Lý Văn Chương đi rước tù chính trị Côn Đảo
Hồi ký của Trần Văn Giàu
Sau đây là bản tự thuật của đồng chí Lý Văn Chương
(đã ghi âm và đã đánh máy thành 7 bản) tại Viện Bảo
tàng Cách mạng Hà Nội.
Nhắc lại rằng chiều tối ngày 25 tháng 8, khi cuộc biểu
tình vũ trang một triệu người đã giải tán thì Xứ uỷ
họp kiểm điểm ngày khởi nghĩa và đề ra những nhiệm
vụ cần kíp; tôi, chính tôi yêu cầu Xứ uỷ và Uỷ ban
ra quyết định cử người đem tàu, ghe rước anh em ta còn
ở ngoài Côn Đảo. Riêng tôi ký ngay lệnh lấy chiếc tàu
De Lanessan để làm ngay việc đón rước cho mau chóng nhất. Một ban
chuyên trách được thành lập ngay gồm ba người: Đào Duy Kỳ (nguyên Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ), Nguyễn
Công Trung (viết báo Dân Chúng)
và Tưởng Dân Bảo (người
đã từng ở Côn Lôn). Ban này giao cho Lý Văn Chương thực
hiện kế hoạch đi rước. Anh Lý Văn Chương bác bỏ kế
hoạch mướn tàu Hải Nam ở Rạch Giá; anh là người Gò
Công, chủ một cái tiệm máy móc phụ tùng ở đại lộ
De La Somme. Mặt xương xẩu, nói lấp vấp mà tính tình
chân thật, thương anh em; quen biết tất cả anh em thủ
thuỷ và hoa tiêu Sài Gòn.
Bản tự thuật của Lý Văn Chương (bản gốc còn ở Bảo
tàng Lịch sử Hà Nội) kể (nguyên văn):
“Việc thi hành nhiệm vụ mà Uỷ ban
Ủng hộ Chính trị
phạm (chủ tịch Đào Duy Kỳ; uỷ viên: Nguyễn Công Trung
và Tưởng Dân Bảo) giao cho tôi tổ chức đoàn ghe biển
(ghe đánh cá) đi rước những nhà chính trị bị đế
quốc Pháp cầm tù ở Côn Đảo.
(Tôi được mời đến để tự thuật, ngày 23 tháng 9 năm
1965, tại Viện Bảo tàng Cách mạng).
“Vào lúc 14 giờ ngày 3 tháng 9 năm
1945, anh Ngô Văn
Chương (Sài Gòn), vóc người to lớn, chạy vô tiệm tôi,
hơ hãi nói: “Anh Năm, chính phủ mình lấy chiếc tàu De Lanessan giao cho
anh em công nhân và các anh Hoá, Trúc (hoa tiêu) lo sửa chữa để ra Côn Đảo rước
chính trị phạm nhưng bọn Việt gian cho bọn Pháp hay, Pháp mách (cho Anh, Anh
lệnh cho) Nhật Bổn tịch thu chiếc tàu ấy; lấy đâu mà đi rước các nhà chính trị
ngoài đó?
“Do không có phương tiện đi Côn Đảo
liền trong ngày
chiếc tàu De Lanessan bị tịch thu, nên Uỷ ban Ủng hộ
Chính trị phạm phân công anh Ngô Văn Chương tức tốc
xuống tỉnh Rạch Giá tìm mướn tàu Hải Nam, loại tàu
chạy buồm của người Trung Quốc thường tới buôn bán
ở nơi đó.
“Phần tôi cố theo dõi tình hình
cũng biết một số tin
tức ngoài Côn Đảo từ năm 1940/1941 tới nay là 1945, bọn
Pháp giết chóc hơn phân nửa số người chính trị nó
đưa ra ngoài đó. Tôi xét thấy anh Tư Ngô Văn Chương
xuống Rạch Giá khó tìm loại tàu Hải Nam được (thỉnh
thoảng mới có một, hai chiếc ghé đó để bán và mua
hàng). Tôi biết là vì tôi là người mua bán khắp các
tỉnh, nắm được tình hình buôn bán khắp nơi.
“Để giải quyết vấn đề này, tôi nhận
thấy chỉ có
những loại ghe biển mũi đỏ nhọn, đánh cá, như loại
ghe ở ấp Vàm Láng, xã Kiến Phước, tỉnh Gò Công mới
có khả năng đảm bảo; ghe mũi nhọn, nhỏng cao lên, đít
thì bầu, sóng lớn đánh vào mũi, nó cứ lách mình chạy
tới, nó đã được nhiều lần thử thách; gặp gió lớn
hay bị bão trôi đi có khi tận đến Phi Luật Tân, Nam
Dương, Xiêm La, mà còn trở về được. Từ đất liền
đến Côn Lôn đường xa có hơn 120 km đường chim bay, vả
lại lúc ấy có chút ít gió nồm nam vào buổi chiều,
khi trở về thì xuôi buồm, như thế sử dụng loại ghe
biển đó rất thuận lợi.
“Đến 19 giờ ngày 3 tháng 9 năm
1945, tôi kêu dây nói
báo cho anh Đào Duy Kỳ, nói những ý kiến của tôi, anh
Kỳ lúc ấy là chủ bút tờ báo Dân Chúng ở tại đường
Lagrandière http://www.viet-studies.info/TranVanGiau/HoiKy_V_4.htm#sdendnote1sym -
1 …
lại là Chủ tịch Uỷ ban Ủng hộ Chính
trị phạm.
“Trong hai ngày 4 và 5 anh Đào Duy
Kỳ giao cho anh Tưởng
Dân Bảo tìm hiểu tôi và thăm dò những ý kiến của tôi
đề ra, xem tôi có tích cực, thành thật trong công tác
này hay không… Đến ngày 6 tháng 9, các anh Kỳ, Trung, Bảo
nói cho tôi biết là Đảng đã chấp thuận ý kiến chương
trình của tôi đề ra và tôi được phân công đi Gò Công
bằng một chiếc xe hơi gazogène.
“Đi vào lúc 9 giờ 30 sáng 6 tháng
9, xe chạy một hơi
tới Gò Công; rồi đi luôn xuống nhà quen ở xã Kiến
Phước, nhờ anh Nguyễn Văn Kiết xã trưởng đi cùng anh
Huỳnh Văn Lúa, với chúng tôi đến Vàm Láng, triệu tập
các chủ ghe biển với một số thuỷ thủ tại ấp Vàm
Láng – ngày ấy nhằm ngày trời gió nam, biển động,
ghe biển đậu tại bến.
“Anh Tưởng Dân Bảo trình bày lý do,
chúng tôi động
viên khuyến khích các chủ ghe và anh em thuỷ thủ đóng
góp sức lực cho sự giải thoát chính trị phạm. Lúc đầu
các chủ phương tiện dùng dằng viện lý do này lý do
khác; nhưng anh em thủy thủ và những tài công (coi lái
ghe) đồng tình cương quyết ra đi, cho nên các chủ ghe
cũng thuận theo. Kết quả, tổ chức được 50 chiếc ghe
biển loại lớn, mỗi chiếc chở được ít nữa 100
người. Phải cho mỗi chiếc ghe mượn từ một trăm đồng
trở lên để mua thêm dây neo, buồm và dụng cụ đi biển…
“Cách đi ra Côn Đảo trong mùa gió
này (là) đi trong
sông, ra cửa Cồn Lợi tỉnh Trà Vinh hay ra cửa Định An
tỉnh Sóc Trăng, từ đó bắt đầu chạy buồm thì mau
hơn, còn nếu bắt đầu từ Vàm Láng thì sẽ bị gió
thổi tắp và khó chạy, chạy chậm mất thêm ngày giờ.
“Tổ chức, bố trí xong xuôi; anh
Lúa, anh Kiết chịu
trách nhiệm theo dõi tình hình đoàn ghe biển trong lúc
chuẩn bị, sửa chữa neo buồm. Nên chúng tôi trở về
Sài Gòn vào lúc 15 giờ ngày 6 tháng 9. Lúc xe chạy ngang
nhà, con tôi tên là Toàn mới bốn tuổi chơi trước cửa
ngõ, tôi thấy con mà cũng đành để xe chạy luôn, vì
đường vô nhà ba mươi thước, không để mất thì giờ
ghé thăm cha mẹ và con tôi được. Lo việc cho xong sẽ về
thăm, muộn gì. Nhưng, từ đó tới nay tôi đi luôn, hơn
hai mươi năm, cha mẹ tôi chết hết, tôi không gặp mặt.
“Chúng tôi ghé thị xã Gò Công, ghé
Uỷ ban Nhân dân
Tỉnh, yêu cầu Chủ tịch Nguyễn Côn cho mượn 6.000 đồng
để phân phát cho các chủ ghe mượn.
“Trở về báo cáo với anh Kỳ, Trung,
tôi yêu cầu có
tàu dắt đoàn ghe biển theo sông Cồn Lợi cho mau. Tìm
được chiếc tàu Rodier, nhưng máy nó yếu, nó kéo không
hết đoàn ghe, cần thêm một chiếc nữa. Tôi đến văn
phòng cảng Sài Gòn, xin lấy cho một chiếc tàu kéo. Lúc
ấy, anh Lý Văn Sâm giám đốc cảng Sài Gòn - Chợ Lớn,
anh Sâm là anh ruột tôi, ảnh nói: “Phải có ý kiến và
xin giấy phép chính phủ, không nên cảm tình cá nhân anh
em”. Tôi báo cáo với anh Đào Duy Kỳ
xin lấy chiếc tàu
kéo của cảng. Anh Kỳ đến Uỷ ban Nam Bộ, anh Trần Văn
Giàu ký giấy cho phép và tôi đến cảng nhận chiếc tàu
kéo Remorqueur R.4.
“Lúc ấy, gặp những anh em công nhân
lo sửa chữa chiếc
tàu Phú Quốc để chạy ra Côn Đảo. Vì chiều ngày
5 hay là sáng ngày 6 tháng 9 năm 1945, anh Trần Văn Giàu
(đã) ký giấy lấy chiếc Phú Quốc. Tôi
động viên anh
em sửa chữa nhanh để đi một đoàn cho có bạn.
“Ngày 11 tháng 9, vào lúc 19 giờ,
anh Đào Duy Kỳ triệu
tập tại nhà báo Dân Chúng một
cuộc họp để phân
công. Tôi chịu trách nhiệm chỉ huy đoàn ghe đi Côn Đảo
với danh nghĩa là một uỷ viên Uỷ ban Ủng hộ Chính trị
phạm, có giấy giới thiệu và giấy chứng nhận của Ủy
ban. Trong cuộc họp này, có tên Tỵ ra ngăn cản với lý
do là đoàn ghe biển này đi rước các nhà chính trị phạm
không bảo đảm an toàn; nếu có chìm ghe chết người
thì vợ con họ kiện chính phủ; cần phải có đủ tàu
đi rước mới được. Tôi cam đoan, bảo đảm giữa hội
nghị và xin hoàn toàn chịu trách nhiệm: hội nghị tán
thành. Tên Tỵ nó biết chính phủ mới thành lập, không
có tàu. Tên Tỵ theo tàu Phú Quốc đi với một số người
và một phụ nữ ra Côn Đảo. Ra Côn Đảo nó lên diễn
đàn, nói chưa chắc độc lập. Sau nó trở về Sóc Trăng,
gạt anh chủ tịch Dương Kỳ Hiệp, lấy 50.000 đồng để
mua súng… (sau tôi báo cáo cho
anh Nguyễn Văn Tây cái tên
Tỵ khả nghi này. Quả nó là gián điệp theo phá hoại
cuộc đi Côn Đảo rước chính trị phạm. Tỵ bị bắt).
“12-9-1945, Nguyễn Công Trung giao
cho tôi 2.000 đồng. Tôi
lấy thêm tiền nhà 5.000 đồng. Chỉ một mình anh Lý Văn
Sâm biết tôi đi làm gì. Vợ tôi về Gò Công. Cửa tiệm
của tôi đã nghỉ buôn bán năm tháng nay để tôi lo công
tác. Đến cảng Sài Gòn, tại cột cờ Thủ Ngữ, trình
giấy tờ, anh Đức giao cho tôi chiếc R.4 đã có chuẩn bị
chu đáo theo lệnh anh Sâm.
“14 giờ ngày 12-9, thì R.4 bắt đầu
mở máy chạy một
mạch đến Kinh Nước Mặn vào lúc 22 giờ ngày ấy. Chiếc
Rodier cũng tập trung với đoàn ghe biển. R.4 kéo một đoàn
20 chiếc ghe biển; Rodier kéo 12 chiếc… Chạy đến thị
xã Mỹ Tho lúc 18 giờ; đậu lại mua thêm củi cho R.4
chụm lò; đậu cách chợ một cây số sợ anh em thuỷ
thủ lên chơi, tập trung lại chậm trễ… Đến quận Trà
Ôn vào lúc 4 giờ sáng ngày 15 tháng 9, mua hột vịt, muối,
cá khô, gạo, nước ngọt cho mỗi ghe; mua củi cho R.4 trở
về Sài Gòn. Còn Rodier chạy đến Đại Ngãi (Sóc Trăng)
đậu lại đó chờ đoàn ghe trở về…
“Khi đó hàng trăm Thanh niên Tiền
phong cầm tầm vông
đến tra xét, vì vừa qua Hoà Hảo dậy muốn giành chính
quyền ở Hậu Giang; họ bị ta bắt cũng nhiều; anh em
Thanh niên Tiền phong có nhiệm vụ tuần tiễu, canh gác
nghiêm ngặt, họ sợ đoàn ghe lạ đến giải thoát dân
phiến loạn, còn Hoà Hảo nghe tin có đoàn ghe lạ tới,
ngỡ là ghe đến chở họ đi, la ó om. Rốt cuộc Thanh
niên Tiền phong và nhà chức trách địa phương biết là
đoàn chúng tôi đi Côn Đảo đưa chính trị phạm về.
“Bản thân tôi, cùng thuyền viên
thuỷ thủ trong đoàn
ghe hơn 200 người, không một ai biết Côn Đảo. Phải nhờ
đồng bào giúp đỡ, ở đây ngư dân thường đánh cá về
hướng Côn Đảo nên rõ đường đi; phải nhờ họ giúp.
“Chương trình lúc ra đi, có bàn là,
tình hình chính trị
yên tĩnh thì rước chính trị phạm về thẳng Sài Gòn;
không êm thì về Mỹ Tho.
“5 giờ sáng ngày 6-9-1945, tôi cho
đoàn ghe ra cửa Bảy
Xào, theo hướng Côn Đảo mà chạy. Trên đầu cột buồm
ghe tôi, có treo một cái khăn bông tắm để làm beo cho
các ghe sau thấy, để khỏi lạc. Quá 10 giờ nổi lên một
trận giông rất lớn. Các ghe phải lăn buồm thả trôi
theo lượn sóng mà chịu. Chiếc ghe mà tôi ngồi là chiếc
ghe số 3, chở 9 người thì 3 người nằm mê man, ba người
chịu trách nhiệm trước mũi, khi lăn buồm xong cũng bị
say sóng, chỉ còn ông lái ghe, ông tát nước và tôi ngồi
gần lái mà chịu trận. Sóng đánh trước mũi ra tận sau
lái, chiếc trước chạy cách chiếc sau 100 thước mà
không thấy cột buồm nhau. Sóng to, gió lớn, mưa nhiều.
Lúc ấy, ông lái ghe đòi quay ghe xuôi sóng trở lại sau
sẽ trở ra; tôi không đồng ý, cương quyết tiếp tục
đi tới, nên giữ gối đầu sóng không cho ghe trôi vào,
để làm gương và dẫn đường cho các ghe sau (ghe tôi
ngồi là ghe chỉ huy). Chịu đựng gió to, sóng lớn, mưa
nhiều như thế suốt hai giờ rưỡi thì gió mới dịu
bớt.
“Trong trận giông lớn này, tôi nghĩ
mười phần chỉ có
một phần sống nhưng vì tôi nhận nhiệm vụ và vì tôi
thương các nhà chính trị bị đày đoạ ngoài Côn Đảo,
nên tôi thà chết, không nghe lời ông lái quay ghe trở
lại. Trận giông này làm xiêu bạt hết 9 chiếc ghe và
một thuỷ thủ tên là Thủ, còn tuổi thanh niên, làm
nhiệm vụ lăn buồm, bị cánh buồm gạt anh sút tay rơi
xuống biển mất tích. Trong số ghe trở lại, có một
chiếc xiêu bạt đến cù lao Nam Sa, sau sửa chữa trở về
được, trong tàu có một thanh niên người Trung Quốc tên
là Thang Bửu Minh ở Chợ Lớn, cũng theo ra đón chính trị
phạm người Trung Quốc. Một số ghe trở lại Cồn Nóc
núp gió trong ba ngày sau mới ra được; tất cả trước
sau 25 chiếc, chỉ lạc 7 chiếc.
“Khi gió êm, lại bắt đầu chạy… đến
15 giờ thấy
trước mặt hình dáng Côn Đảo. 19 giờ ngày 16-9-1945, mới
đến bãi Cỏ Ong.
“Sáng ngày 17, nhờ anh em trên Côn
Đảo đưa chúng tôi
leo qua ba hòn núi mới tới trung tâm của đảo, thì lúc
đó cũng vừa xong lễ tiếp rước phái đoàn chính phủ –
chiếc tàu Phú Quốc của anh Tưởng Dân Bảo đã tới
trước…
“Đến nửa đêm ngày 22, rạng 23 tháng
9, các nhà cựu
chính trị phạm xuống tàu, ghe để về đất liền. Kéo
buồm vào lúc 3 giờ sáng. Chiếc ghe tôi, ghe số 3, có
nhiệm vụ đi hậu vệ, nó chạy nhanh; nếu có chiếc này
chạy chậm tôi cho ghe số 3 quay lại đôn đốc, chiếc
nào chạy rời rạc thì làm dấu hiệu cho nó đi theo,
không cho đi xa đoàn (vì lúc đó còn nghe nói có hai tàu
lặn của Pháp quanh quẩn ở Côn Đảo, nên tôi đề phòng
sợ có điều xảy ra không hay).
“Khi đến Cồn Nóc vào 20 giờ thì
nghe tin Pháp đã chiếm
Sài Gòn. Nên đoàn ghe chạy về Đại Ngãi, Sóc Trăng. Năm
giờ sáng ngày 24 tháng 9 năm 1945, vào bến đậu lại. Các
nhà chính trị lên xe hơi về tỉnh. Chiếc Phú Quốc chạy
ra thêm một chuyến nữa, có anh Văn Cừ (Cần Thơ) đi
theo để chở anh em còn lại…
“Đoàn ghe biển Vàm Láng làm xong
nhiệm vụ trở về nơi
xuất phát.
“Khi ấy Nam Bộ kháng chiến vừa bắt
đầu”.
Cuộc tường thuật ghi âm của Lý Văn Chương ở Viện
Bảo tàng Cách mạng Hà Nội có phóng viên các báo, có
các uỷ viên hội đồng khoa học của viện, có nhiều
học viên các tỉnh học trường Nguyễn Ái Quốc, có một
số đồng chí Nam Bộ như chị Mười Thập, chị Sáu
Ngãi… chứng kiến.
Vai trò của các đồng chí ở Côn Đảo về rất quan
trọng, hết sức lớn lao trong kháng chiến chống Pháp thì
người chép sử sẽ càng đánh giá cao sáng kiến và công
trạng của đồng chí Lý Văn Chương trong việc đi rước
chính trị phạm tháng 9 năm 1945.
Ấy, tình đời như thế ấy. Đề nghị đi rước anh em Côn Đảo là tôi,
tôi là người đầu tiên đưa ra (với lý do lịch sử cụ thể); lẽ cố nhiên là nếu tôi
không đề ra trước thì cũng có người đề ra sau, ký liên tiếp bốn cái giấy trưng
dụng tàu Lanessan, tàu Phú Quốc, tàu Rodier và R.4, là tôi. Vậy mà xậm xì, xậm
xịt rằng tôi, Trần Văn Giàu, không chịu rước anh em Côn Đảo “sợ họ giành quyền”! Anh
Trọng (Đẹt) nguyên tỉnh
uỷ viên Mỹ Tho, nguyên Xứ uỷ viên năm 1940, có lần nói
với tôi là ở Côn Lôn về anh đã nghe tụi Sáu Vi (Biện
Vi) nói như vậy, anh Trọng hoài nghi có sai trái, vì ở
Côn Đảo đồng chí Tưởng Dân Bảo thay mặt chính quyền
cách mạng ra rước anh em về, và về tới Mỹ Tho thì
Dương Khuy – bí thư tỉnh uỷ, một người của chúng
tôi vượt ngục Tà Lài 1941 – rước Trọng, Khuy lúc đó
ở cơ quan gần cầu Quây, còn Sáu Vi thì ở mút trong làng
Long Hưng. Nhóm Giải Phóng của tụi Sáu Vi, Ba Dự vu cáo
thô bỉ quá, ác quá. Vậy mà cũng lắm người lớn nghe!
Mãi đến 1965, sau vụ “nổ” ở trường Nguyễn Ái
Quốc mới gọi là tạm “hết”, nói cho đúng là “tạm êm”, thì nạn nhân như tôi đã mềm xương rồi,
còn gì? Tôi tự an ủi: Vẫn còn may hơn bị vu cáo mà
đã chết rồi; chết là thua! Còn tôi thì chưa chết.
Chưa chết thì có ngày cải chánh. Nên nói thêm chăng là
anh Lý Văn Chương, già, chết ở Chợ Lớn, linh cữu đưa
về Gò Công, hôm đó tôi có đi đưa mà không có mấy ai
ở Côn Lôn đã được Chương rước về đất liền. Buồn
thay! Khi ấy hội cựu tù nhân chưa được tổ chức. Hôm đưa linh cữu Lý Văn Chương
về chôn ở quê nhà Gò Công, tôi sống lại câu chuyện tình cảm anh đã ghi khi nhắc
lại việc tổ chức đoàn ghe đi rước tù Côn Đảo. Xe hơi anh đi Vàm Láng mướn được
ghe biển rồi, anh tức tốc về Sài Gòn, xe hơi chạy qua trước cửa nhà cách lộ vài
chục thước, anh thấy đứa con nhỏ chạy ra đón anh, anh chỉ xuống xe vò đầu con mà
không vô nhà sợ đi về Sài Gòn trễ việc lấy tàu kéo ghe đi làm nhiệm vụ rước tù
chính trị. Người có trách nhiệm quá!
------------- hung0989077120@ahoo.com
|