Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam | |
Trang of 2 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
thonglo2003
Admin Group Tham gia ngày: 31/May/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 406 |
Chủ đề: Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam Gởi ngày: 02/Nov/2008 lúc 9:04pm |
Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam Phong trào Duca Việt Nam được thành lập năm 1966 tại miền nam Việt Nam, cùng lúc với phong trào làm công tác xã-hội của sinh-viên học-sinh. |
|
IP Logged | |
đông quyên
Senior Member Tham gia ngày: 04/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 267 |
Gởi ngày: 03/Nov/2008 lúc 7:54am |
Ban Duca Vượt Sóng thành lập bởi anh Lưu Quang Diệp vào khoảng 1970 tại Gò Công.
Duca còn hát những bài nhạc đi thẳng vào trái tim người, người Việt Nam đang sống trong đất nước Viêt Nam nghiệt ngã, oằn oại đau thương vì mọi lẽ, đó là TÂM CA.
|
|
bx
|
|
IP Logged | |
longchanh
Newbie Tham gia ngày: 30/Oct/2008 Đến từ: Australia Thành viên: OffLine Số bài: 28 |
Gởi ngày: 15/Nov/2008 lúc 6:28am |
Cam on D.D G.C cho nghe dong nhac moi cua L.Q.Diep.Mung cho ban da viet nhac tro lai.Cho khong thoi Em Binh Long dau mang bui do bi lang phi thi uong biet may.
longchanh
|
|
IP Logged | |
thonglo2003
Admin Group Tham gia ngày: 31/May/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 406 |
Gởi ngày: 15/Nov/2008 lúc 8:33am |
Bang Tay Ta Bang Tim Ta Chỉnh sửa lại bởi thonglo2003 - 15/Nov/2008 lúc 8:39am |
|
IP Logged | |
longchanh
Newbie Tham gia ngày: 30/Oct/2008 Đến từ: Australia Thành viên: OffLine Số bài: 28 |
Gởi ngày: 18/Nov/2008 lúc 4:24am |
Xin them :GoCong co phong trao DU CA rat som ,dong thoi voi phong trao VOVINAM.Voi cac anh:Le Quang Bon,NguyenThanh Cam...va mot vai chi...Nam 1967-1968 co anh Liem{xin loi da quen Ho} lam Truong ty Thanh Nien tai Go Cong da het long ho tro DuCa.Hien gio mot nguoi dang o Viet Nam,mot o My longchanh
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 27/Jul/2010 lúc 10:19pm |
Khi nói về "phong trào du ca Việt Nam" , một tên rất quen trong "giới du ca", được nhiều người nhắc đến : Nguyễn Đức Quang .
Anh Nguyễn Đức Quang, cựu sinh viên khóa 1- khoa Chính Trị Kinh Doanh, VĐH Dà Lạt.
Bạn bè thường gọi anh là " Quang Du Ca " ,
để phân biệt với một anh khác cùng học khóa 1- CTKD - VĐHDL ,
cũng tên : Nguyễn Đức Quang , bạn bè gọi anh : "Quang Già Cơ".
(vì cho là anh giống ông già cơ trong Bài Tây, còn anh không chơi bài )
Anh Quang Già Cơ có tài viết văn và trí nhớ của anh thật tuyệt vời.
Anh Quang Du Ca có tài sáng tác, đàn, hát ... du ca !
Trước đây mk đã giới thiệu anh Quang Già Cơ với các bài biết về "Trọc Sỹ"
Hôm nay,
mk xin giới thiệu bài của anh Quang Già Cơ viết về anh Quang Du Ca.
Bài viết khá dài, mk chia làm nhiều phần, gửi từ từ lên DĐ , xin cả nhà kiên nhẫn theo dõi và thưởng thức giọng văn dí dỏm, sinh động của tác giả Quang Già Cơ , cũng là một dịp biết thêm về phong trào du ca một thời của tuổi trẻ VN ... xưa kia ! .
Trân trọng,
mk
NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ viết về NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA
Tôi và Nguyễn đức Quang tình thân thì có, nhưng thông cảm, hiểu biết nhau thì không. Co' nhiều lý do để tôi và Quang thân nhau. Thứ nhất là vì tôi và Quang là bạn học. Chúng tôi học với nhau bốn năm tại trường CTKD thuộc viện đại học Đà Lạt. Thứ hai vì tôi và Quang cùng là sinh viên sĩ quan trừ bị khóa 9/68 Thủ Đức. Trong thời gian ở trường Võ Bị, tôi và Quang ở trong một nhóm 10 người được biệt phái 2 tuần về trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Võ Khoa Thủ Đức. Tại trường này, chúng tôi có nhiệm vụ tổ chức cho trường có những đơn vị Thiếu Sinh Quân Đội và huấn luyện cho các em học sinh những kỹ năng của Hướng Đạo. Lý do thứ ba, tôi và Quang là khóa sinh của một khóa Cơ Bản CTCT của Trường CTCT thuộc Cục Chính Huấn trong ba tháng . Lý do thứ tư, tôi và Quang cùng làm việc tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt thuộc Cục Chính Huấn trong thời gian một năm. Lý do thứ năm là mỗi lần lên thăm
Chúng tôi là bạn nhưng không chung bè. Tôi không có bè, Quang thì có. Quang không những có bè mà còn chèo lái cái bè Du Ca to tướng. Trong suốt bốn năm trường tại Viện Đại Học Đà Lạt chúng tôi gập nhau rất ít. Năm 1964 đến năm 1968 là những năm hoạt động sôi nổi của các phong trào thanh niên. Quang là người sáng lập Phong Trào Du Ca thì làm gì có nhiều thời giờ để đến lớp. Trong bốn năm tôi và Quang ngồi cạnh nhau trong bốn kỳ thi cuối khóa của bốn năm học. Những lần gập nhau trong những kỳ thi thì chắc chắn chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều. Nói nhiều sợ quên hết chữ. Lúc chờ phát đề thi thì mặt ai cũng nghiêm và buồn, tâm chí đâu mà nói chuyện với nhau. Chúng tôi không cùng nộp bài thi một lần. Nộp bài thi xong thì mạnh ai nấy biến. Ngoài những lần gập nhau trong các kỳ thi có lẽ số lần chúng tôi gập nhau chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tôi chỉ nhớ trong bốn năm học tôi nghe Quang hát ba lần: một lần tại Giảng Đường Spellman, một lần tại Giảng Đường Thụ Nhân và một lần tại quán T2 của Nguyễn tường Cẩm và Nguyễn lập Chí. Trong thời gian thụ huấn tại quân trường Quang Trung và Thủ Đức chúng tôi không ở cùng đại đội. Trong hai tuần sinh hoạt tại trường trung học Võ Khoa, tôi chỉ nói chuyện với Quang hai lần . Một lần chúng tôi tụ họp để nghe anh Thiếu Tá Thùy, trưởng phòng CTCT trường Võ Bị Thủ Đức, chỉ thị về công tác của chúng tôi trong hai tuần tại trường Võ Khoa và một lần chúng tôi họp để bàn về buổi lễ bế giảng khóa huấn luyện. Buổi bế giảng khóa huấn luyện có những mục thi cắm lều nhanh, thi cứu thương, hợp ca và kết thúc bằng một màn vũ của người da đỏ nhảy múa quanh totem. Màn vũ này do Quang sáng tác và tập cho các em. Trong hai tuần công tác, tôi và Nguyễn mạnh Phước phụ trách thành lập và huấn luyện một thiếu đoàn. Quang làm việc trong ban chỉ đạo công tác cùng với anh Thùy và anh Nguyễn minh Triết. Khóa học Căn Bản CTCT, tôi chỉ nói chuyện với Quang có một lần. Quang chỉ học có một tuần rồi biến mất, không một lời từ giã . Quang được cử đi Pháp và một số nước Âu Châu trong một phái đoàn văn nghệ do chính phủ VNCH tổ chức. Thời gian tôi làm việc chung với Quang dài một năm tại Cục Chính Huấn từ năm 1970 đến năm 1971. Trong thời gian một năm đó, tôi và Quang cũng ít khi gặp nhau trong giờ làm việc vì chúng tôi phải đi công tác luôn. Tôi chưa bao giờ được đi công tác chung trong một toán công tác với Quang. Chỉ có hai lần, hai toán công tác của chúng tôi gập nhau : Một lần tại An Thới Phú Quốc, một lần tại Nha Trang. Ngoài giờ làm việc chúng tôi không đi chơi chung với nhau. Quang thì bận rộn với phong trào Du Ca. Vô công vô nghệ như Hồ Phán, Nguyễn duy Linh, Đặng đình Tiến và tôi thì thỉnh thoảng chúng tôi ra Pagoda, Mai Hương hay Grival, ngồi ngắm thiên hạ qua lại. Trước năm 1975, lần cuối cùng tôi gập Quang là lần Quang ở trong toán công tác của Cục Chính Huấn đến huấn luyện cho các trung đội Chính Huấn của đơn vị tôi, Tiểu Đoàn 20 CTCT tại Pleiku. Sau đó tôi nghe tin Quang được biệt phái về làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn . Tôi gập lại Quang vào năm 1995 nhân dịp Quang lên Năm 2000 Quang tặng tôi tập nhạc Dưới Ánh Mặt Trời nhân dịp Quang lên Nguyễn đức Quang tặng Nguyễn đức Quang Nhiều người mới đọc lời đề tặng cho là lời tặng kỳ quái Hôm nay tôi viết một câu truyện có đề tựa:'' Nguyễn đức Quang Già Cơ viết về Nguyễn đức Quang Du Ca''. NHỮNG TRỚ TRÊU Tôi thực sự gập nhiều sự trớ trêu vì trùng họ tên, trùng chữ lót, năm sinh, cùng lớp học, cùng trường học với một người nổi tiếng. Sau khóa huấn luyện cơ bản về CTCT, tôi được bổ nhiệm về Cục Chính Huấn. Tôi cầm sự vụ lệnh vào trình diện đại tá Cao đăng Tường. Đại tá Tường là một người cao lớn, hồng hào, đẹp trai, mặt mày phúc hậu. Ông ta vui vẻ mời tôi ngồi. Đít tôi chưa chạm ghế, tôi nghe ông hỏi : - Anh đi Pháp có vui không ? - Thưa không - Do phản ứng vội vàng nên câu trả lời của tôi không chính xác và vụng về. Thật ra tôi chỉ muốn nói tôi không phải là anh Nguyễn đức Quang được chính phủ cử đi Pháp. Đại tá Tường thân mật hỏi tiếp : - Sao lại không vui ? đi Pháp mà lại không vui sao ? - Không đại tá - Lại một câu trả lời không chính xác và ngớ ngẩn, nhưng lần này tôi đính chính ngay : - Thưa đại tá tôi không phải là Nguyễn đức Quang Câu trả lời này đúng là câu trả lời ngớ ngẩn và ngu đần, khiến đại tá Tường nhìn tôi rồi nhìn tờ trình của phòng nhân viên để trên bàn : - Anh không phải là Nguyễn đức Quang ? - Thưa đại tá tôi là Nguyễn đức Quang, nhưng tôi không phải là anh Nguyễn đức Quang nhạc sĩ - Lần này thì tôi đã trả lời chính xác. Đại tá Tường nhìn tôi , nhìn vào tờ trình của phòng nhân viên rồi nói với tôi bằng giọng không mấy vui : - Chuẩn úy cứ xuống trình diện tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt Tôi đến gần phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt, tôi nghe vọng ra từ trong phòng tiếng hát của một ban đại hợp xướng. Khi tôi bước vào phòng thì phòng bỗng im phăng phắc. Hơn bốn mươi cô ca sĩ đang được một anh quân nhân tập hát ( trung sĩ nhất Nguyễn văn Nụ) đưa mắt nhìn tôi . Lần đầu tiên trong đời tôi được một đám đông mỹ nhân chiêm ngưỡng khiến tôi bối rối. Tôi lúng túng bước theo chân trung uý Lê minh Đức vào trình diện thiếu tá Phó đức Toàn. Thiếu tá Toàn giới thiệu tôi với sĩ quan trong phòng rồi đưa tôi ra phòng tập hát để giới thiệu tôi với các cô ca sĩ . Sau đó thiếu tá Toàn ra lệnh cho tôi tự giới thiệu với các sĩ quan và các cô ca sĩ . Tôi nói : - Thưa thiếu tá trưởng phòng, thưa quí vị sĩ quan, thưa các cô. Thiếu tá trưởng phòng bảo tôi tự giới thiệu tôi với quí vị. Nhưng sự việc vừa xẩy ra ca'ch đây nửa tiếng tại phòng đại tá Cục Trưởng khiến tôi nghi ngờ tên thật của tôi . Tại sao ? tôi xin kể cho quí vị nghe một câu truyện : Năm 1967 tôi đi từ Đà Nẵng ra Huế (Tôi không kể chi tiết sau đây Năm 1967 chị Nguyễn thi minh Nguyệt, Trần minh Châu, Phạm văn Răng và tôi đi công tác tại tỉnh Quảng Nam cho chương trình Kinh Tế Hậu Chiến của giáo sư Vũ quốc Thúc. Sau khi hoàn thành công tác. Tôi đi Huế để thăm người con gái tôi yêu ở ga Huế . Phạm văn Răng xin đi theo tôi để thăm xứ Huế mà anh chưa biết) . Trên đường đi Huế phải vượt qua đèo Hải Vân. Trước đó vài ngày, Việt Cộng đã giật xập một cây cầu trên đèo và còn đóng một chốt trên đèo Hải Vân. Từ cái chốt này họ bắn vào các xe chạy qua đèo. Ai muốn đi qua đèo phải đi bộ vì cầu gẫy đang được một toán công binh Mỹ sửa chữa nhưng chưa xong. Họ phải đi bộ khoảng ba mươi lăm cây số từ chiếc cầu gẫy ra đến Lăng Cô mới có xe đi Huế. Xe của tôi đến nơi cầu gẫy từ sáng sớm và vẫn chờ với hy vọng cầu sửa xong và sẽ đi Huế được. Đến quá trưa có nhiều xe đã bỏ cuộc quay trở về Đà Nẵng. Hành khách trên xe kiên trì chờ cầu sửa xong, chỉ có vài người theo xe khác để trở về Đà Nẵng. (tôi bỏ qua chi tiết, xe tôi kiên trì chờ đợi vì bác tài xế và hành khách ba hôm nay không về nhà của họ ở Huế được. Còn tôi, nếu không có Phạm văn Răng, tôi đã theo một toán người đi bộ để đến Lăng Cô. ) Đến khoảng năm giờ chỉ còn một mình xe tôi, tất cả các xe khác đã trở lại Đà Nẵng. Bác tài xế là người thiếu kiên nhẫn hơn cả. Bác ta lên xe, xuống xe, mở máy xe, tắt máy xe không biết bao nhiêu lần . Bác tài chỉ tôi rồi nói như ra lệnh : '' Anh này biết tiếng Mỹ, anh lên hỏi xem có qua cầu được không ?'' (Ngồi bên cạnh tôi là Phạm văn Răng đeo kiếng trắng, người cao to trông trí thức hơn tôi nhiều . Tại sao bác tài không sai Răng mà lại sai tôi . Tiếng tây tiếng u của tôi không ra gì nên tôi lưỡng lự. Ba'c tài bồi thêm một câu :'' Cậu đi hỏi giúp bà con một chút đi . Không biết sắp nhỏ của tôi ra răng ?'' Một bà lên tiếng :'' Thằng con tôi bệnh mấy hôm nay. Hôm tôi đi đã thấy hắn biếng ăn ''. Tôi rủ Răng đi với tôi. Răng từ chối, tôi đành phải xuống xe đi về phía cây cầu gẫy với dáng điệu không mấy tự tin .) Khi đi đến cây cầu, tôi dõng dạc hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi qua cầu được không ?''. Tụi Mỹ không trả lời câu tôi hỏi. Một thằng Mỹ trắng to lớn đi về phía tôi. Nó lớn giọng nói với tôi :'' con cóc ''. Tôi không hiểu nó nói gì . Tôi nói với nó :'' Tôi không hiểu '' . Nó tiến đến gần tôi, nó lớn tiếng nhắc lại :'' Con cóc ''. Tôi thật sự lúng túng . Lúc ấy tôi mới thấy dốt tiếng Anh thật tai hại . Bỗng nó chụp lấy vai tôi. Nó lôi tôi lên chỗ đất cao hơn. Mặt tôi tái đi . Tôi như một con nhái bị một con rắn lồng tha đi. Nó hất hàm nhìn tôi nói lớn :'' con cóc ''. Bọn lính Mỹ ngừng công việc. Chúng nhìn xem thằng bạn chúng làm tình làm tội tôi . Chúng cười ha hả . Một vài thằng nói lớn :'' Con cóc '' . Bỗng thằng Mỹ rút cây súng colt. Một tay nó vẫn giữ vai tôi, một tay nó lên đạn. Nó chĩa súng vào đầu tôi. Bọn Mỹ đang cười bỗng im lặng. Cái im lặng để chờ đợi một điều bất hạnh xẩy ra . Lúc ấy tôi bình tĩnh lạ lùng. Tôi đưa mắt nhìn lên trời xanh và những cụm mây trắng, tôi đưa mắt nhìn xuống biển xanh thật êm ả, tôi đưa mắt nhìn về vịnh Thanh Bình xa xa, bờ biển ngày thơ ấu của tôi. Bỗng tôi đưa tay vào túi quần, tôi rút ví, lấy thẻ căn cước và đưa cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ nhìn căn cước rồi nhìn tôi. Nó buông tôi ra, vỗ vai tôi và nói :'' Ok, Ok ''. Bọn Mỹ cười ha hả, chúng trở lại với công việc của chúng. Tôi hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi có thể qua cầu được không ?'' Thằng Mỹ cười :'' yes ''. Tôi vẫy tay ra hiệu cho bác tài lái xe lên. Tối hôm đó chúng tôi có mặt tại Huế . Quí vị thấy, chỉ vì tôi hiểu lầm rằng thằng Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng thật ra nó lại nói tiê'ng Việt mà khiến suýt nữa tôi mất mạng trên đèo Hải Vân. Thằng Mỹ chỉ muốn xem thẻ căn cước của tôi. Vậy mà tôi tưởng hắn nói con cóc là một danh từ tiếng Mỹ mà tôi không biết nghĩa. Trước đây nửa tiếng đồng hồ đại tá Tường tưởng lầm tôi là nhạc sĩ Nguyễn đức Quang mà tôi có duyên được làm việc cùng quí vị tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt. Tôi tự giới thiệu tôi là Nguyễn đức Quang nhưng không phải là nhạc sĩ danh tiếng Nguyễn đức Quang.'' Trong phòng gọi tôi là Quang A vì tôi vào làm việc trước, còn gọi Quang là Quang B vì Quang vào làm việc sau. Các cô coi tôi như người anh và gọi tôi bằng anh Quang. Các cô thì coi Quang như bậc thầy và gọi Quang là Thầy Quang. Cách đối xử của các cô với Quang có phần cung kính và nể nang, trọng vọng hơn là đối với tôi. Thời gian phục vụ tại Cục Chính Huấn, tôi thường được các cô mời dự sinh nhật, các buổi họp mặt bạn bè, gia đình. Không khí làm việc tại Phòng Sinh Hoạt rất là thân tình và vui vẻ. Tôi làm việc tại Cục Chính Huấn, mẹ tôi rất lo lắng. Mẹ tôi sợ con dâu tương lai của bà sẽ là cô ca sĩ chính huấn. Thấy tôi gói quà để đi dự sinh nhật, hay dự tiệc gì đó của các cô ca sĩ chính huấn, mẹ tôi thường nhắc tôi :’’ Cẩn thận đấy nghe con, vướng phải ca sĩ thì khổ vào thân ‘’. Mẹ tôi là phụ nữ Việt Tôi không ở lâu tại đây, tôi cũng không nghe Quang Du Ca khoe những thành tích đóng góp của hắn cho đơn vị Chiến Tranh Chính Trị này như thế nào. Tôi chỉ biết hắn rất đươc mọi người trong Cục Chính Huấn quý mến. Không những các cô cán bộ phục lăn cái tài sinh hoạt của hắn mà cả các sĩ quan từ trưởng phòng tới trưởng khối và cả cục trưởng đều “cưng” hắn ra mặt. Sau này một lần hắn có kể cho tôi nghe cái mức độ “cưng” đó như thế nào.Trở lại đơn vị lính đầu tiên của tôi là Cục Chính Huấn. Tôi không thể không đi xa ra đề tài đôi chút để nói về Cục Chính Huấn. Các cán bộ là thành phần khổ nhất vì họ không phải lính mà cũng không phải là sĩ quan. Họ chỉ là dân chính nên họ chẳng có quyền lợi gì, trong khi công tác thì rất cực nhọc, thường xuyên phải đi công tác xa Sài Gòn, theo chân các đơn vị tác chiến mỗi tháng chừng hai, ba tuần, sống không khác gì lính tác chiến. Khi di tản, phải nói là họ bị bỏ rơi vì chẳng có quyền lợi gì. Vậy mà sau 1975 tôi thấy họ đã làm được một việc hết sức ngoạn mục. Tại Mỹ nhân viên thuộc phòng Chính Huấn thỉnh thoảng tập họp vui chơi ăn uống là một việc tốt nhưng bình thường. Tại Việt Cách đây vài tháng Quang điện thoại cho tôi. Quang hỏi tôi :” Mày có biết tin thằng Hoài chết chưa ?” Hoài là Đại Úy chánh văn phòng Cục Trưởng Cục Chính Huấn. Quang kể cho tôi nghe về cái chết của Hoài. Hoài chết thật lạnh lùng, một cái chết mòn mỏi, kéo dài và cô đơn. Vợ con mệt mỏi nên bỏ bê chẳng ai còn sức đoái hoài. Trước ngày Hoài chết có ba người cùng đơn vị cũ thiếu tá Nguyễn kế Nghiêu, đại úy Lê minh Đức, đại úy Nguyễn văn Ruy đến thăm. Ba người nhìn Hoài nằm bất động, thân hình gầy đét trên chiếc giường trong phòng vắng vẻ, chờ ngày ra đi mà nước mắt chẩy dài. Đau khổ nhất là bà mẹ già của Hoài . Hoài được đi Mỹ chắc hẳn bà cụ hy vọng thằng con trai sau này nếu không bảo lãnh bà qua Mỹ để bà được sống bên con cháu thì cũng gởi ít tiền cho bà sống bớt khốn khó ở quê nhà. Vậy mà từ ngày Hoài đi cho đến lúc qua đời, có lẽ vì bất đắc chí với cuộc sống, Hoài đã không làm được điều gì ưng ý. Nhóm Chính Huấn ở ngoài hỏi địa chỉ của bà cụ thì chỉ biết bà cụ vẫn còn sống ở Nha Trang. Ở ngoài bèn liên lạc với trong nước. Lập tức có người lặn lội ra Nha Trang và tìm được bà cụ. Bà cụ cầm phong thư tiền nhưng không phải tiền của con trai. Niềm đau khổ nào lớn hơn ? Tôi nói với Quang :’’ Thằng này thật quá đáng, có mẹ già mà không chịu sống để nuôi bà mà lại chết đi. Thật là giận’’ . Năm 1995 tôi và vợ tôi đưa thằng con trai đi CA. Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi còn khó khăn, nhưng chúng tôi cố gắng cho thằng con trai được hưởng cái mơ ước của tất cả các trẻ em Mỹ cùng tuổi với nó. Đó là đi xem Trớ trêu tôi vừa kể làm cuộc đời tôi lao đao thì trớ trêu sau đây khiến tôi suýt mất vợ . Năm 1970 tôi hứa hôn với một cô gái Huế . Người vợ chưa cưới của tôi học năm thứ nhất tại Đại Học Luật Khoa Huế . Một số rất ít người ở Huế không thích Quang đã có ý kiến với người vợ chưa cưới của tôi về việc định lấy tên Nguyễn Đức Quang. Vợ chưa cưới của tôi phải đính chính rằng tôi không phải là anh chàng Nguyễn Đức Quang nhạc sĩ. Số ít người này cho rằng phong trào Du Ca là của chính quyền. Nhưng thực sự không phải. Quang có nhiều bài hát tố cáo những thối nát của xã hội miền Nam còn mạnh hơn cả những Tôn thất Lập, Trịnh công Sơn như những bài Ruồi và Kên Kên, Bọn Lái Buôn Ở Khắp Nơi, Chuyện Buồn Bé Năm, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Chuyện Quê Ta… Sinh viên tranh đấu Huế đã dùng bài NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU để khích động lòng yêu nước của đồng bào Huế, Phât giáo tranh đấu Huế đã bùng lên sau khi nghe Quang hát bài VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ. Sau này đi tù cải tạo tôi mới biết rằng: '' Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa. Ai không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước.'' Một lý luận hết sức ngây ngô và độc đoán. Lời kể của nhạc sĩ Ngô mạnh Thu làm tôi hiểu rõ hơn tại sao người Cộng Sản không ưa Phong Trào Du Ca. Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu là một nhân vật nòng cốt của phong trào Du Ca. Anh là người thay Quang giữ chức Trưởng Xưởng của phong trào Du Ca. Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu kể :''…….Vào một đêm cuối năm 1975, tôi nhận được một thư mời đi dự một buổi hội thảo về đề tài Văn Nghệ Với Chế Độ Thực Dân Mới. Thư mời do ông Lưu Hữu Phước, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt 1. Nhóm Tâm Lý Chiến : Nhóm này gồm Tâm lý chiến quân đôi, tâm lý chiến dân sự, xây dựng nông thôn. Nhóm này nói dối nhân dân để lôi cuốn họ theo đế quốc Mỹ. 2. Nhóm Nhạc Trẻ : Nhóm này được dựng nên để tha hóa, sa đọa hóa thanh niên 3. Nhóm Dân Tộc Giả Hình : gồm những nhóm văn nghệ phục hưng âm nhạc cổ truyền 4. Nhóm Du Ca Ba nhóm Tâm Lý Chiến, Nhạc Trẻ, Dân Tộc Giả Hình không đáng kể. Riêng nhóm Du Ca rất nguy hiểm. Thứ nhất là bọn Du Ca đã dùng đúng chiến thuật của ta (Việt Cộng) là chiến thuật Đồng Khởi. Trong vòng từ năm 1965 đến 1967, chỉ hai năm từ một nhóm chỉ có sáu bẩy người đã phát triển thành gần ba mươi đơn vị khắp miền Thứ hai về kỹ thuật thì nhóm Du Ca không cần sân khấu. Chỗ nào nhóm này cũng dùng làm sân khấu được. Nhóm Du Ca không dùng đến dụng cụ âm nhạc cồng kềnh như trống, đàn điện. Họ chỉ dùng đàn guitar nhẹ nhàng. Thứ ba là đội ngũ sáng tác của nhóm này rất hùng hậu …’’ Nhưng theo tôi không phải những lý do mà ông Tô Hải đưa ra khiến cho Việt Cộng liệt nhóm Du Ca là sản phẩm văn hóa văn nghệ nguy hiểm của thực dân mới. Chỉ có lý do duy nhất mà Việt Cộng không ưa Du Ca là Du Ca không chịu xóa tên và nhập vào nhóm Cộng Đồng Thiên Tả của Tôn Thất Lập. Nghĩa là nhóm Du Ca không chịu theo Cộng Sản. Đó là hai trục trặc lớn do sự trùng tên trùng họ với hắn gây ra, nhưng không phải chỉ có thế, những truyện hiểu lầm lặt vặt xẩy thì rất nhiều và miên man cho đến bây giờ vẫn chưa dứt, nên thỉnh thoảng tôi vẫn phải đính chính muốn đứt hơi. Tôi nhớ năm 1964 là niên khoá đầu tiên của chúng tôi tại trường CTKD. Lúc đó thì Quang chưa nổi tiếng. Để phân biệt tôi và Quang thì trong lớp gọi tôi là Quang Hà Nội còn hắn là Quang Sơn Tây. Lý do là tôi sinh tại Hà Nội, còn Quang sinh tại Sơn Tây. Tôi rất bằng lòng tên bạn bè đặt cho chúng tôi vì Hà Nội thì oai hơn Sơn Tây. Đến năm thứ hai bỗng Quang nổi tiếng. Hắn trình làng ban Trầm Ca rồi Du Ca tại giảng đường Spellman, giảng đường Thụ Nhân. Trong hai buổi trình làng có cả đại nhạc sĩ Phạm Duy đi hát với hắn. Bạn bè không gọi hắn là Quang Sơn Tây nữa mà gọi hắn là Quang Du Ca. Từ tỉnh Sơn Tây nhỏ bé hắn bước lên không gian to lớn là cả nước. Còn tôi thì ngược lại từ một Hà Nội thanh lịch, Qua đến Mỹ, bạn bè quên hẳn trong lớp CTKD I có hai thằng Nguyễn đức Quang . Mỗi khi điện thoại cho chúng, tôi lại phải nhắc cho chúng nhớ :'' Tao là Quang Già Cơ đây ''. Khi gia nhập THUNHAT.NET tôi nhận được nhiều điện thư nồng nhiệt thăm hỏi hết sức thân tình. Có điện thư hỏi đang ở Câu truyện thứ hai : năm 2002 vợ chồng tôi đi dự trại THẲNG TIẾN 7 ở Tôi gập nhiều cái trớ trêu đã đành. Hắn cũng gập một trớ trêu chỉ vì trùng tên với tôi. Theo trí tưởng tượng của tôi nếu hắn không gập may mắn thì đời hắn đã tàn và có khi hiện nay hắn phải bị giam trong nhà thương tâm thần nào đó. Truyện này do chính hắn kể trước mặt tôi và bạn bè Đà Lạt. Hôm 16 tháng 8 năm 2003 tôi tổ chức một tiệc đón tiếp hắn tại nhà tôi. Hôm đó Hoàng minh Châu khoá 10 CTKD nói :'' Em nghi lắm anh Quang à . Em nghi chỉ có một người đi thi thôi '' Quang nói liền :'' Thôi cha nội đừng có khơi lại nỗi đau khổ của thằng già này nữa”. Hắn nói tiếp :” Thi xong cuối năm thứ ba, tôi điện thoại lên Đà Lạt hỏi kết quả . Mấy thằng bạn trả lời ngon lành: "Đậu rồi, đậu hạng hai, cứ vui chơi ca hát cho thỏa thích". Tuần sau nghĩ lại, mình làm bài kỳ này có gì xuất sắc lắm đâu mà đậu á khoa. Tốt nhất là điện thoại hỏi lại cho chắc ăn. Mấy thằng bạn trả lời :'' Hỏi hoài vậy cha nội. Chắc chắn rồi, tụi này coi đi coi lại . Nhân viên văn phòng cũng xác nhận mày đậu. Lo sáng tác đi ". Hơn một tháng sau, nhận điện thoại của ông bà già :'' Về Đà Lạt gấp. Tên trên bảng vàng là tên của thằng Quang khỉ gió nào, chứ không phải là mày đâu ". Về đến Đà Lạt đúng là ngày chót hết hạn ghi danh thi kỳ hai . Vôi vàng then cài đóng cửa, thức đêm thức hôm, dùi kinh mài sử ". Tôi tưởng tượng rằng nếu ông bạn nào của tên Quang không phát hiện sự lầm lẫn đó kịp thời, rồi báo cho ông bà già hắn biết thì đời hắn có thể rất thê thảm. Hắn sẽ bị ở lại năm thứ ba . Người yêu hắn là Nguyễn thị Minh Thông đương nhiên trở thành đàn chị hắn. Ở đời chỉ có đàn anh yêu đàn em, hiếm khi đàn chị yêu đàn em. Nên nàng sẽ cho chàng de. Hắn sẽ đi lang thang và làm những bài nhạc vàng khè để trách móc người tình phụ bạc. Những bài nhạc sến này làm sao hợp với phong trào du ca mà hắn là giáo chủ. Đại hội du ca sẽ đồng thanh truất phế hắn và tôn một tân giáo chủ mới cho phong trào. Dĩ nhiên tôi sẽ phải vào nhà thương Chợ Quán để tạ tội với thằng bạn trùng tên họ vì dù sao tôi cũng là một phần nguyên nhân gây nên thảm cảnh này. Nhưng may mắn cho hắn là điều tôi tưởng tượng không xẩy ra. Ngày nay con cái hắn đã công thành danh toại, gia thất ổn định. Tình duyên của hắn với Nguyễn thị Minh Thông bền chặt, đằm thắm. Đã mang cái nghiệp vào thân Nguyễn Du Hắn mang nghiệp hát xướng vào thân từ ngày còn thơ ấu. Ông thân sinh của hắn làm hiệu trưởng một trường học ngoài đảo Côn Sơn, lúc hắn còn học tiểu học. Hai năm ngoài Côn Đảo, bạn của hắn là những người tù. Ông cụ tìm những người tù giỏi toán, sinh ngữ và âm nhạc để dạy dỗ hắn. Những ông thầy dạy nhạc chẳng có ai là nhạc sĩ nổi danh. Sau khi vào đất liền, hắn tự học nhạc. Thời học trò ở Đà Lạt, hắn ở trong ban phụ trách một chương trình phát thanh của Hướng Đạo trên Đài Phát Thanh Đà Lạt. Những tháng đầu ban nhạc của hắn chỉ hát những bài hát Hướng Đạo của Hoàng Quí, Lưu hữu Phước … Sau này ban phát thanh cho hát cả những bài nhạc hắn sáng tác. Những sáng tác trong thời gian học trò này đa phần đã bị tiêu hủy sau ngày 30 tháng tư, năm 1975. Hắn chỉ tìm được một bài hát mà hắn sáng tác trong thời gian này là bài Gươm Thiêng Hào Kiệt năm 1961. Bài này viết về ông thánh bổn mạng của Hướng Đạo Saint Georges. Hắn kể lại trong một cuộc phỏng vấn rằng: “ Khi ông cụ thân sinh trao cho tôi cây đàn guitar sau khi tôi đậu trung học đệ nhất cấp để gọi là mừng cho cậu con. Chắc chắn cụ không nghĩ rằng mình đã làm một điều tai hại : Tôi cứ thế nhảy vào trò chơi âm nhạc. Chỉ sau mùa hè ấy, tôi vào trường Trần Hưng Đạo, đang từ một học sinh xuất sắc của thành phố, tôi thành ông trưởng ban văn nghệ trường trung học này. Có nghĩa là tôi giảm thiểu tối đa việc học, dành tối đa cho việc đàn hát và còn lõm bõm viết nhạc. Chính trong hai năm trời ở đây, tôi viết mấy chục bản nhạc hầu hết là tình ca. Tiếc rằng tôi chỉ dấu dấu giếm giếm, lâu lâu mới có dịp hát chút đỉnh cho bạn bè nghe, nhất là khi có dịp qua trường nữ. Đáng tiếc hơn nữa là tập nhạc này đã mất biệt cùng với rất nhiều bản thảo của một loạt nhạc dịch và nhiều loạt bài khác”. Sự nghiệp sáng tác và xướng ca của hắn bắt đầu từ ngày ấy. I Chuyến đi Khai Phá Năm 1965 Quang thực hiện một chuyến đi đầy liều lĩnh từ Đà Lạt đến Sài Gòn bằng xe đạp. Một mình đạp xe trên đoạn đường 325 cây số nhiều đèo lắm dốc thì chắc chắn phải có một cái gì thôi thúc để hắn đủ ý chí thực hiện chuyến đi táo bạo này. Hắn kể rằng: Những nhọc nhằn, khó khăn trên đường đi đã không để lại cho hắn ấn tượng hay dấu ấn bằng một buổi tối tại Sài Gòn, một buổi sinh hoạt văn nghệ tại nhà một nữ huynh trưởng Hướng Đạo. Người tham dự được phát một tập nhạc quay roneo hai bản trường ca MẸ VIỆT Về Đà Lạt, Quang làm một màn trình diễn thật táo bạo. Một buổi chiều cuối năm 1965, hắn xách cây đàn guitar ra bồn hoa trước chợ Đà Lạt. Hắn đứng dưới cây cột điện của bồn binh và cất tiếng hát. Hắn hát một mình, hết bài này đến bài khác của hai trường ca MẸ VIỆT Hiện nay mơ ước của hắn là thực hiện những buổi hát cộng đồng cho đồng bào người Việt ở Hải Ngoại. Hắn đã thực tập hát cộng đồng ngay tại phòng khách nhà tôi. Vào buổi chiều năm 2000 tôi mời bạn bè đến nhà tôi để tiếp đãi hắn nhân dịp hắn lên chơi Trời sáng tươi đã lên rồi Trời sáng luôn trong lòng tôi Cập mắt khô sau đêm dài Tìm quanh đây một ngày vui ………………………………………. (DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI) II. CHUYẾN ĐI LÀM NÊN LỊCH SỬ Tôi gọi chuyến đi sau đây của Quang là chuyến đi làm nên lịch sử vì tôi chắc chắn sau này tên Quang sẽ có trong sử sách. Trong lịch sử âm nhạc tên hắn sẽ được nhắc đến trong một chương. Số lượng sáng tác của hắn chỉ sau có Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Chất lượng sáng tác của hắn lại nổi bật về thanh niên ca đã làm tỉnh thức và xúc động được cả một thế hệ thanh niên. Còn trong cuốn Lịch Sử Việt Hoàng kim Châu, một trong những người tham gia từ ngày đầu và là một thành phần của Ban Trầm Ca, sống chung với Nguyễn Đức Quang ở Sài Gòn suốt thời gian đầu, kể về chuyến đi đó :”… Những chàng trai trẻ rời thành phố sương mù lạnh lẽo về thủ đô để tìm cho họ những hình thái sinh hoạt mới mà họ khao khát được tham gia. Mặc dầu ở Đà Lạt những chàng trai trẻ này đã tham gia các hoạt động thanh niên xã hội. Họ đều là những Hướng Đạo Sinh ở vào tuổi Tráng với đường dài trước mặt đầy chông gai và thử thách. Họ muốn thực hiện châm ngôn của người Tráng Sinh là "Giúp Ích" nên họ đã thực hiện một chuyến viễn hành liều lĩnh có tính toán và từ đó cho đến mãi về sau, tiếng hát của họ đã vang khắp mọi miền đất nước và đã đánh động được con tim và khối óc của hàng vạn bạn trẻ, để hăng hái lên đường phục vụ tha nhân, và tạo sinh khí khiến cho cuộc đời đáng yêu hơn, mặc dù chiến tranh đã trở thành khốc liệt, và bi thảm trên mảnh đất thân yêu của miền Nam Việt Nam…” Quang kể rằng năm tên (Nguyễn Đức Quang, Ho àng Kim Ch âu, Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn, ….) về đến Sài Gòn vào chiều ba mươi tết và đi đến quyết định là dồn về một căn nhà thuê để sống chung với nhau. Nhưng đi đến căn nhà thuê chờ cả buổi mà chẳng có ai mở cửa. Cả bọn phải thuê xe ba gác chở đồ đạc đến nhà một người khác, một người mà họ chưa quen, nhưng sau này là một người đóng góp quan trọng trong việc hình thành Phong Trào Du Ca: anh Hoàng ngọc Tuệ, nhà ở đường Sương Nguyêt Ánh. Anh Tuệ là một dược sĩ, anh cho sáu thằng ở trong phòng bào chế thuốc, đúng hơn là căn phòng Lab, nơi thực tập của các sinh viên dược. Căn phòng này nằm phía sau nhà anh Tuệ. Bọn Quang ở căn phòng đó một thời gian, sau này lại dọn ra mái lầu của garage nhà này đến tận năm 1971. Thời gian sau, trụ sở Phong Trào Du Ca dời ra đường Lê Lai là nhà của anh Nguyễn Thanh Hùng … Cuộc hội ngộ của sáu Tráng Sinh này, ban đầu lập nên một Toán Hướng Đạo, toán Sóng Việt. Toán có một bài hát chính thức là bài Sóng Việt. Bài hát mạnh mẽ tuôn tràn như những lớp sóng. Sóng dữ vơi những cái xấu: bạo tàn, nghèo đói ngu dốt. Sóng hiền với con dân nước Việt. Tôi ngạc nhiên ở độ tuổi hai mươi, hai mốt mà sáu tráng sinh đã có những ý tưởng đội đá vá trời . Sóng Việt về Sóng Việt về Trôi từ lẻ loi non cao xa xôi trôi mãi Trôi từ lạch kinh trôi ra sông con Rồi từ sông con trôi đi xa hơn về tới bể khơi Sóng trôi trên Bạch Đằng Sóng reo trên Nhị Hà Trôi bao giấc mộng cuồng xâm của ngoại bang Hồng Hà, Cửu Long Giang Về ruộng đồng quê hương Để từng thỏi đất biến ra thỏi vàng Triều dâng sóng Việt trôi đi điêu tàn Trôi đi những mảnh đời nát tan Nghèo đói cơ hàn dốt tối ngu hèn Sẽ tan tành trước làn sóng Việt Nam Lời nhạc nhiều chất thơ êm đềm và mạnh mẽ của sóng biển. Sau Toán trở thành ban Trầm Ca rồi giữa năm 1966 thì ra đời Phong Trào Du Ca được cấp giấy phép ngày 19 tháng 12 năm 1966 của Bộ Thanh Niên III. CUỘC HÔI NGỘ LỊCH SỬ Tôi gọi cuộc gập gỡ của Quang và nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1965 tại trại CÔNG TRƯỜNG THANH NIÊN TỰ DO tổ chức ở Thạnh Lộc Thôn, Thủ Đức là một hội ngộ lịch sử vì nhờ cuộc gập gỡ này mà ban Trầm Ca mau chóng được thành hình một cách chính thức. Sở dĩ tôi nói được thành hình một cách chính thức là vì từ khi sáu chàng TRÁNG SINH từ rừng Lâm Viên đi xuống rừng Gia Định thì đã thành hình một toán Hướng Đạo mà bên trong nó đã có những bài TRẦM CA. Nhưng toán Quang kể về cuộc gặp gỡ với nhạc sĩ Phạm Duy như sau: Năm 1965 Quang dự trại Công Trường Thanh Niên Tự Do tại Thạnh Lộc Thôn Thủ Đức. Chiều hôm đó trên sân khấu được dựng lên giữa cánh đồng, Phạm Duy đến hát 10 bài Tâm Ca cho hơn ba trăm thanh niên sinh viên tham dự trại. Đó là lần đầu tiên hắn nhìn thấy tận mắt người nhạc sĩ vĩ đại. Theo Quang kể lúc đó Phạm Duy chỉ mới xong có 7 bài Tâm Ca, còn thiếu ba bài. Nhưng những lời của mấy bài tâm ca này làm hắn run lên, bởi vì chưa ai nói với hắn những lời như vậy :'' Sáng nay vừa thức dậy nghe tin em gục ngã nơi chiến trường nhưng trong vườn tôi, vô tình đóa Tường Vi vẫn nở thêm một đóa…. Bao giờ tôi mới nói được những điều tôi ước mơ ". Hắn chăm chú nghe Phạm Duy nói chầm chậm để giảng giải, giải thích những bài hát trước khi ông ta hát. Hát được ba bốn bài, Phạm Duy mời trại viên lên hát để ông nghỉ. Các bạn Quang đẩy Quang lên sân khấu. Quang hát những bài của mình sáng tác như Đường Vào Công Trường, Về Với Mẹ Cha… Đến lượt ông đại nhạc sĩ sửng sốt. Có lẽ lâu lắm ông không được nghe ai hát những lời hát mạnh như vũ bão như vậy : “ Cùng đi xoay Hoành Sơn, cùng đi lay Trường Sơn, cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm … Vượt khơi ra đảo xa, lướt ngàn nước sóng nhà ta đắp bồi cho mẹ cha “ Sau buổi hát, Phạm Duy kêu Quang :" Này cậu kia lại đây tôi bảo. Từ nay mỗi thứ sáu hàng tuần các cậu đến nhà tôi. Chúng ta cùng hát, các cậu cho ý kiến về những sáng tác của tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện về âm nhạc, về văn nghệ”. Quang kể lại là hắn sướng run cả người, thật là trúng số cũng không bằng. Hắn được một đại nhạc sĩ mà hắn mến phục mời đến nhà để nghe ông hát, lại còn được ông ta hỏi ý kiến về các nhạc phẩm ông ta mới sáng tác, bàn chuyện văn nghệ… Thật đúng là nằm mơ. Mỗi chiều thứ sáu tại căn phòng, trên lầu ba nhà của nhạc sĩ Phạm Duy trên đường Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, những chàng trai Đà Lạt và Phạm Duy cùng hát với nhau bên máy Akai. Họ nghe Phạm Duy nói về nghệ thuật sáng tác, nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì nhân sinh .v.v… Phạm Duy đề nghị nhóm trẻ hát những bài hát họ sáng tác, dĩ nhiên là những bài của Quang. Hôm ấy Quang mạnh bạo hát bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, một bài hát phổ từ thơ của một người mà anh ta chẳng quen biết, Nguyễn Văn Hoàn. Bài thơ này đăng trên tập san Lửa Việt của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn năm 1964. Mãi khoảng năm 1971, 1972 Quang mới nhận được một lá thư của tác giả bài thơ. Bức thư đưọc viết từ Quân Trường Đồng Đế, Nha Trang. Trong thư, anh Hoàn hỏi có phải Quang đã phổ nhạc bài thơ của anh ta không? Quang xác nhận là đúng, nhưng cũng từ đấy hai người không có dịp liên lạc với nhau nữa. Khi Quang hát xong. Nhạc sĩ Pham Duy đến gần Quang. Ông đưa bàn tay run run nắm lấy cánh tay Quang. Quang xúc động vì lần đầu tiên hắn mới nhận được phản ứng đầy xúc động của một người nghe nhạc phẩm này. Từ ngày viết nhạc phẩm này cho đến lúc đó hắn chưa có dịp hát bao giờ. Phạm Duy nói với hắn :" Cậu viết thế này hay hết chỗ nói rồi. Hãy bỏ hết mọi việc và viết nhạc rồi đi hát với anh ". Phạm Duy quay qua nói với nhóm của Quang :" Từ nay các cậu đi hát với tôi. Tôi đi đâu, các cậu đi đó ". Suốt ba năm trời sau đó, họ đi hát chung với nhau trên khắp các nẻo đường đất nước. Có hai chuyến đi vòng từ Bắc (Huế) vào (còn tiếp) Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 28/Jul/2010 lúc 10:41pm |
|
mk
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 9:31pm |
NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ viết về NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA (2)
RA MẮT BAN TRẦM CA Ban Trầm Ca thực sự ra đời ngày nào thì đến chính Nguyễn Đức Quang cũng không trả lời cho chính xác được. Quang chỉ nhắc lại được rằng: Đi theo Pham Duy hát một khoảng thời gian không lâu, chừng vài tháng thì hắn thấy cần phải có một cái tên chung cho nhóm. Lúc đó Phạm Duy đã hoàn tất 10 bài Tâm Ca, và Quang cũng viết gần đầy đủ 10 bài Trầm Ca. Thời gian này vào khoảng cuối năm 1965. Lúc bấy giờ Quang và các bạn trong nhóm tự hỏi tại sao không lấy tên Trầm Ca làm tên nhóm. Như vậy khi đi đầu trình diễn Phạm Duy hát Tâm Ca, còn ban hát này mang tên Trầm Ca thế là rất chỉnh. Nhưng có một người nói rằng Ban Trầm Ca chính thức ra mắt tại giảng đường Đại Học Văn Khoa. Anh Phạm Quốc Bảo, chủ tịch ban đại diện Văn Khoa thời gian đó, kể lại buổi ra mắt như sau. Năm 1965 một phái đoàn đại diện sinh viên viện đại học Nhật sang thăm Việt Ban tổ chức vừa lo, vừa ngượng, nhưng mọi người thì lại tán thưởng vì cứ tưởng rằng ban tổ chức cố ý thắp đèn cầy thay vì dùng điện. Trong khung cảnh đặc biệt này mọi người không những đi từ ngạc nhiên sững sờ đến xúc động, hào hứng, say sưa nghe ban Trầm Ca hát mà còn nhiệt tình hát với ban Trầm Ca, với Phạm Duy, với Phương Oanh (thiếu nữ đánh đàn tranh và hát dân ca này đã trở thành toán viên của ban Trầm Ca trước ngày ấy). Đêm văn nghệ đó kéo dài ba tiếng đồng hồ. Sinh viên Nhật không muốn về. Họ nghe dịch lõm bõm về mấy bài hát, nhưng họ nói rằng họ bị kích thích vì lời ca lạ lùng và những ý nghĩa của các bài hát trong chương trình Tâm Ca, Trầm Ca và Dân Ca. Họ nói với anh Phạm Quốc Bảo rằng buổi trình diễn cho họ thấy xã hội miền Quang nói về sự ra đời của ban Trầm Ca :’’ Vào năm 1965 trong thời điểm mà các sinh hoạt của thanh niên tại miền Chúng tôi được tiếp xúc với anh Phạm Duy năm 1965 tại trại Thành Lộc Thôn cách Sài Gòn khoảng 10 cây số. Phạm Duy lần đầu tiên đến với Sinh Viên qua một trại lớn toàn quốc……như đã kể trên ……… …. Sau lần gập gỡ tại Thành Lộc Thôn và hát chung với nhau vào thứ sáu tại nhà anh Duy, anh Duy và chúng tôi quyết định bắt đầu đi hát chung với nhau. Chúng tôi bỗng nhiên trở thành một ban hát. Chúng tôi đặt tên cho ban hát là ban Trầm Ca để đi hát chung với anh Duy. Anh Duy hát Tâm Ca. Chúng tôi hát Trầm Ca, những bài hát đầy sự suy nghĩ, những trầm tư của tuổi trẻ Việt RA MẮT PHONG TRÀO DU CA
Quang kể về sự ra đời của phong trào du ca :’’ … không thễ tưởng tượng sự đón nhận của các bạn trẻ nồng nhiệt đến như thế nào khắp tất cả các nơi từ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, Đà Lạt đều rần rần tạo nên một trào lưu người ta say mê loại nhạc mới mang nhiều nôi dung, trong đó có thông tin về đời sống, về những suy tư trước tình hình đất nước, về thân phận con người Việt Nam trong chiến tranh, trong hy vọng, cũng như trong thất vọng. Trầm Ca đưa ra những thông điệp quá hấp dẫn đối với họ. Trong một cơ hội lạ lùng thời đó, anh Hoàng Ngọc Tuệ, chủ nhà của ban Trầm Ca làm việc tại Nha Kế Hoạch của Bộ Thanh Niên dưới thời ông Võ Long Triều. Anh em kéo nhau vào giúp cho anh Tuệ một tay, mặc dù chúng tôi không phải là nhân viên hay công chức của bộ này. Anh Tuệ nghĩ ra một chương trình huấn luyện cho các đoàn thể thanh niên ở khắp bốn vùng và khu vực Sài Gòn. Huấn luyện thanh niên thì phải huấn luyện những gì, huấn luyện thế nào? Anh em suy nghĩ và đồng ý là huấn luyện cách sinh hoạt, cách làm sống tinh thần sống chung với nhau, học hỏi được nơi nhau và làm cho đám đông trở nên yêu thương nhau, chia xẻ với nhau, tức là một nghệ thuật tác động. Ban Trầm Ca được nhờ giúp huấn luyện phần chính. Các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động ra đời dành cho các bạn trẻ, các trưởng của các đoàn thể, các trường học, lần lượt thực hiện ở khắp nơi …Năm khóa học chấm dứt vào cuối hè 1966, lập tức ý kiến đến từ các nơi đã ra ngoài dự tính của chương trình. Mọi người gửi về Ban Trầm Ca lời yêu cầu giúp họ tiếp tục làm công việc như Ban Trầm Ca… Quang nói :’’Tự nhiên họ nẩy ra nhu cầu, chúng tôi cũng muốn hát như vậy, các anh hãy giúp cho chúng tôi có thể hát được các anh, giúp chúng tôi thành lập những nhóm để cùng hát với các anh. Họ viết thơ về yêu cầu như vậy, và họ đề nghị coi Sài Gòn là trung ương. Các anh lập một cơ chế gì đó, một tổ chức gì đó để giúp chúng tôi làm được như các anh. Chúng tôi suy nghĩ và cuối cùng đi đến quyết định giúp các anh em bằng cách lập ra Phong Trào Du Ca. Năm 1966 phong trào du ca ra đời. Đây là lần đầu tiên một phong trào thanh niên dùng ca nhạc văn nghệ làm sinh hoạt chính, một phong trào tự phát, tự dưỡng. Ngay từ đầu đã có ba mươi ba tỉnh trên miền Hoàng kim Châu kể lại đêm ra mắt phong trào Du Ca :" … Do các sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt khởi xướng, cho nên khi quyết định thành lập phong trào Du Ca , và làm lễ ra mắt phong trào, các chàng trai đã trở về xin phép Linh mục Viện trưởng để tổ chức đêm văn nghệ ra mắt phong trào Du Ca tại giảng đường Spellman. Ngày 19 tháng 12 năm 1996 là ngày thành lập phong trào Du Ca. Đêm hôm đó tại giảng đường Spellman, rất đông quan khách, giáo sư, sinh viên và một số đông đồng bào Đà Lạt đã đến để nghe những sinh viên của trường hát với một bầu không khí vui khoẻ, đầy ý thức và tình tự dân tộc. Trong cái lạnh cắt da của Giáng Sinh Đà Lạt, những ánh đuốc bập bùng kéo dài từ cổng Viện vào đến giảng đường do những anh sinh viên mặc đồ đen cầm đuốc soi đường. Ban tổ chức là một số anh chị em tự nguyện của trường Chính Trị Kinh Doanh Khóa I như Trần văn Chang, Trần văn Hùng, Trần phú Hữu, Nguyễn quang Tuyến, Trần trọng Thức, Đoàn công Chánh Phú Lộc, Trần tiễn Tuấn, và các chị Trần khánh Tuyết, Hoàng lan Anh, Bùi ngọc Nga … Ngoài các thành viên sáng lập phong trào, còn có sự hiện diện của các nhà thơ Đỗ quý Toàn, Trần dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Tú Kếu và nhà báo Nguyễn ngu Ý cùng các anh Hoàng ngọc Tuệ, Đỗ ngọc Yến, Hà tường Cát trong giới sinh hoạt thanh niên đến dự … Ngoài sự yểm trợ tinh thần và vật chất của cha Viện Trưởng, còn có sự yểm trợ rất đắc lực của anh Phương Thảo, Đào văn Hòa giám đốc cơ quan USIS Đà Lạt. Bẩy thành viên sáng lập trình diễn ca nhạc, kịch ngắn, thơ. Các nhà thơ Đỗ quý Toàn, Trần dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Tú Kếu đã diễn đọc những bài thơ "rất nóng" của chính họ cùng với tiếng đàn dương cầm của Thanh Thoại. Không khí ấm cúng, thân tình, chứa chan tình dân tộc qua các bài ca cổ, dân ca ba miền, và các sắc tộc, các bài nhận thức ca … khiến cho khán giả đa số là các anh chị em sinh viên nhận thấy rằng đang có một thứ văn nghệ lành mạnh, ý thức, mời gọi, thúc giục rất hợp với tâm tình của thanh niên lác ấy. Anh chị em sinh viên đã nhiệt tình cổ võ khích lệ. Cũng từ đêm hôm đó, những tiếng hát lời ca của sáu chàng trai Đà Lạt và các đoàn viên Du Ca mỗi ngày một lan rộng khắp mọi miền đất nước và không một bạn trẻ nào vào thời đó lại không một lần nghe đến hai tiếng Du Ca …" HỒI SINH CỦA GIÒNG MÁU NÓNG
Quang viết nhạc từ năm 1961. Thời gian hắn sáng tác mạnh nhất là từ năm 1961 đến 1972. Hắn chấm dứt sáng tác từ ngày hắn lấy vợ. Có một lần tôi hỏi hắn :'' Từ ngày lấy vợ, mày có sáng tác thêm được nhạc phẩm nào không ?''. Hắn lắc đầu. Nghe hắn trả lời trong lòng tôi thấy buồn lâng lâng. Tôi không dám hỏi thêm vì sợ hắn buồn. Ngày hắn cùng bốn đại kiện tướng của phong trào Du Ca lên Trả lời phỏng vấn của đài RFA ngày 25/05/2004 Quang nói :” Tại hải ngoại khi chúng tôi và lứa trưởng đầu tiên của phong trào đến đây vào những năm 80, 81, 82 được ba, bốn người, anh em chúng tôi xúm lại với nhau. Một số anh em khác lần lượt qua trong các cuộc vượt biên sau này, số huynh trưởng có được trên dưới mười người. Tất cả các anh em đó vẫn khắng khít làm việc với nhau. Chỉ có điều không phải là hoạt động trong nghành ca hát và sinh hoạt thanh niên như xưa nữa mà phần lớn là trong nghành truyền thông, nhất là trong nghành báo chí. Đó cũng là dấu hiệu rất tích cực cho tất cả các anh em khi đến đây, họ không có sân khấu nào thuận tiện hơn để phổ diễn sự đóng góp những quan tâm và tâm tình của họ bằng những phương tiện truyền thông. Còn về hoạt động phong trào Du Ca trên phương diện ca hát, mãi cho đến năm 2000, anh em mới thúc đẩy nhau thành lập một trang Web Du Ca làm địa điểm trung tâm cho các anh em ở các nơi có thể tìm lại được với nhau trên một sân khấu rộng lớn nghĩa là bất cứ nơi nào cũng tham gia được. Cho đến ngày hôm nay thì sinh hoạt trên Web đó rất rầm rộ. Tất cả các khuôn mặt cũ cũng như mới đang làm sống lại sinh hoạt Du Ca. Rất đông anh em và rất nhiều các bạn trẻ bây giờ họ tỏ tình cảm với nhau bằng những ca khúc. Lối viết mới, lối hòa âm mới, kỹ thuật mới, họ viết trên nhiều khía cạnh, trên nhiều lãnh vực. Chúng tôi rất vui mừng sinh hoạt Du Ca đạt trở lại được mức hiện nay. Còn ước mơ ngày sinh hoạt thật rộng lớn, để tất cả các anh em chúng tôi lại gập nhau, lại cùng cất tiếng hát. Một số anh em thỉnh thoảng vẫn đi công tác với các bạn bè mời, trình diễn vẫn có, sáng tác vẫn có, nhưng sự aò ạt lớn mạnh như những năm trước 1975 thì chưa có tại hải ngoại. Những năm gần đây, tôi có thời gian thoải mái hơn tôi bắt đầu một số những công cuộc đi các nơi đi vòng qua các tiểu bang, những chuyến đi ra khỏi nuớc Mỹ, đi qua Úc, đi qua Âu Châu ..vv... Tất cả những sinh hoạt đó làm tôi có lại những cảm hứng. Những cảm hứng lần này nhẹ nhàng hơn . Những ca khúc đầy lời kêu gọi thiết tha của tình yêu thương. Đây là đợt tôi viết mới và lạ không giống như những ca khúc mà tôi đã viết trước năm 1975. Vào mùa hè năm nay tôi sẽ cho ra album Về Đây Nhé gồm từ 12 đến 15 ca khúc mới mà tôi viết trong hai năm nay. Album này là sự mời gọi những tình cảm xưa cũ nhiều hơn. Năm sáu bài đã có trong tập Bên Kia Sông rồi, còn những bài mới chắc chắn sẽ làm nhiều người ngạc nhiên hơn nữa bởi vì mới không chỉ vì thể nhạc mà mới trong ngôn ngữ mà tôi rất chọn lựa. Tôi nghĩ rằng những ca khúc này cũng đem lại nhiều mầu sắc. Thể nhạc này là để làm quen với một số những rung động mới trước khi đưa tất cả những cái đó trở lại với đề tài về quê hương về người dân về đất nước của mình. Tôi rất ước mong đi trở về một chặng đường nữa về quê hương về đất nước”. Về Đây Nhé Trong chuyến đi, Quang mang theo một loạt nhạc tình của một album mà hắn viết từ cuối năm 2002 mang tên là tập nhạc Về Đây Nhé. Bài hát mang tên của tập nhạc này cũng là một lời kêu gọi, một cuộc tìm kiếm những mối tình đã đi xa. Ngay cả tình cảm đã mất rồi, đã phũ phàng với ta, cũng lấy lời phù du để làm lại một cái gì mới : Về đây nhé, người em phong ba, đã quên ân tình xưa Về đây nhé, tựa trăng sao khuya quen một mái nhà Những ngày thao thức, đêm nối mong chờ Thấy lòng nao nức như sắp sang bờ Hồn còn như quanh quất ngoài hiên đợi cơn mộng cũ Về đây nhé, người em mong manh, gót chân vương lụa nắng Về đây nhé, chìm con sông xanh, xô giạt kinh thành Về đây nhé, em kiếm muôn trùng Về đây nhé, anh vẫn ngập ngừng Cùng nhau khua tiếng guốc buồn tênh lòng phố vắng Về đây nhé, hẹn em rất ngoan, rất hiền khô Nắm áo người xưa bước vào chốn cũ cứ mơ hồ Về đây với chiều hôm sớm mai, đón lẻ loi Về đây với muôn ngàn ươ’c mơ còn chưa tới Và hắn kết luận: Về đây nhé, thèm nghe tiếng chân, bước êm như nụ hôn Về đây nhé, con thuyền viễn dương cũng vừa lên đường Đó lần em đã không nói câu nào Đó lần em lỡ quên vẫy tay chào Về đây ta nuôi tiếp mộng xưa, một chốn nào Tôi không sành sõi lắm về âm nhạc nên không bàn được gì về chuyện này thật là điều đáng tiếc. Chỉ biết rằng khi Quang hát những bài tình ca này, hắn cũng “nhập vai” một cách rất say sưa. Hắn hát, chúng tôi những người ngoài nghe, như thưả nào hắn hát nhạc quê hương và nhạc đấu tranh vậy. Ngoài những bài Về Đây Nhé, Có Những Khi, Một Lần Thôi, Mùa Thu Lại Đi, Về Con Phố Xưa, Quang còn viết một số bài khá trẻ trung. Gần như những bài … dành cho tuổi trẻ thật, vui nhộn và bông đùa như Tôi Chờ Điều Ấy, Vắng Em, Nàng Bên Tôi …Thành ra nghe một chương trình nhạc tình của Quang hôm đó, tâm trạng người nghe cũng thay đổi liên tục. Từ buồn bã nhớ nhung đến hoang liêu xa vắng và rồi cũng nhiều lúc cười vang … Tình Tôi Con Dốc Nhỏ
Tôi xin nhắc đến bài một bài hát mới trong Album này: Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ. Tôi không có những hò hẹn nào trên những con đường dốc Đà Lạt. Nhưng những con đường Đà Lạt đều nhắc tới những kỷ niệm của thời sinh viên đẹp của tôi. Tôi yêu từng góc phố, những hàng cây của thị xã Đà Lạt. Trước khi hát bài TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ, Quang nói rằng Quang rất yêu những con dốc của thành phố Đà Lạt mù sương. Nhưng nghe xong Quang hát, tôi nghĩ rằng bài TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ diễn tả một sự luyến tiếc về một mối tình thời học trò ngày xưa. Tỏ nỗi nhớ thương con dốc nhỏ thì chẳng bao nhiêu, nhưng tả sự nuối tiếc về một mối tình đã chiếm trọn bản nhạc. Con dốc chỉ là điểm hẹn, con dốc chỉ là chứng nhân của một mối tình, con dốc chỉ là nơi cất giữ những hình ảnh của mối tình. Trong tám đoạn của bản nhạc không có đoạn nào là không nói nên sự hoài niệm, sự luyến tiếc mối tình thời xa xưa. Chỉ vì nhũng lý do tôi vừa nói mà Quang yêu con dốc. Tôi chợt nhớ tới cuốn phim Titanic, xem xong phim chẳng ai bận tâm chiếc tầu Titanic là gì? nó đắm như thế nào? người ta chết ra sao? Người ta chỉ nhớ câu chuyện tình kỳ dị được lồng trong chuyến đi định mệnh đó. Con Dốc Nhỏ cũng vậy chăng? Nơi tôi ở rất gần một con đường Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương Thành phố âm u nhìn con dốc đứng Nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn Khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng Con dốc nhỏ thích tôi người đứng chờ Trông ngây dại giữa chiều nắng chiều mưa Chờ bước chân quen, gập ghềnh đất đỏ Chờ những hoang liêu một mùi phấn nhẹ Tôi đưa nàng bước lên tuổi xuân thì Phố xóm nghèo sớm lan chuyện chúng mình Những mái nhà liếc trộm bước tình duyên Chuyện lúc hai tôi ngồi chân dốc vắng Mặt đất ngây ngây mùi thơm bắp nướng Vai sát bờ vai gờn gợn những trầm hương Chân dốc nhỏ dẫn đi quanh bóng hồ Môi em mềm hút cạn cánh bụi mưa Hàng liễu giang tay bầy chim trốn gió Từng bưóc em rung người trong tiếng thở Em cắn bờ vai: lắm khi lòng bất ngờ … Từng đêm từng đêm, con dốc vàng ánh đèn Điệu sáo thần tiên gọi vang tận cõi trên Cuộc tình ngơ ngác không hứa hẹn thêm Nào trời hạnh phúc đâu biết gì hơn Vui với cuộc vui bước khuya tình len lén Để có nhiều hôm phố núi gọi mưa về Đường dốc trợt trơn, lòng vang lừng khúc ca Em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ Mưa mãi tình ơi con tim tôi nhóm lửa thật rồi Nhưng một chiều bỗng em đổi hướng đời Vắng một người dốc mòn cũng lẻ loi Nhịp trống cao nguyên từng cơn buốt nhói Chờ mãi nơi đây lòng tôi thấm mỏi Em nơi nào, đã thênh thang lộ mới Trong thinh lặng có tôi chờ rất dài Bông hoa cỏ cắng chặt giữa đầu môi Nhàn cánh hoa bay ngập con ngõ vắng Hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng Con dốc nhìn tôi bước đi bằng vết thương Nay tôi rất xa một con đường Hắn khởi hành trở lại bằng một loạt tình ca. Hắn nói với tôi rằng: Tình ca quan trọng cho con người và nhờ có TÌNH NGƯỜI mới mang theo được MỐI TÌNH LỚN thành ra hành trình của một người Việt (còn tiếp) Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 28/Jul/2010 lúc 10:20pm |
|
mk
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 10:27pm |
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 10:33pm |
Cám ơn LanHuynh đã "tiếp sức" cho mk
Thân ái,
mk
TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ Nhạc và Lời : Nguyễn Đức Quang Nơi tôi ở rất gần một con đường Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương Thành phố âm u nhìn con dốc đứng nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng Con dốc nhỏ thích tôi người đứngchờ trông ngây dại giữa chiều nắng chiều mưa chờ bước chân quen, gập ghềnh đất đỏ chờ những hoang liêu một mùi phấn nhẹ tôi đưa nàng bước lên tuổi xuân thì Phố xóm nghèo sơm lan chuyện chúng mình những mái nhàliếc trộm bước tình duyên chuyện lúc hai tôi ngôụi chân dốc vắng mặt đất ngây ngây mùi thơm bắp nướng vai sát bờ vai gờn gợn những trầm hương Chân dốc nhỏ dẫn đi quanh bóng hồ môi em mềm hút cạn cánh bụi mưa hàng liễu giang tay bầy chim trốn gió từng bước em rung người trong tiếng thở Em cắn bờ vai: lắm khi lòng bất ngờ .. Từng đêm từng đêm, con dốc vàng ánh đèn điệu sáo thần tiên gọi vang tận cõi trên cuộc tình ngơ ngác không hứa hẹn thêm nào trời hạnh phúc đâu biết gì hơn vui với cuộc vui bước khuya tình len lén Để có nhiều hôm, phố núi gọi mưa về đường dốc trợt trơn, lòng vang lừng khúc ca em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ mưa mãi tình ơi con tim tôi nhóm lửa thật rồi Nhưng một chiều bỗng em đổi hướng đời vắng một người dốc mòn cũng lẻ loi Nhịp trống cao nguyên từng cơn buốt nhói chờ mãi nơi đây lòng tôi thấm mỏi em nơi nào, đã thênh thang lộ mới Trong thinh lặng có tôi chờ rất dài bông hoa cỏ cắn chặt giữa đầu môi ngàn cánh hoa bay ngập con ngõ vắng hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng con dốc nhìn tôi bước đi bằng vết thương Nay tôi ở rất xa một con đường Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Jul/2010 lúc 8:40am |
|
mk
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 8:37am |
NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ viết về NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA (3)
HÀNH TRÌNH CỦA MỘT MỐI TÌNH QUÊ HƯƠNG MÊNH MÔNG Quang thực hiện ước mong đi một chặng đường nữa về quê hương, về đất nước. Sau khi không còn làm chủ nhiệm tờ nhật báo Viễn Đông, Quang làm hai chuyến du hành dài ngày. Một chuyến đến Hầu hết anh em đều cho rằng: Đi trên đất Mỹ để tìm cảm hứng cho những bài ca về tình tự quê hương thì chắc chắn thất bại. Tôi nghĩ ngay cả khi Quang làm cuộc du hành trên đất nước thì Quang cũng khó cho ra đời những bài hát hay như trước năm 1975. Trịnh công Sơn, sau năm 1975 cũng không có những bài xuất sắc của thời trước đó. Nhưng tôi tin Quang sẽ làm được. Tôi tin Quang sẽ làm được vì quan niệm về nước Việt Tôi Có Một Mối Tình Nhưng có lần mối tình Chết lịm hồn tôi một cuộc phân ly Cõi lòng khổ đau ngàn dậm ra đi Đại dương ơi, bao giờ ? Tôi trĩu nặng mối tình Những lần ngỡ ngàng lúc khởi đầu cuộc đời trái ngang Gồm từng vỡ vụn xoa dịu từng hồn oan ray rứt Thắp dần hy vọng từng mảnh đời dung mang quê xa … … Quang kết luận: Tôi vẫn có một mối tình Trên đê sông Hồng nhớ đàn diều lượn lờ Cửu Long Nối ngàn con đường mới trẻ trung nhìn không biên giới Hôm nay mối tình tôi: Một Quê Hương Rất Mênh Mông (Tôi Có Một Mối Tình) Trong chuyến đi đến Tuy đã có trong đầu một ý niệm cho tập nhạc Quê Hương Mênh Mông, nhưng Quang cũng không khỏi không có những lúng túng băn khoăn về khó khăn của những người Mỹ gốc Việt trong việc sáng tác. Trả lời một cuộc phỏng vấn Quang nói : ‘’Chúng ta viết về quê hương thì chúng ta viết cái gì ? Chúng ta đứng ở đâu và nhìn quê hương là đâu ? Câu hỏi này không đơn giản. Nếu không có một quê hương thì chúng ta đang xây cái gì ? xây cho ai ? hoăc chống cái gì ? Và chúng ta sẽ chọn lựa ra sao ? Người nào là đồng bào chúng ta ? Những người bên cạnh chúng ta chốn xa xăm này hay ở tại nơi mà ta gọi là quê nhà kia ? Những người chung quanh chúng ta mà chúng ta không coi họ là đồng bào thì chúng ta ra ứng cử, chúng ta làm việc, chúng ta căng sức đóng góp tài năng, công lao, tiền bạc, chia sẻ thuế má với họ thì gọi là làm … gì ??? Còn nếu chúng ta coi những người cùng màu da ở xa tít mù tắp kia là đồng bào thì chúng ta có gì là đóng góp hay giúp đỡ gì người ta không ? … Tôi cho là chúng ta đứng trước nan đề rất lơ’n nếu không giải thích được thì không thể viết được. Nếu không trả lời được câu này thì tất cả các đề tài khác đều vô nghĩa. Chẳng hạn không kêu gọi tuổi trẻ rằng tiến lên, cố gắng, hy sinh, chờ ngày … cho những điều hư ảo nữa. Đấy là những thao thức mà đã nhiều lúc người ta có cảm tưởng bế tắc. Tôi đang cố gắng suy nghĩ trở lại về những điều chính yếu ấy và rồi giàn trải nó ra trên cung bậc…’’ NÀO AI Nhạc phẩm Nào Ai c ó l ẽ là lời kêu thống thiết nhất của hắn. Tôi nghĩ cần đến hàng chục trang giấy để giải thích từng câu từng chữ trong bài này. Xin hãy đọc: Nào ai đứng trước tôi – Nào ai bên cạnh tôi Nào ai chỉ tôi biết tên con đường về ngày mai Đường cao theo bóng bay- Đường gần xương máu đầy Những đường này quen biết tôi từng đắng cay Nào ai đang gấm hoa – Nào ai đang ước mơ Nào ai hồn thao thức thấy quê nhà ngày mỗi xa Ngàn phương vẫn cứ đi đường ơi không bến bờ Ngựa hồ ngày mỏi vó cũng quay về chốn quê nhà Người muôn nơi trên thế giới, ai có cùng ước mơ này Nói cùng tôi cất tiếng cùng tôi, tha thiết đắm say Từng bờ nương từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ Tình người nở hoa tìm ra lối ngõ, không hẹn hò cũng bước về Rồi cùng tôi ngày mai đi hái, những chân thành, những tin mừng Từng đoàn xe lượn qua cuối bãi, những con đường vui mé sông Chuyện ngày qua ngày xa xưa ấy, đã phai nhạt trước tấm lòng Lúc ấy chân đi, đi từ muôn phía, và đi rất nhẹ Nào ai chỉ dùm tôi, tình nào mãi thắm tươi Chiều mưa cùng bằng hữu cứ reo cười chờ nắng soi Đường xa bước ngắn dài, đường bâng khuâng cuối trời Nào ai chỉ dùm tôi một đường tới Lời kêu gọi không còn là lời gào, lời thét, không còn là những cú đấm mạnh vào mục tiêu rõ ràng của những bài Ruồi Và Kên Kên, Im Lặng Là Đồng Lõa, Xương Sống Ta Đã Quằn … Máu tuổi trẻ sục sôi, máu tuổi già nguôi lạnh chăng ? Đối với Quang chắc không phải. Làm người Mỹ gốc Việt quả quá khó khăn. Quang nuối tiếc một thời tuổi trẻ đầy hào hùng coi tử sinh nhẹ tựa lông hồng: Thời gian cuộn chỉ xanh, nào ai sẽ kéo nhanh Đường lui về giây phút không vướng lòng với tử sinh Trả tôi lúc đắm say một thư sinh tóc dài Làm thơ và yêu nước không ai sợ hãi, nghi ngại Trên Đường Phố
Nguyễn Huy ghi lại lời Quang nói trong buổi tường trình chuyến du ca suốt Hoa Kỳ ngày 11 tháng mười năm 2004 tại phòng sinh hoạt Nguyễn đình Điểu của nhật báo Người Việt :’’ Thể loại này kích thích tôi. Nó dính dáng đến con người Việt Dự định đã thành hình nhưng biết Quang còn có sự cam đảm để dấn thân hoàn tất mơ ước không ? Nhưng c ó một số người đã chỉ cho tôi thấy mấy vần chữ vẩn vơ trong bài này. Họ giải thích rằng Quang đã tự nghĩ ra câu trả lời rồi chứ không phải chỉ đưa ra câu hỏi mù mờ với những tha thiết theo suốt bài hát trên đâu : ……………………. Từng bờ nương, từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ TÌNH NGƯỜI NỞ HOA TÌM RA LỐI NGÕ, không hẹn hò cũng bước về …………………….. Lúc Quang hát tới bài này tại nhà tôi hồi tháng bẩy, tôi có cảm giác Quang cực kỳ xúc động. Gần như mắt hắn mờ đi trong hơi sương hay trong hơi nước mắt và giọng hắn hơi run. Không ai có thể chia xẻ được cái tâm cam của tay viết nhạc này. Hắn đã trải qua một quãng thời gian khá dài để lần mò theo với thăng trầm của dân tộc. Trưởng thành trong một cuộc chiến từ lúc hình thành tới lúc kết thúc, nhẩy vào trong cuộc rồi bứt ra khỏi cuộc chơi, bị tù đầy rồi cũng bị hất văng xa ra khỏi đất nước, hắn cho rằng có một thế hệ bị bỏ quên bên cạnh một dân tộc bị lợi dụng rồi cũng bị bỏ quên, bị băm vằm không thương tiếc … Ngày nay người ta chà đạp nhau, phế bỏ nhau, mặc cho người phương này, kẻ nơi kia … trong tình dân tộc, ai nói lời hối tiếc ? Đường cao như bóng bay, đường gần xương máu đầy Những đường này quen biết tôi từng đắng cay NHỮNG BÀI HÁT BẤT HỦ
Trong mục Tác Giả và tác phẩm của web Du Ca đã liệt kê những ấn phẩm đã phát hành: 1. Chuyện Chúng Mình: 52 ca khúc, viết từ năm 1960 đến năm 1964, thời kỳ đầu sáng tác, hầu hết là các khúc tình ca tuổi học trò và thời gian sinh sống tại Đà Lạt. 2. Trầm Ca: 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về con người, đất nước. Những ca khúc này tạo nên cả một cao trào tuổi trẻ nhập cuộc vào các sinh hoạt. 3. Những Bài Ca Khai Phá: Trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt cho tuổi trẻ dung trong các buổi họp mặt công tác xã hội, các hoạt động đám đông. 4. Cần Nhau: 12 tình khúc được biết đến nhiều với: Bên Kia Sông, Vì Tôi Là Linh Mục, Cần Nhau, Như Mây Trên Cao 5. Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc: 18 bài sinh hoạt trong ngày hạnh phúc lứa đôi, hình thành 1969, nhiều bài hình như đã thành nếp trong các đám cưới như: Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc, Đám Cưới Chúng Mình, Lũ Chén Dĩa Có Tội Tình Gì 6. Khúc Nhạc Thanh Xuân: Khoảng 40 bàisinh hoạt thanh niên quốc tế. Nhiều nhất là các ca khúc trong thời lập quốc Do Thái, phong trào Kibbuz, những bài hát về nhân quyền, tự do từ Âu sang Á và Mỹ như: Về Miền Gian Nan, Bài Ca Hải Tặc 7. Hương Đồng Quê: Các khúc Dân Ca và nhạc đồng quê nổi tiếng trên thế giới chuyển dịch sang lời Việt, gần 200 bài, hầu hết bị thất lạc năm 1975 8. Phúc Ca Mùa Lễ: 25 bài đồng dao quốc tế hát trong mùa Giáng Sinh 9. Ruồi Và Kên Kên: Hoàn tất năm 1970, gồm 11 bài, là những ca khúc bi phẫn về những vấn đề lớn nhất trong một khung cảnh chính trị đen tối nhất của cả 2 miền đất nước. 10. Dưới Ánh Mặt Trời: Gồm các sáng tác trong các tập Trầm Ca, Những Bài Ca Khai Phá, Ruồi Và Kên, Chuyện Chúng Mình, Cần Nhau, Khúc Nhạc Thanh Xuân, Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc. Nay hắn có thêm hai tập nữa là Về Đây Nhé gồm mười hai bài tình ca và tập Quê Hương Mênh Mông mới chỉ có ba bài. Sau đây là một số bài ca nổi tiếng của Quang trước năm 1975. VIỆT
Ta như nước dâng dâng chẳng có bao giờ tàn Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang ………………………………………………………………. Ta như giống dân đi tràn lên ngọn lửa hồng Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm ……………………………………………………………….. Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại, xương da thịt này cha ông miệt mài. Từng ngày qua, cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi. Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang, trên bàn chông hát cười đùa vang vang. Còn Việt Tôi được nghe chính Quang hát bài này với các em Thiếu Sinh của Liên Đoàn Việt Hùng tại buổi tối lửa trại tại sân nhà tôi vào năm 2004. Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu kể lại, trong lần web Kicon phỏng vấn ông, rằng :" Bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ được hát lần đầu tiên tại trường Quốc Gia Âm Nhạc vào tuần lễ văn hóa do cụ Quốc Vụ Khanh Mai thọ Truyền tổ chức. Bài hát này được hát để kết thúc đêm trình diễn của Phong Trào Du Ca. Hơn 150 Du Ca viên từ khắp nước đứng chật sân khấu để hát bài này. Chúng tôi hát xong bản này, khán thính giả đứng dậy vỗ tay nồng nhiệt. Chúng tôi hát lại lần thứ hai rồi lần thứ ba, lần thứ tư , thứ năm . Mặc dầu tôi đã nói trên máy phóng thanh nhiề lần rằng buổi trình diễn của Phong Trào Du Ca đã chấm dứt, xin kính chào quý khán thính giả và xin chúc quý vị một đêm ngủ ngon. Nhưng họ không chịu ra về. Chúng tôi phải hát bài này đến lần thứ mười. Chưa lần nào tôi lại thấy một bài hát được khán giả cổ võ nồng nhiệt như vậy " . Tôi được nghe ca sĩ Nguyệt Ánh hát bài này tại trại Thẳng Tiến VII tại Nhưng bối cảnh đất nước lúc đó thê thảm quá, tôi nghĩ phải vùng lên từ thảm trạng, từ thực tế đó, phải NGẠO NGHỄ MÀ ĐI LÊN …'' NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU
Năm 1963 Quang đọc một bài thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu của Nguyễn Văn Hoàn đăng trong nội san Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên Sài Gòn lúc ấy do anh Lê Hữu Bôi làm chủ tịch. Quang đã phổ nhạc bài thơ này. Bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu là một trong ba bài hát bài hát đã ảnh hưởng tới thời cuộc lúc bấy giờ. Quang tâm sự :”Cuộc đảo chánh 11 tháng 11 năm 1963 diễn ra khi tôi còn là một học sinh. Nhưng cũng đủ giao động để thấy trước mắt mình đã vỡ ra một khoảng chân trời mới : Những Chuyện Quê Hương. Tôi nghĩ rằng không riêng tôi mà cả thế hệ chúng tôi lúc đó như những người đang giật mình ra khỏi một cơn mộng dài, ai cũng thấy bỗng nhiên mình có bổn phận làm một cái gì đó cho đất nước, chứ không còn ngồi im trong góc nhà hay trong góc lớp học nữa. Tôi nhớ bài Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương từng làm tôi rung động. Tôi có phổ nhạc bài thơ này, nhưng không đủ khả năng. Tiếng nhạc chỉ buột ra được ba câu thì ngưng lại. Nhưng nhờ vậy, một cái mầm âm thanh đã chờ sẵn trong tim tôi từ đó. Những cơn biến động diễn ra liên tục sau đó lại tăng thêm nỗi băn khoăn và suy nghĩ trong tôi. Ở Sài Gòn sinh viên và thanh niên liên tục nhảy vào nhiều hoạt động chính trị, khiến mọi quan tâm của tôi bị thu hút theo một cách triền miên. Năm 1964 trường Chánh Trị Kinh Doanh và Quản Trị Xí Nghiệp ra đời ở Viện Đại Học Đà Lạt đánh trúng ngay vào mộng ước của tôi, nên tôi ghi danh liền. Mùa hè năm đó, một tờ báo Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên ở Sài Gòn ra đời. Tờ Lửa Việt được tung lên Đà Lạt. Tôi bắt gập ngay trong tờ Lửa Việt một bài thơ mang tên Ca Hờn Nhược Tiểu, ký tên Nguyễn Văn Hoàn. Không chần chờ, tôi đặt ngay bài thơ ra trước mắt và mầy mò quyết phổ cho xong một bài nhạc. Tôi chưa từng thấy ai và nghe ai viết loại nhạc mầu sắc chính trị có tầm cỡ như bài thơ này. Tôi cũng không quen biết tác giả bài thơ này. Quan trọng là thấy bài thơ hay, đúng ý mình thì tôi phổ nhạc. Kết quả là tôi phổ nhạc xong bài thơ này vào tháng 10 năm 1964. Nhưng làm sao phổ biến đây? Bài hát này chưa một lần trình diễn trước một đám đông nào, nhưng tôi biết bài hát này rất là hay. Tháng 12 năm ấy, trong một buổi tụ tập của nhóm học tập J. M. Keynes của chúng tôi (sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh được tổ chức học thành từng nhóm, bắt chước lối tổ chức của trường Đại Học Havard) tại nhà máy nước bên cạnh Hồ Xuân Hương, tôi có hát bài này. Vừa hát vừa sợ vì cái mặc cảm hát ca khúc chính trị không xưng tụng chế độ có nghĩa là chống chế độ. Tôi chẳng thấy ai để ý khen chê gì cả. Mãi đến khi tôi quyết định về Sài Gòn sinh hoạt, rồi gập anh Phạm Duy thì Nỗi Buồn Nhược Tiểu mới được dịp vang tiếng trước các nhóm sinh viên, nổ vang dôi ngay từ lần trình diễn đầu tiên ở Sài Gòn. Bài hát đã đánh ngay vào trái tim của người nghe và nhẩy lên ngang hàng với những Kẻ Thù Ta Đâu Có Phải Là Người hay Giọt Mưa Trên Lá của Tâm Ca …’’ Suốt ba năm 1965 tới 1967, Nỗi Buồn Nhược Tiểu là bài hát hàng đầu đưa đến những xúc động chưa từng có trong lịch sử ca hát nếu tôi nói không quá lời. Khắp các giảng đường đại học, các sân trường, các phòng hội trung học từ lầu Morin hay sân trường Đồng Khánh ở Huế đến trường Phan Châu Trinh, trường Nữ Trung Học ở Đà Nẵng vào tới Nha Trang, Viện Đại Học Đà Lạt, trường Bùi Thị Xuân rồi tới trường Luật, Khoa Học, Sư Phạm, Văn Khoa ở Sài Gòn … Nỗi Buồn Nhược Tiểu gần như là tiếng hát của giới trẻ, giới trí thức đương đại. Quang nói hắn không thể quên được lần trình diễn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ . Học sinh bu nghẹt tất cả các cửa sổ không còn lối để thở, trong phòng là khăn mùi xoa và nước mắt. Hát xong bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, hắn phải ngưng lại mười phút mới có thể cất tiếng cho bài kế tiếp. Quang kể lại một kỷ niệm đáng nhớ nhất của Quang :’’ Đó là lần tôi cùng anh Phạm Duy và Phương Oanh ra hát tại hội trường Morin cho sinh viên Huế. Tối hôm đó là một buổi tối hừng hực không khí đấu tranh, lại được châm thêm những thùng dầu xăng với những ca khúc Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Đàn Bò, Người Anh Vĩnh Bình. Tối hôm đó chúng tôi về nhà giáo sư Lê văn Hảo. Tôi nhớ tối hôm đó có cả Nguyễn đắc Xuân và một vài khuôn mặt rực lửa tranh đấu lúc bấy giờ. Thú thật lúc ấy tôi còn quá trẻ và ngây ngô của một cậu sinh viên mới ngoài hai mươi tuổi. Được mời đi hát cho thanh niên sinh viên là lên đường ngay. Thành công trong buổi trình diễn, được tiếp đón nồng nhiệt nên chúng tôi trò truyện suốt cả đêm. Sáng hôm sau chúng tôi lên máy bay để về Sài Gòn rất sớm. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi dời Huế, một cuộc biểu tình lớn từ đại học Huế tràn ra đường phố. Những bài tối qua tôi hát được phát qua loa phóng thanh đặt trên xe hơi của đoàn biểu tình. Chúng tôi may mắn thoát được cơn sốt điên cuồng ngày đó. Cho đến một ngày của mấy năm sau đó, tại một buổi tiệc chính trị tại Sài Gòn, một anh Mỹ da đen đến bên tôi cười rất thân mật và nói bằng tiếng Việt :’’ Ông Quang, tôi giới thiệu với ông, tôi tên là R.. Trước đây tôi là trưởng cơ quan CIA vùng I. Ngày biểu tình ở Huế, tôi ra chậm một chút. Nếu hôm đó ông ở lại mấy tiếng sau đó thì tôi đã bắt ông rồi “ (còn tiếp) |
|
mk
|
|
IP Logged | |
Trang of 2 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |