Số 8 may mắn
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1025
Ngày in: 13/Jul/2025 lúc 1:16pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Số 8 may mắn
Người gởi: lo cong
Chủ đề: Số 8 may mắn
Ngày gởi: 08/Aug/2008 lúc 10:52pm
Sáng nay Trung Quốc đã khai mạc thế vận hội vào 8 giờ 8 phút ngày 8 tháng 8 năm 2008.
Theo như người Trung quốc thì số 8 đọc theo tiếng Quảng Đông (Bạt) có nghĩa là Prosperity. Do đó họ cho là số nầy rất tốt. Vì vậy bên Hồng Kong số xe 88888... đuoc mua với một giá rất cao.
Trong gia đình người con thứ 7 mà theo ngươi Nam mình gọi là anh 8 hay chị 8 chắc cũng may mắn lắm đó.
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Trả lời:
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:04pm
Mỗi con người sinh ra mang một yếu tố bẩm sinh nhất định, đó
chính là gen di truyền của dòng họ. Sự tác động của gen di truyền đến tính cách,
hay rộng hơn là vận mệnh còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác bên ngoài môi
trường xã hội và gia đình. Điều này cũng hiểu tương tự khi mỗi con người có một
trường khí, trường khí ấy ngoài những dao động và năng lượng nội tại còn chịu
ảnh hưởng giao thoa, cộng hưởng hay ức chế của những trường khí bên ngoài khác.
Và trong đời sống thì mỗi vật dù tính hay động, dù là sinh vật vô cơ hay hữu cơ,
dù là thực thể trừu tượng hay cụ thể cũng đều mang những yếu tố trường khí độc
lập mà ta không nhìn thấy. Nó có khả năng tác động đến đời sống của mỗi con
người.
Những yếu tố như tên gọi, các con số, quần áo, dày dép,... cũng
đều có tác động ảnh hưởng đến đời sống con người. Nếu biết vận dụng phù hợp để
các trường khí ấy có tác dụng tích cực sẽ cải thiện được trường khí của bản
thân, đem lại điều tốt lành, ngược lại sẽ chịu những bất lợi không mong
muốn. Phối hợp các con số để cải tạo vận Mệnh .
Theo Thuật số Phương
Đông, vạn vật tồn tại và phát triển chi phối bởi quy luật Âm Dương và Ngũ Hành.
Quy luật Âm Dương chúng ta tạm hiểu đó là sự tương hỗ và tồn tại của nguồn năng
lượng hình thành nên thể chất và lý tính của mọi vật. Ngũ Hành là quy luật ức
chế và kích thích sự vật vận động và phát triển. Các con số đứng riêng rẽ hình
thành nên những ý nghĩa khác nhau bao hàm sự tốt xấu, may mắn hay tai hoạ. Khi
kết hợp với nhau nó cũng hình thành một ý nghĩa khác bao hàm sự tốt xấu nhưng
lúc này ý nghĩa của từng con số không còn cứng nhắc mà mang sắc thái bổ trợ ,
tác dụng lẫn nhau hình thành nên tính chất tốt xấu cho cả dãy số. Ví dụ : Số 1
tượng là sao Nhất Bạch thuộc hành Thuỷ, theo Hậu Thiên bát Quái thì tượng của nó
tượng trưng cho quẻ Khảm chủ về công danh nghề nghiệp, tượng trưng cho trí tuệ ,
sự nhất quán, sự phát triển và danh tiếng. Số 8 theo Hậu Thiên bát Quái thì
tượng của nó là sao Bát Bạch thuộc hành Thổ, tượng trưng cho quẻ Cấn chủ về kiến
thức, sự thông minh, tiền bạc và lợi ích do sự ổn định mang lại. Ở vận này thì 2
số này đều vượng khí tức là tốt lành bởi hàm chứa những năng lượng vận động tích
cực. Khi xét riêng rẽ phải căn cứ vào ý nghĩa hậu Thiên của từng con số, đó
chính là chín sao của Huyền Không Đại quái.
Khi kết hợp lại thì có thể là
18 hoặc 81 ta sẽ đi vào phân tích xem hai số trên ý nghĩa thế nào :
- Số
81 : số 8 kết hợp với số 1 đi sau tượng trưng cho sự vận động thuận lý (tiến),
như vậy hàm chứa sự tốt lành. Chia số trên thành hai nửa thì nửa trước là 8 ,
theo đồ hình Tiên Thiên Bát Quái tượng quẻ Khôn; nửa sau là 1 , theo đồ hình
Tiên Thiên Bát Quái tượng quẻ Càn. Khôn ở trên càn ở dưới hai quẻ kết hợp với
nhau thành quẻ kép Địa Thiên Thái chỉ thời vận hanh thông, vạn vật được khai mở
phát triển, phúc lành đang đến. Về Ngũ Hành đó là sự tương sinh bởi Khôn Thổ
sinh cho Càn Kim. Bởi vậy số 81 là số rất tốt lành về mọi mặt. Người phương Đông
luôn tôn thờ số này và trong khoa học hiện đại cũng chỉ ra đó là con số vũ trụ
ứng với nhiều đại lượng đo đếm trong vũ trụ. Số này có 8 là số Âm, 1 là số Dương
như vậy hàm nghĩa Âm Dương cân bằng, bởi vận vật chỉ phải triển khi ở thế Âm
Dương cân bằng, nếu mất cân bằng thì sẽ có xu hướng tiêu cực. Ví dụ, biển xe là
1357 là số toàn Dương nên không thể tốt được.
- Số 18 : Với luận lý tương
tự như trên thì số này Càn 1 ở trên, Khôn 8 ở dưới nên tượng quẻ là Thiên Địa Bỉ
chỉ thời vận đã suy vi, sự thịnh vượng nhường chỗ cho sự khó khăn suy thoái bởi
theo triết lý Đông Phương, mọi vận là vô thường, vận động hết thịnh lại đến suy
luôn luôn thay đổi.
- Trong 1 dãy số thì ngũ hành của dãy luôn được xem
xét là ngũ hành chủ đạo chi phối dãy số đó bởi trong một dãy có thể tồn tại
nhiều loại ngũ hành, chúng khắc chế lẫn nhau. Ngũ hành chủ đạo luôn là số cuối
hoặc nếu có nhiều số cùng tồn tại thì lấy ngũ hành số đó làm chuẩn. Ví dụ 81
thuộc Thuỷ, 18 thuộc Thổ.
Các nguyên lý xem xét cho một dãy số đẹp hay
xấu :
- Phải có nhiều số vượng khí như 1,8,9,0 bới các số này trong vận 8
là sinh khí, tiến khí, vượng khí sẽ đem lại nhiều may mắn tốt lành. - Phải có
sự tương sinh về ngũ hành tránh sự tương khắc, ví dụ 3388 là sự tương khắc vì 3
Bích Mộc khắc 8 Bạch Thổ. - Ngũ hành của dãy số phải tương sinh cho mệnh
người sử dụng. Ví dụ số 0912479988 ngũ hành thuộc Thổ sinh trợ cho người mệnh
Thổ, Kim - Âm dương phải cân bằng nghĩa là phải có cả số Dương, số Âm (chẵn,
lẻ) hoặc lý tưởng nhất là hai loại có số lượng bằng nhau. - Ý nghĩa quẻ kép
Bát Quái kết hợp lại phải tốt lành tránh những quẻ xấu như quẻ Thiên Địa Bĩ -
Các số vận hành nên theo chiều thuận lý, theo quan niệm thông thường ta gọi là
số tiến, tránh số ngược , Ví dụ : 8876.
Trong vũ trụ nói chung và trái đất nói riêng, hai khí Âm Dương vận động
hình thành nên vạn vật hay thế giới vật chất được hình thành nên từ hai khí Âm
và Dương. Người xưa phân chia một cách tương đối thế giới vật chất thành 5 loại
vật chất biểu kiến, gọi là Ngũ Hành bao gồm : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Học
thuyết Ngũ Hành là một trong những học thuyết cơ bản nhất của nền văn hoá thần
bí Trung Hoa. Học thuyết Ngũ Hành được sáng tạo và vận dụng thể hiện một cách
đầy đủ nhất và rõ ràng nhất trong tác phẩm Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn. Một tác
phẩm về Y Học Cổ Đại đã dùng học thuyết Ngũ Hành để vận dụng vào việc chữa bệnh.
Tác phẩm này đã ra đời cách đây khoảng 3000 năm trước công nguyên. Như vậy, có
thể nói học thuyết này được hình thành trước cả sự ra đời của Kinh
Dịch.
Nội dung cơ bản của Học thuyết Ngũ Hành là mối liên hệ biện chứng
duy vật giữa các sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên. Năm loại vật chất này
vận động, chuyển hoá và tác động lẫn nhau hình thành nên thế giới tự nhiên, xã
hội và tư duy. Ngũ Hành vừa có tác động thúc đẩy, vừa có tác động ức chế lẫn
nhau hình thành nên một vũ trụ luôn luôn vận động theo hình xuáy trôn ốc giống
như quan điểm vật chất luôn vận động trong triết học Mác-Lênin. Nó có ứng dụng
rộng rãi trên mọi lĩnh vực khoa học và đời sống.
Đặc tính ngũ hành được
khái quát như sau : + Mộc : Là cây cỏ, gỗ nói chung, có tính chất sinh
sôi, dài thẳng. Khí của Mộc làm cho vạn vật được tươi tốt. + Hoả : Là
lửa, ánh sáng, có tính chất nóng hướng lên trên. Khí của Hoả làm cho vạn vật
sinh trưởng, dồi dào. + Thổ : Là đất đai, có tính chất nuôi lớn, hoá
dục. Khí của Thổ làm cho vạn vật được đầy đủ hình thể. + Kim : Là kim
loại, có tính chất yên tĩnh, thu tàng. Khí của Kim làm cho vạn vật kết quả.
+ Thuỷ : Là nước, có tính chất hàn lạnh hướng xuống. Làm cho vạn vật
tĩnh lặng, bế tàng.
Ngũ Hành tuân theo những quy luận vận động nhất định,
có hai quan hệ giữa các Hành, đó là quan hệ tương sinh và tương khắc, tiêu biểu
cho quá trình thúc đẩy, chuyển hoá và ức chế lẫn nhau của vật chất.
Tương
sinh có nghĩa là cùng bồi bổ, thúc đẩy, trợ giúp cho nhau : Mộc sinh Hoả, Hoả
sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc. Ta có thể hiểu một cách
đơn giản về quy luật Ngũ Hành tương sinh như sau : Cây cỏ khi bị đốt chy sinh ra
lửa, như vậy là Mộc sinh Hoả. Hoả khi bị đốt cháy sẽ biến thành tro, tro lại trở
về thành đất. Như vậy là Hoả sinh Thổ. Đất đai nuôi dưỡng trong mình nó những
quặng kim loại. Như vậy là Thổ sinh Kim. Kim loại khi bị nung chảy thì biến
thành nước phản ảnh quy luật Kim sinh Thuỷ. Thuỷ là nước lại tưới nuôi dưỡng
cây, đó là Thuỷ sinh Mộc.
Tương khắc là chế ngự khống chế lẫn nhau: Mộc
khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hỏa, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc. Ta có thể
hiểu một cách đơn giản về quy luật Ngũ Hành tương khắc như sau : Cây cỏ sống dựa
vào đất, hút hết màu mỡ và tinh tuý của đất để phát triển phản ánh quy luật Mộc
khắc Thổ. Đất dùng để ngăn đê, đắp đập chống lại nước. Như vậy là Thổ khắc Thuỷ.
Nước dùng để dập tắt lửa phản ánh quy luật Thuỷ khắc Hoả. Lửa nấu chảy kim loại
nên Hoả khắc Kim. Kim loại lại chế ra dụng cụ chặt cây cối nên Kim khắc
Mộc.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác mà những người am tường về Âm Dương
Ngũ hành mới quán xét được mà trong phạm vi trang web này chúng tôi chỉ giới
thiệu đại cương để bạn đọc nắm vững cơ bản.Trên đây chỉ là những mô tả rất đơn
giản, thực tế Ngũ Hành tượng trưng cho năm loại vật chất trong vũ trụ, những quy
luật tương sinh tương khắc phản ánh quá trình tương tác của thế giới vật chất.
Mặc dù thế giới vật chất vốn bao la, vô cùng vô tận nhưng người xưa lại có thể
phân chia và phát hiện ra những quy luật chi phối, điều đó quả là kỳ
diệu. Tuấn Kiệt
Tài liệu trên Internet
Hoa Hạ sưu tầm .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:30am
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 8:13am

Anh ngochung ới !! Nhìn cái vòng số 8 của anh HH thấy " ớn " con số 8 quá !! .  .Thôi thì hiểu nó theo nghĩa nầy đi thấy hấp dẫn hơn nè  Theo bảng đồ Hậu Thiên Bát Quái trên, Số 8 tượng trưng cho Cung Khôn
hành thổ, thuộc hướng Tây Nam và mang những ý nghĩa đặc biệt như sau : KHÔN QUÁI:
8 thuộc Thổ, gồm có 8 qủe kép là: Thuần Khôn - Địa
Lôi Phục - Địa Trạch Lâm - Địa Thiên Thái - Lôi Thiên Đại Tráng - Trạch Thiên
Quái - Thủy Thiên Nhu - Thủy Địa Tỷ. Thiên Thời: Mây âm u - Khí mù. Địa
lý: Đồng nội - Làng mạc - Bình địa - Phương Tây Nam. Nhân vật: Bà lão - Mẫu
hậu (mẹ vua) - Nông phu - Người đồng làng - Nhân chứng - Người bụng lớn (cái
bụng to). Nhân sự: Hẹp hòi keo cú - Nhu thuận - Nhu nhược - Nhiều
người. Thân thể: Bụng - Lá lách - Dạ dày - Thịt. Thời tự: Tháng Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi - Năm, tháng, ngày giờ Mùi, Thân - Tháng, ngày 5, 8 10. Động
vật: Con trâu - Bách thú - Con ngựa cái. Tịnh vật: Vật hình vuông - Vật mềm -
Vải lụa - Tơ lụa - Ngũ cốc - Xe - Búa - Đồ sành, đồ gốm. Ốc xá: Hướng Tây Nam
- Thôn dã - Ruộng cày - Nhà thấp bé - Nền đất - Kho tàng. Gia trạch: Yên ổn -
Nhiều âm khí - Mùa Xuân chiêm không yên. Hôn nhân: Hôn nhân có lợi - Nên nhà
người có thuế sản - Người cùng hương thôn - Hoặc người quả phụ - Mùa xuân chiêm
bất lợi. Ẩm thực: Thịt bò, trâu - Vật ở trong đất - Vị ngọt - Món ăn ở nhà
quê - Món ăn ngũ cốc - Khoai lang hoặc măng tre các loại - Vật thuộc bụng, ngũ
tạng. Sinh sản: Dễ sanh - Mùa Xuân chiêm khó đẻ - Có tổn thất - Hoặc không
lợi cho mẹ - Lâm sản nên hướng Tây Nam. Cầu danh: Đắc danh - Nên phương Tây
Nam - Hoặc giáo quan, chức quan giữ điền thổ - Mùa xuân chiêm hư danh. Mưu
vọng: Cầu mưu có lợi - Cầu mưu ở chỗ làng mạc - Im lặng mà cầu mưu - Mùa xuân
chiêm ít được vừa lòng - Mưu nhờ đàn bà. Giao dịch: Giao dịch lợi - Nên giao
dịch về điền thổ - Nên giao dịch về ngũ cốc - Hàng hóa tầm thường có lợi - Đồ
nặng - Vải lụa - Im lặng hóa ra có tài - Mùa Xuân chiêm bất lợi. Cầu lợi: Có
lợi - Lợi về đất đai - Hàng tầm thường, vật nặng có lợi - Im lặng hóa ra có lợi
- Nùa xuân chiêm không tài - Số nhiều thì có lợi. Xuất hành: Nên đi - Nên đi
phương Tây Nam - Nên đi chỗ làng mạc - Nên đi đường bộ - Mùa xuân chiêm không
nên đi. Yết kiến: Gặp Thầy - Lợi gặp người làng - Nên gặp bạn thân - Hoặc đàn
bà - Mùa xuân không nên gặp. Tật bệnh: Bệnh bụng - Bệnh tỳ vị - Ăn uống bế
tắc - Ăn ngũ cốc không tiêu. Quan tụng: Lý thuận - Được cảm tình dân chúng -
Tụng đảng giải tán. Phần mộ: Nên huyệt ở Tây Nam - Nên chỗ đất bằng phẳng -
Gần đồng ruộng - Chôn chỗ thấp - Mùa xuân chôn không tốt. Phương đạo: Tây
Nam. Ngũ sắc: Vàng - Đen. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng cung (ngũ âm) - Họ Tên
có chữ Thổ đứng bên - Hàng 5, 8 10. Số mục: 5, 8, 10 Ngũ vị:
Ngọt.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 9:34am
Tốt xấu của những con số
Vô Chiêu
Lời thầy dạy :
Tuân Tử nói: 'Biết và làm là một', nghĩa là biết mà làm được mới thật là biết.
Học thì phải biết, biết thì phải làm, chớ không phải học để lấy cái
hiểu biết của mình mà đi lừa dối thiên hạ rồi chính bản thân mình lại
không làm những điều mình biết.. Học là nghe, thấy, hiểu, biết đến nơi
đến chốn làm được mới thôi.
Cái học của http://tvvn.org/showwiki.php?title=S%C3%A1ch:ng%C6%B0%E1%BB%9Di+qu%C3%A2n+t%E1%BB%AD - người quân tử
không phải là cái học ở cửa miệng, mà học bằng tâm trí để biến cải cái
tính xấu của mình, khiến cho lời nói hành động phải đi đôi để làm khuôn
phép, chớ không phải để khoe với người và làm những điều phi nhân phi
nghĩa. Học theo kiểu tai nghe, miệng nói, không có ích gì cho thân tâm
thì chỉ là cái học của kẻ tiểu nhân mà thôi!
Người quân tử mở rộng cái tâm thì hợp đạo trời, thu nhỏ lại thì lo sợ
phạm điều nghĩa mà tiết độ... tin mình rồi mới muốn người tin mình,
ngay thẳng rồi mới muốn người ta thân với mình, sửa cái trật của mình
rồi mới muốn người ta cho mình là phải... nên làm thì yên, giữ thì
vững, thành đạt mà trong lòng không gặp cái mình ghét.
Ngược lại kẻ tiểu nhân mà mở rộng cái tâm tánh thì ngạo mạn, còn thu
nhỏ lại thì ngang tàng phóng đãng... làm những điều không thật mà muốn
người ta tin mình, gian trá mà muốn người ta thân mình, làm những điều
bất nhân bất nghĩa mà muốn người đời cho là phải... nên làm thì không
yên, giữ thì khó vững, thành đạt thì gặp nhiều cái đáng ghét.
Con nên học hỏi câu nói sau đây của học giả Lâm Ngữ Đường:
'Răn mình thì nên như khí mùa thu (nghiêm khắc), còn xử thế thì nên như cái khí của mùa xuân (vui vẻ, ôn hòa)'.
Số đứng trước: Số trời, số mệnh, số chẵn, số lẻ, số lượng, số nhân, số
chia, số nhà, số xe, số đỏ... Số thứ tự, số tử vi, số đào hoa, số độc
đắc.
Số đứng sau: Hằng hà sa số, tận cùng bằng số, đức năng thắng số... Mẫu
số, tử số, căn số, phân số, trị số, tổng số, tần số, mã số, ẩn số,
duyên số, cây số, gài số, sang số, bảng số, sai số, đáp số, quân số,
tướng số, vô số, xổ số, mua số. Người ta mong nhất là trúng số nhưng
lại ghét và sợ nhất hai chữ 'tới số' hay 'xấu số' hoặc 'tận số' đến với
mình.
Các vị cao niên thường nói: 'Giày dép còn có số, nói chi đến xe cộ hay con người!'.
Tại Úc, trong khoảng thời gian từ năm 1984 - 2003, người ta thường thấy
nhiều xe mang bảng số lưu hành có các con số 7 như: 667, 767, 777. Bước
qua năm 2004 đến nay, các bảng số 7 đều biến mất, thay vào đó có rất
nhiều xe với các con số 8 như: 88, 838, 868 hay 888 trên bảng số. Nhiều
đến nổi có người vào RTA xin bảng số có nhiều số 8 cũng không còn là
tại sao?
Tại vì các con số 8 là số vượng khí của lưu niên vận 8. Do chỉ điểm của
các nhà Thuật số nên nhiều người đăng bộ lấy các số 8 với niềm tin nhờ
khí vận tốt lành mà cuộc đời họ được bình an và may mắn. Nhưng thật ra
họ nghe không rõ nên đôi khi ứng dụng sai với lý của Thuật số. Để giải
tỏa phần thắc mắc của quý độc giả, Vô Chiêu xin luận bàn về những con
số tốt xấu theo Thuật số để quý vị nghiên cứu.
Trước hết xin được nhắc lại về Hà Đồ và Lạc Thư.
Hà Đồ
Theo truyền thuyết, con Long Mã đội đồ bản xuất hiện trên sông Hoàng
Hà, đồ bản này là do trời ban cho Phục Hi để trị vì thiên hạ. Trong đồ
bản có 55 chấm đen trắng, người ta gọi là Hà Đồ (hình 8).
Hà Đồ có hai vòng trong và ngoài với các con số chỉ bốn phương Đông Tây
Nam Bắc: Đông bên trái, Tây bên phải, Nam ở trên và Bắc bên dưới. Số
dương (thiên) gồm các con số lẻ có chấm tròn trắng như số: 1, 3, 5, 7,
9. Cộng được 25 gọi là số trời. Số âm (địa) là các con số chẵn có chấm
tròn đen: 2, 4, 6, 8, 10. Cộng lại thành 30 gọi là số đất. Do số âm lớn
hơn dương nên từ đó người ta luôn gọi là âm dương chớ không gọi dương
âm.
Các con số chỉ bốn phương: Đông = 3; Tây = 4; Nam = 2, Bắc = 1 và Trung cung = 5.
- Phương Đông: 3 dương + 5 dương = 8 âm (chấm đen).
- Phương Tây: 4 âm + 5 dương = 9 dương (chấm trắng).
- Phương Nam: 2 âm + 5 dương = 7 dương (chấm trắng).
- Phương Bắc: 1 dương + 5 dương = 6 âm (chấm đen).
- Trung ương: 5 dương + 5 dương = 10 âm (chấm đen).
Vì thế nên người ta gọi các số 1, 2, 3, 4, 5 là số sinh và các số 6, 7, 8, 9, 10 là số thành (biến). Tổng cộng là 55.
Người xưa lý luận rằng, ở phương Bắc có nhiều mưa, lạnh lẽo nên thuộc
hành Thủy. Phương Nam nhiều nắng nóng, thuộc hành Hỏa. Phương Đông ấm
áp nên cây cối tươi tốt thuộc hành Mộc. Phương Tây mát mẻ hành Kim.
Trung ương là đất nuôi dưỡng và cũng là nơi nhận lại tất cả nên nó
thuộc hành Thổ. Do đó cặp số 1-6 là biểu thị số sinh và số thành của
Thủy; cặp 2-7: Hỏa; cặp 3-8: Mộc và cặp 5-10: Thổ. Nhìn vào các con số
trên người ta thấy nó hình thành trục tung Nam-Bắc, trục hoành
Đông-Tây.
Lạc Thư
Tương truyền rằng vua Vũ nhân dịp đi du ngoạn trên sông Lạc Thủy (nhánh
của Hoàng Hà) thấy rùa thần nổi lên ban cho kỳ thư trị thủy. Trên mai
cụ rùa có nhiều chấm đen trắng, cho là điềm lành nên vua Vũ gọi kỳ thư
này là Lạc Thư (hình 9).
Lạc Thư gồm những chấm trắng đen cộng lại thành 45 như sau:
Số dương gồm những chấm trắng: 1, 3, 5, 7, 9 cộng thành 25 (giống Hà Đồ).
Số âm gồm chấm đen: 2, 4, 6, 8 cộng thành 20 (kém hơn Hà Đồ 10).
Biểu tượng cho số dương hay âm của Lạc Thư đều như Hà Đồ, nhưng số có
phần khác biệt: Số 5 ở giữa gọi Ngũ trung thuộc hành Thổ; số 3 ở phương
Đông (Mộc); số 7 ở phương Tây (Kim); số 9 ở phương Nam (Hỏa); số 1 ở
phương Bắc (Thủy). Số 2 ở Tây Nam (Thổ); số 4 ở Đông Nam (Mộc); số 6 ở
Tây Bắc (Kim); số 8 ở Đông Bắc (Thổ). Nếu để Lạc Thư chồng lên Hậu
thiên Bát quái chúng ta sẽ thấy có sự tương quan chặt chẽ ở các hướng.
Trên hình của Lạc Thư nhìn từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, rồi
cộng hàng ngang hay hàng dọc hoặc đường chéo đều bằng 15. Hình vuông
này được gọi là ma phương (hình 10). Nó cũng đã được người Tây phương
tìm thấy vào thời Trung cổ và sau này được nhà triết và http://tvvn.org/showwiki.php?title=S%C3%A1ch:to%C3%A1n - toán học Pythagore công nhận là bản thể của vạn vật trong vũ trụ (vũ trụ luận).
Theo Hà Đồ
* Số 1 là Thiếu dương, là số khởi đầu cho việc sinh ra các số âm dương khác: 1 + 2 = 3; 1 + 3 = 4; 1 + 4 = 5; 1 + 6 = 7...
* Số 2 là Thiếu âm, là số sinh ra các số âm khác:
- Âm + âm = Âm. Như: 2 + 2 = 4; 2 + 4 = 6; 4 + 4 = 8...
* Số 3 là Thái dương do Thiếu dương 1 + Thiếu âm 2.
- Dương + dương = Âm. Như: 1 + 3 = 4; 3 + 3 = 6; 3 + 5 = 8...
* Số 4 là Thái âm do Thiếu dương 1 + Thái dương 3; hoặc hai Thiếu âm 2 + 2.
- Dương biến thành âm: 1 + 1 = 2; 1 + 3 = 4; 1 + 5 = 6; 1 + 7 = 8; 1 + 9 = 10. Dương động.
- Âm thì vẫn hoàn âm: 2 + 2 = 4; 2 + 4 = 6; 4 + 4 = 8; 8 + 2 = 10. Vì bất biến nên người ta bảo là âm tịnh.
Theo Lạc Thư
Số 5 của đất thuộc Thổ, là số để các số âm dương tiếp xúc với nó để biến:
- Lấy số dương: 1, 3, 5, 7, 9 cộng hay trừ 5 đều biến thành số âm, cho thấy dương sinh âm.
- Lấy số âm: 2, 4, 6, 8 cộng hay trừ 5 đều trở thành số dương, cho thấy âm sinh dương.
Nếu bỏ số 5 ở giữa, tổng cộng các số âm và dương đều bằng nhau. Các số dương ở bốn phương chính, các số âm ở bốn hướng phụ.
Xét luận các con số
Các nhà Thuật số xét các con số để luận tốt xấu:
Theo âm dương
Số dương gồm: 1, 3, 5, 7, 9. Số âm gồm: 0, 2, 4, 6, 8, 10.
Nếu các con số thuộc âm hoặc dương quân bình và có chiều hướng đi lên
(thuận tiến) thì tốt, nó mang lại sự tốt lành cho người chủ hay người
liên hệ. Còn ngược lại dãy số mà âm dương mất quân bình thì xấu và nếu
như nó đã mất quân bình vừa đi xuống thì càng xấu hơn. Quân bình là các
con số âm và số dương bằng nhau, một âm thì một dương, 2 âm thì 2
dương, tuy nhiên một hay hai số chênh lệch cũng không sao nếu là một
chuỗi số. Xấu nhất là những chuỗi số thuần dương hay thuần âm (bất
sinh).
Thí dụ:
Số thuần dương: 579, 1357...
Số thuần âm: 046, 6080...
Số âm dương cân bằng và đi lên như: 58, 5689... Tốt.
Số âm dương cân bằng và đi xuống như: 85, 9856... Không được tốt.
Số thuần dương đi lên: 35, 357, 1379... Xấu
Số thuần dương đi xuống 53, 753, 9731... Rất xấu.
Theo Ngũ Hành
Các nhà thuật số tính Ngũ Hành của các con số theo Cửu Tinh. Nhất bạch,
nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch và
cửu tử nên: Số 1 hành Thủy; số 0, 2, 5 và 8 hành Thổ; số 3 và 4 hành
Mộc; số 6 và 7 hành Kim; số 9 hành Hỏa.
Ngũ Hành của các con số cần phải tương sinh, hoặc đồng hành với Ngũ
Hành của mạng chủ mới tốt. Còn như hành của mạng chủ bị hành của con số
khắc thì xấu. Thường tính số cuối cùng, nếu trong chuỗi số có nhiều số
giống nhau thì tính hành của các số đó cho chuỗi số.
- Số có hành là Kim thì tốt cho người mạng Thủy hoặc mạng Kim. Nó gây
ảnh hưởng xấu cho người mạng Mộc, làm hao tổn cho người mạng Thổ: 16,
67, 276, 6267...
- Số hành Mộc, tốt cho người mạng Hỏa hoặc mạng Mộc. Nó gây ảnh hưởng
xấu cho người mạng Thổ, làm hao tổn cho người mạng Thủy: 23, 34, 434,
9344, 03383...
- Số hành Thủy, tốt cho người mạng Mộc hay mạng Thủy, xấu cho người
mạng Hỏa, làm tổn hao cho người mạng Kim: 21, 41, 411, 2581, 10581,
101681...
- Số hành Hỏa, tốt cho người mạng Hỏa hoặc mạng Thổ, xấu cho người mạng
Kim, làm hao tổn cho người mạng Mộc: 29, 69, 499, 4389, 20599, 430899,
- Số hành Thổ, tốt cho người mạng Kim hoặc mạng Thổ, xấu cho người mạng
Mộc, làm hao tổn cho người mạng Hỏa: 25, 58, 208, 2058, 25082, 802258...
Theo lưu niên vận
Các con số cần phải hợp với số tốt của lưu niên vận mới đặng tốt.
Một tam ngươn có 9 lưu niên vận, mỗi ngươn có 3 vận.
- Thượng ngươn: Vận 1 khởi đầu từ năm Giáp tý 1864 đến 1883. Vận 2 khởi
từ năm Giáp Thân 1884-1903. Vận 3 khởi từ năm Giáp Thìn 1904-1923.
- Trung ngươn: Vận 4 khởi từ năm Giáp Tý 1924-1943. Vận 5 khởi từ năm
Giáp Thân 1944-1963. Vận 6 khởi từ năm Giáp Thìn 1964-1983.
- Hạ ngươn: Vận 7 khởi từ năm Giáp Tý 1984-2003. Vận 8 khởi từ năm Giáp
Thân 2004-2023. Vận 9 khởi từ năm Giáp Thìn 2024-2043. Sau đó bắt đầu
lại từ vận 1 của Tam ngươn mới.
Năm 2003 thuộc vận 7 thì số 7 là số vượng khí, nhưng đến 2004 thì số 8
là số vượng khí, số 7 bị lỗi thời trở thành số xấu, mang nhiều bất lợi
về mặt tài lộc, thị phi cho những ai gặp nó, nhất là về nữ giới.
Hiện tại đang ở vận 8 (hình 10a), là vận tốt nhất nên được nhiều cát
tinh chiếu, phát ra nhiều sự tốt lành cho: Số 2, 8: Vượng khí, rất tốt.
Số 1, 3, 4, 6: Sinh khí, tốt. Số 0: Bình, tùy thuộc con số đứng sau nó.
Các con số tốt này phải theo chiều hướng đi lên thì mới đạt được sự tốt
đẹp nhất.
Không nên dùng đến số 5, 7, 9, vì số 5: Mặc dù có sinh khí nhưng không
tốt. Số 7: Đã phát hết khí nên lỗi thời, xấu. Số 9: Bị suy khí, xấu.
Một số người nghĩ rằng chọn các số cộng lại thành số 9 thì sẽ gặp nhiều
may mắn, nhưng họ đâu biết rằng họ đang làm sai nguyên tắc của Thuật
số. Họ chọn các số: 009, 225, 117, 252, 711 hay 117... là những số xấu
vì có cửu tử, thất xích, ngũ hoàng và các số 1 và 7 là số dương!
Nhìn vào các con số 88, 888 và 8888, nhiều người tưởng rằng càng nhiều
số 8 thì càng tốt, nhưng thật ra nó là số thuần âm thiếu số dương nên
không tốt. Muốn tốt cần phải có thêm số dương bên cạnh để âm dương hòa
hợp và số phải đi lên: 81, 138, 388, 1388. Nếu mệnh chủ hành Thổ hay
Kim thì các số này là số tốt đẹp. Nếu mệnh chủ hành Thủy thì nó trở nên
xấu. Nếu mệnh chủ hành Hỏa thì không được tốt lành.
Tóm lại
- Những con số tốt đẹp là những con số mà âm dương hòa hợp, tương sinh
cho ngũ hành của bản mệnh và được vượng khí trong lưu niên vận.
- Những con số xấu là những con số bị mất quân bình về âm dương, tương
khắc với ngũ hành bản mệnh và bị suy khí theo lưu niên vận.
Vô Chiêu
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Guests
Ngày gởi: 08/May/2013 lúc 9:48am
Hay và đầy ý nghĩa . cảm ơn về bài viết của bác nhé
- dien hoa
-------------
|
|