Print Page | Close Window

Món ăn, thức uống Gò Công

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Quê Hương Gò Công
Forum Discription: Những cảm xúc về quê hương Gò Công
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=220
Ngày in: 22/Jun/2025 lúc 1:51am
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: Món ăn, thức uống Gò Công
Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Chủ đề: Món ăn, thức uống Gò Công
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:38pm
NET
 
Hủ tíu Việt Nam-

(... lò Tám Thảo dưới Gò Công)

http://www.alintravel.com/v1/index2.php?option=com_content&do_pdf=1&id=18 -  

http://www.alintravel.com/v1/index2.php?option=com_content&task=view&id=18&pop=1&page=0&Itemid=48 -  

http://www.alintravel.com/v1/index2.php?option=com_content&task=emailform&id=18&itemid=48 -  

%20

Hủ tíu - còn gọi hủ tiếu - là món ăn phổ biến khắp phía nam, đến nay đã xuất hiện ở miền trung và miền bắc. Trong các chương trình liên hoan văn hóa ẩm thực Việt Nam tại nước ngoài, đặc sản hủ tíu luôn được trân trọng giới thiệu. Tuy nhiên, dẫu từng nấu và xơi hủ tíu hoặc thỉnh thoảng hoặc thường xuyên, nào phải ai ai cũng hiểu rõ gốc gác cùng các biến thể của món ăn này.

 

Từ đâu ? Bao giờ ?

 

Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy !

 

Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn bởi tiếng Hán quả điều mà dân Tiều (Triều Châu) phát âm thành cổ chéo. Nghĩa là "bánh sợi". Thì đấy là sợi bánh bằng bột gạo, gần giống bánh phở (âm Hán-Việt: phấn, nghĩa gốc là bột) song hủ tíu khác cơ bản ở chỗ sợi bánh thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới trụng nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm-thơm-bùi-béo.

 

Như thế, trên cơ sở từ nguyên, có thể thấy rằng món hủ tíu thông dụng xưa nay khắp "Nam Kỳ lục tỉnh" vốn từng được khai sinh tít tận Trung Hoa rồi du nhập vào nước ta qua biên giới tây nam sau một thời gian "quá cảnh" tại Campuchia. Và cũng tương tự phở (ngầu phảnh/ngưu nhục phấn) cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tíu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.

 

Một Việt kiều ở Pháp vẫn được bạn bè quen gọi bằng biệt danh Sous Chef vì anh từng làm bếp phó tại một khách sạn lớn giữa thủ đô Paris và từng đi đó đi đây để trao đổi nghiệp vụ "dao thớt". Sous Chef nói: Gặp dịp khảo sát món hủ tíu ở Bắc Kinh, Quảng Châu và Hồng Công (Trung Quốc) cũng như ở Phnom Penh (Campuchia) mọi người Việt chắc đều ngạc nhiên nhận ra hủ tíu những nơi ấy rất khác hủ tíu quê nhà. Khác và không ngon bằng ! Sợi bánh của họ ít dẻo thơm bằng. Nước lèo (nước súp) của họ thì kém trong, kém ngọt. Còn tôm thịt cùng gia vị cũng tồn tại lắm dị biệt.

 

Những "biến tấu" hấp dẫn

 

Sous Chef còn nêu ý kiến đáng chú ý: Nhiều nước, hủ tíu tồn tại cũng chỉ vài ba "chủng loại". Riêng Việt Nam, thật đặc sắc, hủ tíu được phát triển tới hàng chục kiểu khác nhau.

 

Về phở, giáo sư Phan Ngọc chịu khó lục lọi sách vở và thống kê thấy 17 kiểu cả thảy. Tôi thì la cà nhà hàng, quán xá, quầy, sạp, xe, gánh ở một số tỉnh thành phía nam, ghi nhận chưa đầy đủ được 25 kiểu hủ tíu. Này nhé: hủ tíu Nam Vang, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Sa Đéc, hủ tíu mì, hủ tíu nui, hủ tíu hoành thánh, hủ tíu xào, hủ tíu xá xíu, hủ tíu thịt băm, hủ tíu sườn heo, hủ tíu lòng heo, hủ tíu cá, hủ tíu cua, hủ tíu tôm, hủ tíu gà ta, hủ tít gà ác, hủ tíu bò kho, hủ tíu bò viên, hủ tíu bò tái, hủ túi bò sa tế, hủ tíu nai sa tế, hủ tíu vịt quay, hủ tíu nấm, hủ tíu măng, hủ tíu chay. Nói chung, mỗi kiểu đều chia 2 dòng là khô và nước, do đó nhân đôi lên vị chi món hủ tíu đã có sơ sơ 50 kiểu. Tùy nơi, tùy lúc mà các kiểu được linh động tổ hợp thành "model" mới như hủ tíu mì-nui-hoành thánh, hủ tíu cá-tôm-cua, hủ tíu nấm-măng, hủ tíu thập cẩm v.v. Ấy là tôi chưa liệt kê đôi kiểu "độc chiêu" thỉnh thoảng bắt gặp ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như hủ tíu chuột, hủ tíu dơi, hủ tíu rắn, hủ tíu rùa. Thời gian qua, bên cạnh mì ăn liền nhiều loại hủ tíu ăn liền còn xuất hiện nhan nhản trên thị trường, âu cũng góp phần làm phong phú thêm bảng thực đơn "chuyên đề" hủ tíu .

 

Nói theo lý luận bếp núc Âu Mỹ, thì hủ tíu nằm trong hệ thống mỹ vị Pháp (gastronomie) vô cùng phong phú vì nó mang tính cách mở, linh hoạt, phóng khoáng, dễ hội nhập và thích ứng. Như vậy, tô hủ tíu phản ánh phần nào tính cách lẫn bản sắc của người dân Nam Bộ.

 

A Cánh - một chủ tiệm hủ tíu người Việt gốc Hoa ở quận Gò Vấp, TP ************ - tiết lộ: Gia đình ngộ (tôi) ít nhất đã ba đời sống bằng nghề này. Cũng như bún bò và phở, muốn nấu hủ tíu ngon thì phải đặc biệt chú ý tới nồi nước lèo. Hủ tíu khô hay uớt gì cũng cần nước lèo, chỉ khác là hủ tíu khô phải dọn nước lèo riêng thôi. Nồi nước lèo ngọt thơm nhờ hầm xíu quách (trư cốt: xương heo), củ cải, tôm  khô và khô mực nướng. Ngộ còn thả thêm miếng xí pố (khô cá) nướng thiệt thơm. Bán hủ tíu mì, các quán chuyên nghiệp thường tự sản xuất sợi mì cho đúng ý, đồng thời chế biến xíu mại cùng tài páo (bánh bao) luôn. Dọn tô hủ tíu cũng phải lưu tâm kỹ các thứ gia vị cần thiết như zìm (muối), tsu (dấm), chương dẩu (xì dầu/nước tương), càng không thể quên tăng xại (đông thái).

 

Đông thái là cải bắc thảo thái mỏng và muối khô, một loại "phụ tùng" độc đáo thường thấy các tiệm hủ tíu đựng trong thạp gốm tráng men màu da lươn. Sau khi bỏ bánh sợi và mì sợi vào vợt kim loại nhúng xuống thùng nước sôi rồi trút vô tô, đầu bếp nhón một ít đông thái, thêm tóp mỡ, giá trụng thả vô tô nốt. Tiếp theo là đặt xá xíu thịt băm, miếng gan heo, quả trứng cút; kế đó rắc lá hẹ (chứ không phải hành lá) xắt nhỏ, rồi múc nước lèo chan vô tô. Cuối cùng, bứt ngọn xà lách xanh muốt làm đôi, bỏ trên mặt tô và dọn mời. Thực khách tùy gu mà thêm dấm, ớt, tiêu, xì dầu, đoạn trộn đảo và xưởng xích (thưởng thức) nóng sốt. Khi dùng, có người gọi thêm chén xíu mại, có người xơi kèm chiếc bánh quẩy (giò cháo quẩy).

 

Ấy là món hủ tíu mì quen thuộc. Thay mì bằng nui, bằng hoành thánh (vằn thắn), thành hủ tíu nui hay hủ tíu hoành thánh. Tô hủ tíu sườn thì lổn nhổn mấy miếng sườn heo non nấu hồng nhự (chao đỏ) với hương vị rất đặc trưng. Hủ tíu bò kho, bò viền, bò tái, bò sa tế hoặc hủ tíu gà cũng khác xa phở bò, phở gà. Hủ tíu bò sa tế nổi tiếng trên địa bàn TP ************ có ba quán cùng lấy hiệu Tô Ký do ba anh em ruột làm chủ, hai quán thuộc quận 6, một quán thuộc quận 5. Riêng hủ tíu gà, ở TP ************ có mấy tiệm "chuyên trị" món này tọa lạc trên đường Nguyễn Trãi. Nồi nước lèo dành cho hủ tíu gà phải hầm toàn xương gà với củ cải, thảo quả, mục quả (đu đủ) cùng gia vị, sao cho nước ngọt thanh và trong veo. Thịt gà xé đặt lùm lùm miệng tô, cùng mề, gan, tim, cật gà đã được xử lý bằng bí quyết riêng, ăn sao thấy lạ miệng và ngon đáo ngon để. Các loại hủ tíu thủy hải sản (cá, tôm, mực, cua,v.v.) giá cả thường đắt nhất, có tiệm tính tới 25.000 đồng/tô, song chẳng phải chỗ nào cũng nấu đạt chất lượng.

 

Ba bảy là gì ?

 

Nhiều người "nghiện" hủ tiếu cho biết: Muốn ăn hủ tíu tôm thì ghé ngã năm Bình Hòa ở quận Bình Thạnh. Hủ tíu cá, phải lên Chợ Lớn. Hủ tíu cua, về Gò Vấp. Nhưng mấy món hủ tíu thủy hải sản, chưa đâu nấu cừ khôi bằng quán chú Xồi ở miệt Lái Thiêu (Bình Dương).

 

Chú Xồi hoặc chú Chệc chỉ là tên gọi chung đàn ông Hoa kiều. Thực tế, tại nhiều thị tứ phía nam, đa số quán tiệm hủ tíu đắt khách thường do bà con người Việt gốc Hoa đứng bếp. Phần lớn các tiệm này cũng là "mì gia" treo biển hiệu song ngữ Việt - Hoa mà thoạt trông dễ nhận biết (và cũng dễ bị giả mạo) là hiệu danh chứa hậu tố Ký như Diệu Ký, Lưu Ký, Tuyền Ký, Hưng Ký, Hồng Ký, Tô Ký, Quang Ký, Oai Ký, Phánh Ký, Zìn Ký. Gia vị dùng cho hủ tíu cũng đậm đặc chất Tàu: nào đông thái, nào dấm đỏ, nào hắc xì dầu, v.v. Vậy mức độ Việt hóa món ăn này thể hiện ở điểm nào ? Sous Chef phân tích nghe khá hợp lý: Hủ tíu là món gốc Hoa, nhưng đã Khmer hóa và nhất là Việt hóa để thích nghi thủy thổ, cơ địa. Rõ rệt nhất là tô hủ tíu Mỹ Tho. Anh biết rằng tập quán ngươi Hoa là dùng dấm, xì dầu và hầu như chẳng bao giờ ăn rau sống. Hủ tíu Mỹ Tho thì dùng chanh, giá sống cùng lắm loại rau mùi, và độ mặn nhạt được nhấn nhá bằng thứ gia vị chính cống Việt Nam: nước mắm.

 

Tôi đã về thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) để lai rai khảo nếm món hủ tíu lừng danh nơi dãy quán quanh khu vực cầu quay. Ba Châu - chủ tiệm hủ tíu đắt khách trên đường Trưng Trắc - cho biết: Một trong những yếu tố tạo nên nét riêng của hủ tíu Mỹ Tho là bánh sợi. Sợi bánh được làm từ gạo Gò Cát dẻo thơm, loại gạo mà không phải đất nào cũng trồng được. Hiện cả tỉnh Tiền Giang có hai lò sản xuất bánh hủ tíu số zách: lò Bảy Hưng ở ngay Mỹ Tho, và lò Tám Thảo dưới Gò Công. Còn bí quyết nấu hủ tíu ngon hả? Phải xử lý nguyên vật liệu và gia vị sao để nước lèo, thịt thà, rau củ thiệt là vừa miệng. Khoản này thuộc loại gia truyền, khó chỉ bày chi tiết cụ thể lắm à !

 

Bên cạnh hủ tíu Mỹ Tho, đất phương nam còn nổi tiếng hủ tíu Sa Đéc. Khách sành điệu ở Sài Gòn vẫn còn nhắc quán hủ tíu chính hiệu Sa Đéc do một ngôi sao sân khấu mở tại góc đường Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương vào khoảng năm 1973: bà Năm Sa Đéc, người bạn đời của nhà sưu tầm cổ ngoạn Vương Hồng Sển. Bây giờ, hai ông bà đã quy tiên, quán xưa cũng thay tên, đổi chủ. Thèm tô hủ tíu thơm mùi gạo Tân Khánh, hiện chỉ còn cách lặn lội về tỉnh Đồng Tháp, vượt sông Tiền, ghé thị xã Sa Đéc mà lùng sục. Há lẽ ăn tô hủ tíu, chạy ba quãng đồng ?

Đặt vấn đề bếp núc vùng (cuisine réogionale) học giả J. F. Flandrin yêu cầu tiếp cận các món ăn đặc biệt ở mỗi khu vực địa lý nhằm phát hiện "mô hình cấu trúc của hệ thống thực tiễn và khẩu vị ẩm thực của một vùng có gì khác so với các vùng lân cận". Áp dụng phương pháp chọn mẫu, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra ba món phổ biến đại diện cho ba phong cách bếp núc vùng của nước ta: miền bắc có phở Hà Nội, miền trung có bún bò giò heo Huế, miền nam có hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Sa Đéc. Nhìn từ góc độ nào đấy, tô hủ tíu miền nam không chỉ là món đặc sản. Luận theo giáo sư Trần Quốc Vượng, tô hủ tíu còn là hiện vật sống động biểu hiện cả quá trình "đan xen, hỗn dung, tiếp biến, giao thoa, tương tác của văn hóa Việt Nam nói chung, của nghệ thuật ẩm thực Việt Nam nói riêng".

 

Hủ tíu kia cũng có ba bảy đường chế biến, soạn bày, thưởng thức và nhận định. "Ba bảy" đây chẳng phải "3 hay 7", cũng chẳng phải "từ 3 đến 7", mà là "37" (băm bảy) hoặc nhiều hơn...

 




Trả lời:
Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:41pm
Trần Văn Chi
 
Mắm Còng
 
Ðất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre.

      Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm.

      Còng bò xõm có vẻ “lều khều” quều quào, yếu ớt, nên kêu là còng quều. Mấy cô gái sắp dậy thì, chưa trổ mã, cao nghệu, đi đứng quều quào bị chê là “tướng còng quều!”

      Ngoài Bắc cũng có còng có cáy nên có câu:

      Ðói thì bắt cáy bắt còng,

      Thờ chồng trọn đạo tam tòng là hơn

      Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Mấy ông chủ nuôi vịt Tàu mướn người bắt cho vịt ăn, làm mồi, đẻ rất say trứng. Trẻ con ra ruộng bắt chừng nửa buổi cả thùng thiếc, được trả công bằng vài trứng hột vịt, đem tới quán đổi lấy cốm, bánh ú, kẹo đậu phộng... ăn khoái chí lắm...

      Sau nầy lên Chợ Lớn Mới thấy xe đò chở còng lên bán cho nhà vựa để cung cấp lại cho mấy quán bún rêu; giả làm rêu cua, cũng “ngon” đáo để một thời mà nào ai biết!!!

      Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công.

      Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ.

      Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột.

      Chiều hôm đó mọi người lo chuẩn bi đèn soi còng. Loại đèn dầu hôi đặt trong cái thùng bằng thiếc, tim đèn bắng vải cở ngón tay cái. Ðèn soi còng cũng là đèn soi cá, soi ếch nhái, dùng để di chuyển ban đêm rất thông dụng ở thôn quê.

      Ăn cơm sớm, chừng 6 giờ chiều người ta đã rủ nhau ra ruộng chờ còng lột. Bọn nhóc con cũng xách giỏ chạy theo cha mẹ anh chị gọi là “đi bắt còng lột cho biết”. Ngồi trên bờ ruộng người hút thuốc, kẻ ăn trầu, nói chuyện rôm rả, đèn sáng cả đồng ruộng đúng là ngày hội còng lột.

      Nhìn xuống ruộng không thấy bóng dáng một con còng, người yếu bóng vía, chưa lần nào đi soi còng lột ắc phải mất tinh thần, thấp thỏm lo sợ... Các bà già kinh nghiệm đầy mình, năm nào cũng ra đây bắt còng lột, thì cứ nhỏm nhẻm miếng trầu bảo sắp nhỏ chờ đợi.

      Ðúng như rằng. Ðến 8-9 giờ, còng bắt đầu bò lên miệng hang, lột vỏ và nằm yên như chờ người đến bắt! Ðây là lúc mọi người ra tay nhẹ nhàng lượm từng con còng lột mềm mại, nhuốt nhe và mát rượi... từ từ cho vào giỏ. Càng về khuya còng càng rủ nhau bò lên miệng hang để lột, để nạp mạng cho đoàn người dang chò đón tù chiều...

      Mọi người không ai bảo ai, tất cả im lặng. Cái hoạt cảnh lúc nầy thật lý thú với bao con người lom khom, tay cầm đèn soi, tay thoăn thoắt nhặt từng con còng lột đang nằm im bất động!!!

      Ðến gần sáng, mạnh ai nấy về nhà, trả lại cái tỉnh lặng cho ruộng rẫy. Và một ngày mới bắt đầu như mọi ngày.

      Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,

      Về sông ăn cá về đồng ăn dưa.

      Về tới nhà không kịp thay đồ, mẹ tôi bắt tay làm mắm ngay. Bà nói để tới sáng cõng sẽ cứng, làm mắm mất ngon.

      Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh.

      Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.

      ... Vông làm mắm gói nem là loại vông có bông đỏ rất đẹp, ở quê nhà nào cũng có trồng trước nhà vài cây. Còn có một loại vông khác dùng làm guốc mà ngày xưa mấy cô rất thích, là loại vông rừng, mọc rất nhiều ở rừng Cà Mau.

      ... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi..

      Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào.

      Làm mắm còng không dễ mà còn nguy hiểm nữa, bởi bạn không thể làm thử, không có cơ hội làm lại lần thứ hai. Mắm còng như vậy là “nghề” của mấy bà mẹ, bà nội, bà ngoại, còn mấy cô gái chỉ là “thợ vịn” mà thôi.

      Ðược hũ mắm còng ngon chưa hẳn cho ta bữa ăn mắm ngon. Hương vị mắm còng tùy thuộc và nghệ thuật pha chế gia vị cho đúng, cho vừa miệng và dúng cách nữa. Cũng còn phải biết chọn rau, chọn bún cho hợp với mắm còng.

      Mắm còng là loại không được cất giữ lâu như các loại mắm khác, vì để càng lâu thịt con còng bị phân hủy chỉ còn lại vỏ; nhai con mắm chỉ thấy xơ, thấy xác mà thôi. Và ăn như vậy chán chết, và hổng biết cách ăn mắm còng!!!

      Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon.

      Tháng Năm mưa chưa nhiều, đồng chưa nổi nước và vẫn còn oi ức, ăn bửa mắm còng thấy mồ hôi mẹ mồ hôi con chảy ròng ròng... còn gì bằng.

      Sáng dậy sớm đem ít gạo ra chợ đổi búng, phải lấy búng rời, mua cho đủ rau thơm, khế, chuối chác đem về cả nhà ăn bửa mắm còng đầu mùa.

      Bún, rau, khế, chuối chác bày ra trên cái xề đã lót sẵn lá chuối, mắm còng cho váo nguyên một cái tô bự, cũng không quên ra sau vườn bẻ mấy nhánh ớt hĩm chín cây...

      Mỗi người tự làm cho mình một tộ bún mắm còng, người thích nhiều rau, người ưa bún chan nước mắm còng thôi. Mẹ tôi nhìn mấy ba chị em tôi lua bún, húp nước “rột rột” bà cười hạnh phúc mà quên ăn, dầu mắm còng là món ruột của bà!

      Bà có cách ăn mắm đặt biệt. Xé từng con mắm còng ra làm đôi, ngắt từng lá rau thơm cho nhuyễn cho vào tộ bún, chan ít nước mắm còng. Mỗi lần bà làm chỉ vừa một miếng mà thôi. Bà cũng có thói quen thích ăn mắm với lá chùm ruột non, lá điều lộn hột, lá gừng non, cũng như lá vông lấy ra từ hũ mắm.

      Sau nầy lớn lên, biết ăn biết nhậu tôi mới biết mẹ tôi đúng là người ăn mắm sành điệu. Và mỗi khi có dịp về Gò Công ăn món mắm còng lòng cảm thấy nao nao, nhớ mẹ làm sao! Hồi bà còn sống mỗi năm vào tiết Ðoan Ngọ bà lên Sài Gòn thăm tôi, đều không quên mang theo hũ mắm còng mà bà chắt chiu, cụ bị để dành. Hũ mắm còng ấy tôi để trong tử lạnh, vừa ăn mà vừa sợ hết!!!

      Ăn mắm còng kiểu gia đình tôi là ăn kiểu “nhà giàu”. Bởi món mắm còng xưa nay chỉ là món “ăn chơi, ăn nhậu”, ít ai dám ăn lấy no... Mấy ông già xưa miệt rẫy tuy vốn hảo ăn, hiếu bạn nhậu nhưng món mắm còng thì dành để nhậu riêng, ngày nầy qua ngày nọ, đến khi chỉ có lại vài con mắm, thậm chí còn lại ít nước mắm thôi cũng đủ làm ông say tối đêm đó rồi.

      Mắm còng Gò Công, như tên gọi, là đặc sản của quê hương bà Từ Dũ, là món ngon dâng vua. Mắm còng là món xuất thân dân dã, ruộng rẫy, có hương vị rất đặc biệt: Mùi hơi tanh như mùi bùn, nhưng khi đưa vào miệng ta cảm thấy như hơi tê tê đầu lưỡi, rất độc đáo...

      Cắn nhẹ con mắm còng bạn nghe có “mùi bùn” tỏa lên mũi, người ưa thì khen ngon, người chưa biết ăn sẽ chê tanh, như ta ăn xoài riêng vậy.

      Mắm còng vốn hiếm, ngày nay càng hiếm.

      Về thăm lại Gò Công nghe câu hò: “Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng”... gợi nhớ cái hương vị mắm còng biết bao!



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:43pm

Nồi Mắm Tạ Ơn




Trong hơn 28 ly hương xa xứ, hôm nay tôi đã tìm lại chút tình nồng của vùng phù sa sông Tiền và sông Hậu. Số là vì mừng ngày lễ Tạ Ơn nhân ngày cuối năm thì có lẽ ít ai thết đãi món mắm thuần túy quê hương theo nếp sống hải ngoại, nhất là đối với các bạn trẻ lớn lên tại đây. Có thể là điều kỳ lạ với họ. Nhưng với riêng tôi đó là những ân tình nồng nàn nhất đưa tôi về lại quê hương của hằng chục năm về trước. Năm nay những bạn bè thân của tôi có nhã ý làm buổi họp bạn nhân ngày "long weekend" Tạ Ơn để nhớ về dĩ vãng, và điều này đã mang tôi về lại nhiều kỷ niệm xa xưa trên quê hương của vùng trời bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi tôi đã lớn lên với vựa lúa phì nhiêu, cá mắm và rau quả dư thừa của đất nước Việt Nam. Đây là cái niềm vui thân thiết của những người bạn Rạch Giá mà tôi mới quen năm nay, nhưng chân tình của sự thân hữu hình như rất là nồng thắm. Nó như cái dễ thương của tình đồng hương xa xứ, rất “Kiên Giang", đầy nét “Tiền Giang “ và thắm đượm “Hậu Giang” trong ý nghĩ của riêng tôi khi viết lên những ý tưởng được cô đọng trong bài này.

Tháng chạp thời tiết Cali trở nên lành lạnh, cái không khí nô nức của mùa Noel hình như đang về trước mặt, khi mà các shopping, các cửa hàng đã chưng đèn đủ màu hay trang hoàng nhiều biểu tượng cho ngày vui cuối năm thì tôi và người bạn trẻ tên Đại Nghiã đang hướng về Orange county, nơi tập trung đông đảo cư dân người Việt, cũng như nhiều bạn bè của chúng tôi sinh sống tại đó. Đại Nghiã cho biết anh Minh Thông và chị Mai Khanh mời bạn bè xuống họp mặt tại nhà anh chị tại Anaheim. Tôi biết danh anh Minh Thông vẫn nổi tiếng là tay nấu ăn cự phách, nhất là các món ăn hay món nhậu đồng quê miền nam. Nghiã có bố mẹ gốc bắc, nhưng ra đời tại Sài Gòn. Tuy vậy, Nghĩa rất thích các món ăn của đồng bằng nam bộ. Khi lớn lên năm tháng ở Mỹ, Nghiã quen nhiều bạn học người miền nam và với cái tâm thức hoài hương, Nghĩa luôn luôn tìm hiểu về cội nguồn quê hương. Nghĩa thú nhận là em có chút ít khái niệm về quê hương nói chung hay vùng châu thổ sông Cửu Long nói riêng qua sách vở. Nghĩa bàn với tôi hãy nói về các đề tài mắm của miệt Cửu Long giang. Trên đoạn đường dài từ San Fernando Valley về Anaheim, tôi cố phác họa từ trí nhớ còn sót lại về vùng địa lý thiên nhiên miền tây, nơi có hai con sông lớn chính nuôi dưỡng người miền châu thổ Cửu Long giang. Tôi vẽ nét đại cương trong trí tưởng tượng cho Đại Nghiã là con sông Mekong với chiều dài gần 4000 Km bắt nguồn trên cao điểm xứ Tây Tạng đổ xuống hướng nam, và từ miệt thượng Lào đổ xuống Cao Miên và chảy vào lảnh thổ Việt Nam tẻ ra hai nhánh là Tiền Giang (TG) và Hậu Giang (HG). Sông TG từ biên thùy Cao Miên chảy theo hướng tây bắc xéo xuống hướng đông nam trên lảnh thổ Việt Nam ra đông hải. Hướng bắc của sông TG có các tỉnh tiếp cận là Kiến Phong, Kiến Tường (mà sau này chính quyền CSVN sáp nhập thành tỉnh Đồng Tháp), rồi Mỹ Tho và Bến Tre. Còn sông HG tương tự từ Cao Miên theo hướng tây bắc chéo xuống đông nam ngang Việt Nam hướng ra biển. Hướng nam của sông HG tiếp giáp với các tỉnh An Giang (Long Xuyên), Phong Dinh (Cần Thơ) và Sóc Trăng. Chính giữa hai con sông này là các vùng đất từ các tỉnh Châu Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long và Trà Vinh. Tôi ước ao có bản đồ nước Việt Nam để đưa người bạn trẻ của tôi trở lại Việt Nam chính xác hơn là những lời mô tả rất trừu tượng của tôi.

Tóm lại, trong mẫu chuyện của chúng tôi cho thấy là vùng châu thổ lưu vực sông Cửu Long là vùng đất màu mỡ thiên phú cho dân tộc Việt Nam, nơi là vựa lúa trù phú cho vùng Đông Nam Á, nơi mà cá tôm từ sông biển dư thưa nuôi toàn dân Việt Nam. Chính vì đặc tính cá tôm dư thừa này chúng ta có những đặc sản độc đáo từ các loại khô đến các loại mắm rất đặc sắc.

Nghiã ôm tay lái và chú ý lắng nghe tôi nói tiếp về đề tài “Mắm”. Thực sự khi tôi có dịp về vùng 4 những năm trước biến cố 1975 thì mắm là món tôi thường thưởng lãm nhiều hơn cả, từ món lẩu mắm, món mắm thái ăn với thịt ba chỉ, mắm ruột, mắm trứng, mắm cá trèn, mắm lóc, mắm sặc, mắm tôm chua, mắm tôm chà và mắm còng. Một buổi trưa hè tại Phụng Hiệp ở tỉnh Phong Dinh người bạn địa phương tên Sang cho tôi ăn món mắm sặc xé ăn với cơm nguội, kèm theo dưa leo, ơt hiểm thật cay xé họng, món ăn này thật bình dân, nhưng trong cơn đói bụng, nó nghiễm nhiên trở thành món ăn ngon miệng, quí hóa. Tôi nhớ ngày hôm đó người láng giềng bên cạnh nhà Sang mang sang một thau gỏi khô sặc ăn để nhớ đời. Gỏi gồm tôm, thịt ba chỉ luộc, trộn chung với dưa leo, củ cải trắng, khế, khóm, xoài sống và cốc bào mỏng. Bốn loại trái cây sau cho đủ độ chua cần thiết khi hoà vào hổn hợp của món khô sặc vừa đủ mặn và được nướng dòn, thật thơm lừng, cộng thêm mùi các loại rau thơm khiến hấp dẫn vô cùng đối với khứu giác và dạ dày của khách phương xa về miền quê này như tôi, người có cái đam mê của món khô và mắm.

"Chiều về Phụng Hiệp ăn khô, Còn đâu cái nhớ nơi mô tìm về ?"

Ghé xã Phước Đông, thuộc quận Cần Đước, Long An, tôi được dùng món mắm còng, một đặc sản rất độc đáo tại địa phương này. Vào mùa hè mùng 5 tháng năm thì là mùa còng cốm lột vỏ. Còng lột được tẩy bằng rượu trắng, ướp muối cho vào keo phơi nắng, nguyên tắc làm mắm còng khá giống cách làm mắm tôm chua. Mắm còng và mắm tôm chua được đệm thêm riềng cho thơm và để khử trùng. Tuy nhiên, mắm tôm chua người ta cho thêm đu đủ cắt sợi vào, trong khi cách làm mắm còng ta không cần đủ đủ. Mắm còng hay mắm tôm chua ăn với bún, thịt ba chỉ luộc hay thịt ram và rau sống.

“Mùng Năm tháng Năm mùa còng,
Hãy ăn còng mắm Phước Đông nhớ đời”


Gò Công nổi danh với món tôm chà. Tôi có dịp ghé Tân Hòa thăm một gia đình người bạn tại địa phương và học lóm cách làm món mắm tôm độc đáo này. Mợ của Sơn, người bạn tôi, làm theo công thức gia truyền bên nhà mợ. Tôm đất (tức tôm đồng) mợ mua về đem ngâm rượu trắng khử trùng, xong để ráo. Sau đó tôm được trộn muối bọt theo phân lượng 3 Kg tôm thì nửa Kg muối. Tôm được quết nhuyễn rồi cho vào keo đem đi phơi chừng 3 hay 4 nắng (1 nắng là một ngày nắng thật nhiều khi phân biệt với ngày âm u hay ngày mưa). Sau đó tôm được đem đi chà sát trên một rá đan bằng tre để gạn lọc phần nhuyễn của tôm, cho nên món này được gọi là mắm tôm chà. Mắm tôm có màu vàng lợt. Tôi thấy mợ đem đi phơi thêm 3 hay 4 nắng nữa. Khi phơi tôm, mợ cho miếng vãi the phủ lên mặt keo tránh bụi bậm. Nên nhớ keo không nên đậy kín trong thời gian này, áp suất của sức nóng sẽ làm hư tôm. Để chuẩn bị mắm tôm chà trước khi ăn, ta pha trộn tỏi ớt bầm, vắt chanh vào mắm cho đủ hương vị. Thịt ba chỉ luộc hay thịt ram chấm hay quyện vào mắm ăn với bún và rau sống. Tôi mê món này khi dùng chung với bông điên điển hay ngó sen làm chua, có thể đệm thêm khế, chuối chát để tăng phần rau quả đồng quê.

"Ai ơi có ghé Tân Hoà,
Cho tôi hủ mắm tôm chà Gò Công"


Trong một dịp tôi theo người bạn bè quê anh ở miệt Châu Đốc. Phải nói đây là xứ mắm. Mẹ của Hà, người bạn thân trung học của tôi dẫn tôi đi xem các hàng quán bán mắm ngoài chợ, rồi ghé các vựa làm mắm để tôi có dịp học hỏi thêm. Thật vậy, có quá nhiều điều tôi rất muốn biết về đồng quê từ những loại thổ sản độc đáo như mắm thái đu đủ, mắm lóc, mắm sặc, mắm cá trèn, mắm cá linh, mắm ba khía đến dưa mắm hay dưa đu đủ. Ngoài ra còn hai loại mắm mà tôi rất mê là mắm trứng cá và mắm ruột cá. Nếu người phương tây mê món trứng cá caviar của người Nga thì tôi đã vào mê hồn trận của món mắm trứng cá lóc Châu Đốc. Trứng cá lóc tôi rất ghiền khi nấu canh chua khóm, trứng cá màu vàng nổi lều bều, lềnh bềnh thật trông thật đẹp mắt, khi ăn vào rất ngon. Còn ruột cá lóc làm sạch đem nấu canh chua thì ngon tuyệt vời tâm tư rồi vì ruột cá cho độ dòn của sự khoái khẩu, nên khi người ta đem làm mắm thì không chê vào đâu được. Với tôi, dù mắm trứng cá hay mắm ruột cá cho ta vị giác đê mê, sảng khoái vì ta có cảm nhận cái hương vị bùi bùi của trứng cá và béo ngậy của ruột cá. Rồi tôi được mẹ của Hà hướng dẫn ghé thăm một nhà làm mắm khá nổi tiếng tại địa phương, mục kích cách làm mắm tận mắt tôi cảm thấy gần gủi hơn với nếp sống của dân gian. Cá lóc hay cá sặc được đánh vẩy, làm sạch cho vào lu hay khạp tùy theo lượng cá, xong cá được trộn muối bọt vào để cho thịt cá thấm vị mặn, sau một thời gian người ta thử con mắm. Khi cá đã ngấm chín mùi độ mắm trước khi đem bán người ta đem chao con mắm, nghiã là trộn thính vào, thêm nếp nấu nhừ trộn chung vào con mắm. Như vậy giai đoạn này là làm cho con mắm dịu lại vì vị ngọt và béo của nếp và mùi thơm của thính. Nếp nấu là cách bán trong thời gian ngắn mà thời hạn mắm sẽ không giữ lâu được, khi muốn giữ lâu hơn người ta dùng đường. Tuy nhiên tại nông thôn đường vốn đắt hơn nếp. Còn sang hơn cả người ta chao con mắm bằng mật ong, nhưng đây chỉ là hàng quí, đắt tiền mà thôi. Dĩ nhiên khi mắm đã đủ vị mặn mà sên mật ngon vào, cộng thêm hương thơm ngào ngạt của mùi thính thì con mắm sẽ ngon hơn.

“Ai về Châu Đốc, Thất Sơn,
Mắm trèn, mắm thái ăn cơn đã thèm”

***



Mỗi địa phương hay mỗi miền của quê hương đất nước có những món ăn tiêu biểu hay đặc sắc riêng của từng vùng, ví dụ tại Rạch Giá có món “Bún cá Kiên Giang” thì Bạc Liêu hay Châu Đốc lại có món “Bún nước lèo Hậu Giang”. Người Bạc Liêu vẫn quen gọi món này bằng sự sở hữu lưu luyến từ địa phương của mình, món “Bún nước lèo Bạc Liêu”.

Bún cá Kiên Giang làm bằng cá lóc, nước lèo nấu do vị cá và tôm luộc. Xong nước lèo được nêm nếm nước mắm và các gia vị căn bản khác cho vừa ăn, tô bún được độn vào giá và rau thơm (rau sống), cá được thái lát và tôm luộc được bày trên mặt khi ăn.

“Kiên Giang nước chảy sông dài,
Đừng quên bún cá nhớ hoài tình quê”


Theo cách làm món bún nước lèo Hậu Giang thì nước lèo nấu bằng mắm lóc hay mắm sặc nấu rục, xong nước lèo được gạn lọc xương lấy nước dùng. Loại bún này người ta dùng thịt cá và trứng cá lóc. Nước lèo có trứng cá lóc trên mặt, trông tô bún rất hấp dẫn. Trên mặt tô bún ngoài phần chính yếu là bún, giá, rau thơm là những miếng cá lóc luộc chín. Điểm đặc biệt của món bún này là nước lèo mang mùi mắm, dù là mắm lóc hay mắm sặc, sự tô điểm mắm vào làm cho món bún có hương vị đặc thù của món ăn.

“Dừng chân ghé bến Hậu Giang
Ăn tô bún mắm lòng càng mê man”

xxx

Cuối cùng chúng tôi đã đến nhà anh chị Minh Thông, hai đứa tôi bị lôi cuốn bởi cái hương vị rất quê hương từ nhà bếp tỏa sang phòng ăn và lên tận phòng khách. Anh chị đã chuẩn bị món “Lẫu mắm”. Lẫu mắm là món ăn độc độc đáo của người miền nam, đặc biệt vùng đồng bằng miền tây, mà miệt Tiền Giang và Hậu Giang vẫn được xem là trội hơn cả. Có thể rằng món mắm đã tiên khởi xuất phát từ vùng này của quê hương đất nước. Vã lại sự ưu đãi của thiên nhiên về tôm cá đồng làm cho món lẫu mắm của người miền tây xuất sắc hơn chăng ?

Nồi mắm của gia chủ được o bế bằng sự công phu và đệm phần cầu kỳ của các thứ rau ăn kèm. Anh Minh Thông không dùng cá catfish hay salmon, anh thích dùng cá hanh sọc, striped b***, thịt vốn chắc và ngọt. Tại hải ngoại mắm lóc được bán như sản phẩm làm sẳn "ready to use", nên ta đốt giai đoạn nấu và gạn lọc xương mắm cá lóc khi luộc mắm lấy hương vị làm nước lèo. Trên mặt nồi mắm xã bằm nỗi lềnh bềnh, cà tím, cá hanh xen kẻ nhau khi tôi nhìn vào nồi mắm. Trên mặt bàn ăn những dĩa tôm sọc rằn đã lấy chỉ xếp thật gọn gàng, ngăn nấp, dĩa mực trắng phau được khía ô vuông xếp theo hình cong của dĩa. Cái hấp dẫn khác là những dĩa rau "dã chiến", theo từ ngữ của anh Thông, vì tại hải ngoại rau ăn món "mắm và rau" hay "lẩu mắm" không có đầy đủ như ở quê nhà. Rau ăn món mắm này được gọi là rau ghém. Các loại rau quê hương được ưa chuộng cho rau ghém là: rau dừa, rau chốc, bắp chuối, bông súng, đọt mọt (hay rau bạch tượng), bằng lăng, rau nhúc, rau muống chẻ, rau sống hay rau hẹ. Rau hẹ không phải hẹ (chives) ăn trong món gỏi cuốn, loại rau này mọc dưới nước, lá màu xanh lợ, bản to và rất mỏng hơn chives có vị chua. Làm món rau ghém, tùy theo ý thích, có người thêm rau đắng, đọt chiết, đọt cốc, đọt xoài, bông điên điển làm chua. Dĩa rau ghém trước mặt tôi dù "dã chiến", nhưng nó bao gồm nhiều loại khá khan hiếm tại Mỹ mà gia chủ đã lặn lội đi tìm từ các chợ về đây, ví dụ bông súng hay ngó sen tươi, mít non, đậu rồng và nhiều loại rau cần thiết cho "Lẩu mắm".

Anh chị Minh Thông quả thực có tâm hồn ăn uống, cầu kỳ khi nấu ăn và trên cao hơn hết là lòng hiếu khách và trân quí bạn bè. Đó là đặc điểm khiến tôi ngẩu hứng ghi lại những dòng chữ này. Lễ Tạ Ơn này chúng tôi đã bỏ truyền thống ăn gà tây của người Hoa Kỳ để chọn món ăn quê hương. Ngày nay dù rằng quê hương đã cách xa 12,000 dặm trên quả địa cầu, nhưng lại rất gần với bao tử và con tim của chúng ta.

Thay mặt Đại Nghĩa và các bạn bè khác, xin cám ơn anh chị gợi nhớ tình hoài hương nhân lễ Tạ Ơn 2003 qua món "Lẩu mắm home sweet home" ăn để hồi tưởng những ngày cũ đã qua trên quê hương, để tạ ơn quê hương đất nước Việt Nam phì nhiêu về gạo lúa, trù phú về cá khô, mắm và rau quả và để:

"Chiều chiều ra đứng ngỏ sau,
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều"

Việt Hải, Los Angeles


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:44pm

Mắm Tây Và Mắm Ta
Thái Thụy Vy



Trên cõi người ta, có nhiều phát minh rất thú vị đều do ở sự tình cờ như sự khám phá ra Nylon do một nhân viên của hãng hóa chất Dupont vô tình tìm ra trong lúc nghiên cứu các polymer cặn bã phế thải.
Sự phát minh ra Nylon mang nhãn hiệu Qiana đã làm cách mạng kỹ nghệ tơ sợi nhân tạo (man-made fiber) và thời trang; từ đôi vớ cho phụ nữ thay thế tơ tằm, đến vỏ xe hơi Aramid và các phụ tùng trong ngành hàng không (avionic, aerospace).
Có một phát minh khác do sự tình cờ mà tôi muốn đề cập trong bài nầy mà tôi gọi là mắm Tây. Ðó là loại Fromage Roquefort nổi danh ở Pháp Quốc. Ai cũng biết nước Pháp nổi danh với Cognac, Rượu Vang, Chocolat, Bơ và Fromage (Cheese). Các loại fromage nổi tiếng có Brie, Camembert, Gruyères (La Vache qui Rit), Chèvres... Nhưng độc đáo nhất phải kể là Roquefort. Fromage Roquefort. Nguyên vùng núi non Roquefort có nhiều động đá, là nơi trai gái hẹn hò, picnic. Các cặp tình nhân mang theo các thức ăn, thường thường là sữa, bánh mì, súc xích và rượu vang. Có một lần nào đó, họ để sữa trừu dư thừa đổ lên bánh mì rồi bỏ đó; không dè trong các động đá đó có một loại men nấm độc đáo đã vô tình chế ra một loại fromage mà làm người Pháp tự hào trên thương trường Quốc tế. Loại men xanh đó (Penicillium roqueforti) biến sữa và bánh mì cũ thành Fromage Roquefort có một mùi độc nhất vô nhị: mùi mắm, và các vân màu xanh như có dát hạt tiêu. Sau đó, Roquefort đã ngang nhiên trở thành đặc sản của vùng này mà không nơi nào trên thế giới có sự may mắn đó. Về sau, người Ðan Mạch cũng đã tìm ra một loại men tương tự, nên đã chế ra loại Danish Blue Cheese, là một loại fromage dịu hơn, mềm hơn, có nghĩa là ít hôi mắm và ít mặn hơn, và dĩ nhiên rẻ tiền hơn. Người Anh cũng đã cố gắng bắt chước chế ra loại Stilton Blue Cheese, nhiều cream hơn, ít gắt hơn, bời rời dễ nát hơn, và mùi vị lại chưa đạt được tiêu chuẩn của Roquefort. Chuyện Roquefort không ngừng lại đó. Một số tay sành điệu người Pháp còn thích treo Fromage Roquefort lên, để cho ruồi bu, đẻ trứng, sinh thành dòi, họ để cái chảo hứng bên dưới, đợi cho dòi bọ đủ số, bèn đem lăn bột chiên, thành món nhậu nổi tiếng là lạ và hiếm; đại khái giống như chúng ta ăn đuông dừa và đuông chà là lăn bột.
Thưởng thức Fromage Roquefort phải có rượu chát Nouveau Beaujolais, Sauvignon Blanc và bánh mì nóng dòn, hoặc bánh lạt (crackers) của Pháp mới đúng điệu. Ăn chơi trước bữa ăn hoặc ăn tráng miệng (dessert). Ðúng ra Roquefort chưa hẳn là loại fromage hôi nhất, còn có một loại hiếm và mắc tiền hơn gọi là Crotte du Boeuf, dịch hẳn ra là cứt bò, vì nó có cái mùi vị thum thủm của đồ phế thải từ con bò.
Sự phát minh ra Fromage Roquefort cũng như chất Nylon do sự tình cờ, nhưng sự chế ra các loại mắm ở Việt Nam lại trải qua bao nhiêu kinh nghiệm, học hỏi và tìm tòi, nhưng cái lạ ở chỗ ông bà tổ tiên ta ngày xưa chưa biết gì về môn hóa học. Trong bài này, tôi muốn đề cập đến một loại mắm Việt Nam độc đáo, mà nhiều người, kể cả dân Lục tỉnh chưa thưởng thức hoặc chưa bao giờ nghe tới là: Mắm Tôm Chà Gò Công:
Ðã là người Việt, không ít thì nhiều ai ai cũng đều nếm qua ít nhất một loại cá khô hoặc một loại mắm: từ mắm lóc, mắm trèn, mắm sặc, mắm cá linh, mắm thái (còn gọi là mắm sắc ), mắm ruột, mắm ruốc, mắm còng, mắm nêm, mắm cà pháo, dưa mắm, mắm tôm, mắm tôm chua, mắm cá thu, mắm ba khía, mắm hàm vỹ, mắm sống...


Nhưng theo tôi, mắm tôm chà Gò Công là vua các loại mắm, về phẩm chất, về hương vị lẫn về đặc tính hiếm quý của nó. Ngày xưa, đất Gò Công sản xuất tới bốn bà Hoàng Hậu (theo truyền thuyết của dân Gò Công), theo sử liệu thì tôi biết có hai bà: Ðức Từ Dũ và Hoàng Hậu Nam Phương. Hàng năm, đến khi gió mùa trong Nam thổi, hai Vương hậu cho gia nhân dùng thuyền xuôi ra Bắc, đem giới thiệu các loại đặc sản của quê hương mình, dâng cho vua ngự, sau đó mới đem thết đãi các quan trong triều, tùy theo phẩm trật. Vì mắm tôm chà là món sản xuất theo tiểu công nghệ, chỉ để dành cho vua chúa quan lại, và nhà giàu thưởng thức, nên thứ dân gốc địa phương cũng hiếm người có dịp dùng đến. Gò Công, là một trong sáu tỉnh đầu tiên của Lục tỉnh, nằm sát bờ biển Nam Hải, nên được trời ban cho nhiều đặc sản, nhất là tôm và ba khía. Cứ đến mùng năm tháng năm là ba khía tràn đồng, chỉ cần cào bỏ vào lu muối, đợi lên men thành mắm ba khía.

Còn mắm tôm chà, phải pha chế công phu hơn. Tôm càng đóng đáy, lột bỏ lớp vỏ cứng, đem ngâm nước dừa xiêm tươi, tôm chín đỏ, bỏ phần da mỏng đỏ sọc bọc ngoài, lấy phần thịt đem chà quết với muối biển Gò Công, rồi đem phơi nắng đợi lên men, kết quả cho một loại mắm màu đỏ tôm, đặc sệt như peanut butter, thơm dịu mùi tôm phơi nắng mà không loại mắm tôm nào đạt được hương vị đặc biệt Gò Công đó.
Trước khi ăn cần pha loãng bằng chanh tươi, tỏi tươi, ớt hiểm tươi, ăn kèm rau thơm có khế chua và chuối chát, thịt ba rọi; ăn với cơm hoặc với bún tươi, vừa hít hà vừa uống ly trà đá là sẽ nhớ đời. Cái lạ là cả hai món Mắm Tây và Mắm Ta đều rất mặn, nhưng cái hậu lại ngòn ngọt trên đầu lưỡi. Kẻ viết bài này tự hào là người Việt gốc mắm, tuy sinh trưởng tại xứ Bưởi. Nếu các bạn đã nếm qua thử Mắm Tôm Chà Gò Công, các bạn sẽ đồng ý với tôi với danh vị tôi đặt là \\\'vua các loại mắm\\\', quả không ngoa chút nào.

Tôi có nhờ ba người thân về thăm quê hương, tìm mua cho được thứ Mắm Tôm Chà Gò Công chân truyền. Nhưng lại vô phương vì tiêu chuẩn dành cho việc xuất khẩu, phải qua Paris và Bruxelles mới tìm ra, chai nhỏ xíu để giá 25 Francs Pháp. Giá tiền này tương đương với giá \\\'mắm tây\\\' Roquefort. Nếu tính theo cân lượng, \\\'mắm ta\\\' có phần mắc hơn, nhưng vẫn tương xứng với phẩm chất vô song. Mắm Tây hay mắm Ta ngon hơn? Tôi để dành câu trả lời đó cho những bạn sành điệu ghiền mắm trả lời.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:50pm

:::Trường Phong:::

Đặc Sản Quê Em

Mời anh mời chị xuống thuyền
Về thăm sông Hậu sông Tiền mộng mơ
Lúa xanh ngậm sữa đợi chờ
Dưới rạch tôm cá trên bờ rẩy rau

Trung Lương khoe mận Hồng Đào
Đỏ da ngọt ruột ai nào chẳng mê
Tân An anh nhớ đường về
Khóm thơm Bến Lức tình quê ngọt ngào
Rạch Kiến thơm phứt mì xào
Hương đồng cỏ nội dạt dào chân mây
Thơm nồng cốm dẹp miền Tây
Bánh Phồng Sơn Đốc béo ngây mùi dừa
Châu Đốc cũng khéo không vừa
Bánh Phồng nếp rặt em chừa cho anh
Đói lòng mời chị bánh Canh
Tôm cua đồng nội tiêu hành bốc thơm

Gò Công khéo lắm mắm tôm (chà)
Vị thơm khét tiếng ngon cơm mắm Còng
Bánh Xèo, bánh Giá, bún Suông
Xơ-Ri chua ngọt ửng hồng mọng da

Khô Thiều Rạch Giá nếm qua
Mỹ ***g bánh Tráng chọn qùa Bến Tre
Lấp Vò kẹo đậu phọng mè
Làm chơi ăn thiệt ai dè quá ngon
Sa Giang kỹ nghệ bánh dòn…
Phồng Tôm xuất cảng Sài Gòn biết danh
Nem chua Thủ Đức sao bằng
Lai Vung Sa Đéc, Cái Răng Cần Thơ
Thuận bườm xuôi hướng Mỹ Tho
Ăn tô hủ tiếu thơm tho tình người
Chợ Đào gạo trắng cá tươi
Canh chua, (cá) kho tộ nhớ người năm xưa
Qua phà Mỹ Thuận ban trưa
Thưởng thức chim nướng nếu chưa đã thèm
"Mời cô mời bác mua thêm
Chôm-chôm, xá-lị, mía ghim ngọt ngào"
Vang lời cô bán hàng rao
Giã từ khách rẽ ngã vào Vĩnh Long
Sầu-riêng, măng-cụt thơm nồng
Bưởi Năm-Roi ngọt gốc trồng Cái Mơn
Trái cây chợ Lách bóng giờn
Bòn-bon Trường Thịnh no tròn Bến Tre
Dừa tươi dịu mát nắng hè
Kẹo dừa ngậy béo rụt rè duyên quê
Ba Tri sò huyết khỏi chê
Cua càng Ba Động nặng nề vỏ đen
Thịt ngon làm chả bắt thèm
Gạch son đỏ hỏn bên rèm mẹ khen
Quới Thành nấm Mối dòn mềm
Tỏa hương ngào ngạt nướng thêm mỡ hành
Chợ Thơm rượu đế một sành
Nếp Hương chưng cất ai đành làm ngơ
Thương nhau xin tặng lon bơ
Rang nhúm đâu phọng đề chờ khách xa
Lên rừng tách đọt Chà Là
Bắt Đuông vàng óng nỏn nà bên trong
Chiên lên thơm phứt béo nồng
Nhâm nhi xị đế quay mồng hành tinh
Cà Mau cùng với Trà Vinh
Cũng lắm Đuông óng nặng tình tha hương
Mang thêm rượu trắng Long Hưng
Đừng quên mua vịt cổ lùn Sa Giang
Chờ khi nắng xế chiều tàn
Nâng chùm mận đỏ Nha Mân nhớ nàng
Sáu câu vọng cổ tình tang
Vườn Hồng Sa Đéc muôn ngàn sắc hoa
Xuân về du khách gần xa
Trai thanh gái lịch ghé qua ướm tình
Quít đường Long Thạnh tròn dình
Phù sa đất tốt vỏ nhìn mõng tanh
Quanh đây cũng có cam sành
Định Yên mận trắng, mận xanh da người
Bên cồn ruộng rẩy xanh tươi
Chợ chiếu nhóm tối gọi mời ghé thăm
Mua về trải chõng em nằm
Để anh dệt mộng tơ tằm đôi ta
Nếu ai kén chọn chiếu hoa
E rằng em phải xuống phà sang sông (Vàm Cống)
Lục-bình bông tím xuôi dòng
Tân Châu chiếu Cổ trăm đồng một đôi
Nhãn to tròn trái ngọt môi
Ai ăn thái quá vướng đôi mắt ghèn
Đường Thốt-lốt lắm người khen
Mua về biếu chị tặng em nấu chè
Dập dìu tấp nập xuồng ghe
Mắm tôm, mắm thái cả bè chợ sông
Bán buôn nước lớn nước ròng
Vợ chèo chồng lái rẽ giòng Long Xuyên
Bắp vàng mới bẻ nấu liền
Vừa thơm vừa ngọt láng giềng có nhau
Canh chua nấu cá Bông-lau
Cá rô kho tộ chấm rau muống đồng
Khô cá sặc gỏi sầu-đâu
Món ngon nhứt chỉ chuột đồng rô-ti
Óc Eo núi Sập thiếu chi
Cháo đậu rắn hổ còn gì ngon hơn
Thương người đập đá Thoại Sơn
Đá mòn sức mỏi héo hon cảnh chiều
Hà Tiên có nhãn hạt tiêu
Vỏ mỏng, cái ngọt Bạc Liêu so bì
Nơi đây cảnh đẹp nên thi
Kia lăng Mạc Cữu, đó thì biển xanh
Hòn Phụ Tử đẹp như tranh
Đồi-mồi trang sức anh dành riêng ai
Hòn Tre có mãng-cầu dai
Khóm ngọt Tắc Cậu, tiêu ngoài Dương Đông
Mít vàng hòn Nghệ thơm lòng
Mắm nhỉ Phú Quốc vị nồng quê hương
Rạch Giá men rượu Đường Xuồng
Chuột nướng, cháo rắn cũng thường lai rai
Rượu nào mà uống chẳng say
Cần Thơ đong rượu Cái Trâm trong ngần
Bồng bềnh thuyền lướt sóng dồn
Chợ nổi Phụng Hiệp lời đồn chẳng ngoa
Ghe xuồng kẻ lại người qua
Bán buôn tấp nập, cải, hoa, hẹ, hành…
Dưa Pi (hấu) ruột đỏ da xanh
Ăn vào ngọt lịm, mát lành môi răng
Sau đây đặc sản Sóc Trăng
Bò Né, bánh Pía món ăn phố Tiều
Gạo Châu Phụng Võ hạt đều
Bánh Cống thơm phứt gió chiều thỏang đưa
Vũng Thơm Lạp-xưởng mới vừa…
Ra lò tươi rói có thừa khách mua
Mật ong, than đước Cà Mau
Rượu đế Chương Thiện đậm màu nếp than
Đầm Dơi, Rạch Gốc nước tràn
Ba Khía thấm mặn cả làng nếm qua
Bạc Liêu ruộng muối mặn mà
Tôm-thẻ đặc biệt ắt là trời cho
Đến đây xin chớ quanh co
Nước Lèo với bún ra lò khỏi chê
Cao Lãnh nhiều thỏ (chuột) đồng quê
Cúm-núm, rùa, rắn hả hê nướng xào
Lẩu lươn, lẩu cá cần rau
Bông súng, điên điển dạt dào tình quê
Mong anh nhớ lấy lời thề
Hai sông Tiền-Hậu vẹn bề thủy chung

Hò ơ…….Thương nhau ta ngủ chung mùng
Sáng dzìa, chiều ở……
Hò ơ…….Sáng dzìa, chiều ở, tối mần ruộng sâu…..



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:53pm

Món cá 'lọ lem'

(Sài Gòn Tiếp Thị)

TP HCM đã có hẳn một con phố bán cá kèo. Gần đây thịt con cá "lọ lem" này càng được dân sành ăn mê mẩn bởi ít béo và có thể ăn mãi không ngán.

Xèo... xèo... xèo... từng giọt, từng giọt mỡ trong, thơm từ mình con cá kèo chốc chốc lại tươm ra, rỏ xuống bếp than hồng. Dường như "cảm" được món ngon, ngọn lửa đỏ vội chồm lên, liếm nhanh thân cá. Người nướng cũng nhanh tay nâng gắp cá cao lên hơn tấc, để da cá không bị cháy sém, hôi khói.

Quá khứ cá kèo

Anh Võ Văn Thành, thợ điện gia dụng ở quận 8, chỉ đợi những ngày nước rong mới gọi điện sang quán quen dặn mấy món cá kèo "trời" (gọi vậy để phân biệt với cá kèo nuôi). Những vùng Gò Công, Trà Vinh, Cần Giờ, Phước Khánh (Đồng Nai) vẫn còn rải rác loại cá này. "Ông nhớ đi chặt mấy lóng tre tươi về làm gắp, nướng mới ngon..."- anh Thành dặn.

Thời anh Thành còn giữ trâu chốn quê nghèo Cần Giuộc, cách nay nửa đời người, cũng những con cá kèo nướng thơm phức, to bằng ngón tay cái, dài cả gang tay, giúp cải thiện lon gô cơm gạo lúa mùa thêm đủ chất.

Anh Phạm Văn Tám ở Nhà Bè kể, chừng 3-4 năm trước, vùng Nhà Bè, quận 7, dân chăn vịt đẻ có thể bắt 3-4 ký cá kèo "trời", trong 15-20 phút. Họ lùa cả nghìn con vịt đẻ vào mò ruộng rẫy. Đám vịt đẻ say mồi "càn" tới đâu là hang lũ cá kèo bị san bằng tới đó. Chúng vội di tản xuống hang cua, còng lánh nạn. Người chăn vịt thọc tay vào những hang này, kéo lên từng nắm cả năm, mười con... "Chiều tối, húp một chén cháo cá kèo "ngọt ngất", mồ hôi tôi rịn lấm tấm người, đã không tả được!" - anh Tám chép miệng.

Hương khẩn hoang

Thịt không nhiều như những anh bạn láng giềng (thòi lòi, bống sao, xệ, cát) nhưng cá kèo thịt ngọt thanh và béo hơn. Dân ăn cá kèo "mòn răng" nói rằng, vị ngon đặc trưng của con cá này tập trung ở gan và mật. Chính vị nhăn nhẳn giúp làm giảm mùi tanh, nâng độ ngọt cho con cá dài ngoằng này.

Những món "dã chiến" mà ngon thấu trời vùng Bạc Liêu, Gò Công, Trà Vinh hay có con cá kèo tham dự! Nào nướng mọi, kho gợt, cháo cói, lẩu mắm... Phải nói giống cá này dễ tính. Món nướng của nó không kén nước chấm, có me non hoặc chanh hay gừng thêm tí nước mắm ngon, vài trái ớt hiểm là đĩa mồi "xộp" thấy rõ.

Hay như món kho gợt cá kèo, cách làm rất giản tiện. Cá kèo sống người ta đem ngâm nước muối loãng 5-10 phút cho sạch nhớt. Nêm nếm nồi nước kho lạt cho vừa ăn là họ bỏ cá kèo sống vào. Người nấu cứ vớt bọt, con cá kèo cứ "phùng mang trợn má" trồi lên hụp xuống trong nồi, đã có món ngon tập hai. Gắp con cá ra đĩa nước chấm, người ăn gợt bỏ vẩy, kỳ... Dân sành ăn cho kho kiểu này ăn thịt cá mềm, bùi hơn. Rau ăn kèm món này thường là rau tập tàng như đọt: cóc, chùm ruột, chiết, lụa... Thêm một điều khác lạ, ăn cá kèo người miền Tây thường nhắc đến rau đắng đất, bông so đũa, ớt "chim ỉa". Đắng và cay, thêm cách chế biến đơn sơ, gợi nhớ thời khẩn hoang đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng sản vật phong phú.

Vị công nghiệp

Năm bảy năm trước, không ít cư dân Sài Gòn còn chưa biết ăn con cá "lọ lem" này. Nay ước tính trong những ngày nước rong mạnh (rằm - mười sáu, ba mươi âm lịch) từ tháng 10 đến tháng Chạp, chợ đầu mối Chánh Hưng quận 8 tiêu thụ trên 8 tấn cá kèo/ngày. Giá giống cá này luôn cao gấp 1,5-2 lần thịt heo nạc, mặc dù đa phần là cá nuôi.

Cá kèo nuôi thịt nhạt và bở, trông ú nụ, da trắng mét, không xanh đen, rắn rỏi nữa. Đã thế người nấu còn mua nó trữ tủ lạnh (những ngày khác trong tháng hay khan hàng), khiến miếng cá kèo thêm dở tệ.

Tuy vậy, thực đơn cá kèo Sài Gòn đã theo kịp chó bảy món. Đường "cá kèo" Sư Thiện Chiếu ở quận 3 vẫn đông nghẹt khách vào những ngày cuối tuần. Những hẻm, vỉa hè lẩu cá kèo ở TP HCM ngày càng đông đúc, không thống kê nổi. Những quán này hơn nhau ở chỗ gia vị. Trong đó, có thể nói bà chủ quán cá kèo Bà Huyện có công nâng cấp nồi canh chua cá kèo thành lẩu chua lá dang. Chất tạo ngọt cho nước lẩu là nước hầm xương cá basa, đầu cổ gà. Đúng bài, bà phải hầm cá đồng tươi, nhưng kiểu này không "kinh tế".

(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:54pm

Khi sơ ri Gò Công đổi hương vị đặc thù!

Khi nói đến Gò Công những ai đã từng đến hoặc biết về mảnh đất này không thể không nhắc đến trái sơ ri đặc sản. Đơn giản vì nếu trồng ở Gò Công thì Sơ ri mới có hương vị chua ngọt đặc thù , màu sắc đỏ hồng trông thật bắt mắt. Vì thế trong mục tiêu phát triển kinh tế trong tương lai của thị xã Gò Công (TXGC) và Gò Công Đông (GCĐ) đã xác định đây là cây kinh tế chủ lực...

Thật ra TXGC chỉ là nơi giao dịch ,trung chuyển, nâng cao giá trị hàng hóa còn xuất xứ của cây sơ ri chính là ở 3 xã Bình Ân, Bình Nghị và Tân Đông thuộc huyện GCĐ. Anh Nguyễn Văn Thông cán bộ nông nghiệp xã Bình Ân, người mà cho tới giờ đã có 40 năm gắn bó với loại cây này-cũng là “người phát ngôn” của huyện khi ai đó hỏi về cây sơ ri. Anh Thông cho biết: Hồi đó vùng đất này chỉ trồng toàn lúa mùa, mỗi năm 1 vụ .Thế mà trên tuyến đường về biển Tân Thành (nay là đường Thủ Khoa Huân F2 TXGC) xuất hiện một loại cây trái có vị chua chua ngọt ngọt, vỏ màu đỏ hồng, trông thật bắt mắt. Lúc đầu chỉ để ăn chơi nhưng về sau người ta phát hiện trong trái sơ ri lúc chín chứa nhiều vitaminC , có thể ép lấy nước, làm rượu rất ngon... nên đã sản xuất hàng hóa như bây giờ.

Hiện nay, diện tích sơ ri trên địa bàn Gò Công đã lên đến 800ha, năng suất trung bình 20 tấn/ha. Với giá bán từ 1.500-2.000đ/ký người nông dân đã có lời gấp đôi so với trồng lúa. Dù vậy, diện tích cây sơ ri trong nhiều năm liền vẫn không tăng, mặc dù chính quyền địa phương xác định đây là loại cây chủ lực và khuyến khích mở rộng. Anh Đinh Văn Chậm-ấp Kinh Trên xã Bình Ân , người được mệnh danh là “vua” sơ ri giải thích “dù muốn thế nào đi nữa cũng khó có thể tăng diện tích được, bởi sơ ri chịu đất phèn mặn + cát pha nhưng lại “thích” nước ngọt. Do đó, chỉ ở những tuyến kênh mới thích hợp, còn trồng trong liếp hoặc trong đồng những tháng mùa khô không có nước tưới, năng suất thấp”.

Có 3 nguyên nhân làm cho cây sơ ri trở thành đặc sản xứ Gò là đất ở đây là đất phèn mặn lẫn với cát. Thứ hai, là nhờ ông Biện Thới ở Bình Nghị (đã mất). Chính ông là người đã phát hiện cách xử lý cho sơ ri ra hoa, đậu trái (năng suất cao). Còn bây giờ đã có thuốc Progibb dạng bột dùng để xử lý sơ ri ra hoa hiệu quả và an toàn hơn. Nguyên nhân thứ ba làm cho cây sơ ri phát triển mạnh mẽ là nhờ chương trình ngọt hóa Gò Công. Chính từ chương trình này mà người trồng có đủ nguồn nước tưới quanh năm.

Hiện tại ở TX Gò Công chỉ có Công ty TNHH Thịnh Phát là doanh nghiệp chế biến xuất khẩu loại trái cây này. Do chứa nhiều vitaminC nên sơ ri rất được thị trường Nhật ưa chuộng và công ty Thịnh Phát cũng chỉ xuất khẩu sang Nhật, còn lại là tiêu thụ trong nước. Cuối năm 2004, Đài truyền hình APS của Nhật cũng đã về Gò Công thực hiện phóng sự về cây sơ ri, mở ra triển vọng mới về tiềm năng của thị trường này. Đối với người dân trong vùng, việc mở rộng thị trường là một tin vui. Nhưng điều mà họ lo nhất là khi được “ngọt hóa” thì cây sơ ri không còn giữ được hương vị chua ngọt đặc thù nữa. Nhiều vườn cây đã có dấu hiệu suy kiệt, giảm năng suất sau 15-20 năm khai thác. Nếu trở lại trồng lúa thì phải “hạ liếp” rất tốn kém, trồng lại cây mới thì chậm lớn, năng suất thấp. Anh Nguyễn Văn Thông tỏ ra tâm tư “khó có thể tìm được vùng đất nào trồng được sơ ri như 3 xã Bình Ân, Bình Nghị và Tân Đông. Nhưng khi đã “ngọt hóa” rồi thì lại khó giữ cây sơ ri gấp bội. Do đó, cần lắm chính quyền địa phương, nhà khoa học giúp chúng tôi một tay... Nếu không nguy cơ “mất” cây sơ ri trên vùng đất Gò Công là có thật!”

THANH TÚ http://www.baocantho.com.vn/vietnam/sukien/22665/ - http://www.baocantho.com.vn/vietnam/sukien/22665/



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:58pm

NGUYỄN HỮU CHÍ

Bắt cá đêm ở sông cửa Đại

 

Nằm lọt giữa hai con sông cửa Tiểu, cửa Đại, cuộc sống người dân hai xã cù lao khu vực Phú Đông, Phú Tân (Gò Công Đông, Tiền Giang) đã phải chịu đựng cảnh “6 tháng ngọt, 6 tháng mặn”. Họ đã quen dần với quy luật “khi có nước ngọt, trồng lúa, hết nước ngọt thì đi bắt con cá, con tôm”. Và dường như để bù lại sự thiệt thòi ấy, thiên nhiên lại ưu đãi cho người dân xứ cù lao nguồn tôm cá phong phú. Đóng đăng, đóng đáy, đi câu, đẩy xệp… đã trở thành thứ nghề cha truyền, con nối của những con người đã sinh ra và lớn lên ở xứ cù lao này.

  • Quanh năm vất vả ở ven sông!

4 giờ chiều ngày 30-3, những con sóng mặn, đục của sông cửa Đại đã ì oạp xô vào bờ theo cơn gió thổi lào xào vào những dải bần, đước, vẹt dọc bờ sông. Bốn cha con chú Ba Bờ (Lê Văn Bờ, ấp Cả Thu II, xã Phú Thạnh, GCĐ) mình trần trùng trục đi thả đăng ở bãi cửa sông cửa Đại. Gần 1.000 mét lưới đã được bốn cha con chú Ba lặn hụp dưới dòng nước qua khỏi đầu người để dằn và buộc theo hàng cây đước cắm sâu dưới đất. Thằng Phương, con trai út của chú Ba vừa lặn hụp, vừa thở phì phì vì vị nước mặn chát xộc vào lỗ mũi. Phải mất gần cả 2 giờ đồng hồ việc thả lưới mới hoàn tất.

http://www.sggp.org.vn/phongsudieutra/nam2005/thang4/46208/images/images55440_s4a.jpg">

Vợ chồng chú Ba Bờ đang lựa cá.

Vừa chèo xuồng để kiểm tra lại tất cả các mối dây buộc lưới, chú Ba giải thích: “Nếu buộc không chặt, lúc nước ròng giựt, lưới bị tung ra thì cá ra sạch không còn một con!”.

Thì ra, đóng đăng là vậy. Lúc nước lớn, tôm cá theo dòng nước vào bờ tìm thức ăn ở những bãi có cây bần, cây đước mọc nhiều là nơi lý tưởng của vi sinh vật biển sống. Lúc này, người đóng đăng dùng lưới chặn bên ngoài các lùm cây theo hình cung khép kín hai đầu. Nước cạn, cá tôm sẽ nằm lại trong lưới.

10 giờ đêm, mặt trăng tròn chênh chếch soi rõ con nước đang dần dần rút ra xa khỏi lùm cây. Vào đêm, bờ sông cửa Đại nhộn nhịp hẳn lên bởi cảnh ghe câu, đẩy xệp, kéo lưới, đóng đáy… Chú thím Ba cùng ba người con xuống chiếc ghe gắn máy Kole có để sẵn ba chiếc cần xé và vài cái vợt, 3 cái đèn dầu để chuẩn bị bắt cá. Một giờ sau, nước ròng cạn, ở ngoài ghe nghe cả tiếng cá giãy đành đạch trong lưới. Bốn mẹ con thím Ba lội đến mí lưới và mở dây, leo vào.

Dưới ánh đèn dầu tù mù, hàng trăm con cá lớn nhỏ nằm phơi bụng trên mặt bùn nhão nhoẹt. Những con cá ngát gần cả ký lô với hai râu dài, còn sống, lóc lia lịa đến mí lưới đã chôn chặt dưới bùn thì nằm lại. Những con tôm thẻ, tôm sú cỡ ngón chân cái giương hai con mắt dạ ánh đèn đỏ ngời… Ba người con chú Ba dùng một miếng cây hình chữ nhật khều từng con cá vào vợt và bỏ vào cần xé được thím Ba vừa đẩy trên tấm mông theo sau. Còn chú Ba thì ở bên ngoài để đi rộng những con cá ngát vì “nếu để chết thì bán không được giá!”.

Vừa đẩy cần xé cá đặt trên miếng gỗ, thím Ba vừa lựa cá để bỏ vào vợt. Đến 1 giờ sáng thì việc bắt cá mới kết thúc với ba cần xé đầy cá ngát, cá đối, cá kến, cá chốt, tôm và hơn một chục con cua biển bị trói bằng dây lạt dừa. Sau đó, ba người con chú Ba đi gom lưới để ngày mai đi giăng ở bãi khác, còn chú thím Ba thì phân loại cá bỏ riêng vào từng thúng và chở vào chợ Bà Từ, xã Phú Tân để cân cho thương lái.

Buổi đóng đăng của chú Ba kết thúc khi nước vừa lớn trở lại thì cũng là thời điểm nghề câu cá bông lau bắt đầu. Trên chiếc xuồng nhỏ nằm cạnh ghe của chú Ba Bờ từ đêm giờ, vợ chồng anh Nguyễn Văn Giả, ấp Lý Quàn 2, xã Phú Đông bắt đầu vào việc. Lúc chú Ba đi bắt cá, anh Giả cũng xách thùng theo để mót những con cá cơm nhỏ còn sót lại làm mồi câu cá. Với giàn câu 300 lưỡi, hai vợ chồng anh phải mất hơn một giờ để móc mồi và thả dọc theo bờ sông đến mờ sáng (khoảng 4 giờ) thì đi gom câu.

Theo anh Giả, lúc này đang mùa cá bông lau nhưng năm nay rất ít cá! Cả đêm kiếm được chừng 5 đến 6 con là may rồi (cá bông lau có giá 20.000 đồng/kg), thỉnh thoảng cũng có cá đuối nhưng thường là cá ngát. Anh còn cho biết, vì mùa này bần chưa chín chứ nếu có, bần chín làm mồi câu cá bông lau thì “nhạy” hơn mồi cá. Còn ở cửa sông cửa Đại, anh Ba Nghiệp (ấp 2, Bình Đại, Bến Tre), chủ nhân dàn đáy đóng trong con lạch Bà Từ cũng đang đốt đèn dầu để lựa cá vừa đổ từ đáy lên…

  • Và ngổn ngang những nỗi niềm!

Chợ Bà Từ ở xã Phú Tân vào buổi sáng nhộn nhịp người mua, kẻ bán. Ở một góc chợ dành cho người bán cá, thím Ba đã bán xong mớ cá hủn hỉn (cá vụn) cuối cùng. Thím vui vẻ cho biết, công sức của 5 người bỏ ra cả đêm thu về được 600.000 đồng.

“Đêm nào cũng được như vậy, hả chú?” – Chú Ba trả lời: “Được như vậy thì còn gì bằng! Một tháng đi đóng bãi này một lần, có đêm nhiều, đêm ít, cũng có đêm chỉ kiếm đủ bữa ăn!”. Ngồi nghe chuyện của chú cũng như một số người đi bắt cá ban đêm mà tôi nghe hơi trăn trở vì thật ra, “cá tôm ngày một hiếm đi mà đâu phải đêm nào cũng bắt nhiều!”. Cũng như anh Hai Nghiệp, cả đêm đóng đáy, cá, tôm bán được vài trăm ngàn nhưng còn phải lệ thuộc vào con nước.

Nhưng, đối với những bà con sống bằng nghề bắt cá ở ven sông này thì chuyện cá ít không đáng lo bằng chuyện con cái học hành chẳng tới đâu. Bởi lẽ, chuyện cái chữ ở cù lao vẫn còn rất nhọc nhằn! Một cô giáo của Trường Tiểu học Phú Đông cho biết sự thật đau lòng: một số em trai chỉ học đến hết cấp hai, biết chữ và số rồi nghỉ để theo cha mẹ làm nghề biển.

Trong 8 người con chú Ba, chỉ có 2 cô con gái út học được lên lớp 9, thi tốt nghiệp đậu nhưng muốn học tiếp thì phải qua tận thị trấn Tân Hòa. Nhưng, có lẽ nguyên nhân chính là nhà khó khăn quá nên cả hai cô đều thôi học. Hiện hai chị em đang nộp đơn xin việc làm ở khu công nghiệp Mỹ Tho để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Còn 6 người con đầu vì nhà nghèo nên học đến lớp 3 thì phải nghỉ. Trong lúc nằm chờ kiếm mồi để thả câu, anh Giả tâm sự: “Ở cái xứ cù lao này, kiếm tiền đã khó mà chuyện lo cho con đi ăn học đến nơi đến chốn lại càng khó hơn!”.

Có một sự thật mà bà con đánh bắt ven bờ này dù không nói ra nhưng nó vẫn canh cánh bên lòng mỗi người là mối nguy hiểm luôn chực chờ trong lúc mưu sinh. Những lúc mưa gió, bão bùng hoặc chỉ cần cơn sóng lớn trong mùa gió chướng cũng đủ nhấn chìm chiếc ghe nhỏ, cũ của họ. Hỏi về chuyện áo phao, ghe mới, chú Ba cũng như anh Giả, anh Nghiệp lắc đầu: “Ở gần bờ mà! Vả lại, mua ghe mới thì phải có nhiều tiền nên đành chịu!” Nghe vậy, tôi bỗng giật mình vì nhớ thím Ba từng kể, có lần hai vợ chồng đã “mém” chết vì sóng lớn trong lúc lặn hụp dằn lưới đăng. Vậy mà, riết cũng quen!

Theo kết quả tổng kết điều tra tàu cá và thuyền viên của Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh trong tháng 1-2005, tỉnh có 343 chiếc thuộc diện đăng kiểm và 211 chiếc phải kiểm tra an toàn kỹ thuật nhưng không đăng ký, đăng kiểm. Loại nghề phổ biến hiện nay là đáy, rê, câu, lưới đèn… chiếm 37%. Qua thực tế điều tra, đa số các chủ phương tiện này là những hộ nghèo, có tàu đóng bằng gỗ tạp thiếu an toàn và thường hoạt động trong những nghề cấm và cần hạn chế như cào, te, đáy. Đặc biệt, những chủ phương tiện nhỏ hoạt động khai thác ven sông, rạch đa số đều không có bằng.

Chia tay với những người dân đánh bắt ven bờ ở sông cửa Đại, xách theo vài con cá mà thím Ba gởi gọi là quà xứ cù lao, tôi nghe lòng nặng trĩu về một tương lai cho những người dân sống bằng nghề đánh bắt ven sông. Mong sao các ngành chức năng sớm có chính sách hỗ trợ vốn giúp các chủ phương tiện nghèo có điều kiện chuyển đổi nghề phù hợp. 



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 10:59pm

Nghêu hầm thố

 

HauHamTho.jpg

Nguyên liệu

200g thịt nghêu tươi.

3 nhánh sả tươi, 1 quả ớt sừng, 50g rau mồng tơi.

200g bún tàu, 50g hành tây, 1 thìa súp dầu ăn.

1 bát nước dùng, muối, bột nêm, nước mắm.

Thực hiện

Rửa sạch nghêu , để ráo nước, ướp bột nêm, nước mắm. Lột bỏ lớp vỏ ngoài của sả, băm nhỏ. Ớt sừng bỏ hạt, băm nhỏ.

Hành tây thái khoanh mỏng, xếp ra đĩa. Nhặt rửa sạch mồng tơi, để ráo, bày ra đĩa. Rửa sạch bún tàu, để ráo.

Cho dầu vào thố, đun nóng cho sả, ớt vào phi thơm, sau đó cho nước dùng vào, nêm muối, nước mắm, bột nêm vừa ăn.

Thưởng thức: Khi nào dùng, cho rau mùng tơi, bún tàu, hành tây, nghêu vào nước sôi. Món này dùng kèm với nước mắm pha vài lát ớt.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 30/Jun/2007 lúc 11:00pm

2. Mỳ sốt nghêu

 

MyYSot.jpg

Nguyên liệu

80g mỳ ý, 100g thịt nghêu .

2 quả cà chua, 1/2 củ hành tây, 20g nấm rơm.

1 thìa tương ớt, tỏi băm, dầu ăn, gia vị, đường, bột nêm, dầu hào, tiêu.

Thực hiện

Rửa sạch nghêu , để ráo nước, thái miếng vừa ăn. Thái hạt lựu, hành tây, rấm rơm.

Cà chua bỏ hạt xay nhuyễn. Đun nóng dầu, phi thơm tỏi, cho cà chua vào xào, nêm gia vị.

Luộc chín mỳ ý, vớt ra để ráo, cho vào đĩa. Phi thơm tỏi với chút dầu ăn khác, cho hàu, nấm, hành tây, sốt cà vào, nêm gia vị vừa ăn.

Thưởng thức: Rưới sốt mì lên, rắc tiêu, dùng nóng với tương ớt, tương cà.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:27am

3. Nghêu hấp gừng

 

HauHapGung.jpg

Nguyên liệu

5 con nghêu tươi loại lớn.

1 củ gừng tươi, 1 thìa cà phê dầu hào, 1/4 thìa cà phê bột nêm, 1/2 thìa tiêu sọ, 1/2 củ cà rốt.

Hành lá, ớt sừng, rau răm.

Thực hiện

Cạo vỏ gừng, rửa sạch, thái sợi chỉ. Chà sạch vỏ ngoài của hàu, tách bỏ phần vỏ trên. Đập giập tiêu sọ vừa nát. Rửa sạch hành lá, ớt, cà rốt, thái sợi chỉ.

Trộn đều gừng, hành lá, ớt sừng, bột nêm, tiêu sọ, dầu hào. Cho hỗn hợp này lên hàu, hấp chín.

Thưởng thức: Món này dùng nóng kèm với rau răm, chấm muối tiêu chanh hoặc mù tạt tùy thích.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:32am

4. Nghêu xào chua ngọt

 

HauSotCaChua.jpg

Nguyên liệu

150g thịt nghêu, 1 quả cà chua, dưa chuột, 1/4 quả dứa.

1/2 củ hành tây, 1/2 quả ớt xanh, cần tàu, 2 thìa nước cốt chanh.

Bột nêm, dầu hào, tiêu, đường, tương ớt, dầu ăn, nước tương, tỏi băm.

Thực hiện

Rửa nghêu, để ráo nước, ướp chút bột nêm. Bổ cà chua làm 5, bỏ hạt. Cắt dứa, dưa chuột, ớt xanh thành miếng xéo. Cắt múi hành tây, cắt khúc cần tàu.

Phi thơm tỏi với dầu, cho các nguyên liệu vào xào, nêm bột nêm, nước cốt chanh, đường, tương ớt, dầu hào vừa ăn. Cho cần tàu vào, đảo đều rồi cho ra đĩa, rắc chút tiêu.

Thưởng thức: Dùng nóng với nước tương.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:33am

5. Đậu phụ nhồi nghêu

 

DauPhuNhoiHau.jpg

4 miếng đậu phụ. 200g thịt nghêu. 100g thịt xay.

5 củ hành tím, 1 củ tỏi, rau xà lách, rau thơm. Nước tương, gia vị, bột nêm, tiêu, dầu ăn, dầu hào.

Thực hiện

Rửa đậu phụ, để ráo nước, cắt miếng vuông, khoét lỗ bên trên. Băm nhuyễn hành tím, tỏi. Rửa sạch thịt nghêu, để ráo, thái hạt lựu nhỏ.

Trộn đều thịt xay, hàu và gia vị để làm nhân. Nhồi nhân vào đậu phụ. Đun nhiều dầu ăn, cho đậu phụ nhồi vào rán vàng đều, vớt ra để ráo.

Thưởng thức: Dọn đậu phụ nhồi ra đĩa, dùng nóng với rau xà lách, rau thơm và nước tương.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:34am

6. Nem nghêu

 

ChaGio.jpg

Nguyên liệu

500g thịt xay, 150g nghêu tươi.

50g cà rốt, khoai môn sáp, 30g mộc nhĩ, 10 chiếc bánh đa nem.

Xà lách, dưa chuột, hành tím, tỏi, bột nêm, tiêu xay, dầu ăn, tương ớt.

Thực hiện

Gọt vỏ cà rốt, khoai môn, rửa sạch băm nhỏ. Ngâm nở mộc nhĩ, thái sợi. Rửa nghêu, để ráo thái nhỏ.

Băm nhuyễn hành tím, tỏi. Trộn đều cà rốt, khoai môn, mộc nhĩ, thịt xay, hàu, bột nêm, tiêu. Trải bánh tráng ra, cho nhân vào cuốn đều tay.

Đun nóng dầu, thả nem vào rán vàng.

Thưởng thức: Dùng với xà lách, dưa leo, chấm kèm tương ớt, dưa leo, tương ớt rất ngon.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:34am

7. Nghêu sốt patê

 

HauSotPate.jpg

Nguyên liệu

200g cải thìa, 100g pa - tê gan, 150g thịt nghêu, 3 nhánh tiêu xanh, 1/4 củ hành tây, thái sợi.

1/2 củ cà rốt thái sợi, 1 thìa bột ngô, 1/2 bát nước dùng, bột nêm, đường, tiêu, dầu ăn, tỏi xay.

Thực hiện

Rửa sạch cải thìa, chẻ làm 6 nhánh, chần qua nước sôi, xếp ra đĩa. Đun nóng dầu, phi thơm tỏi, cho nghêu, pa - tê, cà rốt, hành tây, tiêu xanh vào đảo đều.

Cho nước dùng vào, nêm gia vị vừa ăn, cho bột ngô pha loãng vào để tạo độ sánh.

Thưởng thức: Rưới sốt pa - tê lên đĩa cải thìa, rắc tiêu. Món này dùng nóng với bánh mì, nước tương.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 3:36am

8. Nghêu né

 

HauNe.jpg

Nguyên liệu

200g thịt nghêu tươi, 2 quả đậu bắp, xà lách, rau thơm, dầu hào.

Hành tím băm, tỏi băm, bột nêm, tiêu, dầu ăn, 1 thìa cà phê màu, hạt điều, 1 thìa súp bơ.

Thực hiện

Rửa sạch nghêu, để ráo. Băm nhỏ hành, tỏi. Thái mỏng đậu bắp, rửa sạch rau thơm, xà lách, để ráo nước.

Trộn các nguyên liệu: nghêu, đậu bắp, bột nêm, màu hạt điều, dầu hào, tiêu, hành tím, tỏi, dầu ăn, để 20" cho ngấm gia vị.

Đốt nóng khuôn đầu bò, cho bơ vào đun nóng chảy, cho hỗn hợp vừa ướp vào trở đều.

Thưởng thức: Dúng nóng, tái hay chín tùy ý.

Món thứ 9:
Cơm nghêu tay cầm

 

ComHauTayCam.jpg

Nguyên liệu

1,5 bát cơm trắng, 50g dưa cải, 1 củ gừng nhỏ, 150g thịt nghêu.

1 quả trứng gà, 1 thìa cà phê tỏi xay, bột nêm, tiêu, dầu ăn, ớt băm, rau mùi tây (ngò), hành tím.

Thực hiện

Thái mỏng hành tím, rửa sạch dưa cải, thái nhuyễn. Rửa sạch nghêu, để ráo, thái nhỏ. Gọt vỏ gừng, rửa sạch, thái sợi chỉ. Đun nóng dầu, phi thơm tỏi với chút dầu khác, cho thịt hàu vào xào rồi cho vào thố cơm, rắc ớt, tiêu, sau đó đậy nắp, đun thêm vài phút.

Thưởng thức: Rắc rau mùi lên, dùng nóng



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:06am

 Phải chăng cam, quýt, bưởi... là những trái cây giàu vitamin C nhất? Chưa đúng đâu. Chúng thua xa trái sơ-ri về hàm lượng vitamin C - sơ ri là một loại trái cây đặc sản của thị xã Gò Công - tỉnh Tiền Giang. Nếu lượng vitamin C trong 100 g trái cây là 55 mg vitamin C ở quýt và cam, 35 mg ở bưởi thì chỉ số này ở trái sơ-ri là 1.745 mg

(Nguồn - Website VINAMILK: http://www.vinamilk.com.vn/home.asp?vinamilk=vn_product_detail.asp&id=180 - http://www.vinamilk.com.vn/home.asp?vinamilk=vn_product_detail.asp&id=180 )



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:19am

Ba Khía Ngâm Muối
Trần Trọng Trung


Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía (tức 3 vạch) nên người Nam bộ đặt tên là ba khía. Thịt con ba khía ăn trái "mắm đen" nên có nhiều gạch đỏ như son tàu, thơm ngon, đậm đà hơn ba khía ăn trái "mắm" trắng.

Đặc điểm con ba khía gạch đỏ là ba khía cái, còn ba khía đực gạch màu xanh đen - lỏng như gạch cua biển, mùi vị thua xa ba khía gạch đỏ.

Trong một dịp nào đó bạn đã chán chường cách món sơn hào, hải vị, thịt cá ê hề, sau bữa làm đồng áng vất vả, áo quần vấy bẩn, ướt nhẹp. Bụng thấy đói cồn cào, đi lục nồi cơm nguội, sẵn còn vài con ba khía ngâm muối, gạch đỏ au, dám đoan chắc cả đời bạn không có bữa tiệc nào ngon hơn, cho dù bạn được ăn nhà hàng ở khách sạn 5 sao đi nữa vẫn không sánh bằng. Tuy nhiên, xin hãy chậm rãi làm xong các thủ tục: Tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để vào tô, ướp tỏi - ớt đdường - bột ngọt cho thấm đều với gạch son, rưới lên phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt một ít nước chanh tươi trước khi ăn, ban sẽ có món ăn hết xẩy. Đặc biệt, ăn với cơm nguội là nhứt xứ ! Lúc ăn, bạn nên bổ sung thêm vài tép tỏi sống vừa nhai cho ấm bụng - vừa thưởng thức hết các hương vị thơm lừng của con ba khía mặn mòi.

Từ rất lâu rồi, món ăn đặc sản này đã góp mặt trong các bữa ăn của người Nam bộ. Nhiều người ăn cầu kỳ, còn bắt chảo phi mỡ tỏi cho thơm rồi đổ vào tô ba khía đã ướp để tăng độ béo và hương vị, giúp ăn được nhiều cơm...

_____________________________________________________
http://diendan.edu.net.vn/forums/20/295688/ShowThread.aspx - http://diendan.edu.net.vn/forums/20/295688/ShowThread.aspx


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:41am

Cá bống dừa (món kho)

Cá bống có rất nhiều loại như bống mú, bống tượng, bống cát, bống trứng, bống nhật, bống sạo, bống nhọt, bống xèo, bống nhảy… nhưng người nông dân ở Gò Công Tây (Tiền Giang) vẫn chuộng bắt cá bống dừa chế biến món ăn. Cá bống dừa vảy nhuyễn, miệng rộng, lưng đen, lườn trắng. Con to cỡ bằng cổ tay thì thịt ngọt. Người Gò Công tây thường đi mò cá ở những vùng mênh mông dừa nước mang về làm sạch ruột, miệng cá, rồi chặt khúc ướp gia vị mắm nguyên chất, mì chính, hạt tiêu … thêm chút sả, ớt, tóp mỡ đem kho tộ.

Có nhiều gia đình lại nấu canh với lá ngót, mướp hương hoặc luộc cá, rỉa thịt nấu cháo tiêu, hành. Nhiều “tay nhậu” lại thích xỏ lụi cá nướng trui hoặc nhúng bột chiên, rán lên, cặp rau thơm chấm nước mắm chanh ớt. Cầu kỳ hơn thì um cá với nước cốt dừa, phủ trên là đọt mì, đun lửa liu riu, vừa chín tới thì nhắc xuống ăn nóng. Đặc sản cá bống dừa, ai đã ăn một lần sẽ khó quên.   



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:49am

CẩmTuyết

Xoài băm ăn kèm cá khô là một món ăn rất quen thuộc của bà con đồng bằng Nam bộ. Ở ruộng vườn, vào mùa xoài, đến bữa nếu thích, chỉ cần bước ra vườn vói tay là ngắt được dăm trái xoài non bằng nắm tay là tha hồ chế biến. Nướng hay chiên vài miếng khô (cá) - đây cũng là cách nói ngắn gọn của đa số người miền Nam để chỉ khô cá chứ không thể là loại khô thịt bò, thịt nai nào khác - xé nhỏ, ăn kèm với ít xoài xanh băm nhỏ, "dằn" (từ Nam bộ có nghĩa là cho vào rồi trộn lên) ít nước mắm đường với ớt băm, kèm vài cọng rau thơm là xong một món ăn rất "bắt miệng". Nhưng trong những hàng quán thành phố, món ăn này được gọi là gỏi hay nộm với giá tiền khó mà gọi là món bình dân vì xoài xanh vào mùa về đến thành phố thường là giống xoài tượng chẳng rẻ tiền chút nào. Thêm nữa miền Nam là đất sản xuất ra những loại cá khô nổi tiếng cả nước như khô cá sặc, cá lóc, cá thiều.vv. Nhưng đa số người miền Nam chỉ chọn khô cá sặc để ăn kèm xoài xanh. Họ giải thích: khô (cá) đường thì ngọt quá, khô thiều chỉ để mấy bà ăn uống nước trà, khô khoai đắng, khô đuối thì khai, khô lóc lại lạt phèo, chỉ có khô sặc vừa thơm lại vừa đậm đà. Nhưng đó cũng chỉ là chuyện khẩu vị. Nếu có nhiều loại cá khô để lựa chọn, tùy  thích các bạn làm thử để làm thành món ăn hợp ý.

GỎI XOÀI KHÔ CÁ SẶC

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/200606/original/images1013933_khocasac2.jpg">Soạn:%20AM%20813933%20gửi%20đến%20996%20để%20nhận%20ảnh%20này

Gỏi xoài khô cá sặc - món nhậu khoái khẩu của các ông

 

 

Vật liệu - thực hành: cho một dĩa 2 khẩu phần:

I. Sơ chế cá: 2 con cá sặc khô khoảng 100 - 150 gram. Ngâm cá trong nước lọc chừng 30 phút đến một giờ cho cá mềm ra và bớt mặn vì khô cá sặc thường rất mặn. Vớt cá ra để ráo. Tùy ý làm một trong hai cách sau:

1. Nướng cá trên lửa than hoặc cho vào lò nướng điện. Ngửi mùi cá nướng dậy thơm lấy ra xé thử bằng tay thấy cá chín mềm là được. Đừng nướng lâu, nạc cá sẽ khô, cứng thịt trở lại. Xé nhỏ nạc cá, bỏ xương.

 

2. Chiên nguyên con cá với chảo nhiều dầu cho chín phồng. Lấy ra để nguội cá và ráo dầu. Xé cá thành miếng nhỏ, ướp trộn cá với 2 hoặc 3 muỗng cà phê đường, 1/3 muỗng cà phê tiêu, ¼ muỗng cà phê bột ngọt nếu thích. Để qua 20 phút, cho cá vào chảo không có dầu, để thật nhỏ lửa. Đảo sơ lại trong vài phút cho cá thấm gia vị là được. 

 

II. Làm xoài xanh : Ở Sài Gòn, VN chỉ thường dùng xoài xanh, loại xoài tượng hay xoài gòn. Chọn xoài xanh sống thật tươi, cứng, chua.

 

- Dùng khoảng 500 gram xoài cho 150 gram cá là vừa. Tùy thích gọt bớt phần vỏ ngoài. Để nguyên trái, dùng dao mỏng băm dọc cho đều tay thành vệt dài trên mặt trái xoài rồi cắt hớt ngang cho thành dạng sợi mỏng.

III. Rau thơm các loại như húng lủi, húng cay, ngò gai non. Lấy lá rửa sạch, để ráo, cắt nhỏ.

IV. Hành phi, đậu phụng: Hành tím cắt ngang thành lát mỏng, phơi ra chỗ thoáng cho héo bớt kẻo hành còn nước khi cho vào dầu nóng sẽ bắn nổ dầu có thể gây phỏng. Để dầu nóng vừa chớm bốc khói, cho  hành vào là tắt bếp ngay. Để hành vừa có màu vàng nâu dùng vá vớt ra đặt lên lớp giấy thấm cho ráo dầu. Đậu phụng rang vàng, đãi vỏ, giã nhỏ.

V. Pha nước mắm và chế biến: Dùng 2/3 chén đường, châm nước mắm từ từ vào cho đến khi nứơc mắm bằng mặt với lượng đường, không cần khuấy tan đường, cho hỗn hợp nước mắm và đường vào xoài đã cắt sợi, trộn đều, để qua khoảng nửa giờ hoặc cho đến khi thấy đường tan, gắp lên xốc nhẹ cho chảy bớt đường, cho qua một dĩa khác rồi mới cho khô cá vào trộn tiếp xong mới đến tỏi ớt băm tùy ăn cay được ít nhiều. Sau cùng thêm vào1/3 rau thơm trộn đều, cho ra dĩa, rắc hành phi, đậu phụng .

VI. Cách làm nước mắm không dùng nước này chỉ là một phương pháp, không phải là công thức đúng. Độ chua, vị mặn ngọt của thành phẩm hoàn toàn tùy vào độ mặn của nước mắm và độ chua của xoài bạn đang có, cần phải nêm nếm lại để gia giảm muối đường theo ý riêng. Đây cũng là cách làm nước mắm quen thuộc để ăn xoài xanh của quý bà quý cô



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:49am

Cocktail trái cây Gò Công

Loại cocktail này thơm vị rượu ngọt và nước dưa hấu. Món này trình bày đẹp, thích hợp cho các bữa tiệc

Nguyên liệu:

- Một quả dưa hấu tròn, to.

- Hoa quả hỗn hợp như sơ ri, mảng cầu, thanh long, mít, thơm (dứa) và các loại trái cây ngoại nhập 

- 600g đường trắng.

- Một quả chanh, một ít rượu rhum.

Thực hiện:  

Tạo hình quả dưa để đựng coktail: Dùng loại dưa bầu, trái dài, ngọt. Chọn một đầu trái dưa, lấy một khoảng dài chừng 10-12 cm. Dùng móng tay hay đầu tăm vẽ một vòng tròn đều quanh thân dưa, dùng cây tỉa kim loại hình bán nguyệt xắn sâu vào thân dưa, xuyên đứt vỏ dưa theo đường tròn đã đánh dấu, mũi tỉa phải liền lạc với nhau cho đẹp mắt. Bẻ dưa làm hai theo đường đã xắn, lấy phần đã chọn, khoét lấy nạc dưa, giữ lại khúc dưa đã tạo hình.  

- Lấy phần dưa còn lại, chọn đoạn thích hợp, cắt một khoanh dày khoảng 3cm. Khoét bỏ ruột, khoanh dưa này dùng làm đế cho khúc dưa đã tạo hình. 

Làm nước dưa hấu: Tùy thích làm lấy nạc dưa xay nhuyễn bằng máy xay sinh tố, lược bỏ hột. Làm riêng một ít dưa hấu cắt miếng nhỏ.

Làm hỗn hợp trái cây: Tùy ý chọn vài loại hay tất cả loại trái cây:

Nho tươi lột vỏ chẻ hái, tách bỏ hột.

Lê, táo (bom)... gọt vỏ cắt miếng vuông 1 cm, vừa cắt vừa thả ngâm trong thau nước lọc có vắt ít chanh cho trắng.

Dứa chín, thanh long, mít chín, trái kiwi... lột vỏ cắt miếng vuông 1cm.

Trái sơ ri (sherry) chín, ngắt bỏ cuống rửa sạch.

Cam vàng, tách múi, lột bỏ vỏ lụa, bẻ tép cam thành miếng nhỏ.

Nhãn, vải tươi lột vỏ, bỏ hột, cắt hai.

Nấu nước đường, phân lượng: 1 lít nước/600g đường cát trắng, nấu vừa tan đường, lược lại qua rây, để nguội. Cho nước đường vào hỗn hợp trái cây, nước đường phải ngập mặt trái cây.

Để trái cây ngâm nước đường qua một giờ cho trái cây thấm nước đường, khuấy nhẹ cho nước tiết từ trái cây ra tan đều, vừa khuấy vừa vắt chanh vào từ từ cho hỗn hợp có thêm vị chua nhẹ, cuối cùng cho rượu rhum vào - với phân lượng trung bình một lít nước đường 50cc rượu. Cho cocktail thơm nhẹ mùi rượu là được. Hỗn hợp trái cây ngâm nước đường có thể làm nhiều, bảo quản trong tủ lạnh. Từ khâu này, đã có thể dùng trái cây với nước đá bào.

Trình bày: Đặt khúc dưa lên đế, múc hỗn hợp trái cây vào tùy ít nhiều, châm nước dưa hấu và dưa hấu miếng vào cho đầy. Ướp lạnh trước khi ăn



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:51am

Bò nấu trái cây Gò Công

Nguyên liệu dễ kiếm, cách làm đơn giản, chỉ cần bỏ chút thời gian là bạn có thể chế biến được một món ăn khá lạ miệng mà hấp dẫn.

Nguyên liệu:

- 1 kg thịt bò bắp
- 1/2 trái dứa (khóm, thơm)
- 200g sơri
- 200g nho tươi
- 300g khoai tây
- 300g cà rốt
- 100g cà hộp
- 1 trái dừa xiêm
- Tiêu, muối, đường, bột ngọt, tỏi bằm, dầu ăn, xì dầu, dầu mè.

Cách làm:  

- Thịt bò: rửa sạch để ráo, chặt nhỏ vừa ăn, ướp: 2 muỗng cà phê tiêu, 2 muỗng súp đường, 1/2 muỗng cà-phê bột ngọt, 1 muỗng cà-phê dầu mè, 2 muỗng súp mầu điều, 2 muỗng súp tỏi bằm. Để thịt ngấm 30 phút.
Dứa: bỏ cùi băm nhuyễn.
Nho: bóc vỏ chẻ đôi bỏ hột.
Sơri: ướp một muỗng súp đường.
Khoai, càrốt: gọt vỏ, tỉa hoa luộc sơ, xào sơ thêm gia vị.
Tỏi: đập dập bóc vỏ băm nhuyễn.

- Chảo nóng cho 2 muỗng súp dầu + tỏi bằm phi vàng cho cà hộp + thịt bò + mầu điều xào thật thấm cho dứa + nước dừa + nước lạnh ngập mặt, hầm cho thịt bò hơi mềm cho khoai + cà rốt vào + nho + sơri. Hầm tất cả mềm nêm lại vừa ăn cho bột năng quậy nước lạnh vào sanh sánh.

Nhắc xuống, dọn ăn nóng.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:51am

Salad tôm cocktail kiểu Gò Công

Đây là món khai vị hương vị châu Âu, nguyên liệu Gò Công, dễ làm. Đẹp mắt và rất ngon miệng, món ăn sẽ làm cho bữa tiệc của bạn thêm phần sang trọng và hấp dẫn.

Nguyên liệu: 2 phần ăn

- Tôm lớn: 200g
- Salad các loại
- Dứa: 1/2 quả
- Sơ ri: 50g ; Dâu (50 g)
- Cam: 1 trái
- Rượu Brandy
- Bánh mì
- Sốt Mayonaise: 1/2 hũ nhỏ (có bán tại siêu thị)
- Sốt cà chua: 1/2 hũ nhỏ

Thực hiện:

1. HẤP TÔM: Tôm rửa sạch, lấy vây lưng. Hấp chín tôm (nước hấp nên thả vô 2 trái bắp), lột vỏ, chừa đuôi cho đẹp. Khóm, sơ ri, dâu cắt miếng nhỏ, cam cắt vuông 1 cm. Trộn tôm với các loại salad và trái cây trên.

2. LÀM NƯỚC SỐT COKTAIL: Mayonaise, sốt cà chua và một ít rượu Brandy trộn chung với nhau, nêm vừa ăn. Xong, rưới lên salad. Món này ăn kèm với bánh mì.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 6:52am

Nghêu nấu khế (món nghêu thứ 10)

Đây là một món ăn dân dã ngon và dễ làm, thương được dùng với cơm trong các bữa ăn hằng ngày. Rất phù hợp trong những ngày nắng nóng.

Nguyên liệu:

- 300g thịt nghêu 
- Hai quả khế chua, rửa sạch, cắt bỏ cạnh, thái lát mỏng
- Một quả ớt sừng thái sợi
- Hai thìa giấm
- Hành lá, rau răm, rửa sạch thái nhỏ
- Nước mắm, hạt nêm, tiêu, đường, tỏi băm.

Cách làm:

Cho nghêu vào rổ, ngâm vào chậu nước có pha giấm. Dùng tay chà sạch nhớt và cát, rửa lại bằng nước lạnh, để ráo.

Đun nóng dầu, phi thơm tỏi, cho nghêu vào xào nhanh tay, múc ra bát. Cho thêm chút dầu vào nồi, xào sơ khế, cho nước vào đun sôi. Cuối cùng, cho nghêu, ớt sừng, nước mắm, đường, hạt nêm vào, đun sôi lại thì múc ra tô.

Rắc chút hành lá, rau răm, tiêu lên trên. Dùng nóng với cơm.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:03am

Nghêu nướng (món nghêu thứ 11)

Nghêu nướng phải dùng thật nóng với muối tiêu chanh.

Nguyên liệu: 2 người ăn

- 1 kg nghêu sống
- 80 gr hành lá
- 10 quả trứng chim cút
- 1/2 muỗng cà phê tiêu
- 1 muỗng cà phê muối
- 2 muỗng thuyền dầu ăn
- 1 quả chanh

Thực hiện:

Nghêu sống lấy bàn chải chà thật sạch. Tách 1 miếng vỏ bên trên. Giữ nguyên ruột và rửa vỏ dưới thật sạch. Cho một ít muối vào trong nước rửa cuối cùng.

Hành lá cắt nhỏ và xào sơ qua dầu để chuẩn bị mỡ hành.

Chuẩn bị bếp than lửa vừa phải và đặt nghêu lên. Khi sôi, bạn cho tròng đỏ trứng cút lên. Khi vừa chín bạn cho mỡ hành vào.

Chú ý: Cẩn thận vì khi nướng vỏ ngheu có thể nổ.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:04am

Nghêu xào (món nghêu thứ 12)

Dễ ăn, ngon miệng và không ngán, đó là đặc điểm của món ăn được chế biến từ nghêu. Cùng với gia vị như hành, ớt, tiêu,... món nghêu xào sẽ giúp bạn luôn được vừa ý.

Nguyên liệu:

- Nghêu: 1 kg
- Giá: 200g
- Cà rốt: 1 củ
- Ớt xanh, đỏ: 2 quả (hoặc nhiều hơn tuỳ mức ăn cay)
- Hành hoa, hạt nêm thịt heo, dầu ăn

Thực hiện: 

Nghêu rửa sạch, hấp chín, bóc lấy ruột. Giá đỗ chọn cây vừa, rửa sạch, để ráo nước. Cà rốt gọt vỏ, thái chỉ. Hành hoa nhặt bỏ rễ, phần thân trắng chẻ sợi, phần cọng xanh cắt khúc dài vừa ăn.

Cho dầu vào chảo, đun nóng già bỏ hành vào phi thơm. Cho nghêu xào nhanh với một chút hạt nêm thịt heo, xúc để riêng. Cho tiếp hai thìa dầu vào chảo. Khi dầu nóng lần lượt cho ớt xanh, đỏ, cà rốt, giá đỗ vào đảo nhanh tay.

Khi rau giá chín tái, nêm hạt nêm thịt heo cho vừa ăn rồi trút nghêu vào đảo đều. Nêm gia vị một lần nữa, rắc thêm chút hạt tiêu xay rồi xúc ra đĩa ăn nóng.

Có thể tách vỏ lấy ruột lúc nghêu còn sống, món ăn sẽ ngọt và thơm hơn.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:05am

Đùi ếch xào cà ri sốt sơ ri và khóm

Thịt ếch thơm, ngọt đậm, vị hơi ngậy, cay. Thịt trắng quyện với mầu cà ri vàng vàng, sơ ri đỏ đỏ, tất cả được bày trong một trái khóm (thơm, dứa) đã khoét ruột thật đẹp mắt. Ăn nóng với cơm trắng cùng xa lát tùy theo mùa và khẩu vị.

Nguyên liệu:

- Đùi ếch tươi loại ngon: 4 lạng
- Dứa tươi loại ngon: 1 quả to (lấy nước cốt) + nửa lạng sơ ri Gò Công
- Hạt điều rang vàng: 1 lạng
- Hành khô, ớt chín, cọng sả
- Hạt nêm, nước cốt dừa, dầu hào, bột cà ri, sa tế tôm, dầu ăn, đường.

Thực hiện:

Đùi ếch rửa sạch chặt khúc vừa ăn, để ráo nước rồi ướp với hạt nêm thịt heo, dầu hào, đường, sa tế tôm chừng 5 phút cho ngấm.

Chọn một quả dứa to, cắt bỏ một phần vỏ và chừa lại phần quả có vỏ, tạo hình cái bát đựng thức ăn và khoét lấy ruột dứa, thái thành từng miếng để riêng.

Hành khô bóc vỏ, ớt chín bỏ hột. Sả chỉ lấy phần cọng rồi đem băm nhuyễn.

Bắc chảo dầu nóng, cho hành, ớt, sả đã bằm nhuyễn vào phi thơm, cho tiếp bột cà ri và cho đùi ếch vào xào cho đến khi thịt ếch săn chín thì cho dứa, hạt điều rang vàng, sơ ri (ngắt cuống) vào trộn đều. Nêm vừa ăn, trước khi tắt bếp cho nước cốt dừa vào trộn lại thật đều rồi trút vào quả dứa đã khoét ruột. Trang trí vài trái sơ ri (tươi, còn cuống và lá) cho đẹp mắt.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:07am

Ếch xào khóm

Đây là món ngon, đẹp mắt và lạ miệng. Vị ngọt của khóm (dứa, thơm) và thịt ếch sẽ mang lại cảm giác khoái khẩu cho người thưởng thức.

Nguyên liệu:

- 1 kg ếch lớn + 1/2 trái khóm (dứa, thơm) chín;

- 1 trái cà chua chín cắt múi cam + 1 củ hành tây cắt múi cam; 3 muỗng canh cần cắt khúc;

- 1 muỗng canh dầu hành lá băm nhuyễn;

- 3 muỗng canh lá hành cắt khúc, tiêu; nước mắm, đường; muối,

- 1 trái ớt nhỏ cắt lát xéo; dầu ăn.

Thực hiện:

- Lột sạch da ếch, xẻ bụng bóc bỏ ruột, chặt bỏ bàn chân, rửa, chặt miếng vừa, ướp đầu hành lá băm nhuyễn + nước mắm + tiêu.

- Dứa rửa sạch, cắt dọc làm đôi, một nửa cắt lát mỏng vắt lấy nước, phần còn lại cắt lát dày 0,5 cm, ướp vào chút đường.

- Nấu sôi nước, cho lần lượt hành tây vào chần vớt ra ngâm trong nước lạnh 2 phút, cho ra rổ để ráo nước, sau đó cho cần và lá hành vào chần vớt ra ngâm 2 phút trong nước lạnh , cho ra rổ để ráo nước.

- Nấu sôi dầu ăn, cho ếch vào xào trên lửa lớn 3 phút, cho nước cốt dứa vào nấu sôi 1 phút, cho hành tây + dứa cắt lát + cà chua + lá hành + cần + muối + đường vào, xào 3 phút trên lửa lớn nhấc xuống.

- Bày ếch xào dứa vào đĩa, xếp ớt cắt lát xéo lên trên, trang trí vài trái sơ ri tươi, dọn dùng nóng.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:18am
Chuối quết dừa
 

Bởi mảnh vườn xum xuê cây trái ngày nào chỉ còn trong... ký ức nên sau một hồi dạo bước tới lui, chúng tôi bèn hạ độc thủ một quày chuối xiêm già mập ú nơi góc vườn, dự định mang về để dành chín ăn cho đỡ buồn. Ai ngờ mang vào đến nhà, chỉ cần cắt lấy nải chót xấu xí kia cùng hai nải kế đó và theo sự chỉ dạy của ngọai là chúng tôi chế biến được một món ăn "tuyệt cú mèo".

Đầu tiên, lấy một thau nước to, vắt vào mấy trái khế chua rồi xẻ đôi trái chuối theo chiều dọc và tách bỏ vỏ ngâm ruột vào nước cho trắng. Xong rửa sạch mủ, vớt ra rửa lại cho thật sạch. Cho chuối vô nồi nấu đến khi sôi, mỡ nắp nhìn thấy ruột chuối chuyển sang màu vàng và hương thơm bay bát ngát. (Nhưng tốt hơn bạn nên ăn thử một mẫu nhỏ xem có còn chát hay không). Với chuối ra cho ráo nước. Lúc này, nhìn những miếng chuối thơm ngát vàng lườm cũng đã hấp dẫn lắm rồi nhưng xin bạn thư thả cho ít phút nữa để nạo thêm một trái dừa rám rồi cho lẫn chuối và dứa vào cối giã sơ qua (chú ý đừng để chuối nát quá).

Bây giờ, ai rảnh tay hãy trổ tài pha nước mắm bằng chanh, tỏi ớt cùng nước dừa xiêm sao cho chua chua, mằn mặn mà lại có vị ngọt thanh. Các "huynh đệ" khác thì chuẩn bị rau sống có sẵn trong vườn nhà như đọt săng máu, đọt điều, càng cua, rau má cùng dấp cá, húng lủi, ngò gai..., nói chung tất cả các lọai rau mọc trong vườn nhà đều có thể dùng được cả. Để món ăn thêm hấp dẫn, có thể rắc lên mặt đĩa chuối quết dừa một ít đậu phộng rang vàng giã to. Và cuối cùng, một ít rau đủ lọai để lên miếng bánh tráng, kèm theo một ít nhân là chuối quết dừa chấm nước mắm chua ngọt, ngồi ăn trong một gian nhà lá bên bờ sông vắng lặng vào một buổi trưa đầy gió mát, dịu dàng hương bưởi, hương cau thì có lẽ chẳng có cao lương mỹ vị nào có thể sánh bằng, phải không các bạn?

Trọng Đức



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:26am

Cá rô đồng nấu dứa

 

Cá rô đồng nấu canh cùng dứa, rau thơm. Món canh có thể ăn cùng bún.

Nguyên liệu:

- 500g cá rô đồng,

- 1 trái dứa chín, đầu hành lá cắt nhỏ, ớt cắt nhỏ, nước mắm, muối, đường, ngò gai, rau om và hành lá cắt nhỏ.

Cách làm:

- Cá rô làm sạch, rửa, để ráo, ướp đầu hành lá + nước mắm + ớt cắt nhỏ.

- Dứa rửa, cắt dọc thành 6 miếng, bỏ lõi, cắt lát mỏng, ướp đường.

- Nấu sôi 1,5 lít nước cho cá rô vào nấu sôi trên lửa vừa 5 phút, cho dứa + muối vào nấu sôi 5 phút, cho ngò gai + rau om + lá hành cắt nhỏ vào khuấy đều nhấc xuống.

(Phụ nữ SG)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:29am

Cơm nghêu (13)

 

Vật liệu

-1 kg nghêu sống
-300g gạo thơm
-3 tép sả
-1 củ gừng nhỏ
-50g mắm ruốc Huế
-Mè trắng, đậu phọng
-Bắp chuối, khế, húng lủi, húng quế, rau răm, bạc hà
-Gia vị: muối, tiêu, đường
-Nước mắm
-Ớt bột, ớt hiểm tươi
-Hành lá
-Tỏi băm

Thực hiện

1. Chuẩn bị:

-Nghêu ngâm rửa thật sạch, sả cây rửa sạch, xắt lát mỏng 1 cây, còn lại băm nhỏ.
-Cho nghêu vào nồi với sả, thêm 2 chén nước, nấu sôi khoảng 2-3 phút, nghêu há miệng là được.
-Vớt nghêu ra, tách lấy thịt, nước để riêng, lọc lại cho sạch.
-Mè rang vàng, đậu phọng rang giã nhỏ.
-Khế, bạc hà, rau thơm xắt chỉ. Mắm ruốc trộn tỏi băm.
-Dùng nước luộc nghêu nấu cơm, nêm dầu ăn, muối, gừng vào cơm.

2. Chế biến:


Đặt chảo lên bếp, cho cọng hành trắng, tỏi, sả băm vào phi vàng thơm. Cho thịt nghêu vào xào lửa lớn, nêm gia vị, ớt bột.

Trình bày

Múc cơm vào lưng chén. Cho 1 nhúm rau vào. Múc hến lên cơm, cho ớt, mè, đậu phọng, mắm ruốc. Khi ăn, trộn tất cả cho đều, có thể dọn chung với nước mắm gừng.

(Theo HTV)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:30am

Dưa hấu tôm tươi

 

Nguyên liệu - Cách làm: Khẩu phần 4 người.

Lựa khoảng 400g tôm sú to và tươi. Rửa sạch và luộc trong vòng 15 phút. Vớt ra để ráo, bóc vỏ và cắt hình hạt lựu.

Dưa hấu (và một ít dưa gang) khoảng 400g, gọt vỏ, xắt miếng thật mỏng (để luôn phần vỏ trắng cho đẹp), chia làm 4 đĩa, để tôm lên mặt, trang trí với 50g cải xoong. Rưới lên mặt một chút dầu ôliu, muối và tiêu.

Lưu ý: Món này nên thực hiện với loại dưa không hạt, vỏ màu xanh nhạt, sọc đều, làm tăng hương vị đậm đà.

Dưa hấu mát, ngọt thanh, dùng làm món khai vị hay món tráng miệng đều rất ngon.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:31am

Dừa kho cà chua

 

Thành phần : ( làm 4 phần ăn )

  Cùi dừa: 500g
  Cà chua: 100g
  Hành tươi, ớt quả
  Gia vị, nước mắm, dầu ăn

Cách làm

Dừa chọn loại cùi dầy vừa phải vì loại này thịt mềm mà vẫn thơm. Dùng dao hoặc nạo để gọt sạch lớp vỏ cứng bên ngoài, rửa sạch rồi xắt dừa thành những miếng vuông vừa ăn.

Cà chua chọn loại quả chín đều, nhiều bột. Rửa sạch bỏ hạt và xắt thành nhiều miếng mỏng. Hành nhặt bỏ rễ phần thân trắng cắt khúc khoảng 5cm rồi chẻ nhỏ, ớt tươi bỏ hạt thái từng miếng mỏng.

Cho một thìa dầu ăn vào chảo, cho hành vào phi thơm rồi cho cà chua vào xào thật kỹ. Khi cà chua đã nhừ hết thì cho một chút nước gia vị, nước mắm vào đảo đều rồi trút dừa vào om cùng.

Chú ý để nước sốt lúc đầu phải ngập dừa. Cứ đun nhỏ lửa như vậy cho tới lúc nước cạn gần hết, miếng dừa nhuộm màu đỏ ăn bùn và ngấm gia vị là được. Trộn ớt và hành tươi vào rồi bắc ra. Đây là món mặn ăn cùng với cơm.

(Theo amthucvietnam)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:40am

Chuối hấp dừa

 

Nguyên liệu:

800gr chuối sứ chín muồi, 500gr dừa khô vắt nước cốt và 1,5 lít nước dão, 150gr bột gạo, 200gr đường cát, màu thực phẩm hoặc nước củ dền, muối, dầu ăn, vani.

Thực hiện:

Bóc vỏ chuối, ngâm với nước muối loãng 30 phút, xả nước, để ráo, thái khoanh tròn dày 5mm. Ướp chuối với 150gr đường, 1 lít nước dão dừa, 1 tí muối. Cho vào nồi, đun lửa riu riu cho cạn nước, chuối chuyển sang màu đỏ. Pha bột gạo với phần nước dừa còn lại, 50gr đường, màu, va ni.

Thoa dầu ăn vào khuôn xếp một lớp chuối, một lớp bột, hấp vừa chín. Rưới hỗn hợp nước cốt dừa, 50gr đường, 50gr bột gạo, một chút muối lên mặt bánh đem hấp chín.

Thưởng thức:

Dùng nguội hoặc lạnh.

(net)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:41am

Món đu đủ tiềm

 

Nguyên liệu:

1 quả đu đủ (500g), chọn quả vừa chín, không quá mềm. Nên chọn đu đủ vàng. 300g đường phèn.

Thực hiện:

- Gọt bỏ vỏ, bỏ hạt, cắt miếng to dày 3 cm.

- Cho đu đủ vào nồi, đổ ngập nước, cho đường phèn vào và đun nhỏ lửa để đường phèn tan hết.

Thưởng thức:

Dùng nóng hoặc lạnh, đu đủ tiềm có tác dụng giải nhiệt rất tốt trong mùa hè, có tác dụng nhuận tràng.

N.A (st)

 

Đu đủ - tác dụng đủ đường

Đu đủ chứa nhiều carotenoid, vitamin A, B, C và các khoáng chất như kali, canxi, magiê, sắt và kẽm.

http://images.google.com.vn/imgres?imgurl=http://www.thoitrangtre.com.vn/imgs/thumb/051017122510_4.jpg&imgrefurl=http://www.thoitrangtre.com.vn/Tintuc/15/220.htm&h=174&w=145&sz=6&hl=vi&start=10&tbnid=OgiAeazjz-raeM:&tbnh=100&tbnw=83&prev=/images%3Fq%3D%25C4%2591u%2B%25C4%2591%25E1%25BB%25A7%26svnum%3D10%26hl%3Dvi%26sa%3DN">  
http://images.google.com.vn/imgres?imgurl=http://www.nutifood.com.vn/HyperEdit/lcms.viewimage.aspx%3Fimageid%3D1531&imgrefurl=http://www.nutifood.com.vn/Default.aspx%3Fpageid%3D1%26mid%3D267%26breadcrumb%3D295%26intSetItemId%3D295%26action%3Ddocdetailview%26intDocId%3D747&h=163&w=250&sz=14&hl=vi&start=20&tbnid=aLVIMCa_CoAPmM:&tbnh=72&tbnw=111&prev=/images%3Fq%3D%25C4%2591u%2B%25C4%2591%25E1%25BB%25A7%26svnum%3D10%26hl%3Dvi%26sa%3DN">  
http://images.google.com.vn/imgres?imgurl=http://www.bacninh.gov.vn/Uploaded/phuong/48574.jpg&imgrefurl=http://www.bacninh.gov.vn/Story/XaHoiPhatTrien/SucKhoe/2006/3/2818.html&h=120&w=160&sz=16&hl=vi&start=32&tbnid=u4LuHEf8h82WjM:&tbnh=74&tbnw=98&prev=/images%3Fq%3D%25C4%2591u%2B%25C4%2591%25E1%25BB%25A7%26start%3D20%26ndsp%3D20%26svnum%3D10%26hl%3Dvi%26sa%3DN">  
http://images.google.com.vn/imgres?imgurl=http://i9.tinypic.com/2qkm001.jpg&imgrefurl=http://www.toivam.us/forum/index.php%3Fshowtopic%3D15936%26view%3Dgetlastpost&h=100&w=150&sz=5&hl=vi&start=33&tbnid=OcmYHJjxw6n5jM:&tbnh=64&tbnw=96&prev=/images%3Fq%3D%25C4%2591u%2B%25C4%2591%25E1%25BB%25A7%26start%3D20%26ndsp%3D20%26svnum%3D10%26hl%3Dvi%26sa%3DN">



Các chất này ở đu đủ rất hữu ích trong việc phòng chống các bệnh tim mạch và ung thư, vô hiệu hóa những chất có hại cho làn da, tránh da nhăn sớm, chống lại những độc tố và giữ cho da khỏe mạnh; tăng sức đề kháng cho cơ thể và là một trong những vũ khí đắc lực chống lại căn bệnh viêm túi mật xuất hiện nhiều ở phụ nữ.

Ăn đu đủ mỗi ngày giúp bạn có được làn da tươi trẻ. Sinh tố đu đủ sữa (gồm đu đủ, sữa tươi hoặc sữa bột đã pha, một ít mật ong) giúp da bạn mịn màng, tươi sáng. Khi gọt đu đủ, nên cắt một lát, xoa đều lên mặt để khoảng 15 phút, làn da sẽ mịn màng hơn nhờ được bổ sung vitamin. Nghiền đu đủ và thoa quanh mắt có thể xóa đi những vết chân chim. Riêng phần vỏ đu đủ xát lên mặt có thể lấy đi những tế bào da chết rất hiệu quả.

Ngoài ra đu đủ còn chứa protease, giúp phân giải protein thành axit amin, phân giải protein khó tiêu hóa trong ruột, đồng thời phân giải mỡ rất nhanh. Nó đặc biệt tốt với các trường hợp xơ hóa túi mật, tiêu hóa khó khăn và nóng rát dạ dày, thiểu năng tuyến tụy. Trong y học cổ truyền một số nước trên thế giới, đu đủ được đánh giá cao trong việc trị bệnh tiểu đường, hen suyễn và ký sinh trùng đường ruột.

Một số ứng dụng từ đu đủ: ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 hôm giúp trị giun kim; đu đủ non hầm móng giò là một món ăn tạo sữa rất quen thuộc cho các bà mẹ đang cho con bú; đu đủ xanh giúp bà nội trợ hầm các loại thịt dai cho mau mềm, đu đủ xanh làm gỏi ăn hằng ngày trị viêm dạ dày mạn tính (lưu ý: phụ nữ có thai không nên ăn vì dễ gây sẩy thai).

Rễ đu đủ tươi 200g sắc lấy nước uống cả ngày thay nước uống chữa chứng tiểu gắt, buốt. Hạt đu đủ đem xát cho sạch phần nhớt bao quanh, giã nát trong túi vải rồi đắp lên vùng đau ở bệnh nhân gai cột sống. Ngày làm một lần, liên tục trong 20-30 ngày (lưu ý: mỗi lần chỉ đắp tối đa 30 phút).

KIM NHUNG tổng hợp
(Tuổi Trẻ Online)

7 bài thuốc từ đu đủ

 

Đu đủ có thể coi là "thần dược", bởi nhiều bộ phận của cây đu đủ không những được dùng làm thức ăn mà còn được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh, như bệnh tim, chứng mất ngủ, hay hồi hộp, đau lưng mỏi gối, viêm dạ dày mãn tính...

Đu đủ có thể coi là "thần dược", bởi nhiều bộ phận của cây đu đủ không những được dùng làm thức ăn mà còn được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh, như bệnh tim, chứng mất ngủ, hay hồi hộp, đau lưng mỏi gối, viêm dạ dày mãn tính...

Nếu bạn bị chứng ít ngủ, hay hồi hộp, hãy lấy đu đủ chín, chuối, củ cà rốt mỗi thứ 100 g; xay trong nước dừa non nạo. Thêm mật o­ng cho đủ ngọt, uống cách ngày.

Trong 100 g đu đủ có 74-80 mg vitamin C và 500-1.250 IU caroten. Đu đủ còn có các vitamin B1, B2, các acid gây men và khoáng chất như kali, canxi, magiê, sắt và kẽm.

Ăn đu đủ thường xuyên có tác dụng bổ máu, giúp hồi phục gan ở người bị sốt rét. Do có nhiều sinh tố C và caroten nên đu đủ có tác dụng chống oxy hóa, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Người ta còn dùng nhiều bộ phận của cây đu đủ để làm thức ăn và làm thuốc. Đu đủ xanh hầm với mọi loại thịt động vật đều làm cho thịt mềm. Ở nước ta, bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ thường ăn chân giò hầm với đu đủ xanh để có nhiều sữa.

Dân gian dùng hạt đu đủ đực chữa hen phế quản bằng cách chưng hoặc hấp cơm cho trẻ uống. Có công trình nghiên cứu còn cho rằng hạt đu đủ có thể chữa bệnh tim...

Ở Ấn Độ, Srilanka và Mailaysia, người ta dùng lá, hạt và quả đu đủ xanh để phá thai. Các công trình nghiên cứu cho thấy tác dụng ngừa thai có được là do chất nhựa papain, có nhiều trong quả xanh, lá, hạt đu đủ. Quả đu đủ đã chín ít nhựa thì không còn tác dụng đó nữa.

Gần đây, một số nhà khoa học cho rằng, tác dụng trên là do nhựa đu đủ đã phá hủy progesterol là trợ thai tố. Khi vào cơ thể, tác dụng của nhựa sẽ tăng mạnh 25 lần so với khi ở ngoài.

Một số bài thuốc:

- Chữa gai cột sống: Hạt đu đủ đem xát cho sạch phần nhớt bao quanh, giã nát trong túi vải rồi đắp lên vùng đau. Mỗi lần chỉ đắp tối đa 30 phút và theo dõi để tránh bị bỏng. Ngày làm một lần, liên tục trong 20-30 ngày.

- Trị giun kim: Ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 hôm.

- Viêm dạ dày mãn tính: Đu đủ, táo tây, mía mỗi thứ 30 g sắc uống.

- Ho do phế hư: Đu đủ 100 g, đường phèn 20 g hầm ăn.

- Tỳ vị hư nhược (ăn không tiêu, táo bón): Đu đủ 30 g, khoai mài 15 g, sơn tra 6 g, nấu cháo.

- Đau lưng mỏi gối: Đu đủ 30 g, ngưu tất 15 g, kỷ tử 10 g, cam thảo 3 g sắc uống.

(Theo Sức khỏe và Đời sống)



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:44am

Bánh củ cải

 

Bánh củ cải là tên mà người Tiều (gốc Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) ở Nam Bộ dùng để gọi hai loại bánh. Loại thứ nhất được làm bằng bột mì nhồi với bột nổi chiên phồng trong chảo mỡ sôi, mà người Quảng Đông gọi là giò cháo quảy. Loại bánh này dùng để ăn cặp với bánh bò trong; xé nhỏ chấm "xì yếu" (nước tương thượng hạng) dầm ớt, ăn với xíu mại; hoặc xé nhỏ trộn trong tô cháo lòng hay tô hủ tiếu để tăng độ ngon và no khi ăn điểm tâm. Còn loại thứ hai thì chỉ có mặt trong gia đình của người Tiều, mỗi năm một lần vào một ngày duy nhất là ngày 24 tháng Chạp âm lịch.

Tết là mùa rau cải rộ. Đi chợ, nổi bật trong vô số các loại thực phẩm thực vật tươi xanh là những củ cải trắng ngà mập lù, ngon mắt. Những củ cải chắc thịt được các bà nội trợ thích thú chọn mua trong ngày 23 tháng Chạp âm lịch cùng một mớ rau cần tàu lúc nào cũng ngan ngát mùi thơm. Về đến nhà, họ bắt tay vào việc làm bánh. Đậu phộng đã ngâm cho mềm từ hôm trước, nay chỉ việc đãi vỏ. Còn tôm khô thì ngâm cho bớt mặn và tẩy bớt bụi bặm.

Củ cải được rửa sạch, bào thành sợi từ cái bàn bào làm bằng thiếc đục nhiều lỗ nhỏ. Cái bàn nạo giơ những chiếc răng sáng bóng những dầu, rửa sơ, ai đó ngồi nạo trái dừa khô rồi vắt lấy nước dão. Rau cần tàu xắt khúc cỡ 2 đốt tay. Trộn tất cả các thứ cùng bột gạo (phải là gạo cũ, khô cơm, mới "đứng bánh" và ngon), dằn chút muối, đường. Sau đó bắc chảo lên bếp xào cho đến khi bánh quến dẻo, nặng tay thì nhấc xuống, sớt qua mấy cái xửng nhỏ mặt trong thoa lớp dầu (để bánh không dính khi chín). Trang mặt bánh, rắc đều tôm khô và cần tàu xắt khúc (đã chừa lại một ít) rồi đem hấp. Thử không dính đũa là bánh chín, tỏa mùi thơm sảng khoái của rau cần tàu. Bánh có thể ăn ngay nhưng không ngon vì còn mềm, nhão. Trưa hôm sau, bánh "cứng mình", cắt từng miếng hình thoi cho vào dĩa bày cúng đưa ông Táo về Trời (người Tiều cúng ngày 24 tháng Chạp âm lịch chứ không phải ngày 23 như người Việt).

Cầm dĩa bánh trên tay, nhìn những hột đậu phộng trắng ngà, những con tôm khô đỏ đậm, mấy cọng cần tàu xanh sẫm nổi đều các mặt bánh, nghe bụng dạ cồn cào. Xắn một muỗng bánh, cho vào miệng, nhai. Mùi thơm ấn tượng của cần tàu, vị ngọt đượm đầu lưỡi của bột gạo và đường cát trắng, vị hăng hăng đặc trưng của củ cải lẫn trong vị mằn mặn của muối, ngòn ngọt của đường và mùi ngọt mặn của tôm khô xông lên khứu giác. Nhai nhằm hột đậu phộng mềm mụp cứ tưởng đang thưởng thức hột sen tàu. Nổi bật nhất là vị béo của nước cốt dừa, có lẽ ảnh hưởng văn hóa ẩm thực của người Đồng bằng sông Cửu Long. Ăn được một hai ngày, phần bánh còn lại đem chiên, cho cảm giác khoái khẩu khác, đặc biệt là nghe "lớp vỏ" mỏng như bánh tráng bọc quanh bánh, nổ giòn trong răng.

Hiện nay, bánh củ cải đã được một vài cơ sở ở Sai Gon sản xuất theo dạng công nghiệp, cung cấp cho các siêu thị. Mỗi hộp gồm 4 hoặc 6 cái, nhỏ như bánh bông lan, được bảo quản trong ngăn lạnh. Bên hông chợ Bạc Liêu trên đường Lê Văn Duyệt, bánh củ cải được bán quanh năm (ngoại trừ các ngày ăn chay, mồng một, rằm) với kiểu dáng xinh đẹp như vậy, giá 1.500đ/cái.


 Bài, ảnh: Phương Kiều

__________________________________________________
Coi them: http://diendan.edu.net.vn/forums/32/295688/ShowThread.aspx - http://diendan.edu.net.vn/forums/32/295688/ShowThread.aspx


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 7:48am

Bánh nghệ chợ Tổng

Không biết có tự bao giờ, trong các đám tiệc ở miệt chợ Tổng (xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang) và các vùng lân cận như Kiểng Phước, Tân Phước, Gia Thuận... người ta thường thấy xuất hiện một món ăn lạ mà các nơi khác ít khi thấy có, đó là món bánh nghệ.

Về kỹ thuật chế biến bánh nghệ cũng lắm công phu. Muốn có con bánh được mịn, mềm, người ta phải "nắm" gạo từ nhiều ngày trước rồi "tẻ" dần để có được một thứ bột nhuyễn, mịn, không lợn cợn như bột xay bằng cối đá hoặc xay máy. Xoong bột được quấy đều trên lửa nóng để lấy "trùng" bột, rồi cho vào hệ thống bàn ép có soi lỗ nhỏ để được sợi bánh nhỏ như sợi bún và dính lại thành từng con cỡ chừng 3-4 ngón tay. Màu sắc của bánh thì tuỳ theo cách pha chế phẩm màu của người làm bánh. Thông thường thì bánh có màu lá dứa hoặc có màu xám tro. Trước khi bày ra đĩa, từng con bánh được quấn tròn lại như bánh hỏi.

Thịt để ăn với bánh nghệ thường là chả lụa và bì. Chả lụa được thái sợi bằng đầu đũa trộn với bì da heo và có thêm đậu phộng rang giã nhỏ. Rau ghém ăn kèm với bánh nghệ thì có giá sống và rau thơm các loại xắt nhỏ.

Nước chấm ăn với bánh nghệ là loại nước chấm mắm tỏi ớt được pha chế đặc biệt ngon có đầy đủ vị mặn, ngọt, chua, cay...

Ăn bánh nghệ bài bản thì trước hết gắp rau giá để vào chén, rồi gắp bánh nghệ (được cuốn tròn) xếp lên, dùng muỗng múc "nhưng" bánh gồm chả lụa, bì, đậu phộng để lên trên. Xong rưới nước mắm tỏi ớt cho vừa ăn. Hương vị dẻo thơm của bánh nghệ cộng với cái giòn của giá, mùi thơm của rau, hoà quyện với vị ngọt ngon đằm thắm của chả lụa, cái dai của bì, cái béo của đậu phộng phối hợp với các vị tổng hợp của nước mắm tỏi ớt.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 8:00am

CT

Nghêu xào cà ri (món nghêu thứ 14)

 

Hồi nhỏ, tôi rất thích ăn hải sản, quê tôi ở vùng biển nhưng nhà nghèo, bữa nào ba tôi đi cào về, những món đặc sản như tôm, cua, ghẹ... đều phải để dành bán cho thương lái. Dù thương tôi lắm, má tôi cũng chỉ dám để lại ít nghêu để làm món này món khác cho tôi ăn. Ngoài các món luộc, hấp, làm gỏi... má tôi còn một “tuyệt chiêu” chế biến món nghêu mà bà chỉ làm khi bà có được món tiền kha khá từ việc bán tôm cua, đó là món nghêu xào cà ri.

Để làm món nghêu xào cà ri, má tôi chọn loại nghêu to, chắc mình, ngâm qua mấy nước, trong khoảng hai tiếng cho nghêu nhả bớt cát. Sau đó bà rửa sạch nghêu, tách lấy thịt, để ráo. Vỏ nghêu không bỏ đi mà chọn những vỏ đẹp, trụng nước sôi, đặt úp xuống cho ráo nước.

Ngoài những gia vị thông thường như sả, tỏi, ớt, bột cà ri, nước mắm, muối đường má tôi còn chuẩn bị thêm khoảng 100ml sữa tươi mới bắt tay vào chế biến.

Khi đã tách nghêu xong, cho dầu vào chảo, đun nóng, sau đó lần lượt cho tỏi, sả, ớt, gừng xào thơm. Cho bột cà ri vào đảo đều, nêm nước mắm, muối đường, cho sữa tươi vào đun sôi. Bắc lửa lớn, cho nghêu vào xào để nghêu thấm gia vị và khi hỗn hợp trong chảo hơi sánh lại, má tôi nhanh tay nhắc xuống. Sau đó bà gắp từng miếng thịt nghêu khéo léo đặt trở lại vào vỏ nghêu và sắp đều đặn từng con trên dĩa xà lách hoặc rau càng cua đã được lót sẵn. Khi đó, về hình thức, màu vàng của cà ri, màu xanh của rau, màu ớt đỏ thắm và mùi thơm ngạt ngào của món ăn khiến chúng tôi đói cồn cào gan ruột. Chất lượng món nghêu xào chỉ được cho là đạt yêu cầu khi nghêu ngấm hương vị đặc trưng của cà ri nhưng vẫn còn giữ được vị ngọt của thứ hải sản dân dã này. Bí quyết thành công của món nghêu xào cà ri là người nấu phải biết thời điểm nào là tắt lửa thích hợp để nghêu thấm gia vị mà không bị teo thịt kẻo món ăn vừa không bắt mắt vừa kém ngon miệng. Món ăn sẽ ngon hơn khi được dùng nóng.

Lớn lên, tôi đi làm xa, được thưởng thức nhiều món đặc sản lạ nhưng món nghêu xào cà ri vẫn là món ăn ngon nhất trong ký ức tôi, bởi trong những món ăn má tôi làm, bao giờ cũng có hương vị của tình thương.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 8:01am

Mắm rươi

  

Nước mắm rươi chan cơm gạo trắng ăn mãi quên no. Rươi sống ở những vùng nước ngập mặn, dọc theo sông rạch hoặc bãi bồi ven biển. Rươi nhỏ con, thân bằng que diêm, dài chừng hơn một tấc, thân mềm nhũn.

Dọc theo bờ biển, từ Gò Công trở vào đến cửa sông Hậu đều có rươi, nhưng nhiều nhất là ở Trà Vinh. Hằng năm, vào mùa gió chướng, rươi thoát ra khỏi hang hốc ngầm dưới mặt nước khi con nước ròng dâng cao ngập cả bờ. Chúng quyện vào nhau, trôi từng dề trước mặt nước, dọc theo những con sông hay kênh rạch miền biển.

Bà con ở vùng này bắt đầu đi bắt rươi. Họ dùng vải mùng làm vợt để hứng rươi. Nhiều năm được mùa rươi người ta ăn không hết phải làm mắm để dành ăn dài ngày trong năm, nhất là những gia đình ở vùng sâu vùng xa, đường giao thông không mấy thuận lợi.

Ngoài các loại nước mắm cá (cá lóc, cá sặc...), nước mắm tôm, nước mắm ruốc, đặc biệt ở Trà Vinh có nước mắm rươi là ngon nhất trên đời. Ngoài chất đạm cao, nước mắm rươi còn bổ dưỡng và hấp dẫn khẩu vị.

Công thức chế biến nước mắm rươi của bà con địa phương rất đơn giản. Trung bình cứ 40 lít rươi mới vớt lên (gọi là một đôi rươi) pha 8 lít nước muối hột cộng với 20 lít nước lạnh, ủ trong lu rồi đem phơi nắng khoảng từ 10 đến 15  hôm là ăn được. Khi đó, người ta vẹt lớp xác rươi bị phân hủy trên mặt lu, thì thấy hiện ra một mầu vàng óng như mật ong. Ðó là nước mắm cốt, ngon nhất, tỏa mùi thơm dịu. Ðem chiết ra, có thể dùng làm nước chấm hấp dẫn trong bữa ăn hằng ngày. Nước mắm rươi chan cơm gạo trắng sẽ là miếng ăn ngon không thể tưởng, ăn mãi quên no.

Nước mắm rươi được các cụ già vùng Ba Ðộng (Trà Vinh) kể lại câu chuyện như một truyền thuyết. Khi Nguyễn Ánh bôn tẩu đến xứ này được một phú ông chăm sóc, cho ăn toàn nước mắm rươi. Sau khi lên ngôi vua, Gia Long nhớ chuyện cũ bèn cho ghe bầu vào Trà Vinh mua nước mắm rươi về "ngự thiện". Bởi thế, nước mắm rươi còn có cái tên vương giả là "nước mắm ngự".

Tuy nhiên, nước mắm rươi có điều đại kỵ là nếu để vài giọt nước mưa rơi vào, chúng sẽ bị phân hủy hoàn toàn, vài hôm sau sẽ hư thối không sử dụng được. Riêng lớp xác rươi đã bị phân hủy nổi lên trên mặt lu, người dân vùng duyên hải Trà Vinh dùng như một nguyên liệu đặc biệt trong việc chế biến món hột vịt chiên ngon tuyệt vời. Ðây cũng là món ăn đặc sản vừa lạ miệng, vừa ngon vừa bổ.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 01/Jul/2007 lúc 8:03am

Mắm nha xứ Gò

Xứ Gò Công lâu nay nổi tiếng gần xa với các món ngon như bánh giá, mắm tôm chà, tôm chua, mắm còng… Nhưng mắm nha Gò Công là một món mới, có thể liệt vào hàng độc.

Mắm nha Gò Công dọn ăn kèm rau sống, dưa leo, thịt luộc

Mắm nha xuất phát từ ý tưởng của ông Cao Văn Hổ, chủ lò mắm tôm chà Kim Sa ở khóm 3, phường 2 thị xã Gò Công. Gia đình ông Năm Hổ có nghề làm mắm gia truyền bằng những nguyên liệu từ các sản vật của biển. Nhưng mắm nha là món mới thử nghiệm. Con nha đem về làm sạch, bóc tách mai, giữ gạch lại và đem muối ướp theo công thức "bí mật" của gia đình (ông Năm Hổ nói công thức này chưa tiện công bố), đậy kín sau 3 tháng là ăn được. Mắm nha được trộn với tỏi ớt, chanh đường, khóm xắt nhuyễn ăn kèm với bún (hoặc cơm nóng), thịt heo luộc, rau sống dưa leo, khế chua chuối chát thì… mắm ba khía hình như cũng phải kêu món này bằng "sư huynh"!

Nha là loài giáp xác, hình dạng tựa con ba khía nhưng có thể xếp trong hàng trăm loài còng biển, sinh sống nhiều nhất ở vùng duyên hải Gò Công. Theo lời những bậc kỳ lão, từ xưa đến nay người Gò Công biết con nha sống trong các hang hốc ngoài rừng ngập mặn, nhưng tập tính cư trú như thế nào, ăn thức ăn gì thì… mọi người chịu thua bởi ban ngày đố thấy một con nha nào ló mặt trước ánh nắng mặt trời.

Muốn bắt nha, người Gò Công lựa những đêm tối trời, nước lớn ngập bờ bãi mới bó đuốc lá dừa, xách thùng thiếc đi soi theo ven rừng, ao đầm và tha hồ lượm từng đám nha đang huơ càng dày đặc trên các bờ đất cao. Hiện món mắm nha Gò Công chưa bán rộng rãi ngoài thị trường vì đang trong giai đoạn "thăm dò ý kiến khách hàng". Tuy nhỏ con nhưng con nha nhiều thịt và ngọt hơn con ba khía miệt Cà Mau. "Tôi tin mắm nha sẽ sớm trở thành món đặc sản bổ sung vào danh sách những món ngon của xứ Gò", ông Năm Hổ tự tin vậy.

Anh Vũ



Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 06/Jul/2007 lúc 6:58pm
Pt có tâm hồn ăn uống siêu đẳng nên đọc mục này thấy đã quá , no luôn mất mấy ngày. Hay quá , từ nay thèm món nào là cứ vào đây 1 lát sẽ đỡ thèm. Nhưng bớ thầy Hoàng Ngọc Hùng ơi , thầy viết được nhưng mà có nấu ăn được không vậy để hôm nào nhờ thầy tí.

-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 07/Jul/2007 lúc 7:24am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Phanthuy

Pt có tâm hồn ăn uống siêu đẳng nên đọc mục này thấy đã quá , no luôn mất mấy ngày. Hay quá , từ nay thèm món nào là cứ vào đây 1 lát sẽ đỡ thèm. Nhưng bớ thầy Hoàng Ngọc Hùng ơi , thầy viết được nhưng mà có nấu ăn được không vậy để hôm nào nhờ thầy tí.
  1. "...viết được". Đồ ăn thức uống Gò Công rất phong phú vì ở Gò Công không chỉ có người Kinh mà còn có các dân tộc khác nữa; nhất là người Hoa với nhiều món ngon đã được "Gò Công hoá".  Chúng ta còn phải gắng sưu tầm thêm nữa - nhiêu đó vẫn chưa đáng gọi là "được" đâu ạ !.
  2. "...nấu ăn được". Nếu nấu mà phía ăn không bị ngộ độc thì có thể gọi là "ăn được"- và rất nhiều người "nấu ăn được". Còn nấu cho người sành ăn khen là ngon thì khó hơn. Hơn nữa, tiêu chuẩn để được gọi là người sành ăn và tiêu chuẩn để (mũi, mắt, lưỡi,...) đánh giá một món là "ngon" vẫn chưa được định rõ nên vẫn khó bàn về việc này chị nhỉ !?. 
  3. ...hôm nào nhờ (nấu). Nếu có offline thì chị nên đề nghị với Ban tổ chức cho nấu các món Gò Công và chúng ta cùng tham gia. 

Kính chào chị.



Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 07/Jul/2007 lúc 7:38am
 
 
     Coi bộ PT thất vọng nhiều rồi đó nghen.Thôi thì cứ nói rõ tiêu chuẩn của mình cho Thầy Hùng nghe đi,biết đâu có thể gỡ gạt được chút đỉnh gì hôn.


-------------
kb


Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 07/Jul/2007 lúc 9:56pm
Không thất vọng đâu anh Báu ơi. Thôi thì trong lúc chờ đợi mỗi lần thèm cứ vào đây thích món nào xực hàm thụ món đó. Cám ơn thầy Hùng rất nhiều. Mong có ngày PT về Gò công gặp thầy sẽ mời thầy vô quán Hoa viên Nam bộ ( nếu PT không lầm ) kêu 1 con gà nướng muối ớt.... cha cha...(nuốt nước miếng ) ngon hết biết. Năm ngoái PT vào đó kêu rất nhiều món nhưng ấn tượng nhất là món gà nướng muối ớt. Mà chén muối ớt ở quán đó ngon làm sao , họ làm bằng muối hột rang đâm nhuyển với ớt và tiêu hay sao mà ngon ơi là ngon. Ra về PT chỉ xin quán cho đem theo 1 gói muối ớt thôi. Chủ quán cười hớn hở tưởng gì chứ muối ớt thì cho luôn 1 chén, he he thực ra có gà chấm mới ngon chứ ! TongueGiờ nghỉ lại còn thèm. Thầy Hùng ơi , hẹn 1 ngảy không xa lắm đâu.

-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 09/Jul/2007 lúc 7:08am
Tran Ai
 
CÁ RÔ NƯỚNG RƠM
 
http://www.muivi.com/modules.php?op=modload&name=News&file=index&catid=&topic=17">Món%20nướng

Nguyên liệu
1 kg cá rô
1/2 bát mắm nêm
1/4 trái dứa
1 xếp bánh tráng cuốn
200 g rau sống
2 trái khế
1 trái chuối chát
1 trái ớt sừng


Thực hiện

- Rửa cá rô, làm sạch nhớt, ruột để ráo nước.

- Cá để nguyên con, dùng que tre hoặc thanh sắt nhỏ xiên qua miệng cá.

- Đốt lửa rơm, cho cá lên nướng đến khi chín vàng hai mặt.

- Gọt sạch vỏ, mắt trái thơm và băm thật nhuyễn.
Trộn mắm nêm với thơm và một ít ớt băm nhuyễn.

Thưởng thức
Dùng với bánh tráng cuốn, rau sống, khế, chuối, mắm nêm.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 09/Jul/2007 lúc 7:11am
Tran Ai
 
CÁ LÓC NƯỚNG ĐẤT SÉT
 
http://www.muivi.com/modules.php?op=modload&name=News&file=index&catid=&topic=17">Món%20nướng

Nguyên liệu
1 kg cá lóc
1/2 bát mắm nêm
1 xấp bánh tráng mỏng
200 g rau sống các loại
1 trái khế
1 trái chuối chát
1/4 trái dứa
1 trái ớt sừng


Thực hiện

- Làm sạch cá lóc, giữ nguyên con. Dùng đất sét bọc cá kín lại.

- Quạt than hồng, cho cá bọc đất sét lên bếp nướng. Bạn cũng có thể nướng cá trên lửa rơm. Khi đất sét chuyển sang màu vàng là cá chín, lấy ra.

- Băm nhỏ dứa . Ớt sừng bỏ hạt, băm nhỏ, pha với mắm nêm.

Thưởng thức

Khi dùng, đập đất sét lấy cá ra.
Món này dùng nóng với bánh tráng cuốn rau sống, khế, chuối chát, chấm kèm mắm nêm.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 09/Jul/2007 lúc 7:24am

Gà nướng đất sét

Vào mùa gặt, ở miệt đồng, nông dân rất khoái làm món gà nướng đất sét. Sau một ngày lao động cật lực ngoài đồng, lúc chiều mát, thợ gặt tụ tập lại. Sẵn gà, sẵn đất ruộng, sẵn rơm, chỉ cần thêm một chai rượu đế, mươi phút sau là mọi người đã có thể quây quần bên món nướng thơm phức, cùng nhâm nhi hớp rượu nồng giữa cánh đồng lộng gió.

Gà (còn nguyên lông) được cắt tiết và phao câu. Tiếp đó là khéo léo moi ruột. Mở một lỗ ngay vị trí phao câu. Một tay giữ cổ gà, tay kia luồn qua lỗ mở, rút dần ruột gà và lục phủ ngũ tạng gà. Cuối cùng, rút bầu diều và cuống họng gà. Nếu sơ suất, bầu diều vỡ, thức ăn trong diều tràn trong khoang bụng gà, thì coi như... uổng công - vì để giữ vị ngọt đậm cho thịt gà, không thể dội nước rửa khoang bụng gà. Lòng gà được làm sạch và nhồi lại vào bụng, sau đó dùng chỉ hoặc dây lạt khâu kín các vết cắt nơi cổ gà và lỗ mở (để đất sét đắp lên không tràn vào bụng gà). Nhúng gà cho ướt nước từ đầu đến chân; sau đó đắp đất sét kín lên cả con gà. Đất sét phải nhồi vừa đủ dẻo để làm tăng độ kết dính với lông và gỡ ra dễ dàng khi gà chín. Đắp đất hơi dày để khi nướng, đất đủ độ nóng làm chín thịt gà. Loáng cái, con gà bỗng biến thành... tảng đất sét to.

Vùi "tác phẩm" của mình vào giữa đội rơm khô (bó rơm to khoảng sải tay) giữa đồng và châm lửa nướng, anh Sáu, một người dân trong vùng nói: "Tuyệt chiêu của món này là tận dụng nguyên liệu sẵn có, cách làm đơn giản, nhanh chóng nhưng hương vị thì ngọt béo đậm đà, rất riêng và lạ, khác hẳn món "gà nướng" bán đầy ở trên thành phố. Chỉ một con "kê" với mấy xị đế và nhúm rau ớt hái lẹ ngoài ruộng là cánh thợ gặt có thể phong lưu sau một ngày gặt hái. Còn gì sướng bằng!".

Rơm cháy đượm cộng với nhiệt tỏa ra của tro rơm khiến đất sét ngả mầu trắng. Sức nóng của đất sét đã nướng chín đều con gà. Khi hai đội rơm đã tàn là lúc gà chín. Gỡ đất ra đến đâu, lông gà dính theo bong ra từng mảng đến đó. Khác hẳn vẻ xấu xí ban đầu, "tác phẩm" giờ đây thật đẹp mắt: con gà sạch bong, da vàng sậm, tứa mỡ lấm tấm, thịt trắng phau.

Gà nướng được xé thịt, vài trái cà chua và dưa leo xắt lát, mớ rau thơm và muối tiêu chanh. Nhấp ngụm rượu đế nồng nàn tình quê và nhai chầm chậm miếng "mồi" thịt gà, nghe trong vị rượu cay nồng dậy lên vị thịt ngọt lịm và vị béo từ mỡ gà quyện với mùi rau thơm và vị mằn mặn, chua chua của muối tiêu chanh. Rồi ngụm rượu như trôi theo vị man mát của miếng dưa leo giòn rụm mà thấm dần xuống bao tử. Phút chốc, những hương vị này như hòa lẫn và lan tỏa chầm chậm khắp người.

net


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 09/Jul/2007 lúc 7:30am
Gà nướng đất sét

 


Vị lão nông ở cuối con rạch Mương Trâu đưa tay chỉ bốn chung quanh căn chòi lá, bảo tôi:

- Cậu thấy đó, nơi đây cách làng xóm, chợ búa đến nửa buổi đường. Muốn ăn của ngon vật lạ, chỉ có cách này thôi…

Ông “tút tút” mấy tiếng, một bầy gà chạy ra, bu quanh ông như một cái lệ đã quen. Tôi thấy có đến ba con gà trống đứng “tò vè” quanh bốn, năm chị gà mái mơn mởn. Tôi chưa kịp nói, vị lão nông đã lên tiếng:

- Ở đây trai thừa gái thiếu.

Tôi hiểu ý ông, nên cãi lại:

- Chỉ có ba gà trống so với năm gà mái, đâu đã…

Ông lão cười:

- Một bầy gà mái chỉ cần một anh chàng “phục vụ” là đủ rồi, có đến ba là thừa quá sức. Cũng may bữa nay có cậu tới, tôi có dịp giải quyết vụ thừa này ổn thỏa.

Ông nói xong, đứng dậy và bằng một động tác thật nhanh nhẹn, chụp ngay cổ một cậu gà trống choai có sắc lông rực lửa. Đưa con gà đến trước mặt tôi, ông khoe:

- Loại gà ức đỏ này thịt vừa mềm vừa ngọt.

Một tay vừa bới khoảng đất trống mềm ở bờ ao, ông vừa vẫy tôi:

- Cậu lại đây, tôi chỉ cho coi cái này.

Tôi bước tới, thì cũng vừa lúc ông lão đã bới đất sét để lộ ra một cái chum loại năm lít. Ông giải thích:

- Ở bên Tây, họ cất rượu ở các hầm chứa. Ở đây, ta lưu trữ rượu dưới lòng đất, chưa chắc cách nào ngon hơn!

Đột nhiên, ông lão hỏi:

- Cậu đã ăn gà nướng đất sét chưa?

- Tôi có nghe nói đôi ba lần về món ăn đó, kể cả cách thức chế biến, nhưng ăn thì chưa.

Nhìn con gà đã bị cắt cổ, lông không nhặt, tôi ngạc nhiên:

- Sao không nhổ sạch lông, bác Ba?

Ông già cười:

- Gà nướng đất sét không cần nhổ lông.

Ông rót chén rượu đế, đổ vào con gà, kế đó đắp một lớp đất sét nhão, dày bên ngoài. Sau khi dùng một cái que tre xuyên suốt con gà rồi dựng cả khối vừa đất sét vừa gà lên, ông chất rơm đầy chung quanh và đốt. Tôi hỏi:

- Làm thế nào ta biết gà chín?

- Khi nào đất sét khô và nứt ra thì coi như gà chín.

Quả nhiên, khoảng 20 phút sau, qua sáu lần rơm cháy rồi tàn, tôi đã ngửi được mùi thơm lừng xông ra từ đống lửa. Phần đất sét ốp chung quanh con gà đã nứt ra nhiều đường. Khi lão nông lột lớp đất đó ra thì từng mảnh lông gà dính theo, để lộ phần da gà trắng nõn. Ông bảo tôi:

- Ăn gà kiểu này phải xé từng miếng, chặt sẵn không ngon.

Gà nướng đất sét xé từng miếng, chấm với muối ớt (hoặc muối tiêu chanh) kèm với rau răm, gỏi bắp chuối, đưa cay với rượu đế thì chưa chắc món nào sánh bằng! Vị lão nông quả quyết:

- Theo tôi, gà trống choai chỉ có làm món này là hạng nhất!

Ông giải thích thêm:

- Có người chỉ ốp đất sét rồi nướng, không ướp thêm rượu. Riêng tôi thì phải có rượu nó mới làm cho thịt gà thơm lên, mau mềm và ngọt thịt hơn.

Bạn không thể ngờ được sự mềm mại và thơm lừng của món thịt gà này. Nếu so với món gà xé phay thì phải nói là hơn hẳn. Lão nông kể:

- Dân miệt đồng chúng tôi do thiếu thốn phương tiện nên tự nghĩ ra cách chế biến món ăn này. Nói là cao lương mỹ vị thì không dám, nhưng nó độc đáo ở chỗ mọi chất ngọt của con gà đều được giữ nguyên, giống như người ta nướng cá lóc mà để nguyên vảy, không cạo nhớt không móc ruột. Gà hay cá, khi cạo hết vảy, lấy hết nhớt thì chất ngọt đã mất đi vài chục phần trăm. Món gà này đúng ra phải ăn kèm với đọt sen non mới hái và ngó sen, nhưng hôm nay không làm kịp. Cậu đã từng ăn đọt sen non chưa?

Rồi không đợi tôi trả lời, ông giải thích luôn:

- Lá sen trước khi tỏa rộng ra thì nó ở dạng cuốn tròn như cuốn chả giò, ta ngắt ngang và ăn ngay, kèm với thịt gà xé. Hôm nào có điều kiện, cậu ăn thử sẽ thấy sự “lạ kỳ” của nó!

Tôi đã từng nghe nói về vị vừa chát vừa ngọt của lá sen non, kể cả việc ăn theo kiểu “ăn liền” như thế, nên đã có người cắn ngang thân một con rắn chui vào nằm trong lá sen cuốn ấy!

Hôm đó, chỉ hai người chúng tôi mà thanh toán nhanh gọn con gà trống choai, uống đến nửa lít đế. Rượu đế “hạ thổ” ngon tuyệt vời!

________________________
Theo "Món ngon từ dân dã..."


Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 09/Jul/2007 lúc 12:23pm
Chết con nhỏ thầy Hùng ơi ! Nhe` PT thích gà nướng mà thầy cho 2 món gà nướng đất sét như thế kia thì như tra tấn PT rồi. Chao ôi , khứu giác , vị giác gì cũng hoạt động hết công sức làm mỏi miệng quá ,nuốt nước miếng ừng ực !( Phàm phu tục tử quá hả ). Thầy làm PT bắt đầu nôn nóng ngày về Gò công rồi đó. Xin hỏi thầy vậy chớ cái món gà nướng đất sét đó có ở quán ăn nào không? Có điều nướng tại chỗ như nhà ông già trên thì mới thích. Làm sao mà có được bữa ăn như thế vậy hở thầy phù thủy??? 

-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 10/Jul/2007 lúc 10:19pm
Với dân miệt đồng Gò Công thì không khó khi gầy một độ nhậu với :
  1. Món gà nướng đất sét theo kiểu trên.
  2. Đọt sen non mới hái.
  3. Ngó sen.
  4. Rượu (Gò Công) “hạ thổ”.

Cái khó là "chọn":

Chọn mùa còn lá sen non
Chọn giờ khi gió vẫn còn hây hây
Chọn nơi ngắm được đó đây
Chọn bạn để gặp một ngày...trăm năm.
 
Tuy vậy, chị cứ về, người nhà sẽ sẵn lòng thôi.
Gò Công mà.


Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 10/Jul/2007 lúc 10:56pm
Chỉ biết viết 2 chữ  Hay quá  mà thôi 
Xin tri ân người Gò công.


-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 10/Jul/2007 lúc 11:11pm

TÁO GÒ CÔNG TRÊN ĐẢO PHÚ QUỐC

Đối với người chưa lần nào ra Phú Quốc thì ông Trịnh Công Phát thực sự là người dẫn đường để bạn có thể thưởng thức món ngon của hòn đảo ngọc này.

 

 

Ông Trịnh Công Phát

Ông Trịnh Công Phát gốc là dân Chợ Gạo, Tiền Giang, từ một quân nhân chuyên huấn luyện trong lực lượng hải quân trở thành thầy giáo ở Cửa Lấp rồi se duyên cùng sơn nữ.

Ông lính phục viên vừa đi dạy vừa làm rẫy, trồng rau. Dần dần mọc lên một khu vườn táo. Nhưng thời ra đảo phải có giấy thông hành thì làm gì có du khách. Năm 1990, du lịch chưa là gì, máy bay mỗi tuần một chuyến, tàu không mấy chiếc, nhưng ông vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó trời sẽ sáng.

10 năm sau, mãi đến năm 2000, mới có khách du lịch ra đảo. Chín năm trước, vườn táo có giống từ Gò Công đã cho trái. Cứ đưa cho khách một cái túi, ra vườn ăn đã thì thôi. Ai hái mang về mới tính tiền.

Trong vườn thả gà, trồng chanh, khát thì pha nước chanh, thích ăn gà, chủ cùng khách rượt bắt đem vô thịt nấu cháo, hái rau trộn tại chỗ. Khách đến đông hơn, làm nhà lớn hơn, mua bàn ghế nhiều hơn. Dần dần vườn táo như một điểm đến của du khách dù không ai khoanh cho nó cái dấu của một điểm du lịch.

Ông Phát kể năm 2000 khách từ đất liền ra nhiều hơn tôi đã nghĩ ra việc phải làm cái gì cho đảo. Hồi trước, khách tới nhưng cũng chỉ có khách sạn Hương Biển, chỉ bằng cái lỗ mũi Ngọc Hoàng thì phải làm sao khách về đừng chê cười.

Do đó, ai tới vườn táo thì mình lo nước dừa, nấu cháo gà cũng theo kiểu rượt bắt chứ một mình tui thì làm sao bắt được.

Theo ông Phát, Phú Quốc có hải sản nhiều, gia vị có sẵn cứ làm những món ăn không lẫn lộn với xứ khác sẽ tạo dấu ấn. Từ nồi cháo gà trong vườn, ông Phát sưu tập 15 món ngon ăn đến ghiền trên đảo ngọc.

Món phú kèn làm từ cá thu, cá nhồng, bạc má cho vào nồi hấp rồi đánh tơi, xào hạt điều, sả, nạo đu đủ xanh ăn với bún, nước cốt dừa. Chưa có xứ nào có món này.

Bún nhâm chế biến từ dưa chuột băm, tôm khô giã nhuyễn trộn nước cốt dừa, ăn với nước mắm chua ngọt. Nhiều món ăn không dùng ngũ vị hương mà lấy tiêu chín, tương ớt, nước mắm cốt ướp cá.

Đây là những món đặc lạ, ở đất liền khó nếm được món này. Gỏi cá trích cũng độc đáo là chấm nước ổi. Tôm cuốn rau rừng, với 10 loại rau mà có tiền chưa chắc đã mua được. Lá bứa rừng nấu canh chua, đọt trâm, đọt nen, đọt bằng lăng, trầm bìa, đọt việt ăn với bánh xèo.

Mọi thứ đều từ khu vườn vườn 6 ha trồng táo, ổi. Khi mùa ăn tươi không hết, làm rượu, mứt; ổi chín thì làm giấm, nước ổi. Làm nước chấm từ giấm ổi trở thành món nổi tiếng của vườn táo. Giấm ổi pha với đường thốt nốt, nước mắm cốt thành chỉ có ra Phú Quốc mới nếm được.

Rượu sim, quyền tác giả thuộc về những thợ rừng. Ở Phú Quốc ai cũng biết làm, nhưng quan trọng là cách cho lên men hoàn chỉnh. Rồi thì rượu hải mã ngâm cây sâm mây, sâm hồng; rượu mỏ quạ, ngâm ủ, đóng chai công suất 20.000 chai/năm với thương hiệu Sim Sơn.

Tôi chỉ muốn xây dựng thương hiệu hàng hoá để trả ơn Phú Quốc. Nước mắm, rượu sim, tiêu, hải sản chế biến, cá cơm có thương hiệu rồi, còn lại là di sản ẩm thực tôi sẽ sưu tập và đưa vào đất liền để giới thiệu, ông chủ vườn táo từ tốn nói.

 



Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 10/Jul/2007 lúc 11:26pm
Giá mà PT đọc bài này năm ngoái thì khi đi Phú Quốc sẽ thích thú hơn. 3 ngày ở đảo Phú Quốc cứ theo các nhóm du khách đi thăm các nơi nhưng PT chưa thấy chỗ nào đặc sắc hoặc có sắc thái như thầy HNH giới thiệu ở trên cả. Rượu Sim Sơn? Làm sao mình gửi mua được đúng thứ rượu đó hở thầy HNH ? Nước ổi và rượu có bán ở Saigon hay không?

-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 11/Jul/2007 lúc 11:07pm
Để đặt mua rượu sim , chị gọi điện về số: 077-846203- 077849719 - Hotline: 0918485832 - 0918851203.
 
Qua tự điển mở, xin giới thiệu đôi điều về rượu sim ở quê nhà. Rượu sim là một loại http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_u%E1%BB%91ng_c%C3%B3_ch%E1%BB%A9a_c%E1%BB%93n - rượu đặc sản của http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BA_Qu%E1%BB%91c - Phú Quốc , http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - Việt Nam . Mặc dù http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=C%C3%A2y_sim&action=edit - cây sim có ở nhiều nơi, nhưng sim ở Phú Quốc có những đặc điểm riêng. Ví dụ, sim ở Phú Quốc chín rộ vào dịp http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1ng_gi%C3%AAng - tháng giêng http://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m_l%E1%BB%8Bch - âm lịch , còn sim ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BB%81n_B%E1%BA%AFc_Vi%E1%BB%87t_Nam - miền Bắc Việt Nam thì chín vào dịp http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1ng_b%E1%BA%A3y - tháng bảy .

Sản xuất

Trái sim nguyên liệu đưa về rửa sạch, chọn quả chín mọng xay nhuyễn và ủ lên http://vi.wikipedia.org/wiki/Men - men với http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_c%C3%A1t&action=edit - đường cát theo một tỷ lệ nhất định (còn được giữ bí mật để cho ra được sản phẩm tốt) trong http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=M%C3%B4i_tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_hi%E1%BA%BFm_kh%C3%AD&action=edit - môi trường hiếm khí từ 40 đến 45 ngày. Sau khi sản phẩm lên men hoàn chỉnh ta sẽ được một loại rượu màu hồng, uống có vị cay chua ngọt như http://vi.wikipedia.org/wiki/R%C6%B0%E1%BB%A3u_vang - rượu vang http://vi.wikipedia.org/wiki/Nho - nho với nồng độ khoảng 11,5%.

Xin lưu ý những loại rượu sau không được coi là rượu sim: gồm sim tươi ngâm trực tiếp với rượu, cây sim (thân, rễ lá) ngâm rượu vì rượu sim truyền thống là loại rượu lên men tự nhiên từ trái sim.

Ở Phú Quốc có một số gia đình sản xuất rượu sim cung cấp cho thị trường khách du lịch ở đảo và được đăng ký nhãn hiệu chất lượng tại Sở Y tế tỉnh http://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%C3%AAn_Giang - Kiên Giang như Rượu sim Thành Long, Rượu Sim Sơn.

Hiện nay ở đảo Phú Quốc đã sản xuất được loại http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=R%C6%B0%E1%BB%A3u_vang_%C4%91%E1%BB%8F&action=edit - rượu vang đỏ từ trái sim rừng kết hợp với một số trái cây khác có nồng độ 12-14% etanol, là loại rượu vang đỏ có màu rất tươi của trái sim, hoàn toàn tự nhiên, quy trình bí quyết công nghệ sản xuất được chuyển giao công nghệ từ Viện sinh học nhiệt đới Thành phố ************ thuộc Viện khoa học Việt Nam chuyển giao cho cơ sở Thành Long - Phú Quốc.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/3/3b/Ruou_sim.jpg">Hình:Ruou%20sim.jpg
 

 


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 11/Jul/2007 lúc 11:08pm

Tím chiều hoang biền biệt..



Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 12/Jul/2007 lúc 12:14am
Nghe thầy Hùng tả cách làm rượu sim mà thấy thèm quá nhưng không biết uống có ngon không? Trông hình chai rượu Thành Long thấy cũng ngon. Số phone thầy cho tức là mình gọi từ VN phải không? Và khi order họ gửi đến nhà mình không? ví dụ nhà ở Sài Gòn? Và rượu này có bán tại Sài gòn không , có tại các siêu thị không? Thôi được rồi , PT sẽ nhờ người nhà ở VN gọi hỏi dùm để mua và thử trước xem có ngon không?
Cám ơn thầy lắm.


-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 12/Jul/2007 lúc 3:03am
.
 

TẢN MẠN RƯỢU...

Hoàng Ngọc Hùng

 

 


Thời hái lượm, rượu được phát hiện từ những quả mọng chín rụng lên men, sau đó người ta làm rượu từ nước quả ép. Thời trồng trọt thì lấy ngũ cốc làm rượu,  chưng cất bột lương thực, nguyên liệu có đường - vị và mùi rượu do nguyên liệu, men. Cư dân sông Nin biết làm bia trên 6000 năm. Chiến quốc sách ghi chuyện Nghi Địch (vợ vua Hạ Vũ) làm rượu; người Việt đã dùng rượu từ 5000 năm trước.

Các nhà hoá học chia rượu ra 2 loại: lên men từ nước quả (rượu vang, rượu cần), rượu cất (spirits) từ đường (bột ngũ cốc, nước mía, nước củ cải đường, rỉ đường...), thu rượu qua tháp chưng (Bông Lúa, Nàng Hương, rượu trắng...).

Rượu mùi pha từ cồn hoá học, đường, acide chanh, các chất tạo mùi, tạo màu. Nhà võ cũng chia rượu làm 2 loại: uống và xoa (ngâm các loại thuốc để xoa - thường có vài chất có hại cho đường ruột).
Về tình thái: rượu thưởng - phạt, tẩy trần (bụi), nhơn ngãi, giao ước, đoạn tình, chia ly, tái ngộ,... Nếu dân có chén tạc, chén thù, chén xuân, chén quỳnh, chén ly bôi,...thì nhà vua có rượu ngự, rượu tiến,...
Theo nguyên liệu thì có rượu đỗ (đậu), rượu sắn, ngô, nếp, gạo, mật mía; rượu cá (Trung Quốc) - ủ men với “nạc cá và bột lương thực”.
Theo nồng độ có rượu đầu (rượu ngọn, rượu đầu nồi, cao độ), rượu bào (lượt rượu cuối, thực chất là nước cất, vị nhạt, thường hoà với rượu cao độ), rượu tăm có độ cồn cao, trong vắt - gọi là “tăm” bởi rượu rất cao độ, dù lấy cây tăm chấm mút cũng...xỉn, lại có người giải thích là rượu này để yên cũng sủi tăm (bọt khí).
 Theo mùi thì có rượu bén (rượu khê) do đun già lửa (bén nồi) - dân sành rượu ưa dùng; theo màu có rượu hồng, rượu hồng đào, đỏ (vang)...
Rượu chổi cất từ cây chổi - để xoa bóp. Rượu đế: rượu trắng: rượu ngang: trước đây là rượu lậu (loại rượu gạo nấu lậu, cao độ).
 Với rượu ngâm thì dựa theo món ngâm để gọi tên (rượu rắn - tam xà, ngũ xà,...; rượu bìm bịp, rượu rết, rượu bò cạp, rượu sâm, hoàng hoa tửu - cúc vàng;...); rượu hoà với tiết (rắn, dê,...), rượu hoà mật  (chó, gấu, ong,...). Đặc biệt, rượu nếp làm từ cơm nếp ủ men, không chỉ uống mà còn ăn cả cái (miếng cơm nếp trắng ngà, mềm, vị ngọt, đượm mùi nếp, thơm dịu nhưng xơi nhiều vẫn xỉn, dùng quen cũng nghiện). Hèm rượu gạo tuy người không dùng nhưng lợn ăn sẽ cho thịt ngon (ít mỡ, da mềm, có vị riêng) - món “thịt heo hèm” luộc hồng đào, thái ba chỉ, dùng với dưa giá chua, chao mặn, tương ớt cay xào ngọt, xôi nếp thơm và rượu gạo thì...người ở đừng về (một trong những đặc sãn làng Chuồng, xã Phú An, huyện Phú Vang- Thừa Thiên).

Việt Nam nhiều xứ rượu: làng Vân (Bắc Ninh), Nga My (Hà Tây), Bắc Hà (Lào Cai), Kim Long (Quảng Trị), Làng Chuồng (Huế), Đá Bạc (Thừa Thiên), Bàu đá (Bình Định), Gò - Gò Đen (Tây Ninh), Gò Quao, Gò Công (1),...; rượu cần- ở các tỉnh thành cao nguyên, nếp cẩm (Hải Phòng), rượu ngô (Bắc Thái), San Lùng (Lào Cai), quốc lủi,...nhiều rượu ngon từ các “xá” - Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Quảng Xá (Thanh Hoá). Ở Thừa Thiên - Huế, một số làng có nhiều họ đã chọn tên một họ để đặt tên làng (gồm 2 tiếng: “xá” + từ chỉ họ): Văn Xá - làng họ Văn; Võ Xá, Mai Xá, Phan Xá, Lê Xá,...- các tộc lớn thường nhiều tế lễ, phải nấu rượu để “tự cung tự cấp”, tên tộc (và làng mang tên tộc) đã làm thành tên rượu. 

Chứa rượu có chai, be, nậm, hủ, vò, bầu (bầu khô thứ thiệt, thứ giả - gốm, sành, sứ,...), túi da, túi giấy không thấm nước, thùng gỗ, xị (chai ¼ lít - loại chai chứa nước ngọt có ga, màu nâu, thơm mùi hồi - tên là “xá xị”), ...Vật chứa - màu chai (thuỷ tinh), loại gỗ - có ảnh hưởng đến chất lượng rượu. Có loại chai bỏ túi, dày cỡ 2 cm bằng inox, có thể gắn thêm phù điêu (logo gia đình, cá nhân) trên mặt nắp chai. Các loại rượu, kiểu dáng chai, nhãn,...là lĩnh vực được giới sưu tập quan tâm.

Để đậy chai thì có nút, nắp (nhét, vặn) - có loại nút mở ra là hỏng, có loại xài nhiều lần; có thứ mở bằng tay, có loại phải dùng cái “vặn nút chai” - nếu không có nó thì...nhe răng cắn để lôi nút chai ra hoặc dìm nút lọt vào trong chai - khi rót rượu có thêm tiếng “lụp bụp” cũng vui tai ).

Về vụ mở nút” (rượu vang) cũng lắm dụng cụ (thông dụng là loại chữ T, dùng lực kéo nút rời miệng chai; dễ lắc chai, nếu gặp chai có kết tinh thì sẽ động cặn; loại mũi xoắn, đòn bẩy và dao cắt; loại chụp siết - chụp miệng chai và 2 càng để siết, kèm dao nhỏ để cắt chụp). Dù đã có cái mở nút chai nhưng còn phải dựa theo rượu chứ không tuỳ tiện - với vang đỏ, mở nút trước 30 phút để hương men thoát hết, các loại rượu lâu năm thường có cặn do kết tinh nên vẫn giữ chai nằm nghiêng khi mở, rượu được rót ra bình lóng (pitcher) - thấy cặn lên đến cổ chai thì dừng.

Đất Việt không chỉ biết dùng cùi bắp (lõi ngô) làm nút chai mà còn có “nút sau hè” - khi cần, các cụ ra “sau hè” xé mảnh lá chuối khô quấn lại để nhét cho vừa miệng chai là xong - rất ...môi trường. Trước đây, khi nhận lời mời (đám giỗ, họp bạn,...), cánh nam giới thường đến dự với chai rượu trắng đậy “nút sau hè” làm lễ vật “gọi là”. Ơi những người muôn năm cũ, khăn xếp áo the với be rượu lễ kẹp nách đi trên đường làng ! Hồn ở đâu bây giờ...

Lắm ông vợ dại con thơ vẫn ưa kẹp chai rượu đi về phía hội hè - nơi thường có những “cô thả khoanh giò, ông thò chai rượu” -  làm cho vợ nhà mỗi khi nhìn ra bụi chuối sau hè (nơi “sản xuất nút chai”) lại than thở: “gió đưa bụi chuối sau hè, anh mê vợ bé bỏ bè con thơ” (bố các cháu quả có ham bù khú nhưng nào dám đem con cái “bỏ bè trôi sông” - các bà thường thích nói quá một tý để có tác dụng...phòng ngừa, cảnh báo).

Rượu thường rót qua miệng chai hoặc qua vòi ở đáy; nhiều nhà sản xuất có gắn “nắp rót” (để giữ mùi, ngăn rượu lan qua vành miệng, phí của giời - “thà cắt cổ không thà đổ rượu”). Có những loại “giá rót” rất tiện lợi, tạo dáng đẹp và đắt tiền - chai được gắn đứng vào giá, khi rót, đặt ly đúng chỗ và nâng đáy chai lên.

Đồ uống thì có chén, bát, ly, vò, ống, cần; tuy nhiên, có thể uống trực tiếp từ “vật chứa” hoặc uống qua đường mũi,...Nói về uống rượu thì có bợp, đả, tợp, hớp, mút, hút, hít, chíp, nốc, chiêu, nhấm, ực, súc,...; ở các tư thế - đứng, ngồi, nằm. Uống không thức nhắm là uống chay, sếch, suông. Rượu có thể hâm (ấm), ướp (ướp mùi, ướp lạnh, ướp mát). Loại rượu vang màu (đỏ, hồng) phải ướp lạnh trong xô (từ 80 -160C), sau khi rót nếu vẫn còn rượu trong chai  thì lại đặt chai vào xô đá.

Rượu chát: rượu vang: rượu nho: từ nước ép quả nho và đợi lên men. Có vang trắng, vang đỏ; rượu sâmbanh (champagne) là loại vang trắng (nay quen gọi “rượu chát” chỉ vang đỏ, sâmbanh chỉ “vang trắng”). Trước đây, phải là sâmbanh làm từ nước ép loại nho vùng Champagne, giờ ở đâu cũng có thể sản xuất sâmbanh, miễn là có nước ép quả nho; hơn nữa, rượu vang nay không chỉ làm từ nước quả nho như trước mà còn từ nước ép các loại quả mọng, lên men. Rượu vang đã thành thức uống truyền thống ở phương Tây; theo giới tiêu dùng thì vang có 4 loại (bàn, sủi tăm, mạnh, mùi): Vang bàn (vin de table) có đỏ, trắng,  hồng (hàm lượng rượu từ 09% -14%); vang sủi tăm (vin mousseux) hay còn gọi là sâmbanh (Champagne) - có từ 08%-12% rượu, sâmbanh sủi tăm là do cho thêm CO2 - loại hảo hạng làm từ các giống nho trồng ở vùng Champagne - Pháp; vang nặng (vin fortifié): được pha rượu mạnh (brandy) - lượng cồn từ 17%-22%, loại vang nặng không ngọt có nồng độ cao dùng khai vị, loại ngọt dùng tráng miệng (vang Madeira sản xuất tại đảo Madeira, Đại tây dương - ưu điểm: rượu còn trong chai để lâu không hỏng. Vang mùi (vin aromatisé) có gia thêm rượu mạnh chất thơm với lượng cồn từ 15%-20%.

Xác định Vang qua màu, chất, hương, vị, tên, tuổi, mùa hái nho. Vang nho có 6 loại (nhãn chai) - dry: rất nặng; sec: nặng; demisec: hơi nặng; moelleux: sủi tăm; doux: dịu; liqoureux: rất dịu. Màu vang (trắng, hồng, đỏ) tùy tuổi, loại nho, thời gian vỏ nho để lại trong nước cốt trước khi lên men, hoá rượu (vang trắng từ trong suốt đến vàng là sản phẩm từ nho vỏ xanh; vang hồng, đỏ là sản phẩm của nho vỏ tím - vang đỏ có màu hồng, đỏ, đỏ thắm). Các loại vang Pháp ngon nhất được ghi tên nơi sản xuất trên nhãn (Appellation d'origine contrôlée -  AOC); nơi cấp phép là L'institut national des appelations d'origine - INAO. Để có AOC thì vang phải dùng các giống nho trồng tại khu vực qui định. INAO qui định độ cồn của vang và số lít vang trên 1 tấn nho nguyên liệu.

Nước Pháp có 4 vùng nho vang (Alsace : Đông Bắc Pháp, nổi tiếng vang trắng (vang Alsace) thường đựng trong chai cổ cao, màu xanh; Bordeaux - Tây Nam Pháp; Burgundy: Trung Pháp; Champagne: Bắc Paris, đủ điều kiện (nho, đất, khí hậu, kinh nghiệm,...) sản xuất loại vang nổi tiếng nhất.  Champagne chỉ có 3 loại nho (Pinot Noir, Pinot Meunier, Chardonnay). Champagne có thể uống ngay -  không cần để lâu. Trước khi đóng chai người ta cho một lượng rượu ngọt - tùy lượng rượu đó mà Champagne được phân loại (Brut, Nature - tự nhiên; Extra sec - hăng; Sec - hơi ngọt; Demi sec - ngọt; Doux: ngọt đặc biệt; Non -vintage từ rượu nguyên liệu sản xuất các năm khác nhau; rượu Vintage từ nho thu hoạch cùng năm và khoảng 20% rượu các năm khác; Rosé từ rượu nho đỏ, trắng; Gemant ít bọt, sản xuất từ rượu ít đường có thêm  CO2 khi lên men lần thứ 2; Blanc de blanc sản xuất bằng nho trắng, loại vang cao cấp; loại Blanc de noir làm từ nho đen; De luxe từ 100% nho tốt nhất.

          Vang Mỹ có thể chia làm 3 loại (Branded wine, Generic wine - như vang California Burgundy; Blended wine); nổi tiếng có Robert  Mondani. Vang sủi tăm có Moet và Chandon sản xuất theo cách của Pháp. Ngoài ra, Italia cũng là nước dùng và sản xuất nhiều vang.

Giới yêu vang tự hào khi Victor Hugo bảo: “Thượng Đế tạo ra nước và con (của) Người làm ra vang”; từ nho, rượu vang đã tạo nên nhiều lễ hội, huyền thoại (gắn với Osiris – vị thần Ai cập; Dionysor - thần Hy Lạp; Bacchus - thần La mã - một công ty Hàn quốc đã chọn tên Bacchus này làm thương hiệu cho sản phẩm nước uống). Là một trong những thức uống tinh tế nên kiểu uống của người yêu vang thường khác với cách uống bia, rượu mạnh - không chỉ qua kiểu cách phục vụ mà phong thái người thưởng thức vang cũng hàm chứa ý vị khá độc đáo. Khi uống vang cũng không ực ngay mà ngắm, lắc, ngửi, ngậm (thở ra nhẹ), nuốt và...khà (6 công đoạn - như lục lễ trong hôn nhân thời xưa). Việc ướp lạnh sâmbanh cũng phải dùng đá cục mới gọi là vào kiểu (loại “champagne frappé”). Nếm vang là loại kỹ năng chuyên môn cao, người sành nếm được nhà sản xuất trọng dụng; để thành chuyên gia nếm vang không chỉ tinh nhạy về vị giác, khứu giác mà còn phải giàu kinh nghiệm tiếp xúc với các loại vang vốn rất phong phú; nay vẫn chưa có nơi đào tạo chuyên gia nếm vang - hầu hết trưởng thành từ giới phục vụ giỏi. Để thành người nếm vang đáng tin cậy phải thạo mùi, màu, tuổi...từng loại rượu của mỗi nhà sản xuất  vang.

          Chuyện rượu thì không thể quên cocktail - loại đồ uống gồm rượu và nhiều thành phần khác (nước quả, nước khoáng, sữa tươi, mật ong,...); món này có từ lâu nhưng chưa rõ xuất xứ. Mở một quầy cocktail phải cần 17 thứ dụng cụ chuyên dùng (ly khuấy - mixing gl***; thìa cán dài, thân xoắn - bar spoon; 1 ly Inox và 1 ly thủy tinh dày, đường kính nhỏ hơn - Boston shaker; bình đựng nước trái cây - gl*** pitcher; bình lóng (pitcher) để lọc cặn trong rượu; ly lường chất lỏng (kim loại hoặc thủy tinh), hai đầu có dung tích khác nhau - shot gl***; bình lắc - standard shaker; bộ thìa lường bột (4 cái: thìa xúp, thìa trà (cà phê), 1/2 thìa trà, 1/4 thìa trà) - measuring spoons; cốc đong rượu - measuring cup; dụng cụ khui nút chai - cork screw; cái chặn đá - strainer; kềm vắt chanh - lemon squeezer). Tại “gian bếp chính” của nàng Đêchanggưm có các dụng cụ tương tự không nhỉ ?.

Để hoàn thành ly cocktail, khâu trang trí rất quan trọng (cocktail martini từ cuối thế kỷ 18 đã biết trang trí với quả ôliu thả vào ly,..); thuật trang trí cocktail ngày càng cao, nhiều người pha chế cocktail (bartender) được gọi là nghệ nhân - tên tuổi của họ đã tạo thêm danh tiếng cho các quầy cocktail (cocktail bar). Thế giới “bar” cũng khá lùng nhùng, trong đó có nhiều loại bar gắn với rượu (quầy bia: beer bar; quầy cocktail: cocktail bar; quầy rượu vang: wine bar. Ngầu hơn “quầy” là quán - “pub”).

Dù cocktail không phải là rượu thật  100 % nhưng “tiệc cocktail” lại có nghĩa là tiệc rượu (!?) - có lẽ vì nó long trọng hơn mấy độ nhậu thông thường (với rượu thật 100 %). Tiệc cocktail cũng như tiệc đứng nhưng “uống là chính”, thường được tổ chức vào buổi sáng (từ 10 giờ), chiều (16 giờ), tối (20 giờ) - không lâu hơn 2 giờ, nếu kèm món nhảy nhót cũng không quá 4 tiếng. Nói “uống là chính” nhưng cũng có những món ăn nhẹ (hạt khô: lạc rang các loại, dẻ, hạnh nhân, điều,...; trái cây, rau dầm: ô-liu đen, ô-liu xanh, dưa chuột, bắp cải muối, kim chi,...; món nguội: xúc xích, jambon xông khói, nem, chả, trứng cút, phô-mát, trứng cá, ...; các món nướng, đút lò; bánh,...).

Đồ uống trong tiệc cocktail được đặt ở bàn riêng hoặc ở quầy - có một (vài) bartender, nếu chủ nhân mời được những bartender nổi tiếng cũng có thể giới thiệu cho khách uống được biết. Tuy vậy, cũng như ‘trà đạo”, đã mời khách đến nhà (nhất là mời vào “tửu thất” - phòng uống rượu) thì phải tự tay chủ nhân pha rượu và hầu tiếp với khách mới thật đúng điệu - phương Đông, kể cả cánh samurai (Nhật) vẫn coi “bạn rượu” mới là nhất (yếu tố “con người”) - rượu, mồi, chỗ và các món khác chỉ là thứ yếu. Dù rượu nhạt, rượu suông (“khôn chài cá”, “khó đuổi gà”,...) nhưng chỉ cần hợp nhau là đủ. “Hợp nhau” là món rượu (và mồi) cao cấp nhất, thiếu nó thì chán và có thể nguy, không hợp nhau mà phải cụng ly có khi hỏng rượu, có nó thì “râu tôm nấu với ruột bù, chồng chan vợ húp gật gù khen ngon” - hợp thì mới “gật gù, gật gù,...”, nếu không hợp nhau thì cố lắm cũng chỉ “gật” mấy phát là oải - không “gù” được như quý anh chị bồ câu đâu nhé.

Chơi rượu tại gia theo kiểu Tây cũng thật kỳ công: hầm rượu xây bằng đá hộc, tủ rượu (đứng, nằm, ngầm trong tường, lồi ra ngoài - với loại gỗ và màu gỗ phù hợp), vài kiểu quầy rượu gia đình (hợp với tư thế của khách - đứng, ngồi ghế cao, thấp, ngồi bệt,...), các loại giá rót rượu hợp với vật chứa (cao, thấp, to, bé, béo, gầy, chai, thùng, hộp,...), các kiểu giá ly (gác ly, treo ly, móc ly,...), các loại vặn nút chai (trực tiếp, gián tiếp,...), các kiểu xô để ướp sâmbanh, xe đẩy (2 ngăn, 3 ngăn,...), các phụ kiện (hộp thuốc lá, gạc tàn, các vật dụng chứa các loại thức nhắm khô, chứa các loại trái cây,...); khi tiệc lớn (gia đình), đội ngũ phục vụ rượu phải đồng phục. Độ này, trước khi nhập tiệc, dân xứ Lạc Hồng thường khui sâmbanh, hé mắt chờ nó “đoành”, vỗ tay (nếu nút chai bắn ra không gây nên kiếp nạn gì), rót, dzô,..., màn này trông cũng “hội nhập” phết. Ăn lối Tây thường kèm nhiều loại rượu, mỗi thứ có kiểu ly riêng (cao, thấp, đục, trong, to, bé, mỏng, dày, vành bum, vành thẳng, chân ngắn, chân dài, đế loe, đế lượn, đế phẳng,...) theo từng món ăn, công đoạn bữa ăn.

Nếu chế biến món ăn ở phương Đông lên tầm khoa học thì văn hoá rượu Tây cũng thiệt ly kỳ; ở đây, cái “ly” là đại sự. Ly uống vang thường ướp lạnh; chọn ly tuỳ tục mỗi nước, chọn ly tùy rượu (whisky, cognac,...) - ly cũng được đặt tên giúp người uống thêm phần thú vị. Các loại ly thủy tinh nổi tiếng của Bacarat, Venese, Libbey... đa dạng về chủng loại, dáng đẹp, trong, sáng, chạm nhau có tiếng ngân vang. Có nhiều kiểu dáng ly cho từng loại đồ uống, quầy rượu (ở gia đình, bar, pub) có ít nhất 13 loại ly (không kể số ly treo giàn - trang trí): loại ly liquor (cordial) - cho rượu mùi (liquor), cocktail nhiều tầng; sherry - rượu nguyên chất; rock - rượu mạnh (30ml) pha coca, soda, đá cục; highball - nước trái cây, cocktail long drink; margarita - cocktail margarita, kem; martini - cocktail martini, cocktail loại short drink; flute champagne (saucer) và cup (saucer) - dùng cho sâmbanh, cocktail; brandy ballon - uống Brandy; poco và hurricanecho - cho cocktail (long drink); wine - dùng khi uống vang đỏ, trắng, hồng; pilsner dùng cho bia. Vậy, có thể uống brandy không pha bằng loại ly nào ? Trước khi tìm ra lời giải là “brandy ballon,...” nhiều người khó bình tĩnh trước thiên la địa võng của lắm thứ nồi niêu ở tửu quốc trời Tây.

“Sắm ly cho đúng điệu đã khó nhưng giữ gìn chúng cũng chẳng dễ gì”, bởi: phải dùng dung dịch rửa chén đĩa - loại không có mùi thơm, rửa kỹ, nhúng nước nóng, úp lên một khăn lót - để nước trên ly thấm xuống; lau bằng khăn không sổ lông (đầu khăn nắm chân ly và đầu kia lau trong ngoài). Nhiều người rất ngán ngẩm về các vụ đố rượu kiểu Tây, đại loại: “Gin là viết tắt của chữ gì ? - Genever”, “vodka xuất xứ từ đâu ? - Balan”, “Bourbon, một loại whiskey Mỹ, làm từ nguyên liệu chủ yếu gì ? - 51% ngô”, “Rhum được tạo từ ? - mía”, “tên rượu vang Porto xuất phát từ ? - nước Portugal”, “tên rượu Tequila từ ? - thị trấn Tequila, bang Jalisco, Mexico”, “Lắc bình shaker standard, phải hướng nắp đậy vào trong hay ra ngoài ? - trong”, “Nghĩa của blood là máu, trong món cocktail bloody Mary có nguyên liệu gì làm blood ? - nước cà chua”,...và những câu hỏi lẩn thẩn như thế có thể kéo dài suốt bữa tiệc rượu Tây - ai không đáp được thì phải làm một ly (một trong nhiều cái vui ở đây là khi lão ấy ực ly rượu phạt thì mọi người cũng “làm ly” và reo hò - khối anh biết tỏng câu trả lời nhưng vẫn ra bộ tịt để cả nhà thêm một lần cười. Rất dễ thương).

Về thức nhắm: mồi !. Có thể thầy là có vô số mồi!.

“Vô số” hiểu là: nhiều đến nỗi “không”...có số mà đếm hoặc “không” có tý mồi nào cả (!?). Có thể là...bia - cho ngón tay vào bia, mút “choách” một phát rồi chiêu hớp rượu. Hết bia thì nướng nắp chai bia, ngâm rượu làm mồi (liếm nắp một phát,...dzô !), hoặc dùng đinh thép nướng lên dầm nước mắm,...Ở rừng có thể rút dao quắm, rựa, mác, mã tấu,...làm mồi (liếm lưỡi dao lấy vị tanh). Có loại mồi chua (khế, mơ, sấu...), chát (ổi, chuối xanh - Chí Phèo dùng món này khi không bắt vạ được ai), cay (ớt, gừng), đắng (đu đủ non), mặn,...hoặc ghép chúng lại, nêm chút đường thành mồi “ngũ vị” - rất bắt rượu. Nếu thật chẳng còn gì thì dùng mồi “e lơ mơ” (e: em; lơ: làm; mơ: mồi - “em làm mồi” - tức là ngắm một em nào đấy rồi làm hớp rượu). Nếu rượu cũng hết thì sao ? Hãy theo lối “ca” (ca là...“k”, viết tắt của “khô” tức là “không ướt” = không có “nước”= không rượu; “k” cũng là “không” tức là không có (mồi và rượu) thật, chỉ xài bằng tưởng tượng (tưởng tượng rượu, tưởng tượng mồi và mọi phụ kiện kèm theo). Thói thường “trà tam tửu tứ” - cùng uống mới vui, ấy thế vẫn có vị không “bạn hiền” vẫn “chíp khà” một mình trong cô tịch - cánh độc ẩm ấy quả đáng quan tâm.

Truyện Lục Mạch thần kiếm (Kim Dung) có đoạn thuật cảnh Tiêu Phong ngồi cùng A Châu tại quán nghèo nơi biên tái, không giọt rượu. Khi nghe A Châu tâm sự “đại ca ơi, tiểu nữ nguyện theo đại ca về Nhạn môn quan săn chồn đuổi thỏ, sống cuộc đời khoát lạc ung dung” thì Tiêu Phong thật sự cao hứng, nâng cái chén không rượu lên, ông ngửa cổ thưởng thức hớp rượu tình nồng. Kẻ viết bài đã từng ngắm (lén) một tửu sĩ độc ẩm kiểu “khô” - ngay cả một cái “chén không rượu” cũng chẳng có; đến say, người tấu lên cho mình khúc tuý ca bi tráng và tuý ngoạ ra thềm, hấp háy nhìn loài người về trước hiên đời dưới bóng chiều nhập nhoạng. Trước bức tranh sống động ấy, kẻ nhìn đã xấu hỗ vì ý nghĩ  “Bác ấy say giả hay thật nhỉ ?” - Ôi ! Quả là loại tư duy thấp kém của hàng sâu róm, tò vò.

Thế gian chia tửu đồ ra nhiều bậc: sâu rượu, bén rượu, bợm rượu, già rượu, non rượu, nát rượu, nhát rượu, rét rượu, giết rượu, luỵ rượu,.... Tiếp viên gọi dân uống là tửu khách, vợ con lại chia các vị thành nhiều hạng (tửu tiên, tửu quỷ, tửu điếc - chẳng chịu nghe ai). Tuý ngoạ là say nằm, nhậu nằm, nằm nhậu; bài ca cho dân xỉn hát là tuý ca - bài ca về rượu của “tuý khách”; tuý quyền là dạng quyền phổ bậc cao ở võ thuật Trung Quốc (với tuý kiếm, tuý phiến - quạt,...).

Tuý dân cõi nhậu phương Đông tự nhận là tín đồ của tửu đạo và phong Lưu Linh là giáo chủ.  Lưu Linh tên chữ là Bá Luân (210 - 270) sống từ cuối Ngụy (Tào Tháo) đến đầu đời Tấn (Tư Mã Ý) - thời ấy cũng lắm chuyện buồn nên nhiều người ít vui với đời thực. Nhóm Trúc lâm thất hiền nổi tiếng văn chương (Nguyễn Tịch, Nguyễn Hàm, Lưu Linh, Kê Khang, Sơn Đào, Vương Nhung, Hưởng Tú) được coi là sành điệu; tương truyền Lưu Linh (và Nguyễn Tịch) uống rượu rất tài. Lưu công thường uống trên xe hươu kéo, chở theo các vò rượu lớn - sau xe có người vác cuốc (chết say ở đâu thì chôn ở đấy); trong bài tụng nổi tiếng về phẩm chất người uống rượu (tửu đức tụng), ông gọi các nhà “giảng giải lễ phép” là “các quan” và coi họ như những “con tò vò, sâu róm”. Văn chương Đất Việt cũng dành sự trân trọng cho rượu.

Cô Kiều của cụ Nguyễn Du đã có vài lần rượu đáng chú ý:

q       Lần 3 người (Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư):

Vợ chồng chén tạc chén thù

Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi

Bắt khoan bắt nhặt đến lời

Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay

q       Lần 4 người (Kim Trọng, Thúy Kiều, Thúy Vân và cậu em Vương Quan) - đoàn tụ:

Đủ điều trong khúc ân cần

Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng

q       Lần 2 người - đối ẩm  (Kiều và Kim Trọng):

Thêm nến giá, nối hương bình

Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan

q       Theo Cao Bá Quát (1809 - 1853) thì :

“Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu

Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng”.

Dịch nghĩa:

(Hể) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon

(Thì) ít người tỉnh mà vô số người say

q       Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) mong:

Bàn cờ, cuộc rượu, vườn hoa cúc

Bó củi, cần câu, chốn nước non

q       Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) cho rằng:

“Ai say, ai tỉnh, ai thua được

Ta mặc ta mà ai mặc ai”

q       Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) từng:

Trổ tài muốn học ông say

Thì ba trăm chén dốc ngay cạn bầu

q       Huyền Trân (1913 - 89) tâm sự với Tản Đà:

Cụ hâm rượu nữa đi thôi

Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu

Rồi lên ta uống với nhau

Rót đau lòng ấy vào đau lòng ngày

VỚI TẢN ĐÀ

q       Thâm Tâm (1917 - 1950) quả quyết:

Người đi ! Ừ nhỉ, người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say

Tống biêt hành

q       Xuân Diệu (16 - 85), nâng chén men tình:

Anh lại nâng chén nước

Mời em nhắp môi cho

Em ơi, đừng uống hết

Kẻo say chết bây giờ

Chén nưỚc

q       Ở thủ đô, Vũ Duy Thông bê ché rượu cần cao nguyên:

Lấy đâu nước suối rừng sâu

Thì múc nước máy đổ vào ché thôi

Hư thì cũng đã hư rồi

Chẳng hư sao hỏng một đời vì thơ

UỐNG RƯỢU CẦN Ở HÀ NỘI

q       Hoàng Trung Thông hiểu:

...Bạn uống rượu lòng ta không thể chán

Ta thương ta, thương người xa thương thầm

MỜI TRĂNG

q       Đỗ Bạch Mai vừa tưng vừa tỉnh:

Em là rượu hay em là nước mắt

Rượu đắng cay và nước mắt mặn mòi.

rưỢu và nưỚc mẮt

q       Võ Thanh An  tỉ tê:

Chén vui, mừng run rẩy

Chén buồn, bước liêu xiêu

VỚI BẠN SAY

q       Cao Như Dương muốn:

...Ta gom thu hết vào trong rượu

Rót vào quên lãng một bầu cay

VƯỜN CHIỀU

q       Trong rừng đêm, con tầu chở Vũ Hoàng Chương cũng say nốt :

Khói tuôn mờ trắng đêm thâu

Men rừng say một con tầu ngả nghiêng

Con tẦu say- Thơ Say (1940)

q       Nguyễn Quang Thiều, với vò rượu...rắn:

Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn

Người say hát lên bằng nọc độc trong mình

QUÁN RƯỢU RẮN

q       Văn Cao xót cho nhậu đang mất dần thời gian sống:

...Uống rỗng những thùng bia

Uống đến hết một ngày đang hết

Uống đến hết một năm sắp hết

Còn liếm môi....

QUÁN BIA

q       Nguyễn Khánh (Trưởng phòng Giáo dục Tiên Phước - Quảng Nam) hiểu sự quyến rũ của “rượu thơ”, ông  nói: “Nếu cuộc sống là gạo đã nấu thành cơm thì thơ là cơm đã cất thành rượu mà người đời ít ra ai cũng một lần say”.

q       Trần Văn Thọ (Hiệu trưởng trường Lê Hồng Phong - Điện Bàn, Quảng Nam) kinh nghiệm:

Không rượu sao mà say chếnh choáng

Không bão giông sao ngồi đứng không yên

Không sương khói sao nhạt nhoà ảo vọng

Giây phút nào ta đối diện cùng em

KHÔNG ĐỀ

q       Lần nọ, trong chuỗi ngày phỉ lạc cuồng sinh, thi hào Bùi Giáng đã “thượng câm tuyết” (hạ quyết tâm) về vụ “điên và say”, từ ấy, Người đã “không thể nói rằng”:

Rồi từ đó anh trở thành quyết liệt

Quyết tâm điên và say rượu tận cùng

Vì quyết thể đã từ lâu tận tuyệt

Tới ngao du tuế nguyệt để tao phùng

KHÔNG THỂ NÓI RẰNG

        Sổ nợ của cụ (sau 27.6.1998) cho thấy:

Một ngàn vĩ đại hôm nay

Bởi vì ly rượu tương lai muôn trùng

SỔ GHI NỢ - viết tay

Văn chương Trung Quốc có nhiều vụ rượu nhưng các độ nhậu do Kim Dung gầy như đáng say hơn; có lẽ vì thế, Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn, gắn với rượu - ông có “tướng mạo điêu linh cổ quái, lúc nào cũng 3 phần tỉnh 7 phần say”.

Tổ Thiên Thu (Tiếu Ngạo Giang Hồ) phổ biến kinh nghiệm “rượu bồ đào phải uống trong chén dạ quang, rượu trúc điệp thanh thì dùng chén dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống, rượu trắng nên uống bằng sừng trâu để mùi tanh ở sừng át mùi nồng của rượu, bách thảo mỹ tửu do được chế từ trăm loài cỏ thơm nên phải dùng chén bằng trúc để dậy mùi hương,...”.

Nghe Lệnh Hồ Xung bị phạt trên Ngọc Nữ Phong, Điền Bá Quang biết bạn nhớ rượu liền vượt 6000 dặm vào cung trộm 2 hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng về biếu; từ hầm rượu đi ra, ông sực nghĩ “đời chỉ còn Xung với Quang là xứng đáng uống rượu này”, thế là Điền ca lại quay vào và tung cước đá vỡ cả ngàn hũ rượu Thiệu Hưng còn lại của nhà vua.

Ở Tụ hiền trang, trước trận tử sinh với quần hùng, Tiêu Phong gọi mấy vò, rót ra các bát lớn, mời anh em Cái Bang của ông uống đầu tiên để nói lời cuối cùng trước khi dứt tình đoạn nghĩa; rồi ông uống với bạn bè các võ phái khác, mỗi người một bát đầy...có kẻ bưng bát rượu đoạn tình với Tiêu Phong mà nước mắt tuôn rơi.

Quận chúa Triệu Minh nhớ Vô Kỵ quá (Ỷ Thiên Đồ Long), cô tìm lên tửu lâu ngồi vào chỗ 2 người từng đối ẩm; gọi thức nhắm, 2 bát, 2 đôi đũa, rượu, 2 chung và rót đầy. Cố nâng ly, chưa nhắp hớp rượu tình xa thì cô đã rơi lệ, đúng lúc đó thì...

Quách Tường (mới 16), yêu anh (nuôi) trong họ là Dương Qua (Thần điêu đại hiệp) đã vượt ngàn dặm đi tìm; hành trang của cô có một bảo vật - bầu rượu mà Quách Tường mong cùng Dương Qua đối ẩm. Về sau, mộng không thành, cô đi tu và trở thành sư tổ phái Nga My (chốn này có “bà con” gì với làng rượu Nga My ở xứ Hà Tây quê lụa không nhỉ ?).

Nhìn chung, tửu dân nhà Kim Dung xỉn cũng khá tử tế dù có nện nhau tý chút, cãi cọ ít nhiều; chỉ một người vì say mà phạm tội đại ác phải ghép vào loại “tửu tặc” -  Thành Khôn, sư phụ của Kim mao sư vương Tạ Tốn - say, làm nhục và giết vợ con của đồ đệ. Sau đó, Thành Khôn vào chùa Thiếu Lâm giả tu với pháp danh Viên Chân; cuối cùng vẫn bị tìm ra nhưng được tha (hoá ra thời ấy đã biết cứu xét hành vi phạm tội trong lúc say).

Truyện hiệp sĩ Lucky Luke (Mỹ), có tù trưởng bộ tộc da đỏ bản địa mơ được luôn há mồm dưới vòi rượu của thực dân da trắng (thế là tiêu cái bộ lạc ấy); thậm chí có vị còn ước ngồi trên chiếc thuyền độc mộc, tay cầm muôi (vá) lớn và xuôi dòng sông...rượu, khi thèm cứ việc thò tay múc một vá rượu đầy, rồi...“chăm phần chăm”.

Khi ngồi chung, phần lớn tửu dân rất thích mời nhau cụng ly, thế gian thường cạnh khoé rằng các bác ấy “muốn cho mình phải rinh cho người”, chẳng biết oan sai thế nào nhưng chuyện mời nhau cũng khá nhiêu khê. Cùng mâm với bề trên thì hầu như phải nâng ly theo “sự chỉ đạo”, phải ực theo tỷ lệ do sếp phán - lúc thèm thì chưa dám uống (chưa phải phép), lúc cần nghỉ tay thì lại phải nâng ly vì các cụ có lệnh uống. Tất nhiên, các thường dân cũng ngầm chung sức để phản kháng kiểu nhậu “mất dân chủ” ấy bằng cách mỗi em rót đầy  và mời các cụ cạn - kiểu “Cao Bằng - Bắc Cạn” này chẳng công bằng chút nào nhưng nguyên tắc “nhân vật” là căn cứ vào yếu tố con người (cá nhân, nhóm) để điều hành nhịp độ trận nhậu (khiếp). Cũng không thiếu những đại gia chẳng dùng kiểu “mời chung” như các sếp trên đây mà  sẵn lòng “mời riêng” như Tiêu Phong khi ở Tụ hiền trang - mời từng người, mời bạn bao nhiêu thì mình cũng uống bấy nhiêu. Xét một lệ làng khác (nguyên tắc “sự kiện”), ở đây, anh nào phát hiện ra sự kiện (hoặc sự cố) gì đấy bèn thông báo, nêu ý nghĩa và mời mọi người chúc một ly cho vụ ấy (dân “sông Đông êm đềm” thường theo lệ này). Nhiều độ nhậu chẳng quan tâm đến nhân vật hay sự kiện, họ theo trường phái tự do cá nhân - thích gì thì gọi, lúc nào nhớ thì uống, khi vui thì gắp (hoặc bốc); có anh ngồi mãi bèn nhớ ra là đang thiếu...vợ bèn gọi nàng đến, ôm vợ khóc...ba tiếng (Hu! Hu! Hu!) rồi hôn...hai cái (Pặc! Pặc!) và bảo “còn một quả nữa dành cho đêm nay” nhưng bây giờ thì “em về nhé” - bọn kia sợ mất chiến hữu, không ai bảo ai đồng thanh gào lên “Vâng! chị về ạ ! kính chị một ly” trong khi một tay vội sải chân ra đường gọi tắc xi (thanh toán trước) để “mời chị ra xe”. Cô kia, trước khi ra về còn “Vâng ! Cho em xin” và sau khi cạn ly do quý ông mời bèn “Kính các anh một ly ! Xin phép được về trước kẻo các cháu (và các cụ đang trông). Xin gửi ông cu nhớn nhà em lại đây nhờ các anh chăm sóc ạ !”.

Ở Phan Rang có sếp hay hết biết, cụ bảo: “Nhậu tự do! Tự do mời! Tự do nhận hoặc không nhận lời mời!” vì thế, khi cụ mời ai, nếu người ấy từ chối thì cụ vui vẻ lái ly về phía mình, bảo “Thế thì tớ tự cụng nó vậy !” và ực ngay cái “ly bị từ chối” ấy. Xong béng !. Tuy vậy, nhìn “một người làm việc bằng hai” nên cũng ít ai nỡ chối từ lời mời của sếp.

Dân gian đã bảo “rượu nhạt nhập lắm cũng say, lời khôn xuất lắm dẫu hay cũng nhàm”, khi những người nghe bị “say lời” (nhàm tai) thì họ sẽ làm gì thường cũng khó đoán nhưng khi những người nhậu bị “say rượu” thì hầu như trước sau gì cũng nôn ra 1 trong 3 (rượu, mồi hoặc ...máu) - và hơn thế nữa !. Về sự cố nôn ở tửu quốc, người ta đã cho nó dùng một số từ (tượng thanh, tượng hình): oẹ, uệ, ụa, ộc, “out”, phun, bắn, tia, xịt, ra hèm, dậy mùi, nối vòi, oành chiu, ụp xoà, cho chó ăn chè, bán chè chó,...

Vụ đói năm Dậu có chuyện kể về những kẻ thừa mứa nhưng luôn hám ăn nhậu - dù đã cành hông nhưng họ vẫn ham xơi tiếp. Nhà giáo Trịnh Quang Huy kể rằng, lần tiệc nọ, mấy tay phải nhiều lần lặc lè vác bụng ra hiên làm cái trò ngoáy vào họng để nôn ra đặng có chỗ mà tọng vào; thế là những người đói lã đang nằm chực ngoài hiên nãy giờ lại có dịp nhường nhau cái món “chè chó” ấy để cầm hơi.

Trong 1001 chuyện nôn rượu, có vụ xãy ra trong...dạ dày ông say nọ. Thấy rượu thi nhau tràn xuống dạ dày, bọn thức nhắm (vào đấy từ trước và nằm im nãy giờ) đã không nhịn được tò mò bèn lao nhao hỏi:

- Ngoài ấy ra sao rồi ?

- Quắt cần câu cả đám !. Rượu đáp.

- Hừm !  Để bọn tao ra xem sao.

.

                Công dụng của rượu vốn đa dạng, không chỉ là gia vị (ướp) mà còn để tế lễ (vô tửu bất thành lễ), hội hè, giao tiếp, mang lại (và nâng cao) cảm hứng cho nhiều nghệ nhân như một chất ma tuý (chưa đủ đô thì chưa sáng tác được). Trong chữ “y” (tiếng Hán) có chữ tửu, có lẽ người xưa hiểu tác dụng chữa bệnh của rượu và thể hiện qua chữ tượng hình. Rượu vị cay, tính nóng, dùng ít sẽ giúp sức lực cường tráng; rượu còn giúp hành huyết, khai uất, trừ phong. Nhờ sức dẫn thuốc của rượu, người ta ngâm hoặc tẩm thuốc bằng rượu để nâng hiệu lực dược liệu lên các bộ phận nửa trên thân của bệnh nhân. Bản thân rượu là thuốc, một chút rượu đối với sức khoẻ là rất tốt - giúp tán thấp khí, trừ phong, khai vị trợ tiêu hoá, ấm ruột và dạ dày, ngừa phong hàn, hết nhức mỏi; xưa dùng rượu để gây mê khi phẩu thuật. Kinh thánh (sách Timôthê I, đoạn 5, câu 23) cũng dạy: “Phải uống một ít rượu để bổ cho tì vị”; người Việt cũng có kinh nghiệm “Chén rượu đánh lừa cơn mỏi cơn đau” (“Đất nước” - Thơ của Nguyễn Khoa Điềm). Theo danh y Lý Thời Trân: “Uống ít rượu sẽ điều hoà máu huyết, khí dễ thông, thần tráng kiện, phòng cảm lạnh, gây hưng phấn”. Bởi thế:

Nửa đêm ba chung rượu

Sáng sớm vài chén trà

Ngày nào cũng như vậy

Thầy thuốc không vào nhà.

Gắn với mục đích và phương tiện mới, rượu sẽ có tác dụng mới; vì vậy, có loại rượu được chế thành thuốc độc (ngâm với gan công, dùng khi xử ai tội chết - như vụ Dương Quý Phi).

Thủ phạm gây say trong rượu là cồn (êtylic), độ cồn là  lượng cồn nguyên chất trong 100 ml rượu - được đo bằng cái ống đo rượu - tửu tinh kế (alcoolomètre) theo quy tắc đo rượu (alcoolomètrie). Tiêu chuẩn tính hàm lượng rượu tinh của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (1983) là tính theo % thể tích rượu tinh chất có trong rượu (nước được tính là 00 và rượu tinh là 1000). Cách ghi “độ cồn” theo tỷ trọng kế Gay Lussac (GL) đã đổi mới - trước đây ghi 350 thì nay ghi 35% Vol; dù vậy, hiện vẫn còn một số loại rượu ghi theo độ proof - tiêu chuẩn đo tinh chất rượu của Mỹ. Vì thế, để đổi độ rượu proof qua % Vol thì “2 proof” tương đuơng “1% Vol” - nhãn chai Vodka Smirnoff ghi “80 proof” tức 40% Vol; cánh ta gọi “40 độ”).

Chữ “alcoolique” (Pháp) vừa mang nghĩa “có chất rượu” vừa được hiểu là “người nghiện rượu” - nhưng “alcoolisme” lại là “bệnh tửu độc”. Công dân Cali (Mỹ) dưới 21 tuổi chưa được uống loại nước chứa quá 0,5% cồn. Người ta thường say khi cồn trong máu từ 0,1 % đến 0,5 % - lượng thừa sẽ núp dưới dạng aldehyde. Phía hoá học coi “rượu” là tên chung của hợp chất dẫn xuất từ carbua hydro - ở đây, nguyên tử hydrô thay thế bằng nhóm hydroxin OH. Hiện nay, vụ thiết bị đo độ cồn của cánh lái xe cũng lắm chuyện bi hài.

“Cồn” (alcool: rượu) là một từ gốc Pháp mới nhập Việt - xứ ta vẫn hiểu cồn là loại rượu có nồng độ cao (cỡ 900), dùng để đốt, sát trùng hoặc pha thuốc dùng ngoài da (từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, 1995) - có cồn thực phẩm, cồn công nghiệp. Nhiều anh vẫn gọi “cồn nhẹ”, “cồn nặng” thay cho rượu nhẹ, rượu mạnh (brandy, whisky, vodka, gin, rhum, tequila,...). Nào ! Xin mời !.

Brandy là rượu mạnh cất từ trái cây (spirit) - chỉ có nho thì gọi brandy, kèm nước ép của loại quả nào thì ghép thêm tên quả ấy - như kèm nước táo thì gọi là “apple brandy,...”. Brandy loại xịn sản xuất tại Cognac và Armagnac - Tây Nam nước Pháp. Vùng Cognac có 6 khu trồng nho là Borderies, Fins Bois, Bons Bois, Bois Ordinaires, và 2 khu nổi tiếng khắp thế giới là Grande Champage và Petite Champagne. Theo Luật (của)  Pháp, muốn mang tên Cognac thì rượu đó phải được sản xuất tại Cognac; sản xuất ở nơi khác (trên nước Pháp) thì chỉ được ghi trên nhãn là brandy của Pháp (Product of French).  Trên nhãn chai brandy Cognac có những ký hiệu chỉ tuổi, hàm lượng rượu,...Brandy Mỹ (California) có từ  200 năm với hương vị nho đậm. Itali, Đức, Tây Ban Nha,... cũng có sản xuất brandy.

Whisky đầu tiên xuất hiện từ Tây Ban Nha, truyền đến Ailen rồi đến Scotland (Bắc nước Anh); sự truyền rượu này có công lớn của các nhà truyền đạo. Tại Scotland, chất luợng  whisky nâng lên nhờ nguồn nước từ núi đá hoa cương, lọc qua than bùn. Vì nguyên liệu whisky là đại mạch nên giá đắt, nhiều nhà sản xuất dùng ngô thay thế - giá rẻ hơn nhưng phải chưng cất nhiều lần mới tạo hương vị dịu êm. Hiện nay nước sản xuất whiskey nhiều và tiêu thụ lớn nhất vẫn là Mỹ.

Vodka tiếng Nga nghĩa là rượu mạnh, sản xuất ở Nga từ thế kỷ 12 nhưng gốc của rượu vodka lại từ đất Ba Lan (giữa thế kỷ 8, vodka đã xuất hiện ở đây). Nguyên liệu vodka có nhiều loại: ngũ cốc, khoai tây, củ cải đường,...vodka có thể dùng ngay nhưng nếu cho vào thùng gỗ sồi để chừng 10 năm như thì hương vị sẽ bá cháy. Vodka có nhiều hương và màu; vodka (Nga) nổi tiếng có Persovka (dầm loại ớt Cayen có vị cay thơm đặc biệt), Stolichnaya, Moskovskaya, Gorilka, Subroka,...Tại Balan có rươụ Green Vodka mùi thơm nhẹ nhờ ngâm loại cỏ Zubrowka (trong mỗi chai có cọng cỏ Zubrowka), Wyborowa là loại vodka mùi ớt thơm.

Rượu Gin do Layden, một dược sỹ người Hà Lan sáng chế vào thế kỷ 17, ông đã kết hợp cồn với quả mọng (juniperberry) - nguyên liệu của rượu Gin là đại mạch, mạch đen, gạo, ngô và các loại cây thuốc. Món rượu gin rất thơm, uống vào gây lợi tiểu, có tác dụng giảm đau.

Rượu Rhum được làm từ mía; các loại Rhum khác nhau do tính chất men, cách chưng cất và các loại phụ gia. Dù làm từ mía nhưng Rhum trên 6 tuổi (vieux Rhum) là loại rượu dịu, đậm màu có thể so với whisky hạng tốt - dùng pha chế Cocktail. Con đường phát triển của một số loại Rhum cũng khá vòng vèo: Rượu Rhum Java (Batavia, Batavia Arrack) sau khi hoàn thành tại Java được đưa qua Hà Lan để ủ thêm 6 năm trước khi pha trộn. Các vị sành Rhum thường kháo nhau về uy tín của Cachacha - loại Rhum vị ngọt, hàm lượng rượu cao.

Loại rượu Tequila (bang Jalisco, Mexico) từ nguyên liệu là cây Thùa (họ xương rồng chỉ mọc ở sa mạc Mexico); không loại rượu mạnh nào thay thế Tequila trong các loại Cocktail nổi tiếng (Tequila Sunrise, Margarita,...). Cũng với mục đích bảo đảm uy tín Tequila trên thương trường, chính phủ Mexico quy định chỉ khi sản phẩm sản xuất tại Tequila mới được in trên nhãn chai chữ Tequila - nếu sản xuất tại nơi khác (trên đất nước Mexico) cũng chỉ được ghi là "Sản phẩm của Mexico”.

Liqueur là tên gọi chung cho tất cả các loại rượu mùi - phần lớn làm từ cồn thực phẩm (có loại rượu mùi dùng rượu mạnh ngâm cây, cỏ, quả, vỏ cây, rễ cây..., thêm đường hoặc mật ong); thông thường Liqueur có tối thiểu 100gr đường/1 lít, món này để pha chế  Cocktail, uống khai vị.

Rượu Vermouth vốn là rượu nho, thêm hương liệu, rượu mạnh. Wermut tiếng Đức có nghĩa là loại hương thảo mà từ những năm đầu Công nguyên người ta đã pha vào rượu nho để trị bệnh. Tại Pháp,  Italia có loại vermouth nổi tiếng, nhất là loại vermouth sản xuất ở hai bên sườn núi Alpes (giữa Pháp và Italia), ở đây có nhiều dược liệu quý hiếm.

Ngoài ra, có loại rượu chui gọi “rượu trạm xá” (bệnh nhân tạm trú dài ngày tại trạm xá thường nhớ rượu và sẵn lòng dùng cồn sát trùng hoà với nước lạnh để đưa cay - khi thầy thuốc bắt gặp thì họ thế sống thế chết là đang thực hiện phong trào “giết giun sán”). Chuyện lính thời thế chiến thứ II có đoạn kể về những chiến binh giỏi thường gạ gẫm các trạm quân y xuất cho mươi gam cồn để...giết giun; khi vụ việc bị cấp trên phát hiện và các bác sĩ bị mời lên phòng chỉ huy thì cánh thầy thuốc giải thích hùng hồn rằng lính ta vừa đánh giỏi vừa biết tiết kiệm xương máu, chả nhẽ ta lại nỡ keo kiệt với các chú ấy cái món cồn, nào là số cồn hao hụt gấp 2 nhưng số địch bị diệt lại tăng lên gấp 8, nào là...nhưng các vị chỉ huy vẫn im lặng một cách đáng sợ. Thấy thế, các thầy thuốc vội nêu quyết tâm “Vâng, lần sau chúng em sẽ không làm thế nữa ạ ! Chúng em sẽ...” thế là các cụ chỉ huy vội gào lên một cách bi phẩn “Ôi!. Vậy còn phần cho tớ đâu !”.

Sau khi “rượu vào”, phản ứng mỗi người cũng có chỗ giống nhau. Thường khi được hỏi “đã say chưa” thì các tiểu Lưu Linh phán “3 say chưa chai”, rằng vừa mới làm “1 xị - khai thông trí hoá”, có 2 xị cũng chỉ “đả phá cơn sầu”, đến 3 xị vẫn chưa “mũi chảy đầy râu”, 4 xị cũng chẳng đến nỗi “đụng đâu...đái đó” và dù 5 xị thì còn lâu mới “cho chó ăn chè” nhé. Thật vậy, vài lượt rượu thường làm cho quý anh thấy mình mạnh mẽ hơn (ưa thể hiện nắm đấm, sính bàn chuyện thể thao), sau đó lại ngộ ra là mình khôn ngoan lắm (thích nói về chuyện quyền lực, chính trị), khi rượu nhiều hơn tý nữa lại cảm nhận mình rất chi là thông thái (bèn nhảy vào trong lĩnh vực khoa học), thêm mấy xị nữa thì sẽ hoá thành người giàu có (hăng hái rút tiền để “bo” cho tiếp viên, tranh nhau bao trọn gói cho anh em trong bàn,...).

Nếu có thứ thuốc lá người này hút người khác hưởng mùi thơm (điếu Bông lài - đầu lọc màu kim nhũ - cho quý bà) thì rượu cũng vậy - có loại “ông uống bà say”; thậm chí, có loại “chưa nhấm đã say” như rượu “hồng đào” xứ Quảng Nam (hình như chưa ai biết gốc tích món “hồng đào”, “diêu bông”,... nhưng người ta vẫn cứ say mê, say mệt chúng). Mức say sưa cũng khá phong phú - tuỳ vào tửu lượng, di truyền, rèn luyện, hoàn cảnh, mục đích, hàm lượng rượu,...nên tửu giới cũng lắm kiểu say:

Say khôn, say dại, say dai, say  cuồng, say điên, say máu, say khướt, say nồng, say mèm, say mềm, say tái, say tím, say nhè, say nhẹt, say nớt, say tớt, say bệt, say liệt, say bẹp, say lịm, say trơ, say nổ (càng say nói phét càng bốc),  say như chớp, say húp híp, say đừ điếc, say tủm tỉm, say im ỉm, say nức nở, say hu hu, say mát mẻ (đến say là...cởi truồng - như Lưu Linh trước), say toang toác, say lạng quạng, say tháy máy (tiếp viên rất ngại loại say này vì tay các vị rất chi là quờ quạng), say liêu xiêu, say líu ríu, say liu riu, say hừng hực, say chạy đạn (trốn tránh nhiệm vụ góp tiền nhậu với bạn - say giả chết), say từ thiện (ưa rút tiền ra làm từ thiện), say nổ đom đóm, say tan xác pháo, say như điếu đổ, say im như thóc, say khóc như ma, say la như quái, say tửng từng tưng, say đo mặt đường, say thương toa lét (ôm cái hố xí, hôn nó mấy quả và ngủ với nó), say vỡ túi mật, say dập bánh chè, say làm ly đi em (ông say nọ bị vợ đến tận quán để dẫn độ về nhà bèn vớt vát “làm ly đi em”), say mô phập (“phập” là tiếng lưỡi đao bập xuống cái đùi con gà trống thiến - dành riêng cho thầy, “say mô ” nghĩa là “có say đâu mà” - tiếng Huế thương), say a men (tại quầy bar, một vị tín đồ không uống rượu đang nói chuyện với bạn; lúc ấy, đấng chăn dắt linh hồn đi qua và hỏi: “Sao, con định làm ly à ?”. Anh ta kính cẩn đáp: “Thưa không ! A men !” - “a men” có nghĩa là “thật vậy, quả thật như thế,...”).

Cuối thế kỷ XX, cạnh chùa Vĩnh Trung, đường Văn Cao - Đà Nẵng có bà cụ bán bánh lọc, mỗi chiều cụ ra quán làm ly rượu nhỏ cho đỡ mõi; trên đường về, ai hỏi đi đâu thì cụ đáp gọn “làm ly”, lâu ngày người ta không còn gọi tên cụ mà gọi là “bà làm ly”. Về sau, có anh bảo không nên gọi thế mà hãy nói lái sẽ hay hơn (!?) thế là tên “bà làm ly” được thay bằng “bà lỳ lam”. Lành tính, bánh ngon, rẻ nên ai cũng mến bà lỳ lam; đặc biệt, bánh lọc của bà từng được không ít dân nhậu chọn làm mồi, theo họ, món nhân bánh bằng “tôm, thịt” kho rim theo cách “lỳ lam” rất là bén rượu; nay bà “bà lỳ lam” đã “lên nóc tủ” nhưng chiều chiều con cháu vẫn hăng hái thực hiện truyền thống “làm ly” của cụ.

Các nhóm chất độc trong rượu là aldehyd, butanol, metanol, phenol, histamin... gây hại cho gan, thận, não, tụy, mắt; ngay khi uống, các độc chất trong rượu tấn công vào sinh điểm fluren ở não làm khó giữ thăng bằng, dễ té và còn mất một số cảm giác (như không thấy lạnh - trạng thái “ấm giả”, giảm đau - dễ bị thương mà không biết,...). Sau khi rượu vào, mạch ngoại vi giãn nở và sẽ co lại đột ngột nếu gặp lạnh - dễ vỡ mạch, gây xuất huyết não, rối loạn tuần hoàn, hạ huyết áp, nhồi máu cơ tim,... Với gan, rượu làm cho các chất dự trữ của gan (glycogenaz) sẽ bị huỷ, gan không thải độc được nữa, gan bị nhiễm mỡ, tế bào gan sẽ bị thoái hoá, xơ gan. Rượu gây viêm niêm mạc dạy dày, viêm ruột, rối loạn trao đổi chất (khó hấp thu muối khoáng, vitamin), teo cơ, giảm sức co bóp của tim, xốp xương. Với não, tiểu não bị ngộ độc rượu làm rối loạn hành vi, ngôn ngữ; người say trở nên mất nhân tính - thánh kinh dạy “Đừng say rượu, vì nó sẽ xui cho luông tuồng” - sách Êphêsô 5: 18). Thật vậy, người nghiện sẽ bị teo não, thoái hoá não, giảm trí thông minh. Thai phụ nghiện rượu thì trẻ sơ sinh sẽ chịu tổn thương - rượu trở thành ma tuý với bé (nếu mẹ không uống rượu thì trẻ sẽ ngủ không yên vì thiếu...độ cồn trong sữa mẹ).

Có người uống rượu đền bia. Số là vị này lái xe khi đang xỉn đậm, bố quẹt mấy nhát vào cái bia mới cứng của ngôi mộ “sát mặt tiền”, thế là vì rượu mà phải đền bia; rất may ngài chỉ va vào biển số nhà riêng của người âm - khối anh xỉn đã xông vào người sống để rồi đến nằm chung với người chết đấy thôi. Có người nhờ rượu mà thêm tiền (cứ say lên thì “nhìn một đồng thành hai” hoặc nhiều hơn thế - thơ Trần Vàng Sao), thành con Ngọc Hoàng, cậu ông Trời...; thương nhất là khi ông say nhìn vợ lại thấy bác gái...xinh hơn (sợ nhất là khi ngài nhìn cô nào cũng thành má bầy trẻ)...Cái hại của rượu ai cũng biết nhưng tránh nó quả không dễ; thậm chí rượu vẫn được coi là phương tiện...phấn đấu - là phương tiện thì không tách rời ...lao động (!?). Có sếp tâm (lý) sự trên giường bệnh với vợ con “Mươi năm nay tao say, nhiều lần say tới bến, nay  dạ dày hơi bị thủng và gan (ừ thì) có xơ !. Nhưng không say như thế thì làm sao tao được điều trị ở cái phòng cá nhân dành cho cán bộ cao cấp thế này !? Phải hy sinh đời tao để củng cố đời sau chứ” và người hùng hồn phán “Cuộc chiến đấu vẫn còn đang tiếp diễn, chúng mày mếu máo làm gì ! Tao nhậu vì lợi vì danh, nhậu vì con vì vợ là xứng đáng lắm; khối đứa nhậu chỉ vì...tiếp viên đã sao ! Nào, mồi nước sẵn cả chưa để tao tiếp bác sĩ ! Sắp tới giờ tao khám (cho) bác sĩ rồi đấy. Hôm qua, bác ấy cho biết kết quả xét nghiệm lượng rượu trong xác tao cũng còn chút máu ở mặt cơ mà. Còn có máu mặt con ạ ! Hãy đợi đấy!”.

Thật ra, lợi hại ở rượu là do cách dùng, đúng cách thì nọc rắn thành thuốc chữa bệnh, sai thì nhân sâm cũng hoá ra thuốc độc. BP (Baden Powell) thủ lĩnh Hướng đạo thế giới (phong trào phi chính phủ nhận giải về Giáo dục của Unesco năm 1981) nói: “Chính ly rượu thứ 3, nếu không phải là ly thứ 2 đã làm tiêu tan điều kiện luyện tập thân thể”. Minh Mạng thang là thuốc rượu hẳn hoi, nhưng lạm dụng thì hậu quả cũng như dùng “mất mạng thang” - thầy thuốc triều Minh Mạng căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của vua để lập thang thuốc rượu cho vua, không có thể chất và sinh hoạt như vua Minh Mạng mà dùng Minh Mạng thang tưởng cũng nên nghĩ lại. Tốt nhất, muốn dùng rượu thuốc hiệu quả hãy gặp lương y và theo sự tư vấn của họ.

Trước đây, để giã rượu người ta thường dùng các vị thuốc gây lợi tiểu nhưng cách này làm cho aldehyde từ máu nhập vào thận - hại thận; vì vậy, nay nên dùng những cách giã rượu dân gian như uống (nước rau muống; nước rau má; nước đậu xanh không đường; nước 3 vị: 50g dấm + 25g đường cát + 3 lát gừng tươi - đun nóng, uống ấm), ăn (dưa hấu, khoai lang đỏ, trứng muối, đậu phụ).

Tửu sự còn lắm vấn đề; tửu khách có câu: “Không sợ người chưa say, chẳng sợ người chưa nhậu, chỉ sợ người chưa nhậu mà say”; lại nói: “Chẳng dám nói không với rượu là hư, nhưng luôn nói không với rượu là hỏng. (Tất nhiên, luôn nói ừ với rượu thì thật là hỏng bét).

Huế 1973 - Đà Lạt 1997

 

 

_________________________________
 
(*) RƯỢU GÒ CÔNG ÚT OANH
Bán sĩ & lẻ rượu trắng đóng chai.
NGUYÊN CHẤT,KHÔNG CỒN.
"RƯỢU GÒ CÔNG OANH ĐONG CHO UỐNG
AI UỐNG RỒI NHỚ MÃI KHÔNG QUÊN"
... 
102A TRẦN PHÚ P4 Q5 TpHCM
(Tiệm sửa xe Mẫn Tài)
ÚT
http://diendan.edu.net.vn/forums/5/295688/ShowThread.aspx - http://diendan.edu.net.vn/forums/5/295688/ShowThread.aspx

 

 

 

 




Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info