồng, tóc dài tha thước, ăn nói dịu dàng. Vậy mà vẫn phòng không chiếc bóng, tôi nghe đâu đám trai làng hay lân la làm quen, có chàng định tiến xa hơn tình bạn nhưng cha mẹ hai bên xem tuổi thì bị các thầy bói toán cho là xung khắc, hai người đến với nhau sẽ có người mạng vong để lại bạn đời sống trong cô quạnh. Nghe các thầy phán những câu xanh rờn trên,  hai bên gia đình tự động rút lui có trật tự.

Bữa nọ trong cơn say là đà, tôi cao hứng nói với bạn tôi:

– Vụ Ba Ngân em của ông để tui ướm lời với thằng Cư bạn tui bên Mỹ, nó chịu làm quen thì tui đứng ra làm mai cho, nhưng nhớ cho tui cái đầu heo đàng hoàng nghe ông.

Hai Kim bạn tôi nó cũng là đà say không kém gì tôi, nghe tôi có dự tính như thế nó mừng rơn bèn lớn tiếng kêu cô Ngân ra bàn tính công việc:

– Con Ba đâu, cá lóc nướng trui xong chưa đem lên anh với ông Hai nhậu tiếp coi.

Từ sau bếp Ngân nhanh nhẩu đáp:

– Có liền đây anh Hai ơi!

Vừa đặt dĩa cá lóc nướng trui lên bàn, Ngân định thoái lui ra sau hè chơi với mấy đứa em ở Sài Gòn mới về hôm qua, chưa kịp trở bước đã bị Hai Kim nắm tay ghì lại và nói:

– Anh Hai Sài Gòn đây có người bạn chí cốt bên Huê Kỳ, ảnh dự định giới thiệu cho em làm quen, mơi mốt anh Cư bên  đó dìa thì em tiếp đón vui vẻ nha. Thấy bây ê sắc anh buồn thúi ruột.

Nghe anh mình nói hụych tọec như vậy khiến Ngân mắc cở đỏ bừng đôi má, nàng lấy đôi tay đấm thình thịch lên lưng anh mình nàng thẹn thùng nói:

– Anh hai cứ bêu riếu em tối ngày, ê sắc hồi nào đâu, tại duyên chưa tới thôi, mấy đứa con trai trong ấp mình sắp hàng dài dài xin làm quen em đâu có chịu đâu.

Nói xong Ngân vụt chạy nhanh ra sau vườn nhà, gió đẫy hương thơm của nàng trinh nữ nó làm cho tôi một thoáng ngất ngây…

    * * *

Tôi và thằng Cư khệ nệ ôm quà cáp nó mang từ Mỹ về để làm quà cho gia đình bên vợ tương lai, bước qua cây cầu ván nhỏ vào nhà chúng tôi gặp ngay cô Ba Ngân đang đứng chờ bên hàng hiên. Cô bẽn lẽn nhìn thằng Cư và tôi, sau một thoáng ngập ngừng cô chạy đến anh chồng tương lai đỡ phụ những gói quà lĩnh kĩnh, họ cười với nhau thật tươi khiến tôi cảm thấy mình như người thừa thải nơi đây. Tuy vậy tôi cũng mừng thầm trong bụng, vì mới hôm nào đây tôi với hai Kim hứng chí nói chơi tưởng rằng cho vui trong bàn tiệc, có ngờ đâu họ thật sự đến với nhau qua nhịp cầu do chính tay tôi bắt…

Đám cưới giữa Cư và Ngân thật đầm ấm với sự chứng kiến của hai họ và bà con lối xóm. Chẳng bao lâu sau đó cô Ba Ngân đặt chân lên đất Mỹ do anh chồng bảo lảnh theo diện hôn phối, kết hợp được cho đôi này tôi được thưởng một cái đầu heo đúng theo nghĩa đen.

    * * *

Bẳng đi một thời gian dài vào một đêm cuối tuần, xem xong vỡ cải lương Gánh Cỏ Sông Hàng hai vợ chồng tôi vừa tắt đèn để đi ngủ, chuông điện thoai trên bàn reo inh ỏi, tôi nhấc máy lên đầy dây bên kia thằng Cư càu nhàu về tính khí cô ba Ngân, nó trách cứ đủ điều nào là mới qua Mỹ thì hiền lành, lâu ngày bén rễ bạn bè đàn đúm bỏ bê nhà cửa, rồi một hôm cô ta nghe theo tiếng gọi của tình yêu mới, cô ôm cầm sang thuyền khác bỏ thằng Cư bạn tôi quay lại kiếp sống đơn côi, thằng Cư đang rối trí nó không còn phân biệt phải trái, nó trách cứ tôi đưa nó vào tròng gặp phải hồ ly trong thời hiện đại. Tôi cự nự lại nó trong lúc giận quá mất khôn không còn bình tĩnh chúng tôi đã đánh mất tình bạn của một thời thân ái, sau đó nhận ra lỗi lầm về cả hai phía nên chúng tôi đều nhận lỗi về mình, tuy nhiên tâm trạng chúng tôi vẫn còn lấn cấn một câu đại khái như sau :
“Nước đã đỗ rồi làm sao hốt lại được”

    * * *

Lâu lâu nhớ lại chuyện của thằng Cư khiến tôi phải bật cười, tuy miệng cười đó nhưng trong lòng thật đau.

                            Hai Hùng SG

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22317
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/May/2016 lúc 10:15am

12 Năm Tình Lận Đận


Ngày 30/04/1975, lúc Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đang ở khu định cư  dành cho dân Phước Long ở quán chim Long Thành, tôi rầt buồn và cũng rất bình tĩnh hơn bất cứ lúc nào, sẵn sàng đón nhận mọi bất trắc có thể xảy ra!

Trước đó một tuần, tôi cùng một số cán bộ đã ra Vũng Tàu, không hiểu tại sao tôi lại có quyết định trở lại Quán Chim để rồi không ngờ cầu Vạn Kiếp và Long Thành bị đánh, tôi kẹt ở giữa?

Sau đó tan hàng, hồn ai nấy giữ! Súng được tháo ra vứt mọi nơi, trà trộn vào đám người chạy loạn về Saigon…. Cũng nhờ thẻ sinh viên mà tôi còn giữ lại nó đã giúp tôi qua bao trạm du kích địa phương trên đường về Saigon.

 Khủng khiếp nhất là quãng đường ở làng cô nhi Long Thành, những xác chết trên đường trong lô cao su, quần áo vương vãi khắp nơi, mùi hôi tanh nồng nặc, khiến tôi lợm giọng! Tôi đã từng bị trận Phước Long nhưng chưa thấy hình ảnh nào khủng khiếp như thế! Cái giá của Hòa Bình khủng khiếp thật!

Về đến Saigon, ở nhà anh tôi tại chợ Nancy, đi vòng vòng thì gặp thằng bạn học cũ, Mai Phát Vĩnh, nó đạp xe chở tôi ra chợ Bến Thành nhìn dòng đời thời CS, những tên 30/04 đeo băng đỏ, chạy đôn đáo, chỉ điểm; những đứa con nít mới 13-14 tuổi cầm súng bắn vô tội vạ, những mâu thuẫn cá nhân cũng được giải quyết không cần luật pháp của cái buổi giao thời! Những tay bộ đội miền Bắc mới vào ngơ ngơ ngáo ngáo!

Đi ngang qua dinh Độc Lập, bộ đội tắm rửa trên sân cỏ, phơi đồ bất cứ chỗ nào họ thích…v…v… Mân mê chiếc xe đạp; âu yếm cái đài; vuốt ve cái đồng hồ 3 que, 2 cửa sổ, 12 đèn; ngồi kiểu nước lụt bên ly cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”! Tội cho họ, một chủ nghĩa đã đẩy lùi cả một thế hệ! Nhưng tôi vẫn ghét hơn cả là lũ theo đóm ăn tàn 30/04.

Một tuần lễ sau, họ phát loa phóng thanh kêu gọi trình diện, tôi trình diện tại Trường Trần Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo Sàigòn.

Mọi người tấp nập trình diện, không khí nặng nề, ngờ vực, nghi kỵ; biết nhau nhưng coi như người xa lạ! Những bộ đội Bắc cầm AK-47 đứng canh từng góc trường. Lên lầu hai, họ phát cho mỗi người mỗi tờ giấy học trò.. người cán bộ nói như một cái máy “…với chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, Các anh phải thành thật khai báo với Cách Mạng….”.

Ai nấy cũng cắm đầu viết, tôi viết ngắn gọn, mà tôi cũng chẳng có gì để viết! Một năm làm việc không bằng thời gian mấy xếp tôi nghỉ bịnh. Nhìn trong phòng toàn là tướng, tá… ; tổng giám đốc, giám đốc của các phủ, bộ… Có ông Lê Hồng Tuấn, Tổng Giám Đốc Bộ Phát Triển Sắc Tộc mới ở Mỹ về chưa được một năm!

Chờ cho vài người nạp bản tự khai rồi tôi mới nạp. Người cán bộ đọc xong bản tự khai rồi yêu cầu tôi ở lại và ngồi chờ. Tôi thầm nghĩ, không biết chuyện gì đây? Tôi biết tôi nên khai những gì? Khoảng 20 phút sau, tôi được gọi ra ngoài hành lang thì thấy để sẵn một cái bàn nhỏ và hai cái ghế, một người cán bộ già trạc tuổi trên 60, đeo cái xắc-cốt cũ lâu năm lên nước bóng loáng, lưng đeo cây K-59 ở giữa mông!

Ông ta ăn nói rất lịch sự, mời tôi ngồi và chìa hộp thuốc lá 555 bằng thiếc đã bạc màu, nhưng bên trong là những điếu thuốc lá đen. Tôi từ chối vì không biết hút thuốt lá, sau một hồi vòng vo, ông có vẻ hiểu rành về Phước Long và hỏi tôi về những viên chức tại Phước Long. Nhưng tôi trả lời tôi làm ở cơ quan sắc tộc, chỉ lo những vấn đề xã hội liên quan tới đồng bào sắc tộc. Ông nói: “tôi không tin nó đơn giản như vậy?”. Sau hai giờ không khai thác được gì, ông cho tôi về suy nghĩ lại và ngày mai lên gặp tiếp? Sau ba lần, cũng chỉ có thế! Ông trao cho tôi một tờ giấy đã trình diện do tướng Cao Đăng Chiếm, chủ tịch quân quản thành phố Saigon ký và  nói tôi phải trình diện tại địa phương.

Hai ngày sau tôi đón xe lam về Bình Dương, xe chạy đường trong. Nhìn hai bên đường, thỉnh thoảng thấy những bộ đồ lính, cả những nón sắt vứt ven đường, lòng đau như cắt! Nhìn đám lục bình trôi, bên trên đám ruồi bay nhặng xị, mùi hôi thối nồng nặc vì những xác người chết; tôi biết đó là những kết quả của những cuộc thanh trừng tại địa phương!

Về đến Bình Dương, Mẹ tôi ôm tôi khóc nức nở! Chiều đó trời mưa nhiều, chị hàng xóm bắt được một số cóc, đem nấu cháo. Lần đầu tiên trong đời ăn cháo cóc, ngọt và ngon thật. Phải chăng vì sự thiếu thốn hay không của những ngày đầu thống nhất!

Vài ngày sau, tôi quyết định về Bình Long vì tôi biết Bình Dương với tính cực đoan của dân Phú Hòa Đông, những cuộc thanh trừng thù oán cá nhân đã xảy ra hằng ngày!

Trên chuyến xe đò về Bình Long, những dấu vết chiến tranh vẫn còn vương vãi bên đường qua cuộc di tản! Những người ngồi trên xe im lặng, mỗi người một tâm trạng lo âu, nghi kỵ, sợ sệt! Không biết cuộc đời sẽ về đâu? Qua Lai Khê, rồi Chơn Thành, ngã Ba Xa Cam…Người đầu tiên mà tôi gặp là Thành mập (Phạm Ngọc Thành) đang leo trên cổng bằng sắt trước khi vào Bình Long treo cái bảng “Không có gì quý hơn Độc lập Tự Do”.

Đến bồn nước tròn ở chợ cũ, tôi tạm trú tại nhà chị Tư Bê, hôm sau cùng anh Sửu, bảy Đại lấy xe lam đi gỡ tôn để làm nhà, trên mảnh đất của Trường Tiểu Học Thượng. Ngày nào cũng nghe tiếng nổ, cũng nghe tin có người chết hay bị thương vì nổ trái vỉ. Bình Long là vùng đất của bom đạn còn lại trong chiến tranh.

Tôi gặp những người bị lùa trong cuộc chiến 1972, còn gọi là bộ đội “Khóc”, họ nhìn tôi với cặp mắt đầy nghi kỵ như người xa lạ, mặc dù đã biết nhau học cùng trường THBL hay cùng lớp!

Trình diện Năm Thanh, Hai Tấn chủ tịch quân quản huyện Bình Long thời đó, họ tịch thu giấy của Cao Đăng Chiếm và nói tôi không được đi ngoài khu vực phạm vi huyện Bình Long. Ngày lại ngày, cơm với cá khô đù, đọt ổ qua rừng chấm mắm nêm.

Hai tuần lễ sau, một thằng nhỏ du kích tới thông báo ngày mai đến nhà thờ Bình Long để đi học tập cải tạo, quán triệt chính sách và đường lối của Đảng và nhà nước. Đêm đó, tôi và Mẹ tôi trằn trọc không ngủ trên tấm ván lượm được, nhìn lên mái nhà lỗ chỗ những mành đạn pháo, thấy tương lai mù mịt! Tôi thầm nghĩ thôi thế thì thôi, cứ  thả nổi theo giòng đời!

Ngày 20 tháng 05 năm 1975, vào Lúc 8 giờ, tập trung trong nhà thờ Bình Long. Sau khi điểm danh xong, đoàn người trật tự  leo lên hai chiếc xe GMC. Trong chuyến áp tải có cả Hồ Sĩ Đạt, đeo cây M-79, mặc bộ kaki vàng, quấn chiếc khăn rằng với mũ tai bèo. Nó là bạn cùng lớp, bị bắt đi bộ đội năm 1972. Bên kia đường, trước nhà thờ là những thân nhân đứng tiễn người đi. Tôi thấy Mẹ tôi đang đứng chỗ sạp bà Ba Rổ, ngóng tìm tôi cho tới khi đoàn xe mất hút!

Đoàn xe di chuyển, mọi người ngồi dưới sàn xe, không ai được đứng dậy, được lệnh “nếu ai đứng dậy sẻ bị bắn bỏ”.

Đường dằn dữ dội, có những lúc xe như nhẩy nhổm lên! Chỉ biết xe đi hướng Lộc Ninh, rồi qua Bù Đốp, gần đến cầu Hoàng Diệu, xe quẹo vô rừng. Không biết họ làm gì đây, đi học tập hay đi tàu suốt như Huế năm Mậu Thân? Không có gì họ không dám làm! Thôi tới đâu thì tới!

Lúc đó khoảng ba giờ chiều, trong rừng già trời âm u. Mọi người xuống xe, tôi đơn giản với bộ đồ bà ba đen (đồ CB/PTST), cái bao vải đựng vài bộ đồ, cái võng lính (qua Mỹ tôi vẫn còn mang theo), lon gô mắm ruốc xào xả ớt, tất cả bày ra để cán bộ kiểm tra…

Bỗng có tiếng “Thằng Mười vô rồi!” đây là thứ của tôi, nhìn qua thì thấy thằng Chí, ở ấp Thánh Mẫu, nó bị bắt năm 1972, rồi vô CA. Kiểm soát xong, tôi được vô trại.

 Thật kinh khủng, nhìn những tù cũ, da thì xanh xao vàng vọt, thân như những bộ xương cách trí! Gặp anh tôi, anh ấy về Lộc Ninh trước nên vô trước! Trại giam được làm bằng lồ ô, mái lợp lá trung quân.

Gặp nhân viên cũ, họ cho tôi mấy ống lồ ô, hai ngắn (đi cầu), hai dài (một đựng nước, một đi tiểu). Vô phòng, có trưởng phòng hướng dẫn nội quy. Tối ngủ phải cùm, cùm là một thanh cây có khoét lỗ tròn đút cổ chân vào, có một thanh cây nữa chận bên trên, được khoá ở ngoài cửa. Phòng được đốt một đống lửa, nếu cháy phòng không biết sao mà chạy, vì chân bị cùm!

Vào trại, cùng các giáo sư: thầy Huấn, thầy Bê và thầy Lai…. sau này thầy Huấn bị điên, bị nhốt dưới hầm sâu (đó là một cái hầm đào cạnh phòng giam, nó được đào giống chữ L, sâu khoảng 3.5 m, dưới lót ván, can phạm ngồi phải khom, chân bị còng chữ U bằng sắt). Mỗi lần nổi cơn điên, thầy Huấn lấy phân trét cùng đầu, mình mẩy. Họ cho thầy làm bộ! Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau mà thôi. Thành phần hỗn hợp, phe ta, phe địch, chiêu hồi, gián điệp… Gặp Sương Lộc Ninh, làm  thợ rèn, bị bắt sau khi Lộc Ninh bị chiếm năm 1972,  biết nhưng chỉ dám nhìn nhau!

Sáng, gõ kẻng thức dậy, ăn sáng, đi làm. Thức ăn chỉ khoai mì lát mốc meo vẫn phải ăn và chỉ ăn với nước muối pha loãng! Không có muối hột vì họ sợ dự trữ để trốn trại. Cái đói và cái sốt rét ác tính, đây là hai bài học phải học đến chết với những người tù tại trại giam C-5 sông Măng này!

 Lúc đó, ông Năm Hùng làm trưởng trại, Hải (hậu cần), Hận (chấp pháp). Không biết có ai còn nhớ đến người bán cà-rem, chạy xe đạp, tính tình vui vẻ, mỗi lần dừng xe hay nhổng đầu xe đạp và quay 1 vòng, có lần bán trước trường tiểu học An Lộc bị ông Hai Bon, bán nước cho học trò, đánh lỗ đầu vì cạnh tranh mua bán. Tay Hận này vẫn nhịn nhục. Nhà ở khu bánh bèo Biên Thùy, sau đó bị bắt đưa ra Côn Đảo và được trao trả Tù Binh tại Lộc Ninh; giờ về làm chấp pháp Trại C-5 sông Măng.

Mỗi sáng, sau khi gõ kẻng, CB đừng trước phòng điểm danh, mọi người phải la to “thưa ông cán bộ có”, phải gọi CB bằng “Ông”! Mở cùm, tuần tự ra khỏi phòng, dẫn đi vệ sinh, khu vực phía sau trại. Sau đó, tập họp, ăn sáng gồm một chén khoảng 6 miếng khoai mì lát! Xong, phân công từng toán đi làm: phát rừng, làm rẫy, khiêng cây về cho đội cưa xẻ trong trại, 8 người khiêng một khúc cây, khiêng không nổi bớt còn 6 người! Những bước đi xiêu vẹo trên những thân xác đói ăn, bệnh hoạn, vì sốt rét ác tính! Tất cả các bịnh chỉ có thuốc “Xuyên Tâm Liên”. Anh Ngô Công Vì, thuộc cán bộ XDNT/BL, coi võ đường Hắc Long gần quán bánh bèo Biên Thùy và rất nhiều người khác chết ở trại nầy khiến Năm Hùng phải đổi hướng cổng trại. Tôi còn nhớ có người lính BV, trung úy CS, tên là Nguyễn Xuân Trường, kỹ sư hóa chất, tốt nghiệp tại Trung Quốc; cha là CB cao cấp trong ngành ngoại giao ngoài Bắc, bị tội giết người vì bị kiểm điểm! Lúc nào cũng đội cái mũ biệt kích mà anh rất thích. Sau anh bị bịnh sốt rét, nằm một chỗ, hai mông lở loét, bị nhiễm trùng, sau đó bị khoét sống to bằng miệng chén, chịu không nổi, phải chết! xác được quấn chiếu, chôn cô đơn một góc rừng già!

Có một hôm, CB trại gọi tôi lên làm việc. Thắng, CB trại dẫn đi ngang qua cái chòi, tôi biết chòi này đặc biệt nhốt mục sư Điểu Huynh, đến nhà CB Hận chấp pháp, sau 1 lúc trò chuyện không đâu,  hắn mang tô cơm có cá kho tiêu cho tôi ăn và ngon chưa từng có! Sau những tháng ngày chỉ khoai lát nước muối! Xong, hắn cho tôi về trại, thằng Thắng đưa tôi về… đơn giản có thế sao? Đến giờ nghĩ lại, tôi còn “lạnh gáy”, dọc theo đường nó bắn và cho rằng tôi trốn chạy thì sao?

Khoảng 3 tháng sau, trại được chuyển về sở Nhỏ gần Bù Đốp, tôi cùng một người được đặc biệt đi xe GMC, còn những người khác phải đi bộ! Trại này thoáng hơn, xung quanh là rừng cao su. Hôm đó, tôi đang lên cơn sốt rét nằm ở phòng, bỗng nghe tiếng gọi “Mười đó hả?”. Mấy chục năm rồi tôi vẫn nhìn ra “nó”, từ ngày nó vô rừng! Ngó quanh quất rồi nói “thôi mầy ráng cải tạo tốt rồi về”, và thảy cho tôi hai gói Sàigòn Giải phóng, thời điểm đó thuốc này rất hiếm!

Một tuần lễ sau, Năm Hùng gọi tôi lên văn phòng trại thì không ngờ gặp Mẹ tôi đến thăm. Tôi là người đầu tiên được thăm, nhìn Mẹ tôi với khuôn mặt khắc khổ, già nua, tóc bạc đi rất nhiều! Những giọt nước mắt của tôi từ từ chảy xuống, không hiểu tại sao? Tôi đã bị những trận tận cùng nhất, tôi cũng chưa bị như vậy! Hỏi thăm cuộc sống bên ngoài thế nào? Tôi biết Mẹ tôi dấu tôi! Trò chuyện chừng 20 phút, tôi được báo hết giờ! Không hiểu sao họ không cho anh tôi được ra thăm Mẹ tôi? Ra ngoài, tôi sững sờ thấy người lái xe Honda chở Mẹ tôi là anh T. bị kẹt lại Lộc ninh năm 1972?

Ở sở Nhỏ hai tháng tôi, anh tôi cùng một số chọn lọc được chuyển về khám đường Bình Dương, trên đường về xe ghé Bình Long. Xe đậu ngay chỗ tiệm sửa xe Thanh Hải cũ, ngồi dưới sàn xe nhìn qua khe hở của tấm bạt, tôi thấy vài người quen nhưng không dám gọi.

Khám đường Bình Dương là trung tâm cải huấn Bình Dương  cũ, gần tòa hành chánh BD cũ, nay là VP/UBND tỉnh BD, trại giam này do Ngô văn Thới (Ba Thới)  làm chủ ngục, Hai Khánh (Khánh Thọt) làm chấp pháp. Vào bên trong trại, mọi người xếp hàng kiểm tra, họ tịch thu mọi thứ: dao, đũa, dây… những thứ có thể gây thương tích hay tự sát.

 Hơn 80 người trong một căn phòng nhỏ, dài 8 m, ngang 5 m. Phải ngủ ngược đầu hay ngủ ngồi. Có những lúc trời nóng, phải cởi trần hay ở truồng, mùi thối vì hơi người, quần áo giặt không cần phơi cũng khô! Trong phòng có những lúc phân, nước tiểu tràn ra phòng! Chính CA cũng phải bịt mũi mỗi lần nhìn vô phòng để kiểm tra. Chúng tôi còn tệ hơn súc vật! nước uống mỗi người 0.75 lít/ngày, khoai lát hoặc bo bo, bắp cải luộc nước muối trường kỳ kháng chiến!  Một tháng sau ai nấy ghẻ cùng người, cả hai bàn tay cũng bị! Khi tắm phải lấy bao nilon bao lại vì nước vô rất rát! Chỉ trị ghẻ bằng nước thuốc lào! Mỗi sáng thức dậy, giũ chiếu, quét phòng, mày ghẻ gom lại cả hơn hai chén cơm! Và điều khủng khiếp nhất là có người đói quá không chịu được đã lấy mày ghẻ dấu để ăn như ông tên là Thiêm!

Có hai người bị án tử hình, chưa đem bắn đã bị suy nhược đói và chết như: Socnuoi (nghi là gián điệp Pol Pot, thật ra anh này Pol Pot nhưng lấy vợ VN, đưa vợ về Bù đốp vì sợ Pol Pot giết, sau đó trở lại tìm vợ thì bị bắt), còn Điểu  Bluc, xã đội trưởng du kích Đức Phong, bị nghi là tình báo Mỹ? Còn tôi cũng bị Hai Khánh đặc biệt quan tâm. Có lần hắn gọi tôi lên thẩm tra, cho rằng không thật thà khai báo!

Trong phòng hắn hỏi “Mầy biết B- 52 không?”, xong hắn lấy bao nilon đốt cho chảy rồi nhễu từng giọt xuống các đầu ngón chân, trong khi hai chân đang bị cùm! Lúc đầu rát điếng người, tê dại hai chân… Hắn cười rất khoái chí, cái nụ cười dã man của một con thú đội lốt người! May tôi là tù đã trình diện cải tạo, không thì xong đời!

Tuần lễ sau được trả về phòng lớn, hai chân bị liệt, tê dần từ đầu ngón tay lên vai; hai chân thì từ đầu ngón chân lên tới rốn! Có lần được đưa ra phơi nắng cùng người đã già tên là Mai vượt biên đường Bù Đốp bị bắt. Những người được đem phơi nắng là sắp “Vẫy tay chào em!”, lúc đó anh đút cháo cho tôi, đút vào cháo lại trào ra; đôi lúc mê sảng, cũng may Trời cứu!

Một tuần lễ sau tôi được chuyển Trại đi K-3 Gia rai, Long Khánh, gồm 13 người và được mệnh danh là 13 con ma, vì mình ghẻ lở, được bôi Lưu huỳnh cho tróc mày ghẻ, ai nấy cũng đen còn hơn cả những đặc công!

Trên chuyến xe chuyển đi K-3 Gia ray, Long Khánh, lên xe đã thấy có anh Võ Tấn Vinh (Phó Tỉnh BL, sau về làm PTT/BD) từ trại nhà Đỏ BD nhập chung. Trại K-3, nằm trên đồi tên Phượng Vỹ, thuộc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18BB.

Vô trại, tôi được chuyển lên trạm xá, cũng nhờ anh Lê Phước Chỉ (đại úy) tận tình giúp đỡ và châm cứu, 15 ngày sau tôi chống gậy đi lại được. Một tháng sau tôi được thăm nuôi, anh tôi vẫn phải cõng tôi xuống núi! Gặp Mẹ tôi, nhìn Mẹ với 2 hai hàng lệ chảy dài trên trên đôi má nhăn nheo của Mẹ già, lòng tôi đau như cắt! 15 phút trôi qua như gió thoảng, thế rồi giã từ qua tiếng nghẹn ngào của Mẹ tôi!  (Phó Tỉnh BL, sau về làm PTT/BD) từ trại nhà Đỏ BD nhập chung. Trại K-3, nằm trên đồi tên Phượng Vỹ, thuộc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18BB.

 Hai tháng sau, anh tôi được chuyển ra Bắc, qua ngã Tân Cảng, bằng Tàu Sông Hương, tôi được ở lại vì  còn bị liệt hai chân!

Rồi bỗng một hôm, trực trại gọi tôi có thăm nuôi, anh tù phụ trách thăm nuôi dìu xuống núi, nhìn cuối bàn thăm nuôi thì không ngờ gặp lại cô ấy, tôi không ngờ! Cả hai đứng như trời trồng  không nói nên lời!

Thì ra T., nhìn hai dòng lệ trên khuôn mặt lam lũ, phải bon chen giữa dòng đời nghiệt ngã của buổi giao thời. Nhưng đôi mắt vẫn buồn và đẹp như thuở nào…

“…Cậu Mợ khỏe không?”, “Cuộc sống em thế nào? ”, “Không biết bao giờ anh về? Hãy coi nhau như người bạn tốt…”, “Em nên lấy Chồng…!”. Nắm đôi bàn tay không còn mềm mại như ngày nào! Lâu rồi đời mình cũng quên, nhưng có quên được đâu!

Cán bộ đặc trách thăm nuôi báo hết giờ, thế rồi phải bịn rịn giã từ! Lên lưng chừng đồi nhìn xuống, cô ấy đang thiểu não bước đi về ga xe lửa. Hôm thăm nuôi, vì là ngày thường nên ít người đi thăm nuôi.

Đêm đó trằn trọc ngủ không được! Nhớ ngày đầu tiên lên Phước Long nhận nhiệm sở, chiếc P-6 Porter của Air America mầu trắng sọc xanh biển, xuống phi trường tỉnh lỵ PL, phi trường nằm trước tòa HC tỉnh PL, là tỉnh nhỏ, vui… Lần tham dự lễ phát phần thưởng tại Hội Trường PL, tôi nhìn thấy cô bé học lớp 12 lên lãnh phần thưởng, bỗng hớp hồn tôi ngay! Quay sang hỏi người bạn, là thổ địa, cho biết và khuyên đừng nên coi chừng 72 (mã số Đại Tá Lưu Yểm) đang theo, Đ/u Thành Alo bên KQ và nhiều tay nữa? Sợ ai, dân Bình Long Anh Dũng mà… Tối đó, vô thẳng Quán Coffe H.T, khi tính tiền, chỉ trả tiền khi nào cô ấy ra tính, kiểu đẹp trai không bằng chai mặt! Thế mà được việc!

Rồi cuộc chiến Phước Long, tôi đến với gia đình T. như người nhà và cho đến mãi bây giờ, tôi về và vẫn đến thăm như người bạn tốt, vợ tôi cũng biết! Người ta có thể thương nhiều người nhưng YÊU chỉ có một người.

Một hôm, trại nhận một toán từ Cà Tum đưa về, ai nấy cũng chạy tới hỏi thăm để tìm người quen, tôi nhận được thầy Vạn, với nước da ngâm ngâm dưới cằm có vết thẹo, thầy dạy tôi năm Đệ Ngũ , hai thầy trò ôm nhau mừng trong ngẹn ngào! Chiều đó, cả hai lại gặp nhau ăn cơm chung, trại tương đối dễ đối với tù chính trị. Trại này nhốt chung với tù hình sự nhưng được ngăn bởi hàng rào kẽm gai kiên cố cao hơn 2m. Bên kia hàng rào, là đám hình sự gồm trộm cướp, xì- ke, ma túy… đám xì ke lên cơn nằm phơi nắng! Không được điều trị, vả thuốc có đứa chết! CA trại đánh đập không thương tiếc!

Trại Z-30A do trung tá Trịnh xuân Tích coi, tôi còn nhớ sáng đó khoảng 4 giờ, nghe bắn báo động(?). Sáng hôm sau, toàn trại tập họp điểm danh, thì được biết 37 người Thượng theo tổ chức Fulro đã trốn trại, chỉ còn 5 người già cả bịnh tật ở lại! Cả trại mừng thầm cho họ, trốn vô rừng đối với người Thượng như hổ thả về rừng, khó mà tìm!

Trước đó tôi có nói chuyện với họ, hỏi thăm bằng tiếng Rahde’, tôi biết chút ít lúc lên Pleiku ở Trung Tâm Huấn Luyện Pleku; họ sống rất im lặng, kêu làm thì làm, kêu cuốc thì cuốc, không than vãn, không thăm nuôi, rồi âm thầm đi… Chỉ có núi rừng mới hiểu những gì họ muốn? Từ trưởng trại đến cán bộ trực đêm đó bị kỷ luật, cả tuần lễ sau vẫn còn thấy trực thăng bay lòng vòng hướng sông La Ngà… của Núi Rừng nên trả lại cho Núi Rừng.

Hai tuần sau, toàn trại được lệnh kiểm tra. Tôi cùng một số khoảng 200 người được tách riêng, mang hành lý chuyển trại đi trại mới. Anh tôi đi trước và tôi đoán mình sẽ đi đâu? Chiều hôm đó, Thầy Vạn đứng bên kia hàng rào nói “… Em lấy ít đồ ăn, vì đi trại mới, biết bao giờ mới được thăm nuôi!”. Tôi không nhận, vì gia đình Thầy cũng không khá mấy! Hai Thầy trò nhìn nhau qua hàng rào kẽm gai làm tôi nhớ phim “Giờ Thứ 25” mà tôi coi ở rạp Eden của Saigon năm nào!

Khuya đó, mọi người được lệnh lên xe “Zin”, từng nhóm khoảng 30 người ngồi chồm hổm trên xe, nếu chuyển trại bình thường họ không chuyển ban đêm? Lúc tập họp, tôi để ý chiếc xe đầu tiên ngụy trang chở củi. Xe chạy chừng nửa giờ, tôi lấy con dao nhỏ bằng thép mà tôi dấu trong lon Guigoz cơm, rất bén, rạch tấm bạt nhìn bên ngoài, những căn nhà tranh lụp xụp yên lặng… rồi những dãy phố nhưng chẳng biết là đâu? Nhìn bên ngoài, tôi dấu không cho ai biết, vì không thể tin ai!

Đó là ngày 24 tháng 4 năm1977, đến khi xe dừng lại, tấm bạt được mở ra, mọi người tuần tự xuống, thì thấy trước mặt là một bến tầu! Trên cảng đầy CA và bộ đội, có cả chó; chiếc tầu to sừng sững mang tên SÔNG HƯƠNG, tầu màu đen sọc nâu.

Mọi người trật tự leo lên tầu bằng cái thang gỗ, xuống hầm tầu là một cái khoang chứa hàng đầy bụi than đá, mà trong Nam đâu có than đá! Chắc tầu chở từ Bắc vào, sau này tôi mới biết chiếc Sông Hương chính là chiếc Việt Nam Thương Tín! Chiếc này đã chở những người qua Guam muốn hồi hương về VN, họ cũng bị vô tù như chúng tôi, lại một sai lầm!

 Chúng tôi bị nhốt như những con gấu trong sở thú! Thức ăn chỉ mì gói, nước, thùng chứa phân câu lên và thả xuống như trong hầm nuôi  thú ở thảo cầm viên Saigon! Nắp hầm được mở ra khi chúng tôi bị ngộp vì thiếu không khí! Có người xỉu, phải la lên thì mới được kéo ra! Hai người bị còng chung một cái còng tự chế chữ U của trại, may mà tay tôi nhỏ nên rút ra dễ dàng.

 Có lúc sóng nhồi dữ dội, đa số ói mửa nằm la liệt, tôi đi tới đi lui nên không sao! Đi được một ngày, mấy ông cấp tá Hải Quân đoán đi hướng này là ra Phú Quốc hay Côn Đảo? !

Sau đó tôi liều, mò theo hành lang lên tàu, nhìn qua khe cửa hở, nhưng bị khóa bởi sợi xích sắt, tôi thấy những cánh buồm 3 lá, mà ở miền Nam tôi chưa bao giờ gặp! Xuống nói cho mọi người biết, ai nấy cũng bán tín, bán nghi. Tôi nghĩ chỉ ngoài Bắc mới có loại ghe này.

 Hơn hai ngày thì tầu dừng lại, lúc đó khoàng 4- 5 giờ chiều, mọi người được lệnh xuống tầu, trên boong nhìn xuống, những cái container của Mỹ, rất đông CA áo vàng lẫn một bầy chó! Hàng chục chiếc xe ca xếp hàng… tiếng loa phóng thanh vang dội “…Đây là Miền Bắc XHCN, nơi có đủ điều kiện để cải tạo các anh!”.

 Rồi mỗi toán 30 người lên xe, dọc theo đường họ tổ chức những đám hô to, chửi rủa, ném đá vào xe…

Bấy giờ trời cũng đã tối, đi ngang qua Hà Nội, thành phố thật yên lặng, vắng vẻ… Mọi người đang ngủ, ánh đèn đường treo đong đưa giữa đường, mập mờ như ánh đèn cầy (nến). Đi ngang Viện Bác Cổ (Viện Bảo Tàng), vẫn cái mầu vàng, những mảng tường loang lổ không được sơn lại hay sửa chữa như thuở nào theo những người lớn tuổi cho biết.

Đoàn xe qua cầu Long Biên, xuôi về hướng Nam (?). Ngoài trời tối đen như mực. Xe di chuyển lên xuống, chỉ đoán là đi vào vùng đồi núi.

Khoảng 1 giờ sáng đến trại, xuống xe tập họp từng toán 40 người, theo hướng dẫn của quản giáo vào từng phòng; phòng được xây bằng gạch, mỗi phòng có hai tầng: trên bằng gỗ, tầng dưới xi măng. Tôi leo lên lầu mệt quá, vứt balo, rồi nằm ngủ mê mệt!

 Sáng hôm sau thức dậy, vén cửa sổ được che bằng chiếu, qua song sắt nhìn những ngọn núi đá vôi sừng sững chen lẫn trong đám sương mù như trong phim kiếm hiệp.

Khoảng 8 giờ ra khỏi phòng, mỗi người được  phát một chén bột mì pha loãng với nước muối rồi ra sân trại tập trung nghe ban chỉ huy trại nói chuyện; cho biết đây là trại Nam Hà (25A/TD 63 Hà-Nam-Ninh) do trung tá Xuyên làm trưởng trại, thiếu úy Thịnh  trực trại.

Trại gồm 3 phân trại: trung úy Huy làm trưởng phân trại A; phân trại B do Trần Tấn Nguyệt; phân trại C do Đ/u Trần Tân. Tôi ở phòng 7, chung phòng mà đa số là tổ chức phục quốc, giáo sư Lưu Việt Cương làm trưởng phòng, có cha Nguyễn Hữu Lễ, Mai ngọc Y…

Đội này nổi tiếng cứng đầu, còn gọi là đội trọng điểm. Trại này trực thuộc Bộ Công An quản lý, đa số tướng , đại tá… Gặp ông Lộ công Danh, cựu Tỉnh Trưởng BL, ĐT Thọ nhảy dù , ĐT Huấn 81 BCD.. cựu Thủ Tướng Tâm, thời tổng thống Ngô Đình Diệm, các bộ trưởng cũng đều tập trung tại đây; có cả ông Vũ Hồng Khanh Chủ Tịch VN/Quốc Dân Đảng (người bắt tay ************ tại vịnh Hạ Long trong VN thiên sử truyền hình; sau bị tiểu ra máu được tha về 1979, vì sắp chết, họ sợ mang tiếng).

Trại Nam Hà còn gọi là trại Đầm Đùn vì phía dưới chân núi là đầm đùn, đất sình lầy không có dấu chân người, trốn bị lún lầy cũng chết! Mùa mưa nước dưới đầm như biển hồ. Ngoài Bắc có hai trại nổi tiếng từ thời Pháp là Đầm Đùn và Lý Bá Sơ ở Thanh Hóa!

Hằng ngày xuống đầm làm thủy lợi, đắp đê… bằng những cái mai xén đất thành từng cục, như cục gạch, rồi bừa đất cho nhão bằng cái bừa 12 răng, cứ ba người một cái bừa, kéo thế trâu!

Người cầm bừa phải khỏe, nhấc bừa lên để người kéo đỡ mệt. Có trâu nhưng họ không cho dùng. Trời mùa đông lạnh như cắt da, bụng thì đói, con người bị hành hạ thua súc vật, nhưng chỉ được bồi dưỡng bát cháo bột mì loãng pha nước muối! Bữa ăn một ngày chỉ khoai lát, hay cục bột luộc, muỗng cà phê mắm cáy thối hơn cả cống Sàigòn! Vẫn phải ăn không thì lấy gì để ăn!

 Kiệt sức, phòng tôi có ngày chết 5 người do sốt vì ngâm nước lâu ngày dưới đầm! Gọi là sốt Strepto vì chích Streptomicine mới hết! Đang ngồi nói chuyện bỗng lên cơn sốt, đưa lên trạm xá thì vài giờ sau chết! Sau đó trại ngưng không cho xuống đầm. Rồi bị tiêu chảy chết một mớ nữa, may mà tôi không bị gì! Sau đó, đến mùa Đông trời lạnh, trâu chết, trại làm phở trâu bán, lại một số người chết vì trúng thực, đói không nhịn được, ăn nhiều quá!

Cùng cực, không chịu nổi, chúng tôi biểu tình, tuyệt thực… không quan trọng, họ cho nhịn luôn, coi ai chết! Sau đó 13 người bị cho chuyển đi trại Hà Giang Cổng Trời, trong đó có Cha Lễ!

Đêm Noel 1979, thời gian ở Trại A tôi gặp lại sư Lê Kế Tông, người mà tôi thấy ở khu định cư  đồng bào Phước Long ở quán Chim, Long Thành; ông ấy lái xe Jeep A-2 sơn màu vàng và là trụ trì chùa Long Vân kế đường ở khu định cư, chở nhóm phóng viên Bắc Việt vào quay phim, lúc ở tù mới biết ông làm cho phủ đặc ủy trung ương tình báo thời VNCH.

Sau đó, khoảng 100 người cũng được lệnh chuyển trại. Đoàn người lục đục gồng gánh xuống núi đi Trại C cách 3 Km dưới đồng bằng; do Đại Úy Trần Tân làm trại trưởng, chuẩn úy Trụ trực trại. Về trại này gặp anh Trần Văn Côn (chồng chị Nhàn lò bánh mì), Bùi Đình Vàng-Xa Cam.

 Hai tháng sau, tôi bị chuyển đi trại B, lại đi ngược vô núi, ngang trại A, vô sâu  trong núi đá vôi! Ngoài Bắc, vùng núi đá vôi cây chồi thấp, ít trồng trọt. Cả thời gian tôi ở tù chỉ công an giam giữ; CA chỉ giữ người là chính. lao động thì chỉ làm thủy lợi, vác đá!

Trại B do đại úy Trần Tấn Nguyệt làm trưởng trại, là dân miền Nam tập kết ở lại, thượng sĩ Thúy làm trực trại, Đ/u Hoa (nữ) còn gọi là Kim Hoa Bà Bà… Đ/u Soạn an ninh liên trại A,B,C. Tên này gian ác, người đã đưa trung tá  Trọng (không quân) và Đ/u Sanh đi và mất tích cho đến bây giờ; nghe nói bị đập chết (vợ anh Trọng đã qua Mỹ!).

Có những ngày đi lao động sâu vào chân núi cách trại B chừng 2Km thì gặp trại cùi. Chỉ có hội trường là xây, còn nhà mái bằng vầu (lồ ô), vách đất, nhìn những ngón tay bị rụng vẫn phải cuốc, tay được cột vào cán cuốc, phải  tự mưu sinh. Nhà nước một năm đến một lần, không thuốc men, sống chết mặc bây!

Lúc đầu ra Bắc, người dân Bắc bị tuyên truyền nên có thái độ hận thù, nhưng sau này tiếp xúc, họ có thái độ thân thiện hơn; đã có những trường hợp móc nối dân rồi trốn trại thành công…

Ở tù lưu đày, chính sách cải tạo của Bắc Việt đã đưa con người đến cái tận cùng của con người! Những cuộc thanh toán “Anten” hay là “292” là bọn cũng tù, nhưng làm tay sai cho trại! Nhớ mỗi chủ nhật tôi mang giày “Bote de Saut” (tôi còn giữ lúc ở Nam) vào là bọn 292 ngồi run! Không ai muốn làm điều này, vì họ hết thuốc trị! Muốn về sớm mà bước lên thân xác người khác; báo cáo lấy điểm, để được hưởng những đặc quyền của trại!

Đến khoảng tháng 10, 1980 được lệnh chuyển trại, mọi người biết sẽ về Nam… Lên xe Zin chuyển ra ga Phủ Lý, Hà Nam Ninh…

 Dọc theo đường ra Phủ Lý, dân đứng hai bên đường, họ đã biết trước, mọi người ném mùng, mền, chăn, chiếu cho họ… Tội nghiệp, họ rất nghèo! Chúng tôi cũng như nhà tù nhỏ trong một nhà tù lớn! Bây giờ họ hoan hô chúng tôi, không còn như những ngày mới ra Bắc!

Trên người ai cũng măc bộ đồ bông lính, có đóng dấu tên trại, lấy từ kho quân nhu! Rồi cũng hai người một cái còng chữ U lên xe lửa xuôi Nam.

 Trên xe lửa… Đến Huế, xe lửa dừng lại tại ga Huế; họ đậu xe lửa có xe lửa khác đậu che không cho dân thấy! Một số người bán hàng vào được, thấy mặc đồ lính biết tù phe ta họ ném bánh, kẹo… mà không lấy tiền. Tội lắm, họ cũng nghèo, đưa tiền không lấy!

 Đến ga Lăng Cô, tầu dừng lại chờ tầu phía Nam ra qua hầm đèo Hải Vân… Dân lại chạy ra cho quà, nhìn những người khổ mà rơi nước mắt, đưa tiền họ không nhận! Trong một xã hội thời bấy giờ mọi người đều bần cùng và bươn chải trong cuộc sống.

Qua hầm Hải Vân, đến ga Diêu Trì đoàn tầu dừng lại và họ chuyển 1 nửa tù đi trại Gia Trung, xong lại tiếp tục xuôi Nam. Đến ga Hàm Tân, đoàn tù được chuyển lên xe Zin vôTrại Z-30 D, Hàm Tân, Thuận Hải.

Trại Z-30D Hàm Tân, Thuận Hải cách Rừng Lá mà dân Bình Long định cư khoảng hơn 1 Km. Trại này do thiếu tá Đoàn Mạch làm trưởng trại; thiếu tá Phúc phó trại; trung úy Nhu làm tài vụ (sau lên đại tá, liên đới vụ Năm Cam nên bị cách chức).

Vô đến trại, tập họp, phân loại thành phần, vào phòng. Tôi và 80 người vào phòng 1, đội 37; đội 36 vào P.2. Đội 37 gọi là đội trọng điểm, còn nghỉ dưỡng quân, đi vòng vòng kiếm anten đập… như Long Cóc, tên trật tự gian ác nhất Z-30D, một trận chí tử! Đa số tù miền Nam “hiền” vì được thăm nuôi đầy đủ nên an phận!

Gặp lại xếp cũ, ông Paul Nur, bộ trưởng bộ PTST đầu tiên (sau mất ở trại này), Trung Tá Nguyễn Tùy (LLĐB), Thiếu Tá Nguyễn Cẩm (Lôi Hổ, em Đại Tá Nguyễn Bé ở trung tâm XDNT Vũng Tàu), gặp ở Pleiku trước 1975… từ trại Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh chuyển về, biết trước 30/04/1975, trái đất tròn ….

Một tuần lễ sau, xảy ra vụ khi ra cổng trại của đội tôi không chịu lấy nón ra; CA trại bắn xuống đất thị uy, mảnh đá văng trúng tay Lê Văn Bút chảy máu (L.V. Bút nguyên Trung tá Không Quân).

Chúng tôi biểu tình, một sự kiện chưa từng xảy ra trong các trại giam CS. Trại ra lệnh báo động, bộ đội bao chung quanh, có cả tăng! Nội bất xuất, ngoại bất nhập! Tr/T Vũ Xuân Thông (LĐ 81 BKD) cũng chung phòng; lúc đó mẹ anh Thông mất, chỉ xé miếng vải trắng lượm được quấn đầu!

 Ngày 30 tết âm lịch năm 1981, phân loại và đưa khoảng 30 người đi trại giam Chí Hòa. Vài ngày sau, từng người bị gọi lên thẩm vấn… tôi cũng bị gọi lên, gặp một người da ngâm đen, khoảng trên 50 tuổi, mặc đồ dân sự.. mời tôi ngồi nói chuyện rất lịch sự, thái độ của một cán bộ cao cấp (sau mới biết là Cục phó Cục Trại giam miền Nam). Sau hơn 3 giờ tâm tình (!), chính sách…., vòng vo tam quốc, không khai thác được gì, cho tôi về, mặt cũng  vui vẻ.

Tôi biết bàn tay sắt bọc nhung như thế nào, từng người bị đưa vào nhà kỷ luật!

Nhà kỷ luật ở Z- 30D nằm phía sau hội trường trại, đó là một cái nhà bình thường, mái bằng tole fibrociment, bên trong xây những chiếc hộp cũng bằng ciment; mỗi phòng có hai bệ đá để nằm, hai cái cùm gắn chặt dưới nền ciment; một cái thùng đạn đại liên 50 dùng để đi cầu hay tiểu tiện, mỗi sáng có tù trật tự mang đi đổ; ngoài Bắc cũng vậy, mẫu chung của cả nước!

Mỗi ngày, một lon guigoz nước (0,75 litre), cả tắm! Ăn, chén bằng sắt tráng men, chỉ được nửa chén, lẫn lộn sạn đá; họ bỏ nhiều muối cho thật mặn, phải đổ nước rồi gạn ra cho bớt mặn.

Khổ nhất là khát! Cái đói và cái khát song hành! Không có phân, nếu có thì cứng như phân dê! Vì có gì để ăn đâu, phải chịu thôi!

Một tháng được dẫn ra tắm một lần! Ai nấy đều đi không nổi, phải vịn vách mà đi. Da trắng bệch như xác chết! Hai chân tôi chuyển bại thành liệt!

Ba tháng sau, ai nấy đều gần chết, mắt tôi bắt đầu mờ vì sống trong tối… Sau đó, cả đám được đưa ra phòng tập thể, cũng là phòng kiên giam! Chung quanh phòng kiên giam, họ (CA) rào thêm cây cao hơn 4m, sau khi được nghỉ dưỡng một tuần cho lại sức, họ lại lôi vào nhốt tiếp!

Nhốt chung có anh Trần Hồng Văn, một Đảng viên CS kỳ cựu theo  CS từ năm 1945; dân có học nói được tiếng Pháp, dân trường Bưởi Hà Nội, làm báo chí, có tư tưởng xét lại, nói chuyện lôi cuốn; hiểu quá nhiều về CS (sau này ra tù, qua nước Anh, thỉnh thoảng có phone cho tôi, viết văn với bút hiệu Việt Thường).

Nhốt mãi rồi cũng thả, năm 1984 chúng tôi được chuyển ra phòng tập thể, cũng là phòng kiên giam, tuy hết cùm nhưng vẫn biệt lập với các đội khác, vẫn bị cấm thăm nuôi! Tội nghiêp Mẹ và chị tôi, tôi đã nhắn đừng thăm, bao giờ tôi nhắn mới thăm… Trời sinh Trời nuôi, đường ta, ta cứ đi….

Đến năm 1984, đội được cho đi lao động, là đội trọng điểm, ưu tiên đi trễ về sớm, tất cả các đội khác không được tiếp xúc! Rồi cũng trong đội có một tổ riêng biệt gồm những kẻ cứng đầu nhất, trong đó lại có tôi!

Nhớ những mùa thu hoạch, được vác bắp, đậu… trên đường về kho của đội, tôi cho hết những người dân nghèo đi “mót”! Tù đã khổ, gặp họ còn khổ hơn, họ là những dân bị đi Kinh tế mới, như thế được khen là lao động tốt…

Có một lần, trại phát động phong trào thi đua, Thành “Hí”, cán bộ quản giáo đội, tập họp yêu cầu ai đăng ký tên “vượt chỉ tiêu”, tôi giơ tay trước, CB/QG Thành nói:

– “Các anh thấy chưa, anh Nguyệt là người chây lười lao động của đội, nay đã trở thành đội viên gương mẫu!”.

Ai nấy đều không biết tôi giở trò gì? Đến chiều nghiệm thu, đội trưởng là Diệp Phiêu, một tên hán gian (Đ/u huấn luyện viên Trường SQ/TĐ ) báo cáo, tôi cuốc chỉ được 2m, thay vì chỉ tiêu ngày cuốc tới 10m, ngang 2m.

Quản giáo Thành nói tại sao? Thì tôi nói tôi chỉ cuốc phần đăng ký vượt chỉ tiêu thôi! Ăn đói, đi không nổi thì tội gì mà làm cho lắm vào! Lập biên bản, tôi không ký rồi cũng xong! Cũng vì đây là đội kỷ luật, tận cùng rồi nên chẳng sợ ai!……

 Rồi gặp Vũ Mộng Long, tức nhà văn Duyên Anh, quét dọn xung quanh phòng chúng tôi, bị bắt vì vụ Hồ Con Rùa! Lấm la lấm lét không dám nói chuyện, sợ vì đây là đội kỷ luật! Sau Duyên Anh qua Pháp, có lần qua Mỹ, bị đánh gần chết ở California Bolsa, trước nhà sách Tú Quỳnh, tội nghiệp! Thuở nhỏ tôi rất mê chuyện Duyên Anh… Vô tù mới biết được ai ra sao? Vàng thật hay vàng giả, nghĩ mà buồn!

Bông trạng nguyên trước sân phòng giam chuyển màu đỏ thắm, chúng tôi biết Tết sắp về.. Lại mười mấy cái Tết xa nhà! Ngoài kia, toàn trại được tập họp ở hội trường để nghe gọi tên về, còn tôi thì không bao giờ ra để nghe tên, từ Nam ra Bắc! Đang ngồi lim dim bên ống thuốc Lào, thì nghe Phú cán bộ giáo dục và Cung “Củ Đậu” gọi tên “Nguyệt, anh có tên về đấy!”. Tù lâu quá, tôi vẫn lạnh lùng, dửng dưng! Leo xuống theo ra hội trường, cả hội trường cười ồ lên …

 -“Nguyệt nó được về kìa!”.

Ký tên, lăn tay, lấy giấy ra trại do bộ Nội Vụ ký 06/01/1987. Về Phòng lấy đồ, tôi cho hết… chỉ mang cây đàn guitar được làm trong tù, cái võng lính mà nó đã theo tôi cả đời tù, cái bal ô, chỉ thế thôi. Đi ra cổng trại gặp cán bộ quản giáo tên Hiền, hắn ngoảnh mặt không thèm nhìn, vì hắn từng nói  “Anh chỉ có mọt gông!”. Lên cơ quan nhận lại những món đồ mà tôi tôi gởi lúc mới vào trại C-5 Sông Măng.

Một cửa sổ của căn phòng NHỎ được mở ra và căn phòng LỚN bị khép lại! Trong một xã hội mà những người tù của chế độ cũ, chúng tôi bi coi như là công dân hạng ba (3 đời), bạn bè quen biết e ngại không dám gần!

Ra khỏi trại, đầu óc trống rỗng, buồn hơn là vui! Vì phải xa những người bạn, tù lâu quá nên quen! Đi khỏi trại chừng hơn 1km, gặp Rừng Lá, nơi mà dân Bình Long xưa kia được đưa đi định cư, gặp vài người tôi nhớ mặt, họ nhìn biết tôi tù mới ra và có vẻ e ngại!

 Hỏi thăm người quen, người ta chỉ và tôi tìm được đó là thầy giáo Mọi Thuận, ba của chị Mọi Thị Lan và Mọi Phước. Thầy Thuận là người cùng thời Ba tôi, dạy trường Tiểu Học Thượng và cũng dạy tôi năm lớp 3. Gia đình rất mừng, tôi ở lại chơi và ăn nhậu một tuần, chồng chị Lan cũng Trung Úy Sư Đoàn 23, sau này cũng qua Mỹ ở Florida.

Ở nhà thầy Thuận được một tuần, gia đình cho tiền về Sàigòn, lên xe chủ xe cũng không lấy tiền; đến bến xe Miền Đông, đón xe cyclo đạp về Quận 8, Chánh Hưng, nhà chị tôi, gặp người đạp cyclo đạp, phe ta cũng không lấy tiền, nói chuyện mới biết anh ấy là Đại Úy Sư Đoàn 7, đưa tiền nói cách mấy cũng không nhận! Về Saigon, ở nhà bà chị, sửa sang lại dung nhan, 1 tuần sau mới về Bình Long.

Lên xe về Bình Long, nhìn dọc theo đường, mọi thứ đều xa lạ! Trên xe mọi người im lặng? Không khí nặng nề!!! Không còn như ngày nào, bươn chải bon chen trong cuộc sống! Con người tôi cảm thấy lạc lõng giữa dòng đời xuôi ngược bởi cuộc đổi đời!

 Về nhà, Mẹ tôi ôm tôi khóc mà sao tôi vẫn dửng dưng! Có lẽ mười mấy năm tù, con người tôi đã xuống cái tận cùng của địa ngục, chẳng còn nước mắt nào để mà khóc! Tim tôi như tan vỡ từng mảnh!

Thế rồi ngày qua tháng tới, sống trong căn nhà mái tôn lỗ chỗ miểng pháo từ những năm1972! Làm ruộng, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất! Cũng không yên thân, lâu lâu gọi trình diện, hết xã tới huyện; còn riêng tôi phải trình diện công an tỉnh Bình Dương, (lúc đó BL thuộc BD).

Rồi tôi cũng lấy vợ, tôi cũng cám ơn người vợ đầu tiên của tôi, người đủ can đảm lấy tôi, bất chấp tất cả vì tôi là công dân hạng 3; lo cho tôi tất cả! Vợ tôi sinh được đứa con gái, ba tháng sau, Mẹ tôi mất trên tay tôi! Lần đầu tôi khóc sau ngày 30 tháng 4 năm 1975!

Khi có chương trình H.O, tại Bình Long, Mục sư Điểu Huynh không đi, ở lại phục vụ các tín đồ người dân tộc S’tiêng BL. Tôi cùng anh tôi được gọi dầu tiên, nhưng vì không biết thủ tục “đầu tiên”(?), rồi cũng được gọi phỏng vấn và cho đi rất dễ dàng.

Gặp người Mỹ già phỏng vấn hỏi  tôi:

“Làm việc hơn một năm, tại sao bị giam lâu vậy?”.

Tôi trả lời ngắn gọn:

“Ông nên hỏi Đảng và Nhà Nước!”.

Tôi biết hầu hết những người Mỹ phỏng vấn đều biết tiếng VN và bà thông dịch trả lời:

“Ông Nguyệt làm trong cơ quan CIA trá hình”.

 Người phỏng vấn cười và tuyên bố tôi được chấp thuận đi Mỹ; gia đình tôi đi  H.O 19. Giã từ gia đình, bạn bè ngày 24 tháng 8/1993, lên Thai Air Way, máy bay taxi ra pist rồi tống ga…

Máy bay cao dần, những căn nhà của Saigon nhỏ dần qua khung cửa máy bay; những đám mây lặng lẽ trôi, bỗng những giọt nước lăn dài trên má!

Tôi khóc, không phải vì được đi Mỹ mà vì phải bỏ lại quê hương nơi mà tôi đã sinh ra và lớn lên.



Điểu Du Nguyệt.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/May/2016 lúc 10:19am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 25/May/2016 lúc 7:02am

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 136 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.383 seconds.