CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ TỴ
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Tổng Quát
Tên Chủ Đề: Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
Forum Discription: Chia sẻ vui buồn giữa các thành viên
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=8554
Ngày in: 12/Oct/2025 lúc 10:10pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ TỴ
Người gởi: mykieu
Chủ đề: CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ TỴ
Ngày gởi: 09/Feb/2013 lúc 11:22am
CHÚC MỪNG NĂM MỚI
http://www.google.com.vn/url?sa=i&source=images&cd=&cad=rja&docid=fAp5xbuHBiS5bM&tbnid=eSgBPrjezl4PlM:&ved=0CAgQjRwwAA&url=http%3A%2F%2Fketnooi.com%2Fforum%2Fviewtopic.php%3Ff%3D20%26t%3D64402&ei=NHYWUbO6M7GkiAfRzoGwAQ&psig=AFQjCNF6F2hxoQRBifQN88Dst_OiqowIZQ&ust=1360512948941506"> THÂN KÍNH CHÚC QUÝ ĐỒNG HƯƠNG QUÝ THÂN HỮU VÀ GIA QUYẾN
TRỌN NĂM QUÝ TỴ : SỨC KHỎE HẠNH PHÚC VẠN SỰ AN LÀNH
*** MyKieu
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 09/Feb/2013 lúc 10:00pm
HAPPY NEW YEAR TO YOU ALL

Chúc Mừng Năm Mới 2013 May Mắn - An Khang Thịnh Vuợng - Hạnh Phúc CHÚC nhau điều tốt vạn sự an MỪNG Xuân Phước Lộc lắm bạc vàng NĂM nay gia sự nhiều may mắn MỚI mẻ niềm vui khúc khải hoàn
  Cung Chúc Tân Xuân Phước Vĩnh Cửu Chúc Trong Gia Quyến Được An Khương Tân Niên Lai Đáo Đa Phú Quí Xuân Đến An Khương Vạn Thọ Tường
 Chúc bạn có một bầu trời sức khoẻ, Một biển cả tình thương, Một đại dương tình bạn, Một điệp khúc tình yêu, Một người yêu chung thủy, Một tình bạn mênh mông, Một gia đình thịnh vượng. Một sự nghiệp sáng ngời, Chúc cả gia đình vạn sự như ý, Tỷ sự như mơ, làm việc như thơ, Đời vui như nhạc, Coi tiền như rác, coi bạc như rơm Chung thủy với cơm và sắc son với phở. Năm mới Tết đến rước hên vào nhà Quà cáp bao la, mọi nhà no đủ Vàng bạc đầy hủ, gia chủ phát tài Già trẻ gái trai sum vầy hạnh phúc Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu. Gia đình hạnh phúc bè bạn quý. Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.   
Năm hết tết đến - Rước lộc vào nhà Quà cáp bao la - Mọi nhà no đủ Vàng bạc đầy tủ - Gia chủ phát tài Già trẻ gái trai - Xum vầy hạnh phúc Cầu tài chúc phúc - Mãi mãi an khang

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua.Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà.Vài lời cung chúc tân niên mới.Vạn sự an khang vạn sự lành
Năm mới Tết đến. Rước hên vào nhà. Quà cáp bao la. Mọi nhà no đủ. Vàng bạc đầy hũ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai. Sum vầy hạnh phúc. Cầu tài chúc phúc. Lộc đến quanh năm. An khang thịnh vượng! Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu. Gia đình hạnh phúc bè bạn quý Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.
 Chúc ông bà 1 tô như ý. Chúc cô chú 1 chén an khang. Chúc anh chị 1 dĩa tài lộc! Giao thừa sắp đến. Chúc bạn đáng mến. Sự nghiệp tiến lên. Gặp nhiều điều hên!
NĂM tròn xin tiễn tiết đông qua MỚI đón xuân tươi đến mọi nhà CHÚC tặng trên đời thêm chữ Hỷ MỪNG vui khắp chốn cất lời ca HẠNH dung lễ nghĩa ngời tâm ngọc PHÚC lộc, công danh rạng ánh ngà CHAN chát trống kèn, Lân hợp cảnh HÒA đàn, tấu sáo rộn ràng ca Mùa xuân xin chúc Khúc ca an bình Năm mới phát tài Vạn sự như ý Già trẻ lớn bé Đầy ắp tiếng cười Trên mặt người người Tràn đầy hạnh phúc Xuân đến hy vọngẤm no mọi nhà
Kính chúc Ông Bà Sống lâu trăm tuổi Kính chúc Ba Mẹ Sức khoẻ dồi dào Đôi lứa yêu nhau Càng thêm nồng ấm Các em bé nhỏ Học giỏi chăm ngoan Chúc Tết mọi người Năm mới hoan hỷGặp nhiều niềm vui...
Năm mới Tết đến. Rước hên vào nhà. Quà cáp bao la. Mọi nhà no đủ. Vàng bạc đầy hũ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai. Sum vầy hạnh phúc. Cầu tài chúc phúc. Lộc đến quanh năm. An khang thịnh vượng!

Đong cho đầy hạnh phúc. Gói cho trọn lộc tài. Giữ cho mãi an khang. Thắt cho chặt phú quý. Cùng chúc nhau như ý. Hứng cho tròn an khang. Chúc năm mới bình an. Cả nhà đều sung túc.
Cung chúc tân niên. Vạn sự bình yên. Hạnh phúc vô biên. Vui vẻ triền miên. Kiếm được nhiều tiền. Sung sướng như tiên. Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc nghìn sự như ý, vạn sự như mơ,triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc…

Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu. Gia đình hạnh phúc bè bạn quý. Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.

Năm mới đến: Chúc luôn hoan hỉ, sức khỏe bền bỉ, công danh hết ý, tiền vào bạc tỷ, tiền ra ri rỉ, tình yêu thỏa chí, vạn sự như ý, luôn cười hi hi, cung hỷ cung hỷ..."
 Mùa xuân xin chúc - Khúc ca an bình Năm mới phát tài - Vạn sự như ý Già trẻ lớn bé - Đầy ắp tiếng cười Trên mặt ngời ngời - Tràn đầy hạnh phúc Xuân đến hy vọng - Ấm no mọi nhà Kính chúc ông bà - Sống lâu trăm tuổi Kính chúc ba mẹ - Sức khoẻ dồi dào Đôi lứa yêu nhau - Càng thêm nồng ấm Các em bé nhỏ - Học giỏi chăm ngoan Chúc Tết mọi người - Năm mới hoan hỷ Gặp nhiều niềm vui… VẠN SỰ NHƯ Ý....
|
Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 09/Feb/2013 lúc 10:03pm
Mâm
Ngũ Quả Ngày Tết ở 3 Miền Đất Nước
Với
màu sắc rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng những ý nghĩa sâu xa, mâm ngũ quả làm
cho ngày Tết cổ truyền dân tộc thêm phần sinh động và thiêng liêng hơn.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, trên bàn thờ của mọi gia đình người
Việt đều bày mâm ngũ quả cúng gia tiên. Ngũ quả - thể hiện cho 5 vị Kim – Mộc –
Thủy – Hỏa – Thổ, 5 yếu tố được cho là đã cấu thành nên vũ trũ trong quan niệm của
Khổng giáo.
Ngoài ra, ngũ quả còn được xem như biểu tượng cho thành quả
sau một năm lao động miệt mài của những người nông dân. Những sản vật kết tinh
từ mồ hôi, công sức của những người dân lao động chắt chiu qua những vụ mùa. Để
đến khi xuân sang nắng ấm, lựa dịp tốt lành mà thành kính dâng lên ông bà tổ
tiên.
Mâm ngũ quả ngày Tết mang một ý nghĩa chung sâu sắc, thể hiện lòng hiếu thảo và
ước mong những điều tốt lành cho một năm mới sắp tới. Mỗi loại quả được lựa
chọn để sắp xếp trong mâm ngũ quả đều mang những ý nghĩa riêng nhất định:
Lê (hay mật phụ): vị ngọt thanh ngụ ý việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ.
Lựu: nhiều hạt tượng trưng cho con đàn cháu đống.
Đào: thể hiện sự thăng tiến.
Mai: hạnh phúc, không cô đơn.
Quả phật thủ giống như bàn tay đức Phật, luôn chở che cho các số phận con người.
Táo: có nghĩa là phú quý.
Hồng, quýt: tượng trưng cho sự thành đạt.
Thanh long (rồng mây hội tụ) thể hiện sự phát tài phát lộc.
Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn.
Nải chuối như bàn tay ngửa: hứng lấy may mắn, bao bọc và chở che.
Quả trứng gà như hình đào tiên: lộc trời.
Sung: gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe và tiền bạc.
Đu đủ mang đến sự thịnh vượng đủ đầy.
Xoài có âm na ná như “xài”, để cầu mong cho việc tiêu xài không thiếu thốn.
Gọi là ngũ quả nhưng thật ra, việc lựa chọn và bày biện những loại quả gì trên
mâm tùy thuộc vào từng địa phương với những đặc thù về khí hậu, sản vật và quan
niệm văn hóa riêng. Từ đó, người ta chọn ra những loại quả mang ý nghĩa tâm
linh, tinh thần để “thiết kế” nên mâm ngũ quả.
Ở miền Bắc, trên mâm ngũ quả
thường có 5 loại quả: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt. Cách trình bày truyền thống
thường gặp là nải chuối được đặt ở dưới cùng, ở giữa để đỡ lấy toàn bộ các cây
trái khác. Mâm ngũ quả đẹp là mâm ngũ quả có đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa nải
chuối xanh thẫm là quả bưởi căng mọng hoặc quả phật thủ chin vàng nổi bật.
Những quả chin đỏ đặt xung quanh. Những chỗ khuyết đặt xen
kẽ quýt vàng, táo màu xanh hoặc những trái ớt đỏ mọng, hoàn thiện những nét
trang trí cuối cùng.
Nơi khúc ruột miền Trung nghèo khó, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái, lại thêm
thời gian Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt, và cả những hậu quả thiên
tai để lại từ trước đó chưa dứt nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người
dân quê không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, mà chủ yếu có gì
cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên.
Mặt khác, người miền Trung do chịu sự giao thoa văn hóa 2
miền Bắc - Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu
đủ, xoài… Rất phong phú!
Khác với người miền Bắc, người dân Nam Bộ có phần cầu kỳ hơn
trong khâu chọn lựa những loại quả sẽ xuất hiện trong mâm ngũ quả cúng gia
tiên. Do cách phát âm gần giống với từ “chúi” (thể hiện sự nguy khó) nên chuối
là thứ quả không bao giờ xuất hiện. Cũng bởi câu nói: “Cam làm quýt chịu” nên
người Nam
không bày những trái cam óng ả vui mắt như người Bắc.
Mâm ngũ quả của người miền Nam thường có
các loại trái: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (theo câu: “Cầu sung vừa đủ
xài”), thêm chân đế là 3 trái thơm (dứa), thể hiện sự vững vàng. Đặc biệt, mâm
ngũ quả của người miền Nam
không thể thiếu cặp dưa hấu ruột đỏ vỏ xanh, tượng trưng cho lòng trung nghĩa
và trinh tiết của người phương Nam.
Ngày nay, hoa trái ngày càng nhiều và phong phú. Vì vậy mâm
ngũ quả theo đó mà có thể trở thành thập quả, tuy vậy, cái tên gọi: “ngũ quả”
đã đi sâu vào tiềm thức, tâm linh người Việt bao đời. Mâm ngũ quả làm cho quang
cảnh ngày Tết và không gian thờ cúng gia tiên thêm phần tươi vui, ấm áp và rực
rỡ.
Nó thể hiện sinh động cho ý tưởng, triết lý – tín ngưỡng –
thẩm mỹ ngày Tết. Tìm hiểu về mâm ngũ quả cũng là tìm hiểu về nguồn gốc, lịch
sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
|
|
Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 09/Feb/2013 lúc 10:09pm
Những Lễ Tết Việt Nam
Lời
mở đầu: Nói đến Tết Việt Nam thì có rất nhiều bậc thức giả, trưởng
thượng hiểu rõ nguồn cội, phong tục Tết hơn người sưu tầm. Thêm vào đó
vì là một bài tóm lược nên không tránh khỏi thiếu sót, mong quý đọc giả
hoan hỷ cho cũng như trân trọng đón nhận sự chỉ giáo của quý vị.
Xin cám ơn. Lê Ngọc Châu.
* * *
Tết
Nguyên Đán (Tết Cả) là Lễ Hội lớn nhất trong các Lễ Hội truyền thống
Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới.
Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn
cội, giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây)
và tình nghĩa xóm làng …
* Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?
Theo
Nguyễn Đình Khang, nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có
từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên
chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần.
Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm.
Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.
Các
vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là
giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt
ra ngày Tết khác nhau.
Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.
Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.
Cho
đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày
Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau,
trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết
nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ
tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy
sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.
Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy.
Dân
tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ Lễ Tiết. Có Tiết
Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu …
Dựa
theo tài liệu sưu tầm trên Internet và của trang Web Hà Phương Hoài,
chúng tôi lần lượt giới thiệu tóm lược những cái Tết trong năm nói trên:
* Tết Khai Hạ (Mồng Bảy tháng Giêng)
Người giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì
(Vô danh)
Tết
Khai Hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày Xuân
mới. Theo cách bói toán của người xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng
Một ứng vào Gà, mồng Hai: Chó, mồng Ba: Lợn, mồng Bốn: Dê, mồng Năm:
Trâu, mồng Sáu: Ngựa, mồng Bảy: Người, mồng Tám: Lúa.
Trong tám ngày
đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc về ngày ấy,
có năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng Bảy thấy trời nắng ráo thì người
ta tin rằng cả năm người được mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành.
Mồng Bảy hạ cây nêu để “bế mạc” Tết Nguyên Đán thì người ta mở ngày Tết
Khai Hạ để mong mỏi một năm dài tốt lành, vui vẻ.
* Tết Rằm tháng Giêng (Tết Thượng Nguyên)
“Lễ
vật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng”. Đó là ngày trăng tròn
đầu tiên của năm mới, là Tết rằm tháng Giêng hay Tết Thượng Nguyên. Tết
này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày rằm tháng Giêng còn là ngày vía
Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.
* Tết Hàn Thực (Mồng ba tháng ba)
Hàn
thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc Tết này vốn ở Trung Quốc thời Xuân –
Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn
nạn được người hiền sĩ Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công
đói quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm
trời nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại về làm vua Tấn. Mọi
người có công giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên
mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ ở ẩn trong núi Điền Sơn. Khi vua Tấn nhớ
ra, cho người vào tìm, mời mãi Giới không chịu rời núi. Vua bèn cho đốt
rừng, hy vọng Giới sẽ ra, nhưng Giới Tử Thôi đã cùng mẹ già chịu chết
cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đền thờ trên núi. Và
cứ mỗi năm vào ngày mồng Ba tháng Ba, ngày giỗ Giới Tử Thôi, có nước
lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu
sẵn từ hôm trước.
Từ thời Thăng Long Đại Việt, nhân dân ta đã ăn Tết
này. người ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia
tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
* Tiết Thanh Minh (Mồng chín tháng Ba)
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Nguyễn Du
Thanh
minh có nghĩa trời độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi
thăm mộ những người trong dòng họ đã mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ.
Đi thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi về nhà
thắp hương cúng gia tiên.
• Tết Đoan Ngọ Mồng 5 Tháng 5
Còn gọi là Tết Đoan Dương cho nên mới có câu thơ:
Chưa ăn bánh tết Đoan Dương
Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra.
Ở
nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết
Nguyên Đán. Vì vậy các cụ thường nói “Mồng 5 ngày Tết”. Học trò tết
thầy, còn rể tết bố mẹ vợ… quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai Lễ Tết
đó.
* Tết Trung Nguyên (Rằm tháng Bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô
Nguyễn Du
Tết
rằm tháng Bảy có tên khác là Tết Trung Nguyên, người xưa gọi là ngày
“xá tội vong nhân”. Do đó vào ngày này, tại các chùa thờ phật thường làm
chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên,
đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã để người ở âm ty dùng.
* Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám)
Tết
của trẻ con nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm
trăng gọi là “thưởng nguyệt”. Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc
bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác. Đáng
chú ý là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân,
ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao … và tối đến trước khi phá cỗ là
trò chơi múa rồng, múa sư tử, xem đèn kéo quân.
* Tết Trùng Cửu (Mồng chín tháng Chín)
Tết
này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đời vào thời kỳ thịnh hành của đạo
Lão. Chuyện xưa kể rằng: có người tên là Hoàn Cảnh muốn học được phép
tiên. Học mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy may mỗi người một cái
túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng
chín tháng Chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. người chết đuối rất nhiều,
còn gia đình Hoàn Cảnh thì vẹn nguyên.
Thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt
Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng
Tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức Tết Trùng Cửu.
* Tết Trùng Thập (Mồng mười tháng Mười)
Tết
này các ông thày thuốc thường làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào
mồng mười tháng Mười, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết
được sắc tứ thời (Xuân-Hạ-Thu-Đông) và dùng thật tốt. Ở nông thôn gọi là
Tết Cơm Mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng cúng tổ tiên mừng được
mùa lúa.
* Tết Ông Táo (Tết hai mươi ba tháng Chạp)
Tương
truyền là ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu trời để tâu việc
làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ngọc Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có
hai vợ chồng vì nghèo quá phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy được chồng
giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn xin. Người vợ nhận
ra người ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm bèn đem cho
rất nhiều gạo thóc, tiền bạc. Người chồng mới nghi ngờ vợ, vợ ức quá đâm
đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết
theo. Ân hận và đau khổ, người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết.
Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ
làm vua bếp.
Ca dao cổ có câu:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.
Theo
tích ấy, vào ngày 23 tháng Chạp, người ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn
bà bằng hàng mã cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu trời. Cá chép
thường là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con … Và bây giờ mỗi khi vẽ
ông Táo, người ta thường vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất
tiếc lại không có … quần.
Bởi vậy mới có bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo chơi xuân
Đội mũ mang hia chẳng mặc quần
Thượng đế hỏi rằng sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân.
Ông
Táo hay thần bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục
hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng Chạp để tâu bày
mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế cho nên, trong ngày này,
mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa “ông Táo”.
Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên
Đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi
đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi
trang trọng để chuẩn bị đón tết.
Cùng với tranh, hoa quả là yếu tố
tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu
xuân. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào, hoa Mai tượng
trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài cành
Ðào, cành Mai, mấy ngày Tết người ta còn “chơi” thêm cây Quất chi chít
trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may
mắn, hạnh phúc…
Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các
thứ bành trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc
thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất.
Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh,
nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng
trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc.
Và sau cùng, chúng tôi xin giới thiệu đến quý thính giả ý nghĩa Tết Nguyên Đán và những nét đặc thù của ngày Lễ Tết này:
* Tết Nguyên Đán
Ngày Tết ở đây tức là nói tắt Lễ Tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm), còn gọi là Tết Cả vì thế to nhất.
Các
Lễ Tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhiều hình thức nội dung
khác nhau. Còn Lễ Tết Nguyên Đán thì khắp nơi trong cả nước, từ đầu núi
đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đều
tổ chức gần giống nhau. Chỉ khác nhau ở mức sang hèn của từng gia đình
hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng vùng, miền.
Tết
Nguyên Đán trước hết là Tết của gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở
đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi khi Tết đến cũng mong muốn tha
thiết được trở về nhà sum họp gia đình trong ba ngày Tết. Tết Việt Nam
là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.
* Ngày Tết có những phong tục gì?
Ngày
Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong
như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ… Từ trẻ
tới già ai ai cũng biết, sau đây là một vài phong tục đáng được duy trì
phát triển:
Tống Cựu Nghênh Tân: Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa,
sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, lau
giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế
ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Con cháu trong nhà từ phút giao
thừa trở đi được nhắc nhở là không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau, không
nói tục chửi bậy… anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em,
đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều
tốt lành.
Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không
hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết.
Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích
bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít
phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc
nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: Ai
cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ,
thành đạt hơn năm cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi tôn
nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người “nhẹ vía” mà mình thích
đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa
dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì
không hay lại đổ tại mình “nặng vía”. Chính vì vậy, sáng mùng Một ít
khách.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu
mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con
cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời
chúc Tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc. Nhìn chung trong những
ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu
xa.
Phong tục ta ngày Tết biếu quà, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết
thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu
v..v…
Lễ Mừng Thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm
ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào
dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần… Ngày
Tết cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.
Cũng
vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút,
nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công,
Thương “Tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm
mới vận hội hành thông, làm ăn suôn sẻ. Sau ngày mùng Một, dù có mải vui
tết cũng chọn ngày “Khai nghề”, “Làm lấy ngày”. Nếu như mùng Một tốt
thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ
Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu.
Cờ bạc: Ngày xưa các
gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu
chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi
bánh chưng thì người bố cho phép vui chơi. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ
tướng, kiệu, chắn, tổ tôm… ai thích trò nào chơi trò ấy. Ðến lễ khai
hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ
tướng, cất bộ tổ tôm ….
Vì sao có tục kiêng hốt rác đổ đi trong ba
ngày Tết: Trong “Sưu thần ký” có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi
qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem
về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng Một Tết, Âu
Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại
nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hốt rác ngày Tết cũng vì sự tích này.
Trên đây là điểm qua mười một Lễ Tết trong năm.
Cũng
có rất nhiều vần thơ ”trào phúng” liên quan đến Tết Nguyên Đán. Tôi
từng nghe quý cụ nói “mỗi người Việt là một thi sĩ”. Thật vậy, người
Việt Nam chúng ta hầu như ai cũng có tâm hồn thi sĩ, không nhiều thì ít
và chuyện gì cũng làm thơ được, đặc biệt cho ngày Tết thì vô số … nhưng
tôi chỉ giới thiệu với quý độc giả vài bài tiêu biểu:
* Năm hết Tết đến, bài thơ sau đây phản ảnh rõ nét những chuyện xảy ra trong năm:
Một năm chia mười hai kỳ
Thiếp ngồi thiếp tính làm gì chẳng ra
Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai rõi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn chè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa
Một chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn, rồi anh lại nằm.
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống, còn phiền nỗi chi!
* Mượn Tết để làm bài thơ tả tình, tả chân về người đàn bà
“Đàn bà như hạt mưa sa, mưa đâu mát đấy ….” như bài thơ kế tiếp thì “quá tuyệt”:
Tháng giêng là tiết mưa xuân
Tháng hai mưa bụi dần dần mưa ra
Đàn bà như hạt mưa sa
Mưa đâu mát đấy biết là đâu hơn.
Tháng năm, tháng sáu mưa trận mưa cơn
Bước sang tháng bảy rập rờn mưa ngâu
Thương thay cho vợ chồng Ngâu
Cả năm chỉ mới gặp nhau một lần…
* Cuối cùng, bài thơ ngắn sau đây cho ta thấy hạnh phúc, quan hệ vợ chồng rất quan trọng…
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
Ai ơi cùng vợ cùng chồng
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!
2013
là Năm Con Rắn, Quý Tỵ. Để kết thúc bài giới thiệu tổng quát về Tết,
như là một hình thức “Tống Cựu Nghinh Tân” (tiễn đưa năm Nhâm Thìn, chào
đón Quý Tỵ) người viết xin được trích dẫn vài câu ca dao sưu tầm về
“Nàng Rắn” theo truyền khẩu nhân gian.
Phản ảnh sự trêu ghẹo lãng mạn
vì muốn quyến rũ đàn ông nên “nàng Rắn” sẵn sàng chịu trách nhiệm trong
các liên hệ, nhận lãnh “hậu quả”:
Con rắn không chân, con rắn biết,
Đá có ngọc ẩn, thì đá hay,
Tội thì thiếp chịu, vạ chi lây tới chàng?
Diễn tả nỗi mơ ước thầm kín của người phụ nữ, mong được gặp người thương:
Con quạ đen con cò trắng
Con ếch ngắn, con rắn dài
Em trông anh trông mãi, trông hoài
Trông cho thấy mặt thấy mày mới yên
hoặc để ví von “sự quan hệ giữa nam – nữ”:
Con rắn không chưn đi năm rừng bảy rú
Con gà không vú nuôi chim mười con
Phải chi nhan sắc em còn
Anh vô chốn đó chịu lòng mẹ cha.
“Rước voi giầy mả tổ” thường đi đôi vối câu ca dao sau đây là
Cõng rắn (có lẽ đúng hơn Bắt rắn về) cắn gà nhà!
mục
đích phê phán những kẻ phản bội lại nhân dân, tổ quốc, đem giặc hay
ngoại bang về sát hại đồng bào, điển hình như hành động ký kết dâng đảo
Hoàng Sa cho Tàu cộng ngày 14-9-1958 của Phạm văn Đồng và nhóm chóp bu
csVN đã bị người Việt khắp nơi lên án từ nhiều năm qua.
Vì “Rắn”
thích một cuộc sống bình yên, chọn sự yên tĩnh nên Ca dao Việt Nam diễn
tả “sự nghi ngờ chàng hay nàng muốn ve vãn người trong mộng” rất thâm
thúy, đầy lãng mạn tính:
Con chi rột rẹt sau hè,
Hay là con rắn mối tới ve con chuột xù?
Mục đích phê phán những kẻ phản bội,
Và để khen tặng ai khéo ăn nói, dễ thuyết phục người khác, có câu:
Nói rắn trong lỗ bò ra!
Sau
hết, người viết cũng xin lưu ý một điều quan trọng liên quan đến tình
duyên là người bạn đời của “Rắn” giống như một phần thưởng “Rắn” giành
được sau thời gian dài thầm mong ước vì thế “Rắn” trở nên ghen tuông và
thậm chí bảo vệ người thương. Cho nên đừng bao giờ phản bội “người tuổi
Tỵ” vì một khi con “Rắn” bị phản bội sẽ trả thù ghê gớm lắm!
Tuổi Tỵ hạp với Tuổi Dậu (con Gà) và tuổi Sửu (con Trâu)!
Ngược lại tuổi Tỵ kỵ (khắc) với tuổi Dần (con Cọp), tuổi Thân (con Khỉ) và tuổi Hợi (con Heo).
Trước thềm năm mới, xin kính chúc quý độc giả một Năm Quý Tỵ 2013
“AN KHANG THỊNH VƯỢNG và HẠNH PHÚC”.
Lê Ngọc Châu
***************************
http://baomai.blogspot.com.au/2013/02/nhung-ieu-kieng-ky-trong-ngay-tet-o-3.html - Những điều kiêng kỵ trong ngày Tết ở 3 miền
Mỗi
miền có một tục kiêng kỵ khác nhau: Miền Bắc kiêng treo tranh xui xẻo, miền
Trung kiêng ăn tôm vì sợ việc làm ăn đi... giật lùi, riêng miền Nam cất chổi
rất kỹ vì lo mất chổi sẽ bị trộm vét sạch của cải…
Miền
Bắc
Kiêng
quét nhà:
Trong ba ngày Tết, kiêng quét nhà vì sợ quét hết vận đỏ đi. Vì thế, ai cũng
quét dọn nhà cửa, vườn tược trước lúc giao thừa.
Kiêng
đổ rác:
Tục kiêng đổ rác xuất phát từ câu chuyện trong Sưu thần ký. Chuyện kể rằng, có
một người lái buôn đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần tặng nàng hầu tên là Như
Nguyệt. Ông trở nên giàu có, tiền bạc đầy nhà.
Năm
ấy, vào ngày mồng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi nhỏ, bị ông chủ đánh đập nên biến
vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông lại nghèo
như xưa.
Kiêng
không treo những tranh "xui xẻo" như: đánh ghen, kiện tụng... mà phải tìm
bằng được tranh lợn, gà, cậu bé...
Kiêng
cho lửa ngày Tết: Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà
mình, vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng
Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ,
trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió…
Rắc
vôi bột ở 4 góc vườn: Ở nông thôn, nhà nào cũng rắc vôi bột ở 4 góc vườn rồi vẽ hướng
ra phía cổng để xua đuổi ma quỷ. Vì thế, dân gian có câu: "Đầu năm mua
muối, cuối năm mua vôi".
Xông
nhà:
Những người "nặng vía", không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông
nhà ngày đầu năm. Người có tang không nên xông đất nhà người khác để tránh xui
xẻo.
Tránh
nói giông:
Ngày đầu năm, ta phải hết sức tránh những ngôn ngữ, hành động có thể đem lại sự
không may, còn gọi là nói giông hoặc nói xui như: "Chết rồi!",
"Tiêu rồi!".
Kiêng
cho nước đầu năm: vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vô như
nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.
Kiêng
làm vỡ bát đĩa: Bát đĩa tượng trưng cho gia đình, vì thế, trong ngày này không
được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui
xảy ra với gia đình.
Kỵ
mai táng:
Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh
thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối
sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc.
Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà nào có đại tang
kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại
cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
Miền
Trung
Kiêng
ăn một số món: Người dân miền Trung có tục kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt
trong ngày Tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ gặp xui
xẻo. Một số vùng không ăn tôm vì sợ... đi giật lùi như tôm. Nếu ăn trong ngày
Tết, công việc sang năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới. Kiêng
mua quần áo màu trắng, vải trắng suốt tháng Giêng Âm lịch.
Miền
Nam
Ở
một số vùng quê Nam
bộ còn có tục kiêng không để cối xay gạo trống vào những ngày đầu năm. Điều này
tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm tới. Chính vì vậy, người ta thường
đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.
Ngày
Tết có lệ ai đến nhà, bất kể giờ giấc nào, gia chủ cũng dọn cỗ, mời uống rượu,
ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.
Đi
đâu xa cũng phải về nhà trước giờ Giao thừa. Ai không về kỵp xem như cả năm sau
người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn.
Sau
khi quét dọn phải cất hết chổi. Nếu trong ngày Tết để mất chổi nghĩa là năm đó
gia đình sẽ bị trộm vét sạch của.
Những
kiêng kỵ ngày Tết chỉ có ở Việt Nam
Một
số trong các tục kiêng dưới đây hiện đã mai một, nhưng nhiều tục lệ khác vẫn
được người Việt đương đại tuân thủ rất nghiêm chỉnh chẳng kém ngày xưa.
Chúc
Tết trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt.
Ngày
xưa đất tuy rộng nhưng không phải gia đình nào cũng có nhà to để phân ra thành
phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách. Vì thế không hiếm trường hợp, khách đến nhà
chúc Tết vào sáng mùng một, thấy vẫn có người nằm ngủ do phải thức khuya vào
tối giao thừa. Đã đến nhà người ta thì phải xởi lởi mà chúc Tết, thế nhưng họ
không chúc người đang nằm ngủ đó. Nếu không, lời chúc tốt đẹp lại bị xem như
lời trù ẻo, muốn cho người ta phải nằm li bì trên giường bệnh.
Vì
thế, nếu có lòng, khách phải đợi đến khi người đó ngủ dậy mới nói ra lời chúc
với họ.
Kiêng
đánh thức người khác trong ngày mùng 1 Tết
Gặp trường hợp đi chúc Tết nhà người ta, muốn dành lời chúc cho người đang ngủ
nhưng không thể đợi lâu, tốt nhất là vị khách nên chờ dịp khác chứ không được
đánh thức anh ta dậy. Không chỉ khách, ngay cả người nhà cũng không nên đánh
thức ai trong ngày này, mà phải để người ta tự dậy. Nếu không, người nằm ngủ đó
sẽ phải chịu sự thúc giục của người khác trong công việc quanh năm.
Kiêng
về nhà ngoại vào ngày mùng 1, 4, 5 Tết
Theo tục lệ xưa, con gái và con rể chỉ được về nhà ngoại chúc Tết vào mùng 2
hoặc mùng 3, kiêng các ngày mùng 1, mùng 4 và mùng 5. Nguyên nhân là ngày mùng
1 – ngày quan trọng nhất, họ có nghĩa vụ phải tỏ lòng hiếu đễ với bố mẹ, tổ
tiên họ nội. Ngoài ra còn có quan niệm rằng phải về nhà vợ vào những ngày kể
trên thì mới đem lại vận may cho gia đình bên ngoại.
Kiêng giặt quần áo vào mùng 1, mùng 2
Theo
tín ngưỡng dân gian, hai ngày đầu năm là ngày sinh của thủy thần nên cần kiêng
giặt quần áo để không mạo phạm đến thần, dẫn đến gặp xui xẻo. Thực ra, người
xưa chẳng có nhiều quần áo để giặt, và ngày Tết là dịp nghỉ ngơi, tiết trời
lạnh, việc ngừng giặt hai ngày cũng chẳng mấy ảnh hưởng đến họ.
Kiêng
mở tủ vào mùng 1
Dù là loại tủ gì, kể cả tủ quần áo, cũng không nên mở vào ngày mùng 1 Tết, bởi
việc này sẽ làm thất thoát tiền tài và vận may suốt cả năm. Vì thế, người xưa
thường chuẩn bị sẵn quần áo cần mặc, treo ra ngoài trước giao thừa.
Kiêng
cúng quan đương niên trong nhà
Lúc giao thừa, người Việt thường có lễ cúng tiễn quan quân nhà trời coi việc
năm cũ và đón quan quân coi việc năm mới đi thị sát trần gian. Việc này phải
làm ở ngoài sân chứ không được làm trong nhà, bởi các ngài rất vội, không có
thời gian ghé vào. Lễ dành cho việc cúng này thường gọn nhẹ: con gà luộc (hoặc
thịt lợn luộc), hương, hoa, bình rượu nhỏ… và phải đợi tàn hương mới được đem
vào nhà.
Kiêng ăn đuôi cá
Ở
miền Bắc có một số nơi cầu may năm mới bằng việc ăn cá chép – loài cá vượt vũ
môn hóa rồng. Nếu ăn cá chép trong ba ngày đầu năm mới thì trong năm đó sẽ được
hanh thông trong chuyện học hành, thăng tiến. Tuy nhiên, nhằm tăng sự may mắn,
người ta tránh ăn phần đuôi, để luôn có dư thừa, tích lũy của cải trong năm
mới, chứ không chỉ đủ ăn đủ mặc.
Kiêng
trượt chân, vấp ngã
Trẻ con, thanh niên thường được người có tuổi dặn dò phải đi đứng cẩn thận,
ngay ngắn trong ngày Tết, tránh trượt chân, vấp ngã vì như vậy sẽ bị dông cả
năm. Trượt chân hay vấp ngã tượng trưng cho sự xui xẻo, trục trặc trong công
việc.
Kiêng
ngồi hoặc đứng trước cửa
Việc đứng hay ngồi án ngữ trước cửa chính trong dịp năm mới không chỉ vô duyên
mà còn được coi là hành động gây phương hại đến vượng khí gia đình. Luồng khí
tốt lành của năm mới trên đường vào nhà sẽ bị chặn lại, hao tán đi, khiến gia
đình đó không được may mắn, thành công, hạnh phúc.
Kiêng
vỗ vai, quàng vai người khác
Hành động thân mật, bỗ bã này nếu được bạn thực hiện trong những ngày đầu năm
mới thì rất có thể gây ra sự khó chịu, thậm chí phản ứng tiêu cực. Nhiều người
cho rằng khi bị người khác vỗ vai, quàng vai vào dịp Tết, họ sẽ bị xui xẻo, gặp
chuyện buồn về tình duyên hay hạnh phúc gia đình.
Thật
ra ngay cả trong những ngày bình thường, nhiều người Việt đương đại cũng tránh
tối đa việc bị người khác vỗ vai hay quàng vai.
Kiêng
đi chúc Tết khi đang có thai
Không
chỉ những người có tang mới kiêng đi chúc Tết, người Việt xưa còn tránh làm
việc này khi đang có thai. Thật ra ngay cả thời hiện đại, nhiều phụ nữ cũng
kiêng hoặc được dặn phải kiêng đến nhà người khác trong dịp đầu năm. Bởi theo
quan niệm dân gian, bà chửa đem lại xui xẻo, đó là chưa kể đứa bé trong bụng
sau này cũng thành kẻ ăn nói vô duyên. Mà đâu chỉ riêng ngày Tết, vào những
ngày thường, không ít người hiện nay vẫn từ bỏ việc quan trọng định làm trong
ngày nếu “ra ngõ gặp gái chửa”, hoặc có cố làm thì trong bụng vẫn dự cảm thất
bại, dẫn đến không an lòng và hậu quả là việc không thành.
Kiêng
quên khăn tay ở nhà người khác
Người xưa cho rằng việc để quên khăn tay ở nhà người khác trong ngày Tết cũng
giống như bạn bỏ lại sự xui xẻo, khó khăn cho người ta.
Điềm
lành ngày Tết
Sau
giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó báo hiệu
điềm may. Từ sau giao thừa đến sáng mùng 1 Tết, nếu trong nhà có hoa nở, đặc
biệt nếu cây hoa nhà bạn bỗng xuất hiện bất ngờ một vài bông hoa 6 cánh, chắc
chắn năm đó gia chủ sẽ phát tài.
Hoa
mai: Sau
giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó báo hiệu
một điềm may. Mọi người ai cũng cầu mong điều này xảy ra trong nhà mình vì sách
có câu “Hoa khai phú quý”. Vì lẽ này, từ sau giao thừa đến sáng mùng 1 Tết, nếu
trong nhà có hoa nở, đó là điềm may trong năm mới. Và đặc biệt may mắn nếu cây
hoa nhà bạn bỗng xuất hiện bất ngờ một vài bông hoa 6 cánh.
Chó
lạ vào nhà:
Tục ngữ có câu “mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”. Nếu sáng mồng 1,
chó chạy vào nhà bạn thì hãy yên tâm năm đó gia đình bạn sẽ làm ăn suôn sẻ,
thịnh vượng.
Cây đào: Nếu cây hoa có nhiều
cánh kép 3 lớp trên đài hoa và bông hoa có hình dáng như bông hồng, chắc
chắn nhà bạn năm đó sẽ có nhiều phúc lộc.
Cây
quất: Nếu
cây có một hoặc nhiều hoa nở, hoặc chồi xanh mọc lên mơn mởn, năm đó sẽ có
nhiều lộc.
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Feb/2013 lúc 9:09pm
http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=&esrc=s&source=images&cd=&cad=rja&docid=norR_AqUaTYt1M&tbnid=mOq77_B5PzDtTM:&ved=&url=http%3A%2F%2Fgiaoduc.net.vn%2FBan-doc%2FBo-suu-tap-nhung-loi-chuc-tet-hay-va-doc-dao-nhat-P2%2F99770.gd&ei=4aMZUf-LILC4iAeWvYCADQ&bvm=bv.42261806,d.aGc&psig=AFQjCNEAAF-ABsLBiIO5km31wFEmBOv_0A&ust=1360720380212022"> http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=&esrc=s&source=images&cd=&cad=rja&docid=6rhT_zx5sy83EM&tbnid=4tgmVvTL2vHrtM:&ved=&url=http%3A%2F%2Fyeudulich.vn%2FChi-Tiet-Tin%2F15%2F954%2FTu_lam_mut_tet_tai_sao_khong.html&ei=taYZUfS4A4mciQfm0IHwBg&bvm=bv.42261806,d.aGc&psig=AFQjCNGbVk1FQW3JkfYu33_kQakWfdcsIg&ust=1360721959193031"> http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=&esrc=s&source=images&cd=&cad=rja&docid=fLOj1EP5Nkyr0M&tbnid=sxCm4hdh64zoHM:&ved=&url=http%3A%2F%2Fmeyeucon.org%2F26485%2Fdanh-sach-thuc-pham-ngay-tet-bo-duong-cho-me-va-be%2F&ei=lKUZUaVqxI2IB9rqgPAC&bvm=bv.42261806,d.aGc&psig=AFQjCNF7IBnURPinq4pSwp8A7oCKXz_7eA&ust=1360721684467748"> http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=&esrc=s&source=images&cd=&cad=rja&docid=moBiPmuOOXmrSM&tbnid=hNSwWWHY9d-hiM:&ved=&url=http%3A%2F%2Fnguoiviet.eu%2Fam-thuc%2Fmon-an-ngay-tet-ba-mien.html&ei=UqYZUdHyL-eiiAeXq4HgDA&bvm=bv.42261806,d.aGc&psig=AFQjCNFvlhluceAYjFeRSbLBupd2ElnJIw&ust=1360721858981251">
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Feb/2013 lúc 8:18pm
Xà tộc và năm Tỵ- Created on Tuesday, 12 February 2013

- Phạm Đình Lân. F.A.B.I
Năm
2013 là năm Quý Tỵ tức năm con rắn. Theo Hán Việt, rắn được gọi là Xà.
Trong bài viết này chúng ta lần lượt đề cập đến mọi vấn đề liên quan đến
Xà tộc và năm con Rắn.
Thân thế Xà tộc
Rắn
là một loài bò sát thân có vảy nhưng không có chân. Rắn thuộc gia đình
Viperidae. Đó là một loài bò sát đẻ trứng, thị giác rất kém; lưỡi có
hình cái nĩa dùng để đánh hơi từ nhiều hướng khác nhau.
Rắn
được tìm thấy khắp năm châu. Các đảo Iceland (Băng Đảo), Ireland (Ái
Nhĩ Lan) và Tân Tây Lan (New Zeland) được xem là nơi ít rắn trên thế
giới. Rắn sống trong rừng, núi, ao hồ, sông ngòi và biển cả. Có loài rắn
sống trên mặt đất phủ đầy cỏ. Có loại sống trong bộng cây.
Xà
tộc là một đại gia đình gồm có trên 3,000 thân thuộc khác nhau về chiều
dài, trọng lượng, màu sắc và sự độc hại. Thân thuộc to lớn của Rắn là
Trăn. Ở Châu Á có những con Trăn dài 9m. Ở Nam Mỹ có trăn anaconda mang tên khoa học Eunectes murinus dài trung bình từ 9-12m. Trăn anaconda
to lớn nhất, dài đến 30m. Đó là một loại trăn to lớn sống nửa đất, nửa
nước. Loại rắn nhỏ nhất là rắn Braminy dài khoảng 15cm. Loài rắn này gần
như mù mắt.
Trong 3,000 loài rắn có tới 15% có nọc độc gây tử vong cho người khi bị cắn. Rắn có nọc độc đại để gồm:
- Rắn Chuông Crotalus scutulatus (rattlesnake)
- Rắn Hổ Mang Agkistrodon controtrix (cooperhead) - Rắn Mang Bành Naja naja (cobra)
- Rắn Biển Hydrophis fasciatus (Stripe Sea Snake); gia đình Elapidae
- Rắn Mamba Xanh Dendraspis angusticeps (Rắn Lục) (Eastern Green Mamba); gia đình Elapidae
- Rắn San Hô Micrurus tulvius (coral snake) v.v...
Ở
Việt Nam các loại rắn độc là rắn lục, rắn hổ, rắn hổ ba khoang trắng
trên đầu, rắn hổ hành (vì hôi mùi củ hành), rắn hổ mây, rắn hổ ngựa, rắn
mỏ vọ, rắn mai gầm (bạch hoa xà), rắn roi v.v... Rắn trun là một loại
rắn nhỏ như con trùng đất nhưng nọc rất độc và gây tử vong cho người bị
cắn.
Rắn không nọc độc gồm rắn nước Natrix sipedon sipedon, rắn bùn Farancia abacura, rắn đen bắt chuột hay rắn bắt gà (chicken snake -blach rat snake) mang tên khoa học Pantherophis obsoletus, gia đình Colubridae v.v...
Ở
miền nhiệt đới rắn bắt cặp quanh năm. Ở miền ôn đới chúng bắt cặp vào
mùa xuân và mùa thu. Rắn trống có hai bộ phận sinh dục. Vào mùa rắn bắt
cặp thường xảy ra những cuộc tranh giành và đấu nhau giữa các rắn trống.
Đó là mùa hội của rắn.
Người
Việt Nam cho rằng gặp rắn bắt cặp thì xui xẻo. Nhiều người tin rằng rắn
bắt cặp với mèo sinh ra linh miêu. Linh miêu nhảy qua xác chết khiến
cho người chết sống lại trong khoảnh khắc. Điều này không thấy các nhà
khoa học và động vật học đề cập đến.
Mỗi
con rắn mái đẻ từ 06 đến 30 trứng. Trăn to lớn hơn đẻ tới 50 trứng. Chỉ
có trăn và các loại rắn lớn ấp trứng mà thôi. Trứng nở sau 55 hay 70
ngày. Trăn anaconda sinh con. Cũng có vài loại rắn sinh con (trứng nở trong bụng rắn mẹ).
Rắn
là loài ăn thịt sống. Thức ăn của chúng là ếch, nhái, rắn mối, chuột,
thỏ, các loại rắn khác v.v... Chim là kẻ thù của rắn vì chim ăn cả rắn
con và cả rắn lớn nữa. Những loài chim lớn và động vật có vú như heo,
chó cầy (mongoose) xem rắn là mồi của chúng.
Rắn
có thể không ăn suốt cả năm! Trong thời kỳ lột da hay ấp trứng rắn mái
không ăn gì cả. Ở miền lạnh rắn mẹ chết trong thời kỳ ấp trứng vì thiếu
ăn lại phải đương đầu với thời tiết giá buốt.
Tuổi thọ của rắn sống hoang dã là 15 tuổi. Rắn nuôi trong trại để lấy nọc có thể sống tới 25 năm.
Xà tộc và loài người
Trăn
và rắn đều cho thịt ngon. Trên châu thổ sông Cửu Long và vùng Đồng Tháp
Mười có nhiều trăn như: trăn gầm, trăn núi, trăn đất, trăn nước, trăn
gió... Trứng trăn và rắn đều ăn được. Trước năm 1975 ở Cần Thơ (Phong
Dinh) có quán bán gỏi rùa, gỏi rắn, cà ri thịt rắn, rắn xào lăn nổi
tiếng. Ngày nay, rắn được chở từ miền Nam ra tận biên giới Việt-Hoa để
bán cho các nhà hàng Hong Kong và các thành phố ở Hoa Nam.
Thịt
rắn nướng với lá lốt ăn ngon lại có lợi cho người bị phong thấp như
nhiều người tin tưởng. Người ta cho rằng thịt trăn bổ gân cốt. Huyết rắn
dùng để trị nhức mỏi, đau thấp khớp. Huyết trăn trị bịnh hoa mắt, chóng
mặt vì thiếu máu. Mật trăn dùng làm thuốc trị phong. Mỡ trăn dùng để
trị phỏng lửa.
Da
trăn và rắn dùng để làm bóp, giày, dây nịt. Xương trăn và rắn kết hợp
với xương cọp dùng để nấu cao hổ cốt. Ngày nay, người ta nuôi các loại
rắn độc để lấy nọc độc. Nọc rắn rất đắt tiền. Một gram nọc rắn chuông (rattlesnake) trị giá 40 Mỹ kim. Một gram nọc rắn mang bành (corba) trị giá 200 Mỹ kim. Nọc rắn độc có nhiều proteins làm đông máu và gây tử vong khi bị rắn cắn nếu không được chữa trị kịp thời. Nhưng làm giảm liều lượng proteins, nọc rắn được dùng làm thuốc trị cao huyết áp, đau tim, đau ngực, ung thư, bịnh Alzheimer, ngừa tai biến mạch máu. Thuốc Eptifibatide
làm từ nọc rắn chuông. Thuốc Tirofiban làm từ nọc rắn Echis carinatus
một loại rắn có vảy như răng lưỡi cưa (saw-scaled viper) được tìm thấy
nhiều ở Ấn Độ và Phi Châu. Mật rắn dùng làm thuốc tiêu xổ, mát gan. Ở
Việt Nam có Thuốc Dán Con Rắn, Tam Xà Đởm (mật của ba loại rắn).
Đối
với nông dân sống trên châu thổ sông Cửu Long rắn có công dụng diệt
chuột. Rắn bắt chuột linh động hơn mèo vì có thể bò vào tận hang chuột.
Ngày
xưa nhiều dân tộc trên thế giới xem rắn là Thần sinh sản. Người Ai Cập
có thờ rắn và coi đó là dấu hiệu sinh sôi nảy nở. Rắn là Nữ Thần Ejo,
Thần ngự trên thung lũng sông Nile, ‘món quà’ của dân tộc Ai Cập vì sông
Nile mang nước ngọt và phù sa làm cho những sa mạc khô khan trở thành
những đồng lúc xanh tươi. Người Da Đỏ ở Hoa Kỳ thờ Rắn. Các dân tộc bao
quanh nước Do Thái ngày xưa thờ rắn. Trong Thánh Kinh rắn được xem là
hiện thân của tội lỗi. Đó là con vật bị trừng phạt phải trườn bằng bụng
và chết bị dập nát đầu.
Trong
huyền thoại Hy Lạp và La Mã rắn là biểu tượng của Thần trên Trái Đất.
Thần Zeus nhận lấy hình hài của rắn để xuống trần gian thăm viếng loài
người. Trong huyền thoại La Mã, Lacoon và các con của ông đều bị rắn cắn
chết vì chống lại thần Apollo. Hipocrates (460-377 tr. Tây Lịch), ông
Tổ ngành Tây Y, dùng dấu hiệu hai con rắn quấn vào cây roi của Asclepius
làm dấu hiệu cho ngành y khoa.
Trong
truyện Tàu có truyện Liu Pang (Lưu Bang), người khai sáng ra nhà Hán
(206 -trước Tây Lịch- 220 sau Tây Lịch), chém Bạch Xà. Kin Yung (Kim
Dung) đề cập đến vua Nam Đế uống huyết rắn. Vua Nam Đế ám chỉ người lãnh
đạo của người Nam Chiếu (Nan Chao) ở Yunnan (Vân Nam). Đó là tổ tiên
của người Thái. Ông cũng nói đến Tây Độc uống huyết Bạch Long Xà. Bạch
là màu trắng tương ứng với hành Kim và hướng Tây. Long Xà biểu tượng cho
sức mạnh, sự khôn ngoan của trí tuệ và sự tàn phá khủng khiếp. ‘Bạch
Long Xà’ nói đến sức mạnh và trí tuệ của người phương Tây.
Trong truyện cổ tích của người Khmer có chuyện Thạch Sanh chém chằn.
Trong lịch sử Việt Nam có chuyện Rắn Thần Báo Oán
biện minh cho triều Lê với bản án Lệ Chi Viên tru di tam tộc dành cho
Nguyễn Trãi sau khi vua Lê Thái Tôn chết đột ngột bên cạnh Nguyễn Thị
Lộ, người hầu trẻ đẹp, và giỏi thi phú của Nguyễn Trãi. Câu chuyện huyễn
hoặc này khỏa lấp ý muốn loại bỏ uy tín lẫn sự hiện hữu của Nguyễn Trãi
chỉ vì bên ngoại của ông có liên hệ huyết thống đến nhà Trần. Trần
Nguyên Hãn chết vì một vụ đắm thuyền bí ẩn. Nguyễn Trãi sớm rũ áo từ
quan vì người khai sáng nhà Hậu Lê yêu cầu các bô lão kiến nghị cho Minh
triều nói rằng con cháu nhà Trần không còn ai nữa! Nguyễn Trãi và Trần
Nguyên Hãn có công lao to lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân
Minh và có liên hệ huyết thống với nhà Trần.
Trong ngụ ngôn La Fontaine có bài La Vipère et la Sangsue (Con Rắn và Con Đỉa).
Cách bắt mồi và siết gãy xương sống con mồi của trăn và rắn giúp cho con người học được vài thế võ từ Xà tộc.
Loài người không dành nhiều thiện cảm cho Xà tộc. Trong tiếng Anh chữ snake hay viper ngoài có nghĩa là con rắn còn có nghĩa là người lừa lọc, phản bội. Chữ Serpent (rắn) cũng có nghĩa là quỷ Satan, người lừa lọc, quanh co.
Người
Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm trong việc bắt rắn. Người Thái co kinh
nghiệm bắt trăn. Người Ấn dùng ống sáo thổi để dụ rắn ra khỏi hang để
bắt. Có phải chăng tiền nhân chúng ta không cho hút gió ban đêm vì sợ
rắn vô nhà vì rắn nhầm tiếng hút gió với tiếng sáo?
Trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều cụm từ liên quan đến Rắn hay Xà với ý nghĩa xấu như: Khẩu Phật tâm xà; Khẩu xà tâm Phật; Cõng rắn về cắn gà nhà; Vẽ rắn thêm chân; chằn ăn trăn quấn; xà thiệt (lưỡi rắn-lời nói độc); xà huyệt (nơi hiểm độc); xà hành (bò sát đất như rắn bò).
Rắn rết bò vào,
Cóc nhái nhảy ra. Rắn có chân rắn biết,
Ngọc ẩn dả ngọc hay
Rắn già rắn lột da,
Người già người tột dầu sàng
Người Việt Nam cho rằng rắn là con vật độc hiểm, hay báo thù. Vì vậy khi giết rắn người ta phải đập đầu cho nó chết thực sự.
Người
có mặt rắn là thông minh nhưng hiểm độc. Người có tướng đi quanh co như
rắn là người yểu tướng hay thường gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Người
có mắt lim dim như mắt rắn rất hiểm độc.
Khi
năm Thìn và Tỵ đến người ta thường nhắc những câu thơ thời cuộc được
xem là sấm ký của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ thế kỷ XVI để lại:
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khởi đao binh,
Mã đề dương cước anh hùng tận Thân, Dậu niên lai kiến thái bình
Tôi
không biết chữ Hán cũng không thấy được nguyên tác của sấm kỳ Trạng
Trình nên không dám quả quyết Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả
của những câu thơ trên hay không. Những câu thơ này tiên liệu thời gian
bùng nổ và chấm dứt của Đệ nhị Thế chiến (1939-1945) hay là theo định kỳ
cứ 12 năm đến năm Thìn, Tỵ thì có chiến chinh và đến năm Thân, Dậu thì
có ánh sáng hòa bình? Và chiến chinh đó ở Việt Nam hay trên thế giới?
Trong thiên văn học có sao Serpens hay Serpent. Chòm sao này gồm:
- phần đầu gọi là Serpents Caput
- phần đuôi gọi là Serpens Cauda và sao Ophiuchus ở giữa Trong thực vật học có nhiều loại thảo mộc mang tên RẮN như:
- Xà thiệt thảo Oldenlandia corymbosa trị rắn cắn, hạ sốt, trị ho, suyễn;
- Dây sống rắn Rhaphidophora decursiva trị sốt rét;
- Cây sống rắn Albizzia myriophylla trị khát nước, ho; - Bạch hoa xà Plumbago zeylanica và Xích hoa xà Plumbago rosea trị béo phì, thuốc trụy thai, trị phong hủi, di hượt tinh, cước khí;
- Hắc xà căn (black snake root) Sanicula canadense trị tê thấp, cảm, sốt rét, cao huyết áp, rắn cắn;
- Huệ xà Brodiaea corcinea;
- Xà căn (snake root) Aristolochia serpentaria trị rắn cắn, thuốc hộ sản, kháng viêm, thông phổi;
- Xà căn Seneca Polygala senega trị rắn cắn, gây nôn, tẩy xổ; - Xà qua tức qua lâu hay thao ca Trichosanthes kirilowii có tính trụy thai, hạ cholesterol, kháng viêm, kháng nấm, ung thư, hạ sốt. Protein của qua lâu có trichosanthin dùng làm thuốc trị bịnh AIDS;
- Xà mộc (Snakewood) Brosimum guianensis là cây gỗ cứng, chắc có giá trị trong ngành mộc. Những cây này có nhiều quinone C6 H4 O2 gây dị ứng, buồn nôn khi dùng đến.
Trong
12 con giáp Rắn đứng hàng thứ 6 sau Thìn (Rồng) và trước Ngọ (Ngựa).
Năm Rắn được gọi là năm Tỵ. Năm Tỵ là năm âm (-). Chúng ta có 05 năm Tỵ:
Năm Hành Năm D.L
Ất Tỵ Hỏa 1905, 1965, 2015
Đinh Tỵ Thổ 1917, 1977, 2037
Kỷ Tỵ Mộc 1929, 1989, 2049
Tân Tỵ Kim 1941, 2001, 2061
Quý Tỵ Thủy 1953, 2013, 2073
Người
tuổi Tỵ là người nhàn nhã thích du lịch đó đây. Tuổi Quý Tỵ hợp với nữ
phái. Nam hợp với Nhâm vì gia tăng dương tính (+); Nữ hợp với Quý vì gia
tăng nữ tính hay âm tính (-).
Tuổi Tỵ hợp với: Dậu, Sửu và khắc với Dần, Thân, Hợi.
Trong số đề 40 con, Rắn mang số 32, trước con Nhện (33) và sau con Tôm (31).
Những năm Tỵ quan trọng vào thế kỷ XX
1905:
Chiến tranh Nga-Nhật; hiệp ước Nga-Nhật Portsmouth nhường phân nửa đảo
Sakhalin phía Nam cho Nhật; Phong Trào Đông Du; Liên Minh Hồi Giáo.
1917:
Hoa Kỳ tham chiến ở Âu Châu (Đệ Nhất Thế Chiến); Cách Mạng tháng 10 Nga
(theo lịch Julian); cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên; Phan Châu Trinh và
Phan Văn Trường được tự do ở Pháp khi Clémeneau (biệt danh Con Cọp Già)
lên làm thủ tướng.
1929:
khủng hoảng kinh tế thế giới; sự hình thành 3 Đảng Cộng Sản ở Việt Nam:
Đông Dương Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn, An Nam Cộng
Sản Đảng trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam chánh thức ra đời ở Hong Kông
ngày 03-02-1930; Minh ước Litvinov (tên nhà ngoại giao Liên Sô); Vatican
được công nhận là một quốc gia có chủ quyền riêng biệt;
Chile-Peru-Bolivia ký thỏa ước về vùng Tacna-Arica; Liên Sô đoạn giao
với Trung Hoa Quốc Dân Đảng sau những cuộc đàn áp Cộng Sản đẫm máu năm
1927.
1941:
Đức xua quân tấn công Liên Sô; Hiến Chương Đại Tây Dương; sự ra đời của
Mặt Trận Việt Minh; Nhật tấn công Hoa Kỳ ở Pearl Harbor, Hawaii; Đức
oanh tạc Cardiff, Wale; quân Anh-Úc chiếm Libya; quân Đức chiếm
Benghazi; tướng Anh Micheal Gambier- Parry bị bắt làm tù binh và được
đưa về nhốt ở Ý. Năm 1943, ông vượt ngục và sống ẩn trong một tu viện
cho đến khi Ý được quân Đồng Minh giải phóng năm 1944.
1953:
Đồng bạc Việt Nam (piastre) bị phá giá; hiệp ước Panmunjon (Bàn Môn
Điếm) chấm dứt chiến tranh Triều Tiên; Stalin chết; vụ các bác sĩ Do
Thái bị buộc tội “hoạt động khủng bố” ở Liên Sô; Churchill chỉ trích
thuyết Domino mà Foster Dulles trân quý; Beria, hung thần thời Stalin,
bị bắt khi Krushchev thay Malenkov nắm quyền sau cái chết của nhà độc
tài Stalin; Fidel Castro lập phong trào 26-07 chống nhà độc tài
Bastista; Liên Sô chuẩn bị làm bom khinh khí; Mossadegh bị đảo chính và
bị bắt ở Persia (Iran bây giờ); thế yếu của Pháp trên chiến trường Bắc
Việt.
1965:
Quân sĩ Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam; đảo chính ở Sài Gòn (Phạm Ngọc Thảo);
cuộc diễn hành của người da đen từ Selma đến Montgomery; quân đội nắm
chánh quyền (VNCH); chiến tranh Ấn Độ-Pakistan; sự ra đời của xứ
Singapore.
1977:
CHXHCNVN gia nhập Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Carter ân xá cho 10,00
người tránh né nghĩa vụ quân sự trong chiến tranh Việt Nam; Deng
Xiao-ping (Đặng Tiểu Bình) trở lại chánh quyền; Do Thái biểu tình chống
Pháp vì thả Abu Daoud; người chịu trách nhiệm về việc thảm sát lực sĩ Do
Thái ở Munich năm 1972; Tổng thống Ai Cập Sadat viếng Do Thái; Khmer-Đỏ
đoạn giao với CHXHCNVN (31-12).
1989:
Nhật hoàng Hirohito băng hà; sinh viên biểu tình ở Tian Anmen (Thiên An
Môn); bức tường Berlin bị phá vỡ; chế độ cộng sản sụp đổ ở các nước
Đông Âu; Đức thống nhất; giáo chủ Khomeini của Iran ra lịnh giết
Rushdie, tác giả Santanic Verses; Zimbabwe độc lập; Liên Sô hứa
hủy kho võ khí hóa học; người tỵ nạn Việt Nam ở Hong Kông biểu tình
chống lịnh cưỡng bách hồi hương.
2001:
Taliban cho nổ sập bức tượng Phật lâu đời ở Afghanistan; biến cố 11-09
(khủng bố cướp phi cơ làm sập World Trade Centre ở New York); chiến
tranh Afghanistan lật đổ chánh quyền Taliban chứa chấp khủng bố Al
Qaeda; Erik Weihenmayer, người Hoa Kỳ 32 tuổi ở Colorado, lên đỉnh núi
Everest cao nhất thế giới mặc dù bị mù.
Nhân vật quan trọng sinh vào năm Tỵ
Những nhân vật quan trọng trên thế giới sinh vào năm Tỵ là:
- Jonh F.Kenedy
(1917-1963), tổng thống Hoa Kỳ. Ông đắc cử tổng thống năm 43 tuổi. Đó
là vị tổng thống trẻ thứ nhì trong lịch sử Hoa Kỳ sau Tổng thống
Theodore Roosevelt (42 tuổi). Ông Kenedy nổi tiếng sau khi giải quyết
cuộc khủng hoảng Cuba trước Khrushchev một cách ngoạn mục. Ông là người
theo đạo Thiên Chúa đầu tiên được đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Ông bị ám
sát chết năm 1963.
- Mao Zedong
(Mao Trạch Đông 1893-1976) không phải là người sáng lập đảng Cộng Sản
Trung Hoa nhưng ông là người đã sửa đổi chủ nghĩa Cộng Sản thành chủ
nghĩa Mao. Năm 1931, ông thành lập Cộng Hòa Sô Viết Giang Tây (Jiangxi)
năm ông 38 tuổi. Bị chánh phủ Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch) đàn áp,
ông phải mở cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-35) đi ngược về phía Bắc. Sau
Đệ nhị Thế chiến cuộc nội chiến Quốc-Cộng tái diễn. Lần này quân Cộng
Sản làm chủ tình hình. Năm 1949, Mao thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc. Năm 1959, ông mất chức chủ tịch nước vì thất bại trong Bước Tiến
Nhảy Vọt khiến cho hàng chục triệu người chết vì thiếu lương thực sau
khi cầm quyền với chức chủ tịch nước và chủ tịch đảng Cộng Sản Trung
Hoa. Liu Shaoqi (Lưu Thiếu Kỳ) thay ông làm chủ tịch nước. Trong cuộc
cách mạng văn hóa (1966-1976) Liu trở thành nạn nhân của Mao và vợ thứ
ba của ông, Jiang Quing (Giang Thanh). Dưới thời cầm quyền của Mao,
Trung Hoa lục địa can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên (1950-53) giúp
Bắc Hàn, viện trợ cho ************ trong chiến tranh kháng Pháp, có vai
trò năng nổ trong hội nghị Geneva (1954) và hội nghị Bandung (1955), sản
xuất bom nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo lên không gian v.v...
- Mustafa Kemal Ataturk
(1881-1938) là anh hùng thành lập chánh thể Cộng Hòa, canh tân cứ Thổ
Nhĩ Kỳ bằng cách bãi bỏ nhiều cổ tục Hồi Giáo, La Tinh hóa chữ viết Thổ
Nhĩ Kỳ, dùng dương lịch, giải phóng phụ nữ bằng cách bỏ việc cấm phụ nữ
mang mạng che mặt, không theo luật Sharia, cho phụ nữ đi học. Ông làm
gương bằng cách cho con gái ông đi học lái phi cơ.
- Mohandas Karamchand Gandhi
(1869-1948) là người dùng đường lối đấu tranh bất bạo động chống lại
Anh giành độc lập cho Ấn Độ. Ông được người Ấn Độ xem như bậc Thánh với
biệt danh đầy quý trọng “Mahama”. Khi Ấn Độ sắp được độc lập và phân
vùng giữa người theo Ấn Giáo và Hồi Giáo thì ông bị Nathuram Godse, một
người Ấn Giáo quá khích, ám sát chết vì cho rằng ông quá mềm yếu trước
người Hồi Giáo. Phong thái Thánh của ông thể hiện trước khi chết. Ông
xin tha thứ cho người ám sát ông.
- Indira Gandhi
(1917-1984) là nữ thủ tướng Ấn Độ, con gái của cố thủ tướng Nehru. Bà
bị người hộ vệ người Sith của bà ám sát chết vì bất mãn việc bà cho quân
tiến vào Đền Vàng của người Sith.
- Hermann Wilhem Goering
(1893-1946) là một trong những người thân tín của Hitler. Là một phi
công dũng cảm, ông gia nhập Đảng Quốc Xã và chỉ huy lực lượng bán quân
sự Áo Nâu, Không Quân Đức Quốc Xã rời Gestapo, Bộ Ngoại Giao thời
Hitler. Bị tòa án Nuremberg xử tử hình vì tội ác chiến tranh, ông tự tử
chết trước khi bị hành quyết.
- Martin Luther King
(1929-1968) là mục sư Tin Lành, lãnh đạo Da Đen đấu tranh cho Dân
Quyền. Năm 1963, ông tổ chức một cuộc tập hợp quy tụ 200,000 người Da
Đen dưới tượng đài kỷ niệm Tổng thống Abraham Lincoln ở Washington. Ông
nổi tiếng với Tôi có một ước mơ. Năm 1964, tiến sĩ Martin Luther
King được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Ông chủ trương bất bạo động.
Năm 1968, ông bị ám sát chết ở Memphis, Tenessee.
- Ferdinand Marcos
(1917-1989) là tổng thống độc tài của Phi Luật Tân. Ông là tổng thống
từ năm 1965 đến năm 1986. Cái chết của nhà lãnh tụ đối lập Benigno
Aquino tại phi trường Manila năm 1985, ngày ông tự ý trở về nước một
cách liều lĩnh sau khi sống lưu vong ở Hoa Kỳ, làm cho uy tín của Marcos
suy giảm nặng nề. Trong cuộc bầu cử năm 1986 giữa ông và bà Aquino, góa
phụ của Banigno Aquino, ông Marcos thua phiếu nhưng vẫn tuyên bố đắc
cử. Dân chúng biểu tình khiến ông phải chạy sang Hawaii. Ông chết ở
Hawaii năm 1989. Bà Marcos nổi tiếng với 3,000 đôi giày. Bà đã về Phi
Luật Tân và được bầu làm đại biểu Quốc Hội. Đương kim tổng thống Phi
Luật Tân bây giờ là con của nữ tổng thống Aquino.
- Hosni Mubarak
(1929- ) là tướng Không Quân. Ông là phó tổng thống của Anwar Sadat.
Năm 1981, Sadat bị nhóm Hồi Giáo quá khích bắn chết vì hòa hoãn với Do
Thái. Sadat công nhận sự hiện hữu của Do Thái ở Trung Đông. Ông thăm
viếng Do Thái năm 1977. Bù lại Do Thái hứa trả bán đảo Sinai mà họ chiếm
năm 1967 cho Ai Cập. Mubarak lên làm tổng thống. Ông tiếp nối đường lối
của Sadat và nhận viện trợ của Hoa Kỳ. Ông có ý định chuẩn bị cho con
ông ra tranh cử tổng thống sau khi ông rời khỏi chánh quyền. Năm 2011,
Mubarak bị lật đổ trong cuộc cách mạng Mùa Xuân Ai Cập. Ông bị xử chung
thân. Huynh đệ Hồi Giáo bị Mubarak cấm hoạt động trong suốt 30 năm qua
thắng cử trong cuộc bầu cử Quốc Hội lần tổng thống vừa qua.
- Anne Frank
(1929-1945) là một thiếu nữ Do Thái sống ở Hòa Lan. Cô nổi tiếng với
quyển hồi ký viết lén lút trong thời kỳ sống ẩn ở Hòa Lan, trốn tránh sự
truy lùng và bắt bớ của quân Đức Quốc Xã. Nhật ký Anne Frank được ấn bản lần đầu tiên vào năm 1947.
- Alexander Kerensky
(1881-1970) là một nhà cách mạng Nga, đồng hương và là nạn nhân của
Lenin. Cuộc cách mạng tháng 2 (theo lịch Julian), 1917 đưa đến sự thoái
vị của Nga Hoàng Nicholas II. Kerensky là Tổng trưởng Bộ Chiến Tranh
trong nội các của hoàng thân Lvov. Vài tháng sau ông thay thế Lvov để
làm thủ tướng. Dù thuộc đảng Cách Mạng Xã Hội ông thuộc khuynh hướng ôn
hòa và chủ trương đứng theo phe Đồng Minh đánh nhau với Đức trong Đệ
nhất Thế chiến. Tháng 10 (lịch Julian) năm 1917 (tức 07-11 theo lịch
hiện hành) Lenin cầm đầu cuộc cách mạng vô sản Kerensky. Ông chạy sang
Pháp và sống lưu vong ở nước này đến khi mất vào năm 1970.
Hòa
bình, tự do, no ấm luôn luôn là ước mơ của nhân loại. Cầu xin cho mơ
ước ấy trở thành hiện thực vào năm Quý Tỵ đầy thử thách này. Kinh tế thế
giới chưa khởi sắc, giá thực phẩm lên cao. Có ít ra 800 triệu người
trên thế giới rơi vào cảnh thiếu lương thực. Hàng loạt tranh chấp quốc
tế chưa được giải quyết (Trung Đông, Đông Á, Đông Nam Á v.v...). Va chạm
văn hóa vẫn còn căng thẳng. Hy vọng rằng:
Thanh tịnh trong tâm
Hòa bình trên Trái Đất.
- Phạm Đình Lân
------------- mk
|
|