Một chuyến di.
Ngày 12 tháng 1, 2008, tôi cùng vài thân nhân trong dịp về thăm VN ngắn ngày, đã cùng dự chuyến đi đến Mủi Né Phan Thiết, gọi là du lịch nội địa
6 giờ sáng , hướng dẩn viên mời chúng tôi vào chổ ngồi trên xe 25 chổ do hãng du lịch thuê bao. Xe chuyễn bánh xuyên qua các ngỏ đường để tiến về cầu Saigon và vượt đường xa về vùng Mủi Né, Phan Thiết, một điểm du lịch đã có trong lịch trình của tổ chức du lịch. Các nẻo đường đi qua, cũng như trong mấy ngày ở thành phố tôi cũng dùng phương tiện nhanh nhứt là chiếc xe ôm để di chuyển trong thành phố đống đúc cư dân, hơn 5 triệu người. Thành phố qua tải, nên ngày nay rất nhiều gia đình phải nhường những căn nhà nơi nội thành chuyễn ra vùng xa để cho những cao ốc hơn 10 tầng vươn lên thay thế và chiếm lảnh xây dựng thị trường thương mại và kinh tế phồn thịnh của phía Nam đã sẳn có từ trước 1975, một thời mang danh hòn ngọc viễn đông. Ngày nay, Sài gòn có khá hơn những năm tháng sau 1975, vì có sự đầu tư của các hiệp hội quốc tế hay tổ họp tư nhân đến đây xây dựng những xí nghiệp sản xuất vì với thị trường lao động rẽ, nhân công người Việt có kỷ năng khéo léo, năng xuất cao cống hiến sức ngưới làm ra sản phẫm đẹp, có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, lảm giảu cho các tập đòan chỉ huy, điều khiển. Phố xá có đẹp hơn, nhà, biệt thự, có sang hơn, nhưng bên trong tòan là những chủ nhân có tầm cở, địa vị cao. Người lao động nghèo chỉ thiệt thòi với sự đãi ngộ bất xứng của xã hội qua phân chia lợi nhuận đã làm ra. Những con đường cũ, vẫn cũ được mang tên mới của chế độ như đường Catinat, Hồng Thập Tự, Thống Nhứt, Trần Quốc Tỏan, v..v..thay đổi tên gọi rất xa lạ với người Sài Gòn., ngay tên gọi Sàigon cũng được thay, nhưng tâm lý người dân thích những nét thân thương, đã một thời gian gắn bó khó mà thay đổi.Những con đường mang tên mới, có nhiều thay đổi về cơ sở vật chất, nhà cửa khang trang, cao sang làm tôi ngỡ ngàng phải hỏi người cùng đi, nơi đây con đường này là con đường nào mang tên cũ của thời trước 1975, có thế mình mới nhận được đâu là đây..Thành phố nầy tôi đã sống từ 1949 đến 1992, qua 43 năm dài dùng xe đạp đến trường, dùng xe có động cơ đi làm công chức, đôi lúc có xế hộp để đi công tác và từ 1975 đến 1992 tất cà thay đổi cho cuộc sống mới thích ứng với điều kiện xã hội thời bây giờ. Biết bao kỹ niệm vui nhiều hơn buồn vì thời gian đi học và có việc làm với thu nhập khá vững vàng nuôi dưởng gia đình đông con cho các con học hết chương trình trung học và cũng có đứa may mắn vào Trường Cao Đẳng hay Đại Học,. Tiếc thay,
Xã hội gẩy, việc làm cũng gẩy
Buông thả cuộc đời,
Chìm nổi tháng ngày qua!!
Xe vẫn chuyện bánh, mặc cho hướng dẩn viên thuyết minh lộ trình, đâu đây nghe vọng về:
"...Sàigon ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về,
Người tình ơi, tôi xin giữ mãi trọn lời thề,
Dù thời gian, có là một thóang đam mê,
Phố phường vẫn ánh sao đêm,
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên..”
Tôi trở về, bạn xưa còn được mấy người. Có nhựng người bỏ cuộc mà về miền viên miễn, có người lưu vong xu91 người trong đó có tôi và gia đình, có những thằng bạn từng chia ngọt xẻ bùi, thì ngày nay vẫn đắng cay nhiều hơn bùi ngọt vì qua những tháng năm được ở tù để thành công dân tốt, ngày trở về "cửa nhà tôi họ ở, con tôi họ sai, và đau khổ hơn là vợ tôi nó xài, đành treo dây đạp ghế để tìm nơi tĩnh mịch không bon chen hận thù, ai óan.. Rồi cũng có người tình xưa, nay thành mệnh phụ, gặp nhau ánh mắt nhìn trong luyến tiếc như thương nhớ hay níu kéo khỏan thời gian ôm ấp nhiều kỷ niệm và hứa hẹn.. Thôi thì, khoanh tròn mấy chữ “Cuộc đời là thế”!
Xe băng qua các khu Thủ Đức, Biên Hòa, Ngả ba Dầu Giây, nơi có con đường rẻ trái đến tận cao nguyên Đalạt. Đường đi có tôt hơn, rộng hơn, hai bên nhà cất liền nhau san sát, nhưng kiến trúc không hài hòa, nét mỹ thuật đi vắng, nên trông nó xốn xang ánh mắt, hay gay gắt cho tầm nhìn vì màu sắc nghịch nhau. Lạ thay có những bảng hiệu dùng tiếng Anh để bắt mắt khách nước ngòai, một điều trước đây rất cấm kỵ, giờ đây chữ và nghỉa của tiếng Anh gần như có chổ đứng rất vững hơn ngày trước, đúng là “vi biến”.Nói đến tiếng Anh, tôi có vài người cháu đã đạt trình độ cao học (đúng bài bản, chứ không là một năm đạt ba lớp của các ông lớn cần hợp thức hóa địa vị) đang có lớp dạy mà bản thân phải từ chối bớt số học sinh hay tìm thầy cô có học đúng bài bản, có giọng đọc đúng accent để phụ dạy lớp, thu nhập khá cao. Mừng thay.
Chúng tôi được đưa đến khu di tich Tháp Chàm. Còn nhiều tháp được xây cất, và cấu trúc khá đặc biệt với gạch đá đỏ, chất kết dính , đến ngày nay khoa học chưa tìm được giải đáp cho cấu trúc xuyên thế kỷ, vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt. Lầu Ông Hòang, điễm hò hẹn nơi đĩnh núi cao của thi sĩ Hàn Mặc Tử , tài hoa nhưng đỏan mệnh vì chứng bệnh nan y. Nơi đây lắng nghe lại nhạc bản “Hận Đồ Bàn” biết hiểu được tình hòai hương da diết , ai óan của một dân tộc gần như bị xóa tan trongqua1 khứ lịch sử hay bị chìm trong quên lang hoặc không muốn nói chỉ còn được bao nhiêu và bao lâu nửa.
“…Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn,
Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm,
Một thời oanh liệt,
Người dân nước Chiêm…”
Và liên tục bởi :
“…Người xưa đâu,
Mộ đấp cao hay đã sâu thành hào,
Lầu các đâu,
Hay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”
Buồn da diết thay,buồn ray rứt thay!!
Du khách lại đi tìm lối mòn dẫn đến Lầu Ông Hòang,. Để nhớ lại những tháng ngày, đêm trăng hò hẹn của Hàn Mặc Tử và người yêu Mộng Cầm, vì quá đam mê thơ của thi sĩ, đã là người yêu và Hàn Mặc Tử dệt những vần thơ tuyệt tác, hậu thế coi đây là áng thơ đầy đau khổ, bi thương vì tình yêu và bệnh họan. Hảy lắng nghe:
“.Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tàn nhớ câu chuyện xưa,
Lầu Ông Hòang đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua,
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài trên hoang vắng,
Tiếng chim kêu đau thương, như nức nỡ dưới trời sương,
Lá rơi đâu đây sao cứ ngở bước chân người tìm về giửa đêm buồn….”
(Nhạc và lời: Trần Thiện Thanh.).
Tôi cũng lắng nghe trong tâm khảm của mình Một Nửa Trăng của Hàn Mặc Tử:
“..Hôm nay có một nửa trăng thôi,
Một nửa trăng ai cắn vở làm đôi,
Ta nhớ mình xa, thương đứt ruột,
Giờ làm nên tội, buổi chia phôi.”
Du khách lại được đưa đến Đồi Cát.
Nơi đây, cát ơi là cát, Cát với nhiều màu, rất phong phú, đây cụng là tài nguyên của Mủi Né. Những đồi cát chập chùng , trãi dài tiếp nơi xa xa , và với những cây màu xanh mọc rãi rát vài nơi, tạo nên bức tranh tuyệt mỹ, với vài nét chấm phá cây xanh, cánh chim hải âu lượn vòng, chao cánh trên khỏan trời xanh xanh, một màu xanh tình ái, đúng như ý nghĩa của màu xanh, một màu xanh kỳ diệu mà hầu hết tao nhân mặc khách đều ưa thích dệt thành thơ và nhạc. Những đồi cát nếu có hoa sim lữ khách sẽ nhớ về Những Đồi Hoa Sim của thi sĩ Hữu Loan rất thơ và mộng ảo.:
“…Chiêu hành quân,
Qua những đồi hoa sim,
Những đồi hoa Sim,
Những đồi hoa sim,
Dài trong những chiều không hết,
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt….”
Nơi Đồi Cát chắc lữ khách cũng không quên ghi lại vài tấm ảnh với nét đẹp của thiên, nhiên mà Tạo Hóa đã cho dân tộc nầy những tình tự quê hương, và tài nguyên phong phú nơi miền đất cày lên sỏi đá.!! Và đặc biệt sản phẩm Tranh Cát, do nghệ nhân hình thành bằng cát đựng trong lọ, ly bằng thủy tinh,tạo nên một bức tranh bằng cát, mang nhiều hình thức, đây cũng là sản phẫm địa phương dành cho khách mua làm quà tặng cho bạn bè hay thân nhân.
Khách lại đi, lại đi đến viếng một địa danh khác là Tà Cú, nơi đây có Xe Cáp Treo, đưa người đến tận đỉnh non cao khỏan 500 thước, để chiêm bái Đức Phật trong tư thế nằm, có chiều dài 48 thuoc của tòan thân Đức Phật. Tưong truyền ngày trước thuở vua Tự Đức, một vị vua rất có hiếu và biết vâng lời mẹ là Đức Hòang Thái Hậu TưDụ. Khi đuc bà Từ Dụ lâm bệnh nặng, các ngự y gặp khó khăn trong việc chữa bệnh cho đức bà Từ Dụ. Lúc đó vua Tự Đức được tấu trình và cho tìm vị cao tăng tại Tà Cú về cung trị bệnh cho Hòang Thái Hậu Từ Dụ. Vị cao tăng dùng đông y dược thảo để trị bệnh cho hòang thái hậu. Hòang Thái Hậu Từ Dụ khỏi bệnh.. Vua Tự Đức nhớ công lao của vị cao tăng, nên ra chiếu chỉ cấp ruộng đất vùng Tà Cú để vị cao tăng trụ trì và hành đạo. Trải qua năm tháng dài và nhiều triều đại, đến nay vùng Tà Cú được bảo quản và trùng tu thành điễm du lịch cho khách từ xa.
Nói đến vua Tự Đức, một ông vua rất thích văn chương thi phú. Tục truyền khi người yêu của nhà vua chết, vua Tự Đức đã xuất khẩu thành 2 câu thơ bất hủ lưu truyền đến ngày nay :
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi..”
Tình tự thay cho một nhà vua cũng yêu đương và thương tiếc người yêu của mình, đã thốt ra những lời thơ tha thiết vương vương nổi nhớ nhung, thương tiếc người tình đã mất.! Tình yêu là thế đó.
“…Có ai định nghĩa được chự yêu,
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
No chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bắng mây nhẻ nhẹ, gió hiu hiu"
Với tinh thần cạm thông nổi đau của những người được yêu và đã yêu, thê` hệ sau thi sị Xuân Diệu có viết:
"Phút gần gủi cũng như giờ chia biệt,
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với t2inh yêu.
Vì mấy khi yêu mà được yêu,
Yêu là chết trong lòng một ít"
Cuộc vui nào cũng tàn, chuyến đi nào cũng chấm dứt.
Chuyến du ngọan ngắn ngày của chúng tôi cũng nằm trong quy luật này. Ngày về và giả từ chia tay nào cũng có nỗi lưu luyến, nuối tiếc những gí còn chưa được hưởng tận. Và có người cãm xúc ghi lai 8 câu thơ để nói lên trong giờ chia tay với đòan :
Đường ra Mủi Né xa thăm thẳm,
Duyên dáng Ngọc Trâm (*) dẫn lộ trình,
Chia tay lưu luyến vòng du lịch,
Thương nhớ vương vương khách lữ hành.
Anh về anh nhơ Ngọc Trâm nhé,
Dù ở phương trời, góc biễn xa,
Ai đi hảy thương về quê mẹ,
Gấm vóc giang sơn, nước non nhà.’.
và cũng từ thi sĩ Xuân Diệu :
"Thiên hạ về đâu? sao vội đi?
Bao giờ gặp nửa có tinh chi?
-Lòng tôi theo bước người qua ấy,
Cho đến hôm nay chẳng thấy về"
Heichpe.
(*) Tên người hướng dẫn du li.ch.
HP ghi lại để trang trải chuyện mình đến người theo dỏi chuyến đi và có lời chúc lành. Cám ơn người.
|