Nhà văn Văn Quang
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7346
Ngày in: 03/Sep/2025 lúc 5:50pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Nhà văn Văn Quang
Người gởi: mykieu
Chủ đề: Nhà văn Văn Quang
Ngày gởi: 02/Oct/2011 lúc 6:42am
Gió O phỏng vấn nhà văn Văn Quang
 nhà văn Văn Quang qua nét vẽ của hoạ sĩ Đinh Cường
****
Nhà văn Văn Quang sinh năm 1933 tại Thái Bình.
Tốt nghiệp Khóa 4 Sĩ Quan trừ
bị Thủ Đức, sau đó phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến. Đã một
thời làm Quản Đốc Đài phát thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Cấp
bậc Trung Tá.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngàn
Năm Mây Bay, Những Tâm Hồn Nổi Loạn, Nét Môi Cuồng Vọng, Đời
Chưa Trang Điểm, Tiếng Gọi Của Đêm Tối, Tiếng Hát Học Trò, Vì
Sao Cô Độc, Người Yêu Của Lính... Các phẩm Nguyệṭ Áo Đỏ
(1963). Chân Trời Tím (1964) được Liên Ảnh quay thành phim, tạo nên
tên tuổi nhà văn ở Miền Nam thời bấy giờ.
Sau tháng 4 năm 1975, ông trải
qua nhiều năm tù ở K 5 Vĩnh Phú và K 2 thuộc Z 30 tại Hàm Tân.
Ra khỏi tù Văn Quang không tị nạn sang Hoa Kỳ theo diện HO như hầu
hết các tù nhân chính trị khác. Năm 2002, ông rời bỏ Sài Gòn và dọn
lên Lộc Ninh sinh sống. Ở đấy hàng tuần, Văn Quang cho ra loạt ký sự
"Lẩm Cẩm Saigòn Thiên Hạ Sự", và chỉ gửi ra cho các báo Việt Nam ở hải
ngoại. Loạt bài này rất được độc giả hải ngoại ưu ái đón nhận.
Lê
Thị Huệ: Ông có thể mô tả cho độc giả gio-o nghe về nơi chốn ông đang
làm việc. Có máy computer, có internet, có cây xanh đất đỏ mùi quê, cảm
xúc cô độc và không cô độc ?
Văn Quang:
Trước khi quyết định chọn một nơi nào đó làm chỗ sinh sống, chắc chắn
người nào cũng phải cân nhắc xem nơi đó có những điều kiện gì, có thích
hợp với cuộc sống và công việc của mình không. Tôi cũng phải làm như
thế. Khi tôi đến Lộc Ninh, được dẫn vào một khu nhà vườn cách thị trấn 3
cây số, ở đây đã có điện, nước, có đường truyền internet rồi. Đó là 3
điều kiện đáp ứng được nhu cầu của tôi. Thứ đến là điều kiện an ninh như
thế nào. Sau cùng là khung cảnh yên tĩnh, bởi nơi này một nửa là thôn
ấp, một nửa là vùng đồi núi. Song, tất cả lại phải tùy thuộc vào giá cả.
Vậy nên nó trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Tôi đã đi xem đất ở
một số thị trấn như Long Khánh, Chơn Thành… cuối cùng kết luận là không
nơi nào có giá đất vườn rẻ hơn Lộc Ninh.
Ở ngay thị trấn LN, giá
đất khá cao, tôi lui vào xã Lộc Thái, một nơi “nhà không số, phố không
tên”. Tuy nhiên đã có sẵn con đường làng, trải nhựa, dẫn vào tận nhà, có
đèn đường, có điện, xài nước giếng khoan. Đường truyền internet hồi đó
là dial up chạy tành tạch, chậm, nhưng vẫn có thể làm việc được. Cách
đây một năm mới có đường dây ADSL khá nhanh, nhưng có lẽ chỉ mắc đến xã
của tôi ở là xa nhất so với khu trung tâm thị trấn.
Căn nhà vườn
này của người chủ cũ, trồng tiêu lâu ngày, nay con cái lớn nên muốn về
Sài Gòn cho con đi học. Vả lại trồng tiêu cũng không còn có lời như xưa
nữa nên họ bán lại toàn bộ diện tích nhà vườn với 5.400m2. Trong đó có
sẵn một số cây ăn trái, một cái nhà gỗ, dụng cụ làm vườn, bơm nước… Nếu
mua có thể ở và khai thác ngay. Giá cả lại rất rẻ. Tất cả 165 triệu đồng
VN (10 ngàn USD).
Đến nay, giá đất ở thôn xã này cũng không đắt
hơn bao nhiêu. Nhưng theo tôi biết, giá đất vườn ở đây rẻ hơn tất cả
những nơi khác. Nếu Gio-O muốn mua, hoặc bất cứ độc giả nào muốn mua,
tôi xin tìm giùm, cam đoan không biết làm “cò”, không mất hoa hồng, tôi
chỉ muốn thông báo tin này và muốn có thêm hàng xóm cũng như mình. Tuy
nhiên cũng cần nói thêm là nơi này chỉ thích hợp cho những vị muốn
“dưỡng già”, muốn tìm một chỗ yên tĩnh, an ninh, thảnh thơi. Hầu như
không thể làm ăn buôn bán gì được. Nhưng nhà vườn thì không bao giờ chết
đói và cũng chẳng bao giờ giàu được. Cuộc sống thanh đạm, yên bình.
Lộc
Ninh là một thị trấn bị bao vây bởi những lô cao sư từ xa xưa, hiện nay
chưa phát triển được hoặc không thể phát triển được, nên cũng rất ít tệ
nạn xã hội. Không thể nói không có trộm cắp, nhưng rất ít và cũng không
có những vụ thanh toán ly kỳ. Hơn 2 năm nay, tôi chưa hề thấy một vụ
“trấn lột” giữa đường nào như ở các thị trấn phát triển ồ ạt khác. Cứ 7
giờ tối là con đường trước mặt nhà tôi không còn ai qua lại, không một
tiếng xe, không một tiếng người. Khoảng 9 giờ tối là thôn xóm vắng ngắt,
mọi nhà tắt đèn ngủ sớm, cứ như khuya khoắt lắm rồi, chỉ có những ngọn
đèn đường còn thức với những vườn cây, ao cá um tùm ngút ngàn.
Nghe
thì có vẻ như xa lắm, nhưng thật ra Lộc Ninh cách Sài Gòn 123 cây số -
vừa bằng đường ra Vũng Tàu. Nếu đường sửa xong, đi xe hơi chỉ mất khoảng
2 giờ. Hiện nay, Quốc lộ 13 đang sửa nên từ Sài Gòn đi, khoảng 3 tiếng
là đến nơi.
Có 2 lý do chính tôi chọn Lộc Ninh
Thứ nhất:
Ngoài yếu tố tất nhiên là giá đất rất rẻ như tôi đã nói ở trên. Với số
tuổi của tôi, không còn thích hợp với đời sống ở thành phố nữa. Cái
chung cư tôi ở Sài Gòn, như cái tổ chim, suốt ngày ồn ào, ngột ngạt, ô
nhiễm năng nề. Làm việc chừng vài tiếng đã thấy mỏi mệt, rã rời, đầu
nhức, mắt hoa. Thuốc nhức đầu, cảm cúm như cơm bữa đối với tôi. Do đó
tôi quyết định phải chọn một vùng quê yên tĩnh cho cuối đời. Cái khúc
quanh này trong cuộc sống quả là có khó khăn, quyết định thực hiện được
với mỗi người không dễ dàng. Song tôi vẫn phải cố gắng vượt qua nó như
đã từng vượt qua những khó khăn hơn thế. Lần này thì dễ dàng hơn vì nhà
chỉ có 2 người, bàn bạc với nhau là xong. Tôi cũng xin nói thêm là nhờ
bạn bè giúp đỡ khá nhiều, con cháu tôi cũng góp phần cho tôi có đủ điều
kiện thực hiện ước muốn. “Rách” như ông Hoàng Ngọc Liên hồi đó cũng
“khuyến khích” tôi bằng 1000 USD, bố con ông Tạ Quang Khôi, Vũ Đức Vinh,
Hà Túc Đạo, Nhất Giang, Vi Túy, Hồ Ông, Lê Thị Kim, Bạch Quyên, Hồng
Oanh cũng góp phần không nhỏ cho tôi “về nhà mới”. Hầu như tất cả những
tiện nghi trong nhà tôi ở đây đều do bạn bè tặng.
Thứ hai: Tôi
vẫn nghĩ: một nhà văn, nhà báo, phải biết “làm mới mình”. Ở thành phố
mãi, đề tài quen thuộc sẽ cùn dần. Quay đi quay lại “nó vẫn thế”. Về nhà
quê, có lẽ là cách tốt nhất để “làm mới” mình. Nơi này từ năm1972,
người dân Lộc Ninh đã sống trong vùng được gọi là “giải phóng”, nói
thẳng ra là họ sống trong vùng của miền Bắc kiểm soát nhiều hơn, dưới
cái tên “Mặït trận Giải Phóng miền Nam”. Bên cạnh đó là chiến trường đẫm
máu An Lộc, Bình Long năm 75 và những vùng nghèo khó, giáp ranh biên
giới Campuchia… Tôi có thể tìm hiểu được thực chất đời sống cùng tâm tư
của họ. Người dân quê đã mất gì, được gì, từ năm 1975 đến nay? Đích
thực họ nghĩ gì, làm gì, hy vọng gì? Những biến chuyển sâu sắc nhất
trong từng gia đình như thế nào? Từ đó so sánh với cuộc sống ở những
thành phố, từ đó tìm biết được những mảnh đời khác với những gì tôi đã
biết. Từ đó cho tôi một cái nhìn sâu hơn, xa hơn, thật hơn, về toàn bộ
những gì dân tộc mình qua những triều đại mà tôi đã sống.
Còn
nói về sự cô đơn: Phải thú nhận rằng đôi khi cũng cảm thấy thiếu trò
giải trí chứ chưa hẳn là cô đơn. Ở đây không có một thú vui nào, không
có một phòng trà ca nhạc, không có một tiệm karaoke và cũng chẳng có một
quán cà phê có nhiều “bóng hồng chiều chuộng”. Hàng xóm toàn là những
ông già, chất phác, chân thật, năm thì mười họa mới sang nhà nhau một
lần. Đôi khi gặp nhau trong một đám hiếu hỷ, chuyện trò rôm rả, nhưng
toàn là thứ chuyện mình mù tịt. Ngồi im mà học cách họ chăm bón cây ăn
trái, mỗi cây có một cách chăm sóc riêng. Muốn có một cây đu đủ đực thì
phải làm thế nào. Muốn dừa ngọt thì phải làm gì… Đại khái như thế.
Tuy
nhiên, đôi khi lại thấy thích thú vì sự cô đơn ấy. Được “tự do” suy
nghĩ cả buổi mà không ai thèm nói với mình câu nào. Và để làm dịu bớt cô
đơn, nhớ bạn bè hoặc có bạn bè, con cái từ nước ngoài về thăm, tặng quà
cho anh em TPB VNCH thì lại lên xe đò về Sài Gòn một vài ngày, hoặc nếu
muốn, có thể sáng đi chiều về cũng chẳng sao. Ở đây có loại xe đưa đón
tận nhà, giá chỉ có 50 ngàn đồng VN một lượt. Hoặc ngồi buồn, gọi điện
thoại qua internet nói chuyện với các ông bạn ở Mỹ, ở Canada, ở Úc…
nhanh như điện thoại di động, rõ và rẻ hơn di động. 60 ngàn đồng VN, nói
chuyện được 200 phút. Có khi cả tháng tôi chưa dùng hết một card điện
thoại internet. Trong hơn 2 năm qua, bạn bè và con cháu tôi từ nước
ngoài về VN, lên chơi Lộc Ninh cũng khá nhiều. Như thế thì không còn cô
đơn nữa và luôn quyết định được thời gian của mình.
Tôi nghĩ
“quỹ thời gian” của mình cũng chẳng còn nhiều. Một người bạn tôi, anh
Nguyễn Đình Toàn, từ Cali về chơi, nói đùa “nhà này chỉ còn thiếu bốn
chữ “Văn Quang chi mộ” nữa là hoàn hảo. Tôi nghĩ ngày đó có thể xảy ra
bất cứ lúc nào. Vui vẻ chấp nhận nó với cuộc sống hiện tại.
Lê
Thị Huệ: Tại sao ông lại chọn lối viết "Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự" .
Qua cách viết này, ông viết rất sung sức, rất khoẻ, rất bén nhạy. Tại
sao ông không chọn lối sáng tác tiểu thuyết như trước 1975
Văn Quang:
Về câu hỏi thứ hai, tôi chọn lối viết “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự” bởi
mỗi đề tài, tôi chọn một lối viết khác để độc giả dễ dàng chia sẻ những
cảm xúc, những ý tưởng của mình. Trước đây tôi cũng thường viết nhiều
loại. Tiểu thuyết, tiểu thuyết phóng sự, phóng sự, truyện ngắn. Tiểu
thuyết để diễn tả những đề tài về nội tâm, sâu sắc hơn, về tính thời đại
chứ không phải thời sự. Tính thời đại có thể nói về những sự việc,
những tâm trạng, những hình ảnh cách đó 5- 10 năm. Nhưng thời sự thì chỉ
diễn tả những sự kiện xảy ra gần nhất trong tuần hoặc trong tháng.
“Lẩm
cẩm” là một lối viết có tính thời sự. Bởi tính cách “đặc thù” của thời
hiện tại nơi tôi đang sống, nên buộc phải viết theo một cách nào đó để
không bị gây phiền lụy. Tôi “xông” vào những đề tài xã hội “nóng” nhất,
có tính điển hình nhất mà người dân đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là
hướng đến độc giả hải ngoại, đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn,
Việt kiều của chúng ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương
mình. Chắc ai cũng muốn có những thông tin chính xác, không bị vo tròn
bóp méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản” nên
thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện ấy, tìm kiếm
thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác được càng tốt. Nó không
phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào những nhận định, quan điểm của
riêng mình như một lời bàn bạc, nói chuyện với độc giả một cách bình
thường chứ không là lý luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ vấn đề hơn và
có thể suy luận, nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương, vẫn có
thể biết rõ những sự việc xảy ra tại quê nhà.
Tuy nhiên như chị
đã thấy, “lẩm cẩm Sài Gòn” không chỉ là những chuyện lẩm cẩm. Nó có cả
những mặt trái, mặt phải của xã hội, chuyện khôi hài và chuyện đau
thương, những bản tường trình thẳng thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là
chuyện xảy ra có thật. Cái nhìn xoáy về phía sau những sự việc đã và
đang xảy ra chứ không phải chỉ có “bề mặt” sự việc, tôi nghĩ đó mới thực
sự cần thiết cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo
dõi.
Tóm lại, “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự”, nếu tổng kết lại,
nó sẽ là một bức tranh toàn cảnh của xã hội tôi đang sống. Nó phản ảnh
được trung thực mọi vấn đề ở bề mặt đời sống của người dân thuộc đủ mọi
tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân “lừa được cả nước” đến một đại gia
lương thiện và bất luơng, từ lớp thanh niên đến các quan chức, từ cô
gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành thị. Từ nỗi đau thương cơ cực
của “những người bị bỏ quên” như anh em thương phế binh VNCH đến những
cảnh trác táng cùng cực, hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi
trước… Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, những điều phi lý
bất công, những điều cần nói mà người dân không nói được…
Tất
nhiên, trong hoàn cảnh của tôi, có những hạn chế mà ai cũng hiểu được.
Cho nên viết và “lách” vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi làm cái gì mà luật
không cho phép cũng không cấm. Tôi làm với lương tâm của một người cầm
bút. Dù ở đây chẳng ai công nhận, tôi vẫn là người cầm bút. Người làm
báo có thẻ làm báo, nhưng tôi chẳng có gì ngoài những tìm tòi của mình,
tự mình lựa chọn thông tin. Còn những “rủi ro” bao giờ tới và tới lúc
nào, đành chấp nhận như một số phận an bài. Nếu cứ nghĩ tới những thứ đó
thì chẳng làm được việc gì đáng làm. Tôi không tham gia bất kỳ tổ chức
nào, tôi không thích “làm chính trị” như bản tính tôi từ xưa tới nay.
Tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của lương tri.
Mặt
khác, tôi cũng không quên viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự.
Tiểu thuyết tôi dành cho những đề tài thuộc về tâm tư, tình cảm sâu sắc
hơn. Như “chân trời tím” trước những năm 75 và sau khi đi tù cải tạo về,
tôi đã hoàn thành “Ngã tư hoàng hôn” vào năm 1990. Đó là một thời kỳ
“nửa đóng nửa mở” cánh cửa sắt. Hoặc trước kia, phóng sự tiểu thuyết
“những ngày hoa mộng” đăng trên báo Kịch Ảnh, “Sài Gòn tốc” đăng trên
nhật báo Chính Luận những năm 60-70. Gần đây nhất là tiểu thuyết phóng
sự “Lên đời” về “mặt nổi” những khung cảnh nháo nhác giữa Sài Gòn - Hà
Nội của cái cảnh “đổi đời” rất đặc trưng của những nhà “tư sản mới”
trong xã hội Việt Nam. Nó được hình thành như thế nào, bắt đầu từ đâu và
sự cấu kết “thâm cung bí sử” cùng với cánh giang hồ khét tiếng một
thời. Tôi nghĩ đó cũng là hình ảnh sống động nhất của một giai đoạn lịch
sử trong xã hội Việt Nam. Đó là “thiên chức” của người cầm bút, chứ
không phải viết lia viết lịa, viết “văng tê bạt mạng” mà chẳng nói được
điều gì đáng nói.
Có những đề tài trong phạm vi cuộc sống tâm tư,
tình cảm của những thành thị cũng như nông thôn, tôi dành để viết tiểu
thuyết. Như một cô gái tỉnh lẻ trong thời đại này đã và đang sống như
thế nào, ước vọng thầm kín nhất của họ là gì? Tiến tới một “xã hội công
bằng giàu đẹp” như khẩu hiệu hay một cái gì khác? Lớp “đại gia” và lớp
nông dân khác nhau như thế nào? Cái khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn ước chừng bao xa? Nền kinh tế phát triển mang lại lợi ích thiết
thực gì cho mọi con người. Cái gì đang phá sản và cái mới đang hình
thành trong con người như thế nào? Trước hết phải là trong tận cùng ý
thức, nó có tính quyết định cho toàn xã hội. Nếu không mọi sự chỉ là giả
tạo. Vấn đề khá tế nhị và sâu sắc nên tôi viết tiểu thuyết hoặc tiểu
thuyết phóng sự là thích hợp. Thật ra đề tài tôi đang hướng tới là sự
tiếp nối của “lên đời”, nhưng chú trọng vào chiều sâu. Nhiều độc giả cho
tôi biết “lên đời” vẫn còn thiếu một cái gì đó, chưa tròn vai. Nhận xét
đó rất đúng. Đó cũng là dụng ý của tôi. Một cuốn truyện đã lên tới 100
kỳ, hơn 1500 trang A4, đã là quá dài. Đề tài sẽ tiếp tục dưới một dạng
khác. Có thể ví von như “Lên Đời” chỉ là cái áo mới của cô dâu, cái “mặt
nổi” của thời cuộc. Tiểu thuyết tiếp theo sau là những rung động, những
biến chuyển tâm lý của sự thay đổi từ đêm tân hôn và trở thành thiếu
phụ.. Nhưng quá bận rộn với những công việc khác nên chỉ có thể hoàn
thành trong một vài tháng sắp tới.
Tôi hy vọng trả lời như thế
cũng là tạm đầy đủ cho những điều độc giả Gio- O muốn biết về cách viết
của tôi. Mỗi đề tài thích hợp với một lối diễn tả. “Lẩm Cẩm” là một tổng
hợp về những tin tức thời sự “nóng”, những điều trông thấy và những dư
luận cùng quan điểm của người viết. Làm thế nào để người đọc dễ dàng
chia sẻ được với những gì mình muốn nói.
Lê Thị Huệ: Hình như trước 1975, ông chuyên viết "phơi tông" cho các báo Sài Gòn.
Văn Quang:
Đúng là những năm trước 1975, tôi thường xuyên viết feuilleton cho các
nhật báo và tuần báo ở Sài Gòn như tôi đã trả lời ở phần trên.
Lê
Thị Huệ: Những tiểu thuyết của ông ngày trước có những cái tên rất lãng
đãng như "Nguyệt Áo Đỏ", "Chân Trời Tím", "Tiếng Hát Học Trò", tại sao
ông lại thích đặt những cái tựa như thế
Văn Quang: Những
cái tên … lãng đãng như “Chân trời tím”, “Tiếng hát học trò”, “Nguyệt
áo đỏ…” như chị hỏi, bởi hồi đó tôi còn trẻ, và bây giờ nhìn lại cũng
thấy… hơi ngây thơ, mơ mộng nên nó “lãng đãng” như chính cái tên tiểu
thuyết vậy. Mỗi lần đặt tên cho một cuốn tiểu thuyết hoặc bất kỳ một
truyện nào của mình cũng không giản gị đâu. Làm sao cho “nó” thể hiện
đúng đề tài mà không “khô cứng” như một cuốn lý luận, không sa đà, không
gây “sốc”. Tôi chắc nhiều nhà văn cũng gặp tình cảnh này. Có khi nghĩ
nát óc cũng chẳng ra, có khi bỗng dưng nó “bật” ra lúc nào không hay.
Cũng như lúc này, cuốn tiểu thuyết tôi đang viết cứ “dùng dằng nửa ở nửa
về” với những cái tên. Thí dụ “phá sản” thì quá “khô” và cứ như có màu
sắc “chính trị chính em”, cái tên “cô gái tỉnh lẻ” lại có vẻ “lãng đãng”
như chị nói và không phản ảnh được bao quát vấn đề muốn diễn tả. Tôi
muốn lấy hình ảnh về những thăng trầm, biến chuyển của cuộc đời một cô
gái tỉnh lẻ đến những hoạt động về nhiều mặt của nhân vật làm tượng
trưng cho những vấn đề xã hội “nóng nhất” đang diễn ra công khai hoặc âm
thầm. Thật ra những con người đó là đa số trong xã hội bây giờ, là hơi
thở của thời đại. Tên truyện chỉ là phụ, song không kém phần quan trọng.
Tìm được một cái tên truyện thật khó khăn đối với tôi. Thú thật là có
khi phải tạm bằng lòng với cái tên chưa hoàn toàn thích thú.
Lê Thị Huệ: Ông bị đi tù một thời gian dài sau 1975. Ông có thể nói gì về điều này ở đây và bây giờ chăng ?
Văn Quang:
Có rất nhiều điều đáng nói về những ngày tháng trong nhà tù. Và cũng đã
có rất nhiều những cuốn sách viết về chuyện này rồi. Nhiều chi tiết đã
được trình bày cụ thể. Vì thế, lúc này tôi nghĩ ở vào vị trí của tôi,
nên chuyên tâm về những vấn đề xã hội hiện tại mà tôi đang có điều kiện
tìm hiểu tường tận hơn các bạn khác. Tôi chỉ có thể nói là nhà tù vẫn là
nhà tù, không có chuyện cải tạo gì ở đây. Điều này tôi cũng đã viết
trong “ngã tư hoàng hôn”. Một lúc nào đó, nếu còn thì giờ, có thể tôi sẽ
viết lại toàn bộ những sự thật mà tôi đã được chứng kiến.
Lê
Thị Huệ: Ông từng là nhà văn quân đội ở Miền Nam, ông có so sánh nào
cho nền văn chương quân đội của hai miền Nam Bắc trong thời chiến?
Văn Quang:
Nói về văn chương quân đội giữa hai miền Nam Bắc có lẽ hơi quá tổng
quát. Nhưng sự khác biệt căn bản vẫn là mang tính văn học nói chung. Một
bên, dù anh là thành phần nào khi hoạt động văn hóa đều phải đi theo
một đường lối chung, không thể khác được. Do đó người viết dù ở trong
hay ngoài quân đội cũng thế thôi. Họ quan niệm văn hóa là tuyên truyền
giáo dục quần chúng nhân dân (trong đó có cả quân đội) thực hiện một chủ
trương chính sách trong một giai đoạn nào đó. Còn ở miền Nam thì những
nhà văn quân đội không bị lệ thuộc bởi bất cứ điều gì. Tôi làm ở Tổng
cục chiến tranh chính trị rất lâu, nhưng chưa hề thấy một “chỉ thị” nào
cho những quân nhân viết văn. Họ được tự do sáng tác theo cảm hứng của
mình về mọi mặt trong đời sống. Những nhà văn xuất thân từ quân đội hay
hơn nữa là từ những chiến trường như Nguyễn Đạt Thịnh, Phan Nhật Nam,
Huy Phương, Thế Hoài, Phạm Huấn… viết những gì họ đã trải qua. Hoặc như
Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng cứ việc làm
thơ tình, lãng mạn, không cần Tây Tiến hay Nam Tiến. Cho nên so sánh hai
nền văn hóa quân đội giữa hai miền như thế tôi cho là khập khiễng, nên
tôi không thể so sánh được.
Lê
Thị Huệ: Ông đã từng tiểu thuyết hoá dày cộm những người lính thành phố
Sài Gòn trước 1975. Bây giờ nhìn lại ông có thấy là trật búa hay OK ?
Văn Quang:
Tiểu thuyết hóa những người lính không phải là “thần thánh hóa” những
người lính. Chị đọc lại “Chân trời tím” và “Người yêu của lính” sẽ thấy
tôi tiểu thuyết hoá đời thường của họ. Người lính không đi tu, không là
“người con trai khác với những người con trai không đi lính”. Ngoài cuộc
sống chiến đấu, ngoài tình đồng đội, họ có cuộc sống của mình. Cũng yêu
thương, ghen hờn, lãng mạn như những ghệ sĩ chính hiệu. Nói cách khác,
tôi diễn tả rõ hơn, tỉ mỉ hơn về cuộc đời quân ngũ. Không phải tất cả
đều tình nguyện đi lính, có những người “bị động viên” hoặc được đồng
hóa. Nhưng tình đồng đội đã làm họ thay đổi quan niệm, ý chí chiến đấu
đã tô đậm lý tưởng yêu nước của họ. Vì thế họ trở thành một khối vững
chắc cho đến tận ngày nay. Tại sao tôi lại thấy “trật búa” được? Tôi vẫn
cho là tôi đã làm đúng, làm được những gì tôi cần làm. Một điều cần
nhấn mạnh, đó là xuất phát từ những rung động chân thành của tôi sau
những ngày tháng làm phóng viên thời kỳ chiến tranh ác liệt đầu tiên,
qua một số chiến trường thời đó, không vì một chỉ thị nào, một lý do
chính trị nào.
Lê
Thị Huệ: Nếu cuộc đời biến thành những chương tiểu thuyết. Hãy thử nói
về cuộc đời như là những chương tiểu thuyết. Cái chết nào cũng là một
cái chết. Cái chết của Miền Nam là một cái chết tức tưởi nhưng nó có cái
đẹp tuyệt vời của một cái chết tức tưởi. Ông nghĩ đấy là một bất hạnh
hay là một may mắn
Văn Quang:
Cái chết của miền Nam, như chị nói, tôi đã có nhiều thời gian gậm nhấm
nó trong tù và ngoài đời, sau khi ở nhà tù ra. Tôi thường nghĩ, chẳng ai
muốn tự tử cả. Cái chết bất đắc dĩ được báo trước đó không do miền Nam
tạo ra. Người bạn “đồng minh thân thiết” của chúng tôi bỏ bạn, trong khi
đối phương có tới 6 nước vẫn trung thành tiếp súng đạn thì “sáu thằng
đánh một chẳng chột cũng què”. Và những “panic” từ Huế đến Pleiku, Đà
Nẵng, Nha Trang, Bình thuận vào đến TP. Sài Gòn đều do người bạn đồng
minh của chúng tôi tạo ra. Gây hoảng loạn khắp nơi để tẩu thoát như một
ván cờ thua. Điều đó rõ như ban ngày. Tôi so sánh với cuộc rút lui của
quân đội Pháp sau khi ký hiệp định Geneve, dù sao thì mọi tổ chức cũng
chu đáo hơn, có tình có lý hơn, nhân đạo hơn. Nếu người Mỹ vẫn tuyên
truyền rằng “cộng sản chiếm được miền Nam thì Sài Gòn sẽ là một biển
máu”. Vậy mà họ đã để lại chúng tôi bơi trong cái biển máu ấy, sau khi
bí mật bắt tay đối phương. Có thể coi họ là đồng minh được không?
Vậy thì cái chết của miền Nam chỉ có thể coi là bất hạnh. Một kinh nghiệm cho những ai còn nuôi mộng lãnh đạo đất nước này.
Lê
Thị Huệ: So sánh đời sống của ông bây giờ với đời sống trước năm 1975,
ông phát biểu như thế nào. Tôi hỏi ông câu này với một thái độ rất trân
trọng, vì ông là một tác giả hiếm hoi, ông sống sót và sống qua những
giai đoạn khốc liệt ấy, mà vẫn viết với cái tên Văn Quang. Một Văn Quang
lừng lững không thoả hiệp. Hình như ông là 1 tác giả độc nhất vô nhị
viết và viết được trong cái thế sống vô cùng chênh vênh ấy
Văn Quang:
Thật ra ngay từ đầu, khi trả lời lá thư của Gio-O tôi đã thành thật
thưa rằng “không thích nói về mình”. Nếu cần nói thì có rất nhiều điều
phải nói, phải trả lời. Một người cầm bút nên để độc giả phán xét về
mình hơn là những gì mình tự nói hoặc bị kẻ thù xuyên tạc.
Xin
cảm ơn về những nhận xét của Gio-O dành cho riêng tôi. Vâng, tôi sống
như vậy đấy. Chẳng có gì phải che giấu, chẳng có gì phải khiếp sợ nữa.
Còn gì nữa đâu mà khiếp sợ và tôi không làm điếu gì xấu, không “phá
hoại”… thì cứ lừng lững mà làm. “Danh chính ngôn thuận” và “đường ta ta
cứ đi”. Cái gì có thật thì tôi viết. Không bới móc lung tung, không phao
tin đồn nhảm. Quyền phê phán là của người dân. Quyền bất bình cũng là
của người dân về những điều có thật đã và đang xảy ra.
Cũng có
một số người viết như tôi đang có mặt ở miền Nam như Nguyễn Thụy Long,
Đoàn Dự, Hàm Anh… và một số người không ký tên rõ rệt như người Tân
Định, Người Sài Gòn… Và còn cả những người viết không thường xuyên,
thỉnh thoảng mới có một vài bài. Những anh em đó cũng là những cây bút
hoàn toàn độc lập. Mỗi người có một cách viết, cách lựa chọn đền tài và
mức độ khác nhau. Chúng tôi có gặp nhau như những người bạn bình thường,
nhưng không thảo luận về những gì mình sẽ viết. Do đó đôi khi có những
đề tài trùng hợp, song mỗi người nhìn theo quan điểm của riêng mình.
Được độc giả đón nhận như thế nào lại là chuyện khác. Có cố gắng tìm
cách “ngoi lên” cũng chẳng được. Cách tốt hơn hết là cứ thành thật với
chính mình, cứ thảnh thơi mà làm được việc mình muốn làm. Như tôi đã nói
ở trên, sẵn sàng chấp nhận điều “rủi ro” sẽ đến vào bất kỳ lúc nào.
Chấp nhận cả đòn hiểm của kẻ thù, của những kẻ đố kỵ, ghen ghét sảng. Cứ
lo nghĩ đến nó thì thà xếp quách computer lại hoặc chỉ để ngồi chơi
games, chơi “meo” cho xong. Xin tiền con hay đi đánh vi tính, làm
lay-out thuê cũng đủ sống.
Có thể nói tôi đã tập được thói quen,
không còn ngồi đó tiếc nuối dĩ vãng. Thời gian không bao giờ trở lại
được. Tôi bằng lòng và thích ứng với những gì tôi đang có. Trước kia
sống sung sướng hay bây giờ, tôi cũng chẳng biết nữa. Một điều đáng nói
là không thể quên những người bạn cũ, dù còn sống ở bên kia hay đã mất.
Đôi lúc ngơ ngẩn chỉ vì những thứ đó thôi.
Lê Thị Huệ: Một cách công bằng, ông có nhận xét gì về nền sáng tác Miền Nam 1955-1975.
Văn Quang:
Về những sáng tác từ ở miền Nam từ 55-đến 75, tôi cho đó là thời kỳ
sung sức nhất của những sáng tác của văn học Việt Nam từ trước tới nay.
Kể cả về số chất lượng cũng như chất lượng, những vị đàn anh lớn tuổi
cũng như những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ… mới xuất hiện. Một số
tác phẩm văn học khổng lồ đã được trình diện, một số báo chí về mọi mặt
từ trình độ cao đến bình dân đua nhau tự do cạnh tranh. Một số ca khúc
trở thành “bất tử” dù cho nó đã bị khai tử nhiều lần. Cho đến bây giờ ở
Việt Nam, rất nhiều tác phẩm từ thời đó vẫn còn nguyên giá trị, nó
xuyên suốt qua mọi thời đại. Độc giả, khán thính giả từ thành thị tới
thôn quê vẫn thưởng thức những món ăn tinh thần đó, chẳng cần ai khuyến
khích, khuyến mãi.
Cách công bằng nhất để nhận định thì nhãy nhìn vào thị trường, nhìn vào sự trân trọng của người dân.
Mặt
khác, việc xuất bản những tác phẩm văn học nghệ thuật hồi đó hình thành
một trật tự hơn bây giờ. Kể cả sách xuất bản ở nước ngoài cũng như ở
trong nước. Hầu như bây giờ, một số tác phẩm không còn mang đúng giá trị
đúng như văn học định nghĩa. Nó là sách lam nham, ai có tiền thì cứ in.
Vàng thau lẫn lộn, trong đó có những cuốn không đáng gọi là sách, có
những bài không đáng gọi là bài. Điều này rất có hại cho những người trẻ
tuổi, nhất là lớp mới lớn ở nước ngoài. Nếu đọc một cuốn sách lem nhem
như thế họ sẽ nghĩ gì về những tác phẩm khác của ông cha, của những
người đi trước?
Vì thế nên tôi vẫn cho rằng 20 năm văn học miền
Nam 55-75 có nhiều tác phẩm giá trị hơn, dù cho có những tác phẩm chỉ có
giá trị trong từng thời kỳ.
Lê Thị Huệ:
Nhà văn Văn Quang, Giám đốc đài phát thanh Quân Đội, viết tiểu thuyết
Chân Trời Tím, đi cải tạo mút mùa lệ thủy, không đi Mỹ theo diện HO (mà
những người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên còn không cưỡng lại sự tự
do ở chân trời kia), còn Văn Quang không đi. Ở lại Việt Nam. Văn Quang
là ai thế?
Văn Quang: Tôi vẫn cho
rằng những người bạn tôi đi định cư hầu hết vì lo cho tương lai của con
cái, cho cuộc sống gia đình hơn lo cho chính bản thân mình. Họ có lý do
chính đáng để ra đi. Còn tôi, hầu như chẳng có lý do gì cả. Khi tôi ở
trại tù ra, các con tôi đều đã định cư ở Mỹ, đi theo “diện vượt biên” và
đi học ở Mỹ trước năm 75. Chỉ còn lại mình tôi. Đời sống kinh tế cũng
lại bắt đầu ổn định, bằng việc học computer rồi ra “hành nghề” đánh vi
tính thuê và làm lay-out cho các tiệm sách báo. Những nhà xuất bản tư
nhân, những nhà làm quảng cáo chuyên nghiệp và cả những ông làm “báo lẻ”
như Thanh Thương Hoàng, Thái Phương cũng đều thuê “công ty gia đình”
của tôi làm hết. Hồi đó Sài Gòn chỉ có rất ít computer và người làm được
công việc này càng hiếm. Cái may mắn của tôi là ngay khi ở trại tù ra,
tôi đã tò mò đi học khóa computer đầu tiên vào những năm1989-90-91. Kể
về chuyện đi học computer của tôi chẳng qua cũng là chuyện “bất đắc dĩ”
và khá dài dòng, cười ra nước mắt. Tôi sẽ kể lại vào một dịp khác. Sau
khi học xong vài khóa, tôi đã được các cháu ở Mỹ yểm trợ cho mấy cái
computer và máy in laser để hành nghề. Công việc kiếm ăn khá phát đạt.
Vì thế tôi thấy không cần phải đi đâu nữa cả. Hơn thế, bà xã của tôi và
các cháu cũng đã “yên bề gia thất” nên tôi không muốn khuấy động cuộc
sống của gia đình mình, gây thêm những thắc mắc vướng bận cho những
người thân.
Ở đây cũng còn một số anh em sĩ quan cũ, sau khi ở
tù ra rồi, cũng không đi theo diện HO. Dường như vấn đề kinh tế quyết
định tất cả. Hầu hết những người ở lại đều có một cuộc sống tương đối ổn
định hoặc có những trở ngại về gia đình, như con cái có vợ có chồng rồi
không được đi theo… Mỗi người một hoàn cảnh.
Mặt khác, tôi nghĩ
anh em ra đi nhiều rồi, tôi muốn ở lại để chứng kiến cho hết, cho đầy
đủ những đổi thay. Đời sống lúc đó ở đây bấp bênh, rồi chao đảo vì Liên
Xô tan rã, vì Đông Âu lập lờ… Cuộc sống “lên voi, xuống chó” quay quắt,
nếu nhìn như một kẻ ngoài cuộc, nó sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ
bi hài kịch thú vị. Có quá nhiều đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm
một nhân chứng sống có lẽ hay hơn. Và cũng vì sự “gậm nhấm” của tôi về
“người bạn đồng minh” nên tôi quyết định ở lại.
Mãi tới sau
này, một số không ít những người bạn tôi cho rằng tôi đã lựa chọn đúng.
Riêng tôi, cho là một điều may mắn chứ chẳng ai tiên đoán trước được
điều gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu có sai, có bất cứ điều gì xảy ra, tôi không
ân hận. Tôi hoàn toàn bằng lòng vì sự lựa chọn của mình. Và, tôi cũng
vẫn cứ tiếp tục sống và viết như từ bao năm nay. Sẽ mãi mãi như thế cho
đến khi bạn về đây sẽ gặp tên tôi với hai chữ “chi mộ”.
Xin cảm
ơn bạn đọc đã đọc những hàng này. Đây cũng là dịp tôi có cơ hội được tâm
sự với bạn đọc. Tôi cũng xin nói thêm là một tờ báo của người bạn tôi,
sau khi đã có bài phỏng vấn tôi, đã gửi thêm một số câu hỏi khác đến,
nhưng tôi chưa trả lời được. Tôi không viết hồi ký như một số bạn tôi
thúc giục, trong một ngày gần đây, tôi sẽ dành cho tờ báo của người bạn
tôi những chi tiết khác trong cuộc sống của tôi, thay cho cuốn hồi ký.
Cám ơn nhà văn Văn Quang
Lê Thị Huệ
http://www.gio-o.com/vanquang.html - http://www.gio-o.com/vanquang.html
http://www.gio-o.com/VanQuangPhongVan.html
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Oct/2011 lúc 9:53am
VĂN QUANG LẨM CẨM SÀI GÒN THIÊN HẠ SỨ
Số 198 ngày 04-3-2007
Hoài bão của người dựng tượng Tiếc Thương
Từ
trước Tết Đinh Hợi, tôi đã có dịp gặp anh Nguyễn Thanh Thu, tác giả của
tác phẩm điêu khắc nổi danh “Tiếc Thương”, chắc bạn đọc ở Việt Nam chưa
ai quên. Anh đã đi định cư tại Hoa Kỳ, nhưng gần đây có nhiều bạn bè và
“tin đồn” anh đã trở về Việt Nam. Và cũng không ít dư luận cho rằng
nhân dịp Nghĩa Trang Quân Đội được trả lại cho tỉnh Bình Dương, có thể
tác giả sẽ có cơ hội dựng lại tác phẩm ở một… nơi nào đó.
Tôi
nhận được e mail và điện thoại của anh Huy Phương từ Mỹ, nhờ đi tìm anh
Nguyễn Thanh Thu. Nhưng oái oăm thay cái địa chỉ anh cho lại rất mơ hồ:
Phường 5, đường Lê Quang Định và anh còn “vẽ đường cho hươu chạy… lạc”
rằng “ở phía cổng sau Bộ Tổng Tham Mưu cũ, cứ hỏi, ai cũng biết”. Tôi
đem cái địa chỉ đó đi hỏi lung tung, chẳng ai biết và chẳng ai có thể
“đoán” ra nó nằm ở cái chỗ nào trên con đường đã có quá nhiều thay đổi
này. Tôi thuê xe ôm đi tìm một lần, nhưng cái Phường 5 đường Lê Quang
Định rối rít tít mù với hàng dãy phố xá, đường hẻm, đường cụt. Anh xe ôm
chuyên nghiệp ở vùng này cũng không thể mò ra. Nhưng thì giờ của tôi
còn lại ở Sài Gòn rất ít, và bạn bè đã nhờ thì không thể bỏ cuộc. Tôi
điện thoại cho Thái Phương rủ thày giáo này cùng đi kiếm, hay nói cho
đúng hơn là đi “mò kim đáy biển”, may ra thì gặp.
Đi tìm “ông nặn tượng”
Đi
suốt một buổi sáng, hai anh em chúng tôi muốn “cãi lộn” vì hẻm này hẻm
kia, đường này đường khác. Nhưng cuối cùng tôi “vớ” được một bà già
trong con hẻm đường Lê Quang Định, bà đang ngồi vo gạo ở phía cổng sau
căn nhà mặt tiền. Tôi hỏi bà cụ ở đây lâu chưa? Bà vui tính nói: “Mới
gần 60 năm cuộc đời thôi”. - “Thế thì chắc cụ biết, hồi xưa có ông
chuyên nặn tượng ở gần đây?”. Bà cụ suy nghĩ một chút rồi nhớ ra: “Ở
vùng này, chỉ có ông nặn tượng ở đường bên cạnh đây chứ không phải đường
này”.
Đúng rồi, “nghề nặn tượng” là một nghề hiếm nên có hy
vọng đúng là dịa chỉ chỉ cần tìm. Bà cụ chỉ “vòng vo Tam quốc” nhưng
cũng không khó tìm lắm. Đi loanh quanh qua con ngõ hẹp, chỉ đủ cho 2
chiếc xe gắn máy tránh nhau, chúng tôi lại ngớ ngẩn trước một ngã ba.
Vừa cất tiếng hỏi thăm đường thì một thiếu phụ khá trẻ và… khá đẹp, lên
tiếng:
“Các ông cần tìm nhà ông nặn tượng, cứ đi theo tôi. Nhân thể
tôi cũng đi qua đường đó”. Được lời như cởi tấm lòng, thày giáo Thái
Phương hộc tốc phóng xe theo thiếu phụ không quên ca một câu hơi lớn đủ
để người đàn bà nghe được: “Người Sài Gòn bây giờ hiếu khách thật anh
nhỉ”. Tôi không quên “bốc” thêm: “Cũng tùy người thôi ông ạ, gặp người
tử tế thì may. Có những người “gắt như mắm tôm”, đã không chỉ đường còn
bị mắng, bị nguýt nữa mới buồn”. Nhưng có một điều anh Huy Phương chỉ
đúng, hầu như tên những người nghệ sĩ dù là từ thời xưa, những người dân
ở đây, nếu là người ở Sài Gòn lâu năm, nhiều người còn nhớ.
Đi
loanh quanh vài con hẻm, chúng tôi dừng lại trước của một tiệm cà phê
rất “hoành tráng” có cái tên cũng khá “ ấn tượng” là “TƯỢNG ĐÁ”. Quán cà
phê rộng, trong một khu cứ như công viên, có những cây cổ thụ gốc rễ xù
xì, cao ngất ngưởng. Bên cổng là một cái nhà nhỏ cho mấy anh “bảo vệ”.
Thấy cái cảnh có vẻ “bế thế”, tôi trở nên ngập ngừng hỏi thăm bác Nguyễn
Thanh Thu.
Anh
bảo vệ chỉ ngay một anh thanh niên: “con ông Thu đó”. Chúng tôi thở
phào, tay bắt mặt mừng với người con trai của anh Thu, như đã… quen nhau
từ khuya. Anh thanh niên đưa chúng tôi vào theo con đường nhỏ bên phải
quán cà phê. Lúc đó điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đang đổi nghề điêu
khắc sang “thợ làm vườn”. Anh đang tưới cho mấy chậu cảnh quý ngoài hiên
nhà. Xung quanh anh là một số những tác phẩm lẫn lộn cả cũ và mới nằm
rải rác trong khu vườn hoa tĩnh lặng. Phía bên kia mới là những dãy bàn
ghế cho quán cà phê đang đông khách, được ngăn chia bằng mấy thân cây
si, cây đề cổ thụ xòe những tàn lá che kín nửa vùng sân.
Nhận ra
người quen, anh Thu rời cây kéo tỉa hoa, vui mừng ôm vai bạn. Kiểu “ăn
diện” của Nguyễn Thanh Thu bao giờ cũng giản dị đến… quá bình dân. Cái
“mũ nồi” từ đời tám kiếp nào vẫn chùm hụp trên đầu, có vẻ cố giấu cái
đầu hơi lớn. Nhưng đó là “dấu ấn đặc biệt made in Nguyễn Thanh Thu”,
không lẫn đi đâu được. Cứ như, nếu không có cái “mũ nồi đen” và không có
vẻ lam lũ thì không phải là Nguyễn Thanh Thu.
Nhà điêu khắc đang làm gì?
Chúng
tôi ngồi quanh chiếc bàn nhỏ được tạo hình bằng một gốc cây. Anh Thu
bắt đầu tâm sự: “Tôi về Việt Nam hai năm rồi đấy, chứ không như dư luận
cho rằng tôi mới về để… làm một cái gì đó”.
Thái Phương hỏi thẳng thừng:
– Không phải là để dựng lại tượng Tiếc Thương sao?
Nguyễn Thanh Thu cười hà hà, có vẻ khoái chí vì câu hỏi thẳng thắn này. Anh bật người ra phía sau, hất hàm hỏi lại:
– Ai cho làm mà làm?
Thái Phương gặng tiếp:
– Nhưng anh có ý định đó không?
–
Tôi về đây hai năm rồi với một hoài bão khác chứ không phải là dựng lại
tượng Tiếc Thương. Người nghệ sĩ chỉ sáng tạo một lần. Lần thứ hai
không thể làm như lần thứ nhất. Nhưng nó sống được trong lòng mọi người
thì tự nó còn mãi. Tôi tự hào về tác phẩm này. Dựng lại là một điều
chẳng hay ho gì. “Nó” sống trong lòng mọi người là đủ.
Chúng
tôi hiểu ý anh, nhưng thật tình sống ở đây lâu, chúng tôi biết, có những
điều mà những người như anh Thu hơi ngại, cần phải “giữ mình”. Chúng
tôi cũng chẳng khác gì anh. Tôi thông cảm dễ dàng, tuy nhiên cũng cố moi
xem anh Thu có gặp trở ngại gì trước những dư luận đó không. Anh lắc
đầu:
– Chẳng có gì đáng nói cả. Thật sự là tôi có một hoài bão đã
ấp ủ từ lâu chứ chẳng phải là bây giờ mới có. Một bức tượng nói về cuộc
sống tươi đẹp của người dân Đồng bằng sông Cửu Long.
Thái Phương vốn “nhậy cảm” nên mỉm cười hỏi lại:
– Anh không cho rằng làm như thế là… hơi kỳ cục trong lúc này sao? Người khác có thể hiểu lầm anh về đấy…
Nguyễn Thanh Thu xua tay, trả lời đầy tự tin:
–
Dự định sáng tác một tác phẩm lớn đã có từ vài chục năm nay. Ngay khi ở
Mỹ, tôi cũng đã từng nói chuyện với anh Huy Phương và một số anh em
thân gần về dự định này. Nhưng ở Mỹ tôi không có phương tiện làm việc
này. Về đây có không gian rộng, cuộc sống gần gia đình, ổn định hơn, tôi
hy vọng nối tiếp được những cảm hứng từ xa xưa, tiếp được cái mạch sống
của những người dân Việt trên những mảnh ruộng vườn cây… Như thế có cơ
hội khơi lại cảm hứng hơn, tác phẩm sẽ “sống” hơn.
Anh chỉ tay về phía bức tượng một thôn nữ, ôm bó lúa, đứng trên khoảng không gian bao la:
–
Đó là tác phẩm mới nhất của tôi đấy. Về đây tôi mới làm. Tôi đã làm
chừng hơn mười bức tượng như thế rồi. Kể cả khi còn ở bên Mỹ và thời
gian đầu, khi trở về đây. Nhưng làm rồi phá, phá rồi làm. Cái gì không
có hồn, tôi dẹp liền.
– Có phải là tác phẩm anh ưng ý nhất không?
–
Đúng thế, bức tượng này là hình mẫu, trong toàn cảnh bức tượng lớn mà
tôi đang ấp ủ. Còn chín cái đầu rồng đang phun nước nữa, tôi sẽ chỉ cho
các anh xem sau. Đây là bức tượng nhỏ, cũng như hồi tôi làm tượng Tiếc
Thương thì trước hết phải có một bức tượng nhỏ trong cái mô hình của nó.
Đến khi có điều kiện thực hiện, nói cho rõ là khi có “ngân quỹ”, cứ
theo đó mà dựng tượng lớn. Lúc dựng tượng lớn, khó mà thay đổi được hoặc
không thể thay đổi được. Các anh vào đây, tôi chỉ cho xem cái này sẽ rõ
hơn.
Anh đứng lên, đưa chúng tôi vào trong căn nhà nhỏ phía sau.
Treo trên bức tường khoảng 4 thước vuông là một mô hình được vẽ bằng
tranh màu. Trên đó có thể hình dung ra toàn cảnh bức tượng. Anh dừng
lại, say sưa giới thiệu:
– Đây là tất cả ước vọng và tâm tư của
tôi. Cảnh chín cái đầu rồng từ mặt biển phun lên vựa lúa dưới chân cô
thôn nữ. Đó là hình tượng rất Việt Nam, nó là tượng trưng cho người dân
Việt của tất cả mọi thời đại, chứ chẳng riêng thời nào. Đó cũng là ước
mơ của tất cả người Việt chúng ta.

Và anh nhắc lại:
– Xin nói rõ, là chín cái đầu rồng chứ không phải chín con rồng. Cũng là đặc trưng của nền văn hóa Á châu chúng ta nữa.
Tôi
nghĩ, mỗi người nghệ sĩ đều có những “giấc mơ” của riêng mình. Người
nghệ sĩ thật sự, thường âm thầm nuôi những hoài bão lớn lao. Còn có thực
hiện được hay không lại là chuyện khác. Không phải là những kẻ chỉ hành
động nhất thời, mưu cầu một chút danh lợi hoặc tiếng tăm, “ăn bám” trên
những tên tuổi của người khác. Cũng không phải là người chỉ đắc chí với
một tác phẩm nổi danh rồi ngồi đó… làm “thượng đế”, vuốt râu hoài cho
đến bạc phếch. Nguyễn Thanh Thu còn hăng lắm, còn say sưa với những cái
mới hơn, lạ hơn. Có thể cái sau không bằng cái trước, đã có không biết
bao nhiêu nghệ sĩ danh tiếng, sáng tác những tác phẩm cuối đời dở hơn
những tác phẩm đầu đời. Nhưng tâm hồn người nghệ sĩ luôn tràn đầy ước
vọng mới là điều cần thiết. Nguyễn Thanh Thu đang có được sức sống mãnh
liệt đó. Rất có thể nó là sự “hoang tưởng” như anh Huy Phương đã nhận
định. Và ngay chính chúng tôi, cũng thấy được điều này khi anh nói đến
số tiền phải bỏ ra thực hiện tác phẩm của anh.
Tiền đâu và ai sẽ tài trợ để thực hiện?
Anh Nguyễn Thanh Thu tính toán: Bức tượng sẽ được mang tên “Cửu Long được mùa”,
chiều cao 30m, chiều ngang tương ứng cân bằng với chiều cao. Tuy nhiên,
xung quanh sẽ còn được tô điểm thêm những cảnh trí khác như hồ nước
hoặc khung cảnh đồng quê, thì chiều ngang chưa thể tính hết được lúc
này.
Thực tế hơn, tôi hỏi:
– Có nghĩa là những “đồ trang trí” cho thêm phần “hoành tráng” tráng còn tùy thuộc vào ngân khoản sẽ có là bao nhiêu?
– Đúng thế. Có nhiều, làm nhiều. Cứ nói thẳng ra là “tiền nào của nấy”.
– Vậy khu đất anh cần cho bức tượng khổng lồ đó là bao nhiêu mét vuông?
Bái toàn đã có sẵn trong đầu nên anh nói ngay:
– Phải có một mẫu (1 ha).
– Còn số tiền dự trù sẽ là bao nhiêu?
– Ít nhất là hai triệu rưởi đô la (USD) trở lên.
Đây
là ngân khoản để dùng vào việc này anh đã nói với tôi và anh Thái
Phương lần gặp nhau trước Tết, còn khi nói chuyện qua điện thoại với anh
Huy Phương từ Cali gọi về thì số tiền lại lớn hơn nhiều (5 triệu USD).
Còn đến khi tôi điện thoại lại cho anh vào ngày 1 tháng 3 vừa qua để xác
nhận lại những điều cần nói thì anh “hạ xuống” còn một triệu rưởi USD.
Có lẽ trong đầu óc anh còn đang luẩn quẩn với sự tính toán này, chưa dứt
khoát chăng? Hay là anh muốn nói “có nhiều làm nhiều, có ít làm ít” thì
ngân khoản đó từ 1 triệu 500 ngàn đến 5 triệu USD?
Con
số nghe qua hơi “khủng”- nói theo kiểu chữ nghĩa bây giờ của các cô cậu
tuổi “tin” ở Sài Gòn, xin tạm “dịch” là kinh khủng, ghê gớm, vĩ đại…
So
với tầm vóc một tác phẩm điêu khắc để làm biểu tượng hoặc làm đẹp cho
một vùng, một tỉnh, một lãnh thổ thì không có gì là nhiều. Người ta còn
có thể làm những công trình vĩ đại hơn mà… chẳng để làm gì cả, đôi khi
chỉ là có cái làm để “ăn có”, xong rồi mặc cho thời gian tàn phá. Như
làm một cái chợ, một cái trường, một khu dân cư, một lâu đài kỷ niệm vớ
vẩn nhưng chẳng ai buồn đến. Chuyện đó xảy ra không ít. Vậy số tiền bỏ
ra làm một bức tượng như của Nguyễn Thanh Thu đang mơ ước cũng không
phải là nhiều.
Nhưng
như Huy Phương đã phân tích, giấc mộng của nhà điêu khắc nổi danh này
khó mà thực hiện được. Có thể gọi là “hoang tưởng”. Tôi đồng tình với
nhận định này. Nhưng cứ để cho người nghệ sĩ được quyền mơ những giấc mơ
của mình.
Vì vậy nên theo ý muốn của anh, tôi thông báo đến độc giả ý định này. Có thể liên lạc với anh qua địa chỉ:
Nguyễn Thanh Thu, 76/68 Nguyễn Thượng Hiền, Phường 1, Quận Phú Nhuận. TP. Sài Gòn. Điện thoại: 51.51.320. (Quán café Tượng Đá).
Vài nét chính về cuộc đời Nguyễn Thanh Thu
Chúng
tôi đến bên bức tượng nhỏ Tiếc Thương, anh còn để bên những bức khác
trên kệ. Đây là hình tượng lúc ban đầu của khi anh bắt tay vào sáng tác
“Tiếc Thương” và được dựng tại Nghĩa Trang Quân Đội vào ngày 1-11- 1966.
Hình dung lại khung cảnh đó, tôi không khỏi bùi ngùi.
Trở ra
sân, chúng tôi đã đứng trước bức tượng người thiếu nữ khỏe mạnh còn đang
đứng đợi… những cái đầu rồng phun nước, mà chẳng biết đến bao giờ con
rồng mới thức dậy để được hưởng những vòi nước trong lành từ dòng Cửu
Long Giang.
Hỏi
đến chuyện gia đình, anh Thu cho biết: hiện nay anh đang sống cùng với
vợ và 7 người con. Đã có 6 người lập gia đình, có công ăn việc làm. Chỉ
duy còn cô con gái út gần 30 tuổi chưa lập gia đình là cháu Nguyễn Minh
Kỳ Nữ. Theo anh thì cháu rất giỏi sinh ngữ và ước mong có thể kiếm được
việc làm hợp với khả năng mình. Quán cà phê Tượng Đá cũng đủ sống. Anh
nói gia đình anh thừa hưởng lại của ông bà cha mẹ khu đất này rộng 3.000
m2.
Trước đây anh là sĩ quan QĐVNCH, cấp bậc sau cùng là Thiếu
Tá thuộc ngành quân nhu, phụ trách tổng quát về các công trình ở Sài Gòn
và đặc trách về Nghĩa Trang Quân Đội.
Tôi hỏi anh có ý định ở hẳn lại Việt Nam với gia đình anh không?
Anh cười:
–
Nếu có một người nào đó yển trợ cho công trình dựng tượng của tôi thì
tôi sẽ ở lại thực hiện nó cho đến cuối đời, không đi đâu nữa cả. Nhưng
nếu không có người tài trợ, có lẽ tôi sẽ trở lại nơi định cư như những
người khác thôi. Tôi viết bài này chỉ có mục đích thông tin về người
nghệ sĩ tài hoa đã làm nên một bức tượng Tiếc Thương để lại trong lòng
mọi người và anh có dịp tâm sự với bạn đọc.
Văn Quang
Văn Quang
là một tên tuổi khá nổi của Miền Nam trước 1975. Ông có nhiều độc giả
và những tác phẩm của Văn Quang được nhắc đế là tiểu thuyết Chân Trời Tím, Nguyệt Áo Đỏ,
Sau
1975, ông ngưng bặt một thời gian dài. Mới đây ông xuất hiện trở lại
với lá thư từ bàn viết "lưu vong" từ thị trấn đất đỏ Bình Phước, có tên
là "Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự", chỉ gửi ra hải ngoại. Các bài viết của ông được báo chí và độc giả hải ngoại đón nhận nồng nhiệt.
Những bài viết đăng lại trên trang Ảo Ngôn của gio-o đã được sự chấp thuận của nhà văn Văn Quang
Nguyễn Thanh Thu và Văn Quang
http://www.gio-o.com/vanquangnguyenthanhthu.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Oct/2011 lúc 9:03am
Tuesday, October 4, 2011 3:47 PM
http://www.congdongnguoiviet.fr/XaHoi2/1110ThoiDaiDoDeuH.htm
Thời đại “đồ đểu” tình nghĩa không còn!
Internet 2011/10/04 Văn Quang
Từ
hơn 2 năm nay tôi mới được ông bạn già đến thăm, không cần hỏi nguyên
do, tôi hiểu vì sao ông không đến. Nhưng ông bạn vốn tính bộc trực, mới
bước chân vào nhà, ông đã thanh minh ngay: “Xin
lỗi bác, tôi không đến bác vì nghe thiên hạ nói bác bị “làm phiền” nên
anh nào đến cũng có thể bị ghi sổ bìa đen hoặc bị sờ gáy. Có ông khuyên
tôi không nên đến. Tôi không tin hẳn là như thế, nhưng cứ cẩn tắc vô áy
náy”.
Rồi ông cười khành khạch triết lý vụn: “Cuộc đời là thế, anh nào cũng muốn yên thân, nhắm mắt, bịt tai
cho qua mọi chuyện. Lắm lúc nghĩ đất nước cứ như thế thì làm sao mà khá được”.Tôi mời ông ngồi và nói dỡn: “Vậy bác đến tôi hôm nay là muốn làm cho đất nước khá lên hay sao?” Ông bạn già của tôi xua tay giẫy nẩy: “Tôi
là cái thá gì mà dám mon men vào chuyện nước non, dù tôi biết cái thế
hệ già mình mà như thế là hỏng, hỏng lắm nếu không muốn nói là nhát, là
hèn. Anh nào cũng muốn giữ nồi cơm, khư khư ôm lấy cái mình đang có,
sống chết mặc bay. Làm sao dạy con cái sống cho ra con người. Tuy nhiên,
người ta thế cả, tôi cũng thế thôi. Gặp thời thế, thế thời phải thế,
bác hiểu cho”.
Tôi
thân mật vỗ vai ông: “Tôi không trách bác đâu, mỗi người có một cách sống, bác cẩn thận như thế cũng không phải là thừa”. Ông gật gù, dù tôi biết trong lòng ông vẫn có một chút gì đó như sự ân hận nhỏ nhoi. Ông thở dài lảng chuyện: “Thôi không nói chuyện nước non làm gì cho mệt, hồi này bác sống thế nào, sức khoẻ ra sao ?”
Tôi ừ ào cho qua chuyện bởi tôi quá rõ, ở VN bây giờ, có những ông rất
hăng nhưng có những ông “thủ” rất kỹ. Ông bạn già của tôi chậm rãi uống
nước rồi thú nhận: “Tôi vừa qua cửa hàng vàng, hôm nay giá xuống 44
triệu một lượng, nhưng chờ mỏi mắt chưa mua được, chen chúc như đi ăn
xin, giá cả mỗi giờ lại một tăng, không dám mua vội. Tiện đường ghé thăm
bác thôi”.
Sơ lược về cuộc đời một ông bạn “tư sản”
Ông
bạn tôi, trước năm 1975 khá giàu. Tôi chỉ biết ông có 2 cái hotel thuộc
loại trung bình ở Chợ Lớn và 1 cái garage xe hơi ở Tân Định. Ngày 30
tháng 4 năm 75, ông chui vào phi trường Tân Sơn Nhất, yên trí kiếm được
một chỗ trên máy bay ra đi. Nhưng ông bị bỏ rơi như một số ông tư sản
khác chui vào không đúng chỗ. Ông kẹt lại, sau tháng 4 năm 1975 ông bị
quy vào thành phần “tiểu tư sản thành thị”. Chẳng hiểu lúc đó ông có “rét quá” mà đem “hiến” hai cái khách sạn và cái garage xe hơi cho “Uỷ ban Quân Quản”
hay không. Tôi chỉ biết ông nhanh chân chuồn về quê vợ ở tuốt Năm Căn -
Cà Mau sống. Ở
đấy ông có người em vợ đi “tập kết” trở về được làm một chức khá lớn
trong huyện che chở. Có thể nhờ vậy ông không bị “đánh tư sản”, không
phải đi tập trung “học tập cải tạo” như những người khác.
Tuy nhiên, theo lời khuyến cáo của người em vợ, ông phải làm ra vẻ đói rách cho phù hợp với “nhân dân lao động”. Ông mặc áo tơi lá đi cấy mạ, mặc quần áo vá, đi dép lốp. Ông có vẻ thú vị vì đã đóng vai “than nghèo kể khổ”
rất giỏi. Thật ra thì gia đình ông chưa đến nỗi phải túng thiếu, ông
còn mang được chút vàng và đô la về cho vào bao ni-lông giấu kỹ vào cái
vại sau vườn, sát vách nhà. Lâu lâu lại mở lên xem có bị thấm nước hoặc
mối mọt gì không. Mỗi lần như thế cứ như đi ăn trộm của
nhà mình, vợ con phải canh gác rất cẩn mật. Nhờ vậy ông mới có chút vốn
mang về Sài Gòn làm ăn.
Nhưng ông không lấy lại được sản nghiệp
cũ của mình. Bây giờ những nơi đó đã là trụ sở của mấy cái cơ quan lớn,
sân sau là mấy cái biệt thự mua đi bán lại đến nay là của ai chẳng
biết, ông theo đuổi vụ lấy lại nhà, làm hàng trăm lá đơn cũng chẳng đi
đến đâu. Ông chán, chẳng thèm nhắc đến những của cải đã bị mất trắng
này.
Nhưng ông vốn là dân làm ăn buôn bán ở Thành phố Sài Gòn
nhiều năm nên chỉ một thời gian sau, ông trở lại Sài Gòn nhờ có “chỗ
dựa”, ông lại phất lên khá nhanh, so với đống gia tài cũ, có lẽ cũng
không kém là bao nhiêu. Cho nên ông chú trọng đến việc giữ của, thời
buổi này mà không
biết giữ của thì chẳng mấy lúc mà sạt nghiệp vì nhiều lý do khác nhau.
Ông kể: “Nhà nào có máu mặt cũng phải đề phòng trộm cướp, giết người,
lừa lọc, quỵt nợ, hàng gian hàng giả, chạy cửa trước cửa sau nộp những
khoản “phí” không tên, chi những khoản quyên góp “không tự nguyện”, mua
bảo hiểm trời ơi, chung vốn vào những công trình “bắn vịt trời”… Nói ra
có hàng trăm thứ chuyện rắc rối chỉ thời nay mới có.
Ép lãi suất và lách lãi suất như chạy loạn
Trở lại chuyện tuần này ông đến thăm tôi vì ghé qua một cửa hàng vàng gần đó. Ông giãi bày:
- Bác
biết không, tôi phải lấy tiền gửi ngân hàng ra mua
vàng, lúc này hầu hết những bạn hàng của tôi đều tính như vậy. Bởi Ngân
Hàng Nhà Nước nghiêm ngặt hạn chế lãi suất đầu vào của ngân hàng chỉ
còn 14%. Vậy mà tốc độ lạm phát, trượt giá hay nói cho đúng là đồng tiền
mất giá cứ tính trung bình là 20%. Như thế gửi ngân hàng (NH) chỉ lời
có 14% là mỗi năm anh mất toi 6% chứ có lời đâu. Anh mà tiêu vào tiền
lời gửi ngân hàng là anh “tự cắn vào tay mình”, anh phải tính đó là tiền
bù vào khoản mất giá. Không biết mấy ông ở NH nhà nước có tính đến
khoản này không mà cứ “ép” lãi suất như vậy? Ai kêu thì mặc, “ép” được
cứ “ép”. Vấn đề cốt lõi là giảm lạm phát, giảm bão giá rồi mới hạ lãi
suất chứ sao lại làm ăn ngược đời như thế! Thế nên từ anh giàu đến anh
nghèo,
anh nào cũng chết. Ngân hàng cũng rối bời cứ như chạy loạn, tìm đủ cách
lách lãi suất, lãi suất ngày, lãi suất tuần, lãi suất tháng để hòng giữ
chân khách cũ, câu khách mới. Người dân vẫn xếp hàng chờ mua vàngÔng ngừng lại một chút rồi lắc đầu nói tiếp:
- Nếu
không gửi ngân hàng, anh còn mất nhiều nữa. Anh có 100 đồng để dành,
mỗi năm
trượt giá, anh mất 20 đồng, hai năm mất 40 đồng, chỉ còn lại 60 đồng.
Như thế anh nghèo có tí tiền để dành mua nhà, sắm cái xe gắn máy cũng
thiệt, có khi vài năm sau tiền để dành 3-4 năm chỉ còn mua được cái lốp
xe đeo vào cổ đi chơi chứ làm sao mua được xe. Còn anh có nhiều tiền
càng “chết” nặng hơn. Có mười tỉ chỉ còn 6 tỉ, buôn bán gì cho lại? Có
nhiều mất nhiều, có ít mất ít, nói tóm lại thằng nào cũng chết nhăn nếu
cứ giữ tiền trong tủ hoặc gửi ngân hàng. Phải tìm cách xoay xở đường
khác thôi. Người rút tiền mỗi lúc một đông. Tôi lo ngân hàng sẽ có lúc
phá sản vì thiếu vốn. Khi ngân hàng thiếu vốn thì cũng chẳng thể cho
doanh nghiệp to hay nhỏ vay được, dù có sản xuất hay phi sản xuất với
bất kỳ lãi suất nào. Nếu chẳng
may, một ngân hàng phá sản thì tôi cam đoan với bác, một loạt sẽ phá
sản theo. Người dân sẽ ùn ùn kéo đến rút tiền cho chắc ăn. Bác còn nhớ
vụ “Nước Hoa Thanh Hương” chứ? Vỡ nợ, dân kéo đến làm loạn, có anh đến
đòi tiền, chỉ còn bộ bàn ghế, cũng phải nhặt. Rồi chuyện tối hôm trước
thông báo không đổi tiền, sáng sớm hôm sau ra lệnh đổi làm người dân
trắng mắt. Người ta bị “cái dớp” đó rồi nên lúc nào cũng phòng thủ. Tốt
nhất là không nghe ai cả, nghe mình thôi”. Ông nhắc đến chuyện một anh giám đốc ngân hàng vừa bị một anh bạn thân chơi một vố khá đau.
Cú chơi “độc” của ông giám đốc ngân hàng Tây Ninh
Xin tóm
lược về vụ chơi xấu này của ông “bạn” cùng là giám đốc ngân hàng. Ông
Nguyễn Thái Hậu, nguyên Giám đốc ngân hàng Đông Á chi nhánh Tây Ninh đã
vượt trần lãi suất huy động. Người tố giác là một giám đốc ngân hàng
bạn cùng địa phương.Ông
Nguyễn Thái Hậu Giám đốc chi nhánh Đông Á Tây Ninh, bị tổng giám đốc
Ngân hàng Đông Á đình chỉ công tác từ ngày 14/9 do không tuân
thủ “chỉ đạo về việc giữ trần lãi suất huy động”. Sự việc xảy ra như sau:
Vào
lúc 8g sáng ngày 8/9 ông Nguyễn Thái Hậu, Giám đốc chi nhánh ngân hàng
Đông Á Tây Ninh nhận được điện thoại của người bạn là ông Nguyễn Lê Nam,
Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) chi nhánh Tây Ninh (cùng địa phương),
đề nghị được gửi một tỷ đồng kỳ hạn một tháng với lãi suất 15,5% một
năm. Vì là bạn bè ông Hậu đồng ý.
Đến 11g trưa cùng ngày, vị giám
đốc Nguyễn Lê Nam, Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) chi nhánh Tây Ninh
đem tiền đến gửi và yêu cầu chi nhánh Tây Ninh của Đông Á ngoài sổ tiết
kiệm ghi lãi suất 13,94% thì phải có giấy xác nhận sẽ trả lãi suất 15,5%
một năm cho số tiền trên. Giấy xác nhận này sau đó đã được ông Nam
chuyển cho Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tây Ninh để tố cáo làm
ông Hậu bị giáng chức!
Dư luận đang râm ran về chuyện bạn bè gài
bẫy nhau trắng trợn như thế này. Trước đó hai người không hề có xích
mích gì nên giao thiệp khá thẳng thắn thân tình. Vậy mà bỗng dưng “ông
bạn” trở mặt.
Chỉ có ông NH Nhà Nước khen, dân thì chê
Ngày 28/9 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về sự việc này. “Ngân
hàng Nhà nước ủng hộ việc phát hiện sai phạm và cho rằng không nên xem
đây là hành vi chơi xấu của các ngân hàng thương mại mà nên coi đó là
cách tích cực phát hiện sai
phạm”.
Ông
Ngân Hàng Nhà nước phải khen là việc tất nhiên rồi. Vì đó là về “phương
diện quốc gia”, có khi trong bụng chính ông này lại nghĩ rằng: “Thằng
cha này chơi với bạn thế thì chỉ có nước chơi với cọp. Có khi nó tố cả
mình cũng chưa biết chừng! Phải cẩn thận với loại người này”.
- Bạn Tuấn Anh trả lời ngay trên diễn đàn báo chí: “Mọi
người đều đồng ý việc gài bẫy bạn là chơi xấu! Xét kết quả cuối cùng
thì là tìm ra sai phạm trong việc vượt trần lãi suất của các nhà băng,
đương nhiên ngân hàng nhà nước phải nói vậy rồi. Nhưng xét đến việc cố
tình đưa người ta vào bẫy, thì đó là hèn hạ.
- Bạn Mạnh mỉa mai: “Hay
quá, vì vị giám
đốc chi nhánh Á Châu làm "đúng" quá nên tôi và họ hàng mình cùng những
người bạn và nhiều người truyền tai nhau cùng rút sạch tiền gửi ở ngân
hàng Á Châu đem gửi ngân hàng khác rồi.
- Bạn Hoa Cỏ May đã viết trên báo: “Thực
chất là xấu. Giám đốc ACB rõ ràng chơi xấu. Là bạn nên mới hỏi và trả
lời thật lòng, nếu thấy rủi ro cho bạn phải nhắc nhở bạn còn ông ta đã
cố tình gài và tố bạn. Thật là xấu xa cho loại bạn như vậy. Con người ta
ai cũng đi làm thuê để đổi lấy chén cơm cho gia đình, con vật còn biết
thương nhau con loài người thì không. Giám đốc ACB khi thấy bạn vì sự
dối trá của mình mà mất việc có cảm thấy thoả mãn hay không? Thật đáng
khinh! Lãnh đạo cấp cao của ACB cũng không nên dùng loại người này vì
đến 1
ngày nào đó chính họ sẽ là nạn nhân của con người này.”
- Bạn Chu Văn Khường cho rằng đó là một cách cạnh tranh trong kinh doanh ngớ ngẩn. “Những
người dân, và những người có tiền không kinh doanh để ở ngân hàng thì
ai cũng muốn được lãi cao, để kịp với những chi phí cho giá tiêu dùng
tăng cao, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt của họ. Vị giám đốc của ngân hàng Á
Châu làm như vậy thì làm sao được lòng những người dân gửi tiền. Không
khéo bây giờ tiền ở trong chi nhánh của vị giám đốc ACB bị rút sạch gửi
ngân hàng khác rồi. Thật là cách làm ngớ ngẩn trong kinh doanh cạnh
tranh”
- Bạn Lê Công Bách: “Rùng mình vì hành động ích kỷ
của người có học. Đã là 1 người đứng đầu 1 chi nhánh ngân hàng cổ phần Á
Châu lẽ
ra vị giám đốc kia nên hành xử 1 cách có học hơn. …Bây giờ chắc chắn
ông thắng được Giám đốc Đông Á Bank nhưng nhìn trên tổng thể chắc chắn
ông thua rất nhiều, bạn bè, nhân viên cấp dưới, cấp trên chắc sau này ai
cũng phải dè chừng ông. Có lẽ đây là bài học xương máu cho những người
làm ngành ngân hàng nói riêng và mọi người nói chung.
Thời đại “đồ đểu” không còn tình nghĩa?
Còn ông bạn đến thăm tôi, lắc đầu thở hắt ra: “Vì
thế nên không chỉ có các ngân hàng cạnh tranh mà ở đâu cũng có thể có
sự cạnh tranh rất bẩn. Cái thời buổi buộc con người phải sống chụp giựt
là thế. Các bạn tôi nửa đùa nửa thật cảnh báo:
Hồi xưa mày là tư sản xanh, bây giờ mày là tư sản đỏ, coi chừng nó luộc
mày lúc nào không biết. Cái thời đại đồ đá, đồ đồng, con người đối với
nhau có tình có nghĩa, đến cái thời đại đồ đểu này tình nghĩa không còn
đâu”.
Tôi không tin hẳn như thế, trên đời này vẫn còn những
trái tim nhân hậu. Tuy vậy khi ông bạn tôi ra về, để lại cho tôi nỗi
buồn như mất mát một cái gì rất lớn trong cuộc đời lúc xế bóng.
Văn Quang Sài Gòn 01-10-2011
------------- mk
|
|