Người gởi |
Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23887
|
 Gởi ngày: 13/Jan/2018 lúc 8:26am |
RỒI XUÂN CŨNG TRỞ VỀ

Đăng lần bước một cách nặng nề đến cửa ra vào, dù ngoài mặt vẫn gượng
gạo giữ vẻ vui tươi với những người “bạn già” ở đồng cảnh tù, nhưng
trong tâm hồn chàng đang dâng lên một nỗi buồn vô hạn. Bao nhiêu năm
chàng từng đi ngang cái nhà tù này, chàng từng thấy đàn bà trẻ con ngồi
la liệt dưới những gốc cây, để đợi giờ vô thăm chồng, thăm cha, nhưng
lúc đó chàng có để ý, có tìm hiểu những điều gì đã xảy ra bên trong đó
đâu. Chàng hoàn toàn không biết gì về cảnh buồn vui, về đời sống của
những người tù, một phần bởi vì hàng rào thật cao với đầy lô cốt lính đã
ngăn chận trong và ngoài; một phần là do tâm hồn chàng trai trẻ tên
Đăng đang hăm hở, hân hoan tiến bước trên quãng đường học trò. Chàng
chẳng có gì phải bận bịu với cuộc sống trên trong vòng rào ấy. Giờ đây
đang đứng trước những chấn song sắt của cửa nhốt tù để nhìn ra ngoài sân
của khám đường, trống trải, vắng hoe, trong buổi chiều nắng đã tắt,
chàng chỉ thấy tâm hồn mình đang lửng lơ giữa hai trạng thái vui buồn.
Phía sau lưng tiếng lục đục bếp nồi, với mùi thơm của hương trà, của cà
phê đã tỏa ra ngào ngạt. Trong góc phòng đám người bu lại đánh cờ tướng
còn la inh ỏi những tiếng “chiếu, chiếu”, “bí rồi”, hòa lẫn với tiếng
bàn bạc, tiếng cười nói của các bác ủng hộ hai bên. Sân của khám đường
vẫn yên tĩnh, như nó chẳng biết gì những rộn ràng trong những căn phòng
nhốt tù nằm chung quanh nó. Sân đất đầy sỏi đá con con màu xám nhạt. Vài
con chim sẻ từ trên những nóc nhà tù bay xà xuống đất tìm những hạt gạo
rơi rớt chung quanh hội trường, mắt đôi khi lại ngó dáo dác về những
khung cửa sắt khi thấy những cái đầu lấp ló, hoặc những ánh đèn cầy,
những ánh sáng của diêm quẹt vừa bật lên. Rồi lúc nào sợ hãi thì nó bay
lên nóc hội trường để dò xét chung quanh, một lúc lại trở xuống. Cứ như
thế nó làm đi làm lại nhiều lần. Bọn nó đâu có biết, những con người tù
đang ở sau cánh cửa sắt sẽ không bao giờ có thể ra ngoài để bắt nạt hay
giết chết chúng nó được. Một cặp chim lại đùa giỡn với nhau như đôi trai
gái đùa giỡn tình yêu của mình. Khi Đăng quay lại thì đèn cầy trong
phòng tù đã được thắp sáng đều. Cứ vài ba thước lại có một cây đèn cầy
đã được thắp lên. Các bác, các chú, các anh ngồi quây quần với nhau để
nói chuyện, để than thở, để uống trà, không khí như thế cứ càng khuya
lại càng vắng bớt, và đến lúc mưòi giờ đêm, khi có tiếng kẻng báo ngủ,
trong phòng trở nên yên lặng hoàn toàn.
Sáng hôm sau khi
kẻng đánh thức, trong phòng tự nhiên ồn ào lên như chuẩn bị phiên chợ
sáng. Chiếu mền được tất cả sắp xếp lại cho gọn ghẽ ở mỗi chỗ nằm, và
đến khi vị cai tù mở cửa phòng thì tất cả đều nhanh chân đi ra ngoài để
chuẩn bị hứng nước súc miệng rửa mặt. Quanh cảnh ở các phòng tù khác ở
chung quanh đối diện phòng Đăng cũng tương tự như thế. Cũng mỗi người
tù với ca, với ly, với bàn chải đánh răng để chuẩn bị làm vệ sinh sáng
chung quanh vòi nước. Những phòng tù đều bị cách ngăn nhau bởi một cái
hàng rào kẽm gai, nhưng các sinh hoạt vẫn y chang, vẫn cười nói rộn ràng
sau một đêm trong tù, giờ chuẩn bị một ngày tù mới. Đúng đàn bà là
những đóa hoa tô điểm cho cuộc đời! Dù là cuộc đời tù tội! Ở khu giam
đàn bà, dù thường phạm hay chính trị phạm, đều bị một hàng rào bằng
tường xi măng che khuất với khu nhà giam của đàn ông con trai, nhưng cái
cửa để ra vào lấy nước, lấy đồ ăn, làm tạp dịch, lại nằm trước cái sân
của đám tù đàn ông. Vì thế cứ mỗi sáng thức dậy, súc miệng rửa mặt xong,
khi ngồi đợi cháo ăn sáng thì tất cả các người tù đàn ông con trai đều
đổ dồn mắt về một bóng hồng nào đó, nếu bóng hồng đó đang đi ngang qua
phòng mình. Nhưng nếu không nhìn bóng hồng thì cũng không có gì để mà
nhìn, mà ngắm. Cái hội trường trước mắt vẫn đứng trơ ra đó, ngày này qua
ngày khác. Lá cờ vẫn phất phơ trong gió, cột cờ vẫn đứng vững vàng như
muôn thuở. Những cục đá cục sỏi nằm trên sân... Tất cả những cảnh và vật
ấy hằng như cố định, không thay đổi, không biến chuyển thành những hình
ảnh xinh tươi hơn nữa được. Chỉ có những bóng hồng lướt qua trước các
trại tù đàn ông mới làm thay đổi cảnh trí trước mắt các người tù này mà
thôi. Dù ở tù nơi đây ngắn hạn hay dài hạn; dù ở tù nơi đây là thường
phạm, quân phạm hay chính trị phạm, thì một điều không chối cãi được là
“tình yêu tù tội” vẫn xuất hiện đều đều trong nhà tù này. Bị bắt nhốt ở
trong phòng tối, người tù vẫn tiếp tục tìm cách thân thiện nhau, yêu
nhau. Bị cai tù la ó hăm dọa um sùm họ vẫn thư từ trao đổi với nhau, hẹn
hò với nhau, ngay cả những người có tuổi, đã có vợ có con, hoặc có
chồng có con đang tần tảo bên ngoài để nuôi sống gia đình, vậy mà ở bên
trong nầy họ vẫn yêu đương người khác! Do đó, khi mới mười bảy tuổi đầu
Đăng cũng khám phá ra được sự “nhiệm mầu” của tình yêu, sự mê say của
đường tình ái trong vòng tù tội. Khổ họ vẫn yêu, nhục họ vẫn yêu, trong
bất cứ tình huống nào! Mấy anh tội thường phạm (xì ke, ma túy, đâm
người, trộm cướp) thì yêu các chị tội thường phạm (đĩ điếm, buôn bán
lậu...). Các anh các bác tội chính trị phạm thì yêu các chị các cô tội
chính trị phạm. Đến giờ này ngoài những mối tình học trò cỏn con ở dưới
mái học đường. Đăng chưa biết rõ ràng tình yêu có sức mạnh như thế nào.
Nhưng ở trong tù chàng đã thấy một bác Năm đã trên năm mươi tuổi đầu mà
bị nhốt cát-xô vì tội lén đến phòng phụ nữ ban đêm mà trò chuyện yêu
đương. Bác làm trưởng đội nấu bếp, lợi dụng chức vụ đó ban đêm bác đi
thăm tình nhân! Bác là người đã có vợ có con ở bên ngoài, cứ mỗi tháng
bác Năm gái đều đến thăm nuôi bác thật đầy đủ và đàng hoàng, ấy vậy mà
trong tù bác lại ngoại tình! Không biết bác đã lén đi thăm tình nhân bao
nhiêu lần rồi, nhưng lần bác bị cai tù bắt nhốt ở cát-xô thì bạn tù ai
cũng giật mình, cát-xô lại nằm ngay đường đi qua lại của tù, nên đi
ngang nhìn vô thấy mặt bác buồn xo. Rồi một chuyện khác, chú Chín,
cũng đã lớn tuổi, là dân lao động chài lưới ở bên ngoài, cũng đã có vợ
con, lại đi yêu một thím cũng đồng trang lứa, cũng bị tội phạm chính
trị. Chú không có điều kiện như bác Năm để hôn hít người yêu qua khung
cửa sắt, chú phải nhờ cái lỗ để nước dơ ở cống rãnh chảy ngang qua bức
tường chia đôi hai khu nam nữ mà trò chuyện. Chú bên này bức tường, thím
bên kia bức tường, cùng nhìn xuống rãnh nước mà trò chuyện. Muốn trao
nhau cái gì, cho nhau cái gì, thì cứ thò tay qua cái lỗ! Muốn càng nói
rõ cho nhau nghe thì càng cúi gần xuống cái lỗ! Cái lỗ cống đó là ân
nhân của tất cả các cặp tình nhân trong tù. Chỉ có vậy thôi chớ rờ rẫm
gì được, hôn hít gì được trong cái hoàn cảnh tù tội! Nhưng không biết
các ông lo về cải huấn tù tội có tính toán gì không hay là vô tình, mà
cứ đến ngày chủ nhật là ngày mấy bà mấy cô tội phạm được đi lượm thóc ở
trong cái hội trường. Đó là ngày vui nhất cho các ông tù! Nhưng không!
Có lẽ đó cũng là ngày vui nhất cho các bà các cô tù! Cứ một chị một cô
đang ngồi lượm thóc thì có một anh một chú đứng kè kè một bên để nói
chuyện. Như bác Năm trai thì kè bên “bác Năm” gái; chú Chín thì kè bên
“thím Chín”. Các anh thường phạm kè bên các chị thường phạm. Họ vừa nói
chuyện vừa ngó chừng mấy ông cán bộ trực. Nếu mấy ổng làm lơ thì họ sáp
lại gần nhau; nếu mấy ổng đến kiểm soát thì bọn tù rút về vị trí ngay
ngắn của mình. Y như chơi trò cút bắt! Nhưng quá lắm là nắm tay nắm chân
mà thôi. Rồi tất cả đều phải chờ ngày mãn hạn tù, ở bên ngoài rồi họ
mới muốn làm gì thì làm. Dù mười bảy tuổi, nhưng nhìn qua những tình
trạng yêu đương lén lút như thế, trong lòng Đăng vẫn thấy vui vui. Vui
khi thấy cái táo bạo của bác Năm. Vui khi thấy cái sợ sệt, mặt mày dáo
dác của chú Chín ở cống nước. Vui khi thấy một anh quân phạm tỏ tình
chọc một chị tội mãi dâm đi ngang qua hàng rào. Cái vui vui như khỏa lấp
được phần nào những trống vắng và phiền muộn khi Đăng nghĩ đến những
sinh hoạt của bạn bè và gia đình hiện tại đang ở bên ngoài. Nhưng có một
điều chắc ai ở tù cũng phải công nhận là đời sống tù tội đỡ nhàm chán
hơn, đỡ thấy tù túng hơn, thậm chí ở một vài trường hợp còn thấy vui hơn
đó là nhờ bóng dáng đàn bà. Trong đó nhất là các nàng tù bên thường
phạm. Có nàng rất còn trẻ, vì tội mãi dâm bị bắt nhốt vào đây. Có nàng
vì buôn bán lậu, xì ke ma túy cũng bị bắt vào đây. Nhưng khi vào tù các
nàng vẫn mặc những bộ đồ bông hoa thật đẹp dù chỉ không được ủi cẩn thận
mà thôi. Ngược lại thì các chị các thím bên tù chính trị phạm thì
thường bên ngoài là những người đàn bà làm ăn lương thiện, nên khi vào
tù thì cách thức sinh hoạt và ăn mặc vẫn giản dị như bên ngoài. Cũng áo
bà ba trắng, bà ba màu xám; cũng quần dài đen, loại vải thường vải xấu.
Nhưng cũng như các cô gái mãi dâm, buôn bán lậu là đối tượng cho các anh
tù thường phạm, quân phạm, thì các thím các chị lại là đối tượng cho
các chú các bác sồn sồn ở tù về chính trị. Như bác Năm, chú Chín chẳng
hạn. Những buổi sáng, sau khi súc miệng và ngồi chờ cháo để ăn sáng,
nhìn những cô thường phạm thật trẻ đi ngang qua hàng rào; các cô đẹp và
hồn nhiên không thua gì các cô con gái trong một gia đình hiền lành tử
tế, nhưng vậy mà là những nàng đã sành sỏi trong việc bán phấn buôn
hương, trong việc lấy Mỹ ở ngoài thị xã Vũng Tàu. Nhìn những người con
gái đó cứ ngày này qua ngày khác, dần dần Đăng cũng tìm ra được một hình
ảnh cho riêng mình: Cô gái tên là Huyền. Trong một buổi chiều, khi
đang đứng bên trong cửa sắt của nhà tù mà nhìn ra ngoài, Đăng nhìn thấy
một cô gái vừa mới vào tù, đang bị giám thị tù dẫn về phòng giam của các
nữ can phạm. Nàng vừa đi vừa cúi đầu khi ngang qua một lô năm sáu phòng
giam của đàn ông. Đăng đã lặng người khi bắt gặp gương mặt nàng, lúc
nàng ngẩng mặt lên nhìn về phía cửa sắt của chàng đang đứng. Trong một
giây Đăng nghĩ là cô là một tội phạm về chính trị, còn nếu là một tội
hình sự nào khác thì tất nhiên không phải là tội mãi dâm như cái dáng
dấp của các cô mãi dâm khác. Mấy hôm sau Đăng gặp lại Huyền, cô nàng
mà mấy hôm trước trong một buổi chiều đã làm chàng buồn một cách bâng
quơ nơi khung cửa sắt. Giờ nàng đã hòa vào cái đám chị em tội phạm trong
cái nhà giam này. Nàng mặc áo trắng sát cánh, quần dài màu đen loại vải
xấu, nhưng nàng không đi công tác chung với các chị chính trị phạm, mà
lại đi chung với các chị các cô thường phạm. Nhưng tội Huyền là tội gì
Đăng vẫn chưa biết. Cái cảm tình yêu thương cô Huyền xa lạ đó cứ tăng
dần, tăng dần theo những ngày sau đó trong lòng Đăng, cậu bé mới mười
bảy tuổi. Nếu so sánh với Huyền thì Đăng xem ra trẻ hơn nàng cũng phải
đến một hai tuổi. Huyền có cái nét đẹp già giặn, dù nàng vẫn còn cái
dáng e ấp, thẹn thùng, khi đi ngang qua hàng rào của những tội phạm đàn
ông. Nhưng mặc kệ về sự khác biệt về tuổi tác, Đăng vẫn thấy yêu Huyền
càng ngày càng sâu đậm, lòng cứ càng ngày càng ray rứt với hình bóng của
nàng. Chàng không biết cô Huyền tội phạm kia mắc tội nặng hay nhẹ, và
bao giờ mới được ra tù, vì thế chàng lo sợ vu vơ, sợ nay mai đây Huyền
bỗng nhiên được thả ra, rồi mất biệt. Chàng lo sợ bâng quơ, sợ mất mát
Huyền thật vô duyên cớ. Và tình yêu cũng đã đến. Niềm mong muốn được
chuyện trò với người đẹp cũng đã xảy ra trong một dịp. Hôm đó, ngày chủ
nhật. Thường cứ chủ nhật thì các cô tội phạm hay được phép ra hội trường
để lượm thóc, để có gạo sạch cho tù ăn. Hôm đó Huyền cũng được phép ra.
Nhóm lượm thóc của Huyền gồm chung nữ tội thường phạm và chính trị
phạm. Và đám tội phạm đàn ông chung cũng có dịp mon men lại gần. Đám đàn
bà giờ như khối nam châm thu hút “đám sắt” đàn ông từ từ lại gần, chỉ
khi nào có giám thị trực nhà giam đến thì “đám sắt” ấy mới chịu nhả
“khối nam châm” mà thôi. Đăng trong hôm đó cũng tự biến thành cục sắt
nhỏ để bị hút vào cái khối nam châm đàn bà, và chỗ hút đến là chỗ mà
Huyền đang ngồi. Lúc đó Huyền ngồi một mình trong một góc ở hội trường.
Nàng ngồi thu mình lại như con chim ủ rủ trong chiếc lồng. Nàng không
nhìn lên để xem những bóng người qua lại, những cảnh vật bên ngoài, nàng
chỉ chăm chú vào công việc lượm thóc của mình, và nàng như đang ngồi
suy nghĩ một điều gì mà chỉ có mình nàng biết mà thôi. Vì thế khi Đăng
đến đứng bên nàng, nàng vẫn chưa hay biét. Câu đầu tiên để bắt chuyện
làm quen với Huyền, Đăng đã gọi nàng bằng chị. Chàng giả bộ: - Xin lỗi được hỏi thăm chị một chút! Chắc chị mới vô đây! Vì lâu nay tôi không thấy. Cô
gái nhìn lên, bắt gặp “cậu bé” đứng cạnh mình chỉ cách một bức tường xi
măng xây cao đến bụng. Nàng ngạc nhiên vì đã không để ý đến sự hiện
diện của một “cậu bé” từ nãy đến giờ. - Ừ, tôi mới vô đây trong mấy ngày nay, còn... anh... chắc ở đây lâu rồi? Trời
ơi! Nàng kêu mình bằng anh. Đăng không biết làm sao tả hết nỗi sung
sướng đang có trong lòng. Chàng đã nghĩ thế nào nàng cũng gọi mình bằng
cậu hoặc bằng em ngọt ngào, không ngờ lại gọi bằng anh. Huyền chắc không
thể nào biết được những diễn biến trong lòng cậu bé này trong ngày đầu
tiên mà cậu đã gặp nàng. - Tôi ở đây mới gần một tháng. Tự dưng Đăng thấy như mình phải có bổn phận an ủi cô gái mới vô tù này: - Vô đây chắc chị buồn lắm phải không? Huyền vừa trả lời nhưng vừa cúi đầu lo lượm thóc: -
Ngày đầu thì buồn nhưng đến hôm nay thì bớt nhiều rồi. Nhất là ngày chủ
nhật được ra đây lượm thóc như vầy thì vui hơn một chút. Chớ ở hoài
trong phòng chán lắm! Còn anh, anh có thấy buồn không? Khi hỏi lại
Huyền ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt Đăng. Huyền còn đẹp lắm! Dù thân
nàng không có ốm yếu mảnh mai như nhiều cô gái khác. Nàng có da có thịt,
mặt mày hồng hào và đều đặn, chỉ có cặp mắt nàng sao mà buồn quá, cặp
mắt e thẹn và như đang giấu giếm một nỗi buồn mà không bao giờ có thể
giải tỏa được. Nụ cười nàng cũng gượng gạo và e ấp làm sao! Đăng chìm
đắm say mê nhan sắc của cô gái trong ít giây rồi mới trở về câu hỏi của
nàng: - Cũng như chị vậy, lúc đầu cũng buồn, nhưng bây giờ thì quen rồi. Tôi chắc cũng sắp được thả thôi, vì không có tội gì cả. Sau khi cúi xuống lượm vài hột thóc, Huyền lại ngước mặt lên nhìn Đăng với vẻ mặt ngạc nhiên: - Không có tội mà sao ở trong này? Nhưng anh ở tù nào? Thường phạm hay chính trị phạm? - Tôi bị bên chính trị phạm. Mặc
dù biết mình không có tội gì cả, chẳng qua chính quyền bắt buộc phải
giam để điều tra, đó là vì trong một lần gác của Đăng trong đơn vị Nhân
Dân Tự Vệ chàng đã ngủ quên, để ai đó (có thể là Việt Cộng) lén vào lấy
súng của một người bạn đang ngủ, vì thế chàng phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về vụ này. Nhưng bên Huyền bây giờ chàng không thích kể dài dòng
về chuyện của mình. Thời giờ bên Huyền hiện tại là vàng bạc, chàng thích
nghe những chuyện từ nàng hơn. Tuy nhiên hỏi gì thì gì chớ Đăng vẫn
không dám đá động đến nguyên nhân vì sao mà nàng bị tội. Chàng tìm một
câu hỏi khác: - Xin lỗi chị tên gì, để có dịp gọi! Huyền không có gì ngần ngại, nàng trả lời liền: - Huyền! Còn anh tên gì? Rồi nàng cười. Để có gặp còn biết tên mà gọi. - Tôi tên Đăng. Trương Văn Đăng. Huyền trề môi chọc Đăng: - Chà tên đẹp quá ha! Đăng khen lại: - Tên chị cũng đẹp vậy! Thoáng xa xa thấy ông giám thị mặc áo vàng từ nhà trực đi tà tà đến hội trường, nên Đăng nói nhanh với Huyền để rút lui: - Ông giám thị đến, chào chị nha, chút nữa rảnh tôi sẽ trở lại để nói chuyện với chị cho vui. Huyền
cười mà không nói một lời nào. Khi ấy các người đàn ông đang đứng gần
các người đàn bà cũng từ từ tránh xa nơi khác, trước khi ông giám thị
trực bước vào hội trường.
Thế là sau ngày đó Đăng quen
“chị” Huyền thật sự. Cứ khi thấy “chị” Huyền ra ngồi lượm thóc ở hội
trường là Đăng đến gần để chuyện trò. Những chuyện vu vơ của đất trời,
những chuyện về gia đình của Đăng và Huyền được hai người tâm sự nhiệt
tình. Thường lúc tù nhân được phân công đi xách nước cho cầu tiêu
trong buổi sáng. Đăng hay theo dõi bóng dáng Huyền. Cứ ngày nào Huyền
phải làm nhiệm vụ này, đó cũng là ngày mà Đăng có dịp đứng cạnh bờ rào
kẽm gai để nhìn nàng đi qua đi lại trong vài lần. Dù chỉ được nhìn nhau
trong vài lần, chỉ được bắt gặp nhau qua ánh mắt cũng đủ làm Đăng vui
sống trong những ngày tù tội. Để có dịp ở gần Huyền nhiều hơn. Đăng
đã xin vô đội làm nhà bếp. Thật vậy, những ngày sau khi đã làm trong đội
nhà bếp, khi chủ nhật có vụ lượm thóc của các cô, Đăng hay la cà bên
cạnh Huyền mà không còn sợ giám thị như trước nữa. Vì công tác lấy gạo
(sau khi đã lượm thóc) để về nhà bếp nấu cho tù ăn là công tác thường
trực mỗi ngày, và đội nhà bếp và các cô lượm thóc tới lui gần gũi là
chuyện thường, miễn đừng lộ liễu và quá đáng mà thôi. Từ hôm Huyền vô
tù đến nay gần hai tháng, chưa bao giờ Đăng thấy Huyền có người thân
đến thăm. Đăng không dám tìm hiểu rõ nhưng tự nhiên thấy mình cũng buồn
cho hoàn cảnh của Huyền. Chàng để ý thấy Huyền chỉ có ba bộ đồ thay đổi
trong hai tháng tù. Chiếc áo trắng sát cánh với chiếc quần sài đen là
một bộ. Còn lại là hai bộ đồ ngủ màu hồng và màu xanh lá mạ. Tù thì dĩ
nhiên là nghèo rồi, nhưng ở Huyền, Đăng thấy nàng còn nghèo hơn các chị
em tù khác. Nàng chỉ có một điều hơn các nàng khác dưới mắt Đăng là: cốt
cách của nàng. Cốt cách của nàng tỏ ra một điều gì thật hiền hậu, nhân
từ. Nàng đẹp một cách hiền hòa. Hiền như áng mây chiều trên đồng lúa,
như dòng sông với những đám lục bình, như con chim đẹp nhưng đầy nhút
nhát sợ sệt. Rồi những ngày qua lại trong tù Đăng cũng biết Huyền ở
tù vì tội gì. Nàng bị tội mãi dâm! Nhưng không phải vì biết Huyền bị tội
như vậy mà Đăng trở nên lạnh nhạt và không muốn gần Huyền nữa, ngược
lại chàng lại càng si tình ở cô gái làm mãi dâm này. Chàng càng mong hơn
ở mỗi buổi sáng cổng tù mở lẹ lẹ để chàng thấy mặt nàng. Dù gặp để
chuyện trò trong vài phút; dù gặp chỉ bằng ánh mắt mà thôi. Rồi khi tình
yêu ấy lên đến tột độ, chàng đành phải thú thật tình yêu ấy với Huyền.
Nhưng chàng cũng không dám tự mình để tỏ tình trực tiếp với nàng, chàng
chỉ gởi lời tỏ tình qua trung gian một người bạn gái ở tù chung với
nàng. Cách tỏ tình xưa như trái đất: một bức thư! Có lẽ vì ở trong tình
trạng tù tội cô đơn nên Huyền chấp nhận lời tỏ tình của Đăng ngay, chấp
nhận một cách nhiệt tình. Điều nàng làm Đăng một chút hơi ngỡ ngàng.
Chàng lại còn nghĩ đến sự từng trải trong tình trường của Huyền, sự từng
trải về xác thịt của một cô gái ra đời quá sớm, mới đưa nàng đến sự
quyết định thật nhanh chóng về lời tỏ tình của chàng. Nhưng nói gì thì
nói, nghi gì thì nghi, khi nghe Huyền chấp nhận lời tỏ tình của mình,
Đăng cũng đã mất ăn mất ngủ mấy ngày, chỉ vì sự vui sướng của chàng trai
mới lớn đã có người đáp lại tình yêu. Những ngày cuối tuần sau đó,
khi Huyền ra khỏi hội trường ngồi lượm thóc, Đăng đến gần, giờ hai người
là đôi tình nhân mà hầu như cả nhà tù đều biết. Huyền dạn dĩ bắt nạt
Đăng trước: - Huyền bị tù như vậy, anh không ngại sao mà vẫn muốn làm quen? Đăng
thấy Huyền không ngại một chút nào khi đề cập đến đời mình. Nói về đời
nàng Đăng còn thấy ái ngại, còn thấy cảm động, vậy mà nàng như không
ngại chút nào. - Tù nào cũng vậy. Tôi không nghĩ đến chuyện tù vì tội này tội kia. Khi
Đăng kể lể về chuyện của chàng, chuyện của Huyền, nàng vẫn nhìn xuống
cái mâm bằng nhôm, trong đó có một nắm gạo trộn lẫn đầy thóc, nàng chăm
chú lượm mấy hột thóc ra nhưng tai cũng lọc lựa từng lời nói, từng lời
tỏ tình, từng câu văn bóng bảy của Đăng đang rỉ rả bên tai nàng. Đăng
vẫn miên man: - Tôi cũng trông mau ra tù để còn về đi học lại. Trễ
mấy tháng coi như trễ nửa năm học. Còn ở tù ngày nào ông bà già ở ngoài
còn khổ ngày đó! Còn nhà Huyền ở dâu? Sau này khi ra tù mình có thể gặp
nhau không? Tôi rất mong sau này mình gặp nhau lại ở ngoài! - Anh lo gì! ở ngoài nếu mình muốn gặp lại nhau thì đâu có khó! Chỉ sợ anh không muốn gặp lại Huyền nữa thôi. Đăng
đứng cạnh Huyền, chỉ cách một bức tường bằng xi măng xây ngang đến
bụng, chàng nhìn được rõ cả bàn tay búp măng của nàng đang lùa qua lùa
lại trên những hạt gạo. Mái tóc đen của nàng chạy dài xuống đến sóng
lưng như bờ suối nước đen trên bộ đồ vải màu hồng cũ quen thuộc của
nàng. Nàng nghèo đến nổi không có một cái kẹp để kẹp những sợ tóc đang
phủ lòa xòa trên má nàng! Đăng thèm muốn đưa tay lùa những sợi tóc ấy về
đằng sau, nhưng ngại ngùng nên chàng vẫn giữ bàn tay ghì chặt trên bức
tường để ngăn chận sự ham muốn hàm hồ. - Tôi chỉ sợ không thể gặp Huyền nữa thôi. À, sau này khi ra tù Huyền ở đâu? -
Huyền sẽ về Sài Gòn ở với gia đình. Má và mấy em Huyền đang ở Sài Gòn.
Huyền từ nhỏ đến lớn ở Sài Gòn chớ không phải ở đây. Từ ngày đi làm nghề
này mới ra đây. Đăng thấy vui: - Như vậy sau này nếu tôi được về Sài Gòn học thì mình sẽ gặp nhau dễ dàng chớ gì?
Dần dần theo ngày tháng càng lâu trong tù thì tình yêu giữa Đăng và
Huyền càng đậm đà. Dù trong ngày hai người đã có dịp nói chuyện nhau,
nhưng cứ khi chiều xuống là cả chàng lẫn nàng đều đến bên song sắt của
nhà tù để nhìn nhau, và chuyện trò bằng những ngón tay như ra hiệu lệnh.
Có lúc Đăng đứng cả giờ ép mặt vào song cửa mà hướng mắt về phòng của
Huyền, chàng nóng lòng và bực bội vì với một khoảng thời gian như vậy mà
Huyền vẫn chưa ra cửa để hai người nói chuyện bằng mắt như mỗi ngày,
nhưng khi khuôn mặt của Huyền hiện ra nơi khung cửa thì cái buồn bực
trong lòng chàng cũng tan biến ngay. Ngược lại thì Huyền cũng thế, chiều
chiều, khi cửa phòng tù đóng lại, nàng cũng đến bên khung cửa sắt để
tìm gương mặt Đăng, tìm ánh mắt chàng. Nếu Đăng không có đứng đó sẵn
nàng cũng có đôi chút hờn giận, nàng đi đi lại lại trong phòng tù mà
thấy không một chút nào vui, nhưng khi đã thấy Đăng xuất hiện thì mặt
nàng tươi vui lên ngay và miệng cười thật tươi, từ xa Đăng đã thấy hàm
răng trắng đẹp đang cười nói của nàng. Rồi từ sự thương yêu đậm đà đó
Huyền thấy không còn nên giấu giếm những thầm kín của đời nàng, cùng
những ý nghĩ của mình. Nàng còn đổi cả cách xưng hô trong một lần nói
chuyện: - Em cho anh xem tấm ảnh này. Sau khi xem xong em sẽ cắt nó
làm hai. Anh giữ một nữa, em tặng anh đó, còn một nửa em xé bỏ trước mặt
anh luôn. Huyền nói như thế trước khi đưa tấm hình mà nàng đang cầm
trên tay ra trước mặt Đăng. Tấm hình lấy cảnh ở biển Vũng Tàu, trong đó
Huyền đứng cạnh một người Mỹ cao hơn nàng đến một cái đầu. Nàng mặc
chiếc áo dài màu trắng hồng và cách trang điểm y như một người tình kiều
diễm. Trang điểm thêm tấm ảnh màu là những cánh hoa màu sắc sặc sỡ đang
nở chung quanh hai người. Nàng giải thích thêm: - Đó là hình trước
đây của em ở Vũng Tàu, ngoài bãi Ô Oắn, đường đi ra Bãi Sau. Giờ coi như
thuộc về quá khứ! Anh xem kỹ đi rồi đưa lại cho em. Em sẽ cắt nó làm
hai. Anh giữ hình của em để làm kỷ niệm. Còn hình của ông Mỹ thì em xé
tại đây luôn. Nàng ngừng một chút, rồi chọc Đăng: - Hay là anh không muốn em xé hình ông Mỹ? Đăng
hơi xúc dộng vì sự thành thật quá mức của Huyền, người con gái đã có
một quá khứ xấu xa. Tại sao nàng không dấu đi những tấm hình như thế?
Tin tưởng chàng đến thế nào mà nàng dàn trải lòng mình, đời mình ra như
vậy. Nàng không sợ chàng buồn, chàng cảm thấy bị xúc phạm, rồi chàng tìm
cách xa lánh nàng sao? Đăng mải mê nhìn ngắm nhan sắc Huyền trong tấm
ảnh màu một lúc lâu, rồi từ từ trả lại cho Huyền trong nỗi vui buồn lẫn
lộn. Chàng vui vì nhìn được hình ảnh tươi đẹp của nàng trước đây, vui vì
tấm lòng thành thật của nàng; còn buồn là vì quá khứ của nàng đã lộ
liễu qua tấm hình này, một quá khứ không tốt đẹp về người con gái mà
chàng đã yêu! Tấm hình bị Huyền cắt đôi ra, dù khéo léo khi cắt nàng vẫn
dể mất một mảnh vai của nàng. Có lẽ nàng không muốn trong nửa tấm còn
lại để tặng cho Đăng còn một mảnh vai của ông Mỹ. Xong nàng trao cho
Đăng: - Anh giữ nửa tấm hình này, trong đó có em, khi nào về Sài Gòn
tìm nhà em, rủi lúc đó em chưa ra tù, thì anh cứ đưa hình này ra, má cà
các em của em sẽ nhận ra ngay. Đăng nhận tấm hình, nhận luôn cả địa chỉ của nhà nàng ở Sài Gòn mà nàng đã ghi sẵn phía sau. Chàng ngạc nhiên: - Ủa, vậy sao em không viết thư báo cho gia đình em biết là em ... đang ... bị ... ở ... đây? Huyền buồn: -
Báo làm gì anh! Báo rồi để gia đình buồn thêm à! Em chỉ còn bà già và
mấy đứa em thôi. Ba em là lính chết trận, sau khi ba em chết nhà em trở
nên nghèo túng, em phải bỏ học và nói với má em là em xuống Vũng Tàu này
để tìm việc làm và nuôi cho mấy đứa em được ăn học tiếp tục, chớ em đâu
có dám nói là em làm ... nghề ... này... đâu! Thôi ráng khoảng ba tháng
em sẽ ra tù, rồi về nhà thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, đâu vào đó thôi. Em
đi ... làm. .. đã đễ dành được một số tiền rồi, giờ về Sài Gòn lo buôn
bán làm ăn. Gia đình mà không biết gì về em cả, thì em thấy đỡ khổ hơn. Â`,
té ra gia cảnh nàng cũng khó khăn quá! Nàng đi làm gái mãi dâm lấy Mỹ
từ một nguyên nhân thật đáng thương hơn đáng trách. Đăng thấy lòng rung
động và cảm thông cho những lời trần tình của Huyền. Huyền tiếp tục dặn dò Đăng: -
Còn anh, anh phải nói nhà đem vô cho em một tấm hình của anh nha! Rủi
sau này ra tù mà anh không đến tìm em, thì em cũng còn tấm hình anh để
làm kỷ niệm trong những ngày mình quen nhau ở đây. Chớ đi tìm anh chắc
là em không dám rồi! Sau hôm tặng hình đó khoảng chừng một tháng thì
Đăng được ra tù. Lúc tiễn Đăng ra khỏi cổng tù Huyền đã khóc. Nàng không
khóc lớn, nhưng trước mắt tất cả mọi người, kể cả các giám thị, thì
những giọt nước mắt đã làm ướt đẫm gương mặt nàng. Nàng nghẹn ngào: -
Anh về mạnh giỏi. Có về Sài Gòn học thì ghé lại em! Khoảng hai ba tháng
nữa anh đến nhà em ở cái địa chỉ mà em đã cho, khi đó chắc em đã ra
khỏi nhà tù rồi. Rủi là em chưa ra thì anh chờ một hai tháng sau rồi đến
lại. Nhớ lời em dặn, và ráng học nha! Rồi Huyền như không còn sợ
giám thị trực nữa, kề miệng vào tai Đăng mà nói nhỏ: Ráng học, em về em
đi buôn bán để nuôi cho anh ăn học. Đăng cũng vậy, chàng không còn sợ giám thị trực nữa, chàng nắm tay Huyền, xiết chặt, trong lòng cũng thấy xúc động tột cùng: -
Thôi, anh về trước, em ở lại ráng đừng buồn. Rồi chắc em cũng sẽ về nay
mai. Anh về Sài Gòn sẽ tìm đến em, em đừng lo, đừng buồn nha! Ráng cố
gắng, mình sẽ gặp nhau ở bên ngoài mà, thôi anh đi! Đăng xách túi
quần áo nhìn quang cảnh sân tù, những phòng tù lần cuối, chào Huyền rồi
lách mình qua khung cửa sắt mà tâm hồn đang chứa đầy hình bóng Huyền.
Con chim bấy lâu đi nhốt trong chiếc lồng, giờ đã được thả ra để trở về
với đồng ruộng bao la.
* * * Đăng đã thất hứa! Chàng không
trở lại tìm Huyền, dù chàng đã về Sài Gòn để học. Huyền được ra tù, về
Sài Gòn, âm thầm chờ đợi Đăng. Nhưng nàng đâu có biết Đăng đã quên tất
cả, kể cả thời ở tù khổ cực, kể cả người con gái mãi dâm mà chàng đã nói
tiếng yêu trước, và cũng nhờ hình ảnh của cô gái mãi dâm này mà chàng
đã có được những ngày “hạnh phúc” thật ngắn ngủi trong nhà tù. * * *
Đến mùa Xuân năm 1975 Đăng đã trở nên phong trần như bao nhiêu người
thanh niên như chàng, chỉ vì là người lính chiến. Trong một chuyến xe di
chuyển từ Biên Hòa về Sài Gòn, khi mọi người đang chen chúc nhau trên
chiếc xe đò cũ kỹ, ọp ẹp đang chạy thì Đăng gặp lại Huyền! Đăng đứng ở
phía trước xe. Huyền đứng phía sau xe. Khi nhận ra Huyền, dù thời gian
đã vô tình làm tàn phai nhan sắc của nàng, nhưng lòng Đăng lại thổn thức
như ngày nào ở trong tù khi gặp nàng lần đầu. Đăng lẩm nhẩm: “Trời,
chẳng lẽ lại là Huyền!” Thật Huyền đó! Người đàn bà chỉ vừa đến tuổi hai
mươi lăm, nhưng do buôn bán làm ăn, do thời gian vô tình đã làm cho
người đàn bà với lứa tuổi đó đã xem già đi hơn rất nhiều. Còn Đăng, đang
giữa tuổi hai mươi ba cũng không còn nét trẻ trung tươi đẹp. Hơn bốn
năm lăn lộn trong quân ngũ. Hơn bốn năm miệt mài trong chiến tranh,
trong những mối tình quá vội, giờ xem chàng cũng đã già hơn cái tuổi
mình rất nhiều. Nhưng cũng may, nhờ cuộc đời lính nay đây mai đó, nhờ
tính tình vẫn ham bay nhảy nên đến ngày nay chàng vẫn chưa lập gia đình,
chưa bị ràng buộc trong một mái nhà. Sau hơn sáu năm không gặp lại
Huyền, kể từ ngày ở tù ra, giờ tại sao trong lòng chàng lại muốn gặp lại
Huyền ngay. Chàng nôn nóng được đối diện lại với nàng. Khi xe buýt đến
bến xa cảng miền Đông thì Huyền xuống. Đăng không chần chờ cũng xuống xe
và chạy theo gọi lớn: - Huyền... Huyền...! Huyền quay lại. Thời gian qua không lâu, nên Huyền nhận ra Đăng ngay: - Anh... Đăng! Đăng
chồm tới nắm chặt đôi tay Huyền, như người chồng nắm tay người vợ sau
một thời gian dài không gặp mặt. Đôi mắt chàng thẹn thùng khi nhìn nàng. - Đi với anh một chút vô quán để nói chuyện đi em! Em có bận gì phải đi ngay không? Huyền
lắc đầu, đôi mắt vẫn còn ngạc nhiên nhìn Đăng châm bẩm, không có vẻ gì
giận dỗi trách móc. Một chiếc xe Honda ôm chạy ngang qua, phà khói đầy
vào mặt hai người. Đăng vẫn để yên, Huyền quay mặt đi nơi khác để tránh
khói, khi quay lại đôi mắt nàng như bị ai thấm nước. - Em đi giao hàng. Xong rồi, giờ định trở về nhà. Khi
đã gọi hai ly nước xong, nhìn xe qua lại trên đường. Đăng vẫn chưa biết
bắt đầu câu chuyện như thế nào. Vẫn như ngày xưa, Huyền lại bắt đầu
trước: - Trông anh lúc này già giặn quá! Ốm và đen. Không còn là...
cậu ... học sinh như ngày trước. Cha, lúc này là trung úy ngon quá ta!
Mà lính gì vậy? Không biết trong lòng Huyền vui hay buồn khi nói ra
câu này, chỉ thấy miệng nàng đang chúm chím cười. Còn Đăng qua câu nói
của Huyền lòng chàng lại thấy tái tê. - Anh đi lính Sư đoàn 18. Đã bốn năm rồi. Huyền không còn nét đùa giỡn, lại âu yếm: - Sao, anh có vợ con gì chưa? Đăng trả lời ngay, không cần phải suy nghĩ: - Chưa! Còn em? Huyền trả lời như trách móc: - Ai mà chịu lấy em, như em đã có lần nói với anh! Đăng lấy hai tay mình vuốt trên đôi bàn tay Huyền an ủi: - Thôi bỏ qua hết đi Huyền! Anh hỏi thật mà! Em có chồng con gì chưa? Huyền rút một bàn tay của mình ra khỏi lòng bàng tay Đăng, cầm ly nước chanh của mình, không uống, nhưng bóp mạnh: -
Có. Nhưng đã thôi rồi! Cách đây hai năm lận. Giờ em rất sợ đàn ông! Chỉ
ở vậy đi buôn bán nuôi con. Em có một đứa con trai bốn tuổi rồi. Còn
anh chưa vợ hay là... thôi vợ? Lại ... phụ người ta rồi chớ gì? - Không, anh nói thật! Vì đi lính nên anh chưa có vợ con. Huyền trở về thực tế của đời sống hiện tại: - Bây giờ anh đang đóng ở đâu? Trời
mùa xuân tươi mát! Trên mui của những chiếc xe đò, xe lam chạy theo
đường chở đầy những giỏ càn xé dưa hấu và những cành mai: dấu hiệu của
ngày Tết! Còn mấy ngày nữa là Tết đến, trong cái không khí chiến tranh
đang sôi sục trên quê hương, làm trong lòng người lính nào cũng thấy
trĩu nặng. Nhưng Đăng bên cạnh Huyền bây giờ vẫn tìm lại được những dư
âm nồng nàn của ngày vừa mới biết yêu. - Đơn vị đóng ở Long Khánh,
nhưng tiểu đoàn anh biệt phái về Biên Hòa để giữ an ninh trong mấy ngày
Tết. À, mà ăn một chút gì cho vui không em? - Em ăn rồi, không đói. Anh đói bụng thì ăn đi! - Ừ, nhưng ăn với anh cho vui, ăn một mình buồn lắm! Huyền gật đầu. Đăng gọi chị bồi bàn lại kêu hai tô hũ tiếu. Lúc đang ăn Huyền hỏi Đăng: - Còn bây giờ anh đi về Sài Gòn chi đây? Anh
được cho đi phép vài ngày trước Tết. Vì Tết cấm trại 100%. Anh định về
Sài Gòn mua mấy món đồ để về làm quà cho ông bà già và mấy đứa em. - À, gia đình anh vẩn còn ở...? - Ừ, gia đình anh vẫn còn ở Vũng Tàu. Hai
chữ “Vũng Tàu” gợi lại cho Huyền những kỷ niệm ngày xưa: vui có, buồn
có, và tù tội, và đã gặp Đăng. Xúc động khi nghe lại địa danh này, nên
một lúc nàng mới trở lại câu chuyện: - Nếu Tết này có buồn vì bị cấm
trại thì đến nhà em chơi. Sáng đi chiều về. Chớ ở trong đơn vị suốt cả
ngày thì buồn chết! Hay là em sẽ đến thăm anh? Trời nắng lên, thật quang đãng, Đăng thấy y như trong lòng mình: - Cám ơn em trước. Ngày ... xưa ... Huyền khoát tay: - Thôi bỏ hết đi anh! Giờ mình nên nói chuyện hiện tại. Nét mặt Đăng vẫn còn ngượng ngập, vụng về: - Ừ. Thôi. Giờ nên nói chuyện hiện tại thì tốt hơn. - Rồi bao giờ anh mới về Vũng Tàu? - Anh định là ngay chiều nay. Đăng lại ngập ngừng: - Mà Huyền, giờ anh có được phép đưa em về nhà em không? Anh muốn ghé thăm nhà em một chút. Huyền tự nhiên: - Được chớ có sao đâu anh! Nhà em bây giờ ở nơi khác rồi. Không còn ở chỗ cái địa chỉ mà em đã cho anh ngày trước. -
Anh muốn ghé cho biết, để có dịp anh sẽ ghé thăm. Ầ, mà em đang rảnh
không? Nếu có thì đi với anh về Vũng Tàu chơi vài ngày. Cho biết nhà anh
luôn. Huyền gật đầu vui vẻ: - Dạ. Em cũng muốn lắm! Nhưng khoan
đã, về hỏi bà già để gởi nhà trước đã. Nếu bà chịu, em sẽ đi, nhưng mà
em dẫn con em theo với nha? Đăng tự nhiên: - Ừ! Chuyện con cái đâu có gì quan trọng! Dẫn con em cho nó xuống tắm biển ở Vũng Tàu. Còn mình thì ... cũng tắm biển luôn. Huyền cười: - Thôi bây giờ đi về, nói vòng vo nãy giờ hơn hai tiếng đồng hồ. Anh còn đi mua quà cáp gì nữa chớ bộ! - Em không nói chắc anh cũng quên. Gặp lại em rồi anh quên hết! Để anh trả tiền rồi mình đi nha. Trễ rồi! Ra
khỏi quán, trời đã hơi xế bóng. Hai bóng người, một người lính, một đàn
bà, in trùng nhau trên nền đất. Gió Bấc thổi hây hây.
VŨ NAM (Germany)
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Jan/2018 lúc 9:05am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23887
|
 Gởi ngày: 15/Jan/2018 lúc 8:37am |

Ở
xứ sở phương nam này, không có những đợt gió lạnh cắt da như mùa đông
xứ bắc, lại càng không có những cảnh tuyết trắng ngập đường như ở Bắc Mỹ
hay trời Âu xa xôi. Tuy nhiên, trong mấy ngày gần đây, trời bỗng nhiên
se lạnh. Nhiều người dân Sài thành đã bắt đầu diện thêm cho mình những
bộ áo mới, dầy hơn, ấm hơn để chống chọi lại với thời tiết bỗng trở nên
biến đổi thất thường như thế.
Những ngày cuối cùng của tháng 12, tôi đi tìm kiếm những vị khách mời đặc biệt cho một buổi tiệc mừng tất niên năm Dương lịch.
Những
vị khách đặc biệt, không phải là những ông hoàng bà chúa, không có xe
hơi, nhà biệt thự lộng lẫy đắt tiền, không địa vị xã hội, không quyền
không thế và lại là những người tôi không quen biết. Ở đâu đó, trong góc
tối của một con đường, trong một góc công viên, dưới gầm những cây cầu
lớn trong thành phố, họ nằm ngủ dưới nền đất lạnh lẽo, đối diện với
những con gió lạnh căm với độc một bộ đồ cũ kỹ mặc cho những con gió
lạnh lẽo thổi qua và những cái nhìn miệt thị, không mấy quan tâm của
người đời. Nơi đó, họ chỉ có những con muỗi và côn trùng làm bạn. Giữa
sự phồn vinh của Sài Gòn hoa lệ, họ sống như những chiếc bóng vật vờ,
như những viên sỏi nhỏ lặng câm bên vệ đường vì đã bị xã hội, đồng loại
tàn nhẫn loại ra ngoài.
Và tôi đã gặp hai người khách đặc biệt trong một đêm đầy sương gió như thế…
Con
đường về khuya vẫn còn tấp nập người qua kẻ lại, tiếng kèn xe chốc chốc
lại vang lên giữa màn đêm. Bên dưới những cây cầu lớn thường là nơi tá
túc, che nắng che mưa của một số người nghèo khổ, sa cơ lỡ vận và ở chỗ
cây cầu lớn này cũng không ngoại lệ. Một người đàn ông gầy gò đang lui
cui bế một phụ nữ từ chiếc xe lăn và nhẹ nhàng đặt xuống manh chiếu
rách. Sau đó, ông lấy ra từ trong cái túi đồ đã bạc thếch một cái mền
nhỏ màu trắng với những vết bẩn loang lổ và đắp lên cho người phụ nữ. Từ
từ, ông lấy ra một cái áo, cuộn lại làm thành một cái gối và kê vào bên
dưới đầu. Xong đâu đấy, ông mắc một cái võng và nằm lên, mắt nhìn xuống
người phụ nữ đang nằm bên dưới và dường như hai người đang cười với
nhau. Khi tôi quay xe lại thì cả hai đã yên vị đâu đó và có vẻ như đã
sẵn sàng cho giấc ngủ đang đến.
-- Có chuyện gì không hả cháu? Người đàn ông ngước mắt lên nhìn tôi, tay đang cầm cái mũ màu đen đầy cáu bẩn.
- Dạ không ạ! Tại thấy chú nằm ngủ ở đây nên cháu đến hỏi thăm chút thôi ạ. Đây là mẹ của chú à?
- Ha ha! Vậy à? Ai cũng hỏi như vậy hết! Không phải đâu! Đây là vợ chú đấy!
Tôi
đã lầm! Người phụ nữ đang nằm kia có mái tóc bạc trắng, da nhăn nheo và
đôi tay gầy guộc gân guốc như que củi. Nhưng hoá ra, đó là một người
phụ nữ mới 55 tuổi. Nghe có tiếng động, bà mở mắt ra nhìn tôi, đôi môi
nở một nụ cười méo mó rồi nhắm mắt lại. Đôi mắt kia ánh lên một nét gì
đó rã rời, cùng kiệt.
Và rồi, người đàn ông bắt đầu kể lại cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời chú bằng một giọng điệu trầm buồn…
Chú
là Hoàng, hơn vợ 4 tuổi. Chú vốn là người Bạc Liêu, đã từng có một gia
đình đàng hoàng, vui vẻ. Cô chú từng có một đứa con trai, nhưng năm lên 4
tuổi, cháu bị ung thư máu. Bao nhiêu tiền bạc trong nhà cứ lần lượt đội
nón ra đi. Cô chú làm lụng được bao nhiêu cũng đều dành cả để lo thuốc
thang cho con với ước mong cháu bé có thể sống thêm được lúc nào hay lúc
ấy. Ban đầu, gia đình có một mảnh vườn trồng cây ăn trái, cộng thêm
nghề thợ may của cô nữa nhưng vẫn không đủ tiền thuốc thang cho con.
Mảnh vườn cuối cùng phải sang lại cho người khác nhưng bệnh tình con trẻ
vẫn không mấy khả quan. Và rồi, cuối cùng vào một buổi chiều mưa định
mệnh, cậu bé đã ra đi trong sự tiếc thương và đau xót của cha mẹ và
người thân. Sau đó không bao lâu thì cô lại bị chứng tai biến mạch máu
não và bị bại liệt luôn. Thương vợ, chú bán hết tất cả tài sản trong nhà
để chạy chữa thuốc thang và đi làm nghề chạy xe ôm. Bà con, bạn bè giúp
mãi rồi cũng chán, phàn nàn lời ra tiếng vào nên chú quyết định không
dám nhờ vả, xin xỏ gì ai nữa. Nghề xe ôm cũng vắng khách và rồi đến lúc
xe hư, chú không có tiền sửa. Ít lâu sau, chiếc xe cũng được thanh lý
với cái giá chẳng được là bao. Vợ chồng chú phiêu bạt đó đây, lưu lạc
lên đến đất Sài Gòn hoa lệ. Chú xin đi làm thợ hồ và bốc vác thuê. Đi
đâu, chú cũng mang cả cô theo cùng. Ban đầu, người ta còn thuê mướn,
nhưng về sau, thấy chú lúc nào cũng kè kè theo sau người vợ bệnh hoạn,
tật nguyền, kể cả những khi ra ngoài công trường, người ta đâm sợ bị
liên luỵ, phải gánh thêm trách nhiệm nên không thuê mướn nhiều nữa.
Nhưng chú có thể gởi vợ ở đâu bây giờ? Để ở vỉa hè một mình không thể
được! Ai lo chuyện ăn chuyện uống? Ai lo chuyện tắm giặt, vệ sinh? Nào
ai có thể giúp chú được đâu, còn nếu bỏ vợ ở lại một mình thì chú cũng
không thể an tâm làm việc được! Thôi thì đành vậy! Ai thuê thì làm, bao
nhiêu cũng được, được ít tiền nhưng còn được có vợ mình bên cạnh vẫn tốt
hơn!
Tôi
nhìn chú bằng ánh mắt ngỡ ngàng và cảm phục! Trong cái xã hội xô bồ của
chốn thị thành, trong sự phồn vinh và thế giới ưa chuộng về vật chất
này, tình cảm vợ chồng chỉ còn mơ hồ như sương khói. Người ta chia tay
nhau sau vài tuần đám cưới chỉ vì một điều gì đó không hợp nhau. Người
ta xa nhau để đi tìm kiếm danh vọng, địa vị cho mình. Và đôi khi có
những cặp vợ chông trẻ chia tay nhau vì không thấy thoả mãn về đối
phương… Nếu ông ăn chả thì bà cũng ăn nem, làm gì có chuyện “một túp lều
tranh, hai quả tim vàng”, những chuyện sống với nhau đến răng long đầu
bạc thì quả là đếm được trên đầu ngón tay. Người ta ai cũng mong mình
được tự do, không bị trói buộc, nghĩa tình tao khang nào có còn ai nhớ
đến?
Vậy
nhưng chú, người đã đánh đổi hết tất cả những vật chất thế gian để giữ
lại bên mình người vợ tật nguyền. Có mấy người dám bán hết đất đai, nhà
cửa để lo cho vợ và rồi cuối cùng phải ra sống nơi gầm cầu? Mấy ai có
thể tận tâm chăm sóc, lo lắng cho người vợ tật nguyền, đau bệnh như vậy
mà vẫn không hề kêu ca, than trách? Chú hoàn toàn có thể rời bỏ cô đi
cho nhẹ gánh, việc gì phải mang lấy vào mình một gánh nặng như thế! Vậy
mà chú vẫn cưu mang, lo lắng cho vợ như một tặng phẩm vô giá cho mình đã
gần 10 năm nay!
Tôi
hỏi xem chú có cần giúp đỡ gì không. Chú cười, một nụ cười bâng quơ mà
chua chát. Có lẽ, chú cảm thấy nghi ngờ, không còn tin tưởng, không còn
hy vọng gì vào lòng tốt của thế gian nữa chăng! Câu nói của tôi làm chú
nghĩ như một trò đùa!
- Cháu có thể giúp được gì cho chú hả? Chú hỏi lại tôi
- Cháu có thể chứ! Còn nếu không được, thì cháu sẽ nhờ thêm người khác nữa!
- Vậy
à? Chú im lặng hồi lâu. – nếu được, chú chỉ muốn tìm một nơi nào đó có
mái che hẳn hoi để vợ chú có được một nơi để ngủ cho đàng hoàng hơn,
không phải sợ mưa gió như bây giờ nữa. Khi ấy, chú sẽ an tâm hơn, sẽ đi
làm được nhiều hơn để có thêm tiền lo cho bà ấy, để bà ấy không phải khổ
như bây giờ nữa…
Câu
nói thốt ra từ miệng một người đàn ông dãi dầu mưa nắng, đang lâm cảnh
túng thiếu bần cùng nhưng thấm đẫm một tình yêu thương nồng nàn của một
người chồng nặng tình với vợ. Chú không mong muốn, không cần thêm gì cho
mình cả, nhưng chỉ mong cho người bạn đời được bớt khổ sở hơn thôi.
Giữa thế giới đầy toan tính vật chất, nhiều tiền của nhưng thiếu thốn
tình người, nhiều tham vọng mà thiếu vắng lòng chung thuỷ này thật là
quý báu lắm thay! Bàn tay gân guốc và chai sạn kia không nắm giữ tiền
bạc, vàng ròng nhưng là đang nắm giữ và chở che cho một bàn tay người
khác…
Đêm
nay, tôi trở lại nơi này để mời cô chú đi dự một bữa tiệc đặc biệt của
một số Mạnh Thường Quân tổ chức để ủng hộ cho những người khó khăn, cơ
nhỡ. Và hơn nữa, tôi mong chú đến dự bữa tiệc để may ra có thể tìm được
một sự giúp đỡ nào đó chăng. Dù chỉ là ánh sáng của một que diêm vẫn còn
hơn là sống trong màn đêm đầy tăm tối. Tôi thầm mong là chú sẽ chấp
nhận lời mời của tôi.
Nơi
hai vợ chồng chú thường nằm ngủ đây rồi. Nhưng chiếc võng đâu? Cả chiếc
xe lăn cũng không thấy? Chỉ thấy một mình chú đang nằm đó, co ro. Hay
là chú đã tìm được một nơi nào đó tốt hơn để gởi vợ rồi? Nếu như thế thì
chú phải ở lại đó chứ, sao lại về đây nằm một mình như vậy? Trong lòng
tôi thấy dâng lên một niềm vui.
Chú
đã ngủ rồi, vẻ mặt vẫn khắc khổ và mệt nhọc. Trên đầu chú vẫn là chiếc
nón kết cáu bẩn như hôm nào. Bên cạnh không có thêm vật gì khác nữa
ngoài một chai nước nhỏ đặt trước mặt. Thấy chú đã ngủ say nên tôi cũng
ngại đánh thức. Tôi phải lay gọi mãi đến lần thứ ba mới thấy chú cựa
mình và mở mắt nhìn tôi.
- Cháu
đó à? Chú thều thào hỏi. Có chuyện gì không hả? Vợ chú đã mất 3 hôm rồi
cháu ơi. Bây giờ chú đã mất hết rồi! Mất hết tất cả rồi! Không còn gì
cả!
Tôi
đứng chết lặng người, không biết nên làm gì trong lúc này. Tôi còn chưa
giúp được gì cho vợ chồng chú như đã hứa. Tôi cảm thấy mình quả thật
bất lực. Tôi những mong mình có thể thắp lên trong chú một chút ánh sáng
nhỏ nhoi, nhưng đã quá muộn rồi, tất cả đã trở thành bóng tối!
Cuộc
đời này sao quá mong manh vậy? Kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài…
Vậy là hết! nhưng điều tôi phải nghĩ ngợi chính là bộ dạng thất vọng
của chú. Chú không ngồi lên, chỉ nằm đó và thốt lên những lời cay đắng
kia. Nói xong, chú kéo cái mũ sụp xuống che kín khuôn mặt như đang giấu
đi đôi dòng lệ đang lặng lẽ tuôn rơi trên khuôn mặt dặn dày sương gió.
Chú không nhẹ nhõm, không thở phào đi vì mình đã được vơi bớt gánh nặng
mỗi ngày. Chú không thấy rằng như vậy sẽ làm cho mình được thoải mái hơn
nhưng lại có thể đau đớn thốt lên rằng mình đã “không còn gì cả!”. Ôi,
vợ đã mất rồi! Niềm vui nho nhỏ cuối cùng trong cuộc đời này đã mất
theo!
Giờ
đây, chú không còn ai để quan tâm, để lo lắng, không còn ai để chăm sóc
thương yêu. Trong cuộc sống này, chú không cần bất cứ thứ gì cả nhưng
chỉ cần một người thôi, dù là một người bệnh hoạn, tật nguyền đi chăng
nữa. Nhưng đó là tất cả của chú, một người vợ để thương yêu, một người
bạn đời để chăm sóc, chia sẻ vui buồn. Từ nay, không còn ai để yêu
thương! Thật không còn nỗi cô đơn nào hơn được nữa! Ai có thể thay thế,
lấp đầy hố sâu thăm thẳm trong tâm hồn của chú đây? Cuộc sống từ đây còn
biết lấy ai để chia sẻ, còn có ai để cùng chú trải qua những thăng
trầm, buồn vui trong đời và còn có ai để cho chú tìm được hơi ấm của bàn
tay?
Tôi
có thể nói gì đây, trong hoàn cảnh như thế này? Một người đang đau
buồn, tuyệt vọng vì mất người thân. Tôi có thể nói gì với một người có
vết thương lòng đang rỉ máu? Mời chú đi dự tiệc ư? Tôi có thể sao? Tôi
đang chế giễu, đang cười nhạo người khác ư? Bây giờ, chú đâu còn cần gì
những sự giúp đỡ ấy nữa? Tôi cảm thấy mình cũng thật nhỏ bé và mỏng manh
trước những cơn gió lạnh đang thổi ngoài kia.
Tôi ngồi lại với chú thêm một lát nữa rồi lặng lẽ ra về. Tôi biết, đêm nay, trong thành phố này, có người sẽ cảm thấy lạnh hơn…
Trời đêm Sài thành hôm nay có vẻ như lạnh hơn. Lạnh của đất trời và lạnh cả trong tim…
Phong Trần.
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23887
|
 Gởi ngày: 16/Jan/2018 lúc 10:25am |
Cơn Nước Lũ
Thấy
một thanh niên trông quen quen, mặc quân phục Hải Quân, đi ngược chiều
với mình, Thạch chậm Vespa lại. Nhận ra người bạn thân hồi trước học
trường Hưng Đạo rồi sau cùng vào Đại Học Khoa Học với chàng, Thạch thắng
Vespa, reo lên:
-Luân! Phải Luân không?
Chàng Hải Quân ngạc nhiên:
-Ủa, Thạch! Mày làm gì mà mặc đồ Biệt Động Quân “ngon” vậy?
-Tao bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức; ra trường, xin về Biệt
Động Quân. Còn mày, đi Hải Quân hồi nào? Tao nhớ hình như mày nhỏ tuổi
hơn tao mà.
-Ừ, tao chưa bị động viên; nhưng thấy bạn bè nay đứa này “lên đường”,
mai đứa kia bị thương, mốt đứa khác tử trận, tao chịu không được, tình
nguyện vào Hải Quân.
-Hải Quân mà giờ này lang thang ở đây?
-Chiến hạm vừa về nghỉ bến, tao muốn ghé thăm bà Cô để nhờ nhỏ em chở giùm về nhà Bố Mẹ tao. Còn mày?
-Tao đi phép về thăm gia đình. Mày đi đâu, tao chở mày đi?
Vừa “phóng” lên phía sau Vespa Luân vừa nói:
-Cảm ơn mày. Cô tao ở gần đây thôi.
-Có phải bà Cô mà hồi trước tụi mình thường tới chơi rồi đàn hát “lung tung beng” hay không?
-Đúng rồi.
-Vậy thì tao nhớ rồi.
Thạch chợt nhớ Cô có người con gái đàn và hát rất hay, nhưng chàng
không nhớ tên; vì lúc đó cô bé còn nhỏ, chưa gợi được sự chú ý của thanh
niên.
Thạch dừng Vespa trước nhà Cô. Luân bước xuống, chưa kịp cảm ơn Thạch
thì Thủy Ngọc – con gái của Cô – đi học vừa về. Thủy Ngọc vui mừng chào
Luân và Thạch rồi đi vào nhà. Ánh mắt của Thạch không rời Thủy Ngọc.
Thấy ánh mắt của Thạch, Luân hơi phân vân; vì biết Chú của chàng
không thích nhà binh – nhất là sĩ quan thuộc các quân binh chủng “thứ
dữ” – vì Ông ngại con gái của Ông sẽ…Nhưng nếu, ngay bây giờ, Luân từ
giả người bạn thân từng học chung, đi biểu tình chung, từng “văn nghệ
văn gừng” với nhau trên các sân trường đại học thì Luân không đành!
May quá, nhờ Thủy Ngọc cho biết có Luân và Thạch đến thăm, Cô bước ra cửa:
-Luân! Sao không đưa bạn vô nhà chơi, con?
Luân chưa kịp đáp, Thạch đã vội dựng Vespa, cúi chào:
-Dạ, kính chào Cô. Lâu rồi mà Cô vẫn nhận ra cháu.
-Cháu bận đồ lính thấy khác thật, nhưng Cô vẫn nhận ra. Vô chơi, cháu.
Từ hôm đó, mỗi ngày Thạch đều đến Bến Bạch Đằng, lên chiến hạm HQ505,
rủ Luân đi thăm Cô. Như dạo còn đi học, mỗi khi đến nhà Cô, Thạch
thường đệm Guitar, Luân đàn Piano, Thủy Ngọc đàn Violon; đôi khi ba
người thay đổi nhạc cụ hoặc cùng hát bên nhau.
Sau đó, mỗi khi về phép, Thạch đều đến nhà Cô để thăm Thủy Ngọc. Thời
gian này Thủy Ngọc đã trở thành một thiếu nữ cao, với những đường nét
rất cân đối cùng gương mặt xinh đẹp, nhân hậu và đôi mắt nâu thơ dại.
Chính nét thơ dại trong đôi mắt nâu nồng nàn và khuôn mặt phản phất vẻ
đẹp Tây Phương cùng với tiếng đàn, tiếng hát của Thủy Ngọc mà rất nhiều
chàng trai say mê, theo đuổi nàng.
Thạch thầm tiếc là thời gian trước đây, cùng Luân đến thăm Cô và biết
Thủy Ngọc học cùng trường, Thạch đã không hề để ý đến cô bé con, người
còn “suôn đuột”, “chưa có ngực”. Bây giờ, mỗi lần về phép là mỗi lần hồi
hộp, vì Thạch không biết Thủy Ngọc đã bị ai chinh phục hay chưa!
Riêng Thủy Ngọc, dù biết Bố không thích nàng giao thiệp với nhà binh,
nàng cũng vẫn bị cuốn hút vì bộ quân phục thẳng nếp, mái tóc cắt ngắn,
làn da sạm nắng, dáng đi hiên ngang, đôi mắt nhìn thẳng và thái độ tự
tin.
Tình yêu trong lòng Thủy Ngọc và Thạch âm thầm nảy sinh cho nên chàng
và nàng thường chọn những tình khúc có lời ca ướt lệ để cùng đàn, hát
bên nhau.
Những khi vắng Thạch, Thủy Ngọc thường thẩn thơ một mình, nét mặt
buồn buồn và đôi mắt xa xăm như mong ngóng một điều gì! Khi Thạch về
phép, ghé thăm, Thủy Ngọc tươi cười, líu lo như chú chim non vừa sổ
lồng.
Mỗi khi thấy sự thay đổi thái độ nhanh chóng của Thủy Ngọc, Bố Mẹ của
nàng tự hỏi, tại sao Thủy Ngọc không vui tươi, hớn hở đối với những
thanh niên khác, có bằng cấp và địa vị cao, đang cố chinh phục nàng mà
nàng lại chỉ vui tươi hớn hở với Thạch thôi?
Không những thế, khi Thạch và Thủy Ngọc cùng đàn và hát bên nhau, Bố
Mẹ của Thủy Ngọc để ý: Dư Âm là tình khúc Thủy Ngọc và Thạch cùng đàn và
hát nhiều nhất; kế đến là Love Me Tender. Bố Mẹ của Thủy Ngọc không
hiểu tiếng Anh, nhưng động từ “love” thì Bố của Thủy Ngọc biết. Thế là
Bố chỉ cần nhớ chữ “tender” rồi phiên âm ra tiếng Việt, hỏi Luân. Luân
vô tình và ngay thật cho Bố biết đó là tựa một tình khúc của Elvis
Presley. Bố bảo Luân dịch lời ca ra tiếng Việt.
Sau khi hiểu rõ lời ca, Bố Mẹ trực tiếp cho Thạch hay rằng Ông Bà không cho phép Thủy Ngọc giao thiệp với Thạch nữa!
******
Nơi hậu trường, cách sân khấu bằng một tấm màn dày, thấy Thủy Ngọc
đang hóa trang cho màn trình diễn thời trang, thái độ rất vui và tự tin,
Thầy phụ trách văn nghệ hỏi:
-Thủy Ngọc! Sẵn sàng cả rồi chứ?
-Dạ, thưa Thầy…
Vừa nói ngang đó, Thủy Ngọc chợt dừng lại; vì giọng Tenor của ai nghe
quen quen, vang lên từ bên kia bức màn ngăn cách sân khấu và hậu
trường: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ. Không gian
trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ…”(1) Thủy Ngọc nhíu mày, đứng
lặng như pho tượng! Nhưng trong tiềm thức, tình yêu nàng âm thầm dành
cho Thạch bỗng cuồn cuộn trổi dậy như cuồn phong!
Riêng Thạch, sau khi bị Bố Mẹ của Thủy Ngọc yêu cầu đừng liên lạc với
Thủy Ngọc nữa, Thạch rất buồn và thất vọng! Những lúc hành quân truy
kích hoặc trực thăng vận nhảy ngay trên đầu địch, Thạch quên mất nỗi
buồn; nhưng khi rảnh rỗi hoặc nghe ai đàn, hát một nhạc phẩm mà chàng và
Thủy Ngọc thường đàn và hát bên nhau thì nỗi buồn và sự thất vọng kéo
về, đè nặng trong tim! Giờ đây, đang diễn đạt tất cả nỗi niềm của tác
giả và cũng là niềm đau của chàng, giọng Thạch trở nên tha thiết vô
cùng: “…Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời….Anh như lầu vắng
em như ánh trăng reo muôn ý thơ…Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu
năm tháng mong chờ…”(2)
Mấy năm qua, những kỷ niệm khi Thạch và nàng cùng đàn hát bên nhau
tưởng đã chìm vào dĩ vãng; nhưng bây giờ, tiếng hát cao vút của ai bên
kia tấm màn lại làm cho trái tim của Thủy Ngọc thổn thức âm thầm – nhưng
rất dữ dội!
Thái độ của Thủy Ngọc làm Thầy phụ trách văn nghệ thắc mắc:
-Thủy Ngọc! Chị bình an chứ?
-Dạ…thưa Thầy, ai…ai… đang hát ngoài đó, thưa Thầy?
-Nhận không ra giọng à? Thạch đó. Thạch hồi trước cũng trong ban văn nghệ với Luân và Thủy Ngọc đó, nhớ không?
-Dạ thưa Thầy, hôm tổng dợt, sao con không thấy màn đơn ca của anh Thạch trong chương trình?
-Hôm qua Thạch ghé thăm trường, biết trường có buổi văn nghệ đêm nay,
Thạch xin hát một bài. Nhận thấy Thạch là học trò cũ, năng khiếu văn
nghệ cao, lại lên đường tòng quân, tôi cảm phục và chấp thuận. Thôi, chị
chuẩn bị đi, sắp đến phiên chị đó.
Nói xong, Thầy quay đi. Thủy Ngọc thở dài vừa khi Thạch chấm dứt màn
đơn ca trong tiếng vỗ tay vang dội; rồi nhiều tiếng “bis…bis…” vang lên.
Thạch nói vào micro:
-Xin cảm ơn quý vị, quý Thầy Cô và các bạn. Tiếp theo, Thạch xin trình bày tình khúc My Heart Will Go On của Celine Dion
Lại tiếng vỗ tay. Thạch dạo đàn rồi “bắt” vào: “Every night in my
dreams, I see you, I feel you that is how I know you go on. Far across
the distance and spaces between us you have come to show you go on…”
Theo giọng hát buồn buồn của chính mình, Thạch nhớ những buổi chiều im
vắng, sau khi hành quân trở về, chàng thường ôm Guitar, vừa đàn vừa hát
vừa nhìn dòng suối cạn phía xa trong khi hoàng hôn lũ lược kéo về phủ
xuống núi rừng thâm u.
Nơi vùng núi rừng thâm u đó, mỗi khi đoàn quân dừng chân, Thạch
thường chạnh lòng nghĩ đến phận đời của chàng và của những thanh niên
cùng thế hệ với chàng – ở miền Nam – rời gia đình, xa người thân và bạn
hữu, phải hành quân liên miên để chống trả những đợt tấn công ác liệt
của Bắc quân xâm lược!
Suốt thời gian được tăng phái, Thạch không thể nhớ được bao nhiêu lần
đơn vị chiến lược này bị “tiền pháo, hậu xung” và bị tấn công bằng
chiến thuật “biển người”. Thạch chỉ nhớ lần cuối cùng, để giải tỏa áp
lực của Bắc quân quanh đơn vị chiến lược này, đơn vị của chàng được lệnh
tham dự cuộc hành quân hỗn hợp với một đơn vị Bộ Binh, vào một ngày mưa
to gió lớn, có thiết giáp yểm trợ để càn quét các đơn vị Cộng Sản Việt
Nam từ Bắc xâm nhập.
Chính trong cuộc hành quân quy mô này Thạch bị Bắc quân dùng súng CKC
bắn sẻ, khi Thạch đang khom người điều quân qua ống liên hợp. Viên đạn
trúng chân trái của Thạch. Thạch và Tiểu Đoàn Trưởng Thiết Giáp xin trực
thăng tải thương; nhưng thời tiết quá tệ và cũng vì súng phòng không
của địch bắn lên xối xả, trực thăng không thể “bốc” thương binh!
Khi được đưa về quân y viện, vết thương đã sưng to và làm độc!… Nhớ
đến đây, giọng Thạch trở nên nghẹn ngào, đầy u uất:“…And my heart will
go on and on. Love can touch us one time and last for a lifetime and
never let go till we’re gone…”
Trong khi nén xúc động, cố kềm nước mắt để Thầy và bạn khỏi biết, Thủy Ngọc chợt nghe các nam sinh “xầm xì”:
-Anh Thạch “hết sẩy”! Ảnh “ngon” thiệt!
-Tội nghiệp ảnh quá!
Hai tiếng “tội nghiệp” khiến Thủy Ngọc tò mò. Bước đến bên trái sân
khấu, nhìn ra, Thủy Ngọc ôm ngực, tưởng như trái tim của nàng đã thoát
khỏi lồng ngực! Trước mắt nàng, Thạch – trong quân phục Biệt Động Quân,
mũ nâu vắt hờ vào cầu vai trái – đang ngồi trên ghế, chiếc nạn gỗ dựa
thành ghế, hai tay của Thạch ôm Guitar. Thạch tựa thùng Guitar lên bắp
vế chân phải và đệm theo tiếng ca não nùng của chàng. Như không tin vào
mắt mình, Thủy Ngọc cố thay đổi vị thế nhưng nàng cũng chỉ thấy một
chiếc giày trận bên chân phải của Thạch thôi!
Trong khi Thủy Ngọc run rẩy, nước mắt nhạt nhòa thì Thạch hát đến câu
cuối: “…We’ll stay forever this way. You are safe in my heart. And my
heart will go on and on.” Thạch cúi chào. Cả hội trường vừa vỗ tay vừa
đứng lên.
Thủy Ngọc hy vọng rằng Thạch sẽ vào hậu trường bằng cánh trái để nàng
có dịp trực diện với chàng; nhưng, không hiểu vì vô tình hay cố ý,
Thạch rời sân khấu bằng cánh phải. Thủy Ngọc ôm mặt, khóc như mưa!
Vài cô bạn cho Thầy phụ trách văn nghệ biết sự việc đang xãy ra cho Thủy Ngọc. Thầy đến, đưa Thủy Ngọc ra sau tấm màn:
-Tại sao chị lại xúc động quá độ như vậy?
Tự nhủ, sẽ không để niềm đau thương của riêng mình ảnh hưởng đến buổi
văn nghệ mà toàn trường đã dày công tập luyện, Thủy Ngọc trở nên bình
tĩnh một cách lạ thường:
-Thưa Thầy, con xin lỗi. Như Thầy biết, anh Thạch là bạn cùng lớp với
anh Luân của con. Anh thạch thường đến nhà con hòa đàn với anh Luân và
con. Bây giờ, bất ngờ thấy anh Thạch như thế con chịu không được!
-Tôi hiểu. Chị nghĩ chị có vững tinh thần để giữ tiết mục độc tấu Violon hay không?
-Dạ, thưa Thầy…
Bất ngờ một ý nghĩ thoáng qua, Thủy Ngọc tiếp:
-Thầy cho con xin một đặc ân, được không ạ?
-Vâng, chị cứ nói.
-Thưa Thầy, con xin Thầy cho con được đổi mục độc tấu bằng mục đơn ca.
Đã từng nghe Thủy Ngọc hát nhiều lần trong những buổi văn nghệ trước đây, Thầy gật đầu:
-Vâng. Chị cho người giới thiệu chương trình biết sự thay đổi này và
cho anh đàn Guitar biết “tông” và nhịp điệu của bản nhạc, nhé!
-Dạ. Con xin cảm ơn Thầy.
Sau khi nghe người điều khiển chương trình giới thiệu Thủy Ngọc sẽ
trình bày ca khúc Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy, Thạch cảm thấy bồi hồi,
xúc động! Nhìn dáng Thủy Ngọc thướt tha bước ra, cúi chào, đến sau micro
rồi kéo micro cao hơn, Thạch tự hỏi, không biết tình cờ Thủy Ngọc chọn
ca khúc này hay là…Thạch thở dài, lắc đầu, không muốn nghĩ tiếp.
Dạo phân đoạn đầu xong, người đàn Guitar “rải” một tràng hợp âm và
Thủy Ngọc “bắt” vào: “Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả
lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ.
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…” Nét mặt thống khổ, hai hàng
nước mắt tuôn dài cùng tiếng ca nức nỡ của Thủy Ngọc khiến tất cả khán
giả bàng hoàng đến sửng sờ!
Đến đoạn điệp khúc, giọng Soprano của Thủy Ngọc vút cao: “…Anh trở về
nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa
quen. Cố quên đi một lần gian dối, anh ơi!…”. Một quân nhân mặc quân
phục Biệt Động Quân, chống nạn, khập khểnh rời hội trường; vì trái tim
của quân nhân này không thể nhận thêm bất cứ sự đau đớn, dày vò nào
nữa!…
******
Thấy Luân cùng với Bố Mẹ đến thăm, Ni Cô Diệu Thu rất ngạc nhiên;
càng ngạc nhiên hơn nữa khi Ni Cô thấy thái độ của Luân rất bối rối, bồn
chồn và Bố Mẹ thì lo âu, buồn bả, chứ không bình thản như những lần Bố
Mẹ đến thăm nàng trước đây. Luân nhập đề ngay:
-Ni Cô có theo dõi thời sự hay không?
-Dạ không. Nhưng em nghe nhiều Phật tử bàn tán.
-Cô Chú muốn tôi đưa lên đây để thuyết phục Ni Cô cùng di tản với gia đình.
-Thưa Bố Mẹ, thưa anh, con đã an trú cửa Phật rồi thì đâu có gì mà phải di tản?
-Ni Cô chưa hiểu bản chất của Cộng Sản đâu. Ni Cô nên nghe lời, về
nhà cùng đi với gia đình; gia đình không bao giờ ra đi mà để Ni Cô ở
lại.
Quay sang Bố, Ni Cô giải thích:
-Thưa Bố Mẹ, người đã thành tâm xuất gia thì không bao giờ chọn sự
sung sướng cho bản thân mà chỉ cầu an vui cho tha nhân. Con chỉ muốn sớm
tối nương tựa cửa Phật và phát huy đạo pháp.
Giọng Bố rất buồn:
-Nếu Ni Cô muốn phát huy đạo pháp thì Ni Cô nên đi với gia đình; dù
gia đình cũng chưa biết sẽ đi đâu và đến đâu. Nhưng gia đình – nhất là
các em trai của Ni Cô – không thể nào ở lại với Cộng Sản. Đến bất cứ
đâu, Ni Cô cũng có thể rao truyền về Phật Giáo để cảm hóa con người.
-Thưa Bố, nếu muốn cảm hóa con người một cách thiết thực thì con nên ở
lại Việt Nam để cảm hóa những kẻ ác – những kẻ đã tạo ra không biết bao
nhiêu đau thương cho dân tộc Việt Nam!
Rất ngạc nhiên trước sự suy luận rất hiện thực của Ni Cô, nhưng Bố vẫn thuyết phục:
– Ni Cô nên nhớ, ở ngoại quốc rất ít người theo đạo Phật; Ni Cô nên ra đi để có cơ hội giúp người ngoại quốc hiểu về Phật Giáo.
-Thưa Bố, con nghĩ, trên thế giới, bất cứ người nước nào cũng có
nhiều thiện tâm hơn người Việt mình; thế thì người ngoại quốc không cần
con phải đem đạo lý của Đức Phật ra giảng cho họ.
-Lý do nào Ni Cô lại nói như thế?
-Bố và anh Luân nghĩ xem, trên thế giới có quân đội nào xua quân tàn
sát gần như trọn vẹn dân chúng của một thành phố lớn, như Huế, năm 1968?
Có quân đội nào mỗi ngày pháo kích cả ngàn quả đại pháo hoặc hỏa tiễn
120 ly vào các thành phố đông dân cư, như Bình Long, An Lộc rồi pháo
kích ngay vào trường học Cai Lậy và bệnh viện Long An? Có quân đội nào
pháo kích chính xác và điên cuồng vào đoàn dân chạy loạn từ Quảng Trị
vào Huế năm 1972 và từ Đà Nẵng sang Tiên Sa vào tháng cuối Ba năm 1975?
Có quân đội nào đưa ra chiến trường thanh niên 15, 16 tuổi rồi buộc
những thanh niên này phải thực hiện chiếc thuật biển người? Có quân đội
nào, ngay sau khi cưỡng chiếm được mục tiêu, đã xua đuổi tất cả thương
binh ra khỏi những quân y viện của “bên thua cuộc”? Câu giải đáp là: Chỉ
có Quân Đội Cộng Sản Bắc Việt mới vô nhân tính khi thực hiện những hành
động tàn ác đó. Những hành động dã man như thế không thể gọi là chiến
đấu.
-Nếu Ni Cô hiểu được như thế thì Ni Cô càng nên ra đi, xa lánh kẻ ác.
Nơi môi trường mới Ni Cô cũng vẫn có thể hoành dương đạo pháp.
-Thưa Bố, nếu cần phải dùng tín ngưỡng để cảm hóa con người thì chúng
ta nên dùng tín ngưỡng để cảm hóa kẻ ác trước; và kẻ ác cần phải cảm
hóa chính là những người Cộng Sản Việt Nam; vì họ đã bị đầu độc, bị cổ
xúy, rồi dùng vũ khí của Nga, Tàu và tất cả mọi thủ đoạn để giết người
miền Nam với chủ đích cướp đi phần đất mà chính những kẻ ác đó đã đồng ý
phân chia từ năm 1954!
Luân có vẻ sốt ruột:
-Chúng ta không có thì giờ để tranh luận. Ni Cô nên nghe lời Cô Chú kẻo Cô Chú buồn.
-Thưa Bố Mẹ, con xin lỗi Bố Mẹ. Bố Mẹ cho con ở lại để con được thực hiện hạnh nguyện của con.
Đến lúc này, không thể kềm giữ tình cảm được nữa, Mẹ khóc ròng:
-Con ơi! Bố Mẹ chỉ có con là con gái, không hiểu vì lý do gì con đi
tu, Mẹ đã đau buồn nhiều lắm rồi! Bây giờ con lại đành đoạn ở lại thì Mẹ
sống sao nỗi, con ơi!
… Kể đến đây, Luân cảm thấy đau lòng quá, vội nhìn xuống để Thạch
không thấy đôi mắt ửng đỏ của Luân. Cả hai im lặng rất lâu. Nhìn vùng
biển lao xao phía xa của trại tỵ nạn Orote Point, Guam, tâm trí của
Thạch quay cuồng. Cảm giác hụt hẩng và trạng thái chối bỏ quyện vào nhau
khiến Thạch cảm thấy nhức đầu và gần như ngộp thở! Cảm giác này cũng
tương tự như buổi sáng năm nào, tại quân y viện Pleiku, Thach tỉnh lại,
nhận ra chân trái của chàng không còn nữa!
Luân hỏi:
-Thạch! Lần cuối cùng mày thấy hoặc gặp Thủy Ngọc là lúc nào?
Thạch kể lại diễn tiến buổi văn nghệ liên trường. Luân thở dài:
-Thế thì tao hiểu rồi. Tội nghiệp em tao! Nó giữ kín niềm đau, gia
đình không ai biết. Tại sao mày bị thương mà mày cũng giấu tao?
-Vì mày biết thì Thủy Ngọc biết.
-Nếu thế thì mày tham dự văn nghệ liên trường để làm gì?
-Tình cờ ghé thăm trường tao mới biết có buổi văn nghệ đó. Tao suy
nghĩ và muốn đích thân tao giải bày nỗi niềm của tao với Thủy Ngọc chứ
tao không muốn người khác mách lại.
Bất ngờ nghe Luân vô tình nói tên ngôi chùa mà Thủy Ngọc đang tu, tâm
trạng của Thạch rối bời và trí óc quay cuồng! Sau khi bằng lòng với
quyết định của mình, Thạch bảo:
-Thôi, tao đi!
-Đang sắp hàng lấy phần ăn, sắp tới phiên rồi, sao mày lại bỏ đi?
Thạch vẫy tay, khập khểnh bước đi…
******
Nhờ số tiền những người di tản biếu trước khi Thạch trở về trên
thương thuyền Việt Nam Thương Tín – khi Thạch bị giam tại Nha Trang, ban
quản giáo tịch thu hơn một nửa – Thạch đi xe đò về Saigon, đến ngay
ngôi chùa mà Luân đã vô tình nói tên.
Sư Cô trù trì cho Thạch biết, lý do Ni Cô Diệu Thu xin hoàn tục là vì
Bố Mẹ của Ni Cô bị “cách mạng” cho đi kinh tế mới. Ni Cô biết Bố Mẹ
không quen lao động cực nhọc, Ni Cô muốn nhận lãnh trách nhiệm của người
con bất hiếu! Bao giờ Bố Mẹ quy tiên, Ni Cô sẽ trở lại con đường tầm
đạo!
Đến nhà Thủy Ngọc, chỉ thấy những kẻ quê mùa, đen đúa, còi cọc và hầu
như ai cũng có đôi má gồ, răng vẩu, đầy cáu bẩn, đôi mắt láo liêng như
rình rập ai, như sợ sệt điều gì và phát ngôn the thé thứ tiếng Bắc rất
lạ tai, Thạch than thầm: “Những kẻ này mà thắng mình được sao, Trời!”
Đến nhà Bố Mẹ của Luân, Thạch cũng chỉ thấy những người của “bên thắng cuộc”!
Thạch về nhà Cha Mẹ. Một người đàn ông – cũng da xanh mét, răng hô,
má gồ và đôi mắt láo liêng như sợ sệt, như theo dõi ai – bước ra, hỏi:
-Anh cần gì?
-Cách nay không lâu, tôi ngụ tại ngôi nhà này.
-Ô, thế anh “nà” con của ông Trưởng Ty…
Thạch đáp nhanh, không để ông này nói tiếp:
-Vâng. Tôi là con cả.
-Thế anh “nà” đại úy Biệt Động Quân, đúng không?
-Vâng.
-Tôi được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này, ngoài ra chúng tôi không biết gì cả.
Thạch thầm nghĩ “Chiến thắng để được như thế này hèn chi ‘cha con nó’ mới thề ‘sinh Bắc tử Nam’!” rồi hỏi:
-Thế ông biết Ba Má tôi dời đi đâu không?
-Gia đình tôi mới dọn vào nhà này khoảng vài tháng thôi nên tôi chả biết.
Thạch cảm ơn ông rồi bùi ngùi quay đi.
Lang thang, đau khổ và lạc lõng ngay trên Quê Hương mà chàng đã để
lại một phần thân thể, Thạch bỗng nghe tiếng hát nghẹn ngào của một
thương binh “Ngụy” đang ngồi xin tiền bên gốc cây: “…. Chạnh lòng tìm
người em gái cũ, em tôi đã đi phương nào? … Giờ này tìm đâu hình bóng
cũ, em ơi! Em đi về đâu?… Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân
nơi sa trường. Ngày thì tìm vui bên tiếng súng khi đêm anh vui với
đàn…Dù mộng tàn phai trong thương đau…”(3)
Tiếng ca ai oán của anh thương binh như cơn nước lũ cuốn đi tất cả sự
kiên nghị, bản tính can cường và ý chí phấn đấu của Thạch! Thạch hơi
cúi đầu, bậm môi thật chặt rồi kín đáo đưa tay quẹt nước mắt!…
ĐIỆP MỸ LINH
(1) và (2) Dư Âm của Nguyễn Văn Tý
(3) Chiều Hành Quân của Lam Phương
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23887
|
 Gởi ngày: 18/Jan/2018 lúc 7:51am |
Xuân Về Nơi Xứ Người

Khá vất-vả Thủy mới tìm được chỗ đậu xe trong một khu
chợ Việt-Nam. Hôm nay đã là 28 Tết. Mọi người đang bận-rộn, náo-nức đón
thêm một cái Tết Việt trên đất Mỹ. Người ta đi chợ đông như đi trẩy-hội.
Ngày mai chợ-búa bớt đông người hơn, vì người ta còn để thì giờ lo
chuẩn-bị đón giao-thừa, và cũng vì đã mua đủ mọi thứ cần dùng trong nhà
vào những ngày trước rồi.
Thủy đã định sắm-sửa từ mấy hôm trước để hôm nay được
rảnh-rang ở nhà, nhưng rồi những công-việc không tên ở sở cứ nhè những
ngày cuối-cùng của năm hết Tết đến ùa tới, khiến ngày nào Thủy cũng phải
làm thêm giờ để cho xong. Trong sở, mấy người Việt-Nam xì-xào to nhỏ là
lão giám-đốc Gordon định bày trò “đì” người Việt-Nam và người Tàu, vì
lão biết Tết là ngày lễ truyền-thống rất quan- trọng đối với những người
này, “đì” chơi cho bõ ghét. Họ còn bảo là lão Gordon kỳ-thị chủng-tộc.
Chỉ có Thủy là không nghĩ như thế. Thủy không nghĩ là lão Gordon lại tệ
như vậy. Nếu thực-sự ghét người Việt-Nam và người Tàu, với tư-cách và
quyền-hành giám-đốc, lão đâu cần phải làm như vậy. Ngược lại, lão có
nhiều cách khác, êm-ái hơn và có thể còn ghê-gớm hơn đối với những người
bên dưới lão, mà chẳng ai làm gì được. Tuy trong lòng bênh-vực lão
giám-đốc nhưng phải làm bù đầu bù cổ vào mấy ngày cận Tết, Thủy cũng
thấy khổ thật. Lẽ dĩ-nhiên làm thêm giờ là sẽ lãnh thêm tiền. Nhưng ai
cũng biết là tiền-bạc đôi lúc chẳng có giá-trị gì.
Sau khi đã khóa xe, Thủy bước vào trong chợ. Đây là một
ngôi chợ do người Việt-Nam làm chủ. Ngôi chợ khá lớn, bán gần như đầy-đủ
mọi mặt hàng cần-thiết cho đời sống hàng ngày của mọi người. Hôm nay, Thủy
sẽ có dịp nói tiếng Việt mệt nghỉ, bù lại những tháng qua, ngày nào
cũng 8-9 tiếng Thủy phải nói hay đọc tài-liệu bằng tiếng Anh, chán chết.
Đợi lúc lão Gordon vui-vẻ, Thủy xin nghỉ một ngày để đi lễ chùa.
Đã lâu Thủy không có thì-giờ bén-mảng tới các cửa chùa. Ở quận này
bây-giờ có những ngôi chùa rất lớn làm Phật “phân-vân” không biết vô
chùa nào. Thủy chỉ đi lễ 1-2 chùa thôi, chùa nhỏ cũng được, và không cần
phải đi cả 10 chùa như người ta. Vậy là ngày mùng một Thủy sẽ đi chùa.
Lúc đầu lão Gordon có vẻ không bằng lòng. Thủy phải nói mãi, lão mới
chịu. Thủy định bụng, nếu lão Gordon không chịu, Thủy cứ nghỉ “đại” rồi
“ra sao thì ra”, một năm mới có 1 lần mà, nhưng may quá, sau cùng, lão
đã chịu-thua “con Việt-Nam” bé-nhỏ này.
Sự bề-thế của ngôi chợ cũng đủ cho thấy sự thành-công
của chủ nhân. Sau tháng tư 1975, hàng triệu người Việt ra đi, tản-mác
khắp thế-giới. Trong số này có những người trẻ thành-đạt trên đường
học-vấn, nắm giữ những vai-trò quan-trọng trong guồng-máy xã-hội, kể cả
chính-trị, và có những người thành-công về mặt kinh-tế, trở thành
chủ-nhân nhiều cơ-sở thương-mại. Rất nhiều người bản xứ đã phải
khâm-phục và kính-trọng người Việt-Nam. Chỉ tiếc rằng cộng-đồng người
Việt chưa có được sự đoàn-kết đúng mức, nên còn có những điểm tiêu-cực
hoặc thất-bại đáng tiếc. Có một số ít còn có tinh-thần bè-phái và
tham-quyền cố-vị. Đã có một thời-gian dài, cộng-đồng người Việt ở Nam
Cali có tới ba tổ-chức đại-diện. Tổ-chức nào cũng tự cho mình là
đại-diện chính-thức của cộng-đồng. Nhưng khi gặp chuyện thì chẳng thấy
anh-hùng hảo-kiệt nào cả. Bây giờ nói tới, người ta vẫn còn lắc đầu
ngao-ngán.
Qua mấy kệ hàng, Thủy thấy có những thứ rất đặc biệt
dành cho ngày Tết như bánh chưng, bánh tét, mứt, hạt dưa, trái cây, có
cả củ kiệu và hành ngâm trong những hũ nhỏ xinh-xinh bằng thủy-tinh đậy
kín.
Quầy thịt cá cũng là nơi thu-hút các bà nội-trợ mạnh-mẽ
vào những ngày cuối năm. Người ta chỉ chỏ, chọn-lựa, khen-chê, nhộn-nhịp
cả một góc chợ. Thủy ở cách đây hơn một giờ lái xe. Bình-thường Thủy đi
chợ Mỹ ở gần nhà, mua những món ăn gần giống như người Mỹ và có cuộc
sống cũng gần giống như người Mỹ bản-xứ. Mỗi tháng một lần, có khi lâu
hơn, vì nhà xa, vì bận-rộn gia-đình và công- việc, Thủy mới lái xe tới
đây, đi chợ Việt-Nam để mua những món ăn thuần-túy quê-hương. Hai đứa
con của Thủy, đứa bốn tuổi, đứa sáu tuổi, không đứa nào thích ăn cơm
Việt-Nam cả, nhất là khi phải ăn những món có mùi vị lạ, khó ngửi như
nước mắm, mắm ruốc…
Dù vậy, hai vợ chồng Thủy vẫn dạy cho hai con nói tiếng
Việt, tập cho chúng cách cầm đũa và ăn những món hợp với khẩu-vị của
người Việt như cá-kho, canh mùng-tơi, bầu, bí hay khổ-qua…
Vợ chồng Thủy vẫn thỉnh-thoảng kể chuyện cho các con
nghe về Việt-Nam, về thành-phố Sài-Gòn nơi Thủy đã ra đời, về những vùng
đất quê-hương Thủy đã được bố mẹ đưa đi chơi vào những ngày còn nhỏ.
Thực ra, sự hiểu biết của Thủy về Việt-Nam không bao nhiêu, vì ngày bố
mẹ đưa Thủy lên thuyền vượt biên, Thủy mới chỉ là cô bé 14, 15 tuổi. Sau
này qua tới Mỹ, nhờ đi học những lớp đặc-biệt, đọc thêm sách báo, xem
phim ảnh, và nghe kể chuyện, Thủy có thêm những hiểu biết mới về
quê-hương của mình. Thủy đọc nhiều sách về lịch-sử, địa-lý, văn-học…để
bù-đắp cho những thiếu-sót của mình. Thủy cảm thấy tội-nghiệp cho một
vài người bạn cùng sở. Họ có rất ít khiến-thức về Việt-Nam, có người nói
tiếng Việt cũng chưa rành. Hỏi họ về Nguyễn-Du, Cao-Bá-Quát, Tú-Xương,
Nguyễn-Khuyến… họ chỉ cười trừ “ù ù cạc cạc”cho xong chuyện.
Thủy đứng khá lâu ở quầy thịt cá. Ở đây mọi thứ đều
sạch-sẽ. Hồi còn ở Việt Nam, Thủy được mẹ dẫn đi chợ. Thủy đã thấy những
khu bán thịt cá hôi-tanh, dơ-bẩn. Còn các bà bán hàng thì máu thịt cá
văng dính đầy tay, đầy áo, có khi văng cả lên mặt mũi, nhìn thấy mà sợ.
Điều đặc-biệt ở Mỹ, những người bán ở quầy thịt cá thường là nam-giới.
Họ phục-vụ rất nhiệt-tình và vui-vẻ. Nhìn những miếng thịt sạch-sẽ xếp
trong quầy kính, Thủy chợt nhớ tới nồi thịt heo mẹ nấu ở quê nhà vào
những dịp Tết đến. Cái nồi thật to, bên trong óng-ánh mỡ với những miếng
thịt xắt lớn chen với những quả trứng vịt no căng. Chỉ nhìn thôi cũng
đã thấy thèm. Ở Mỹ, những nồi thịt heo to, béo-ngậy như thế ít có người
dám nấu. Nếu nấu, cũng chẳng ai dám ăn. Người ta sợ ăn vào sẽ bị bệnh,
phải vô nhà thương nằm, khổ thêm. Nghĩ thật lẩm-cẩm. Ở quê xưa đói ăn,
nên ăn gì cũng thấy ngon, chẳng sợ bệnh-tật gì cả. Có ăn là may rồi. Còn
ở Mỹ, thực-phẩm rẻ ê-hề, người ta lại sợ ăn vào mắc bệnh, nào là bệnh
có mỡ trong máu, tiểu đường, nhồi máu cơ tim, tắc nghẽn mạch máu não,
đau gan, đau thận. Thôi thì tùm lum đủ thứ bệnh trên đời.
Hơn một tiếng đồng-hồ đi qua, Thủy vẫn chưa mua đủ những
món cần-thiết. Ngày hôm qua Thủy đã cẩn-thận làm một cái list dài, kê
ra những món cần mua để cho khỏi quên. Nhìn cái list của Thủy, Bình
cười, nói ghẹo vợ: “Em định 23 tháng chạp này lên chầu Ngọc-Hoàng, trình
sớ táo-quân hả?” Thủy cười, đáp lời chồng: “Em đã lên thiên-đình trình
sớ tuần trước rồi. Mua cả trăm thứ, em sợ lu-bu rồi quên món này món
nọ.” Ở trong chợ, Thủy cứ đi qua đi lại mấy dãy hàng. Hết quầy thịt cá
lại tới quầy bán thực-phẩm khô, tới chỗ bán trái cây, bánh mứt, rồi trở
lại quầy thịt cá. Thủy nghĩ là không phải riêng mình, mà hầu hết các bà
nội-trợ đều như vậy. Cuối năm, hình như ai cũng có vẻ tíu-tít, bận-rộn.
Trở lại chỗ bán trái cây, Thủy nhận thấy giá cả hơi cao
một chút so với ngày thường. Không sao cả. Tết-nhất mà. Thủy lựa một
trái măng-cầu, nâng lên ướm thử. Có lẽ cũng đến hơn 3 pounds. Rồi Thủy
lại lựa một trái đu-đủ xanh, vừa lựa vừa ngẫm-nghĩ. Theo tục-lệ của
người Việt-Nam, đặc-biệt là người miền Nam theo đạo Phật, ngày Tết người
ta phải bày-biện trên bàn-thờ những trái cây như măng-cầu, đu-đủ, dừa,
thơm và xoài cho đủ mâm ngũ quả. Người Việt hiền-hòa, dễ-thương, họ chỉ cầu mong vừa đủ xài thôi. Lúc đầu Thủy không hiểu, sau nghe mẹ giải-thích, Thủy mới vỡ-lẽ. Người miền Nam phát-âm chữ vừa và dừa gần như nhau. Còn chữ xoài thì đọc chệch ra là xài. Cũng vậy, vào dịp Tết có người còn kiêng không bày chuối trên bàn-thờ, vì không muốn bị trượt vỏ chuối hoặc là té chúi trong năm. Ngoài ra, cũng có nhà không muốn bầy cam, vì không muốn đành cam phận đói-nghèo, khổ-sầu quanh năm.
Nghe mẹ giải-thích như thế, Thủy đã cười lớn, tỏ vẻ không tin. Mẹ
nói: “Đó là tín-ngưỡng và cũng là văn-hoá rất đặc-thù của người Việt-Nam
mình. Tin hay không là tùy ở mỗi người. Không biết đó có phải là mê-tín
dị-đoan không, nhưng theo mẹ thì…có kiêng có lành, con à.”
Thủy lựa một cặp bánh chưng. Cận ngày Tết quá rồi không thể đặt được.
À, sao không mua bánh tét nhỉ? Không được, ăn bánh tét coi-chừng cả năm
téc việc ra. Ngẫm-nghĩ, Thủy cười một mình. Thủy
còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn người,
ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ đi, nhưng vẫn phải mua cho đầy-đủ.
Chợt nhớ ra, Thủy mua thêm một ít giấy vàng bạc. Chiều mai phải rước
ông Táo về nhà theo đúng nghi-thức tập-tục. Rước cả ông bà về nữa chứ.
Thủy định bụng sẽ đốt giấy vàng bạc ở trong bếp. Không được. Đốt như thế
khói sẽ bay mù lên, rồi cái máy smoke detector sẽ kêu um-lên. Có thể bà
Susan bên hàng-xóm tưởng là nhà có hỏa-hoạn, sẽ hớt-hải chạy qua, gọi
911 hay Cảnh-sát thì khổ. Thôi được, Thủy sẽ đốt ở ngoài vườn sau.
Chuẩn-bị một cái thùng sắt và vòi nước là được rồi.
Thủy còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn
người, ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ vào thùng rác, nhưng vẫn
phải mua cho đầy-đủ.
Thủy không quên mua một bó nhang, mấy cây đèn cầy và một hộp kẹo
thèo lèo cứt chuột để cúng ông bà. Ờ, sao người ta không nghĩ ra một cái
tên gì cho hay-hay và thơm-tho hơn cái tên “thèo- lèo cứt chuột” nhỉ?
Cái tên này nghe thiệt là “quái-đản” và không “thanh-nhã” lắm.
Ngày xưa khi còn nhỏ, mỗi lần theo mẹ đi chợ Tết ở
Việt-Nam, Thủy nhớ mẹ mua cả pháo nữa. Mẹ nói là Tết mà không có pháo
không phải là Tết. Đêm giao thừa Thủy buồn ngủ rũ người, nhưng vẫn cố
banh mắt ra, đợi ba đốt cho hết bánh pháo. Tiếng nổ lách tách đùng làm
Thủy phải bịt tai lại, vừa sợ vừa thích-thú. Trong tràng pháo thế nào
cũng có vài trái pháo đùng, nổ to đến nỗi Thủy phải chạy vào trong bếp
để trốn. Ở Mỹ không chỗ nào bán pháo nổ to như thế, vì rất nguy-hiểm.
Ngày July 4, người ta chỉ được phép chơi pháo bông. Còn ở những đám cưới
chỉ có loại pháo nhỏ, nổ lẹt-đẹt cho vui một chút vậy thôi.
Nhẩm tính lại một lần nữa, Thủy thấy là mình đã mua
đầy-đủ mọi thứ cần-thiết. Chiếc xe đầy ắp. Thủy thấy lòng mình reo lên
một niềm vui. Vậy là năm nay gia-đình Thủy ăn một cái Tết khá to và khá
đẩy-đủ, chẳng thua gì Tết ở Việt-Nam. Đúng như nhiều người đã nói, chúng
ta ra đi mang theo quê- hương. Chúng ta ra đi mang theo cả tình người
và tình-tự dân-tộc. Chỉ tiếc là thiếu không-khí thực-sự Việt-Nam ở đây.
Nhưng không sao cả. Cám ơn ngôi chợ này đã bán đầy-đủ các mặt hàng
cần-thiết cho đời sống hàng-ngày của mọi người. Cám ơn tất-cả mọi người
Việt-Nam đã đến bằng những nụ-cười và bằng sự can-trường để tạo nơi đây
thành một góc quê-hương. Cám ơn tình-người vẫn còn bao-la, tốt-đẹp. Cám
ơn mùa xuân vẫn còn rộn-rã tiếng chim.
Sau khi trả tiền, Thủy đẩy xe ra ngoài. Mặt trời đang
tỏa ánh nắng ấm-áp. Có những quầy bán hoa dọc theo hành-lang, bầy nhiều
loại hoa rất đẹp, khoe màu-sắc tươi-thắm. Thủy dừng chân. Những chậu hoa
vạn-thọ, hoa cúc, và những cành mai vàng chi-chít nụ đã làm Thủy nhớ
quê-hương da-diết.
Tưởng là Xuân chẳng về đây nữa Buổi sáng bừng lên những tiếng chim Ríu- rít trên cành mai mới nở Lòng ta thôi nhé hết im lìm…
-Mua hoa đi, cô. Hoa này nhà trồng, mới hái sáng nay. Bà bán hoa đon-đả mời Thủy.
Thủy chỉ chậu hoa cúc đại-đóa. Hoa chưa nở hết. Những cánh hoa khép-nép bên nhau, đẹp lạ-lùng.
-Chậu này lớn, cô cho 9 đồng.
-Thế còn chậu kia? Thủy hỏi.
-Chậu đó lớn hơn, 11 đồng.
Thủy ngần-ngừ, nửa muốn mua, nửa không. “Bác có nói thách không vậy? Nói đúng giá đi, cháu mua.”
Bà bán hoa lắc đầu.
-Giá-cả như vậy là đúng rồi, cô à. Không mắc đâu.
Cuối cùng, Thủy mua được hai chậu cúc với giá phải-chăng
sau khi “cò kè bớt một thêm hai” với bà bán hoa. Người Việt mình có
điểm “đáng yêu” là buôn-bán ưa nói thách. Các món hàng thường không ghi
giá tiền. Có khi họ nói giá trên trời dưới đất làm cho người mua không
biết đâu mà trả giá, nhất là ở Việt-Nam. Thủy nghe dì Giang kể, có lần
bà bị bà bán trái cây ở chợ An-Đông chửi te-tua vì đã trả giá thấp.
“Chúng ta ra đi mang theo quê hương”. Cách buôn bán chua-ngoa, nói thách
giá như vậy đã được một số người mang theo ra nước ngoài. Bình-thường
Thủy rất ngại mua những mặt-hàng không ghi giá bán, vì như vậy sẽ phải
mặc cả, và chuyện này thì Thủy lại rất dở. Thủy thích mua sắm ở tiệm Mỹ
vì giá cả rõ-ràng hơn và sự phục-vụ cũng tận-tình, ân-cần hơn. Ở tiệm
Mỹ, tùy theo món hàng, sau khi mua rồi, nếu không ưng ý, có thể trả lại
trong vòng một thời-hạn nào đó, có khi tới 90 ngày.
-Còn phải mua một cành mai nữa chứ. Thủy vừa đi về phía
hàng hoa, vửa nhắc mình. Tết dù ở đâu mà thiếu một cành mai đều không
phải là Tết. Thủy có trồng một cây mai
Nhật-Bản. Cây lớn lên, cuốn quanh hàng rào. Gần Tết, mai nở hoa vàng phủ
xuống tới đất, cũng đẹp lắm. Nhưng có một cây mai Việt vẫn thích hơn. À, phải rồi, còn phải mua một cuốn lịch “giả” Tam-Tông-Miếu, nữa chứ. Mỗi buổi tối hay sáng hôm sau, Bình sẽ bóc một tờ để đánh dấu một ngày cũ đã qua đi, hay bắt đầu một ngày mới sắp tới.
Và, sau cùng, thế nào cũng phải có một tờ Báo Xuân. Thế mới là…Tết chứ.
Bình sẽ phụ-trách đọc mỗi đêm một bài cho đến khi không còn gì để đọc mới thôi. Lẽ
dĩ-nhiên phải bỏ qua phần quảng-cáo“đông trùng hạ thảo” trị bá-bệnh.
Báo Xuân bán 8 đồng một cuốn, lại còn tặng một cái thẻ điện-thoại 2
đồng. Vậy là Giai-Phẩm Xuân chỉ có 6 đồng với gần trăm bài, chắc là hay,
chỉ có 6 đồng một cuốn. đọc cả năm. Quá rẻ. Rẻ hơn tô phở Kobé nữa. Ăn
xong là hết.
Lái xe về đến nhà vào lúc 3 giờ chiều. Thủy nhìn thấy bà Susan đang ở ngoài vườn. Thấy Thủy, bà vẫy tay. Thủy chào lại.
Thủy đã ở đây gần mười lăm năm. Con đường có chữ Circle
phía sau chỉ vọn vẹn có tám căn nhà, nên mọi người đều quen biết nhau.
Thậm chí Thủy còn nhớ tên từng người một. Chỉ có gia-đình Thủy là người
Việt-Nam duy-nhất ở đây. Có một nhà người Tàu, hai nhà người Mễ, còn lại
đều là người Mỹ trắng. Mọi người đều vui-vẻ và thân-thiện với nhau như
ruột-thịt, không phân-biệt gì cả.
Ông già Norman xuề-xòa, vui-tính, đã về hưu. Ông nói là
trước năm 1970 ông đã từng sang Việt Nam. Ông kể về những địa-danh như
Khe-Sanh, Đồng-Xoài, Bình-Giả, rồi là Chương-Thiện, Cần-Thơ một cách
say-mê và rành-rọt. Những địa-danh đối với Thủy còn xa-lạ, chưa từng đặt
chân tới. Ông còn kể cả những món ăn độc-đáo mà ông đã có dịp
nhấm-nháp, kể cả thịt rắn, thịt chó và thịt chuột với nụ cười hóm-hỉnh,
thích- chí. Ông nói với vợ chồng Thủy: “Tụi mày biết không, tao khoái
món thịt chó lắm. Từ ngày ở Việt Nam về Mỹ, tao không còn được ăn cái
món đó nữa. Nhưng tao cứ nhớ hoài. Hết sẩy. Tao nhớ, lần đầu khi người
bạn Việt-Nam cho tao ăn món đó, tao hơi ớn. Mãi vài lần sau tao mới
quen. Nó ngon hơn món beefsteak cả trăm lần.Ăn vào là quên chết”. Nghe
ông Norman nói, Thủy đã không nín được cười và thấy mắc thèm, dù chưa
bao giờ được nếm cái món đó. Nhưng Thủy chắc cái món đó phải là độc đáo
ghê gớm lắm nên mới hấp-dẫn được một ông Mỹ da trắng văn-minh như vậy.
Có lần vui miệng, ông Norman nói: “Trong cuộc sống có nhiều người Mỹ
cảm thấy rất cô-đơn, nên họ thường nuôi chó, nuôi mèo. Họ xem chó mèo
như bạn. Vì lẽ đó, họ không ăn thịt chó, thịt mèo. Họ xem những người ăn
thịt chó, thịt mèo là tàn-ác, không có nhân-tính, mọi-rợ. Vậy mà khi
con chó, con mèo họ nuôi bị chết, họ sẵn-sàng quăng chúng ra đường vào
ban đêm cho xe cán, không thấy ân-hận gì cả.”
Ông già Norman trông vậy mà nói rất đúng. Đã có nhiều
lần Thủy thấy xác những con chó hay mèo nằm ngoài đường, trên lằn xe
chạy. Có những con chết rồi còn bị bánh xe nghiến qua nghiến lại không
biết bao nhiêu lần, cho đến khi tan xác, máu và da thịt quyện dính vào
mặt nhựa đường. Thế là hết. Không thấy ai phàn-nàn, kêu-ca gì cả. Nếu có ai hỏi, họ chỉ cần trả-lời đơn-giản là “tai-nạn”. Thế là xong. Người được tiếng “yêu súc-vật”, vẫn được tiếng.
Bình giúp vợ mang đồ vào trong bếp. Thủy vào nhà thay
quần áo, xong ra ngoài nói chuyện với bà Susan. Thủy thấy bà đang
chăm-sóc mấy cây hoa tulip ở ngoài vườn. Bà ta có ngôi vườn thật đẹp.
-Cô Thủy đi chợ mới về hả? Nghe bà Susan hỏi, Thủy gật đầu.
-Đi chợ Việt-Nam à?
-Dạ. Hôm nay cháu cần mua những món đặc-biệt ở chợ Việt-Nam để ăn Tết.
Bà Susan nói như reo:
-À, Tết. Chinese Lunar New Year. Thế cô mua quần áo mới chưa?
Thủy lắc đầu:
-Dạ, chưa. Nhưng chuyện đó ở Mỹ, cũng không cần-thiết, bác à.
Thủy muốn giải-thích cho bà Susan biết là Tết của người
Việt-Nam và Tết của người Tàu không hoàn-toàn giống nhau, mặc dù tập-tục
này người Việt-Nam theo người Tàu. Thủy không thích người ta thêm chữ
Chinese khi nói đến Tết Việt-Nam, không biết đó có phải là “tự-ái
dân-tộc” không. Trong những ngày Tết, người Việt-Nam thường có những
tập-quán, những cuộc vui chơi, hay đình-đám khác với người Tàu.
Bà Suzan trông có vẻ
rảnh-rang, nhàn-hạ mấy ngày này. Bà đã sửa-soạn và mua-sắm cho những
ngày lễ lớn, như Thanksgiving (Tạ-ơn), Christmas (Giáng-sinh), New Year
(Năm Mới), và bây-giờ những ngày đó đã chấm-dứt từ mấy tuần qua.
Bà Susan chợt quay sang nhìn Thủy, hỏi:
-Cô Thủy này, tôi còn nhớ Tết năm ngoái cô cho tôi ăn
cái bánh gì dinh-dính ấy. Người Việt Nam có nhiều loại bánh ngộ thật. Cô
nói lại đi. Cái bánh ấy tên là gì vậy, tôi quên mất tiêu.
Thủy cố nhớ lại, cười trả lời:
-À, đấy là bánh chưng. Bác nhớ dai thật. Thế bác có
thích bánh chưng không? Cháu có mua một cặp đấy. Để ngày mùng một Tết
cháu sẽ mời bác. Người Việt chúng cháu còn thích ăn bánh chưng chiên
nữa.
Bà Susan cũng cười, đôi mắt nhấp-nháy:
-Cám ơn cô. Bánh chưng chiên à? Ồ, được ăn bánh chưng
thì còn gì bằng nữa. Tết Việt Nam phải có bánh chưng chứ. Như thế mới
đúng ý nghĩa. À, bánh chưng phải ăn với củ kiệu mới là đúng mốt, phải
không cô Thủy?
Thủy không ngờ bà Susan lại rành-rọt như thế. Không biết ai đã nói với bà ta những chuyện như vậy.
Bánh chưng mua ở chợ hẳn là không bằng nhà nấu. Ngày xưa
khi Thủy còn nhỏ, mỗi lần Tết đến, Thủy thường thấy bà ngoại nấu bánh
chưng. Bà ngoại chuẩn-bị thật chu-đáo. Trước Tết độ một tuần, mẹ Thủy
đi chợ mua gạo nếp, đậu xanh, thịt heo, lá dong và nhiều thứ linh-tinh
khác nữa. Thủy không nhớ là bà ngoại đã gói bánh như thế nào. Thủy thích
nhất là lúc được ngồi cạnh bếp lửa, có những khúc củi-tạ cháy hừng-hực,
bên trên kê nồi bánh thật to đang sôi ùng ục. Ngồi bên cạnh nồi bánh,
miệng vui vui hát nhỏ bài Xuân Này Con Không Về của Nhạc-Sĩ
Trịnh-Lâm-Ngân: “...Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng. Trông bánh chưng chờ trời sáng. Đỏ hây hây những đôi má đào...” Lúc đó, dù là nghèo, vẫn thấy đời tươi đẹp và ấm cúng biết bao.
Bắt chước mẹ ngày xưa, Thủy chuẩn-bị rất kỹ-lưỡng để
cúng và đón giao-thừa. Đồng-hồ mới chỉ 11 giờ đêm, Thủy đã nhờ Bình bày
sẵn một cái bàn nhỏ ở ngoài sân. Thủy đặt một bình hoa vạn thọ ở giữa,
một đĩa trái cây, một đĩa kẹo thèo lèo cứt chuột. Thủy không quên trái
dừa, đèn cầy và ly nước lạnh. Thủy cắm sẵn ba cây nhang vào một cái ly
thấp bên trong có gạo để giữ cho cây nhang không bị ngả. Thế này cũng
tươm-tất lắm rồi.
Hồi gia-đình Thủy mới qua Mỹ, số người Việt sinh-sống ở
đây còn ít. Nhà hàng ăn uống chỉ lưa-thưa vài nơi. Còn chợ Việt-Nam
hoàn-toàn không có. Khi thèm ăn một tô phở, không biết đi đâu. Muốn nấu ở
nhà thì không có đủ gia-vị. Cho tới bây giờ không phải ở tiểu-bang nào
cũng tiện-lợi như ở Cali. Và, ngay cả ở Cali, không phải ở vùng nào cũng
tiện-lợi và đầy-đủ như ở Quận Cam. Thật may-mắn, Thủy chỉ ở cách Quận
Cam hơn một tiếng lái xe. Quận Cam có khu Bolsa, thủ-đô của người Việt.
Chính người Việt đã tạo ra sự sầm-uất cho Quận Cam nói chung và khu
Bolsa nói riêng. Các bảng hiệu dần-dần được viết hoàn-toàn bằng tiếng
Việt, không cần người bản-xứ hoặc các cộng-đồng khác có hiểu hay không. Ở
đây có nhiều ngôi chợ bán đầy-đủ các sản-phẩm dành cho người Việt, và
đặc-biệt là có rất nhiều nhà-hàng bán những món-ăn thuần-túy Việt-Nam.
Thủy có một cô bạn thân hiện đang ở Sacramento, thủ-đô của tiểu-bang
California. Sau đôi lần đến Quận Cam (Orange County) chơi, cô bạn này đã
nói: “Nếu tao sống ở Quận Cam, tao sẽ không nấu cơm ở nhà nữa, mà sẽ đi
ăn tiệm. Nhà-hàng ở đây nhiều quá, nấu lại ngon nữa, nhiều món quá. Đi
ăn cơm tiệm cho sướng. Nấu nướng ở nhà làm gì cho khổ cái thân.” Thủy
ngẫm nghĩ, thấy cô bạn này nói đúng. Từ mọi nơi, người Việt đã quy-tụ về
đây để biến thủ-đô này thành một góc quê-hương. Bây giờ, ở đây, khi cần
ăn một tô phở Bắc nóng hổi, một tô bún bò Huế cay-cay, một đĩa bánh xèo
beo-béo, hoặc một đĩa cơm tấm bì, chả hay thịt nướng thơm-thơm… đều
dễ-dàng, tiện-lợi như ở Việt-Nam vậy.
Khi Thủy chuẩn-bị xong mâm trái cây cúng giao-thừa, kim đồng-hồ chỉ 11 giờ 45.
Bình đem mấy bao rác đi đổ. Thủy nhớ đã dặn Bình chỉ đổ
rác vào chiều tối ba mươi thôi. Ngày mai là mùng một Tết không được đổ
rác nữa, vì sợ tiền bạc sẽ cắp nón ra đi. Thủy cũng còn cẩn-thận dặn
Bình không được quét nhà, không được hút bụi nữa. Thôi kệ, cứ để dơ mấy
ngày rồi quét dọn sau. Có kiêng có lành mà. Đã chết ai. Nghe Thủy dặn
nhiều quá, Bình khôi-hài:
-Thế có phải kiêng tắm không, em?
Thủy cũng cười:
-Nếu anh kiêng tắm được thì càng tốt. Tắm nhiều hại da lắm.
Những tập-tục ngày Tết của người Việt-Nam và người Tàu
có nhiều điểm giống nhau và đôi khi có vẻ mê-tín dị-đoan nữa. Tuy nhiên,
nếu mê-tín dị-đoan không đem lại sự nguy-hại, người ta không cần phải
bãi-bỏ, nhất là những tập-tục đã có từ rất lâu đời.
Mấy bữa trước Thủy chuẩn-bị cả tiền lì-xì nữa. Thủy đã
tới ngân-hàng đổi một ít tiền mới, mua một xấp phong-bì mầu đỏ, bỏ vào
mỗi phong-bì một tờ năm đồng mới-tinh còn thơm mùi giấy và mực in. Thủy
định sẽ mừng tuổi cho hai con vào sáng mùng một, rồi tới con của mấy
người bạn làm cùng sở. Mừng tuổi để lấy hên vậy thôi, chứ trẻ con ở Mỹ
không thích có tiền nhiều, vì chúng đã có đầy-đủ mọi thứ rồi, không
thiếu-thốn như trẻ-con ở Việt Nam. Còn người lớn không phải lì-xì gì
cả. Đỡ hao.
Tới trưa ngày mùng một, hai vợ chồng sẽ đưa hai con đi chơi hội chợ
Tết. Hai đứa nhỏ thích lắm, mấy hôm nay cứ nhắc ba mẹ hoài. Gần như năm
nào Tổng-Hội Sinh-Viên Việt-Nam cũng đều tổ-chức hội-chợ Tết. Ngày
xưa, hội-chợ Tết này do Cộng-Đồng Việt-nam tổ-chức, nhưng làm-việc
“lem-nhem” sao đó, nhất là tiền-bạc, phải giải-tán. Tổng hội sinh-viên
mới đứng ra tổ-chức. Các “em” làm được. Mỗi năm, trừ chi-phí, lời cả 5
trăm ngàn đô. Thấy các “em” làm được, có uy-tín, cộng-đồng để làm luôn. Ở
hội-chợ có rất nhiều trò vui-chơi lành-mạnh. Thủy thích đi hội-chợ để
tìm lại không-khí ngày Tết ở Việt-Nam, với những sinh-hoạt đặc-thù như
múa lân, đánh vật. Quán thả thơ trong hội-chợ cũng là nơi thu-hút mọi
người. Thủy thầm mong những hoạt-động tốt-đẹp như thế mãi-mãi được
duy-trì và phát-triển. Những năm sau này, từ nỗi nhớ quê-hương và từ
lòng bao dung nhân-ái, người Việt đã thành -lập nhiều hội-đoàn để có dịp
ngồi lại gần nhau và giúp-đỡ nhau thiết-thực hơn, như các hội
đồng-hương và hội ái-hữu. Đó là những dấu-hiệu tốt của một cộng-đồng
đang phát-triển về mọi mặt.
Hồi còn nhỏ, Thủy thích nhất là những dịp Tết đến. Trước hết là được
mặc quần áo mới, mang giầy đẹp, được ba mẹ đưa đi chơi chỗ này chỗ nọ,
sau là được ăn bánh chưng, cắn hột dưa, và nhất là có nhiều tiền lì-xì.
Trong mấy ngày Tết, lại còn được chơi “bầu-cua-cá-cọp”nữa. Đây là một
trò chơi ăn tiền rất phổ-biến. Nhà cái trải một tấm giấy hay một tấm bià
chia đều sáu phần, mỗi phần có in hay vẽ hình một con vật như nai, bầu,
gà, cá, cua và tôm. Không thấy hình cọp. Ba con xúc-xắc được bỏ vào một
cái điã che kín bằng một cái tô. Mỗi con xúc-xắc có sáu mặt, mỗi mặt
đều có hình của một con vật giống như trên tấm bià. Nhà cái lắc cái điã
vài lần rồi mở tô ra. Sau khi cả ba con xúc-xắc đã đứng im, nếu ai đặt
tiền vào ô nào có hình giống con vật trên mặt xúc-xắc thì sẽ được nhà
cái chung tiền. Còn ai đặt không giống thì bị thua. Trò chơi này rất vui
vì được nhiều người hưởng-ứng, bất kể già trẻ lớn bé.
Chiếc đồng-hồ quả lắc bắt-đầu gõ-nhịp, âm-thanh ngân-nga
trong-trẻo. Khi tiếng gõ thứ mười hai vừa chấm-dứt, Thủy ra ngoài thắp
đèn cầy, rồi đốt ba cây nhang đã cắm sẵn trong cái ly. Hương khói tỏa ra
thơm-phức. Nếu là ở Việt-Nam, giây-phút này sẽ linh-thiêng và
long-trọng biết bao. Giờ giao-thừa. Cả một không-gian rông lớn sẽ
rền-vang tiếng pháo và mịt-mù trong màn khói để tống cựu nghinh tân (tống khứ cái cũ, đón rước cái mới). Pháo sẽ thi nhau nổ suốt đêm ba mươi, qua ba ngày Tết và những ngày kế-tiếp. Tết ở Việt-Nam ngày xưa thật tưng-bừng, vui-vẻ.
Bây giờ, chỉ có một mình Thủy cúng giao-thừa ở ngoài
trời. Căn nhà của bà Tầu Wuan Yang cách đó vài căn, đang lặng-lẽ, im-lìm
trong màn sương mỏng.
Thủy lâm-râm khấn-vái. Thời-gian như ngừng lại. Trời hơi
se-lạnh. Những căn-nhà chung-quanh hoàn-toàn chìm trong bóng đêm. Con
đường nhỏ vắng-tanh không một bóng người, ngoại trừ vài chiếc xe hơi đậu
sát lề đang im-lìm trong giấc ngủ. Hình như có những đóa hoa đang
bắt-đầu nở-rộ, hương-thơm tỏa ra nhẹ-nhàng.
Hà Việt Hùng
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23887
|
 Gởi ngày: 19/Jan/2018 lúc 8:12am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 20/Jan/2018 lúc 2:01pm |
Mối Tình Quê Ngoại <<<<<

Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Jan/2018 lúc 2:07pm
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 24/Jan/2018 lúc 10:32am |
Hương Xuân
Buổi chiều đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung. Liên cười trả lời mẹ: -Càng vui. Xưa nay nhà mình ăn Tết cu ky, buồn thấy mồ. Buổi tối trong bàn ăn, bà Thuần, mẹ Liên, nói:
-Mới đó mà nhà bác Minh dọn tới khu này gần hai năm rồi. Thời gian
đi mau phát sợ luôn! Ở tuổi mẹ, càng mong nó đi chậm bao nhiêu nó lại
càng phi nước đại bấy nhiêu. Chẳng mấy chốc mà xuống lỗ! Bé Uyên, đứa con gái mười ba tuổi của Liên, vội vàng đính chính: -Đâu có. Con thấy ngoại còn trẻ lắm mà. Ngoại mới sáu mươi hai, bà Minh bảy mươi, còn già hơn ngoại nhiều! Bà Thuần cười, mắng yêu con bé: -Mẹ mày! Chỉ giỏi nịnh. Tuổi bà ở Việt Nam, mọi người đã phải gọi bằng Cụ rồi. Ở đó mà trẻ lắm! Liên ngắt lời:
-Còn một tuần nữa là Tết. Năm nay mẹ có định gói bánh tét như năm
ngoái không? Con thấy gói vui nhưng mẹ cực quá. Hay mình đặt dưới tiệm
dì Ba cho rồi. -Ối, ngoài bữa cơm chiều mẹ cũng đâu có bận rộn
gì. Một năm mới có một lần. Hơn nữa mẹ gói bánh tét ba màu, biếu nhà nào
họ cũng thích. Để mẹ rủ bác Minh qua gói với mẹ cho vui. - Mẹ
vui là được rồi. Ngày mai thứ bảy, con chở mẹ đi chợ Kim Phát mua những
thứ mẹ cần. Bánh mứt năm nay không biết sao, chớ đọc báo thấy hàng Trung
Quốc ngán quá! Tiến, chồng Liên, xen vô: -Em tính đi.
Hồi nào tới giờ em "tiếp thu" bao nhiêu chất độc trong hàng hoá, thực
phẩm chế biến từ Trung Quốc? Cứ tưởng ăn chay với đậu hủ là an toàn
nhất. Ngờ đâu trong đậu hủ cũng có độc luôn! Rau, quả cũng đầy thuốc trừ
sâu. Thôi, anh xuôi theo tự nhiên. Chừng nào ông trời gọi "Tiến" thì
anh dạ. Nếu sợ thì chỉ có nước nhịn đói thôi em à! -Xời, nói như anh! Hồi nào không biết thì dùng, bây giờ biết rồi cũng phải tránh chớ bộ!
-Cưng ơi, thịt bò, thịt heo, thịt gà ở đây họ cũng cho hormone tăng
trưởng như điên. Em không thấy ngày xưa ở Việt Nam. Con gái mười bốn,
mười lăm mới thấy "kinh" lần đầu. Còn con nít bây giờ í hả... -Trời đất! Sao anh rành sáu câu vậy hả? Liên tròn mắt. Tiến trả lời tỉnh bơ:
-Thời "A Còng" mà em. Cứ lên mạng là thứ gì cũng có. Cả những
"chiện" thâm cung bí sử từ thời ông Bành Tổ. Ngay những phương pháp giết
người cũng có luôn mới là khiếp! Liên nhăn mặt: -Anh, trước mặt con mà anh nói chuyện ghê quá hà... Nhưng bé Uyên lại có thắc mắc khác: -Mẹ à, ông Bành Tổ là ông nào vậy mẹ? Trong lớp con có thằng tên Bành Trung Hiếu. Liên hất hàm qua phía chồng: -Con hỏi ba con kìa. Chắc ổng rành hơn mẹ! Tiến cười hì hì:
-À, đó là một ông già sống lâu nhất lịch sử nhân loại. Nghe đâu ổng
sống tới tám trăm tuổi mới chịu khăn gói quả mướp về bên kia thế giới. À
mà hôm nào con hỏi thằng bạn con, chắc nó rành hơn ba. Thế nào họ cũng
có bà con mà. Nói xong Tiến đứng lên, xin phép mẹ vợ rồi đi ra phòng khách mở TV xem tin tức. Liên nhìn theo, lắc đầu: - Mẹ coi, ảnh già đầu rồi mà cứ như con nít! Nhưng bà Thuần cười hiền hậu:
- Nhờ vậy mà vui cửa vui nhà. Ba con hồi trước nghiêm quá, thành ra
tới bữa cơm ai cũng cắm cúi ăn. Nhà mình không có tiếng cười như bây
giờ. Thôi để chút nữa mẹ gọi điện thoại nói chuyện chơi với bác Minh.
Luôn thể rủ bác thứ năm qua nhà mình gói bánh tét với mẹ. Mẹ và bác Minh
coi vậy mà có duyên. Ai ngờ hơn nửa thế kỷ còn gặp lại trên đất nước xa
cả nửa vòng trái đất! Nhớ tới chuyện xưa mẹ còn buồn vô cùng! Thương
cho bác và cậu hai của con! Nói xong cặp mắt bà Thuần hơi ửng đỏ. Liên vội vàng gạt ngang:
-Thôi, mẹ nhớ làm gì những chuyện buồn như vậy. Bề nào cậu hai cũng
mất rồi. Hơn nữa con thấy bác Minh vẫn vui vẻ chớ có buồn rầu gì đâu! Ở
đời ai cũng có số mà. Mà mẹ quên câu "tình chỉ đẹp khi còn dang dở, lấy
nhau rồi...nham nhở lắm em ơi!" hay sao? Bà Thuần đang buồn cũng phải bật cười. Cái con nhỏ này tếu giống hệt bà hồi trẻ.
-Bà ngoại. Bà ngoại kể lại chuyện ông cậu hai với bà Minh cho con
nghe đi. Hôm trước con có nghe mà không để ý lắm. Như là ông cậu với bà
Minh ngày xưa bồ nhau phải không? Bé Uyên nắm tay bà ngoại lắc lắc,
miệng cười duyên. -Khiếp! Con nít con nôi mà nghe chi mấy chuyện này! Liên nhăn mặt.
-Không sao. Mười ba tuổi cũng đâu còn nhỏ nhít gì. Để bà kể cháu
nghe. Chuyện bắt đầu hồi bà mới tám chín tuổi gì đó. Gia đình ông bà
ngoại ở Sàigòn, ngay Ngã Tư Bình Hòa. Ông cậu Hai của con năm đó hai
mươi tuổi. Bà dì Ba mười bảy. Bà dì hồi con gái đẹp lộng lẫy. Da trắng
như trứng gà bóc, mắt mũi đều đẹp như tranh. Mới mười lăm tuổi mà có cả
chục chỗ đi coi mắt rồi đó. Bé Uyên ngây thơ hỏi: -Mắt bà dì bị gì mà người ta tới coi hả ngoại? Liên phì cười:
-Coi mắt tức là đến nhà để xem bà dì xấu hay đẹp. Bà dì con nổi
tiếng vừa đẹp vừa khéo. Được cả công dung ngôn hạnh nên nhiều người muốn
cưới về làm vợ, hiểu chưa! Con bé nghe mẹ nói một tràng bèn le lưỡi, rụt cổ, tỏ dấu ngạc nhiên: - Còn bà ngoại, hồi nhỏ xấu hay đẹp hả ngoại? -Ngoại hả? ngoại vừa đen vừa lùn, răng cỏ rất là vô trật tự. Nhưng "có diên" nên được mọi người cưng lắm!
Bé Uyên chống tay ngồi nghe. Bà Thuần, cặp mắt mơ màng, như đang
sống lại cái thuở còn là một con bé tám tuổi, hàng ngày cắp sách đến
trường Tiểu học Chi Lăng, gần Lăng Ông Bà Chiểu... ....Mẹ có
cửa hàng bán gạo ngoài chợ Cây Quéo. Ba đi làm ngoài đường Tự Do. Anh
Thiên học xong trung Học Pétrus Ký thì ghi tên học y tá. Chị Thu phụ mẹ
ngoài cửa hàng. Gia đình có thể nói là êm ấm. Anh Thiên đẹp trai như tài
tử xi nê nên được nhiều cô thương thầm. Trong số nữ sinh trong lớp có
chị Thu Nguyệt. Chị thấy anh Thiên bảnh quá bèn rủ về nhà giới thiệu cho
cô em gái tên Minh Nguyệt. Chị Thu Nguyệt đã có vị hôn phu là một sĩ
quan Hải Quân. Trong nhà có ba cô con gái, mà cô nào cũng Nguyệt, nên họ
có thói quen chỉ gọi tên lót. Do đó chị Minh Nguyệt được gọi tắt là
Minh. Năm đó chị Minh mười bảy tuổi. Khác với bà chị, chị Minh
rất diệu dàng, nhỏ nhẹ. Chị có làn da trắng mịn và mái tóc thề xõa ngang
lưng. Chị hay buộc tóc bằng chiếc băng đô màu tím, khiến khuôn mặt trái
soan của chị càng nõn nà, xinh đẹp quyến rũ. Hàm răng đều, trắng như
ngà. Khuôn mặt chị hoàn mỹ biết bao, nếu không có một nốt ruồi đen mọc
ngay dưới khoé mắt! Dĩ nhiên trai tài gái sắc gặp nhau là dính như sam.
Ba mẹ Thuần theo tây học nên đâu có thèm để ý đến lời "cảnh cáo" của bà
chị dâu "Thím tư thấy sao chớ cái nút ruồi trích lệ thương phu này không
mấy tốt à nghen". Ông bà trả lời "tụi nó thương nhau là được rồi. Con
nhỏ vừa đẹp vừa hiền, tụi em ưng bụng lắm." Bé Thuần đã từng
theo mẹ đến thăm gia đình chị Minh. Nhà họ ở gần Cầu Bông. (Vì thế, sau
này cứ nghe người ta hát ai đang đi trên Cầu Bông, té xuống sông ướt cái
quần ny lông, là Mỹ Thuần lại nhớ đến chị Minh, lòng rưng rưng buồn!).
Mẹ chị góa chồng và tu tại gia. Bà ốm nhom như con mắm, đầu cạo trọc và
mặc áo màu dà, nói năng nhỏ nhẹ. Hai gia đình qua lại rất thân mật và đã
ngầm nhận nhau là sui gia. Chị Minh đến nhà Mỹ Thuần, xuống bếp nấu
nướng thoải mái như ở nhà chị. Anh Thiên chầu đằng xóm Cầu Bông nhiều
hơn xóm Bình Hòa. Hai nhà hứa hẹn khi anh Thiên ra trường sẽ làm đám
cưới. Nhưng (chữ nhưng thật dáng ghét!) đùng một cái ông nội
dưới quê đau nặng. Chú út của Mỹ Thuần đưa ông cụ lên nhà thương Saint
Paul. Họ khám phá ra ông bị ung thư cuống họng. Điều trị gần một năm
bịnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng gia đình đành đem ông cụ về
quê tịnh dưỡng...Một mình chú Út không thể vừa săn sóc cha vừa trông nom
ruộng vườn, nên theo lệnh ông nội, gia đình Mỹ Thuần phải dọn về quê.
Trừ anh Thiên đang học dở dang, phải ở tạm nhà người bác. Cô bé Mỹ Thuần
và con bạn hàng xóm tên Kim Chi khóc mùi mẫn ngày cả nhà chất nhau lên
xe rời Saigòn. Nhưng người buồn nhất có lẽ là mẹ. Công lao bà gầy dựng
nên cửa nên nhà, bây giờ phải bán dổ bán tháo cho người ta! May mắn lúc
đó dân di cư vào rất đông, vừa để bảng bán là có người mua ngay.
Tuổi trẻ mau quên, nên sau một thời gian ngắn là bé Thuần lại tiếp
tục vui đùa với những người bạn mới và học hành bình thường. Chị Mai Thu
có người đi hỏi. Ba mẹ bằng lòng ngay, vì anh Phú đúng điệu là một
trang nam tử hán! Anh cao lớn, cặp mắt sâu sáng quắc dưới hàng lông mày
rậm. Cái miệng nói chuyện dẻo quẹo, nhưng mà thứ dẻo quẹo thiệt tình chớ
không phải giả dối. Ngoài nhân vật chính là chị Mai Thu yêu anh da
diết, hầu như cả họ đều thích anh nên đám cưới được tổ chức thật linh
đình. Có một điều ông nội không mấy hài lòng, là gia đình anh Phú không
được môn đăng hộ đối! Anh Thiên sau khi ra trường về làm việc
bên Long Xuyên. May quá, nơi đây có nhà bà cô của chị Minh. Ông bà không
con, nên cưng anh Thiên như trứng mỏng. Thương yêu, săn sóc anh không
khác con ruột. Bệnh tình ông nội càng ngày càng tăng. Ông sợ chết trước
khi thấy mặt cháu dâu, nên thúc ba mẹ cưới vợ cho anh Thiên gấp. Khi
trình với ông nội rằng sẽ cưới chị Minh Nguyệt cho anh Thiên, thì ba mẹ
gặp ngay sự phản đối mãnh liệt! Tuy giọng ông thều thào nhưng không kém
phần cương quyết: -Tao không muốn thằng Thiên cưới con gái Sài
Gòn (?!). Hai nữa con nhỏ đó tuy đẹp nhưng có cái nút ruồi trích lệ
thương phu. (Xui cho chị Minh, khi ông nội còn nằm nhà thương Saint
Paul, anh Thiên có dẫn chị vô thăm nên ông mới thấy cái nốt ruồi của
chị!). Vợ chồng bây có một thằng con trai, chắc bây hổng muốn nó chết
yểu chớ hả? Tao đã ngắm con Kim, con gái chú hai Lễ bên Hòa An rồi. Con
nhỏ bằng tuổi con Thu nhà mình, mà giỏi lắm, chăn dắt nguyên một đàn em
sáu đứa. Trước đây tao có nói hơi hơi với chú hai Lễ rồi. Họ bằng lòng
lắm. Mẹ Thuần kêu lên thảng thốt: - Cha à. Con thấy chị hai Lễ đẻ sòn sòn năm một... Ông nội trợn mắt cắt ngang:
- Bây nói gì kỳ vậy. Con một phải cháu bầy. Bây vỏn vẹn có một
thằng con, phải có ít nhứt năm bảy đứa cháu. Hai đứa con gái đâu có ở
với mình suốt đời. Bây mà cãi tao là tao từ đó đa! Anh Thiên
được triệu về gấp để hỏi ý kiến. Trước cái tin sét đánh anh cũng muốn
xỉu luôn! Mấy ngày liền anh năn nỉ ông nội, nhưng ông vẫn một mực lắc
đầu. Anh định bỏ nhà lên Sài Gòn, nhưng thấy mẹ khóc lóc năn nỉ quá, sau
cùng anh phải cắn răng vâng lời ông nội đi cưới chị Kim. Anh
Thiên không dám gặp cô chị Minh. Anh viết cho hai ông bà một lá thư, nhờ
thằng con chú Út cầm qua Long Xuyên và thu dọn đồ đạc mang về cho anh.
Theo lời thằng Trung kể lại thì khi đọc xong bức thư, cô chị Minh ngã
lăn ra...xỉu ! Lúc tỉnh lại thì khóc như mưa sa bão táp. Anh Thiên và mẹ
nghe xong cũng khóc quá trời! Nhưng người muốn mà trời định. Mà con
người thì vốn nhỏ nhoi, địch sao lại với ông Trời! Ít lâu sau
ông nội ra đi với gương mặt thanh thản và nụ cười mãn nguyện. Có ngờ
đâu, để ông vui lòng mà bao nhiêu con tim tan nát. Cuộc tình tưởng đẹp
đã trở thành đau thương, ai oán! Một năm sau chị Minh lấy một
chàng trung úy Hải quân, bạn của ông anh rể. Anh này yêu chị Minh từ
lâu, nhưng trái tim của chị đã trao cho người khác. Khi thấy chị Minh
đau khổ vì bị anh Thiên bội ước, anh chàng đã đưa bờ vai rắn chắc của
mình cho người đẹp mượn đỡ. Cuối cùng chị Minh cũng cảm động và nhận lời
cầu hôn của anh ta. Trời xui đất khiến một lần anh Thiên qua
Long Xuyên thăm vợ chồng bà cô chị Minh (lúc này đã nguôi giận!). Đúng
lúc chị cũng đang có mặt ở đó. Chị sững sờ nhìn anh mấy giây, rồi vội
vàng bế con chạy vào buồng, khóc ngất. Gọi gì cũng nhất định không chịu
ra. Anh Thiên trở về nhà mà mà lòng nát như tương!!! Thuần không biết
chị Minh có thật sự hạnh phúc với chồng không, nhưng phần anh Thiên thì
cứ sống với chị Kim một cách ơ hờ. May mà chị Kim tính tình hồn hậu,
chất phác. Lấy được anh Thiên là mãn nguyện, chả cần thắc mắc, suy nghĩ
sâu sa. Cứ thế mà đẻ sòn sòn năm một như bà mẹ của chị. Chắc ông nội
dưới suối vàng rất hài lòng! Giòng đời cứ trôi, con người vẫn
sống, dù cuộc đời có êm xuôi hay nghiệt ngã. Tháng Tư bảy lăm, tai họa
đổ ụp xuống miền Nam. Gia đình tan tác, chia lìa. Anh Thiên là chủ tiệm
ăn nên không phải đi học tập. Anh Phước, chồng chị Mai Thu và Khanh,
chồng của Mỹ Thuần là quân nhân cấp tá nên bị đưa đi học tập tận ngoài
Bắc. Vùng khỉ ho cò gáy, khí hậu khắc nghiệt Hoàng Liên Sơn. Ở lại
Sàigòn, hai chị em nương tựa nhau, buôn thúng bán mẹt để vừa nuôi con
vừa nuôi chồng học tập cải tạo. May mà Mỹ Thuần chỉ có một đứa con gái
là Mỹ Liên. Sau mấy năm lăn lộn chợ trời, Mỹ Thuần cũng có được chút
vốn. Sẵn dịp gia đình ông anh chồng vượt biên, cô gởi bé Liên đi theo,
năm đó bé được chín tuổi. Gia đình người anh chồng chỉ có hai con trai
nên cưng cháu như con ruột. Nhờ học tập "tốt" nên mười năm sau,
chồng Mỹ Thuần được Đảng khoan hồng, đem cái thân xác xơ, bệnh tật về
đoàn tụ với gia đình. Mỹ Liên đã có quốc tịch Canadienne, vội vàng lập
hồ sơ xin cho ba mẹ qua theo diện đoàn tụ. Gặp lại đứa con gái thân yêu
nay đã là một thiếu nữ dậy thì xinh đẹp, Mỹ Thuần khóc như mưa. Nhưng là
những giọt nước mắt hạnh phúc tràn bờ! Những tưởng từ đây
không gì có thể chia rẻ họ được nữa. Vậy mà cách đây năm năm, ông Khanh
đã qua đời vì ung thư gan. Cũng may ông đã nhìn thấy gia đình hạnh phúc
của đứa con gái cưng độc nhất. Từ đó vợ chồng Mỹ Liên mời mẹ về ở chung
với họ... Cách đây mấy tháng, bà Thuần đi chợ Kim Phát. Đang
lựa những chùm trái vải đỏ tươi, mọng nước, bà chợt nhìn qua người đàn
bà đứng tuổi bên cạnh. Có một cái gì đó khiến bà thấy lấn cấn trong
lòng. Hình như bà đã gặp người này ở đâu rồi, nhưng ở đâu? Chắc chắn
không phải ở đây. Chắc như vậy. Lúc đứng sắp hàng trả tiền, ngẫu nhiên
bà ta lại đứng ngay phía sau. Bà Thuần làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện với
bà nọ. Thì ra họ cùng ở St Léonard. Hai nhà cách nhau độ năm phút đi
bộ. Coi như hàng xóm mà không bao giờ gặp nhau kể cũng lạ! Cái nốt ruồi
dưới khóe mắt? Chưa kịp nghĩ tiếp thì tới phiên trả tiền. Đẩy xe thức ăn
ra parking rồi mà bà Thuần còn nấn ná đợi chưa muốn đi. Thấy bà ta ra
tới nơi, bà Thuần vội nói: -Hai chị em mình coi như hàng xóm.
Nếu không phiền em xin số phôn của chị, chị lấy số phôn của em. Hai chị
em mình thỉnh thoảng gọi nhau cho vui. Em tên Thuần. Mỹ Thuần. Chị cho
em biết quý danh được không? Có lẽ tên Mỹ Thuần cũng gợi cho người đàn bà lớn tuổi kia một cái gì đó, nên bà ta nhìn bà Thuần có vẻ chăm chú hơn: - Tôi tên Minh Nguyệt. Chữ Nguyệt vừa thoát ra khỏi miệng bà ta là bà Thuần đã ào tới ôm bà ta chặt cứng, mếu máo: -Trời ơi, chị Minh. Em là Mỹ Thuần, em của anh Thiên nè!
Nước mắt hòa trong nước mắt. Hai người chỉ biết ôm nhau khóc mùi
mẫn. Mặc kệ những cặp mắt tò mò, kinh ngạc đang trố ra nhìn. Đến chừng
có tiếng một người đàn ông cất lên, hai bà mới giật mình buông nhau ra. -Mẹ! mẹ ...làm gì mà khóc dữ vậy? Bà Minh lau nước mắt, gượng cười, miệng méo xệch: - À Tú. Đây là dì Thuần. Còn đây là Tú, con trai của chị. Người đàn ông trạc năm mươi. Mặt mũi có vẻ hiền hậu, nhìn bà Thuần chăm chăm: -Dạ chào dì. Cháu là Tú. Chắc dì và mẹ cháu quen nhau từ bên Việt Nam, hôm nay mới gặp lại? Bà Thuần chưa kịp mở miệng thì bà Minh đã vội đỡ lời: -Ờ, Dì với mẹ hồi xưa ở cùng xóm. Thôi chị về. Rồi chị sẽ điện thoại cho em nghen. Bà Minh ôm siết bà Thuần, thì thầm: -Chị không muốn cháu Tú biết chuyện xưa. Em thông cảm cho chị.
Trao đổi số điện thoại xong, bà Minh theo con trai ra xe. Bà Thuần
đứng đó, nhìn theo bóng người xưa của ông anh, lòng bồi hồi khôn tả!
Buồn vì nhớ tới người anh quá vãng đã mấy năm. Vui vì dù sao bà Minh
cũng là một phần dĩ vãng của bà. Kỷ niệm dù vui, dù buồn vẫn đẹp. Nhớ
lại thì lòng cũng thấy xuyến xao.! Về nhà bà Thuần kể ngay cho
Mỹ Liên nghe cuộc hội ngộ kỳ thú vừa qua. Tối đó cơm nước xong, dằn lòng
không được, bà Thuần nhấc phôn gọi cho bà Minh. Hai người tỉ tê tâm sự
cả tiếng đồng hồ. Thì ra ông Tuấn, chồng bà Minh sau này lên tới Trung
Tá Hạm Trưởng. Hai người có ba đứa con. Một trai, hai gái. Tú may mắn
được bố mẹ cho sang Canada du học trước ngày mất nước. Chồng bà Minh bỏ
xác trong trại cải tạo. Chính Tú là người bảo lãnh bà và hai cô con gái
qua Canada. Trước kia Tú có vợ người bản xứ. Nhưng hai người đã ly hôn
và bà Minh về ở với con trai cho tới bây giờ. Bà săn sóc con trai và hai
đứa cháu nội. Bà Thuần không nén nỗi, đưa ra câu hỏi mà trong lòng bà
vẫn thắc mắc từ lúc gặp lại bà Minh: - Chị à, em hỏi thật chị đừng giận nha. Có khi nào chị nhớ tới anh hai của em không? Sau mấy giây yên lặng, có tiếng cười khẽ từ đầu giây bên kia:
- Cô này thiệt tò mò! Nếu chị nói không thì thật sự dối lòng. Dù
sao anh Thiên cũng là mối tình đầu của chị. Em còn nhớ bản nhạc Sầu Lẻ
Bóng của nhạc sĩ Anh Bằng hay không? Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm, Giòng đời là chuỗi tiếc nhớ... ............................................ Đời việc gì đến sẽ đến, Nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên!
Tuy là anh Tuấn yêu chị thiết tha, nhưng con tim trong trắng của chị đã
bị thương tổn. Rồi vết thương nào cũng thành sẹo em à! Thật tình chị
không trách anh Thiên. Có đứa cháu nào nỡ trái ý người sắp lìa đời. Nếu
là chị, chị cũng sẽ hy sinh hạnh phúc của mình như anh hai em thôi.
Chính vì nghĩ như vậy nên chị không hề oán hận anh ấy. Mà thôi, chuyện
đã qua hơn nửa thế kỷ rồi. Chúng ta đều đầu hai thứ tóc. Cho nên việc gì
cũng phải xem nhẹ. Từ lâu rồi, tâm hồn chị rất là an lạc, thảnh thơi.
-Nghe chị nói vậy em rất mừng. Em sợ chị vẫn còn giận anh hai em.
Thứ bảy tới em mời chị và các cháu tới nhà em ăn bánh xèo nghen. Cải
xanh em trồng trong vườn bảo đảm là ngon. Bà Minh vui vẻ nhận
lời. Và kế tiếp là những bữa cơm thân mật khi thì nhà bà Minh, lúc lại
nhà bà Thuần. Hai bà tỏ ra rất tâm đắc...
* * *
-Ngoại ơi, chuyện của bà Minh với
ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại sao méchant quá hà.
Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại. Bà Thuần
cốc đầu con bé: - Con có biết ngày xưa áo mặc không qua khỏi
đầu hay không? Ở đó mà không chịu! Thôi, năm nay nhà mình tổ chức ăn tết
thật to nha. Bà ngoại sẽ gói mười đòn bánh tét nè, sẽ làm chạo tôm nè,
gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ trộn tôm thịt nè... -Thịt kho nước dừa ăn với dưa giá. Con mê món đó của ngoại làm. Bé Uyên ngắt lời bà Thuần.
- Ừ, thì thịt kho nước dừa. Mà con nhớ tiếp đãi hai đứa cháu bà
Minh cho thật tốt nghen. Hôm trước ngoại thấy con la con Alice làm nó
khóc. -Tại nó phá đồ của con, Bé Uyên nhăn mặt. Mà thôi lần này Tết, con sẽ không la nó nữa.
* * *
Đúng bảy giờ có người bấm chuông. Bé
Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào, nổi những đóa mai,
lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru băng hồng,
chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà
Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ
trong nhà chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô
tủ, xong mời mọi người vào phòng khách. Bà Minh hôm nay thật
đẹp trong chiếc áo dài gấm Thượng Hải màu xanh đậm. Cổ đeo chuỗi hạt
vàng. Mái tóc nhiều muối hơn tiêu được bới gọn ra phía sau, để lộ đôi
bông cẩm thạch xanh biếc. Bà trang điểm thật nhẹ nhàng nhưng trông rất
sang trọng. Hai đứa cháu nội mặc đầm. Chúng cứ theo rờ rẩm chiếc áo dài
của bé Uyên, tỏ vẻ thích lắm. Bà Thuần từ trong phòng ăn đi ra. Ở tuổi
sáu mươi hai, nhưng trông bà còn rất mượt mà trong chiếc áo dài màu tím
hoa cà, có thêu những đóa mimosa vàng rải rác. Bà đeo toàn bộ nữ trang
bằng hạt trai. Tóc cắt ngắn thật đơn sơ nên trông bà trẻ hơn tuổi thật
rất nhiều. Mỹ Liên cũng mặc áo dài gấm màu vàng hoàng hậu, đeo nữ trang
Chanel cho có vẻ tân thời. Tiếng chào nói, chúc tụng dòn tan
như pháo nổ. Giữa phòng khách là chiếc độc bình bằng sứ, cắm những cành
đào hoa nở bung khoe sắc hồng tươi thắm. Củi trong lò sưởi nổ tí tách,
ánh lửa đỏ nhảy múa trông thật ấm cúng. Bà Thuần mời mọi người qua phòng
ăn. Dưới ánh đèn pha lê lung linh sáng, những đĩa thức ăn được bày kín
trên chiếc bàn dài phủ khăn màu trắng tinh. Chỉ mới nhìn thôi đã thấy
ngon, bà Minh không ngớt xuýt soa! Những cây chạo tôm bọc mía nướng vừa
vàng, được xếp nằm khéo léo trên những lá sà lách xanh non. Đĩa gỏi ngó
sen, bạch mộc nhĩ, tôm, thịt được Mỹ Liên trang trí thêm bằng những bông
hoa khắc từ cà rốt, radis thật mỹ thuật... Nhưng đặc biệt hơn cả là đĩa
bánh tét. Những khoanh bánh được cắt ra, xếp ngay ngắn trong chiếc đĩa
sứ màu trắng, càng làm tăng nét đẹp của màu sắc trong chiếc bánh. Vòng
ngoài cùng, nếp trộn lá dứa nên có màu xanh cẩm thạch. Vòng kế, nếp trộn
lá cẩm có màu tím. Vòng thứ ba là đậu xanh bóc vỏ màu vàng tươi và
chính giữa là thịt heo ướp vừa miệng. Ăn miếng bánh vừa thơm, vừa bùi
vừa béo. Món này bà Thuần học được từ người cô, lấy chồng miệt Sa Đéc.
Nghe đâu những bà thuộc diện khéo vô địch, khi cắt ra, chính giữa khoanh
bánh còn có chữ Thọ. Mục này thì bà xin chào thua! Tú có đem
một cặp rượu Champagne để uống mừng ngày Tết tha hương. Cũng là để mừng
cuộc trùng phùng hy hữu của hai bà "hàng xóm" ngày xưa bên Việt Nam.
Trước khi cầm đủa, Champagne được rót vào những chiếc ly pha lê trong
vắt (cánh nhi đồng chỉ được uống coca!). Mọi người nâng ly, trao nhau
những lời chúc tốt lành nhất cho năm mới. Trên môi là những nụ cười rạng
rỡ, nhưng trong khoé mắt của hai bà mẹ lấp lánh những giọt lệ. Trong
lòng hai bà đang dâng trào một niềm hạnh phúc khó tả. Lâng lâng như
sương khói (mà chắc chắn không phải vì ép phê của rượu Champagne!). Tuy
ngoài trời tuyết lất phất rơi, nhưng trong ngôi nhà ấm cúng, hương xuân
vẫn ngào ngạt trong lòng mọi người... Bé Uyên không quên nhắc nhở: -Ngoại, ba mẹ, đừng quên tiền lì xì cho Alice với Aline à nha. Bà Thuần cười: -Con nhỏ này. Bữa nay sao hiền quá vậy kìa! Bé Uyên nháy mắt: - Hôm nay Tết mà ngoại!
Tiểu-Thu
Buổi chiều đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung. Liên cười trả lời mẹ: -Càng vui. Xưa nay nhà mình ăn Tết cu ky, buồn thấy mồ. Buổi tối trong bàn ăn, bà Thuần, mẹ Liên, nói:
-Mới đó mà nhà bác Minh dọn tới khu này gần hai năm rồi. Thời gian
đi mau phát sợ luôn! Ở tuổi mẹ, càng mong nó đi chậm bao nhiêu nó lại
càng phi nước đại bấy nhiêu. Chẳng mấy chốc mà xuống lỗ! Bé Uyên, đứa con gái mười ba tuổi của Liên, vội vàng đính chính: -Đâu có. Con thấy ngoại còn trẻ lắm mà. Ngoại mới sáu mươi hai, bà Minh bảy mươi, còn già hơn ngoại nhiều! Bà Thuần cười, mắng yêu con bé: -Mẹ mày! Chỉ giỏi nịnh. Tuổi bà ở Việt Nam, mọi người đã phải gọi bằng Cụ rồi. Ở đó mà trẻ lắm! Liên ngắt lời:
-Còn một tuần nữa là Tết. Năm nay mẹ có định gói bánh tét như năm
ngoái không? Con thấy gói vui nhưng mẹ cực quá. Hay mình đặt dưới tiệm
dì Ba cho rồi. -Ối, ngoài bữa cơm chiều mẹ cũng đâu có bận rộn
gì. Một năm mới có một lần. Hơn nữa mẹ gói bánh tét ba màu, biếu nhà nào
họ cũng thích. Để mẹ rủ bác Minh qua gói với mẹ cho vui. - Mẹ
vui là được rồi. Ngày mai thứ bảy, con chở mẹ đi chợ Kim Phát mua những
thứ mẹ cần. Bánh mứt năm nay không biết sao, chớ đọc báo thấy hàng Trung
Quốc ngán quá! Tiến, chồng Liên, xen vô: -Em tính đi.
Hồi nào tới giờ em "tiếp thu" bao nhiêu chất độc trong hàng hoá, thực
phẩm chế biến từ Trung Quốc? Cứ tưởng ăn chay với đậu hủ là an toàn
nhất. Ngờ đâu trong đậu hủ cũng có độc luôn! Rau, quả cũng đầy thuốc trừ
sâu. Thôi, anh xuôi theo tự nhiên. Chừng nào ông trời gọi "Tiến" thì
anh dạ. Nếu sợ thì chỉ có nước nhịn đói thôi em à! -Xời, nói như anh! Hồi nào không biết thì dùng, bây giờ biết rồi cũng phải tránh chớ bộ!
-Cưng ơi, thịt bò, thịt heo, thịt gà ở đây họ cũng cho hormone tăng
trưởng như điên. Em không thấy ngày xưa ở Việt Nam. Con gái mười bốn,
mười lăm mới thấy "kinh" lần đầu. Còn con nít bây giờ í hả... -Trời đất! Sao anh rành sáu câu vậy hả? Liên tròn mắt. Tiến trả lời tỉnh bơ:
-Thời "A Còng" mà em. Cứ lên mạng là thứ gì cũng có. Cả những
"chiện" thâm cung bí sử từ thời ông Bành Tổ. Ngay những phương pháp giết
người cũng có luôn mới là khiếp! Liên nhăn mặt: -Anh, trước mặt con mà anh nói chuyện ghê quá hà... Nhưng bé Uyên lại có thắc mắc khác: -Mẹ à, ông Bành Tổ là ông nào vậy mẹ? Trong lớp con có thằng tên Bành Trung Hiếu. Liên hất hàm qua phía chồng: -Con hỏi ba con kìa. Chắc ổng rành hơn mẹ! Tiến cười hì hì:
-À, đó là một ông già sống lâu nhất lịch sử nhân loại. Nghe đâu ổng
sống tới tám trăm tuổi mới chịu khăn gói quả mướp về bên kia thế giới. À
mà hôm nào con hỏi thằng bạn con, chắc nó rành hơn ba. Thế nào họ cũng
có bà con mà. Nói xong Tiến đứng lên, xin phép mẹ vợ rồi đi ra phòng khách mở TV xem tin tức. Liên nhìn theo, lắc đầu: - Mẹ coi, ảnh già đầu rồi mà cứ như con nít! Nhưng bà Thuần cười hiền hậu:
- Nhờ vậy mà vui cửa vui nhà. Ba con hồi trước nghiêm quá, thành ra
tới bữa cơm ai cũng cắm cúi ăn. Nhà mình không có tiếng cười như bây
giờ. Thôi để chút nữa mẹ gọi điện thoại nói chuyện chơi với bác Minh.
Luôn thể rủ bác thứ năm qua nhà mình gói bánh tét với mẹ. Mẹ và bác Minh
coi vậy mà có duyên. Ai ngờ hơn nửa thế kỷ còn gặp lại trên đất nước xa
cả nửa vòng trái đất! Nhớ tới chuyện xưa mẹ còn buồn vô cùng! Thương
cho bác và cậu hai của con! Nói xong cặp mắt bà Thuần hơi ửng đỏ. Liên vội vàng gạt ngang:
-Thôi, mẹ nhớ làm gì những chuyện buồn như vậy. Bề nào cậu hai cũng
mất rồi. Hơn nữa con thấy bác Minh vẫn vui vẻ chớ có buồn rầu gì đâu! Ở
đời ai cũng có số mà. Mà mẹ quên câu "tình chỉ đẹp khi còn dang dở, lấy
nhau rồi...nham nhở lắm em ơi!" hay sao? Bà Thuần đang buồn cũng phải bật cười. Cái con nhỏ này tếu giống hệt bà hồi trẻ.
-Bà ngoại. Bà ngoại kể lại chuyện ông cậu hai với bà Minh cho con
nghe đi. Hôm trước con có nghe mà không để ý lắm. Như là ông cậu với bà
Minh ngày xưa bồ nhau phải không? Bé Uyên nắm tay bà ngoại lắc lắc,
miệng cười duyên. -Khiếp! Con nít con nôi mà nghe chi mấy chuyện này! Liên nhăn mặt.
-Không sao. Mười ba tuổi cũng đâu còn nhỏ nhít gì. Để bà kể cháu
nghe. Chuyện bắt đầu hồi bà mới tám chín tuổi gì đó. Gia đình ông bà
ngoại ở Sàigòn, ngay Ngã Tư Bình Hòa. Ông cậu Hai của con năm đó hai
mươi tuổi. Bà dì Ba mười bảy. Bà dì hồi con gái đẹp lộng lẫy. Da trắng
như trứng gà bóc, mắt mũi đều đẹp như tranh. Mới mười lăm tuổi mà có cả
chục chỗ đi coi mắt rồi đó. Bé Uyên ngây thơ hỏi: -Mắt bà dì bị gì mà người ta tới coi hả ngoại? Liên phì cười:
-Coi mắt tức là đến nhà để xem bà dì xấu hay đẹp. Bà dì con nổi
tiếng vừa đẹp vừa khéo. Được cả công dung ngôn hạnh nên nhiều người muốn
cưới về làm vợ, hiểu chưa! Con bé nghe mẹ nói một tràng bèn le lưỡi, rụt cổ, tỏ dấu ngạc nhiên: - Còn bà ngoại, hồi nhỏ xấu hay đẹp hả ngoại? -Ngoại hả? ngoại vừa đen vừa lùn, răng cỏ rất là vô trật tự. Nhưng "có diên" nên được mọi người cưng lắm!
Bé Uyên chống tay ngồi nghe. Bà Thuần, cặp mắt mơ màng, như đang
sống lại cái thuở còn là một con bé tám tuổi, hàng ngày cắp sách đến
trường Tiểu học Chi Lăng, gần Lăng Ông Bà Chiểu... ....Mẹ có
cửa hàng bán gạo ngoài chợ Cây Quéo. Ba đi làm ngoài đường Tự Do. Anh
Thiên học xong trung Học Pétrus Ký thì ghi tên học y tá. Chị Thu phụ mẹ
ngoài cửa hàng. Gia đình có thể nói là êm ấm. Anh Thiên đẹp trai như tài
tử xi nê nên được nhiều cô thương thầm. Trong số nữ sinh trong lớp có
chị Thu Nguyệt. Chị thấy anh Thiên bảnh quá bèn rủ về nhà giới thiệu cho
cô em gái tên Minh Nguyệt. Chị Thu Nguyệt đã có vị hôn phu là một sĩ
quan Hải Quân. Trong nhà có ba cô con gái, mà cô nào cũng Nguyệt, nên họ
có thói quen chỉ gọi tên lót. Do đó chị Minh Nguyệt được gọi tắt là
Minh. Năm đó chị Minh mười bảy tuổi. Khác với bà chị, chị Minh
rất diệu dàng, nhỏ nhẹ. Chị có làn da trắng mịn và mái tóc thề xõa ngang
lưng. Chị hay buộc tóc bằng chiếc băng đô màu tím, khiến khuôn mặt trái
soan của chị càng nõn nà, xinh đẹp quyến rũ. Hàm răng đều, trắng như
ngà. Khuôn mặt chị hoàn mỹ biết bao, nếu không có một nốt ruồi đen mọc
ngay dưới khoé mắt! Dĩ nhiên trai tài gái sắc gặp nhau là dính như sam.
Ba mẹ Thuần theo tây học nên đâu có thèm để ý đến lời "cảnh cáo" của bà
chị dâu "Thím tư thấy sao chớ cái nút ruồi trích lệ thương phu này không
mấy tốt à nghen". Ông bà trả lời "tụi nó thương nhau là được rồi. Con
nhỏ vừa đẹp vừa hiền, tụi em ưng bụng lắm." Bé Thuần đã từng
theo mẹ đến thăm gia đình chị Minh. Nhà họ ở gần Cầu Bông. (Vì thế, sau
này cứ nghe người ta hát ai đang đi trên Cầu Bông, té xuống sông ướt cái
quần ny lông, là Mỹ Thuần lại nhớ đến chị Minh, lòng rưng rưng buồn!).
Mẹ chị góa chồng và tu tại gia. Bà ốm nhom như con mắm, đầu cạo trọc và
mặc áo màu dà, nói năng nhỏ nhẹ. Hai gia đình qua lại rất thân mật và đã
ngầm nhận nhau là sui gia. Chị Minh đến nhà Mỹ Thuần, xuống bếp nấu
nướng thoải mái như ở nhà chị. Anh Thiên chầu đằng xóm Cầu Bông nhiều
hơn xóm Bình Hòa. Hai nhà hứa hẹn khi anh Thiên ra trường sẽ làm đám
cưới. Nhưng (chữ nhưng thật dáng ghét!) đùng một cái ông nội
dưới quê đau nặng. Chú út của Mỹ Thuần đưa ông cụ lên nhà thương Saint
Paul. Họ khám phá ra ông bị ung thư cuống họng. Điều trị gần một năm
bịnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng gia đình đành đem ông cụ về
quê tịnh dưỡng...Một mình chú Út không thể vừa săn sóc cha vừa trông nom
ruộng vườn, nên theo lệnh ông nội, gia đình Mỹ Thuần phải dọn về quê.
Trừ anh Thiên đang học dở dang, phải ở tạm nhà người bác. Cô bé Mỹ Thuần
và con bạn hàng xóm tên Kim Chi khóc mùi mẫn ngày cả nhà chất nhau lên
xe rời Saigòn. Nhưng người buồn nhất có lẽ là mẹ. Công lao bà gầy dựng
nên cửa nên nhà, bây giờ phải bán dổ bán tháo cho người ta! May mắn lúc
đó dân di cư vào rất đông, vừa để bảng bán là có người mua ngay.
Tuổi trẻ mau quên, nên sau một thời gian ngắn là bé Thuần lại tiếp
tục vui đùa với những người bạn mới và học hành bình thường. Chị Mai Thu
có người đi hỏi. Ba mẹ bằng lòng ngay, vì anh Phú đúng điệu là một
trang nam tử hán! Anh cao lớn, cặp mắt sâu sáng quắc dưới hàng lông mày
rậm. Cái miệng nói chuyện dẻo quẹo, nhưng mà thứ dẻo quẹo thiệt tình chớ
không phải giả dối. Ngoài nhân vật chính là chị Mai Thu yêu anh da
diết, hầu như cả họ đều thích anh nên đám cưới được tổ chức thật linh
đình. Có một điều ông nội không mấy hài lòng, là gia đình anh Phú không
được môn đăng hộ đối! Anh Thiên sau khi ra trường về làm việc
bên Long Xuyên. May quá, nơi đây có nhà bà cô của chị Minh. Ông bà không
con, nên cưng anh Thiên như trứng mỏng. Thương yêu, săn sóc anh không
khác con ruột. Bệnh tình ông nội càng ngày càng tăng. Ông sợ chết trước
khi thấy mặt cháu dâu, nên thúc ba mẹ cưới vợ cho anh Thiên gấp. Khi
trình với ông nội rằng sẽ cưới chị Minh Nguyệt cho anh Thiên, thì ba mẹ
gặp ngay sự phản đối mãnh liệt! Tuy giọng ông thều thào nhưng không kém
phần cương quyết: -Tao không muốn thằng Thiên cưới con gái Sài
Gòn (?!). Hai nữa con nhỏ đó tuy đẹp nhưng có cái nút ruồi trích lệ
thương phu. (Xui cho chị Minh, khi ông nội còn nằm nhà thương Saint
Paul, anh Thiên có dẫn chị vô thăm nên ông mới thấy cái nốt ruồi của
chị!). Vợ chồng bây có một thằng con trai, chắc bây hổng muốn nó chết
yểu chớ hả? Tao đã ngắm con Kim, con gái chú hai Lễ bên Hòa An rồi. Con
nhỏ bằng tuổi con Thu nhà mình, mà giỏi lắm, chăn dắt nguyên một đàn em
sáu đứa. Trước đây tao có nói hơi hơi với chú hai Lễ rồi. Họ bằng lòng
lắm. Mẹ Thuần kêu lên thảng thốt: - Cha à. Con thấy chị hai Lễ đẻ sòn sòn năm một... Ông nội trợn mắt cắt ngang:
- Bây nói gì kỳ vậy. Con một phải cháu bầy. Bây vỏn vẹn có một
thằng con, phải có ít nhứt năm bảy đứa cháu. Hai đứa con gái đâu có ở
với mình suốt đời. Bây mà cãi tao là tao từ đó đa! Anh Thiên
được triệu về gấp để hỏi ý kiến. Trước cái tin sét đánh anh cũng muốn
xỉu luôn! Mấy ngày liền anh năn nỉ ông nội, nhưng ông vẫn một mực lắc
đầu. Anh định bỏ nhà lên Sài Gòn, nhưng thấy mẹ khóc lóc năn nỉ quá, sau
cùng anh phải cắn răng vâng lời ông nội đi cưới chị Kim. Anh
Thiên không dám gặp cô chị Minh. Anh viết cho hai ông bà một lá thư, nhờ
thằng con chú Út cầm qua Long Xuyên và thu dọn đồ đạc mang về cho anh.
Theo lời thằng Trung kể lại thì khi đọc xong bức thư, cô chị Minh ngã
lăn ra...xỉu ! Lúc tỉnh lại thì khóc như mưa sa bão táp. Anh Thiên và mẹ
nghe xong cũng khóc quá trời! Nhưng người muốn mà trời định. Mà con
người thì vốn nhỏ nhoi, địch sao lại với ông Trời! Ít lâu sau
ông nội ra đi với gương mặt thanh thản và nụ cười mãn nguyện. Có ngờ
đâu, để ông vui lòng mà bao nhiêu con tim tan nát. Cuộc tình tưởng đẹp
đã trở thành đau thương, ai oán! Một năm sau chị Minh lấy một
chàng trung úy Hải quân, bạn của ông anh rể. Anh này yêu chị Minh từ
lâu, nhưng trái tim của chị đã trao cho người khác. Khi thấy chị Minh
đau khổ vì bị anh Thiên bội ước, anh chàng đã đưa bờ vai rắn chắc của
mình cho người đẹp mượn đỡ. Cuối cùng chị Minh cũng cảm động và nhận lời
cầu hôn của anh ta. Trời xui đất khiến một lần anh Thiên qua
Long Xuyên thăm vợ chồng bà cô chị Minh (lúc này đã nguôi giận!). Đúng
lúc chị cũng đang có mặt ở đó. Chị sững sờ nhìn anh mấy giây, rồi vội
vàng bế con chạy vào buồng, khóc ngất. Gọi gì cũng nhất định không chịu
ra. Anh Thiên trở về nhà mà mà lòng nát như tương!!! Thuần không biết
chị Minh có thật sự hạnh phúc với chồng không, nhưng phần anh Thiên thì
cứ sống với chị Kim một cách ơ hờ. May mà chị Kim tính tình hồn hậu,
chất phác. Lấy được anh Thiên là mãn nguyện, chả cần thắc mắc, suy nghĩ
sâu sa. Cứ thế mà đẻ sòn sòn năm một như bà mẹ của chị. Chắc ông nội
dưới suối vàng rất hài lòng! Giòng đời cứ trôi, con người vẫn
sống, dù cuộc đời có êm xuôi hay nghiệt ngã. Tháng Tư bảy lăm, tai họa
đổ ụp xuống miền Nam. Gia đình tan tác, chia lìa. Anh Thiên là chủ tiệm
ăn nên không phải đi học tập. Anh Phước, chồng chị Mai Thu và Khanh,
chồng của Mỹ Thuần là quân nhân cấp tá nên bị đưa đi học tập tận ngoài
Bắc. Vùng khỉ ho cò gáy, khí hậu khắc nghiệt Hoàng Liên Sơn. Ở lại
Sàigòn, hai chị em nương tựa nhau, buôn thúng bán mẹt để vừa nuôi con
vừa nuôi chồng học tập cải tạo. May mà Mỹ Thuần chỉ có một đứa con gái
là Mỹ Liên. Sau mấy năm lăn lộn chợ trời, Mỹ Thuần cũng có được chút
vốn. Sẵn dịp gia đình ông anh chồng vượt biên, cô gởi bé Liên đi theo,
năm đó bé được chín tuổi. Gia đình người anh chồng chỉ có hai con trai
nên cưng cháu như con ruột. Nhờ học tập "tốt" nên mười năm sau,
chồng Mỹ Thuần được Đảng khoan hồng, đem cái thân xác xơ, bệnh tật về
đoàn tụ với gia đình. Mỹ Liên đã có quốc tịch Canadienne, vội vàng lập
hồ sơ xin cho ba mẹ qua theo diện đoàn tụ. Gặp lại đứa con gái thân yêu
nay đã là một thiếu nữ dậy thì xinh đẹp, Mỹ Thuần khóc như mưa. Nhưng là
những giọt nước mắt hạnh phúc tràn bờ! Những tưởng từ đây
không gì có thể chia rẻ họ được nữa. Vậy mà cách đây năm năm, ông Khanh
đã qua đời vì ung thư gan. Cũng may ông đã nhìn thấy gia đình hạnh phúc
của đứa con gái cưng độc nhất. Từ đó vợ chồng Mỹ Liên mời mẹ về ở chung
với họ... Cách đây mấy tháng, bà Thuần đi chợ Kim Phát. Đang
lựa những chùm trái vải đỏ tươi, mọng nước, bà chợt nhìn qua người đàn
bà đứng tuổi bên cạnh. Có một cái gì đó khiến bà thấy lấn cấn trong
lòng. Hình như bà đã gặp người này ở đâu rồi, nhưng ở đâu? Chắc chắn
không phải ở đây. Chắc như vậy. Lúc đứng sắp hàng trả tiền, ngẫu nhiên
bà ta lại đứng ngay phía sau. Bà Thuần làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện với
bà nọ. Thì ra họ cùng ở St Léonard. Hai nhà cách nhau độ năm phút đi
bộ. Coi như hàng xóm mà không bao giờ gặp nhau kể cũng lạ! Cái nốt ruồi
dưới khóe mắt? Chưa kịp nghĩ tiếp thì tới phiên trả tiền. Đẩy xe thức ăn
ra parking rồi mà bà Thuần còn nấn ná đợi chưa muốn đi. Thấy bà ta ra
tới nơi, bà Thuần vội nói: -Hai chị em mình coi như hàng xóm.
Nếu không phiền em xin số phôn của chị, chị lấy số phôn của em. Hai chị
em mình thỉnh thoảng gọi nhau cho vui. Em tên Thuần. Mỹ Thuần. Chị cho
em biết quý danh được không? Có lẽ tên Mỹ Thuần cũng gợi cho người đàn bà lớn tuổi kia một cái gì đó, nên bà ta nhìn bà Thuần có vẻ chăm chú hơn: - Tôi tên Minh Nguyệt. Chữ Nguyệt vừa thoát ra khỏi miệng bà ta là bà Thuần đã ào tới ôm bà ta chặt cứng, mếu máo: -Trời ơi, chị Minh. Em là Mỹ Thuần, em của anh Thiên nè!
Nước mắt hòa trong nước mắt. Hai người chỉ biết ôm nhau khóc mùi
mẫn. Mặc kệ những cặp mắt tò mò, kinh ngạc đang trố ra nhìn. Đến chừng
có tiếng một người đàn ông cất lên, hai bà mới giật mình buông nhau ra. -Mẹ! mẹ ...làm gì mà khóc dữ vậy? Bà Minh lau nước mắt, gượng cười, miệng méo xệch: - À Tú. Đây là dì Thuần. Còn đây là Tú, con trai của chị. Người đàn ông trạc năm mươi. Mặt mũi có vẻ hiền hậu, nhìn bà Thuần chăm chăm: -Dạ chào dì. Cháu là Tú. Chắc dì và mẹ cháu quen nhau từ bên Việt Nam, hôm nay mới gặp lại? Bà Thuần chưa kịp mở miệng thì bà Minh đã vội đỡ lời: -Ờ, Dì với mẹ hồi xưa ở cùng xóm. Thôi chị về. Rồi chị sẽ điện thoại cho em nghen. Bà Minh ôm siết bà Thuần, thì thầm: -Chị không muốn cháu Tú biết chuyện xưa. Em thông cảm cho chị.
Trao đổi số điện thoại xong, bà Minh theo con trai ra xe. Bà Thuần
đứng đó, nhìn theo bóng người xưa của ông anh, lòng bồi hồi khôn tả!
Buồn vì nhớ tới người anh quá vãng đã mấy năm. Vui vì dù sao bà Minh
cũng là một phần dĩ vãng của bà. Kỷ niệm dù vui, dù buồn vẫn đẹp. Nhớ
lại thì lòng cũng thấy xuyến xao.! Về nhà bà Thuần kể ngay cho
Mỹ Liên nghe cuộc hội ngộ kỳ thú vừa qua. Tối đó cơm nước xong, dằn lòng
không được, bà Thuần nhấc phôn gọi cho bà Minh. Hai người tỉ tê tâm sự
cả tiếng đồng hồ. Thì ra ông Tuấn, chồng bà Minh sau này lên tới Trung
Tá Hạm Trưởng. Hai người có ba đứa con. Một trai, hai gái. Tú may mắn
được bố mẹ cho sang Canada du học trước ngày mất nước. Chồng bà Minh bỏ
xác trong trại cải tạo. Chính Tú là người bảo lãnh bà và hai cô con gái
qua Canada. Trước kia Tú có vợ người bản xứ. Nhưng hai người đã ly hôn
và bà Minh về ở với con trai cho tới bây giờ. Bà săn sóc con trai và hai
đứa cháu nội. Bà Thuần không nén nỗi, đưa ra câu hỏi mà trong lòng bà
vẫn thắc mắc từ lúc gặp lại bà Minh: - Chị à, em hỏi thật chị đừng giận nha. Có khi nào chị nhớ tới anh hai của em không? Sau mấy giây yên lặng, có tiếng cười khẽ từ đầu giây bên kia:
- Cô này thiệt tò mò! Nếu chị nói không thì thật sự dối lòng. Dù
sao anh Thiên cũng là mối tình đầu của chị. Em còn nhớ bản nhạc Sầu Lẻ
Bóng của nhạc sĩ Anh Bằng hay không? Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm, Giòng đời là chuỗi tiếc nhớ... ............................................ Đời việc gì đến sẽ đến, Nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên!
Tuy là anh Tuấn yêu chị thiết tha, nhưng con tim trong trắng của chị đã
bị thương tổn. Rồi vết thương nào cũng thành sẹo em à! Thật tình chị
không trách anh Thiên. Có đứa cháu nào nỡ trái ý người sắp lìa đời. Nếu
là chị, chị cũng sẽ hy sinh hạnh phúc của mình như anh hai em thôi.
Chính vì nghĩ như vậy nên chị không hề oán hận anh ấy. Mà thôi, chuyện
đã qua hơn nửa thế kỷ rồi. Chúng ta đều đầu hai thứ tóc. Cho nên việc gì
cũng phải xem nhẹ. Từ lâu rồi, tâm hồn chị rất là an lạc, thảnh thơi.
-Nghe chị nói vậy em rất mừng. Em sợ chị vẫn còn giận anh hai em.
Thứ bảy tới em mời chị và các cháu tới nhà em ăn bánh xèo nghen. Cải
xanh em trồng trong vườn bảo đảm là ngon. Bà Minh vui vẻ nhận
lời. Và kế tiếp là những bữa cơm thân mật khi thì nhà bà Minh, lúc lại
nhà bà Thuần. Hai bà tỏ ra rất tâm đắc...
* * *
-Ngoại ơi, chuyện của bà Minh với
ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại sao méchant quá hà.
Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại. Bà Thuần
cốc đầu con bé: - Con có biết ngày xưa áo mặc không qua khỏi
đầu hay không? Ở đó mà không chịu! Thôi, năm nay nhà mình tổ chức ăn tết
thật to nha. Bà ngoại sẽ gói mười đòn bánh tét nè, sẽ làm chạo tôm nè,
gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ trộn tôm thịt nè... -Thịt kho nước dừa ăn với dưa giá. Con mê món đó của ngoại làm. Bé Uyên ngắt lời bà Thuần.
- Ừ, thì thịt kho nước dừa. Mà con nhớ tiếp đãi hai đứa cháu bà
Minh cho thật tốt nghen. Hôm trước ngoại thấy con la con Alice làm nó
khóc. -Tại nó phá đồ của con, Bé Uyên nhăn mặt. Mà thôi lần này Tết, con sẽ không la nó nữa.
* * *
Đúng bảy giờ có người bấm chuông. Bé
Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào, nổi những đóa mai,
lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru băng hồng,
chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà
Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ
trong nhà chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô
tủ, xong mời mọi người vào phòng khách. Bà Minh hôm nay thật
đẹp trong chiếc áo dài gấm Thượng Hải màu xanh đậm. Cổ đeo chuỗi hạt
vàng. Mái tóc nhiều muối hơn tiêu được bới gọn ra phía sau, để lộ đôi
bông cẩm thạch xanh biếc. Bà trang điểm thật nhẹ nhàng nhưng trông rất
sang trọng. Hai đứa cháu nội mặc đầm. Chúng cứ theo rờ rẩm chiếc áo dài
của bé Uyên, tỏ vẻ thích lắm. Bà Thuần từ trong phòng ăn đi ra. Ở tuổi
sáu mươi hai, nhưng trông bà còn rất mượt mà trong chiếc áo dài màu tím
hoa cà, có thêu những đóa mimosa vàng rải rác. Bà đeo toàn bộ nữ trang
bằng hạt trai. Tóc cắt ngắn thật đơn sơ nên trông bà trẻ hơn tuổi thật
rất nhiều. Mỹ Liên cũng mặc áo dài gấm màu vàng hoàng hậu, đeo nữ trang
Chanel cho có vẻ tân thời. Tiếng chào nói, chúc tụng dòn tan
như pháo nổ. Giữa phòng khách là chiếc độc bình bằng sứ, cắm những cành
đào hoa nở bung khoe sắc hồng tươi thắm. Củi trong lò sưởi nổ tí tách,
ánh lửa đỏ nhảy múa trông thật ấm cúng. Bà Thuần mời mọi người qua phòng
ăn. Dưới ánh đèn pha lê lung linh sáng, những đĩa thức ăn được bày kín
trên chiếc bàn dài phủ khăn màu trắng tinh. Chỉ mới nhìn thôi đã thấy
ngon, bà Minh không ngớt xuýt soa! Những cây chạo tôm bọc mía nướng vừa
vàng, được xếp nằm khéo léo trên những lá sà lách xanh non. Đĩa gỏi ngó
sen, bạch mộc nhĩ, tôm, thịt được Mỹ Liên trang trí thêm bằng những bông
hoa khắc từ cà rốt, radis thật mỹ thuật... Nhưng đặc biệt hơn cả là đĩa
bánh tét. Những khoanh bánh được cắt ra, xếp ngay ngắn trong chiếc đĩa
sứ màu trắng, càng làm tăng nét đẹp của màu sắc trong chiếc bánh. Vòng
ngoài cùng, nếp trộn lá dứa nên có màu xanh cẩm thạch. Vòng kế, nếp trộn
lá cẩm có màu tím. Vòng thứ ba là đậu xanh bóc vỏ màu vàng tươi và
chính giữa là thịt heo ướp vừa miệng. Ăn miếng bánh vừa thơm, vừa bùi
vừa béo. Món này bà Thuần học được từ người cô, lấy chồng miệt Sa Đéc.
Nghe đâu những bà thuộc diện khéo vô địch, khi cắt ra, chính giữa khoanh
bánh còn có chữ Thọ. Mục này thì bà xin chào thua! Tú có đem
một cặp rượu Champagne để uống mừng ngày Tết tha hương. Cũng là để mừng
cuộc trùng phùng hy hữu của hai bà "hàng xóm" ngày xưa bên Việt Nam.
Trước khi cầm đủa, Champagne được rót vào những chiếc ly pha lê trong
vắt (cánh nhi đồng chỉ được uống coca!). Mọi người nâng ly, trao nhau
những lời chúc tốt lành nhất cho năm mới. Trên môi là những nụ cười rạng
rỡ, nhưng trong khoé mắt của hai bà mẹ lấp lánh những giọt lệ. Trong
lòng hai bà đang dâng trào một niềm hạnh phúc khó tả. Lâng lâng như
sương khói (mà chắc chắn không phải vì ép phê của rượu Champagne!). Tuy
ngoài trời tuyết lất phất rơi, nhưng trong ngôi nhà ấm cúng, hương xuân
vẫn ngào ngạt trong lòng mọi người... Bé Uyên không quên nhắc nhở: -Ngoại, ba mẹ, đừng quên tiền lì xì cho Alice với Aline à nha. Bà Thuần cười: -Con nhỏ này. Bữa nay sao hiền quá vậy kìa! Bé Uyên nháy mắt: - Hôm nay Tết mà ngoại!
Tiểu-Thu
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Jan/2018 lúc 10:34am
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 25/Jan/2018 lúc 5:13pm |
Vị
ngọt của mùa xuân
 [
Bài
nghe ] <<<<<
Cầm
gần Bảy triệu đồng trên tay với những tờ giấy bạc mới
tinh hãy còn thơm mùi mực in, Thằng Đực nó mừng rỡ vô
cùng vì cả tiền lương và thưởng tết do ông chủ thầu
xây dựng trao cho nó, nó nhẫm tính trong đầu với số tiền
này thì chuyến về quê năm nay mới thật sự về quê ăn tết
.
Vài năm trước đây cũng với ông
chủ thầu này, do làm ăn không thuận lợi ông chỉ thầu được
những công trình sửa lặt vặt nên lời lãi không bao nhiêu
từ đó ông trả lương cho thợ cũng có phần eo hẹp, nhưng
vì là những người gắn bó chí cốt với ông chủ thầu từ
lâu nên đám thợ hồ như thằng Đực chẳng phàn nàn gì,
hơn thế nữa do Đực nhà ta vẫn còn độc thân vui tính nên
tiền bạc với Đực cũng không cần thiết lắm, lương tuần
nó dành dụm gửi về phụ ông bà Hai mua thêm gà vịt heo về
nuôi, nhờ gia đình bà Hai chịu thương chịu khó và mát tay
nên thu nhập về chăn nuôi và lúa thu hoạch từ những mảnh
ruộng cũng đủ xoay sở trong nhà, nay với số tiền thật
lớn so với nó cầm trong tay trong dịp tết con gà này thì
gia đình nó mặc tình ăn tết, Đực còn nghĩ ngoài số quà
cáp bánh trái mua nó mua ở các khu chợ dọc lề đường trên
thành phố, nó sẽ tặng thêm cho con Mén người yêu bé bỏng
ở quê nhà một số tiền kha khá để Mén cùng có cái tết
đầm ấm như nhà mình.
Ngồi yên vị trên băng ghế trên
chiếc xe đò về quê sáng hai mươi chín tết, ngồi kế bên
thằng Đực là một cô gái trẻ, chắc cô nàng cũng là công
nhân về quê đoàn tụ gia đình nhân dịp cuối năm, cô gái
có nụ cười thật hiền với gương mặt dễ thương, thằng
Đực vốn tính thật thà chất phát nó nghĩ ngay đây là cô
gái cũng hiền lành chất phát như mình nên nó hỏi thăm:
- Em gái ơi ! Anh về Sóc trăng còn
em về đâu vậy?
Thoáng chú e ấp, cô gái cười hiền
rồi đáp :
- Dạ em về Châu đốc anh hai ơi
! Chắc anh cũng đi mần trên thành phố về quê ăn tết hả
?
Một chút vui trong lòng, Đực nhanh
nhẩu đáp :
- Đúng rồi em gái,cũng gần cả
năm anh mới về thăm nhà, chuyến này về chắc anh bị đòn
một trận vì bỏ đi quên cha quên mẹ lâu lắm rồi .
Cô gái cười thành tiếng rồi nói:
- Ngộ quá hén, anh già đầu rồi
mà cũng còn bị đánh đòn hả , vậy thì chắc chưa có " dợ"
rồi phải không?
Đến lượt thằng Đực cười vang
khiến mất bà khách ngồi gần trố mắt nhìn, thằng Đực
biết mình hơi quá trớn nó ra hiệu xin lỗi vì đã làm phiền,
rồi nó nói vừa đủ cho cô gái nghe :
- Trời , "dợ gì mà dợ", anh còn
tham ăn lắm nên " Chửa dợ" đâu .
Nghe xong cô gái cười rồi cả hai
đều thả hồn cho chuyện riêng tư của mình...
***
Đang lơ mơ trong giấc ngủ gà ngủ
gật, thằng Đực nghe tiếng anh lơ xe la lên:
- Bà con mình xuống đi vệ sinh ăn
uống dừng chân cho giản gân cốt, nửa tiếng là mình đi
tiếp nha bà con, hành lý tư trang bà con nhớ giữ gìn cẩn
thận .
Choàng tỉnh dậy thằng Đực không
thấy cô gái khi nãy ngồi bên cạnh, nó lấy làm lạ cô gái
xuống xe khi nào mà nó chẳng hay biết gì, nó nghĩ trong bụng:
"Cô gái chắc nói dóc rồi, nhà
ở Châu đốc mà chưa tới Mỹ Tho cô ta dong mất tiêu, bởi
bậy bây giờ sao khó tin người lạ ghê".
Loay hoay ôm cái Xách tay đựng quà
trong người, khom lưng đứng dậy để xuống xe, bất chợt
thằng Đực rờ cái túi quần phía bên cô gái ngồi cạnh,
thằng Đực điếng hồn vì phân nửa cọc tiền nó để ở
túi bên này đã "không cánh mà bay", bao nhiêu nghi ngờ nó dồn
hết vào cho cô gái, thằng Đực lẩm nhẩm trong miệng:
- Coi đẹp người đẹp nết vậy
mà đi ăn cắp tiền của mình, người gì sống hai mặt dễ
sợ , trước mặt mình thì ăn nói vui vẻ dễ thương, sau lưng
thì lấy tiền của mình, chà không lẽ cô này xài bùa mê
thuốc lú chi đây, khi không đang nói chuyện vậy mà mình ngủ
hồi nào không hay .
Thất vọng trong lòng thằng Đực
ngao ngán bước xuống xe, trời gần về chiều mặt trời
còn lấp ló phía ngọn tre của dãy nhà phía sau chiếc
xe đang đậu, cái nóng cũng đã dịu bớt mọi người túa
vào trạm dừng chân, dăm ba người đi về phía nhà vệ sinh,
một vài người túa ra mấy hàng bán quà bánh để mua
thêm một số về làm quà , thằng Đực ngồi vào bàn nó gọi
một dĩa cơm Sườn bì chả và một ly trà đá, nó nhai nuốt
vội vàng sợ ăn chậm chạp nhà xe sẽ bỏ nó lại nơi này,
ăn xong cầm cây tăm xỉa răng Đực gọi tính tiền, bà
chủ dáng người mập mạp vàng đeo đỏ tay vội đến bên
nó rồi bà nói :
- Cậu cho tui trăm hai nhe cậu .
Nghe tính tiền thằng Đực tá hỏa
tam tinh, tưởng mình nghe lầm nó bèn hỏi vặn lại cho chắc
ăn :
- Bà nói bao nhiêu vậy bà chủ ?
- Trăm hai chục ngàn đó cậu, ly
trà đá mười ngàn, dĩa cơm trăm mốt.
- Gì mắc dữ dậy bà, có tính lộn
không ? Ở trên thành phố dĩa này mắc lắm năm chục ngàn
hết cỡ, ở thôn quê mà bán trăm mốt ai mà dám ăn .
- Cậu ơi! Tui buôn bán ở đây cả
chục năm rồi, tết nhứt giá cả phải khác ngày thường
chứ cậu, mà tui nói cho cậu biết tại cậu không xem kỹ
cái "mơ nua" tui ghi giá cả đàng hoàng hết chú đâu cố ý
gạt gẫm gì ai đâu.
Ngưng chút xíu bà chủ nói tiếp:
- Cậu trả tiền đi tui còn làm
công chuyện nữa, ở đây đôi co với cậu mất thì giờ quá
Thằng Đực định phản ứng tiếp,
nó dự định hù bà chủ quán bằng cách kêu Công an địa
phương lại xử, bổng đâu có ba tên ăn mặc thật bụi đời
, họ xâm mình khắp thân người hầu như chỉ còn khuôn
mặt là chưa xâm, họ kéo ghế ngồi cái bàn bên cạnh bàn
thằng Đực, một trong ba tên cất tiếng hỏi bà chủ :
- Vụ gì đó má Bảy, có cần tụi
con nhúng tay vô không ?
Thấy mấy tay bậm trợn này thằng
Đực điếng hồn thò tay vô túi nhanh chóng thanh toán tiền
cơm cho bà chủ rồi lật đật leo lên xe ngồi chết trân .
Đắc thắng bà chủ chưa tha cho
thằng Đực, bà còn buông một câu ghẹo nó:
- Bữa nào " Quành" lên Sài gòn cậu
nhớ ghé ủng hộ quán Dì bảy này nghe, có trăm mấy mà làm
cái giọng thấy ớn...
Nghe câu chọc quê của bà Bảy chủ
quán thằng Đực giận cành hông nhưng thấy ba thằng " cô
hồn" còn đưa mắt nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống
nên thằng Đực đàng " xếp re" ngồi im như pho tượng cho
đến khi xe tiếp tục lăn bánh rời khỏi quán bà Bảy .
Xe lao vun vút trên Quốc lộ, chừng
đến gần các thị trấn, chợ búa phố xá dọc đường, anh
lơ xe đưa tay vỗ mạnh vào thân xe vừa la um sùm :
- Dô dô bà con ơi !
Cứ như vậy, xe chạy đến một
chiếc cầu đang sửa chữa, tài xế giảm tốc độ bò từ
từ qua cái cầu sắt bắt tạm kế bên, xe qua khỏi cầu sắt
thì có ba người đàn ông vẫy xe, bác tài cho xe đậu lại
ba ông hành khách nhảy tót lên xe một cách điệu nghệ, xe
tiếp tục chạy một đoạn ngắn cũng ba ông khách đón
xe dọc đường khi nãy bày trò chơi bài ba lá ăn tiền, ban
đầu chỉ có ba người chơi với nhau giữa lối đi của hành
khách trên xe, rồi một , hai người phụ nữ ngồi gần đó
cũng tham gia, hai người phụ nữ này quả thật có con mắt
tinh đời, họ đặt đâu trúng đó khiến tay làm cái mặt
mày nhăn nhó trông thật khó coi, chừng thua nhiều quá hắn
lên giọng nói:
- Hai bà có chơi bùa ngãi gì hông
mà đặt đâu trúng đó vậy ?
Không bà nào lên tiếng, chỉ đặt
vào lá bài rồi ăn tiền tên làm cái, có ông già đứng gần
đó cũng móc tiền đặt theo hai bà này, và lần nào cũng ăn
nhà cái hết.
Thằng Đực lần đầu đi xe thấy
họ chơi trò dễ thắng quá, bằng chứng là ba người chơi
gồm hai bà và một ông khách chưa thua ván nào, thấy coi mòi
dễ kiếm tiền để gỡ gạc lại số tiền bị cô gái kia
lấy cắp, thằng Đực mạnh dạn móc tờ năm mươi ngàn đặt
theo mấy người kia, đúng là vận may thằng Đực thắng năm
chục ngàn, cứ vậy nó đánh theo mấy người nọ trúng được
vài lần nữa, nó vui mừng khôn xiết, nó bắt đầu nổi máu
tham đánh một lần hai trăm ngàn, lần đánh này số nó không
may bị thua, dĩ nhiên những người chơi kia cũng thua, càng
đánh nó càng thua, còn lại ít tiền thằng Đực quyết chí
" được ăn cả, ngã về không" , nó đánh vào cửa ngược
lại những người chơi kia , không may cho nó bọn người kia
trúng chỉ có mình nó là bị nhà cái ăn trọn lần này, Hết
sạch tiền Đực bàng hoàng trong lòng, vì ham vui vì lòng tham
Đực muốn lấy tiền của người khác thông qua cờ bạc,
không ngờ nó bị cháy túi qua con đường này , đến cây xăng
phía trước ba người đàn ông, hai mụ đàn bà , và ông già
tham gia đánh bài khi nãy cùng xuống xe một lúc, xe tiếp tục
lên đường một đoạn ngắn thì anh lơ xe đến bên thằng
Đực anh ta nói:
- Nãy giờ tui ra hiệu cho chú em
mầy quá chừng mà chú em mầy không chịu để ý, cái đám
cô hồn này nó mần ăn trên đoạn này liên tục, tụi anh
biết hết trơn nhưng nếu không để chúng làm ăn thì chúng
nó phá xe trả thù hết đường làm ăn, xe nào cũng sợ nên
cứ im lặng mặc cho chúng tung hoành trên xe. Tụi nó là đám
cò mồi không hà chỉ có mình chú em mày là bị vướng chiêu
thôi, thôi thì bài học nhớ đời nghe chú em.
Nghe anh lơ xe cho biết cách thức
làm ăn của đám người này, nó ứa nước mắt trông thật
tội nghiệp, lúc này nó mới chực nhớ lại lời anh thầu
khoán nói với đám thợ hồ:
- Ở công trường xây dựng
buồn thì anh em chơi bài tiêu khiển cho vui thì được , nhưng
đừng ăn thua cay cú, ông bà mình có câu:
" Cờ bạc là bác thằng bần "
Ông chủ khi phát tiền cho thằng
Đực ông còn căn dặn:
- Đực nè ! Đường về nhà thì
xa , tiền bạc cẩn thận nhớ cất kỹ lưỡng , tốt nhất
chẻ nhỏ số tiền ra cất, có bị mất chổ này thì còn chổ
khác, tập trung một chổ mất thì mất hết nghe chưa, cho anh
gửi lời chúc tết gia đình, sau tết mình gặp lại nghe Đực.
Giờ thì không còn gì rồi, nó xuống
bến xe lấy hành lý để đón xe lôi về nhà, trong người
không còn một xu dính túi, Đực thấy tủi nhục, thấy thương
cho ông bà Hai, thương cho con Mén không có phần phước hưởng
số tiền nó dự định cho Mén, chưa biết tính cách nào
để về nhà, nếu lội bộ thì xa quá, còn đi xe lôi thì lại
không có tiền để trả , thằng Đực bổng thấy cái dáng
thấp thoáng từ xa y như thằng Tèo bạn học của nó ngày
xưa, anh chàng này cũng ba lô trên lưng , tay xách nách mang quà
cáp ê hề, khi đến gần, thằng Đực mừng như bắt được
vàng nó đến bên Tèo rồi la lớn :
- Cái thằng quỷ Tèo, trời
ơi lâu lắm rồi tao mới gặp mầy, đâu về vậy, thành phố
về phải hông? Mày ở quận nào? Tao ở Gò vấp mần công
trình lớn lắm...
Thằng Tèo chới với, vì nó kịp
nhận ra thằng Đực bạn rất thân thuở nào, cuộc sống miền
quê khó khăn mạnh ai nấy lên thành phố kiếm sống, không
ngờ chiều cuối năm gặp nhau , hai đứa kéo nhau vào quán
nước mía bên đường, sau một hồi hàn huyên tâm sự biết
được bạn bè đang gặp cơn thắt ngặt, Tèo nhanh chóng cho
Đực mượn một ít tiền để xoay sở trong mấy ngày tết:
- Tao cũng không có nhiều, cũng công
nhân như mày, có điều tao kiếm tiền dễ hơn mày, mầy cầm
chút đỉnh về xài tết, sau này có tiền gửi lại tao sau
.
Rưng rưng nước mắt Đực lí nhí
cảm ơn thằng Tèo , rồi hai đứa lên xe về nhà...
***
- Má mày đâu rồi, thằng Đực
hổm nó nói chừng nào dìa , tối om rồi mà chưa thấy tăm
hơi nó đâu?
Nghe ông Hai hỏi, bà Hai vừa chụm
củi thêm vô nồi bánh tét bà nói :
- Thì hôm nay nè , còn sớm mà ông,
chưa gì mà nóng ruột dữ rồi đa .
Bà Hai vừa dứt câu, thì Đực đã
đứng ngay trước ngõ, nó lên tiếng:
- Con nè, nhất ngôn ký xuất, tứ
mã nan truy, hôm nay nói dìa là dìa , là lá la .
Nghe cái giọng thằng Đực vui vui,
ông Hai " đế" cho nó một câu:
- Cha chả , bộ bây trúng số sao
tao thấy điệu bộ bây dui dữ đa.
Thằng Đực nhảy xổ lại ôm ông
Hai rồi nó hôn lên đôi má gầy gò của ông mấy cái làm
ông Hai không biết trời trăng mây gió vụ gì mà tự dưng
thằng Đực lại hôn ông như vậy, rồi Đực sà vào lòng
bà Hai nũng nịu như hồi còn nhỏ nó nói nhỏ cho mình bà
Hai nghe:
- Con thương má nhất đời.
Rồi như có hẹn trước con Mén
cũng từ đâu ngoài ngõ chạy ào vào ôm thằng Đực khóc như
mưa:
- Anh , anh dề rồi , kỳ này ở
luôn đi , đừng lên thành phố nữa nhớ anh muốn chết nè.
Hai bác kêu em nói với anh dậy đó.
Rồi Mén quay sang hỏi ông bà Hai
:
- " Con dâu" của tía má nói dậy
đúng hông tía má.
Ông bà Hai khẻ gật đầu thay cho
câu nói khiến thằng Đực khóc như mưa, nó nhớ lại gặp
bao chuyện không may trên đường về quê, tưởng đâu cuộc
đời đi vào ngõ cụt khi nó trắng tay, không ngờ mọi người
lúc nào cũng yêu thương nó , rồi sự giúp đỡ của thằng
Tèo, cái chân tình của ông chủ thầu, những hình ảnh đó
hiện lại như cuốn phim chiếu chậm, nó ân hận trong lòng
vì sự cả tin người lạ để phải mất tiền , rồi không
chiến thắng được lòng tham khi sa đà vào việc đỏ đen,
bài học đầu tiên nó vừa nếm trải, Đực tự hứa không
bao giờ nó để tái diễn tình cảnh này một lần nữa, bằng
không sẽ không có sự ngọt ngào nào mà sẽ là vị đắng
của mùa xuân nếu nó còn lòng tham và sự cả tin này .
Hai
Hùng SG
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 25/Jan/2018 lúc 5:17pm
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 26/Jan/2018 lúc 9:43am |

Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 26/Jan/2018 lúc 9:54am
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 29/Jan/2018 lúc 9:24am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|