javascript:openppl%28viewpict.asp?hl=Nh%C3%A0%20th%C6%A1%20H%E1%BB%AFu%20Loan%20%28h%C3%ACnh%20ch%E1%BB%A5p%20n%C4%83m%202004%29&fn=http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/94918-Huu-Loan.jpg,0,0,460,480%29">
Nhà thơ Hữu Loan (hình chụp năm 2004)
|
|
Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh Tôi người vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như yêu người em gái. Ngày hợp hôn Nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn Đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...... Nhưng không chết Người trai khói lửa Mà chết Người gái nhỏ hậu phương. Tôi về không gặp nàng Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phúp cuối Không được nghe nhau nói Không được nhìn nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...
Lời tự thuật của HỮU LOAN
Tôi sinh ra trong
một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn
trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà
. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên
trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có
tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi,
tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ
đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốân quan
trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu
trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người
cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình
Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu
Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh
Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ
chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là
Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh
nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở
Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường
ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham
Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi
chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi
mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh
tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ'Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi
mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp
ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi
dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông
lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông
minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một
'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em
đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc
thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc
tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra
giếng giặt ...
Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai
người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em
giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học
hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi.
Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất
nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy
ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng
nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm
dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho
bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa
em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân
đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên
đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi
thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn
ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ? Tôi
nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn
đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh
dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy
chín mọng. -Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.” Như
đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng
lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến
thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em
cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì...
tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối
mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông
bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi
ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn
xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ
xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay
đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi
không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh
thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn
lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng
trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra
tiếp ai bao giờ ....
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống
tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em
không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô
học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái
xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình
không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn
của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'. Một
tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi,
không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương
nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học
giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc
đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh
Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới
rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai
tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành
quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên
đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ
em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi
bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại
chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi
chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin
dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5
âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị
Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của
tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi
đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
Tôi
phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để
tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác
không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra,
nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi
ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai
mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì,
những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh ... ...Tôi về không gặp nàng....
Về
viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết
lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh
bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi
là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà
trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi
đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh
rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới
chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi
viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim Những đồi sim, những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất
nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã
văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích
chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi
ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của
tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi
cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi! Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong
trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm
chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa
thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa
canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay.
Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình
yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình.
Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong
thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một
tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót,
tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản
động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn
họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi
hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để
đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi
muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi
bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi
phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở
phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ
cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh,
không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng
có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người
cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó
tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng
nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình
quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên
Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 ,
khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể
chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh
đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây
giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là
một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm
1954- 1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy
tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ
nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó
tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm
trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng
nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn
,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi
là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải
thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên
sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một
hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội
Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống
đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại
hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ
có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát
động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa,
chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô
ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái
địa chủ làm vợ làm chồng .
Biết chuyện thảm thương của gia đình
ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh
sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào
quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên
ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần
tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom
khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một
củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước
mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm
bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai
cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ
trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết
ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự
quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ
đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa
no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và
cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an
phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi
bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải
sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu
để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà
Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì. Năm 1988, tôi ' tái xuất giang
hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút
gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn
nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do
báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời,
cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu
Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức
bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ
thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi
giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít
để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này
cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng
tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./.
* Hữu Loan. {Trích báo NGƯỜI VIỆT ONLINE)
|