CÓ NHỮNG NGÀY THƠ XA...RẤT THƯƠNG
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=737
Ngày in: 06/Aug/2025 lúc 1:15am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: CÓ NHỮNG NGÀY THƠ XA...RẤT THƯƠNG
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Chủ đề: CÓ NHỮNG NGÀY THƠ XA...RẤT THƯƠNG
Ngày gởi: 14/Mar/2008 lúc 1:02am
- tanlinh - |
Bìm bịp kêu chiều con nước lớn Em ra mé rạch nước vừa lên Lá dừa kết chiếc ghe mui nhỏ Thả xuống trôi xuôi khuất cuối Vàm * Từng chiếc ghe đi nối… chiếc ghe Lững lờ theo nưóc chảy về xuôi Tàu dừa chở tuổi thơ đi biệt Năm tháng theo nhau chẳng trở về * Đuổi chim, bẫy quốc giữa đồng xa Đặt đó đêm đêm nước loáng bờ Nghe tiếng tù và ghe đổi nước, Ra Vàm sông cái lặng trông chờ * Trường học trong đình bên Xóm Rẫy Qua cầu in bóng nước, cheo leo Nửa năm chưa học xong vần ngược Khói loạn ly lan đến xóm nghèo * Vào vườùn "Ông Cả" hái mo cau Mấy đưá làm xe kéo…. bụi mù Đội nón te vành đi mót lúa Tuổi thơ lần lữa cuốn qua mau * Rồi bỏ quê xưa về phố chợ Thị thành rộn rịp dấu chân xe Xa rồi Xóm Rẫy mùa ly loạn Gió bụi phồn hoa lấp lối về * Sống níu Sàigòn, bỏ xứ quê Nhìn quanh đã khuất lối quay về Phố phường tình nghĩa xa tầám với Ánh mắt người dưng vẩn cận kề * Và mỗi chiều khi sáng điện đường Nhớ làng quê cũ, nước vưà lên ..Tiếng con bìm bịp …vàm sông Cái Tàu lá dừa…thương giọng đánh vần
Nguyễn Tấn Bi
|
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Trả lời:
Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 14/Mar/2008 lúc 6:55pm
Ong thay Hung than:
Co phai Nguyen Tan Bi la TCHYGIAO , co lam tho va cung la nha giao , co luc di day o miet Long an , Can Duoc , Can Giuoc..
Neu the, cho toi gui loi chao.
hp
-------------
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 3:55am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ HEICHPE
Ong thay Hung than:
Co phai Nguyen Tan Bi la TCHYGIAO , co lam tho va cung la nha giao , co luc di day o miet Long an , Can Duoc , Can Giuoc..
Neu the, cho toi gui loi chao.
hp |
Chào anh HEICHP.
Hùng chưa rõ Nguyen Tan Bi ở đây có phải là TCHYGIAO hay không. Mời anh đọc thêm đễ coi có đúng thầy ấy không.
LỚP TIẾP LIÊN (COURS DES CERTIFIÉS) NĂM 1949 Của Nguyễn Tấn Bi
Hồi cách đây trên nửa thế kỹ, sau khi tốt nghiệp lớp năm, tức là đậu xong bằng Sơ học yếu lược(Certificat d’Etudes Primaires Complémentaires Indo chinoises), học sinh tỉnh Chợ Lớn bọn tôi có giỏi giang cách gì, cũng phải lên một lớp chóp bu cuả bậc tiểu học, bấy giờ gọi là lớp tiếp Liên, nói nôm na là lớp dự bị trung học….Những đứa nào, ở nhà có ba má anh em đã đi học lâu năm , mới biết, sau tiểu học sẽ phải thi ở đâu, vào đâu để học tiếp…
Thuở đó mà nghe nói tới dân premiere année hay deuxièmer année là ngon quá mạng giang hồ, vì con cái quan quyến, cha chú mới học tới đó chớ còn dân ngu khu đen nhu bọn tôi, là cả cái gì xa lạ lắm….
Đất trung học năm đó coi như vùng cấm cho bọn ..áo ôm khố rách…Nói là vùng cấm vì, nếu “chẳng may” thi đậu vô Pétrus Ký chẳng hạn, thì những vấn đề sanh tử phải nghĩ tới là, trọ ở dâu? Chi phí sinh hoạt lấy ở đâu ra?.Bán vài thiên lúa à? Cũng có thể đượïc, nếu nhà khá giả.Nhưng luá ở đâu mà bán thiên nầy qua thiên nọ hàng năm.May ra thì gia đình mấy ông hương chức hội tề cấp cao, như hương cả, hương chủ, hưong sư, hưong quản…chớ còn hưong thân huơng hào thì cũng ..rách nát luôn.Thuở xưa đó, kinh tế tính theo..lúa chớ không tính theo vàng, vì vàng rẻ hơn lúa nhiều.
Một kỹ niệm khó quên lúc bấy giờ là chuyện anh Trưong văn Ba, con trai lớn của thấy giáo Trương văn Chiêu, tức thầy mười Cảm dạy lớp ba. Thầy Mười có nhà riêng ở chợ quận để đạy học cho gần trưòng quận và để con cái trong quê , xã Phước Lâm, ra học ở cũng tiện….
Anh Ba đang học lớp năm (supérieur), vóc dáng cao lớn.anh đi học mỗi ngày bằng xe đò từ Phước Lâm ra chợ quận…Một bửa xe đò chạy ngang qua đồn Mỹ Lộc, không nbiết cái gì bắt, tụi Tây trong đồn ra chận xe nhìn mặt để bắt thanh niên xuống xe đi… …đốn tre…
Do tình hình thời cuộc,, hồi đó Tây làm gì có vũ khí hoá học để khai hoang.? Với lại ngưòi dân quê miền Nam cấtùt nhà cửa, xung quanh miếng đất cư ngụ họ thường trồng tre dày mịch, hình vuông vuông, xen lẫn với chuối, rồi đào mương xung quanh hàng tre, bên trong, từ xa nhìn lại tựa hình vuông, nên tiếng miền Nam quen gọi là vuông tre..Hồi mấy năm đó còn trong thời kỳ Nam bộ kháng chiến.Lính Tây trong đồn đi “ruồng” (opération) thường sợ mấy vuông tre nầy, lâu lâu bị du kích bắn tỉa…Nên chắc cú nhất là cho đốn bỏ những vuông tre …
Anh Ba bị kêu xuống xe để đi…đốn tre….Học trò hồi đsó nói nào cho ngay, không phải dễ “ăn hiếp” nhất là những vùng gần chợ búa.Anh Ba không chịu đi.Không ai có quyền bắùt học sinh đi làm công tác tạp dịch.Thằng Tây bắt anh đi đốn tre, cải không lại, và anh Ba hăm nó sẽ ra quận kiện với với Sous- chef Secteur de Cầngiuộc (Chi khu trưởng sau nầy), thằng Tây ở trần, chỉ mặc quần treillis, quê quá, nổi điên, tát cho anh Ba một bạt tai..Hành khách xì xầm la lối…Chiếc xe đò đưọc cho đi…
Ra tới Chợ, anh Ba về nhà kể chuyện Tây đánh anh vì không chịu đi đốn tre, thầy Mười giận quá…Bén tức khắc làm thủ tục giấy tờ , để ít tuần sau đó, anh Trương văn Ba giả từ Cầngiuộc lên đường du học bên Pháp…
Ít lâu sau, hành trình môt tháng trời của anh Ba từ Sàigòn đi Marseille trên chiếc tàu Champollon, đượïc ghi trong một nhật ký dài, gởi về Thầy Mười. Tụi tôi học chung với anh Trương Vĩnh Thuận, đứa con áp út cuả thầy Mười, thường tới nhà rũ Thuận đi học mỗi ngày, đượïc Thầy Mười cho coi…những hình ảnh lạ mắt đó..
Chiếc Tàu Champollon ít lâu sau bị lố cồn gảy ngang ờ vùng biển Trung Đông…
Và vài năm nghe Thuận kể lại, anh Ba đã vào Y Khoa ở Paris cuối cùng tồt nghiệp Bác sỉ và cưới vợ đầm ở luôn bên Tây không về nữa.
Học lớp tiếp liên là lớp dành cho những học sinh tốt nghiệp lớp năm. Coi như đây là lớp luyện thi vô Trung Học….Những ngưòi tốt nghiệp lớp năm là những tay sừng sỏ, cha nào cũng hay và bản lãnh lắm…
Thầy dạy duy nhất cho lớp nầy từ khi mở ra cho đến khi..giải tán là Thầy hiêïu trưởng Trần Văn Quới, địa phương quen gọi là ông Đốc Quới…Thầy Quới dạy là phải biết, Tiếng Pháp học grammaire kỹ hơn trước.Sữ địa cũng lạ hơn trước vì chỉ học lịch sữ và địa lý của nước Pháp .Vẽ bản đồ các tỉnh thành của nưóc pháp giống hình lục giác, tô màu từng tỉnh khác nhau..Nghĩ cũng tức cười, xứ sở mình bao nhiêu tỉnh không biết hết, chỉ biết các tình miền Nam nhờ bài học thuộc lòng sau đây, đọc như nghề vỏ, đọc thiệu :
Gia, Châu, Hà, Rạch , Trà Sa, Bến , Long, Tân, Sóc Thủ, Tây., Biên, Mỹ, Bà Chợ Vĩnh, Gò , Cần , Bặc Và Cap Saint Jacques, tưc Vũng Tàu Bà Rịa ngày nay.Miền Nam có 21 tỉnh …
Năm cuối cùng ở tiểu học, đưọc học với thầy Đốc Quới ai cũng phải nhận thầy là nguời kinh nghiệm ,nhiều bản lảnh, và nhất là cái lối giảng bài của thầy thì trời sầu đất thảm lẳm.Có nghĩa là thầy giảng và dịch thật rõ ràng để tránh cho học trò không lầm lẫn khi viết tiếng Tây.
Lớp tiếp liên chúng tôi một nửa là trai, một nưả là gái. Khoảng 50 mạng chớ ít ỏi gì.Vô lơp nhiều khi còn biết “cáp đôi” nhau
Kỹ niệm khó quên, là một hôm thầy cho đề tác văn (Rédaction) tả cảnh trời mưa , dỉ nhiên bằng tiếng Pháp…
Phần đông có thói quen nhập đề đại khái như trời nóng nực, hay oi bức, rồi mây đen kéo tới v.v..bọn tôi, có cha lại viết trời nóng nực là ..IL est chaud…
Khi làm compte rendu, trả bài lại, thầy đem những bài Il est chaud ra đọc rồi giảng nghĩa thẳng thưùng, tiếng Tây không có vụ nóng nực là Eâtre Chaud..Chữ nầy là nói tục,,Rồi thầy nói luôn cái nghĩa hắc ám sexy của nó… là những kẻ động tình(nóí văn chương), chớ thật ra là mấy thằng..ó đâm..Thầy dặn phải viết là IL fait Chaud mới đúng là trời nóng nực… Từ đó mới nảy sanh ra những đứa trong lớp bị être chaud, như Minh est chaud, Tâm est chaud để cười và để nghe bên đám con gái chữi cho là…cái đồ nói tục…
Cả lớp, phía con trai khoái chí cười bò lăn, còn phiá bên kia vĩ tuyến, đám con gái cúi mặtï xuống bàn nghiến tăng chữi rũa ỏm tỏi…
Chắc chắn bây giờ, nếu có bạn già nào đọc truyện nầy chắc chắn sẽ cười nhớ lại thuở hoa niên….Thầy Quới có lối dánh học trò bằng roi mây…dễ sợ.Cây roi mây thầy mua ở ngoài chọ, dài hơn một mét…Thầy thưòng sữ dụng roi mây trong giờ orthographe, chánh tả tiếng Pháp….Theo qui định, tới giờ chánh tà, hai dứa lên khiêng tấm bảng đen của lớp quay lại ở bàn đầu…Một dứa, theo danh sách luân phiện, lần lượt lên bảng viết chánh tả cùng với cả lớp. Sau khi viết xong, tấm bảng đưọc khiêng về chỗ củ để cho cả lớp đổi tập cho nhau mà sữa bài..
Ai năm lỡi là “ăn hột vịt” . không điểm
…Đang lúc đọc bài, thầy đi tuần xung quanh tửng dãy bàn để đọc, mỗi câu ba lần…..Đứa nào, đưá nấy cặm cụi lo viết, trong bụng hồi hợp sợ ăn roi mây thấy ông bà ông vải…Chỉ cần viết sai một lỗi ngữ pháp là nghe cái..”chóc” phía sau, kèm theo câu phê của thầy,
-Trời ơi, verbe (động từ) số nhiều mà mầy dám thêm S hả? Phải viết sao cho đúng ?
Cả lớp đồng loạt trả lời phải thêm ENT
-Có khi đang im lặng cắm cúi lo viết bỗng nghe roi mây quất cái vụt, rồi tiếng thầy gay gắt:
-Trời ơi, giống cái số nhiều, adjectif (tĩnh từ) mầy viết vậy à?
-Nhiều đứa lẹ miệng ….phải thêm ES
Nhớ câu đầu trong bài Le Buffle(con trâu) -trong Le Livre Unique của tác Giả Lafferranderie:
L’amimal le plus répandu en Indochine est le buffle (Con vật rải đều trên khắp Đông Dương là con trâu…
Một cô bạn viết répandu (rải đều ra) bằng cách thêm E, thầy la lên trong cái cảnh tĩnh mịch của ccả lớp…
-Tao không có nói trâu cái, đừng bày đặït thêm E vô adjectif…
Tội nhất cho đứa nào viết bảng…Suốt bài chánh tả, thấy không đá dộng gì tới ngưòi lên bảng.Sau khi xem và thanh lý ở phía dưói dưới xong, thầy lên bảng vừa đọc vừ thanh toán món nợ giang hồ,..Ngồi ở đưới ăn một roi,..rồi thầy đi qua cả lớp xong mới quay lại, cũng bớt đau rồi…có ăn roi tiềp cũng không sao…Còn ông viết bảng coi như truy lảnh không sót một roi nào hết
Hồi đó đi học đâu có đồng phục.May đưọc một quần Tây đâu phải dễ.Phần đông bận quần bà ba..Nhưng rồi kinh nghiệm, bằng mọi cách phải có một quần Ka ki để lên viết bảng..chiu đấm ăn xôi…
Tấm vách lá, chỗ bàn thầy ngồi đưọc vừng rắt khéo.Cây roi mây của thầy đánh xong để năm dài trên bàn, giờ chơi nó tự động hô biến mắùt luôn…Giờ chánh tả sau, thầy lại mua roi mới, rồi lại mất…
Cả lớp đã thoả thuận, đứa nào tiết lộ chuyện mắt roi sẽ bị thanh toán, cho nên mọi việc cứ im lặng là vàng…
Ciuối năm học, người ta mua ván về sữa những tấm vách lá ngăn chia từng lớp. Lúc đó tấm vách sau lưng thầy Quới đã đổ ra một đống roi mây thấy mà rùng mình…
Cuối năm học đó, bọn tôi lai kinh ứng thi.con trai tất cả thi vào ù vào Petrus Ký va Con gáoi thi vào ø Gia Long
Phí con trai có hai đứa đậu.Một là anh Nguyễn Văn Hạnh, và một là anh Hà Ngọc Duyện./Anh Hạnh sau nầy là Bác sĩ Bệnh Viện Binh Dân, Anh duyên làm Biện Lý Toà Saigòn
Trong số những người bạn Tiếp Liên ngày xưa, kẻ còn ngưòi mất.Có ngưòi về Saigòn chen vai gánh vác việc nước, có người trỡ lại làng quê sống bám với ruộng đồng sông rạch…Anh em bất chợ găp nhau mừng rơi nước mắt..Có chị như chị Nguyễn thị Loan sau nầy là đưọc sĩ, asnh Đoàn quang tuyên tốt nghiệp một trưòng đại học Pyháp, đưọc chánh phủ miền Nam thườ trưóc 75 mời vêw2 hợp tá`c, chi Doàn Mỹ dung là một giáo sư, chi Lê thị Liên trở thành Dì Sơ Dòng Mếân Thánh Giá trường Saint Esprit đsưòng Trần Bình Trọng Quận Năm Tp,HCM .Anh Charles theo cha ra Bắc, sau 75 trở về với cấp bậc đại úy Quân Đội nhân dân
Anh Huỳnh Thanh Hà vẫn ở Saigòn làm thương gia giàu có, ..Anh Nguyễn văn lợi đã chêt trong khói lữa… Chị Nguyễn thị Năm, bà chị ruột tôi đã yên nghỉ trong lòng đất, sau 75..Vá hình như cả trường, chỉ có mình tôi đi vào sạn đạo với nghiệp nhà văn, nhà báo…
Suốt đời tôi chỉ biết có nghèo và nghèo, nhưng tôi rất bằng lòng với cái nghèo của mình và bằng cái nghèo của số phận, tôi lại biết đưọc nhiều chuyện biễn đâu cay đắùng…
Nguyễn tấn Bi
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 3:58am
Nguyễn Tấn Bi
BAO GIỜ CÓ DỊP VỀ LONG TRẠCH ?
Tôi qua Rạch Kiến về Long Trạch Ghé Ngã Ba đi Chợ Rạch Đào Quán nhỏ sớm mai trời hững nắng Ly cà phê bụi ấm lòng nhau
Tô phở khói bay tình đất Bắc Rau thơm nồng ấm vị miền Nam Honda dừng lại còn vương bụi Một thoáng đâu đây tiếng nguyệt cầm
Quán sớm,cà phê nghe vọng cỗ Lời trong c***ette thoảng bay xa "Tu là cội phúc", ôi .Minh Cảnh Hò, xự , xê , làm ấm tiếng ca
…"Tín nữ tu sao thành chánh quả, " Khi còn son phấn vướng mi xanh "Vào Chuà giác ngộ - theo lời Phật "Hay chỉ tìm quên chốn thị thành ?"
" Tín nữ chấp tay , qùi trước Phật "Mắt còn ngấn lệ khoé thu ba " Lòng chưa thanh thoát xa mùi tục " Lòng sẽ không yên dưới mái chùa
"Thôi đợi bao giờ chân gối mõi "Mắt mờ, tai lãng chuyện nhân gian "Lưỡi tê tân khổ,không tha thiết " Mỹ vị cao lương giữa cuộc trần
"Chừng ấy, về nương bóng Phật đài "Qua rồi sóng gió lắm chua cay "Lòng trần đã tiệt, không vương lụy " Tiếng mỏ, hồi chuông lấp tháng ngày.."
Ngã ba Long Trạch một lần xa Đá đỏ, đường quê bụi vẫn mờ Nhớ mãi cà phê còn vị đắng Dòng đời tiếp nối những phong ba..
Bây giờ, sáng sáng vẫn cà phê Nhìn đáy ly tìm một cõi xa Vẫn thấy Xoài Đôi qua Rạch Kiến Nhớ hoài Long Trạch,nhớ bài ca
"Vạn nẻo đời qua những mái chùa Mỏ chuông còn thoáng vọng ngân nga Tìm về cội phúc đường chưa đến Chìm nỗi truân chuyên lắm bụi mờ
Bao giờ có dịp về Long Trạch Lại ghé cà phê ở Ngã Ba Nhìn những nẻo đường hun hút cũ Nhấp hương vị đắng lẫn lời ca!
Một thoáng Chợ Đào 20-4-03
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 4:15am
Thưa Anh
Nếu không nhầm thì thầy Nguyễn Tấn Bi (dạy Sử) là tác giả tiểu thuyết CHỒNG HỜ VỢ DẠI (về đời sống kiểu bào Việt tại Mỹ). Hùng không rõ thầy ấy là người Gò Công hay Long An !?
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 4:59am
Thua anh Hung:
Rat vui khi duoc anh tra loi ve ong Nguyen Tan Bi. Ngay truoc toi co nghe biet vi ong Bi neu la Tchygiao , ong la ban cua nguoi ban cua toi , khoang thap nien 60 co di day hoc. Nhung nam do ong Tchygiao day o Long An, khong nho ro huyen nao duong nhu Can Giuoc, ong Tchygiao cp lam tho lay but hieu la Tchygiao(khac voi TchyChia, bac cao nien hon la nha van nha tho, rat noi tieng thoi tien chien. Rieng ong Tchygiao , chi vao khoang thap nien 60 , truoc co hoc o truong La Concorde. Nguoi ban cua ong ta la ban cua toi, nguoi da chet cung la nha giao. Toi nghi Nguyen Tan Bi la Tchygiao., chac ong ta cung ra nuoc ngoai. Rat lau khong nghe, gio duoc doc tho cua Nguyen Tan Bi, toi lien tuong den ong nay...Nhung biet dau ten trung ten.
Mot lan nua cam on anh Hung. Than.
-------------
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 9:21am
Nguyễn Tấn Bi là Giáo Sư, nhà ở Cần Giuộc. Năm nay chắc trên dưới 65. Ông có người em là Nguyễn Tấn Lộc, tác giả bài nhạc rất nổi tiếng trước 1975. Bài nhạc được phát trên Đài phát thanh, đăng trên nguyệt san Chiến Sĩ VNCH. Tôi có thăm họ tại nhà ở Cần Giuộc vào đầu tháng 5 năm 1975. Không biết bây giờ ra sao.
Nguyễn Tấn Bi viết văn, làm thơ rất "mạnh" trước 1975, sau nầy không thấy. Cảm ơn anh HoangNgocHung cho đọc lại một bài thơ của tác giả quen.
------------- kb
|
Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 10:36am
Thâ6n chà2o chiê61n hư84u KB và2 thầy HNH:
Rât cám on anh HNH póst lai bai viet cua Nguyen Tan Bi. Dung nhu loi thuat trong bai viet nay. Thuo ay la tuoi cua toi , nhung lop hoc nay toi da trai qua(chac ca ong LC Muoi Ba nua va cac ban khac cung lua tuoi nay) Nhung hinh anh do quay ve voi toi - mac du ong Bi khong la dong song hay gap go nhau nhieu- nhung hinh anh hoc trong lop va thay day nhu the, hoc tro phai chap nhan de tien than. Hoc toan tieng Phap., nhu Dictee , Redaction , Probleme , Recitation , Hístoire , Geographie.. O thuo nay , hoc qua co lop do , co the kiem chao duoc, du suc trao doi ngon tu voi quan Tay , hay viet van , tho Toi nho viec lam nay , luc toi len Saigon hoc, thoi do con nhieu linh danh thue nguoi Phap , Mảroc , Sênegalais (mat gach- co dau vet theo tren mat nen goi la mat gach) o gan thanh Aux Mares(O Ma) duong Frere Louis- sau la Vo Tanh nay la gi? khoang truong nu TH DUC TRI, nhung nam 50 chua co truong Duc Tri, noi day la bai dat trong phia truoc hoi S.A.M.I.P.I.C, noi day buoi chieu sau bay tru hoc sinh ban cua toi ra quan nhau bang qua bong tennis. Ve sau mieng dat nay dung lam noi tap vo Judo cua Han Bai Duong(BS Tai va BS De) da dao tao so vo su , cung la si quan HLV vo thuat tai Truong Bo Binh Thu Duc, vai khoang thoi gian sau nua moi xay cat truong nu TH Duc Tri. Thoi nay toi o tro ke ben khu dat nay de di hoc, dia chi 168 Nguyen Tan Nghiem (Phat Diem, Tran Dinh Xu..van la mot. Xin tro lai chuyen Tay dong o thanh O Ma, thoi do cung co vu nu (cavaliere..) thuong hay cap bo voi may ong Tay.. nay.Cac chi em ta von it biet viet tho bang tieng Tay , nen dip nay nhung chang hoc tro nhu toi thuo do cung co dip kiem tien an sang hay ca phe(thoi nay hoc tro it uong ca phe) , nho vao nhung luc chi em ca va nay can viet tho bang tieng Phap -khi chang ve nuoc Phap-, thi nhung hoc tro nay co dip giup do.. Cung vui, au la ky niem tuoi hoc tro.
Thay Bi viet doan van tren ma thay Hung Póst lam toi hoi tuong lai thuo nay..
The thi dung la ong Nguyen Tan Bi , Tchygiao- sao khong biet luc sau nay mat di but danh Tchygiao, biet dau co ngay do nguoi nao len xe hoa hay bong gi do nen toi cung ngac nhien sao khong thay TchyGiao, dat truoc ten ong Nguyen Tan Bi ? Neu ong Nguyen Tan Bi doc doan nay , cung xin thu loi cho.
Và thua ban KB , Ong Tan Bi gio nay cung khoang 7 bo hay mot hai nam it nhieu, vi nam 1949 ong Bi hoc Cours des Certifies , gio day phai o tuoi nay. Thoi bo qua , vi tai khong doi tuoi va tuoi doi khi phai cho tai. Vui.
Khong biet ong TchyGiao gio nay o dau, van con sang tac tho , van nhu ngay nao..Uoc mong ong TchyGiao doc muc nay , hoi tuong lai nhung thang nam cu, co nguoi biet ong Nguyen Tan Bi, TchyGiao.
Men.
Ps : Pc cua toi kho danh dau, xin thu lôi.
-------------
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 12:01pm
Nguyễn Tấn Bi 7 bó là ít. Tôi gõ tuổi anh trên dưới 65 là bị lộn. Như bài tự thuật lớp tiếp liên năm học 1949 thì đã biết. Đúng ra nói trên dưới 75 thì mới phải. Cảm ơn HEICHPE đã nhắc lại. Tôi hi vọng có thể tìm biết tin tức anh, nếu cần. Và chuyện nầy phải động đậy tới Giáo Sư Côn. Nhờ anh Giáo Vương văn Xài thì có thể tìm ra.
Nhờ anh HoangNgocHung tìm giùm Nguyễn Lệ Uyên ở Tuy Hòa, nghe nói anh Lệ Uyên mới viết văn trở lại. Nguyễn Lệ Uyên tên thật là Đoàn Việt Hùng, trước 1975 có cộng tác với báo Văn, Văn Học. Cảm ơn anh HoangNgocHung trước.
------------- kb
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 9:43am
VỀ TUY HÒA
.
Truyện ngắn của NGUYỄN LỆ UYÊN
“Ngày12 tháng 5… Anh, Về tới nhà đã xâm xẩm tối. Tắm rửa xong, ngồi nói chuyện với cả nhà một lát thấy người mỏi mệt hung, bỏ vào phòng nằm. Tưởng có thể nhắm mắt ngủ ngay, nhưng dư âm của những ổ gà, bụi đường và chiếc xe đò cọc cạch rung lật bật trên đoạn đường dài đã chống hai mí mắt lên, không tài nào ngủ được.
Thao thức và nghĩ ngợi đủ thứ chuyện, nghĩ lung tung như cách để gần anh, thấy như có anh còn ở bên cạnh, đến nỗi đứa em em ra ngả Năm mua tô cháo gà giờ đã nguội ngắt.
Ngoài phòng khách có tiếng cười lích nhích của mấy đứa em, rồi là tiếng lào thào: “Cái bà này mới lạ, làm như ngoài này không có bánh mì kẹp thịt hay sao mà phải vác từ trỏng về?”. Chúng nó đâu có biết những điều chúng vừa khám phá là do anh bày ra. Anh lo em đói giữa đường, lo xe hỏng đâu đó trên quãng đường vắng. Sự chỉn chu hình như đôi khi cũng hơi phiền phức, anh nhỉ? Duy chỉ có chai dầu Gió Xanh là hết vèo ở đoạn Rừng Lá. Còn hai chai nước thì khi xe đổ đèo Cả mới thanh toán một cách gọn ghẽ bằng cách thò đầu ra ngoài cửa rửa mặt cho tỉnh táo, cho sạch chút son phấn làm duyên. Không rõ nếu như có anh ngồi bên cạnh thì em có can đảm xoá đi cái duyên dáng tạm ấy không? Mà duyên gì được nữa kia chớ? Mấy trăm cây số va qua đập lại thiếu điều gãy cả xương sườn xương sống, mọi thứ trong bao tử cứ tưng tưng đòi nhảy ra ngoài đến phờ phạc thì đến Hằng Nga cũng biến thành Chung Vô Diệm anh ơi!
Đấy, đường ra xứ em nó nhiêu khê là vậy, thử hỏi anh có can đảm trèo tam tứ núi, lội thập lục sông như khi ngồi trong La Pagode anh thề thốt không? Các cụ thường bảo đám đàn ông con trai khi ngồi bên cạnh phụ nữ luôn đầu môi chót lưỡi. Em mong anh không lấy cái thuộc tính đàn ông bị đả kích kia mà đối xử với em. Dòm bộ dạng anh cũng cảm ra được là anh thuộc mẫu người thiệt thà, chắc bụng, chứ không như đám… Ui, em xin lỗi; chỉ là lỡ tay viết ra chớ không có ý định ví von này nọ. Em có thói quen khi viết sai thì cứ để nguyên vậy chớ ít khi dập xoá, đấy cũng là tính xấu không sửa chữa được, dễ gây hiểu lầm.
Bữa ra bến xe lấy vé, anh mua những hai chiếc. Em hỏi mua chi đến hai vé? Anh nói anh cùng đi để hộ tống em khỏi bị bắt cóc và thứ đến là “cho biết xứ em có đẹp bằng em không?”. Mô Phật! Mệnh đề thứ nhất có vẻ như anh bị ám ảnh bởi những hoang tưởng của phim ảnh mấy ông đạo diễn dựng lên. Còn mệnh đề thứ hai thì thiếu cả hai điều kiện ắt và đủ. Ví như em để anh cùng đi thì sao nhỉ? Em sẽ ăn nói sao với ba mẹ và mấy đứa em em? Một thành viên lạ hoắc tự dưng xuất hiện bên cạnh con gái, chị mình? Họ sẽ nghĩ chắc em hư hỏng lắm khi khăn gói vào Sài Gòn ăn học? Thiệt kinh khủng nếu chuyện ấy xảy ra. May mà em kịp giải thích để ngăn anh lại. Và may là anh cũng chịu khó ngồi nghe lời giải thích vòng vèo không lấy gì làm vui vẻ với anh. Mà nếu như anh thiệt bụng, ngay thẳng thì sớm muộn gì anh không biết, chớ chi mà gấp gáp? Anh không nghe câu thành ngữ “dục tốc bất đạt” muôn thuở kia sao?
Mùa này, mỗi ngày đang bắt đầu nóng dần lên, nóng từ từ như một bếp lò mới nhen lửa lúc đầu cho tới khi than đỏ hực lên. Suốt dọc miền Trung chỗ nào cũng như vậy cả: nóng gắt và Nam cồ Nam mái. Mấy nơi khác em chưa tới nên chưa biết, còn Tuy Hoà tới mùa này gió Nam thiệt dữ dội, thấy cả gió cuộn lên trước mắt. Gió đùa giỡn với những chiếc lá rụng cuốn tròn chấp chới những cánh chim tập bay khắp các ngách phố lớn nhỏ, những mẫu giấy rác… ngoắt ngoải vờ vật tung lên, hạ xuống. Gió hốt cát xán rào rào vào những cánh cửa sắt khép hờ, bay lượn trên mâm cơm. Gió thổi thốc cuộn xoắn dọc hai triền cát sông Đà Rằng tung bụi mù mịt cả một đoạn sông dài. Mọi vật đều được thoa một lớp bụi phấn gây nhột nhạt như lấy bông cỏ may quẹt gang bàn chân, ngoáy vào lỗ mũi vậy. Mẹ em kể hồi nẳm gió Nam cồ còn bốc cả mái ngói vảy ném xuống sân nói chi đến mái rạ mái tranh ! Còn ba em thì nói cũng nhờ ngọn gió đó thổi ba bay tuốt vào cầu Bóng để gặp má. Cái thứ gió lạ lùng vừa lãng mạn, thơ mộng vừa gây khó chịu cho lắm người. Mà anh đâu hình dung Nam cồ Nam mái là gì phải không? Nam mái là hiu hiu như kiểu người con gái hờn dỗi. Còn Nam cồ thì ác liệt hơn gấp trăm lần, như thể trận lôi đình của người cha có đứa con hư hỏng vậy. Nói vậy chớ nó chỉ thổi tung chừng vài tiếng thôi, lúc nửa đêm một chặp rồi nửa buổi sáng về trưa một chặp. Còn lại đều lặng lờ yên ả như chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Mà tự dưng sao lại đem cái gió tào lao kia nói với anh nhỉ? Đâu có gì nhè nhẹ như ngọn heo may đất Bắc hay ngọn gió chướng quê anh? Cái loại gió ác liệt này đôi khi làm tụi con gái bọn em đến là mắc cỡ mỗi khi tới lớp và tan trường: gió thổi lật tà áo dài phơi ra chút thịt trên thắt lưng, rồi thì cuộn thốc muốn lật tung chiếc quần mặc bên trong. Tay líu quíu chưa kịp khép vạt áo thì hàng trăm cặp mắt bọn con trai dán vào như muốn lột trần ra. Một cảm giác gai rợn cứ len nhẹ từ đầu xuống chân rồi lộn ngược trở lên cho tới khi giữ được vạt áo căng phồng một cách tạm bợ. Cái ngọn gió hung hăng, nóng nảy kiểu Trương Phi ấy cũng góp phần làm tàn phai nhan sắc nhiều phụ nữ: phấn son nhoè với bụi đường, quần áo như dày thêm vài ly mét một cách nhếch nhác, còn đầu tóc thì rối nùi như đụn rơm khô, như những vạt rơm gà bơi, vì vậy tụi em mỗi khi ra đường đều có cái lược để gỡ tóc. Đang đi cũng đưa lược lên chải, đứng cũng chải, ngồi cũng chải. Thiệt phiền phức. Vậy mà nhiều người mới tới Tuy Hoà, mới chạm tới ngọn gió lạ một chút thì có cảm giác như vừa khám phá ra điều mới lạ, thấy nó đẹp. Đẹp bỡi cách nó thổi dọc ngang phóng túng như một gã hành giả trên đường đi tìm sự chứng ngộ cho riêng mình, như một tên lang bạt kỳ hồ trên con đường thiên lý, giày vẹt gót, áo sờn vai; như có một ông nhà thơ kêu lên “Ơi cái gió Tuy Hoà… Cái gió chuyên cần và phóng túng”. Còn em, mỗi năm chỉ giáp mặt với nó một lần thôi mà đã thấy hãi. Em sợ kinh khủng. Mọi người cũng sợ nhưng không thể tránh mặt mà phải chung đụng với nó suốt cả tháng trời. May mà nó không kéo dài lâu để con gái Tuy Hoà vẫn tròn nụ cười, má hồng, mắt lúng liếng…
Không tài nào nhắm mắt được, nên ngồi viết lung tung. Viết để kéo cơn buồn ngủ xích lại gần và kéo anh xích gần hơn với khoảng cách cơ học dằng dặc.
Đầu óc phờ phạc và tay mỏi rồi. Em đi nằm đây.
Ngày 14 tháng 5… Anh,
Tạm nghỉ một ngày để dưỡng tâm. Chính xác là để phục hồi cơ thể vốn dĩ không lấy gì làm mạnh mẽ như cánh đàn ông các anh, để chịu đựng mọi thứ gian khổ trên đời, dù đó là thứ gian khổ cấp tính.
Hôm qua và sáng nay anh làm những gì, đi những đâu hay là ngồi gõ trước máy chữ? Riêng em, sau một ngày được nghỉ ngơi thấy người khoẻ hẳn ra. Lũ bạn học cũ hay tin em về, lập tức tới rủ đi ăn cháo hàu kêu là “tẩm bổ cho con bé ốm yếu” rồi đi đi rảo phố. Anh biết không, mới vắng chừng một năm nhưng khi trở về thì thành phố đã khác trước nhiều, cứ như trái bầu trái bí lớn thêm mỗi sáng. Phố xá sầm uất, nhà cửa đủ mọi kiểu dáng : cao ngất, kênh kiệu của phương Tây; ẩn núp trong vườn cây lá um tùm, trầm mặc phương Đông… Đi qua chừng vài đường phố, em kêu nhỏ bạn “ê, cứ chạy vòng vòng kiểu này thì biết bao giờ mới hết, thôi thì chịu khó leo đốc lên núi Nhạn có thể nhìn khắp lượt mà không phải hít bụi đường”. Nó đồng ý và quay xe chạy lên đầu phố. Chiếc xe máy cà tàng chở hai đứa, không đầy tạ nhưng ì ạch, phì phèo như con ngựa già. Có lú em phải nhảy xuống xe phụ đẩy một đoạn ngắn, muốn hụt hơi. Lên tới đỉnh mồ hôi dầm dề, ngồi bên phía bóng mát nền tháp há miệng mà thở, bẻ cành lá phe phẩy làm quạt. Biết vầy, hồi nãy cứ chạy lòng vòng coi bộ khoẻ hơn nhiều.
Nói thế chớ lên đứng trên độ cao 70 mét dòm xuống thành phố bên dưới thấy y như bức tranh đẹp, giống như hồi anh dẫn em vào Gallery ở dường Tự Do xem tranh Phố Phái hay Phái Phố gì đó. Thành phố của em đẹp đến mê hồn, rực rỡ trong nắng sáng trong vắt. Bên này là chân núi dựng đứng, bên kia thì xoãi ra gần đụng đường quốc lộ như cái với tay níu giữ người thân nán lại vài phút trước khi rời căn nhà, góc phố để đi xa. Con sông Chùa ngắn và nước ửng xanh màu ngọc bích, vắt ngang qua nửa ngực thành phố in hệt nét chì tô xanh quầng mắt, như tấm khăn của người thiếu nữ vắt qua vai thả rơi lưng lửng xuống ngực; xa hơn chút, về hướng Bắc, ngọn Chóp Chài vút lên như núm vú căng tròn tuổi dậy thì. Mùa này nó là chiếc vú phơi trần nhưng mùa mưa thì cứ như có chiếc khăn trắng thả trễ tràng phí dưới. Đằng Đông, biển trải dài mênh mông mượt màu cỏ non, còn phía Tây thì những gốc rạ màu đất kéo thành vạt rộng, làm nền cho những rặng cây xanh thấp thoáng xa xa. Phố xá thì màu đỏ mái lợp ngạo nghễ nhô cao hơn những mái nhà màu xám rêu. May mà đường phố có những táng cây xanh, níu giữ màu đỏ choàng vai màu xám mốc kia chứ tuyền một màu đơn điệu thì coi bộ chướng mắt. Em chẳng biết tí gì về màu sắc hội hoạ như anh, nhưng xem ra những nhận xét này không sai mấy. Còn nữa, trước mắt em là cây cầu dài thườn thượt nối hai bờ con sông Đà Rằng. Giữa hai con sông là cồn phù sa tạo thành làng hoa Ngọc Lãng bốn mùa rực rỡ sắc màu. Cái tên Ngọc Lãng đẹp và coi bộ lãng mạn thiệt anh hẻ? Còn cây cầu bắt qua sông Đà Rằng đó dài tới hăm mốt nhịp lận, mà có ai đó đã ứng tác ra “cầu dài hăm mốt nhịp, anh theo không kịp, đợi anh với em ơi!?”. Xạo, làm gì mà “anh” không theo kịp “em”? Thiệt là nhức đầu vì ở đâu cây cầu cũng sinh chuyện, nào đếm cầu mấy nhịp lòng dạ sầu thương bấy nhiêu, nào là qua cầu gió giựt bay mất áo. Cây cầu đâu có sinh sự như vậy? Chỉ tại con người thôi. Nhưng chuyện gió giựt tung áo thì em đã viết cho anh ở đoạn trước. Giờ đứng trên đỉnh núi, gió chỉ hiu hiu, phía dưới là giòng sông lặng lờ, coi bộ hiền lành kiểu như Sơn Tinh và Thuỷ Tinh trong thời gian hưu chiến vậy.
Nhưng mà, nói gì thì nói, dân Tuy Hoà em rất tự hào có cây cầu dài nhất miền Trung. Cầu đường bộ và đường sắt cặp song song nhau mà hôm trước em chỉ cho anh trên tờ lịch treo tường. Và anh buộc miệng “may, chỉ là hai cây cầu chớ chàng và nàng thì thiệt là tội nghiệp!”. Em cãi “trên thực tế đầy ra đấy chớ không có sao?”. Anh cười cười mà không nói gì. Anh biết không, chếch lên một đoạn ngắn lại một cây cầu dài mới bắc qua sông Đà Rằng đâu hồi năm ngoái, đứng lẻ loi dòm xuống hai cây cầu phía dưới như than thở cho số phận cô đơn của mình. Mấy năm trước cầu Đà Rằng dưới này là nơi hóng mát của người dân trong thành phố, hẹn hò của các cặp tình nhân khi mặt trời chìm khuất sau dãy núi phía tây. Mùa hè, gió từ sông đưa lên mát rượi. Những đêm giữa tháng bọn em hay tới đứng trên vai cầu nhìn mặt trăng nhô lên từ phía biển Đông như thể đó là viên hồng ngọc của nàng tiên cá nâng lên khỏi làn nước xanh thẳm. Ban đầu, trăng to bằng chiếc bàn tròn hai đứa mình hay ngồi uống cà phê những sáng chủ nhật ở đường Nguyễn Du, soi một quầng sáng loá vàng hực màu trái cam chín. Quầng sáng ấy kéo dài từ từ loang rộng những vạt vàng sóng nhấp nhô còn mặt trăng thì nhỏ lại, tròn như cái cão đựng kim chỉ của bà nội em, rồi nhỏ dần như trái banh như thể những mảnh vàng sáng chia sớt cho mặt nước? Những hình ảnh ấy cứ dội vào tâm trí em như những cuộn sóng đập vào bờ đá khiến cái ý nghĩ ngô nghê này cứ ám ảnh em hoài, tới tận bây giờ vẫn không đẩy ra khỏi đầu em được, không hiểu vì sao?
Anh biết không, nhiều người hay nhái từ “nẫu” địa phương em. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Cái lớn là một số khá đông bạn đồng lứa cũng thẳng thừng quay lưng lại với “nẫu”, xấu hổ mỗi khi có ai đụng chạm đến “nẫu”. Em chưa có dịp dùng từ này với anh, nhưng em luôn yêu nó vô cùng. Mỗi khi nhớ quê, em hay xuống Tân Bình ngồi nói chuyện với mấy người già gốc Phú Yên. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ xứ vào đây, nhưng họ không bỏ giọng nói, bỏ những thói quen trong mọi sinh hoạt thường ngày. Tất cả như đã thấm đẫm vào trí óc họ từ những gốc rạ vùng lúa Tuy Hoà, từ những con thuyền đánh cá ở Lò Ba, Mỹ Á, Sông Cầu. Cứ như thể em đang hít thở không khí ở miền quê yên tĩnh, nơi em sinh ra và lớn lên. Có bữa ra chợ cầu ông Lãnh mua cá, gặp bà cụ đang trả giá. Khi nghe bà cụ kêu lên “me chay, mắc dữ be…e” làm em giật thót tim. Từ “be” thoạt nghe như tiếng than nhưng không phải là lời than thở mắc rẻ, mà còn hàm chứa sự ngạc nhiên, dò hỏi, một chút giễu cợt trong sự phân vân thường thấy ở các bà nội trợ phải lo toan hàng trăm thứ cho gia đình, chồng con… Gặp người đồng hương, em mừng quýnh. Một già một trẻ hỏi han, nhắc nhở đủ thứ chuyện bên ly nước mía đầu đường. Khi chia tay bà ấy còn dặn “bữa nào huỡn cháu ghé lại nhà bác chơi”. Chiếc xích lô chở bà cụ đi xa, nhưng quanh quẩn bên em vẫn cứ ong ong những từ “me chay, dẫy na…” như thể đang hít mùi thơm khói đốt đồng căng đầy lồng ngực với sự khám phá thiệt mới lạ hương khói xa xôi ấy …
Cứ để ý đi, khi nào anh ra bến xe bến tàu đón người thân, hễ thấy ai kè kè bên nách gói giấy tròn căng phồng, khổ bằng chiếc sàn thì chắc chắn đó là dân Phú yên trăm phần trăm. Họ mang quà cho người thân đấy! Có nhiều thứ khác quý hơn, nhưng đi đâu họ cũng mang chồng bánh tráng, dường như đó là niềm tự hào của mọi người bất luận giàu nghèo, khi được sở hữu cánh đồng lúa mênh mông và phì nhiêu của Tuy Hoà, đã nuôi dưỡng họ, nuôi dưỡng vùng cả một vùng rộng lớn chung quanh. Đó là biểu tượng của hột gạo trên một xứ sở từng trải nhiều khổ đau, vất vả mà dân quê em đã từng nếm trải, khổ đau và hạnh phúc trong chiến tranh và hoà bình. Mà năm rồi em không mang vào cho anh chồng bánh tráng là gì? Khi nướng phồng lên thì là tình là nghĩa, khi nhúng nước cuốn là dẻo thơm niềm hạnh phúc tròn đầy đó anh ơi. Mẹ em nói vậy.
Ngày 15 tháng 5… Anh thân yêu,
Thư hôm qua em quên một chi tiết về dòng sông chảy ngang qua thành phố. Cùng một dòng chảy nhưng có tới hai tên gọi khác nhau. Đoạn từ đập Đồng Cam ngược lên thượng nguồn, đâu tận Phú Bổn, Cheo Reo gọi sông Ba, còn xuôi về phía hạ lưu thì là Đà Rằng. Dầu sông Ba hay Đà Rằng gì đi nữa thì con sông này chỉ có một dòng chảy và như cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân trong truyền thuyết “đồng bào” của dân tộc. Mùa mưa, nước ơi là nước! Nước mênh mông như biển cả. Nước cuồn cuộn đổ ra biển, đỏ quạch phù sa. Nước gầm réo dưới chân cầu thiệt là hung hãn, cuốn trôi tất cả những gì chúng đi qua, tưởng chừng như chiếc cầu dài ngằn ngặt này cũng bị đẩy phăng ra biển trong phút chốc. Cũng may, sự hung hãn này chỉ diễn ra có vài bữa thôi và xem ra cũng có ích: nó mang lớp phù sa dày đặc bồi thêm lớp màu mỡ cho cánh đồng “thẳng cánh cò bay”.
Nhớ hồi năm 93, lúc đó em còn là đứa trẻ con. Mấy bữa trước mưa dầm đề như cầm chĩnh trút nước vậy. Đến đêm nước ở đâu bò vào khắp nới, vào các đường phố, bò lên thềm, nhảy tọt vào nhà, dâng lên cao đuổi bọn em chạy lên gác. Đứng ở cầu thang nhìn xuống thấy nước tới đầu gối rồi bò lên tới thắt lưng, rướn lên tới gần ngực ba. Điện bị cắt, đèn đóm tối thui. Có tiếng người la ơi ới, tiếng gõ xoong nồi gọi nhau như chạy giặc. Đồ đạc chuyển từ tầng dưới lên cái được cái không, ướt ngoi ngót. Sáng ra đứng trên balcon ngó ra đường, thôi thì nước là nước, chỉ có ghe sõng xuôi ngược khắp các ngã phố, còn xe lớn xe nhỏ mọi ngày như chìm mất đâu đó trong làn nước đục ngầu. Tụi trẻ con được dịp tắm lụt: chúng ở trần lội nước, chặt những đoạn chuối ngắn xiên cây làm bè chống ngang dọc khắp các nơi như thể chúng đang vào mùa hội đua bè, khiến em nghĩ thành phố bữa trước giờ là giòng sông mênh mông nước, nhà cửa phố phường mọc lên từ mặt hồ rộng. Đứa em trai em cũng nhập bọn, la hét cười đùa thoả thích, coi mọi hư hại do trận lụt băng qua chỉ là chuyện bình thường. Tới chiều xẩm nước mới rút từ từ, để lại những vạt bùn dẻo quánh trên vách, trên nền nhà, lòng đường ... Hôm sau một cái chợ mọc lên ở ngả Năm, ồn ào náo nhiệt như thể trận lụt vừa rồi chỉ là bữa tắm gội cho thành phố. Bọn em đi coi họp chợ rồi rủ nhau lên đầu phố đứng nhóng qua chiếc cầu dài coi chiếc cầu còn hay trôi mất ra biển. Nỗi lo sợ vu vơ không thành sự thật. Nó vẫn bình thản nối hai bờ nam bắc dù cho giòng nước cuồn cuộn kia chỉ cách mặt cầu đâu hơn hai gang tay! Vậy mà đến mùa khô, dòng nước lừ đừ như con trăn no mồi, lười biếng nép mình giữa hai bãi soi vàng rực bông mướp, bông bí, cỏ lông lan tận ra mép nước xa. Hồi mới bước chân vào trung học, tụi con trai lớp em thường hay rủ nhau ra soi hái trộm dưa. Chúng giả đò đi tắm. Bọn chúng tắm thiệt. Cả bọn vẫy vùng trong làn nước trong vắt, cạn tới ngang bụng nhưng kỳ thực là để quan sát những trái dưa hấu chôn lấp đâu đó dưới lớp cát sâu. Chỉ cần những cái liếc mắt như kiểu con chim bói cá là một đứa bò lên, kéo sợi dây, moi cát và bứt gọn trái dưa to bự chảng, trong khi tụi kia vẫn cứ té nước, la hét ỏm tỏi. Tụi con gái bọn em chỉ dám thọc chân xuống mép sóng lăn tăn giỡn với làn nước mát lạnh. Những trái dưa ăn trộm ngon hơn là đi ăn đám giỗ, ruột đỏ mọng, ngọt lừ. Uở mà sao tự dưng lại đi nhắc chuyện “xấu hổ” này với anh hẻ?
Để em kể chuyện này chắc chắn là anh chưa biết, chưa từng nếm bao giờ: Hồi sáng này mẹ con em đi chợ. Mẹ kêu lâu cả nhà chưa ăn sứa. Vậy là mẹ thực hiện ngay. Anh ở đồng bằng thì làm gì biết con sứa? Nó là sinh vật sống ở biển. Toàn thân mềm và trong suốt. Mẹ mua toàn sứa chân mang về chần nước sôi, trộn với rau thơm, chuối chát xanh, đậu phộng rang, da heo xắc nhỏ, thêm chanh ớt xúc vào chén ăn với bánh tráng nướng bóp nát. Nó ngon không thể chê vào đâu được. Thịt sứa mát lạnh, dòn dưới chân răng, thơm mùi rau húng đứng húng duỗi và đậu phộng. An tới no mà không thấy ớn, vì không có mỡ như cá tra cá ba sa trong quê anh. Khi nào anh là thành viên chính thức trong gia đình, hẳn mẹ em sẽ đãi anh món này trước tiên. Anh ăn một lần sẽ nhớ đời. Mà biết đâu sau khi ăn anh sẽ bỏ xứ mà ra làm con dân trên mảnh đất hai mùa đầy những mưa cùng nắng này?
Nói đến chuyện ăn uống thì Tuy Hoà của em có nhiều món lạ lắm. Tỉ như món cá thài bai nấu cháo đậu cút thì cả nước này và cả trên thế giới không đâu có cá thài bai. Nó nhỏ bằng cọng tăm. Người ta bán không phải cân ký, đếm con mà lật ngược cái chén lên, đong bằng khu chén để tính tiền. Giá trị là ở chỗ đó. Chỉ cần ba khu chén cá thài bai nấu cháo đậu cút là ngọt lừ, thơm, mát, bổ… Mẹ em nói cháo cá thài bai nấu đậu cút tàu dành cho người ốm mới dậy ăn sẽ mau phục hồi sức khoẻ. Loại cá này hiếm nên rất quý. Mỗi năm chỉ xuất hiện một lần khoảng nửa tháng trước và sau tết âm lịch. Đám cá mẹ xuống tận cửa biển đẻ trứng. Nở ra, tự kiếm ăn được thì chúng bơi ngược dòng sông lên thượng nguồn, nên người ta dùng những tấm đăng nhỏ, tạo dòng chảy sát mép bờ cát để lũ thài bài nương theo đó mà vượt lên, phía trên có chiếc đó dày chặn lại bắt kỳ hết. Con nhỏ Nghi giỏi môn sinh vật kêu thài bai là thài bai chớ không phải là cá bống con như tụi em nghĩ. Cãi với nó mấy bận không thắng đành thôi, miễn sao loại cá này đừng mất để thỉnh thoảng còn được ăn: kho tiêu, làm chả ram những năm được mùa cá.
Toàn nói chuyện ăn chắc làm anh mệt? Giờ chuyển sang đề tài khác: nói về thành phố của em, anh nhẻ?
Thành phố bây giờ đã khác nhiều. Chẳng trách hồi em mới lững chững tập đi, mẹ kể thành phố chỉ toàn gai bàn chải, xương rồng và cồn cát. Trường Nguyễn Huệ hồi ba mẹ em học nằm lọt thỏm giữa rừng gai bàn chải lởm chởm. Nay anh có ra đi tìm gai bàn chải trong thành phố làm thuốc cũng không còn. Những cây gai lởm chởm nhọn hoắc kia giờ đã là những ngôi nhà cao tầng, biệt thự, xưởng máy và vô số những thứ khác mang dáng dấp hiện đại hơn, gần gũi với thời đại tên lửa, internet hơn. Nó cũng hối hả, nhộn nhịp như một góc nhỏ Sài Gòn chẳng kém.
Em thì mong cho thành phố to hơn, giàu hơn, mọi người dân có đời sống sung túc hơn, nhưng đồng thời em muốn những hình ảnh, nếp cũ của Tuy Hoà xưa vẫn luôn được tồn tại trong góc khuất nào đó của đời sống tinh thần, như ba em hay kể chuyện hồi nhỏ ông và đám bạn hay rủ nhau lên núi Nhạn giành chuối giành chè với lũ khỉ núi và đánh nhau với chúng ngay trước am thờ thần gần cửa tháp, kể về những cuộc hẹn hò với mẹ em trên bãi soi sáng rực bông mướp vàng đầy ắp giọng hò khoan của những nông dân cắt cỏ bò bên mép nước sông Đà Rằng. Hồi đó chắc khổ hơn bây giờ, nhưng lãng mạn. Con người lãng mạn để thành phố cũng trở nên lãng mạn, thơ mộng hơn. Còn thế hệ của bọn mình, sự lãng mạn ấy đã được cách tân hoá bằng cách chui đầu vào các quán cà phê tối om, các sàn nhảy nêm cứng người cùng tiếng nhạc phát ra ầm ầm như động đất!
Sẽ có người cho rằng em có những ý nghĩ cổ hũ, ích kỷ. Mượt kệ. Em yêu cái cổ hũ, ích kỷ ấy lắm lắm.
Ước chi bữa đó em đừng trả lại một chiếc vé để anh thấy tận mắt thành phố quê mùa này, em khỏi cà kê…”
Bức thư chấm dứt đột ngột, dài hơn 10 trang, viết trên giấy prelure gập đôi, bằng màu mực xanh bút bi kẹp trong cuốn sách Phong Lưu Cũ Mới của cụ Vương Hồng Sển tôi mua lại trong tiệm sách cũ ở Bình Thạnh. Chỉ chừng ấy, không có chữ ký, không có tên người gửi, người nhận; chỉ xưng hô anh em, kể về thành phố Tuy Hoà bằng niềm thương nhớ, tự hào. Không rõ khi nhận thư, anh chàng đã lơ đễnh bỏ quên trong quyển sách cũ, hay cô nàng chưa kịp gửi tới tay người yêu? Tôi không quan tâm chuyện tại sao bức thư kia được kẹp trong cuốn sách, tại sao cuốn sách có bức thư đó lại ra nằm ngoài tiệm bán sách cũ. Và vợ tôi thì cứ khăng khăng đó là trang nhật ký của cô bé đang tuổi mộng mơ. Còn tôi thì nhất định đó là lá thư chứ nếu là nhật ký thì chẳng ai ngồi viết trên những tờ giấy mỏng dính? Trong thư không thấy bày tỏ lời yêu thương, nhưng quặn thắt nỗi nhớ nhung cũ mới chồng lên nhau.
Tôi vẫn giữ lá thư một cách cẩn thận và cầu mong cho hai người luôn bên nhau và tràn đầy hạnh phúc như những lời bày tỏ chân tình trong lá thư kia. Tôi cũng mong được hoàn trả lại nếu như các chủ nhân của nó là “em” và “anh” nhận biết được tung tích bức thư được cất trong chiếc hộp, khoá chặt trong tủ kính.
(tháng 3.2005)
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 9:47am
|
. |
(Chân dung Nguyễn Lệ Uyên qua nét vẽ của Lưu Nhữ Thụy.) Nguyễn Lệ Uyên Quê quán: Tuy Hoà, Phú Yên. Tốt nghiệp ÐHSP Cần Thơ. Khóa 6/70 Thủ Ðức. Trước 1975, viết trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn: Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Thời Tập, Nhà Văn, Chính Văn, Ý Thức, Tuổi Ngọc..
Sách đã in:
| |
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 9:59am

Trước 75, Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên viết trên Văn,Ý thức,Bách Khoa,Khởi Hành,Thời Tập,chính Văn... dưới bút danh Nguyễn Lệ Uyên .
.
Nay Anh lấy tên thật Đoàn Việt Hùng vừa cho ra mắt tập truyện Mưa trên sông Đăkbla do nxb HNV ấn hành.
...
Sau khi mãn tang chồng tôi ngỏ lời cầu hôn lần thứ hai với chị. Thay vì từ chối hay ư hừ, hay một cái tát như trời giáng mười sáu năm về trước, thì lần này chị quay mặt đi, hai vai run lên như thể một thân cây bị lay lắt, vật vã đến nao lòng. Tôi bước ra khỏi cổng, bỏ mặc thân cây run rẩy, cong oặt chỉ mang theo cái nhìn sững sờ của chị. Cái nhìn đẹp và sáng như lưỡi dao nhọn. Chị biết là tôi yêu chị đến cuồng dại và chị cũng yêu tôi. Nhưng để lấy tôi thì chị không thể. “Em nhỏ tuổi hơn chị”. “Em không cần”. “Mai mốt chị sẽ già trước em, em sẽ chán chị”. “Không đời nào”. Chị sẽ sàng với bộ mặt u buồn khiến chị càng đẹp rực rỡ trong mắt tôi, cuốn tôi chìm xuống tận đáy sông. Và tôi lang thang. Lang thang cùng trời cuối đất những tưởng quên được chị. Nhưng cái tát trên má tôi rõ ràng là nụ hôn cháy bỏng chị dành riêng cho tôi. Tôi cất giữ như một bảo vật. Thỉnh thoảng tôi lại giở ra trong những giấc mơ khắc khoải, cảm thấy nồng nàn, bỏng rát và ấm áp đến lạ kỳ.
Tôi bị bắt lính, chị theo tôi. Tôi ra chiến trường, chị sát bên cạnh. Vào trại lao cải, chị thấp thoáng ngoài vòng rào… Chị luôn theo tôi trong từng giấc mơ. Mãn tù lao cải, tôi bổ nhào đến nhà chị giữa lúc hạnh phúc chị bị gãy đôi. Đợi hết tuần chay tôi mang bó huệ trắng cắm lên bàn thờ anh Lê, lâm râm cầu khấn, rằng tôi sẽ thay anh bảo vệ mẹ con chị Bông đến tận cuối đời. Tấm ảnh dính chặt sau khung kính nhìn thẳng vào mặt tôi với nụ cười độ lượng. Một cảm giác ấm áp len vào tận cùng thân thể. Chị nhỏ nhẹ: “Cảm ơn em. Giờ em tính chuyện làm ăn gia đình là vừa”. Tôi ngó chị: “Nếu không lấy được chị, em sẽ không lấy ai cả”. Chị thong thả đứng lên, thong thả rút thẻ nhang thắp lên bàn thờ anh Lê, rồi quì xuống gõ lốc cốc vào chiếc mõ bằng trái gạo già, nâu thẫm. Ước chi là điều lành. Tiếng mõ lốc cốc kéo dài xô tôi ra tận bãi vàng. Gió rít quanh đồi ướt mưa. Cái lạnh quấn như tấm mền dày bao lấy cơ thể mệt nhoài cả ngày dưới hầm sâu. Tôi hùng hục cùng với hàng trăm con người trên bãi đá, giơ cuốc bổ xuống lớp đất cứng hơn sắt. Cứ mỗi nhát cuốc, chừng như nhìn thấy từ đáy sâu kia cơ man là vàng lấp lánh. Dưới đáy sâu là hình bóng chị lung linh. Tôi rướn người lên, bổ xuống. Xách từng xô đổ lên. Tôi phải kiếm thật nhiều để chị không già, để chị long lanh như hạt sương mai, bổ nghiêng về phía tôi. Những buổi chiều xuống thấp, mây quấn thành cột quanh ngọn đồi và trong căn lều bạt, tôi thấy bóng chị như bay như lượn trên tầng mây trắng lốp. Đêm hâm hấp nóng, từ xốp mây trắng nõn chị vẹt ra đến bên tôi, ấp bàn tay lên má tôi như một nụ hôn nồng nàn của người trinh nữ khiến tôi bật khóc trong đêm lạnh buốt xương. Tôi biết chị yêu tôi nhưng lại không thể lấy tôi. Nếu không yêu, sao những năm bên lò gạch, chị đã lặn lội lên tận núi với giỏ quà toàn thuốc chống sốt rét, kêu lên “em ốm quá”? Cái khoảng cách lừng chừng ấy khiến tôi đào căn hầm rộng hơn, sâu hơn để cuối cùng tới mùa mưa nước trắng rừng đành phải quay về với tám phân vàng. Tám phân vàng trong bốn tháng nơi cùng cốc thâm sơn tôi mang về đặt lên bàn thờ anh Lê . Con chị hỏi: “ Cái hộp gì vậy chú?”. “Quà cúng ba cháu”. “Chú không chờ mẹ cháu về?”. “Mẹ cháu không chờ chú đâu, ngoan nhé”. Vầng mây trắng bay nghiêng đâu đó. Tôi ngơ ngác ngó quanh khu vườn rộng, bước bộ trên con đường gập gềnh như cuộc đời gập gềnh của tôi. Những bước chân giống cơn giận lẩy trẻ con và mặt đường thì chẳng khác nào chiếc rổ rách. Gió lào xào như tiếng thở dài.
Thân cây cong oằn ấy, giờ bật đứng như chưa hề có trận bão ập qua. Chị vén mớ tóc ra sau. Những ngón thon búp trắng muốt giữa suối tóc đen nhánh. Bước qua tuổi năm mươi, chị vẫn còn giữ những đường cong gợn thời con gái. Tôi trân trối nhìn ngọn tóc và những ngón tay, nhìn vào bộ ngực côi cút của chị và ánh mắt rười rượi.. Bất ngờ chị Bông đề nghị: -Chị em mình lên chùa đi. -Để chi? – Tôi hỏi. -Cúng Phật. -Cúng Phật? – Tôi hỏi lại. Con đường trước nhà chị không còn gập gềnh, không như cái rổ rách trước kia. Hàng cây sao, bằng lăng tím che kín bóng. Tôi đèo chị trên chiếc xe máy khụt khịt như người bị sổ mũi, chạy chậm. Tôi nghe mùi da thịt chị miết vào khứu giác. Mạch máu chạy dồn dập như bầy ngựa đua. Qua ngả tư, thay vì quẹo trái tôi cho xe chạy thẳng ra hường biển. Chị bấu vai tôi: -Em quên đường rồi sao? -Không. -Sao lại ra biển? -Ra biển để em nghe mùi nước mắt. Chị bấu chặt hơn và tôi tưởng tượng cái bấu tay bắt đầu một nụ hôn, những nụ hôn dài. -Đừng có lãng mạn, em có biết… -Biết, em biết rất rõ. Đó là những giọt nước mắt tích tụ hàng ngàn triệu năm. Tôi nghe tiếng thở sượt ấm sau gáy. Chị buông tay ra và bất ngờ tôi quành xe lại. Chính tôi cũng bất ngờ về hành động này. Có lẽ, tôi nghĩ cái mùi nước mắt ấy cũng không thể mặn thêm hay nhạt hơn tí chút. Phỏng có ích gì khi lòng đã cay xè? Chùa Hảo Sơn giữa khu đồng trống. Cổng tam quan vòi vọi phía trên. Chị Bông thong thả bước lên từng bậc cấp, thong thả đến mong manh. Gió nam cồ siết quanh chị, lất phất trên chỏm cây bồ đề bành gốc, tua tủa rễ như một ông già ngàn năm tuổi ngó lửng cuộc đời trước mặt, mặc cho râu mọc tua tủa, đâm sâu xuống lòng đất. Lên đến bậc cuối cùng, chị ngoái lại, ngoắc tôi bước lên. Chị vòi vọi cao, vòi vọi lộng lẫy. Gió nam cồ hất bay món tóc chị ra sau như thể sắp đu dính vào cội bồ đề. -Em vào đi. -Không chị vào lễ Phật một mình. -Sao vậy? Tiếng nói như rớt từ thinh không, xao vào đầu óc tôi. -Phật chỉ có nụ cười từ bi và những lời răn dạy. Em không thể bước qua cửa thiền khi lòng không thanh thản. Chị vào lễ Phật và tiếp tục… - tôi bỏ lửng câu nói. Chị Bông quay đi, bước hẳn vào bên trong. Gió lất phất mang theo hơi nóng trên rặng Trường Sơn dồn về. Cái nóng làm tê cuống lòng người, làm khô dòn tấm áo phong phanh tôi mặc trên người. Chị khuất sâu vào bên trong. Tôi lần từng bước lên cổng tam quan, ngồi lên bậc đá cuối cùng. Phía dưới là cánh đồng xanh dờn, xa hơn là phố xá bẹt dính sát mặt đất. Những con người nhỏ bé xuôi ngược. Bầy người nhỏ bé ấy đang hối hả tìm cuộc sống cho riêng mình. Còn tôi? Tôi như chiếc rổ bung vành đang nhấn xuống nước đồng sâu vớt chút rong rêu. Vậy mà không thể tìm thấy cọng rong nhỏ nào. Những chiếc nan gãy mục vểnh lên hay chúc nghiêng, trống hoang hoác là ba mươi năm cố gắng vá lấp để thấy trống trơn, để thấy vô cùng chẳng với chụp được. Gió lặng yên được một lúc rồi bỗng chúc xuống, hất tung những cọng rác khô trên bậc đá. Không gian đã sững lại bổng ồn ào. Gió ràn rạt miết lên tường thành nối cổng tam quan, cuốn cong những cành bồ đề rồi ngưng bặt, như chưa hề có gió thổi ngang qua. Bóng nắng đổ nghiêng qua tàng lá rậm, che phủ bậc thềm đá chỗ tôi ngồi, nên khi chị Bông bước ra, đứng về phía chiều nắng nghiêng tôi không thấy bóng chị phủ lấp lên người tôi, nhưng tôi nghe hơi thở chị thật gần. Chị vén áo ngồi xuống bên cạnh. -Chị lễ Phật và xin xăm. -Xin xăm – Tôi hỏi lại, lòng hoang mang tột cùng. Chị bổng bật khóc. Hai vai rung lên. Tôi sửng sốt, nhích ra nhìn chị. Chị không còn là người đàn bà mạnh mẽ mỗi khi từ chối lời cầu hôn của tôi. Chị trở nên người phụ nữ nhỏ bé, yếu đuối. Tôi giữ đôi vai mỏng manh như hồi nhỏ tôi giữ, tay kia rút cây gai nhọn dưới gan bàn chân chị, nhưng cái đau của hai lần cách xa có vẻ như không giống nhau. Lần này, nỗi đau sâu kín, gặm mòn tâm trí chị hơn mà tôi không hiểu vì nguyên do gì. Một lúc sau, tôi dè dặt lên tiếng: -Chị làm sao vậy? Cả người chị rung lên dữ dội hơn. Cả hai im lặng cho đến khi nắng vắt chéo qua đầu. -Chị không phản bội anh Lê, nhưng chị phản bội em. -Em không hiểu chị định nói gì? -Đúng chị là người không ra gì. Chị đã phản bội em. Chị là con người đốn mạt, nhưng chị không thể làm khác được – nói và chị lại ngã lên vai tôi nức nở. Nắng quét những quả trứng mỏng tang rụng lả tả trước mặt hai người. Đợi chị bình tĩnh lại, tôi gỡ tay chị và ấp lại trong đôi tay mình. Lúc này tôi trở thành con người lớn hơn chị, bắt đầu dỗ dành chị giống hệt hồi nhỏ chị dỗ dành tôi bị lũ trẻ con hàng xóm ức hiếp. -Em nghe chị nói. Chị cứ nói hết ra. -Ngàn lần chị xin lỗi em. -Sao phải xin lỗi? Nếu cần xoa dịu sự tổn thương do em gây ra thì em xin lỗi chị mới phải. -Không. Em bình tĩnh nghe chị nói. -Em nghe đây. Chị sững người giây lát, rồi sụt sịt: -Ông Thâu cầu hôn chị. Ông goá vợ cách đây tám năm. -Và chị… -Nhận lời. Tôi cười lớn, cười đến tim bóp thắt, nước mắt ràn rụa và gió lăn lông lốc trên những ruộng mạ xanh dưới kia. Gió rượt đuổi như giỡn như ca hát, bảng lảng một điệp khúc yêu thương đến héo hắt tận đáy lòng. -Vậy mà em tưởng chuyện gì ghê gớm lắm! -E…eemm… -Chị ngỡ em phản đối, ngỡ em sẽ buồn? Không trái lại. Chị Bổng oà khóc khi nghe tôi nói hết câu và xô tôi ra. -Thà em đay nghiến chị, nguyền rủa chị… có lẽ còn dễ chịu hơn cái gật đầu vô cảm kia. Em biết là chị không thể kéo xuống mười lăm tuổi để bằng em, không thể nhìn những cặp mắt xói miết chung quanh. Vâng, chị yêu em. Yêu em còn hơn ngàn lần em yêu chị. Nhưng để là vợ chồng thì không thể. Sau lần chị ôm em vào lòng dỗ dành vì đám trẻ con trong xóm ví em, chị đã linh cảm điều này sẽ có ngày xảy ra. Nhưng chị bất lực. Chị chỉ là người đàn bà bình thường như bao nhiêu người khác. -Em đưa mẹ con chị vào Lộc Ninh, Bù Đốp… vượt biên qua Lào, qua Thái… Chúng ta sẽ sống hạnh phúc. -Không. Em điên rồi. -Chị nhận lời lấy ông Thâu thì không điên chắc. Em biết chị nhận lời lấy ông ta chỉ vì chỗ dựa, cái học vị tiến sĩ ấy sẽ… mà chị thì không hề yêu. -Em còn nhớ hồi lên trại thăm, em nói “đời người như khúc sông, chỗ đến thì không chịu dừng mà rẽ ngoặc sang hướng khác”. Hồi đó em nói vậy là ý gì? Còn giờ này sao em lại không chấp nhận khúc sông rẽ ngoặc? -Sông của chị giờ là con sông gãy, sông lấp bỡi những tảng đá muôn thuở đè lên một cách khủng khiếp. Chị không dám né những tảng đá đó, lúc nào cũng nhìn thấy chúng lù lù trước mặt. -Nhưng có nhất thiết khi yêu nhau thì phải sống chung với nhau không? -Hoang tưởng. -Đúng. Hoang tưởng, chỉ vì chị cũng yêu em đến điên cuồng. Chị Bông nói và đứng lên, bước thật chậm xuống từng bậc đá. Chị đi như không hề chạm chân lên mặt thềm. Chị đang bay về nơi khác, nơi có vầng trăng bị xé rách giữa trận nam cồ, tơi tả, méo mó đến dị hợm. Chị thả trôi về khúc sông xa, chị đầm mình trong vùng mắt bão, gió cuốn tung chị tơi tả trong tôi. Tôi ngồi yên nhìn chị. Ngồi mà ngắm nhìn dáng mỏng khói sương từ từ tan biến vào khoảng trống đến vô cùng tận. Hạnh phúc cuối cùng của chị là niềm hoang tưởng hay sự hoang tưởng là niềm hạnh phúc? Tôi nào có nhận ra khi chị bất ngờ quay lên. Vẫn từng bước thong thả, từng gót chân thong thả và nhẹ nhàng đặt lên phiến đá mòn lĩn như chiếc lá rơi xuống, nằm đấy từ muôn đời kiếp. Chị Bông đứng cách một với tay, không bước tiếp, ngước nhìn với cặp mắt lạ lùng tôi chưa hề chạm phải: hừng hực như ngọn lửa cháy rừng rồi chuyển sang giá lạnh như tảng băng trôi. Hình như không phải chị nhìn tôi mà dành riêng cho kẻ vô hình nào đó vảng vất đâu đây, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không thành lời. Chỉ cách một vói tay nhưng có vẻ như chúng tôi đang ở hai thế giới khác nhau, ở hai đầu cánh cung bị đứt dây. Môi chị lại mấp máy như mời như gọi, xoè chớm như nụ hoa hàm tiếu. Tôi hiểu tất cả, lao xuống. Chị ôm tôi, nước mắt ướt vai trong tiếng thì thào ngây dại “chị yêu em, tha lỗi cho chị”. Chị hôn tôi bằng nước mắt mặn chát, vị mặn của niềm hạnh phúc đắng cay nhưng sao tôi thấy không như dư vị của nụ hôn bằng cái tát ngày nào? Bóng nắng rớt nghiêng. Chúng tôi như hai pho tượng cổ trước cổng tam quan . Chỉ có cội bồ đề và những chòm rễ đâm xuống đất là gần chỗ tôi và chị Bông đứng, như sắp té nghiêng dưới bóng nắng. (tháng 9.2008)
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 10:01am
Mưa trên sông Đăkbla
.
Mưa trên sông Đăkbla chỉ có 9 truyện ngắn nhưng quyển sách vẫn có gáy, vì các truyện ngắn dài hơn khuôn khổ vẫn thấy ở các tác phẩm cùng thể loại in trên mặt báo. Mưa trên sông Đăkbla thấp thoáng huyền thoại chuyện tình Âu Cơ – Lạc Long Quân. Một chàng trai miền xuôi đã kết nghĩa trăm năm với một nàng miền ngược, rồi “gái phải theo chồng”, rồi nàng nhớ đại ngàn khôn nguôi
Tác giả Đoàn Việt Hùng phân tích tâm lý nhân vật nữ rất kỹ để rút ra điều mà chúng ta thường ít khi tự hỏi “tại sao làm người phải có quê hương và luôn hoài nhớ?”. Với nhân vật nữ, nỗi nhớ được cụ thể hóa thành mái nhà, con suối cánh rừng... và chỉ bấy nhiêu thôi cũng làm ray rứt con người.
Truyện ngắn của Đoàn Việt Hùng phần nhiều là nhớ, lật trang sách đầu tiên gặp ngay truyện Nhớ với lời đề từ: “Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (thơ Sơn Nam). Nhân vật trong Nhớ là một ông già miền Trung phải theo con vào Nam sinh sống, mỗi ngày ông già còn sống là còn nhớ, nhớ đủ thứ chuyện từ thuở dại dột đến chuyện dâu bể. Ông già phải kết bạn với trẻ em đồng hương bán vé số mưu sinh để được nghe giọng quê dãi dầu. Đến lúc tàn hơi thở, ông già được “tẩm liệm” bằng không gian nhớ. Người già hoài cổ đã đành, người chưa già cũng hoài niệm về một thời nông nổi với bạn bè (Khói và mảnh trăng khuyết) hay nhớ gì như nhớ người yêu (Về Tuy Hòa).
Trong tập truyện này có in truyện ngắn Nơi không chỉ có khói núi mà Đoàn Việt Hùng đã đoạt giải nhất cuộc thi năm ngoái do NXB Giáo dục tổ chức. Tác giả Đoàn Việt Hùng từng là nhà giáo, ông nắm bắt nghiệp vụ sư phạm khá vững cũng như tâm tình nghề nghiệp. Thế nhưng trong truyện Bầy chim trước hiên nhà thì lại khác, những con chim được nuôi trong lồng quen với giam cầm đến nỗi khi mở cửa không dám bay đi. Vì thức ăn không phải săn tìm hay vì con người dạy dỗ khéo léo?
THANH KIỀU
http://www.nld.com.vn/190526P0C1020/mua-tren-song-dakbla.htm - http://www.nld.com.vn/190526P0C1020/mua-tren-song-dakbla.htm
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: loiquan
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 10:32am
“Mưa trên sông Đăkbla” của cây văn xuôi Đoàn Việt Hùng
.
Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa cho ra mắt bạn đọc cả nước tập truyện ngắn “Mưa trên sông Đăkbla” của cây văn xuôi Đoàn Việt Hùng - hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
Sách dày gần 140 trang, khổ 13x19cm, do họa sĩ Lê Ký Thương vẽ bìa và trình bày.
Mưa trên sông Đăkbla tập hợp 9 truyện ngắn mà anh đã sáng tác trong vài năm gần đây, gồm: “Nhớ”, “Nơi không chỉ có khói núi”, Người đàn bà chết trôi”, “Ngày chưa yên”, “Khói và mảnh trăng khuyết”, “Bầy chim trước hiên nhà”, “Về Tuy Hòa”, “Buổi sáng cuối năm” và truyện ngắn lấy làm tên đầu sách, trong đó tác phẩm “Nơi không chỉ có khói núi” vừa đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Bộ Giáo dục - Đào tạo phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức.
Sau tập truyện “Sông chảy về núi” cùng 2 tập biên khảo “Trò chơi dân gian”, “Truyền thuyết và huyền thoại Phú Yên”, “Mưa trên sông Đăkbla” là tác phẩm riêng thứ 4 của Đoàn Việt Hùng.
QUỐC THÁI
------------- Cù lao Lợi Quan thương nhớ
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 02/Mar/2009 lúc 10:48am
NGUYỄN LỆ UYÊN ĐOÀN VIỆT HÙNG,
Cảm ơn anh Hoàng Ngọc Hùng đã tìm ra được bóng dáng Đoàn Việt Hùng, mong đây là lời nhắn tin, nếu có cơ duyên, ĐVH sẽ nhận được.
Gần 40 năm xa. Hùng, Hoa, mong liên lạc được nhau. Thân.
------------- kb
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 03/Mar/2009 lúc 12:26am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ trankimbau
NGUYỄN LỆ UYÊN ĐOÀN VIỆT HÙNG,
....mong liên lạc được nhau. Thân. |
Có tin tại địa chỉ mailto:bautran0622@aol.com - bautran0622@aol.com
------------- hoangngochung@ymail.com
|
|