Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 2
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 8:52am
 
 
 

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

   (4)  

 

 
Quang kể một buổi trình diễn khác cũng liên quan tới bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu.  Quang và Phạm Duy đến trình diễn tại quân y viện Nguyễn tri Phương Huế.  Quang hát xong bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu thì tiếng ồn ào, hình như có cả tiếng đập phá.  Đèn điện phụt tắt.  Tiếng đập ầm ầm, bình bình.  Quang không hiểu điều gì đã làm anh em thương bệnh binh nổi giận. Lúc đèn bật sáng, một cảnh tượng hãi hùng.  Bàn ghế xô lệch, nạng gỗ cái nguyên, cái gẫy nằm bừa bãi nằm bừa bãi trên sàn. Anh em thương bệnh binh đã dùng bất cứ cái gì có trong tay để đập phá. Bài hát Nỗi Buồn Nhược Tiểu đã có tác động, khiến anh em đã có phản ứng dữ dội. Họ cùng Quang cảm thấy buồn bã, nhục nhã, phẫn nộ trước tình trạng đất nước :

 

Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu

Nỗi tủi hờn căm bừng trên tay

Nỗi nhục nhằn chĩu nặng đôi vai

Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu

Ôi đau thương xâm kín hình hài

Niềm đau thương của kiếp đọa đầy

 

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Nỗi thù hằn còn đục lòng sông

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Tình anh em máu chảy thành dòng

Tôi chót sinh lầm trong thế kỷ

Súng bom trao đổi mất cuộc đời

Ôi thân tôi ! Ôi thân tôi !

 

Ơ sao lòng nước mắt đầy

Bóng tối trùm núi sông này

Giơ bàn tay gầy nheo bờ vai lặng nghe bài ca oan trái

Ơ hay Thượng Đế có buồn

Chứng giám giùm những linh hồn

Người dân tôi nhìn tương lai nước mắt tuôn tràn ngày

 

Tôi chót sinh làm dân nhược tiểu

Vú mẹ gầy cơm chẳng nuôi thân

Vắt tình này (thôi) máu mẹ nuôi con

Tôi chót sinh làm dân nhược tiểu

Nghe xung quanh nghiêng ngã cợt cười

Cạnh chén cơm chan máu dân tôi

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Khóc giang san hoài hoài gian nan

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Chờ mong tên nhược tiểu tạ tàn

Tôi chót sinh lầm trong u tối

Đếm tương lai say máu tủi buồn

Ôi quê hương! Ôi quê hương!

 

Sao giống nòi vẫn vương buồn

Sao giống nòi mãi nguy nàn

Bao giờ cho người không còn nghe

Lại tên Việt Nam nhược tiểu

Anh nghĩ gì núi sông này ?

Em nghĩ gì nước non này ?

Buồn hay vui, tình quê hương

Có nấu nung lửa hờn ?

 

Anh em thương bệnh binh hưởng ứng lời kêu gọi của Quang nên đã biểu hiện sự phẫn nộ trước tình trạng đất nước còn chiến tranh, nghèo đói :

 

Hãy đứng dậy hơi anh này

Hãy đứng dậy hỡi em này

Bao người con Việt Nam

Cùng tay cầm tay

Dựng xây đất nước

Cho đất Việt hết điêu tàn

Cho nước Việt hết  nguy nàn

Cùng chung lưng nhìn quê hương

Tiến bước lên nhịp nhàng

Việt Nam ! Ôi Việt Nam !

 

Để cho thấy sự quan trọng của bài hát này đối với cuộc đời và sự nghiệp của Quang, hãy nghe lời tâm sự của hắn :’’ Tôi cũng không biết lúc đó tôi cảm xúc về bài thơ này như thế nào để có thể viết được một đoạn điệp khúc lạ lùng lôi cuốn với nét nhạc cuồn cuộn dũng mãnh :

Sao giống nòi vẫn vương buồn

Sao giống nòi mãi nguy nàn

Bao giờ cho người không còn nghe

Lại tên Việt Nam nhược tiểu

Anh nghĩ gì núi sông này ?

Em nghĩ gì nước non này ?

Buồn hay vui, tình quê hương

Có nấu nung lửa hờn ?

Hãy đứng dậy hơi anh này

Hãy đứng dậy hỡi em này

Bao người con Việt Nam

Cùng tay cầm tay

Dựng xây đất nước

Cho đất Việt hết điêu tàn

Cho nước Việt hết  nguy nàn

Cùng chung lưng nhìn quê hương

Tiến bước lên nhịp nhàng

Việt Nam ! Ôi Việt Nam !

 

Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy mình viết bài này vào năm đúng hai mươi tuổi.  Bài hát đã trở thành đường nét chính yếu trong nền nhạc của tôi.  Ngay từ đó, tôi hiểu rằng mình không thể nào đi trở lại luồng nhạc phổ thông được nữa.  Tôi cũng không thể trở thành nghệ sĩ làm vui hay làm đẹp cho mọi người như những bạn bè khác được.  Tôi đã tự mình đào cho mình Một Con Đường Riêng …’’

 
 
 
XIN CHỌN NƠI NÀY LÀM QUÊ HƯƠNG

 

Quang trả lời phỏng vấn :"… Tôi còn nhớ lúc bấy giờ, anh bạn tôi là anh Nghi Sơn Nguyễn ngọc Thạch đưa cho tôi mấy bài thơ mà anh đã in trong một bản tin sinh hoạt của Chương Trình Phát Triển Quận Tám. Bài thơ Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương này tôi rất thích bởi vì nó là một ca khúc nói lên một cái nhìn thật hào hùng và lý tưởng của người đi làm công tác xã hội, môt xúc động đặc biệt về những người có lòng tha thiết tới chuyện chung. Phải rất thành tâm thì mới viết ra được những câu thơ như thế. Xin đọc lại nội dung bài thơ để chúng ta đều thấy anh gởi gấm quá nhiều thứ và đều là những lời nồng nàn tuyệt vời :

 

Ta còn những người ngồi quanh đây trán in vết nhăn.

Đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành.

Ôi vì thâm tình cùng con dân giữa khi chiến tranh.

Ôi cùng đau lòng cùng hoang mang giữa khi khó khăn…..

Ta còn những người thật yêu nhau biết bao thiết tha.

Chưa gập bao giờ mà đã uống máu ăn thề.

Giam mình trong lòng thành đô kia, sống nơi ấp quê.

Nhưng tình cao vời đòi yêu thương khắp luôn thế gian’’      . 

 

Năm 1966, 1967  chúng ta đón nhận một thông điệp như vậy, tôi cho rằng đối với tuổi trẻ chúng tôi nó đẹp biết chừng nào.  Nó cho người ta một nghĩa sống thú vị dù có bao nhiêu phiền nhiễu chung quanh, bao nhiêu u ám chung quanh.  Tôi cho rằng giá trị con người trong bài này quá lớn, tôi viết ra ngay thành bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương. Chúng tôi thích ca khúc này ghê lắm. Các bạn trẻ hát ngày đêm. Đó là cái thời chúng tôi không bao giờ …."

 

Năm 1970 tôi được xem buổi ra mắt phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương tại rạp REX .  Tôi nhớ phim này do nữ ca sĩ Ngọc Minh đóng.  Sau này trong một lần nói chuyện với Quang.  Tôi nói với Quang :" Người ta làm nhạc thì ra tiền còn mày làm nhạc chẳng kiếm được xu nào ".  Quang nói :" Có một lần tao xuýt được một số tiền lớn. Ông đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc hứa trả cho tao bốn mươi ngàn đồng sau khi làm xong cuốn phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương.  Sau khi phim chiếu được vài tháng, tao nhờ Phạm chí Thành nhắc dùm.  Thằng Thành trả lời rằng :" Hắn chơi mày rồi.  Hắn nói rằng tiền đã chia hết rồi, chẳng còn xu teng nào cả ".  Hắn nhắc lại câu chuyện với một tràng cười sảng khoái, không một chút bận tâm.  Hắn chỉ để ý đến lúc khởi đầu câu chuyện dựng bài hát này thành phim như thế nào.  Hắn tin Hoàng Vĩnh Lộc không có ý gạt ai bao giờ.  Hắn kể rằng trong một buổi hắn hướng dẫn sinh hoạt cho Bộ Thông Tin tại hội trường của Bộ. Hắn tập vài bài hát cho gần sáu trăm nhân viên Bộ ngồi chật bên dưới, trong đó có bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương.  Hết giờ, bỗng có một người cao lòng khòng giơ tay xin phát biểu :” Thưa giảng viên, tôi là Hoàng Vĩnh Lộc, tôi nghe bài hát Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương hay quá, nên tôi có ý dựng thành một cuốn phim.  Xin giảng viên cho tôi được phép dùng bài hát này. “ Dĩ nhiên là hắn gật đầu.  Lúc đó hai bên có nói chuyện thù lao hoặc tiền bạc gì đâu.  Xong chuyện hắn vào Thủ Đúc nhập ngũ.  Lúc được đi phép hắn được Trần Trọng Thức báo tin là Hoàng Vĩnh Lộc có nhận sẽ trả tác quyền cho bài hát như trên.  Sau này không  có thì cũng là chuyện nói qua nói lại mà thôi, không có gì đáng kể.  Chỉ có một chi tiết trong vụ này mà hắn lấy làm thú vị mãi.  Đó là lúc Hoàng Vĩnh Lộc nói với hắn xin đổi chút xíu trong tựa đề : Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương, chứ không giữ nguyên là chữ Chọn.  Anh Lộc nói : “Mình làm gì có quyền chọn, phải nhận thôi”.

  

Ngày 17 tháng 11 năm 2003, tôi nghe mục Chân Dung Thính Giả của đài BBC.  Chị Nguyễn Thị Hoàng Oanh là người được đài BBC phỏng vấn.  Chị Hoàng Oanh là người Quảng Nam . Sau năm 1975 chị và gia đình đi kinh tế mới tại tỉnh Đắc Lắc. Phóng viên Lê Hải của đài BBC hỏi chị :" Theo như chị nói những năm đầu tiên là những năm cực kỳ khó khăn của gia đình chị. Trong hoàn cảnh khó khăn khốn khó đó có nhiều người tìm cách bỏ trốn để vượt biên.  Tại sao gia đình chị lại không làm như họ ".   Chị Hoàng Oanh trả lời :" … Lúc đó chúng tôi quá khó khăn.  Chúng tôi không còn tài chánh hay còn một cái gì nữa để mà có phương tiện đi đến một nơi khác.  Nói một câu ngắn gọn Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương …."  Nghe chị Hoàng Oanh nói :" nói một câu ngắn gọn:  xin nhận nơi này làm quê hương " mới thấy rằng bài hát Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương đã được phổ biến sâu rộng tại miền Nam . " Xin nhận nơi này làm quê hương " trở thành một câu nói rất phổ thông hay một thành ngữ để diễn tả phải chấp nhận một điều mà mình không muốn. Điều này có lẽ không đúng với ý mong muốn của tác giả.  Ngày nay một người bỏ nước ra đi để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn ở Việt Nam như tôi, tôi không bao giờ dám hát bài này.  Nếu tôi hát bài này tại Mỹ, người ta sẽ nói :" Sao khôn vậy cha nội ?" .  Nếu tôi hát bài này tại Việt Nam , người ta sẽ nói :" Thật vậy không cha nội ?".  Sau này Quang có bổ túc cho tôi để giải quyết khó khăn trên.  Hắn nói rằng nhiều nơi các bạn trẻ vẫn hát bài này một cách mê say.  Lúc hắn dẫn phái đoàn ca nhạc thanh niên đi Âu Châu năm 1969 có Khánh Ly, Thanh Lan đi sáu nước để hát cho kiều bào, hắn đã cho đổi hai chữ Nơi Này thành Nước Việt :  Xin Chọn Nước Việt Làm Quê Hương.  Bây giờ nếu mình cũng hát như vậy thì có điều gì sai trái nữa đâu.  Chúng ta vẫn chọn Một Quê Hương, Một Dân Tộc Việt thì chúng ta vẫn “ còn những người ngồi quanh đây trán in vết nhăn, đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành, ôi cùng thâm tình, cùng con dân sống trong chiến tranh, ôi cùng đau lòng cùng hoang mang giữa khi khó khăn …”  Vâng, duy nhất chỉ có hình ảnh chiến tranh là bị coi là lạc hậu trong bài hát này đối với ngày hôm nay.

 

 
NGƯỜI ANH VĨNH BÌNH

 

Quang là người viết nhạc truyện hay nhất.  Đó là lời nhận xét của Cao Hoàng.  Tôi cũng đồng ý với Cao Hoàng sau khi nghe bài hát Người Anh Vĩnh Bình.  Ngay những đại nhạc sĩ Phạm Duy, Lê Thương, Văn Cao cũng không viết được một câu truyện trọn vẹn, nhiều tình tiết, nhiều hình ảnh, bố cục thì chặt chẽ và lời thì hay, chuyện lại là một chuyện có thật  như bài Người Anh Vĩnh Bình của Quang.  So với những nhạc truyện nổi tiếng như Hồn Vọng Phu của Lê Thương, Người Mẹ Phù Sa của Phạm Duy, Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh, tôi vẫn thấy Người Anh Vĩnh Bình của Quang hay hơn.

Trên chuyến xe đò từ Vĩnh Long về Sài Gòn, Quang đã nghe được một câu truyện do một hành khách kể.  Tất cả trở thành bài hát ngay.  Câu chuyện Người Anh Vĩnh Bình không mới lạ lắm nhưng tình tiết thì thật nhiều và thật hay, nhất là lời ca.  Nếu viết lời ca riêng ra ta có ngay một bài thơ :

 

Khi anh tôi đi không nói năng câu gì

Mang theo ba lô cây viết xanh nhỏ bé

Mai nơi xa xôi anh sẽ biên thơ về

Cho mẹ cho bà con, cho chị với cậu bé

Nhưng hai năm qua chưa thấy thư anh về

Con thơ năm xưa nay đã thôi bồng bế

Đêm nghe xa xa có tiếng ai ngang lệ

Con chờ nhé đơi nhé , con chờ mốt ba về

Anh tôi ra đi không nhắn anh lời nào

Nay không tin thư, ôi nhớ nhung làm sao

Anh ơi anh ơi, anh cách xa chừng nào

Có biết vợ úa héo

Hôm nao nghe tin mai mốt anh qua làng

Chao ôi hân hoan đôi mắt mẹ rực sáng

Chân đi bon bon quên thươt tha nhịp nhàng

Ra bờ sông chị đứng mắt ngời nét vui mừng.

 

Quang viết về niềm hân hoan của người về, niềm thương yêu tình tứ lãng mạng của người vợ đón chồng về, niềm hạnh phúc tràn ngập trong lòng người mẹ đón con về .  Người về mang lại hạnh phúc cho mình, cho vợ, cho mẹ, cho con, cho em.  Những hình ảnh thật đẹp qua lời thơ và giòng nhạc của Quang:

 

Bao nhiêu hân hoan anh bước chân qua làng

Tôi ra trông anh hơi khác xưa đầu mới

Da ngăm ngăm đen, anh ngó tôi xong gọi:

“A cậu mau lại đây, trông cậu lớn rồi đấy”

Nghe chân anh vô, chị trốn ra sau hè

Bâng khuâng lâng lâng, không dám ra ngoài ngó

Kêu con im đi, tai lắng nghe từng lời

Anh gọi :” Ơi mình ơi” Bước ra đứng khóc mùi

Tôi không quên khi anh bế con vào lòng

“ Con tôi ngoan ghê, sao giống ơi là giống “

Mẹ vui chân run, leo tuốt lên giường nằm

Nhắm mắt niệm lâm râm

Cơm hôm nay ngon, canh nấu chua rau ngọt

Me thương yêu anh, nên tiếp anh chẳng ngớt

Chơi vui bên con, anh nói với chị rằng:

“ Bây giờ anh phải đi, tối nay sẽ quay về “

 

Hình ảnh đẹp đẽ hạnh phúc trên đã làm nổi bật cảnh dã man kinh hồn của cuộc chém giết nồi da sáo thịt khiến người nghe phải đau buồn kinh hãi

 

Đêm nghe bơ vơ, tiếng súng xa đưa lại

Bên trong im hơi, cây nến xiêu mờ cháy

Tôi đang thiu thiu, nghe tiếng chân ai chạy

Xô mạnh cánh cửa lớn, tiếng người ngã ầm xuống

Qua khe phên thưa, tôi thấy anh giữa nhà

Tay cong sau lưng, quỳ trước dăm người nữa

“ Tên lưu manh kia, kêu hết cha mẹ già !

Ra mà lấy đầu mi, chết vì chống chúng ta !”

Mã tấu chớp loáng, anh rướn lên gục người

Máu bắn xuống dưới, và tưới lên mặt tôi

Bên trong lao ra, chị thét lên rụng rời

Ngã chúi, hồn chơi vơi

Đêm bao âm u, trên vách hiu hiu mờ

Bên thây anh tôi, Me ngất không dậy nữa

Con chơi ngây thơ, xoa tóc cha tung xòa

“ Bố ơi, bố dậy bố, bố ơi, má con kìa

 

Những câu kết luận của bài Người Anh Vĩnh Bình vang vọng một hoài bảo để trả lời cho chiến tranh :

 

Trong ba lô anh, tôi thấy bao nhiêu quà

Đôi xăng đan xinh, đôi guốc cao đẹp quá

Hai đôi bông tai anh tính mua cho mẹ

Tôi tìm trong một gó, có tờ giấy mờ chữ

Run run đôi tay, tôi bóc xem tháng ngày

Thư anh xa xưa định viết vợ đấy

Riêng câu sau đây, theo ám tôi suốt ngày

“ MONG ĐƯỢC THẤY ĐÀN BÉ, SỐNG HẠNH PHÚC LÂU DÀI “

 

Bài hát này là bài trễ nhất trong tập Trầm Ca, khoảng năm 1967 mới xong và khi Quang đi hát ở đâu cũng gây những giọt lệ thương cảm cho mọi người.  Bài hát mở rộng vết thương soi mòn bên trong mọi con người, mọi gia đình của chiến tranh.  Hắn kể lại một lần hát ở Bộ Chỉ Huy Thủy Quân Lục Chiến.  Hàng ngàn người lính đã rơi lệ.  Họ thương cho chính họ, cho đồng đội và những người chung quanh. 

 

Chữ nghĩa trong bài thật đơn giản.  Câu chuyện ai nghe cũng lọt vào tai và hiểu ngay không cần trình độ nào như những bài khác.  Không phải Quang tự đặt ra cái hấp dẫn về tính chất thi ca qua lời ca của bài Người Anh Vĩnh Bình này.  Quang kể có một lần xẩy ra một cuộc tranh cãi rất lý thú quanh câu chuyện.  Số là đầu niên học 1967, trường Gia Long mời hắn tới hát.  Giáo sư hướng dẫn văn nghệ của trường lúc đó là giáo sư Kim Oanh.  Cô đã tới tận “biệt thự” của Quang lúc đó nằm ở trên garage phía sau nhà anh Tuệ để đưa lời mời.  Cô Kim Oanh đã hỏi mua cho trường 70 cuốn Những Bài Ca Khai Phá in roneo gần đủ con số 40 bài .  Quang nghĩ đó là một cách trả tiền.  Thế là một mình, trên vai cây đàn guitar,  Quang cưỡi chiếc velo solex chạy thẳng vào bên trong trường, một trường vẫn cấm kỵ mấy anh chàng nam nhi bất kỳ loại gì.  Trường cũng chưa bao giờ có chuyện tập họp học sinh trên sân trường để cho một anh nghệ sĩ nào đến hát.  Lần này trường phá lệ.  Nhưng khi vô trường Quang gập ngay một rắc rối.  Một cô nữ sinh được giới thiệu là trưởng ban văn nghệ toàn trường tên là Đức Hạnh chận hắn lại.  Cô nữ sinh chìa ra một tờ giấy chép bài Người Anh Vĩnh Bình với câu hỏi hóc búa :’’ Xin nhạc sĩ cho biết bài thơ này là bài thơ của ai ?” Quang trả lời :”Lời ca của bài này do tôi viết, không phải là bài thơ ?” .  Cô Đức Hạnh vẫn không đồng ý :”Nhất định đây là một bài thơ.  Tôi nghĩ từ bài thơ này nhạc sĩ đã phổ thành bài hát, chứ đọc bài này không thể nói, bài này không phải là một bài thơ được”.  Chưa vào buổi hát mà đã phải tranh cãi chỉ vì bài hát giống bài thơ.  Cuộc tranh cãi không đi đến kết luận vì Quang phải lên ngay sân khấu để bắt đầu buổi trình diễn.  Buổi hát dùng nhiều những bài hát cộng đồng của tập Những Bài Ca Khai Phá nên không dùng những bài Trầm Ca.  Sau này Quang gặp lại cô nữ sinh này một lần nữa khi hắn được mời tới tư gia DT Quỳnh dùng bữa cơm gia đình. Lần gập này, Quang cũng không có dịp hỏi cô Đức Hạnh là đã đồng ý với câu trả lời của Quang chưa ?

 

 
 
CHIỀU QUA TUY HÒA

 

Một trong những lý do Cao Hoàng và Quang trở thành đôi bạn tri kỷ vì là Cao Hoàng rất thích bài hát Chiều Qua Tuy Hòa. Cao Hoàng thích bài hát này vì anh ta coi Tuy Hòa là quê hương thứ hai sau Hà Nội.  Anh ta nói với tôi người ta yêu quí mảnh đất không phải vì nó giàu hay lớn mà vì tình cảm của những người dân ở đó.  Cao Hoàng yêu xứ Tuy Hòa và xem Tuy Hòa là quê hương thứ hai vì những năm Hoàng  dạy học ở Thị xã Tuy Hòa, Hoàng thấy dân Tuy Hòa thật hiền hòa dễ thương. Cao Hoàng và Quang biết nhau vì thời thơ ấu hai người đều sống tại Đà Lạt.  Biết nhưng không thân mặc dù thân phụ của hai người là cụ Nguyễn Đức Trung và cụ Hoàng Thế Mỹ là đôi bạn thơ.  Thân phụ hai người thường gập nhau để ngâm thơ, bàn luận về thời cuộc và thơ văn.  Hồi đó thân phụ của Quang có biệt danh là Tú Point vì cụ thích đủ mọi thứ và chuyên làm thơ trào phúng.  Cụ làm thơ nhưng cụ lại thích đủ các loại thể thao mà cụ coi là các thứ trò chơi. Cụ đá bóng tới tối mịt, đấu quyền anh, đánh bóng bàn, chơi đua ngựa … Cụ thích đàn hát, đóng kịch và nhất là làm thơ như đã nói.  Cuối đời cụ đem những chuyện ngụ ngôn và soạn cả các bài tập đánh vần, tập đọc thành thơ.  Đó là lúc cụ qua lại rất mật thiết với cụ Mỹ vì hai cụ cùng sở thích.  Còn Cao Hoàng, anh ta gập tác giả bài hát Chiều Qua Tuy Hòa tại trại học tập Trảng Lớn, Tây Ninh.  Cao Hoàng không phải chỉ là một tay guitar cl***ic có hạng mà anh ta còn có đủ tài văn nghệ khác như sáng tác, làm thơ, nhưng hay nhất là làm đàn guitar.  Theo Quang kể lại, Cao Hoàng là người đầu tiên làm ra cây đàn guitar trong trại tù cải tạo.  Chỉ trong vòng tháng đầu tiên vừa đặt chân tới Trảng Lớn, Cao Hoàng đã sáng chế ra chiếc đàn.  Lúc đó, Quang ở trên khu Hội Trường, Hoàng ở khu vườn rau cách xa nhau chừng vài trăm mét.  Quang có dịp đi tắt qua khu vườn rau, bỗng nghe tiếng đàn guitar thánh thót với một bản Carulli, nghe đến thót ruột.  Phải là bộ đội hay cán bộ chứ dân cải tạo có ai được mang đàn vào đây.  Mở cửa bước vào, Quang thấy ngay một anh chàng hom hem nằm trên võng.  Một ông tù cải tạo như mình đang đánh đàn. Nhìn cây đàn mới khủng khiếp.  Mấy miếng gỗ vuông đóng lại thành một cái thùng. Một cái lỗ được đục giữa cái thùng.  Một miếng gỗ dài làm cán đàn, không biết bằng cách nào mà Cao Hoàng gắn được vào thùng đàn, bằng thứ đinh gì ?  Mấy món này được chặt nham nhở bằng một thanh sắt mài rất thô sơ thành con dao. Chỉ có hàng phím gắn khá tỉ mỉ và chính xác để cho tiếng đàn không sai.  Bộ giây đàn thì Quang không hiểu nổi.  Hắn sờ và mân mê những sợi giây đàn, rồi hắn còn hỏi Cao Hoàng có còn nhớ tên anh bộ đội nào mua giùm những sợi giây đàn không?  Hắn ngạc nhiên khi nghe Cao Hoàng trả lời :” Không, chẳng nhờ ai cả, tôi làm lấy hết “.  Dĩ nhiên là Nguyễn đức Quang phải thử đàn và sau đó là học hỏi cách làm đàn của Cao Hoàng.  Từ đó hai người trở thành bạn thân thiết trong trại cải tạo Trảng Lớn.  Suốt một năm trời ở đây, hai tay này làm ra ít nhất hai ba cây đàn cho mỗi người.  Khi Nguyễn Đức Quang được thả về, hắn nài nỉ quản giáo cho mang cây đàn về làm kỷ niệm.  Cây đàn ấy về sau chuyển sang tay Nguyễn Hữu Nghĩa, nay không biết cây đàn này đi về đâu.

 

Lần nào lên Seattle , buổi tối Quang cũng trình diễn tại quán Lá Phong ngay trong nhà Cao Hoàng.  Quán Lá Phong là nơi lui tới, tụ họp của các văn nghệ sĩ sống tại Seattle . Buổi chiều tại nhà tôi, Quang hát bài Chiều Qua Tuy Hòa. Cao Hoàng lim dim mắt, đầu lắc thật nhè nhẹ.  Quang hát xong, tôi hỏi Hoàng :" Anh thấy thiếu gì không ?" Mọi người đang ngần ngừ tìm câu trả lời thì tôi tiếp :'' Thiếu tiếng hút gió ".  Chính tiếng hút gió của Quang làm cho bài Chiều Qua Tuy Hòa trở nên độc đáo và càng thêm hay.  Lúc đó chưa có bài hát nào ngoài thị trường lại có tiêng hút gió.  Bài Ngựa Hoang với Elvis Phương thì mãi sau này mới ra đời … Bài hát Chiều Qua Tuy Hoà đem vào tâm hồn người nghe sự trầm buồn xa vắng của câu truyện cổ tích nàng Vọng Phu, sự êm ái của phong cảnh hữu tình.  Biển trời thì mênh mông xanh ngắt, sông thì đem màu mỡ cho ruộng vườn, núi rừng thì êm ả.  Nhưng lòng người thì vẫn buồn rười rượi vì người dân Tuy Hòa vẫn còn nghèo, truờng lớp thì vắng bóng học trò  và tiếng súng vẫn còn văng vẳng quanh đây.  Người say mê bài Chiều Qua Tuy Hòa nhất phải là những người dân Tuy Hòa.  Quang kể rằng mỗi tất niên, hội đồng hương Tuy Hòa thường mời Quang đến dự tiệc. Họ bắt chính Quang phải hát bài Chiều Qua Tuy Hòa không phải một lần mà nhiều lần.  Có nhóm còn bắt Quang phải tập cho họ hát bài Chiều Qua Tuy Hòa này.  Quang trở thành một CÔNG DÂN TUY HÒA DANH DỰ.  Quang viết bài Chiều Qua Tuy Hòa vào khoảng năm 1967 trên đường đi ra Tuy Hòa.  Khi đến Nha Trang thì Quang hoàn tất bài Chiều Qua Tuy Hòa và hát lần đầu tiên tại Nha Trang.  Trong lần trình diễn đó có một người tên là Huỳnh Tân tham dự.   Huỳnh Tân là mẫu người Quang rất thán phục.  Anh ta thưc hiện một chuyến đi xe đạp một mình từ Nha Trang đến Cà Mâu.  Ở những nơi ngừng lại, anh ta tự tìm công việc lao động để kiếm ra đồng tiền sinh sống.  Nhật ký về chuyến đi của anh được đăng trên tờ Chính Luận và Quang đã đọc say mê.  Quang cũng thực hiện một chuyến đi một mình bằng xe đạp, nhưng chỉ đi được từ Đà Lạt đến Sài Gòn.

 

Ngày xưa tôi đã đi qua Tuy Hòa, trời xanh le lói bao mộng mơ. Đàn chim tung cánh bay bay đầu gió và đâu đây tiếng sông bồi phù sa. Ôi những chiều mây vắt ngang lưng đèo.  Vọng Phu đưa mắt cũng buồn theo ……………………………………………………………………………….

Ôi bước buồn theo với không gian buồn, một đêm qua biết bao sầu thương

 

Ai yêu thương TUY HÒA cho bằng người dân Tuy Hòa và anh chàng Du Ca này.

 

BÊN KIA SÔNG

 

Dương trọng Cẩn kể rằng đại đội 18 của Cẩn và Quang đóng tại cầu Tân Thuận trong một lần đi chiến dịch của sinh viên sĩ quan Thủ Đức, đó là công tác thực tập sau cùng trước khi mãn khóa.  Quang xuất hiện bất ngờ trước anh em và nói :" Đừng tưởng Nguyễn đức Quang không biết làm nhạc tình ".  Và Quang hát bài Bên Kia Sông cho anh em nghe.  Tôi được nghe chính Quang hát bài này ba lần .  Lần đầu tiên tại nhà hàng Quốc Tế đường Lê Lợi , lần thứ hai tại nhà Châu văn Chính, lần thứ ba tại nhà tôi. Quang hát tại phòng trà Quốc Tế nhân dịp họp mặt của khóa I CTKD.  Hôm đó Quang hát bài Bên Kia Sông, Phong Râu hát bài Cúc Cù Ru Cù Ru.  Khán thính giả nồng nhiệt hoan hô hai chàng ca sĩ tài tử .  Có lẽ vì sự mới mẻ và trí thức của bản nhạc và của người trình diễn nên đã thu hút người nghe.  Lần thứ hai Quang hát theo lời yêu cầu của cô con gái Châu văn Chính.  Lần thứ ba Quang hát bài này sau khi hát cho chúng tôi nghe một số bài nhạc tình mới sáng tác của Quang.  Tôi nói :" Tình hai mươi thì nhẹ nhàng, tình sáu mươi thì nồng nàn cuồng nhiệt ".  Bên kia sông là bài thơ phổ nhạc từ bài thơ của của một thi sĩ cũng rất là tài tử tên là Nguyễn ngọc Thạch. Nguyễn ngọc Thạch là sinh viên sư phạm đại học Đà Lạt.  Theo anh Huỳnh trung Trực CTKD I  bài thơ này đặc biệt để ngợi ca cô nữ sinh Hồng Quế của trường Trung Học Bùi Thị Xuân.  Dạo đó, Hồng Quế có ghé qua chỗ nhà trọ của anh Thạch và anh Trực một hoặc hai lần.  Về sau, Hồng Quế hạ sơn xuống Sài Gòn và làm vợ của một sĩ quan cấp tá VNCH, ngành CTCT.  Thỉnh thoảng Hồng Quế xuất hiện trên chương trình truyền hình của quân đội dạo đó.  Hiện nay anh Thạch vẫn còn ở Phú Nhuận Sài Gòn.  Nhưng Quang thì nói với tôi rằng bài thơ này Nguyễn ngọc Thạch viết cho một cô nữ sinh trường Couvent des Oiseaux.  Nàng tên Michell Cô là một cô gái Việt lai Pháp. Nguyễn ngọc Thạch lấy biệt hiệu là Mi Sơn.  Mi là phiên âm chữ Michell, còn  Sơn là núi đá, núi đá là Thạch.  Mi Sơn là lối ghép tên Michell Thạch.  Trả lời một cuộc phỏng vấn, Quang nói :’’Nguyễn ngọc Thạch  cầm tập thơ quay ronéo với nhan đề Lời Trong Sương  để nhờ tôi phổ một bài thành ca khúc.  Anh thích làm chuyện này vì hai điều.  Trước đây tôi đã phổ bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương khiến anh rất thích.  Sau là anh muốn thử thách tôi phổ một bài thơ tình có được không ? Tôi cầm tập Lời Trong Sương, chọn mãi mới được bài đầu tiên của tập thơ. Một tuần lễ sau, tôi gửi lại anh bài hát Bên Kia Sông tức là tôi lấy bài đầu tiên chỉ có 8 câu phổ thành bài hát.  Phổ xong thấy ngắn quá, tôi vội biến chế ra một lời thứ nhì . Tác giả bài thơ vô cùng thích thú.  Lúc đó anh ký tên dưới tập thơ là Mi Sơn.  Sau này anh nói nên bỏ bút hiệu đó đi và tôi đã thay bằng tên Nguyễn ngọc Thạch.  Bài nhạc quá hay theo như anh Thạch cho tôi biết.  Anh nói nếu tôi đồng ý, anh sẽ đem ra thị trường nhạc và chắc chắn nó sẽ trở thành Top Ten ngay lúc ấy.  Riêng tôi, bài này là một trong loạt bài bất hạnh như Vì Tôi Là Linh Mục, Như Mây Trên Cao ...  Nó nằm trong loạt tình ca nên tôi gần như  không mấy xử dụng.  Tôi vất những bài này qua một bên vì còn bận với những Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Chiều Qua Tuy Hòa, Ruồi Và Kên Kên, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống, Cho Đồng Bào Tôi … Mãi cho đến khi ra hải ngoại, ở đây cần những bài hát êm ấm và trữ tình hơn nên tôi mới đem ra hát lại.

 

Này người yêu, người yêu anh ơi,

Bên kia sông là ánh mặt trời,

Này người yêu, người yêu anh hỡi,

Bên kia đồi cỏ hoa đan lối,

Bên kia núi, núi cao chập chùng,

Bên kia suối, suối reo lạnh lung,

Là bài thơ toàn chữ hư vô

Này người yêu anh ơi

Cho anh nồng ấm cuộc đời

Hoa thơm đón ánh mặt trời

Ôi núi mừng vì mây đến rồi,

Này người yêu anh hỡi

Yêu nhau mình đưa nhau tới

Bước nhẹ và nói êm xuôi

Nói cho vừa mình anh nghe thôi

Đoạn thêm của Quang:

Này người yêu, người yêu anh ơi,

Bên kia sông đường vẫn còn dài

Này người yêu người yêu anh hỡi

Bên kia đồng cỏ non đan lối

Trong cơn gió thoáng nghe nụ cười

Trong khe núi thánh thót lòng người

Lòng đòi tình vật vã khôn nguôi

Này người yêu anh ơi

Đêm đêm lòng vỡ tình dài

Dây xanh quấn quit vào đời

Cho trái tình nở trên tiếng cười

Này người yêu anh hỡi

Bên trong lòng nôi êm ấm

Rắc nhẹ từng cánh sao rơi

Sẽ âm thầm mình em nghe thôi

 

 

 
 
VÌ TÔI LÀ LINH MỤC

 

Quang là người đầu tiên phổ nhạc thơ của Nguyễn tất Nhiên.  Cuối năm 1969 đầu 1970, lúc ấy Quang mới đi Âu Châu về.  Quang kể rằng :  Một hôm Nguyễn tất Nhiên đến gập Quang, hắn nói :" Em có mấy bài thơ (thật ra là cả một tập thơ đầu tay của Nhiên lúc 17 tuổi mang tên là Thiên Tai.  Tập thơ này đoạt giải thưởng Tổng Thống về thơ) anh xem rồi phổ nhạc dùm em để em đi hát với mấy đứa bạn."  - " Đưa đây, tuần sau tới lấy ".  Quang tìm trong tập thơ đó và chọn được một bài, đó là bài THIÊN THU.  Bài thật buồn, thật đúng với định mệng của Nhiên.  Nhưng chỉ tháng sau Nhiên lại đến tìm đến.  Nhiên nói :'' Anh phổ cho em có một bài nên em hát, bọn nó bis, em không có bài nào để hát tiếp.”  Củng tìm trong tập Thiên Tai, Quang phổ bài thứ hai.  Bài này được nhiều người biết ngay lập tức vì có tựa đề nói đến một vấn đề nhậy cảm lúc bấy giờ đó là Tôn Giáo. Nhưng thực ra bài hát chỉ nói về một chàng trai thất tình.  Không biết do đâu bài hát này vào tay Khánh Ly. Thế là bài hát được tung ra ở phòng trà Tự Do.  Lệ Thu thích quá cũng mang bài hát vào cuốn băng Lệ Thu I từ năm 1970.  Chuyện này Quang hoàn toàn không hay biết gì vì không ai nói cho hắn biết.  Vì thế hắn cũng ngạc nhiên khi thấy bài hát này nổi tiêng rất nhanh.

 

Vì tôi là linh mục, không mặc chiếc áo dòng

Nên suốt đời hiu quạnh, nên suốt đời lang thang

Vì tôi là linh mục, có được một tín đồ

Nhưng không phải là thánh thần nên tín đồ đi hoang

………………

Vì tôi là linh mục giảng lời tình nhân gian

Nên không còn tiếng khóc, nên không còn tiếng trách

Nên không biết kêu than, nên tôi rất bơ vơ, nên tôi rất dại khờ

 

Và sau cùng :

 

Vì tôi là linh mục chưa rửa tội bao giờ

Nên âm thầm qua đời, tội ác còn trong tôi

Vì tôi là linh mục, vì tôi là linh mục,

Người ơi một linh mục rất dại khờ

 

Hỏi hắn, hắn có gập gì khó khăn với bên Công Giáo không thì được hắn trả lời : “ Chính thức thì không, nhưng thực tế lúc đầu thì có, sau này họ lại vui thú sau khi chính thức nghe chứ không phải nghe qua người khác.  Một ngày đẹp trời, buổi trưa hè rất nóng, tôi đang ở trần trùng trục ở đằng sau cái garage nhà ông Tuệ, thì có ba vị linh mục mặc áo dòng hẳn hoi đến gõ cửa.  Tôi tiếp chuyện ngay và lễ phép hỏi các vị đến có việc gì không. Ba vị linh mục nêu thắc mắc là hình như tôi có viết một bài nhạc gì báng bổ các linh mục công giáo.  Nghe đến đây tôi thấy tình thế hơi gay.  Tôi hỏi lại : Thế có vị nào nghe bài hát ấy chưa thì cả ba vị linh mục lắc đầu.  Tôi nghĩ giải pháp hay nhất là mời ba vị linh mục nghe qua bài hát.  Tôi lấy cây đàn và hát ngay.  Hát xong tôi hỏi quý vị có ý kiến gì không? Bài hát có gì báng bổ các vị linh mục Công Giáo không?  Cả ba vị đều rất tươi tỉnh, xin lỗi một cách nhẹ nhàng, rồi quay gót ra về.  Sau này bài hát này được rất nhiều vị linh mục thích.  Khi tôi hát ở Sydney lần thứ nhì, tôi được ngồi cạnh vị linh mục quản nhiệm giáo sứ tại đây.  Đến lúc MC giới thiệu một anh bạn tôi trình diễn bài này, tôi hơi e dè.  Tôi cứ nhìn xem vị linh mục thứ thiệt này sẽ lắc đầu lúc nào.  Nhưng tôi ngạc nhiên vì thấy ông thưởng thức một cách say mê.  Nghe hết bài vị linh mục quay qua nhìn tôi và hỏi làm mũi tôi nở to :” Bài này của ai hay quá, thế mà mình không biết?’’.  Khi qua Brisbane lại gập một thú vị khác.  Ban tổ chức ở đây mời ba cha xứ ở ba nhà thờ đến dự.  Cả ba vị đã nán lại chờ cho đến khi một giọng hát địa phương rất hay lên sân khấu hát xong bản Vì Tôi Là Linh Mục thì ba vị mới ra về để lo lắng công việc cho con chiên chiều chủ nhật còn chờ đợi ở nhà thờ của mình.

 
 
(còn tiếp)
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Jul/2010 lúc 8:54am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 9:00am

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

   (5)  

 
 
 
 
 

VỀ VỚI MẸ CHA

 

Tôi rất thích bài hát này.  Tôi hát bài này trong những dịp sinh hoạt cộng đồng.  Bài hát ngắn gọn, mạnh, thắm thiết.  Bài hát mang nhiều hình ảnh, nhiều tình cảm đẹp và hào hùng của nam nữ thanh niên nước Việt trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam phú cường.  Nơi cây cầu, trong xóm làng, trong rừng sâu, ngoài biển cả đã nở ra bao mối tình đẹp đẽ :  Tình đồng đội, tình bạn bè, tình yêu nam nữ, tình đồng bào …  Nơi đó bao nhiêu mộng lớn, mộng nhỏ được ấp ủ, được thực hiện với lòng can trường và trong sáng. Bài hát như được phổ từ những câu ca dao.  Tiếng hát như tiếng vọng từ ngàn xưa

 

từ nam quan cà mâu, từ non cao rừng sâu,

gập nhau do non nước xây cầu,

người thanh niên Việt Nam quay về với xóm làng

tiếng reo vui rộn trong lòng,

cùng đi xoay hoành sơn , cùng đi lay trường sơn,

cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm

vượt khơi ra đảo xa lướt ngàn nước sóng nhà,

ta đắp bồi cho mẹ cha .

 

Quang kể lại mấy câu chuyện chung quanh bài hát ngắn ngủi này khiến tôi càng thêm kinh ngạc.  Trước tiên là ngày trình làng bài hát này tại Sài Gòn.  Thật ra bài hát có sớm sủa, hình như vào 1964 hay đầu năm 1965.  Nhưng bài hát xuất phát từ Đà Lạt nên phải chờ đến khi cả toán nhóm nhau tại Sài Gòn và có dịp rủ nhau đi công tác thì mới tung bài hát này ra.  Trong một kỳ trại công tác tại Vũng Tàu.  trại sinh được chở trên ba chiếc xe GMC, mỗi người được phát một tập bài hát trong đó bắt đầu bằng bài này.  Thế là từ lúc khởi hành cho đến khi xe ngừng lại tại rừng Chí Linh, Vũng Tàu, mọi người đã hát không ngừng trên đường đi và chỉ hát có một bài này mà thôi.  Quang cũng cho biết sau khi đưa ra lời nguyên thủy này, Ban Trầm Ca lúc đó thấy bài hát ngắn quá nên xúm nhau lại để viết thêm hai lời nữa. Hát đi hát lại nhiều lần cả ba lời nhưng không thấy hay.  Chỉ có lời đầu tiên là cao sang và đầy lý tưởng.  Hai lời sau tầm thường quá.  Chẳng hạn : …., nhìn quê huơng tả tơi, người thanh niên Việt Nam ngậm ngùi.  Cho chí không vùng lên …” Sau mấy ngày thử thách như thế, cả ban quyết định bỏ hai lời sau, chỉ giữ lạ lời đầu.  Thế nhưng một lần hát thử tại Hội An hay Đà Nẵng cả ba lời khiến cho cả ba lời của bản nhạc cứ vậy mà “tới luôn bác tài”.  Hiện nay ở hải ngoại, các bạn sử dụng bài này trong các trại thanh niên từ miền Đông sang miền Tây đều có … ba lời !

 

Giai thoại thứ hai về bài hát này: Bài hát này đã khiến cho hai cao thủ Nguyễn Đức Quang và Viết Chung suýt chút nữa thì … lôi nhau ra tòa.  Khoảng năm 1967, Quang nghe được trên đài phát thanh Sài Gòn có hát bài này rất hay, rất hùng mạnh.  Đặc biệt là có thêm một đoạn khai đề hoàn toàn khác lạ.  Hắn liền viết thư về đài phát thanh Sài Gòn yêu cầu đài cho biết ban nhạc nào đã xử dụng bài này và ai là người đã thay đổi bản nhạc mà không hỏi ý kiến tác giả.  Một tuần sau Quang được đài phát thanh Sài Gòn trả lời đó là nhạc hiệu của ban Xây Dựng Nông Thôn của ông Viết Chung.  Ban này đã lấy hết phần chính của lời một Về Với Mẹ Cha rồi thêm một đoạn tiếp theo như một điệp khúc mới.  Hai bên suýt lôi nhau ra tòa.  Sau đó hai  người nói chuyện thông cảm và trở thành hai người bạn thân. 

 

 
 
KHÔNG PHẢI LÀ LÚC

 

 “Việt Nam bằng ba Nhật Bản.  Nghĩa là ba người Nhật Bản họp lại thì mới bằng một người Việt Nam .  Nhưng nếu ba người Việt Nam họp lại thì công việc nát bét,  ba người Nhật Bản họp lại thì công việc tốt đẹp hơn “.  Chia rẽ ở trong máu người Việt chăng?  Chắc chắn là không.  Nếu câu trả lời là đúng là phải thì làm sao chúng ta nhiều phen thắng giặc Tầu, giặc Nguyên, giặc Pháp.  Như vậy có nghĩa là có lúc chúng ta chia rẽ, nhưng lúc cần là người Việt lại gắn bó thành một khối như sắt thép.  Bài hát Không Phải Là Lúc của Quang là một thông điệp kêu gọi người Việt hãy đoàn kết và làm việc hết mình.  Bài hát thật hay ở chỗ không chỉ trích, không lên mặt dậy đời. Lời bát hát là lời phân bua, giải thích, kêu gọi. Bài hát thật tình cảm và tha thiết.  Bài hát được viết từ một trái tim đầy tình thương yêu đồng bào và đất nước, từ một trí óc sáng suốt hiểu rõ vấn đề nan giải của người Việt Nam chúng ta. Bài hát được viết từ một tấm lòng rộng lượng và khiêm nhượng.  Bài Về Với Mẹ Cha và bài Không Phải Là Lúc là hai bài hát tôi rất thích và hát  rất nhiều lần trong các buổi sinh hoạt cộng đồng. Chúng ta nghe những lời Quang trình bày, phân bua, giải thích và lý luận thật logic:

 

Không phải là lúc cứ ngồi đặt vấn đề nữa rồi

Phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới

Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau nghi ngờ nhau khích bác nhau cho cay cho sâu cho thật đau

Không phải là lúc cứ ngồi mà cãi suông

Không tin nơi nhau thế ta định nhờ ai dắt đầu ?

Thế giới ngày nay không còn ma quái thần tượng tàn rồi

Còn anh với tôi chúng ta đi tới bằng cái tầm thường thôi

 

Không phải là lúc cứ ngồi chờ có được tốt đẹp

Mà phải khởi từ nhọc nhằn hay nát bét

Nhìn về xa xăm tin rằng tự chúng ta gây dựng nên

Chính chúng ta đi trong đêm đen ra bình minh

Không phải là lúc ta chờ người cứu luôn

Không ai cho ta cái sức mạnh mà ta chẳng còn

Thế giới này sống không toàn lý thuyết

Bằng lời phẩm bình miệng tranh đấu suông

Bước đi khi chính mình đã đầy tự tin

 

Công bằng nhân ái không phải là những điều nói hoài

Mà tự trời cao vội vàng bay ngay tới

Để tìm cho ra con đường thương mến nhau

Ngang bằng nhau, hãy bước ngay vô trong gian nan, trong khổ đau

Dân chủ tự quyết không phải là phép tiên

Đem ra rêu bốn năm ngày là ta có liền

Lo  công lợi chung không phải cao hứng

Một ngày, vài ngày làm nên vẻ vang

Có chăng khi chúng ta hết sợ thời gian

 

Điệp khúc là lời kêu gọi thiết tha để giải quyết vấn nạn nêu trên:

 

Làm việc đi không lo khen chê

Làm việc đi hãy say và mê

Cứ bắt tay gan lì chúng ta giải quyết

Mình chậm chân đi sau người ta

Còn ngồi đây nghĩ lo viển vông

Thắc mắc ngại ngùng đến lúc nào mới làm xong?

 

     

 
TIẾNG HÁT TỰ DO

 

Tôi nghe Quang hát bài này tại giảng đường Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt.  Quan niệm tự do của Quang rất rõ ràng:

………………………………………………..

Đừng xin chớ nhờ ai. 

Tự do mỗi con người ngay trong cõi lòng đầy vơi

………………………………………………………………….

Tự do nuôi lớn tâm nhau

Cùng nung đúc thêm tình vào

Người chung sông núi

Phải thương nhau với

Việc chi xâm lăng cho máu thịt rơi ?

………………………………….

Tự do khi non nước chia hai

Là chưa nói lên trọn lời

Tự do đem tới

Tình yêu vun sới

Để cho quê hương đất nước cùng vui

Tự do vì giống nòi

Thì không dứng than hoài

Hay phó mặc cho nước tả tơi

Phải vươn sức bàn tay

Để tay nói lên lời

Một nước Việt mà thôi

 

Lời kêu gọi thật thiết tha cảm động. Điệp khúc bài hát là một kêu gào đòi hỏi TỰ DO cho mọi người :

 

Tự do, tự do cho dân giàu cũng như dân nghèo khắp nơi. 

Tự do, tự do cũng như hơi thở người ơi.

 

Nghe Quang hát xong, tôi nói đùa với Quang :"Mày phải sửa lại câu cuối của bài hát cho đúng với nguyện vọng hiện nay của tao và của dân tộc Việt Nam đói khổ hiện nay :  Tự do, tự do cũng như TÔ PHỞ người ơi.  Tao đang thèm một tô phở Ngọc Hiệp ".  Tự do quý hơn cơm áo thật. Nhưng cơm áo lại giam cầm được tự do không cho tự do có thể bay bổng đến với mọi người.  Quang nói với tôi người mê bài hát này nhất là ông Đinh Thạch Bích.  Ngày ấy, Đinh Thạch Bích là một tay hoạt động chính trị sôi nổi và cũng rất thích thanh niên.  Ông ta lập ra một tổ chức tên là Thanh Niên Sinh Viên Tự Do.  Ông Bích là một luật sư.  Ông ăn nói hoạt bát và rất thông thạo tiếng Anh.  Đinh Thạch Bích mê bài Tiếng Hát Tự Do  đến nỗi ông đã dùng ngay bài này làm bài hát chính thức cho tổ chức thanh niên của ông.  Ông rất quý anh chàng Quang Du Ca.  Ông là người dịch nhạc của Quang cho ngài Phó Đại Sứ trong một cuộc đụng độ ly kỳ tại nhà một nhân viên tòa Đại Sứ Mỹ, tôi sẽ kể sau.

 

 
 
ĐƯỜNG VIỆT NAM

 

Quang sáng tác bài Đường Việt Nam sau chuyến đi bằng xe đạp từ Đà Lạt xuống Sài Gòn.  Đoạn đường từ một nơi nổi tiếng là thanh bình trong một đất nước chiến tranh đến thủ đô Sài Gòn chỉ dài 325 cây số.  Năm 1965 đoạn đường này đã có nhiều bất ổn.  Việt Cộng đã đắp mô và chận xe đò tại đèo Chuối, đã giật sập cầu La Ngà.  Mỹ đã dựng chuyện tầu Madow để ném bom Miền Bắc.  Trong chuyến đi xe đạp Đà Lạt – Sài Gòn, khi Quang đi đến cầu La Ngà thì đã được nhiều người khuyên nên trở về để tránh nguy hiểm vì chiến tranh đang gia tăng.  Chiến tranh đã để lại nhiều dấu ấn trên đoạn đường này, mặc dù đoạn đường này không phải là đoạn đường tử thần như nhiều con đường khác ở vùng I, vùng cao nguyên vùng II, vùng Bắc Bình Định … Không biết có phải cảm hứng sau chuyến đi bằng xe đạp Đa Lạt – Sài Gòn này mà Quang sáng tác bài Đường Việt Nam hay không?

 

Bài này có nhiều chất thơ, có nhiều hình ảnh đẹp, diễn tả được cái uy hùng của dân tộc Việt trong mọi cuộc tranh đấu cho đất nước thanh bình và ấm no.  Con đường đó còn nhiều gian nan, nhiều khó khăn và còn rất dài :

 

Đường Việt Nam ôi vô cùng vô tận

Đường ngang tang ngoài biển Nam giữa Trường Sơn

Đường ngày qua đầy vết kinh hoàng

Mỗi xóm làng một dở dang

Đường ruộng ngô đến xóm dừa chưa cùng

Đường ngông cuồng đường trường chinh vẫn ruổi rong

Đường mồ hôi tràn đến lưng đồi

Lúa yêu người hẹn cùng bước rong chơi

Ai từng đi trên đường Việt Nam

Bước âm thầm và tim nát tan

Bao lòng tham chất chứa đầy

Những mưu đồ bạo tàn đang ngăn lối

Nhưng càng mưa giông càng vươn tới

Bước chân hùng còn đi rất hăng

Đi dựng lấy huy hoàng giống da vàng này là vua đấu tranh

Đường của ta đưa ta về thanh bình

Đường an lành đường thảnh thơi những ngày vui

Đường Việt Nam mời những bước chân rời

Sát nhau lại vì đường vẫn còn dài

 

 

 
 
CUỘC SĂN NGƯỜI VĨ ĐẠI

 

Halloween năm 1990 là Halloween đầu tiên của gia đình tôi trên đất Mỹ. Đêm Halloween năm đó trời mưa, tôi dẫn thằng con trai tám tuổi đi xin kẹo như những trẻ con Mỹ.  Chúng tôi tập tễnh hòa nhập vào cuộc sống Mỹ. Chúng tôi cũng đến nhiều nhà gõ cửa và lấy những viên kẹo. Mặc dù hôm đó trời mưa nặng hạt, trời cuối tháng mười tối và lạnh, nhưng có nhiều toán trẻ con đi ngoài đường.  Có toán không có người lớn đi theo, có toán có .  Những bước đi phấn khởi tôi thường thấy trong những ngày hội trên đất nước tôi.  Tối hôm đó cả gia đình tôi xúm lại để xem thằng con trai tôi đếm những viên kẹo.  Halloween năm nay trời rất tốt và hơi lạnh.  Trời trong cao và ít mây trắng.  Một đêm Halloween hiếm thấy vì đêm Halloween của những năm trước trời thường mưa và u ám. Để sửa soạn cho đêm Halloween chúng tôi thường mua kẹo ngon và nhiều loại kẹo để gia đình còn có thể ăn được số kẹo còn lại sau đêm Halloween.  Năm nào tôi cũng mua  trái bí lớn để trang hoàng trước sân. Năm nay con gái tôi mua thêm một trái bí, đục khoét thành mặt người và đốt đèn cầy bên trong.  Trước sân nhà tôi có hai ngọn đèn.  Một ngọn đèn 200 watt chỉ được bật sáng vào những đêm gia đình tôi tiếp đông khách.  Ngọn đèn 60 watt thì thắp sáng suốt đêm.  Tối Halloween tuy trời còn sáng, chúng tôi đã bật cả hai ngọn đèn để báo hiệu cho trẻ con biết chúng tôi sẵn sàng đón tiếp chúng.  Trời sập tối lúc năm giờ ba mươi phút, tôi nhìn ra ngoài đường trông ngóng những con ma xinh tươi đẹp đẽ đến.  Ngoài đường vắng, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua.  Tôi nhìn màn đêm rơi, rơi, rơi mà lòng buồn bâng khuâng.  Tôi nói với vợ tôi :" Năm nay ít hơn năm ngoái, giờ này chưa thấy đứa nào tới.  Hai bà trong Cul de Sac năm nay cũng không thấy dắt mấy đứa con đi xin kẹo ".  Vợ tôi an ủi tôi :" Giờ này tụi trẻ con trong xóm đi tới xóm khác, rồi mới trở về xóm mình ".  Tôi ra phòng khách đốt lò suởi.  Bỗng tôi nghe vợ tôi reo :" Chúng nó tới ".  Tôi vội vàng chụp rỏ kẹo, phóng ra mở cửa trước khi chúng kịp bấm chuông.  Nhìn ba đứa nhỏ trang điểm như ba cô tiên.  Chúng thay nhau đưa những bàn tay nhỏ bé lựa kẹo. Một niềm vui tràn ngập tôi.  Tôi nhìn theo cho tới lúc chúng đi tới người cha đang đứng chờ ngoài xa.   Nửa giờ sau tôi mới được nghe tiếng bấm chuông.  Một cô tiên bé nhỏ lựa kẹo xong.  Cô chưa kịp bước ra, tôi đưa nhẹ rỏ kẹo về phía cô tiên.  Cô tiên nhìn tôi :" More " , tôi gật đầu :" yes ".  Cô tiên nhón thêm 2 viên kẹo thật lễ độ và không tham.  Sau đó chỉ có hai toán nữa viếng thăm nhà tôi.  Chín giờ ba mươi tôi nghĩ rằng không còn đứa nào đến xin kẹo nữa nên tôi nằm dài trên sofa.  Bỗng tôi nghe tiếng chuông.  Tôi vội chụp rỏ kẹo và ra mở cửa.  Tôi chưng hững trước mặt tôi là vợ chồng Dương trọng Cẩn.  Tôi nói :" cũng đi xin kẹo à "  Cẩn cười vui vẻ :" Ừ Halloween thì đi xin kẹo chứ sao ".  Cẩn đến để báo cho tôi biết một tin liên quan tới công ty chuyển tiền Tic Tac. Cẩn bảo rằng FBI đang theo dõi những công ty chuyển tiền để tìm bắt những kẻ rửa tiền. Cẩn bảo tôi nên báo cho Châu biết để Châu đề phòng.  Cẩn nói sau 911 mọi vấn đề trở nên khó khăn.  Tôi trả lời Cẩn: Công ty của Châu là công ty làm ăn rất đàng hoàng nghiêm chỉnh.  Châu không lo mà còn mừng.  Vàng thật không sợ lửa, chỉ có rơm mới sợ lửa. 

 

Tôi nhớ một lần tôi và Lê trọng Huấn đưa Quang ra phi trường SeaTac để Quang trở về CA. Lê trọng Huấn bám sát Quang nói chuyện .  Hai đứa nói chuyện cho đến tận lúc Quang chìa Boarding Card cho ngườì soát vé.  Tôi phải nhắc Huấn :" Mày muốn theo thằng Quang đi CA sao mà chưa chịu trở lại ?".  Nhưng nay hoàn cảnh đã đổi thay, tôi nhớ hôm tôi đưa bà cụ mẹ vợ tôi đi Houston .  Tôi đứng nhìn bà cụ đi qua cửa khám vũ khí lòng đầy lo âu không biết cụ có lên được phi cơ suông sẻ hay không ?  Tôi phải chờ ở chỗ check- in một tiếng rưỡi đồng hồ.  Tôi làm đúng theo lời vợ tôi dặn :" Anh phải ở lại đến lúc máy bay cất cánh mới được về.  Nhỡ có chuyện gì xẩy ra thì sao ?".

 

Tôi nghe tiếng đàn guitar, tiếng hát buồn buồn chầm chậm của Quang từ máy computer :

 

Người bỏ nhau lúc bước vào đời

Rồi hằng đêm bơ vơ đưa người đi mãi

Những oán hờn dồn dập đè nén thêm sâu

Lúc thấy mình làm người được có bao lâu

Người rủ nhau, người rủ nhau đi săn loài người

NgườI rủ nhau đi săn loài người

Kèn gọi quân đêm đêm cho người thức mãi

Mỗi linh hồn dằn vặt cuộc sống lênh đênh

Có bao giờ người sợ loài thú non xanh

Mà giờ đây ngườI thấy lo sợ nhau hơn

………………………………………………………

Người bị săn ngay trên lục địa

Cuộc đuổi sua mênh mông hãi hùng gian trá

Vũ khí nào người dùng để chống can qua

Vũ khí nào người dùng chẳng giết ngay ta

Người rào quanh, người tự giam trong đáy nhà mồ

……………………………………………………………………

 

Stalin, Hitler, Mao trạch Đông, Lâm Bưu, Bin Laden,  những Lãnh Tụ AlQueda, Kim chính Nhất, Sharron … là những kẻ đi săn. Những kẻ bị săn chính là chúng ta. 

 

Còn có những kẻ săn linh hồn con người. Đó là những lãnh tụ tôn giáo.  Họ săn linh hồn con người từ khi con người mới lọt lòng đến lúc con người lìa trần và cả sau khi linh hồn con người vất vưởng trong hư vô. 

 

Bọn săn người và bọn săn linh hồn người cấu kết với nhau.  Chúng biến thế giới này thành nơi đầy sợ hãi.

 

 

 
RUỒI VÀ KÊN KÊN

 

Ngay trong ngày đưa quan tài Trịnh công Sơn tới nghĩa trang tại Sài Gòn. Tại quận Cam ở Cali , Quang đã đứng ra tổ chức một buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn.  Giữa Quang và Sơn chắc chắn không có mối liên hệ thân tình gắn bó.  Như vậy giữa Quang và Sơn phải có một mối thông cảm nào đó của hai nhạc sĩ đồng trang lứa và sống cùng trong thời điểm mà vận nước cực kỳ điêu đứng.  Một số không nhỏ ở quận Cam kết tội Trịnh công Sơn là thân Cộng, thậm chí là đảng viên Cộng Sản.  Họ kết tội nhạc Trịnh công Sơn là nhạc phản chiến, là nhạc ru ngủ, là nhạc của phòng trà với ly cà phê.  Theo họ thì nhạc của họ Trịnh đã góp một phần không nhỏ làm sụp đổ miền Nam .  Trong một bối cảnh chính trị nhậy cảm như vậy, việc tổ chức tưởng niệm nhạc sĩ họ Trịnh phải là một hành động khá liều lĩnh vì dễ bị chụp nón cối.  Một bên Cộng Sản ca tụng đưa Trịnh công Sơn lên tận trời cao để che dấu tội đã bóp chết và giam cầm văn hóa Việt Nam trong nhà giam Xã Hội Chủ Nghĩa.  Còn bên kết tội Trịnh Công Sơn để làm giảm nhẹ trách nhiệm và tội lỗi của họ trong sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam .  Trong buổi tưởng niệm hôm đó nhạc sĩ Phạm Duy đã khóc vì thương cho thân phận cô đơn của người nghệ sĩ .

Trong buổi gập mặt tại nhà tôi chiều ngày 25 tháng 7 năm 2004, Quang kể lại hai buổi trình diễn mà Quang cho là hai buổi trình diễn politic.  Một buổi chiều Quang đang đi bộ trên đường Chi Lăng Phú Nhuận thì một xe quân cảnh chạy sát Quang.  Hai anh quân cảnh nhẩy xuống và mời Quang lên xe.  Mới đầu Quang hốt hoảng, nhưng sau đó Quang được hai anh quân cảnh trấn an và cho biết là tướng Nguyễn cao Kỳ mời Quang đến hát tại câu lạc bộ không quân trong phi trường Tân sơn Nhất.  Khi đến câu lạc bộ Huỳnh hữu Bạc thì Quang thấy  trong hội trường đã đầy người.  Ngồi những hàng ghế đầu là ông Kỳ và những thượng nghị sĩ, dân biểu, chính khách thuộc phe ông Kỳ.  Những hàng ghế sau là những sĩ quan không quân.  Trên sân khấu, nhạc sĩ Phạm Duy đang giới thiệu Miên đức Thắng, Trịnh công Sơn và Lê uyên Phương.  Quang lò dò đi vào hậu trường sân khấu.  Quang vừa vào trong hội trường sân khấu thì Phạm Duy chắp tay nói với Quang :” Tao lậy mày.  Mày đừng hát”.  Ông già đã biết Quang hát như thế nào vào một buổi hát trước đó cũng tại nơi này, nên ông hơi ớn nên mới có câu nửa đùa nửa thật đó.  Quang đứng xớ rớ trong hội trường để nghe Trịnh công Sơn, Miên đức Thắng, Lê uyên Phương hát.  Hơn nửa tiếng sau bỗng hội trường vang lên một nhịp điệu như ta  thường nghe thấy trong các cuộc thi đấu thể thao :”Nguyễn đức Quang, Nguyễn đức Quang …’’ tiếng la chỉ chấm dứt khi Quang xuất hiện trên sân khấu.  Quang hát một loạt mấy bài trong tập Ruồi và Kên Kên.  Khi Quang hát bài Ruồi và Kên Kên thì không khí hội trường thật xôi động.  Phía hàng trên thì ngồi im lặng hoang mang, nhưng những ghế hàng sau thì thật là sôi nổi.  Các sĩ quan trẻ dùng muổng gõ vào ly, vào chén, vào dĩa, vào bàn để cổ vũ sau mỗi bài hát.  Gõ và vung tay, gõ và đứng lên ngồi xuống.  Trên sân khấu Trịnh công Sơn vung tay múa chân theo nhịp hát của Quang.  Mỗi lần đến điệp khúc thì Trịnh công Sơn hát hay nói đúng là gào theo, bất kể trúng trật lời của bài hát.  Quang nói hôm đó Trịnh công Sơn thật là nhiệt tình.  Lê uyên Phương thì tái mặt, Miên đức Thắng thì đã bỏ ra về. Hát xong mấy bài,  Quang chưa chào khán giả thì ông Kỳ đứng dậy.  Ông Kỳ chỉ thẳng vào Quang và nói với cử tọa :”Anh thanh niên kia nói đất nước là một thùng rác lớn.  Đất nước đầy bọn ăn cướp, tham nhũng, nịnh hót, đầy bọn tay sai cho Mỹ, Nga, Tàu, Tây .  Nhưng Kỳ này không phải là bọn người đó. Kỳ này là một quân nhân đã từng vào sinh ra tử. Kỳ này không hèn nhát. Kỳ này không tham nhũng.  Kỳ này không làm tay sai cho thằng Jack thằng John.  Và Kỳ này, Kỳ này …vân vân và vân vân …”  

 

Quang nhận xét đó có thể là một đòn vận động của ông Kỳ.  Quang có ý kiến riêng rằng biết tổ chức vận động kiểu này phải nói là ông Kỳ khá cao tay.  Ông Kỳ có cách giao du với nghệ sĩ đáng để ý hơn các tay lãnh đạo khác.  Đó là một trong dăm ba lần hiếm hoi tập Ruồi và Kên Kên được hát đúng chỗ của nó :  Một Salon Politique. 

Sau đó không lâu ông phó Đại Sứ Mỹ Burger được mời đến nghe Quang hát tại nhà một nhân viên tòa Đại Sứ Mỹ.  Hôm đó Quang cũng trình mấy bài hát Quang vừa sáng tác Ruồi và Kên Kên, Cuộc Săn Người Vĩ Đại, Im Lặng Là Đồng Lõa, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống.  Quang nhờ anh D T Bích làm thông dịch.  Khi Quang hát xong bài Bọn Lái Buôn Ở Khắp Mọi Nơi thì ông Phó Đại Sứ Mỹ đứng dậy và la lớn bằng tiếng Việt :”Anh kia, đứng lại. Miền Nam làm gì có tham nhũng mà anh dám nói là miền Nam là một thùng rác đầy bọn tham nhũng và ăn cắp …’’.  Phản ứng bất ngờ của ông Phó Đại Sứ Burger làm Quang bối rối. Ngay lúc đó anh D T Bích nhẩy ra tranh luận với ông Phó Đại Sứ Mỹ.  Hai bên cãi nhau bằng tiếng Mỹ. Họ cãi nhau rất găng như hai con gà trọi .  Chủ nhà phải lên tiếng làm dịu đi cuộc đấu khẩu …  Hai người cùng nghe Quang hát loạt bài Ruồi và Kên Kên đã biểu lộ hai thái độ khác nhau:  Thái độ khôn ngoan, biết dựa thế của ông Kỳ và thái độ hống hách thiếu hiểu biết của ông Phó Đại Sứ gây ngạc nhiên không ít cho Quang.  Thái độ của ông Phó Đại Sứ Mỹ chỉ rộng lượng hơn ông Quan Thuộc Địa Pháp ngày xưa ở chỗ là ông ta không hô lính bắt nhốt ngay Quang và anh thông dịch vào xà lim … Quang nói: Ra về rồi, hắn vẫn còn ngẩn ngơ vì cái ngớ ngẩn của một nhân viên ngoại giao quyền lực và cao cấp như thế. 

 

Trong cuộc đời ca hát, có lẽ chỉ có mình Quang Du Ca được cái may mắn hát với những giới chức cao cấp, các trung tâm quyền lực của hành pháp, lập pháp, tôn giáo …v..v.. Cái kinh khủng của câu chuyện này là ở chỗ những bài hát của Quang luôn có thái độ, luôn bầy tỏ và  khiêu khích họ trước mọi bất công, tệ nạn chính trị cũng như xã hội.  Nhưng phản ứng của ông Phó Đại Sứ này thì Quang cho là một sự kỳ quái, gây thất vọng cho Quang.

Năm 1969 Quang được mời cầm đầu một ban văn nghệ thanh niên, một ban văn nghệ bỏ túi vỏn vẹn có bẩy người đi trình diễn quanh sáu nước Châu Âu trong thời gian ba tháng.  Chuyến đi đó đã cho Quang một bài học thấm thía .  Hắn đã tiếp xúc được với nhiều nhân vật rất cao cấp ở trong nước cũng như ở ngoài nước.  Quang kể lại là lúc đến phi trường De Gaulle, trong số ba mươi người ra đón phái đoàn thì chỉ có một người ra đón Quang, còn hai mươi chín người kia bao vây quanh Khánh Ly, Thanh Lan, Phương Nga và Thanh Tâm.  Nhưng ngày về thì ngược lại.  Hắn được dự một buổi tiếp tân khoản đãi duy nhất của Tổng Hội Sinh Viên ở Paris dành cho riêng hắn.  Khi ra phi trường để trở về Việt Nam , hàng trăm sinh viên và kiều bào đã  chạy theo hành lang vẫt tay chỉ để tiễn chân một người mà họ gọi là NGƯỜI THANH NIÊN CỦA VIỆT NAM . 

 

Nhưng những gì nhìn lại đất nước từ một nơi xa xôi đó, tiếp xúc với những giới chức trong và ngoài xứ sở, niềm tin của Quang bị sói mòn hơn là tăng trưởng.  Cho nên trở về hắn đọc lại cuốn sách Lối Thoát Cuối Cùng của Nguyễn Văn Phước tặng hắn lúc chia tay ở Thủ Đức.  Quang nghiền ngẫm rồi hắn viết liền một mạch xong tập Ruồi Và Kên Kên gồm 11 bài trong có hơn một tháng trời.  Hắn kết thúc tập Ruồi Và Kên Kên đúng mùa Giáng Sinh năm 1969 với bài Cho Đồng Bào Tôi.   

 

Loạt bài trong tập Ruồi Và Kên Kên là sự phẫn uất tột độ của Quang đối với cuộc chiến và xã hội thối nát.  Quang nói cả hai bên, không một nhân nhượng cho phía nào.  Như tôi đã nói, mỗi bài hát trong tập này cần đến một bài viết dài để giải bày và phân tích.  Với những đề tài sát cạnh hơn tập Trầm Ca, chúng ta có thể nhìn sơ qua để thấy tập hát có những gì :  Im Lặng Là Đồng Loã, Người Gắn Lên Tôi, Người Đã Giúp Ta, Cuộc Săn Người Vĩ Đại, Phòng Thí Nghiệm Công Cộng, Bọn Lái Buôn Ở Khắp Mọi Nơi, Hoàng Hôn Của Một Lớp Người, Vụ Án Cuối Cùng, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống, Cho Đồng Bào Tôi …  Chỉ đọc qua các tựa đề bài hát, chúng ta thấy hết những điều Quang muốn nói, những đề tài nó đã đập vào đầu óc hắn qua một loạt hình ảnh và tình hình của đất nước lúc bấy giờ.

 

Qua bài Ruồi Và Kên Kên chẳng hạn, chiến tranh và tệ nạn xã hội, buôn bán chủ nghĩa và buôn bán xác chết đã biến cả hai miền đất nước thành một thùng rác và một nghĩa địa. Tôi nghĩ không có lời tố cáo nào mạnh mẽ hơn:

 

Chỉ một kẻ cướp khắp xóm cùng làng lo sợ bối rối

Một người lừa dối sẽ khiến mọi người e ngại sớm tối

Vậy mà một nước có đến hàng ngàn nhân vật ăn cướp

Lường gạt tình nghĩa bán chức hại người buôn từng xác chết

……..

Một người bợ đỡ đã thấy đời mình ê chề quá lắm

Một đời đầy tớ thấm thía nhọc nhằn trăm ngàn cay đắng

Vậy mà cả nước có đến hằng ngàn tên hề nịnh hót

Nhục hình chồng chất đã mấy chục đời theo người liếm gót

……

Một chủ tịch đó cũng khiến mệt vì thi hành chính sách

Và một tổng thống cũng khiến mọi người trông chờ đỏ mắt

Lạ lung một xứ có đến chục người lãnh đạo đất nước

Người Nhật, người Mỹ, Pháp, Đức, Đại Hàn, Nga, Tầu, Tiệp Khắc

…….

Chỉ cần một nước ngấp nghé là mình vất vả và nguy khó

Chỉ cần một nước cố vấn là mình khốn khổ trăm thứ

Vậy mà mình có đến những hằng chục nước bạn nâng đỡ

Hàng ngàn lời hứa cứu giúp hòa bình hưng thịnh kinh tế

…..

Một trận loạn đả cũng khiến mọi người trong ngoài lo lắng

Một ngày nổ súng đã khiến người sợ đến lòi mắt trắng

Vậy mà một nước có đến triệu người ném vào cuộc chiến

Từng ngày từng bữa sắp hết cuộc đời chưa hề ngưng bắn

 

Ta hãy nghe lời điệp khúc của bài này, để hiểu rõ vì sao mà Trịnh công Sơn phẫn nộ gào thét theo Quang bất kể lời ca trúng trật trước các ông tai to mặt lớn ngồi ở dưới.  Họ hát bằng tấm lòng yêu nước nồng nàn bất chấp mọi hiểm nguy.  Tôi nghĩ từ hôm đó giữa hai người nhạc sĩ trẻ đã nẩy ra mối thông cảm nhau vì họ cùng có tấm lòng nhiệt thành và phẫn nộ trước vận nước tả tơi.

 

Đó anh, xem đây quê hương tôi một thùng rác lớn

Đó anh, xem đây quê hương tôi một thùng rác lớn

Đó anh, nơi đây đang vây quanh một đàn ruồi xanh

Đàn ruồi xanh, ruồi xanh, ruồi xanh

….

Đó anh, xem đây quê hương tôi một vùng xác chết

Đó anh, xem đây quê hương tôi một vùng xác chết

Đó anh, nơi đây đang vây quanh một bầy kên kên

Bầy kên kên, kên kên, kên kên

 

 

 
IM LẶNG LÀ ĐỒNG LÕA

 

Tôi nghe hắn hát như một lời tâm sự, hắn trình bày về thảm trạng đất nước gần như tới tàn cuộc.  Nếu không nói ra được, nhắc nhau được thì những điều cao đẹp nhất cho một dân tộc coi như trôi đi luôn vì cái xấu và kẻ xấu đang thắng thế. Hắn là một tiên tri cho vận mệnh Việt Nam ?  Hơn thế nữa, chúng ta sẽ thấy lời tiên tri rõ ràng hơn nữa trong bài Im Lặng Là Đồng Lõa. 

 

Bài hát này bắt đầu bằng sự sánh kể từ khi Do Thái lập quốc thì Việt Nam bắt đầu cho cuộc nội chiến để sau đó lôi kéo khắp nơi nhẩy vào dầy xéo :

 

Khi Chúa cho con hoang trở về, nhìn thấy quê hương vui tràn trề là Việt Nam , chịu ân oán cho cuộc tranh đua

Bao nước vây chung quanh đòi nợ, bị đóng đinh trên cây thập tự, một dân tộc trả bằng máu hai chục năm qua

….

Khi bỗng dưng giam trong ngục tù, Rồi bỗng dưng mang thân tội đồ, Phải gào lên, người còn trái tim cùng âu lo, Khi bỗng dưng lao đao đọa đầy, Nợ của ai đem ta trả hoài, Người dân mình bị dẫm nát như loài giun thôi

Khi bỗng dưng xô ta vào trận, Rồi bỗng dưng ăn bom chịu đạn, Để lầm than, cùng nỗi chết như rượu lên men, Khi chúng ta tim không hận thù, Rồi bỗng dưng chia đôi mịt mù, Cuộc tương tàn, được trút xuống đốt sạch quê hương

Khi chúng ta quay lưng im hơi, Khi chúng ta không buông thành lời, Bọn mưu toan, bọn gian ác quái vật lên ngôi, Khi chúng ta yên thân phận mình, Khi chúng ta không ai thật tình, Là kéo dài một cuộc sống trăm phần điêu linh.

 

Rồi Quang đã kêu gọi mọi người hãy đứng lên, hãy nói lên, hãy gào lên, hãy đòi hỏi, hãy tranh đấu.  Bởi vì không làm như vậy thì trái với lương tâm, lịch sử sẽ không tha thứ, là đồng lõa với bọn sát nhân, là kéo dài cuộc sống điêu linh.  Trên Quang trình bầy lý do tại sao phải lên tiếng.  Phần điệp khúc là lời mời, lời kêu gọi vừa tha thiết và khẩn thiết : Hãy lên tiếng tức là hãy đấu tranh để đòi lại cho chúng ta những cái gì đã mất vào tay của bọn kẻ cướp.

….

Giờ lên tiếng nói cho cùng, vì lương tâm chúng ta chưa mòn, vì vẫn lo tương lai nguy nàn, bọn đầu cơ càng thêm lớn.  Cuộc phiêu lưu đã bao ưu sầu, và đắng cay thương đau đã nhiều, tội không làm đền một kiếp chưa vừa hay sao

Nào lên tiếng, nói cho cùng, Lặng im lâu sẽ nuôi gian hùng, Để chúng leo lên trên thân mình, Rồi tràn lan, cười vui sướng, Gọi lương tâm khắp nơi thức dậy, Nhìn chúng ta tan hoang rã rời, Lịch sử nào mà tha thứ cho ngày hôm nay

Phải lên tiếng, tiếng oán hờn, Đòi cho ta những cơn gió hiền, Một thoáng ru trong đêm thanh bình, Đòi chồng con, được yên sống, Lừa ta trong chiến tranh thiên thần, Người chết đi hai bên thua trận, Sự im lặng là đồng lõa với bọn sát nhân.

Nào lên tiếng, nói cho cùng, Bị đi theo những tên điên khùng, Đời sống đu trên giây hãi hùng, Bị hàm oan và tai tiếng, Bọn tham lam đã buôn nhân loài, Và sẽ che cho đêm thêm dài, Sự im lặng là đồng lõa với họ, ai ơi.

 

Tôi không thấy, không nghe một lời buộc tội nào đanh thép, thẳng thắn, hùng hồn và mạnh mẽ và một lời kêu gọi nào tha thiết và cam đảm hơn.  Ngay những nhạc sĩ như Trịnh công Sơn, Phạm Duy, Tôn thất Lập, Miên đức Thắng… cũng không thể nói được một phần. Nhà nước Cộng Sản hiện nay cũng không dám nhắc đến những bài hát này.  Như Quang nói : “….Và kỳ lạ ở chỗ, đến bây giờ nếu chúng ta có hát ra, nó cũng như mới viết đâu đó.”

 

 

 

(còn tiếp) 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Jul/2010 lúc 9:02am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 9:14am

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

   (6)  

 
 
 

KẾT LUẬN

 

PHƯƠNG OANH, giáo sư âm nhạc :  Từ lúc gặp ban Trầm Ca tôi thấy đường lối hoạt động của các bạn hợp với mình, nên "nhảy" vào.  Ban Trầm Ca lúc đầu chỉ có năm anh chàng, bây giờ có thêm một giọng nữ nữa là sáu (Nguyễn đức Quang, Trần trọng Thảo, Hoàng kim Châu, Đinh gia Lập, Hoàng thái Lĩnh, Nguyễn quốc Văn và Phương Oanh) .  Sau khi Quang và các bạn "di dân" từ Đà Lạt xuống Sài Gòn, lúc đó, thật sự chúng tôi đã đến sinh hoạt thường xuyên với các sinh viên, học sinh và trong môi trường này, tôi thường gặp Khánh Ly với Trịnh công Sơn.  Hai lối trình diễn, hai lối suy nghĩ khác nhau giữa Quang và Sơn, và hai cách xuất hiện trước công chúng khác nhau giữa tôi và Khánh Ly, đã làm sinh viên từ Sài Gòn đến Huế thích thú, say mê.  Tình bạn chúng tôi đến bây giờ cũng vẫn như những ngày đầu gặp gỡ.  Một lối viết nhạc, nói lên tâm trạng bi quan, về quê hương, cuộc đời, xã hội, ủy mị tìm quên qua ly cà phê, qua ly rượu đắng.  Một lối viết nhạc, nói lên cái thao thức của một dân tộc bị chia xẻ, bị người ta điều khiển giống như con tốt trên bàn cờ, dù bị trị, nhưng lời hát vẫn bộc lộ sự can cường, un đúc tinh thần để cùng đứng lên, lo cho tương lai đất nước.  Trong lúc nhạc của Sơn được phổ biến rộng rãi tại các phong trà, quán nhạc, thì ngược lại, nhạc của Quang đã được giới sinh viên, học sinh biết tới, qua các trại làm công tác xã hội.  Một số lớn nhạc của Quang và Sơn được giới trẻ đón nhận và xử dụng trong các dịp sinh hoạt chung, tạo nên một bầu không khí lành mạnh.

 

BAN TRẦM CA :  Nguyễn đức Quang không viết nhạc từ bốn bức tường khô ở thành phố.  Hầu hết các nhạc của Nguyễn đức Quang đã được viết ngay trên đường lưu diễn và công tác.  Nhạc của Nguyễn đức Quang không phải là những mây những gió, của quá khứ mà là những lưỡi dao cạo muốn nạo sạch những thảm cảnh của hiện tại và cũng là những ngọn giáo nhọn vạch thẳng hướng vào tương lai.  Nhạc của Nguyễn đức Quang không phải là những lời hô hào suông.  Nguyễn đức Quang không đứng đằng sau viễn vọng kính để nhìn những thảm cảnh.  Nguyễn đức Quang đã tham gia vào những công tác xã hội từ vùng giới tuyến hực lửa chiến tranh đến miền Trung khô cằn xơ xác và đi dài xuống đồng bằng phù sa Cửu Long.  Chính Nguyễn đức Quang đã cầm cuốc đắp nền, lợp mái, đắp đường, đốn cây, đào giếng, khuân đá, làm từng căn nhà vệ sinh cho đồng bào ta … và mồ hôi của Nguyễn đức Quang đã trộn lẫn với đất cát nóng cháy cùng với cơm hẩm nghèo nàn.

 

NGUYỄN ĐẠM GIANG, nhà báo :  Nhạc sĩ Nguyễn đức Quang, một người đã cống hiến tất cả tuổi trẻ của mình để gào thét cho một đất nước Việt Nam kiêu hùng với nền dân chủ, tự do đích thực cho con người.  Hơn nữa, bây giờ với tuổi đời còn lại, anh cũng vẫn sẽ làm như vậy và còn hiến dâng nhiều hơn nữa.  "… Tự do là niềm khao khát sục sôi.  Việt Nam thao thức hoài… Tự do cũng như hơi thở người ơi."

Đấy, con người đích thực của anh là ở chỗ đó. Và cũng vì đó mà anh đã được đón nhận của biết bao nhiêu người cùng và khác thế hệ.  Sự thành công của anh trong mỗi lần xuất hiện, có lẽ cũng là một điều hiển nhiên thôi …

 

NGUYỄN XUÂN HOÀNG, nhà văn :  … Vâng, tôi muốn nói nhạc của Nguyễn đức Quang sẽ thuộc về hiện tại và mặt đất bao lâu mà xã hội chúng ta vẫn còn những bọn lái buôn (ở khắp mọi nơi), còn những em bé ngồi khóc bên vỉa hè, còn những trẻ lang thang ngoài đường phố, không nhà cửa, không người thân; bao lâu vẫn còn quanh đây những ruồi (nhặng) và kên kên; … thì nhạc Nguyễn đức Quang vẫn còn tác động trên cuộc sống chúng ta…  Bắt chước một nhà nghiên cứu phê bình văn học, chúng ta có thể nói được điều này :  Nhân vật trung tâm của âm nhạc là người nhạc sĩ.  Nhưng sự phát triển của âm nhạc tùy thuộc vào nhiều nhân tố khác. Đó là tài năng và nhân cách.  Tài năng là cái trời cho, chỉ có thể bồi đắp chứ không thể đào tạo.  Nhưng nhân cách thì ai cũng cần phải có. Đôi khi nhân cách còn quan trọng hơn cả tài năng.  Và người ta chỉ thực sự có nhân cách khi biết sống vì những lẽ phải lớn, biết giữ được lòng trong sáng, và biết trung thực trước mỗi thử thách của cuộc sống.  Không có nhân cách thì sẽ hoặc ngông nghênh vô lối, hoặc khúm lúm xu thời … Nguyễn đức Quang, hơn là một nhạc sĩ tài năng, anh là một con người nhân cách. Điều đó càng làm cho âm nhạc anh lớn hơn cái chiều cao nó vốn đã có. Điều đó càng làm cho người ta càng quí Nguyễn đức Quang hơn và yêu âm nhạc của anh nhiều hơn.

 

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN, nhà văn :   Nguyễn đức Quang là một trong những người có công xây dựng và làm lớn phong trào du ca ở miền Nam trước 1975.  Du ca có nghĩa là đi đây đi đó để hát.  Các buổi trình diễn như thế thường diễn ra tại các sân trường đại học, các giảng đường, sân vận động, các trại hè hay một nơi nào đó có những sinh hoạt cộng đồng và đám đông tụ tập, vào thời ấy có thể là một trại tị nạn, mục đích chính là để “hát cho nhau nghe”, cho đỡ buồn, để thắp lại hy vọng … Chiến tranh vừa xua đuổi vừa bao vây, người ta không còn biết chạy đi đâu cho thoát.  Cũng không ai biết đến bao giờ chiến tranh mới chấm dứt.  Phong trào du ca được hình thành trong những ngày khốn khổ đó …………..  Một trong những đặc điểm của loại nhạc du ca này là nội dung thường phản ảnh tâm sự của đám đông chứ không phải của cá nhân, giai điệu giản dị, một người xướng lên là những người khác có thể hát theo được ngay, và hầu hết bài nào cũng có vẻ gì đó giống như những bài kinh cầu nguyện……………….  Nguyễn đức Quang có đủ các điều kiện để thành công trong “thế giới du ca” của ông:  đàn ngọt, hát hay, có duyên, nắm vững nghệ thuật nói trước đám đông, trình diễn nồng nhiệt………  Có lẽ vì khởi nghiệp như một ca sĩ du ca nên nhạc của Nguyễn đức Quang có nhiều yếu tố thích hợp để đem trình diễn trước đám đông.  Cũng có thể vì sự thành công của ông khiến người ta có ấn tượng như thế (tri’ch trong bài Nguyễn đức Quang với du ca một thời).

 

PHẠM DUY, nhạc sĩ :

Giới trẻ còn hưởng ứng tâm ca một cách tích cực, nghĩa là chấp nhận tâm ca rồi tham gia vào việc sáng tạo.  Một số anh em thành lập những nhóm ca hát ở nhiều nơi rồi sau này đặt tên là PHONG TRÀO DU CA.  Phong trào này bành trướng trong giới trẻ về cả phương diện địa lý nữa, khi nó ra khỏi Sài Gòn để đi về các trường Đại Học trong nước, từ Miền Nam ra miền Trung lên Cao Nguyên, xuống Hậu Giang.  Các Hội Đoàn lớn, các phong trào của người lớn cũng hưởng ứng theo.  Phong trào du ca ra đời quy tụ một số nhạc sĩ trẻ, chấp nhận lối soạn những bài ca phi thương mại và nói thẳng vào xã hội Việt Nam , cũng như chấp nhận lối hát chung với nhau mà họ sẽ gọi là hát cộng đồng.  Những du ca viên sau này sẽ trở thành những du ca trưởng như Nguyễn đức Quang, Giang Châu, Ngô mạnh Thu …  đưa ra những bài ca mới, đi theo đường lối nhận diện lại quê hương của tâm ca.  Đó là những bài mang tên Quê Hương Ta Đó, Đến Với Quê Hương, Đi Vào Quê Hương, Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương …  Điểm son của Tâm Ca và những bài hát Du Ca là ở chỗ dám nói lên cái bi đát của thời đại nhưng không hề có sự tuyệt vọng.  Nguyễn đức Quang khẳng định:

 

Xin nhận nơi này làm quê hương dẫu đang chiến tranh

Xin nhận nơi này làm quê huơng dẫu chưa thanh bình

…….  dẫu đang khó khăn

…….  dẫu chưa ấm êm

Và nói lên niềm hi vọng:  Hi vọng đã vươn lên trong nhọc nhằn trong nước mắt …  như làn tên đang rực lên trong màn đêm.

 

Quê hương đang rách nát, xã hội đang ngả nghiêng, những toán du ca rủ nhau đi khắp mọi nơi để mời mọi người cùng hát bài Về Với Mẹ Cha của Nguyễn đức Quang:

 

Cùng đi xoay Hoành Sơn

Cùng đi lay Trường Sơn

Cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm

Vượt khơi ra đảo xa

Lướt ngàn nước sông nhà

Ta đắp bồi cho mẹ cha..

Từ Nam Quan, Cà Mâu

Từ non cao rừng sâu

Cùng nhau do non nước xây cầu

Người thanh niên Việt Nam quay về với xóm làng

Tiếng reo vui rộn trong lòng …

 

Nói cho cùng, tâm ca hay du ca cũng chỉ là những bài tuyên truyền mà thôi, nhưng ở đây, người thanh niên tự nguyện làm công việc vận động quần chúng chứ không phải bị chính phủ hay một tổ chức chính trị nào ép buộc phải làm.  Việc làm này cũng chẳng mang lại cho họ một quyền lợi tài chánh to nhỏ nào cả … 

 

TRẦN VĂN CHANG, ctkd I : …………….Tôi không nhớ rõ đã gặp Nguyễn đức Quang lần đầu bên đống lửa nào.  Chúng tôi tham dự quá nhiều trại công tác, đi quá nhiều nơi trong thời gian theo học tại VĐHĐL.  Tôi chỉ nhớ là chúng tôi đã ngồi bên đống lửa suốt đêm để hát hết trường ca " Con Đường Cái Quan ", " Mẹ Việt Nam " và một số những bài hát mới mà tôi không biết do Quang đã sáng tác.  Tôi khâm phục chàng thanh niên tuy gầy như que nhưng dai sức hơn người, suốt ngày vác gỗ, vác tre, trộn hồ, dựng nhà, lợp mái .v.v… để lập làng định cư cho đồng bào tị nạn, tối đến lại ngồi đàn hát suốt đêm.  Không bao giờ than mệt, chẳng bao giờ phàn nàn.  Ngày cuối cùng, chúng tôi thường hẹn sẽ gập nhau ở trại khác.  Sau đó, đứa có thể về trại Suối Thông, đứa đi ra đảo Bình Ba hoặc lúc tôi đang ở Long Xuyên thì Quang có thể đang ở Quảng Trị.......

 

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA : …..  Ruồi và Kên Kên là tập nhạc gắn liền với thân phận của con người và đất nước Việt Nam mà cho đến nay tôi vẫn nghĩ nó vẫn thế mà thôi. Đây là tập nhạc rất ít người được nghe.  Và kỳ lạ ở chỗ đến bây giờ nếu chúng ta có hát ra, nó cũng như mới viết…….

……Tôi nhớ khi phát khởi phong trào Du Ca mà lo tổ chức sinh hoạt cho các bạn trẻ ở Việt Nam   vào năm 1965 , 1967 chúng tôi đã phạm phải một sai lầm rất lớn.  Lúc bấy giờ chúng tôi không bao giờ để ý đến kỹ thuật thời đại và những yếu tố thị yếu .Chúng tôi thích bó mình trong nơi lành mạnh sạch sẽ, thành ra chúng tôi ngồi ca hát với nhau, hát đơn giản với một cây đàn và một tâm hồn trong sáng.  Chúng tôi không nghĩ làm sao để phổ biến những tác phẩm này. Chính vì lý do đó mà đến khi luồng nhạc kế tiếp và những phản ứng chung quanh tạo ra những anh em trẻ khác thì các anh em này đi nhanh hơn anh em du ca. Phong trào nhạc trẻ, bạn Trịnh công Sơn, Vũ thành An, Ngô thụy Miên v.v… họ đều thành công bởi vì họ đều đi qua phương tiện chuyên chở của thời đại  là máy c***ett là những ca sĩ, những giọng hát, là sân khấu trình diễn.  Rút từ những khuyết điểm đó cộng với những kinh nghiệm sau một thời gian đi sinh hoạt với các bạn trẻ thì mới biết rằng những tác phẩm nào qua được CD và Karoke thì lập tức có kết quả.  Chúng ta muốn đưa những tác phẩm đến các bạn trẻ có lẽ chúng ta cũng phải nhờ đến các kỹ thuật âm thanh mới và tiếng hát chuyên nghiệp của bạn trẻ chuyên trở dùm để bài hát của mình có thể đi đến được vớI các bạn trẻ ở mọi nơi…."

 

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ :  Trên đây tôi chỉ viết 1% về cuộc đời của Quang.  Tôi chẳng biết gì về thời thơ ấu của hắn tại miền Bắc.  Tôi chẳng biết gì thời học trò của hắn tại trung học Bồ Đề và Trần Hưng Đạo Đà Lạt.  Tôi chẳng biết gì về những hoạt động của hắn trong phong trào Du Ca.  Tôi chẳng biết gì về hiện tại của hắn.  Nhưng tôi biết hắn mang những khối tình lớn trong tim:

 

1.         Tình quê hương.  Hắn đã thể hiện mối tình này bằng lời nói, việc làm ngay từ lúc hắn còn là một thiếu sinh cho đến ngày nay và có lẽ cho đến lúc hắn nhắm mắt. Hắn thể hiện mối tình này với con tim nồng cháy và một trí óc minh mẫn, trong sáng và bất vụ lợi . Điều này rõ ràng, chắc không ai phủ nhận, bài bác được.  Ngày nay mọi người ai cũng phải nói như tôi :" Nguyễn đức Quang là người có công với đất nước vì đã sáng lập ra phong trào Du Ca .  Anh ta là một người yêu nước".

 

2.         Tình gia đình.  Trước khi lấy vợ hắn có tình ái lăng nhăng không? chắc chắn có.  Lăng nhăng với bao nhiêu cô ?  tôi không biết.  Nhưng khi hắn làm đám hỏi với Minh Thông thì tôi không thấy và không nghe ai nói hắn có tình ái lăng nhăng vụng trộm. Hôm ở nhà Châu văn Chi’nh, hắn đã hát cho chúng tôi nghe bài LY KEM.  Theo hắn bài LY KEM là bài hát hắn sáng tác trong thời gian hắn và Nguyễn thi Minh Thông yêu nhau.  Hắn sáng tác bài này sau lần hắn và Minh Thông ăn kem ở nhà Thủy Tạ trên Hồ Xuân Hương.  Minh Thông vật ngã hắn tại trận với tám ly kem liền tù tì. Năm sáu mươi hắn thổ lộ với chúng tôi lý do hắn yêu người con gái đó và rồi nhất định cưới cho bằng được.  Những bản nhạc tình hắn vừa mới sáng tác đều mang kỷ niệm về Đà Lạt .  Hắn đã hát cho Minh Thông nghe trước khi đi trình diễn tại Úc.

 

3.         Tình bạn bè.   Quang là một người giản dị.  Bạn của Quang là du ca viên nhiều tinh thần phục vụ tha nhân.  Bạn của Quang là Hướng Đạo viên nhiều tinh thần giúp ích.  Bạn của Quang là sinh viên CTKD nghịch ngơm và trong sáng.  Bạn của Quang là nhân viên phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt hiền hòa và chân thật.  Quang đối với bạn nghèo cũng chân thật như bạn giầu.  Một người thân thiết với Quang nhất có lẽ là nhạc sĩ Phạm Duy. Đối với Quang Phạm Duy như một người anh.  Từ lúc gập Phạm Duy lần đầu tại trại Công Trường Thanh Niên Tự Do cho đến bây giờ hai người vẫn gắn bó với nhau trong công việc phục vụ nghệ thuật.  Một hình ảnh rất là cảm động giữa Phạm Duy và Quang mà tôi đọc được trong bản tin của tờ Việt Báo. Trong đêm nhạc thính phòng để kỷ niệm sinh nhật thứ tám mươi tư của nhạc sĩ Phạm Duy. Trong buổi tối hôm đó một số bài Hương Ca  và Minh Họa Kiều III của Phạm Duy được trình diển.  Ngồi bên cạnh Phạm Duy tối hôm đó là ca sĩ Thái Thanh là giọng ca gắn bó với sự nghiệp âm nhạc của ông.  Bên phải ông là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đi cùng với ông từ thửa Quang mới hai mươi cho đến nay cả hai vẫn tiếp tục đi trong sự nghiệp phục vụ quê hương và dân tộc bằng tài năng âm nhạc.  Ngày xưa là Tâm Ca và Trầm Ca. Ngày nay là Hương Ca và Hành Trình Của Một Mối Tình.  Mong lắm thay.

 

Trong bài này phần lớn là tôi trích dẫn lời hoặc ý của người khác nhiều nhất là trên trang Web Du Ca.  Tôi xin cám ơn những vị có lời hay ý mà tôi đã trích dẫn trong bài này.  Xin chào.

 

                                Nguyễn Đức Quang Già Cơ

 

 

 

***  Viết thêm.  Tôi đọc được một bài viết của Trưởng Phong Châu viết về một câu truyện liên quan đến Quang Du Ca.  Bài viết có tựa đề :” Có … Mười Ba Trại Sinh “ được đăng trong Đặc San Hướng Đạo Việt Nam , Xuân Bính Tuất 2006.  Xin trích lại nguyên văn bài viết, chỉ xin thêm một chú thích nhỏ :  Quang đã đạt được những danh hiệu sau trong cuộc đời hoạt động Hướng Đạo :  Đội Trưởng Nhất thiếu Đoàn Lê Lợi, Bầy Trưởng, Toán Trưởng toán Sóng Việt. 

 

 

 

Có … Mười Ba Trại Sinh

                                                        Phong Châu

 

Có thể nói không ngoa la dân Hướng Đạo Đà Lạt chung tôi được thiên nhiên ưu đãi vô  cùng.  Thật vậy, bối cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa nên thơ là một hấp lực hết sức mãnh liệt đối với chúng tôi là đám thiếu niên đang lớn, đầy sinh động, hiếu kỳ và háo thắng …

Đà Lạt hùng vĩ với đỉnh núi Langbian mây trắng phủ quanh năm ở về phía bắc thành phố.  Còn về phía nam thì có một dãy núi với hình dáng của một ông voi khổng lồ nên được gọi là núi Voi.  Rất nhiều địa danh khác chẳng xa lạ gì với chúng tôi.  Nếu là thác thì nào là thác Prenn, thác Datanla, thác Cam Ly, thác Gougah, thác Pongour … Suối thì có suối Tía, suối Tiên, suối Vàng, suối Bạc, suối Thông … Hai ngọn đồi nổi tiếng Lappe’ Nord, Lappe’ Sud rồi hồ Than Thở, thung lũng Tình Yêu, rừng Ái Ân, Tour de Ch***e …

 

Nếu nói là dân Hướng Đạo Đà Lạt mà chưa một lần leo lên tận đỉnh Langbian để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng và thiêng liêng như cụ BP đã tả trong cuốn Đường Thành Công ở đoạn “ Một mình trên dãy núi Andes “ là một sự thiếu may mắn.

Một số đoàn sinh chúng tôi đã từng vượt lên đỉnh núi nhiều lần.  Mỗi lần được đứng trên đỉnh núi là mỗi lần chúng tôi tự hào như những kẻ chiến thắng.  Chiến thắng là vì đã chinh phục được hiểm trở, khó khăn.  Đó cũng là những thử thách về thể chất lẫn tinh thần, vào tuổi đầu đời của tuổi niên thiếu.  Nhưng óc hiếu kỳ và tinh thần mạo hiểm của chúng tôi vào thời đó đôi khi cũng đã làm phiền lòng đến những người chung quanh không ít.

 

Khi mới chân ướt chân ráo vào Hướng Đạo, tôi đã nghe nhiều trưởng và các anh thiếu sinh lớn kể câu chuyện về một thiếu sinh tên Lâm Anh của thiếu đoàn Quang Trung vì có mạo hiểm nên khi tham dự trò chơi lớn ban đêm đã bị thất lạc trong rừng Suối Tía và phải mất hai ngày hai đêm mới tìm được đường trở về.  Một thời gian sau tôi gập anh Lâm Anh và được chính anh kể lạicâu truyện trên.  Trong thiếu đoàn Lê Lợi chúng tôi cũng có một trường hợp đã xảy ra, tuy tính cách có khác với trường hợp của thiếu sinh Lâm Anh nhưng khi sự việc xảy ra cũng đã gây “ tiếng vang “ cho Hướng Đạo ở Đà Lạt vì sự mất tích của mười ba Hướng Đạo Sinh khi đi cắm trại.

Vào khoảng tháng 3 năm 1959, Đội Trưởng Nguyễn Đức Quang tổ chức trại liên đội Voi và Sóc.  Theo qui định thì trại đội chỉ được phép tổ chức để đưa đội sinh đi cắm trại trong ngày mà thôi, nghĩa là sáng sớm đi, chiều tối về chứ không được ở lại qua đêm như trại đoàn.  Trại do đội trưởng và đội phó tổ chức.  Địa điểm, thời gian và chương trình sinh hoạt trại phải nộp cho Thiếu trưởng hai tuần trước ngày lên đường.  Đội trưởng Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn đã làm đủ mọi thủ tục cần thiết cho cuộc cắm trại liên đội mà nhân số lên đến mười ba người.

 

Đúng sáu giờ sáng tất cả mười b trại sinh đều có mặt tại bùng bình phun nước cạnh đòi Cù với ba lô, dụng cụ đầy đủ.  Trưởng Nguyễn Minh Hoàng là Thiếu Phó va tôi là Đội Trưởng Nhất đều có mặt lúc mười ba Hướng Đạo Sinh trong bộ đồng phục áo vải màu nâu quần soọc xanh, vớ cao và nón rộng vành lên yên xe khởi hành về phía nam thành phố để đổ đèo về hướng thác Prenn.

 

Thiếu Trưởng Nguyễn Văn Võ, hai Thiếu Phó lê Thuần và Nguyễn Minh Hoàng cũng như tôi rất yên tâm  và tin tưởng vào hai Đội Trưởng giỏi Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn, chỉ chờ đến chiều để biết mười ba trại sinh về nhà vui vẻ và an toàn.  Khoảng bốn giờ chiều hôm ấy tôi đạp xe đến nhà Trưởng Nguyễn Văn Võ ở đường Minh Mạng, một lát sau, hai Trưởng Lê Thuần và Nguyễn Minh Hoàng cũng có mặt.  Chúng tôi chờ sự xuất hiện của Nguyễn Đức Quang hay Cao Duy Tuấn để biết diễn tiến của kỳ trại.  Bình thường thì khoảng năm sáu giờ chiều thì các trại sinh đã về đến thành phố và Đội Trưởng phải đến nhà Thiếu Trưởng để cho biết việc “đi đến nơi về đến chốn” trước khi về nhà mình.

 

Sáu giờ chiều, trời bắt đầu sụp tối mà chúng tôi chưa thấy bóng dáng Nguyễn Đức Quang hay Cao Duy Tuấn.  Chờ cho đến bẩy giờ thì Trưởng Nguyễn Văn Võ bải tôi lấy xe đạp đến nhà Quang xem anh ta về chưa.  Tôi vâng lời và chỉ trong độ mười phút sau là tôi đã đến nhà Quang, gập bà cụ.  Thấy tôi, cụ hỏi :” Không đi trại với Quang?”  Tôi trả lời :” Dạ thưa không?”.  Thế là tôi biết Quang chưa về đến nhà.  Cụ bảo tôi ở lại choi, chờ Quang về cùng ăn cơm luôn.  Tôi xin phép đi và hứa chốc nữa Quang về sẽ ghé.  Tôi trở lại nhà Trưởng Võ và đề nghị cho tôi đạp xe đến nhà vài trại sinh nữa xem sao nhưng các Trưởng nói là không nên.  Đã gần tám giờ, tôi thấy cả ba Trưởng đều tỏ vẻ lo lắng và rồi hội ý với nhau những gì tôi không rõ.  Tôi đứng chờ các Trưởng nhờ việc gì là tôi làm việc đó mà thôi.  Trưởng Hoàng rủ tôi lấy xe đạp đi theo Trưởng.  Chúng tôi đạp xe ngang qua nhà của Cúc ở gần Toà Án rồi đạp ngược lên đường Phan Đình Phùng để đến ngã ba chùa rồi xuống xe dắt bộ lên đường Hàm Nghi, đi ngang qua nhà của Tuệ.  Chúng tôi không vào nhà của hai trại sinh Cúc và Tuệ, chỉ đi ngang nhìn vào mà thôi.  Nhà nào cũng đóng cửa nên chúng tôi chẳng thấy gì.

Khi Trưởng Hoàng và tôi về đến nhà Trưởng Võ thì chị Võ nói :” Anh dặn các chú chờ ở đây, anh và Thuần đã đi lên ty Công An và An Ninh Quân Đội để báo cho họ biết và nhờ họ giúp đỡ tìm kiếm các em.”  Vừa khi đó thì phụ huynh lấp ló ngoài cửa.  Trưởng Hoàng ra mời họ vào nhà và cho họ biết là các em đi lạc và chúng tôi đã nhờ chính quyền tìm kiếm.  Trưởng Hoàng cũng khuyên phụ huynh hãy trở về nhà và bằng mọi cách sẽ tìm các em và đưa về an toàn …  Sau đó Trưởng Hoàng và tôi đạp xe đến nhà các phụ huynh khác để tin cho họ biết.  Trưởng Võ và Trưởng Thuần đã cùng một số nhân viên của ty Công An và An Ninh Quân Đội xuống thác Prenn và các khu vực kế cận để tìm kiếm.  Những cơ quan này đều có phương tiện truyền tin để báo động và yêu cầu các cơ quan trực thuộc của các địa phương nhu Finom, Tùng Nghĩa, Laba, đồn điền Fareaux và các nhân viên thuộc cơ quan bảo vệ rừng ra sức tìm kiếm mười ba Hướng Đạo Sinh bị mất tích. 

 

Dạo đó rất ít gia đình có được điện thoại nên chúng tôi đành bó tay ngồi một chỗ để chờ… Anh Đạo Trưởng và một số Trưởng của các đơn vị khác cũng có mặt tại nhà của Trưởng Võ.  Trong khi lo âu chờ đợi, tôi đã được nghe các Trưởng đưa ra nhiều giả thiết thứ nhất là có một hai em đi lạc nên các em còn lại đổ xô đi tìm, rồi mỗi em một hướng chưa tập họp lại đủ.  Giả thiết thứ hai là có trại sinh bị thú dữ vồ mang đi.  Giả thiết thứ ba là bị Việt Cộng bắt lùa cả đám vào rừng sâu …

 

Chín giờ, mười giờ rồi mười một giờ đêm trôi qua.  Trời Đà Lạt ban đêm rất lạnh, chị Võ pha cà phê và trà cho các Trưởng uống.  Lại có vài phụ huynh sốt ruột nên ghé lại nhà Trưởng Võ để cùng chờ và bàn luận sự việc.  Sự lo âu càng lúc càng hiện rõ lên mặt các Trưởng và phụ huynh.  Phần tôi, ngồi một góc để nghe và chờ chứ chẳng biết làm gì hơn.  Đồng hồ treo tường điểm mười hai giờ, vài Trưởng đứng lên đi ra khỏi nhà nhìn quanh quất rồi bước vào nói chuyện tiếp.  Tôi vẫn không thấy buồn ngủ khi đồng hồ điểm một giờ sáng.  Tôi bước ra ngoài ngó quanh, suơng khuya bao trùm phố xá và cái lạnh cố hữu tràn về khắp nơi.  Các Trưởng lại mời mấy phụ huynh về nhà nghỉ ngơi nhưng họ bảo để ngồi nói chuyện với các anh cho vui …

Khoảng mười lăm phút sau một chiếc xe Jeep của ty Công An đỗ trước nhà, Trưởng Võ và Trưởng Thuần nhẩy xuống xe, bước vào nhà, chiếc xe đổ dốc Minh Mạnh.  Mọi người đứng dậy đón hai Trưởng.  Không để mọi người kịp hỏi, Trưởng Võ nói ngay :” Nhờ sự giúp đỡ của nhân viên Ty Công An  và An Ninh Quân Đội, một cuộc tìm kiếm mười ba Hướng Đạo Sinh mất tích trong một phạm vi khá lớn, lấy thác Prenn làm trung tâm điểm.  Cuộc tìm kiếm tại thác Datanla, thác Prenn, Finom và Tùng Nghĩa, quang thác Gougah và Pongour, khu vực núi Voi và quận Đơn Dương nữa.”  Vài phụ huynh nói chuyện với Trưởng Võ và Thuần, hai Trưởng trả lời cho họ một số chi tiết và cho biết cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục.  Trưởng Võ khuyên mọi người trở về nhàsau khi cho hay rằng sang sớm mai một số Trưởng sẽ tháp tùng với nhân viên Công An và An Ninh Quân Đội để mở rộng phạm vi tìm kiếm.

 

Tôi đạp xe về đến nhà thì cũng đã quá hai giờ sáng.  Vừa lên giường kéo chăn để chống với cái lạnh về sáng thì tai tôi chợt nghe có tiếng nói vọng vào từ ngoài đường trước nhà.  Tôi nín thở lắng nghe, những tiếng xì xào mỗi lúc một rõ hơn của nhiều người và tôi nhận ra tiếng nói của Quang, của Tuấn, của Cúc, của Du, của Bảo …  Tôi hất tung chăn nhẩy ra khỏi giường và chạy ra mở cửa.  Thì ra mười ba chàng Thiếu Sinh của hai đội Voi và Sóc chẳng biết từ đâu xuất hiện trước sân nhà tôi.  Tôi không khỏi ngạc nhiên và cũng không dấu được nỗi vui mừng !  Tôi mở cửa cho tất cả vào nhà.  Câu hỏi đầu tiên của tôi là :” Có bao nhiêu em trở về?”  Nhiều tiếng trả lời :” Mười ba người “.  Trông các em mặt mày hốc hác, mệt nhọc nhưng vẫn còn ba lô trên lưng, lều, dây cọc buộc sau xe và nồi niêu xoong chảo, đèn đuốc đã rơi đâu mất ở dọc đường.  Tôi biết các em đói lắm, nhưng cá em bắt đầu kể chuyện vui vẻ, ba chiếc xe đạp bị gãy, chiếc thì gẫy tay lái, chiếc thì gẫy phuộc, chiếc thì gẫy sườn, nhiều bánh xe chẳng còn tí hơi.  Và như thế các em đã dắt díu đưa nhau về.

Tôi hỏi Quang và Tuấn :” Cắm trại ở thác Prenn, sao giờ này mới về và về ở hướng này?”  Quang cười nhăn cả mặt :”Thay vì đi thác Prenn, bọn tôi hứng chí nên đổi hướng đông ngang qua hồ Than Thở rồi bọc lên hướng cắc ra phía sau chân núi Langbian, định leo núi rồi xuống núi trở về, ai ngờ đường quá xa nên phải theo sườn núi trở về nhà mà cũng chẳng kịp, không có thức ăn, xe bị hỏng …”

 

Tôi đánh thức mẹ tôi dậy và nhờ bà nấu ngay cho một nồi cơm thật lnớ để cho các em ăn trước khi đưa các em về tận nhà.  Mẹ tôi đã có sẵn một nồi cá kho mang ra.  Chỉ trong vòng mười phút là nồi cơm và nồi cá hết sạch.  Trong khi các em ăn cơm, tôi lo vá và sửa các xe bị hỏng trừ các xe bị gẫy như đã nói trên.  Xong, tôi hối thúc các em đèo nhau trở về nhà kẻo cha mẹ các em trông.  Phần tôi vì vui quá nên quên cả việc phải cấp báo cho các Trưởng biết việc các em đã về đến nhà tôi.  Cũng cần nói thêm là nhà tôi ở phía bắc thành phố Đà Lạt, muốn đi lên núi Langian thì phải đi ngang nhà tôi.  Vì vậy khi các em từ núu Langbian muốn về thành phố cũng phải đi ngang qua nhà tôi. Vì lý do đó mà mẹ tôi hân hạnh được đãi mười ba Thiếu Sinh một bữa cơm ngon “ vô tiền khoáng hậu” như lời phát biểu của các em.

Bốn giờ sáng tất cả đều đã rời khỏi nhà tôi.  Tôi cũng lật đật đạp xe xuống nhà Trưởng Võ để tường trình mọi việc xẩy ra sau khi tôi từ nhà Trưởng Võ trở về.

 

Tối Chủ Nhật tuần đó, một cuộc họp Hội Đồng Đoàn với sự hiện diện của các Trưởng và các Đội Trưởng, Đội Phó.  Các Đội Trưởng Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn lần lượt trả lời những câu hỏi về việc thay đổi lộ trìfnh và địa điểm cắm trại.  Các Trưởng không nghiêm khắc khiển trách Quang và Tuấn nhưng nhắc nhở nên tôn trọng luật chơi đã được qui định để tránh mang lại sự phiền hà lo lắng cho phụ huynh và những người liên hệ.

 

Sau buổi họp, các Trưởng dắt chúng tôi đi uống sữa đậu nành nóng trước khi chia tay ra về.

 

Những ngày sau Nguyễn Đức Quang kể cho tôi một số chi tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu  đưa mười ba Thiếu Sinh thám hiểm núi Langbian.  Nghe xong tôi nói với Quang :” Chỉ có một lần trong đời Hướng Đạo, có một cuộc mạo hiểm, như thế đã là một Hướng Đạo Sinh giỏi .”

 

Về sau Quang cũng là Đội Trưởng Nhất của Thiếu Đoàn Lê Lợi.

 

                                        Phong Châu 12-2005

 

(HẾT)

mk
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23749
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 10:13pm

  Mục Lục  Nhạc Sinh Hoạt Du ca - Hướng Ðạo

 
Anh em ta về 1
Anh em ta về 2
Anh sẽ về
Ải Chi Lăng
Bạch Đằng Giang 1
Bạch Đằng Giang 2
Bài ca chim non
Bài ca gọi lửa
Bài ca nhảy lửa 1
Bài ca nhảy lửa 2
Bài ca Sói con
Bài ca tạm biệt - Auld Lang Syne
Bài ca tàn lửa
Bài ca Tuyên hứa
Bên cây đàn Guitare
Bạn ơi có nhớ
Bên ánh lửa hồng
Bóng cờ lau
Cô gái Việt
Chúng ta hôm nay hiệp vầy
Càng đông chúng ta càng vui nhiều
Cùng quây quần
Đâu chúng mình
Đây Trường Sơn
Đêm Lam Sơn
Đêm Mê Linh
Đông tay thì vỗ nên kêu
Đường xa
Đoàn sinh thi đua
Gò Đống Đa
Ghồ ghê
Gió đưa cành Đào
Gắng sức
Gặp em
Gặp nhau đây 1
Gặp nhau đây 2
Gặp Voi
Hò yêu nước
Hay là hay quá
Hay quá là hay
Học sinh hành khúc 1
Học sinh hành khúc 2
Hội nghị Diên Hồng 1
Hội nghị Diên Hồng 2
Hỡi người yêu dấu - Oh Suzanna
Hỏi tên
Hướng Đạo Hành khúc
Hùng Vương
Hoan hô anh này
Hoan hô hoan hô
Họp đoàn
Hát chia tay
Hát to hát nhỏ
Huế - Sài Gòn - Hà Nội
Kìa nhìn xem
Khỏe vì nước
Kết thành vòng tròn
Lửa hồng
Lửa thiêng
Lửa trại đêm nay
Lúc thú vui này
Liên khúc gặp mặt
Liên khúc Hò dô ta
Liên khúc Hoan hô
Liên khúc họp đoàn
Lên đàng
Mừng anh mới đến
Mừng ngày gặp nhau
Mình đi hướng đạo
Một mẹ trăm con
Nụ cười hồng
Nước non Lam Sơn
Nhà Việt Nam
Nối dây liên đoàn
Nối vòng tay Hướng Đạo Việt Nam
Nối vòng tay lớn
Quanh lửa hồng
Rồi mai này
Rời tay phút chia ly
Rừng Lạng Sơn
Rừng đêm
Rừng Mambô
Sông Lô
Sáng rừng
Ta ca hát 1
Ta ca hát 2
Thiếu sinh ca
Thẳng tiến
Tôi khoái cô này
Tình bằng hữu
Trại trường
Trên sông Bạch Đằng
Tuổi hoa niên
Trưng nữ Vương
Tráng sinh ca
Vui họp đoàn
Vui ca lên nào


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Jul/2010 lúc 10:19pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2010 lúc 8:52pm
 

'Về đây nhé', 'quê hương mênh mông'

Nguyên Huy/Người Việt

 
 
WESTMINSTER (NV) - Một đêm nhạc thính phòng của người nhạc sĩ du ca cho đến tận bây giờ là nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang diễn ra tối Thứ Bảy tại Hội Quán Âm Nhạc “Touch Music,” Westminster, trong không khí văn nghệ hào hứng và ấm cúng, với các thân hữu trong nhật báo Người Việt và nhóm gia đình Thụ Nhân - các cựu sinh viên Viện Ðại Học Ðà Lạt - nhằm đánh dấu việc hoàn tất hai tập nhạc mới “Về Ðây Nhé” và “Quê Hương Mênh Mông.”
 

Nguyễn Ðức Quang, người nhạc sĩ du ca ngày xưa, hơn 35 năm sau vẫn còn tinh thần trẻ trung ngày trước.
(Hình: Nguyễn Thị Hợp/Người Việt)
 

Khoảng gần 100 thân hữu đã đến với nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang ngồi chật kín nhà hàng Touch Music. Giới thiệu các thân hữu, cô phụ tá chủ quán Bích Hạnh  cho biết đây là những thân hữu trong hai gia đình Công Ty Người Việt gồm nhật báo Người Việt và gia đình Thụ Nhân gồm những anh chị em sinh viên cùng thời tại Ðà Lạt với Nguyễn Ðức Quang. Cô Bích Hạnh cũng cho biết cả hai gia đình này cùng chung sức hùa nhau đẩy cho anh hoàn tất hai tác phẩm “Về Ðây Nhé” và “Quê Hương Mênh Mông” mà anh phải dở dang vì gặp phải một giai đoạn rất nhiều chuyện không vui trong cuộc sống. Và đêm nay Nguyễn Ðức Quang phải “đẻ” tiếp hai đứa con tinh thần mà anh rất trân trọng cho dù “Về Ðây Nhé” anh đành phải gom có được 9 bài và “Quê Hương Mênh Mông” có 6 bài.

Trong phút tâm tình trước đó, nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang lại với dáng dấp trẻ trung, hồn nhiên như hồi nào kể rằng: “Có lần đến thăm phong cảnh ở Canyon thấy thiên nhiên hùng vĩ quá, cảnh sắc tươi đẹp quá, cuốn hút hồn người quá thì bỗng lại nghĩ đến người Việt chúng ta. Tại sao không có sự quần tụ lại một nơi nhỉ. Có thể có không, ở một nơi nào đó trên quê hương mình, bỗng những cư dân Việt ở Úc, ở Âu Châu, ở Hoa Kỳ, ở cả Phi Châu kéo nhau tụ về cùng chung sống trên một vùng đất Việt Nam, mỗi khu vực cho một châu lục. Ðẹp biết bao nhỉ!”

 


 

Hồ Kim Hiếu (phải) và Huy Tâm trong bài “Bên Kia Sông” - bài hát của thời thanh niên đi giúp đỡ những xóm nghèo bên kia sông Sài Gòn.
(Hình: Nguyễn Thị Hợp/Người Việt)
 

 

 

Con người nghệ sĩ du ca trong Nguyễn Ðức Quang như được biết từ trước đến nay, không lúc nào là anh không nhớ đến quê hương hằn in những xót xa thống khổ, những hạnh phúc vật vờ, thoáng có thoáng không để lúc nào anh cũng mơ đến một “Bên Kia Sông” như trong thời gian trước 1975, hay như “Trên Ðồi Arlington” sau này hoặc như “Về Ðồi Hoang” như gần đây nhất.

Ðêm Nguyễn Ðức Quang hát cùng thân hữu, ông Nguyễn Huy, cũng là chủ nhân của Quán Music Touch số 15041 Moran, và cũng là một “fan” của du ca Nguyễn Ðức Quang cho biết: “Nhà hàng này mới hoạt động gần đây và hôm nay có được hân hạnh đón nhận lần đầu tiếng hát du ca Nguyễn Ðức Quang, một tiếng hát mà tuổi trẻ VN vào những thập niên 60,70 đã cuốn hút tuổi trẻ và đã trở thành quen thuộc khắp miền đất nước tự do.”

Cô thân hữu Bích Hạnh trong gia đình Ðà Lạt còn nhắc nhở thêm rằng: “Hôm nay Nguyễn Ðức Quang ra mắt hai tác phẩm sau khi sức khỏe đã lại bình phục và sau khi đã hoạt động trong những lãnh vực truyền thông báo chí. Từ những năm đầu thập niên 60, ban Trầm Ca của Nguyễn Ðức Quang với 7 người lãng tử đã gây thành một phong trào ca hát du ca trong tuổi trẻ miền Nam nước Việt nhất là trong đám trẻ sinh viên học sinh chúng tôi. Tuổi trẻ và quê hương là hai đề tài không rời của anh. Tập nhạc Trầm Ca của anh đã như một thông điệp của Tự Do trong khi đất nước còn chiến tranh và bài ca ‘Việt Nam Quê Hương ngạo nghễ’ đã trở thành ước vọng của tuổi trẻ VN cho đến tận bây giờ. Nay thì Nguyễn Ðức Quang lại tiếp tục đoạn đường du ca dang dở với ‘Về Ðây Nhé’ và ‘Quê Hương Mênh Mông’ gói hai đề tài rất lớn mà Nguyễn Ðức Quang chuyên chở trên con đường du ca của mình.”

 


 

Khoảng gần 100 thân hữu đã đến với Nguyễn Ðức Quang trong đêm nhạc Nguyễn Ðức Quang. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

 
 
 
Ðáp lại những chân tình của hai gia đình thân như máu thịt, nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang xúc động ngỏ lời cảm tạ những săn sóc giúp đỡ khuyến khích của hai gia đình Người Việt và Thụ Nhân nhất là trong “thời gian buồn vui đau đớn nhất trong năm qua phải gặp nhiều bất hạnh.” Và với dáng têu tếu hồn nhiên sẵn có, Nguyễn Ðức Quang thổ lộ: “Không còn nội tướng nữa nên đáng ra phải có một bữa ăn gọi là khoe sự hồi phục. Thôi thì đành lấy tiếng hát và những dòng nhạc qua các tiếng hát thân hữu ‘lạ lắm’ Bích Huyền và Hồ Kim Hiếu mà đãi bà con vậy.”

Trong gian phòng xinh xắn của nhà hàng Touch Music, tiếng vỗ tay âm vang hiền hòa gợi cho mọi người không khí thân tình ấm cúng, nhất là với Nguyễn Ðức Quang khi nhìn đâu cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc, quen thuộc đến biết từng sở thích của nhau. Kìa là vợ chồng anh Phan Huy Ðạt, kìa là anh Bùi Bảo Trúc với những kiều nữ chung quanh. Kìa là Võ thành Ðiểm, Nguyễn Minh Phú. Ai như Nguyễn Ðồng kè kè Nguyễn thị Hợp... Nguyễn Ðức Quang run giọng đi vào phần chính của chương trình: “Chương trình hôm nay gồm cả nhạc cũ lẫn nhạc mới. Một số bài của thời Trầm Ca, Quê Hương Ngạo Nghễ và một số bài rủ nhau Về Ðây Nhé để cùng nhìn lại quê hương mình bây giờ mênh mông. Cũng xin giới thiệu rằng hôm nay Nguyễn Ðức Quang được phụ trợ bởi hai giọng ca lạ lắm, đó là Bích Huyền và Hồ Kim Hiếu lại thêm có Huy Tâm. Nhạc sĩ Ngô Tín sẽ giúp thêm một tình ca cho chương trình. Nào chúng ta hãy cùng nhau trở lại với Nguyễn Ðức Quang thời thập niên 60 với bài ca ‘Cần Nhau’ qua giọng ca Bích Huyền.”

Dáng dấp nhỏ bé nhưng tiếng hát trong cao, Bích Huyền đã lôi cuốn ngay được người nghe qua những giai điệu trong Cần Nhau để người nghe tưởng đến những lời dẫn giải của tác giả “viết trong tâm trạng tán tỉnh một người con gái không phải là vợ mà lại được bà vợ rất thích bài nhạc này.”

Sau Bích Huyền là Hồ Kim Hiếu. Trẻ trung, mạnh mẽ trong giọng hát cuốn hút, Hồ Kim Hiếu kể hộ cho Nguyễn Ðức Quang tâm tình “Bên Kia Sông,” một bài nhạc đã gắn chặt Nguyễn Ðức Quang với người yêu nhạc bất kể thuộc thế hệ nào.

Rồi Huy Tâm với “Vì tôi Là Linh Mục,” một bản nhạc có một tiểu sử vui vui mà tác giả kể lại nguyên do. Số là nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên khi ấy còn chưa được biết đến nhiều, có nhờ nhạc sĩ phổ giúp cho một bài thơ của mình. Sau bài thơ đầu tiên được Nguyễn Ðức Quang phổ, nhà thơ trở lại xin phổ thêm một bài nữa vì theo Nguyễn Tất Nhiên “em hát ở đâu bài anh phổ cho em cũng được kêu bis, bis mà em không có bài thứ hai.” Thế là bài nhạc phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên thứ hai “Vì tôi là Linh Mục” ra đời nhưng bài thơ chỉ có 8 câu nên lời hai Nguyễn Ðức Quang phải sáng tác thêm. “Vì tôi là Linh Mục” được Nguyễn Ðức Quang hát đầu tiên tại Viện Chủng Sinh Ðà Lạt và các chủng sinh thích quá nên đã âm thầm phổ biến trong giới tu sĩ nên khi Nguyễn Ðức Quang về đến Saigon bỗng có 3 vị linh mục đến nhà hỏi tội sao dám bôi bác các linh mục. Ðành phải giải thích và hát cho quí vị linh mục nghe để quí vị nhận ra bài nhạc không có một câu đoạn nào chế diễu, phỉ báng hay bôi bác các nhà tu hành. Ba vị ra về thơ thới hân hoan và bài ca này đã được tuổi trẻ thời đại yêu thích và là một trong những bài ca được hát nhiều nhất vào thời gian chiến tranh làm cho tuổi trẻ VN phải cuồng quay với “Make love, not war” vừa từ Mỹ du nhập vào VN.

Mỗi bài nhạc được hát trong đêm này là một chuyện giải thích của tác giả và vì thế nên tác giả đã dẫn dắt người nghe vào tâm tình sâu kín khúc mắc của mình như một người trong gia đình thổ lộ cùng anh chị em từng sống trong một mái ấm gia đình bao lâu nay.

Ðêm Nguyễn Ðức Quang được kể như hoàn hảo. Hoàn hảo về sự tổ chức ấm cúng thân mật. Hoàn hảo vì chương trình nhạc, ca, dẫn giải vừa đủ cho người nghe nhận biết được món ăn ngon cho tinh thần. Hoàn hảo vì khách thính là những thân hữu, là những người sẵn sàng mở lòng đón nhận tâm tình Nguyễn Ðức Quang và muốn Nguyễn Ðức Quang không bỏ dở con đường du ca của mình khi vẫn còn phải hướng về “Bên Kia Sông” và mới thoáng thấy quê hương mình đang mở ra, rộng ra mênh mông thật.

Nguyễn Ðức Quang đang nói cho người Việt khắp nơi cái tâm nguyện của mình sau 35 năm tản lạc khắp thế giới nhưng đồng thời lại đã mở ra được một quê hương mênh mông.

Hy vọng rằng tiếng nói này, Nguyễn Ðức Quang lại được giới trẻ lắng nghe như đã từng diễn ra vào những thập niên trước 30 tháng 4 năm 1975.

 
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 02/Sep/2010 lúc 8:54pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 03/Sep/2010 lúc 6:38pm
 
 

Ý Nghiã Huy Hiệu Du Ca

Hình thức

Huy hiệu Duca mang hình một cây Văn ( văn hóa ) gồm có bẩy rễ, năm cành, và năm trái .

Bẩy rễ :
Tượng trưng cho nền móng Duca được đặt trên bẩy điểm căn bản : lý-tưởng, tổ-chức, lãnh-đạo, sinh-hoạt, kỹ-thuật, sáng-tạo, kinh-nghiệm.

Năm cành:
Năm cành tượng trưng cho năm điều luật Duca :
1.- Duca viên tích cực và kỷ luật trong nhiệm vụ .
2.- Duca viên bền bỉ và can đảm trước mọi khó khăn.
3.- Duca viên kiên tâm học hỏi và thực thi những điều lợi ích.
4.- Duca viên tự tin và gây tin tưởng cho mọi người .
5.- Duca viên thương yêu và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau .

Năm trái:
Tượng trưng cho năm kết qủa mà Duca viên tạo được :
1- Tinh thần cộng đồng .
2- Tinh thần nghệ thuật .
3- Tinh thần dân tộc .
4- Tinh thần tiến bộ .
5- Tinh thần nhân ái .

Mầu sắc:
Nền mầu trắng : Tinh khiết phục vụ .
Cây Văn mầu xanh đậm : Trẻ trung và bền bỉ .
Trái mầu đỏ : Can trường và thành công .

 
 
 
 
Download Acrobat Reader để xem Bản Nhạc     Du Ca Việt Nam  
  Mục Lục  Ca Khúc Tiêu Biểu   Nghe
nhạc
Nốt
nhạc
 Tác Giả Tiếng Hát
  Anh Em Tôi Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Bài Ca Hải Tặc Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Bầu Trời Quê hương Ta Nguyễn Ðức Quang Nguyễn Ðức Quang
  Bên Kia Sông Nguyễn Đức Quang Quỳnh Trâm
  Bên Kia Sông Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Bọn Lái Buôn ở Khắp Nơi Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Cần Nhau Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Cấy Lúa Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chỉ Tại Anh Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chiều Qua Tuy Hòa Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Cho Ðồng Bào Tôi Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chú Nó Không Biết Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chúc Ngủ Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chuyện Buồn Bé Năm Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chuyện Con Gái Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Chuyện Quê Ta Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Có Những Khi Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Cùng Hát Xóa Niềm Ðau Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Cuộc Săn Người Vĩ Ðại Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Dưới Ánh Mặt Trời Nguyễn Đức Quang Hợp ca
  Ðầu Bếp Kỳ Tài Nguyễn Ðức Quang Ðơn Ca Nam
  Đoàn Ta Ra Ði Nguyễn Đức Quang Hợp ca
  Ðứa Bé Lang Thang Nguyễn Đức Quang  
  Đứng Bên Tôi   Nguyễn Đức Quang  
  Ðuốc Hồng Tuổi Trẻ Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Ðường Việt Nam Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Giấc Ngủ Của Mẹ Nguyễn Đức Quang  
  Gươm Thiêng Hào Kiệt Nguyễn Đức Quang  
  Hát Trên Ðường   NÐQuang-NHNghiã-HNTuệ  
  Hãy Nheo Bớt Một Mắt Nguyễn Đức Quang  
  Hoàng Hôn Của Một Lớp Người Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Hy Vọng Ðã Vươn Lên Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Im Lặng Là Ðồng Lõa Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Khôn Hồn Có Cánh Thì Bay Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Không Phải Là Lúc Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Làm Nhà Nguyễn Đức Quang  
  Lìa Nhau        Nguyễn Đức Quang Khánh Ly-Elvis Phương
  Lìa Nhau        Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc   Nguyễn Đức Quang  
  Một Lần Thôi Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Một Giấc Chiêm Bao   Nguyễn Đức Quang  
  Mùa Thu Lại Ði Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Nào Ai   Nguyễn Đức Quang  
  Ngồi Quanh Ðây Cùng Hát Nguyễn Đức Quang Hợp ca
  Người Anh Vĩnh Bình    Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Người Ðã Giúp Ta   Nguyễn Đức Quang  
  Người Ði Trong Mưa Gió Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Người Gắn Lên Tôi   Nguyễn Đức Quang  
  Người Yêu Tôi Bệnh Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Như Mây Trên Cao      Nguyễn Đức Quang Elvis Phương
  Những Bàn Tay   Nguyễn Đức Quang  
  Những Nhát Cuốc   Nguyễn Đức Quang  
  Nhìn Ánh Lửa Tàn   Nguyễn Đức Quang  
  Nỗi Buồn Nhược Tiểu Nguyễn Đức Quang Ðơn ca Nam
  Ôi Ðời Ðẹp   Nguyễn Đức Quang  
  Phòng Thí Nghiệm Công Cộng   Nguyễn Ðức Quang  
  Quân Ðoàn Thức Tỉnh Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Ruồi Và Kên Kên Nguyễn Đức Quang Ðơn ca Nam
  Sóng Việt   Nguyễn Đức Quang  
  Thánh Ðịa Xa Xôi   Nguyễn Đức Quang  
  Thiên Thu   Nguyễn Đức Quang  
  Tiếng Hát Tự Do Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Tìm Về Công Trường   Nguyễn Đức Quang  
  Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ                                   Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Tôi Chờ Ðiều Ấy Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Tôi Ðã Thấy Ngày Mai Nguyễn Đức Quang Duca Úc châu
  Tôi Có Một Mối Tình   Nguyễn Đức Quang  
  Trên Đường Phố San...   Nguyễn Đức Quang  
  Từ Nay Gánh Vác   Nguyễn Đức Quang  
  Vắng Em   Nguyễn Đức Quang  
  Về Con Phố Xưa Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Về Ðây Nhé Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Về Miền Gian Nan Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Về Với Mẹ Cha Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
  Vì Tôi Là Linh Mục Ng Tất Nhiên- Ng Đức Quang Don Hồ
  Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Nguyễn Đức Quang Hợp Xướng Ngàn Khơi
  Vỗ Cánh Chim Bay   Nguyễn Đức Quang  
  Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương Ng Đức Quang-Ng Ngọc Thạch Duca Úc châu
  Xin Làm Con Xóm Làng   Nguyễn Đức Quang  
  Xúc Ðất   Nguyễn Đức Quang  
  Xương Sống Ta Ðã Oằn Xuống  Nguyễn Đức Quang Nguyễn Đức Quang
       
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 03/Sep/2010 lúc 6:48pm
mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 2
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.240 seconds.