![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Phan văn Hưng - 20 năm <<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Apr/2021 lúc 10:39pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tại sao không giữ lời hứa với mẹ tôi(Bài Viết Của Nguyễn Bảo Tuấn, Con út của Cố Ðại Tá Nguyễn Đình Bảo) Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.
Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?”
Charlie, tên nghe quá lạ! “Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ... Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt… Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.
Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.” (Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam) Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie. (Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)
Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy. Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (trái) Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa: giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”
Anh Năm, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng cùng Đại Uý Đoàn Phương Hải, sĩ quan hành quân, thuộc tiểu đoàn 11 Nhảy Dù. Trung Tá Bảo đã tử trận tại ngọn đồi Charlie, được vinh thăng Đại Tá Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia sẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!? Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quyện trong tiếng nói:
"- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? " (Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải) Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.” (Trích trong "Tô Phạm Liệu: người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng)
Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Đại tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe) Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo (phải) và Ðại Tá Trương Vĩnh Phước trong chiến dịch Damber, Cambodia, Tháng Tám, 1971. Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu: “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”
Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa… Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng Charlie gầm thét trong lửa đạn Gọi mãi tên người nước mắt rưng Trai thời nỗi chết tựa trên lưng Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng Charlie vẫy gọi người ở lại Cởi áo trần gian tặng núi rừng (Kính dâng tặng hương hồn Cha)
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ… Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao?
MẸ... Cách đây 48 năm, ngày 11-04-1972 Mẹ bước qua sinh nhật tuổi 32 một cách lặng lẽ, trong lòng đầy hồi hộp, lo âu khi tin tức về từ vùng 2 chiến thuật chuyển về cho biết tình hình chiến sự đang ngày càng ác liệt. Rồi ngay hôm sau tin dữ đã bay về khi chú An điện thoại báo “Anh Bảo bị rồi chị ạ”, trời đất như sụp đổ dưới chân, Mẹ chỉ còn biết ôm mặt khóc…
Cho đến bây giờ, nhìn lại một chặng đường rất dài đã qua, tụi con cám ơn và cảm phục Mẹ vô cùng, chính nhờ có Mẹ mà tụi con mới có được ngày hôm nay. Khi Bố ra đi, Mẹ mới 32 tuổi và vẫn đang tuổi sắc nước hương trời, vẫn đang là một trong những người đẹp của hàng không Việt Nam, có rất nhiều người đã tìm đến ngỏ lời nhưng Mẹ đều từ chối, Mẹ luôn dành một tình yêu bất tận cho Bố. Rồi biến cố 75 ập đến, gia đình vốn đã khó lại càng thêm khó, một mình Mẹ vất vả làm đủ nghề để nuôi 6 miệng ăn, ban ngày thì làm bánh làm trái để bán, tối thì lo đan áo cho người đi xuất cảnh, nhiều đêm Mẹ thức đan áo đến ba bốn giờ sáng dưới ánh đèn dầu, bao nhiêu cơ cực không thể nào kể xiết. Có lẽ những vất vả mà Mẹ phải gánh chịu được vơi đi phần nào khi anh Tường và chị Tú luôn đạt được những thành tích xuất sắc trên con đường học vấn, anh Tường đậu vào trường Y với thứ hạng rất cao khi mới 17 tuổi và tốt nghiệp ra trường với vị trí thủ khoa, dù là trong suốt 6 năm học Y, ngày nào 5 giờ sáng anh Tường cũng phải dậy sớm lên Gò Vấp lấy bánh đậu xanh về đi bỏ mối để kiếm tiền phụ Mẹ. Ngày anh Tường được học bổng đi Pháp để học tiếp, Mẹ mừng không nói nên lời. Ngày chị Tú được tuyển vào làm ở lãnh sự quán Anh quốc sau khi vượt qua mấy trăm hồ sơ dự tuyển, Mẹ cũng mừng không nói nên lời, và dường như đó là phần quà ông Trời muốn bù đắp lại cho những hy sinh không mệt mỏi của Mẹ. Trong cuộc sống Mẹ luôn dạy tụi con phải sống sao cho xứng đáng. Con còn nhớ ngày anh Tường ở Pháp về và mở phòng mạch riêng, Mẹ qua dự khai trương xong về không nói lời nào, ngày hôm sau anh Tường về thăm, Mẹ bắt anh Tường ra trước bàn thờ Bố và nói rằng: “Tường à, Mẹ thấy con mở được phòng mạch riêng Mẹ rất mừng, nhưng Mẹ không hài lòng khi thấy con đặt bàn thờ Thần tài ngay trước phòng mạch như vậy, Mẹ muốn cho con học Y là để con làm việc cứu người chứ không phải với mục đích kiếm tiền”, và ba anh em tụi con đã được trưởng thành từ những điều giáo dưỡng như vậy. Từ đó đến nay anh Tường năm nào cũng tham gia chương trình mổ từ thiện “Vì nụ cười” cho các trẻ em không may mắn trên khắp cả nước, còn chị Tú thì cho tới bây giờ vẫn duy trì các lớp dạy tiếng Anh miễn phí tại nhà. Đó là những gì Mẹ đã dạy và muốn tụi con hướng tới. Một người thắp hương trên đỉnh đồi vào lúc chiều tà, có lời cầu nguyện riêng của mình trong phút giây thiêng liêng. Đã rất nhiều người nói với con rằng người ta ca ngợi Ông Bảo một thì Bà Bảo phải xứng đáng hơn thế gấp nhiều lần, chính nhờ công lao của Bà đã thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy các con nên người đã giữ cho cho danh tiếng của Ông luôn sáng mãi, so với những quả phụ ngày xưa được vua ban “Tiết hạnh khả phong” thì nào có kém gì. Mỗi lần con nghe người ta nói như vậy thì con đều khóc và thầm cảm ơn ông Trời vì đã cho con là con của Mẹ. Hôm nay mừng sinh nhật thứ 80 của Mẹ, tự nhiên trong con vang vọng lên câu hát : “Mẹ ơi thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình, dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có Mẹ….”
Sài Gòn, 11-04-2020
Nguyễn Bảo Tuấn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
THÁNG TƯ BIỂN KHÓC RỪNG SẦU ![]() Nhớ em dòng lệ tạ từ - Anh đi Xót xa đầy cuộc phân ly Tang thương chia cách hơn gì - nỗi đau ![]() Nhớ em đôi mắt tình sầu Vì đâu bỏ phố lên rừng Tháng Tư lịm tắt nụ cười Tháng Tư khóc Mẹ bạc phần Tháng tư nỗi nhớ ngậm ngùi
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Những Ngày Cuối Tháng 4/ 1975Bến Bạch Đằng, Sài Gòn, những ngày cuối tháng tư Bỗng dưng tìm được những trang viết này trong một cuốn sổ. Cuốn sổ bị bỏ quên im lìm trong một góc tủ mấy chục năm. Tui cũng không còn nhớ mình đã viết những trang viết này. Những hàng chữ vội vã ghi chép lại những ngày cuối cùng của Sài Gòn. Đăng lại ở đây để nhớ về những giây phút chót của miền Nam, của một Sài Gòn đã mất tên. Đó là những ngày cuối cùng. Cuối cùng của một nhà nước, một chế độ, một quốc gia. Lúc đấy hắn chưa nghĩ được điều đó. Hắn chỉ nghĩ tụi Việt cộng này đánh rát quá. Đánh tới tận Long Khánh rồi. Hắn thấy có người ra đi. Đã có một vài nhà bỏ trống. Có tiếng súng ậm ì lác đác. Hắn chẳng biết làm gì. Loanh quanh. Hàng ngày hắn không đến trạm xe chờ chở đến nơi làm việc nữa. Hắn bỏ việc. Hắn thấy trống rỗng và không biết ngày mai sẽ như thế nào nữa. Hắn chẳng biết tin tức gì của gia đình ở Đà Nẵng. Không biết gia đình hắn có xuống tàu đi vô Nam không? Anh em hắn đông quá, đi kiểu ấy làm gì cũng có kẻ thất lạc. Mấy năm rồi hắn không viết thư về nhà. Hắn là thằng con đi hoang. Bỗng dưng hắn lại nhớ nhà. Buổi chiều xuống chậm, trời oi bức chờ mưa. Cả thành phố ngơ ngác làm sao ấy. Hắn nhớ đến số tiền gởi ngân hàng. Người người xếp hàng rút tiền. Hắn cũng xếp hàng nhưng rồi không đủ kiên nhẫn đợi. Đi về. Những chuyến xe vội vã, những căn nhà vắng chủ. Đã qua ngày 26. Hắn vẫn chưa nghĩ ra được gì, đầu óc trống rỗng. Có khi lại hỗn loạn mù mịt. Hay là kiếm mối nào di tản một chuyến. Đi chơi thôi. Hắn thèm đi chơi đâu đó. Quanh đi quẩn lại chẳng ai quen. Hắn nhớ lời của một thằng bạn, nó bảo nghe đài khi có bản nhạc Tuyết rơi giữa mùa hè thì đến chỗ này, chỗ nọ để trực thăng đón đi. Hắn muốn qua Chợ Lớn gặp ông anh. Không biết ông anh có đi không? Làm nghề luật sư lại là sếp của một cơ quan dân vận, chắc có mối bay rồi. Nhưng thôi, phận ai nấy lo, hắn qua nhiều khi lại thêm phiền người khác. Vẫn cơm chợ Trương Minh Giảng. Ngày hai bữa. Lê la quán vỉa hè. Bạn bè đi đâu mất hết. Tình hình có vẻ căng. Nghe nói Việt cộng đã về đến Biên Hoà. Rồi sao nữa ta? Kệ mẹ, đến đâu hay đó. Sáng định mua tờ báo xem tin tức thế nào, nhưng rồi không mua. Biết cũng thế mà không biết cũng vậy. Làm được chi. Có nước đâu cho cá vẫy. Nghe đồn ông Thiệu bay đi rồi. Nghe nói ông Hương lên. Ai lên ai xuống thì cũng vậy. Biết chi cho mệt. Hoá ra không như hắn nghĩ, mỗi nhân vật có ảnh hưởng đến vận nước khác nhau. Người ta bảo có tay pilot nào đó cướp máy bay quay lại thả bom Dinh Độc lập và phi trường Tân Sơn Nhứt. Hắn vẫn chưa rút được tiền nhưng ngân hàng đã đóng cửa. Bỏ mẹ, kiểu này dám mất tiền sao? Một gia tài chứ ít chi. Rồi làm sao tiếp tục sống đây. Bây giờ hắn mới ý thức nguy cơ khi trắng tay. Chiều hôm trước hắn đã lên xe như một tình cờ ở một cơ quan của Mỹ góc Hiền Vương, Trương Minh Giảng. Một gia đình lếch thếch đi vào đấy vừa lúc hắn đi tới, một thằng bé rời tay mẹ, loạng quạng ngã, hắn dắt cậu bé theo đoàn vào và nghiễm nhiên trở thành người trong toán di tản. Xe chạy về hướng phi trường, nhưng bị quân cảnh chặn xét ở cổng xe lửa số 6 Trương Minh Ký, lệnh Tổng thống mới là không cho thanh niên ra đi. Hắn xuống và đi ngược đường xe chạy. Ghé tiệm cơm, ngồi nghĩ lung tung. Hắn liên tưởng đến cánh bèo giạt, hắn đang giạt như bèo. Chiều 29 lúc đang đứng hút thuốc trước sân thì thấy chủ nhà hấp tấp ra đi. Cả một đoàn con cháu. Nhà có con là sĩ quan hải quân, tàu đang đợi ở cảng. Hắn dịnh đi theo. Cả chiếc tàu thêm một người thì có làm sao. Bà cụ bảo ối giời ơi, một lần đi tàu há mồm vào đây, bây giờ lại xuống tàu đi nữa. Khổ thế! Rõ là giời đày. Chúa cứu giúp chúng con. Lên đến cầu Trương Minh Giảng thì hắn dừng lại, bỏ đoàn quẹo qua đường. Hắn thấy mình ăn theo vô duyên. Trời chực mưa. Có tiếng nổ lớn hướng Bà Quẹo hay ngã tư Bảy Hiền. Có cột khói đen ở phía đó cuồn cuộn lên. Hắn vào quán kêu một ly bạc xỉu đá, đốt một điếu thuốc và tự nghĩ mình bỏ cuộc vậy đúng không? Cô chủ quán nói trong trỏng: Nghe tụi nó nói mấy cha Việt cộng vô rút hết móng tay sơn màu xanh đỏ, mấy hổm rày kiếm cái cắt móng tay mà không biết để đâu, tìm hoài không thấy. Có tiếng cười hề hề: Kiếm cái kềm tui cắt cho.. Bà lo lấy chồng đi chứ Việt cộng vô là bắt lấy lính của họ đó nghe, lấy Bắc kỳ là mạt phận rồi…Hắn lại nghe mà chẳng nghĩ gì, hắn cũng chẳng thèm nghĩ rồi thân phận hắn ra sao nữa. Nhà thuê, chủ nhà đi rồi, trước mắt tháng này khỏi trả tiền nhà là vui rồi. Một đoàn xe lính chạy ngang, những cây súng vươn ra, đoàn xe vội vã chẳng biết đi đâu. Không khí như đông cứng lại. Hắn chợt nhớ nhà bên cạnh có hai cô bé dễ thương hình như cũng đi hôm qua rồi. Cửa nhà đóng im ỉm. Hắn ra cảng Sài Gòn, thuyền bè, tàu lớn tàu nhỏ lung tung, người ta ra đi vội vã, chen lấn nhau. Hắn lại về. Hắm leo lên một chiếc xe đạp trong đống ngổn ngang xe cộ. Đạp như một kẻ an nhàn. Ngang Trần Quý Cáp, hắn chợt nhớ đây cũng là một địa điểm đón người. Hắn tạt vào, hoà lẫn với dòng người đang lúc nhúc ở đó. Chẳng ai hỏi giấy tờ, kiểm soát gì. Ai cũng dáo dác, mặt ai cũng thẫn thờ. Kệ mẹ. Đã bảo là bèo giạt thì cứ để cho nó giạt. Lại chất lên xe, chở qua tòa nhà cao ở Lê Văn Duyệt. Chở đó suốt đêm. Trực thăng lên xuống trên bầu trời, súng lác đác nổ. Mờ sáng thì tan hàng. Hắn lầm lũi đi về. Phố vắng. Giấy tờ bay trắng đường. Nhiều công sở bị phá tan tành và đầy người hôi của. Hắn đi trong phố giấy bay ngập dưới chân hắn cũng không nghĩ gì. Bèo chưa trôi thì đứng lại. Ở bên kia dãy nhà trước hẻm 220, cả một toán nhảy dù án ngữ, súng lăm le ở mấy cửa sổ. Hắn lo cho mái tóc dài chấm vai của hắn, hắn nhờ bạn cắt ngắn bớt. Hẻm lao xao. Trời vẫn không nắng nổi. Thằng bạn hải quân thắng chiếc xe Jeep cái két trước cửa: Giờ này còn ngồi đây. Đi. Thì đi. Chạy ra Bason ở Cường Để, tàu vừa nhổ neo. Chiếc tàu hàng đầy chặt người lừ đừ trôi. Vẫn còn người bám dây leo lên. Lại về. Đến dốc cầu Trương Minh Giảng đã thấy xuất hiện đám cầm súng mang băng đỏ. Thất thểu xuống xe. Chiếc xe bị trưng dụng ngay. Hai tiếng đồng hồ sau, có lệnh buông súng đầu hàng. Đầu ngõ có nhiều người khóc. Những người lính cởi áo quần, ở trần giữa phố. Đường đầy quân trang. Bên trụ đèn, một bà già lặng lẽ đứng khóc, người lính cũng quẹt nước mắt. Có tiếng người rú kên: Trời ơi! !!! Thỉnh thoảng vẫn những tràng súng nổ và tiếng pháo đì đùng. Rồi đoàn quân với xe tăng tiến vào. Tiếng xích sắt nghiến mặt đường. Hắn thấy tê tái. Hắn nhận thức Sài Gòn đã mất. Và số tiền trong ngân hàng của hắn cũng chẳng còn. Hắn đứng ở đầu dốc hẻm 220 và cũng khóc. Hắn thấy tiếc. Tháng 4/1975 DO DUY NGOC
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Apr/2021 lúc 10:55am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
ĐI HỐT CỐT CHA TỪ TRẠI TÙ NGOÀI BẮC Câu chuyện sau đây có thể không liên
quan nhiều đến nước Mỹ nhưng là một trong những mãnh vỡ cuộc đời của một
đứa con người tù cải tạo sau ngày thất trận bi thảm 1975. Là lý do của
những cuộc ra đi và định cư tại miền đất cách xa quê nhà hơn nửa vòng
trái đất. Ngày đưa ba đi trình diện học tập dành cho “sĩ quan nguỵ quân” tại trường Chu Văn An năm 1975, là khoảnh khắc cuối cùng mẹ nhìn thấy mặt ba còn sống. Chuyến đi tưởng chỉ 10 ngày trở thành 2 năm 6 tháng chia lìa và xa nhau mãi mãi. Mỏi mòn chờ đợi để cuối cùng chỉ được ôm xác người chồng yêu thương lần cuối cùng ở một trại cải tạo ngút ngàn tận cùng biên giới Việt Trung. Tháng hai năm 1979, trở về Sài Gòn sau khi để lại ba nằm hiu quạnh trong trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú, mẹ trở thành một người hoàn toàn khác hẳn. Cái tính cứng cỏi ngày xưa của mẹ giờ thêm lòng căm thù và nỗi đau mất chồng khiến mẹ trở nên điên dại. Đã có những tháng ngày mẹ không thiết tha gia đình, lang thang từ nhà ra chợ. Câu chuyện mất chồng của mẹ lan truyền nhanh chóng trong khu xóm đường Lam Sơn với toàn gia đình sĩ quan chế độ cũ. Lan truyền đến tận cái chợ nhỏ Cây Quéo cuối con đường Hoàng Hoa Thám quận Bình Thạnh. Ai cũng biết câu chuyện người đàn bà Huế mất chồng trong trại cải tạo. Cuộc sống gian khổ, nỗi nhớ chồng quay quắt làm mẹ ngày một gầy guộc đi. Đã không còn là người đàn bà trắng trẻo mập mạp phúc hậu của khu phố sĩ quan ngày nào. Ban ngày chỉ là tạm quên, đêm về là những giây phút mẹ nhớ đến cái lặng lẽ cô độc của ba nơi miền đất phía Bắc xa xôi. Nhớ đến cặp mắt chưa kịp khép của ba trong ngày gặp mặt. Mẹ cứ hay bảo, không biết ba mày có đói hay không, áo quần có lành lặn hay không, có ai hành hạ ba mày hay không. Rồi mẹ lại khóc và mẹ lại nhớ đến cái khuôn mặt hốc hác, tiều tuỵ ngày ba qua đời. Nhớ đến hàm râu dài lưa thưa, cái thân hình gầy guộc và cái áo cũ rách nát tả tơi. Có những đêm ngồi bên cửa sổ nhìn ra khoảng tối mênh mông, mẹ lặng lẽ khóc nức nở một mình. Những tháng năm sau đó với mẹ con tôi, thời gian qua thật dài. Không biết làm gì để an ủi mẹ ngoài chuyện cùng mẹ thay ba lo cho những đứa em còn nhỏ dại. Ngoài giờ làm việc tại Bưu Điện, vợ chồng tôi phụ me, làm đủ thứ nghề để sinh sống. Bán quần áo cũ tại chợ trời, làm bánh đậu xanh, nuôi gà trong phòng ngủ, nuôi heo trong cầu tiêu để chỉ thật mong đến ngày đủ sức đem ba trở lại quê nhà. Cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và chúng tôi phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi khi nhìn con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi. Có những ngày ăn bo bo thay cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì. (Thời đó tại Sài Gòn chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài Bắc). Tùy theo lúc, theo số người trong gia đình, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì, cũng có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đỡ ngán. Dù sao thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày tù miền Bắc. Tôi tự an ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong lòng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết than ngắn lại thở dài. Thường phải qua 3 năm, mới có thể dời mộ nhưng chỉ mới chưa đầy 3 năm, thương mẹ mỏi mòn trông đợi, tôi cùng mẹ xin giấy phép ra Bắc đem xác ba về. Dĩ nhiên mọi chuyện không dễ dàng. Thời đó làm gì có cái loại giấy phép ra trại cải tạo để đem xác chồng. Lên phường xin đại cái giấy phép ra thăm ông chú còn ở lại ngoài Bắc. Cứ ra Hà Nội cái đã mọi chuyện tính sau. Thế là sáng ngày 15 tháng 8 năm 1981, hai mẹ con khăn gói lên tàu hoả “thống nhất”, miền Bắc trực chỉ. Ở lại nhà chú một đêm, hôm sau cùng với ông Tiến, người chuyên bốc mộ thuê do chú giới thiệu, ba chúng tôi lại lên tàu chợ Hà Nội – Vĩnh Phú tiếp tục cuộc hành trình. So với 2 lần đi thăm ba những năm về trước, chuyến đi này tương đối dễ dàng hơn. Hành lý của hai mẹ con chỉ là một cái xách tay nhỏ đựng vài bộ áo quần và một ít thức ăn khô, duy chỉ có ông Tiến là lỉnh kỉnh cuốc xẻng, mấy cái bị lác và mấy chai dầu hồi, ông bảo dùng để rửa xương. Tướng người ông Tiến đen đúa khắc khổ nhưng nhanh nhen và vui tính. Cái giọng bắc 75 mới đầu hơi khó nghe, rồi cũng quen dần. Chuyến đi có thêm người đào mộ thuê cũng nhờ thế làm thời gian trôi qua nhanh hơn. Ông làm cái nghề này cũng đã mấy mươi năm sau cái ngày cởi bỏ áo quần bộ đội. Ai cần đào mộ là có mặt ông. Thường bốc xác lên đem đi chôn chỗ khác, cũng có khi đem đi thiêu. Miền Bắc hồi đó có rất nhiều những ngôi mộ vô danh nằm lẫn trong các ruộng vườn. Người ta nhờ ông. Ông lại có thêm công việc tìm kiếm, đào xới, dọn dẹp và đem vào các hố chôn tập thể. Hay có khi chỉ cần tẩm dầu và đốt. Ông kể, công việc tuy vất vả nhưng cứ có hoài. Tiền thì không bao nhiêu vì dân ở đây thường rất nghèo, nhưng cũng đủ sống qua ngày. Ông lão chép miệng. 30 năm đi lính, chỉ biết đánh nhau, xuất ngũ không có tay nghề, làm cái việc suốt ngày bên các xác chết ít người chịu được, cũng ít gian khổ hơn thời chiến tranh. Ông nói thêm, đây là lần đầu tiên có người trong Nam ra nhờ ông, lại là đào mộ của người học tập cải tạo. Tôi hỏi, người chết là sĩ quan miền Nam, sao ông vẫn nhận. Ông lão chép miệng, cũng là con người cả. Ai chết rồi cũng như nhau, hận thù gì nữa. Mà thật ra tôi có thù hận ai đâu. Ngày xưa đi lính, bảo bắn thì tôi bắn, không bắn thì chết sao ông. Lần đầu tiên trên một miền đất với tôi chỉ là thù hận, tôi thấy một cảm giác an toàn. Từ sáng sớm ba người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và như dự đoán bị từ chối ngay. Lý do phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phải trên ba tháng. Hơn nữa, tay cán bộ trại giam nói thêm, ông nhà chết chưa quá ba năm chắc cấp trên không cho đâu. Không còn cách nào khác, không lẽ lặn lội mấy ngàn cây số ra đây rồi về tay không, chúng tôi quyết định đi bốc mộ trộm. Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù như chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba, thương mẹ và một phần do sự khuyến khích của người đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của ba nằm ngoài vòng đai trại cải tạo, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy ra cho chúng tôi. Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng tôi đi đến khu rừng có mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rõ đường đi. Cũng không xa lắm vành đai trại và cũng chỉ một con đường đất nhỏ hẹp. Vẫn không thay đổi gì nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thánh giá trước mộ vẫn còn đó, xiêu vẹo. Dấu khắc tên ba trên cây vẫn còn dù thời gian có làm mờ đi. Và cũng chỉ duy nhất một mình ngôi mộ của ba nằm ở đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi mộ nào khác. Có lẽ chỉ một mình ba tôi là có thân nhân đến tiễn đưa khi chết, nên được chôn nơi đây. Những người khác chắc chỉ được bó chiếu, nằm chung nhau trong một ngôi mộ tập thể vô danh nào đó. Chúng tôi bắt đầu công việc đào đất trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh thoăn thoắt. Lớp đất xốp có lẽ được lấp vội vàng nên công việc đào xới cũng dễ dàng. Rồi cũng đến lúc chạm đến cái nắp hòm củ kỹ mục nát. Nén xúc động, tôi mở nắp quan tài. Ba nằm đó, bộ xương còn nguyên vẹn với một phần da thịt và tóc chưa phân hủy hết. Chúng tôi nhặt xương ba lên theo thứ tự đầu, giữa, chân, tay, bên phải bên trái. Mẹ nức nở nhưng không dám khóc to. Mẹ vừa khóc vừa rửa xương ba bằng chai nước cánh hồi, sau đó chúng tôi phụ nhau bỏ vào hai xách tay bằng lác mang theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu và phần tay chân bên trái. Bao lác của mẹ gồm xương sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ dặn phải làm như thế để khi về đem chôn trở lại, ba mới siêu thoát với hình hài còn nguyên vẹn chân tay. Chúng tôi lặng lẽ vượt gần 30 cây số lên đường trở ra ga Ấm Thượng ngay trong đêm. Cũng phải vượt qua hai con sông nước chảy xiết, qua những con đường đất quanh co, và những ngôi nhà leo lét ánh đèn. Không một bóng người. Tiễn chúng tôi chỉ là những tiếng côn trùng ếch nhái và những giọt mưa phùn lành lạnh. Vừa đi vừa cầu nguyện. Rồi cũng suông sẻ ra đến ga Ấm Thượng khi trời tờ mờ sáng. Kịp đón chuyến tàu về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội thì cũng đã xế chiều. Mệt lả người vì thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui vì đã đem ba về an toàn. Chia tay người bốc mộ ngay tại sân ga, bấy giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn nhà ga, mỗi người ôm chặt một bị lác chứa xương người. Chúng tôi chia nhau ăn ổ bánh mì dai nhách, uống ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành. Đêm lạnh, hai mẹ con chúng tôi ngồi bên nhau, cô độc ngay trong cái sân ga đông kịt người. Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa mãi mãi với tôi vẫn là nơi vô cùng xa lạ và không bao giờ muốn quay về. Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay mình nhẹ tưng, bừng tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình tôi về phía trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng. Đêm đó hai mẹ con lại ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài, dài đến vô cùng. Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi lên chuyến tàu sớm đầu tiên xuôi Nam và đến ga Huế vào nửa đêm. Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự Bình, cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà quá khuya nhưng đã có rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi từ Đà Nẵng về cả ngày hôm trước. Có cả ông Cặn hàng xóm, người chuyên môn lo về cúng kiếng với hòm rương nhang đèn đầy đủ. Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp lại theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với các đồ dùng còn sót lại của những ngày trong trại cải tạo. Không thể mặc cho ba manh áo mới lành lặn, mẹ xếp ngay ngắn bên cạnh. Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An Lăng có mặt thật đông. Hôm đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần mặc dầu ba qua đời đã lâu. Dù sao mẹ cũng đã mãn nguyện thực hiện được ước muốn từ bao năm qua: đưa được ba về, nằm ấm cúng trong mảnh vườn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ, họ hàng. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba ơi, hãy yên nghỉ, chúng con luôn thương nhớ ba. Con sẽ thay ba lo cho mẹ và các em. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ và cho chúng con. Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi, luôn theo dõi phù hộ chúng tôi, trong những ngày đen tối còn lại tại quê nhà và những tháng năm lưu lạc trên quê người. Đã 40 năm sau ngày ba mất, đại gia đình chúng tôi, một mẹ và 9 người con vẫn đang thật bình yên trên xứ Mỹ này. Mỗi năm chúng tôi đều thay phiên về thăm ba. Ngôi mộ được chăm sóc có sạch sẽ bởi một người bà con còn ở lại. Chỉ riêng tôi, hơn 20 năm qua vẫn chưa một lần trở lại. Chắc ba cũng hiểu, nỗi đau vẫn còn mãi trong tôi. Đã có những khó khăn, đã có những vất vả trên quê hương thứ hai này, nhưng mẹ và anh em chúng tôi đều kiên cường vượt qua để sống một cách lương thiện. Dù mẹ đã lúc quên lúc nhớ nhưng tôi
vẫn luôn tin rằng hình bóng của ba vẫn luôn còn mãi trong tận cùng trái
tim của mẹ. Mẹ không nói, nhưng chắc vẫn nhớ nhiều điều trong quá khứ,
nhất là cái ngày hai mẹ con mình đi nhặt lại xác cha, phải không mẹ của
con. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Apr/2021 lúc 2:48pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
600 - LK -Quân dân Miền Nam chạy giặc 1975- HD <<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Apr/2021 lúc 5:27pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Chút Tâm Tình Về Ngày 30 Tháng 4 - Lê NguyễnCHÚT TÂM TÌNH VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 46 năm đủ cho sự ra đời và trưởng thành của hai thế hệ. Song đối với những người miền Nam đã chứng kiến cái ngày 30.4.1975 và những ngày tháng tiếp sau đó, nhiều hình ảnh cứ “mới như ngày hôm qua”. Bởi vì chúng vẫn còn đậm nét quá, chúng hằn sâu vào ký ức, dẫu cho có những lúc ta muốn quên chúng đi, nhưng nào có được. Sau cái ngày 30.4 ấy, người ta nhắc nhiều đến 2 chữ “đổi đời”, thật khó có từ nào chính xác đến thế. Nó là cuộc đổi đời của hàng triệu người thua cuộc, nếu không chịu đựng cảnh tử biệt sinh ly thì cũng giương cặp mắt thất thần nhìn khối tài sản tích cóp bằng cả mồ hôi và nước mắt tan biến thành mây, thành khói. Nó là những phận người bắt đầu ngụp lặn trong bể khổ trần ai, giữa những vùng kinh tế mới hoang vu thiếu thốn trăm bề, trong những trại “học tập cải tạo” giữa hun hút rừng sâu. Nhưng sự đổi đời cũng có nghĩa tích cực của nó. Nó tạo điều kiện cho hàng chục triệu đồng bào miền Bắc nhìn thấy cái thực tại sống động của một Sài Gòn, của một miền Nam dưới vĩ tuyến 17 mà họ chưa bao giờ có thể tưởng tượng ra được như thế. Nó kết nối dần tình cảm và tâm tư của đồng bào Nam-Bắc, khi họ nhìn thấy nhau, tiếp xúc với nhau và nhận chân ra rằng cả hai khối đồng bào ruột thịt chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Ngày 30.4, nhớ nghĩ đến những “giai thoại” đã tồn tại hơn 40 năm qua về những cái “đổng” có nhiều cửa sổ, về những “tivi chạy đầy đường”, về những “cái nồi ngồi trên cái cốc” …, chúng ta không cười cợt trên sự ngu ngơ của đồng bào chúng ta, mà từ trong đáy lòng của mỗi chúng ta dâng lên niềm thương cảm về những phận người ruột thịt chung một dòng máu, chung một tổ tiên, đã không có được những năm tháng tương đối đủ đầy cả về vật chất lẫn tinh thần như chúng ta. Khi có thể nghĩ được rằng sự trả giá của chúng ta với tính cách là người thua cuộc được bù đắp phần nào bởi sự cải thiện cuộc sống của rất nhiều đồng bào phía Bắc, ta sẽ cảm thấy lòng thanh thản hơn, đỡ ray rứt hơn mỗi khi cái ngày 30.4 lại trở về trong tâm trạng ngổn ngang của hàng triệu triệu người. Chúng ta cũng sẽ cảm thấy ấm lòng hơn khi rất nhiều đồng bào phía Bắc đã thay đổi hẳn cảm nghĩ về những người từng sống dưới vĩ tuyến 17, những cảm nghĩ từng bị định khuôn, che chắn bởi một bức màn sắt khổng lồ không để lọt qua bất cứ một sự thật nhỏ nhoi nào. Ngày 30.4, ta nghĩ về tình tự dân tộc và sự hòa hợp không đến từ bàn tay ban phát của người cầm quyền, mà từ sự hiểu biết lẫn nhau, cảm thông nhau khi nhìn về quá khứ bi thương và một hiện tại còn đầy rẫy cam go trước mắt. Đọc hồi ức về ngày 30.4.1975 và những ngày tháng sau đó của một số bạn trưởng thành bên trên vĩ tuyến 17, nhiều hình ành, cảm nghĩ khiến lòng ta không khỏi bùi ngùi. Đó là hình ảnh những cậu học sinh mười tám, đôi mươi, lần đầu tiên thấy cây bút nguyên tử (bút bi) và tròn xoe mắt nhìn, hỏi nhau sao viết hoài mà không hết mực. Đó là sự kinh ngạc và thích thú của những cô cậu thiếu niên lần đầu tiên thấy gói mì tôm, chỉ cần bóc bao ra, chế nước sôi vào là mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Đó cũng là lần đầu tiên họ có thể nói vào cái “đài” c***ette và nghe lại được giọng nói của mình. Không bùi ngùi sao được, hóa ra trong những tháng năm dài chia cách, nhiều đồng bào ruột thịt của chúng ta đã phải sống trong sự tăm tối và kham khổ đến chừng nào! Sau ngày 30.4.1975, với họ, bên cạnh sự thay đổi ít nhiều về cuộc sống vật chất, đổi đời còn là sự nhận chân được một thực tại rất khác, về những người thua cuộc, những đồng bào miền Nam rất khác so với những gì họ đã hình dung trong trí tưởng của họ, một trí tưởng là sản phẩm của sách giáo khoa và những bài báo mà họ đọc hàng ngày. Sau ngày 30.4.1975, họ dừng chân ở một cửa hàng tại Sài Gòn, ngạc nhiên nhìn thấy bà bán hàng vui vẻ, gói hàng cẩn thận cho họ, không lạnh lùng, nhìn họ bằng “đôi mắt hình viên đạn” như các cô mậu dịch viên ở quê họ. Họ còn nhìn thấy những con hẻm đầy sách vở, có cả sách nghiên cứu về triết học Marx-Lenine mà chính quyền bên thua cuộc đã cho phép biên soạn và phổ biến trong những năm tháng chia cách hai miền. 46 năm là đã gần nửa thế kỷ, so với nhiều bạn đồng hành quanh ta, ta đã có những bước tiến … rùa bò. Bởi vì sau 46 năm, vẫn còn đây đó những chia rẽ, nghị kỵ, thậm chí cả hận thù. Chính sự ly tán của lòng người vẫn còn tiếp tục kéo dài trên một đất nước thống nhất về mặt địa lý từ 46 năm qua đã góp phần làm nên một xã hội trì trệ hôm nay. Những ngày tháng 4, nhìn về một quá khứ đã xa nhưng cũng thật gần gũi, nhiều hình ảnh trở về trong ký ức và ta vẫn còn xúc động khi nhớ lại một Dương Thu Hương ngồi ôm mặt khóc bên hè phố Sài Gòn, vẫn nghe lòng rộn lên niềm thương cảm đối với đồng bào miền Bắc ruột thịt khi đọc lại tâm tình rất thật của nhà văn Nguyễn Quang Lập viết về một Sài Gòn của những người thua cuộc từng gây nhiều ấn tượng lạ lẫm và tốt đẹp trong anh. Xin mời các bạn đọc lại những tâm tình dưới đây của nhà văn họ Nguyễn về ngày 30.4.1975 và những ngày tháng sau đó. ❁ Lê Nguyễn 25.4.2021 SÀI GÒN GIẢI PHÓNG TÔI ❁ Nguyễn Quang Lập Đã trải qua hàng chục năm kể từ ngày ấy, nhưng những kỷ niệm đó tôi không bao giờ quên. Sài Gòn đã thay đổi tôi, một người đến từ Hà Nội….. ….Mãi tới 30.4.1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là sinh nhật của tôi. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”. Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30.4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm cha tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Cha tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu. Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và c***ette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là “bút nguyên tử”. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia. Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành gia vũ trụ, người thường không bao giờ có. Thằng Minh khoe cái c***ette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi c***ette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái c***ette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở c***ette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn Ca số 7. Kết thúc Sơn Ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi! Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kỳ nghỉ hè năm sau, tháng 8.1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn. Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, tivi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi.Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn. Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí. Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nylon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nylon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nylon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt. Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt. Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt. Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê: cuốn Tư bản luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quan vui vẻ nói, dạ chú, sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn. Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
❁ Nguyễn Quang Lập Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Apr/2021 lúc 7:28am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
CHO CON ĐI VƯỢT BIỂN
Anh đưa thư trẻ vẫn nhởn nhơ đi qua nhà mỗi ngày, nhưng trưa nay anh quẹo thẳng vào sân nhà tôi và hớn hở: Quả nhiên, bà hàng xóm bên cạnh bấy lâu hay tò mò thắc mắc đã bước sang, chẳng biết bà vui cùng hay là ganh tị: – Có tin thằng Thi đến đảo rồi hả, thích nhỉ? Tôi đoán đúng mà, nó đi vượt biển chứ còn đi đâu, giấu ai chứ chẳng qua mắt được tôi… Cả nhà tôi đã hồi sinh. Vài ngày sau nhận thêm lá thư của anh Thi. Lá thư viết trước tờ điện tín dù nó đến sau. Anh kể chiếc ghe nhỏ bé chở 12 người đã may mắn trong biển êm gió lặng sau 7 ngày thì đến Thái Lan, 5 phân vàng mẹ đưa anh đã tặng cho người dẫn đường chiếc ghe nhỏ của anh khi ra đến cửa biển nên anh không có tiền đánh điện tín về nhà ngay. Nhưng anh tin là chờ mong càng dài thì niềm vui mừng càng tràn đầy. Trời ơi, anh Thi đâu biết là anh để cho chờ mong khủng khiếp này dài thêm chút nữa là cả nhà càng thêm sống dở chết dở… Mẹ tôi mỉm cười hạnh phúc trách yêu thằng con trai đang bình yên nơi xa: – Có mấy phân vàng mang theo phòng thân mà cũng cho người ta… – Biết đâu nhờ anh rộng lượng tử tế nên trời thương. Mẹ tôi kể công: – Nhờ mẹ đi coi bói và đi chùa cầu nguyện nữa chứ. Bố tôi phản đối: – Chuyến nào của nó bà chẳng đi coi bói chẳng đi chùa cầu nguyện, vậy mà hai chuyến trước thất bại còn vào tù hơn năm trời. Mẹ tôi bỗng quay ra nhìn tôi và tiếc rẻ: – Nhưng chuyến này Trời Phật thương, biết thế mẹ cho con đi cùng với anh Thi, chẳng tốn thêm tiền lại được thêm một đứa. Bố tôi hù dọa: – Nhưng nếu nó đi thì sẽ thành 13 người là con số không may đấy. Tôi nũng nịu với bố mẹ: –
Thôi, mẹ đã bảo con gái… không quan trọng mà. Anh Thi đi được là cả
nhà mình trút được gánh nặng sầu lo, con cũng đang sung sướng hạnh phúc
lắm đây…. Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |