Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 16/Apr/2021 lúc 9:26am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Apr/2021 lúc 9:27am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 19/Apr/2021 lúc 9:15am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 20/Apr/2021 lúc 10:59am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 21/Apr/2021 lúc 8:04am |
LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM
MẸ VIỆT NAM ơi
* Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng * Bao nhiêu năm – em bán hình hài * Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ * Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm * MẸ VIỆT NAM ơi * Nhưng một ngày mai: * Lời trần tình bao nhiêu năm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 21/Apr/2021 lúc 9:52am |
“Vâng! chúng tôi hãnh diện đã có một cấp chỉ huy như thế!” (Viết để tưởng niệm Đại Tá Nguyễn Bá Thịnh)
Sau Tết Mậu Thân, khi vừa
đánh thắng nhiều trận lớn, giải tỏa thành phố Phan Thiết trong vòng vây
và tiêu diệt toàn bộ đám Cộng quân xâm nhập, đơn vị tôi đón mừng một vị
trung đoàn trưởng mới. Ông được Đại Tá Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn
xin bổ nhậm và đích thân đưa đến bản doanh của Trung Đoàn tại Sông Mao,
để bàn giao với vị tiền nhiệm. Ông đến nhậm chức với duy nhất một cái
“xắc ma-ranh” vác trên vai, trông giống như anh chàng tân binh vừa lãnh
quân trang ở một quân trường nào đó.
Buổi lễ bàn giao đơn giản
nhưng rất trang nghiêm, dưới sự chủ tọa của vị Tư Lệnh Sư Đoàn. Sau khi
tiễn đưa ông cựu trung đoàn trưởng theo ông Tư Lệnh lên trực thăng bay
đi, tất cả được lệnh “thao diễn nghỉ” để nghe vị tân Trung Đoàn Trưởng
ban chỉ thị:
Điều trước tiên mọi người
lưu ý là ông rất nhỏ con, nhưng đôi mắt sáng quắc, có nhiều uy lực,
tướng đi nhanh nhẹn. Tóc cắt ngắn ba phân, để lộ từ trên đầu sau vành
tai bên trái một vết sẹo láng bóng làm tăng thêm cái uy dũng của một
người từng dạn dày trận mạc.
Sau khi được vị trung
đoàn phó trình diện hàng quân, ông đi quanh một vòng bắt tay các sĩ quan
thuộc bộ chỉ huy trung đoàn và các đơn vị trưởng. Ông đi đứng, bẻ góc,
dậm chân, đằng sau quay, và chào hỏi rất đúng quân cách. Bọn tôi không
mấy ngạc nhiên vì đã được biết, trước khi thuyên chuyển về đây, ông từng
là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn SVSQ của Trường Võ Bị QGVN, một quân
trường nổi tiếng tại Vùng Đông Nam Á. Nhưng ngay sau đó ông lại làm
chúng tôi ngạc nhiên với câu hỏi đầu tiên của ông:
-Các anh có biết tôi đi lính từ cấp bậc gì không?
-Thiếu úy! – một sĩ quan lên tiếng.
-Sai!
-Trung sĩ! – một sĩ quan khác trả lời
-Cũng sai!
-Binh nhì – một anh tiểu đoàn trưởng, tốt nghiệp từ Trường Võ Bị, tỏ ra biết ít nhiều về ông.
Nhưng rồi tất cả, từ quan tới lính, đều ngơ ngác khi nghe ông bảo:
-Cũng chưa đúng!
Im lặng một lúc, để gợi thêm sự tò mò, ông lên giọng nói lớn:
-Binh ba!
Rồi tự giải thích:
-Đúng như thế! Binh
nghiệp của tôi đi lên từ cấp “binh ba”.Vì khi vào lính nhảy dù, tôi chưa
được cho đi đánh nhau mà phải làm hỏa đầu quân, tức là thằng nấu bếp,
rồi sau đó làm “ô đô” cho ông đại đội trưởng Đỗ Cao Trí.
Giải thích xong, ông ngẫng mặt lên và cao giọng:
-Tất cả các anh nên hãnh diện là đang có một cấp chỉ huy như thế!
Phải công tâm mà nói, từ
khi ông về chỉ huy, Trung Đoàn đã thay đổi khá nhiều, từ cách tổ chức,
sinh hoạt tới chiến thuật phòng thủ, hành quân. Nhưng song song với việc
tạo cho đơn vị một khí thế mới để vươn lên, trở thành đơn vị ưu tú với
nhiều chiến công hiển hách, ông cũng đã để lại rất nhiều giai thoại, mà
đến hôm nay, mỗi lần anh em cùng đơn vị xưa có dịp gặp nhau luôn nhắc
tới. Ngày xưa, đó chỉ là những mẩu chuyện vui để cùng cười, nhưng bây
giờ tất cả trở thành những kỷ niệm mang theo nhiều cảm xúc.
Trước tiên phải công nhận
là ông rất liêm khiết, công minh. Ngay cả cái xe jeep của ông cũng đích
thân ông ký giấy nhận xăng, và mỗi khi xong công việc, tài xế đưa ông
về trước tư thất rồi quay lại đậu trước văn phòng. Vợ con ông không được
phép ngồi trên xe, chứ đừng nói đến việc xử dụng. Ông không hề dùng một
người lính nào cho gia đình hay trong công việc riêng.
Trong đơn vị có anh Hoàng
Văn An, sau khi tốt nghiệp Khóa 20 VB cũng được bổ sung về Trung Đoàn.
Anh An là em (thúc bá) của vợ ông. Khi anh An còn là SVSQ thì ông đang
là Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ. Một lần đi phép về trễ một ngày, anh An bị
ông gọi lên văn phòng bảo: “Nếu là SVSQ khác tôi tha, nhưng vì chú là em
nên tôi phạt chú 7 ngày trọng cấm!” (Sau này anh An cho biết đó là 7
ngày trọng cấm duy nhất trong hồ sơ quân bạ của anh)
Với các sĩ quan già, ông
xưng hô “ông, tôi”, nhưng với mấy thằng sĩ quan trẻ như bọn tôi, ông chỉ
gọi “mày” hoặc “chú mày” và xưng “tao” như em út trong nhà. Sau một
cuộc hành quân, ông thường mời tất cả sĩ quan thuộc BCH Trung Đoàn và
các đơn vị đóng chung quanh, dùng cơm với ông. Điều đặc biệt là đích
thân ông đi chợ, lựa và mua cá, mua rau. Món ông thích nhất là cá rô
chiên. Được ông mời ăn cơm phải nói là một cực hình. Nhưng không ai có
thể vắng mặt bởi ông sẽ điểm danh. Nói là mời nhưng phải xem đó là lệnh.
Trong bữa ăn ông thường luận về các món ăn dân giả và cách nấu nướng.
Có một lần anh đầu bếp không hiểu ý của ông, đánh vảy, chặt vi mấy con
cá rô, chiên vàng xong mang bày lên bàn, bay mùi thơm phức, nhưng rồi
bọn tôi bất ngờ tròn mắt, khi ông ném cả đĩa cá vào sọt rác và la cho
một trận! Ông bảo, con cá rô mà mất vảy và cái vi thì còn ăn cái gì?
Lâu lâu ông cũng mời một
số sĩ quan tham mưu cũng như các tiểu đoàn trưởng đến tư thất của ông
dùng cơm. (Tư thất là một villa khá đẹp nằm trong doanh trại do Sư Đoàn 5
của Đại Tá Wòng A Sáng để lại). Các bữa cơm do chính tay vợ chồng ông
nấu nướng. Điều làm chúng tôi ái ngại nhất, là phu nhân của ông không
được ngồi chung mà là người hầu bàn. Hầu bàn chính hiệu chứ không phải
làm cảnh. Bà đứng sau lưng, rót nước, xới cơm vào bát và đưa cả từng tấm
giấy lau miệng cho “thực khách”. Bà là một người đàn bà có nhan sắc,
phúc hậu và là một “phu nhân” hiếm hoi mà tôi đã gặp trong cuộc đời binh
nghiệp. Bà không hề biết (và có lẽ không được quyền biết) bất cứ điều
gì của đơn vị. Cả đám sĩ quan bọn tôi ngồi trong bàn ăn, bà không biết
cả tên và ai đang giữ chức vụ gì. Chúng tôi rất nể phục bà, nhưng cũng
thấy tội nghiệp cho bà. Lúc ấy tôi thầm nghĩ, giá mà vị “phu nhân” nào
cũng như bà thì quân đội và đất nước mình có lẽ đã khá hơn.
Trong bữa ăn, ông cũng thường kể về cuộc đời và binh nghiệp của mình, đôi lúc có chút xúc động nhưng luôn với niềm hãnh diện:
-Các anh biết tại sao tôi nhỏ con như vầy mà được đi lính nhảy dù không?
-Có lẽ trung tá nhanh nhẹn và gan dạ! – một sĩ quan trả lời
Ông cười, xuống giọng:
-Gan dạ cái con khỉ! Quê
tôi ở tận Hòa Bình, ngoài Bắc. Lúc nhỏ nhà nghèo. Sau khi học hết bậc
tiểu học, tôi phải tạm ở nhà phụ bố ra đồng. Một hôm, lúc trời chạng
vạng tối, lùa trâu về chuồng, phải qua một con sông khá lớn. Khi ngồi
trên mình một con trâu để nó bơi, tôi bất ngờ thấy một đám người lố nhố
ẩn núp dưới mấy lùm cây bên bờ sông. Họ có cả súng. Tôi biết là đám Việt
Minh, nên giả vờ la hét đàn trâu, như không nhìn thấy gì. Khi qua sông,
tôi tìm đến cái đồn lính nhảy dù đóng bên kia, nói tiếng Tây với thằng
lính gác, đòi gặp ông đồn trưởng. Tôi báo cho ông biết là bên kia sông
có rất nhiều lính Việt Minh, có lẽ họ chuẩn bị tấn công đồn lính nhảy dù
của ông đêm nay. Tôi được ông quan ba trưởng đồn thưởng cho mấy thùng
bánh biscuit và hỏi con cái ai, nhà cửa ở đâu. Tối hôm đó, tôi nghe
tiếng pháo dội xuống bên kia sông. Sáng hôm sau nghe tin một số lớn lính
Việt Minh bị chết, số còn lại bị quân nhảy dù vây bắt. Sau chiến thắng
lớn này, tôi được ông quan ba đồn trưởng cho người gọi vào và bảo ông
muốn thưởng công cho tôi, hỏi tôi thích cái gì ông sẽ cho. Tôi bảo, tôi
chỉ muốn đi lính Nhảy Dù. Vậy mà ông gật đầu ngay. Thế là tôi trở thành
thằng lính Nhảy Dù! Sau đó, tôi được bổ sung về đại đội do một sĩ quan
Viêt nam làm đại đội trưởng. Đó là Trung Úy Đỗ Cao Trí. Thấy tôi nhóc
con, nên ông đại đội trưởng cho tôi vào toán đầu bếp, và sau đó lấy tôi
theo làm “ô đô” cho ông. Trong một lần bị phục kích, địch tràn cả vào
ban chỉ huy đại đội, tôi xông vào đánh cận chiến, giết chết mấy thằng,
giải vây cho ông. Tôi được lên hạ sĩ và trở thành “gạc đờ co” của ổng.
Khi lên Đại úy đi làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 19 Việt Nam (tiền thân
của Tiều Đoàn 6 Nhảy Dù), ông dắt tôi theo làm tiểu đội trưởng thám báo,
đánh bao nhiêu trận ngon ơ, được lên hạ sĩ nhất, rồi trung sĩ. Sau này
chính ông giới thiệu, để tôi được nhận vào Khóa 9 Trường Võ Bị Liên Quân
Đà Lạt.
Giống như Tướng Đỗ Cao
Trí, ông rất lưu tâm tới hàng hạ sĩ quan (từ cấp bậc hạ sĩ). Ông gần
gũi, chăm lo đời sống và thỉnh thoảng tập trung họ lại để nói chuyện,
tâm tình, trao đổi kinh nghiệm chiến trường và việc chỉ huy tiểu đội.
Ông thường bảo chúng tôi:
-Bọn mày phải nâng đỡ đám
hạ sĩ quan này, nhưng cũng phải để ý học hỏi kinh nghiệm của họ. Chính
cấp tiểu đội, trung đội mới quyết định chiến trường!
Ông nói tiếng Anh giọng
Bắc, không giỏi lắm, bất chấp cả văn phạm, nhưng các cố vấn Mỹ đều hiểu
và nể ông ra mặt. Gặp ông là tất cả đứng nghiêm chào. Ông bảo gì họ cũng
nghe. Có lần ông nói thẳng với mấy tay cố vấn Mỹ:
-Các anh đến đây là để
giúp chúng tôi những gì chúng tôi cần, còn chuyện đánh nhau là chuyện
của chúng tôi. Các anh đừng xía vào. Đánh bọn du kích VC mà đánh theo
kiểu Mỹ của các anh là hỏng!
Ông ra lệnh tất cả sĩ
quan phải nói được tiếng Anh. Không biết phải học. Nói sao cho Mỹ nó
hiểu là được. Nhờ vậy mà anh Cố vấn trưởng nghe theo đề nghị của ông, tổ
chức ngay một số lớp dạy Anh văn cho tất cả các sĩ quan, đặc biệt về
phương pháp đàm thoại và cách liên lạc, hướng dẫn các phi công oanh tạc
cơ của Hoa Kỳ.
Bản doanh Sông Mao nằm
giữa Phan Rang và Phan Thiết, nhưng đường bộ mất an ninh. Ông muốn mỗi
tuần phải có hai chuyến Chinook để chở lính đi phép và cho gia đình binh
sĩ được ra phố mua sắm, học hành. Vậy mà chỉ mấy ngày sau là anh Cố vấn
trưởng lo xong.
Không biết vì sao Tướng
Peers, Tư Lệnh Các Lực Lượng Quân Sự Mỹ tại Cam Ranh, biết thành tích
đánh giặc và cả sự liêm khiết của ông, nên lâu lâu ghé lại Trung Đoàn
thăm và hàn huyên với ông. Tướng Peers thường đưa ngón tay cái lên nói
đùa với bọn tôi: các anh có một ông “boss” rất tuyệt vời!
Đầu năm 1969, trong kế
hoạch “tự lực tự cường”, Bộ TTM ban hành chỉ thị, mỗi đơn vị phải thành
lập một trại chăn nuôi, Trung Đoàn có một trại chăn nuôi khá lớn, do một
vị thiếu úy lớn tuổi (thăng tiến từ cấp binh sĩ) trông coi với hơn 20
lao công đào binh. Trại chăn nuôi thống thuộc Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ.
Một hôm cả BCH Trung Đoàn
và các sĩ quan từ cấp đại đội trưởng trở lên, được Ông Tỉnh Trưởng Bình
Thuận mời khoản đãi vì Trung Đoàn vừa phối họp với Tiểu Khu trong một
chiến dịch bình định, đánh tan các đơn vị Cộng quân hoạt động trong phạm
vi của tỉnh. Tất cả tập trung tại Căn cứ Trinh Tường (Trung Đoàn dùng
làm hậu trạm) để đi đến tòa tỉnh. Trên đường đi, ông bất ngờ thấy bên vệ
đường có một người đang thả heo giống. Ông ra lệnh dừng lại, xuống xe
và đứng xem. Bọn tôi rất ngượng ngùng còn ông thì cứ tỉnh bơ quan sát.
Cuối cùng ông khen con heo (đực) tốt và ra lệnh cho anh trung úy đại đội
trưởng CHCV thương lượng với người chủ để mướn. Sau buổi tiệc ông dùng
trực thăng cho anh đại đội trưởng chở con heo và người chủ bay về hậu cứ
Sông Mao để gây giống cho trại heo. Chúng tôi có một trận cười đến nôn
ruột, và thấy tội nghiệp cho anh đại đội trưởng rất “mô phạm” vì là một
giáo sư trung học bị đông viên vào Khóa 16 Thủ Đức. Nhưng sau này trại
heo đã thu nhiều lợi nhuận vì sản sinh rất nhiều heo con béo tốt. Được
chọn là trại chăn nuôi “kiểu mẫu” của Quân Đoàn II&QK2. Chúng tôi
càng kính phục ông hơn.
Vào khoảng giữa năm 1969,
Ban Truyền Tin nhận một cuộc điện thoại (qua hệ thống siêu tần số) trực
tiếp từ văn phòng Đại Tướng Cao Văn Viên, TTMT, lệnh cho Trung Đoàn,
cho xe ra sân bay Sông Mao để đón một vị trung tá, thuyên chuyển đặt
thuộc quyền xử dụng của Trung Đoàn. Thấy một việc bất thường, ông Trung
Đoàn Trưởng gọi lại, thì được văn phòng TTMT cho biết: “đó là Trung tá
Đào Văn Hùng, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù. Ông uống rượu ngà ngà say, đến tìm
Đại Tướng để phản đối về việc xử dụng Nhảy Dù của ông không đúng chỗ.
Ông khá thân thiết và được đại tướng Viên trọng nể khi còn ở Nhảy Dù.
Thấy ông say và lớn tiếng, Đại Tướng bỏ đi ra ngoài, ông Trung tá Nhảy
Dù (có lẽ do say quá) la hét một chặp rồi cởi bộ đồ nhảy dù vất trên bàn
bảo trả lại cho Đại Tướng. Đại Tướng giận quá, ra lệnh dùng máy bay
riêng của Đại Tướng và cho hai Quân Cảnh“áp tải” ông thẳng ra Sông Mao
giao cho Trung Đoàn. Lệnh bổ nhiệm sẽ do Phòng Tổng Quản Trị gởi đến
sau. Máy bay đã cất cánh hơn nửa tiếng rồi.”
Ông Trung Đoàn Trưởng vội
vàng ra lệnh cho các sĩ quan thuộc BCH tháp tùng ông ra phi trường chào
đón Trung tá Hùng, ông cũng cho gọi cả anh lính kèn đi theo. Khi máy
bay đáp xuống, Ông và tất cả sĩ quan đứng thành một hàng dọc, đích thân
ông chỉ huy dàn chào, có cả kèn thổi “nghênh đón thượng cấp”. Điều đặc
biệt làm chúng tôi ngạc nhiên hơn là ông đứng nghiêm trình diện Trung tá
Hùng, với cả cấp bậc, số quân, như một tân binh hay một SVSQ trong quân
trường:
-Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh, số quân 48/300340 trình diện Trung Tá!
Vẫn trong thế đứng
nghiêm, ông mời Trung Tá Hùng lên xe ông, còn ông thì đi chung xe với
chúng tôi về doanh trại. (Tôi chưa thấy ông lái xe bao giờ). Đến nơi,
ông hướng dẫn Trung tá Hùng lên nghỉ ngơi uống nước tại văn phòng Trung
đoàn trưởng. Ra lệnh cho anh Đại đội trưởng CHCV sang tư thất của ông,
cùng ông đích thân dọn dẹp và dành căn phòng của vợ chồng ông cho Trung
tá Hùng. Ông bà dọn sang phòng nhỏ phía sau. Nhưng khi ông sang mời
Trung tá Hùng về tư thất, thì Trung tá Hùng quyết liệt từ chối, bảo ông
chỉ xin một cái ghế bố và sẽ ở trong Trung Tâm Hành Quân (Trung Đoàn có
một TTHQ khá lớn và kiên cố).
Bọn tôi bàn tán với nhau,
không ai hiểu cung cách đối xử kỳ lạ của hai ông trung tá. Ông Trung
Đoàn trưởng thì lại đứng nghiêm đưa tay chào từ xa, mỗi lần gặp ông
Trung tá vừa thuyên chuyển tới đặt dưới quyền chỉ huy của mình. Ngược
lại ông Trung tá Nhảy Dù cũng một điều kính thưa, hai điều kính thưa ông
Trung tá Trung đoàn trưởng?
Đến chiều, Trung Tá Thịnh
ra lệnh cho anh đại đội trưởng ĐĐCH đích thân sang tư thất của ông mang
cơm chiều sang cho Trung tá Hùng. Lúc ấy ông gọi chúng tôi lại để dặn
dò:
-Các chú mày phải lễ phép
và lo lắng thật chu đáo cho Trung Tá Hùng. Ông là ông Thầy của tao.
Ngày trước khi ông là đại đội trưởng Nhảy Dù, thì tao là thằng Hạ sĩ 1
mang máy và làm tiểu đội trưởng cho ổng. Ổng đánh giặc khỏi chê, nổi
tiếng từ thời Pháp cho đến bây giờ. Mấy thằng Tây, kể cả sĩ quan, mà lôi
thôi là bị ông chửi như tát nước vào mặt. Khi Đại Tướng Cao Văn Viên
còn trung tá, làm Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù thì ông Hùng đã là một tiểu
đoàn trưởng xuất sắc mà ông Viên rất nể nang.
Ông không giao cho Trung
tá Hùng bất cứ công việc gì. Nhiều lần Trung tá Hùng yêu cầu phải giao
cho ông một công việc, bất cứ việc gì cũng được. Nhưng ông Trung đoàn
trưởng lại đứng nghiêm:
-Xin Trung tá làm cố vấn cho tôi.
Trung tá Hùng lại dậm chân, than phiền:
-Tớ đi lính là để đánh giặc chứ đếch biết làm cố vấn cố véo gì sấc! Trung tá quên tớ là thằng “Cai Hùng” Nhảy Dù à?
Ông Trung đoàn trưởng lại đứng nghiêm:
-Thôi, xin Trung tá thấy thích làm cái gì thì làm!
Cuối cùng Trung tá Hùng
nhận một công việc không có trong bản cấp số: Sĩ quan thường trực tại
Trung Tâm Hành Quân. Ăn ngủ tại chỗ. Có mặt 24/24!
Kể từ hôm ấy, Trung Tá Thịnh cũng cho kê một cái ghế bố trong TTHQ để ngủ với Trung Tá Hùng.
Một hôm, vào khoảng 2 giờ
sáng, Việt Cộng pháo kích vào BCH Trung Đoàn. Nhờ có máy nhắm hồng
ngoại tuyến mới được trang bị, một vọng gác phát hiện đặc công xâm nhập
vào doanh trại. Ông giao việc điều động cho Trung Tá Hùng, rồi đích thân
chỉ huy hai toán Viễn Thám đi lùng, giết hơn 20 tên đặc công bằng lựu
đạn và bắt sống 3 tên khác, đang tìm cách chui qua hàng rào phòng thủ.
Trung tá Hùng thì leo lên nóc TTHQ lắng nghe tiếng “depart” để xác định
vị trí súng cối địch, cho Pháo Binh phản pháo chính xác, sau đó 2 chiếc
cobra do cố vấn Mỹ điều động kịp thời đến mục tiêu xạ kích. Đại Đội
Trinh Sát được lệnh truy kích, thu được 2 súng cối 82 ly, 2 ống phóng
hỏa tiễn và một số súng cá nhân, hơn 15 xác địch còn bỏ lại trận địa.
Trận phản công chớp nhoáng và chính xác với thắng lợi hoàn toàn, bên ta
vô sự. Đúng là chiến công của hai ông trung tá gốc Nhảy Dù!
Những lúc tâm tình với chúng tôi, Trung Tá Hùng cũng đã hết lời ngợi ca Trung Tá Thịnh. Ông thường bảo:
-Ông Trung đoàn trưởng là
một tay đánh giặc rất “lì” và chỉ huy rất “chì” trong binh chủng Nhảy
Dù. Trong cấp tá, ông là người có nhiều huy chương nhất, chỉ sau ông Sơn
Thương. Hình như trên 20 cái nhành dương liễu, sao vàng sao bạc đếm
không hết, còn chiến thương bội tinh thì cũng hơn 10 cái!
Rồi ông đùa:
-Bao nhiêu lần đã tưởng ông đi đứt, nhưng có lẽ nhờ nhỏ con quá nên đạn bắn không trúng!
Khoảng hai tháng sau,
chiếc máy bay riêng của Đại Tướng Cao Văn Viên bay trở lại Sông Mao. Lần
này thay vì hai anh Quân Cảnh, thì chở theo hai sĩ quan Nhảy Dù để đón
Trung tá Đào Văn Hùng về lại Sư Đoàn Dù. Nhưng chỉ sau đó một thời gian,
(chính Trung tá Thịnh cho biết), ông bị ra khỏi binh chủng, về một đơn
vị bộ binh, rồi bị tai nạn xe hơi nên mù mắt và ngã bệnh đến gần như mất
trí nhớ.
Tr. Tá Đào Văn Hùng
Sau này, bọn tôi được
biết Trung tá Đào Văn Hùng cũng là một người rất đặc biệt đã tạo nhiều
giai thoại trong binh chủng Nhảy Dù. Ông là sĩ quan lớn tuổi và rất thâm
niên trong Nhảy Dù, thường thích nhận mình là “Cai Hùng”, như niềm hãnh
diện về một thời trai trẻ khi còn là một anh hạ sĩ trong lực lượng nhảy
dù Pháp, và người ta đặt thêm cho ông cái tên “Hùng Gà” vì ông rất mê
đá gà. Những năm giữa thập niên 1960, ông đã từng là Lữ Đoàn Trưởng có
tiếng của Nhảy Dù.
Thời Trung Tá Nguyễn Bá
Thịnh làm trung đoàn trưởng, Tướng Trương Quang Ân là Tư Lệnh Sư Đoàn.
Có lẽ vừa là niên đệ từ trường VBLQĐL lại vừa là đàn em trong binh chủng
Nhảy Dù, nên ông rất kính nể và luôn đề cao Tướng Ân. Ngày 8.9.1968 ,
khi Tướng Ân bị hy sinh cùng phu nhân trong một tai nạn phi cơ ở Đức
Lập, BCH Trung Đoàn đang đóng ở Cà Ná, chỉ huy cuộc hành quân trong vùng
ranh giới hai tỉnh Ninh Thuận- Bình Thuận. Khi nghe tin, Trung Tá Thịnh
bật khóc và than thở tiếc nuối một vị tướng tài – chuyện rất hiếm hoi
đối với một mẫu người cứng cỏi như ông- . Thấy vậy, tôi an ủi:
-Thôi, trung tá đừng buồn tiếc nữa. Một con én đâu có làm được một mùa Xuân!
Ông trợn mắt, nhìn tôi, quát:
-Mày ngu thế! Ít ra trong mùa Xuân cũng còn có được một con én chứ!
Cả bọn chúng tôi bụm miệng cười. Lần đầu tiên nghe ông nói một câu văn hoa như thế!
Nhờ mắng tôi, nên ông hết
khóc. Ông rủ tôi và anh trung tá cố vấn Mỹ, gọi mấy chú lính hộ tống,
theo ông ra bờ biển phía trước, bên một ghềnh đá, mà ông bảo là vô số cá
đang tập trung trú ẩn ở đó. Anh cố vấn Mỹ không tin và hỏi xin ông cho
đích thân anh ném thử một trái lựu đạn. Ông lưỡng lự rồi gật đầu. Có lẽ
đây là một quyết định ngoại lệ so với bản tính nghiêm khắc cố hữu của
ông. Và quả đúng như ông nói, đám lính và cả anh trung tá Mỹ lặn xuống
bắt cả mấy trăm ký cá mang về. Sau khi chia cho các tiểu đoàn, ông đích
thân chỉ huy làm mấy món cá đãi cả BCH Trung Đoàn, Toán cố vấn Mỹ và Đại
Đội Trinh Sát.
Sau ngày Tướng Trương
Quang Ân mất, ông tỏ ra chán nãn. Ông được Tướng Đỗ Cao Trí kéo về Quân
Đoàn III/ Vùng 3 CT và dự định đề cử giữ chức tỉnh trưởng nào đó. Ông
cho bọn tôi biết rồi bảo:
-Tớ có nhiều chữ nghĩa gì
đâu mà làm quận với tỉnh. Đi lính là để đánh giặc. Trường Võ Bị có dạy
ai đi làm tỉnh trưởng đâu. Tớ vẫn thích nắm trung đoàn.
Hôm rời Trung Đoàn, ông
cũng chỉ vác theo một cái “xắc ma-ranh” như hồi ông đến. Tất cả chúng
tôi thật cảm động và tiêc nuối khi phải chia tay ông. Một cấp chỉ huy
thanh liêm, bình dân, gan dạ. Khi bắt tay tôi, ông khen “ chú mày khá
lắm” và rơm rớm nước mắt. Trước đây, không ai nghĩ một người cứng rắn,
đanh thép như ông lại giàu tình cảm với đàn em, thuộc cấp mà ông đã giấu
kỹ trong lòng.
Sau đó, ông về làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18BB.
Không biết ở đơn vị mới
này ông có thay đổi ít nhiều gì không. Tôi chỉ còn nhớ, có lần báo Sóng
Thần “đánh” Tướng Trí về một vụ gì đó. Ông lên tiếng hết mình bênh vực
và ca ngợi Tướng Trí, bị báo chí mỉa mai gọi ông là “Chuẩn Đại Tá”. Ông
chửi thẳng thừng: đám báo chí này bố láo! Chẳng biết tí gì về Tướng Trí,
chỉ giỏi nằm nhà khoác lác! Với Tướng Trí thì đừng có giỡn mặt!
Mới biết ông, ai cũng
nhìn thấy ở ông sự cứng cỏi, nghiêm khắc, nhưng khi đã thân tình mới
biết là ông cũng rất vui, thích đùa cợt. Có lần anh Hoàng Văn An (Khóa
20VB) kể lại: Năm 1970, An đang làm việc tại Sài gòn, được Trung Tá
Thịnh cho vợ chồng anh được xử dụng căn cư xá của ông nằm trong Trại Đào
Bá Phước, vì đơn vị của anh trú đóng gần nơi này. Một hôm Trung tá
Thịnh đến thăm và rủ An đến thăm Tướng Đỗ Cao Trí và ông cụ Đỗ Cao Lụa,
thân phụ của Tướng Trí. Ông cụ quý mến Trung Tá Thịnh như là em út trong
nhà.
Trên đường đi, Trung tá Thịnh cười, bảo anh An:
-Hôm nay chú mày sẽ được Tướng Trí rót rượu mời đấy!
Biết tính ông anh rể của
mình ưa đùa, anh An chỉ cười. Khi bước vào nhà Tướng Trí, chỉ có Cụ Lụa
đón chào vui vẻ. Nói chuyện một chặp, Tướng Trí về với đầy đủ quân phục
và cấp bậc 3 sao trên cỗ áo. Tướng Trí vừa chào ông cụ và hai người
khách, ông cụ bảo:
-Trí! Mày đi rót mấy ly rượu mang đến đây.
Tướng Trí là một đứa con
chí hiếu và lễ phép. Rót 3 ly rượu whisky mang đến mời ông cụ cùng cả
Trung tá Thịnh và anh An. An mặc thường phục và được Trung tá Thịnh giới
thiệu là em vợ. Anh An bắt tay Tướng Trí mà thấy “run” trong lòng.
Trên đường về, ông bảo An:
-Chú mày thấy tao nói có đúng không? Quan ba mà được Tướng Trí bưng rượu mời, sướng nhé!
Một lần, nhân dịp anh cố
vấn trưởng bay vào Sài gòn họp, chúng tôi theo trực thăng đáp xuống thăm
ông ở Đồi Phượng Vỹ (Doanh Trại Trung Đoàn 52) sau khi ông vừa trở về
từ chiến trường Cam Bốt. Ông mời bọn tôi uống rượu. Khoe đây là loại
rượu đặc biệt, hảo hạng, có tiền không mua được. Ông kể lại chuyện ông
chỉ huy Chiến Đoàn 52, sang hành quân “giải tỏa” Kampong Chàm. Thành phố
sầm uất thứ nhì của Cam bốt sau Nam Vang. Khi chiến dịch kết thúc thắng
lợi, ông được ông In Tam, thị trưởng (sau này có thời là Thủ Tướng của
Cam Bốt) làm lễ đón tiếp ông long trọng như một vị anh hùng. Ông được
mời vào dinh thết đãi, trước một đội vũ công toàn là những cô con gái
đẹp. Ông thị trưởng InTam bảo nhỏ, ông thích cô nào cứ chọn, ông nghiêm
mặt lắc đầu. Ông thị trưởng cho cận vệ mang đến cho ông một xách
Samsonite chứa đầy tiền. Ông bảo ông là một cấp chỉ huy của Quân đội
VNCH thi hành nhiệm vụ, chứ không phải lính đánh thuê. Cuối cùng để làm
vui lòng ông thị trưởng, ông theo xuống hầm rượu và lấy 6 chai rượu hảo
hạng.
Ông kể lại rồi cười:
-Thấy gái đẹp và tiền từ
trên trời rơi xuống thằng nào chả ham, nhưng lỡ đã đóng vai anh hùng rồi
mà đưa tay lấy thì còn ra thể thống gì!
Bọn tôi chọc ông, bảo là
“Chef hơi quân tử tàu! Cứ xách cả hai thứ về đây thì bây giờ thầy trò
mình lên hương và khắm khá rồi!”. Ông vỗ đùi cười. Lúc này trông ông
thấy hiền khô.
Ngày 23.2.1971 nghe tin
Tường Đỗ Cao Trí tử nạn, chúng tôi chắc chắn Trung Tá Thịnh buồn lắm.
Không biết ông có khóc và tiếc thương như lúc ông nghe tin Tướng Trương
Quang Ân hy sinh gần ba năm trước?
Vào đầu tháng 4.1972, tôi
nghe tin ông chỉ huy Chiến Đoàn 52 (-) chỉ có 2 tiểu đoàn và đại đội
Trinh Sát, đã rất khôn khéo và dũng cảm điều động phản công một cuộc
phục kích qui mô của hơn hai trung đoàn địch tại khu vực Cần Lê (15 cây
số Bắc An Lộc). Một cuộc phản công đẫm máu kéo dài gần bốn ngày trên một
tuyến phục kích dài hơn ba cây số, mà địch chiếm hoàn toàn ưu thế về cả
quân số cũng như địa thế. Cuối cùng Chiến Đoàn của ông đã gây tổn thất
nặng nề cho địch và vượt khỏi vòng vây. Vị Trung Tá Cố Vấn Mỹ, tuy bị
thương, nhưng không chịu tản thương, ở lại bên cạnh Trung Tá Thịnh, cùng
chiến đấu và yểm trợ hết mình. Trên nhiều báo chí, có bình luận về
chiến công này và đã dành cho ông nhiều lời khen ngợi: “Trung Tá Nguyễn
Bá Thịnh, gốc Nhảy Dù, là cấp chỉ huy tài giỏi, biết linh hoạt ứng phó
trong mọi hoàn cảnh và trạng huống, về kỹ thuật lãnh đạo chỉ huy, ông
rất được lòng các cấp dưới quyền và toàn thể các Cố vấn Mỹ thật tình
kính nể mến thương. Trung Tá Walter D. Ginger, Cố vấn trưởng, dù đã bị
thương, nhưng từ chối tản thương, vẫn tình nguyện ở lại sống chết với
Trung Tá Thịnh cùng đơn vị bạn đồng minh của mình.”
Tháng 6.1972 ông được đặc
cách thăng cấp đại tá và sau đó một thời gian nhận lệnh thuyên chuyển
về Trường Võ Bị Đà Lạt để làm Tham Mưu Trưởng. Đến cuối năm 1973, ông
lại nhận lệnh thuyên chuyển về Trường Chỉ Huy Tham Mưu đảm trách chức vụ
Trưởng Khôi Giám Sát Các Lớp. Khi ấy, trường vừa ổn định sau khi từ Đà
Lạt chuyển về Long Bình để tiếp nhận một khu doanh trại rất khang trang
của Quân Đội Hoa Kỳ giao lại.
Đầu năm 1974, nhân dịp
theo học một khóa tham mưu tại Huấn Khu Long Thành, tôi đến thăm ông, và
bất ngờ gặp thêm một ông trung đoàn trưởng cũ khác nữa, Đại Tá Trần
Quang Tiến. Hai ông ở chung trong một cái bunker (rất đẹp và đầy đủ
phương tiện của một sĩ quan cao cấp Mỹ để lại). Ông nhất định tự tay làm
cơm đãi tôi. Tôi ái ngại, xin phụ một tay, nhưng ông nghiêm mặt trợn
mắt nhìn tôi:
-Mày là khách của chúng tao. Chớ có lộn xộn.
Ông bảo Đại tá Tiến nấu
cơm và hái rau (do ông trồng), rồi rủ tôi mang cái vợt đi theo ông ra
mấy trụ đèn điện phía trước để bắt con cà cuống. Ông bảo:
– Món này mà thiếu mấy giọt cà cuống là vất đi!
Lúc nào cũng vậy, ông hãnh diện về cái tài nấu nướng còn hơn cả tài đánh giặc và chỉ huy đơn vị của ông.
Đúng là thức ăn ông nấu
rất ngon, nhưng ngồi ăn với hai ông Thầy cũ tôi không thoải mái lắm. Nhớ
tới ngày xưa, khi ông còn ở Trung Đoàn, mỗi lần được ông mời ăn cơm là
bọn tôi cảm thấy như… hết đói!
Ông dặn tôi, cứ cuối tuần
lại ở đây chơi với ông. Có hôm ông còn dắt tôi đến chào Tướng Phan
Trọng Chinh, Chỉ Huy Trưởng. Đó cũng là lần duy nhất tôi được gặp vị
Tướng nổi danh này. Cùng gốc Nhảy Dù, nên Tướng Chinh có vẽ rất thân
thiện và quý mến ông
Một thời gian, sau khi
tôi rời khỏi Long Thành trở về đơn vị, thì ông cũng đi lãnh một trách
nhiệm mới: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp.
Năm 2003, nhân dịp từ Bắc
Âu sang Cali thăm mấy đứa con đang theo học ở đây, tôi rủ vài thằng bạn
cùng đơn vị cũ đến thăm ông. Ông vui lắm. Bây giờ tuổi đã khá cao,
người ông trông càng nhỏ lại, nhưng tiếng nói vẫn đanh thép, đôi mắt vẫn
sáng quắc, nhanh nhẹn như xưa. Và đặc biệt với phu nhân, ông vẫn tỏ ra
uy quyền như lúc trước. Ông gọi bà từ nhà sau lên chào chúng tôi, rồi
bảo:
-Bà xuống lo mấy cái mâm nhang đèn, chút nữa đi lễ chùa, để bọn tôi nói chuyện!
Vốn đã nghèo, sang Mỹ ông
càng trắng tay. Dù khá lớn tuổi ông vẫn đi làm cho đến khi về hưu. Cũng
như ngày xưa khi còn trong lính, bây giờ dù với những công việc rất tầm
thường nhưng ông luôn vui vẻ và tận tụy làm tròn trách nhiệm. Với bất
cứ ai ông cũng tỏ ra rất tư cách. Hầu hết đồng nghiệp trong sở nghe nói
ngày xưa ông từng là đại tá chỉ huy một trung đoàn tác chiến, họ rất nể
trọng.
Ông bảo bây giờ ông bà ăn
chay. Ông còn mời chúng tôi ngày mai trở lại ông sẽ tự tay nấu mấy món
chay đãi bọn tôi. Bọn tôi tin là ông nấu rất ngon, nhưng thấy tội nghiệp
ông, nên tìm cách chối từ. Chia tay ông, lòng chúng tôi thấy thật buồn
và có chút xót xa, thương cho một con người hiến gần cả một đời cho quân
đội, tạo biết bao chiến công và bao lần sống chết với đất nước, để rồi
về già vẫn phải vất vả với kiếp tha hương.
Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp ông. Ông qua đời sau đó vài tháng, ngày 16.05.2003.
Thời chỉ huy đơn vị chúng
tôi, ông là một vị Trung Đoàn Trưởng tốt. Cương trực, liêm khiết, công
minh, làm việc hết mình. Ông xem đơn vị như là nhà mình và đám sĩ quan
như là em út trong gia đình. Lâu lâu trợn mắt, hò hét la rầy, nhưng rất
thương yêu và không hề phạt thuộc cấp. Điều đáng nhớ nhất, là ông để lại
cho chúng tôi rất nhiều giai thoại, để bây giờ, mỗi lần có dịp gặp
nhau, nhớ tới ông bọn tôi thường kể lại như là những kỷ niệm vui, và
cũng thật dễ thương của một thời binh nghiệp.
Nhớ hôm lễ nhậm chức, sau
khi tự nhận binh nghiệp của mình đi lên từ cấp bậc “binh ba”, ông bảo:
“Các anh nên hãnh diện đang có một người chỉ huy như thế!”
-Thưa vâng! Chúng tôi rất vui và cũng rất hãnh diện đã từng có một ông Thầy như thế. Phạm Tín An Ninh
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2021 lúc 9:52am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 21/Apr/2021 lúc 2:28pm |
Tôi Tham Gia Cứu Người Vượt BiểnHậu
quả của ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cả triệu người Việt bỏ nước ra đi,
tạo nên thảm trạng thuyền nhân kéo dài hơn 15 năm. Hàng trăm ngàn người
đã vùi thây dưới đáy biển trên bước đường tìm tự do. Thảm cảnh chìm ghe
cùng nạn hải tặc đã đánh động lương tâm thế giới. Hai con tàu ân nhân:
Cap Anamur của Đức và Ánh Sáng của hội Médecins du Monde của Pháp xuất
hiện hàng năm ở biển Đông tìm vớt những người vượt biển. Đầu năm 1988 một phái đoàn của hội Y Sĩ Thế Giới (Médecins du Monde) của Pháp sang Montréal. Tôi nhớ hội Y Sĩ VN tại Canada có tổ chức một buổi tiệc tiếp đón họ. Trong phần thuyết trình, ông bác sĩ trưởng phái đoàn ngỏ ý mong muốn mỗi chuyến tàu của hội, khi đến vùng Biển Đông vớt “boat people”, thì trên tàu lúc nào cũng có mặt một bác sĩ Việt Nam cạnh một bác sĩ Pháp. Và sau đó hội Y Sĩ VN tại Canada kêu gọi các đồng nghiệp ghi danh tình nguyện tham gia. Có 5 người ghi tên tình nguyện. Người đứng hàng thứ 5 là tôi. Hôm đó tôi chần chừ một chút vì thấy người không được khỏe với cái tuổi vừa chẵn 50 của mình. Chương
trình ra khơi vớt người vượt biển hàng năm của hội Y Sĩ Thế Giới bắt
đầu từ đầu tháng 4 và kết thúc vào cuối tháng 7. Thời gian này vùng biển
Đông thời tiết tốt cho nên số người vượt biển rất đông. Chiếc tàu được
đưa ra khơi năm 1988 là một chiếc tàu chở hàng nhỏ, chở tối đa 500
người, được một ông tỷ phú người Pháp ở Cannes tài trợ. Đầu
tháng 4 năm 1988, trong chuyến ra khơi đầu tiên, bác sĩ Việt trên tàu
là bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ đi từ California. Sau hai tuần trên biển, tàu
không vớt được ghe vượt biển nào, ông bác sĩ người Pháp trên tàu chịu
không nổi bỏ cuộc, đòi được thay thế sớm. Khi nhận lời tham gia, tình
nguyện viên phải hứa đi bốn tuần. Phía người Pháp đã có bác sĩ chờ đợi
thay thế. Điện tới tấp gọi về Montréal cử người ra thay bác sĩ Kỳ để tàu
tiếp tục đợt hai. Cả bốn tình nguyện viên trước tôi đều từ chối, vì quá
bất ngờ, không kịp chuẩn bị. Còn một mình tôi. Và tôi nhận lời thế bác
sĩ Kỳ. Nhận lời hôm thứ Tư, trưa thứ Năm tôi đã ngồi trên máy bay, từ Montréal liên tục bay qua các phi trường Toronto, San Francisco, Honolulu, Manille để đến Puerto Princesa, thuộc đảo Palawan của Phi Luật Tân. Sau ba ngày chờ đợi ở khách sạn, tôi lên tàu Mary’s Kingstown, rời hải cảng Puerto Princesa, trực chỉ biển Đông. Cũng hai tuần trôi qua, tàu không gặp chiếc ghe vượt biển nào. Tôi chỉ bị một trận say sóng nhưng không mất tinh thần, trong khi tay nhiếp ảnh trẻ người Pháp thì suy sụp tinh thần nặng, nằm lì không ăn không nói, vì anh chưa chụp được tấm ảnh nào của “boat people” để mang về cho sở của anh. Thuyền trưởng cho biết Radar của tàu bị hư nên phải ghé Tân Gia Ba để sửa chữa. Sau hai ngày nằm ở Tân Gia Ba, một hôm điều hợp viên chương trình người Pháp, tên Laurent, gặp tôi và cho biết Paris đã quyết định ra khơi lại lần này, nếu trong tháng 5 mà tàu không vớt được ai, thì sẽ chạy tiếp cho hết tháng 6 rồi chấm dứt chương trình luôn. Vậy tôi phải quyết định, nếu tiếp tục thì phải chấp nhận, nếu cần, đi cho đến hết tháng 6, bằng không Laurent sẽ xin người thay thế tôi và lo việc lấy vé máy bay cho tôi về lại Montréal. Sau một đêm trằn trọc, sáng hôm sau tôi cho Laurent hay tôi sẽ tiếp tục. Tàu rời Tân Gia Ba sau một tuần sửa chữa. Có lẽ trời không phụ lòng thành của tôi, trong hai tuần tiếp theo tàu đã gặp 5 ghe vượt biển, tổng cộng vớt được 327 thuyền nhân. Vớt chiếc ghe đầu tiên tôi gặp một người quen, một đồng nghiệp đàn anh của tôi, bác sĩ Phùng Văn Hạnh. Bác sĩ Hạnh sau này định cư ở Montréal và đã từng là Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Vùng Montréal. Ghe vượt biển thứ hai là một chiếc thuyền buồm chở 81 người đang bị một tàu công an biên phòng VC rượt đuổi. Tàu Mary trương cờ Pháp, chạy tới trước. Kết quả tàu Mary vớt được 81 thuyền nhân, tàu công an vớt được chiếc thuyền buồm. Ghe vượt biển thứ năm được vớt trong một trường hợp hy hữu. Trong đêm tối, tài công của ghe này thấy bóng của tàu Mary từ xa đang tiến tới, tưởng là tàu VC nên xả hết tốc lực mong chạy thoát. Không ngờ bị cháy máy tàu, đành nằm im chờ bị bắt. Khi tàu Mary lại gần, rọi đèn pha, tôi cầm loa lớn tiếng hỏi: “Có phải ghe vượt biển không?” Có tiếng ngập ngừng trả lời: “Không phải ghe... vượt biển.” Tôi nói tiếp: “Đây là tàu Pháp đi cứu người vượt biển. Nếu đúng là ghe vượt biển, xin xác nhận, tàu chúng tôi sẽ vớt.” Sau câu nói của tôi, 75 người núp dưới mui ghe lần lượt chui ra. Và tiếp đó là tiếng vỗ tay, tiếng reo hò. Tàu Mary được lệnh đưa các thuyền nhân về trại Puerto Princesa. Như vậy coi như chấm dứt cuộc hành trình của tôi.Tôi vui vì chuyến đi thành công. Ba lô tôi nặng thêm một chút vì những chồng thư cám ơn của các thuyền nhân.Tôi nhớ nhạc sĩ Mạnh Cường, sáng tác nhạc phẩm rất hay “ Con tàu ân nhân” ngay trên tàu Mary. Cô Kim Dung, người bị xỉu tôi phải cho truyền dung dịch, là một nhà thơ. Cô làm 3 bài thơ sau khi được tàu Mary vớt. Bài thơ thứ nhất: Cảm xúc khi bước lên tàu Mary: Bước lên tàu cứu vớt/ Ta đã thấy vững tin/ Niềm mong ta đã được/ Nhẹ bớt nỗi lắng lo/ Tàu của người đi trước/ Tiếp rước người đi sau/ Thêm thắm nghĩa đồng bào/ Vô vàn lòng nhân ái/ Mong ngày mai trở lại/ Đất nước ta Việt Nam/ Cùng nhau lo xây đắp/Tự do cho quê hương. Bài thơ thứ hai: Niềm vui khi gặp cờ vàng: Trên đường tìm tự do/ Ta gặp lại cờ vàng/ Cờ quê hương muôn thuở/ Nghe lòng dâng thân thương/ Cờ của ta vàng mãi/ Dù bao năm tha hương/ Lòng ta càng mong muốn/ Cờ về với quê hương/ Để dân ta thoát khổ/ Được sống trong tự do/ Để dân ta mãi mãi/ Được áo ấm cơm no/. Bài thơ thứ ba riêng tặng tôi, tôi không chép ra đây vì cảm thấy mình không xứng đáng với những lời khen tặng trong bài thơ. Trong cuốn bút ký Về Biển Đông do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông ở Hoa Kỳ ấn hành năm 1995, tôi có viết, rất chân tình: “Hỡi những thuyền nhân, hỡi những đồng bào thương mến của tôi ơi! Xin đừng cám ơn tôi về những gì tôi đã làm mà hãy để tôi cám ơn quý vị đã cho tôi được sống những giây phút trong cuộc đời mà tôi ao ước sống.” Trước khi chia tay, tôi đưa lá cờ quốc gia, mà ông Chủ Tịch Cộng Đồng Montréal trao để tôi mang theo, cho tất cả thuyền nhân ký tên vào đó. Lúc về Montréal tôi đã trao lại lá cờ cùng một số hình ảnh cho Cộng Đồng Montréal. Không biết giờ đây ai giữ lá cờ cùng số hình ảnh đó? Thấm thoắt thế mà đã 33 năm trôi qua kể từ chuyến đi của tôi. Chuyện hàng trăm ngàn người liều chết để đi tìm sự sống nay đã trở thành quá khứ. Có người đã quên, có người muốn quên nhưng có rất nhiều người không bao giờ quên. Không quên để canh cánh đợi một ngày về, ngày về sống ở một đất nước mà mình không bao giờ nghĩ đến chuyện phải ra đi. Trang Châu Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2021 lúc 2:34pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 23/Apr/2021 lúc 9:08am |
Đốt SáchBất
cứ ai có chút trí khôn đếu nhớ in suốt đời về những chính
sách của người cộng sản sau khi chiếm đước Miền Nam Tự Do ngày
30-4-75 như : -Tập trung đưa vào tù cải tạo quân cán chính. -Đổi tiền. -Lùa dân đi vùng khi tế mới. -Đánh tư sản .... Song
song với những chính sách trên, họ còn tung ra chiến dịch càn
quẻt sách vở của miền Nam mà họ gán cho là : Phản động, Đồi
trụy, Lạc hậu ... Chiến dịch được phát động ngày 23-5-75, từng đoàn thanh niên đeo băng ̣̣đỏ thuộc
diện "cách mạng 30" đi đến các nhà sách, thư viện, nhà dân...
lùng sục thu gom tất cả các loại sách báo .... bất kể về Sử
Địa, Luật, Kinh Tế, Khoa Học,Tự Điển, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn
Du.. . cũng không thoát đem chất đống đốt. Theo ước lượng có khoảng 180 triệu cuốn cúng cho thần hỏa. Kèm
theo việc đốt sách, họ còn đóng cửa 2500 nhà sách , cấm 56
tác gỉa có sách coi là phản động , dâm ô... như Hà Huyền Chi,
Phan Nghị, Võ Hữu Hạnh, Nguyên Vũ, Lê Xuyên, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử ....... Tất
cả các chính sách của bên "Thắng cuộc" chì nhằm mục đích
trả thù, kéo đời sống trù phú của người dân miền Nam xuống
tận cùng bùn đen và xóa bỏ hết tinh hoa nhân bản của VNCH. Lịch sử rồi sẽ soi rọi đâu là chân, thiện mỹ. VŨ ĐĂNG KHIÊM |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 23/Apr/2021 lúc 2:02pm |
VĂN MỘT BÀI TOÁN NHỎ TRONG THÁNG 4 ĐEN - <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Apr/2021 lúc 2:03pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 24/Apr/2021 lúc 8:36am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22128 |
Gởi ngày: 24/Apr/2021 lúc 8:44am |
Nhạc NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG <<<<<Hoàng TrọngChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Apr/2021 lúc 8:46am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |