Print Page | Close Window

Rau Đắng Đất- From LanH

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Quê Hương Gò Công
Forum Discription: Những cảm xúc về quê hương Gò Công
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1497
Ngày in: 15/Oct/2025 lúc 4:09pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: Rau Đắng Đất- From LanH
Người gởi: thonglo2003
Chủ đề: Rau Đắng Đất- From LanH
Ngày gởi: 25/Feb/2009 lúc 1:31pm



Trả lời:
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 29/Jan/2010 lúc 12:17am
Rau đắng đất  
   
 
Cây rau đắng (tên khoa học là Polygonum aviculare) còn gọi là cây xương cá, càng tôm, biển súc, đại biển súc, trúc tiết thảo... Ở quê, bước chân ra khỏi nhà là gặp ngay cây rau đắng.
Rau đắng làm mát gan do kích thích tiết mật, thông tiểu, nhuận tràng; dùng trong trường hợp nóng nảy trong người làm lở miệng, viêm nha chu, chảy máu răng; dùng lá rau đắng xông hơi trị ho cảm và viêm phổi; nước rau đắng uống nhiều lần trong ngày trị ngừa sạn thận và sỏi mật...

Rau đắng đất 
Trong họ rau đắng, ăn ngon nhất là rau đắng đất. Rau đắng đất là loại cây thân thảo, nhỏ bằng que tăm, mọc bò dưới đất trong vườn nhà hay bờ ruộng. Lá rau đắng đất giống những chiếc lông chim màu xanh lục, bé bằng móng tay út, mọc từng đôi quanh thân cây.

Rau đắng đất dùng để nấu canh hoặc ăn sống. Rau đắng đất mới ăn thì đắng, ăn quen sẽ thấy ngon ngọt không thể nào quên. Rau đem về nhặt lấy phần ngọn non mướt, rửa sạch để vào rổ cho ráo nước.

Thịt heo nạc băm nhuyễn, tỏi băm nhỏ, hành lá cắt nhỏ. Bắc nồi lên phi mỡ tỏi, hành thơm phức, bỏ thịt băm vô nồi xào sơ cho săn, đổ nước vào nồi, nêm muối, bột ngọt cho vừa miệng.

Đậy nắp lại cho nước sôi lên, hớt bọt. Rau đắng đã rửa sạch để vô tô lớn, đổ nước súp mới nấu rưới lên tô rau cho đều, chỗ nào rau còn lồi lên lấy đũa nhận nhẹ xuống, rắc một chút hạt tiêu xay lên mặt rồi bưng ra ăn nóng.

Người kiêng thịt có thể nấu canh rau đắng đất bằng tép lột bỏ vỏ hay cá lóc: tép để nguyên con, cá thì khứa thành từng khứa chớ không bằm nhuyễn và không xào mỡ tỏi trước. Rau đắng đất còn dùng để ăn sống với mắm kho hoặc cháo cá rất ngon.

Người ly hương ai cũng thấm thía câu hát: “Ai cách xa cội nguồn, ngồi một mình nhớ lũy tre xanh, dạo quanh khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh”  của nhạc sĩ Băc Sơn.

RAU ĐẮNG
Rau đắng còn gọi là biển súc, cây càng tôm, cây xương cá. Tên khoa học Polygonum aviculare L. Thuộc họ Rau răm Polygonaceae.
Cây cỏ nhỏ, mọc bò, thân và cành mọc tỏa tròn gần sát mặt đất, màu đỏ tím, đôi khi mọc cao tới 10-30 cm. Lá nhỏ, mọc so le, có bẹ chìa. Phiến lá dài 1,5-2 cm, rộng 0,4 cm. Hoa nhỏ, màu hồng tím, mọc tụ từ 1 đến 5, thường 3-4 hoa ở kẽ lá. Quả ở cạnh, chứa một hạt đầu đen. Mùa hoa từ tháng 5-6, kéo dài suốt mùa hè.
Theo A. Pételot (1954), cây không thấy mọc ở Việt Nam mà chỉ thấy bán cây khô tại các hiệu thuốc Đông y và nhập của Trung Quốc. Nhưng thực tế đã phát hiện thấy cây mọc ở nhiều tỉnh, thành như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang và ngay cả Hà Nội, tại những nơi ẩm như ruộng bỏ hoang, lòng suối cạn, có người trồng một số ít quanh nhà dùng làm thuốc. Trồng bằng hạt cây non. Thường người ta thu hái toàn cây (cả rễ) vào mùa xuân và mùa hạ. Dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Trong tài liệu cổ, rau đắng (biển súc) có vị đắng, tính bình, không độc; tác dụng lợi tiểu, sát trùng, dùng trong những trường hợp thấp nhiệt, lâm bệnh, ác thương. Trong nhân dân: Rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu buốt, sỏi thận, giải độc, chữa rắn cắn, mụn nhọt, vàng da. Ngày dùng 6-12 g (khô) dưới dạng thuốc sắc. Có thể dùng tươi, sao khô rồi sắc uống. Dùng ngoài giã nát đắp không kể liều lượng.
Đơn thuốc có rau đắng:
Ngày uống 12 g rau đắng phơi hay sấy khô dưới dạng thuốc sắc. Chữa tiểu tiện khó khăn, tiểu buốt, tiểu ra sỏi cạn.
Rau đắng khô 12 g, hoạt thạch 10 g, mộc thông 5 g, xa tiền thảo (cây mã đề) 8 g, nước ba bát, sắc còn một bát. Chia 3 lần uống trong ngày. Chữa viêm bàng quang, viêm đường tiểu tiện, tiểu buốt.
 
Rau đắng,

Tôi bỗng nhớ về giống rau này từ loại nhang xông muỗi.
Thuở nhỏ, bước ra khỏi bậc thềm là gặp ngay rau đắng. Thứ rau lá nhỏ như mảnh trấu, mọc thành bụi lùm lùm ven lối đi, rải rác quanh vườn nhà. Cây rau xương xẩu cả thân, cả lá đều đắng nhân nhẩn. Bọn trẻ chúng tôi thường thách nhau nhai hàng nắm để... thi gan! Tôi nhai rồi phun phì phì. Mẹ mắng: "Mày phá vừa vừa thôi! Rau dại nhưng có ích lắm đấy". Nói xong mẹ nhổ mấy bụi lớn đem phơi, bảo "Để nấu món chè rau đắng, ăn ngon lầm". Nghe nói đến chè là tôi đã thấy thích rồi. Nhưng lần này còn có cả sự tò mò nữa. Chè là món ngọt, sao lại nấu chung với loài rau mang vị đắng, và nấu như thế nào đây?
Dưới cái nắng tháng ba, mấy bụi rau đã khô quắt. Tôi thắc thỏm chờ được thưởng thức món chè rau đắng xem thử ra sao. Thấy mẹ bận bịu quá, tôi lại không dám nhắc. Những đêm ngồi học bài, tôi khổ sở với lũ muỗi quậy như giặc dậy. Mẹ lấy mấy bụi rau khô ra hun muỗi. Một hòn than ủ trong chậu sành, xếp rau đắng lên trên, rau ngủn lửa nhả khói um nhà. Tôi muốn ngợp nhưng quả thật, lũ muỗi cũng đỡ hành hạ hơn. Chả hiểu chúng chết hay là kéo nhau di tản! Tôi thấy có "cảm tình" với cây rau đắng từ đấy.
Nhưng rau đắng mọc hoang ở vườn nhà, xông muỗi vài đêm là hết. Các chị tôi rủ bạn bè ra soi nhổ về hàng gánh. Phải lội qua mấy lạch sông mới gặp được trảng soi mọc toàn rau đắng. Những bụi rau cao quá đầu gối, mọc nhiều như có bàn tay ai trồng và chăm sóc kỹ lưỡng. Mải mê nhổ sắp đầy mấy quang gánh thì trời bỗng chuyển mưa. Chúng tôi lật đật về gấp mặc dầu trong lòng còn tiếc rẻ. Vậy mà các lạch sông lúc đi nước chỉ tới đầu gối, bây giờ đã ngang lưng! Nước từ thượng nguồn đang đổ về ngầu bọt, phăm phăm, hối hả. Một chị lớn tuổi trong nhóm hét: "Còn tiếc gì nữa, quẳng mấy gánh rau đi". Lũ con nít chúng tôi sợ hết hồn, làm theo răm rắp. May thay, sau đó chúng tôi cũng sang được bờ, nhưng chỉ còn tay không!
Vậy là thêm một lần, tôi chưa được nếm món chè rau đắng. Nói cho đúng ra, tôi chỉ thưởng thức vào những dịp khác. Và trong những dòng này, món chè rau đắng ấy xin được gác lại cho dịp sau, nếu có thể! Cho tới giờ, rau đắng vẫn chưa phải là hàng hoá, nghĩa là không đáng đồng tiền bát gạo gì. Vậy mà sao mỗi lần nhớ lại chuyến đi soi, tôi vẫn thấy tiếc ngẩn ngơ những gánh rau ngày ấy. (Không hiểu SOI là nghĩa gì, chắc là người Nớ)

Rau đắng - hồn quê


Lâu lắm rồi tôi không có dịp theo nội về khu đất giồng thăm lại  mồ mả ông bà trong ngày Tết đến. Tôi nhớ nhất vào mùa này, trên những rẫy dưa, khổ qua… rau đắng mọc đầy dưới mặt liếp, xanh mơn mởn, đọng đầy những giọt sương mùa đông. Những năm còn nhỏ, hay lí lắc, tôi thường trốn nội và các bác không chịu phụ dọn cỏ mồ mả mà lẻn vào mấy liếp dừa gần đó nhổ… rau đắng. Tôi mải mê đến nỗi lờ luôn tiếng gọi tìm kiếm của họ, đến khi bị phát hiện thường thì ít nhất cũng bị mắng cho vài câu. Nhưng bù lại, tôi có đầy một giỏ đệm rau đắng thơm tho đến nao lòng.


Không biết từ khi nào tôi thèm ăn rau đắùng đến như vậy, nhưng trrong từng câu hát của bà, tôi nghiệm ra một điều, nó là linh hồn của một miền quê yên ả, nơi chôn nhau cắt rốn mà bất cứ người con xa quê nào cũng đều mang theo một nỗi nhớ da diết:


 

“À ơi… Canh rau đắng, cá rô đồng

Nồi cơm mẹ nấu thơm nồng ban trưa…”

Đa số những đứa trẻ, khi nghe nhắc đến nồi canh rau đắng là nó cứ lắc đầu nguầy nguậy, không thèm ăn, vì… đắng quá. Đối với tôi, nồi canh rau đắng ngọt vô cùng, bởi tôi rất thấm thía nỗi gian truân, vất vả của nội tôi, ba mẹ tôi ngày trước… Thuở ấy, khi mới vào vùng Đồng Tháp Mười khai hoang, lập nghiệp, trên vùng đất phèn đặc này kiếm một cọng rau đã khó, nói chi đến chuyện ăn ngon, ăn sướng. Những ngày lũ rút, trên những liếp mía mới trồng, không biết có phép lạ nào biến hoá mà những nơi ấy ngập tràn rau đắng. Rau đắng nhiều vô số kể, vương đầy các lối đi, xanh mút tầm mắt. Vụ ấy, gia đình tôi cũng như một số người dân khu vực Láng Cát… được mùa. Những năm sau, cứ khi nước lũ rút, khi cái gió Đông se lạnh, người nông dân vào vụ Đông Xuân thì rau đắng lại về. Cái quy luật đó mãi đến ngày nay tôi mới ngộ ra. Cây rau đắng có sức mạnh kì lạ, hễ qua một mùa sinh trưởng mà không có người đến nhổ hoặc phun thuốc cỏ diệt nó đi, khi già cỗi hạt của nó bám chặt vào đất, mùa sau đến hẹn lại lên, nó phát triển hăng hơn.

Từ lâu, rau đắng nấu canh với cá rô đồng là chuyện không có gì phải nhắc lại, bởi nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân quê. Ngày nay, từ nông thôn ra thành thị, trên các tuyến lộ ta bắt  gặp đầy rẫy các quán nhậu đề bảng: Cháo cá rau đắng. Rau đắng không chỉ có trong vụ Đông Xuân như trước đây, bây giờ đến các quán này lúc nào cũng có sẵn (nghe nói họ đặt hàng ở các nhà vườn, nhà rẫy, thậm chí cả việc áp dụng kỹ thuật gieo trồng quanh năm). Khác với rau đắng biển, rau đắng “mọc sau hè” có vị rất đặc trưng, thơm quyến rũ và có vị ngọt hậu. Khi dùng rau non, người ta ăn luôn cả rễ, thậm chí để nguyên bụi mà không tách rời thân nó ra. Nấu canh rau đắng bây giờ cũng khác và rất cầu kỳ, phải có đủ nấm rơm, đậu hủ non và các loại gia vị: hành, tiêu, tỏi phi… với nhiều loại cá: cá bóng kèo, cá lóc, cá rô, cá trê, cá điêu hồng… Ngẫm cũng lạ, người ta chỉ nấu canh rau đắng với cá, chứ không nghe ai nói nấu canh rau đắng với thịt gà, thịt vịt, thịt heo… Canh rau đắng, gọi như vậy cũng chưa chính xác. Bây giờ trên những chiếc bếp ga mi ni, nồi cháo đã nấu nhừ sẵn với các loại gia vị nêm nếm vừa ăn, đem bắc lên bếp riu riu, ăn đến đâu nhúng rau đắng vào đến đó cho vừa chín tới, để giữ được độ giòn và mùi thơm đặc biệt. Ngay cả như nấu cháo với cá bóng kèo, con cá khi đã xóc hết nhớt, cho vào đĩa, bỏ thêm vài cục đá lạnh tạo sự chết giả, khi nào thực khách muốn dùng thì cho cá vào nồi cũng không muộn. Con cá bóng kèo để nguyên ruột, ăn vừa chín tới mới ngon.

 

 Ông bà ta ngày xưa, nấu canh rau đắng với gạo, tấm (hay còn gọi là canh bồi, cháo bồi) thường ăn nguội nên từ khi cho rau đắng vào nồi, đến khi dọn ra thì nó đã chín rụt.

 

Quả là sự khác biệt. Thời gian dẫu có đi qua, cuộc sống đã có nhiều thay đổi, giữ được những cái thực tại đã khó, lưu giữ nét văn hoá truyền thống văn hoá lại càng không phải chuyện một sớm một chiều. Có chăng ở sự cảm nhận của mỗi con người chúng ta, biết gìn giữ và chắt chiu những nét đẹp của văn hoá đời thường. Có to tát lắm không khi tôi gọi rau đắng - ấy là tinh tuý, là hồn quê.

 

Rau đắng biển: Thức ăn ngon và vị thuốc tốt

Hiện nay, cái thú ghiền ăn rau đắng nào đâu phải chỉ có ở những người dân dã thôn quê mà đã lan đến tận các thành phố lớn. Các món ăn với rau đắng được phục vụ tại các quán ăn bình dân cho đến các làng nướng, phố lẩu, thậm chí cả các nhà hàng sang trọng. Vậy vì sao rau đắng lại có sức hấp dẫn trong ẩm thực đến như vậy?

Rau đắng biển trong đời sống
Loài thực vật này có tên khoa học là Bacopa monniera. Nó được sử dụng trong nền Y học cổ truyền Ấn Độ cách đây 3.000 năm. Những dược tính chữa bệnh hết sức kỳ diệu của loài thực vật này đã khiến người dân cổ xưa Ấn Độ dành cho nó một thái độ tôn kính. Những người Hindu giáo (Bà La Môn) còn gọi cây này là Brahmi, vốn là một từ có nguồn gốc từ “Brahma”. Nếu những ai có biết về Hindu giáo, tôn giáo hết sức thịnh hành ở Ấn Độ, thì rất dễ dàng biết rằng Brahma là đấng sáng tạo, đó là một trong những ngôi trong tam vị nhất thể bên cạnh hai ngôi còn lại là Vishnu (Đấng bảo tồn) và Shiva (Đấng hủy diệt).
 
Rau đắng biển
Theo các tài liệu y học cổ của Ấn Độ, loài thực vật này có tác dụng giúp gia tăng khả năng ghi nhớ, giảm sự mệt mỏi về tinh thần, giúp con người tỉnh táo hơn, chữa bệnh động kinh, chữa một số bệnh về đường ruột... Theo các nhà nghiên cứu, người Ấn Độ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của não bộ, vì cơ quan này đóng vài trò quan trọng cho các hoạt động sống của con người và chính vì tác dụng diệu kỳ của Bacopa monniera cho não bộ mà nó đã được các tín đồ Hindu tôn thờ và gọi là “Brahmi”.
Thật ra, loài thực vật này cũng hết sức quen thuộc đối với người dân Việt Nam, đặc biệt là những người dân sống ở đồng bằng Nam bộ, vùng đất phì nhiêu, chằng chịt kênh rạch. Bacopa monniera chính là rau đắng biển. Có thể nói nếu xét về mặt văn hóa dân tộc thì rau đắng xứng đáng góp phần quan trọng trong sự hình thành nền văn hóa ẩm thực đặc sắc Nam bộ. Vùng đất này dập dìu tôm cá, rau quả sẵn có rất nhiều đã tạo nên nền ẩm thực dân dã đầy những tiếng cười hào sảng của những con người chân chất giữa khung cảnh thiên nhiên đong đầy những câu hò, điệu lý. Nói về ẩm thực Nam bộ thì không thể nhắc đến rau đắng biển. Loại rau này thật “dễ tính” như con người ở đây, không cần chăm bón vẫn có thể mọc ở những nơi nào có đất như: bờ ruộng, bụi tre, mọc lẫn với cỏ, ở sau hè, góc vườn. Rau đắng ngon nhất khi vừa sau mưa, vì lúc đó cọng rau sẽ mập tròn. Rau đắng có thể nhúng vào các loại lẩu, nấu các loại canh như: canh cá đồng, canh cá lóc hoặc đơn giản nhất là chấm với mắm kho quẹt… Ai đã từng ngồi giữa khung cảnh đồng quê hữu tình,thưởng thức chén lẩu cá với rau đắng biển, thỉnh thoảng nhấp một chút men nồng chắc hẳn sẽ không thể quên được cảm giác thú vị này. Người ta ghiền rau đắng cũng có lí do của nó, vì đa số cảm nhận của mọi người sau khi ăn nó xong là sự căng thẳng thần kinh do áp lực công việc cũng giảm, hôm sau làm việc thấy trí óc tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn, chứng nhiệt trong người gây bứt rứt cũng bớt thấy rõ, một số trường hợp mắc chứng rối loạn tiêu hóa cũng ổn định được phần nào…
Giải mã dược chất trong rau đắng biển
Hiện nay, các nhà khoa học đã làm sáng tỏ phần nào về loài rau này. Rau đắng có chứa hoạt chất saponin gồm bacoside A và bacoside B, có tác dụng gia tăng tuần hoàn não, tăng cường dẫn truyền xung động ở hệ thần kinh, chống oxy hóa tế bào não, giúp cho sự tỉnh táo (alertness) và nhận thức (awareness). Một số người Ấn Độ cổ gọi cây này là Phenavati. Theo tiếng Phạn thì “Phena” có thể tạm hiểu là tính tạo bọt. Quả thật khi rau đắng được nấu với nước, nó sẽ sản sinh ra lượng bọt nhiều mà ngày nay người ta cho rằng khối bọt này chính là saponin trong rau đắng biển được phóng thích ra. Người ta cũng phát hiện alkaloid brahmine trong rau đắng biển, có tác dụng tượng tự như strychnin nhưng ít độc hơn.
Theo các tài liệu Y học cổ truyền, rau đắng có tính mát, vị đắng, có khả năng thanh nhiệt tiêu độc, thường dùng trong các trường hợp kiết lỵ, sưng mắt đỏ, viêm gan, suyễn, trợ thần kinh, trợ tim, động kinh, sử dụng làm thuốc xổ, ho, dùng ngoài trị ghẻ… Các nhà khoa học hiện đại còn phát hiện rau đắng biển có tác dụng giảm đau, kháng viêm, ức chế tế bào ung thư, dùng tốt cho hội chứng ruột kích thích, cho bệnh nhân Alzheimer, những bệnh nhân sau khi bị đột quỵ…
Rõ ràng, rau đắng biển đâu chỉ là một loài cây mang nặng hồn quê và có thể bất chợt một phút giây nào đó trong cuộc sống mưu sinh tất bật lại hướng tâm hồn người ta tìm về “khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh”, mà còn là một dược thảo vô cùng quý giá trong việc chăm sóc cho sức khỏe con người.
 

 
Rau đắng đất  
   
 
Cây rau đắng (tên khoa học là Polygonum aviculare) còn gọi là cây xương cá, càng tôm, biển súc, đại biển súc, trúc tiết thảo... Ở quê, bước chân ra khỏi nhà là gặp ngay cây rau đắng.
Rau đắng làm mát gan do kích thích tiết mật, thông tiểu, nhuận tràng; dùng trong trường hợp nóng nảy trong người làm lở miệng, viêm nha chu, chảy máu răng; dùng lá rau đắng xông hơi trị ho cảm và viêm phổi; nước rau đắng uống nhiều lần trong ngày trị ngừa sạn thận và sỏi mật...

Rau đắng đất 
Trong họ rau đắng, ăn ngon nhất là rau đắng đất. Rau đắng đất là loại cây thân thảo, nhỏ bằng que tăm, mọc bò dưới đất trong vườn nhà hay bờ ruộng. Lá rau đắng đất giống những chiếc lông chim màu xanh lục, bé bằng móng tay út, mọc từng đôi quanh thân cây.

Rau đắng đất dùng để nấu canh hoặc ăn sống. Rau đắng đất mới ăn thì đắng, ăn quen sẽ thấy ngon ngọt không thể nào quên. Rau đem về nhặt lấy phần ngọn non mướt, rửa sạch để vào rổ cho ráo nước.

Thịt heo nạc băm nhuyễn, tỏi băm nhỏ, hành lá cắt nhỏ. Bắc nồi lên phi mỡ tỏi, hành thơm phức, bỏ thịt băm vô nồi xào sơ cho săn, đổ nước vào nồi, nêm muối, bột ngọt cho vừa miệng.

Đậy nắp lại cho nước sôi lên, hớt bọt. Rau đắng đã rửa sạch để vô tô lớn, đổ nước súp mới nấu rưới lên tô rau cho đều, chỗ nào rau còn lồi lên lấy đũa nhận nhẹ xuống, rắc một chút hạt tiêu xay lên mặt rồi bưng ra ăn nóng.

Người kiêng thịt có thể nấu canh rau đắng đất bằng tép lột bỏ vỏ hay cá lóc: tép để nguyên con, cá thì khứa thành từng khứa chớ không bằm nhuyễn và không xào mỡ tỏi trước. Rau đắng đất còn dùng để ăn sống với mắm kho hoặc cháo cá rất ngon.

Người ly hương ai cũng thấm thía câu hát: “Ai cách xa cội nguồn, ngồi một mình nhớ lũy tre xanh, dạo quanh khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh”  của nhạc sĩ Băc Sơn.

RAU ĐẮNG
Rau đắng còn gọi là biển súc, cây càng tôm, cây xương cá. Tên khoa học Polygonum aviculare L. Thuộc họ Rau răm Polygonaceae.
Cây cỏ nhỏ, mọc bò, thân và cành mọc tỏa tròn gần sát mặt đất, màu đỏ tím, đôi khi mọc cao tới 10-30 cm. Lá nhỏ, mọc so le, có bẹ chìa. Phiến lá dài 1,5-2 cm, rộng 0,4 cm. Hoa nhỏ, màu hồng tím, mọc tụ từ 1 đến 5, thường 3-4 hoa ở kẽ lá. Quả ở cạnh, chứa một hạt đầu đen. Mùa hoa từ tháng 5-6, kéo dài suốt mùa hè.
Theo A. Pételot (1954), cây không thấy mọc ở Việt Nam mà chỉ thấy bán cây khô tại các hiệu thuốc Đông y và nhập của Trung Quốc. Nhưng thực tế đã phát hiện thấy cây mọc ở nhiều tỉnh, thành như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang và ngay cả Hà Nội, tại những nơi ẩm như ruộng bỏ hoang, lòng suối cạn, có người trồng một số ít quanh nhà dùng làm thuốc. Trồng bằng hạt cây non. Thường người ta thu hái toàn cây (cả rễ) vào mùa xuân và mùa hạ. Dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Trong tài liệu cổ, rau đắng (biển súc) có vị đắng, tính bình, không độc; tác dụng lợi tiểu, sát trùng, dùng trong những trường hợp thấp nhiệt, lâm bệnh, ác thương. Trong nhân dân: Rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu buốt, sỏi thận, giải độc, chữa rắn cắn, mụn nhọt, vàng da. Ngày dùng 6-12 g (khô) dưới dạng thuốc sắc. Có thể dùng tươi, sao khô rồi sắc uống. Dùng ngoài giã nát đắp không kể liều lượng.
Đơn thuốc có rau đắng:
Ngày uống 12 g rau đắng phơi hay sấy khô dưới dạng thuốc sắc. Chữa tiểu tiện khó khăn, tiểu buốt, tiểu ra sỏi cạn.
Rau đắng khô 12 g, hoạt thạch 10 g, mộc thông 5 g, xa tiền thảo (cây mã đề) 8 g, nước ba bát, sắc còn một bát. Chia 3 lần uống trong ngày. Chữa viêm bàng quang, viêm đường tiểu tiện, tiểu buốt.
 
Rau đắng,

Tôi bỗng nhớ về giống rau này từ loại nhang xông muỗi.
Thuở nhỏ, bước ra khỏi bậc thềm là gặp ngay rau đắng. Thứ rau lá nhỏ như mảnh trấu, mọc thành bụi lùm lùm ven lối đi, rải rác quanh vườn nhà. Cây rau xương xẩu cả thân, cả lá đều đắng nhân nhẩn. Bọn trẻ chúng tôi thường thách nhau nhai hàng nắm để... thi gan! Tôi nhai rồi phun phì phì. Mẹ mắng: "Mày phá vừa vừa thôi! Rau dại nhưng có ích lắm đấy". Nói xong mẹ nhổ mấy bụi lớn đem phơi, bảo "Để nấu món chè rau đắng, ăn ngon lầm". Nghe nói đến chè là tôi đã thấy thích rồi. Nhưng lần này còn có cả sự tò mò nữa. Chè là món ngọt, sao lại nấu chung với loài rau mang vị đắng, và nấu như thế nào đây?
Dưới cái nắng tháng ba, mấy bụi rau đã khô quắt. Tôi thắc thỏm chờ được thưởng thức món chè rau đắng xem thử ra sao. Thấy mẹ bận bịu quá, tôi lại không dám nhắc. Những đêm ngồi học bài, tôi khổ sở với lũ muỗi quậy như giặc dậy. Mẹ lấy mấy bụi rau khô ra hun muỗi. Một hòn than ủ trong chậu sành, xếp rau đắng lên trên, rau ngủn lửa nhả khói um nhà. Tôi muốn ngợp nhưng quả thật, lũ muỗi cũng đỡ hành hạ hơn. Chả hiểu chúng chết hay là kéo nhau di tản! Tôi thấy có "cảm tình" với cây rau đắng từ đấy.
Nhưng rau đắng mọc hoang ở vườn nhà, xông muỗi vài đêm là hết. Các chị tôi rủ bạn bè ra soi nhổ về hàng gánh. Phải lội qua mấy lạch sông mới gặp được trảng soi mọc toàn rau đắng. Những bụi rau cao quá đầu gối, mọc nhiều như có bàn tay ai trồng và chăm sóc kỹ lưỡng. Mải mê nhổ sắp đầy mấy quang gánh thì trời bỗng chuyển mưa. Chúng tôi lật đật về gấp mặc dầu trong lòng còn tiếc rẻ. Vậy mà các lạch sông lúc đi nước chỉ tới đầu gối, bây giờ đã ngang lưng! Nước từ thượng nguồn đang đổ về ngầu bọt, phăm phăm, hối hả. Một chị lớn tuổi trong nhóm hét: "Còn tiếc gì nữa, quẳng mấy gánh rau đi". Lũ con nít chúng tôi sợ hết hồn, làm theo răm rắp. May thay, sau đó chúng tôi cũng sang được bờ, nhưng chỉ còn tay không!
Vậy là thêm một lần, tôi chưa được nếm món chè rau đắng. Nói cho đúng ra, tôi chỉ thưởng thức vào những dịp khác. Và trong những dòng này, món chè rau đắng ấy xin được gác lại cho dịp sau, nếu có thể! Cho tới giờ, rau đắng vẫn chưa phải là hàng hoá, nghĩa là không đáng đồng tiền bát gạo gì. Vậy mà sao mỗi lần nhớ lại chuyến đi soi, tôi vẫn thấy tiếc ngẩn ngơ những gánh rau ngày ấy. (Không hiểu SOI là nghĩa gì, chắc là người Nớ)

Rau đắng - hồn quê


Lâu lắm rồi tôi không có dịp theo nội về khu đất giồng thăm lại  mồ mả ông bà trong ngày Tết đến. Tôi nhớ nhất vào mùa này, trên những rẫy dưa, khổ qua… rau đắng mọc đầy dưới mặt liếp, xanh mơn mởn, đọng đầy những giọt sương mùa đông. Những năm còn nhỏ, hay lí lắc, tôi thường trốn nội và các bác không chịu phụ dọn cỏ mồ mả mà lẻn vào mấy liếp dừa gần đó nhổ… rau đắng. Tôi mải mê đến nỗi lờ luôn tiếng gọi tìm kiếm của họ, đến khi bị phát hiện thường thì ít nhất cũng bị mắng cho vài câu. Nhưng bù lại, tôi có đầy một giỏ đệm rau đắng thơm tho đến nao lòng.


Không biết từ khi nào tôi thèm ăn rau đắùng đến như vậy, nhưng trrong từng câu hát của bà, tôi nghiệm ra một điều, nó là linh hồn của một miền quê yên ả, nơi chôn nhau cắt rốn mà bất cứ người con xa quê nào cũng đều mang theo một nỗi nhớ da diết:


 

“À ơi… Canh rau đắng, cá rô đồng

Nồi cơm mẹ nấu thơm nồng ban trưa…”

Đa số những đứa trẻ, khi nghe nhắc đến nồi canh rau đắng là nó cứ lắc đầu nguầy nguậy, không thèm ăn, vì… đắng quá. Đối với tôi, nồi canh rau đắng ngọt vô cùng, bởi tôi rất thấm thía nỗi gian truân, vất vả của nội tôi, ba mẹ tôi ngày trước… Thuở ấy, khi mới vào vùng Đồng Tháp Mười khai hoang, lập nghiệp, trên vùng đất phèn đặc này kiếm một cọng rau đã khó, nói chi đến chuyện ăn ngon, ăn sướng. Những ngày lũ rút, trên những liếp mía mới trồng, không biết có phép lạ nào biến hoá mà những nơi ấy ngập tràn rau đắng. Rau đắng nhiều vô số kể, vương đầy các lối đi, xanh mút tầm mắt. Vụ ấy, gia đình tôi cũng như một số người dân khu vực Láng Cát… được mùa. Những năm sau, cứ khi nước lũ rút, khi cái gió Đông se lạnh, người nông dân vào vụ Đông Xuân thì rau đắng lại về. Cái quy luật đó mãi đến ngày nay tôi mới ngộ ra. Cây rau đắng có sức mạnh kì lạ, hễ qua một mùa sinh trưởng mà không có người đến nhổ hoặc phun thuốc cỏ diệt nó đi, khi già cỗi hạt của nó bám chặt vào đất, mùa sau đến hẹn lại lên, nó phát triển hăng hơn.

Từ lâu, rau đắng nấu canh với cá rô đồng là chuyện không có gì phải nhắc lại, bởi nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân quê. Ngày nay, từ nông thôn ra thành thị, trên các tuyến lộ ta bắt  gặp đầy rẫy các quán nhậu đề bảng: Cháo cá rau đắng. Rau đắng không chỉ có trong vụ Đông Xuân như trước đây, bây giờ đến các quán này lúc nào cũng có sẵn (nghe nói họ đặt hàng ở các nhà vườn, nhà rẫy, thậm chí cả việc áp dụng kỹ thuật gieo trồng quanh năm). Khác với rau đắng biển, rau đắng “mọc sau hè” có vị rất đặc trưng, thơm quyến rũ và có vị ngọt hậu. Khi dùng rau non, người ta ăn luôn cả rễ, thậm chí để nguyên bụi mà không tách rời thân nó ra. Nấu canh rau đắng bây giờ cũng khác và rất cầu kỳ, phải có đủ nấm rơm, đậu hủ non và các loại gia vị: hành, tiêu, tỏi phi… với nhiều loại cá: cá bóng kèo, cá lóc, cá rô, cá trê, cá điêu hồng… Ngẫm cũng lạ, người ta chỉ nấu canh rau đắng với cá, chứ không nghe ai nói nấu canh rau đắng với thịt gà, thịt vịt, thịt heo… Canh rau đắng, gọi như vậy cũng chưa chính xác. Bây giờ trên những chiếc bếp ga mi ni, nồi cháo đã nấu nhừ sẵn với các loại gia vị nêm nếm vừa ăn, đem bắc lên bếp riu riu, ăn đến đâu nhúng rau đắng vào đến đó cho vừa chín tới, để giữ được độ giòn và mùi thơm đặc biệt. Ngay cả như nấu cháo với cá bóng kèo, con cá khi đã xóc hết nhớt, cho vào đĩa, bỏ thêm vài cục đá lạnh tạo sự chết giả, khi nào thực khách muốn dùng thì cho cá vào nồi cũng không muộn. Con cá bóng kèo để nguyên ruột, ăn vừa chín tới mới ngon.

 

 Ông bà ta ngày xưa, nấu canh rau đắng với gạo, tấm (hay còn gọi là canh bồi, cháo bồi) thường ăn nguội nên từ khi cho rau đắng vào nồi, đến khi dọn ra thì nó đã chín rụt.

 

Quả là sự khác biệt. Thời gian dẫu có đi qua, cuộc sống đã có nhiều thay đổi, giữ được những cái thực tại đã khó, lưu giữ nét văn hoá truyền thống văn hoá lại càng không phải chuyện một sớm một chiều. Có chăng ở sự cảm nhận của mỗi con người chúng ta, biết gìn giữ và chắt chiu những nét đẹp của văn hoá đời thường. Có to tát lắm không khi tôi gọi rau đắng - ấy là tinh tuý, là hồn quê.

 

Rau đắng biển: Thức ăn ngon và vị thuốc tốt

Hiện nay, cái thú ghiền ăn rau đắng nào đâu phải chỉ có ở những người dân dã thôn quê mà đã lan đến tận các thành phố lớn. Các món ăn với rau đắng được phục vụ tại các quán ăn bình dân cho đến các làng nướng, phố lẩu, thậm chí cả các nhà hàng sang trọng. Vậy vì sao rau đắng lại có sức hấp dẫn trong ẩm thực đến như vậy?

Rau đắng biển trong đời sống
Loài thực vật này có tên khoa học là Bacopa monniera. Nó được sử dụng trong nền Y học cổ truyền Ấn Độ cách đây 3.000 năm. Những dược tính chữa bệnh hết sức kỳ diệu của loài thực vật này đã khiến người dân cổ xưa Ấn Độ dành cho nó một thái độ tôn kính. Những người Hindu giáo (Bà La Môn) còn gọi cây này là Brahmi, vốn là một từ có nguồn gốc từ “Brahma”. Nếu những ai có biết về Hindu giáo, tôn giáo hết sức thịnh hành ở Ấn Độ, thì rất dễ dàng biết rằng Brahma là đấng sáng tạo, đó là một trong những ngôi trong tam vị nhất thể bên cạnh hai ngôi còn lại là Vishnu (Đấng bảo tồn) và Shiva (Đấng hủy diệt).
 
Rau đắng biển
Theo các tài liệu y học cổ của Ấn Độ, loài thực vật này có tác dụng giúp gia tăng khả năng ghi nhớ, giảm sự mệt mỏi về tinh thần, giúp con người tỉnh táo hơn, chữa bệnh động kinh, chữa một số bệnh về đường ruột... Theo các nhà nghiên cứu, người Ấn Độ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của não bộ, vì cơ quan này đóng vài trò quan trọng cho các hoạt động sống của con người và chính vì tác dụng diệu kỳ của Bacopa monniera cho não bộ mà nó đã được các tín đồ Hindu tôn thờ và gọi là “Brahmi”.
Thật ra, loài thực vật này cũng hết sức quen thuộc đối với người dân Việt Nam, đặc biệt là những người dân sống ở đồng bằng Nam bộ, vùng đất phì nhiêu, chằng chịt kênh rạch. Bacopa monniera chính là rau đắng biển. Có thể nói nếu xét về mặt văn hóa dân tộc thì rau đắng xứng đáng góp phần quan trọng trong sự hình thành nền văn hóa ẩm thực đặc sắc Nam bộ. Vùng đất này dập dìu tôm cá, rau quả sẵn có rất nhiều đã tạo nên nền ẩm thực dân dã đầy những tiếng cười hào sảng của những con người chân chất giữa khung cảnh thiên nhiên đong đầy những câu hò, điệu lý. Nói về ẩm thực Nam bộ thì không thể nhắc đến rau đắng biển. Loại rau này thật “dễ tính” như con người ở đây, không cần chăm bón vẫn có thể mọc ở những nơi nào có đất như: bờ ruộng, bụi tre, mọc lẫn với cỏ, ở sau hè, góc vườn. Rau đắng ngon nhất khi vừa sau mưa, vì lúc đó cọng rau sẽ mập tròn. Rau đắng có thể nhúng vào các loại lẩu, nấu các loại canh như: canh cá đồng, canh cá lóc hoặc đơn giản nhất là chấm với mắm kho quẹt… Ai đã từng ngồi giữa khung cảnh đồng quê hữu tình,thưởng thức chén lẩu cá với rau đắng biển, thỉnh thoảng nhấp một chút men nồng chắc hẳn sẽ không thể quên được cảm giác thú vị này. Người ta ghiền rau đắng cũng có lí do của nó, vì đa số cảm nhận của mọi người sau khi ăn nó xong là sự căng thẳng thần kinh do áp lực công việc cũng giảm, hôm sau làm việc thấy trí óc tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn, chứng nhiệt trong người gây bứt rứt cũng bớt thấy rõ, một số trường hợp mắc chứng rối loạn tiêu hóa cũng ổn định được phần nào…
Giải mã dược chất trong rau đắng biển
Hiện nay, các nhà khoa học đã làm sáng tỏ phần nào về loài rau này. Rau đắng có chứa hoạt chất saponin gồm bacoside A và bacoside B, có tác dụng gia tăng tuần hoàn não, tăng cường dẫn truyền xung động ở hệ thần kinh, chống oxy hóa tế bào não, giúp cho sự tỉnh táo (alertness) và nhận thức (awareness). Một số người Ấn Độ cổ gọi cây này là Phenavati. Theo tiếng Phạn thì “Phena” có thể tạm hiểu là tính tạo bọt. Quả thật khi rau đắng được nấu với nước, nó sẽ sản sinh ra lượng bọt nhiều mà ngày nay người ta cho rằng khối bọt này chính là saponin trong rau đắng biển được phóng thích ra. Người ta cũng phát hiện alkaloid brahmine trong rau đắng biển, có tác dụng tượng tự như strychnin nhưng ít độc hơn.
Theo các tài liệu Y học cổ truyền, rau đắng có tính mát, vị đắng, có khả năng thanh nhiệt tiêu độc, thường dùng trong các trường hợp kiết lỵ, sưng mắt đỏ, viêm gan, suyễn, trợ thần kinh, trợ tim, động kinh, sử dụng làm thuốc xổ, ho, dùng ngoài trị ghẻ… Các nhà khoa học hiện đại còn phát hiện rau đắng biển có tác dụng giảm đau, kháng viêm, ức chế tế bào ung thư, dùng tốt cho hội chứng ruột kích thích, cho bệnh nhân Alzheimer, những bệnh nhân sau khi bị đột quỵ…
Rõ ràng, rau đắng biển đâu chỉ là một loài cây mang nặng hồn quê và có thể bất chợt một phút giây nào đó trong cuộc sống mưu sinh tất bật lại hướng tâm hồn người ta tìm về “khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh”, mà còn là một dược thảo vô cùng quý giá trong việc chăm sóc cho sức khỏe con người.
 

 

     

CHÁO CÁ LÓC RAU ĐẮNG ĐẤT
 

Nhắc đến ẩm thực miền tây, là nhắc đến những món ăn mang đậm chất “hương đồng gió nội”, dân dã, không cầu kỳ, đôi khi lại rất giản đơn, mộc mạc, như chính con người của vùng sông nước nơi đây. Nếu có dịp, bạn hãy thử một lần đến miền tây, đêm trăng lên, ngồi dưới mái tranh giữa cánh đồng đượm mùi rơm rạ, vừa thổi vừa húp xì xụp tô cháo cá lóc rau đắng đất còn nghi ngút khói, thả hồn theo tiếng râm ran của côn trùng gọi bạn… Tôi cá rằng khi ấy, không dưng bạn sẽ chợt thèm… ngâm mấy điệu Hoài lang…




Tôi sinh ra ở Cà Mau, một tỉnh miền tây cho đến nay vẫn được liệt vào hàng “xa xôi hẻo lánh”. Nhà nội tôi ở vùng quê, quanh năm bốn bề nước nổi, giữa nhà này đến nhà kia được đo bằng những cánh đồng hai mùa mưa nắng, mùa nắng nếu “siêng” có thể đi bộ vượt đồng mà đến thăm nhau, mùa mưa thì thong dong trên những chiếc xuồng ba lá, vừa nhẹ tay chèo vừa ngắm hoa súng đua nhau khoe sắc khắp triền sông.

Thưở tôi còn bé, cứ sau mùa gặt, tôi thường được mấy cô/chú rước về nhà nội chơi. Về đến nơi, tôi và chú út sẽ được giao cho một cái rổ tre, nắm tay nhau tung tăng ra đồng nhổ rau đắng đất. Ở nhà, bà nội sẽ “mần” vài con cá lóc đồng thiệt bự, nấu một nồi cháo thiệt to, đợi “rau về” là bắt đầu… khai tiệc.

Tôi không được kể là dân miền tây bắt đầu ăn rau đắng đất tự khi nào. Tôi chỉ phát hiện một điều thú vị là rau đắng đất dường như chỉ dùng ăn với món cháo cá lóc là ngon nhất mà thôi. Hàng năm, cứ sau mùa thu hoạch lúa, hầu như nhà nào ở vùng nông thôn quê tôi cũng thường xuyên nấu món cháo cá lóc rau đắng đất. Đó như thói quen dân dã, với một món ăn dân dã, của những con người cũng dân dã nốt. Vô hình chung, những món ăn đơn giản đặc trưng như thế này còn là cả một niềm tự hào xứ sở không thể nào định nghĩa. Cũng giống như con nhà nông gót chân phải bám mùi phèn vậy.

Rau đắng đất không mọc trong vườn, cũng không thể trồng, chúng chỉ tự nhiên mọc lên ở những cánh đồng sau mùa thu họach (Thường từ tháng 12 đến tháng 3). Khi nhổ rau lên khỏi mặt đất, dù là ngâm trong nước, rau cũng sẽ héo nhanh sau đó, chỉ tươi độ vài tiếng đồng hồ. Thế là ngẫu nhiên, rau đắng đất như một món quà quê đỏng đảnh của thiên nhiên. Có lẽ cũng vì thế mà rau đắng đất chỉ thích hợp khi được chế biến chung với các loại cá đồng.

Rau đắng đất có bản chất đúng với cái tên của nó – ăn vào rất đắng, nhưng tính lại rất mát. Đôi khi những người già như ông nội tôi muốn “mát trong người” cũng thử đem rau đắng đất chấm nước cá kho, nhưng được vài đũa cũng đành… bỏ cuộc. Thế mà, kỳ diệu một điều, khi kết hợp với món cháo cá lóc, rau đắng không những không đắng mà còn có hậu ngọt rất đặc trưng. Vị của rau, của cá, của gạo hòa quyện vào nhau, rất thanh, rất dịu, và rất đặc biệt.

Tùy theo sở thích của mỗi người mà món Cháo cá lóc được nấu đơn giản hay công phu một chút. Nếu đơn giản, chỉ cần vo gạo xong, đổ nước vào, đun sôi. Cá lóc làm sạch, cắt phần đầu ra, phần thân róc xương, lấy thịt thái phi lê, ướp gia vị vừa ăn. Khi gạo bắt đầu nở, bỏ đầu và xương cá vào cho ngọt nước, nêm nếm gia vị là dùng được. Nếu thích công phu hơn, gạo vo xong để ráo nước, sao vàng rồi mới đổ nước vào đun sôi, lúc cháo chín, phi mỡ hành thật giòn rưới lên mặt cháo, nhìn rất bắt mắt.

Các bước chuẩn bị đều hoàn tất. Cá lóc phi lê đã thấm gia vị được cho vào tô với một ít hành lá xắt nhuyễn, cháo nóng hổi múc lưng tô, rắc một ít tiêu, sau đó cho rau đắng đã rửa sạch lên, vừa trộn đều là dùng ngay, như vậy mới giữ được chất của rau. Cháo nóng hổi vừa thổi vừa ăn, vị tiêu cay cay hòa với hơi nóng và vị ngọt của cháo, của cá, của rau, cứ tê tê trên đầu lưỡi tạo nên những tiếng hít hà sảng khoái, những giọt mồ hôi rịn đều khắp mặt, ta có cảm giác như khắp cơ thể mình đều bắt đầu chuyển động những cung bật vui tươi.

Rau đắng đất
 
Cháo cá lóc Sài gòn không ăn với rau đắng đất mà ăn với rau đắng biển. Cháo cá lóc Sài gòn thường được nấu thêm với nấm, khi ăn ngoài rau đắng biển còn có gừng xắt sợi và giá tươi. Có nơi còn kết hợp thêm giò chéo quẩy và tương đậu phụ. Không những thế, nếu ăn cháo ngay trên bếp, gọi là “lẩu cháo cá lóc”, người ta còn cho thêm hột vịt lộn vào nồi cháo. Đó cũng là một nét đặc trưng của ẩm thực Sài gòn. Sài gòn ít có món ăn riêng, một phần do cư dân Sài gòn phần lớn là dân nhập cư khắp mọi miền đất nước. Vì thế về mặt ẩm thực vô cùng phong phú, họ chế biến lại món ăn của các vùng miền để tạo một phong cách khác biệt không kém phần hấp dẫn.
 
Canh rau đắng

 - Quê tôi, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi có một số xã cách khá xa lưu vực sông Trà Khúc về phía tây bắc. Ðất sản xuất nông nghiệp ở đây chủ yếu là đất cát nên mùa nắng thường diễn ra rất khắc nghiệt. Thế nhưng, có điều lạ, là ngay trong cái nắng khắc nghiệt của xứ "chó ăn đá, gà ăn muối" ấy lại sinh ra một loài rau luôn tươi xanh, đó là rau đắng. Ai đã từng nếm thử món canh rau đắng, dù chỉ một lần thôi cũng đủ để nhớ đời ! Dường như thiên nhiên có sự quân bình nào đó chăng?

Thường cứ đến độ tháng 11, tháng chạp năm trước, khi bắt đầu mùa trồng khoai lang, trồng mì, tỉa đậu..., thì rau đắng cũng "vào vụ", và kéo dài cho đến hết mùa hè năm sau. Rau đắng có thân dây, mềm, mọc tỏa gần sát mặt đất. Rễ trắng y hệt mầu củ cải. Lá nhỏ, hẹp, mọc so le. Hoa nhỏ, mầu hồng tím, quả có ba cạnh, chứa một hạt mầu đen. Cũng còn có một loại rau đắng khác được trồng và chăm bón hẳn hoi, có lá hơi dày (như lá rau sam) mà chúng ta thường hay gặp trong món lẩu ở các nhà hàng, quán ăn, nhưng có lẽ không thể có mùi vị đặc trưng như thứ rau đắng hoang dại ở vùng này. (Có 2 loại, rau đắng đất và rau đắng biển, nước
Mỹ, vùng có nhiều người VN, co bản rau đắng biển)

Món canh rau đắng rất dễ làm. Rau nhổ xong (nếu còn non, thì nhổ luôn cả gốc rễ, nếu già chỉ tuốt lấy lá và ngọn), rửa sạch, xắt nhỏ. Muốn ăn ngay, chỉ cần bỏ rau vào tô, cho nước sôi vào với một ít muối hầm, bột ngọt là đã có một món canh ngon lành. Nhưng để thưởng thức được đến tận cùng cái hương vị đậm đà của rau đắng nên thêm một ít tấm mẳn (tấm gạo thật nhỏ) và một ít khoai lang tươi đã xắt lát. Lại cũng có người chỉ thích ăn rau đắng nấu với tấm. Nhưng gì thì gì, canh phải đủ độ loãng giống như "cháo gà thì húp" vậy. Nấu chín các thứ, nêm nếm xong, khi chuẩn bị ăn mới cho rau vào trộn đều, và nên ăn lúc còn hâm hẩm nóng.

Ði làm ngoài đồng thấm cái nắng gay gắt của mùa hè về nhà mà có bát canh rau đắng, thì hầu như mọi mệt nhọc đều tan biến ngay tức khắc. Hoặc lỡ khi bù khú với anh em, bạn bè hơi quá chén một chút, mà có được bát canh rau đắng "chữa cháy" thì quả là tuyệt!

Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư, Tiến sĩ Ðỗ Tất Lợi, thì rau đắng còn có tên gọi là hiển súc (hoặc cây càng tôm, cây xương cá) tính bình, không độc, có tác dụng làm thuốc lợi tiểu, chữa đái buốt, sỏi thận, làm thuốc giải độc, chữa rắn cắn, mụn nhọt, vàng da...

Một chút đăng đắng của rau, một chút ngọt bùi dìu dịu của khoai lang và một chút dẻo dẻo, thơm thơm của gạo tấm, hương vị món canh rau đắng trong mùa hè nắng nóng quả là một đặc sản không chê vào đâu được. Hy vọng rằng, không lâu nữa, thú ẩm thực mộc mạc nhưng hiếm có này sẽ được giới thiệu rộng rãi với du khách gần xa khi ghé thăm quê tôi.

Cháo cá rau đắng
- Nhà sau, chỗ cạnh mấy hồ nước, loài rau nhỏ nhắn, lá bé tí mọc mảnh khảnh trên thân gầy còm. Từ một nhúm nhỏ nằm im thin thít ở bờ ao đã lan thành một thảm dài xanh mướt mắt.
Nhớ hồi nhỏ ông nội bảo rau đó ngọt lắm, có thể ăn sống được. Tôi hí ha hí hửng nhổ ngay một nhúm ăn thử. Chèn ơi! Cái vị đắng ngòm. Ông cười khà khà bảo rau đắng đất sao mà không đắng được! Ghét rau đắng đất thật và thề không bao giờ đụng đến nữa. Ấy vậy mà khi lớn lên, tôi lại nhớ đến cái tên dân dã của loại rau đã làm nên chút vị quê hương không lẫn vào đâu được.
Cháo cá lóc rau đắng biển
Trong nhà, người có công khai phá vị thuần khiết của rau đắng chính là nội tôi. Rau đắng ăn một mình nó tất nhiên phải đắng. Nhưng khi đi kèm với tô cháo cá lóc nóng hổi thì cái vị đắng đáng ghiền lại hợp với vị ngọt lịm của cá, của gạo. Hoặc một nhúm rau đắng tươi xanh chấm với cá rô kho nồi đất cho vào miệng, thêm chén cơm nguội nữa là đủ vỗ về bao tử tôi đói meo sau mỗi trưa đi học về.
Mỗi lần về quê tôi đều nằng nặc đòi ông cho bằng được một nồi cháo cá lóc rau đắng. Thương cháu, ông lại xách cần câu rong ruổi mấy bờ ruộng. Trời không phụ người, thành quả thu về buổi chiều luôn ngoài mong đợi. Trong chiếc giỏ, ba bốn con cá lóc ú nụ, mắt đen láy cứ giãy đành đạch.
Sau thủ tục "tiền trảm" cho cá nằm ngoan ngoãn trong rổ tre, ông chà sạch vẩy, rửa để ráo. Chờ nước sôi thả cá vào, đợi khoảng vài phút vớt ra tách thịt, ướp gốc hành, nêm nếm gia vị vừa ăn rồi lại bắc chảo phi tỏi, xào thịt cá. Gạo đem rang vàng, giã gãy làm đôi lại cho vào nồi nước luộc cá ban đầu, nấu đến khi hạt gạo nở bung ra. Ông tôi còn biết tuyệt chiêu lùi vài củ hành tím vào than, nướng hơi khét để cho vào cháo. Nhờ vậy mà nồi cháo chưa múc ra đã lâng lâng vị thơm, đê mê khứu giác ngay từ trong nhà bếp.
Cháo chín, rắc một ít tiêu, hành lá xắt nhuyễn, ít gừng tươi là phải ăn ngay. Hai ông cháu ngồi trên chiếc giường tre đặt cạnh bờ ao, ngắt thêm vài đọt rau đắng đất xanh mơn mởn cho vào tô mà xuýt xoa, cái vị ngọt tự nhiên của cháo đã quyện vào từng lá nhỏ của rau đắng tạo nên hương vị đặc biệt lạ lùng. Múc một muỗng cháo thơm cho vào miệng húp cái rột, cảm giác tuyệt vời ấy đâu phải ai cũng được nếm qua một lần. Tôi ghiền đến mức ăn liền mấy chén cháo.
Những ngày Sài Gòn mưa rả rích, nằm trong nhà trọ bất chợt thèm cháo cá lóc rau đắng đất. Hôm nọ, tôi đi làm thêm tại một nhà hàng khá sang trọng vô tình thấy một vị khách nước ngoài gọi cháo cá rau đắng. Bất ngờ thật! Ngay chính người Việt không phải ai cũng quen cái vị đắng của loại rau nhà quê. Chắc có lẽ anh ta hiếu kỳ nên muốn biết loại rau đó là gì? Tôi dọn mâm cháo lên bàn.
Tiếc thay ở Sài Gòn hiếm có rau đắng đất mà thay vào là rau đắng lá bự (rau đắng biển) và một đĩa quẩy, gừng... Sau vài lần kiên trì nếm thử cọng rau đắng biển anh ta đã bỏ ngang, chỉ còn húp cháo cá mà thôi. Thật đáng tiếc!  
(có thì nói, không thì thôi nhen, mồ tổ cha đứa bày chuyện, nói láo.)



     

CHÁO CÁ LÓC RAU ĐẮNG ĐẤT
 

Nhắc đến ẩm thực miền tây, là nhắc đến những món ăn mang đậm chất “hương đồng gió nội”, dân dã, không cầu kỳ, đôi khi lại rất giản đơn, mộc mạc, như chính con người của vùng sông nước nơi đây. Nếu có dịp, bạn hãy thử một lần đến miền tây, đêm trăng lên, ngồi dưới mái tranh giữa cánh đồng đượm mùi rơm rạ, vừa thổi vừa húp xì xụp tô cháo cá lóc rau đắng đất còn nghi ngút khói, thả hồn theo tiếng râm ran của côn trùng gọi bạn… Tôi cá rằng khi ấy, không dưng bạn sẽ chợt thèm… ngâm mấy điệu Hoài lang…




Tôi sinh ra ở Cà Mau, một tỉnh miền tây cho đến nay vẫn được liệt vào hàng “xa xôi hẻo lánh”. Nhà nội tôi ở vùng quê, quanh năm bốn bề nước nổi, giữa nhà này đến nhà kia được đo bằng những cánh đồng hai mùa mưa nắng, mùa nắng nếu “siêng” có thể đi bộ vượt đồng mà đến thăm nhau, mùa mưa thì thong dong trên những chiếc xuồng ba lá, vừa nhẹ tay chèo vừa ngắm hoa súng đua nhau khoe sắc khắp triền sông.

Thưở tôi còn bé, cứ sau mùa gặt, tôi thường được mấy cô/chú rước về nhà nội chơi. Về đến nơi, tôi và chú út sẽ được giao cho một cái rổ tre, nắm tay nhau tung tăng ra đồng nhổ rau đắng đất. Ở nhà, bà nội sẽ “mần” vài con cá lóc đồng thiệt bự, nấu một nồi cháo thiệt to, đợi “rau về” là bắt đầu… khai tiệc.

Tôi không được kể là dân miền tây bắt đầu ăn rau đắng đất tự khi nào. Tôi chỉ phát hiện một điều thú vị là rau đắng đất dường như chỉ dùng ăn với món cháo cá lóc là ngon nhất mà thôi. Hàng năm, cứ sau mùa thu hoạch lúa, hầu như nhà nào ở vùng nông thôn quê tôi cũng thường xuyên nấu món cháo cá lóc rau đắng đất. Đó như thói quen dân dã, với một món ăn dân dã, của những con người cũng dân dã nốt. Vô hình chung, những món ăn đơn giản đặc trưng như thế này còn là cả một niềm tự hào xứ sở không thể nào định nghĩa. Cũng giống như con nhà nông gót chân phải bám mùi phèn vậy.

Rau đắng đất không mọc trong vườn, cũng không thể trồng, chúng chỉ tự nhiên mọc lên ở những cánh đồng sau mùa thu họach (Thường từ tháng 12 đến tháng 3). Khi nhổ rau lên khỏi mặt đất, dù là ngâm trong nước, rau cũng sẽ héo nhanh sau đó, chỉ tươi độ vài tiếng đồng hồ. Thế là ngẫu nhiên, rau đắng đất như một món quà quê đỏng đảnh của thiên nhiên. Có lẽ cũng vì thế mà rau đắng đất chỉ thích hợp khi được chế biến chung với các loại cá đồng.

Rau đắng đất có bản chất đúng với cái tên của nó – ăn vào rất đắng, nhưng tính lại rất mát. Đôi khi những người già như ông nội tôi muốn “mát trong người” cũng thử đem rau đắng đất chấm nước cá kho, nhưng được vài đũa cũng đành… bỏ cuộc. Thế mà, kỳ diệu một điều, khi kết hợp với món cháo cá lóc, rau đắng không những không đắng mà còn có hậu ngọt rất đặc trưng. Vị của rau, của cá, của gạo hòa quyện vào nhau, rất thanh, rất dịu, và rất đặc biệt.

Tùy theo sở thích của mỗi người mà món Cháo cá lóc được nấu đơn giản hay công phu một chút. Nếu đơn giản, chỉ cần vo gạo xong, đổ nước vào, đun sôi. Cá lóc làm sạch, cắt phần đầu ra, phần thân róc xương, lấy thịt thái phi lê, ướp gia vị vừa ăn. Khi gạo bắt đầu nở, bỏ đầu và xương cá vào cho ngọt nước, nêm nếm gia vị là dùng được. Nếu thích công phu hơn, gạo vo xong để ráo nước, sao vàng rồi mới đổ nước vào đun sôi, lúc cháo chín, phi mỡ hành thật giòn rưới lên mặt cháo, nhìn rất bắt mắt.

Các bước chuẩn bị đều hoàn tất. Cá lóc phi lê đã thấm gia vị được cho vào tô với một ít hành lá xắt nhuyễn, cháo nóng hổi múc lưng tô, rắc một ít tiêu, sau đó cho rau đắng đã rửa sạch lên, vừa trộn đều là dùng ngay, như vậy mới giữ được chất của rau. Cháo nóng hổi vừa thổi vừa ăn, vị tiêu cay cay hòa với hơi nóng và vị ngọt của cháo, của cá, của rau, cứ tê tê trên đầu lưỡi tạo nên những tiếng hít hà sảng khoái, những giọt mồ hôi rịn đều khắp mặt, ta có cảm giác như khắp cơ thể mình đều bắt đầu chuyển động những cung bật vui tươi.

Rau đắng đất
 
Cháo cá lóc Sài gòn không ăn với rau đắng đất mà ăn với rau đắng biển. Cháo cá lóc Sài gòn thường được nấu thêm với nấm, khi ăn ngoài rau đắng biển còn có gừng xắt sợi và giá tươi. Có nơi còn kết hợp thêm giò chéo quẩy và tương đậu phụ. Không những thế, nếu ăn cháo ngay trên bếp, gọi là “lẩu cháo cá lóc”, người ta còn cho thêm hột vịt lộn vào nồi cháo. Đó cũng là một nét đặc trưng của ẩm thực Sài gòn. Sài gòn ít có món ăn riêng, một phần do cư dân Sài gòn phần lớn là dân nhập cư khắp mọi miền đất nước. Vì thế về mặt ẩm thực vô cùng phong phú, họ chế biến lại món ăn của các vùng miền để tạo một phong cách khác biệt không kém phần hấp dẫn.
 
Canh rau đắng

 - Quê tôi, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi có một số xã cách khá xa lưu vực sông Trà Khúc về phía tây bắc. Ðất sản xuất nông nghiệp ở đây chủ yếu là đất cát nên mùa nắng thường diễn ra rất khắc nghiệt. Thế nhưng, có điều lạ, là ngay trong cái nắng khắc nghiệt của xứ "chó ăn đá, gà ăn muối" ấy lại sinh ra một loài rau luôn tươi xanh, đó là rau đắng. Ai đã từng nếm thử món canh rau đắng, dù chỉ một lần thôi cũng đủ để nhớ đời ! Dường như thiên nhiên có sự quân bình nào đó chăng?

Thường cứ đến độ tháng 11, tháng chạp năm trước, khi bắt đầu mùa trồng khoai lang, trồng mì, tỉa đậu..., thì rau đắng cũng "vào vụ", và kéo dài cho đến hết mùa hè năm sau. Rau đắng có thân dây, mềm, mọc tỏa gần sát mặt đất. Rễ trắng y hệt mầu củ cải. Lá nhỏ, hẹp, mọc so le. Hoa nhỏ, mầu hồng tím, quả có ba cạnh, chứa một hạt mầu đen. Cũng còn có một loại rau đắng khác được trồng và chăm bón hẳn hoi, có lá hơi dày (như lá rau sam) mà chúng ta thường hay gặp trong món lẩu ở các nhà hàng, quán ăn, nhưng có lẽ không thể có mùi vị đặc trưng như thứ rau đắng hoang dại ở vùng này. (Có 2 loại, rau đắng đất và rau đắng biển, nước
Mỹ, vùng có nhiều người VN, co bản rau đắng biển)

Món canh rau đắng rất dễ làm. Rau nhổ xong (nếu còn non, thì nhổ luôn cả gốc rễ, nếu già chỉ tuốt lấy lá và ngọn), rửa sạch, xắt nhỏ. Muốn ăn ngay, chỉ cần bỏ rau vào tô, cho nước sôi vào với một ít muối hầm, bột ngọt là đã có một món canh ngon lành. Nhưng để thưởng thức được đến tận cùng cái hương vị đậm đà của rau đắng nên thêm một ít tấm mẳn (tấm gạo thật nhỏ) và một ít khoai lang tươi đã xắt lát. Lại cũng có người chỉ thích ăn rau đắng nấu với tấm. Nhưng gì thì gì, canh phải đủ độ loãng giống như "cháo gà thì húp" vậy. Nấu chín các thứ, nêm nếm xong, khi chuẩn bị ăn mới cho rau vào trộn đều, và nên ăn lúc còn hâm hẩm nóng.

Ði làm ngoài đồng thấm cái nắng gay gắt của mùa hè về nhà mà có bát canh rau đắng, thì hầu như mọi mệt nhọc đều tan biến ngay tức khắc. Hoặc lỡ khi bù khú với anh em, bạn bè hơi quá chén một chút, mà có được bát canh rau đắng "chữa cháy" thì quả là tuyệt!

Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư, Tiến sĩ Ðỗ Tất Lợi, thì rau đắng còn có tên gọi là hiển súc (hoặc cây càng tôm, cây xương cá) tính bình, không độc, có tác dụng làm thuốc lợi tiểu, chữa đái buốt, sỏi thận, làm thuốc giải độc, chữa rắn cắn, mụn nhọt, vàng da...

Một chút đăng đắng của rau, một chút ngọt bùi dìu dịu của khoai lang và một chút dẻo dẻo, thơm thơm của gạo tấm, hương vị món canh rau đắng trong mùa hè nắng nóng quả là một đặc sản không chê vào đâu được. Hy vọng rằng, không lâu nữa, thú ẩm thực mộc mạc nhưng hiếm có này sẽ được giới thiệu rộng rãi với du khách gần xa khi ghé thăm quê tôi.

Cháo cá rau đắng
- Nhà sau, chỗ cạnh mấy hồ nước, loài rau nhỏ nhắn, lá bé tí mọc mảnh khảnh trên thân gầy còm. Từ một nhúm nhỏ nằm im thin thít ở bờ ao đã lan thành một thảm dài xanh mướt mắt.
Nhớ hồi nhỏ ông nội bảo rau đó ngọt lắm, có thể ăn sống được. Tôi hí ha hí hửng nhổ ngay một nhúm ăn thử. Chèn ơi! Cái vị đắng ngòm. Ông cười khà khà bảo rau đắng đất sao mà không đắng được! Ghét rau đắng đất thật và thề không bao giờ đụng đến nữa. Ấy vậy mà khi lớn lên, tôi lại nhớ đến cái tên dân dã của loại rau đã làm nên chút vị quê hương không lẫn vào đâu được.
Cháo cá lóc rau đắng biển
Trong nhà, người có công khai phá vị thuần khiết của rau đắng chính là nội tôi. Rau đắng ăn một mình nó tất nhiên phải đắng. Nhưng khi đi kèm với tô cháo cá lóc nóng hổi thì cái vị đắng đáng ghiền lại hợp với vị ngọt lịm của cá, của gạo. Hoặc một nhúm rau đắng tươi xanh chấm với cá rô kho nồi đất cho vào miệng, thêm chén cơm nguội nữa là đủ vỗ về bao tử tôi đói meo sau mỗi trưa đi học về.
Mỗi lần về quê tôi đều nằng nặc đòi ông cho bằng được một nồi cháo cá lóc rau đắng. Thương cháu, ông lại xách cần câu rong ruổi mấy bờ ruộng. Trời không phụ người, thành quả thu về buổi chiều luôn ngoài mong đợi. Trong chiếc giỏ, ba bốn con cá lóc ú nụ, mắt đen láy cứ giãy đành đạch.
Sau thủ tục "tiền trảm" cho cá nằm ngoan ngoãn trong rổ tre, ông chà sạch vẩy, rửa để ráo. Chờ nước sôi thả cá vào, đợi khoảng vài phút vớt ra tách thịt, ướp gốc hành, nêm nếm gia vị vừa ăn rồi lại bắc chảo phi tỏi, xào thịt cá. Gạo đem rang vàng, giã gãy làm đôi lại cho vào nồi nước luộc cá ban đầu, nấu đến khi hạt gạo nở bung ra. Ông tôi còn biết tuyệt chiêu lùi vài củ hành tím vào than, nướng hơi khét để cho vào cháo. Nhờ vậy mà nồi cháo chưa múc ra đã lâng lâng vị thơm, đê mê khứu giác ngay từ trong nhà bếp.
Cháo chín, rắc một ít tiêu, hành lá xắt nhuyễn, ít gừng tươi là phải ăn ngay. Hai ông cháu ngồi trên chiếc giường tre đặt cạnh bờ ao, ngắt thêm vài đọt rau đắng đất xanh mơn mởn cho vào tô mà xuýt xoa, cái vị ngọt tự nhiên của cháo đã quyện vào từng lá nhỏ của rau đắng tạo nên hương vị đặc biệt lạ lùng. Múc một muỗng cháo thơm cho vào miệng húp cái rột, cảm giác tuyệt vời ấy đâu phải ai cũng được nếm qua một lần. Tôi ghiền đến mức ăn liền mấy chén cháo.
Những ngày Sài Gòn mưa rả rích, nằm trong nhà trọ bất chợt thèm cháo cá lóc rau đắng đất. Hôm nọ, tôi đi làm thêm tại một nhà hàng khá sang trọng vô tình thấy một vị khách nước ngoài gọi cháo cá rau đắng. Bất ngờ thật! Ngay chính người Việt không phải ai cũng quen cái vị đắng của loại rau nhà quê. Chắc có lẽ anh ta hiếu kỳ nên muốn biết loại rau đó là gì? Tôi dọn mâm cháo lên bàn.
Tiếc thay ở Sài Gòn hiếm có rau đắng đất mà thay vào là rau đắng lá bự (rau đắng biển) và một đĩa quẩy, gừng... Sau vài lần kiên trì nếm thử cọng rau đắng biển anh ta đã bỏ ngang, chỉ còn húp cháo cá mà thôi. Thật đáng tiếc!  
(có thì nói, không thì thôi nhen, mồ tổ cha đứa bày chuyện, nói láo.)





-------------
Lộ Công Mười Lăm



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info