Trang truyện PHƯỚC TRUNG
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=8948
Ngày in: 04/Aug/2025 lúc 11:01am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Trang truyện PHƯỚC TRUNG
Người gởi: mykieu
Chủ đề: Trang truyện PHƯỚC TRUNG
Ngày gởi: 29/Jun/2013 lúc 9:56pm
MÁ TÔI
( Viết
cho má kính yêu)
Khi xưa tay mẹ nõn nà
Giờ đây tay mẹ hoá ra
phong trần
Lưng tay nổi mấy đường
gân
Bao phen tắm nắng , bao lần
xông pha
Một đàn con dại mất cha
Đôi bàn tay ấy đưa qua khỏi
bờ
(không nhớ tên tác giả)
Đó
là hình ảnh của má tôi.Góa chồng khi còn trẻ, má tôi bương chảy một thân một mình
để nuôi các con khôn lớn. Đôi bàn tay của má dãi dầu nắng mưa qua bao năm tháng,
để bây giờ mỗi khi cắt móng tay, móng chân cho má, chúng tôi thường ve vuốt đôi
bàn tay nhăn nheo, chai cứng của má mà lòng thấy ngậm ngùi. Cảm thương sự hy
sinh vô cùng lớn lao của má đối với chúng tôi.
Khi còn trẻ má tôi là một thiếu nữ xinh đẹp.
Khi chồng mất má vẫn còn là một thiếu phụ xinh đẹp. Và bây giờ ở tuổi gần 90, đối
với chúng tôi má vẫn là lão bà xinh đẹp.
Lấy
chồng rất trễ chỉ vì sự kén chọn của ông ngoại tôi. Ở tuổi cập kê biết bao nhiêu
người đến dạm hỏi má, tất cả đều bị ông ngoại từ chối. Người thì ông chê mập,
người thì ông chê lùn, chê thấp, chê cao, chê nghèo không xứng với má.
Sau
này khi chúng tôi trưởng thành má thường nói với chúng tôi: Người ta tới coi mắt
má chứ có coi mắt ông ngoại bây đâu mà ông cứ chê tới chê lui, nhiều đám coi được
hết sức, có công ăn việc làm, có học, chỉ tội con nhà nghèo nên bị ông từ chối
làm cho tuổi xuân của má trôi qua oan uổng.
Kén
chọn mãi má tôi cũng chưa có được tấm chồng. Má tôi lên Sài Gòn đi bán hàng cho
một công ty qua sự giới thiệu của người chị bà con. Cũng trong thời gian đi làm
này má tôi quen với ba tôi qua sự mai mối của người chị em bạn. Ba tôi goá vợ và
có hai người con.
Tôi
không biết má tôi có được mấy năm hạnh phúc khi sống với ba tôi. Chắc là không
nhiều!!!
Những
năm đầu khi ba tôi còn có việc làm trên Sài Gòn, gia đình chúng tôi cũng tạm ổn,
nhưng khi má tôi có bầu em út, ba bị mất việc, cả gia đình dọn về Gò Công. Ông
nội tôi mướn ngôi nhà cao cẳng ở gần ngã ba ao Trường Đua trên đường đi về Tăng
Hòa để làm vựa gỗ cho ba tôi buôn bán.
Gọi
là nhà cao cẳng vì tầng dưới trống trơn chỉ để vựa cây vựa gỗ, tầng trên thì để
ở. Buôn bán không bao nhiêu mà ba tôi nhậu thì nhiều. Lúc có tiền thì nhậu rượu
mắc tiền, khi không tiền thì nhậu rượu đế cho tới khi say xỉn. Ông không làm gì
nhiều chỉ trông chờ vào sự chia gia tài của hai bà chị ông Nội tôi.
Khi
chúng tôi ở nhà cao cẳng tôi khoảng 5 tuổi, có người chị bà con bạn dì học ở
trường Trung học Công Lập Gò Công ở chung. Chiều chiều sau khi học xong, chị
thường dẫn tôi, em gái kế và bồng cô em út của tôi đi vòng vòng ao Trường Đua.
Ao lúc bấy giờ có nhiều cây dương trồng xung quanh trông rất đẹp. Thỉnh thoảng
chị dẫn chúng tôi đến hảng nước đá kế bên ao để mua nước đá hay xem người ta làm
nước đá. Có chị ở chung, chúng tôi rất vui vì có người bầu bạn, nhưng chị ở chưa
đầy năm thì về Sài Gòn học ở trường Gia Long. Chị đi rồi cảnh nhà chúng tôi vắng
vẻ, không còn ai dẫn chúng tôi đi vòng vòng ở ao Trường Đua nửa.
Phía
sau nhà cao cẳng có trồng thật nhiều chuối nên má tôi thường rọc lá chuối hay đốn
chuối chín bán để kiếm chút đỉnh tiền bỏ túi.
Sự
buôn bán của ba tôi càng ngày càng xuống dốc cùng với sức khỏe của ông. Có lẻ vì
uống rượu quá nhiều, ông chết ở tuổi bốn mươi.
Ngày
ba tôi mất chúng tôi không ở bên ông vì trong thời gian ba tôi bệnh chúng tôi về
bên ngoại ở chung với gia đình cậu Út, chỉ có má tôi ở lại Gò Công săn sóc ba.
Má tôi mới vừa về Phước Trung thăm 3 chị em chúng tôi thì tối hôm đó được tin
ba tôi mất.
Chúng
tôi không được nhìn ông lần cuối, không được nghe ông nói một lời. Tôi còn quá
nhỏ để biết mất cha khi còn quá nhỏ là một sự mất mát lớn. Tội nghiệp ba tôi cứ
trông chờ vào gia tài của hai bà nhưng ông đã mất trước khi thấy những gì ông
mong đợi.
Sau
này khi lớn lên chúng tôi nhiều lần tự hỏi: Nếu ba tôi còn sống và có được những
gì ông mong đợi liệu ông có chịu khó làm ăn hay vẫn tiếp tục say sưa nhậu nhẹt???
Câu hỏi đó không có câu trả lời. Vì vậy chúng tôi thường nghĩ có khi ông ra đi
sớm như vậy mà tốt cho má tôi và mấy chị em tôi, dầu má tôi phải vất vả muôn phần
nhưng tinh thần có lẻ sẽ bớt căng thẳng và lo âu.
Gia
đình nội tôi là người Hoa nên trọng con trai mà má tôi chỉ có 3 cô con gái nên
sau khi chồng chết má tôi bồng bế chúng tôi về quê ngoại. Chúng tôi được sự cưu
mang của cậu dì mà lớn lên.
Dì
Tư mua đất xây nhà cho chúng tôi, mua bàn máy may cho má tôi may mướn. Cậu Út
thì chăm sóc sức khỏe cho chúng tôi vì cậu là y tá ở xã Phước Trung. Cậu rất mát
tay, trị bệnh rất nhiều người ở xã nhà và những xã lân cận. Thỉnh thoảng cậu đi
tận những nơi xa xôi để giúp những người
nghèo. Đôi khi trị bệnh mà không lấy tiền thuốc vì người bệnh quá nghèo.
Những
năm 1960, 1961, du kích quấy phá khắp nơi và kiểm soát những vùng xa xôi hẻo lánh
nên tá điền không đóng lúa ruộng hay trả bằng tiền cho Bác Hai tôi đầy đủ nên Bác
đã nhờ má tôi đi thâu dùm. Vì muốn kiếm thêm chút ít tiền để phụ với tiền may
mướn nên má tôi đồng ý.
Lúc
đầu khi má tôi đi ba chị em chúng tôi qua ở nhà của Bác. Đó là một ngôi nhà rộng
lớn, tọa lạc trên một miếng đất cũng rất ư là to lớn ở góc của 2 con đường, tôi
không nhớ tên. Một mặt tiền của nhà đối diện với trại gia binh của quân đội Việt
Nam Cộng Hòa ngày xưa. Phía sau tòa nhà to lớn đó là kho chứa lúa chạy dài từ
nhà bếp tới dãy nhà kho khoảng chừng hơn 10 mét, bề ngang khoảng 3, 4 mét.
Sống
trong ngôi nhà to lớn này chúng tôi thấy mình quá lạc lỏng. Càng lạc lỏng hơn
khi nhìn thấy gương mặt khó đăm đăm của bác gái. Bác ấy không bao giờ nói chuyện
với chúng tôi. Ban ngày chúng tôi quay quần chơi với nhau, bắt bò chét cho chú
chó “bẹc giê” của bác hay trò chuyện cùng các người làm.
Chúng
tôi thỉnh thoảng gặp các anh chị con của bác nhưng họ lớn tuổi hơn chúng tôi
nhiều nên chắc cũng không thích thú hay quan tâm đến đám nhóc mồ côi.
Đến
bửa cơm tối thì thật là một cực hình đối với chúng tôi. Nào nĩa, nào dao, nào
muỗng, nào tô, nào dĩa... Sự sắp xếp trên bàn quá là sang trọng đối với đám trẻ
nhà quê. Chúng tôi không dám ăn , không dám gắp, không dám nhai chỉ mong sao
cho bửa ăn chấm dứt thật nhanh để được rời khỏi bàn. Tối đến 3 chị em chúng tôi
đói meo vì có ăn được gì đâu, bụng kêu ọt ọt...
Ngủ
thì chúng tôi ngủ trên sàn nhà của một phòng chứa đồ cạnh các phòng ngủ của gia
đình bác. Chúng tôi nhớ má thật nhiều. Ba chị em ôm nhau mà khóc và thiếp vào
giấc ngủ...
Má
nói là đi 2 hoặc 3 ngày là về. Chúng tôi đếm từng ngày. Ngày một ngày hai trôi
qua má vẫn chưa về. Chúng tôi thường hỏi các anh chị người làm: Khi nào má của
tụi em về?? Họ thường trả lời: Mai má các em về. Ngày mai rồi lại ngày mai trôi
đi, có khi má đi đến 5 hoặc 7 ngày.
Khi
về má thường hay kể cho chúng tôi nghe má
đi tận Bình Xuân, Bình Thành, Bình Phú Đông v.v.v. rồi có khi phải đi ghe qua sông.
Ăn cơm ở nhà tá điền và tối ngủ ở nhà tá điền. Họ đối xử với má rất là tử tế. Có
người đóng tiền đầy đủ. Có người hẹn lần hẹn lựa má phải trở lại vài lần. Lúc đó
chưa có ăn cướp, má mang nhiều tiền về giao cho bác Hai mà không có việc gì xảy
ra với má. Thật là có Trời Phật độ.
Chúng
tôi ở nhà bác chỉ có một lần, sau đó nói với má là chúng tôi không muốn ở đó nửa
vì buồn quá. Chúng tôi được trở về nhà của mình. Nhà tuy đơn sơ nhưng thật ấm cúng
và thân thiết. Ban ngày chúng tôi có thể chơi với các con của cậu dì hoặc các bạn
cùng xóm, thật là thoải mái.
Trước
khi đi má thường kho chúng tôi nồi thịt kho tiêu hay kho tàu có trứng vịt luộc,hương
vị đậm đà, ngon ơi là ngon, ngon gấp trăm lần những bửa ăn mà chúng tôi có ở nhà
bác.
Lúc
bấy giờ trong nhà chúng tôi có một căn hầm nền bằng xi măng, bốn bên vách hầm là
gạch thẻ. Một vách của hầm có chừa một lỗ để đủ một người chui ra chui vào. Trên
nóc hầm là bộ ván có chất thật nhiều bao trấu để rủi Việt Cộng có thụt mọc-chê rớt
xuống nóc hầm thì có mấy bao trấu đỡ??? Không biết có thật không nhưng nhờ Trời
Phật đỡ những chuyện như vậy chưa bao giờ xảy ra.
Những
đêm không có má ở nhà, chúng tôi thường xuống hầm ngủ vì sợ ngủ say rủi Việt Cộng
thụt mọc-chê chúng tôi không hay mà chạy xuống hầm kịp. Trước cửa hầm có ngọn đèn
lồng để chúng tôi thấy đường và biết chuyện gì xảy ra bên ngoài hầm. Tôi lúc nào
cũng có một cái hộp quẹt diêm trong túi và mấy cây đèn cầy để sẵn trong hầm. Cuộc
sống đã dạy cho cô bé mới 8, 9 tuổi đầu như tôi phải biết làm gì khi không có má
ở nhà.
Thức
ăn ở nhà hết mà má vẫn chưa về. Chúng tôi xin đồ ăn của dì, của cậu hoặc ra ao
câu cá hay hái rau tập tang ở vườn mà ăn. Đêm đêm nghe tiếng mọc-chê nổ xa xa
hay tiếng súng bắn, nghĩ tới má một mình thân cò lặn lội nơi quãng vắng, lủi thủi
kiếm mồi để nuôi đàn con dại mà nước mắt chúng tôi chảy ròng lo sợ cho sự an toàn
của má. Dì Ba bảo chúng tôi hãy niệm “ Nam mô a di đà Phật” thì Phật Trời sẽ bảo
vệ cho má. Tôi niệm tối ngày đến bây giờ đã thành thói quen.
Mỗi
ngày chúng tôi thường hỏi dì cùng câu hỏi: Khi nào má tụi con về hả dì Ba?” Dì
luôn nói:” Ngày mai má con về”. Ngày mai đến rồi ngày mai lại đi má chúng tôi vẫn
chưa về, chúng tôi hỏi nửa nhưng dì không bực mình mà vẫn dịu dàng bảo :” Đừng
lo mai má các con sẽ về”.
Má
tôi đi như vậy chừng một mùa lúa thì không đi nửa vì quá nguy hiểm.
Năm
1962 bà Tư chị của ông Nội bệnh, má tôi và bác Sáu gái là hai cô con dâu nghèo
nhất trong gia đình họ Lâm cùng với hai người làm thay phiên nhau nuôi bà. Trước
đó bác Hai và cô Tư ( con của ông Hai) có hứa với má tôi là ráng chăm sóc bà Tư
cho đến khi bà mãn phần thì bác và cô sẽ cho má tôi một số vốn để buôn bán làm ăn.
Việc
chăm sóc người bệnh không dễ dù có người thay thế ca ngày ca đêm. Má tôi ốm đi
rất nhiều. Trong thời gian này bác Hai cho tiền mướn người chăm sóc chúng tôi.
Bà
Tư mất. Đám ma thật lớn có nhạc Tây, nhạc Tàu ì xèo. Chúng tôi cũng được bửa ăn
thỏa thích. Sau đám tang bác Hai cho chúng tôi mớ nho, mớ táo héo mang về. Tiền
đâu không thấy, má tôi sụt ký rất nhiều, trông thật hốc hác xanh xao. Thật tôị
nghiệp má. Lặn lội thân cò lần này chẳng có miếng tép, miếng tôm.
Không lâu sau khi bà Tư mất, bà Bảy em bà Tư bị
bệnh.
Má tôi và bác Sáu gái tiếp tục nuôi người bệnh. Bác Hai và cô Tư tiếp tục đem lời
hứa hảo là sẽ cho tiền làm vốn để má tôi yên chăm sóc bà Bảy.
Tiếp
tục nuôi bệnh. Tiếp tục hy vọng và chúng tôi tiếp tục sống không có má trong
khoảng thời gian dài.
Rồi
bà Bảy mất. Lại một đám tang lớn diễn ra. Rồi má tôi lại về tay không. Bác và cô
nói vì làm đám ma cho hai bà nên đã hết tiền, dù một xu cũng không có cho má tôi.
Có mà điên mới tin những lời như vậy. Má tôi buồn lắm nhưng bà không nói gì. Tiếp
tục sống và tiếp tục tảo tần nuôi con. Lại một lần nửa thân cò lặn lội xúc tép
nuôi con nhưng chẳng được con tép nào, ngay cả con ruốt cũng không ...Má tôi không
bao giờ than vản hay trách cứ một ai. Má rất ít nói, tính tình điềm đạm và kiên
nhẫn. Tôi chưa bao giờ thấy má nổi giận bao giờ.
Má tôi không đầu hàng số phận, cam phận sống
trong kiếp nghèo khổ. Má xin làm thư ký ở quận Hòa Lạc. Dinh quận lúc bấy giờ kế
bên trường Tiểu Học Tăng Hòa. Dù không biết làm thư ký là sẽ phải làm gì má vẫn
nộp đơn. Phó Quận trưởng từ chối vì quận không cần thư ký..Má thất vọng vô cùng.
Nhưng rồi thật không ngờ tòa Hành chánh Tỉnh lại kêu má tôi đi làm. Sau này mới
biết nhờ Thiếu tá Tuệ là Quận trưởng của quận Hòa Lạc bấy giờ đã chuyển đơn của
má tôi ra tỉnh và với sự giúp đỡ của ông má tôi đã có việc làm.
Sau
1975, mọi ngưới ly tán khắp nơi, không biết Thiếu tá Tuệ bây giờ ra sao??? Còn
sống hay đã chết??? Gia đình chúng tôi vẫn mãi mãi nhớ ơn Ông.
Khi
đi phỏng vấn họ hỏi má có biết đánh máy hay không, má nói không. Thế là họ bảo
má đi học đánh máy cấp tốc 3 tháng. Sau khi có bằng đánh máy má làm thư ký ở phòng
xây dựng nông thôn cho đến ngày 30 tháng Tư đen.
Cuộc
sống gia đình chúng tôi tạm ổn, mẹ con sống quay quần bên nhau thật là hạnh phúc.
Chúng tôi đủ khôn lớn để chia sẻ công việc nặng nhọc với má. Có thể nói suốt thời
gian má làm ở phòng xây dựng nông thôn là thời gian hạnh phúc và vui vẻ nhất
trong cuộc đời của má nhưng thời gian đó không kéo dài được bao lâu thì Cộng sản
chiếm niềm Nam. Má mất việc làm, tôi chưa tốt nghiệp Sư phạm dù chỉ còn vài tháng.
Em gái kế cũng vậy và em rể phải đi học cải tạo. Em gái Út còn đang học lớp 12.
Bác Hai không trợ cấp tiền bạc cho chúng tôi học tiếp. Quần áo, đồ đạc trong nhà
“đội nón” ra đi để 3 chị em chúng tôi có tiền tiếp tục việc học.
Với
việc trực tiếp quản lý sản xuất, ngăn sông cấm chợ từ năm 75 cho đến những năm
sau đó Cộng sản đã biến những người dân miền Nam từ trí thức cho đến thành phần
lao động trở thành những con buôn bất đắc dỉ. Chúng tôi cũng vậy buôn bán mọi
thứ để được sinh tồn. Nhìn má quằng vai gánh những thùng nước mắm nặng trĩu mà
thương má quá chừng. Chúng tôi cũng bước đi xiêu vẹo vì thuở giờ có gồng gánh
như thế này đâu. Lao động như vậy là vinh quang sao???
Năm
1976, chính quyền xã cấp cho gia đình chúng tôi một công ruộng để làm dù chúng
tôi không muốn nhưng vẫn bị bắt bộc phải nhận để chứng tỏ là “nhà nước” chiếu cố
đến dân nghèo. Ruộng xa nhà hơn 4 cây số. Chiếu cố kiểu này thì thật là bất công
cho chúng tôi vì chúng tôi có biết làm ruộng bao giờ đâu???
Miếng
ruộng mà họ phát lại ở đầu nguồn, mỗi khi nước lớn dâng lên tới ngang đầu gối,
cỏ lác lại mọc tùm lum, ba chị em chúng tôi phải mò mẫm làm cỏ trong nước với
lưởi liềm hay lấy cuốc mà xắn. Rồi đợi nưóc ròng mướn người cấy, mướn người rải
phân. Lúc lúa bắt đầu trổ đòng đòng thì có rầy, chúng tôi gánh 100 con vịt con
mượn của người em bà con đem thả chúng trên ruộng. Vừa thả xuống nước, úy mèn đéc
ơi như chim xổ lồng chúng chạy đâu mất tiêu, mặc cho chúng tôi kêu mỏi cả cổ chẳng
thấy con nào trở lại, chỉ nghe tiếng chúng kêu “chip chip” trong đám lúa.
Mặc
kệ xác chúng, chúng tôi nằm dài trên bờ đê giữa những thửa ruộng. Nhìn trời, nhìn
đất, nhìn lại thân mình không biết tương lai sẽ ra sao??? Trước 1975 đã không sáng
sủa gì cho lắm. Sau 1975 chắc chắn cũng chẳng tốt đẹp gì, có thể còn tệ hơn!!!
Chiều
xuống, chúng tôi kêu bầy vịt lần nửa. Thật lạ lùng chúng tề tựu đông đủ, chúng
tôi chỉ cần bắt chúng bỏ vào thúng gánh về. Chỉ thiếu mất có 4 con. Thật hú vía!!!
Rồi
mùa lúa chín, lúa nặng trĩu hạt nhưng thu hoạch không có bao nhiêu vì lúa quá
cao mọc theo con nước. Gió lớn, mưa to lúa ngã rạp xuống nước, thúi đi một nửa.
Vừa tốn tiền mướn người gặt, mướn xe bò chở về. Tiền lúa thu hoạch không bằng một
nửa tiền bỏ ra để làm ruộng. Đúng là tiền mất tật mang. Với số tiền đó chúng tôi
có thể bỏ ra để mua gạo mà khỏi phải cực tấm thân. “Lao động là vinh quang”
trong trường hợp này lại chẳng đúng chút nào.
Miền
Nam trước 1975 lúa gạo dư thừa, sản xuất ra cả nước ngoài vì có đồng bằng sông
Cửu Long là vựa lúa trù phú. Vậy mà sau khi Cộng sản chiếm miền Nam dân chúng
phải ăn bo bo, gạo mốc, gạo ẩm vì tất cả lúa gạo thu hoạch sau mùa gặt đều được
chở ra Bắc.
Với
chính sách ngăn sông cấm chợ mặc khác lại quản lý không tốt. Lúa gạo ở Bạc Liêu,
Cà Mau...quá dư thừa, trong khi một số tỉnh khác như Tiền Giang, Bến Tre...thì
lại không đủ lúa gạo để ăn. Má tôi đã cùng một số bà con cô bác ở cùng xóm đi
ghe xuống Cà Mau để mua gạo về vừa ăn vừa bán. Đi kiểu này vừa vất vả vừa nguy
hiểm vì phải ra sông lớn, sóng to, thuyền có thể chìm bất cứ lúc nào. Mặt khác
nếu gặp bọn thuế vụ trên sông thì kể như mất cả chì lẩn chài. Vừa đi vừa về khoảng
5 tới 7 ngày. Má tôi đi như vậy chừng đôi ba lần, cả ba chị em chúng tôi cùng năn
nỉ má đừng đi nửa rủi má có chuyện gì thì chúng tôi ân hận suốt đời. Chúng tôi
bấy giờ đã lớn có thể cùng má bương chảy kiếm ăn. Không để má một mình thân cò lặn
lội nơi quảng vắng như khi chúng tôi còn bé nửa.
Rồi
khi em rể đi học cải tạo về, má và em rể cùng đi gặt lúa mướn. Tôi và em kế đi
dạy ở xã nhà. Em Út đi dạy tận Cái Bè. Nhìn má và em rể trở về nhà sau một ngày
gặt cực nhọc, trông thật thảm thương, cả hai đều mệt nhừ, tay chân mình mẩy đau
khôn xiết. Đi gặt như vậy đôi ba lần thì cả hai cùng bỏ cuộc vì chịu không thấu.
Một lần nửa lao động như vậy là vinh quang chăng???
Không
lâu sau đó, em rể vượt biên sang Mỹ. Vài năm sau bảo lảnh em gái và con trai
sang cùng. Em gái Út cũng vượt biên không lâu sau em rể và định cư tại Úc. Em đã
bảo lảnh má tôi và tôi sang cùng sau khi bảo lảnh toàn bộ gia đình em gái kế từ
Mỹ sang.
Như
vậy là sau bao nhiêu năm gian nan lận đận gia đình chúng tội đã sum hợp với
nhau. Má tôi có thể an hưởng tuổi già với các con, cháu ngoại và cháu cố. Má vẫn
còn rất khỏe, khi xưa bồng ẳm hết cháu ngoại rồi bây giờ đến cháu cố. Đó là niềm
vui, niềm hạnh phúc của má. Niềm vui và hạnh phúc này sẽ giúp má tôi sống trường
thọ, không lú lẩn vì má luôn luôn là người bận bịu không bao giờ để phí thời
gian.
Chúng
tôi cũng thật là hạnh phúc vì vẫn còn có mẹ. Một bà mẹ thật tuyệt vời, suốt cả
cuộc đời lúc nào cũng hy sinh cho con cho cháu mà không bao giờ nghĩ cho bản thân
mình.
Một
lần nửa, MÁ TÔI MUÔN NĂM !!!
Phước Trung 26/6/2013
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jun/2013 lúc 11:48pm
Thuở ấu thơ
Phước Trung (cựu nữ sinh trường Trung Học Công Lập Gò Công) Ba tôi mất khi tôi chưa tròn 6 tuổi, em kế vừa 4 tuổi và em út thì
mới 20 tháng. Má tôi một nách 3 con, không được sự trợ giúp gì từ bên nội dù chỉ
một xu. Gia đình nội tôi- dòng họ Lâm- giàu có nhất nhì ở tỉnh Gò Công thời bấy
giờ với nhiều bất động sản và ruộng đất. Bên nội di dân từ Tàu sang vào những
năm 1900.Vì là người Tàu nên họ rất trọng con trai mà má tôi chỉ sanh được 3 cô
con gái. Má tôi kể có một lần bà Tư chị của ông Nội hỏi má tôi : - Con
được bao nhiêu đứa con? - Dạ được 3 đứa con gái. - Vậy là mầy mậu lúi
rồi. Đúng là mậu lúi thật. Sau khi ba tôi mất, má tôi ráng núm níu ở lại với
bà Nội một thời gian ( ông Nội mất trước ba một năm ), một căn phố trong dãy phố
đâu lưng với lò bánh mì Yến Phi. Má tôi có hỏi xin Nội một bàn máy may để má tôi
may mướn kiếm chút đỉnh tiền bỏ túi. Bà tôi không đồng ý. Sau một thời gian
má tôi xin Nội cho về quê ngoại ở Phước Trung với hai bàn tay trắng, không có
một chút vốn liếng gì để sinh nhai. Ông ngoại tôi là một nhà nho, nhà thơ và
thầy thuốc Đông y, sống bằng nghề nông. Bà ngoại tôi mất khi má tôi mới 11 tuổi.
Ông ngoại lấy vợ kế nên chúng tôi không thể ở chung, chúng tôi tá túc nhà của
cậu Út, kế bên nhà ông ngoại. Lúc này cậu đã lấy vợ và có 3 cô con gái nhỏ hơn
tôi. Sáu chị em gái chúng tôi sống bên nhau rất là vui vẻ, hể một đứa bị ho
gà là cả đám còn lại “sủa” theo. Hể một đứa bị trái rạ là năm đứa con lại gải
tiếp. Chúng tôi thương yêu và nhường nhịn nhau, mợ tôi rất hiền nên chị chồng em
dâu không có gì đáng tiếc xảy ra. Trong số mấy anh chị em của má, dì Tư
thương má nhất, có lẽ vì cảnh goá bụa của má tôi. Dì đã mua lại miếng đất của
cậu Sáu tôi kế bên nhà ông Ngoại. Dì xây cho chúng tôi một căn nhà ngói, vách
ván bổ kho, cho bộ trường kỹ, tủ thờ cẩn xa cừ và bộ ván bằng gổ cẩm lai, nằm
mát ơi là mát. Công ơn của dì đối với chúng tôi thật bao la và ấm áp, tiếc là
sau 75 dì theo các con qua Canada định cư và mất bên ấy. Chúng tôi chưa có dịp
đền đáp ơn dì. Ở trên trời cao dì có linh thiêng hãy chứng giám cho lòng thành
của chúng con. Cuộc đời thơ ấu của tôi trôi êm đềm bên cạnh mẹ và hai em.
Buổi tối má tôi may vá (bàn máy may cũng là của dì Tư mua cho), chúng tôi chơi
trên bộ ván, bày mền gối, tập vở ra để bán hàng. Ban ngày ngoài giờ học, tôi
tham gia trò chơi bắn thun, bắn kè (bi), nhảy cò cò, đánh tên, bá quang, nhảy
dây, hay thả diều vào mùa khô. Tôi bắt chước đám con trai chẻ tre làm khung
diều, lấy giấy báo làm thân diều và lấy chỉ may của má làm dây thả diều. Dù diều
của tôi không đẹp, không bay cao như những con diều khác nhưng ba chị em tôi vẫn
thích và chơi đùa với nhau. Thỉnh thoảng tôi cũng tham gia đánh trận giả với
đám con trai cùng xóm, bắn súng bằng tay chuối tươi hay bắn ống thụt ( một loại
trúc có thân rổng và dài. Chặt một khúc không có mắt, dùng phần còn lại có mắt
khoảng hai lóng tay, nhét vào đó một khúc cây ngắn hơn thân trúc đã chặt vừa đủ
để xuyên qua thân trúc. Dùng đoạn cây đó thụt một bông keo chưa nở từ đầu nầy
của thân trúc xuyên qua đầu kia ). Nếu bị bắn trúng ở tầm gẩn thì cũng rất
đau. Rồi mùa mưa đến, tôi đi thọt ổ kiến vàng, lấy trứng kiến xào chung với
sáp để câu cá rô khi mùa luá trổ đồng đồng. Bị kiến vàng cắn đau lắm, nhứt là
khi bị nước tiểu?? của nó văng vô mắt, mắt bị cay xè đau thấu mấy ông trời,
nhưng khi nghĩ tới những con cá rô béo ngậy thì các cơn đau giảm đi rất
nhiều. Tôi hay qua Tăng Hòa, la cà ở bến xe ngựa để xin lông đuôi ngựa về câu
cá bóng kèo. Cá kèo không ở nước sâu mà nước chỉ hơi xấp xấp khỏi mặt ruộng một
chút. Tôi dùng lông đuôi ngựa, một đầu cột vào cần trúc, đầu còn lại thắt dây
thòng lọng. Khi đầu cá kèo ngóc khỏi mặt nưóc, tôi dùng dây thòng lọng tròng vào
đầu cá và giựt lên. Nói thì dễ nhưng làm thì rất khó nhất là những lần đầu.
Làm riết rồi quen cộng thêm chút kiên nhẩn tôi câu cũng không tệ. Tuổi thơ
của tôi là vậy đó, vui chơi hồn nhiên với bạn bè, với đồng ruộng, với sông nước,
với cỏ cây. Việc học của tôi không có vấn đề gì, mỗi năm đều lên lớp cho đến lớp
Năm thì tôi bị khựng lại vì môn Toán của tôi có vấn đề. Toán chẳng phải là cộng
trừ nhân chia gì nửa mà còn phải tìm câu trả lời, giải bài toán và tìm đáp
số. Cạnh nhà tôi là nhà của dì Ba tôi, chồng dì là thầy giáo dạy trường Tăng
Hòa nơi tôi đang theo học. Dì dượng có cô con gái bằng tuổi tôi, học chung một
lớp với tôi. Chị ấy học rất giỏi, năm nào cũng lảnh thưởng hạng nhứt từ lớp Năm
cho tới lớp đệ Nhất. Tôi rất ngưỡng mộ chị và cũng rất ghen tị khi nhận ra rằng
tôi không có Ba để được Ba dạy dỗ như chị. Tôi thường ngồi núp bên ngoài cửa
sổ bàn học của chị hy vọng có thể nghe lén tiếng giảng bài của dượng, tiếng la
rầy của dượng với chị mà thấy lòng xót xa và tủi thân quá mức. Có lúc tôi ra
ngoài vườn ngồi khóc một mình vì không ai giúp tôi giải bài toán hay những thắc
mắc của tôi về bài luận văn. Tôi không dám hỏi dượng Ba vì ông ấy rất nghiêm
khắc và xa cách. Má tôi thì bận rộn với mưu sinh, mà có lẻ với những bài văn bài
toán tôi không hiểu, má tôi cũng chẳng giúp được gì. Dì Tư tôi cũng là cô
giáo dạy ở trường tôi, nhà dì ở xã Tăng Hoà. Dì thương chúng tôi nhưng dì cũng
bận rộn với cuộc sống của dì vả lại dượng của tôi cũng thật là nghiêm khắc, hồi
nhỏ tôi rất ít khi dám lại gần hay nhìn dượng khi thấy cặp chân mày của dượng
cau lại. Từ cái không biết nầy đưa tới cái không biết khác. Môn Toán của tôi
bị tuột hậu. Thầy giáo lớp Nhất của tôi lúc đó là thầy Thoại. Lớp học với gần 50
học sinh, thầy không có thời giờ để hỏi han từng đứa, mà tôi lại cũng không dám
hỏi thầy. Bây giờ nghĩ lại thấy mình thật là ngu. Tại sao lại không dám
hỏi??? Lúc bấy giờ là năm 1963, du kích đánh phá khắp nơi. Có một lần họ bắn
vào trường học làm cả đám học sinh chúng tôi chạy tán loạn như bầy ong vở tổ.
Hên là không có đứa nào bị thương. Bệnh xá cạnh trường học có dì Hai lao công bị
thương ở chân, sau nầy bị tật cả đời chân đi cà thọt. Rồi trường học đóng
cửa. Chị tôi và tôi cùng một số bạn khác đi học tư ở Gò Công bằng xe ngựa. Năm
đó tôi thi rớt Đệ Thất. Tôi còn nhớ rất rõ đề thi của bài luận văn: Em hãy bình
giảng câu:” Dùng hàng nội hóa là yêu nước”. Tôi chẳng hiểu mô tê hàng nội hoá là
hàng gì và tại sao dùng nó là yêu nước??? Nếu đề văn ghi: Dùng hàng sản xuất
trong nước là yêu nước thì có lẻ tôi viết được vài dòng. Tôi bỏ giấy trắng. Còn
về đề toán thì là toán động tử, xe chạy ngược chiều với thời gian là 9 giờ kém
10. Tôi cũng chẳng hiểu mô tê 9 giờ kém 10 là mấy giờ??? Bỏ giấy trắng
luôn. Tôi ở lại lớp Nhất thêm một năm nửa, nhưng không đến trường học vì
trường vẩn còn đóng cửa. Tôi cùng một số bạn đi bộ đến Gò Công để học tư vì
đường sá bị du kích đấp mô luôn. Tuyết, Ngọc Sương và tôi chia nhau đứa thì mang
tập vở của cả ba; đứa thì mang nước uống và trái cây, khi thì chùm ruột, khi thì
me, khế ổi và muối ớt, toàn là cây nhà lá vườn, ngon ơi là ngon; đứa thì
mang cơm. Bọn con trai thì có Thành, Phước, Trần văn Năm, La văn Năm ( lai Tây
đen, sau 75 đã định cư ở Pháp), Văn, Võ ( hai anh em sinh đôi)... cùng nhau lội
bộ vừa đi vừa về 14 cây số mỗi ngày để học tư. Chỗ chúng tôi học là nhà mà
thầy Tiển mướn để dạy chúng tôi. Lớp học đa số là đám chúng tôi từ Tăng Hòa, một
số ở xóm Chốn và Giồng Nâu...Ngôi nhà ở bên tay trái và bên này cầu Long Chiến
nếu đi từ hướng Thị xã, bên kia lộ từ lớp học nhìn ra là Bệnh viện cũ. Tôi
không biết thầy Tiển của chúng tôi có phải là anh của anh Phan văn Tiên vừa mới
mất không? Nếu là thầy thì bây giờ thầy ở đâu? Thầy khỏe không? Em vẫn nhớ ơn
thầy rất nhiều vì nếu không có thầy dạy thêm cho em khi chiến tranh xảy ra, thầy
đã khai thông đầu óc mù mịt của em lúc bấy giờ để em biết 9giờ kém 10 là mấy
giờ, để em làm được những bài văn hay với những kiến thức về văn bình giảng, thì
không biết cuộc đời em đã đi vào ngã rẻ nào rồi. Cám ơn thầy rất nhiều. Năm
học đó tôi thi đệ Thất với dề luận văn : Em hảy bình giảng câu “ Một con ngựa
đau cả tàu không ăn cỏ”. Vậy là trúng tủ rồi. Đề toán thì vòi nưóc chảy vô hồ
với lổ mọi rỉ ra. Tôi làm được tuốt luôn. Tôi đậu hạng 51. Cũng không tệ. Má
tôi vui mừng khôn xiết, khen tôi hết lời. Má nấu nồi chè tàu thưng để thưởng
tôi. Vị ngọt của đường, vị béo của nước cốt dừa, của đậu xanh, đậu phọng, phổ
tai và mùi thơm của lá dứa như vẩn còn đọng lại ở đầu lưỡi tôi mỗi khi nhớ
lại. Tôi nhìn má mà lòng xôn xao xúc động và thương má vô cùng. Trong ký ức
của tôi, lúc bấy giờ mỗi khi, tôi gặp khó khăn tôi mới thấy mất cha là một
điều mất mát lớn, nhất là mất cha khi tuổi đời còn quá nhỏ. Nhưng bù lại chúng
tôi đã có được một bà mẹ tuyệt vời,suốt cuộc đời thưong yêu và hy sinh cho con
cái. Má tôi muôn năm.
Phước Trung
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jun/2013 lúc 11:49pm
Đốt sách
Tôi rất thích đọc sách báo ngay từ hồi còn nhỏ và sở thích này vẫn theo
tôi mãi đến bây giờ.
Nhà nghèo không có tiền để mua sách nên
tôi thường đọc sách “cọp” của mấy đứa em con cô út (em gái ba tôi) hay của các
chị con dì. Tôi rất thích được về bên nội mỗi khi nghỉ hè để mỗi sáng con bác
Sáu, con cô Út và chị em chúng tôi đứng xắp hàng dài trưóc mặt bà nội và được
bà phát cho mỗi đứa một hai đồng.Tôi không mua bánh như tụi nó mà “mót” từ từ để
mua sách đọc.
Tôi bắt đầu mua sách khi học lớp đệ Lục:
Tuổi Hoa Đỏ với trang bìa là hình minh họa của họa sĩ Vi Vi. Sách tranh về động
vật và côn trùng...
Lớn lên một chút tôi mua sách Tuổi Hoa
Xanh và sau đó thì “lò mò” tìm tới Tuổi
Hoa Tím, đọc để biết mơ biết mộng, để thấy lòng xao động khi biết có ai đó đang
nhìn trộm mình.
Mê sách nhưng không có tiền nhiều để mua
sách nên tôi thường trao đổi sách với bọn con trai cùng xóm hay các bạn cùng lớp.
Tôi không nhớ là trường Trung học tôi học ngày xưa có Thư viện hay không vì tôi
chưa bao giờ đến đó.Theo quan điểm của tôi trường học mà không có thư viện thì
là một điều thiếu sót vô cùng vì sách và chữ là những vũ khí rất quan trọng
trong việc truyền đạt tư tưởng, quan điểm,chính sách, văn hóa,thời sự chính trị
văn học..v.v. tới học sinh. Sách có thể thay đổi quan niệm sống,quan điểm chính
trị,cá tính của con người.v.v . Tiếc rằng trường Trung học công lập Gò công
ngày xưa không có Thư viện và cả tỉnh Gò công cũng không có Thư viện. Bằng
không thì có biết bao nhiêu sách để cho tôi tha hồ đọc.
Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam Việt nam,
mấy tháng sau thì trường học mở cửa trở lại. Trường tiểu học, trung học lớn nhỏ
gì cũng có Thư viện. Họ dành cả một phòng học đề làm Thư viện. Ngoài sách giáo
khoa còn có sách văn học, chính trị, nghệ thuật, tiểu thuyết, sách tranh.v.v..Họ
chỉ thị Hiệu phó chuyên môn phải làm việc với Quản thủ thư viện trong việc động
viên giáo viên kết hợp việc giảng dạy với việc đọc sách và khuyến khích học
sinh hăng hái đọc sách để mở mang kiến thức trong vịệc học tập ( mượn càng nhiều
tốt, còn có đọc hay không lại là chuyện khác ).
Tôi thường nhặt những tờ báo cũ mà người
lớn đọc xong, tôi đọc lướt qua hết. Bài nào thấy hay tôi thường cắt ra và sắp xếp
chúng thật ngăn nắp theo từng loại : ca
dao, thơ, truyện ngắn, chuyện lạ bốn phương, chuyện ngụ ngôn v.v.
Má thấy tôi mê sách nên đã mướn thợ mộc
đóng cho tôi một kệ sách đặt dựa vách. Tủ sách của tôi thì đủ thứ “ hằm bà lằng”:
sách của cụ Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Sơn Nam, tạp chí Phổ thông của Nguyễn Vĩ,
sách của nhà văn Nhã Ca, của Duyên Anh, Tuổi Hoa, Đông Châu Liệt Quốc, Thủy Hử,
Tam quốc chí.Sách dịch: Những đứa trẻ khốn khổ, Ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ,
Doctor Zhivago v.v..
Tôi cũng lén má đọc sách của Chu Tử, Lệ
Hằng, Nguyễn Thụy Long... sách chưởng Cô gái dồ long, Tiếu ngạo giang hồ, Anh
hùng xạ điêu... mà tôi mượn từ những người bạn chứ chưa bao giờ bỏ tiền để mua
những quyển sách đó.
Tôi rất quí kệ sách của tôi. Tôi thường
quét bụi và nâng niu chúng như những đứa con tinh thần của mình. Tôi có thể nhịn
ăn chứ không thể nhịn đọc. Nói như vậy để thấy là tôi yêu quí sách của tôi biết
dường nào.
Vậy mà hởi ơi, tôi đâu có dè vào một ngày
đen đủi đó, cả kệ sách của tôi đã thành tro bụi mà do chính tay tôi đốt chúng.
Đau thật mà không dám hét, không dám la.
Mấy tháng sau khi miền Nam thất
thủ, bộ đội miền Bắc lần lượt kéo đến làng tôi và đóng ở nhà ông Huyện Hải ở
xóm Gò.
Họ đến nhà tôi thường lắm. Hai ba lần đầu
họ đi vòng vòng , hỏi thăm quanh co và dừng lại tủ kệ sách của tôi. Họ đứng đó
hàng mấy tiếng đồng hồ làm tôi chột dạ. Linh tính báo cho tôi biết có điều chẳng
lành sắp xảy ra.
Điều tôi lo sợ rồi cũng tới. Một người
trong bọn họ nói: Hãy thiêu hủy những quyển sách “lầy” đi. Tôi nghe hai tai của
mình lùng bùng và đưa mắt nhìn họ dò hỏi.?? Họ lặp lại: Thiêu hủy chúng đi,
ngày mai chúng tôi sẽ trở “nại”.
Họ đi rồi cả nhà bàn tính không biết phải
dấu các quyển sách của tôi ở đâu vì nhiều quá. Sau cùng má tôi nói: Con đốt bớt
những quyển tiểu thuyết đi, còn lại những quyển có giá trị về văn học thì đem dấu
ở vựa củi ( nơi chứa củi để dùng vào mùa mưa).
Tôi nghe lời má, đem tất cả sách tiểu
thuyết, sách Tuổi Hoa, các bài báo mà tôi cắt từ những tờ nhật báo... ra đốt, vừa
đốt vừa khóc. Tôi chỉ giữ lại một số sách về khoa học đời sống, sách của cụ
Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Sơn Nam và 2 bộ tự điển Anh-Viêt, Việt-Anh của Nguyễn
Văn Khôn.
Sau khi làm xong và nghĩ là đã khá an
toàn, chúng tôi chờ đợi họ tới. Ngày hôm sau họ không tới và cả hơn mười ngày
sau cũng không thấy họ tới làm tôi ân hận là mình quá nhát gan , nghe họ hù một
cái là đã đem đốt hết kệ sách quí của mình. Cứ than vắn thở dài tiếc hùi hụi mấy
quyển sách.
Cái lúc mà chúng tôi nghĩ là mọi việc đã ổn
thì họ lại đến. Những cặp mắt đỗ dồn về kệ sách. Trống trơn...Những cái đâu gật
gù đắc ý... Nói vài câu bâng quơ, họ đi ra phía sau nhà tôi và dừng ngay ở vựa
củi. Tôi giật thót người và tim muốn nhảy ra khỏi lòng ngực, tôi đưa mắt nhìn
má tôi và hai em, tất cả cũng đưa mắt nhìn tôi. Chân chúng tôi như bị chôn dưới
đất. Một người trong bọn họ bước vào vựa củi, sau một lúc thì mang ra một số
sách. Số người còn lại thấy vậy cũng bước theo và lôi tất cả số sách mà tôi đã
dấu ở trong đó ra.
Tôi nói thầm trong bụng: Kỳ nầy thì chết
thiệt rồi!!!
Thình lình tôi nghe tiếng gọi: Cô kia,
hãy “nấy” diêm quẹt ra đây và đốt những quyển sách “lầy” trước mắt chúng tôi.
Hồn vía tôi bay lên mây. Má tôi chạy vào
nhà lấy hộp quẹt. Tay tôi run run châm lửa đốt sách mà như đang đốt trái tim
mình. Tôi không dám chảy nước mắt trước mặt họ. Vừa đốt mà vừa chửi thầm: Đúng
là đồ mắc dịch, đồ dốt,có khi không biết chữ mà làm tàng. Cứ hể thấy sách ở
trong miền Nam thì nghĩ đó là sách phản động, sách đồi trụy. Đó là những quyển
sách dạy làm người đấy các bác ạ,rất là hay. Chính vì các bác không đọc những
quyển sách giá trị như thế nầy mà các bác cứ dốt mãi thôi.
Tôi tự an ủi mình những tháng ngày đầu
tiên sau 30 tháng Tư có biết bao người bị chết oan vì sự trả thù hèn hạ của đám
du kích nằm vùng, của những người lảnh đạo mới, thì việc mấy quyển sách của tôi
bị đốt có đáng là bao so với sự mất mát lớn lao nầy. May là tôi không bị chụp
cho cái mũ phản động, tàng trử văn hóa đồi trụy!!!
Hú vía.
Phước-Trung 10/05/2013
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jun/2013 lúc 11:50pm
Ngã Rẻ Cuộc Đời
Ngày xưa
nếu có ông bà thầy bói nào “phán” trong tương lai tôi sẽ là cô giáo thì chắc là
tôi sẽ không trả cho ông bà ấy một đồng nào.
Tuổi trẻ ai
chẳng có ước mơ và hy vọng dù nghèo hay giàu. Tôi cũng không ngoại lệ. Tôi rất
thích làm việc ở Tòa án hay Ngân hàng. Ước mơ là một việc, còn ước mơ đó có trở
thành hiện thực không lại là một việc khác.
Từ giã
trường Trung học công lập Gò công tôi mang một hoài bảo lớn lên Sài gòn. Tôi
ghi danh học Luật với hy vọng vừa đi học vừa đi làm để phụ giúp má tôi một phần
nào.Tôi ở trọ nhà của người dì bà con, bạn rất thân với má tôi từ thuở nhỏ. Tôi
không phải đóng tiền cơm hay tiền nhà. Cậu(anh của dì) và dì rất tốt với chúng
tôi, thương yêu chúng tôi như ruột thịt.Thỉnh thoảng tôi về Gò công mang cá,
gà, vịt, tôm cua, mắm tôm chà, mắm tôm chua... lên phụ chút đỉnh với dì.
Nhớ lúc chúng tôi
còn nhỏ khoảng chín mười tuổi là đã lên ở nhà dì suốt thời gian nghỉ hè. Má tôi
mua vải, dì may quần áo cho chúng tôi: quần áo mặc ở nhà, quần áo đi học từ
tiểu học, trung học cho đến đại học. Dì may sao mặc vậy không được phàn nàn.
Lúc còn nhỏ thì không sao nhưng khi đã vô đại học rồi mà tôi vẫn mặc những
chiếc áo dì may cho nhiều khi rộng thùng thình mà không dám hó hé vì sợ dì
buồn.
Nhà của cậu dì
như một cái khách sạn, lúc nào cũng có bà con xa gần đến ở, có lúc cả một tiểu
đội nằm la liệt ra cả đường đi, nên lúc nào cũng có bao gạo trăm ký trong nhà.
Cậu dì không làm từ thiện, nhưng việc giúp đỡ những người bà con nghèo dưới quê
lên ở để đi học hay đi làm mà không lấy tiền, thì lòng tốt của cậu dì giống như
Bồ Tát.
Không những cho ở
đậu, cho ăn, dì còn dẫn chúng tôi đi xem phim , nhất là xem cải lương của
đoàn Kim Chung, Thanh Minh Thanh Nga,Dạ Lý Hương.... đám nhóc chúng tôi ngồi dưới sàn xe xích lô máy, xe chạy bon bon (
không có “seat belt” gì hết mà không có tai nạn gì xảy ra, thuở ấy có lẻ vì xe
cộ ít hơn bây giờ). Rồi dì dẫn chúng tôi và con cháu ruột của dì đi Thủ Đức,
Lái Thiêu, Long Khánh, Bình Dương, Vũng Tàu... Sau này khi cậu sắm xe hơi,
giống như xe “ ute” ở
Úc, ngoài sau có mui che mưa nắng và có băng ngồi hai bên. Chúng tôi được cậu
dì chở đi chơi tận Tây Ninh, Gò Dầu Hạ giáp biên giới với Campuchia để xem
người Miên họ buôn bán và trao đổi hàng hóa với người Việt. Ngoài ra chúng tôi
còn được chở đi ăn cháo lòng ở Chợ Đệm, mì chú Lùn ở Chợ Thiếc và còn rất nhiều
nơi khác nửa....
Cũng nhờ
lộc của cậu và dì mà chúng tôi đi rất nhiều nơi và được mở rộng tầm mắt, bằng
không với đồng lương ít ỏi của má có lẻ chị em chúng tôi chỉ quanh quẩn ở quê
làng.
Với
những ưu đải đó tôi lại có những thiệt thòi khác là tôi phải chở dì đi công
việc suốt ngày vì dì là dân buôn bán. Sáng, sau khi chở dì đi chợ, khi thì chợ
Nguyễn Tri Phương, khi thì chợ Thiếc... Sau đó tôi sẽ cùng dì cởi con ngựa sắt
chạy từ chợ Bến Thành tới Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ, Chợ An Đông rồi đi tới nhà
bà này bà nọ. Thỉnh thoảng 9, 10 giờ đêm cũng phải đi, thành ra tôi chẳng có
thời gian cho riêng mình để học . Vả lại nhà dì như khách sạn, ồn ào náo nhiệt
suốt ngày dù có thời gian học cũng học không vô.
Cho nên một năm trôi qua tôi không học được gì hết mà việc làm cũng không vì
tuy dì quen biết nhiều nhưng với mớ kiến thức sách vở mà tôi có ở trường ngoài
ra không có kinh nghiệm gì khác; thầy không ra thầy, thợ không ra thợ, khó có
thể có được việc làm ở thời điểm 1971-1972.
Rồi bổng dưng người cháu ruột của cậu dì làm phật lòng hai ông bà nên cuối cùng
dì tuyên bố không nuôi nấng hay chứa chấp bất cứ một ai. Mọi người phải dọn ra
ngay tức khắc. Tôi dở khóc, dở cười. Biết đi đâu bây giờ??? Tôi chạy vào Bàn Cờ
cầu cứu dì ruột. Dì sẵn lòng giúp đỡ nhưng dượng thì chỉ cho ở một năm. Thôi
thì được năm nào hay năm ấy. Trời sanh voi, trời sanh cỏ. Tôi nhũ thầm như vậy.
Tới đâu thì tính tới đó.
Trong cái rủi có cái may. Nếu tôi cứ tiếp tục ở với cậu và dì, tôi sẽ không
phải lo lắng về cái ăn chỗ ở nhưng tôi sẽ không học hành gì cả mà tối ngày sẽ
cởi con ngựa sắt nhong nhong cùng dì dong ruổi khắp nơi. Có thể tôi sẽ tích lũy
nhiều kinh nghiệm sống nơi dì, nhưng vào thời điểm đó tôi cần kiến thức sách vở
để trang bị cho những ước mơ của mình nên tôi phải tiếp tục học và học.
Ở với dì
ruột tôi có rất nhiều thời gian để học. Ngoài việc giúp dì chút ít trong nhà
bếp và dọn dẹp nhà cửa, tôi thường lên giảng đường ghi chép bài vở. Tôi đi học
bằng xe đạp. Xe cũ đến nổi khỏi cần bóp chuông xe đã kêu leng keng. Có nhiều
khi dây sên quấn vô quần xé rách tận đầu gối. Tôi xấu hổ muốn độn thổ khi phải
tới trường với tình trạng như vậy. Sau này trong túi xách của tôi lúc nào cũng
có kim, chỉ, cây kéo nhỏ và kim băng... Vì xe quá cũ nên tôi đã không mua ổ
khoá. Rồi một hôm tôi đạp xe đến rạp Thống Nhất để nghe giảng bài. Hôm đó thật
là đông, sinh viên ngồi tràn cả ra ngoài mặt tiền và bên hông rạp.
Tôi dựng
xe đạp sau lưng và ngồi xuống sàn xi măng cùng các bạn ghi chép bài,
thỉnh thoảng tôi với tay ra sau để kiểm tra chiếc xe cà tàng còn không. Sau một
hồi mãi mê ghi ghi, chép chép, tôi quên bẳng chiếc xe cho đến khi bài giảng
chấm dứt, mọi người đứng dậy ra về. Tôi với tay ra sau lưng quờ quạng. Tía má
ơi chiếc xe của tôi đâu rồi??? Tôi dáo dác nhìn quanh, hỏi thăm các bạn . Tất
cả mọi người đều trả lời là không thấy. Có bạn còn an ủi: “Chắc có đứa nào mượn
chạy đâu đó, chút nửa sẽ mang trả lại.”
Vậy mà
tôi tin vào những lời an ủi đó để tự trấn an mình. Tôi đứng đó chơ vơ một mình,
đợi mãi chẳng thấy ai mang xe trả lại. Tôi muốn khóc...Dẩu biết rằng đó là
chiếc xe cà tàng , đã cắn không biết bao nhiêu lần mấy cái ống quần của tôi,
nhưng đó là phương tiện giúp tôi đi đến trường. Vả lại đó không phải là xe của
tôi mà là cùa dì dượng cho mượn.
Tôi rầu thúi ruột, nhưng không lẻ đứng đó hoài, phải về nhà thôi!!! Tôi đón xe
lam về nhà, trên đường đi tôi nghĩ tới nghĩ lui hoài: mình đã nghèo mà ai đó
còn nghèo hơn mình nên mới đánh cắp chiếc xe cà tàng như vậy. Thôi thì cũng hy
vọng chiếc xe sẽ giúp bạn ấy giải quyết được vấn đề mà bạn ấy cần. Nghĩ như vậy
tôi không thấy buồn nửa mà chỉ lo không biết thái độ của dì dượng thế nào???
Cũng may
là xe đã cũ nên dì dượng không la. Dì chỉ la tôi sao khờ quá mất rồi thì thôi
sao đứng đó đợi làm gì, làm dì lo lắng vì tôi về nhà quá trễ. Tôi thấy lòng ấm
lại vì sự thương yêu lo lắng của dì. Dì như bà mẹ thứ hai của tôi, chăm chút lo
lắng việc học của tôi rất nhiều. Dì còn cho tiền tôi đi học thêm Anh văn ở Hội
Việt Mỹ.
Cũng trong thời gian này tôi thi đậu vào Trung Tâm Huấn Luyện Ngân Hàng. Đó là
kỳ thi tuyển chỉ chọn khoảng 30 học viên. Khoá học ban đêm từ 7giờ đến
9giờ. Học 2 năm . Học tại trường Lê Quí Đôn.Lớp học nử nhiều hơn nam, đa số
các bạn trong lớp xuất thân từ Marie Curie, lại con nhà giàu. Nhìn quanh nhìn
quẩn chỉ có tôi là dân ở tỉnh. Thỉnh thoảng ban ngày chúng tôi đi thực tập ở
Ngân hàng Việt Nam Thương Tín ở Chợ Lớn.
Tôi thấy mơ ước của mình như đang từng bước đến gần vì nếu tôi tốt nghiệp sau 2
năm học ở Trung tâm và sau khi có Cử nhân Luật tôi sẽ xin vô làm ở Ngân Hàng.
Điều tôi lo lắng là tôi chỉ được ở nhà dì có một năm mà khoá học
thì lại đến 2 năm. Tôi sẽ ở đâu để tiếp tục học sau khi rời khỏi nhà dì???
Tôi chạy
về Gò công năn nỉ Bác Hai tôi chu cấp tiền cho tôi ở trọ, nhưng Bác đã thẳng
thừng từ chối với ly do là còn phải chu cấp tiền sách vở, học phí, đồng phục
cho 2 em của tôi. Thành thật mà nói những chu cấp mà chúng tôi có được khi vào
Trung học không thấm tháp gì so với những tiện nghi vật chất mà anh chị con của
ba tôi hưởng.
Trở về
Sài gòn lòng tôi buồn khôn tả. Mỗi buổi tối sau lớp học ở Trung tâm huấn luyện
Ngân Hàng, tôi đi bộ về nhà. Nhìn những dãy phố dọc theo bên đường, cảnh gia
đình cha mẹ con cái anh em vui vầy bên mâm cơm, cười đùa bên nhau. Tôi nhớ má
tôi và các em quai quắt. Tôi thường mơ ước phải chi mình có được một mái nhà
trên Sài gòn thì việc học hành đâu lắm nổi gian nan. Nhưng sau đó tôi cũng
thường tự an ủi mình là hoàn cảnh của tôi còn khá hơn các bạn ở quê nhà. Học
xong Trung học thì phải nghỉ ở nhà vì không có điều kiện lên Sài Gòn học tiếp
dù các bạn ấy học rất giỏi.
Sau nhiều đêm suy nghĩ tôi quyết định thi vào Sư phạm vì không thể ở lại nhà dì
lâu hơn một năm. Bỏ mơ ước được vô làm ở Ngân Hàng tôi buồn lắm nhưng biết làm
sao hơn. Học ở Sư phạm tôi có thể ghi danh học Luật tiếp.
Sở dỉ
tôi thi vào Sư phạm Long An vì nhà trọ ở vùng quê rẻ má tôi có thể phụ giúp cho
tôi. Ngày đi xe đò xuống Long An để thi tôi buồn vô hạn. Nhớ mỗi lần đi Sài Gòn
qua ngả Quốc lộ 4 phải đi ngang qua trường Sư phạm Long An, tôi thường nghĩ
trường sao giống chùa Bà Đanh, chơ vơ giữa đồng ruộng nhìn sao mà hui quạnh
quá. Vậy mà bây giờ tôi đang trên đường đến chùa đây và sẽ “tu” ở đó 2 năm.
Không
biết ai thì sao chứ riêng tôi, tôi luôn nghĩ : lắm khi nghề chọn mình chứ không
phải mình chọn nghề.
Tôi thi đậu
vào Sư phạm Long An, đó là khoá học đầu tiên cũng là khóa cuối cùng trường
tuyển chọn giáo sinh có bằng cấp Tú Tài 2 và học 2 năm. Trước đó giáo sinh chỉ
cần có bằng Tú Tài 1.
Năm đó tôi
cũng thi đậu lên năm thứ hai trường Luật.
Giã từ những ước mơ,
những hoài bảo của tôi. Giã từ Sài Gòn với những ngày tháng tôi lang thang đi
bộ từ trường về chợ Bến Thành để đón xe lam về nhà, đến Thư viện Quốc gia đọc
sách, dừng chân ở các tiệm sách hay các sạp sách cũ bên lề đường để mua sách.
Giã từ các chú
Ba Tàu với những chiếc xe bán bò bía hay bột chiên mà tôi đã từng nếm qua.
Giã từ con
đường Duy Tân cây dài bóng mát...
Giã từ, giã
từ!!! Tiếc nuối, nuối tiếc!!!
Phước
Trung
1/6/2013
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Jul/2013 lúc 6:51am
XIN ĐƯỢC LÀ NẮM CƠM NGUỘI
*
Bà
Xuân ngồi lặng lẽ trên chiếc vỏng ở mái hiên sau nhà. Đầu óc bà suy
nghĩ lung tung từ chuyện nọ “xọ” qua chuyện kia trong khi mắt bà thì
nhìn những tàu lá chuối đang đong đưa trong gió. Bất chợt bà nghĩ đến
câu ca dao: Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ Rồi bà thở dài thườn thượt và lẩm bẩm: Mới đó mà đã 30 năm. Dỉ vảng như chợt hiện về trước mắt bà khi bà và các con hớn hở khăn gói rời Việt Nam đi qua Úc theo diện bảo lảnh. Chồng
bà là cựu sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, sau hơn 4 năm
ở trại tập trung cải tạo đã vượt biên bằng thuyền ở ngã Vàm Láng và sau
vài tháng ở trại tỵ nạn đã được phái đoàn nhận sang Úc. Lúc chồng đi bà
mang thai đứa con thứ hai mới có 5, 6 tháng và đứa con gái lớn được gần
2 tuổi. Bà là con một nên sau khi chồng vượt biên bà về tá túc với mẹ. Ba bà mất khi bà được 20 tuổi vì một cơn bạo bệnh. Với
tiền và quà mà chồng bà gởi về, bà tiện tặn dành dụm để nuôi các con và
mẹ già, thỉnh thoảng bà cũng đi bán chợ trời ở đường Nguyễn Thông để có
đồng ra đồng vào. ...Trước 1975 bà Xuân là một cô sinh viên duyên
dáng của trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, chỉ biết ăn học và vui chơi
cùng các bạn. Bà quen với Khoa- chồng bà sau này- trong một lần đi dự
sinh nhật của cô bạn
thân. Khoa là sĩ quan của đơn vị Không quân, lính tàu bay có khác, cao
lớn, đẹp trai và rất là lịch sự. Ngay từ cái nhìn đầu tiên Xuân như đã
bị Khoa hốt hồn. Sau vài lần gặp gỡ, hẹn hò và với sự đồng ý của hai
gia đình. Hôn lễ được cử hành. Họ sống với nhau thật hạnh phúc. Nhưng
niềm hạnh phúc đó không dài lâu. Cộng Sản chiếm miền Nam, chồng nàng
cùng bao nhiêu đồng đội đã vào trại tập trung cải tạo. Xuân lặn lội
tay xách nách mang đi nuôi chồng. Rồi chồng Xuân được thả về. Đứa con
gái đầu lòng ra đời, rồi Xuân mang bầu đứa thứ hai thì vận may tới,
chồng Xuân được người quen cho đi vượt biên với giá rẻ. Thằng con
trai ra đời không biết mặt cha, đứa con gái đầu lòng quá nhỏ để nhớ mặt
cha. Thời gian thắm thoát
thoi đưa chồng nàng gởi giấy bảo lảnh về. Sau bao nhiêu thủ tục nhiêu
khê, Xuân đã cùng hai con bước chân lên máy bay để sang Úc. Ngồi
trên máy bay hai con nàng tíu tít không ngừng, tranh nhau là sẽ nói
những gì với ba chúng sau bao năm xa cách. Xuân cũng vậy, biết bao nhiêu
điều sẽ nói với nhau vì giấy bút không thể nào diễn tả hết được những
cảm xúc chất chứa trong lòng. Bất giác nàng lấy chiếc gương nhỏ trong
túi xách và nhìn vào gương. Nàng lấy tay xoa nhẹ mặt mình, đuôi mắt của
nàng đã có dấu chân chim. Cô sinh viên khả ái ngày nào bây giờ đã là
một thiếu phụ mà nhan sắc đang tàn phai dù nàng chỉ mới ngoài ba mươi.
Kể từ khi Cộng sản chiếm miền Nam, rồi chồng nàng đi học cải tạo, rồi đi
vượt biên; phấn son, gương lược đã được
nàng cất kỹ trong ngăn kéo. Xuân không bao giờ nghĩ đến bản thân của
mình nên bây giờ nhìn lại chính mình trong gương nàng thấy chua chát
quá. Nàng chạnh lòng và nghĩ không biết bây giờ Khoa ra sao? Chắc vẫn
đẹp trai như ngày nào. Anh ấy có nhận ra mình không ? Có chê mình xấu xí
không? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra, bao nhiêu tơ lòng rối rắm. Thình lình
tiếng cô tiếp viên thông báo là máy bay sắp đáp xuống phi trường Sydney
làm cắt đi dòng suy nghĩ của nàng. Nàng nắm lấy những bàn tay bé bỏng
của các con và lòng hồi hộp khôn cùng. Qua bao nhiêu thủ tục khám
xét rồi nàng và các con cũng ra tới bên ngoài. Xuân nhìn quanh tìm
chồng, nhưng không thấy bóng dáng Khoa đâu. Bổng nàng thấy một người đàn
ông trong bộ y phục lịch sự tay trong tay với một thiếu phụ trẻ
đẹp và một bé trai khoảng 3,4 tuổi tiến tới trước mặt nàng. Xuân nghe
như tim mình ngưng đập, chân muốn khụy xuống, tay run bây bẩy. Các con
nhìn nàng và nhìn ba người xa lạ... Người đàn ông mở lời trước: - Chào Xuân, Xuân và các con đi máy bay có mệt không? - Chào các con, ba là ba Khoa đây, còn đây là dì Lệ và em Nguyên. Quay qua người thiếu phụ trẻ, Khoa giới thiệu tiếp: - Còn đây là Xuân, má của hai đứa con anh. Và đây là Lệ vợ anh. Xuân
nghe hai tai mình lùng bùng. Xuân chỉ là má của hai đứa bé chứ không là
gì của Khoa hết. Không khí trở nên ngượng ngùng , xa lạ. Mấy đứa trẻ
núp sau lưng người lớn. Hai con nàng nhìn người đàn ông xa lạ mà mấy
tiếng đồng hồ trước đây chúng còn háo hức muốn gặp và háo hức bày tỏ mọi
điều. Khoa còn nói nhiều nửa và nhiều nửa nhưng Xuân không còn nghe
được gì nửa hết. Mọi hy vọng , mọi dự tính, mọi ước mơ phúc chốc tiêu
tan. Khoa kêu tắc xi và đưa địa chỉ cho người tài xế chở ba mẹ con
nàng về một căn nhà mướn ở Bankstown rồi rảo bước ra carpark cùng với vợ
và con. Xe đã ngừng trước cửa nhà mà Xuân vẫn chưa hết bàng hoàng.
Nhìn ngôi nhà, nhìn các con nàng thấy lòng mình ngổn ngang trăm mối.
Tương lai như mịt mù trước mắt. Nàng phải làm gì để sinh tồn và để nuôi
dưởng các con đây??? Nàng cảm thấy như đôi vai mình oằn xuống. Trong
nhà có bàn, ghế, tủ, giường đủ để mẹ con nàng dung thân. Ngày hôm sau
Khoa tới để đưa nàng đi làm thủ tục xin trợ cấp an sinh xã hội. Nàng cứ
để mặc Khoa muốn làm gì thì
làm vì nàng có biết cái gì đâu mà tự quyết định!!! Sau vài tháng đến
thăm mẹ con nàng Khoa từ từ lặng dần, lặng dần và biến mất. Với nàng
như vậy cũng tốt thôi, nhưng với các con nàng thì đó là một sự phủi tay
quá ư tàn nhẫn và vô trách nhiệm. Rồi các con nàng sẽ trưởng thành như
thế nào khi thiếu vắng bàn tay dìu dắt, nâng đỡ của người cha. Chúng hãy
còn quá nhỏ, quá nhỏ... Nhà ở gần chợ, gần trường học, gần trạm xe lửa nên Xuân cũng gặp khó khăn lắm khi dẫn các con đi học hay đi chợ. Từ
ngày gặp gỡ người cha vô trách nhiệm các con nàng như ít nói, ít cười
hẳn đi. Chúng cũng cảm nhận được sự lạnh nhạt mà ba chúng dành cho.
Những năm đầu con trai nàng còn hỏi về cha nhưng dần dần chúng cũng quen
đi với sự thiếu vắng
đó. Xuân bây giờ vừa là cha, vừa là mẹ. Nàng mong muốn con mình sẽ
trưởng thành như bao đứa trẻ khác dù không có cha. Với sự giúp đỡ của
bạn bè, nàng lảnh hàng về nhà may. Nàng may ngày, may đêm, may 7 ngày
trong tuần, 30 ngày trong tháng và 365 ngày trong năm. Tất cả mọi sinh
hoạt trong nhà đều trông chờ vào tiền may của nàng. Các con càng lớn thì
chi phí càng cao và giờ may của nàng cũng tăng lên. Nàng không muốn các
con thiếu thốn bất cứ điều gì mà những đứa trẻ có đầy đủ cha mẹ có
được. ...Bà Xuân nhớ lại hồi mới tới Úc bà thường hay đi chợ
Flemington vào ngày thứ Bảy khoảng 1, 2 giờ chiều vì giờ đó là sắp tan
chợ, mọi thứ đều rất rẻ từ cá, thịt, hoa quả, rau cải....Bà thường kéo
chiếc xe đẩy và đón xe lửa từ Bankstown đi
thẳng tới chợ Flemington. Lần nào về nhà bà cũng kéo còng cả lưng một
chiếc xe chất đủ thứ “hằm bà lằng” để bà và các con có thể ăn đủ trong
tuần. Nhưng khi tuổi đời càng chồng chất thì chiếc xe cũng nhẹ bớt đi. Quần
áo thì mua đồ “second hand” ở chợ trời hoặc ở các hội từ thiện. Hồi các
con con còn bé và học ở Tiểu học bà thường mua “second hand” đồng phục ở
trường để cho các con mặc mà lại mua trừ hao nửa chứ vì bà thường nói
với các con: Chúng bây lớn nhanh như thổi nên má phải mua trừ hao. Vì
vậy mà các con bà thường mặc quần áo rộng thùng thình và dài lê thê. Bà
phải lên lai quần cho chúng , rồi lại xổ lai quần xuống không biết bao
nhiêu lần. Đến khi chúng vào Trung học, khoảng lớp Chín thì không
chịu mặc như
vậy nửa. Rồi chúng vào Đại học chi phí tốn kém hơn. Cũng may là ở Úc
chính phủ cho sinh viên vay tiền để học, sau khi tốt nghiệp và có việc
làm thì sẽ khấu trừ từ từ vào tiền lương. Chi phí càng lớn thì cuộc
đời của bà gắn liền với cái máy may càng nhiều. Từ khi đến Úc tới nay bà
chỉ biết có cái máy may và chợ Flemington. Bà làm như cái máy để quên
đi những bất hạnh của đời mình. Con gái bà tốt nghiệp Đại học và có
việc làm ở Perth, rồi lấy chồng và đóng đô ở đó luôn. Bà nhớ cháu ngoại
và con gái nhưng năm thưở mười thì chúng mới bồng bế nhau về thăm bà,
còn thì chỉ liên lạc nhau qua điện thoại. Bà nhớ lại mẹ của bà, chắc mẹ
bà cũng nhớ bà và cháu ngoại giống như bà bây giờ khi bà bỏ lại mẹ già
hớn hở ra đi
để sum hợp với chồng. Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống. Mẹ bà đã mất
rồi, bây giờ có muốn phụng dưỡng cho mẹ thì cũng đã trể. Con gái bà chắc
chưa cảm nhận được điều này vì các con của nó còn nhỏ và vẫn còn xúm
xít bên nó. Thằng con trai sau khi tốt nghiệp Đại học thì đi ngao du
sơn thủy khắp nơi. Không chịu lấy vợ để cho bà có cháu nội ẳm bồng, hôn
hít. ...Mấy lúc gần đây bà Xuân thấy sức khỏe của mình kém dần, mỗi
khi mùa Đông đến thì những khớp xương ở cơ thể của bà đau nhừ cả lên.
Ngực của bà cũng đau âm ỉ và bà lại ho khúc khắc nửa. Thỉnh thoảng bà
thấy mệt mõi, uể oải, không muốn làm, không muốn ăn. Nhìn ngôi nhà trống
trải bà càng thấy cô đơn vô cùng. Bà thường ước ao phải chi cháu ngoại
hay cháu nội
của bà quanh quẩn đâu đây và cha mẹ của chúng nhờ bà trông chừng dùm để
bà có dịp vui đùa với các cháu thì hay biết mấy. Tuần vừa qua bà có
dịp đọc tác phẩm “ Cơm nguội” của tác giả Tiểu Tử. Người đàn ông trong
truyện đã so sánh mình với nắm cơm nguội và than thân trách phận là các
con của ông chỉ nghĩ đến ông khi chúng cần. Bà Xuân nói một mình:”
Ông gì gì.. đó ơi, ông như vậy là đã hạnh phúc quá rồi vì các con, các
cháu ông vẫn còn quanh quẩn bên ông để ông có dịp chơi đùa với chúng,
nhìn thấy chúng lớn lên và có dịp chia sẽ cuộc đời còn lại của ông với
chúng, nếu con ông không nhờ ông trông nom các đứa trẻ khi chúng cần,
ông vẫn có thể lái xe đến thăm chúng khi ông nhớ đến chúng. Còn tôi đây
nhớ các cháu quay quắt
mà không thể lái xe đến thăm chúng được vì đường xá quá xa xôi. Chỉ ở
trong nước Úc mà Sydney khác Perth đến 4 tiếng đồng hồ. Buổi sáng muốn
gọi thì chúng chưa ngủ dậy. Buổi trưa thì chúng đi làm và bọn trẻ thì ở
trong nhà trẻ. Buổi tối tôi sắp đi ngủ thì chúng mới bắt đầu ăn cơm.
Ngày con gái sanh tôi có đi thăm cháu nhưng sau khi cháu đi làm lại thì
tôi cũng phải về nhà mình vì nó gởi con ở nhà trẻ. Tôi có gợi ý là sẽ ở
với chúng để chăm sóc đứa bé, nhưng chúng từ chối, viện cớ là tôi đã già
không muốn tôi cực khổ nhưng tôi biết chúng muốn được tự do và có những
khoảng không gian và thời gian riêng cho mình. Thế hệ trẻ bây giờ khác
xa thế hệ của chúng tôi ngày xưa... Nếu ông ví ông là nắm cơm nguội (
hay là cái bánh sơ cua
gì đó) thì tôi cũng đang mong ước mình được là nắm cơm nguội để các con
nhớ đến khi chúng cần( khi chúng đói lòng)”. ...Bà Xuân đi khám Bác
sĩ tuần trước vì bà thấy người bà sao mệt mõi khác thường. Đã mấy năm
nay bà không còn may nửa và cũng không còn đi chợ Flemington vì nhà chỉ
còn mình bà, ăn uống không bao nhiêu, vả lại tiền bạc dành dụm được sau
bao nhiêu năm làm lụng cực khổ cũng đủ để bà an hưởng tuổi già. Bà định
sẽ cho con gái biết ý định là bà sẽ đi Melbourne để thăm gia đình nó vì
đã hơn 2 năm nay bà không thấy mặt đứa cháu thứ hai. Bác sĩ đã cho bà
đi chụp X- Ray và hôm qua bà đã biết kết quả. Bà bị ưng thư phổi vào
giai đoạn cuối. Bà nghĩ có lẻ sau 30 năm lao lực và hít quá nhiều bụi
vải trong khi may nên hậu
quả là phổi của bà đã lủng đi nhiều chỗ. Bà Xuân thấy ước mơ được là nắm cơm nguội sao xa dịu vợi mà con đường đi của cuộc đời mình hình như lại đang ngắn dần... Bà nhắm mắt lại và thiếp dần...
Phước Trung 10/7/2013
------------- mk
|
|