NHẮC CHUYỆN GÒ CÔNG
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=385
Ngày in: 29/Apr/2024 lúc 10:45am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: NHẮC CHUYỆN GÒ CÔNG
Người gởi: thylanthao
Chủ đề: NHẮC CHUYỆN GÒ CÔNG
Ngày gởi: 30/Sep/2007 lúc 3:23pm
NHẮC CHUYỆ N
GÒ CÔNG
*
- Gò Công với tôi vẫn là nơi có
nhiều kỷ niệm khó quên nhất, tôi đã sống liên tục 18 năm tại đây , cho tới ngày
rời trường Trung Học Gò Công lên tạm trú tại Sài Gòn và sau nầy là những ngày
trong quân đội mới bắt buộc tôi phải xa Gò Công, Bây giờ nơi đất tha hương tôi
rất thèm được nhắc lại chuyện Gò Công, Không có người đối thoại thì nhắc một
mình vậy, với một khoảng thời gian dài trí nhớ nhiều khi cũng không được chính
xác lắm , những sai lầm, thiếu sót xin được chỉ dẫn rất cám ơn ...
Một
ngày thăm nuôi rồi cũng qua mau, đây cũng là lần đầu tiên trại tù cho phép thăm
viếng đặc biệt trong ngày đầu năm mới, những người lính, cán bộ và công chức
cao cấp của tỉnh Gò Công ăn cái Tết đầu tiên trong tù sau ngày Cộng Sản cưỡng
chiếm miền Nam
.
Cơ
sở của trại cải tạo Huyện Tây nguyên trước 75 là trại gia binh của chi khu Hoà
Đồng hình như mới cất xong chưa có người ở, nằm trên trục lộ chính vào quận ,
vị trí phía bên nầy cầu về hướng tỉnh lộ
Mỹ Tho Gò Công .
Sau
3 ngày tập trung : 24, 25, 26 tháng 6 năm 75 ,tất cả các sĩ quan trong quân lực
Việt Nam Cộng Hòa trình diện tại tỉnh Gò Công từ cấp Thiếu Úy trở lên đều đưa về trại nầy, sau một thời gian ngắn
một số đông sĩ quan được đưa đi các trại khác như Cao Lãnh, Kiến Hòa... thành
phần còn lại tại trại là giáo chức và hành chánh biệt phái, Chiến Tranh Chính
trị, An Ninh Quân Đội,Cảnh sát,nữ quân nhân, Xây dựng nông thôn và một số khác
thuộc thành phần tình báo, cải huấn, sĩ quan giải ngũ,...
Trại
gồm có 3 dãy, hình chữ U, mỗi dãy có khoảng 10 phòng, nóc lợp thiếc, nền đất,
hành lang tráng xi măn, nước tắm giặt lấy từ ao phía sau trại( Vừa mặn, vừa
phèn), nước uống mỗi ngày có xe chỡ đến do anh em trong trại tình nguyện đi múc
nước ao làng về phân chia cho từng đội .
Mỗi
phòng là một tổ, trung bình là 12 người , ba phòng là một nhóm, những anh em
được đề cử làm tổ trưởng nhóm trưởng thường là những người có thân nhân theo
Việt Cộng .
Nhóm
của tôi phần đông là hành chánh và giáo chức biệt phái, Đại Úy Hỉ (Tôi không rõ
gốc gác của tên nầy ) làm trưởng nhóm kiêm tổ trưởng tổ 1 , Tổ trưởng của tôi
là Th/ úy Trần Văn Trên ( Cựu học sinh khóa 6 trung học Gò Công ) Thuộc lực
lượng Cảnh Sát Dã Chiến ( có hổn danh là Cò Ma hay C.S dễ chết ) tổ trưởng tổ 3
là Tr/Úy Trần Kim Định, cựu học sinh khóa 3 trường Gò Công, Sĩ quan pháo binh
SĐ21, biệt phái trưởng ban nội an quận Hòa Lạc, cấp bậc cao nhất trong nhóm của
tôi là anh Thiếu Tá Cảnh, Trưởng phòng truyền Tin tiểu Khu Gò Công , người mang
cấp bậc thấp nhất là Th/Úy Nghĩa, Phi Công trực thăng thuộc SĐ6KQ ,, giải ngũ
loại 3, gốc người Tân Phước Ngày vào trại anh khỏang 25 tuổi, Thiếu úy giải ngũ
không phải trình diện , Có lẽ vì ham vui, xin đi học cho biết với người ta( vậy
mà cũng gỡ hết 11 tháng lịch) .
Tù
tại trại nầy hầu hết là những người sinh quán tại Gò Công, số còn lại là công
chức quân nhân làm việc tại tiểu khu thuộc người của tứ xứ, nên hầu như mọi
người không quen thân thì cũng biết mặt nhau hết .
Ngày
30 - 4, ngày đau buồn nhất của đất nước, lá cờ vàng thân thương yêu kính bị thay
bằng lá cờ sao tanh máu, lòng người hầu như cũng chao đão theo hướng gió trở
cờ, trong cảnh tù đày, những người từng phục vụ chung một màu cờ nay sa cơ nằm
trong tay giặc lẽ ra phải thương yêu đùm bọc nhau, nhưng có một số khá đông
thay lòng đổi dạ, hợp tác không công cho tặc quyền chỉ điểm hãm hại anh em. Với
một hy vọng hão huyền là sẽ được giặc tha về sớm cũng như sẽ được nhận làm việc
lại .
Tại
trại nầy nói tới những tay ăn ten, làm chó săn chỉ điểm, hãm hại anh em thì
đứng đầu sổ là Đ/Úy Hỉ, thứ hai là Tr/Úy Phan Thành Quang, con Ông Phan Văn Kỳ
ở Hòa Đồng, cựu học sinh khóa 5 trung học Gò Công, nguyên phân chi khu trưởng
Vĩnh Bình, xuất thân khóa 4/68 Thủ Đức, sinh năm 1946 tại Vĩnh Lợi .,Bản thân
cha mẹ không ai theo VC, một người anh là Trung Úy Phan Thành Long đền nợ nước,
một người anh kế là biệt Kích Phan thành Châu mất tích trong lần giao tranh với
VC, ngoài một vài tên lấy điểm mong được tha về sớm, còn lại một số tổ trưởng
nguyên là cựu học sinh Trung học Gò Công đều rất dễ chịu tạm sống trong tình
trạng nín thở qua sông ...Đó là các Anh : Thầy giáo Chánh ( khóa 1 THGC ), Võ
Huỳnh Long ( khóa 3 THGC)...
Tôi
thuộc nhóm của hung thần Hỉ nhưng cũng còn may mắn, hai tổ trưởng, một là đàn
anh, một là đàn em Trung Học Gò Công,Trần văn Trên lại có họ hàng ...vài tầm
đại bác với gia đình tôi, trong phòng tôi nằm cạnh Trên, hai anh em vẫn thường
thức khuya chuyện vãn với nhau, Trên có người Anh tập kết ra Bắc , sập tiệm về
mang cấp Thượng Úy, một người anh kế , Trung Úy Tài Chánh Hành Chánh chết tại trại
tù Kiến Hòa vì thiếu thuốc men trong một cơn bệnh tầm thường, Ba của Trên, tôi
gọi bằng dượng Bảy, khoảng năm 60 bị du kích bắt trói bịt mắt, đang đọc bản án
để xử tử thì quân đội quốc gia đến kịp nên thoát chết , Tình cảnh gia đình Việt
Nam nhiều nhà gặp cảnh nhiêu khê rắc rối như vậy. Bản tánh Trên thật hiền ,
thuộc loại người thích an cư lạc nghiệp, lúc làm trung đội trưởng CSDC, buổi
chiều sau khi xong việc , Trên thường qua uống trà nói chuyện với chú thợ mộc
có nhà gần đơn vị, thay vì như những người lính khác tụ tập nhậu nhẹt hay la cà
đến những nhà có gái đẹp , Sau ngày sập trời, chú thợ mộc trở thành lãnh đạo
của tỉnh, nhớ đến Ông Thiếu Úy vẫn thường đến uống trà, có dáng dấp như một
nông dân; bèn làm một cử chỉ đẹp, người cấp cho Trên một giấy chứng nhận có
công hợp tác với” Cách Mạng.”..Khi không mà có được giấy nầy, thằng nhỏ bọc
plastic bỏ túi phòng thân , dù sao có lá bùa nầy cũng đở trong thời buổi ...Khỉ
về thành
Từ
ngày anh Lư của Trên chết, mấy tuần sau mẹ chết, Trên có được đặc ân về phép để
tang mẹ, lần trở vô trại. nó trở nên ít nói, Miệng luôn ngậm điếu thuốc rê, để
ý nhìn kỷ thỉnh thoảng trên khóe mắt Trên ửng đỏ. Thì ra thằng nhỏ mang trong
lòng nỗi bất mãn ngầm, bản tánh ít nói nên nó không bộc bạch như những người
khác, mỗi buổi chiều các tổ trưởng , nhóm trưởng đều được mời lên văn phòng
uống trà với cấp lãnh đạo trại, gọi là uống trà chứ thật ra đây là cuộc họp
giữa ban giám thị trại và các tổ trưởng để chỉ thị và nhận báo cáo từ các tổ
trưởng, tôi còn nhớ gương mặt của thằng Quang đèo, mỗi lần tan tiệc trà ôm sổ
trở về, mặt nó tươi cười tự đắc một cách khó ưa, trong các buổi trà đàm nầy
những báo cáo nhỏ nhoi không quan trọng lắm đều được góp ý ở đây , tất cả mọi
chi tiết Trên đều thuật lại cho tôi nghe,Tôi
rất cần biết những điều nầy để phòng thân cũng như kịp thời cho các bạn
đồng chí hướng biết ...mà để ý tránh những thằng từ phong cách làm người xuống
làm sâu bọ. chó má...
Sau
lần thăm nuôi dịp Tết nầy, trại cho xã cảng gần 10 tiếng đồng hồ để gặp thân
nhân, nên tôi cũng biết được nhiều tin tức về quân phục quốc và một vài cá nhân
chống đối bên ngoài mà từ ngày vào trại đến bây giờ tôi mới được biết, Mẹ của
tôi, một người Mẹ rất thương con ( câu nầy viết có khi thừa ) dù bà rất sợ tai
vách mạch rừng, dù bà rất muốn tôi sống cảnh ai sao mình vậy đừng để ý chi
chuyện bên ngoài, nhưng lần thăm nuôi nào cũng vậy, dù cán bộ ngôì kế bên nhưng
sơ hở một chút là mẹ cũng cho tôi biết một vài tin, đại khái có treo cờ ở nhà
Cậu Mười, có truyền đơn rải .ở Ao Trường Đua, có lần Mẹ cho tôi một tin mà tôi
phải phì cười, tàu lặn Mỹ vô tới cầu Sơn Quy, tôi hỏi sao Mẹ biết, Mẹ tôi thì
thào: thì dân đóng đáy thấy lưới rung rinh, nhưng dù sao qua tin nầy tôi cũng
biết được tâm lý phản kháng của quần chúng bên ngoài ...
Lần
nầy được thong thả ngồi cạnh tôi trong một khoảng thời gian dài, Mẹ có dịp kể
cho tôi nghe nhiều chuyện kể cả đọc cho tôi nghe một vài câu thơ không biết tác
giả mà nội dung nói lên sự ngu dốt của cán bộ CS cũng như những bất mãn từ phía
dân chúng đối với tặc quyền, Mẹ nhìn trước ngó sau rồi cố giữ vẽ mặt thản
nhiên, Mẹ kể cho nghe chuyện VC xử bắn Anh Huệ chị Lan vào ngày rằm tháng 7,
ngày lễ vu lan, mùa báo hiếu, ngày xá tội vong nhân ...Mẹ kể chi ly từng chi
tiết với lòng xót xa thương cảm, cách một hàng rào kẽm gai bên kia là đường, là
xã hộị bên ngoài mà chuyện xãy ra trong tỉnh nhà, mấy tháng sau tôi mới được
biết nhờ kỳ thăm nuôi đặc biệt nầy ...
Buổi
cơm chiều tuy thức ăn đầy đủ lại có nhiều món ngon, anh em chung phòng bày ra
cùng ăn uống chung, nhưng buổi cơm lại qua nhanh hơn những buổi cơm bình
thường, có lẽ không đói lắm, có lẽ còn vương vấn dư hương người nhà, và trong
dịp tiếp xúc với thân nhân đã được nghe nhiều chuyện buồn vui trong gia đình,
nên mỗi người có một tâm sự riêng, mà trong hoàn cảnh nầy chỉ có anh em ruột
thịt hay bạn thật thân mới dám thố lộ tâm tình cho nhau nghe ...
Tôi
mắc sẵn mùng dù trời chưa tối hẵn, đứng trước phòng nhìn ngó bâng quơ một lúc,
thấy buồn buồn trong người, thấy cần phải có người để giải tỏa bớt những đìều
thu nhận được trong ngày thăm nuôi, tôi bước về hướng sân sau có ý tìm thằng
Trên ...tìm thằng nầy không khó, một chiếc võng nylon mắc tạm trong nhà bếp,
thằng Trên nằm có vẽ buồn, điếu thuốc sâu kèn trong tay, nó nhả khói liên tục
...Tôi đi lại gần nó ...
-
Ê nằm buồn vậy tụi ?! nấu bậy gô nước trà uống nói dóc chơi Trên. Thằng Trên
nhìn tôi cười không nói, nhỏm dậy lẹ làng lấy gô múc nước, khơi bếp lữa, tay
làm miệng hỏi :
-
Sáng nay Mợ Ba lên thăm có tin gì hay không Anh Bảy ,
-
Mấy tháng rồi đâu có dịp gần gủi nói chuyện tự nhiên nên kỳ nầy cũng có nhiều
chuyện lắm, tôi hạ thấp giọng - Chú có hay tin vụ xử tử Lan Huệ vào ngày
tếtTrung Nguơn không ? Thằng Trên ngưng tay , giọng thật nhỏ - bộ có vụ đó nữa
sao anh ? ngày rằm mà ai lại xử bắn. trong nhà bếp chỉ có tôi và Trên, các bạn
cùng phòng đi lang thang trước hành lang hay ra hội trường ngồi đọc báo.
-
ừ , nước gần sôi rồi , , pha trà đi, tao sẽ kể cho chú mầy nghe .... Dù nhỏ tuổi hơn Trên nhưng tôi học trên
một lớp và lớn vai vế trong gia đình , nên tôi vẫn thường tỏ vẽ đàn anh với
Trên
Tôi
ngồi trên bực thềm nhà bếp đối diện với thằng Trên, hai ly nước trà bóc khói,
một bao nylon đựng thuốc rê ...tôi mơ màng nhớ lại cảnh cũ người xưa...
-
Ở Gò Công chú mày biết nhà máy xay lúa của Thầy Tư Ngô không ? nhà máy nằm trong cuộc đất của Ông Chủ Chí,
mặt ngó ra ruộng về hướng biển Tân Thành, bên hông là đường Nguyễn Thái Học,
bên kia đường là tường rào trường Bà Phước .
Thằng
Trên tay xe thuốc miệng hỏi - nhà máy
xay lúa nầy tôi biết mà tại sao lại gọi là nhà máy Thầy Ngô, ông làm
việc ở đâu chức vụ gì vậy anh Bảy .
-
Ờ, dân Gò Công mình là vậy đó, Ông Tư Ngô nầy chẳng có làm việc gì hết, nhưng
gia thế có tiền, Có người em ruột là luật sư Dương Tấn Tài, chú nhớ thời đó ở
xứ mình luật sư đếm đầu ngón tay, ông Tư Ngô lại là rể của Ông Đốc phủ Tường, người có chút chữ nghĩa, nhà giàu dân
coi trọng gọi là thầy chứ không có làm chức việc gì hết.nhà máy lại không có để
tên hiệu nên dân dã quen gọi là nhà máy Thầy Tư Ngô. Ông có người con gái học
một đợt với chú mầy, Dương Thị Hường tốt nghiệp
cử nhân ban sử địa tại Đại Học Văn Khoa SG, hình như dạy ở trường Lê quý
Đôn hay Marie Curie gì đó ...
-
Mà sao nói chuyện xử bắn mà anh lai nói đến thầy Tư ? thằng Trên hỏi vặn tôi .
-
Thì từ từ, chuyện gì cũng có đầu đuôi chứ chú mầy, trước đây, khu đất nầy vắng
vẻ, suốt con đường lộ đá từ trước nhà máy xay lúa xuống đến ngã ba nhà Ông
Huyện Danh chỉ có 4 ngôi nhà cùng trong vòng bà con nhau đó là nhà Ông Chủ Chí,
Ông Chín Thơ , nhà Bác Hai Hiếu ( luật gia Nguyễn Minh Hiếu, con trai ông chủ
Chí, nhà nước trưng dung làm cơ sở quân đội là tỉnh Đoàn Bảo An, rồi sau nầy là
hậu cứ Tiểu đoàn 882... )chú cứ nghe, tao sẽ kể chi li từng chi tiết , chú ít ở
Gò Công nên ít biết tên người, Ngôi nhà ngói xưa gần cuối đường là của cô Ông
chủ Chí và ngôi nhà ngay đầu đường là nhà
Chú Sáng, quân nhân phuc vụ tại Gò Công. Gò Công lúc đó dân còn thưa(
toàn tỉnh chưa tới bốn chục ngàn dân), mỗi người trước cái tên thường mang thêm
danh chức, chú Sáng nầy được dân trong xóm gọi là Lính Sáng vì chú đi lính trơn
không có cấp bậc ( Binh Nhì), Bên kia đường là ruộng kéo dài gần tới ao Trường
Đua, chú đâu có nhớ, khoảng 1956 , ngay góc ngả ba trước nhà Ách Tròn ( sau
giải ngủ với cấp bậc Trung Úy, ra làm ty bưu điện GC ) chú Sáng cất lên 1 cái
quán, hình thức nhà sàn nổi trên mặt ruộng, quán tên Bồng Lai, quán bán đắt
khách, ban đêm đèn ết đa treo bốn năm cây sáng trưng vậy mà chú Sáng phải dẹp
tiệm vì nạn ghi sổ, thiếu vốn đành đóng
cửa, chú Sáng mới ngăn đôi quán ra làm 2 phòng cho thuê, người ở căn bìa phía
đông là Thiếu Úy Xương, người ở căn phía Tây là Ách Ry, có thời làm trưởng ban
quân nhạc Gò Công, trưởng đồn Tăng Hòa, thời đó mỗi xã đều có một Ông Ách coi
xếp về quân sự, tao không biết gọi là chức gì tạm gọi là chỉ huy trưởng quân sự
... Sau Ông nhập học khóa 6 Thủ Đức nhưng vì thiếu điều kiện về văn hóa nên ra
trường với cấp bậc Thượng sĩ nhất, Chuyện Ông nầy để tao kể cho chú mầy nghe,
lúc tao đi lính ở Sài Gòn tao ở nhà của chị Tư, trong hẽm, bên hông Cảnh
sát đăng bộ ngã tư Bình Hòa, buổi chiều tao đi bộ ra ngã tư mua thuốc hút,
đường ngã tư Bình Hòa giờ tan sở buổi chiều kẹt xe khỏi nói, tao mặc đồ trận
đứng trên lề cả buổi mà không băng qua được lộ, rảnh rỗi mắt ngó nhìn ông bà
qua lại, chợt tao thấy một người ngồi phía sau một xe honda 100 phân khối,người
cầm lái là một thanh niên trẻ mặc quân phục mang phù hiệu tiểu khu Gia
Định, tự nhiên tao buột miệng gọi lớn vì
thấy hình như quen
-
Anh Ry , người đàn ông ngồi phía sau nghe tiếng tao gọi vội khều người chỡ bảo
tấp vô lề xem coi có ai gọi kìa .Tao bước tới gần xe
-
Xin lỗi anh có phải là Anh Ry, quê Cầu Nổi Gò Công? .Anh Ry có vẽ ngạc nhiên,
nhìn tao rồi hỏi
-
Thiếu Úy ở đâu mà biết tên tôi .
Thế là hơn 15 năm tao nhìn người
rất đúng( Tao nhiều khi cũng biết sợ cái trí nhớ của tao), anh em kéo nhau vào
ngồi bên xe sinh tố bên đường hàn huyên , nhìn người lính mặt mũi có vẽ vênh
váo tao đoán biết anh Ry hiện đang phục vụ trong một ngành nào đó cũng có
quyền, có thớ ...Biết lý lịch của tao anh Ry rất mừng, anh cho biết là đang làm
tại phòng 2 tiểu khu Gia Định( tao nhìn mặt bắt hình dong cũng khá) , anh mặc
thường phục nên tao cũng không hỏi cấp bậc , khi anh rời Gò Công tao mới học
lớp nhì, lúc đó anh mang cấp bậc thượng sĩ nhất . Anh rất ngạc nhiên khi tao
còn nhớ đến anh, anh cho biết là sau khi vợ anh chết vì tai nạn trong xưởng dệt
ở Cầu Nổi sau nầy anh sống với người con gái thứ tư của Thầy Tư Ngô là chị Tư
Long, có mấy người con, con gái đầu tên Quyên, trước khi chia tay anh
căn dặn tao khi nào rảnh ghé phòng 2 tiểu khu hỏi Trung Úy Ry ...Từ đó về sau
anh có mấy lần ghé qua tiểu đoàn tao, sau anh biệt phái qua làm bên an ninh phi
trường Tân Sơn Nhất, từ đó tao không có dịp gặp cho tới ngày bể dĩa . Thời đó ở Gò Công có rất nhiều ông Ách
khạc ra tro, ho ra lửa tao kể sơ cho chú mày nghe một vài tên như Ách Đại, Ách
Dần, Ách Mẹo, Ách Thà ,..
Tao
kể vòng vo tự nẫy giờ, chắc chú mày cũng chưa biết gì về vụ án Lan Huệ, thì từ
từ mầy ngồi nghe tao kể dần dần mầy sẽ rõ ... Trước nhà máy xay lúa của Thầy Tư
Ngô phía đối diện bên kia đường có một cái chòi lá với diện tích khoảng 10
thước vuông, quán của bà Tư Hường ...bán các loai bánh thông dụng như bánh ích,
bánh tét, bánh ngọt, các loaị kẹo, mía, khô rượu, thuốc lá ... khách hàng của
quán là những người xay hàng xáo, về sau Trường tư thục Khai Trí dời về cất
trên miếng đất sau lưng trường Bà Phước, giáp ranh với Chùa Ông, đất của Ông
Chủ Chí cho thuê , Ông Bùi Tuấn hiệu trưởng trường Khai Trí cất lại trường
khang trang hơn lúc còn ở bến xe ngựa, quán trở nên đông khách, đồng ra đồng
vào Bà Tư cũng đủ chi dụng dư dã cho gia đình .
Bà
Tư gốc người làng Bình Xuân, khi mở quán , bà đang sống với người chồng thứ ba
là Ông Bếp Hường. nhà bà ở bên hông nhà Ông Trung Úy Tròn, có một con đường hẻm
đi vô, bên trong có hai ngôi nhà , một ngôi nhà ngói 3 căn, nền cao đó là nhà
bà Tư Hường, cạnh bên là lò rèn, từ đây có thể đi vòng ra phía sau hẻm Chiến sĩ
12 ( nhà bà Tư Hường đâu đít với nhà của Ông Thầu Khoán Quê Hương ) Phía trước
mặt lộ là một nhà ngói 3 căn mới cất ( khoảng 1953 ) của Cậu Bảy Phòng cũng gốc
người Bình Xuân ( ở được mấy năm cậu bỏ lên Sài Gòn , nhà ngăn làm 3 gian cho
mướn, Căn bìa Chị Đinh Nguyệt Anh, người nữ sinh năm xưa đã choàng vòng hoa cho
Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi người đi kinh lý tỉnh Gò Công bằng đường biển vào
ngỏ Vàm Láng. Chị Nguyệt Anh sau nầy là bà luật sư Huỳnh Văn Bổn , ( Trước năm
75 Luật sư từng là giáo sư trung học Gò Công
Người viết bài từng là học trò của Thầy Bổn, năm học đệ ngủ Thầy dạy
Toán, năm học đệ tam thầy dạy Công Dân ) .
Người
chồng thứ nhất của bà Tư là Ông Ngô văn Thạc gốc người Bình Xuân, nếu chú đi
lính ở Gò Công thì khi hành quân ở Bình Xuân chú sẽ thấy trên bản đồ quân sự có
một điểm đứng tên gọi là nền nhà Ông Cả Trọng .
Thằng
Trên lỏ mắt nhìn tôi :
-Sao
anh rành quá vậy, nghe anh nói giống như trong vòng bà con thân thuộc ..
-
Ờ thì Gò Công có chút xíu, ra đường gặp một người là nhận biết có khi tới 3 đời
...chú cứ ngồi nghe rồi dần dần chú sẽ biết ...
Ông
Cả Trọng nầy là con Thứ sáu trong một
gia đình 10 anh chị em,Tao kể một vài người đặc biệt trong gia đình cho chú mầy
nghe ... Người thứ tư là bà Tư Nén( sinh năm Giáp Thân1884, tao nhớ niên hiệu
nầy hoài là vì học sử , năm nầy hòa ước vong quốc ra đời) vợ của Ông Hương Giáo
Giác trong Tăng Hoà, ngôi nhà mà VNCH trưng dụng làm dinh quận là nhà của bà,
bà goá chồng năm 24 tuổi, ở vậy nuôi 3 người con, hai trai một gái, người con
lớn ra Hà Nội học đậu thú y làm việc tại lò heo Chánh Hưng, chú mầy còn nhớ
thời Ông Huyện Thung và rất đông nhân viên ôm gói vào Chí Hoà nghỉ xã hơi vì
tham nhủng, thì ông thú y Hai(ông thứ ba mà tên Hai) nầy vẫn tiếp tục làm việc
nhờ không biết hối lộ, em trai ông thú y là Tú tài Tư, người thứ hai là... tao
quên tên, bà có người cháu ngoại là Ông Tòa áo đỏ Trần Khương Trinh, làm trong
tối cao pháp viện, người thứ bảy là Ông Cả Bửu có người cháu nội là Anh Ngô văn
Mùi trưởng Ty Nội An Gò Công hiện chung trại với mình, người thứ tám là bà Tám
Tiên có chồng gốc Cần Đước, bà có 2 người cháu ngoại cùng dạy văn chương trường
trung học Gò Công là thầy Ba và cô Lang , ông thứ mười có đứa cháu nội là thằng
Ngô Hoàn Toàn học chung lớp tao tử trận năm 70, bà thứ 11 có chồng là Ông Giáo
Huỳnh gốc người Tân Trung, xuôi gia với Ông Hội Đồng Lộ Công Mười ( Ba của Đại
Tá Lộ Công Danh )và Ông Huyện Chà Trưởng Ngân Khố Gò Công bị VC giựt mìn chết
trên đường đi lãnh tiền từ Mỹ Tho về Chung xe có Cô Túc, thơ ký kế toán cũng
chết luôn, Bà11 có con trai là Trung tá Huỳnh Khánh Hoàng từng giử chức trưởng
khối quân huấn trường BBThủ Đức .
Đêm
nay rảnh rỗi ngồi kể chuyện Gò Công cho
chú mày nghe chơi, từ từ tao sẽ vô đề .
Bà
Tư ở với ông chồng thứ nhất có 3 người con trai là Lộc, Phước, Nhẫn, cậu Lộc
cậu Nhẫn sống ở Sài Gòn, cậu Phước có xe bò chỡ thuê nước ao Trường Đua sống
chung với bà Tư ( dân Gò Công gọi là xe bò đổi nước chứ không ai gọi là bán
nước ), vợ là người đàn bà đứng bán quán, đẹp duyên dáng và rất đoan trang, một
tay mợ Ba chăm sóc giang san nhà chồng ..(
Đặc biệt ba anh em giống nhau như 3 giọt nước, cậu Ba Phước mất năm
1990, tôi có về đi đám tang, tôi còn nhớ buổi tối tôi đến nhà, sân vườn um tùm
không được sáng sủa lắm, tôi thường gặp cậu Ba hơn hai cậu kia, vừa bước gần
tới thềm cửa tôi giật mình vì thấy hình như cậu Ba đang đứng nhìn tôi cười ,
trong lòng cũng hơi sợ " Ông nào thác xuống âm ty - Ông nào còn sống giờ
thì ... đứng đây " Nhìn kỷ lại là cậu Hai Lộc )
Người
chồng thứ hai của Bà Tư tao không biết tên có hai người con, trai là Huệ ( gọi
tiếp thứ là Năm Huệ ) và gái là Bé Sáu, người chồng thứ ba là Ông Bếp Hường có
một người con trai, cha già con muộn ông bà cưng như vàng, cậu nầy lúc nhỏ
chích thuốc bị phản ứng sao đó nên chân bị tật ở nhà gọi là Đực, thứ bảy tên
Nở.Trước 75 chú mầy đi chợ Gò Công có khi nào bị chọt bụng bất tử không ?
-Sao
anh hỏi kỳ vậy, chuyện anh đang kể mà liên quan gì tới vụ chọt bụng của tui .
-
Sao lại không. chú mầy nhớ trước năm 75
... khoảng năm 1957 Ông thầu khoán Tư Bảy, nhà ở trước nhà thương cao cẳng cạnh
cầu Long Chiến lãnh cất Chợ cá Gò Công nổi trên mặt sông sát bờ trông rất sạch
sẽ vệ sinh ( hình như còn tới bây giờ ) đồng thời cũng cất một cầu tiêu chợ,(
kế bên hai chiếc ghe bán đồ gốm), bằng gổ, một mặt day vô bờ một mặt day ra
sông cũng rất sạch sẽ vì sông nước lớn ròng mang đi tất cả chất thải ... vì
bằng gổ nên chỉ chịu đựng một thời gian trước nắng gió, nên nhà nước mới cất
một cầu tiêu hầm sau cây xăng của Anh Thượng cháu của Chú Dương An ( chủ phòng
ngủ Bích Vân ) trên miếng đất của chú Ba vá vỏ xe hơi ngày xưa , trước phòng
ngủ Bạch Đằng , Miếng đất mà ngày chú mầy còn tắm mưa ở truồng, mỗi lần có đoàn
Mô Tô bay về biểu diễn đều cất rạp tại đó, có người đẹp Bạch Yến mà sau nầy là
ca sĩ nổi tiếng với bản Đêm Đông. Chỗ nầy tao cũng nói thêm cho chú mày biết,
Ông Thầu Tư Bảy có người Quản Lý là Chú hai Lãnh, chú hai nầy có người con rể
là Đội Nhung, Thuở nhỏ tao có thấy mặt thầy đội nầy mấy lần.. mặt trông cô hồn
lắm, tao còn nhớ thầy đội đi giày đinh kêu cộp cộp,mắt thầy đội có gân máu đỏ,
mày biết thầy đội sau nầy là ai không? Chú mầy chắc không biết đâu, năm 1963
thầy đội nầy là Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của hàng tướng Dương văn Minh, cũng
chính là sát thủ giết anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chú mầy muốn biết đội
Nhung hung hăn cở nào thì hỏi cô giáo Tươi học một đợt với chú mầy nhà sát bên
nhà ông Tư Bảy. Để giữ vệ sinh nên nhà nước mở cuộc đấu thầu thâu tiền vô cửa
làm quỷ vệ sinh và cậu Bảy Nở nầy trúng thầu ... Nếu chú mầy có chọt bụng bất
tử lúc trước thì chắc biết mặt người em trai út của anh Huệ . Anh Huệ với tao hồi còn nhỏ vẫn rất thân
tình, buổi trưa anh thường dẫn bò đi ăn trên bờ đê trước nhà tao, cửa ngỏ nhà
ông Hương Thân Bính có mái lợp. nền lát gạch tiểu, diện tích khoảng 10 m2 , đây
là nơi tụ tập của một vài hạng người quen thuộc, đông nhất vẫn là lủ học trò tụ
về đây đánh đáo đá cầu, đá dế, chú Ba lục lộ phụ trách con đường Tổng Đốc
Phương vẫn thường vào đây ngồi nghỉ mát, chú thường đội một cái nón lá trên
đỉnh nón có một cái gù bằng sắt, chú Ba người trông lực lưởng, nói năng chửng
chạc, công việc của chú làm là khai thông các con mương trên bờ đê, cũng nhu
dẫy cỏ mọc lan từ đê ra đường, tôi vẵn thường ngồi nghe chú nói chuyện, biết
tôi là con út của ông giáo nên chú rất có thiện cảm, dần dần tôi biết chú là
thầy dạy bùa Lổ Ban cho anh Kỳ con cô bé Tư và Anh Tâm con chú Ba Nam , Anh Huệ thấp người nhưng rất khỏe mạnh, da
đen bóng vì dang nắng, anh cũng rất thích tôi, anh lớn hơn tôi khoảng 5 tuổi,
tôi thường đá cầu với anh, đánh cờ tướng ( lúc đó tôi mới học lớp ba ) thỉnh
thoảng anh ưu ái đở tôi ngồi lên lưng bò
, anh chỉ tôi
cắt cỏ ( lúc ở trại Hà Tây, trong đội rau, mặc dù tôi rất lười lao động và sức
yếu nhưng cắt rau muống thu nhập rất xuất sắc mặt rau cắt xong khỏi phải tề
lại, lúc ở đội chăn nuôi, tôi cắt cỏ cho cá ăn cũng rất nhanh, có lẽ cũng nhờ
sư phụ Huệ chỉ lúc nhỏ ) ... Thời gian lặng lẻ trôi ... những ngày bắt đầu vào
Trung học tôi lại thích ở nhà đọc sách hơn là đi chơi long bong ngoài đường ,
từ đó tôi vẫn thường gặp anh Huệ vì chung một xóm ... năm 1970 tôi tăng phái cho
chi khu Bình Chánh, một chiều tôi nhận được lệnh phóng thanh đêm kêu gọi chiêu
hồi tại cầu Ông Thìn, Toán Dân Sự Vụ của tôi đến cầu trời vừa chạng vạng, Tôi
vào đồn Nguyễn Chi Mai liên lạc để biết thêm chi tiết, bất ngờ tôi gặp anh Huệ
đang phục vụ tại đây, tình đồng hương nơi đất lạ gặp nhau rất mừng, đêm đó tôi
với anh ngồi uống càphê trong quán bên
đường chuyện trò cho tới giờ tôi phải phát thanh , đêm đó tôi và nhân viên ngủ
trên xe đậu dưới chân cầu. Sáng sớm tôi thấy trung đội chuẩn bị đi hành quân, từng
tiểu đội lần lượt ra khỏi đồn, anh Huệ là Trung sĩ truyền tin, anh mang 1 máy
C25 , đi ngang xe có vẫy tay chào tôi ... đó là hình ảnh anh Huệ trong lần gặp
sau cùng ...
-Vậy
là chú mầy hình dung được anh Huệ chưa ? Anh Huệ bị giặc xử bắn ngay trong ngày
lễ Vu Lan .
Tao đã nói, Ở Gò Công chú mầy đâu
có biết ai đâu, thôi để tao nói tiếp về chị Lan .
Xóm
Lộ Me, Từ cái tên gọi, mầy cũng hình dung được xóm nầy nguyên thủy hai bên
đường trồng toàn Me, bây giờ thì tìm một cây đỏ con mắt cũng không ra, Khi đào
ao Trường Đua lấy nước cho dân xài , với một khối lượng đất khổng lồ đó ...ăn
làm sao cho hết, đầu tiên phóng một con đường thẳng góc với bờ ao chạy thẳng về
hướng nhà thờ dùng làm con đường để tải đất ... đem đấp nền dinh tỉnh trưởng.
năm tao biết ...bắn kè, xóm lộ Me nầy lơ
thơ có mấy cái nhà, từ ao Trường Đua đi ra hướng nhà thờ chỉ có nhà dân phía
bên phải lộ, bên trái là ruộng của Ông Chủ Chí ,thuở nhỏ tao thường đi hớt tóc
tiệm của ..." Chú Ba Mặt Đỏ "ngay góc ngả ba ao trường Đua, Chú tên
gì tao không biết nhưng mặt chú có vết màu đỏ gần hết mặt, thuở đó nếu không đi
chợ thì trong xóm chỉ có hai ngườI thợ hớt tóc, chú Ba mặt đỏ là một còn một
chú Ba nữa là chú Ba Tân Lợi ( Tân Lợi là tên của chòi hớt tóc, không gọi là
tiệm được vì quá nhỏ, lợp lá vách lá chỉ có một ghế hớt tóc và vài cái ghế đẩu
để khách ngồi chờ, hai chữ Tân Lợi được viết trên tờ giấy học trò dán trên tấm
kiếng ) Chòi của chú Ba nằm cạnh Tịnh xá ni, lúc Tịnh Xá Ngọc Quang chưa cất
khang trang trên đường về Bình Ân như bây giờ thì tịnh xá trú tạm trong nhà
trên của vợ chồng bà bán xôi cạnh nhà của "bà bóng" chuyên lên đồng
xem tình duyên gia đạo, bà đồng là má vợ nhỏ của Thầy giáo Năm bên đạo, (thầy
giáo Năm có chiếc xe hơi riêng từ thập niên 50)Nhà chú Ba mặt đỏ cạnh nhà thầy
Giáo Thạnh, Thầy Thạnh là ba của Thầy Giáo Lợi, lúc tao học đệ tam ông thầy Lợi
làm giám thị lớp tao, Ông Thầy Thạnh lúc hưu trí ở nhà làm hòn non bộ rất nỗi
tiếng ở Gò Công, bên kia đường ngay gốc lộ là một nhà ngói tường gạch nền đúc
của Ông Một Quờn ( Ông là quan một thời Tây về hưu )bên trái con đường nầy chỉ
có vài cái nhà, có một ngôi nhà lá nền đất cất trên một miếng đất mới đấp, nhà
nhỏ. Sân trước trồng hoa ... đó là nhà của thầy giáo Tốt, Ông gìa tao tức là
cậu Ba mầy thường nói, Mon sừ nầy thuở đi học tên là Cức được thầy giáo đổi lại
là Tốt. Khỏi nhà ông thầy Lợi có một ngôi nhà hơi thụt sâu vào trong đó là nhà
của ông già cụt một bàn tay . Tao phải kể chi li cho mầy dễ hiểu, thời thập
niên 50, giấy số ít có ai bán , nhà nước giao cho mấy thầy pô lít dùng để phạt
mấy xe đò chỡ quá tãi ...Sau nầy tăng lô trúng mới có người mua bán nhiều. Ở
Chợ Gò Công lúc đó chỉ có 2, 3 người bán vé số tập trung sau thum bán báo Huê
Mỹ, một kios đầu ngả ba bến xe ngựa, trước tiệm Billard của anh Tài Ngứng, kế
bên là tiệm chụp hình của ba thằng Sáng học chung với mầy, có thằng anh học
trước tao một lớp là Anh Mai lùn, ba người bán vé số ngồi trên 3 ghế trước tiệm
bán chim hoàng yến và lồng chim, thuở nhỏ tao ham chim lắm, mầy đừng có cười,
nên tao thường đến đây để xem .. chim ,
bởi vậy tao rành hết mấy vị trí ở khu nầy.
Trở
lại xóm Lộ Me, đầu thập niên 50, xóm Lộ Me có 2 đám tang sĩ quan làm mủi lòng
dân trong xóm, người thứ nhất là con trai của thầy Giáo Tốt ( con người vợ lớn
) Thiếu úy Đức, tao còn nhớ thầy Tốt lập
bàn thờ con ngay giữa nhà trên bàn thờ ảnh một vị sinh viên sĩ quan mặc lể phục
trường võ khoa Thủ Đức, đám tang thứ hai là của Đại Úy Nguyễn Văn Tấn con trai
của Ông già cụt tay bán vé số, Ông Tấn tử trận tại vùng 7 núi trong binh chủng
Thiết giáp để lại một đàn con dại, Ông già cụt tay cưu mang đàn cháu nội nuôi
ăn học cho đến lớn, thằng con trai lớn của Đại Úy Tấn học một lượt với chú mầy,
sau khi đậu tú tài tình nguyện đi khóa 25 Thủ Đức, lúc ra trường về làm sĩ quan
an ninh tỉnh đoàn XDNT Gò Công đó là Thiếu Úy Nguyễn Kim Hồng, về sau vì lậm ma
men gây nên lỗi lầm phải ra tác chiến ... Nguyên Đại Úy Triệu là Tỉnh Đoàn
Trưởng, đi công tác trên SaiGon , Hồng được cử XLTV Tỉnh Đoàn Trưởng, sáng sớm
ra ăn sáng ở quán Lạc Cảnh của Đ/Úy Triêm gặp một người bạn , phục vụ tại tiểu đoàn
50 CTCT về phép từ SaiGon , tay bắt mặt mừng, mới sáng sớm, bốn người làm hết 2
thùng bia ( black label) xong rồi rũ nhau lên Hòa Đồng nhậu tiếp, di chuyển
bằng chiếc xe jeep của Tỉnh đoàn, Hồng dành cầm tay lái, lúc bấy giờ đường Gò
Công Mỹ Tho đang được công binh Mỹ làm lại đường, cát bụi mịt trời mà lại lậm
ma men nên Hồng đã đụng phải một bà già băng ngang lộ chết tại chỗ ( lúc khám
nghiệm tử thi thì bà già nầy cũng có mùi rượu ), vì vậy bị kỷ luật phải ra tác
chiến, bị trọng thương giải ngủ năm 74, Ông Tấn có người Anh tên Nguyễn văn
Thinh trước có theo kháng chiến chống Pháp nhà ở Gò Tre, sau hiệp định Geneve
ông về Gò Tre làm ruộng... và Ông Thinh là thân phụ Cô Lan trong vụ án tử hình
Lan Huệ ở Gò Công .
Chú
mày thấy tao phải kể vòng vo về xóm Lộ Me để chú mày dễ nhận diện, mà tao chắc
chú mày nghe qua rồi ... cho qua luôn chớ đâu có nhớ gì phải không. Cô Lan nầy
là nữ quân nhân phục vụ tại tiểu khu Gò công, hỏi mấy tay phục vụ tại Gò Công
chắc biết ( có lẽ cô làm dưới quyền của Trung Úy Anh trưởng phòng Xã Hội
).Chồng cô cũng là quân nhân phục vụ tại Trung Tâm yễm trợ tiếp vận
Anh chị Lan Huệ, trong phong trào Phục Quốc Gò
Công, công an chẳng bắt được quả tang chỉ xét nhà bắt gặp mấy ram giấy trắng,
vậy mà kết án tử ... Tội nghiệp chắc là hai anh chị phải bị tra tấn dã man lắm
... đòn công an của Việt Cộng thì khỏi phải chê, chị Lan lúc đó đang hoài thai
trên 3 tháng, để lại 2 đứa con một trai một gái mới hai ba tuổi, mấy đứa nhỏ
sống cháo rau với bà ngoại cho tới lớn ( hiện ngụ tại sân bay Gò Công ), tòa án
nhân dân được thiết lập ở sân vận động Gò Công, xe phóng thanh bắt buộc mỗi
người dân đều phải đến sân xem xử án ... Anh Chị đã rất bình tỉnh khi nhận bản
án tử hình, miệng cười tay vung cao đã đảo Cộng Sản, Việt Nam Cộng Hòa muôn
năm, giặc phải nhét chanh vào miệng và bịt lại bằng khăn, đội hành quyết được
hộ tống bằng hai tiểi đội trang bị tiểu liên Tiệp Khắc( Loại súng tiểu liên
nòng ngắn gần giống như súng "tam xông " của quốc gia) , Còng tay anh
chi trói thúc ké giải lên xe GMC chỡ đến đầu cổng ấp chiến lược đường đi Mỹ
Tho, súng bắn từ ót mỗi anh chị mỗi
người một viên ...( bắn mà cũng hà tiện ) Giặc cũng còn nhân đạo, cho thân nhân
lãnh xác về chôn ... Thãm thương thay, đám tang có tiếng khóc mà không có tiếng
than kể ...bởi vì người dân đã quá sợ luật rừng của cái gọi là ... cách mạng .
Tao nói để chú mày nhớ giùm tao, trưởng công an lúc bấy giờ là tên Hai Trừ gốc
người Cù lao, có 4 thằng con trai tên là Cộng, Sản, Vinh ,Quang( có mấy đứa sau
nầy vượt biên) chủ tịch huyện là Tám Niên gốc người xóm Giêng ( Vĩnh Lợi )Tám
Niên có thằng em ruột chung trại mình, mặt mày lúc nào cũng kên kên là thằng
Thiếu Úy cảnh sát Chu.Tao cũng không hiểu Cảnh Sát Gò Công sưu tra lý lịch như
thế nào mà chấp nhận cho nó vào học ở Học Viện ( Việc nầy hỏi lại trưởng F Gò
Công xem sao )
Ê
chú mày, tao có điều tâm nguyện, ngày nào xé được cờ sao đỏ, tao sẽ rũ một số
bạn đồng chí lập ra ở nơi xử bắn một cái miếu nhỏ để nhang khói ghi nhớ anh
hùng liệt nữ đã vị quốc vong thân. Ngôi miếu có thể được đặt tên là trung liệt
miếu, ngôi miếu bên đường cũng để nhắc nhở một thời đau thương của dân tỉnh
nhà, và cũng để cho bọn chó săn, trở cờ mỗi lần đi qua thấy xấu hổ cho việc
mình đã làm trong thời gian sống trong lao tù Cộng Sản. . .
Đêm mùng một Tết, trời tối đen
như mực, thoáng có tiếng pháo từ trong xóm vọng về, xung quanh trại đèn được
chiếu sáng .,, mắt lúc còn trẻ nhìn rõ được những trái mìn Claymore còn trong
bọc nylon mà bề lõm day ra hướng ruộng bề lồi day vào trại ( bề lồi là hướng đạn
nổ )mà hôm trước Tết trại cho gắn cách rào vài mét với lời giải thích :vì các
anh gây nhiều tội với nhân dân nên trại sợ nhân dân trả thù các anh nên phải
gắn mìn phòng thủ, tụi khỉ trong rừng mới ra xem thường kiến thức của sĩ quan
Cộng Hòa, khỉ muốn nói gì thì nói ... từ khi có mìn gắn, anh em trong trại mặt
buồn thấy rõ, vì anh em đã lờ mờ hiểu được mình là ai ...
Thằng
Trên nấu tiếp một lon trà mới,Nó vừa bập thuốc vừa nói: Buồn quá anh Bảy ...
đêm nay mà ngủ nghê gì được, thức nói dóc với tui chơi. Giờ nầy ở nhà chắc mọi
người còn thức, Ông Bà không biết có dám
về nhà trong đêm giao thừa không? ... Tôi rít một hơi thuốc dài nhả khói ra
thành những vòng tròn ... tự dưng thấy nhớ đêm giao thừa năm rồi ... KonTum đêm
giao thừa, trời thật lạnh và khung cảnh rất im lặng, cái im lặng thật đáng sợ
của những phút giây chờ đợi địch tấn
công , tôi trả lời thằng Trên
-
ờ thức thì thức ... đêm nay mà ngủ nghê gì được , phải chi có được lít rượu cho
ấm lòng ...tù
THỦY LAN VY
(Viết
tại Kỳ Đà Động Mạnh Xuân 02 . Houston
)
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Trả lời:
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 30/Sep/2007 lúc 3:55pm
tlt
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 01/Oct/2007 lúc 8:51am
Cảm ơn Thy Lan Thảo, trong chuyên có 3 chỗ''lan can" tới tôi:
1- Lúc từ Bình Xuân tản cư vào Gò Công, tôi và mấy anh mướn nhà của Bà Tư Hường, khung cảnh Lộ Me với tôi rất thân thiết, gia đình anh Phước và chú Nở cũng thân. Lúc đó tôi đang học Đệ Lục. Cảm ơn những chiếc ao bèo chung quanh nơi tôi ở lúc đó.
2- Tôi và Gia đình Thầy Tư Ngô, cũng có phần thân thiết,
em trai của Bà Tư là Ông Quảng Chín, ở cầu Huyện, có con trai là Anh Hai Răng Trưởng Ty Chiêu Hồi Gò Công một thời gian. Có cô con gái út là em dâu của Thầy Lê Quang Hậu, Lê Quang Lộc và cô Dung còn ở tại Gò Công. Dương thị Hường, con út của Thầy Tư Ngô còn để lại trong lòng tôi 2 câu thơ sau:
Mai sau giở đến trang nầy
Nhìn dòng chữ lạ hao gầy mến thương
Nhưng tôi không còn được "mến thương" nữa khi lập gia đình, dù sau nầy chúng tôi có gặp nhau ở Văn Khoa và ở Đoàn thị Điểm.
Cảm ơn một kỷ niệm buồn.
3- Thum bán báo Huê Mỹ trước do ông Đống văn Khánh làm chủ, sau, anh Sáu Khánh(bà con cô cậu với tôi và chú bác với cô Đống thị Hường, giáo sư trường Trung Học Gò Công) nhường lại cho anh em tôi tiếp tục kinh doanh, không lấy tiền gì cả, anh thương chúng tôi mới tản cư, còn phải lo học hành nên giúp cho phương tiện sinh sống. Ông Ba Cụt bán vé số, tôi vẫn còn nhớ, hồi đó, tôi ôm báo đi bán dạo trong chợ, ngày thứ tư phải biết báo nào có đăng kết quả xổ số, nhiều người không nghe được radio chiều thứ ba, họ phải mua báo thứ tư để dò số. Có người gởi tôi số trúng 100 đồng, nhờ bán giùm, đem tiền lại cho họ. Tôi đưa cho ông Ba Cụt, ông mua lại 95 đồng, lời 5 đồng, ông cho tôi 2 đồng. Lúc đó, tờ báo bán giá 2 đồng, tôi lời 2 cắc. Sau đó, ông Ba giao cho tôi giấy số để bán chung với báo, về ông tính toán và cho tiền lời, đó cũng là cách kiếm thêm tiền thuở anh em chúng tôi tự lực cánh sinh để đi học. Cảm ơn tình.
------------- kb
|
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 01/Oct/2007 lúc 6:11pm
sao lại phải tản cư về vùng Mỹ Ngụy,VC tử tế lắm mà!!!!Không bao giờ tơ hào cây kim sợi chỉ :] ( lấy kim chỉ bán ai thèm mua!!!!)
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 02/Oct/2007 lúc 7:49am
Đúng rồi, tử tế thấy thương. Người ta thường có những câu nói rất khéo.Chẳng han:"không nhường tấc đất cho cs", nhưng lại nhường hơn 25 triệu sinh linh, đồng bào ruột thịt để cs mặc tình dày xéo.
Hồi 30-4-75, khi bộ đội miền bắc chiếm Dinh Độc Lập, có rất nhiều người "cà chớn" đến làm quen, lại muốn lập công với "cách mạng", bèn mua nước đá đậu đỏ đem đến cho mấy "anh em cách mạng" uống đỡ khát.Nhưng bị "anh em" chối từ, lý do "chúng tôi có "nịnh" không được "nấy" gì của nhân dân cả". Đám "cà chớn" vỗ tay hoan hô quá cở, trong đó có nhà văn Sơn Nam. Lúc đó, thiệt, tôi thấy thương đồng bào mình, thương đất nước mình, thương nhà văn Sơn Nam, thương các cán binh cs,suốt đời bị gạt. Cuối cùng thương thân phận mình(triết nhá). Nếu cái "nịnh" không "nấy" đó là thật và còn tiếp tục đến bây giờ, chắc dân mình đỡ hơn nhiều. Ngặt nổi, đó là mỵ dân, đó mới chính là ngụy đảng và cũng là lý do tại sao ngày xưa tôi tản cư, ngày nay tôi vượt biên.Cũng có lúc, tôi từng ước ao, sau khi cuộc chiến đã kết thúc, quê hương thôi ngăn chia đôi bờ, người thắng đừng coi kẻ thua là giặc thù mà tất cả cùng nhau tắm gội trong tình nghĩa anh em, cùng một bào thai của người MẸ ÂU CƠ, chia nhau chén cơm manh áo, kể nhau nghe những chuyện vui buồn. Ôi, quê hương ta tuyệt vời. Nhưng đó vẫn mãi là ước mơ. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì chờ đợi một câu XIN LỖI của ngưòi biết họ sai lầm chủ nghĩa, của NGƯÒI BIẾT NÓI XIN LỖI, không phải với tôi mà với toàn thể DÂN TỘC VIỆT NAM.
------------- kb
|
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 15/Mar/2008 lúc 9:08pm
MỘT KHOẢNG
ĐƯỜNG TỈNH LỘ
-*-
-Thương nhớ gửi anh em 201, Kính nhớ anh linh
Đại Úy Klang bị sát hại tại Đập Đồng Cam
Tin
Thiếu tá Hải tử thương đã làm cho anh em quân nhân và dân chúng trên con đường
cặp theo đập Đồng Cam bàng hoàng thương tiếc.
Ông là người chỉ huy sở 2 mở đường máu trên con lộ 7B nầy.Tôi nhận được tin nầy
vào khoảng xế trưa, chiếc xe jeep của ông bị bắn hất tung lên. Anh em lôi hổ
vùng hai vẫn kiên cường phá chốt tiến lên từng thước đất…Tiếng súng đã diu dần.
xe nhút nhít tuy chậm mà có tiến về hướng quận Hiếu Xương…
Chiếc
Dodge của tôi với nhiều vết đạn loang lở, kiếng chắn gió bể to hơn bàn tay, đó
là kết quả của mấy lần Việt Cộng pháo kích vào quân đoàn, đơn vị tôi đóng cạnh
Truyển tin đã bị ăn khá nhiều đạn, cũng may là không bị thiệt hại về quân số,
bây giờ trên xe chỉ còn có 4 tay súng còn lại là đàn bà con nít trên chục
người. Hạ sĩ Giác vẫn bình tỉnh lái xe, tôi ngồi ghế trưởng xa ,giữa tôi và tài
xế là ba mẹ con, vợ của một sĩ quan thiết giáp lạc chồng xin quá giang.phía sau
chen chút nhau ngồi, chiếc rờ mọot đầy ấp vật dụng, từ bếp dầu, gạo, thức ăn,ba
lô quần áo, mùng mền, ghế xếp…
Trên
mỗi gương mặt bơ phờ vì mất ngủ thiếu ăn, đoàn quân vẫn vững tay súng lầm lũi
theo đoàn xe chậm bước… Như vậy là các chốt đã bị Lôi hổ bứng gốc…Vận tốc bắt
đầu tăng dù vẫn còn di chuyển rất chậm… Hình như trong tâm mỗi người lính, mỗi
người dân đều đang nguyện cầu xin ơn trên hộ trì cho buổi về được tới nơi tới
chốn… Liên tiếp bao nhiêu ngày thần kinh quá căng thẳng với cái chết cạnh kề…
Giờ phút nào cũng trông thấy cái chết, vì đoàn quân quá dài, di chuyện thật
chậm, Cộng quân từ trên núi bên trái cứ nhắm đoàn quân mà bắn, viên đạn nào
không phá xe thì cũng lấy đi một sinh mạng, may mắn không chết thì cũng gây một
vết thương.Những công sự chiến đấu mà trước đây mấy năm quân đội đồng minh Đại
Hàn xây phòng thủ dọc theo núi bây giờ là là trú điểm của tử thần réo gọi hồn
quân dân đang di chuyển trên lộ 7B nầy. Bên trái con đường, đập Đồng Cam đầy xác chết, những xác chết từ mấy ngày qua nổi bập
bềnh trên mặt nước, căng phù da đen sạm, nhiều sợi dây chuyển vàng hay dây thẻ
bài căng khuyết vào cổ…Hình ảnh ghê rợn đó luôn luôn có trước mắt, Cứng lòng cở
nào cũng phải xót xa.. Người chết tạm coi như yên thân, người sống rồi sẽ ra
sao?. Nạn tai còn bao nhiều lần gian khổ nữa,…Buổi chiều khi chiếc xe tôi vừa
qua khỏi cầu phao thì một chiếc GMC không biết vô tình hay cố ý trật bánh giữa
lòng cầu ngay chỗ tiếp giáp với mặt nước… vậy là đoàn xe trên mấy trăm chiếc
phải nằm tại chỗ mà Cộng quân thì đang truy kích gần kề… Số người bỏ xe băng
sông ngày càng nhiều, tạo cảnh lê thê lếch thếch trên đường di tản…Tôi còn may
mắn hơn rất nhiều người, còn di chuyển bằng xe, hầu hết các xe jeep đều bị bể
kết nước, bị hất ngã bên vệ đường, số xe bất khả dụng càng lúc càng tăng dần,
số người lếch thếch lội bộ ngày càng đông, không hiếm đàn bà con trẻ, một vài
hình ảnh tôi vẫn còn nhớ rất rõ, một ông chú khoảng ngoài 40 tuổi tay dắt một
con ngựa đi dưới ruộng cặp theo lộ, cứ mỗi lần chạm súng là chú cố gắng đè con
ngựa nằm xuống, một người trung niên khác tay cầm khung sườn xe đạp cũng lầm
lũi từng bước trên đường ruộng, tôi hiều, tài sản của người đã mất hết, chiếc
xe đạp cũng không còn bánh.. có lẽ quá rối loạn nên người vẫn đi trong vô thức
mà có lẽ người chẳng biết mình đi đâu, tay đang cầm cái gì…Sinh mạng con người
trên đoạn đường nầy rẻ hơn bèo… Tôi gặp một chiếc xe jeep dân sự sơn màu trắng
bạc mang số xe ẩn tế, có lẽ là của một ty sở nào đó xe nằm bên vệ đường, trên
xe có 4 xác chết, với một thiếu phụ ngoài tuổi 40 còn sống ngồi bất động trên
xe… Xa xót trong lòng nhưng chằng ai làm gì được trước số phần quá cay nghiệt
đã dành cho quân dân quân đoàn 2…Người đàn bà nầy rồi sẽ ra sao?!
Đoàn
xe rồi cũng tiến dần qua khỏi vách núi.. Đã thấy xa xa có nhà dân, tôi nghe tiếng
súng lại nổ dòn dã từ toán đi đầu, và từ phía trong xóm nhà dân lá cờ vàng, lá
cờ thân yêu với ba sọc đỏ được một người lính cầm cán phất vội vàng, tiếng súng
im ngay, thì ra lính địa phương quân của quận Hiếu Xương đã bắt tay được toán
mở đường… Mọi gương mặt rạng rỡ hẳn lên, sinh khí trở lại trên từng gương mặt
quân dân, trời chiều bảng lảng, nắng nhạt dần
mọi người cảm thấy dễ chịu rồi những nhà dân bắt đầu xuất hiện, dân
chúng, đàn ông, đàn bà, trẻ em đứng dọc theo hai bên đường, người mang nước,
người mang cơm, bánh… đoàn xe vẫn chầm chậm tiến, tôi ngồi trên đầu xe với trung
sĩ Mỹ, tay với nhận chén cơm từ tay một cô gái bên đường, cơm trắng với tàu hủ
kho… Tôi nhìn chén cơm, lòng không khỏi xúc động… Thì ra hôm nay là ngày rằm…
Tình quân dân lần đầu tiên trong đời lính tôi thấy thật thấm thiết… Anh lính
Cộng Hòa ơi! Mừng cho anh về từ cõi chết… Tôi nhìn cô gái với nụ cười thật
duyên dáng…. Chén cơm trắng tôi ăn thật ngon miệng.. vào tới quốc lộ xe rẽ trái
hướng về Tuy Hòa… xe qua cầu Đà Rằng,nước sông ròng sát đáy, chiếc cầu nầy do
Công binh Việt nam Cộng Hòa xây dựng, cầu dài và rất đẹp, trời đã sẫm tối,
thành phố Tuy Hòa đầy vẽ nhộn nhịp vì lính quá nhiều, xe nhà binh xuôi ngược
khắp các nẻo đường, lính tráng thì áo quần vương đầy cát bụi, mặt mũi bơ phờ ,
mắt quầng thâm mất ngủ. Tôi cho xe ngừng tại một ngã tư nơi có dãy phố có lẽ là
trục lộ chính của tỉnh lộ , đậu xe sát lề đường chọn một khoảng hành lang của
dãy phố lầu làm điểm nghỉ qua đêm…Không tìm được nước rửa mặt… lại gạo sấy thịt
ba lát….cố ăn vội vàng để rồi còn phải ngủ lấy sức tiếp tục con đường còn xa
dịu vợi mà hơn mười ngày nay có ngày nào ngủ được hơn 2 giờ đâu.Gia đình binh
sĩ và mấy chú lính trải poncho quây quần nằm nghỉ, Ngoài đường đã hơn 10 giờ
đêm mà vẫn còn ồn ào xe qua lại…khung cảnh ban đêm không có được vẽ mát dịu yên
lành , đêm nặng nề, đêm chờ đợi…, tôi thức giấc mấy lần trong đêm, dù thân xác
quá mệt mỏi mà vẫn không tìm được một giấc ngủ an lành…, châm thuốc hút đi vòng
xem anh chị em ngủ, trên nhiều hành lang khác, nhiều toán người cũng đang ngủ
như toán của tôi, cũng có nhiều anh em thức hút thuốc ngồi nhìn ra
đường..,.Ngày mai chưa biết rồi sẽ ra sao??
Buổi
mai trời lành lạnh dù là đang trong những ngày cuối tháng ba… Trời có nhiều
sương mù, nước còn ván đọng trên thành xe… Mọi người nhậm lẹ ngồi dậy thu xếp
lại hành trang, tìm chút nước rửa mắt qua quít, tôi đi dọc theo lộ tìm mua được
mấy ổ bánh mì nguội, mềm xèo, chia cho anh em ăn sáng, vợ con người sĩ quan
thiết giáp nhắn lại lời cám ơn và từ giã tôi, tôi hiều tại sao chị lại dắt con
ra đi sớm, chị bỏ đi dù biết rất khó tìm phương tiện về Nam, phải chăng vì
những ánh mắt không mấy thiện cảm của các chị ngồi phía sau thấy tôi ưu đãi cho
mẹ con chị ngồi chung cabin với tôi… Thấy người họan nan thì thương, trong hoàn
cảnh nầy giúp ai được việc gì thì tôi cố gắng làm khi thấy việc làm đó không có
gì hại tới mình, tới anh em là được rồi…
Xe
lên đường khi mặt trời chưa lên, theo hướng quốc lộ xuôi về Nam…Giác tài xế vẫn vững vàng tay
lái trên quốc lộ… Rồi cũng tới thành phố Nha Trang an toàn, tất cả những quân
nhân đều bị gom vào trại tiếp cư , riêng toán của tôi có mang phù hiệu hình tam
giác với số 20 nằm trong tâm vòng lục đại chiến nên được thong thả vào thành
phố, xe giảm dần tốc độ, trên đường phố tôi thấy xe quân đội xuôi ngược, dù
chưa mất trật tự nhưng khung cảnh vẫn nhìn thấy được có lắm nỗi bất an. Xe
ngang qua Pháp Đình. Tòa án hình như mới xây trông uy nghi lắm… Chữ Pháp Đình
nét to chữ vàng ónh ánh… Tôi thấy có một xe quân đội cũng chạy chậm chậm ngang
qua, quân nhân trên xe không biết nghĩ gì, đã bắn lên trời một băng M16, âm
thanh dòn dã ngay trước…Pháp Đình., đơn vị của tiều đoàn nằm trên đường ra Hải
Học Viện, sau phi trường., đại đội 204CTCT, Anh Uông Đại Lực, khóa Nguyễn Trãi
1 hiện là đại đội phó đơn vị nầy, anh là niên trưởng trước tôi 3 lớp tại trường
Trung Học Gò Công.Ngay buổi trưa hôm đó, Nguyễn Thế Phương( Chinh Tri Kinh
Doanh ĐL, Khóa 9/68), dẫn tôi tới một khách sạn mà anh quen. Tại đây tôi được
tắm với vòi hoa sen, với xà bông Dove, thôi thì chà vuột xà bông đôi lần mới
trôi hết bụi đường xa, Thay quần áo trận
sạch sẽ , tôi cảm thấy người nhẹ nhàng, Phương đã ngồi sẵn trên bàn ăn,
chỉ có hai anh em, Tô canh chua cá biền, dĩa thịt gà kho sả ớt mặn, dĩa rau
sống, cơm trắng còn bốc khói… Tôi ăn với cảm giác ngon miệng vô cùng, bây giờ
tôi đã quên tên khách sạn, nhưng vẫn còn giữ được liên lạc với Anh Phương.Về
đây sắp xếp chỗ ăn nghỉ xong,Tiểu đòan bị thiệt hại nhân mạng không đáng kể,
Anh Đại úy Klang bị bắt và bị giết tại bờ sông ba gần đập Đồng Cam, hai ngày
sau đại đội nhận lệnh phân toán công tác tại các trại tiếp cư thuộc thành phố
Nha Trang.Tiểu đoàn trưởng bỏ anh em chạy từ Pleku vẫn còn giữ chức cũ.Thân
mình cũng chạy tóe khói mà bây giờ lại đi ủy lạo những bạn đồng hành… Toán tôi
phối họp với các toán cứu trợ thuộc các tôn giáo, từ Sài Gòn ra cũng có, từ địa
phương cũng có, ngoài những nhu yếu phẩm cần thiết như gạo, dầu ăn, chiếu mền…
Còn có bông cải tươi, không biết từ đâu chỡ về.. Buổi cơm trưa, thằng Mỹ luộc
bông cải chấm nước tương dầm ớt ăn cũng thật là ngon…, Công tác khoảng chưa tới
tuần lễ, buổi trưa về ăn cơm, mấy chú lính bàn tán… Tiểu Đoàn trưởng dông nữa
rồi…Lòng tôi thấy buồn lắm. cấp chỉ huy mà tệ vậy sao? Bảng quân đoàn 2, buổi
trưa tôi còn thấy treo vững vàng lắm mà!!… Tôi âm thầm ra lệnh cho anh em trong
toán chuẩn bị hành trang du lu… Xếp dọt, mình dọt, ngu gì ở lại, sau kinh
nghiện lần ra đi tại Pleiku… nắng còn le lói buổi chiếu, tự tay tôi cầm lái, vì
hạ sĩ Giác không chịu đi mà muốn về lại KonTum…theo sự chỉ đường của Trung Sĩ
Mỹ, thằng em lúc nào cũng cạnh kề bên tôi, tôi theo dòng xe cũng nối đuôi nhau,
tuy chưa mất trật tự lắm… hướng Ba Ngòi chầm chậm tiến., xe bị ùn tắc trước cầu
Ba Ngòi, xe tôi cách cầu khoảng trăm thước, Anh chị em xúm xít bên lề đường cho
buổi ăn tối, trời tối hẵn, đèn nhá nhem với số lượng người cũng như xe cộ đông
đảo, hơn 9 giờ đêm, trong lúc một người đang chuẩn bị ngủ thỉ một tiếng nổ vang
trời từ cầu, xe rục rịch di chuyển ngược trở lại, tôi trở đầu xe, chạy chầm
chậm theo đoàn xe, tôi thấy tay lái khó điều khiền, xe có khuynh hướng lấn lề,
một chị ngồi phía sau nói lớn:
-Coi chừng Trung úy ngủ gục!
Tôi biết tôi rất tỉnh, nên ngừng
xe lại, Thằng Mỹ cũng lẹ làng nhảy xuống xe theo tôi… Thì ra bánh xe sau bị
xẹp.May là trong xe có bánh sơ cua, có dụng cụ tháo mở ốc xe.. vậy mà mấy thầy
trò lui cui cả giờ mới thay được bánh, trong lúc đoàn xe đã khuất dạng phía xa,
trời tối thui, yên lặng bao trùm thật đáng ngại, rồi tôi cũng lái bắt kịp đoàn
xe,,,Đêm đó có ngủ nghê gì đâu, thấy yên lặng nhiều xe chạy trở lại hướng cầu,
năm xe rồi mười xe, rồi cả đoàn xe quay lại… Thì ra cầu bị sập, tôi cũng không
biết chính xác lý do, có tin là A 37 thả bom phá sập cầu chặn đường về Nam,
Trời
sáng dần, tôi mon men đi đến chân cầu …tiếng động cơ xe nổ máy vẫn ầm ỉ, tiếng
người nói chuyện vẫn ồn ào dù trời chưa sáng hẳn, tôi không biết tên con sông
là tên gì? Bề ngang cũng hẹp tựa như con kinh trước nhà tôi ở Gò Công, nước
ròng cạn sát đáy, không phải nước ròng mà tại mùa nắng nên sông không có nước,
Giữa dòng là một khe nước nhỏ, nước trong vắt chảy lững lờ, đáy sông là cát khô
cứng với khá nhiều đá cụi, viên to bằng trái banh, nhỏ cũng bằng nắm tay… rất
nhiều xe đã qua được sông cũng lắm xe chết máy nằm ụ rải rác…Tôi đứng hút thuốc
quan sát, Thằng Mỹ chắc lưỡi:
-Khó ăn quá ông!Cái dốc thẳng đứng,
tới mí nước lại phải ôm cua thẳng góc Phần có nước chảy cát lại mềm…
Tôi
theo con dốc xuống lòng sông đứng quan sát thật gần chiếc GMC đang qua sông,
tôi nhìn từng chiếc từng chiếc qua sông
-Cũng không khó lắm đâu,vô số
mạnh chạy số hai, tới mí nước sang qua số một làm sao vô số một cho đúng lúc
đừng để kẹt số thì xe không bị chết máy lún cát
Tôi
trở về xe, bắt đầu cho xe lăn bánh theo dòng,tôi ra lệnh, tất cả đều xuống xe,
phụ đẩy phía sau khi xe vừa cán mí nước,tôi đề pa bằng số 2, kéo cần số mạnh,
xe vừa chí mí nước tôi trả cần số về số một cộng thêm mấy lực đẩy phía sau,
tiếng xe rú lên với âm thanh ngọt ngào…Xe quẹo cua theo triền sông lên mé…thế
là xe tôi qua được, bắt đầu chạy khi mọi người trong xe yên vị…Đường quốc lộ
khá tốt, xe lưu thông cũng thưa thớt vì trời chưa sáng hẳn.Tôi lái từ từ khoảng
30-40 mile/giờ, hai bên đường vắng vẻ, nhà cửa lưa thưa, đồng ruộng trống vắng…
Phan
Rang trước mặt tôi, quê hương của Tổng
Thống thì đời nào ổng bỏ cho Cộng Sản chiếm??!!Tôi chạy qua vài con đường trong
thành phố Phan Rang rồi bắt đầu rời tình.Xe ngược chiều cũng nhiều, đường tráng
nhựa nhưng cũng có nhiều ổ gà, dù đường lạ tôi vẫn giữ tốc độ tối đa của xe Dodge
là 60 miles xuôi về Phan Thiết, Thằng Mỹ thỉnh thoảng mồi cho tôi điếu thuốc,
trên xe yên lặng, gương mặt mọi người bớt đi niềm lo lắng… vì tai không còn
nghe tiếng súng, mắt không còn thấy cảnh chết chóc.
Xe
qua khỏi cây cầu vào Phan Thiết, tôi bớt ga và dừng bên lề trái, mặt tiền phố
thị hai bên khang trang, căn phố trước mặt tôi là một tiệm vàng, xe cộ vẫn rộn
ràng qua lại. Tôi cho mọi người thong thả đi kiếm mua thức ăn tươi. Tôi và
thằng Mỹ đứng cạnh xe nhìn ông qua bà lại. Gió Phan Thiết thổi khác Nha Trang,
hình như trong gió có bụi, Trời nắng gay gắt có lẽ đã đứng bóng.
-Mời
Trung Úy vô nhà dùng cơm
Tôi hơi ngỡ ngàng trước lời mời
của một bà chị khoảng ngoài 30 tuổi( tuổi tôi lúc bấy giờ đang ở hàng hai) thì
đã nghe chị nói tiếp
-Đông quá, tôi thấy ai hiền hiền
tôi mới dám mời vô nhà dùng cơm…
Tôi cười xả giao nhìn chị có ý
hỏi:
-Tôi có thằng em nầy nữa,Chị gật
đầu đồng ý.Một anh Trung úy đứng gần tôi
thấy vậy cũng xin chị ăn cơm vì mấy ngày nay chì có bánh mì khô, chị cũng đồng
ý
Ngôi nhà nằm trong con hẻm, nhà một
căn, phòng khách rộng rải lót gạch bông, ngồi ghế giây lát, chị bưng măm cơm
với 2 phần cho tôi và Mỹ, sau đó một măm cho anh trung úy kia. Phần ăn là món
canh và món mặn thit kho.Bụng đang đói, sức còn trai tráng, chị phải hai lần
mang thêm cơm trắng…gặp dịp là phải ăn thật no… vì chiều nay hay ngày mai….biết
sẽ ra sao? Ăn xong chị mang trà rót mời uống… Khi cám ơn từ giã chị còn cho mỗi
người một gói thuốc President có đầu lọc, đây là lọai thuốc có giá đắc nhất lúc
bầy giờ ( 400$)và cũng không quên gửi lời chúc thượng lộ bình an…
Thì ra, trong cảnh hỗn mang, hoa
hồng vẫn nở…Hình ảnh dịu dàng của chị tôi nhớ mãi, giữ làm kỷ niệm đẹp trong
cuộc đời . Tôi không biết tên chị… Với thời gian tôi không còn nhớ vị trí nhà
chị, tôi cũng không có ý định trả ơn vì tôi biết tôi không có dịp nào trở lại
đây lần nữa, tôi chỉ biết nhớ để lấy đó làm niềm vui mọi khi nhắc đến con đường
di tản. Tấm lòng của người dân làm cho ngưới lính Cộng Hòa xúc động… Thì ra có
gương mặt hiền hiền nhiếu lúc cũng đở khổ.
Trời
gay gắt nắng, tôi lái xe hướng về Bình Tuy, tiếng súng không còn nghe thấy trên
đoạn đường nầy, con đường tráng nhựa tuy nhiên cũng có rất nhiều ổ gà, tới ngã
ba Bình Tuy trời đã xế chiều, Bên mặt lộ có một xóm nhà, tôi cho xe tấp vô lề
dưới bóng mát của nhiều cây to, đã có nhiều xe cũng dừng lại đây, người nằm kẻ
ngồi …trong cảnh màn trời chiếu đất, lân la tìm hiều thì ra muốn vào tỉnh phải
bỏ tất cả vũ khí lại, đó là lệnh của Tướng Nhật, tư lệnh chiến trường Bình Tuy.
Tướng Nhật rút kinh nghiệm của các tỉnh mà đoàn quân di tản đã đi ngang qua,
người lính cùn đường, trong tay lại có vũ khí dễ trở nên nguy hiểm…
Lúc
học ở quân trường, huấn luyện viên vũ khí cũng như sĩ quan cán bộ thường xuyên
nói với khóa sinh:
-Súng
là vợ, đạn là con, các anh phải bảo trì cẩn thận, không bao giờ để súng đạn
thất lạc.
Bây
giờ là thời chiến, lính lại không có vũ khí trong tay thì…khó coi quá. Bởi vậy
từ ngả ba Bình Tuy tới nơi giải giới vũ khí, tôi nhìn thấy xe quân đội, san sát
đậu nép bên lề, quân phục thì đủ mọi binh chủng,Cũng có rất nhiều quân nhân bỏ
súng lại vào tỉnh, số súng càng ngày càng chất cao, Nhìn cảnh nầy lòng tôi rất
hoang mang, tôi không thể nào hiểu được, có lẽ cấp tá, cấp tướng đứng trước
cảnh nầy cũng khó hiểu như tôi…Chỗ dừng quân tương đối gần nhà dân nên việc nấu
cơm cũng dễ dàng, thực ra chỉ có nồi cơm
còn thức ăn vẫn là thịt ba lát với muối, đâu có hàng quán gì gần đây để mua
thức ăn tươi, với lại tiền bạc của anh em
trong toán cũng rất là eo hẹp…
Khá
đông bạn đồng hang, hang ngày tôi được nghe nhiều chuyện bi hài trên đường di
tản vừa qua, trong nhóm nầy có một chị biết bói bài và xem chỉ tay… Tôi thấy
chị xem cho nhiều người…Trong lúc rỗi rảnh tôi cũng chìa tay nhờ chị xem giúp…
Về gia cảnh vẫn cha mẹ anh chị đang trông chờ, người yêu cũng đang nóng lòng…
Chị còn nói tiếp về tương lai mà sau nầy nhớ lại tôi thấy chị phán rất đúng
-sau nầy trung úy đi đâu cũng có
lính mở đường, ngủ trong thành tường cao, có lính canh gác cẩn thận….Lúc đó tôi
nghĩ là quân nhân thì ngũ trong trại lính có lính gác… Chứ đâu có ngờ tôi vào
tù, đi có lính canh, ngủ có lính gác…!!
Toán
của tôi nằm ở đây gần 4 ngày, buổi trưa bên kia đường, một ngỏ khác vào tỉnh,
Thiết giáp di tản đụng với lực lượng giữ an ninh tỉnh. Mấy trái đạn hỏa tiển
Tow bắn thiết giáp lật ngang, vài binh sĩ tử thương, tôi có đến gần xem, một
anh lính thiết giáp bị xe đè còn sống, miệng không ngớt kêu cứu… Lý Nguơn Bá
cón sống chưa chắc nhấc được xe lên…thì thôi đành chịu, thương cho anh lính,
chết dần trong đau đớn.
Tôi
thấy một đoàn xe khá dài tương đối có nề nếp, chiếc xe jeep dẫn đầu có gắn sao…
Tôi nhận ra ngay Tướng Lâm Quang Thơ dẫn trường võ bị về, đoàn xe nầy nhập tỉnh
dễ dàng…
Cuối
cùng tôi quyết định vào tỉnh, chiếc dodge có một hộc nhỏ hình vuông nằm gần
bình xăng chứa dược 4 khẩu M16, tôi cho súng vào dùng khóa khóa lại…. Xe từ từ
ngang qua toán quân cảnh kiểm soát… Tôi cho biết cả toán là quân nhân thuộc
tiểu đoàn 20CTCT, nên xe thong thả qua trạm kiểm soát, không bị lục tìm kiếm vũ
khí cất giấu
Tôi
chạy chậm chậm trên lề đường, tìm một quán bên đường uống nước.Những ly cà phê
đá chưa kịp uống xong thì có một chiếc xe jeep đậu sát đầu xe tôi, người tài xế
chạy vội đến bên tôi. Thì ra hạ sĩ Tăng Đình Hùng, chú tài xế của Đại úy Thiện
lúc tôi còn ở Tiểu Đoàn 50CTCT,sau đó Hùng thuyên chuyển về nguyên quán, và
hiện là tài xế cho tham mưu phó CTCT tỉnh. Hùng mừng lắm khi gặp lại tôi dù
trong hoàn cảnh nầy…, lúc còn ở Sài Gòn, tôi cũng có đôi lần nhậu với Hùng, và
chú em nầy cũng rất mến tôi. Thế là cả toán theo nhau về nhà Hùng tạm trú… Hay
không bằng hên, giữa cảnh đường phố xuôi ngược đủ các sắc lính mà Hùng nhận ra
tôi, Chiều hôm đó dù đang trong cảnh
loạn lạc hai thầy trò cũng cưa gần hết hai chai chó chồmvới một dĩa mồi và mấy chén
cơm đạm bạc….
Tin
tức đến dồn dập, tỉnh nầy rồi tỉnh kia thất thủ, binh sĩ đến Bình Tuy có thể sẽ
tái trang bị trở ra tái chiếm Đà Nẳng,Đường về Sài Gòn bị tắc nghẻn tại Rừng
lá, Cộng quân làm chủ tình thế tại khu vực nầy, có mấy chiếc xe liều mạng chạy
qua đều bị bắn cháy, chính vì vậy mà tôi nấn ná tại Bình Tuy chờ mở đường, với
nhiều tin tức không mấy sáng sủa tôi quyết định rời Bình Tuy, tất cả đồ tế
nhuyển trên xe giao lại cho Hùng, tôi, Mỹ và vài người lính nhờ Hùng chỡ ra bến
tàu., mấy chị em gia đình bình sĩ đều quê ở vùng hai nên nấn ná ở lại chờ về
lại nhà, xế chiều mấy thầy trò xuống đò máy xuôi về Long Hải.Nước ròng nên phải
hơn 6 giờ chiều tàu mới bắt đầu khởi hành, chạy cặp theo bờ biển, mút tầm mắt
là rặng cây xanh lờ mờ…
1
giờ khuya ( Khoảng ngày 7 hay 8 tháng tư-75 )tới biển Long Hải, nước ròng phải
đậu cách bờ khoảng hơn 200mét, ai muốn vào bờ sớm thì lội nước, bằng không chờ
sáng nước lớn lên đò sẽ cặp bến.
Trời
tối đen, tôi thử bước xuống nước, may quá nước chỉ tới rún, tôi và Mỹ với mấy
chú lính vai mang ba lô lội nước vào bờ…. Trên bải biển tràn ngập người, poncho
và chiếu trải sát vào nhau chúng tôi phải dò từng bước mới đi vào được khu phố,
đi vào thật sâu mới tìm đườc một hành lang còn trống để mấy thầy trò ngả lưng
tạm chờ sáng….
Buổi
sáng, lại gặp may mắn,người chủ chiếc xe hàng đồng ý cho 4 anh em tôi lên xe
miễn phí với điều kiện thu tiền 20 người khách trong trật tự cho lên xe. Chuyện
nầy không khó với chúng tôi và xe tới Sài Gòn an toàn
Tôi
đón xe ôm về ngả Tư Bình Hòa, nhà chị tôi ở đó, Hỏi thăm tình hình qua người Anh
rể và người em rể, tin tức không được sáng sủa lắm, nhiều cấp chức cao đã bỏ ra
đi… dù sao tôi cũng phải về Gò Công thăm ba mẹ, anh chi… gia đình đang trông
tôi từng ngày từng phút.
Sau một ngày về thăm nhà,tôi trở lại Sài Gòn bằng Honda, đường quốc lộ Gò
Công Sài Gòn, 58 cây số vẫn xe xuôi ngược trong khung cảnh bình thường .Tôi trình diện tại Cục Tâm Lý Chiến, Doanh
trại Tiểu Đoàn 50CTCT( Trại Nguyễn Bỉnh Khiêm) bây giờ tạm thời cho các đơn vị
CTCT di tản tạm trú.Chức vụ Tiều đoàn trưởng được bàn giao tại ban quân xa, với
thành tích bỏ đơn vị 2 lần Tiểu đoàn trưởng đương nhiệm( Khoa14) bàn giao cho
Thiếu tá Minh , Tham mưu phó CTCT Lâm Đồng người dẫn thuộc cấp về Sai Gòn an
toàn được tổng cục bổ nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng,tôi tạm thời bỏ tiền ra
mua quân trang, giày, mũ, tại tiệm quân trang đường Đinh Tiên HoàngTại trại
Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi thấy Tiểu Đoàn 10CTCT với quân số chưa tới 30 người kể cả
tiểu đòan trường là Thiếu tá Chấn.Mỗi tiểu khu lèo tèo vài người trong khối
CTCT, đa số về tới Sài Gòn nhiều người không còn tha thiết ra trình diện vì mặc
cảm bị bỏ rơi… Sau ngày Ông Thiệu từ chức, đại Đội 201CTCT tái phối trí tương
đối đầy đủ như bảng cấp số, Tổng cục tăng cường cho mấy chiếc quân xa, dưới sự
hướng dẫn của thiếu tá Xuân, ra trình diện hậu cứ Sư Đoàn 22 đang tạm đóng tại
trại Lam Sơn thuộc tỉnh Phước Tuy… Đây là gia đình binh sĩ thuộc Sư Đoàn 22,
tiền phương thì đang hành quân tại Long An, dưới sự chỉ huy của Trung Tá Lê
Tuấn Trí , Trung đoàn trưởng, Anh Trí là niên trưởng chung trường trung học Gò
Công với tôi, anh học trước tôi hai lớp Cho tới ngày 27 tháng 4, mặc dù đang
sống trên “ hành lang nhân đạo”( người Sài Gòn lúc bất giờ gọi đường ra Vũng
tàu là HLNĐ)Khi Phước Tuy tràn ngập Cộng quân, dân quân lại lếch thếch chạy ra
Vũng tàu, tôi dẫn toán CTCT ra Bến Đình (với vài người lính), đón tàu hàng về Vàm
Láng Gò Công, trước là gần nhà sau là tôi tin tưởng vùng 4 có tướng Nam, một
tướng lảnh tài ba lúc bấy giờ.Cuối năm 74 tôi là cán bộ huấn luyện trong chiến
dịch Kiện Toàn An Ninh Lãnh Thổ quân Đoàn 4,được Tổng Cục CTCT tăng phái cho
quân đoàn 4 tôi có dịp nghe nhiều về Tướng Nam, câu chuyện thực mà nghe như
huyền thoại.tại trận tiền ông chỉ biết tiến mà không bao giờ biết lui…
Tôi
đặt chân lên Vàm Láng khoảng gần 4 giờ chiều ngày 28-4-1975.sáng hôm sau, trên
chiếc Honda của Trung Sĩ Khâm , hai thầy trò với một khầu 45, trức chỉ hướng
sài Gòn, con đường lien tình lúc bấy giờ đầu đủ các hiệu xe thuộc vùng 4 vì
Long An đang giao tranh dữ dội, xe miến Tây đều phải chạy ngả Mỹ Tho về Gò Công
rồi lên Sài Gòn.Hai thầy trò mặc đồ trận, qua bắc cầu nổi, tôi gặp 1 chiếc GMC
chở quan tài phủ quốc kỳ, theo sau là một chiếc xe jeep , trường xa là thiếu tá
trưởng ban tài ngân sưu đoàn 22. Chạy tới cầu Ông Thìn thì xe tắc nghẻ, thiết
giáp đang đụng với chính quy bắc Việt ở đây. Đồng thời lệnh giới nghiêm 24/24
được ban ra trên trục lộ. Tôi quyết định trở về Gò Công dù trong giờ giới
nghiêm, hai bên đường rất nhiều chiếc lều căn tạm, bạn hàng bày hang hóa ra
bán, người đi kẻ lại tấp nập dù là có lệnh giới nghiêm. Tới bắc Cầu Nổi đò máy
ngưng chạy, cổng xuống bắc đóng lại. Tôi nhìn thấy một chiếc xe nhàCó hai người
trung niên ngồi băng trước..Người tài xế vào mượn điện thọai sau đó cổng mở,
chiếc xa nhà nầy xuống đò, tôi vội cho Khâm chạy theo, nhờ mặc đồ trận nên xe
tôi cũng được xuống củng với một chiếc xe chỡ hang nhỏ mà người ngồi băng trước
là nghệ sĩ Tùng Lâm. Sau nầy vào trại Hà Tây tôi mới biết chiếc xe nhà nầy của
Anh Tống chỡ anh Xuân cả hai là Thiếu tá trường và phó Ty cảnh sát Long An
Tôi bắt đầu chạy
từ KonTum về luôn tận quê nhà, tôi chạy khá nhanh thế mà vẫn còn thua Cộng Sản, Tôi lại khăn gói
vào tù từ trại Tù Huyện Tây Gò Công, chuyển lên Mỹ Phước Tây, ra Hà Tây, và
được giặc thả tại trại Nam Hà ngày 29-6-1983.
Giày
dép còn có số huống chi con người, những ngày cuối cuộc chiến tôi ở ngay Vũng
Tàu có biết bao nhiêu tàu ra khơi…Tôi quyết định về Gò Công, tôi biết Tướng Nam
không bao giờ đầu hàng, nhưng tôi quên làm tướng là phải chết theo thành. Bởi
vậy khi vào tù gặp các anh bạn về từ tàu Việt Nam Thương Tín, tôi không bao giờ
dám chê trách các anh về việc trở về. Chê làm sao được khi mà con sông Bến Hải
nhỏ xíu mà sau năm 1954 Bắc Nam mịt mờ tin tức, thì xuyên qua một cái biển Thái
Bình Dương mênh mộng,,,, biết đến bao giờ mới biết tin tức của người thân, dầu sao
chết trên quê hương, vong hồn chắc cũng sẽ đở tủi hơn.Trong lúc chinh chông
trên đảo Guam, có biết bao nhiêu người chưa kịp từ giã gia đình, tình thương vợ
thương con, thương cha thương mẹ..ray rứt xa xót trong lòng, xứ người lạ nước
lạ cái biết làm sao mưu sinh..Thôi thì trở về có làm nô lệ cho Cộng sản cũng
cam tâm… Nhưng hòa bình rồi, cùng là người Việt chắc Cộng sản cũng không nỡ
nào..Mọi người đều lầm,
May
mắn sau cuộc đổi đời, mình còn sống sót, biết bao anh linh tử sĩ xác vùi tạm bợ
bên đường, phơi nắng gió làm mồi cho kên kên, quà quạ… Tạm dung xứ người, mình
vô tổ quốc, phải chăng oan trái của người Việt Nam, thế hệ mình phải trả… bởi cha
ông mình từng xóa tên cả một quốc gia trên bản đồ thế giới..
Viết
tại kỳ đà đông. Tháng 6 năm 07
Thủy Lan Vy
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: HongLan
Ngày gởi: 31/Mar/2014 lúc 12:14am
CÂY ME
*
Tuổi đời chồng chất theo thời gian với bước chân in dấu
khắp cùng đây đó,tuổi đời càng đè nặng tôi càng cảm thấy thấm thía về một bài viết
trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư, quyển sách mà ngày còn thơ bé tôi vẫn rất
thường đọc dù không phải là sách giáo khoa đang học tại trường, bài “ Không Đâu
Đẹp Bằng Quê Hương, …một người đi xa trở về…dù cho người đã chu du khắp đông
tây nam bắc, dù cho mắt đã nhìn thấy bao cảnh đẹp mà bước chân từng đi qua thế
mà… vẫn không có nơi đâu đẹp bằng quê hương ...
Ngày đầu tiên rời khỏi đất nước trên chuyến
bay Việt Nam cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất đến phi trường Thái Lan, trong
chuyến ra đi trong chương trình tỵ nan H.O, trong lúc ngồi chờ chuyến bay
chuyển tiếp trên 30 người Việt thuộc gia đình quân công của chế độ Cộng Hòa
ngồi trong nhà chờ đợi, một ngôi nhà tiền chế trống vách, chung quanh là đất
trống cỏ dại mọc um tùm, rải rác có một vài cây trứng cá…gợi cho.tôi nhớ tới
thời tôi còn học trung học, khoảng thời gian đầu thập niên 60, ở Gò Công nhà
nào có sân đất thì hầu như đều có trồng cây trứng cá. Trời chiều dần, những tia
nắng yếu ớt buổi hoàng hôn, tạo thành một màu sắc riêng biệt của buổi cuối
ngày, muổi đen khá nhiều cắn chích lung tung, tôi ngồi bên cạnh vợ con mà lòng
vẩn vơ trăm chuyện, cảnh hoàng hôn ở đây sao nó giống ở quê mình quá, kỳ hôn,
cùng ở vùng Đông Nam Á thì chắc là địa dư và thổ nhưởng, khí hậu… đều có phần
giống nhau…thì hoàng hôn ở Miên hay ở Việt Nam cũng đều giống nhau thôi. Khi đến thành phố Houston thuộc bang Texas, lạ người, lạ
cảnh, dù khi tôi vào đời với 7 năm lính, tôi ở đơn vị CTCT, lực lượng tổng trừ
bị, phải rày đây mai đó, luôn xa gia đình, rồi ngày trời sập, phải vào tù gở
hơn 8 cuốn lịch, vậy mà sang tới đây, lạ người lạ cảnh tôi thấy lòng tôi ray
rứt nhớ nhung, hình ảnh mẹ, chị anh, rồi bằng hữu, con đường, ngôi trường, ngôi
chợ… nhữnghình ảnh thân thương đầy kỷ niệm đó luôn lởn vởn trong trí tôi… tôi
nhớ tới câyme, loại cây mà ở đây tôi tìm hoài không thấy…Với tôi cây me rất
gần gủi, thận thích, cây me với tôi có nhiều gắn bó trong đời sống thường ngày, nhất là thuở
tuổi tôi còn thơ bé…
Ở Gò Công, khu nhà tôi ở thuộc xóm Cầu Huyện, đường xuống
Cầu Huyện cặp theo bờ kinh, tới ngả tư cầu Tây Ban Nha, quẹo phải ra Ao Trường
Đua là Xóm Me, thời còn Tây, tỉnh Gò Công trong buổi bình minh còn hoang dã, có
cả cọp trên khô và sấu dưới nước…Tây cho đào Ao Trường Đua ( Khoảng năm ký hòa
ước Giáp Thân 1884 . Lúc tôi được thả về thì khoảng năm 1984, Gò Công có nhận
được giấy báo của hảng thầu Effel bên Pháp, cho biết là dinh tỉnh trưởng và một
vài công thự khác đã xây dựng cho đến nay đúng 100 năm. Hảng sẽ không còn chịu
trách nhiệm gì về các công trình nầy nữa, mà Ao Trường Đua được đào để lấy đất
đấp nền các công thự nầy)., trước lấy nước cho dân dùng, sau lấy đất đấp
nền xây dinh tỉnh trưởng và nhiều công
thự khác, trước tiên sở Trường Tiền( sau nầy là Ty Công Chánh) cho đấp một con
lộ thẳng góc với ao hướng ra nhà thờ để làm con lộ vận chuyển đất, hai bên lề
đường trồng me… Có lộ thì có nhà… mới đầu cư dân thưa thớt, một bên là ruộng,
một bên le hoe mấy nhà gần ngả ba Ao Trường Đua, và xóm nầy được gọi tên là Xóm
Me.Khi tôi có chút hiểu biết thì con đường Xóm Me( Đường Phan Châu Trinh) chỉ
còn sót lại 1 vài cây, đặc biệt ngay ngả ba( sau nầy là ngả tư) trong khuôn
viên nhà ông Hương Thân Bính có một gốc me mà thân me hai người lớn ôm không
giáp, Với tôi cây me lúc nào cũng có một dáng dấp bình thản mà vững vàng, tàn
lá rậm ri, cây cho bóng mát ngã bên lề đường… Dân buôn bán, học trò đi học
thường tụ dưới bóng mát cây me nầy để chơi đánh đáo hay bắn kè, người buôn gánh
bán bưng thì nghỉ chân chốc lát,chú lục lộ chăm sóc đường cũng thường núp nắng
nơi đây để hút thuốc. Nhà tôi cạnh bên nên cũng thường ra đây nhìn lứa tuổi
trang bạn đánh đáo, bắn bi, ba mẹ tôi thường ngăn cấm không cho ra đường, nhất
là dưới những tàn cây cao bóng mát vào buổi trưa… “ Sẽ dễ bị ông bà “quở” mà
sinh bệnh. Cây me nầy cũng mang nhiều huyền thoại về ma cỏ, Thuở thập niên 50
trên dọc hai bờ kinh, có cất mấy cầu tiêu sông,một cái trước nhà Ông Huyện Đờn,
một cái bên kia sông, bên hông nhà ông Đốc Phủ Tường, người đi cầu ban đêm
thường thấy có hai bóng trắng leo lên leo xuống cây me…
Thời đệ nhất Cộng Hòa, Gò Công thật sự thanh bình, trước phòng thông tin, tuần
nào cũng có cất rạp trình diễn văn nghệ do ban nhạc thuộc tiểu đoàn 518 đãm
trách… Khuya tan hát dân Cầu Huyện rũ nhau đi về từng tốp, ít dám đi lẻ tẻ vì
sợ ma cây me… Rất thường khi nằm ngủ trong nhà, tôi nghe rất rõ tiếng ù té chạy
của những người sợ ma…
Ngoài
Xóm Me, con đường liên tỉnh Gò Công Mỹ Tho còn có một địa danh, mà vào đầu thập
niên 60, người dân trên những chuyến xe đò liên tỉnh nghe nhắc tới không khỏi
phập phồng, lo sợ đó là Cây Me Treo Cổ thuộc xã An Thạnh Thủy, Quận Chợ Gạo.
Lúc đó” Cách Mạng “ chưa về nên bọn Việt Cộng lộng hành, thường xuyên rình rập
chận xe đò, bắt quân nhân công chức dẫn đi, có người được thả có người mất tích
luôn nên dân chúng rất e ngại khi xe di chuyển ngang qua đây, vào tang tảng
sáng hay lúc hoàng hôn… cho tới Đệ nhị Công Hòa, Sư Đoàn 7 mới bình định được
khu vực nầy.
Tôi nhắc
sơ về một vài địa danh có cây me nơi quê tôi, Ngày lên Sài Gòn tiếp tục đi học
tôi rất thích một vài con đường có bóng mát cây me, con đường Đồn Đất, gần
trung tâm Văn Hóa Pháp, vào những ngày đầu mùa mưa, Sài Gòn thường có những cơn
giông bất chợt, me lả ngọn rơi rụng lá
vàng, những chiếc lá nhỏ xíu bay bay trên áo, trên vành nón nghiêng che của các
nữ sinh duyên dáng, tan trường từ Trung tâm Văn Hóa Pháp, trên con đường Gia
Long, với bóng mát hàng me thật dễ thương, Cũng thời “ Cách Mạng” chưa về, Việt
Cộng, cái quân khủng bố chuyên nghiệp, thường bắn hỏa tiển 122 ly bừa bãi vào
thành phố, gây biết bao thảm cảnh cho dân lành, buổi sáng tôi thường đạp xe đi
xem , tôi còn nhớ, một cây me trên đường Gia Long bị bứng luôn gốc ngã nằm dài
trên đường..
Cây me rất hữu ích cho đời sống con người, từ thân me, lá
me trái me đều có công dụng riêng… Người Gò Công thường thích ăn món canh chua,
để nấu được nồi canh chua dĩ nhiên phải có trái me hoặc lá me, chất liệu làm ra
vị chua, canh chua là món ăn của người dân dã, ăn cơm cũng dễ nuốt mà nhậu cũng
rất bắt mồi, buổi chiều trời bảng lảng hoàng hôn, trải đệm dưới gốc me, bốn đệ
tử Lưu linh vốn là con của Ngọc Hoàng, ngồi trên đệm quây quần bên chiếc mâm
nhôm, một chai ba xị đựng đầy rượu đế, một tô canh chua lá me nấu với cá chốt, một cái nhạo với
một cái ly nhỏ, loại mười một ly đong đầy một xị rượu, một dỉa nước mắm trong
dầm ớt hiễm, vậy mà khề khà chuyện nọ chuyện kia, trăng lên gần đỉnh đầu mà
tiệc rượu cũng chưa chịu tan…
Thân cây
me xẽ ra làm thớt, thớt me dùng rất tốt, dao chặt xuống ít lên dăm… lắm người
được đi xuất cảnh chánh thức, trong hành trang không quên mang theo tấm thớt
me, Tôi vẫn nghe truyền miệng, làm thịt rắn hổ không được dùng thớt me vì khi
ăn xong dễ bị ngộ độc.
Thân cây
me tôi chỉ thấy công dụng làm thớt, ngoài ra chỉ làm củi chụm, không thấy thợ
mộc dùng cây me xẽ gổ cất nhà hay đóng bàn ghế, dân gian thường nói” bần dòn,
ổi dẽo, me dai” trèo lên cây me mới thấy câu nói nầy rút tỉa từ kinh nghiệm
sống của dân gian, mình có thể đứng trên những cành me chông chênh, cành me
qưằn xuống chứ không gãy.
Dưới gốc
cây me, thường là sân đất, không có cây gì mọc được, ngay cả cỏ là loại dễ mọc,
vì rễ me ăn lang theo mặt đất, làm cho đất chua, các loài thảo mộc khác không
phát triển được.
Cạnh nhà
tôi là nhà ông Thôn Trưởng, một ngôi nhà cao cẳng bằng gổ, nhà to lớn, nằm giữa
một sân vườn thật rộng, trong vườn trồng đủ loại cây ăn trái như sơ ry, mãn
cầu, xoài… dĩ nhiên là có cây me, cây me trồng sát rào, bên nhà Ông Thôn có đám
cháu nội trang lứa với tôi, nên những ngày nghỉ học, tôi thường qua đây chơi,
mùa me có trái, tụi tôi trèo lên cây như bầy khỉ, thằng Phú thằng Quý, cả con
Huỳnh Mai là gái cũng trèo luôn, bởi thường trèo lên trèo xuống hằng ngày, nên
thân me vỏ không còn xù xì mà trơn láng
Tôi có
khiếu bắn kè từ thuở nhỏ, trưa chúa nhựt của những ngày còn học tiểu học, tôi
thường lén nhà ra gốc me gần ngả ba, tụ nhau với lũ bạn trang lứa, từ xóm nhà
máy nước đá lên chơi, sau vài giờ là tôi có được cả bụm kè thắng trận Ở Gò Công gần ngả ba Yên Luông Đông có nhà ông Chín Kỷ,
trước nhà có hai cây me ngọt, hình như nguồn gốc hai cây me nầy là do hột giống
của bà Nguyễn Thị Hai, trong hội Thông Thiên Học, mang về từ Ấn Độ, tôi là con
cháu trong nhà nên mỗi năm vào dịp tảo mộ ông bà đều được ăn me ngọt, ở Gò Công
lúc đó me ngọt quý vô cùng, qua xứ Mỹ nầy trong chợ Việt Nam, me
ngọt Thái Lan bày bán ê hề; Nhưng cũng hột của cây me ngọt đó gieo trồng , khi
cho trái, cây bị lai giống vẫn chua, dù vị chua có nhẹ nhàng hơn mà trái nhỏ
hơn, đó là giống me đậu phộng.
Trái me
và lá me, người miền Nam không ai là không biết công dụng của nó, tùy theo loại
cá tôm, gà, ếch nhái, chuột, rắn… mà người nấu dùng me sống, me chín hay là lá
me…Với loại nào, nồi canh chua nêm nếm đúng mức đều rất ngon miệng, miền Nam
khí hậu tương đối nóng, buổi cơm sau giờ làm việc, có tô canh chua rất dễ bén
cơm…
Ngoài
canh chua ra trái me còn ba cách ăn khác, me chín ngào đường, mứt me và me
thấu.
Ngày tôi
còn học tiểu học, những gánh hàng rong bán xế cổng trường thường có món me ngào
đường, tôi còn nhớ, một mâm nhôm trên đó để me ngào đường, món nầy rất dễ làm,
me chín bỏ vỏ, bắt chảo ngào với đường tán, nếm thấy dễ ăn, nghĩa là không chua
quá mà cũng không ngọt quá, trang đều lên mâm, trên rắt tí mè rang vàng,hay đậu
phộng rang vàng đâm nát, thế là quý vị con nít đi ngang nhìn, đố đứa nào không
chảy nước miếng, thế là có năm cắc mua năm cắc, có một đồng mua một đồng, người
bán hàng dùng miếng lá chuối, rồi dùng muổng múc một hoặc hai muổng gì đó, cho
thêm 1 cây tăm, thế là chú em tay cập cặp sách sát nách, tay nâng tấm lá lên
miệng, liếm tới liếm lui ngon lành,nhiều khi mê ăn không thấy đường, đụng vào
gốc cây dội ngược, mâm me bày bán cạnh lộ, xe cộ qua lại tung bụi đầy trời, vậy
mà đám học trò nhỏ vẫn ăn và vẫn mạnh cùi cụi…
Thời
đó, khoảng cuối thập niên 50, Gò Công có ban quân nhạc, thường xuyên núp dưới
bóng mát mấy cây dương gần hồ tắm để dượt kèn trống, mấy anh bán đá nhận đậu đỏ,
bánh lọt thường xúi đám tiểu yêu tay cầm chùm me tay cầm gói muối ớt đứng nhìn
các anh lính kèn tập,chốc chốc đưa trái me lên miệng chắp chắp rồi hít hà, chỉ
độ vài phút là mấy chú lính kèn thổi xì xịt vì miệng chảy đầy nước miếng, nhớ
lại thời đó, thời Ngô Tổng Thống mới về nước, Gò Công thực sự sống trong cảnh
thanh bình,những trò chọc phá đó bây giờ nhớ lại tôi còn thấy khoái… Dĩ nhiên, những gánh hàng rong nầy cũng không thiếu món me
ngâm thấu, món mầy học trò nhỏ, gái trai gì cũng ưa cả, ngay người lớn ăn còn
quên thôi, ăn xong uống nước lạnh… để rồi bị Tào Tháo rượt, xong rồi, khỏe lại,
gặp lại cũng ăn nữa…
Lựa loại
me già, bỏ vào nồi nước luộc sơ, trong nước có bỏ chút phèn the, vớt me ra ngâm
vào thau nước lạnh một đêm, có pha chút phèn chua,lột vỏ, nấu nồi nước đường
dằn muối, để nguội, bò cam thảo vào ngâm cho ra màu vàng, thế là ta có món me
thấu, trái me trắng ửng vàng, nhai dòn dòn, chua chua, mằn mặn ngòn ngọt, ăn
quên thôi, trong mấy chợ Việt Nam ở Houston tôi thấy thỉnh thoảng có bán món
nầy…
Món cao
cấp của trái me là mứt me, làm món nầy mấy người tánh nóng khó thành công vì
chụm lửa hỏa hào me sẽ đen thui… Với 1 kí lô me sống, lựa trái nở nang đều đặn,
ướp muối hột độ 4 giờ cho dễ lột vỏ, lột vỏ xong ướp muối bọt khoảng một giờ,
dùng dao bén xẽ lấy hột, dùng bàn xâm, xâm đều trái me, ướp me đã xâm với muối
bọt giống như muối cá… sau 1 giờ đem ra xã lại nước lạnh. Nấu nồi nước sôi cho
vào chút phèn chua, trụn sơ me khoảng 5 phút, vớt ra xả nước lạnh cho sạch. Cho
đường và me vào thau, ướp một đêm cho me thấm đường, vớt me ra, đường còn lại,
bắc lên bếp chụm lửa than liu riu, dùng vỉ sắt gác lên chảo đường, sắp me lên
vỉ sắt, dùng muổng múc nước đường đang sôi rưới lên me cho đến khi nào me thấm
đường là được, để me lên dĩa bàn, phơi nắng cho ráo đường, dùng giấy kiếng màu,
cắt khéo tay thành sợi, gói từng trái có cả cuống và xơ me… Lọai mứt nầy ăn rất
ngon miệng, giá bán cũng không rẻ…bởi làm rất công phu.
Thời còn
học tiểu học, những ngày cận tết, tôi thường được giao cho việc chụm lửa mấy
chảo mứt…Tuy chuyện “ Xông pha khói lửa” có nóng một chút nhưng bù lại khi mứt
tới là tôi có quyền nếm trước… Đất người, tết nhứt, bánh mứt bày bán đầy chợ… nhưng mứt
me cũng khó tìm thấy, với lại tại mình sống lâu chứ không phải già, nên muối
đường đều phải bớt ăn, nên ba thứ bánh mứt chỉ ngó qua cho biết, chả bù lại,
những năm tháng trong lao tù Cộng Sản, muối cũng như đường, lúc nào trong người
cũng thấy thiếu, những ngày tết đến, những ngày mưa gió được nghỉ lao động,
chuyện bánh trái, mứt trà luôn
được anh em nhắc tới đầy vẻ thèm thuồng….đây cũng là một
cách thưởng thức hàm thụ trong những tháng năm đói rét trong lao tù Cộng sản...
Những
tháng ngày sống trong trại tù Hà Tây, tôi thuộc đội nuôi cá nên có dịp kéo xe
đi nhiều xả gần trại, mùa đông nhiều khi ra tới Thường Tìn để tìm rong, cỏ, các
làng Rùa, làng Phượng tôi thường xuyên tới… Nhiều cây trái giống miền Nam
nhưng tuyệt nhiên, cây me tôi chưa bao giờ được nhìn thấy tại tỉnh Hà Sơn Bình.
Tháng 7
năm 1983, tôi được giặc thả về, trước năm 1975 tôi vẫn có tên trong tờ khai gia
đình nhà chị tôi, cũng như nhà ngọai tôi tại Sài Gòn, nhưng vì còn độc thân
chúng đuổi tôi về Gò Công ở với mẹ, thời gian mới về bị quản chế 2 năm, cũng bị
nhiều ràng buộc như trong tù chỉ khá hơn là gần gửi với người thân, khỏi phải
đi lao động khổ sai, tuy thỉnh thoảng vẫn phải công tác đào kênh, đấp đập, gọi
là lao động xã hội chủ nghĩa...,trong ngày sau 6 giờ chiều là không được ra
khỏi nhà…Tháng tám, trời mưa to, cây me cạnh nhà trốc gốc, ngã vắt ngang trước
nhà, cây me khoảng gần vòng tay, may mắn nếu nó ngã xéo một chút là đè lên mái
nhà… Thế là tôi có chuyện làm, với cây búa cùn, tôi nhẩn nha đẻo từng khúc, vừa
làm vừa chỉ cho con cháu học mấy chữ Hán, con cháu học sư phạm ban Việt, Buổi
trưa tôi đang ngồi chặt chặt đẻo đẻo, thì tôi nghe có tiếng của chị tôi
- Bảy, có
thằng Quang đèo đến kìa
Thằng Quang bạn học với tôi thời trung học, nó từ Hòa
Đồng xuống tỉnh trọ học gần nhà tôi, trong lớp cùng ngồi bàn nhứt kế tôi, Những
năm cuối trung học, cùng làm thơ trong Nhóm thơ 20 Gò Công, đi lính cùng khóa
13 đại đội phó CTCT tại Trường Nguyễn Trãi( Biệt Khu Thủ Đô) Ngày sập tiệm
chung trại tù Huyện Tây Gò Công, từ ngày nhập trại nó lần lần biến đổi tánh
tình, trở thành tay sai chỉ điểm cho cán bộ trại, nó là tên trưởng nhóm ác độc
thứ hai của trại Hòa Đồng, chỉ sau Đại úy Hỉ ( BĐQ), Chính Quang rủ tôi cùng
tham gia công tác chỉ điểm với nó. Trong tình bạn cũ tôi có khuyên nó hãy nhìn
lại, anh em trong trại là những chiến hữu cũ, lại là đàn anh, đàn em chung trường
trung học, có nhiều vị thầy dạy cũ…
Tôi còn
nhớ câu tôi kết luận
- Tao nói
lỡ lời có gì mầy bỏ qua cho
Sống trong tay Cộng Sản, như cá nằm trên thớt, ai mà không sợ. Lỡ nói rồi tôi đâm ra ngán nó
báo cáo...
Tôi tuyệt giao với
Quang từ đó, anh em từng ở trại Huyện Tây, ai mà không hận thằng Quang. Nó báo
cáo hãm hại biết bao nhiêu người. Nó nhỏ con nên có tên là Quang đèo, chức vu
sau cùng của nó là Phân chi khu trưởng xã Vĩnh Bình, tốt nghiệp khóa 4/68
trường bộ binh Thủ Đức
Quang và
người bạn chỡ nó, họ Tô Vĩnh tên gì tôi quên, một giòng họ giàu có ở Hòa Đồng,
vô nhà được chị tôi mời ngồi ghế giữa. mẹ tôi từ nhà sau cũng lên ngồi bên bộ
ván, vì cả nhà biết tôi rất hận thằng nầy, nên sợ có điều gì bất trắc xảy ra,
chị ra gọi tôi vào, vẫn quần tà lỏn, ở trần, tôi không cần mặc áo, ngồi vào ghế
vấn thuốc rê hút… Tôi hiểu tấm lòng của mẹ và chị dành cho tôi, tôi im lặng,
Quang hỏi câu gì tôi trả lời câu đó và trả lời rất đâm họng nên láp dáp mấy câu
nó kiếu ra về
Tôi còn nhớ
-
Nghe nói
tù ngoài Bắc đói khổ lắm phải không?
-
Mầy đừng
có bôi bác chế độ, mầy không nghe nhiều lần quản giáo và đài phát thanh ra rã…
Nước ta tiền rừng biển bạc, Trưởng trại Chín Nhựt của trại Huyện Tây từng nói
-
Cửa sông Cửu Long toàn là kim cương và đá quý
trầm tích ở đầy, rồi đây nhà nước sẽ khai thác … giàu có mấy hồi
Tụi tù ngoài Bắc tụi tao được ăn ngày 3 bữa, có bàn
billard, bàn ping pong, có thư viện, có sân bóng chuyền… nhiều thứ giải trí
khác, tù chỉ ăn rồi…chơi.
-Về mấy tháng nay mầy làm gì
-tao làm báo
-mầy viết cho báo nào vậy?
- báo của tao là báo mẹ báo chị, báo đời…chớ báo nào
Thằng
Quang ra về… tôi thấy trong lòng ray rứt, tìm được một thằng bạn đã khó mà cắt
đứt tình bạn lại càng khó hơn, may mắn trong đời, tôi chỉ cắt tình bạn có 2 lần,
cũng sau ngày trời sập. Ngồi bên thân cây me đang chặt dở dang, tôi hút một hơi
thuốc dài, tự dưng cảm khái, ngâm nho nhỏ bốn câu thơ của Nguyễn Bính,
dán trước cửa nhà lúc về sống ở miền Tây Nam Bộ
‘Từ dạo
về đây sống rất nghèo
“ Bạn bè
chỉ có gió trăng theo
“Những
thằng bất nghĩa đừng lui tới
“ Hãy để
thềm ta xanh sắc rêu…
Mười mấy năm lưu lạc xứ người, mỗi lần ra đường, nhìn
thấy những cây có tàng lá giống cây me là lòng tôi như chùng xuống, kỷ niệm
thời thơ ấu như hiện rõ trong tôi, những thức ăn chế biến từ lá, trái me… Tôi
nhớ mẹ tôi, tôi nhớ anh chị tôi…Tôi nhớ Gò Công, quê hương của tôi mà giờ đây
cờ sao bay bay như thách thức… Làm sao tôi về lại, ngày mẹ tôi còn sống, tôi đã
nhiều lần gửi bài thơ trong đó có 2 câu
“Con đi dưới lá cờ sao máu
“Rờn rợn lòng con, nhục mẹ ơi! *
THỦY LAN VY
Viết tại Kỳ Đà Động, Lập Xuân 2008
* Thơ T. L. Thảo
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Jun/2014 lúc 7:15pm
Hạnh Phúc Như Mơ
Về Gò
Công em vui không?
Em đi phố cũ
nắng
có hồng
Nhuộm
lên đôi má thời
trung học
Một
thuở
tình mơ...
ý ước
mong...
Con đường
em bước
còn hương
cũ
Vết của chân son thuở học trò
Xóm Cỏ có
làm em thương
nhớ
Một thời áo trắng đẹp như thơ
Ngang qua bưu điện em đi học
Nhìn lại
sau lưng
có lắm
chàng
Đã muốn ươm lời gieo ý nhớ
Ảnh
hình kiều mỵ giữ riêng mang...
Em có buồn thương, em thấy tiếc
Khi bước
ngang qua cổng
mái trường
Thầy
Chiếu,
Thầy
Đài cô Tuyết Lệ
Em nhìn mái ngói phủ rêu sương ...!
Dưới
mái trường
yêu bao kỷ niệm
Bạn bè
một
thuở - Ướt tình yêu
Lưu
bút ép đầy
hoa sắc
tím
Tuổi
thuở
thanh xuân rất diễm kiều
Em về ghé
lại
thăm nhà chị
Một
chút tình xa anh gởi em
Hăm mấy
năm trời
anh chưa bước
Quay về
thăm chị nhắc buồn thêm ...
Chị anh
tuổi đã
vào đông giá
Tóc trắng
như sương ý vẫn chờ
Gặp lại thằng em nơi xứ lạ
Đời
nhiều
khi tỉnh
giống
như mơ...
Em về chụp ảnh chung cùng chị
Trước
mái nhà xưa, cảnh bây giờ
Ở đó
một thời anh tuổi nhỏ
Đậm tình
cha mẹ, chị dành cho
Anh hẹn
cùng em có một
ngày
Mình về quê
cũ giữa
mùa mai
Pháo xuân dòn dã lân, rồng múa
Vàng sắc cờ xưa lộng gió bay ...
Rung cảm
bên nhau trước cổng trường
Những
năm chờ đợi, nhớ buồn thương
Hôm nay hạnh
phúc như mơ ước
Tình cũ trường xưa tươi sắc hương ...
thylanthảo
------------- mk
|
|