![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 161 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Ba cái cây- Ba cái cây trên một ngọn đồi trong rừng cùng tranh luận với nhau về những hi vọng và giấc mơ của chúng...![]() Cái cây đầu tiên nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng vàng bạc châu báu. Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng với nghệ thuật chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Sau đó cái cây thứ hai nói: “Còn tôi lại ước có ngày sẽ trở thành một con tàu đồ sộ. Tôi sẽ đưa vua và hoàng hậu đi đến khắp mọi nơi trên thế giới. Mọi người sẽ cảm thấy được an toàn bởi con tàu to lớn và vững chãi là tôi đây”. Cuối cùng cái cây thứ ba nói: “Tôi muốn lớn lên trở thành cái cây cao nhất và thẳng nhất trong khu rừng. Mọi người sẽ nhìn thấy tôi trên đỉnh đồi và sẽ phải ngưỡng mộ những cành cây của tôi, tưởng tượng về thiên đường và chúa. Tôi sẽ trở thành cái cây vĩ đại nhất mọi thời đại và mọi người sẽ luôn luôn nhớ đến tôi”. Một vài năm sau buổi cầu nguyện, những giấc mơ của chúng tưởng chừng như có thể thành sự thật, một nhóm người đi lấy gỗ đến khu rừng đó. Khi một người đến cái cây đầu tiên, anh ta nói, “Nhìn cái cây này có vẻ to khoẻ này, tôi nghĩ có thể bán gỗ cho một người thợ mộc”… và anh ta bắt đầu hạ nó xuống. Cái cây rất vui, bởi vì nó biết ngượi thợ mộc sẽ làm nó thành một cái tủ vàng. Đến cái cây thứ hai người lấy gỗ nói “Nhìn cái cây này nom cũng khoẻ đấy chứ, tôi sẽ bán nó cho một xưởng đóng tàu”. Cái cây thứ hai cũng hạnh phúc không kém bởi vì nó biết nó đang trên đường đến với giấc mơ của nó - một con tàu đồ sộ. Và khi người lấy gỗ đến cái cây thứ ba, cái cây đã rất sợ hãi bởi vì nó biết rằng nếu họ chặt nó xuống thì giấc mơ của nó sẽ không bao giờ thành hiện thực. Một trong những người lấy gỗ nói “Tôi không cần làm bất cứ cái gì đặc biệt nên tôi sẽ lấy cái cây này” và anh ta chặt cái cây xuống. Khi cái cây đầu tiên đến chỗ người thợ mộc, nó được làm thành một cái thùng cho những con vật nuôi ăn và để trong chuồng trâu, bò chứa đầy cỏ khô. Đây hoàn toàn không phải là những gì mà nó đã cầu nguyện. Cái cây thứ hai thì được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền đánh cá nhỏ. Giấc mơ của nó là trở thành một con tàu to lớn, đồ sộ và chở những ông vua đến đây cũng kết thúc. Còn cái cây thứ ba được chặt ra thành từng khúc lớn và sống một mình trong bóng tối. Năm tháng qua đi nhưng những cái cây thì không thể quên được giấc mơ của chúng. Sau đó đến một ngày, có một đôi vợ chồng trẻ đến chuồng ngựa và người phụ nữ đó đã sinh con, họ đặt đứa bé trong một cái máng cỏ khô được làm từ cái cây thứ nhất. Người đàn ông ước rằng anh ta có thể làm một cái giường cũi cho đứa trẻ và cái máng này đã làm điều đó. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của cơ hội này và nó biết rằng nó đang nâng niu một sinh linh nhỏ bé - một sinh linh còn quý giá hơn báu vật. Mấy năm sau, cũng có một nhóm người đàn ông đến cái thuyền đánh cá được làm từ cái cây thứ hai. Một trong số họ thấy mệt và muốn đi ngủ. Trong khi họ ra khơi thì có một cơn bão lớn nổi lên, cái cây không nghĩ nó đủ mạnh để bảo vệ cho những người đàn ông kia được an toàn. Trong cơn bão tố, mọi người sợ hãi đánh thức người đàn ông đang ngủ dậy, anh ta liền đứng lên và hô to “Yên lặng” tức khắc cơn bão ngừng hẳn. Lúc đó, cái cây mới biết rằng nó đang chở một vị vua oai nghiêm trên cả những ông vua. Cuối cùng, một người nào đó đã đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được mang qua những con phố trong khi những người khác thì đang giễu cợt đi theo người mang nó. Một người đàn ông bị đóng đinh lên cái cây như một sự sám hối và được đặt ở trên cao nhất của đỉnh đồi. Vào ngày chủ nhật, cái cây cảm thấy rõ ràng rằng nó đủ khoẻ để đứng lên từ chỗ cao nhất của ngọn đồi cùng với Chúa bời vì Chúa Jesus đã tự đóng đinh vào người trên cái cây đó để sám hối cho nhân loại. Ý nghĩa của câu chuyện này là khi những thứ bạn mong ước, cầu nguyện dường như chưa đến theo đúng như cách bạn nghĩ thì cũng đừng vội thất vọng và buông xuôi. Nếu biết tin tưởng và theo đuổi niềm mơ ước của mình thì chúa sẽ ban tặng cho bạn những món quà còn giá trị hơn thế. Đừng vội từ bỏ ước mơ của mình khi bạn chưa trải qua sóng gió, bởi khi vượt qua được những khó khăn ấy, giá trị bạn có được còn hơn cả những ước mơ ban đầu. Minh Anh Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Apr/2010 lúc 2:13am |
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Chuyện tình một loài hoa
Tác giả: Dương Văn Hoàn
Chuyện kể rằng có một đám mây, hay buồn cứ cô đơn, lang thang một mình trên bầu trời bao la. Vào một ngày mây gặp Hoa, mây cảm nhận được vẻ đẹp của hoa và đem lòng yêu hoa. Nhưng bấy giờ lưỡng lự vì sự gặp gỡ tình cờ của mây nên hoa đã từ chối tình cảm của mây. Mây rất buồn nhưng vẫn âm thầm yêu hoa. Hàng ngày vào buổi sáng sớm mây thường tưới cho hoa những giọt xương long lanh làm cho hoa tươi đẹp.Vào những ngày hè nóng bức Mây đi tìm cho hoa những cơn mưa xoa đi cái héo hắt của hoa. Ngày qua ngày mây cứ làm như thế, nhưng vẫn không có được chút tình cảm của hoa. Mây cứ chạy qua chạy lại đi tìm những cơn mưa về cho hoa, tuy rằng rất mệt mỏi nhưng vì yêu hoa nên mây sẽ làm tất cả. Mây cứ đợi chờ và hy vọng một ngày kia sẽ có được tình cảm của hoa. Nhưng hoa chỉ coi mây là một người anh trai tốt mà thôi. Thế rồi mùa hè qua mùa đông đến, hoa không cần những cơn mưa của mây nữa. Những cơn mưa của mây làm cho hoa lạnh cóng, hoa không cần mây nữa. Hoa muốn mây đi tìm núi hay sông để quên hoa đi. Nhưng vì yêu hoa mây không làm được điều đó. Mây quyết một lòng yêu hoa cho đến muôn đời. nhưng vào ngày 13/12 cuối năm tiết trời lạnh giá hoa nói với mây rằng: xương và mưa của mây làm cho hoa lạnh giá và hoa đã yêu đất rồi. Hoa không thể đến với mây được, chỉ có đất mới đem cho hoa sự sống. Mây hãy để cho hoa và đất hạnh phúc đừng làm phiền hoa nữa. Bây giờ làm anh trai cũng không được đâu mây, như thế đất sẽ hiểu lầm và hạnh phúc giữa hoa và đất sẽ lung lay. Hoa nói xong mây lại tiếp lời: Nhưng hình như trước đây hoa chưa từng nói với mây rằng hoa yêu đất, hoa chỉ nói là bạn thôi cơ mà. Thế là hoa lại tiếp lời: Nhưng bây giờ hoa mới nhận ra điều đó hoa yêu đất vì đất đã đợi hoa 4 năm rồi. Thế rồi mây phải lặng lẽ rời xa hoa. Nhưng mây vẫn âm thầm yêu hoa dù ở đâu mây cũng hướng về hoa. Hàng ngày mây rất nhớ hoa, hoàng hôn đến mây vẫn nấp sau ngọn núi để nhìn hoa xa xa, năm này qua năm khác. Thế rồi có một năm hạn hán kéo đến đất khô cằn không có nước để nuôi hoa, hoa dần dần héo tàn. Mây thấy hoa thương tình nhưng vì hạn hán khắp nơi, mây không tìm thấy mưa liền hóa thân thành cơn mưa để tưới mát cho hoa. Mây dần dần tan biến, vì cơn mưa đó hoa đã sống trở lại và tươi như những ngày xuân. Hoa nhận ra tình yêu của mây giành cho hoa thật vĩ đại, đã hy sinh bản thân mình để đem lại sự sống cho hoa. Nhưng đã quá muộn rồi mây đã biến mất khỏi trần gian. Hoa đã hối hận vì đã từ chối tình cảm của mây, hoa tuy sống trở lại nhưng trái tim đang rỉ máu. Máu của cô đã nhuộn toàn cánh hoa màu đỏ, trái tim cô lúc này lạnh giá nên thân hình mọc gai nhọn. Và người ta gọi loài hoa có cánh màu đỏ của máu, thân lai có gai kia là hoa hồng. Vì thế hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, tình yêu mà mây đã hi sinh để hoa có sự sống. tình yêu của Hoa trong những lần hối hận. Thế rồi hoa hồng tuy đẹp nhưng nếu ai không biết cách hái sẽ bị gai đâm chảy máu và rất đau. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Apr/2010 lúc 5:17am |
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Hồng nhan
Tác giả: suutam
Thật ra là để ngắm cô bán vé số và trêu ghẹo vài câu. Quán có mười bàn thì hầu như cả mười bàn đều có người mua số. Ông Tư Búa lựa một hồi lâu mà chỉ mua một tấm, miệng cười hề hề méo xẹo: - Mỗi bữa mua một tấm được rồi, bi nhiêu đó mà vô độc đắc chắc là đủ cưới em rồi hén! Một tấm vé số này biết đâu bằng tiền tui mài dao hai chục năm. Mà cô em tên gì? Hổm rày quên hỏi. Cô gái liếc nhẹ ông một cái: - Trúng năm tấm tui mới ưng, mua thêm vài tấm nữa đi rồi tui nói tên cho biết. Ông Tư thấy cột sống mình như có một luồng điện chạy rần rần trước cái liếc mắt sắc như dao cạo, rất đơn giản bởi đã hơn năm mươi tuổi rồi mà ông chưa có lấy một lần làm chú rể. Ông móc hết các túi của cái quần soọc gom được mười một ngàn, chừa một ngàn để trả ly càphê đen còn bi nhiêu mua hết, ông phùng mang: - Chơi xả láng, sáng có giang máy cày dìa luôn. Cô tên gì nói tui nghe đi! Cô lẹ làng đưa ông thêm bốn tấm vé số nữa: - Thuyền! Điêu Thuyền đó nghen! Tui đang chờ Lữ Ôn Hầu mà chưa thấy ổng đâu. Cả quán cà phê cười rần rần trước câu đùa có duyên (hay vô duyên) của cô. Hình như người đẹp nói câu nào cũng có duyên. Long ngồi một mình lặng lẽ quan sát cô gái. Đẹp như vậy chắc thiếu gì dân nhà giàu đeo, hay ít nhất cũng có thể xin được những chỗ làm tốt thì tại sao đi bán vé số chớ. Hổng lẽ cổ không biết chữ như mình? Hổng biết chữ nhưng đẹp vậy thì cũng thiếu gì chỗ nhận? Long nhìn kỹ và nhận thấy cô gái này có một điều gì đó rất bí ẩn, đằng sau ánh mắt lẳng lơ giả tạo kia như cất giấu một nỗi buồn. Người trải qua bao nhiêu nỗi đau trong cuộc sống như Long thì nỗi buồn của người khác anh cảm thấy rất rõ dù người ta cố tình che giấu nó đi. Cô nhìn quanh quất rồi đi về phía bàn Long, chìa xấp vé số ra, giọng ngọt như mía lùi: - Anh Hai mua giùm em vài tấm, chiều nay trúng số lấy rổ đựng tiền, chạy liền ra chợ, bợ cái tivi, dìa coi cho đã. Cô nói một hơi có vần có điệu nhưng không hiểu sao Long chẳng có một chút cảm giác nào. Anh chỉ thấy tội nghiệp thật lòng cô gái trẻ kia, sao mà phải sống trong một cái vỏ bọc như vậy chớ. Anh lắc đầu nhè nhẹ: - Tui không bao giờ kiếm tiền bằng cách rủi may. Một chút bối rối hiện lên khuôn mặt, cô gái lặng lẽ bước ra khỏi quán, dáng đi sao mà trông khổ đến lạ. Khi không Long lại xao lòng với tấm lưng thon thả. Anh tự cười mình: Điên thiệt! Không tới mầy đâu mà trông, người ta đẹp như vậy thiếu gì người đeo. Quên đi! Cái thằng bốc vác mà mong gì! Anh cố quên nhưng không biết sao chẳng thể nào quên được, bóng dáng ấy cứ bám lấy anh, dai dẳng đến đáng ghét. Anh vác gạo hùng hục cho quên, mệt quá thì quên mà hễ nghỉ uống nước một chút thì nhớ, tối về nhà nằm trằn trọc không ngủ được lại càng nhớ hơn. Từ hôm anh từ chối mua số, cô không bao giờ mời anh nữa. Cô càng nói chuyện bạo hơn làm cho mấy ông hảo ngọt chết mê chết mệt và vé số cô bán càng chạy hơn, có ngày cô bán hơn ba trăm vé. Trong xóm xảy ra không biết bao nhiêu vụ vợ chồng lục đục chửi bới, thậm chí đánh nhau tơi tả mà nguyên nhân cốt lõi theo mấy bà vợ là đều do mấy tấm vé số của cô. Một bữa, bà Hai thu mua phế liệu bị chồng đánh chạy cồng cồng ra giữa chợ chửi rùm lên: - Trời đất ơi! Bà con ơi! Nó mê con đĩ đó, tui nói mà nó đánh tui. Bi nhiêu tiền đem mua vé số hết! Sao hông mua luôn "cái đó" đi! Ông Hai chạy theo lôi bà về nhà. Bà cố vùng vẫy, cào cấu nhưng cuối cùng cũng phải chịu phần vì ông mạnh quá, phần vì bà con cả chợ bu lại, như coi hát Sơn Đông. Mắc cỡ. Nhiều ánh mắt nhìn bà thông cảm, cả cái chợ này hình như rất nhiều người bị chồng hạ cẳng tay, thượng cẳng chân vì cô bán vé số. Họ xúm lại bàn bạc, rì rầm chửi rủa cô thậm tệ, coi cô chính là thủ phạm làm cho gia đình họ xào xáo không yên. Lẽ thường tình hễ tức nước là vỡ bờ. Một buổi chiều đi vác gạo ngoài bến về, Long thấy rất đông người bu đen bu đỏ. Nghe mấy bà đàn bà chửi toàn những lời tục tĩu, trong đầu Long lờ mờ đoán ra điều gì đó bất ổn đến với cô. Anh vẹt đám đông bước vào và một cảnh hãi hùng đập vào mắt anh. Bốn năm người đàn bà đang túm lấy Thuyền, miệng chửi tay đánh. Bà Hai là người hung hăng nhất: - Đánh cho mầy đi khỏi xứ này luôn! Mầy là con quỷ chớ con người gì! Bữa nay, tụi tao cho mầy biết tay! Nói xong bà cầm cây kéo chụp đầu cô cắt lia lịa, từng lọn tóc bay lả tả xuống đất. Mái tóc dài tha thướt của cô nhanh chóng xơ xác đến tội nghiệp. Mấy bà khác cũng xúm lại xé áo xé quần cô nghe rẹt rẹt. Thuyền ngồi dưới đất cam chịu, không cự nự, đôi mắt ráo hoảnh không có một giọt nước mắt nào. Gương mặt vô hồn. Nhói lòng, Long vội bước tới lôi mấy bà kia ra, ẵm Thuyền chạy ra khỏi đám đông hỗn loạn. Anh nghe họ chửi với theo: - Mầy giỏi thì cưới nó đi cho tụi tao yên! Cái thứ đó cưới nó, mầy cũng khổ thôi chớ chẳng sướng ích gì đâu. Ra khỏi chợ, anh bỏ cô xuống, cởi áo mình choàng vô cho cô mặc. Lúc nầy, Long mới thấy hai giọt nước mắt trong veo lặng lẽ chảy dài trên má Thuyền. Anh nói nhỏ, giọng run run vì xúc động: - Sao cô ra nông nỗi nầy chớ, tui cũng không hiểu tại sao cô phải sống theo cách như vậy nữa. Có chuyện gì cô nói thử coi tui có giúp được gì không. Cô ở đâu tới đây vậy? Anh hỏi một hơi mà cô vẫn không trả lời câu nào. Hai người ngồi im lặng trên bờ đê nhìn con nước ròng hồi lâu. Cuối cùng cô đứng dậy: - Tui dìa đây! Cảm ơn anh! Cô lê từng bước chậm chạp trên con đê nhỏ, anh nhìn theo cái bóng nhỏ vàng vọt, xiêu vẹo in trên đê dưới những tia nắng chiều cuối cùng yếu ớt. Tự dưng anh thấy mắt mình cay cay. Ngay ngày hôm sau, xóm Cải Già lại nhanh chóng loan đi một tin khủng khiếp: Thuyền không còn đi bán vé số nữa mà đã đi bán bia ôm ở quán Điểm Hẹn của bà Năm Đau Khổ. Cái quán này Long chưa bao giờ ghé nhưng nghe thiên hạ nói thôi thì cũng đủ biết, ai vô đó bước ra bao giờ cũng rất "đau khổ" vì may mắn lắm là còn lại bộ đồ. Cuối cùng anh cũng gặp Thuyền ngoài chợ khi cô cố tình cho cả chợ này biết hình ảnh mới của mình. Mái tóc dài mới bị "sởn" xơ xác ngày hôm qua biến thành một kiểu tóc tém rất hợp thời trang với màu vàng óng ánh. Bộ bà ba bị xé tả tơi hôm qua nhanh chóng thay thế bằng một cái áo thun hai dây treo hờ hững trên đôi bờ vai, cổ áo rộng đến nỗi lồ lộ cả một phần ngực và cái quần jean trễ cạp khoe nguyên một khoảng bụng trắng nõn nà. Đi bên cạnh Thuyền có thêm hai thằng ma cô mình mẩy xăm vằn vện và tóc tai bờm xờm với bộ mặt lạnh tanh. Cô đi từ đầu chợ đến cuối chợ, ghé từng nhà mấy bà đã đánh cô hôm qua nhưng họ trốn mất biệt. Long gặp cô trong quán càphê, nhưng anh lặng yên vì cũng không biết nói gì. Thuyền kêu cái đen uống và giơ tay ngoắc thằng nhỏ bán vé số lại: - Bữa nay mầy còn bi nhiêu chị mua hết! Năm chục vé phải hôn? Một trăm nè! Từ đây dìa sau, mầy không còn một đối thủ cạnh tranh lợi hại nữa đâu. Tao bây giờ bán cái khác chớ không bán vé số nữa. Nghe cô nói mà Long thấy nỗi chua chát dâng lên ngập lòng. Làm sao đến nông nỗi như vầy hả Thuyền! Phải chi tui có đủ điều kiện để giúp cô vượt qua những khó khăn trong cuộc sống này. Từ đó đêm nào anh cũng thập thò ở quán bia của bà Năm Đau Khổ để chờ cô về. Cứ đều đặn khoảng mười một giờ là cô rời quán lội bộ về căn nhà nhỏ thuê ở cuối chợ. Cô đi trước, anh lặng lẽ đi sau, khi cô dừng lại ói thì có anh bên cạnh vỗ lưng, đưa khăn cho cô lau miệng. Mấy hôm đầu cô còn cự nự không chịu nhưng dần dần việc này trở nên quen thuộc với cô và nói thiệt nhằm bữa mà không có anh kè về chắc cô đã nằm xỉn ngoài đê hay đâm đầu xuống kinh rồi cũng nên. Anh thấy cô khóc nhiều hơn trong những cơn say oằn oại, có lẽ khi say rượu người ta không thể nào tự dối lòng mình được. Một bữa thấy cô uống nhiều rượu say mèm nên anh không dám bỏ cô lại một mình trong căn nhà rách nát, gió thổi vào lồng lộng, lạnh thấu xương. Anh sợ cô trúng gió. Cô nằm trên vạt chúi đầu xuống mà ói ồ ồ, xong rồi khóc như con nít: - Má ơi! Con hư rồi! Cuộc đời con coi như bỏ đi rồi. Bin ơi! Con biết kêu má chưa? Chừng nào má mới gặp lại con đây. Trời ơi! Con tui còn nhỏ xíu mà! Anh ngồi kế bên tay cầm ca nước đưa cho cô xúc miệng: - Cô ráng ói ra hết đi! Chút khoẻ lại hà! Uống chi nhiều vậy hông biết! Sau khi ói hết, Thuyền tỉnh táo trở lại: - Anh dìa đi! ở đây làm gì mang tiếng lắm! Tui nói là nói cho anh chớ thân tui có còn cái gì đâu mà sợ mang tiếng. Anh lúng túng, nửa muốn về nửa không. Cuối cùng anh quyết định: - Tui không sợ mang tiếng! Mà thân tui cũng vậy thôi, cái thằng không cha không mẹ, dốt đặc cán cuốc như tui thì sợ mang tiếng gì chớ! Với lại, tui muốn nói chuyện với cô. Thuyền ngồi dựa vào vách nhìn anh buồn buồn, có lẽ cô đã lờ mờ hiểu ra những điều anh muốn nói. Đâu có ai thật lòng lo lắng cho mình như anh đâu, cô ngước lên: - Anh quyết không dìa thì thôi! Nhưng mà anh có đủ can đảm ngồi nghe tui kể chuyện đời tui không. Nếu chịu nghe hết thì anh muốn nói gì thì nói. Long gật đầu cái rụp: - Tui nghe! Nghe tới sáng cũng được! Dù chuyện cô như thế nào đi nữa tui vẫn nói những suy nghĩ của mình bao lâu nay. Cô kể đi! Suốt đêm hôm đó Thuyền kể cho Long nghe về cuộc đời đau khổ của mình. Giọng cô chầm chậm, buồn thiệt buồn. Quê cô ở tận đất mũi Cà Mau. Từ đây tới đó ít gì cũng hơn ba trăm cây số. Cô thương một người thật lòng. Hai người quen nhau được gần hai năm, tình cảm tưởng là rất sâu đậm. Cô là một cô gái nghèo ở nhà phụ má bán cái tiệm tạp hoá nhỏ. Một lần hắn ghé vào mua một gói thuốc, thấy cô bán hàng xinh đẹp nên từ đó về sau lui tới thường xuyên. Hắn giúp đỡ gia đình cô nhiều nên chiếm được cảm tình của má cô và cô cũng rất cảm động. Tình yêu của một đứa con gái mới lớn rất ngây thơ và trong sáng, cô thường mơ ước một ngày mình bước lên xe hoa về nhà người chồng mình thương yêu hết mực. Kết quả của sự yêu đương bồng bột đó là một giọt máu đã tượng hình trong bụng Thuyền. Sau khi nghe cô báo tin này và nói ý định muốn làm đám cưới của mình thì hắn trốn biệt. Sau nhiều lần chống xuồng đi dò la, cô mới tìm được đến nhà hắn thì một sự trùng hợp ngẫu nhiên rất đau lòng lại xảy ra: Bữa đó là ngày đám cưới của hắn. Sự đau khổ và tức giận dâng lên đến tột cùng, cô ra chợ mua một cái ca nhựa và một can axít. Nhưng nghĩ tới nghĩ lui cô thấy mình không thể quá hèn hạ và độc ác, người ta phụ mình thì có trời đất phạt họ, con mình đẻ ra thì mình nuôi. Cô đổi ca axít bằng một ca nước mắm và đi đến nhà hắn. Đám cưới đông vui, chẳng ai để ý đến cô gái lạ. Cô bước đến trước mặt cô dâu và chú rể chậm chạp từng tiếng: - Anh có con với tui rồi mà còn cưới vợ, bữa nay tui bắt anh phải trả sự công bằng lại cho tui. Nói xong cô giơ ca nước mắm lên, khách khứa chạy tán loạn vì họ tưởng đó là ca axít. Cô tạt mạnh vào người hắn và bỏ chạy một hơi ra chiếc xuồng ba lá ngoài bến, mở dây chống vội ra sông cái về nhà mà nước mắt ròng ròng. Cô vừa chống xuồng vừa lẩm bẩm một mình trong cơn nấc nghẹn: - Anh bỏ tui, tui cũng không cần anh nữa, chắc cũng có người giống như tui rồi nên người ta mới nói: Ví dầu tình có dở dang/ mình ên, thiếp chống đò ngang thiếp dìa. Bây giờ tui cũng y chang như vậy, tui cũng một mình chống xuồng dìa nhà nè! Trời ơi! Cô khóc muốn hết nước mắt, nhiều lúc muốn chết cho rồi nhưng nhìn cái bụng đội áo ngày càng cao, cô không đành lòng. Đứa nhỏ trong bụng cô có tội tình gì chớ? Dù sao đi nữa mình cũng phải sinh nó ra và nuôi cho nó thành người. Cả xóm ai cũng nhìn cô với ánh mắt ghẻ lạnh. Không chồng mà có mang thì không gì nhục bằng. Họ dạy đám con nít mấy câu chọc cô khi cô mang cái bụng bầu ra đường: "Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian chuyện thường". Sự chịu đựng cũng có giới hạn, khi thằng Bin được bốn tháng thì cô để con lại cho má nuôi, bỏ xứ đi nơi khác làm để kiếm tiền gởi về nhà tiếp má nuôi thằng Bin. Đã hơn năm rồi cô chưa gặp lại con, cô nhớ nó lắm, tối ngủ khóc hoài. Cô mong muốn một ngày về bên con mà không còn phải ngại ngùng. Long ngồi lặng lẽ nghe cô kể đến khi gà đã gáy vang trong xóm. Anh ôm lấy cô, vỗ về: - Dù sao cô cũng còn may mắn hơn tui, còn có con, có má. Còn tui là một đứa con nít bị người ta quăng bỏ bên đầu cầu. Đến bi giờ ba má tui mặt mũi ra sao tui còn hông biết. Nếu cô không ngại, tui muốn mình làm ba thằng nhỏ, tui với cô cùng dìa một lượt cho nó có ba có má đầy đủ thì cô không còn sợ ai cười nữa. Tui tính vậy cô thấy sao? Nếu được, hừng đông mình đi liền. Thuyền lại khóc, nhưng có lẽ bây giờ là những giọt nước mắt hạnh phúc. Cô nhìn anh không nói nên lời. Đúng là ông trời còn thương cô. Anh chạy về nhà gom ít quần áo và mớ tiền dành dụm mấy năm qua rồi trở lại giúp cô thu dọn đồ đạc. Cả hai lặng lẽ rời khỏi xóm Cải Già khi trời còn chưa sáng, sương đêm lạnh buốt đôi vai nhưng trong lòng họ như có một ngọn lửa ấm áp được thắp lên... Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Apr/2010 lúc 5:25am |
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Tấm gương vượt khó
Tác giả: DuyLuan
... Ngày đó ,nhà quá nghèo , nó lại không may vuớng vào một tai nạn , lại phải phụ giúp bố mẹ nuôi 3 em nhỏ ..Đến 10 tuổi , nó quyết định buớc vào lớp 1 . .Cô giáo nhìn đôi bàn tay và nói rằng :tay con như thế sao mà học (không có bàn tay).Nó vừa chạy vừa khóc , truớc mặt nó giờ đây chỉ là bải cỏ xanh vô tận,1 núi rừng trùng điệp , 1 biển trời mênh mông,...bao uớc mơ đã tan biến từ nói Cô giáo !!.. Nó quay về lại nghề kéo xe chở khách , hàng ngày nó trông chờ 1 chuyến , khách đến nó tròng dây thừng vào nguời rồi chạy kéo khách đến nơi khách cần . Thật khắc nghiệt , lúc lên dốc đã quá mệt nhưng lúc xuống dốc thì quả là 1 cực hình , nó phải quay trở đầu xe và đi giật lùi mới kiềm hãm đuợc tốc độ .... ... Nhưng nó vẫn cố gắng viết ,nó lén đứng ngoài cửa lớp ,cô giáo chỉ các bạn viết chữ naò,.. nó chạy ra ngoài kẹp 1 cục đá vào ngón chân và viết ..cứ thế .. toàn bộ các sân truớc của mỗi nhà trong làng đều có chữ của nó. Mỗi 1 từ đuợc viết ra là mỗi giọt nuớc mắt lăn trên dài trên má ..Nó cần phải nổ lực nhiều hơn nữa vì chữ còn quá lớn ..làm cách nào đây ?Thấy nó ngoan , hiếu học , cô bác trong làng cùng trợ giúp cho nó 1 cây viết bằng tre , không phụ lòng mọi nguời ,chữ của nó dần dần nhỏ lại và rất đẹp .... Cô giáo buớc vào nhà và xin phép cho nó đuợc học thử .. Thật vui mừng ! nó chạy khoe hết làng xóm ngày mai nó đuợc đi học và tất nhiên nó không quên xóa các chữ bằng gạch đã viết mỗi sân truớc mỗi nhà ... ... Nó học rất giỏi , đến lớp 2 thì xuất hiện 1 môn quá khó so với khả năng của nó , môn Thủ công . Làm sao mà cầm kéo cắt đuợc ! Vẫn trong tình thuơng của xóm làng , nó có đuợc 1 cây kéo khổng lồ , nó kẹp vào chân cắt thử , cắt đuợc 1 đuờng thẳng , nuớc mắt nó cũng rơi theo , nó mừng quá !..Nhưng than ôi ! khi mở cây kéo ra để cắt 1 đuờng mới cũng quá khó !! vì kéo bị rỉ sét , kẹt cứng không mở đuợc ..Cuối cùng nó cũng vuợt qua , cắt đuợc nhiều chữa , hình rất đẹp , kể cả cắt đuờng cong , cắt chữ O ... ... Cả hội truờng chìm trong nỗi xúc động vô bờ , ai không khóc đuợc thì cũng phải rưng rưng nuớc mắt.... Thầy đứng giữa Hội truờng và đưa hai tay của mình lên : Các bạn cùng xem nha ! Thầy ngồi xuống loay hoay với chiếc kéo trong chân ... sản phẩm là những từ ngữ và 1 con chim bồ câu đuợc dán trên bảng .... ... Giọng Thầy vẫn đều đều vang vọng bên tai gần 1000 sinh viên Sư Phạm sắp tốt nghiệp . Đó là Thầy Nguyễn Ngọc Ký , một tấm guơng Nhà giáo ưu tú của đất Việt ..Thật đáng kính phục . Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Apr/2010 lúc 12:53pm |
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 24162 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Apr/2010 lúc 9:44pm |
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
TẤM VẠC GIƯỜNG
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Apr/2010 lúc 4:12pm |
|||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
NGƯỜI Ở LẠI BÊN KIA
![]() Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh còn phải đeo lủng lẳng chiếc máy quay phim và cái caméra trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ Báo Chí, hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tuả vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đã ghi lại biết bao nhiêu hình ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường của đất nước. Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ : " Không biết sống chết lúc nào ". Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Ðoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh người sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước , đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng sâm sấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập rình chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào lòng người chiến sĩ. . . * * * Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc những cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần mò ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chuà nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn. Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo bụi cây trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, và chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề. Hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết. Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh giống như mùi máu. Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra bình dị mỗi ngày dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng. Anh lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chuà, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sốùng lưng người lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận. " Không phải lúc nào ta cũng thắng ", anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua thì bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất còn lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm rầm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hãi, khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào. * * * Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Ðốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín mùi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam. Gia đình anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự. Cả một tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy. Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào hình ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau vì tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngã xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy loà nhoà hình ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh. Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đã nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi . Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nhìn thấy sự hi sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến.Những hình ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, để tim anh vẫn thắt lại khi hôm nào bất chợt nhìn thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai. * * * Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chuà chiền cổ kính, lại vội vã bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nhìn hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương mình sao khốn khổ đến thế. Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ. Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đã phải ngắm nhìn chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay dấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền ruả sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là hình ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự an bình cho những đứa con. Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn lại khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn đạn vô tình. Tình cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối phương. Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đã bao phen đối mặt với tử thần. Anh còn bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp Mười. May là Thượng đế đã che chở anh, đã cho anh trở về với một xác thân lành lặn. Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, lòng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh. Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã bị quên lãng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm những cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ , sợ hãi cả những bước chân của chính mình. * * * Sau hai mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại thì thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đã khuất. Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo giõi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đưá trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn. Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái mình cá vẩy óng ánh màu xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí. Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ hotel và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm lòng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng mình như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương. Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào đầu anh khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh còn là một người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, lòng vòng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không hi vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đã nát mình dưới những vòng xe lăn. Phố đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm nói với mình, " Hơn hai mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình không nhỉ ? " Viết cho anh tôi, một phóng viên chiến trường NGUYÊN NHUNG. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 10/Apr/2010 lúc 7:37am |
|||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
ranvuive
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 02/May/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1151 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
NIỀM TIN Một
người đàn ông đi vào tiệm hớt tóc quen thuộc để cắt tóc và cạo râu như
thường lệ. Ông ta và người thợ tóc nói đủ chuyện trên trời dưới đất.
Khi người khách vô tình nói về Chúa Trời, người thợ cắt tóc nói:
“Tôi chẳng tin trên đời này có Thượng Đế.” “Sao ông lại nghĩ vậy?” “Chỉ cần ông bước ra đường là thấy ngay trên đời này chẳng có Chúa Trời. Nếu có Ngài tồn tại thì tại sao có nhiều người bệnh tật, sao còn rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi. Tôi không thể tin là Chúa lại chấp nhận nhìn những đau khổ trên đời xảy ra.” Hớt tóc xong, người khách đứng lên, ngước nhìn ra cửa tiệm, bất ngờ chỉ vào một người đàn ông ngoài đường, tóc tai râu ria bù xu, rồi nói: “Trên đời này làm gì có thợ cắt tóc.” Người thợ liền cãi: “Sao lại không? Tôi đây nè và tôi là thợ cắt tóc!” Vị khách điềm nhiên: “Nếu có thợ cắt tóc thì sao vẫn còn những người đầu tóc lôi thôi lếch thếch như gã kia vậy?” “À, thợ cắt tóc thì có chứ, chỉ tại những người kia không chịu đến tiệm cắt tóc mà thôi.” Vị khách gật gù: “Đó là điều mà tôi muốn nói. Thượng Đế tồn tại, chỉ là người ta không tin và không tìm đến Ngài mà thôi.” |
|||||||
![]() |
|||||||
![]() |
|||||||
<< phần trước Trang of 161 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |