Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 2 phần sau >>
Người gởi Nội dung
thonglo2003
Admin Group
Admin Group
Avatar

Tham gia ngày: 31/May/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 406
Quote thonglo2003 Replybullet Chủ đề: Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam
    Gởi ngày: 02/Nov/2008 lúc 9:04pm

Lịch Sử Phong Trào Du Ca Việt Nam

    Phong trào Duca Việt Nam được thành lập năm 1966 tại miền nam Việt Nam, cùng lúc với phong trào làm công tác xã-hội của sinh-viên học-sinh.
     Hai sáng lập viên của phong trào là Nguyễn Ðức Quang và Ðinh Gia Lập.
     Duca là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng đồng.
     Văn nghệ cộng đồng là văn nghệ trong đó cả người nghe lẫn người hát đều cộng tác với nhau, mục đích tác động tinh thần và cảm hóa người nghe hơn là ru ngủ, để tất cả cùng ý thức và phục vụ cho cộng đồng, xứ sở.
     Người Duca trao đổi những khả năng chuyên môn qua sinh hoạt tập thể .
     Duca viên gây tinh thần cộng đồng trong quần chúng nhờ vào những tư tưởng gởi gấm trong các bài hát và bằng chính việc làm trong phạm vi khả năng của mình.
     Người Duca nói với mọi người bằng những lời tai nghe mắt thấy qua âm thanh tiếng nhạc, hoạt cảnh hay vũ khúc.
     Những loại nhạc Duca thường xử dụng như : Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát ca ngợi tình yêu con người và thân phận quê hương.
     Phong trào Duca do Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ được bầu làm chủ tịch kể từ năm 1967, đến năm 1972 được thay thế bởi Ðỗ Ngọc Yến.
     Trưởng xưởng Duca do nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang điều hành, cho đến năm 1972 được thay thế bởi Ngô Mạnh Thu tức nhạc sĩ Trần Tú.
     Các huynh trưởng hướng dẫn cũng như cố vấn như : Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hà Tường Cát, Trần Ðại Lộc, Trần Văn Ngô, Nguyễn Thanh, Nguyễn Khả Lộc,Phan Huy Ðạt, Tống Hoằng, Trần Dạ Từ, và Phương Oanh.
     Phong trào quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như huấn luyện và đào tạo những cây bút trẻ mới gồm : Phạm Duy, Nguyễn Ðức Quang, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Giang Châu,  Nguyễn Hữu Nghiã, Trần Ðình Quân, Lý Văn Chương, Nguyễn Thiện Cơ, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn Phiên, Võ thị Xuân Ðào  v..v...
     Những tuyển tập Duca đã phát hành như: Tuyển tập Duca 1, Duca 2, Duca 3, Những bài ca khai phá, Ta đi trên dòng lịch sử, Những điều trông thấy, Những khuôn mặt Duca, Hát cho những người sống sót, Anh hùng ca, Sinh hoạt ca.v.v..
     Trước năm 1975, Phong trào Duca có tác dụng sâu mạnh đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca diễn đây đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn Hướng đạo, hay Thanh sinh công, Gia đình Phật tử trong các tỉnh miền nam Việt Nam như : Con Sáo Huế, Duca Áo Nâu, Duca Lòng Mẹ, Duca Trùng Dương, Duca Vàm Cỏ Tây, Duca Vàm Cỏ Ðông, Hồ Gươm, Sông Hậu, Duca Vượt Sóng, Ca Ðoàn Trung Dương, Duca Áo Xanh, Duca Giao Chỉ, Duca Ðà Nẵng, Duca Kiên Giang, Biên Hòa,Toán Duca Muà Xuân, Duca Phù Sa, Ðồng Vọng v..v.

IP IP Logged
đông quyên
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 04/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 267
Quote đông quyên Replybullet Gởi ngày: 03/Nov/2008 lúc 7:54am
 
          Ban Duca Vượt Sóng thành lập bởi anh Lưu Quang Diệp vào khoảng 1970 tại Gò Công.
          Duca còn hát những bài nhạc đi thẳng vào trái tim người, người Việt Nam đang sống trong đất nước Viêt Nam nghiệt ngã, oằn oại đau thương vì mọi lẽ, đó là TÂM CA.
bx
IP IP Logged
longchanh
Newbie
Newbie
Avatar

Tham gia ngày: 30/Oct/2008
Đến từ: Australia
Thành viên: OffLine
Số bài: 28
Quote longchanh Replybullet Gởi ngày: 15/Nov/2008 lúc 6:28am
Cam on D.D G.C cho nghe dong nhac moi cua L.Q.Diep.Mung cho ban da viet nhac tro lai.Cho khong thoi Em Binh Long dau mang bui do bi lang phi thi uong biet may.
 
longchanh
IP IP Logged
thonglo2003
Admin Group
Admin Group
Avatar

Tham gia ngày: 31/May/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 406
Quote thonglo2003 Replybullet Gởi ngày: 15/Nov/2008 lúc 8:33am
 
 


Chỉnh sửa lại bởi thonglo2003 - 15/Nov/2008 lúc 8:39am
IP IP Logged
longchanh
Newbie
Newbie
Avatar

Tham gia ngày: 30/Oct/2008
Đến từ: Australia
Thành viên: OffLine
Số bài: 28
Quote longchanh Replybullet Gởi ngày: 18/Nov/2008 lúc 4:24am

Xin them :GoCong co phong trao DU CA rat som ,dong thoi voi phong trao VOVINAM.Voi cac anh:Le Quang Bon,NguyenThanh Cam...va mot vai chi...Nam 1967-1968 co anh Liem{xin loi da quen Ho} lam Truong ty Thanh Nien tai Go Cong da het long ho tro DuCa.Hien gio mot nguoi dang o Viet Nam,mot o My

longchanh
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 27/Jul/2010 lúc 10:19pm
 
 
Khi nói về "phong trào du ca Việt Nam" , một tên rất quen trong "giới du ca", được nhiều người nhắc đến  : Nguyễn Đức Quang .
 
Anh Nguyễn Đức Quang, cựu sinh viên khóa 1- khoa Chính Trị Kinh Doanh, VĐH Dà Lạt.
Bạn bè thường gọi anh là " Quang Du Ca " ,
để phân biệt với một anh khác cùng học khóa 1- CTKD - VĐHDL ,
cũng tên : Nguyễn Đức Quang , bạn bè gọi anh : "Quang Già Cơ".
(vì cho là anh giống ông già cơ trong Bài Tây, còn anh không chơi bài )
 
Anh Quang Già Cơ có tài viết văn và trí nhớ của anh thật tuyệt vời.
Anh Quang Du Ca có tài sáng tác, đàn, hát ... du ca !
 
Trước đây mk đã giới thiệu anh Quang Già Cơ với các bài biết về "Trọc Sỹ"
 
Hôm nay, 
mk xin giới thiệu bài của anh Quang Già Cơ viết về anh Quang Du Ca.
Bài viết khá dài, mk chia làm nhiều phần, gửi từ từ lên DĐ , xin cả nhà kiên nhẫn theo dõi và thưởng thức giọng văn dí dỏm, sinh động của tác giả Quang Già Cơ , cũng là một dịp biết thêm về phong trào du ca một thời của tuổi trẻ VN ... xưa kia ! .
 
Trân trọng,
mk
 
 
 

 

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

                                           

        (1)    

                                              

 

 
 
Tôi và Nguyễn đức Quang tình thân thì có, nhưng thông cảm, hiểu biết nhau thì không.  Co' nhiều lý do để tôi và Quang thân nhau.  Thứ nhất là vì tôi và Quang là bạn học.  Chúng tôi học với nhau bốn năm tại trường CTKD thuộc viện đại học Đà Lạt.  Thứ hai vì tôi và Quang cùng là sinh viên sĩ quan trừ bị khóa 9/68 Thủ Đức.  Trong thời gian ở trường Võ Bị, tôi và Quang ở trong một nhóm 10 người được biệt phái 2 tuần về trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Võ Khoa Thủ Đức.  Tại trường này, chúng tôi có nhiệm vụ tổ chức cho trường có những đơn vị Thiếu Sinh Quân Đội và huấn luyện cho các em học sinh những kỹ năng của Hướng Đạo.  Lý do thứ ba, tôi và Quang là khóa sinh của một khóa Cơ Bản CTCT của  Trường CTCT thuộc Cục Chính Huấn trong ba tháng .  Lý do thứ tư, tôi và Quang cùng làm việc tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt thuộc Cục Chính Huấn trong thời gian một năm.  Lý do thứ năm là mỗi lần lên thăm Seattle, Quang đều ở lại nhà tôi mặc dầu Quang được rất nhiều người mời đến ở lại nhà của họ.  Mặc dầu quen biết nhau một thời gian khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn không trở thành đôi bạn thân thiết .  Lý do không phải vì khác tính tình, khác chính kiến … Lý do chính có lẽ là chúng tôi ít có dịp làm việc chung với nhau và khả năng khác nhau.

     

Chúng tôi là bạn nhưng không chung bè.  Tôi không có bè, Quang thì có.  Quang không những có bè mà còn chèo lái cái bè Du Ca to tướng.  Trong suốt bốn năm trường tại Viện Đại Học Đà Lạt chúng tôi gập nhau rất ít.  Năm 1964 đến năm 1968 là những năm hoạt động sôi nổi của các phong trào thanh niên. Quang là người sáng lập Phong Trào Du Ca thì làm gì có nhiều thời giờ để  đến lớp. Trong bốn năm tôi và Quang ngồi cạnh nhau trong bốn kỳ thi cuối khóa của bốn năm học.  Những lần gập nhau trong những kỳ thi thì chắc chắn chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều.  Nói nhiều sợ quên hết chữ.  Lúc chờ phát đề thi thì mặt ai cũng nghiêm và buồn, tâm chí đâu mà nói chuyện với nhau.  Chúng tôi không cùng nộp bài thi một lần.  Nộp bài thi xong thì mạnh ai nấy biến.  Ngoài những lần gập nhau trong các kỳ thi có lẽ số lần chúng tôi gập nhau chỉ đếm được trên đầu ngón tay.  Tôi chỉ nhớ trong bốn năm học tôi nghe Quang hát ba lần: một lần tại Giảng Đường Spellman, một lần tại Giảng Đường Thụ Nhân và một lần tại quán T2 của Nguyễn tường Cẩm và Nguyễn lập Chí.

     

Trong thời gian thụ huấn tại quân trường Quang Trung và Thủ Đức chúng tôi không ở cùng đại đội. Trong hai tuần sinh hoạt tại trường trung học Võ Khoa, tôi chỉ nói chuyện với Quang hai lần .  Một lần chúng tôi tụ họp để nghe anh Thiếu Tá Thùy, trưởng phòng CTCT trường Võ Bị Thủ Đức, chỉ thị về công tác của chúng tôi trong hai tuần tại trường Võ Khoa và một lần chúng tôi họp để bàn về buổi lễ bế giảng khóa huấn luyện.  Buổi bế giảng khóa huấn luyện có những mục thi cắm lều nhanh, thi cứu thương, hợp ca và kết thúc bằng một màn vũ của người da đỏ nhảy múa quanh totem.  Màn vũ này do Quang sáng tác và tập cho các em.  Trong hai tuần công tác, tôi và Nguyễn mạnh Phước phụ trách thành lập và huấn luyện một thiếu đoàn. Quang làm việc trong ban chỉ đạo công tác cùng với anh Thùy và anh Nguyễn minh Triết. 

     

Khóa học Căn Bản CTCT, tôi chỉ nói chuyện với Quang có một lần.  Quang chỉ học có một tuần rồi biến mất, không một lời từ giã .  Quang được cử đi Pháp và một số nước Âu Châu trong một phái đoàn văn nghệ do chính phủ VNCH tổ chức.

     

Thời gian tôi làm việc chung với Quang dài một năm tại Cục Chính Huấn từ năm 1970 đến năm 1971.  Trong thời gian một năm đó, tôi và Quang cũng ít khi gặp nhau trong giờ làm việc vì chúng tôi phải đi công tác luôn.  Tôi chưa bao giờ được đi công tác chung trong một toán công tác với Quang.  Chỉ có hai lần, hai toán công tác của chúng tôi gập nhau :  Một lần tại An Thới Phú Quốc, một lần tại Nha Trang.  Ngoài giờ làm việc chúng tôi không đi chơi chung với nhau.  Quang thì bận rộn với phong trào Du Ca. Vô công vô nghệ như Hồ Phán, Nguyễn duy Linh, Đặng đình Tiến và tôi thì thỉnh thoảng chúng tôi ra Pagoda, Mai Hương hay Grival, ngồi ngắm thiên hạ qua lại.  Trước năm 1975, lần cuối cùng tôi gập Quang là lần Quang ở trong toán công tác của Cục Chính Huấn đến huấn luyện cho các trung đội Chính Huấn của đơn vị tôi, Tiểu Đoàn 20 CTCT tại Pleiku.  Sau đó tôi nghe tin Quang được biệt phái về làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn . Tôi gập lại Quang vào năm 1995 nhân dịp Quang lên Seattle trình diễn vào dịp Tết Âm Lịch do lời mời của Hội HO Seattle . 

     

Năm 2000 Quang tặng tôi tập nhạc Dưới Ánh Mặt Trời nhân dịp Quang lên Seattle để nhận cây đàn Guitar do anh Cao Hoàng tặng, với lời đề tặng :

     

                             Nguyễn đức Quang

                                      tặng

                             Nguyễn đức Quang

                             Seattle 05 . 28 . 00

     

Nhiều người mới đọc lời đề tặng cho là lời tặng kỳ quái

   

Hôm nay tôi viết một câu truyện có đề tựa:'' Nguyễn đức Quang Già Cơ viết về Nguyễn đức Quang Du Ca''. 

     

     

                               NHỮNG TRỚ TRÊU

     

Tôi thực sự gập nhiều sự trớ trêu vì trùng họ tên, trùng chữ lót, năm sinh, cùng lớp học, cùng trường học với một người nổi tiếng.  Sau khóa huấn luyện cơ bản về CTCT, tôi được bổ nhiệm về Cục Chính Huấn.  Tôi cầm sự vụ lệnh vào trình diện đại tá Cao đăng Tường. Đại tá Tường là một người cao lớn, hồng hào, đẹp trai, mặt mày phúc hậu. Ông ta vui vẻ mời tôi ngồi. Đít tôi chưa chạm ghế, tôi nghe ông hỏi :

-         Anh đi Pháp có vui không ?

-         Thưa không

-              

Do phản ứng vội vàng nên câu trả lời của tôi không chính xác và vụng về.  Thật ra tôi chỉ muốn nói tôi không phải là anh Nguyễn đức Quang được chính phủ cử đi Pháp. Đại tá Tường thân mật hỏi tiếp :

-         Sao lại không vui ? đi Pháp mà lại không vui sao ?

-         Không đại tá

-              

Lại một câu trả lời không chính xác và ngớ ngẩn, nhưng lần này tôi đính chính ngay :

-         Thưa đại tá tôi không phải là Nguyễn đức Quang

     

Câu trả lời này đúng là câu trả lời ngớ ngẩn và ngu đần, khiến đại tá Tường nhìn tôi rồi nhìn tờ trình của phòng nhân viên để trên bàn :

-         Anh không phải là Nguyễn đức Quang ?

-         Thưa đại tá tôi là Nguyễn đức Quang, nhưng tôi không phải là anh Nguyễn đức Quang nhạc sĩ

-              

Lần này thì tôi đã trả lời chính xác. Đại tá Tường nhìn tôi , nhìn vào tờ trình của phòng nhân viên rồi nói với tôi bằng giọng không mấy vui :

-         Chuẩn úy cứ xuống trình diện tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt

     

Tôi đến gần phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt, tôi nghe vọng ra từ trong phòng tiếng hát của một ban đại hợp xướng.  Khi tôi bước vào phòng thì phòng bỗng im phăng phắc.  Hơn bốn mươi cô ca sĩ đang được một anh quân nhân tập hát ( trung sĩ nhất Nguyễn văn Nụ) đưa mắt nhìn tôi .  Lần đầu tiên trong đời tôi được một đám đông mỹ nhân chiêm ngưỡng khiến tôi bối rối. Tôi lúng túng bước theo chân trung uý Lê minh Đức vào trình diện thiếu tá Phó đức Toàn.  Thiếu tá Toàn giới thiệu tôi với sĩ quan trong phòng rồi đưa tôi ra phòng tập hát để giới thiệu tôi với các cô ca sĩ .  Sau đó thiếu tá Toàn ra lệnh cho tôi tự giới thiệu với các sĩ quan và các cô ca sĩ . Tôi nói :

     

-         Thưa thiếu tá trưởng phòng, thưa quí vị sĩ quan, thưa các cô.  Thiếu tá trưởng phòng bảo tôi tự giới thiệu tôi với quí vị.  Nhưng sự việc vừa xẩy ra ca'ch đây nửa tiếng tại phòng đại tá Cục Trưởng khiến tôi nghi ngờ tên thật của tôi .  Tại sao ? tôi xin kể cho quí vị nghe một câu truyện :  Năm 1967 tôi đi từ Đà Nẵng ra Huế (Tôi không kể chi tiết sau đây Năm 1967 chị Nguyễn thi minh Nguyệt, Trần minh Châu, Phạm văn Răng và tôi đi công tác tại tỉnh Quảng Nam cho chương trình Kinh Tế Hậu Chiến của giáo sư Vũ quốc Thúc.  Sau khi hoàn thành công tác.  Tôi đi Huế để thăm người con gái tôi yêu ở ga Huế .  Phạm văn Răng xin đi theo tôi để thăm xứ Huế mà anh chưa biết) .  Trên đường đi Huế phải vượt qua đèo Hải Vân.  Trước đó vài ngày, Việt Cộng đã giật xập một cây cầu trên đèo và còn đóng một chốt trên đèo Hải Vân.  Từ cái chốt này họ bắn vào các xe chạy qua đèo.  Ai muốn đi qua đèo phải đi bộ vì cầu gẫy đang được một toán công binh Mỹ sửa chữa  nhưng chưa xong.  Họ phải đi bộ khoảng ba mươi lăm cây số từ chiếc cầu gẫy ra đến Lăng Cô mới có xe đi Huế. Xe của tôi đến nơi cầu gẫy từ sáng sớm và vẫn chờ với hy vọng cầu sửa xong và sẽ đi Huế được. Đến quá trưa có nhiều xe đã bỏ cuộc quay trở về Đà Nẵng.  Hành khách trên xe  kiên trì chờ cầu sửa xong, chỉ có vài người theo xe khác để trở về Đà Nẵng.  (tôi bỏ qua chi tiết, xe tôi kiên trì chờ đợi vì bác tài xế và hành khách ba hôm nay không về nhà của họ ở Huế được.  Còn tôi, nếu không có Phạm văn Răng, tôi đã theo một toán người đi bộ để đến Lăng Cô. ) Đến khoảng năm giờ chỉ còn một mình xe tôi, tất cả các xe khác đã trở lại Đà Nẵng.  Bác tài xế là người thiếu kiên nhẫn hơn cả.  Bác ta lên xe, xuống xe, mở máy xe, tắt máy xe không biết bao nhiêu lần .  Bác tài chỉ tôi rồi nói như ra lệnh : '' Anh này biết tiếng Mỹ, anh lên hỏi xem có qua cầu được không ?'' (Ngồi bên cạnh tôi là Phạm văn Răng đeo kiếng trắng, người cao to trông trí thức hơn tôi nhiều .  Tại sao bác tài không sai Răng mà lại sai tôi . Tiếng tây tiếng u của tôi không ra gì nên tôi lưỡng lự.  Ba'c tài bồi thêm một câu :'' Cậu đi hỏi giúp bà con một chút đi .  Không biết sắp nhỏ của tôi ra răng ?''  Một bà lên tiếng :'' Thằng con tôi bệnh mấy hôm nay.  Hôm tôi đi đã thấy hắn biếng ăn ''.  Tôi rủ Răng đi với tôi.  Răng từ chối, tôi đành phải xuống xe đi về phía cây cầu gẫy với dáng điệu không mấy tự tin .) Khi đi đến cây cầu, tôi dõng dạc hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi qua cầu được không ?''.  Tụi Mỹ không trả lời câu tôi hỏi.  Một thằng Mỹ trắng to lớn đi về phía tôi.  Nó lớn giọng nói với tôi :'' con cóc ''.  Tôi không hiểu nó nói gì .  Tôi nói với nó :'' Tôi không hiểu '' . Nó tiến đến gần tôi, nó lớn tiếng nhắc lại :'' Con cóc ''.  Tôi thật sự lúng túng .  Lúc ấy tôi mới thấy dốt tiếng Anh thật tai hại .  Bỗng nó chụp lấy vai tôi.  Nó lôi tôi lên chỗ đất cao hơn.  Mặt tôi tái đi . Tôi như một con nhái bị một con rắn lồng tha đi.  Nó hất hàm nhìn tôi nói lớn :'' con cóc ''.  Bọn lính Mỹ ngừng công việc. Chúng nhìn xem thằng bạn chúng làm tình làm tội tôi .  Chúng cười ha hả .  Một vài thằng nói lớn :'' Con cóc '' .  Bỗng thằng Mỹ rút cây súng colt.  Một tay nó vẫn giữ vai tôi, một tay nó lên đạn.  Nó chĩa súng vào đầu tôi.  Bọn Mỹ đang cười bỗng im lặng.  Cái im lặng để chờ đợi một điều bất hạnh xẩy ra .  Lúc ấy tôi bình tĩnh lạ lùng.  Tôi đưa mắt nhìn lên trời xanh và những cụm mây trắng, tôi đưa mắt nhìn xuống biển xanh thật êm ả, tôi đưa mắt nhìn về vịnh Thanh Bình xa xa, bờ biển ngày thơ ấu của tôi.  Bỗng tôi đưa tay vào túi quần, tôi rút ví, lấy thẻ căn cước và đưa cho thằng Mỹ.  Thằng Mỹ nhìn căn cước rồi nhìn tôi.  Nó buông tôi ra, vỗ vai tôi và nói :'' Ok, Ok ''.  Bọn Mỹ cười ha hả, chúng trở lại với công việc của chúng.  Tôi hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi có thể qua cầu được không ?'' Thằng Mỹ cười :'' yes ''.  Tôi vẫy tay ra hiệu cho bác tài lái xe lên.  Tối hôm đó chúng tôi có mặt tại Huế .  Quí vị thấy, chỉ vì tôi hiểu lầm rằng thằng Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng thật ra nó lại nói tiê'ng Việt mà khiến suýt nữa tôi mất mạng trên đèo Hải Vân.  Thằng Mỹ chỉ muốn xem thẻ căn cước của tôi.  Vậy mà tôi tưởng hắn nói con cóc là một danh từ tiếng Mỹ mà tôi không biết nghĩa. Trước đây nửa tiếng đồng hồ đại tá Tường tưởng lầm tôi là nhạc sĩ Nguyễn đức Quang mà tôi có duyên được làm việc cùng quí vị tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt. Tôi tự giới thiệu tôi là Nguyễn đức Quang nhưng không phải là nhạc sĩ danh tiếng Nguyễn đức Quang.''

     

Trong phòng gọi tôi là Quang A vì tôi vào làm việc trước, còn gọi Quang là Quang B vì Quang vào làm việc sau.  Các cô coi tôi như người anh và gọi tôi bằng anh Quang.  Các cô thì coi Quang như bậc thầy và gọi Quang là Thầy Quang.  Cách đối xử của các cô với Quang có phần cung kính và nể nang, trọng vọng hơn là đối với tôi. Thời gian phục vụ tại Cục Chính Huấn, tôi thường được các cô mời dự sinh nhật, các buổi họp mặt bạn bè, gia  đình.  Không khí làm việc tại Phòng Sinh Hoạt rất là thân tình và vui vẻ. Tôi làm việc tại Cục Chính Huấn, mẹ tôi rất lo lắng.  Mẹ tôi sợ con dâu tương lai của bà sẽ là cô ca sĩ chính huấn.  Thấy tôi gói quà để đi dự sinh nhật, hay dự tiệc gì đó của các cô ca sĩ chính huấn, mẹ tôi thường nhắc tôi :’’ Cẩn thận đấy nghe con, vướng phải ca sĩ thì khổ vào thân ‘’.  Mẹ tôi là phụ nữ Việt Nam cổ nên vẫn còn quan niệm xướng ca vô loài . Nhưng theo tôi các cô cán bộ Chính Huấn này rất đàng hoàng và tình nghĩa.  Tôi biết các cô có chồng và gia đình đều rất đàng hoàng vững vàng … Nếu có gia đình nào không ổn thì nguyên nhân là từ phía ông chồng gây ra cả.  Phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt không lớn nhưng rất nhiều nhân viên, cả sĩ quan và cán bộ có tới trên năm mươi người.  Là một một đơn vị nhỏ trong Cục Chính Huấn, nhưng công tác họ thực hiện đã nâng Cục Chính Huấn lên một mức rất hãnh diện thời đó. 

     

Tôi không ở lâu tại đây, tôi cũng không nghe Quang Du Ca khoe những thành tích đóng góp của hắn cho đơn vị Chiến Tranh Chính Trị này như thế nào.  Tôi chỉ biết hắn rất đươc mọi người trong Cục Chính Huấn quý mến.  Không những các cô cán bộ phục lăn cái tài sinh hoạt của hắn mà cả các sĩ quan từ trưởng phòng tới trưởng khối và cả cục trưởng đều “cưng” hắn ra mặt.  Sau này một lần hắn có kể cho tôi nghe cái mức độ “cưng” đó như thế nào.Trở lại đơn vị lính đầu tiên của tôi là Cục Chính Huấn.  Tôi không thể không đi xa ra đề tài đôi chút để nói về Cục Chính Huấn.  Các cán bộ là thành phần khổ nhất vì họ không phải lính mà cũng không phải là sĩ quan.  Họ chỉ là dân chính nên họ chẳng có quyền lợi gì, trong khi công tác thì rất cực nhọc, thường xuyên phải đi công tác xa Sài Gòn, theo chân các đơn vị tác chiến mỗi tháng chừng hai, ba tuần, sống không khác gì lính tác chiến. Khi di tản, phải nói là họ bị bỏ rơi vì chẳng có quyền lợi gì. 

     

Vậy mà sau 1975 tôi thấy họ đã làm được một việc hết sức ngoạn mục.  Tại Mỹ nhân viên thuộc phòng Chính Huấn thỉnh thoảng tập họp vui chơi ăn uống là một việc tốt nhưng bình thường.  Tại Việt Nam nhân viên phòng Chính Huấn còn liên lạc được với nhau để thăm hỏi, giúp đỡ nhau là một việc làm thật đáng quý và đáng phục.  Chính Huấn, Chiến Tranh Chính Trị, An Ninh Tình Báo, Nhân Viên Biệt Phái là thứ ác ôn, tôi học được điều này ngay ở trong tù. Tôi là một Trung Úy, nhưng vì tôi là trung úy trung đội trưởng trung đội Tâm Lý Chiến nên phải ngồi tù hơn sáu năm… Vậy mà ngày nay các cán bộ Chính Huấn trong nước và ngoài nước đã liên lạc với nhau, thăm hỏi nhau và giúp đỡ nhau rất tận tình.  Điều này làm chính tôi cũng kinh ngạc lẫn xúc động.

     

Cách đây vài tháng Quang điện thoại cho tôi.  Quang hỏi tôi :” Mày có biết tin thằng Hoài chết chưa ?” Hoài là Đại Úy chánh văn phòng Cục Trưởng Cục Chính Huấn.  Quang kể cho tôi nghe về cái chết của Hoài. Hoài chết thật lạnh lùng, một cái chết mòn mỏi, kéo dài và cô đơn. Vợ con mệt mỏi nên bỏ bê chẳng ai còn sức đoái hoài.  Trước ngày Hoài chết có ba người cùng đơn vị cũ thiếu tá Nguyễn kế Nghiêu, đại úy Lê minh Đức, đại úy Nguyễn văn Ruy đến thăm. Ba người nhìn Hoài nằm bất động, thân hình gầy đét trên chiếc giường trong phòng vắng vẻ, chờ ngày ra đi mà nước mắt chẩy dài. Đau khổ nhất là bà mẹ già của Hoài .  Hoài được đi Mỹ chắc hẳn bà cụ hy vọng thằng con trai sau này nếu không bảo lãnh bà qua Mỹ để bà được sống bên con cháu thì cũng gởi ít tiền cho bà sống bớt khốn khó ở quê nhà.  Vậy mà từ ngày Hoài đi cho đến lúc qua đời, có lẽ vì bất đắc chí với cuộc sống, Hoài đã không làm được điều gì ưng ý.  Nhóm Chính Huấn ở ngoài hỏi địa chỉ của bà cụ thì chỉ biết bà cụ vẫn còn sống ở Nha Trang.  Ở ngoài bèn liên lạc với trong nước.  Lập tức có người lặn lội ra Nha Trang và tìm được bà cụ. Bà cụ cầm phong thư tiền nhưng không phải tiền của con trai.  Niềm đau khổ nào lớn hơn ?  Tôi nói với Quang :’’ Thằng này thật quá đáng, có mẹ già mà không chịu sống để nuôi bà mà lại chết đi.  Thật là giận’’ .

     

Năm 1995 tôi và vợ tôi đưa thằng con trai đi CA.  Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi còn khó khăn, nhưng chúng tôi cố gắng cho thằng con trai được hưởng cái mơ ước của tất cả các trẻ em Mỹ cùng tuổi với nó.  Đó là đi xem Disney Land , Studio Hollywood, Sea World, San Diego Zoo.  Chúng tôi nghĩ rằng vài ba năm nữa, nó đi Disney Land thì cái thú vị mà nó được hưởng sẽ không trọn vẹn bằng lúc mới mười hai tuổi.  Chuyến đi đó, chúng tôi được thiếu tá Nguyễn kế Nghiêu mời tới ở nhà của ông ta.  Trung úy Nghiêu đến làm việc tại phòng Sinh Hoạt sau tôi sáu tháng.  Tôi chỉ làm việc với ông chỉ trong vòng có sáu tháng rồi tôi bị đưa ra Pleiku.  Đến phi trường Los, chúng tôi đứng chờ hơn nửa tiếng mà cũng chưa thấy thiếu tá Nghiêu đến đón.  Thằng con tôi hỏi :” Bố còn nhớ mặt ông ấy không?”.   Một tiếng sau anh Nghiêu chạy đến.  Chúng tôi nhận ra nhau ngay.  Anh Nghiêu nói :’’ Tôi chờ ông hơn một tiếng đồng hồ ở tầng trên’’.  Nỗi lo của tôi tan biến.  Anh Nghiêu không đến thì tôi làm sao tôi trả lời vợ con tôi về những điều tôi nói về tình nghĩa của nhân viên Cục Chính Huấn.  Chúng tôi được vợ chồng anh Nghiêu tiếp đón rất thân tình.  Anh Nghiêu còn tổ chức một buổi họp mặt cựu nhân viên phòng sinh hoạt cục Chính Huấn tại nhà Quang.  Hôm đó tôi gập những anh em tôi biết mặt và cả những anh em tôi chưa biết mặt.  Chúng tôi nói chuyện rất thân mật và chan hòa với người quen và những người mới quen.

  

Trớ trêu tôi vừa kể làm cuộc đời tôi lao đao thì trớ trêu sau đây khiến tôi suýt mất vợ .  Năm 1970 tôi hứa hôn với một cô gái Huế .  Người vợ chưa cưới của tôi học năm thứ nhất tại Đại Học Luật Khoa Huế .  Một số rất ít người ở Huế không thích Quang đã có ý kiến với người vợ chưa cưới của tôi về việc định lấy tên Nguyễn Đức Quang.  Vợ chưa cưới của tôi phải đính chính rằng tôi không phải là anh chàng Nguyễn Đức Quang nhạc sĩ.  Số ít người này cho rằng phong trào Du Ca là của chính quyền.  Nhưng thực sự không phải.  Quang có nhiều bài hát tố cáo những thối nát của xã hội miền Nam còn mạnh hơn cả những Tôn thất Lập, Trịnh công Sơn như những bài Ruồi và Kên Kên, Bọn Lái Buôn Ở Khắp Nơi, Chuyện Buồn Bé Năm, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Chuyện Quê Ta… Sinh viên tranh đấu Huế đã dùng bài NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU để khích động lòng yêu nước của đồng bào Huế, Phât giáo tranh đấu Huế đã bùng lên sau khi nghe Quang hát bài VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ.  Sau này đi tù cải tạo tôi mới biết rằng: '' Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa.  Ai không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước.''  Một lý luận hết sức ngây ngô và độc đoán.  Lời kể của nhạc sĩ Ngô mạnh Thu làm tôi hiểu rõ hơn tại sao người Cộng Sản không ưa Phong Trào Du Ca.  Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu là một nhân vật nòng cốt của phong trào Du Ca.  Anh là người thay Quang giữ chức Trưởng Xưởng của phong trào Du Ca.  Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu kể :''…….Vào một đêm cuối năm 1975, tôi nhận được một thư mời đi dự một buổi hội thảo về đề tài Văn Nghệ Với Chế Độ Thực Dân Mới.  Thư mời do ông Lưu Hữu Phước, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam ký.  Thuyết trình viên hôm đó là ông Tô Hải, phó viện trưởng Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam .  Ông Tô Hải đã nói rằng:’’ Có bốn nhóm Văn Hóa Văn Nghệ là sản phẩm của chế độ thực dân mới.  Bốn nhóm đó là :

1.                Nhóm Tâm Lý Chiến :  Nhóm này gồm Tâm lý chiến quân đôi, tâm lý chiến dân sự, xây dựng nông thôn.  Nhóm này nói dối nhân dân để lôi cuốn họ theo đế quốc Mỹ.

2.                Nhóm Nhạc Trẻ :  Nhóm này được dựng nên để tha hóa, sa đọa hóa thanh niên

3.                Nhóm Dân Tộc Giả Hình :  gồm những nhóm văn nghệ phục hưng âm nhạc cổ truyền

4.                Nhóm Du Ca

     

Ba nhóm Tâm Lý Chiến, Nhạc Trẻ, Dân Tộc Giả Hình không đáng kể.  Riêng nhóm Du Ca rất nguy hiểm. Thứ nhất là bọn Du Ca đã dùng đúng chiến thuật của ta (Việt Cộng) là chiến thuật Đồng Khởi.  Trong vòng từ năm 1965 đến 1967, chỉ hai năm từ một nhóm chỉ có sáu bẩy người đã phát triển thành gần ba mươi đơn vị khắp miền Nam . 

     

Thứ hai về kỹ thuật thì nhóm Du Ca không cần sân khấu.  Chỗ nào nhóm này cũng dùng làm sân khấu được.  Nhóm Du Ca không dùng đến dụng cụ âm nhạc cồng kềnh như trống, đàn điện.  Họ chỉ dùng đàn guitar nhẹ nhàng.  Thứ ba là đội ngũ sáng tác của nhóm này rất hùng hậu  …’’

     

Nhưng theo tôi không phải những lý do mà ông Tô Hải đưa ra khiến cho Việt Cộng liệt nhóm Du Ca là sản phẩm văn hóa văn nghệ nguy hiểm của thực dân mới.  Chỉ có lý do duy nhất mà Việt Cộng không ưa Du Ca là Du Ca không chịu xóa tên và nhập vào nhóm Cộng Đồng Thiên Tả của Tôn Thất Lập.  Nghĩa là nhóm Du Ca không chịu theo Cộng Sản.

 

Đó là hai trục trặc lớn do sự trùng tên trùng họ với hắn gây ra, nhưng không phải chỉ có thế, những truyện hiểu lầm lặt vặt xẩy thì rất nhiều và miên man cho đến bây giờ vẫn chưa dứt, nên thỉnh thoảng tôi vẫn phải đính chính muốn đứt hơi. 

     

Tôi nhớ năm 1964 là niên khoá đầu tiên của chúng tôi tại trường CTKD.  Lúc đó thì Quang  chưa nổi tiếng. Để phân biệt tôi và Quang thì trong lớp gọi tôi là Quang Hà Nội còn hắn là Quang Sơn Tây.  Lý do là tôi sinh tại Hà Nội, còn Quang sinh tại Sơn Tây.  Tôi rất bằng lòng tên bạn bè đặt cho chúng tôi vì Hà Nội thì oai hơn Sơn Tây. Đến năm thứ hai bỗng Quang nổi tiếng.  Hắn trình làng ban Trầm Ca rồi Du Ca tại giảng đường Spellman,  giảng đường Thụ Nhân.  Trong hai buổi trình làng có cả đại nhạc sĩ Phạm Duy đi hát với hắn.  Bạn bè không gọi hắn là Quang Sơn Tây nữa mà gọi hắn là Quang Du Ca. Từ tỉnh Sơn Tây nhỏ bé hắn bước lên không gian to lớn là cả nước.  Còn tôi thì ngược lại từ một Hà Nội thanh lịch, Paris của phương Đông, tôi bi đẩy xuống chốn của những tên cờ gian bạc lận.  Bạn bè trong Đại học xá đặt cho tôi tên mới : Quang Già Cơ.  Từ đó bạn bè gọi hắn là Quang Du Ca nghĩa là hắn vẫn còn giữ được tên cha mẹ đặt cho :''Quang.''  Còn tôi thì bạn bè quên hẳn tên Quang của tôi.  Gọi tôi đi ăn cơm :''Già Cơ đi ăn cơm'', gọi tôi đi chơi :'' Già Cơ đi ra phố không ?'' ;  gập nhau ngoài phố :'' Ê Già Cơ '' …. Từ nay tôi là Già Cơ không còn là Quang nữa. Giống như thời thơ ấu tại xóm ga Đà Nẵng, tôi là thằng Cu Đen không còn là thằng Quang.  Ai đến xóm ga Đà Nẵng hỏi nhà thằng Quang ở đâu thì có lẽ ít ai biết, nhưng nếu hỏi nhà thằng Cu Đen ở đâu thì mọi người chỉ được ngay, kể cả những người lớn.

Qua đến Mỹ, bạn bè quên hẳn trong lớp CTKD I  có hai thằng Nguyễn đức Quang .  Mỗi khi điện thoại cho chúng, tôi lại phải nhắc cho chúng nhớ :'' Tao là Quang Già Cơ đây ''.  Khi gia nhập THUNHAT.NET tôi nhận được nhiều điện thư nồng nhiệt thăm hỏi hết sức thân tình.  Có điện thư hỏi đang ở Cali sao lại bỏ đi lên xứ mưa dầm, mưa dề và đi khi nào ? Có điện thư mong được nghe lại những bài hát ngày xưa như BÊN KIA SÔNG, NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU …, có điện thư viết ông đại nhạc sĩ sao ông lặn sâu thế, bây giờ ông mới chịu trồi lên … Tôi nghĩ mình phải làm sống lại cái tên Già Cơ trong nhóm cựu sinh viên Đà Lạt . Thế là tất cả điện thư tôi gửi đi, tôi đều ký tên Quang Già Cơ .  Phương pháp này quả là rất hiệu nghiệm.  Mọi người nay công nhận có một Nguyễn đức Quang Già Cơ.  Nhưng cũng có một điều không mấy tốt đẹp xẩy ra cho tôi từ cái tên Già Cơ ấy. Mặc dầu Châu tấn Xuyên đã đưa ra một lý do tuy không đúng sự thật, nhưng cũng không kém hấp dẫn rằng:'' Mặt anh Quang này giống hình già cơ trong bộ bài tây, nên anh em đặt là Quang Già Cơ để phân biệt với anh Quang kia là Quang Du Ca '', Phần đông anh em vẫn cho tôi là tên cờ bạc gạo nên mới bị đặt tên là Già Cơ.  Tôi nhận được điện thư của một anh khoá 8 viết rất là thách thức :'' Em sẽ lên Seattle gập anh với một bộ bài. Được đụng với cao thủ đàn anh là một mơ ước '' . Phan bá Phi trong một loạt bài viết để tâm tình với cha Lập (Linh Mục Nguyễn văn Lập, Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt thời chúng tôi) lúc ngài sắp qua đời có đoạn viết :'' Ở Seattle của chúng con có anh Quang Già Cơ.  Sở dĩ anh em đặt anh là Già Cơ vì anh đánh phé nhiều hơn học bài.  Xin cha tha tội cho anh ấy và xin cha tha tội cho mọi lỗi lầm của tất cả chúng con …''. Nhưng hai truyện sau đây còn cho thấy mọi người còn có những ý tưởng ghê ghớm hơn nữa: Người ta hình như không muốn ai có tên Nguyễn đức Quang ngoài hắn. Truyện thứ nhất là vợ chồng tôi và vợ chồng ông Trần văn Đức (ông Đức là bà con vai cậu của vợ tôi) đi PortLand dự đám cưới con trai chị Bùi thị Ngọc Nga (bạn cùng lớp ở Viện Đại Học Đà Lạt). Buổi tiệc tan sớm nên chúng tôi nhận lời mời của vợ chồng người bạn với ông cậu vợ tôi là nhạc sĩ Từ công Phụng đến chơi nhà ông ta.  Nhạc sĩ Từ công Phụng tặng chúng tôi hai CD nhạc của ông.  Viết lời tặng cho cậu mợ tôi xong, ông Phụng hỏi tôi :'' Xin lỗi anh tên gì để tôi viết lời tặng''. Tôi trả lời :'' Tôi tên Nguyễn đức Quang '' Ông cậu vợ tôi buột miệng xác định ngay :'' Nguyễn đức Quang giả hiệu''. 

     

Câu truyện thứ hai : năm 2002 vợ chồng tôi đi dự trại THẲNG TIẾN 7 ở Houston .  Tại cổng trại có dựng một bảng chương trình lớn .  Tôi nói với vợ tôi :'' Tối mai được nghe thằng Quang và Nguyệt Ánh hát''.  Chúng tôi vào văn phòng để làm thủ tục nhập trại.  Trưởng Kim Thoa hỏi tôi :'' Tên họ của trưởng ?'' Tôi vừa trả lời :'' Nguyễn đức Quang''.  Mọi người chung quanh nhìn tôi.  Một trưởng đưa tay trái ra cho tôi. Tôi bắt tay một cách rất miễn cưỡng .  Trưởng ấy còn nói :'' Các em thiếu đoàn tôi hát nhiều bài hát của Trưởng .  Tôi sẽ nói với các em : Tối mai các em sẽ được nghe chính tác giả hát …'' Tôi nói :'' Thưa trưởng tôi chỉ biết rống chứ không biết hát.  Tôi không phải là trưởng Quang nhạc sĩ.  Tôi chỉ trùng tên họ với trưởng Quang thôi ''.  Hôm đó xui xẻo cho tôi và nhiều người khác là ban điều hành trại không tìm thấy đơn xin dự trại và check đóng trại phí của chúng tôi.  Chúng tôi phải chờ nhân viên ban điều hành tìm trong đống hồ sơ không mấy ngăn nắp, trong căn phòng nhỏ và đầy người ra vào.  Mỗi lần tôi được ban điều hành hỏi tên là hầu như mỗi lần tôi phải hô to tên mình lên và kèm theo một câu đính chính.  Từ đó, trong phòng nhiều người được biết tôi là '' Nguyễn đức Quang giả hiệu ''.  Rôì tôi được nhân viên trại hỏi tên. Lại có một trưởng mới tới vừa bước vào thế là lại hiểu lầm .  Tôi chưa kịp đính chính thì một trưởng đứng gần nói :'' Biết rồi khổ lắm nói mãi '' .  Tôi nói với trưởng Kim Thoa :'' Trưởng cứ cho tôi nhập trại và nhận chỗ, chiều nay tôi sẽ trở lại ''  Trưởng Kim Thoa bằng lòng cấp cho tôi giấy nhập trại tạm.  Chúng tôi vào trại và tôi thoát được cảnh  " Biết rồi khổ lắm nói mãi " vì cái miệng luôn phải trả lời.

     

Tôi gập nhiều cái trớ trêu đã đành. Hắn cũng gập một trớ trêu chỉ vì trùng tên với tôi. Theo trí tưởng tượng của tôi nếu hắn không gập may mắn thì đời hắn đã tàn và có khi hiện nay hắn phải bị giam trong nhà thương tâm thần nào đó.  Truyện này do chính hắn kể trước mặt tôi và bạn bè Đà Lạt.  Hôm 16 tháng 8 năm 2003 tôi tổ chức một tiệc đón tiếp hắn tại nhà tôi.  Hôm đó Hoàng minh Châu khoá 10 CTKD nói :'' Em nghi lắm anh Quang à .  Em nghi chỉ có một người đi thi thôi ''  Quang nói liền :'' Thôi cha nội đừng có khơi lại nỗi đau khổ của thằng già này nữa”.  Hắn nói tiếp :” Thi xong cuối năm thứ ba, tôi  điện thoại lên Đà Lạt hỏi kết quả .  Mấy thằng bạn trả lời ngon lành: "Đậu rồi, đậu hạng hai, cứ vui chơi ca hát cho thỏa thích".  Tuần sau nghĩ lại, mình làm bài kỳ này có gì xuất sắc lắm đâu mà đậu á khoa.  Tốt nhất là điện thoại hỏi lại cho chắc ăn.  Mấy thằng bạn trả lời :'' Hỏi hoài vậy cha nội.  Chắc chắn rồi, tụi này coi đi coi lại .  Nhân viên văn phòng cũng xác nhận mày đậu.  Lo sáng tác đi ".  Hơn một tháng sau, nhận  điện thoại của ông bà già :'' Về Đà Lạt gấp.  Tên trên bảng vàng là tên của thằng Quang khỉ gió nào, chứ không phải là mày đâu ".  Về đến Đà Lạt đúng là ngày chót hết hạn ghi danh thi kỳ hai .  Vôi vàng then cài đóng cửa, thức đêm thức hôm, dùi kinh mài sử ".  Tôi tưởng tượng rằng nếu ông bạn nào của tên Quang không phát hiện sự lầm lẫn đó kịp thời, rồi báo cho ông bà già hắn biết thì đời hắn có thể rất thê thảm.  Hắn sẽ bị ở lại năm thứ ba .  Người yêu hắn là Nguyễn thị Minh Thông đương nhiên trở thành đàn chị hắn. Ở đời chỉ có đàn anh yêu đàn em, hiếm khi đàn chị yêu đàn em. Nên nàng sẽ cho chàng de.  Hắn sẽ đi lang thang và làm những bài nhạc vàng khè để trách móc người tình phụ bạc.  Những bài nhạc sến này làm sao hợp với phong trào du ca mà hắn là giáo chủ. Đại hội du ca sẽ đồng thanh truất phế hắn và tôn một tân giáo chủ mới cho phong trào.  Dĩ nhiên tôi sẽ phải vào nhà thương Chợ Quán để tạ tội với thằng bạn trùng tên họ vì dù sao tôi cũng là một phần nguyên nhân gây nên thảm cảnh này.  Nhưng may mắn cho hắn là điều tôi tưởng tượng không xẩy ra.  Ngày nay con cái hắn đã công thành danh toại, gia thất ổn định.  Tình duyên của hắn với Nguyễn thị Minh Thông bền chặt, đằm thắm.  

     

     

Đã mang cái nghiệp vào thân

Nguyễn Du

     

     

Hắn mang nghiệp hát xướng vào thân từ ngày còn thơ ấu.  Ông thân sinh của hắn làm hiệu trưởng một trường học ngoài đảo Côn Sơn, lúc hắn còn học tiểu học.  Hai năm ngoài Côn Đảo, bạn của hắn là những người tù.  Ông cụ tìm những người tù giỏi toán, sinh ngữ và âm nhạc để dạy dỗ hắn.  Những ông thầy dạy nhạc chẳng có ai là nhạc sĩ nổi danh.  Sau khi vào đất liền, hắn tự học nhạc.  Thời học trò ở Đà Lạt, hắn ở trong ban phụ trách một chương trình phát thanh của Hướng Đạo trên Đài Phát Thanh Đà Lạt.  Những tháng đầu ban nhạc của hắn chỉ hát những bài hát Hướng Đạo của Hoàng Quí, Lưu hữu Phước … Sau này ban phát thanh cho hát cả những bài nhạc hắn sáng tác.  Những sáng tác trong thời gian học trò này đa phần đã bị tiêu hủy sau ngày 30 tháng tư, năm 1975.  Hắn chỉ tìm được một bài hát mà hắn sáng tác trong thời gian này là bài Gươm Thiêng Hào Kiệt năm 1961.  Bài này viết về ông thánh bổn mạng của Hướng Đạo Saint Georges.

     

Hắn kể lại trong một cuộc phỏng vấn rằng: “ Khi ông cụ thân sinh trao cho tôi cây đàn guitar sau khi tôi đậu trung học đệ nhất cấp để gọi là mừng cho cậu con. Chắc chắn cụ không nghĩ rằng mình đã làm một điều tai hại : Tôi cứ thế nhảy vào trò chơi âm nhạc.  Chỉ sau mùa hè ấy, tôi vào trường Trần Hưng Đạo, đang từ một học sinh xuất sắc của thành phố, tôi thành ông trưởng ban văn nghệ trường trung học này.  Có nghĩa là tôi giảm thiểu tối đa việc học, dành tối đa cho việc đàn hát và còn lõm bõm viết nhạc.  Chính trong hai năm trời ở đây, tôi viết mấy chục bản nhạc hầu hết là tình ca.  Tiếc rằng tôi chỉ dấu dấu giếm giếm, lâu lâu mới có dịp hát chút đỉnh cho bạn bè nghe, nhất là khi có dịp qua trường nữ.  Đáng tiếc hơn nữa là tập nhạc này đã mất biệt cùng với rất nhiều bản thảo của một loạt nhạc dịch và nhiều loạt bài khác”.

Sự nghiệp sáng tác và xướng ca của hắn bắt đầu từ ngày ấy.  

     

I   Chuyến đi Khai Phá

     

Năm 1965 Quang thực hiện một chuyến đi đầy liều lĩnh từ Đà Lạt đến Sài Gòn bằng xe đạp.  Một mình đạp xe trên đoạn đường 325 cây số nhiều đèo lắm dốc thì chắc chắn phải có một cái gì thôi thúc để hắn đủ ý chí thực hiện chuyến đi táo bạo này.  Hắn kể rằng: Những nhọc nhằn, khó khăn trên đường đi đã không để lại cho hắn ấn tượng hay dấu ấn bằng một buổi tối tại Sài Gòn,  một buổi sinh hoạt văn nghệ tại nhà một nữ huynh trưởng Hướng Đạo.  Người tham dự được phát một tập nhạc quay roneo hai bản trường ca MẸ VIỆT NAM và CON ĐƯỜNG CÁI QUAN của Phạm Duy.  Người thì ngồi, người thì nằm quanh một cái máy AKAI .  Máy Akai quay đi quay lại những đoạn bài hát của hai trường ca.  Mọi người hát theo một cách say mê như điên, như cuồng.  Hắn đi ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.  Một hình thức ca nhạc mới lạ, khác hẳn với những buổi trình diễn đại nhạc hội, những buổi phụ diễn văn nghệ trong một xuất chiếu phim mà chúng ta thường được xem lúc bấy giờ .  Hình thức này mở đầu cho những buổi hát cộng đồng sau này.  Hình thức đã lạ mà nội dung các bài hát hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại ….. đã rung động, đã làm hắn say mê.  Hắn đã tìm được đúng cái sở trường của hắn, đúng cái mơ ước của hắn.

     

Về Đà Lạt, Quang làm một màn trình diễn thật táo bạo. Một buổi chiều cuối  năm 1965, hắn xách cây đàn guitar ra bồn hoa trước chợ Đà Lạt.  Hắn đứng dưới cây cột điện của bồn binh và cất tiếng hát.  Hắn hát một mình, hết bài này đến bài khác của hai trường ca MẸ VIỆT NAM và CON ĐƯỜNG CÁI QUAN.  Hơn một trăm người đứng nghe hắn hát. Hắn hát say mê và người nghe cũng mê say nghe hắn hát.  Một buổi trình diễn thật là tuyệt vời theo như hắn kể.  Đó là đêm LỬA QUÊ HƯƠNG năm 1965, lần đầu tiên hắn hát một mình trước công chúng.

     

Hiện nay mơ ước của hắn là thực hiện những buổi hát cộng đồng cho đồng bào người Việt ở Hải Ngoại. Hắn đã thực tập hát cộng đồng ngay tại phòng khách nhà tôi.  Vào buổi chiều năm 2000 tôi mời bạn bè đến nhà tôi để tiếp đãi hắn nhân dịp hắn lên chơi Seattle . Đi cùng với hắn có cả ba đại kiện tướng của phong trào du ca là anh Ngô mạnh Thu, anh Nguyễn thiện Cơ và một người nữ, bác sĩ Nguyễn thị Nhuận.  Lúc đầu chúng tôi ngồi nghe ban Du Ca hát.  Sau đó thì chúng tôi cùng nhau  hát.  Chúng tôi rụt rè ngượng nghịu vì không quen hát và cũng vì đã luống tuổi giọng rè, hơi ngắn.  Sau khi máy đã nóng, mọi người hát to như sợ bị người khác át giọng.  Tiếng hát vang vọng gợi lại hình ảnh của thời quá khứ trước năm 1975 :

     

Trời sáng tươi đã lên rồi

Trời sáng luôn trong lòng tôi

Cập mắt khô sau đêm dài

Tìm quanh đây một ngày vui

……………………………………….

(DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI)

     

     

II. CHUYẾN ĐI LÀM NÊN LỊCH SỬ

     

Tôi gọi chuyến đi sau đây của Quang là chuyến đi làm nên lịch sử vì tôi chắc chắn sau này tên Quang sẽ có trong sử sách.  Trong lịch sử âm nhạc tên hắn sẽ được nhắc đến trong một chương.  Số lượng sáng tác của hắn chỉ sau có Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.  Chất lượng sáng tác của hắn lại nổi bật về thanh niên ca đã làm tỉnh thức và xúc động được cả một thế hệ thanh niên.  Còn trong cuốn Lịch Sử Việt Nam thì ít ra cũng có hai ba giòng để nhắc đến hắn.  Hắn là người sáng lập ra phong trào Du Ca.  Phong trào của hắn đã tác động vào xã hội miền Nam lúc bấy giờ khiến thế lực Cộng Sản cũng như Tư Bản phải quan tâm. Lúc đầu thì lôi kéo phong trào đi vào quỉ đạo của mình. Sau này thì theo dõi canh chừng.

     

Hoàng kim Châu, một trong những người tham gia từ ngày đầu và là một thành phần của Ban Trầm Ca, sống chung với Nguyễn Đức Quang ở Sài Gòn suốt thời gian đầu, kể về chuyến đi đó :”… Những chàng trai trẻ rời thành phố sương mù lạnh lẽo về thủ đô để tìm cho họ những hình thái sinh hoạt mới mà họ khao khát được tham gia.  Mặc dầu ở Đà Lạt những chàng trai trẻ này đã tham gia các hoạt động thanh niên xã hội.  Họ đều là những Hướng Đạo Sinh ở vào tuổi Tráng với đường dài trước mặt đầy chông gai và thử thách.  Họ muốn thực hiện châm ngôn của người Tráng Sinh là "Giúp Ích" nên họ đã thực hiện một chuyến viễn hành liều lĩnh có tính toán và từ đó cho đến mãi về sau, tiếng hát của họ đã vang khắp mọi miền đất nước và đã đánh động được con tim và khối óc của hàng vạn bạn trẻ, để hăng hái lên đường phục vụ tha nhân, và tạo sinh khí khiến cho cuộc đời đáng yêu hơn, mặc dù chiến tranh đã trở thành khốc liệt, và bi thảm trên mảnh đất thân yêu của miền Nam Việt Nam…”

  

Quang kể rằng năm tên (Nguyễn Đức Quang, Ho àng Kim Ch âu, Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn,  ….) về đến Sài Gòn vào chiều ba mươi tết và đi đến quyết định là dồn về một căn nhà thuê để sống chung với nhau.  Nhưng đi đến căn nhà thuê chờ cả buổi mà chẳng có ai mở cửa.  Cả bọn phải thuê xe ba gác chở đồ đạc đến nhà một người khác, một người mà họ chưa quen, nhưng sau này là một người đóng góp quan trọng trong việc hình thành Phong Trào Du Ca: anh Hoàng ngọc Tuệ, nhà ở đường Sương Nguyêt Ánh.  Anh Tuệ là một dược sĩ, anh cho sáu thằng ở trong phòng bào chế thuốc, đúng hơn là căn phòng Lab, nơi thực tập của các sinh viên dược.  Căn phòng này nằm phía sau nhà anh Tuệ.  Bọn Quang ở căn phòng đó một thời gian, sau này lại dọn ra mái lầu của garage nhà này đến tận năm 1971.  Thời gian sau, trụ sở Phong Trào Du Ca dời ra đường Lê Lai là nhà của anh Nguyễn Thanh Hùng …

     

Cuộc hội ngộ của sáu Tráng Sinh này, ban đầu lập nên một Toán Hướng Đạo, toán Sóng Việt. Toán có một bài hát chính thức là bài Sóng Việt. Bài hát mạnh mẽ tuôn tràn như những lớp sóng.  Sóng dữ vơi những cái xấu: bạo tàn, nghèo đói ngu dốt.  Sóng hiền với con dân nước Việt.  Tôi ngạc nhiên ở độ tuổi hai mươi, hai mốt mà sáu tráng sinh đã có những ý tưởng đội đá vá trời . 

     

Sóng Việt về

Sóng Việt về

Trôi từ lẻ loi non cao xa xôi trôi mãi

Trôi từ lạch kinh trôi ra sông con

Rồi từ sông con trôi đi xa hơn về tới bể khơi

Sóng trôi trên Bạch Đằng

Sóng reo trên Nhị Hà

Trôi bao giấc mộng cuồng xâm của ngoại bang

Hồng Hà, Cửu Long Giang

Về ruộng đồng quê hương

Để từng thỏi đất biến ra thỏi vàng

Triều dâng sóng Việt trôi đi điêu tàn

Trôi đi những mảnh đời nát tan

Nghèo đói cơ hàn dốt tối ngu hèn

Sẽ tan tành trước làn sóng Việt Nam  

     

Lời nhạc nhiều chất thơ êm đềm và mạnh mẽ của sóng biển.

Sau Toán trở thành ban Trầm Ca rồi giữa năm 1966 thì ra đời Phong Trào Du Ca được cấp giấy phép ngày 19 tháng 12 năm 1966 của Bộ Thanh Niên

     

III.    CUỘC HÔI NGỘ LỊCH SỬ

     

Tôi gọi cuộc gập gỡ của Quang và nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1965 tại trại CÔNG TRƯỜNG THANH NIÊN TỰ DO tổ chức ở Thạnh Lộc Thôn, Thủ Đức là một hội ngộ lịch sử vì nhờ cuộc gập gỡ này mà ban Trầm Ca mau chóng được thành hình một cách chính thức.  Sở dĩ tôi nói được thành hình một cách chính thức là vì từ khi sáu chàng TRÁNG SINH từ rừng Lâm Viên đi xuống rừng Gia Định thì đã thành hình một toán Hướng Đạo mà bên trong nó đã có những bài TRẦM CA.  Nhưng toán TRẦM CA đó chưa chính thức ra mắt quần chúng cho tới sau cuộc hội ngộ lịch sử ở Thạnh Lộc Thôn này.  Rồi phong trào DU CA được thành lập và hiện nay mối thâm tình của  Quang và nhạc sĩ Phạm Duy vẫn bền chặt .  Không biết sẽ có một điều gì xẩy ra nữa không trước khi nhạc sĩ Phạm Duy qua đời hay là phải chờ một cuộc hội ngộ khác của Quang với ai đó, chúng ta mới lại có một phong trào ca nhạc khác ? Tôi nghĩ sẽ không có một may mắn nào cho Quang và Phạm Duy nữa. Cuộc hội ngộ đó không những là một may mắn cho Quang và cho Phạm Duy mà may mắn cho cả dân tộc nữa.  Tôi không nói quá đáng. Đó là sự kết hợp tuyệt vời.  Kết hợp của những con người nghệ sĩ tài hoa sẵn sàng hiến thân cho đất nước, cho nghệ thuật.  Kết hợp của một người từng trải trong cuộc sống lịch sử của đất nước và những thanh niên đầy sức sống đang khao khát một lý tưởng vào giai đoạn đó.  Kết hợp của Tâm Ca và Trầm Ca và Những Bài Ca Khai Phá.

     

Quang kể về cuộc gặp gỡ với nhạc sĩ Phạm Duy như sau:   Năm 1965 Quang dự trại Công Trường Thanh Niên Tự Do tại Thạnh Lộc Thôn Thủ Đức.  Chiều hôm đó trên sân khấu được dựng lên giữa cánh đồng, Phạm Duy đến hát 10 bài Tâm Ca cho hơn ba trăm thanh niên sinh viên tham dự trại. Đó là lần đầu tiên hắn nhìn thấy tận mắt người nhạc sĩ vĩ đại.  Theo Quang kể lúc đó Phạm Duy chỉ mới xong có 7 bài Tâm Ca, còn thiếu ba bài.  Nhưng những lời của mấy bài tâm ca này làm hắn run lên, bởi vì chưa ai nói với hắn những lời như vậy :''  Sáng nay vừa thức dậy nghe tin em gục ngã nơi chiến trường nhưng trong vườn tôi, vô tình đóa Tường Vi vẫn nở thêm một đóa…. Bao giờ tôi mới nói được những điều tôi ước mơ ".  Hắn chăm chú nghe Phạm Duy nói chầm chậm để giảng giải, giải thích những bài hát trước khi ông ta hát.  Hát được ba bốn bài, Phạm Duy mời trại viên lên hát để ông nghỉ.  Các bạn Quang đẩy Quang lên sân khấu.  Quang hát những bài của mình sáng tác như Đường Vào Công Trường, Về Với Mẹ Cha… Đến lượt ông đại nhạc sĩ sửng sốt.  Có lẽ lâu lắm ông không được nghe ai hát những lời hát mạnh như vũ bão như vậy : “ Cùng đi xoay Hoành Sơn, cùng đi lay Trường Sơn, cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm … Vượt khơi ra đảo xa, lướt ngàn nước sóng nhà ta đắp bồi cho mẹ cha Sau buổi hát, Phạm Duy kêu Quang :" Này cậu kia lại đây tôi bảo.  Từ nay mỗi thứ sáu hàng tuần các cậu đến nhà tôi. Chúng ta cùng hát, các cậu cho ý kiến về những sáng tác của tôi.  Chúng ta sẽ nói chuyện về âm nhạc, về văn nghệ”. 

     

Quang kể lại là hắn sướng run cả người, thật là trúng số cũng không bằng.  Hắn được một đại nhạc sĩ mà hắn mến phục mời đến nhà để nghe ông hát, lại còn được ông ta hỏi ý kiến về các nhạc phẩm ông ta mới sáng tác, bàn chuyện văn nghệ…  Thật đúng là nằm mơ.  Mỗi chiều thứ sáu tại căn phòng, trên lầu ba nhà của nhạc sĩ Phạm Duy trên đường Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, những chàng trai Đà Lạt và Phạm Duy cùng hát với nhau bên máy Akai. Họ nghe Phạm Duy nói về nghệ thuật sáng tác, nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì nhân sinh .v.v… Phạm Duy đề nghị nhóm trẻ hát những bài hát họ sáng tác, dĩ nhiên là những bài của Quang.  Hôm ấy Quang mạnh bạo hát bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, một bài hát phổ từ thơ của một người mà anh ta chẳng quen biết, Nguyễn Văn Hoàn.  Bài thơ này đăng trên tập san Lửa Việt của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn năm 1964.  Mãi khoảng năm 1971, 1972 Quang mới nhận được một lá thư của tác giả bài thơ.  Bức thư đưọc viết từ Quân Trường Đồng Đế, Nha Trang.  Trong thư, anh Hoàn hỏi có phải Quang đã phổ nhạc bài thơ của anh ta không?  Quang xác nhận là đúng, nhưng cũng từ đấy hai người không có dịp liên lạc với nhau nữa.  Khi Quang hát xong.  Nhạc sĩ Pham Duy đến gần Quang. Ông đưa bàn tay run run nắm lấy cánh tay Quang.  Quang xúc động vì lần đầu tiên hắn mới nhận được phản ứng đầy xúc động của một người nghe nhạc phẩm này.  Từ ngày viết nhạc phẩm này cho đến lúc đó hắn chưa có dịp hát bao giờ. Phạm Duy nói với hắn :" Cậu viết thế này hay hết chỗ nói rồi.  Hãy bỏ hết mọi việc và viết nhạc rồi đi hát với anh ".  Phạm Duy quay qua nói với nhóm của Quang :" Từ nay các cậu đi hát với tôi.  Tôi đi đâu, các cậu đi đó ". Suốt  ba năm trời sau đó, họ đi hát chung với nhau trên khắp các nẻo đường đất nước.  Có hai chuyến đi vòng từ Bắc (Huế) vào Nam .  Đó là thời kỳ cực thịnh thành hình những bài ca yêu nước ở miền Nam .  Phạm Duy có 10 bài Tâm Ca, nhóm Quang có 10 bài Trầm Ca.  Sau đó Phạm Duy có thêm Tâm Phẫn Ca và Nguyễn Đức Quang đã chuyển sang Những Bài Ca Khai Phá …   

 
(còn tiếp)


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 28/Jul/2010 lúc 10:41pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 9:31pm

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

(2)
 
 
 
 
 
 

RA MẮT BAN TRẦM CA

     

Ban Trầm Ca thực sự ra đời ngày nào thì đến chính Nguyễn Đức Quang cũng không trả lời cho chính xác được.  Quang chỉ nhắc lại được rằng: Đi theo Pham Duy hát một khoảng thời gian không lâu, chừng vài tháng thì hắn thấy cần phải có một cái tên chung cho nhóm.  Lúc đó Phạm Duy đã hoàn tất 10 bài Tâm Ca, và Quang cũng viết gần đầy đủ 10 bài Trầm Ca.  Thời gian này vào khoảng cuối năm 1965.  Lúc bấy giờ Quang và các bạn trong nhóm tự hỏi tại sao không lấy tên Trầm Ca làm tên nhóm.  Như vậy khi đi đầu trình diễn Phạm Duy hát Tâm Ca, còn ban hát này mang tên Trầm Ca thế là rất chỉnh.  Nhưng có một người nói rằng Ban Trầm Ca chính thức ra mắt tại giảng đường Đại Học Văn Khoa. Anh Phạm Quốc Bảo, chủ tịch ban đại diện Văn Khoa thời gian đó,  kể lại buổi ra mắt như sau. 

     

Năm 1965 một phái đoàn đại diện sinh viên viện đại học Nhật sang thăm Việt Nam . Ông tổng trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục giao trách nhiệm đón tiếp phái đoàn sinh viên Nhật cho ban đại diện Đại Học Luật Khao và Đại Học Văn Khoa đảm trách.  Anh Tô lai Chánh, đại diện sinh viên Luật, dẫn sinh viên Nhật đi thăm những cơ sở của Viện Đại Học Sài Gòn, những cơ sở văn hóa nghệ thuật, kinh kế kỹ thuật, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử… Ban đại diện Văn Khoa tổ chức một buổi văn nghệ tại giảng đường Văn Khoa.  Ban Trầm Ca được mời đảm trách buổi văn nghệ đó. Đêm đó mục đích chính là để đón tiếp phái đoàn sinh viên Nhật và đồng thời cũng là đêm ra mắt của ban Trầm Ca.  Rủi thay trước giờ trình diễn điện lại bị cúp.  Họ quyết định thắp đèn cầy để soi sáng cho căn phòng chật ních người. Trời thì nóng bức,  không có sân khấu, chỉ có một dàn bục thấp nơi giữa phòng, không có micro.  Mọi người ngồi bệt trên sàn nhà.  Ban Trầm Ca gồm sáu chàng trai và Phạm Duy đều mặc quần áo nông dân mầu đen, thật là kinh khủng trong ánh sáng loe loét của đèn cầy.

     

Ban tổ chức vừa lo, vừa ngượng, nhưng mọi người thì lại tán thưởng vì cứ tưởng rằng ban tổ chức cố ý thắp đèn cầy thay vì dùng điện.  Trong khung cảnh đặc biệt này mọi người không những đi từ ngạc nhiên sững sờ đến xúc động, hào hứng, say sưa nghe ban Trầm Ca hát mà còn nhiệt tình hát với ban Trầm Ca, với Phạm Duy, với Phương Oanh (thiếu nữ đánh đàn tranh và hát dân ca này đã trở thành toán viên của ban Trầm Ca trước ngày ấy). Đêm văn nghệ đó kéo dài ba tiếng đồng hồ.  Sinh viên Nhật không muốn về.  Họ nghe dịch lõm bõm về mấy bài hát, nhưng họ nói rằng họ bị kích thích vì lời ca lạ lùng và những ý nghĩa của các bài hát trong chương trình Tâm Ca, Trầm Ca và Dân Ca.  Họ nói với anh Phạm Quốc Bảo rằng buổi trình diễn cho họ thấy xã hội miền Nam là xã hội tự do, cởi mở đầy tính nhân bản.  Buổi trình diễn hôm đó đã gây một ấn tượng tốt về miền Nam cho phái đoàn sinh viên Nhật.

     

Quang nói về sự ra đời của ban Trầm Ca  :’’ Vào năm 1965 trong thời điểm mà các sinh hoạt của thanh niên tại miền Nam bùng lên như những cơn bão lớn.  Các trường, các hội đoàn, các tổ chức thanh niên lúc bấy giờ họ xúm xít nhau lại để muốn làm một cái gì cho xã hội, cho quần chúng, cho đất nước. Anh em trẻ rủ nhau nào là  hướng về nông thôn, nào là lập những chương trình cứu trợ hoặc tổ chức những phong trào giáo dục thanh niên hoặc đi về làng xã để làm công tác xã hôi hoặc tổ chức hội thảo từ chính trị văn hóa cho đến rất nhiều thứ. Tôi chưa bao giờ thấy trong sinh hoạt thanh niên Miền Nam mà có một cao trào nhập cuộc lớn lao và toàn diện như thế. Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ là một nhóm thanh niên mới bước chân vào đại học. anh em chúng tôi khoảng 5, 6 anh em ở Đà Lạt kéo nhau đi về Sài Gòn gồm những người ban đầu như là anh Hoàng Kim Châu, Hoàng thái Lĩnh, Trần trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn. Đến Sài Gòn chúng  tôi lại kết hợp thêm với một số anh em khác như chị Phương Oanh, giáo sư dân ca quốc nhạc ở trường Quốc Gia Âm Nhạc.

     

Chúng tôi được tiếp xúc với anh Phạm Duy năm 1965 tại trại Thành Lộc Thôn cách Sài Gòn khoảng 10 cây số. Phạm Duy lần đầu tiên đến với Sinh Viên qua một trại lớn toàn quốc……như đã kể trên ……… ….  Sau lần gập gỡ tại Thành Lộc Thôn và hát chung với nhau vào thứ sáu tại nhà anh Duy, anh Duy và chúng tôi quyết định bắt đầu đi hát chung với nhau.  Chúng tôi bỗng nhiên trở thành một ban hát.  Chúng tôi đặt tên cho ban hát là ban Trầm Ca để đi hát chung với anh Duy. Anh  Duy hát Tâm Ca. Chúng tôi hát Trầm Ca, những bài hát đầy sự suy nghĩ, những trầm tư của tuổi trẻ Việt Nam .  Buổi trình diễn đầu tiên của Phạm Duy và nhóm ca hát ngo ngheo, nhưng lại vô cùng lôi cuốn này là do lời mời của Ban Đại Diện cư xá nữ sinh viên Thanh Quan trên đường Hồ Xuân Hương. Trên thảm cỏ xanh mướt trước cửa cư xá, hàng trăm nữ sinh viên ngồi nghe một ông nhạc sĩ vĩ đại cùng với một nhóm thanh niên chưa có tên tuổi hát những bài không giống ai.  Nhưng tất cả mọi người đã tê dại thẫn thờ nghe các bài hát, để rồi cùng họ hát lên với xúc động mạnh sau từng bài hát …” 

     

 
RA MẮT PHONG TRÀO DU CA

     

Quang kể về sự ra đời của phong trào du ca :’’ … không thễ tưởng tượng sự đón nhận của các bạn trẻ nồng nhiệt đến như thế nào khắp tất cả các nơi từ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, Đà Lạt đều rần rần tạo nên một trào lưu người ta say mê loại nhạc mới mang nhiều nôi dung, trong đó có thông tin về đời sống, về những suy tư trước tình hình đất nước, về thân phận con người Việt Nam trong chiến tranh, trong hy vọng, cũng như trong thất vọng.  Trầm Ca đưa ra những thông điệp quá hấp dẫn đối với họ.  Trong một cơ hội lạ lùng thời đó, anh Hoàng Ngọc Tuệ, chủ nhà của ban Trầm Ca làm việc tại Nha Kế Hoạch của Bộ Thanh Niên dưới thời ông Võ Long Triều.  Anh em kéo nhau vào giúp cho anh Tuệ một tay, mặc dù chúng tôi không phải là nhân viên hay công chức của bộ này.  Anh Tuệ nghĩ ra một chương trình huấn luyện cho các đoàn thể thanh niên ở khắp bốn vùng và khu vực Sài Gòn.  Huấn luyện thanh niên thì phải huấn luyện những gì, huấn luyện thế nào?  Anh em suy nghĩ và đồng ý là huấn luyện cách sinh hoạt, cách làm sống tinh thần sống chung với nhau, học hỏi được nơi nhau và làm cho đám đông trở nên yêu thương nhau, chia xẻ với nhau, tức là một nghệ thuật tác động.  Ban Trầm Ca được nhờ giúp huấn luyện phần chính.  Các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động ra đời dành cho các bạn trẻ, các trưởng của các đoàn thể, các trường học, lần lượt thực hiện ở khắp nơi …Năm khóa học chấm dứt vào cuối hè 1966, lập tức ý kiến đến từ các nơi đã ra ngoài dự tính của chương trình. Mọi người gửi về Ban Trầm Ca lời yêu cầu giúp họ tiếp tục làm công việc như Ban Trầm Ca…

     

Quang nói :’’Tự nhiên họ nẩy ra nhu cầu, chúng tôi cũng muốn hát như vậy, các anh hãy giúp cho chúng tôi có thể hát được các anh, giúp chúng tôi thành lập những nhóm để cùng hát với các anh. Họ viết thơ về yêu cầu như vậy, và họ đề nghị coi Sài Gòn là trung ương. Các anh lập một cơ chế gì đó, một tổ chức gì đó để giúp chúng tôi làm được như các anh.  Chúng tôi suy nghĩ và cuối cùng đi đến quyết định giúp các anh em bằng cách lập ra Phong Trào Du Ca.  Năm 1966 phong trào du ca ra đời.  Đây là lần đầu tiên một phong trào thanh niên dùng ca nhạc văn nghệ làm sinh hoạt chính, một phong trào tự phát, tự dưỡng. Ngay từ đầu đã có  ba mươi ba tỉnh trên  miền Nam tham gia...”

     

Hoàng kim Châu kể lại đêm ra mắt phong trào Du Ca :" …  Do các sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt khởi xướng, cho nên khi quyết định thành lập phong trào Du Ca , và làm lễ ra mắt phong trào, các chàng trai đã trở về xin phép Linh mục Viện trưởng để tổ chức đêm văn nghệ ra mắt phong trào Du Ca tại giảng đường Spellman.  Ngày 19 tháng 12 năm 1996 là ngày thành lập phong trào Du Ca. Đêm hôm đó tại giảng đường Spellman, rất đông quan khách, giáo sư, sinh viên và một số đông đồng bào Đà Lạt đã đến để nghe những sinh viên của trường hát với một bầu không khí vui khoẻ, đầy ý thức và tình tự dân tộc.  Trong cái lạnh cắt da của Giáng Sinh Đà Lạt, những ánh đuốc bập bùng kéo dài từ cổng Viện vào đến giảng đường do những anh sinh viên mặc đồ đen cầm đuốc soi đường.  Ban tổ chức là một số anh chị em tự nguyện của trường Chính Trị Kinh Doanh Khóa I như Trần văn Chang, Trần văn Hùng, Trần phú Hữu, Nguyễn quang Tuyến, Trần trọng Thức, Đoàn công Chánh Phú Lộc, Trần tiễn Tuấn, và các chị Trần khánh Tuyết, Hoàng lan Anh, Bùi ngọc Nga … Ngoài các thành viên sáng lập phong trào, còn có sự hiện diện của các nhà thơ Đỗ quý Toàn, Trần dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Tú Kếu và nhà báo Nguyễn ngu Ý cùng các anh Hoàng ngọc Tuệ, Đỗ ngọc Yến, Hà tường Cát trong giới sinh hoạt thanh niên đến dự …  Ngoài sự yểm trợ tinh thần và vật chất của cha Viện Trưởng, còn có sự yểm trợ rất đắc lực của anh Phương Thảo, Đào văn Hòa giám đốc cơ quan USIS Đà Lạt.  Bẩy thành viên sáng lập trình diễn ca nhạc, kịch ngắn, thơ.  Các nhà thơ Đỗ quý Toàn, Trần dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Tú Kếu đã diễn đọc những bài thơ "rất nóng" của chính họ cùng với tiếng đàn dương cầm của Thanh Thoại.  Không khí ấm cúng, thân tình, chứa chan tình dân tộc qua các bài ca cổ, dân ca ba miền, và các sắc tộc, các bài nhận thức ca … khiến cho khán giả đa số là các anh chị em sinh viên nhận thấy rằng đang có một thứ văn nghệ lành mạnh, ý thức, mời gọi, thúc giục rất hợp với tâm tình của thanh niên lác ấy.  Anh chị em sinh viên đã nhiệt tình cổ võ khích lệ.  Cũng từ đêm hôm đó, những tiếng hát lời ca của sáu chàng trai Đà Lạt và các đoàn viên Du Ca mỗi ngày một lan rộng khắp mọi miền đất nước và không một bạn trẻ nào vào thời đó lại không một lần nghe đến hai tiếng Du Ca …"

     

 
 
HỒI SINH CỦA GIÒNG MÁU NÓNG

     

Quang viết nhạc từ năm 1961.  Thời gian hắn sáng tác mạnh nhất là từ năm 1961 đến 1972.  Hắn chấm dứt sáng tác từ ngày hắn lấy vợ.  Có một lần tôi hỏi hắn :'' Từ ngày lấy vợ, mày có sáng tác thêm được nhạc phẩm nào không ?''.  Hắn lắc đầu.  Nghe hắn trả lời trong lòng tôi thấy buồn lâng lâng. Tôi không dám hỏi thêm vì sợ hắn buồn.  Ngày hắn cùng bốn đại kiện tướng của phong trào Du Ca lên Seattle để nhận cây đàn Cao Hoàng tặng hắn, tôi tổ chức một buổi họp mặt tại nhà tôi.  Vào cuối buổi tiệc, tôi nói với hắn :'' Lần sau nếu không có sáng tác mới thì đừng lên Seattle .  Tụi tao không tiếp mày nếu mày không có sáng tác mới ".  Cao Hoàng tiếp lời tôi :'' Tôi tặng Quang cây đàn là có mục đích để hắn sáng tác, đừng lo lần sau thế nào cũng đươc nghe sáng tác mới của Nguyễn đức Quang ".  Năm 2003 tôi nghe đài VOA, tôi rất sung sướng nghe hắn trả lời một cô phóng viên về chuyến đi Úc thứ hai của hắn.  Hắn nói rằng :'' khác với lần đi trước.  Lần đi thứ nhất tôi hát những bài như Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Ruồi và Kên Kên, Vì Tôi Là Linh Mục… Lần đi thứ hai này tôi hát tình ca do tôi mới sáng tác …'' và :" Chuyến đi thứ hai này rất thành công.  Khán giả đón nhận những bản tình ca mới của tôi rất là nồng nhiệt và thích thú.  Ba buổi trình diễn đã đem về cho ban tổ chức 20 ngàn đô để giúp cho bệnh viện nhi đồng Úc, hội Hướng Đạo VN hải ngoại và các trẻ em nghèo và tật nguyền ở Việt Nam.''  Đến cuối cuộc phỏng vấn tôi không được nghe một đoạn nhạc mới nào của hắn mà tôi nghĩ đáng lẽ phải có trong cuộc phỏng vấn vì cô phóng viên và hắn đều nhấn mạnh về sự chuyển hướng sáng tác từ Du Ca qua Tình Ca vào lúc hắn đã lục tuần.  Tôi bốc điện thoại gọi hắn.  Tôi nói :'' Tao vừa nghe đài VOA, tao rất vui mừng mày đã có những sáng tác mới.  Nhưng tao giận cô phóng viên của đài VOA đã không cho thính giả nghe được một đoạn nào của một sáng tác mới của mày.  Mày gởi cho tao CD có những bài hát mới của mày.  Hắn nói :" Lần nào đi trình diễn xa, tao cũng lên Seattle để rà lại, khởi động trước khi đi .  Lần này gấp quá, không lên Seattle được.  Nhưng chắc chắn tao sẽ lên Seattle một ngày rất gần."  Tháng sau hắn gọi điện thoại thông báo hắn đã mua vé máy bay đi Seattle trong ba ngày.  Tại sân sau nhà tôi hắn đã hát cho chúng tôi 10 trong số 12 bài hắn vừa sáng tác và dĩ nhiên có cả một lô tình ca ngày xưa...

     

Trả lời phỏng vấn của đài RFA ngày 25/05/2004 Quang nói :” Tại hải ngoại khi chúng tôi và lứa trưởng đầu tiên của phong trào đến đây vào những năm 80, 81, 82 được ba, bốn người, anh em chúng tôi xúm lại với nhau.  Một số anh em khác lần lượt qua trong các cuộc vượt biên sau này,  số huynh trưởng có được trên dưới mười người.  Tất cả các anh em đó vẫn khắng khít làm việc với nhau.  Chỉ có điều  không phải là hoạt động trong nghành ca hát và sinh hoạt thanh niên như xưa nữa mà phần lớn là trong nghành truyền thông, nhất là trong nghành báo chí.  Đó cũng là dấu hiệu rất tích cực cho tất cả các anh em khi đến đây, họ không có sân khấu nào thuận tiện hơn để phổ diễn sự đóng góp những quan tâm và tâm tình của họ bằng những phương tiện truyền thông.  Còn về hoạt động phong trào Du Ca trên phương diện ca hát, mãi cho đến năm 2000,  anh em mới thúc đẩy nhau thành lập một trang Web Du Ca làm địa điểm trung tâm cho các anh em ở các nơi có thể tìm lại được với nhau trên một sân khấu rộng lớn nghĩa là bất cứ nơi nào cũng tham gia được. Cho đến ngày hôm nay thì sinh hoạt trên Web đó rất rầm rộ.  Tất cả các khuôn mặt cũ cũng như mới đang làm sống lại sinh hoạt Du Ca.  Rất đông anh em và rất nhiều các bạn trẻ bây giờ họ tỏ tình cảm với nhau bằng những ca khúc. Lối viết mới, lối hòa âm mới, kỹ thuật mới, họ viết trên nhiều khía cạnh, trên nhiều lãnh vực. Chúng tôi rất vui mừng sinh hoạt Du Ca đạt trở lại  được mức hiện nay.   Còn ước mơ ngày sinh hoạt thật rộng lớn, để tất cả các anh em chúng tôi lại gập nhau, lại cùng cất tiếng hát.  Một số anh em thỉnh thoảng vẫn đi công tác với các bạn bè mời, trình diễn vẫn có, sáng tác vẫn có, nhưng sự aò ạt lớn mạnh như những năm trước 1975 thì chưa có tại hải ngoại. Những năm gần đây, tôi có thời gian thoải mái hơn tôi bắt đầu một số những công cuộc đi các nơi đi vòng qua các tiểu bang, những chuyến đi ra khỏi nuớc Mỹ, đi qua Úc, đi qua Âu Châu ..vv... Tất cả những sinh hoạt đó làm tôi có lại những cảm hứng.  Những cảm hứng lần này nhẹ nhàng hơn .  Những ca khúc đầy lời kêu gọi thiết tha của tình yêu thương.  Đây là đợt tôi viết mới và lạ không giống như những ca khúc mà tôi đã viết trước năm 1975. Vào mùa hè năm nay tôi sẽ cho ra album Về Đây Nhé gồm từ 12 đến 15 ca khúc mới mà tôi viết trong hai năm nay.  Album này là sự mời gọi  những tình cảm xưa cũ nhiều hơn.  Năm sáu bài đã có trong tập Bên Kia Sông rồi, còn những bài mới chắc chắn sẽ làm nhiều người ngạc nhiên hơn nữa bởi vì mới không chỉ vì thể nhạc mà mới trong ngôn ngữ mà tôi rất chọn lựa. Tôi nghĩ rằng những ca khúc này cũng đem lại nhiều mầu sắc. Thể nhạc này là để làm quen với một số những rung động mới trước khi đưa tất cả những cái đó  trở lại với đề tài về quê hương về người dân về đất nước của mình. Tôi rất ước mong đi trở về một chặng đường nữa về quê hương về đất nước”.

     

 

Về Đây Nhé

     

Trong chuyến đi,  Quang mang theo một loạt nhạc tình của một album mà hắn viết từ cuối năm 2002 mang tên là tập nhạc Về Đây Nhé.  Bài hát mang tên của tập nhạc này cũng là một lời kêu gọi, một cuộc tìm kiếm những mối tình đã đi xa.  Ngay cả tình cảm đã mất rồi, đã phũ phàng với ta, cũng lấy lời phù du để làm lại một cái gì mới :

Về đây nhé, người em phong ba, đã quên ân tình xưa

Về đây nhé, tựa trăng sao khuya quen một mái nhà

Những ngày thao thức, đêm nối mong chờ

Thấy lòng nao nức như sắp sang bờ

Hồn còn như quanh quất ngoài hiên đợi cơn mộng cũ

Về đây nhé, người em mong manh, gót chân vương lụa nắng

Về đây nhé, chìm con sông xanh, xô giạt kinh thành

Về đây nhé, em kiếm muôn trùng

Về đây nhé, anh vẫn ngập ngừng

Cùng nhau khua tiếng guốc buồn tênh lòng phố vắng

Về đây nhé, hẹn em rất ngoan, rất hiền khô

Nắm áo người xưa bước vào chốn cũ cứ mơ hồ

Về đây với chiều hôm sớm mai, đón lẻ loi

Về đây với muôn ngàn ươ’c mơ còn chưa tới

     

Và hắn kết luận:

     

Về đây nhé, thèm nghe tiếng chân, bước êm như nụ hôn

Về đây nhé, con thuyền viễn dương cũng vừa lên đường

Đó lần em đã không nói câu nào

Đó lần em lỡ quên vẫy tay chào

Về đây ta nuôi tiếp mộng xưa, một chốn nào

     

Tôi không sành sõi lắm về âm nhạc nên không bàn được gì về chuyện này thật là điều đáng tiếc.  Chỉ biết rằng khi Quang hát những bài tình ca này, hắn cũng “nhập vai” một cách rất say sưa. Hắn hát, chúng tôi những người ngoài nghe, như thưả nào hắn hát nhạc quê hương và nhạc đấu tranh vậy.

     

Ngoài những bài Về Đây Nhé, Có Những Khi, Một Lần Thôi, Mùa Thu Lại Đi, Về Con Phố Xưa, Quang còn viết một số bài khá trẻ trung.  Gần như những bài … dành cho tuổi trẻ thật, vui nhộn và bông đùa như Tôi Chờ Điều Ấy, Vắng Em, Nàng Bên Tôi …Thành ra nghe một chương trình nhạc tình của Quang hôm đó, tâm trạng người nghe cũng thay đổi liên tục.  Từ buồn bã nhớ nhung đến hoang liêu xa vắng và rồi cũng nhiều lúc cười vang …

     
 
 
Tình Tôi Con Dốc Nhỏ
 

Tôi xin nhắc đến bài một bài hát mới trong Album này: Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ.  Tôi không có những hò hẹn nào trên những con đường dốc Đà Lạt.  Nhưng những con đường Đà Lạt đều nhắc tới những kỷ niệm của thời sinh viên đẹp của tôi.  Tôi yêu từng góc phố, những hàng cây của thị xã Đà Lạt.

     

Trước khi hát bài TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ, Quang nói rằng Quang rất yêu những con dốc của thành phố Đà Lạt mù sương.  Nhưng nghe xong Quang hát, tôi nghĩ rằng bài TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ diễn tả một sự luyến tiếc về một mối tình thời học trò ngày xưa.  Tỏ nỗi nhớ thương con dốc nhỏ thì chẳng bao nhiêu, nhưng tả sự nuối tiếc về một mối tình đã chiếm trọn bản nhạc.  Con dốc chỉ là điểm hẹn, con dốc chỉ là chứng nhân của một mối tình, con dốc chỉ là nơi cất giữ những hình ảnh của mối tình.  Trong tám đoạn của bản nhạc không có đoạn nào là không nói nên sự hoài niệm, sự luyến tiếc mối tình thời xa xưa.  Chỉ vì nhũng lý do tôi vừa nói mà Quang yêu con dốc.  Tôi chợt nhớ tới cuốn phim Titanic, xem xong phim chẳng ai bận tâm chiếc tầu Titanic là gì? nó đắm như thế nào? người ta chết ra sao?  Người ta chỉ nhớ câu chuyện tình kỳ dị được lồng trong chuyến đi định mệnh đó.  Con Dốc Nhỏ cũng vậy chăng?

     

Nơi tôi ở rất gần một con đường

Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương

Thành phố âm u nhìn con dốc đứng

Nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn

Khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng

     

Con dốc nhỏ thích tôi người đứng chờ

Trông ngây dại giữa chiều nắng chiều mưa

Chờ bước chân quen, gập ghềnh đất đỏ

Chờ những hoang liêu một mùi phấn nhẹ

Tôi đưa nàng bước lên tuổi xuân thì

     

Phố xóm nghèo sớm lan chuyện chúng mình

Những mái nhà liếc trộm bước tình duyên

Chuyện lúc hai tôi ngồi chân dốc vắng

Mặt đất ngây ngây mùi thơm bắp nướng

Vai sát bờ vai gờn gợn những trầm hương

     

Chân dốc nhỏ dẫn đi quanh bóng hồ

Môi em mềm hút cạn cánh bụi mưa

Hàng liễu giang tay bầy chim trốn gió

Từng bưóc em rung người trong tiếng thở

Em cắn bờ vai: lắm khi lòng bất ngờ …

     

Từng đêm từng đêm, con dốc vàng ánh đèn

Điệu sáo thần tiên gọi vang tận cõi trên

Cuộc tình ngơ ngác không hứa hẹn thêm

Nào trời hạnh phúc đâu biết gì hơn

Vui với cuộc vui bước khuya tình len lén

     

Để có nhiều hôm phố núi gọi mưa về

Đường dốc trợt trơn, lòng vang lừng khúc ca

Em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ

Mưa mãi tình ơi con tim tôi nhóm lửa thật rồi

     

Nhưng một chiều bỗng em đổi hướng đời

Vắng một người dốc mòn cũng lẻ loi

Nhịp trống cao nguyên từng cơn buốt nhói

Chờ mãi nơi đây lòng tôi thấm mỏi

Em nơi nào, đã thênh thang lộ mới

     

Trong thinh lặng có tôi chờ rất dài

Bông hoa cỏ cắng chặt giữa đầu môi

Nhàn cánh hoa bay ngập con ngõ vắng

Hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng

Con dốc nhìn tôi bước đi bằng vết thương

     

Nay tôi rất xa một con đường

     

Hắn khởi hành trở lại bằng một loạt tình ca.  Hắn nói với tôi rằng: Tình ca quan trọng cho con người và nhờ có TÌNH NGƯỜI  mới mang theo được MỐI TÌNH LỚN thành ra hành trình của một người Việt Nam .

 
   
(còn tiếp)


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 28/Jul/2010 lúc 10:20pm
mk
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 10:27pm
"Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ "    
Sáng tác của Nguyễn Đức Quang 
Tác giả trình bầy .



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Jul/2010 lúc 10:29pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2010 lúc 10:33pm
 
 
Cám ơn LanHuynh đã "tiếp sức" cho mk 
Thân ái,
mk
 
 
 
 
TÌNH TÔI, CON DỐC NHỎ
Nhạc và Lời :  Nguyễn Đức Quang




Nơi tôi ở rất gần một con đường
Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương
Thành phố âm u nhìn con dốc đứng
nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn
khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng

Con dốc nhỏ thích tôi người đứngchờ
trông ngây dại giữa chiều nắng chiều mưa
chờ bước chân quen, gập ghềnh đất đỏ
chờ những hoang liêu một mùi phấn nhẹ
tôi đưa nàng bước lên tuổi xuân thì

Phố xóm nghèo sơm lan chuyện chúng mình
những mái nhàliếc trộm bước tình duyên
chuyện lúc hai tôi ngôụi chân dốc vắng
mặt đất ngây ngây mùi thơm bắp nướng
vai sát bờ vai gờn gợn những trầm hương

Chân dốc nhỏ dẫn đi quanh bóng hồ
môi em mềm hút cạn cánh bụi mưa
hàng liễu giang tay bầy chim trốn gió
từng bước em rung người trong tiếng thở
Em cắn bờ vai: lắm khi lòng bất ngờ ..

Từng đêm từng đêm, con dốc vàng ánh đèn
điệu sáo thần tiên gọi vang tận cõi trên
cuộc tình ngơ ngác không hứa hẹn thêm
nào trời hạnh phúc đâu biết gì hơn
vui với cuộc vui bước khuya tình len lén

Để có nhiều hôm, phố núi gọi mưa về
đường dốc trợt trơn, lòng vang lừng khúc ca
em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ
mưa mãi tình ơi con tim tôi nhóm lửa thật rồi

Nhưng một chiều bỗng em đổi hướng đời
vắng một người dốc mòn cũng lẻ loi
Nhịp trống cao nguyên từng cơn buốt nhói
chờ mãi nơi đây lòng tôi thấm mỏi
em nơi nào, đã thênh thang lộ mới

Trong thinh lặng có tôi chờ rất dài
bông hoa cỏ cắn chặt giữa đầu môi
ngàn cánh hoa bay ngập con ngõ vắng
hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng
con dốc nhìn tôi bước đi bằng vết thương

Nay tôi ở rất xa một con đường


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Jul/2010 lúc 8:40am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2010 lúc 8:37am
 
 

NGUYỄN ĐỨC QUANG GIÀ CƠ

viết về

NGUYỄN ĐỨC QUANG DU CA

(3)
 
 
 
 

HÀNH TRÌNH CỦA MỘT MỐI TÌNH

QUÊ HƯƠNG MÊNH MÔNG

 

Quang thực hiện ước mong đi một chặng đường nữa về quê hương, về đất nước.  Sau khi không còn làm chủ nhiệm tờ nhật báo Viễn Đông, Quang làm hai chuyến du hành dài ngày.  Một chuyến đến Washington DCFlorida , một  chuyến đến Washington StateVancouver BC .  Quang đặt tên cho cuộc hành này là HÀNH TRÌNH CỦA MỘT MỐI TÌNH.  Trong chuyến đi này Quang trình bày ba sáng tác mới  :  Tôi Có Một Mối Tình,  Nào Ai, Trên Đường Phố San Francisco trong tập nhạc Quê Hương Mênh Mông mà Quang bảo là viết chưa xong hết.

     

Hầu hết anh em đều cho rằng: Đi trên đất Mỹ để tìm cảm hứng cho những bài ca về tình tự quê hương thì chắc chắn thất bại.  Tôi nghĩ ngay cả khi Quang làm cuộc du hành trên đất nước thì Quang cũng khó cho ra đời những bài hát hay như trước năm 1975.  Trịnh công Sơn, sau năm 1975 cũng không có những bài xuất sắc của thời trước đó.  Nhưng tôi tin Quang sẽ làm được.  Tôi tin Quang sẽ làm được vì quan niệm về nước Việt Nam của Quang đã thay đổi.  Nước Việt Nam mới của Quang không còn là nước Việt Nam nhỏ bé chạy từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Nước Việt Nam của Quang được trải rộng, trải dài đến những vùng đất Âu Châu, Bắc Mỹ, Úc Châu … Một Dân Tộc, Một Quê Hương Nhiều Chính Kiến.  Cho nên Quang đặt tên cho tập nhạc sắp tới của Quang là Quê Hương Mênh Mông.  Ta hãy nghe một số câu trong những bài hát mới ấy:

     

Tôi Có Một Mối Tình

     

Nhưng có lần mối tình

Chết lịm hồn tôi một cuộc phân ly

Cõi lòng khổ đau ngàn dậm ra đi

Đại dương ơi, bao giờ ?

     

Tôi trĩu nặng mối tình

Những lần ngỡ ngàng lúc khởi đầu cuộc đời trái ngang

Gồm từng vỡ vụn xoa dịu từng hồn oan ray rứt

Thắp dần hy vọng từng mảnh đời dung mang quê xa …

Quang kết luận:

Tôi vẫn có một mối tình

     

Trên đê sông Hồng nhớ đàn diều lượn lờ Cửu Long

Nối ngàn con đường mới trẻ trung nhìn không biên giới

Hôm nay mối tình tôi:  Một Quê Hương Rất Mênh Mông

(Tôi Có Một Mối Tình)

     

Trong chuyến đi đến Seattle , Quang yêu cầu tôi đưa Quang đi xem cá hồi trên đường quay về nơi chôn nhau cắt rốn.  Đàn cá trở về sinh quán đã gây ấn tượng về cuộc hành trình trở về quê cho Quang.  Ấn tượng đó đang nằm trong tiềm thức Quang.   Tôi đưa Quang đến Issaquah.  Tháng bẩy cá chưa trở về, nên trại cá Issaquah không có người, cũng chẳng có cá,  nhưng vẫn còn giòng nước mát và trong vắt của con suối nhỏ.  Con suối là con đường trở về nơi chôn rau cắt rốn của đàn cá Hồi.  Tôi không biết cảnh tượng hôm đó khiến Quang có thêm một ý nào cho những ca khúc đường về quê tương lai của Quang hay không?

     

Tuy đã có trong đầu một ý niệm cho tập nhạc Quê Hương Mênh Mông, nhưng Quang cũng không khỏi không có những lúng túng băn khoăn về khó khăn của những người Mỹ gốc Việt trong việc sáng tác.  Trả lời một cuộc phỏng vấn Quang nói : ‘’Chúng ta viết về quê hương thì chúng ta viết cái gì ? Chúng ta đứng ở đâu và nhìn quê hương là đâu ?  Câu hỏi này không đơn giản.  Nếu không có một quê hương thì chúng ta đang xây cái gì ? xây cho ai ? hoăc chống cái gì ? Và chúng ta sẽ chọn lựa ra sao ?  Người nào là đồng bào chúng ta ?  Những người bên cạnh chúng ta chốn xa xăm này hay ở tại nơi mà ta gọi là quê nhà kia ?  Những người chung quanh chúng ta mà chúng ta không coi họ là đồng bào thì chúng ta ra ứng cử, chúng ta làm việc, chúng ta căng sức đóng góp tài năng, công lao, tiền bạc, chia sẻ thuế má với họ thì gọi là làm … gì ??? Còn nếu chúng ta coi những người cùng màu da ở xa tít mù tắp kia là đồng bào thì chúng ta có gì là đóng góp hay giúp đỡ gì người ta không ? … Tôi cho là chúng ta đứng trước nan đề rất lơ’n nếu không giải thích được thì không thể viết được.  Nếu không trả lời được câu này thì tất  cả các đề tài khác đều vô nghĩa.  Chẳng hạn không kêu gọi tuổi trẻ rằng tiến lên, cố gắng, hy sinh, chờ ngày … cho những điều hư ảo nữa.  Đấy là những thao thức mà đã nhiều lúc người ta có cảm tưởng bế tắc.  Tôi đang cố gắng suy nghĩ trở lại về những điều chính yếu ấy và rồi giàn trải nó ra trên cung bậc…’’

     

NÀO AI

     

Nhạc phẩm Nào Ai c ó l ẽ là lời kêu thống thiết nhất của hắn.  Tôi nghĩ cần đến hàng chục trang giấy để giải thích từng câu từng chữ trong bài này.  Xin hãy đọc:

     

Nào ai đứng trước tôi – Nào ai bên cạnh tôi

Nào ai chỉ tôi biết tên con đường về ngày mai

Đường cao theo bóng bay- Đường gần xương máu đầy

Những đường này quen biết tôi từng đắng cay

     

Nào ai đang gấm hoa – Nào ai đang ước mơ

Nào ai hồn thao thức thấy quê nhà ngày mỗi xa

Ngàn phương vẫn cứ đi đường ơi không bến bờ

Ngựa hồ ngày mỏi vó cũng quay về chốn quê nhà

     

Người muôn nơi trên thế giới, ai có cùng ước mơ này

Nói cùng tôi cất tiếng cùng tôi, tha thiết đắm say

Từng bờ nương từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ

Tình người nở hoa tìm ra lối ngõ, không hẹn hò cũng bước về

     

Rồi cùng tôi ngày mai đi hái, những chân thành, những tin mừng

Từng đoàn xe lượn qua cuối bãi, những con đường vui mé sông

Chuyện ngày qua ngày xa xưa ấy, đã phai nhạt trước tấm lòng

Lúc ấy chân đi, đi từ muôn phía, và đi rất nhẹ

     

Nào ai chỉ dùm tôi, tình nào mãi thắm tươi

Chiều mưa cùng bằng hữu cứ reo cười chờ nắng soi

Đường xa bước ngắn dài, đường bâng khuâng cuối trời

Nào ai chỉ dùm tôi một đường tới

     

Lời kêu gọi không còn là lời gào, lời thét, không còn là những cú đấm mạnh vào mục tiêu rõ ràng của những bài Ruồi Và Kên Kên, Im Lặng Là Đồng Lõa, Xương Sống Ta Đã Quằn … Máu tuổi trẻ sục sôi, máu tuổi già nguôi lạnh chăng ?  Đối với Quang chắc không phải.  Làm người Mỹ gốc Việt quả quá khó khăn.  Quang nuối tiếc một thời tuổi trẻ đầy hào hùng coi tử sinh nhẹ tựa lông hồng:

     

Thời gian cuộn chỉ xanh, nào ai sẽ kéo nhanh

Đường lui về giây phút không vướng lòng với tử sinh

Trả tôi lúc đắm say một thư sinh tóc dài

Làm thơ và yêu nước không ai sợ hãi, nghi ngại

     

 
 
Trên Đường Phố San Francisco

     

Nguyễn Huy ghi lại lời Quang nói trong buổi tường trình chuyến du ca suốt Hoa Kỳ ngày 11 tháng mười năm 2004 tại phòng sinh hoạt Nguyễn đình Điểu của nhật báo Người Việt :’’ Thể loại này kích thích tôi.  Nó dính dáng đến con người Việt Nam , đến đất nước Việt Nam .  Những hình ảnh tươi vui nhộn nhịp của cuộc sống, chan hòa hạnh phúc yêu thương nhau diễn ra trước mắt tôi, trên chốn đợi những chuyến tầu qua lại.  Nhìn lại, là những những con người của mọi sắc dân.  Sao họ yêu nhau thế.  Sao họ quyến luyến nhau thế.  Sao họ tin tưởng nhau thế.  Những vòng tay ôm.  Những nụ hôn vội.  Ôi nhìn lại những con người Việt Nam chúng ta sao còn không xóa được hận thù, nghi kỵ mà cứ chất chứa mãi niềm đau, những giáo điều chết cứng …’’ Đó là lý do Quang viết Trên Đường Phố San Francisco

Dự định đã thành hình nhưng biết Quang còn có sự cam đảm để dấn thân hoàn tất mơ ước không ?

Nhưng c ó một số người đã chỉ cho tôi thấy mấy vần chữ vẩn vơ trong bài này.  Họ giải thích rằng Quang đã tự nghĩ ra câu trả lời rồi chứ không phải chỉ đưa ra câu hỏi mù mờ với những tha thiết theo suốt bài hát trên đâu :

…………………….

Từng bờ nương, từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ

TÌNH NGƯỜI NỞ HOA TÌM RA LỐI NGÕ, không hẹn hò cũng bước về

……………………..

Lúc Quang hát tới bài này tại nhà tôi hồi tháng bẩy, tôi có cảm giác Quang cực kỳ xúc động.  Gần như mắt hắn mờ đi trong hơi sương hay trong hơi nước mắt và giọng hắn hơi run. Không ai có thể chia xẻ được cái tâm cam của tay viết nhạc này.  Hắn đã trải qua một quãng thời gian khá dài để lần mò theo với thăng trầm của dân tộc.  Trưởng thành trong một cuộc chiến từ lúc hình thành tới lúc kết thúc, nhẩy vào trong cuộc rồi bứt ra khỏi cuộc chơi, bị tù đầy rồi cũng bị hất văng xa ra khỏi đất nước, hắn cho rằng có một thế hệ bị bỏ quên bên cạnh một dân tộc bị lợi dụng rồi cũng bị bỏ quên, bị băm vằm không thương tiếc … Ngày nay người ta chà đạp nhau, phế bỏ nhau, mặc cho người phương này, kẻ nơi kia … trong tình dân tộc, ai nói lời hối tiếc ?

     

Đường cao như bóng bay, đường gần xương máu đầy

Những đường này quen biết tôi từng đắng cay

     
 
 
NHỮNG BÀI HÁT BẤT HỦ

     

Trong mục Tác Giả và tác phẩm của web Du Ca đã liệt kê những ấn phẩm đã phát hành: 

     

1.                Chuyện Chúng Mình:  52 ca khúc, viết từ năm 1960 đến năm 1964, thời kỳ đầu sáng tác, hầu hết là các khúc tình ca tuổi học trò và thời gian sinh sống tại Đà Lạt.

     

2.                Trầm Ca:  10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về con người, đất nước. Những ca khúc này tạo nên cả một cao trào tuổi trẻ nhập  cuộc vào các sinh hoạt.

     

3.                Những Bài Ca Khai Phá: Trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt cho tuổi trẻ dung trong các buổi họp mặt  công tác xã hội, các hoạt động đám đông.

     

4.                Cần Nhau:  12 tình khúc được biết đến nhiều với:  Bên Kia Sông, Vì Tôi Là Linh Mục, Cần Nhau, Như Mây Trên Cao

     

5.                Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc:  18 bài sinh hoạt trong ngày hạnh phúc lứa đôi, hình thành 1969, nhiều bài hình như đã thành nếp trong các đám cưới như:  Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc, Đám Cưới Chúng Mình, Lũ Chén Dĩa Có Tội Tình Gì

     

6.                Khúc Nhạc Thanh Xuân:  Khoảng 40 bàisinh hoạt thanh niên quốc tế.  Nhiều nhất là các ca khúc trong thời lập quốc Do Thái, phong trào Kibbuz, những bài hát về nhân quyền, tự do từ Âu sang Á và Mỹ như:  Về Miền Gian Nan, Bài Ca Hải Tặc

     

7.                Hương Đồng Quê:  Các khúc Dân Ca và nhạc đồng quê nổi tiếng trên thế giới chuyển dịch sang lời Việt, gần 200 bài, hầu hết bị thất lạc năm 1975

     

8.                Phúc Ca Mùa Lễ:  25 bài đồng dao quốc tế hát trong mùa Giáng Sinh

     

     

9.                Ruồi Và Kên Kên:  Hoàn tất năm 1970, gồm 11 bài, là những ca khúc bi phẫn về những vấn đề lớn nhất trong một khung cảnh chính trị đen tối nhất của cả 2 miền đất nước.

10.           Dưới Ánh Mặt Trời:  Gồm các sáng tác trong các tập Trầm Ca, Những Bài Ca Khai Phá, Ruồi Và Kên, Chuyện Chúng Mình, Cần Nhau, Khúc Nhạc Thanh Xuân, Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc.

     

Nay hắn có thêm hai tập nữa là Về Đây Nhé gồm mười hai bài tình ca và tập Quê Hương Mênh Mông mới chỉ có ba bài. 

     

Sau đây là một số bài ca nổi tiếng của Quang trước năm 1975.

     

 
 
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ

     

Ta như nước dâng dâng chẳng có bao giờ tàn

Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

……………………………………………………………….

Ta như giống dân đi tràn lên ngọn lửa hồng

Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm

………………………………………………………………..

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại, xương da thịt này cha ông miệt mài.  Từng ngày qua, cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.  Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang, trên bàn chông hát cười đùa vang vang.  Còn Việt Nam triệu con tim này con triệu khối kiêu hùng.

     

Tôi được nghe chính Quang hát bài này với các em Thiếu Sinh của Liên Đoàn Việt Hùng tại buổi tối lửa trại tại sân nhà tôi vào năm 2004.  Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu kể lại, trong lần web Kicon phỏng vấn ông, rằng :" Bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ được hát lần đầu tiên tại trường Quốc Gia Âm Nhạc vào tuần lễ văn hóa do cụ Quốc Vụ Khanh Mai thọ Truyền tổ chức.  Bài hát này được hát để kết thúc đêm trình diễn của Phong Trào Du Ca.  Hơn 150 Du Ca viên từ khắp nước đứng chật sân khấu để hát bài này.  Chúng tôi hát xong bản này, khán thính giả đứng dậy vỗ tay nồng nhiệt.  Chúng tôi hát lại lần thứ hai rồi lần thứ ba, lần thứ tư , thứ năm .  Mặc dầu tôi đã nói trên máy phóng thanh nhiề lần rằng buổi trình diễn của Phong Trào Du Ca đã chấm dứt, xin kính chào quý khán thính giả và xin chúc quý vị một đêm ngủ ngon.  Nhưng họ không chịu ra về.  Chúng tôi phải hát bài này đến lần thứ mười. Chưa lần nào tôi lại thấy một bài hát được khán giả cổ võ nồng nhiệt như vậy " .

     

Tôi được nghe ca sĩ Nguyệt Ánh hát bài này tại trại Thẳng Tiến VII tại Houston .  Ca sĩ Nguyệt Ánh cũng dùng bài hát này để kết thúc đêm trình diễn Nguyệt Ánh .  Ca sĩ Nguyệt Ánh yêu cầu chúng tôi hát theo.  Nhạc sĩ cùng trình diễn chung với Nguyệt Ánh đêm hôm ấy đã cầm cờ Việt Nam dẫn đầu, mọi người đi nối tiếp.  Chúng tôi vừa đi vừa hát .  Cảnh tượng hôm đó vừa hào hùng vừa cảm động.  Vợ tôi nói với tôi :'' bài này đã biến anh Quang thành bất tử ''.  Hãy nghe chính Nguyễn đức Quang nói về bài này để trả lời một cuộc phỏng vấn :''…. Bài VNQHNN ra đời vào năm 1966 … bài VNQHNN ra đời trong không khí bừng bừng sức sống của tuổi thanh niên.  Tôi nhớ khi đó tôi cần chấm dứt trầm ca, một bài hát cuối cùng chung khúc rất là cần thiết.  Tập Trầm Ca là tất cả những suy tư của tuổi trẻ chúng tôi về quê hương đất nước, về chiến tranh hòa bình, về tự do cũng như về khát vọng thống nhất dân tộc, thống nhất đất nước. 

Nhưng bối cảnh đất nước lúc đó thê thảm quá, tôi nghĩ phải vùng lên từ thảm trạng, từ thực tế đó, phải NGẠO NGHỄ MÀ ĐI LÊN …''

     

 
 
NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU

     

Năm 1963 Quang đọc một bài thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu của Nguyễn Văn Hoàn đăng trong nội san Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên Sài Gòn lúc ấy do anh Lê Hữu Bôi làm chủ tịch.  Quang đã phổ nhạc bài thơ này.  Bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu là một trong ba bài hát bài hát đã ảnh hưởng tới thời cuộc lúc bấy giờ. Quang tâm sự :”Cuộc đảo chánh 11 tháng 11 năm 1963 diễn ra khi tôi còn là một học sinh.  Nhưng cũng đủ giao động để thấy trước mắt mình đã vỡ ra một khoảng chân trời mới : Những Chuyện Quê Hương.  Tôi nghĩ rằng không riêng tôi mà cả thế hệ chúng tôi lúc đó như những người đang giật mình ra khỏi một cơn mộng dài, ai cũng thấy bỗng nhiên mình có bổn phận làm một cái gì đó cho đất nước, chứ không còn ngồi im trong góc nhà hay trong góc lớp học nữa.  Tôi nhớ bài Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương từng làm tôi rung động.  Tôi có phổ nhạc bài thơ này, nhưng không đủ khả năng.  Tiếng nhạc chỉ buột ra được ba câu thì ngưng lại.  Nhưng nhờ vậy, một cái mầm âm thanh đã chờ sẵn trong tim tôi từ đó.  Những cơn biến động diễn ra liên tục sau đó lại tăng thêm nỗi băn khoăn và suy nghĩ trong tôi.  Ở Sài Gòn sinh viên và thanh niên liên tục nhảy vào nhiều hoạt động chính trị, khiến mọi quan tâm của tôi bị thu hút theo một cách triền miên.  Năm 1964 trường Chánh Trị Kinh Doanh và Quản Trị Xí Nghiệp ra đời ở Viện Đại Học Đà Lạt đánh trúng ngay vào mộng ước của tôi, nên tôi ghi danh liền.  Mùa hè năm đó, một tờ báo Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên ở Sài Gòn ra đời.  Tờ Lửa Việt được tung lên Đà Lạt.  Tôi bắt gập ngay trong tờ Lửa Việt một bài thơ mang tên Ca Hờn Nhược Tiểu, ký tên Nguyễn Văn Hoàn.  Không chần chờ, tôi đặt ngay bài thơ ra trước mắt và mầy mò quyết phổ cho xong một bài nhạc.  Tôi chưa từng thấy ai và nghe ai viết loại nhạc mầu sắc chính trị có tầm cỡ như bài thơ này.  Tôi cũng không quen biết tác giả bài thơ này.  Quan trọng là thấy bài thơ hay, đúng ý mình thì tôi phổ nhạc.  Kết quả là tôi phổ nhạc xong bài thơ này vào tháng 10 năm 1964.  Nhưng làm sao phổ biến đây?  Bài hát này chưa một lần trình diễn trước một đám đông nào, nhưng tôi biết bài hát này rất là hay. 

     

Tháng 12 năm ấy, trong một buổi tụ tập của nhóm học tập J. M. Keynes của chúng tôi (sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh được tổ chức học thành từng nhóm, bắt chước lối tổ chức của trường Đại Học Havard) tại nhà máy nước bên cạnh Hồ Xuân Hương, tôi có hát bài này.  Vừa hát vừa sợ vì cái mặc cảm hát ca khúc chính trị không xưng tụng chế độ có nghĩa là chống chế độ.  Tôi chẳng thấy ai để ý khen chê gì cả.  Mãi đến khi tôi quyết định về Sài Gòn sinh hoạt, rồi gập anh Phạm Duy thì Nỗi Buồn Nhược Tiểu mới được dịp vang tiếng trước các nhóm sinh viên, nổ vang dôi ngay từ lần trình diễn đầu tiên ở Sài Gòn.  Bài hát đã đánh ngay vào trái tim của người nghe và nhẩy lên ngang hàng với những Kẻ Thù Ta Đâu Có Phải Là Người hay Giọt Mưa Trên Lá của Tâm Ca …’’

     

Suốt ba năm 1965 tới 1967, Nỗi Buồn Nhược Tiểu là bài hát hàng đầu đưa đến những xúc động chưa từng có trong lịch sử ca hát nếu tôi nói không quá lời.  Khắp các giảng đường đại học, các sân trường, các phòng hội trung học từ lầu Morin hay sân trường Đồng Khánh ở Huế đến trường Phan Châu Trinh, trường Nữ Trung Học ở Đà Nẵng vào tới Nha Trang, Viện Đại Học Đà Lạt, trường Bùi Thị Xuân rồi tới trường Luật, Khoa Học, Sư Phạm, Văn Khoa ở Sài Gòn … Nỗi Buồn Nhược Tiểu gần như là tiếng hát của giới trẻ, giới trí thức đương đại.  Quang nói hắn không thể quên được lần trình diễn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ .  Học sinh bu nghẹt tất cả các cửa sổ không còn lối để thở, trong phòng là khăn mùi xoa và nước mắt.   Hát xong bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, hắn phải ngưng lại mười phút mới có thể cất tiếng cho bài kế tiếp.

     

Quang kể lại một kỷ niệm đáng nhớ nhất của Quang :’’ Đó là lần tôi cùng anh Phạm Duy và Phương Oanh ra hát tại hội trường Morin cho sinh viên Huế.  Tối hôm đó là một buổi tối hừng hực không khí đấu tranh, lại được châm thêm những thùng dầu xăng với những ca khúc Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Đàn Bò, Người Anh Vĩnh Bình.  Tối hôm đó chúng tôi về nhà giáo sư Lê văn Hảo.  Tôi nhớ tối hôm đó có cả Nguyễn đắc Xuân và một vài khuôn mặt rực lửa tranh đấu lúc bấy giờ.  Thú thật lúc ấy tôi còn quá trẻ và ngây ngô của một cậu sinh viên mới ngoài hai mươi tuổi.  Được mời đi hát cho thanh niên sinh viên là lên đường ngay.  Thành công trong buổi trình diễn, được tiếp đón nồng nhiệt nên chúng tôi trò truyện suốt cả đêm.  Sáng hôm sau chúng tôi lên máy bay để về Sài Gòn rất sớm.  Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi dời Huế, một cuộc biểu tình lớn từ đại học Huế tràn ra đường phố.  Những bài tối qua tôi hát được phát qua loa phóng thanh đặt trên xe hơi của đoàn biểu tình.  Chúng tôi may mắn thoát được cơn sốt điên cuồng ngày đó.  Cho đến một ngày của mấy năm sau đó, tại một buổi tiệc chính trị tại Sài Gòn, một anh Mỹ da đen đến bên tôi cười rất thân mật và nói bằng tiếng Việt :’’ Ông Quang, tôi giới thiệu với ông, tôi tên là R..  Trước đây tôi là trưởng cơ quan CIA vùng I.  Ngày biểu tình ở Huế, tôi ra chậm một chút.  Nếu hôm đó ông ở lại mấy tiếng sau đó thì tôi đã bắt ông rồi “

(còn tiếp)                                                             

mk
IP IP Logged
Trang  of 2 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.305 seconds.