Góc Nhỏ Về Khoa Học Huyền Bí
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7619
Ngày in: 18/Nov/2024 lúc 8:45am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Góc Nhỏ Về Khoa Học Huyền Bí
Người gởi: Hoa Hạ
Chủ đề: Góc Nhỏ Về Khoa Học Huyền Bí
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 3:36am
THIÊN VĂN HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
Tác giả:
http://thienvanvietnam.org/lienhe.htm#B%C3%B9i%20D%C6%B0%C6%A1ng%20H%E1%BA%A3i - Bùi Dương Hải
Tựa
Tôi viết loạt bài này,
trước hết để gửi các bạn ở Câu lạc bộ
Thiên Văn Học Trẻ Việt Nam,
phần nào thể hiện cho những gì tôi mong muốn mà chưa làm được. Sau nữa là vì
những người bạn của tôi trên Diễn đàn
http://www.ttvnol.com/ - Trí tuệ Việt Nam
online , mà sau này gọi là
http://www.ttvnol.com/ - Trái Tim Việt Nam
online , những người mà tôi luôn yêu quý.
Những điều viết trong bài
này là những kiến thức từ nhiều nguồn, được tập hợp lại và viết theo cách hiểu
của tôi, dưới góc độ của một người không chuyên, tự nhận thức tìm hiểu hơn là
được học và nghiên cứu. Vì vậy rất có thể có những chố không đúng gốc như nguyên
bản, hay không giống với suy nghĩ của một số người. Rất mong nhân được sự đóng
góp để hoàn thiện hơn.
Bùi Dương Hải
Khoa Toán Kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Tháng 3 – 2005
Nickname: Chitto – Email:
mailto:Chitto7x@yahoo.com -
Chitto7x@yahoo.com
MỞ ĐẦU
Thiên Văn không phải là
một môn khoa học mới mẻ. Từ thuở bình minh nhân loại, khi biết tìm ra lửa, chắc
hẳn loài người cũng đã nhìn ngắm bầu trời đêm với các vì sao, dù là để gửi gắm
tâm linh, tìm tòi tri thức hay đơn giản là mơ mộng.
Cho đến ngày nay, nhờ
những kiến thức Vật lý, Toán học hiện đại, con người đã tiến những bước rất dài
trong việc tìm hiểu khoảng không bao la bên ngoài cái trái đất hỗn độn và nhỏ bé
này. Trong những thành tựu đó, có không ít công sức của những những người đi
trước từ thời thượng cổ, cả phương Tây cũng như phương Đông. Những kiến thức của
khoa học hiện đại mang nhiều dấu ấn phương Tây, và toàn bộ thuật ngữ đều là các
từ Latin, nhưng không phải vì thế mà người phương Đông không có những thành tựu
của riêng mình, thậm chí những thành tựu đó – trong những thời kì nhất định –
còn vượt xa tri thức phương Tây.
Những cái tên quen thuộc:
dải Ngân Hà, chòm sao Thần Nông, sao Thương, Tua Rua,…, rất gần gũi với cuộc
sống người dân Việt, một quốc gia cư dân lúa nước phương Đông. Việc tìm hiểu
thành quả quan sát thiên văn cũng như tư tưởng về Vũ trụ của tiền nhân là điều
không thể thiếu với những người yêu thiên văn.
Văn minh phương Đông đại
diện bởi Trung Hoa và Ấn Độ, mà trong đó nền văn minh Trung Hoa đã tiếp nhận khá
nhiều tư tưởng của Ấn Độ để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy trong bài
này chủ yếu đề cập đến thành quả của người Trung Hoa
Trong bài viết này, tôi
phân chia thành 2 phần lớn, là Quan sát thiên văn và Vũ trụ quan. Phần đầu là
những quan sát của các nhà thiên văn cổ, sự phân chia bầu trời và các thiên thể,
những hiện tượng quan sát được. Phần hai là sự khái quát tư tưởng, hình thành
những yếu tố triết học, tìm hiều quy luật của Vũ trụ, mà trong đó con người là
một bộ phận quan trọng.
Bài viết được chia như sau
Phần I.
Quan sát Thiên Văn
|
Phần II.
Vũ trụ quan Phương Đông
|
Phần III.
Những Ứng dụng
|
1. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_NhungTaiLieuVoGia.htm - Các tài liệu vô giá
2. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_MotSonhaThienVAn.htm - Những nhà thiên văn cổ đại
3. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_NguHanh_CanChi.htm - Ngũ hành - Can Chi
4. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_CuuDieu.htm - Cửu Diệu
5. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_TamVien.htm - Tam Viên
6. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_NhiThapBatTu.htm - Nhị thập bát Tú
7. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_ThienCuongDiaSat.htm - Thiên cương Địa sát
|
8. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_NhungTruyenThuyet.htm - Những truyền thuyết
9. http://thienvanvietnam.org/TVHPD/TVHPD_HocThuyetAmDuong.htm - Âm Dương Bát quái
10. Lão giáo
11. Ấn Độ
12. Phật giáo
13. So sánh với phương Tây
|
14. Lịch pháp
15. Y học
16. Bói toán
17. Tử Vi
18. Phong
Thủy
19. Thiết chế
xã hội
20.
Các lĩnh
vực văn hóa khác
|
Phần I.
Quan sát Thiên Văn QUAN SÁT THIÊN VĂN Tác giả: http://thienvanvietnam.org/lienhe.htm#B%C3%B9i%20D%C6%B0%C6%A1ng%20H%E1%BA%A3i -
1. NHỮNG
TÀI LIỆU VÔ GIÁ
Năm 2004, Bảo
tàng Anh quốc công bố tấm bản đồ sao cổ
hoàn chỉnh nhất thế giới, tìm thấy ở
Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907, được làm vào
đời Đường, khoảng năm 600(1).
Tấm bản đồ là một cuộn giấy rộng
25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích tên chi tiết bằng tiếng
Hán 1345 http://thienvanvietnam.org/cacngoisao.htm - ngôi sao , phân
thành 257 chòm. Cho đến tận thời Phục
Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn,
chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và
chi tiết đến thế. Trong đó có nhiều ngôi sao
gần như không thể thấy được bằng mắt
thường.
Đây là sự kiện
thú vị với những nhà khảo cổ, nhưng thực
ra không lạ đối với các nhà thiên văn học, bởi
từ thời thượng cổ, những người
phương Đông, mà cụ thể là người Trung Hoa
đã hình thành và phát triển khoa học thiên văn với
trình độ rất cao mà những thành tựu đã
được ghi nhận cho đến ngày nay.
Với đặc
trưng nền nông nghiệp lúa nước, có thể nói mọi
người nông dân đồng bằng Hoàng Hà đều
đã là những người quan sát tự nguyện để
phục vụ việc canh tác. Khi các hình thức nhà nước
được thiết lập, vì mê tín và muốn củng
cố địa vị “con trời”, nên một
trong những việc đầu tiên của các vị Thiên tử
là tập hợp những người có kiến thức
thiên văn phù trợ cho mình trong việc mong muốn tìm hiểu
ý trời. Ngay từ khoảng năm 2000 trước Công
nguyên (TCN), các đài quan sát thiên tượng đã được
dựng ở kinh đô các quốc gia sơ khai. Lúc Tần
Thủy Hoàng lên ngôi (221 TCN), đã ra lệnh đốt sách
Nho giáo và các tư tưởng. Tuy sách thiên văn thuộc về
bói toán, nằm ngòai danh sách phải hủy, nhưng cũng
rất nhiều quyển đã chịu chung số phận,
nên những gì còn lại về thời trước đời
Tần chỉ rất rời rạc và hạn chế. Sau
đó chính Tần Thủy Hoàng cũng trọng dụng ngay
300 người làm nghề xem sao. Dù lúc đầu chỉ là
xem sao, tính lịch và bói toán, nhưng dần dần với
thiên hướng ghi chép lại mọi sự vật hiện
tượng diễn ra, các chiêm tinh gia đã chuyển thành
nhà thiên văn học, đứng đầu là các quan Thái sử,
đảm nhiệm chép sử, xem thiên tượng, làm lịch,
tính ngày, xem địa lý và cả khí tượng.
Các ý kiến về
quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Hoa không thống
nhất. Có người đẩy về tận năm 6000
TCN, mà dấu tích còn lại trên một vài vách đá, hoặc
một số bài thơ truyền miệng. Đa số cho
rằng nó vào khoảng thế kỷ 24 TCN, với dấu
tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa).
Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời
nhà Thương - 1500 TCN. Thời điểm này có có ý kiến
là do có sự giao lưu với văn hóa Babylon, tuy
nhiên trong khi nền văn hóa Babylon gần
như không còn để lại dấu tích nào về thiên
văn, thì người Trung Hoa lại gìn giữ những
ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay.
Trước sự
hốn độn, không thống nhất, không đối xứng
của các vì sao, người Trung Hoa gọi bầu trời
nói chung là Hỗn Thiên. Từ Thiên Văn mà ta dùng
ngày nay, mang nghĩa “Hình tượng trên bầu trời”.
Trước khi có phát hiện về
bản đồ sao Đôn Hoàng, bản đồ sao hoàn chỉnh
sớm nhất của loài người được ghi
nhận là bản đồ sao đời Bắc Tống,
vẽ vào thời Nguyên Phong (1078 - 85), được khắc
lên bia đá năm 1247, đặt trong khu đền Khổng
Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên tấm bia
Thiên Văn đồ đó chia rõ phương vị,
cung độ, gồm 1434 vì sao được chia thành các
chòm, có đủ Hoàng đạo, Thiên xích đạo, Ngân
hà. Bên dưới là bài văn bia 209 chữ chép rõ về các
kiến thức thiên văn.
Cho đến triều
Thanh, người Trung Hoa đã quan sát và ghi lại khoảng
3000 ngôi sao có cấp độ sáng từ 6 trở lên,
phân thành 283 chòm sao. Khác với http://thienvanvietnam.org/Cac_Chom_Sao/HTTG_88_Chom_Sao_HD.htm - các chòm sao của Hy Lạp đặt
tên theo các vị thần hoặc anh hùng thần thoại, các
chòm sao ở phương Đông mang tên tất cả những
gì thuộc về cuộc sống; từ tên các chức
tước trong triều đình, tên các vùng đất, các
nghề nghiệp, cho đến con vật như trâu bò,
đồ vật như cái cày, cái đấu. Họ không giải
thích các hiện tượng, mà chỉ đơn giản là
quan sát và ghi nhận chúng, coi đó là khách quan của “Trời”.
Trong khoảng thời
gian từ 12 tháng 12 năm 146 TCN cho đến 3 tháng 2
năm 1761 các quan sát thiên văn liên tục của Trung Hoa
đã ghi lại thời gian, đặc điểm 173 hiện
tượng rất đặc biệt trên bầu trời,
gồm 66 lần Nhật thực, 83 hiện tượng
bùng nổ của các ngôi sao, 24 hiện tượng khác. Tất
cả các quan sát đó đã được thiên văn học
hiện đại kiểm chứng, và không có trường
hợp nào sai lệch.
Hiện tượng
Nhật thực lần đầu tiên được
ghi lại là vào năm 2136 TCN:
“Năm thứ 5 đời Trọng Khang nhà Hạ,
mùa thu, hạ tuần tháng 9, ngày Canh Tuất, có hiện
tượng Nhật thực” (2)
Khi có Nhật thực,
người Trung Hoa tin rằng đó là do mặt trời bị
ăn mất (thực - ăn), nên làm lễ cầu nguyện,
cúng bái, dùng âm thanh để “xua đuổi quái vật
ăn mặt trời”. Hiện tượng Nguyệt thực
thường xảy ra hơn, nên cũng ít được
chú ý hơn. Lần ghi chép về nguyệt thực đầu
tiên là năm 1065 TCN. Sau đó họ ghi lại khoảng 1000
lần nguyệt thực nữa cho đến cuối triều
Thanh.
Một tài liệu đời Tây Hán (TK 2 TCN) tìm
được năm 1973 ghi rõ chu kỳ của Sao Kim là
584,4 ngày, Sao Mộc là 377 ngày, Sao Thổ là 594,4 ngày, chỉ
sai lệch so với kết quả tính toán hiện đại
chưa đến 0,3 ngày. Đời Hán Cao Tổ, hiện
tượng 5 hành tinh của Hệ mặt trời ở vị
trí thẳng hàng đã được gọi là “Chuỗi ngọc
5 sao”. Vào khoảng năm 484 TCN, các tính toán cũng xác định
độ dài chính xác của một năm là 365,25 ngày, là
cơ sở cho việc đặt hệ thống
Âm-dương lịch khá hoàn chỉnh. Hệ thống lịch
này được điều chỉnh một số lần,
càng về sau càng chính xác.
Tuệ
tinh (Sao chổi) được quan sát sớm nhất
thế giới, từ năm 613 TCN. Trong một lăng mộ
cổ từ thế kỷ 5 TCN được khai quật
năm 1973 có cuộn lụa vẽ lại 29 ngôi sao chổi,
thành quả quan sát hơn 300 năm. Trong đó có ngôi có 2
đuôi, ngôi có đuôi thẳng và dài, có ngôi lại có đuôi
móc câu. Họ cũng nhận xét là hầu hết các sao chổi
có đuôi bay ngược chiều mặt trời, và cho rằng
đó là Thiên khí từ mặt trời thổi ra.
Ngôi sao chổi Halley xuất
hiện năm 240 TCN (năm thứ 7 đời Tần Thủy
Hoàng) đã quay lại vào năm 164 TCN, rồi lại
được nhìn thấy vào những năm sau đó,
đã giúp các nhà thiên văn Trung Hoa tìm ra chu kỳ 76 năm của
nó. Thực ra quan sát thấy sao chổi đầu tiên
năm 613 TCN (ghi trong Kinh Xuân thu) chính là Halley, nhưng bị
gián đoạn. Quĩ đạo của hơn 40 sao chổi
đã từng xuất hiện cũng được ghi lại
cẩn thận trong các bản đồ cổ, đặc
biệt năm 600, một sao chổi được ghi lại
là “sáng như mặt trăng”. Trong toàn bộ thời phong
kiến, từ thời Ân đến 1911, có 360 văn bản
ghi lại sự xuất hiện của sao chổi, trong
đó sao chổi Halley là 31 lần.
Một quan sát đặc biệt quan trọng của
người Trung Hoa đó là sao Khách – những vì sao
sáng rực lên trong một thời gian ngắn rồi tối
đi, giống như người khách qua đường.
Ngày nay ta gọi đó là các Siêu tân tinh. Quan sát đầu
tiên trên thế giới của họ được ghi lại
là năm 14 TCN.
Hiện
tượng nổi tiếng nhất là vào đời nhà Tống.
Ngày 4 tháng 6 năm 1054, một ngôi sao bống rực sáng trên
bầu trời phía đông, thậm chí thấy rõ trong ánh sáng
ban ngày suốt 23 ngày khiến người Trung Hoa kinh hoàng.
Các quan khâm thiên quan sát suốt ngày đêm không nghỉ, cho
đến khi nó tối hẳn vào cuối tháng 4 năm 1056,
sau 643 ngày bùng nổ. Vị trí của nó ở gần Hoàng
đạo và sao Tất (Zeta Taurius), ngày nay Siêu tân tinh đó
được biết đến dưới cái tên Crab
Nebula, và đến năm 1968 vẫn còn tiếp tục phun
vật chất vào vũ trụ.
Năm 2001, các nhà thiên văn NASA đã có bằng chứng
về một sao pulsar trong chòm Sagittaurius, tại đúng vị
trí mà năm 386 người Trung Quốc đã ghi nhận là
có hiện tượng bùng nổ của một siêu tân tinh
rất lớn. Đây là ngôi sao pulsar thứ hai được
tính chính xác tuổi là 1615 năm cho đến thời
điểm được phát hiện.
Ngoài ra, Trung Hoa cũng là nơi đầu tiên phát
hiện về Vết mặt trời và ghi chép mưa thiên thạch.
Quan sát đầu tiên là vào thế kỷ 4 TCN, tiếp theo
là vào năm 165 TCN, vết đen được ghi lại
là có hình chữ Vương, và cho đến năm 1638, họ
ghi lại 112 lần hiện tượng này. Khi đó họ
đoán là có ngôi sao nào đó xuất hiện trên mặt trời.
Những quan sát tương tự ở châu Âu đến
năm 807 mới có. Hiện tượng quầng lửa
trên mặt trời cũng được quan sát thấy, họ
mô tả mặt trời căng phồng lên, những đốm
lửa bùng lên.
Tuy vậy, trong các văn bản cổ, cũng có
những sai lệch. Đặc biệt là có khoảng 10 chỗ
phi lý đến đáng ngờ. Cuối cùng các nhà khoa học
cũng tìm ra được nguyên nhân. Đó là sự sai lệch
có chủ ý của các quan thiên văn. Khi biết vua chúa
thường tin vào các điềm báo của bầu trời,
họ đã cố tình sửa các quan sát của mình để
trục lợi. Chẳng hạn, đời Hán Thành đế,
quan khâm thiên được đút lót đã thay sao
Thương vào vị trí Hỏa Tinh, và tuyên bố sắp
có kẻ mưu sát vua, khiến ông vua mê tín đã xuống
tay hạ sát mấy vị đại thần. Tương
tự như vậy, sao Thiên Lang – vốn được
coi là nơi thể hiện điềm báo – thường
được gán cho các màu sắc đặc biệt để
báo trước tai họa hay phúc lành, dù rằng ngôi sao sáng
nhất bầu trời này không bao giờ thay đổi màu
sắc. Những sai lệch này có nguyên nhân chính trị và mê
tín hơn là do quan sát.
Việc sử dụng Thiên tượng như là
điềm báo trước rất phổ biến, đặc
biệt cho triều đình phong kiến, nên nó được
lợi dụng không ít lần. Các hiện tượng sao Chổi,
Nhật thực, sao Khách đều gây xáo trộn nhất
định. Nhưng cũng vì thế mà nó được
ghi chép lại rất tỉ mỉ, để lại cho
đời sau những tài liệu vô giá.
Cùng với các quan sát tỉ mỉ, các hệ thống
công trình cũng được triều đình cho xây dựng.
Đầu công nguyên, nhà Hán đã xây dựng một loạt
đài thiên văn dọc theo Trường thành để
đo thời gian và chuyển động của các thiên thể.
Theo một số học giả thì hệ thống các
đài định vị này còn mở rộng khắp đất
Trung quốc, xuống tận miền nam đến Việt
Nam, thậm chí cột đồng Mã Viện cũng chỉ
là cột định vị của hệ thống này (Trần
Đai Sĩ, 2001). Thậm chí có tài liệu viết rằng
vào khoảng năm 721-725, dưới thời Đường,
một hệ thống cột định vị (gnomon)
được dựng theo hướng Bắc - Nam, cận
nam từ tận miền Trung Việt Nam, cực bắc lên
đến sát Trường Thành. Cột đồng lớn
nhất được dựng năm 1276 đời Tống,
cao đến 12 m.
Do nhận ra chu kỳ quay tròn của bầu trời,
người Trung Hoa cũng chia vòng tròn thiên cầu thành các
độ, tuy nhiên độ này ứng với các ngày trong
năm, nên một vòng tròn có 365 và ¼ độ. Vào đầu
công nguyên họ cũng tính ra độ dài của 1 cung kinh
độ là khoảng 155 km, đến đời
Đường (TK 7) họ tính lại là 123.7 km (thực tế
khoảng 111 km)
Cũng như nhiều kiến thức khoa học,
Thiên văn học cũng chịu sự tác động qua
lại của các nền văn minh khác. Sự tác động
sớm nhất là thiên văn Babylon, thông
qua con đường tơ lụa (khoảng thế kỷ
1, 2 TCN), sau đó chịu ảnh hưởng rất mạnh
của Ấn Độ, thông qua Phật giáo (đầu
CN). Đến cuối TK 13 thì tư tưởng thiên
văn Hồi giáo truyền vào cùng với sự bành trướng
của đế quốc Nguyên Mông, và thế kỷ 16 là
thiên văn phương Tây, theo chân các nhà truyền giáo. Những
công trình thiên văn cổ của Trung Quốc tại Bắc
Kinh còn lại ngày nay được xây dựng trong triều
Minh và Thanh. Đến triều Thanh thì lịch pháp đã dựa
rất nhiều vào kiến thức phương Tây, và các
đài thiên văn đều có bàn tay của giáo sĩ
nước ngoài.
Những công trình cổ còn lại
Công trình cổ sớm nhất còn lại hiện
nay là đài thiên văn ở Nam Kinh, được thiết
kế và xây dựng vào những năm 1231-1314 đời Tống.
Cùng thời đó nhà Tống còn cho xây thêm 4 đài thiên
văn nữa rải rác khắp đất nước.
Thiên Văn đồ cũng được vẽ và khắc
vào giai đoạn này. Sau này một số thiết bị
quan trắc được dựng tại đài Nam Kinh
theo bản vẽ cổ.
Năm 1442, triều đình nhà Minh cho xây tại Bắc
Kinh đài thiên văn bằng đá cao 14 m, trên đó có các
thiết bị bằng đồng dành cho quan sát thiên tượng,
gồm các vòng tròn dựng trên giá gồm những con rồng,
một cột đồng đo bóng mặt trời để
tính thời gian, và một thiên cầu. Trong những năm
sau đó, các thiết bị dùng để vẽ lại vị
trí các thiên thể được thêm vào.
Đến triều
nhà Thanh (1673), những thiết bị dùng để đo
góc giữa các vì sao làm bằng đồng chạm khắc
cầu kỳ được dựng thêm lên. Khung hỗn
thiên gồm thiên xích đạo, hoàng đạo, và một
thiên cầu đường kính hơn 1 m chạm nổi
các chòm sao, dùng để mô tả chuyển động của
các hành tinh, tính toán thời gian.
Những thiết
bị này đều có giá đỡ là những con rồng,
con vật huyền thoại thống lĩnh bầu trời.
Công trình này có sự góp sức rất lớn của nhà truyền
giáo Ferdinand Verbiest. Ngày nay đây là điểm tham quan hấp
dẫn khách du lịch.
Cùng với các phát minh quan trọng như La bàn, thuốc
nổ, giấy và nghề in, những thành tựu nghiên cứu
về thiên văn vũ trụ, lịch pháp, dù với mục
đích nào, cũng đã để lại cho hậu thế
những kho tri thức vô giá. Những kiến thức
đó là chung cho nhân loại chứ không riêng quốc gia, dân
tộc nào.
(1) Theo tin Vnexpress: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2329/ - http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2329/
(2) Tư liệu trên là do đời sau ghi lại,
một số nhà nghiên cứu cho rằng không đáng tin cậy,
và cho rằng lần ghi Nhật thực đầu tiên mãi
đến năm 1300 TCN mới được thực hiện.
Thông thường người Trung Hoa thường coi những
ghi chép trên xương, mai rùa là văn bản chính thức,
trong khi đó giới học giả phương Tây không phải
lúc nào cũng đồng ý. Chẳng hạn có giáp cốt
văn năm 1400 TCN ghi “Ngày thứ 7 trong tháng, có sao mới
xuất hiện gần sao Tâm”, nhưng không được
công nhận là ghi chép về Siêu tân tinh.
Phần một QUAN .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Trả lời:
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 3:38am
2. NHỮNG
NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI
“Mỗi
người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp
dư” – nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối
với những kiến thức thiên văn của cư
dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến
trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể
không nhắc đến công lao của những
nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm
của họ còn đến ngày nay. Dưới
đây giới thiệu một số người có nhiều
thành quả nhất.
Thạch Thị (350 TCN)
Những
nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được
thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ
thời Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng
nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch
Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của
nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên
văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8
quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ
(1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường
gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1
quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi
sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết
thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà
Thương phân định.
Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch
Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời
đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch
thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong
những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ
hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến
nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà
Đường – 729). Một bản sao khác của
cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở Tokyo – Nhật
Bản gìn giữ.
Cách giải thích các
hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi
những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn
sau: “Khi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ
đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại
thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch
đường”.
Cùng thời với
Thạch Thân là Cam Đức cũng
là nhà thiên văn học, đã quan sát rất kỹ về
các hiện tượng trên mặt trời, từ vết
đen, vết trắng. Ông mô tả vết
đen như đồng xu trên mặt trời, và giải
thích Nhật thực chính là do vết đen ăn từ một
phía ra, chiếm hết mặt trời.
Tư Mã Thiên
(145 – 87 TCN)
Trong tác phẩm Sử Ký đồ
sộ, Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng
thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời
thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển
là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập
hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của
bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000
ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng
đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của
ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến
nay, hầu như kết quả thiên văn trước
đó đều được hệ thống lại,
thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những
quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn
2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản
của Thạch thị, nhưng những nhận xét
đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có
giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân
chia màu sắc các sao .
Kế tục
Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả bộ Hán Sử, cũng là một
nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ
76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về
quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng
Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của
mình qua việc đoán được hiện tượng
Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản
giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200),
các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu,
ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm.
Trương Hoành (78
– 139)
Đỉnh cao nhân
loại về Thiên văn học cổ đại là Trương
Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán
học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của
nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu thiên văn, ông đã tìm ra quĩ
đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời,
ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng
mắt thường. Những nhận định chính xác của
ông về Hệ mặt trời khiến người thời
đó không thể hiểu được. Ông cho rằng
trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng
dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản
chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt
trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn
khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác
nhau từ mặt đất.
.
Trương Hoành viết
hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú
ông viết:
“Trời
tròn giống như quả trứng, mà Đất giống
như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa,
bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh”
Còn trong tác phẩm
thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí
các chòm sao và viết:
“Trong
bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm
2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được
đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những
người đi biển nhìn thấy. Kể cả những
sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.
Đặc biệt
nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ
quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử,
Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng,
một Thiên cầu bằng đồng. Đường
Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo
một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với
thực tế). Một chiếc ống thẳng để
nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng
không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng.
Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị
trí chính xác, điều mà chưa ai làm được
trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước
đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động
các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt
trăng và Nguyệt thực được giải thích
chính xác.
Một phần ra
ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương
Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học
phương Tây thông thường là nhà Vật lý – Toán học,
Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực
khác.
Một sáng chế đáng chú ý của
ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm
một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với
độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ
một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con
cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động,
quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động
to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.
Hậu Hán thư viết
lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở
phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến
kiến và trình với vua rằng có động đất ở
phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy
ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại
khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động
đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc
Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.
Ông cũng là người
đã nêu ra cách tính tỉ số pi (p) bằng
căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế
là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ
còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại
đến nay.
Tổ Xung Chi (429 – 501)
Tổ Xung Chi là nhà
toán học và Thiên văn – Lịch pháp thời Nam Bắc triều.
Ông là người
đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm
thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy
cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ
đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch
mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua
đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới,
tính được độ dài năm giữa hai lần
Xuân phân kế tiếp là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với
tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt
trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy
sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho
năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt
trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7
chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20
quỹ đạo của nó.
Phát hiện đặc
biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính p bằng
phân số 355/113, chính xác đến 6 số
thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc
chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường
kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn
31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là
3,1412516 < p <
3,1415927). Tên của ông được đặt cho một
ngọn núi trên Mặt trăng.
Trong thời
Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng
được ghi nhận với kết quả tính toán
độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là
351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng
dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả
chuyển động các sao, và vẽ đường biểu
kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất
xa một cách chính xác.
Tô Tống
Một nhà lịch
pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan
sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một
chiếc đồng hồ thiên văn chạy bằng nước rất tinh xảo.
Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận
ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa
Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và
chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở
kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ
thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn
thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước,
dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức
tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng
đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động
của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có
đến hàng chục tượng đồng, vận hành
hoàn toàn bằng sức nước.
Tiếc rằng khi
triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã
không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên,
chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy
đồng.
Ngày nay, ở
Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ
hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống.
Nhất
Hành (683 – 722)
Nhất Hành là pháp
hiệu của một hòa thượng đời
Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó
ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên
cầu lớn được vận hành và chuyển động
cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông
đã vẽ đường chuyển động của
các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến
trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ
đạo chính xác nhất mà con người tìm ra
Còn nhiều nhà Thiên
văn – Lịch pháp nữa trong các triều đại sau,
mà mỗi người đều để lại dấu ấn
nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ
trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời
gian dài đã đem lại những kết quả lớn,
đặc biệt trong việc tính lịch pháp.
Thạch Thân: Shi Shen
Thạch thị: Shi shi
Tư Mã Thiên: Sima Qian
Trương Hoành: Zhang Heng
Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi
Tô
Tống: Su Song
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 3:40am
3. NGŨ
HÀNH VÀ CAN CHI
Thiên văn thời
cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy
nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn
thiên văn với những tư tưởng mang tính triết
học, mà Ngũ hành là một minh chứng.
Tư tưởng
cấu tạo vật chất của thế giới từ
5 yếu tố không phải là chỉ của riêng
người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng
thế giới được sinh ra từ Vực thẳm
Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất
Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix,
Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng
5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước,
Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không
bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như
Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của
Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ
5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ
số 10 trong hệ đếm.
Thuyết này xuất
hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được
củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu
5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các
tính chất cụ thể:
Kim: kim loại,
cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc
Mộc: gỗ,
cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng
Thủy:
nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm
Hỏa: lửa,
nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo
Thổ: đất,
đầy đặn, chịu đựng, nguồn của
sinh sôi
Nhưng
rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ
hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn
kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật
chất đến tinh thần
Hành Kim: màu Trắng phương
Tây mùa thu Mũi Phế (phổi)
Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt Can (gan)
Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai Thận
Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi Tâm (tim)
Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng Tỳ
Việc
gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ
hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người
Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc
Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về
phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy
chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác
định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa
trong văn hóa Trung Hoa.
Hai quy luật
tương tác biến dịch quan trọng là tương
sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho
nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở
đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn)
Tương
Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim -
Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc.
Tương
Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc
Về sau tư
tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều
ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc
ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết,
chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái
Ta sinh, cái Ta khắc,…
Dựa trên tư
tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của
các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến
nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh.
Trên thực tế,
các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này:
Nhiệt độ
bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ
tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy
Nhiệt độ
bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ
Nhiệt độ
bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng
Nhiệt độ
bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng
Nhiệt độ
cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh
Mặt trời của
chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt
khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ
Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết:
“Muốn
xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn
xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng,
hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc
đen thì nhìn sao Khuê“
Cách phân chia đó
khá đúng về màu sắc:
Sao Thiên Lang (sao Sirius
- chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời
Sao Tâm hay sao
Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ
M0, màu đỏ rất rõ
Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - b chòm
Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2
màu xanh.
Sao Khuê (sao d - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ
tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.
Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm,
khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực
không kém gì Sao Hỏa.
|
|
Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse
– a chòm
Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời,
và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời
quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là
màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa
là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó
là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người
quan sát được trong lịch sử.
Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để
đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được,
theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy
tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành
tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở
tạo nên hệ đếm Can Chi.
Thiên
Can Địa Chi
Can Chi chủ yếu
dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ
quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ
cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng
trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông
nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch
pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can
Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời
Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải
đến đầu công nguyên mới thực hiện.
Khi quan sát quĩ
đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm
gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để
xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm
quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của
mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về
vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh
như sau:
Sao Thủy: khoảng
¼ năm
Sao Kim khoảng 0,6
năm
Sao Hỏa khoảng
2 năm
Sao Mộc khoảng
12 năm
Sao Thổ khoảng
30 năm.
Các nhà làm lịch
đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội
số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60
năm, các hành tinh trên mới có được vị trí
(tương đối với nhau) gần giống như
cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí
đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị
trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1
năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm
được lấy làm chuẩn để tính năm, nên
gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên
Can.
Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ
hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2,
thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1
Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra
đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn
hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công
nguyên mới có.
Can (cán – thân cây) gồm:
Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân –
Nhâm – Quý
Chi (cành cây), gồm:
Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân
– Dậu – Tuất – Hợi
Trong
đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính +
Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ,
Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy,
cứ 1 âm 1 dương đổi nhau.
Bản thân các từ của
Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển
của Cây cối:
(I). Giáp : nẩy mầm
(II). Ất : nhú lên mặt
đất
(III). Bính : đón ánh mặt
trời
(IV).Đinh : trưởng
thành khỏe mạnh
(V). Mậu : rậm rạp
(VI). Kỉ : dấu hiệu
hoa trái
(VII). Canh : thay đổi
(VIII). Tân : hoa quả mới
(IX). Nhâm : thai nghén cho mùa
sau
(X). Quý : mầm đang chuyển hóa
(1). Tý
: mầm hút nước
(2). Sửu
: nẩy mầm trong đất
(3). Dần
: đội đất lên
(4). Mão
: rậm tốt
(5).
Thìn : tăng trưởng
(6). Tỵ
: phát triển
(7). Ngọ
: sung mãn hoàn toàn
(8). Mùi
: có quả chín
(9).
Thân : thân thể bắt đầu suy
(10). Dậu
: co lại
(11).Tuất
: khô úa héo tàn
(12). Hợi
: chết đi.
Như
vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật
như mọi người vẫn nghĩ.
Đến
khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi
với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con
vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn
với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của
12 con vật là những loài đã đến từ biệt
khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là
các con giáp, lần lượt là:
Tí: Thử: Chuột
Sửu:
Ngưu: Trâu
Dần: Hổ: Cọp
Mão: Thố: Thỏ*
Thìn: Long: Rồng
Tỵ: Xà: Rắn
Ngọ: Mã: Ngựa
Mùi: Dương Dê
Thân: Hầu Khỉ
Dậu: Kê Gà
Tuất: Khuyển Chó
Hợi: Trư Lợn
*Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ
Chi Ngọ
đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng
với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang
hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12
con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn
với thời điểm loài vật hoạt động
mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số
móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với
một lẻ.
Khi
đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi
là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1)
cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số
chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ,
nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất.
Trong
thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12
nước thời Xuân thu chiến quốc:
Tí : Tề
- Sửu: Ngô Việt - Dần:
Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi:
Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi
12 Chi
có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực
chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1
năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày.
Cùng với
Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư
tưởng khép kín về chu kỳ vận động của
Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời
gian đều được gắn với Can chi. Một
ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một
chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập
Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ
trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải
thêm triều đại cai trị tương ứng mới
đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu
trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định
vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào.
Sau khi
hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người
Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị
vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra
các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm
năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại
Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ,
hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ).
(1) Thuyết Âm Dương Bát quái là thuyết
chủ đạo cổ nhất, trước Ngũ hành và
Can Chi đến hàng nghìn năm, là thuyết chủ đạo
quan trọng nhất, sẽ được trình bày ở phần
sau. Cung Bát quái chia làm 8 cung, mỗi cung 45 độ.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 3:42am
4. CỬU
DIỆU
Trên bầu trời, bầu trời
hầu hết là những vì sao luôn đứng yên
tương đối với nhau – gọi là Định
tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- http://thienvanvietnam.org/cacngoisao.htm - star ), và một số thiên
thể chuyển động trong khoảng trời ấy –
gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng
nhất là mặt trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt
trời, cho đến nay các nhà thiên văn đã phát hiện
có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng
mắt thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà
thôi. Người Trung Hoa cũng đã nghiên cứu riêng những
thiên thể chuyển động, và gọi chúng là Cửu
Diệu.
Cửu Diệu bao
gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc
tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế
Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu tỏa
sáng, được gọi là Thất Chính.
I. Thái
Dương (Nhật Tinh - Sun)
Mặt trời, vầng Chân hỏa
Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái
Dương Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái
Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa
nhiệt cực thịnh. Từ Nhật là mặt trời
còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái
Dương trên bầu trời mà ta nhìn thấy gọi là
Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó
gọi là Dương lịch.
Thái Dương còn được gọi là
vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ,
xưa ở giữa Đông Hải có cây Phù Tang (1),
trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ
phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới.
Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù tang bị đổ,
bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm
cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn
rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng
Thái Dương ngày nay.
Thái Dương
tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn
đầy, cương mãnh, cho nóng, sáng, cực thịnh.
Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái
Dương Tinh quân Thiên vương Đế quân, một
trong những vị thần tối cao trên trời.
II. Thái
Âm (Nguyệt Tinh – Moon)
Mặt
trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm
soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một trong tứ
tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái
Âm Tinh quân Thiên vương, là một người đàn bà
(tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch
dựa trên mặt trăng do đó gọi là Âm lịch
Mặt trăng còn
gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do
những bóng đen trên đó trông giống con thỏ.
Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời,
đã lên làm vua và lấy Hằng Nga. Sau ông tìm được
thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống
hết, nên biến thành Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm
tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn
lúc khuyết, biết tiến thoái.
Ngày trăng non gọi
là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng
tròn gọi là Vọng, nghĩa là nhìn. Hai ngày này là thời
điểm quan trọng trong lịch mặt trăng.
Đường mô tả quỹ đạo Mặt trăng
trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo.
III. Thủy
Tinh (Mercury)
Sao Thuỷ gần
Mặt trời nhất, có sắc xanh tối
nhưng rất khó nhìn thấy
đặc biệt trong điều kiện thành phố hiện
nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu,
trông coi bởi Thuỷ Đức tinh quân và cho rằng Thuỷ
hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy
đức Tinh quân là Cung Công, người đã đập
đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ
Oa phải đội đá vá lại. Vì Thủy ứng với
phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc
thần Ngũ khí Thủy Diệu.
IV. Kim
Tinh (Venus)
Sao Kim là
hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và
trước khi trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng
được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của
Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ
Đoài trong Bát quái, nên gọi là Tây Đoài Thất khí Thái
Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi bởi Thái
Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được
gọi bằng hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời
sáng) và Trường Canh tinh (Sao báo đêm dài tới -
vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là Lý
Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ
giả của trời, vì luôn xuất hiện sớm nhất,
trước tất cả các tinh tú cũng như trước
cả Mặt trời.
V. Hỏa
Tinh (Mars)
Sao Hoả
mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại
quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ là của
phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa
trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ ba
khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội
thì không gì dập nổi. Sao Hỏa chuyển động với
chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái
đất không nhiều, gây nên hiện tượng là khi
nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại
sang tây chứ không theo một chiều nhất định.
Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống
nhất và khó hiểu đó, nên còn được gọi là
sao Huỳnh Hoặc.
Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam
phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần,
trong truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng
đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán La
Tuyên.
Trong việc xem tượng trời đoán
vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với
tai ương, vận hạn, có lẽ do màu đỏ của
nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc
“Sao Hỏa lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả
điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao
Tâm tú cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành
đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa
lâm vào Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một
số người.
VI. Mộc
Tinh (Jupiter)
Sao Mộc,
to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với
phương Đông, phương Chấn theo Hậu thiên
Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu
khí Mộc Đức, vì được cho rằng Mộc
do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng
làm chuẩn cho việc tính lịch, thông qua chu kỳ quay xấp
xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế
Tinh hay Sao Thái Tuế.
Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày,
Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là năm.
VII. Thổ
Tinh (Saturn)
Sao Thổ có
màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất
khí Thổ Tú. Trên thực tế, Sao Thổ cách trái đất
khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan
niệm ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương,
mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ
của Sao Thổ lại rất dài, vì thế nó được
coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí, không nhiều
biến đổi. Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên
Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận
động của bầu trời.
VIII
& IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh
Đây là hai thiên
thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt
trời, mặt trăng bị che lấp tối đen,
người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật
khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và
Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời,
quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng
chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy
ra vào đêm trăng tròn).
Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn
Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong
đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt
trăng được gọi là Rahu và Kethu.
Người Trung Hoa phiên âm là La Hầu và Kế
Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ
che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất
cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của
Trương Hoành (78 – 139) về trái đất hình tròn và
bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã
tíến đến chân lý, nhưng đã không được
chấp nhận ngay khi đó.
Các
tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ;
Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa - Angaraka ; Sao Mộc - Brhaspati ; Sao Thổ
- Sanaiscara (hay Sani).
Các tầng trời
Người Trung
Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động
giữa các thiên thể khác, nhưng không “va chạm” gì với
nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác nhau, từ
thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng
trời – Cửu trùng thiên:
Tên tầng trời
|
Mô tả
|
Chu kỳ
|
1. Thái Âm
|
Chứa Mặt
trăng
|
1 tháng
(vì thấp)
|
2. Thìn Tinh
|
Chứa Thủy
Tinh
|
3 tháng
|
3. Thái Bạch
|
Chứa Kim Tinh
|
7 tháng
|
4. Thái Dương
|
Chứa Mặt trời
|
1 năm
|
5. Huỳnh Hoặc
|
Chứa Hỏa
Tinh
|
2 năm
|
6. Tuế Tinh
|
Chứa Mộc
Tinh
|
12 năm
|
7. Điền Tinh
|
Chứa Thổ
Tinh
|
30 năm
|
8. Liệt Túc
|
Chứa các định
tinh không chuyển động (các vì sao)
|
x
|
9. Tông Động
|
Vỏ ngoài cùng của
của Trời, bao bọc tất thẩy
|
x
|
Về
La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được
Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp
hơn nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ
một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho
đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt
trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế
Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ
thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói
Tử vi.
(1).
Phù là nổi, Tang là cây dâu, Nhật Bản – ở phía
đông, hay bị động đất nên cũng gọi
là xứ Phù Tang
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 4:14am
5. TAM
VIÊN
Ngoại trừ Thất Chính – Cửu Diệu
và Tuệ tinh, các ngôi sao khác đều đứng yên
tương đối trên bầu trời, và hằng
đêm cả “tầng trời Liệt Túc” đó đều
từ từ xoay quanh một điểm cố định,
mỗi ngày lại dịch đi một chút, và sau một
năm thì quay trọn một vòng. Điểm đó gọi
là Thiên Cực, và vì ở phía Bắc nên gọi là Bắc
Thiên Cực. Thiên Cực, do đó được gọi là
Trung Thiên – trung tâm của bầu trời.
Ngày nay, dưới
mặt đất cũng có thể hình dung tương tự
rằng nếu đi về hướng Bắc đến
tận Bắc Cực, thì không còn các phương nữa, mọi
hướng đều là phương Nam. Do
đó Bắc Cực cũng là trung tâm phương vị
trên mặt đất.
Các vua Trung Hoa cho
mình là ở giữa mặt Đất, nên tự nhận miền
đất mình đang cai trị là Thiên hạ, Trung quốc,
Trung nguyên, còn mình là Thiên tử. Khi đó Kinh đô là Trung tâm
mặt đất, ứng với Bắc Thiên Cực là
trung tâm bầu trời. Giữa hai điểm đó là Trục
trời đất. Tư tưởng coi mình ở Trung tâm
trái đất không xa lạ gì với các nền Văn minh
khác. Trong suốt mười mấy thế kỷ, người
phương Tây vẫn cho rằng thành thánh Jerusalem là trung
tâm thế giới, 3 châu Âu, Á, Phi xòe ra như 3 cái lá; người
Hồi giáo cũng coi Mecca là tâm thế giới. Trước
đó, người Hy Lạp cho núi Olymper là nơi Thiên
đình ở, cũng như người Ấn Độ
cho núi Meru (Tu Di) huyền thoại là Trục Vũ trụ,
xuyên xuống bên ở bờ sông Hằng.
Trong khi người
Hy Lạp quan tâm đến các chòm sao nằm trong Hoàng đới
thì người Trung Hoa lại quan tâm nhiều hơn đến
Thiên Cực. Dưới mặt đất chia ra Cửu
châu(1) Ngũ phục, thì trên trời cũng chia làm
Cửu trùng các khu vực tinh tú. Chỉ có điều Trời
thì quay quanh Thiên Cực còn Đất thì cố định.
Một điều lưu ý nữa là phương vị trên
trời ngược với dưới mặt đất,
tức phía Đông ở bên trái, Tây bên phải, Nam ở
trên còn Bắc ở dưới.
Ngũ phục là 5
vùng tính từ Trung tâm (kinh đô) ra với khoảng cách 500
dặm: Điện phục là vòng trong cùng nơi vua ở,
Hầu phục là vòng tiếp theo, cho các quan và chư hầu,
Tuy phục cho dân cư và quân sự, Yêu phục và Hoang phục
là các vùng ngoài. Tương tự, trên bầu trời cũng
được chia thành các khu vực. Ba khu vực ở giữa
là Tam Viên, gồm Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị,
tiếp đó là vòng của Nhị thập bát Tú, các chỗ
trống còn lại là Thiên Cương Địa sát.
Viên nghĩa là bức
tường vây, Tử Vi, Thái Vi và Thiên Thị đều có
các chòm sao vây lại. Tú là tòa nhà lớn. Như vậy nói
đến Tú là chỉ nói đến 28 chòm mà thôi.
Các chòm sao trong tiếng
Hán gọi là Tiểu tinh quan hoặc Tinh tọa.
Nhưng có một số ngôi sao đứng riêng mà không
được xếp vào chòm nào cả.
I. Tử Vi
Tử Vi là khu vực
trung ương có hình tròn, vây quanh Thiên Cực, cách một
góc khoảng 40 độ, là tượng trưng cho Thiên
Cung. Tử là màu tía, màu của huyền bí, kỳ diệu,
Vi là cây hoa, Viên là khu tường vây. Đây là nơi ở của
Thiên Hoàng Thượng đế, hoặc Trung thiên Bắc
Cực Tử Vi đại đế (ông Bắc
đẩu), chuyên về Sinh mạng con người. Có lẽ
vì thế mà cung cấm các vị Hoàng đế đều
gọi là Tử cấm thành, dù nó không có màu tím.
Trong Tử Vi viên có
trên 160 sao, chia thành gần 30 chòm và một số sao độc
lập. Hình ảnh của cả một Hoàng cung hiện
ra, với đủ các thành tố: Hoàng tộc (Đế,
Thái tử, Hậu cung), người hầu hạ (Ngự
nữ, Thượng tể), quan lại (Thượng
thư, Tam công, Tướng quốc(2)), lực
lượng bảo vệ (Thượng vệ, thiếu vệ),
các cơ quan phục vụ Triều đình (Đại lý -
Tòa án, Nội trù - bếp, Nhà lao, nhà Khách, giường…).
Dưới đây
là danh sách các chòm sao và sao riêng trong vòng Tử Vi, theo thư tịch
đời Thanh, 1744, con số trong ngoặc là số sao của
chòm. Bốn chòm quan trọng nhất thì các ngôi sao đều
có tên riêng, các chòm khác thì sao chỉ đánh số thứ tự
(nhất, nhị, tam…) Một số ngôi tuy ở gần các
chòm nhưng không thuộc về chòm đó, được
đánh thứ tự riêng.
Các Tiểu quan tinh trong Cung Tử Vi
1. Bắc Cực (5 sao Thuộc chòm Ursa Minor – Tiểu
Hùng)
i.
Thái tử sao g
ii.
Đế sao z
iii.
Thứ tử sao e
iv.
Hậu cung sao d - Yildun
v. Thiên cực sao a - Polaris
2. Tứ phụ (4 sao)
3. Câu Trần (6 sao)
a.
Thiên Hoàng Đại đế
4. Thiên Trụ (5 sao)
5. Ngự Nữ (4 sao)
b. Nữ
sử
c. Trụ
sử
6. Thượng Thư
(5 sao)
7. Thiên Sàng (6 sao)
8. Đại Lý (2 sao)
9. Âm Đức (2 sao)
10. Lục Giáp (6 sao)
11. Ngũ Đế Nội
Tọa (5 sao)
12. Hoa Cái (7 sao)
13. Cống (9 sao)
14. Tử Vi Tả viên (8 sao), gồm
i.
Tả Xu
ii.
Thượng tể
iii.
Thiếu tể
iv.
Thượng bật
v.
Thiếu bật
vi.
Thượng vệ
vii.
Thiếu vệ
viii.
Thiếu thừa
15. Tử Vi Hữu
viên (7 sao)
i.
Hữu xu
ii.
Thiếu úy
iii.
Thượng phụ
iv.
Thiếu phụ
v.
Thượng vệ
vi.
Thiếu vệ
vii.
Thượng thừa
d. Thiên
Ất
e. Thái
Ất
16. Nội Trù (2 sao)
17.
Bắc Đẩu (7 sao
- thuộc chòm Ursa Major – Đại
Hùng)
i.
Thiên xu sao a - Dubh
ii.
Thiên toàn sao b -Merak
iii.Thiên
cơ sao g - Phecda
iv. Thiên quyền sao d - Megrez
v. Ngọc hoành sao e - Alioth
vi. Khai dương sao z - Mizar
vii. Dao quang sao h - Alkaid
f. Phụ tinh: cạnh Khai
Dương - Alcor
18. Thiên Thương (3 sao)
h. Huyền
qua
19. Tam Công (3 sao)
k. Tướng
quốc
20. Thiên Lý (4 sao)
m. Thái
Dương thủ
n. Thái
tôn
21. Thiên Lao (6 sao)
22. Thế (4 sao)
23. Văn Xương (6 sao)
24. Nội Cấp (6 sao)
25.
Tam Sư (3 sao)
26. Bát Cốc (8 sao)
27. Phó Xá (9 sao)
28. Thiên Trù (6 sao)
29. Thiên bồi (5 sao)
(Về vị trí
chính xác của các vì sao trong vòng Tử Vi, có thể xem phụ
lục)
Nhìn tổng thể
Cung Tử Vi, có thể thấy đó giống như một
khu vực Thiên cung của Thượng đế. Hai bên
trái phải là hai bức tường vòng Tả hữu Tử
Vi viên, do các vị thiên quan tối cao như Tể, Phụ, những thiên thần Vệ, Thừa,
Úy. Cửa phía trước được bảo vệ bởi
Bắc Đẩu Thất tinh, phía sau là khu để báu vật.
Giữa Tòa cung đó là Thiên Cực có 4 ngôi sao canh gác,
liền trước là ngôi bản mệnh Hoàng gia: Vua ở
giữa hai con là Thái tử và Thứ tử, tiếp đến
là Hậu cung. Thiên Hoàng Thượng đế ngự
ở giữa các lớp màn trướng, trước có Ngự
nữ, Nữ sử đứng hầu, phía sau là 6 vị
thần tướng bảo vệ, một bên là chỗ của
Ngũ Đế (3), bên kia là 5 vị Thượng
thư chầu. Trong cung đó có Âm đức, có Thiên lý
tượng trưng có Uy đức và Quy luật của trời.
Bên ngoài hai bức
tường là các khu hỗ trợ: nơi xử án (Thiên
lý), nơi học tập (Văn Xương), nhà bếp
(Thiên trù), kho lương thực (Bát cốc), nhà giam (Thiên
lao), nhà khách (Phó xá), phù trợ (Thiên bồi),…, sát ngoài vòng
cung là nơi các Đại thần và Tướng quốc
chầu, bên kia là Thái thủ và Thái tôn canh giữ.
Chòm Bắc Đẩu
Thất tinh (17) là nơi rất quan trọng với con
người, án ngữ đường vào Thiên Cung. Không nên
dùng chữ Đại Hùng tinh cho Bắc đẩu, bởi
chòm Đại hùng (Great Bear - Ursa Major) không chỉ có 7 ngôi mà
còn nhiều ngôi nữa. Trong 7 ngôi của Bắc Đẩu,
thì sao Thiên quyền ở chính giữa là đại diện
cho Bản mệnh con người. Vì thế khi cúng sao xin mệnh
thì ngọn đèn ở vị trí sao Thiên quyền tượng
trưng cho mạng sống. Ngôi sao sát cạnh sao Khai
Dương không thuộc Bắc Đẩu, nên gọi là Phụ
tinh.
Trên thực tế,
ngay các nhà thiên văn cổ đại cũng không hoàn toàn
thống nhất với nhau về các chòm sao. Bản đồ
Đôn Hoàng từ rất sớm nên có khác bản đồ
sau này; chẳng hạn chòm Thiên Hoàng là 4 ngôi, trong khi bản
đồ sau Thiên Hoàng là 1 ngôi nằm giữa chòm Câu Trần;
không có Ngự Nữ, hoặc Tả Đàn chỉ có 7 ngôi….
II. Thái Vi
Vì Mặt trăng
chuyển động theo quỹ đạo tròn (gọi là Bạch
đạo) nhưng không có tâm là Thiên Cực, nên khi xác định
28 Tinh tú nằm giữa Bạch đạo và Hoàng đạo
thì tạo thành hai khoảng trống phía đông và phía nam của
vòng Tử Vi. Khu phía đông tạo thành một vòng là Thái Vi.
Nếu Tử Vi là Cung của Huyền ảo, linh thiêng, thì
Thái Vi viên với chữ Thái mang nghĩa Cao quý. Trong khu vực
này các sao ứng với các quan lại trong triều đình,
là bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến.
Thái Vi 75 sao, 16 chòm
và một số sao độc lập, một vài sao nằm
về phía dưới của Hoàng đạo.
1. Ngũ
Đế Tọa (5
sao)
a. Thái Tử
b. Tòng quan
c. Hạnh thần
2. Ngũ
Chư hầu (5 sao)
3. Cửu
Khanh (3 sao)
4. Tam
Công (3 sao)
5. Nội
Bình (4 sao)
6. Thái
Vi Tả viên (5 sao)
i. Tả chấp pháp
ii. Đông thượng
tướng quốc
iii. Đông thứ tướng
quốc
iv. Đông thứ tướng
quân
v. Đông thượng
tướng quân
7. Thái
Vi Hữu Viên (5 sao)
i. Hữu chấp pháp
ii. Tây thượng tướng
quân
iii. Tây thứ tướng
quân
iv. Tây thứ tướng
quốc
v. Tây thượng tướng
quốc
d. Lang tướng
8. Lang
Vị (15 sao)
9. Thường
Trần (7 sao)
Tam
Đài: gồm
10. Hạ
Đài (2 sao)
11. Trung
Đài (2 sao)
12. Thượng
Đài (2 sao)
e. Hổ Bôn
13. Thiếu
Vi (4 sao)
14. Trường
Viên (4 sao)
15. Linh
Đài (3 sao)
16. Minh
Đường (3 sao)
f. Yết Giả.
Nhìn tổng thể, Thái Vi giống như
nơi làm việc của Triều đình. Khi Ngũ đế
từ Nội tọa trong Tử Vi ra làm việc thì ngồi
ở giữa, bên cạnh là các vua chư hầu. Thái tử
ở đằng sau, có Hạnh thần và Tòng quan hầu
hai bên. Tả Hữu Thái vi viên, bắt đầu từ Chấp
pháp cho đến Tướng quốc, tướng quân,
thượng thừa là vòng ngăn cách trong và ngoài. Các quan
Tam công, Cửu khanh ở vị trí phía trước, bên cạnh
Nội bình. Đằng sau thì một bên là Lang tướng
và quân sĩ, một bên là Tam đài với quân Hổ bôn. Bên
ngoài là các công trình: Minh đường, Tường dài, gác
cao, có Yết giả là quan coi việc thông báo, sứ giả.
III. Thiên Thị
Nếu Thái Vi nằm đông thì Thiên thị khu vực phía
nam của Tử Vi, nơi chư hầu ở. Vì vậy ở
Thiên Thị có các vì sao mang tên các nước thời Chiến
Quốc. Cung này có 83 sao, chia làm16 chòm và 2 sao độc lập,
gồm:
a. Đế
Tọa
b. Hầu
1. Hoạn
Giả (4 sao)
2. Đẩu (5 sao)
3. Hộc (4 sao)
4. Liệt
Xứ (2 sao)
5. Xa
Tứ (6 sao)
6. Tông
Chính (2 sao)
7. Tông
Nhân (4 sao)
8. Tông (2 sao)
9. Bạch
Độ (2 sao)
10. Đồ
Tứ (2 sao)
11. Tả
Viên (11 sao)
i. Vệ
ii. Triệu
iii. Cửu Hà
iv. Trung sơn
v. Tề
vi. Ngô việt
vii. Từ
viii. Đông hải
ix. Yên
x. Nam hải
xi. Tống
12. Hữu
Viên (11 sao)
i. Hà trung
ii. Hà gian
iii. Tấn
iv. Trịnh
v. Chu
vi. Tần
vii. Thục
viii. Ba
ix. Lương
x. Sở
xi. Hàn
13. Thiên
Kỷ (9 sao)
14. Nữ
Sàng (3 sao)
15. Quan
Tác (9 sao)
16. Thất
Công (7 sao)
Đây là khu vực
xa hơn Triều đình, gồm chợ và các nước
chư hầu. Chính giữa vẫn là khu vực cho Vua (khi xuống
thăm dân), bên cạnh là chỗ cho chư hầu, phía
trước có các cơ quan như Tông, Tông Chính, Tông nhân, là
nơi kiểm soát các hoạt động về hành chính,
con người, đề ra các quy tắc. Trong Thiên thị
có chợ bán kim hoàn, bán bánh, vải lụa, có đấu có
hộc để đong đếm, rồi ra đến bến
sông, đến núi. Các nước chính của thời Xuân
Thu Chiến quốc đều có tên trong vùng này, xa nhất
là đến biển Đông hải, Nam hải
Chính việc “quy hoạch”
bầu trời theo các chức danh quan lại, cũng
như các vùng đất, đã nảy sinh truyền thống
xem tượng trời để đoán vận mệnh quốc
gia, địa phương, đoán “Thánh nhân ra đời”
“ứng vào địa phận…” như trong truyền thuyết
dã sử, thậm chí chính sử.
Trên bản đồ
tổng quát, Tam Viên là ba khu vực trên bầu trời phía gần
Bắc Cực, nằm giữa Nhị thập bát tú, lệch
về hướng Nam và Đông. Trục trái đất lệch
với mặt phẳng Thiên xích đạo một góc 23,5
độ, cũng như mặt phẳng Thiên xích đạo
lại lệch so với mặt phẳng quỹ đạo
mặt trăng, gây nên việc quan sát phải có những
điều chỉnh theo, và tượng trời cũng
không có tính đối xứng hoàn toàn.
Đặc biệt
là việc chia hướng trên bầu trời, khái niệm
về Đông Tây Nam Bắc nếu như lấy Thiên Cực
Bắc làm gốc tọa độ, tương ứng với
bốn mùa, là cơ sở cho Thiên văn và Vũ trụ quan
của người Trung Hoa.
(1) 9 Châu cổ đại
là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự,
Lương, Ung
(2) Trong tiếng Hán, có 2
chứ cùng đọc là Tướng, viết khác nhau, với
2 nghĩa tướng quốc (chính trị - hành chính, có
người đọc là Tương) và tướng quân
(quân sự). Ở đây để không nhầm lẫn, dù
tên sao chỉ có 1 chữ, nhưng tôi phải chuyển sang
là Tướng quốc hoặc Tướng quân để
phân biệt.
(3) Ngũ Đế, cũng
có nhiều thuyết về Ngũ đế: [1]. Phục
Hi, Thần Nông, Hoàng đế, Nghiêu, Thuấn – lúc này Ngũ
đế có Tam hoàng, ngôi vị không thua kém Thiên Hoàng Thượng
đế. [2] Thái Hiệu, Hoàng đế, Thần Nông, Thiếu
Hiệu, Chuyên Húc [3] Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế,
Thiếu Hiệu, Chuyên Húc,… Ở đây có thể coi Ngũ
đế là tượng trưng cho Vua nói chung.
(…) Thượng thư
là đứng đầu các bộ. Triều đình dưới
đất có 6 bộ là Lễ, Binh, Hình, Lại, Công, Hộ,
thì trên Thiên đình có bộ Ôn, Đẩu, Hỏa, Vũ,
Lôi …
(…) Tam Công: Thái sư, Thái
phó, Thái bảo, có vai trò cố vấn cho vua. Cửu khanh: 9
chức quan từ thời Chu: Chủng tế, Tư đồ, Tăng bá,
Tư mã, Tư không, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo,
coi hết các công việc trong triều.
Thiên Cực Polaris
Bắc Cực North Polaris
Tam Viên: Three Enclosures
Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure
Thái Vi: Supreme Palace
Enclosure
Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 4:17am
6. NHỊ
THẬP BÁT TÚ
Tam Viên nằm ở khu vực
giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu
vực dải nằm giữa con đường mà mặt
trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban
ngày được phân chia theo 28 chòm – 28
Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi
chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần
nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không
phải là sáng nhất.
Có tài liệu nói rằng ghi chép
về Nhị thập bát tú đã được tìm
thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở
Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất
là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết
về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ
hành thì phải đến đời Tần mới có, và
việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể
là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ,
giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều
đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ
cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh
Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28.
Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối
quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng
cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú.
Quanh Thiên Cực
được quy ước chia làm 4 phương Đông
Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là:
Thanh
Long – Rồng xanh -
phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:
Giác –
Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ.
Bạch
Hổ - Hổ trắng -
phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:
Khuê –
Lâu – Vị -
Mão – Tất – Chủy – Sâm.
Chu
Tước – Chim đỏ -
phương Nam - hành
Hỏa, mùa hạ, gồm:
Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương –
Dực – Chẩn.
Huyền Vũ – Rùa, rắn
đen (1) – phương Bắc, hành
Thủy, mùa đông, gồm:
Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy –
Thất – Bích.
Nếu
xếp theo vòng Đông – Tây – Nam –
Bắc thì như vậy.
Có
thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông
thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh
Long – Chu Tước – Bạch
Hổ - Huyền Vũ.
Tuy
nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng
vận động trời đất là Đông – Bắc
– Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ,
tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu
Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác –
Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu
– Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê
– Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh
– Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.
Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc
biệt. Mỗi tên gồm 3
chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên,
không thống nhất. Trong đó có bộ phận
cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có
đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có
con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc
(phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm
(gốc, hư,…). Dường như không có
quy tắc. Việc này có lẽ phản
ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại.
Chữ
thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo
thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt -
Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng
sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết
Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn
khổ quy luật vào đây.
Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm
cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại.
Con
số 7 cũng là một cơ số quan trọng
đối với người Trung Hoa. Có
học giả cho rằng thời cổ đại
người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới
dùng cơ số 7, nên để lại một số
dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín
ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo
nhiều hơn.
Các chòm
này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều
nhất là 22, nằm trong phạm vi
những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy
đủ, số sao, và thống kê đối chiếu
với các chòm phương Tây.
TT
|
Khu
vực
|
Tên
Hán
|
Tú
|
Tên đầy
đủ
|
Ý Nghĩa
|
Thất Chính
|
Con
vật
|
Số sao
|
Tương
ứng
|
Chủ tinh
|
1
|
Đông
Thanh Long
Mùa Xuân
|
|
Giác
|
Giác Mộc Giảo
|
Sừng
|
Sao
Mộc
|
Cá
sấu
|
2
|
Virgo
|
a
Spica
|
2
|
|
Cang
|
Cang
Kim Long
|
Cổ
|
Sao Kim
|
Rồng
|
4
|
t
|
3
|
|
Đê
|
Đê
Thổ
Lạc
|
Gốc
rễ
|
Sao
Thổ
|
Nhím |
4
|
Libra
|
a2
|
4
|
|
Phòng
|
Phòng
Nhật Thố
|
Phòng
|
Mặt
Trời
|
Thỏ
|
4
|
Scor-pius
|
d
|
5
|
|
Tâm
|
Tâm
Nguyệt Hồ
|
Tim
|
Mặt
Trăng
|
Cáo
|
3
|
a
Antares
|
6
|
|
Vĩ
|
Vĩ
Hoả
Hổ
|
Đuôi
|
Sao
Hỏa
|
Hổ
|
8
|
m
|
7
|
|
Cơ
|
Cơ
Thuỷ Báo
|
Giỏ
|
Sao
Thủy
|
Báo
|
4
|
Sagitta-
rius
|
g2
|
8
|
Bắc
Huyền Vũ
Mùa Đông
|
|
Đẩu
|
Đẩu
Mộc Giải
|
Đấu
|
Sao
Mộc
|
Giải
|
6
|
f
|
9
|
|
Ngưu
|
Ngưu
Kim Ngưu
|
Trâu
|
Sao Kim
|
Trâu
|
6
|
Capri-
conus
|
b
|
10
|
|
Nữ
|
Nữ
Thổ
Bức
|
Nữ
|
Sao
Thổ
|
Dơi |
3
|
Aquarius
|
e
|
11
|
|
Hư
|
Hư
Nhật Thử
|
Hư
không
|
Mặt
Trời
|
Chuột
|
2
|
b
|
12
|
|
Ngụy
|
Nguỵ
Nguyệt Yến
|
Mái
|
Mặt
Trăng
|
Én
|
3
|
Aquarius/
Pegasus
|
a
|
13
|
|
Thất
|
Thất
Hoả
Trư
|
Nhà
|
Sao
Hỏa
|
Lợn
|
2
|
Pegasus
|
a
|
14
|
|
Bích
|
Bích
Thuỷ Dư
|
Tường
|
Sao
Thủy
|
Cừu
|
2
|
g
|
15
|
Tây
Bạch
Hổ
Mùa
Thu
|
|
Khuê
|
Khuê
Mộc Lang
|
Chân
Bước
|
Sao
Mộc
|
Sói
|
16
|
Andro-meda
|
d
|
16
|
|
Lâu
|
Lâu
Kim Cẩu
|
Đai
|
Sao Kim
|
Chó
|
3
|
Aries
|
b
|
17
|
|
Vị
|
Vị
Thổ
Trệ
|
Bụng
|
Sao
Thổ
|
Trĩ
|
3
|
41
|
18
|
|
Mão
|
Mão
Nhật
Kê
|
Lông
|
Mặt
Trời
|
Gà
|
7
|
Taurus
|
h
Pleiades
|
19
|
|
Tất
|
Tất
Nguyệt Ô
|
Lưới
|
Mặt
Trăng
|
Quạ
|
8
|
q
|
20
|
|
Chủy
|
Chuỷ
Hoả Hầu
|
Mỏ
rùa
|
Sao
Hỏa
|
Khỉ
|
3
|
Orion
|
j
|
21
|
|
Sâm
|
Sâm
Thuỷ Viên
|
3 Vì
sao
|
Sao
Thủy
|
Vượn
|
7
|
d
|
22
|
Nam
Chu Tước
Mùa
Hạ
|
|
Tỉnh
|
Tỉnh
Mộc Hãn
|
Giếng
|
Sao
Mộc
|
Bò
|
8
|
Gemini
|
h
|
23
|
|
Quỷ
|
Quỷ
Kim Dương
|
Quỷ
|
Sao Kim
|
Dê
|
5
|
Cancer
|
d
|
24
|
|
Liễu
|
Liễu
Thổ Chương
|
Cây
liễu
|
Sao
Thổ
|
Cheo
|
8
|
Hydra
|
s
|
25
|
|
Tinh
|
Tinh
Nhật Mã
|
Sao
|
Mặt
Trời
|
Ngựa
|
7
|
a
|
26
|
|
Trương
|
Trương
Nguyệt Lộc
|
Giăng
lưới
|
Mặt Trăng
|
Hươu
|
6
|
n1
|
27
|
|
Dực
|
Dực
Hoả
Xà
|
Cánh
|
Sao
Hỏa
|
Rắn
|
22
|
Crater
|
a
|
28
|
|
Chẩn
|
Chẩn
Thuỷ Dẫn
|
Xe
|
Sao
Thủy
|
Giun
|
6
|
Corvus
|
g
|
Trong
đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương
Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc
dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời
bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên
trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay
vòng (trên bầu trời phương vị ngược
với mặt đất).
Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát
tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là
chủ tinh. Đường màu
đỏ ở giữa là Thiên xích đạo,
đường cong màu xanh là Hoàng đạo.
Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân
Chòm Huyền Vũ –
phía Bắc, mùa Đông
Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu
Chùm Chu Tước phía Nam mùa Hạ
Việc
phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và
người Trung Hoa không muốn thay đổi những
kiến thức của người đi trước, nên
họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái
tiện lợi là xác định đường đi
của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện.
Trước hết là các chòm không chiếm
những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn
hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3
độ. Điều này là do độ lớn các
chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi
chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất
khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm
lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học.
Trong
văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao
nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị
thập bát tú. Các chòm sao của Ấn
Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng
trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời.
Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm
sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa
thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn,
để thống nhất với quan sát, khoa học và
truyền thống bản địa.
Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa
của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý
nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê
tượng trưng cho Văn học, và ở Văn
miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng
trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học,
trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải
chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn
học. Nhà Đường lập thư
viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú
gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao.
Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì
gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống
Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang
đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con
vật mang hình người, khi cần họ có thể
biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong
đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo.
Hơn
thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời
sống, đến mức khi nói đến vật
cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói
đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư
Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành,
kết hợp tạo nên những phạm trù đặc
biệt.
Trong
cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”,
Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ
thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng
tương ứng với mạch vận động 1 chu
trình trong cơ thể con người.
(1) Hình tượng Huyền Vũ có liên
quan mật thiết đến một vị thần có
vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên
Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là
Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn,
Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh
đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy,
Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và
Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong
Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là
gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior.
Tú hsiu
(mansion)
Thạch
Thân: Shi Shen
Cam
Đức: Gande
Vu Hàm: Wu Xian
Tư
Mã Thiên: Sima Qian
Sử
Ký: Shiji
Trương
Hoành Zhang Heng
Tổ
Xung Chi: Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung
Chi, Cui Zhongji
Tô
Tống: Susong
Nhất
Hành: Yi Xing
Hỗn
Thiên: Hu tian
Tam
Viên: Three Enclosures
Tử
Vi: Purple
Forbidden Enclosure
Thái Vi:
Supreme
Palace
Enclosure
Thiên
Thị: Heavenly Market
Enclosure.
Nhị
thập bát tú: 28 Mansions
Bắc
Đẩu: Big dipper
Thanh
Long: Green Dragon – Azure Dragon
Bạch
Hổ: White Tiger
Chu
Tước: Red Bird, Red Sparrow,
Vermilion Bird,
Huyền
Vũ: Black Warrior, Black
Tortoise, Murky Tortoise
Bát
Quái: Ba Gua, Eight Trigrams,
Tiên
thiên: Earlier Heaven, Primal
Arrangement –
Hậu
thiên: Ater Heaven, Inner World
Arrangement
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 4:19am
7. THIÊN CƯƠNG
ĐỊA SÁT
Tam Viên 60 chòm hơn
220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn
vì sao khác được nhóm thành các chòm và một số sao
độc lập. Các chòm này được gọi chung là
các chòm Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để
cho đẹp đẽ con số và phù hợp với
cơ số 9 vốn được coi là cơ số hoàn
thiện của trời đất, người ta
thường nói là 36 Thiên cương và 72 Địa sát.
Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn
thế, và cũng không phải chỉ đặt tên với
chữ Thiên hoặc Địa.
Chẳng hạn
trong cung ứng với Giác có các chòm Bình tinh, Nam môn; trong cung
Cang có các chòm sao Trụ, Thiên điền; trong cung Đê có
Dương môn,…, rồi các sao Văn nhân, Lão nhân, các chòm Cửu
đài, Nhị sư, Bắc khách sư môn,…, khắp
trời.
Tuy nhiên các chòm sao dù
có sáng đến đâu nhưng không nằm ở vị trí
có ý nghĩa hình học hoặc dùng để phân
định vị trí, các cung,…, thì cũng không
được dùng nhiều. Chẳng hạn sao Thiên Lang
sáng nhất bầu trời, Ngưu Lang và Chức Nữ
cũng rất sáng, nhưng không nằm trong khu vực
đặc biệt nào, nên cũng không được
vẽ trong các bản đồ. Những sao đó có vị
trí đặc biệt trong chiêm tinh hơn là trong ghi nhận
thiên văn khoa học. Như sao Thiên Lang được ghi lại trong
Lịch sử Trung Hoa có rất nhiều lần biến
đổi màu sắc, khi thì xanh, khi thì vàng, khi lại
đỏ, rồi có sừng, có tia,…, nhưng sự
thực là nó không bao giờ đổi màu. Đó chẳng
qua là sử sách gán cho nó vai trò điềm báo trước,
nên trong những thời kỳ biến động của
lịch sử, nó được viết cho phù hợp,
cũng giống như việc khi có vua thánh ra đời
thì rồng vàng xuất hiện vậy.
Nhị
thập bát tú: 28 Mansions
Bắc
Đẩu: Big dipper
Thanh
Long: Green Dragon – Azure Dragon
Bạch
Hổ: White Tiger
Chu
Tước: Red Bird, Red
Sparrow, Vermilion Bird,
Huyền
Vũ: Black Warrior, Black
Tortoise, Murky Tortoise
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 4:23am
Phần II.
Vũ trụ quan Phương Đông
Có lẽ từ Vũ Trụ đã quen thuộc với
mọi người, được dịch ra là Universal, là
khái niệm Toàn thể. Đây là từ Hán, xuất
hiện trong Đạo Đức Kinh: “Cái có thực mà
không xác định được nơi chốn thì gọi
là Vũ, cái lâu dài mà không truy được nguồn gốc
thì gọi là Trụ”. Như vậy Vũ là
Không gian vô tận, Trụ là thời gian Vô tận. Những từ Càn Khôn, Thiên Địa, Trời
Đất chỉ thể hiện phần nào khái niệm của
Vũ trụ mà thôi.
8. NHỮNG
TRUYỀN THUYẾT
Thần
thoại về Khai thiên Lập địa của Trung Hoa có
nhiều, và không thống nhất. Tại
đây chỉ nêu tư tưởng qua một số truyện
mà thôi.
Khởi
thủy Thế giới
Hãy nghe huyền thoại
Bàn Cổ mở mang
“Giữa khoảng
mênh mông hỗn độn, mờ mịt chưa phân, như
lòng trắng lòng đỏ trứng gà, có một người
là Bàn Cổ, lấy cái khí trong mà nhẹ bên trên tạo thành
trời, cái đục mà nặng bên dưới tạo
thành đất. Bàn Cổ mỗi ngày biến
đổi chín lần, mỗi ngày cao thêm một trượng,
trời cao thêm chừng ấy và đất dầy thêm chừng
ấy. Ông sống một vạn tám ngàn năm, thì trời
cao lắm và đất dày lắm. Khi ông chết, hai mắt
thành mặt trời mặt trăng, nước mắt
thành sông, mỡ thành biển cả, thân thể thành núi non, râu tóc thành cây cối…”
Và những dòng
đầu tiên của câu truyện nổi tiếng Tây Du Ký
của Ngô Thừa Ân:
“Từng nghe số
của trời đất, gồm một trăm hai
mươi chín nghìn sáu trăm năm (129,600) gọi là một
Nguyên, chia làm 12 Hội là: Tí Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ
Mùi Thân Dậu Tuất Hợi; mỗi Hội
là một vạn tám trăm năm (10,800).
Khi
đó vào cuối hội Tuất là lúc tất cả tối
tăm mờ mịt.
Sang
đến hội Hợi tất cả còn hỗn độn,
chưa phân chia.
Trải năm
nghìn bốn trăm năm (5400), hội Hợi sắp hết
quay lại từ đầu, chuyển sang hội Tý, mới
dần dần tách biệt.
Sang
hội Tý, trời đất bắt đầu có rễ,
Âm Dương giao hoà thành gốc của vạn vật.
Trải 5400
năm, đúng giữa hội Tý, những thứ nhẹ
trong bay lên thành Trời, tạo ra Nhật Nguyệt Tinh Thần
tức là Tứ Tượng. Cho nên nói Trời mở ở
Tý.
Trải qua 5400
năm, hội Tý sắp hết, dần sang hội Sửu,
đất dần dần ngưng kết.
Lại trải
qua 5400 năm, đúng giữa hội Sửu, những thứ
nặng đục ngưng xuống tạo ra Nước,
Lửa, Núi, Đá, Đất gọi là Ngũ hình, cho nên nói
Đất (Khôn) mở ở Sửu.
Lúc này giao hoà Âm
Dương mà sinh ra Bát quái: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn
Ly Khôn Đoài.
Lại qua 5400
năm, đúng vào hội Dần, sinh Người, sinh Thú,
sinh Chim, gọi là Tam Tài. Cho nên nói Người
sinh ra ở Dần.
Khi đó thế
gian có 4 châu lớn là Đông Thắng Thần châu, Tây
Ngưu Hạ châu, Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lư
châu.”
Truyện
Bàn Cổ hoàn toàn hoang đường, nên chỉ được
coi như truyện cổ tích. Còn
quan niệm như trong Tây Du Ký mô tả mới được
coi là chủ đạo về tạo lập thế giới
của người Trung Hoa. Theo đó Quan niệm về
sự hình thành của vũ trụ rất rõ ràng: Tự
nhiên vận động mà thành, không có một Đấng
sáng thế nào tạo ra. Tự nhiên hay còn gọi là Trời,
Tạo hóa, là hằng tồn, bất biến, nhưng không
phải là người. Chính vì thế đã có
ông vua đời Thương mang cung tên ra bắn Trời,
hoặc dân chúng oán trách trời.
Điều đặc
biệt là trước khi có Nguyên hiện tại (sinh ra Trời
Đất) thì trong thuyết đó đã đề cập
đến một Nguyên trước đó rồi, mà dòng
đầu tiên, “cuối hội Tuất”, tức Hội Tuất
của Nguyên trước đó. Như vậy trước
khi hình thành thế giới này, đã từng có “một cái
gì đó”, nhưng rồi hỗn độn, để phân
chia trở lại, thành Trời Đất hiện tại.
Vào thời
kỳ nhà Thương, người Trung Hoa đã không coi có
một Đấng Thượng đế tối cao Sáng tạo
là người hữu hình, nguyên thủy nữa. Đời
sau đặt Vua cho Trời, đó là Ngọc Hoàng Đại
đế, hay Thiên hoàng Thượng đế. Nhưng Ngọc
Hoàng vốn chỉ là Người, đã tu hành tới 1550
kiếp, nắm giữ được quy luật của
thiên nhiên, mà lên Thiên đình làm vua. Tất cả các thần
thánh đều từ con người, hoặc sinh vật
chuyển hóa. Không ai trong số đó có khả
năng tạo ra thế giới như trong Kinh thánh Kitô
giáo. Thậm chí một con khỉ như
Tôn Ngộ Không cũng đòi cướp cái ngôi vị ấy,
làm vua bầu trời. Con khỉ đó là sản phẩm
của tự nhiên, khi có khả năng nhất định
là có quyền đòi làm vua, chứ không có quyền đòi
sáng thế. Ngọc Hoàng Thượng đế có khả
năng chi phối, điều khiển một số hiện
tượng tự nhiên, nhưng không thể tiêu diệt tự
nhiên được như ngày Tận thế do Thiên Chúa
giáng xuống trong Kitô giáo được.
Trong quan niệm cổ,
người Trung Hoa chia Thế giới làm 3: Thượng
nguyên là Trời, Trung nguyên là Đất, Hạ nguyên là Biển.
Đất nước của họ nằm giữa Thế
giới nên cũng chính là Trung nguyên, chia ra ngũ phục, ra
bốn phía là chốn hoang vu và bao quanh là Biển, gồm 4
Đại hải Đông tây nam bắc. Thực ra họ
không bao giờ gặp được biển phía Tây, vì
đi mãi là gặp sa mạc.
Nhưng rồi cái
thế giới quan đó bị lung lay
khi có sự giao thoa với các nền văn hóa phía Tây
như Babylon và Ấn
Độ. Họ dần nhận ra miền đất giữa
hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang)
không hoàn toàn là trung tâm thế giới. Đến khi có Phật
giáo du nhập từ Ấn Độ, quan niệm
được mở rộng hơn, Thế giới có 4
Đại bộ châu, Trung Quốc chỉ ở Đông Thắng
Thần châu mà thôi, và bên dưới đất còn có Địa
ngục là cõi để luân hồi.
Con người trong Vũ trụ
Những
Người đầu tiên là ai. Có nhiều thuyết.
(1). Bàn Cổ
Thuyết
phổ biến nhất là Bàn Cổ, như đoạn
đầu đã viết.
Theo
thuyết này, Bàn Cổ là Thiên hoàng, rồi đến Địa
hoàng, Nhân hoàng. Sau đó mới có các họ Hữu
Sào, Toại Nhân, rồi đến Ngũ
đế.
Hữu Sào có nghĩa
là Có tổ, tức làm tổ trên cây, con người thoát khỏi
thuở hồng hoang. Toại Nhân là giống
người biết làm ra lửa. Lửa chính là phát
minh vĩ đại nhất thời tiền
sử của con người. Lửa là công cụ, vũ
khí, là biểu tượng văn minh của loài người
Nhưng Tam hoàng cũng
có thể là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, còn Ngũ
Long, Hữu Sào, Toại Nhân là tam Vương. (Tam
vương Thái cổ khác với Tam vương Thượng
cổ là Thành Thang, Văn vương, Vũ vương
đời Thương Chu).
(2). Phục Hi và Nữ Oa.
Phục
Hi và Nữ Oa vừa là anh em vừa là vợ chồng hoặc
là hai nửa của một bản thể, là Vô thượng
Nhân tổ phụ và Nhân tổ mẫu. Tự họ sinh ra trên thế gian, không có ai trước
họ. Phục Hi khởi thủy mang hình rồng, Nữ
Oa khởi thủy mang hình rùa, hoặc cả 2 có chung 1 thân con rắn. Từ
đó sinh ra nhân loại. Tiếp theo
sau họ Phục Hi (Phục Hi thị) là họ Thần
Nông (Thần Nông thị) rồi đến Hoàng đế
là Tam hoàng. Sau nữa mới đến Ngũ
đế (*)
(3). Bàn Cổ và Nữ Oa.
Thuyết
nói rằng Nữ Oa được sinh ra từ Bàn Cổ,
và rồi lại cùng Bàn Cổ sinh ra nhân loại.
Các thuyết đều
chỉ là truyền thuyết, không quan trọng bằng
tư tưởng không có đấng sáng thế, chỉ có
tự nhiên vận động mà thành là cốt yếu, khác
hẳn với khái niệm Đấng sáng thế
phương Tây. Khái niệm Thượng đế do
đó cũng chỉ mang ý nghĩa một vị vua trên trời
cao, chứ không phải là đấng Toàn năng, toàn quyền,
Sáng thế (Creator, Almighty). Vũ trụ không
có Đấng ngự trị nào cả.
Dù ai là
thủy tổ, thì người Trung Hoa cũng vẫn coi trọng
nhất 3 vị Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế.
Ba vị
được tôn là Khai thiên Tịch địa Thái hạo
hoàng Thượng đế, tức các vị vua tối cao
mở trời định đất, là khởi thủy của
văn minh con người. Như vậy
vai trò của họ còn cao hơn Ngọc Hoàng Thượng
đế là vị vua trời xuất hiện về sau.
Phục Hi – ngửa đầu nhìn tượng
trời, cúi đầu xem thế đất, soi lấy cái
thần minh của tạo hóa mà định ra Bát quái, làm
cơ sở cho thế giới quan Trung hoa, dạy con
người săn bắt, hái lượm; đại diện
cho giai đoạn con người tìm hiểu nhận thức
và khái thác tự nhiên. Phục Hi còn gọi là Thái Hạo, tức
rất sáng suốt, chói lọi.
Thần Nông – dậy cho dân biết nuôi trồng,
cầy cấy, đi nếm từng loại lá cây để
làm thuốc, đại diện cho giai đoạn con
người chinh phục tự nhiên, sản xuất nông
nghiệp, cùng với việc dùng thuốc từ thiên nhiên.
Hoàng Đế - còn gọi là Hiên Viên,
làm ra trang phục (Phục Hi, Thần Nông chỉ dùng lá cây
che thân), định ra các luân lý, pháp luật, nghiên cứu
cơ thể để trở thành Y thuật, với cuốn
Hoàng đế Nội kinh làm căn bản. Hoàng
đế đại diện thời đại này xã hội
đã hình thành chặt chẽ, các giá trị văn hóa
được xác lập, các mối quan hệ xã hội dần
được chuẩn hóa. Hoàng đế
được coi là tổ của người Hán.
Ba vị vua thượng
cổ thuộc về truyền thuyết, nên việc gán thời
đại Phục Hi 2852 TCN, Thần Nông 2737 TCN, Hoàng Đế
2697 TCN không mang nhiều ý nghĩa. Quan trọng
hơn là việc hình tượng hóa sự xây dựng nền
văn minh, mà về nhận thức tự nhiên thì Phục
Hi đóng vai trò quan trọng nhất, là ông tổ của thế
giới quan phương Đông.
Hình dạng Vũ trụ
Nữ
Oa là Cửu Thiên Huyền Nữ, một vị nữ thần
tổ mẫu trong quan niệm cổ. Khi
Cung Công và Chúc Dung (thần nước và lửa) đánh
nhau, Cung Công thua đã đập đầu vào núi Bất
Chu là cột chống trời làm núi đổ, trời rách
góc đông bắc, đất sụt góc tây nam, thế gian
nguy khốn. Nữ Oa đã luyện đá vá
trời liền lại, không cần dùng đến cột
chống nữa mà trời vẫn yên, đất vẫn lành.
Quan niệm
cho trời giống như một tấm vỏ bọc trùm
lên trên mặt đất giống như một mái nhà, với
cột chống kèo đỡ. Khí
trong mà nhẹ bay lên, cứng rắn lại thành trời,
khi đục mà nặng ngưng xuống, đọng lại
thành đất. Người Trung Hoa không
giải thích là bên trên trời còn gì nữa, và đất sâu
đến bao nhiêu. Lúc này mới chỉ
có khái niệm dưới đất là cõi của người
chết, chứ chưa hẳn là khái niệm Địa ngục
nơi trừng trị người chết, vốn là sản
phẩm truyền từ Ấn Độ.
Cũng vì mong muốn
giải thích về điều này mà hình thành 3 trường
phái
- Phái thứ
nhất cho rằng trời trùm lên mặt đất,
đất phẳng dẹt, trời tròn đất
vuông. Nhưng về sau thấy không khớp nhau nên cũng
cho rằng đất tròn nốt. Đất được
vây quanh bởi biển cả. Quan niệm này giống
châu Âu trung cổ.
- Phái Hỗn
thiên: Khởi đầu từ Trương Hoành, cho rằng
trời đất giống như quả trứng, mà
Đất nằm lơ lửng bên trong như lòng đỏ,
gần nhất với sự thực. Tuy nhiên do cảm
thấy khó giải thích tiếp nên phái này không dám đi
xa cho rằng “phía bên kia” cũng là mặt
đất như phía bên này.
- Phái thứ
ba cho rằng trời cao vô cùng, đất sâu vô cùng, giống
như biển. Các thiên thể trôi trên trời giống
như sóng biển và thủy triều. Và tất cả
trải đến vô cùng vô tận theo
chiều ngang, không có được hình dạng xác
định.
Thần thánh
Tín
ngưỡng phương Đông là đa thần chứ
không phải độc thần như phương Tây. Tự
nhiên vốn là chính nó, chỉ có những con người (hoặc
thậm chí con vật, cây cối) có khả năng nhất
định thì chi phối điều khiển được
nó, bắt nó phục vụ theo ý của
mình, chứ không thể sáng tạo ra nó cũng như tiêu diệt
nó. Do đó không chỉ một mà nhiều người cùng
có khả năng điều khiển một yếu tố
tự nhiên.
Số
lượng các vị thần thánh là nhiều vô cùng. Hầu
như không có vị thần nào cai quản
được tất cả những gì thuộc về
mình. Thủy đức tinh quân cai quản
về nước, nhưng khi nước do thần này
đổ ra chảy xuống rồi thì cũng không thể
thu lại, mà nước lại phải lấy từ sông
hồ, do các Long vương cai quản. Hỏa đức
tinh quân cai quản về lửa, có các vật
dụng phóng hỏa, nhưng không có quyền với lửa
trong lò bát quái, lửa tam muội nhà phật.
Các vị
thần thánh trên trời chi phối những yếu tố
thuộc về tự nhiên. Do sự du nhập của
Phật giáo, rất nhiều thần thánh Trung hoa có gốc
từ Ấn Độ, cũng định ra 33 tầng trời,
mà vị vua là Ngọc Hoàng thượng đế, có vị
trí là Thiên chủ giống như Đế Thiên Đế
Thích (Indra) chứ không phải Đấng sáng tạo. Trên trời, một cơ cấu xã hội
được định ra giống như dưới mặt
đất. Có các thứ bậc cao thấp,
có tranh chấp, chiếm đoạt, giết chóc, cũng lấy
nhau sinh con đẻ cái. Có vị thần nhỏ bé hạ
tiện phải hầu hạ vị thần cao cấp
hơn, thưởng phạt, thăng quan tiến chức.
Chư Thần hoàn toàn là một xã hội, một xã hội
tưởng tượng mà người trần mơ ước,
nơi họ làm những công việc theo
quyền hạn và nghĩa vụ, và không.phải lo cuộc
sống vật chất.
Bên cạnh
thần thánh còn có bậc tiên. Đó
là những người tu luyện đạt đến mức
độ hòa nhập với thiên nhiên, trường sinh bất
lão. Tiên không có chức vụ, tự do hơn thần
nhưng cũng ít quyền lực hơn thần.
Các thiên thể trên
trời đều có thần thánh cai quản.
Nhưng họ cũng chỉ có vai trò là
người đại diện. Sự chuyển động
của các thiên thể không phải do họ quyết định,
mà là tự thân thiên thể đó vận hành. Đường
đi của Mặt trời, Mặt trăng không phải
do Thái dương, Thái âm Tinh quân thay đổi được.
Khi các vị này có việc rời khỏi “mảnh
đất” của mình (do Ngọc Hoàng sai bảo chẳng hạn)
thì các thiên thể vẫn di chuyển bình thường.
Trong cuốn
truyện “Phong thần”, có thể thấy việc gán những
con người vào với các thiên thể như thế nào. Vai trò
các thần chỉ giới hạn ở việc cai quản sự vật với con người
dưới mặt đất mà thôi.
Thần
thánh tiên dù là bậc trường sinh bất lão và có thể
bất tử, nhưng vẫn có một khái niệm bao trùm
lớn hơn là Số Mệnh. Thậm chí có thể gọi
đó là Thiên Mệnh, là Trời. Đó là quy luật khách quan, cái đã vận hành
sinh ra vũ trụ, mà thần thánh cũng chỉ là một
bộ phận nhỏ của tự nhiên, không thể nằm
ngoài quy luật đấy.
Nếu
Số Mệnh đã đến, thì Tôn Ngộ Không cũng
có thể làm Thượng đế được.
(Khi có
Phật giáo truyền vào, thì mới hình thành tư tưởng
vượt ngoài vòng Số Mệnh đó).
Khi mới đến
Trung hoa, các giáo sĩ phương Tây đã phải dùng danh
xưng Thượng đế để gọi Đấng
sáng tạo, sau đó mới đổi thành Thiên Chúa, để
khác biệt với các vị Thượng đế vốn
chỉ là các thần.
Một số thần thánh quan trọng
- Ngọc Hoàng thượng đế: hiệu
đầy đủ là Cao Thiên thượng thánh Đại
từ Nhân giả Ngọc hoàng Đại thiên tôn Huyền
khung Cao Thượng đế.
- Trung thiên Bắc Cực Tử vi Đại đế
(có người đồng nhất với Ngọc
Hoàng)
- Thác Tháp Lý thiên vương (Lý Tĩnh): đứng
đầu về đánh trận
- Tứ đại thiên vương gồm: Tăng
Trường, Quảng Mục, Đa Văn, Trì Quốc,
coi giữ 4 cửa trời Đông Tây Nam Bắc (4 vị
này lấy từ Ấn Độ)
- Cửu Diệu tinh quân: gồm Thái Âm, Thái
Dương tinh chủ thiên vương đế quân và
Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tinh quân
- Nhị thập bát Tú
- Tam thập lục Lôi thần
- Tứ trực Công tào: Thời (giờ), Nhật
(ngày), Nguyệt (tháng), Tinh (năm)
- Ngũ nhạc Thiên tề Đại đế
- Tam thanh, Tứ đế, Ngũ lão, Lục ty, Thất
nguyên, Bát Cực, Cửu diệu, Thập đô
(*) Thời
Thái cổ, ngôi vị Hoàng và Đế chỉ dành cho các vị
vua huyền thoại. Hai chữ này vốn có nghĩa
là người được tôn quý ở bên trên (như mặt
trời) và được mọi người nghe theo. Các vị Vua thời Thượng cổ
Hạ Thương Chu xưng là Vương, Chữ
Vương gồm 3 vạch ngang và 1 vạch dọc nối
lại, với ngụ ý vua là người liên kết cả
Trời ở trên, Đất ở dưới, và Người
ở giữa. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung
Quốc, coi mình công vượt Tam hoàng, đức hơn Ngũ
đế, nên mới ghép lại thành ngôi vị Hoàng đế. Ngoài ra trong nghĩa cổ,
Hậu cũng có nghĩa là vua, sau mới dành riêng để
gọi phụ nữ.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 8:57am
Cách cúng Giải Hạn Tam Tai năm 2012 – Nhâm Thìn
Theo phong tục và chiêm
nghiệm của các nhà Chiêm Tinh xưa. Ngoài việc cúng Sao giải Hạn hằng
năm, những tuổi gặp năm Tam Tai cũng nên http://phongthuyhoc.com/tag/cung-giai-han - cúng giải hạn , cụ thể như năm Nhâm Thìn (2012) thì có 3 tuổi như sau bị http://phongthuyhoc.com/tag/han-tam-tai - hạn Tam tai : Tuổi Thân, tuổi Tý, tuổi Thìn. Khi vào vận tam tai thì hay khốn đốn, trắc trở, vất vả. Đặc biệt là
khi cả vợ chồng cùng nằm trong tam hợp tuổi nói trên vì đôi bên đều phải
mệt mỏi cùng lúc.
Mức độ cộng hưởng sẽ làm ảnh hưởng nặng đến gia đình. Đó cũng là
thiệt thòi của các tuổi hợp. Nếu vợ chồng không cùng tam hợp thì hạn rải
rác sẽ đỡ áp lực hơn.
- Một số việc xấu thường xảy đến cho người bị Tam tai:
+ Tính tình nóng nảy bất thường.
+ Có tang trong thân tộc.
+ Dễ bị tai nạn xe cộ.
+ Bị thương tích.
+ Bị kiện thưa hay dính đến pháp luật.
+ Thất thoát tiền bạc.
+ Mang tiếng thị phi.
+ Tránh cưới gả, hùn vốn, mua nhà và kỵ đi sông đi biển.
Ba tuổi Thân, Tí, Thìn phạm Tam Tai vào ba năm Dần (đầu Tam Tai), Mão
(giữa Tam Tai), Thìn (cuối Tam Tai). Ảnh hưởng xấu như sau:
+ Vào năm Dần (2010) thì gặp Thiên Linh Tinh Quân, hao vật tổn người, lây nhiễm bệnh nặng, bị người lường gạt.
+ Vào năm Mão (2011) phùng Thiên Hình Tinh Quân, bị pháp luật hình phạt hoặc tai nạn đâm chém, bị mỗ xẻ.
+ Vào năm Thìn (2012) ngộ Thiên Kiếp Tinh Quân, bị trộm cướp mất tài
sản, tiền bạc, hoặc bị người áp chế, cưỡng bách làm việc phi nghĩa,thất
đức.
CÁCH CÚNG GIẢI HẠN NĂM TAM TAI :
Ngoài cúng Sao giải Hạn hàng năm, những tuổi gặp năm Tam Tai cũng nên cúng giải hạn như sau:
Cúng Thần Tam Tai: Cổ nhân thường căn cứ Tam Tai rơi vào năm
nào, ứng với năm đó có một ông Thần, và vào ngày nhất định
hàng tháng, hướng nhất định tiến hành lễ dâng hương để giải
trừ Tam Tai.
Xem bảng Tam tai của 3 tuổi: Thân, Tý, Thìn sau đây:
Năm Dần (2010): Ông Thiên Hình, cúng ngày 15, lạy về hướng Đông Bắc.
Năm Mão (2011): Ông Thiên Hình, cúng ngày 14, lạy hướng Đông
Năm Thìn (2012): Ông Thiên Cướp, cúng ngày 13, lạy hướng Đông Nam.
- Lễ cúng tại ngã ba, ngã tư đường, nhưng thời nay việc cúng
tại ngã ba, ngã tư đường là việc khó coi, vì vậy đa số người ta cúng tại
sân, chủ yếu là do tâm thành.
- Cúng vào ngày 13 âm lịch hàng tháng (hoặc ít nhất là tháng giêng và tháng bảy âm lịch).
+ LỄ VẬT CÚNG GỒM CÓ:
- Photo tấm bài vị theo mẫu của năm Nhâm Thìn (Photo trên bìa giấy đỏ, chữ màu đen).
- Bài vị này dán trên một chiếc que, cắm vào ly gạo, mặt có chữ của
Bài vị đối diện với người đứng cúng, đặt ở giửa bàn phía trong cùng bàn
lễ.
- Sau đây là Bài vị http://phongthuyhoc.com/tag/cung-giai-han-tam-tai-nam-nham-thin - cúng giải hạn Tam tai năm Nhâm Thìn (2012):
[*Phiên âm bài vị:- ( Đọc từ phải sang trái,trên xuống dưới)
- Bốn góc: Cung - Thỉnh - Hạ giáng - Chứng Minh
- Ở giữa: Mông Long Đại Tướng Thiên Kiếp Tam tai Thổ Ách Thần Quan. ]
***********
- Gở ít tóc rối hoặc cắt chút tóc, cắt chút móng tay,
móng chân của người mắc Tam Tai , gói lại với ít bạc lẻ, để trên
1 dĩa riêng trên bàn lễ.
- 1 bộ tam sanh (tam sênh) gồm có: miếng thịt luộc , con tôm luộc
(hoặc tôm khô), trứng vịt luộc. Cúng lối chiều tối (18—19 giờ)
cúng tại trước sân (hay ngã ba đường thì tốt hơn)
- 3 cây nhang -3 ly rượu nhỏ -3 đèn cầy nhỏ -3 điếu thuốc -3 miếng trầu cau -3 xấp giấy tiền vàng bạc -1 dĩa trái cây
-1 bình bông -1 dĩa gạo muối, hai bộ đồ thế (nam hoặc nữ).
+ SẮP XẾP BÀN CÚNG:
- Bình bông để bên phải (ngoài nhìn vô) , trái cây bên trái. Tiếp
theo ở giữa , phía trước là lư hương, trong kế theo là 3 đèn, tiếp trong
là 3 ly rượu, hàng kế là 3 ly trà, trong nữa là bài vị (cắm vào ly gạo,
bề mặt có chữ quay về phía người cúng).
- Người cúng sắp đặt bàn sao cho mặt mình nhìn về hướng Đông nam ,
tức bài vị ở phía Đông nam , người cúng ở phía Tây bắc). Kế là một mâm
sắp bộ tam sênh ở giữa, trầu cau, gạo muối, thuốc hút, giấy tiền vàng
bạc để xung quanh .
- Cúng vị Thần nầy cho đến khi tàn nhang và đèn, xong rồi người cúng
không được nói chuyện với bất cứ ai, đem gói tóc móng tay ra ngã ba
đường mà bỏ, nhớ đừng ngoái lại xem, ít bạc lẻ nhớ để vào gói tóc , bỏ
luôn Tóc và móng tay ( Phải là của người bị tam tai mới được ), khi vái
cúng cho mình hoặc cho con cháu cũng phải nói rõ Họ tên của người mắc
tam tai .
KHẤN VÁI:
Người cúng đứng đối diện với bài vị (tức là nhìn về hướng Đông )
Thắp nhang, đốt đèn, châm trà rượu, cầm nhang xá ba xá, quì xuống , đưa nhang lên trán, khấn :
“Nam-mô Mông Long Đại Tướng THIÊN KIẾP Tam Tai THỔ Ách Thần Quan , hạ giáng chứng minh.
Hôm nay là ngày 13 tháng …. năm Nhâm Thìn, con tên là ……………….
tuổi:………….., hiện cư ngụ tại
……………………………………………………………………………………………………………………………….
Nay con thành tâm thiết bày phẩm vật, cầu xin “MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG THIÊN
KIẾP TAM TAI THỔ ÁCH THẦN QUAN” phù hộ độ trì cho con và toàn thể gia
đình được bình an mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, phiền não đoạn diệt,
nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách.
Thứ nguyện:- Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật Đạo.
Phục duy cẩn cáo!”
- Xá ba xá, cắm nhang vào lư hương, lạy 12 lạy (cầu cho 12 tháng bình yên).
- Châm trà, rượu đủ ba lần. Đốt thuốc cúng. Thời gian chờ nhang tàn, giữ yên lặng, vái nguyện thêm âm thầm trong tâm…
* Chờ đến tàn hết nhang đèn, âm thầm lặng thinh , không nói
chuyện với bất cứ ai, Xong, đem gói nhỏ ( tóc ,móng tay ,móng
chân ) đốt chung với 3 xấp giấy tiền vàng bạc, vừa đốt vừa van vái cho
tiêu trừ hết tai nạn. Tiền lẻ và gạo muối vãi ra đường. Chỉ mang bàn và
đồ dùng (ly tách mâm …về) .Về đến nhà phải thay quần áo mới. Đồ
cúng ai ăn cũng được (hoặc bỏ lại ngoài đường, không mang vào nhà)
,tuổi mình cúng không nên ăn.
- Ngoài việc cúng http://phongthuyhoc.com/tag/giai-han-tam-tai - giải hạn Tam tai
như trên, nếu ai thường xuyên làm việc thiện, hoặc thường xuyên phóng
sanh cá, ốc… còn sống xuống sông, ao, bàu… thì việc hóa giải Tam tai
càng hiệu quả nhanh và lại được hưởng âm phước vô lượng…
HH sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 9:13am
Hạn Cửu Diệu
Về tên sao, có tên gọi của sao và tước hiệu của người trụ trì ngôi
sao đó. Tên gọi gồm La Hầu, Kế Đô, Thái Âm, Thái Dương, Kim Tinh, Mộc
Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Thổ Tinh. Trong cổ thư cũng như Hán thư đều
gọi như vậy. Tuy nhiên, hiện nay một số sách dịch (chủ yếu ở phía Nam)
đã gọi tước hiệu của vị trụ trì thay vì tên sao. Ví dụ: Tên sao là Kim Tinh, thì tên vị trụ trì là Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân tên đầy đủ khi ghi trên bài vị là Tây Phương Canh Tân Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân. Đây cũng chính là lý do người ta hay gọi là hạn Kim Đức hay hạn Thái Bạch. Trong
phần chú giải của hạn cửu diệu trong Lịch Phù Đổng 3.x có ghi rất rõ
ràng về tên gọi, bài vị và cách khấn giải hạn sao. Nhân đây tôi cũng xin
giới thiệu lại:
Lưu ý khi làm giải hạn sao:
- Phải
làm lễ ở ngoài trời, thời gian vào buổi tối hàng tháng ứng với mỗi
ngày của từng vì sao theo quan niệm là vị chủ trì của vị sao đó sẽ đi
tuần.
- Phải đặt ban thờ đúng hướng theo chỉ dẫn
- Phải dùng giấy ghi bài vị đúng màu theo chỉ dẫn và viết đúng tước hiệu của vị chủ trì cần khấn cầu.
- Phải dùng đèn hoặc nến xếp đúng theo đồ hình của vì sao cần khấn cầu
Dưới đây là sao, đặc tính và cách làm lễ:1. Thái Dương
Đồ hình
Đặc điểm năm hạn:
● Là sao chủ về hưng vượng tài lộc, tăng thêm nhân khẩu (hôn nhân hoặc sinh con). Có lợi cho nam, không hợp với nữ. ●
Sao này là một Phúc tinh thường chiếu mệnh cho bên nam giới. Những năm
gặp sao Thái dương chiếu mệnh thì làm ăn được phát đạt, thăng quan, tiến
chức, gặp may mắn trong việc buôn bán, nhứt là vào tháng 6 và tháng 10
là hai tháng Đại cát. ● Bên nữ giới gặp sao này chiếu mệnh thì có
nhiều sự hân hoan, có bạn hữu giúp đở về tiền bạc hay làm ăn được nhiều
thuận lợi, người đàn bà có thai cũng được bình an, đứa trẻ được khỏe
mạnh, mỹ miều và duyên dáng ● Các cô gái chưa chồng gặp sao này chiếu mệnh có thể có chồng năm đó ● Người già cả trên 6, 7 mươi gặp sao này chiếu mệnh đau ốm nhẹ cũng khó qua khỏi ● Đàn ông đi làm ăn đặng sáng suốt, đi xa có tài lợi đặng an khang ● Đàn bà làm ăn hay tối tăm, tháng 6, tháng 10 tốt, có tài lợi.
Cách làm lễ:
●
Vào tối 27 hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Đông. Trên ban thờ
đặt 12 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Giấy màu đỏ, viết tên Nhật Cung Thái Dương Tiên Tử Tinh Quân Vị Tiền ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Uất Ly Cung Đại Thanh Đan Nguyên Hải Cung Thái Dương Tinh Quân Vị Tiền.
2. Thái Âm:
Đồ hình
Đặc điểm năm hạn:
● Sao chủ về sự toại nguyện về danh lợi. Phụ nữ cần đề phòng về thai sản. ● Sao này thường đem lại cho nữ giới sự điều hòa, vui vẻ, hạnh phúc, tiền tài, làm cho được toại nguyện những ước mơ của mình ●
Người đàn bà gặp sao Thái âm chiếu mệnh mà có thai nghén, nếu sinh con
gái thì nết na thùy mỹ, duyên dáng, nghiêm trang, sau này sẽ trở thành
một thiếu nữ diễm kiều, có thể là một trang quốc sắc thiên hương ●
Còn sinh con trai thì lại có tánh tình nguội lạnh, bi quan, hiền hậu, đa
cảm, ít nói, thích nghiên cứu những môn học khó khăn, có thể trở thành
nhà toán học, triết học hay tu sĩ ● Còn bên nam giới gặp sao này chiếu mệnh thì được bạn bè phái nữ giúp đở nhứt là về tiền bạc vì sao này còn gọi là tài tinh ● Người chưa lập gia đình sẽ gặp những cuộc tình duyên kỳ ngộ hay sẽ có vợ vào năm này ● Đàn ông làm việc chi cũng đặng vừa ý, cầu danh tốt, cầu tài có tài lợi ● Tháng 9 làm ăn phát tài, tháng 11 kỵ
Cách làm lễ:
●
Vào tối 26 âm lịch hàng tháng đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban
thờ đặt 7 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Dùng giấy màu vàng, viết: Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân Vị Tiền ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Kết Lâm Cung Đại Thánh Đô Diệu Nguyệt Phủ Thái Âm Tinh Quân Vị Tiền.
3. Mộc Tinh:
Đồ hình
Đặc điểm năm hạn:
● Sao chủ về sự yên vui hòa hợp ● Sao này cũng là một Phúc tinh cho cả nam và nữ ●
Người được sao Mộc tinh chiếu mệnh làm ăn gặp nhiều may mắn, có bạn
mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhơn giúp đở, đi thi cũng đậu,
làm nhà cũng tốt, mở bày việc làm ăn không bị trở ngại ● Đàn bà có
thai gặp sao Mộc tinh chiếu mệnh thì đứa trẻ sanh ra dầu trai hay gái
tánh tình cũng cương nghị, quả quyết, nhẫn nại, điềm tỉnh, đứa trẻ sẽ
được nổi danh sau này ● Nếu người thuộc mệnh Kim hay mệnh Mộc gặp sao
này chiếu mệnh thì có phần trở ngại nhưng sao này là một Phúc tinh nên
không hại gì ● Đàn ông hay bị đau con mắt, cưới gả tốt, ăn nói bình an, có tài lợi ● Đàn bà tháng chạp làm ăn phát tài lợi khá
Cách làm lễ:
●
Vào tối 25 âm lịch hàng tháng đặt ban thờ về hướng chính Đông, trên ban
thờ đặt 20 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Dùng giấy màu xanh, viết: Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân Vị Tiền. ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Thanh Văn Cung Đại Thánh Trung Quang Triều Nguyên Mộc Tinh Quân Vị Tiền.
4. Hỏa tinh
Đồ hình
Đặc điểm năm hạn:
● Sao chủ về sự thủ cựu. Cần đề phòng thương tật, thai sản, nóng nảy, nói năng cẩn thận, tránh kiện tụng. ●
Sao này vẫn hiền lành, đàn ông hay đàn bà gặp sao này chiếu mạng, mọi
việc làm ăn đều được trung bình, chỉ có kỵ về khẩu thiệt vào tháng 2 và
tháng 8 ● Đàn ông phòng quan sự, ăn nói nên lựa lời, nuôi thú vật bất lợi. ● Kỵ tháng 2, tháng 8
Cách làm lễ:
●
Vào tối 29 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Nam, trên ban
thờ đặt 15 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Giấy màu đỏ, viết: Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân Vị Tiền ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Minh Ly Cung Đại Thánh Hỏa Đức Vân Hán Tinh Quân Vị Tiền.
5. Thổ tinh
Đồ hình:
Đặc điểm năm hạn:
● Sao chủ về lòng trắc ẩn, đề phòng tiểu nhân, xuất nhập không thuận tiện. ●
Rất hợp cho cả đàn ông và đàn bà thuộc mạng Thổ, nhưng năm gặp sao này
chiếu mệnh thì trong tâm của người đó cảm thấy nổi buồn man mác, không
có chủ định vững vàng, thường hay hoài nghi công việc làm ăn, không có
hăng hái, song không gặp tai họa gì ● Người già cả năm gặp sao này mà bị bệnh thì lâu khỏi. ●
Vì sao này là hung tinh, đi đâu cũng không thuận ý, đề phòng kẻ tiểu
nhân, gia đạo không an, hay có chiêm bao mị mộng, kỵ nuôi thú, kỵ tháng
4, tháng 8, có việc lo buồn.
Cách làm lễ:
●
Vào tối 19 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban
thờ đặt 5 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Giấy màu vàng, viết tên Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Tú Tinh Quân Vị Tiền ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Hoàng Đại Thanh Thổ Địa, Địa La, Thổ Tú Tinh Quân Vị Tiền.
6. Kim tinh:
Đồ hình:
Đặc điểm năm hạn:
● Sao chủ về hao tài tốn của, không xứng ý toại lòng, đề phòng tai nạn bệnh tật. ● Sao này rất hung tợn hơn sao La Hầu, những người thuộc mạng Kim, mạng Mộc và mạng Hỏa đều Đại kỵ ● Chẳng biết bao nhiêu người bị tai nạn, tù tội, mất chức hoặc chết trong những năm có sao Thái bạch chiếu mệnh ● Cho đến việc làm nhà trong năm gặp sao Thái bạch chiếu mệnh cũng không tốt ● Nếu ai ăn ở mất âm đức, khi gặp sao này chiếu mệnh thì sẽ bị hoạn họa chẳng sai ● Vì sao này có kiết, có hung ● Đàn ông hay lo rầu rồi đặng khá, có quí nhân giúp đỡ ● Đàn bà hay đau ốm, vợ chồng hay tranh cải, ngừa tiểu nhân ● Kỵ tháng 5 và màu trắng, đàn bà nặng hơn
Cách làm lễ:
●
Vào tối 15 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban
thờ đặt 8 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ. ● Bài vị: Giấy màu trắng, viết: Tây Phương Canh Tân Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân Vị Tiền ● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Hao Linh Cung Đại Thánh Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân Vị Tiền.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 9:25am
http://tyhuu.com/doc-ngoc - Dư Âm Ngày Tết
Tết là một danh từ được rút ngắn từ “Tiết Nguyên Đán” hay là
“Ngày Hội Đầu Năm”, chính là một tục lệ đón Xuân.Tết hay năm mới (Tân
Xuân).Tết là một danh từ được rút ngắn từ “Tiết Nguyên Đán” hay là “Ngày
Hội Đầu Năm”, chính là một tục lệ đón Xuân.
Thật vậy, Tết là dịp mà người Việt Nam mừng theo âm-lịch, thường nhằm vào tháng Giêng hay tháng Hai dương-lịch.
Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp và người mình cho rằng sự tái
sinh của vạn vật trong mùa Xuân diễn tiến rất từ tốn và chậm rãi. Vì
thế, mừng Xuân không thể là một việc gấp rút. Và rằng tục ngữ ta có câu:
“Tháng Giêng ăn Tết ở nhà” !
Đành rằng không ăn Tết cả tháng, người ta vẫn dành riêng nhiều thời
giờ, ngay cả trong hoàn cảnh vội vã của Việt Nam thời nay, để sửa soạn
đón Tết hàng mấy tuân lễ trước và mừng đón Xuân về bằng cách thăm viếng
chùa chiền, cúng quẩy, cờ bạc, ăn uống cùng thăm viếng bạn bè thân hữu
hàng mấy ngày liền.
Ngay cả bây giờ, Tết vẫn còn là một dịp có thể xem tương đương với lễ
Giáng sinh và đầu năm Tây (dương-lịch) và nhiều lễ khác chung gộp lại.
Cuộc chuẩn bị để đón mừng ba ngày Tết thật là chu đáo và bắt đầu từ
nhiều ngày trước. Nhiều gia đình dành dụm suốt năm để có tiền tiêu trong
dịp Tết.
Nhà cửa được giọn dẹp ngăn nắp sạch sẻ hoặc quét vôi hay sơn lại tường vách thật là chu đáo và bắt đầu từ nhiều ngày trước.
Những câu đối viết bằng chữ Nho trên giấy hồng-điều ghi những lời chúc
đảp đẽ đầu năm Phúc-Lộc-Thọ được trưng tại những nơi trang trọng
Ở miền quê, người ta thường hay trồng một cây nêu bằng tre ở trước
sân nhà, trên có dán bùa để trừ tà ma và treo cờ để rước mời hương linh
tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu.
Bàn thờ tổ tiên được thiết lập tại hầu hết mọi nhà. Lư đỉnh và các đồ đồng thờ cúng được đánh bóng sáng loáng.
Ngưười ta cũng đến nghĩa trang thăm mộ ông bà, quét giọn sach sẽ.
Quần áo mới được mua sắm.
Bánh chưng hay bánh tét được gói và nấu chín. Ngoài ra còn các thứ
bánh khác hay mứt đã được làm để cúng kiến và sau đó để ăn.Thực phẩm
cũng được lo liệu sẵn để dùng trong mấy ngày Tết. Thường thì nhà nào
cũng có dưa hành, củ kiệu đế ăn dặm với bánh chưng hay bánh tét hay một
nồi thịt kho.
Những người đi làm việc ở xa nhà đều cố gắng trở về nhà để xum họp gia đình.
Mặc dù tục ăn Tết khác nhau tùy theo từng địa phương và truyền thống gia
đình, nhưng các tập tục đại chúng hầu như nơi nào cũng có.
Lễ tiễn đưa ông Táo.
Lễ này nhằm ngày 23 tháng Chạp âm-lịch để cúng vị thần linh cai quản trong nhà. Đó là ông Táo (ông bếp).
Người ta tin rằng vị thần nầy ngự ở trong bếp và có phận sự ghi chép bất cứ điều gì xẩy ra trên thế gian nầy trong suốt cả năm.
Vào đúng ngày 23 vị thần phải lên thiên-đình (trời) báo cáo tất cả những gì thấy được trong năm qua.
Lễ tiễn đưa gồm có hoa quả và trái cây tươi với những món ăn đặc biệt
được bày ra. Xong người ta đốt hương, trầm và cầu khẩn cho vị thần
thượng lộ bình an.Có nơi để một con cá chép sống vào chậu nước, ngụ ý để
vị thần cỡi lên chầu trời.
Khi lễ chấm dứt, người ta mang cá đó thả xuống ao hồ hay sông rạch gần đó, và sau đó cả gia đình ngồi quây quần ăn uống.
Những thứ hoa sau đây được nhiều người hưởng ứng chọn để trưng bày trong những ngày Tết :
- Hoa Anh Đào tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý.
- Hoa Mai tượng trưng cho sự đài các, tâm hồn cao thượng.
- Hoa Thủy Tiên tượng trưng cho sự liêm khiết, trong trắng và có tâm hồn văn nhân.
- Hoa Cúc tượng trưng cho sự trường thọ.
- Cây quất tượng trưng cho sự hợp quần, vuông tròn đông đúc.
Pháo.
Đến Tết, khi những vị thần tốt đã lên Trời chầu Ngọc Hoàng thì hai vị
thần xấu càng lộng hành và gây nhiều khó khăn cho dân chúng.Dân chúng
biết là Nã-Ông và Nã-Bà rất sợ ánh sáng và tiếng động, cho nên người ta
thắp đèn sáng trong nhà và đốt pháo để đuổi những vị thần xấu nầy đi chỗ
khác.
Người ta tiếp tục đốt pháo và thắp đèn sáng liên miên cho đến khi Tết đã hết và những vị thần tốt bảo vệ dân từ Trời trở về.
Ngày này, người ta dùng pháo để đón Giao-Thừa năm mới. Có một sự thay
đổi trong ý nghĩa của truyền thống nầy. Tiếng pháo vui mừng được coi
như biểu hiệu của hạnh phúc hơn là một cách để đuổi hung thần đi nơi
khác
Việt Nam ta có rất nhiều thứ pháo. Chẳng hạn như pháo tống, pháo
xiết, pháo chuột, pháo nổ chậm, pháo thăng thiên, pháo đôi, pháo hoa …
Ngày xưa là vậy, còn ngày nay với nhiều lý do, tập tục đốt pháo ở nước
ta đã được xóa bỏ. Duy chỉ còn pháo hoa là được nhà nước ta tổ chức rất
hoành tráng, đốt vào đêm giao thừa ở các thành phố lớn và được truyền
hình trực tiếp cho mọi người chiêm ngưỡng.
Cây Nêu.
Cây Nêu là một trong những biểu tượng của dân gian.
Người chặt một cây tre, róc hết các đốt và lá; chỉ chừa một nắm lá ở
ngọn. Trên ngọn đó đính nhiểu thứ: đặc biệt là một cái bùa bát quái và
một miếng giấy màu đỏ có vẻ tám hướng.
Tâm điểm của bùa bát quái là một vòng tròn. phân chia bởi một đường
cong với hai chấm Âm-Dương hai đầu tượng trưng cho nguyên tắc Tạo Dựng
và Duy-Trì vạn vật được quân bình. Tám hướng và các hình vẻ bên trong
tượng trưng cho sự thay đổi trong vũ trụ.
Ngoài ra, còn có một cái giỏ nhỏ đựng trầu cau để dâng lên thần thánh.
Một vài nhạc khí như lục lạc hay sáo cũng được treo trên cây nêu để phát ra tiếng nhạc.
Đặc biệt còn có một tấm phên nhỏ bằng tre hay nứa để tượng trưng cho
việc ngăn cách ma quỉ không được lai vãng. Có khi còn đính thêm một lá
phướn ngũ sắc. Chỉ ngũ sắc để trừ ma quỉ.
Treo bùa là cốt để xua đuổi ma quỉ. Còn lễ vật trong giỏ cốt để dâng cúng thần linh, cầu xin ơn phước.
Người ta dựng nêu trễ lắm là ngày 30 tháng Chạp và để đến chậm nhất là mồng 7 thì mới hạ nêu.
Đón mừng năm mới.
Để đón mừng năm mới người ta có thói quen là hôm 30 tắm gội sạch sẽ
với mục đích sạch sẽ, mát mẻ và thanh cao đế đón mừng năm mới.Cùng một
quan điểm nảy, tất cả mọi hận thù, ghen ghét nên được xóa bỏ, tha thứ để
tâm hồn lắng đọng.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, lúc 12 giờ, người ta đón GiaoThừa. Đánh dấu
sự chuyển mình của năm cũ chuyển sang năm mới. (Đêm trừ tịch).
Để thanh toán mọi việc, người ta phải cố gắng làm hết những công việc còn lại cho xong.
Đêm Giao Thừa, một số người còn giữ thói quen đến các đền chùa để hái lộc, cầu xin phúc lành cho gia đình.
Ngày mồng Một nên dắt vợ con đến mừng tuổi ông bà, cha mẹ.
Ngày mồng Hai đi thăm bà con anh chị em.
Ngày mồng ba đi thăm bạn bè.
Sau đó, những ngày kế tiếp đi thăm bằng hữu
Chính vào không giờ (qua 12 giờ khuya) là qua Năm Mới, người ta thi
nhau đốt pháo hàng loạt để đón mừng Xuân sang, đồng thời cũng để xua
đuổi ma quỉ. Người ta gọi là “Tống cựu, Nghênh tân”.
Một cái bàn được đặt ngay trước bàn thờ để có chỗ thức ăn và thức
uống để cúng tổ tiên, ông bà . Người gia trưởng thay mặt con cháu đốt
trầm hương trên bàn thờ tổ tiên và thỉnh hương linh tổ tiên, ông bà về
chơi vui cùng con cháu, rồi lần lượt mọi người trong gia đình thắp hương
lạy tạ trước bàn thờ.
Trong ba ngày Tết người ta cử nói xàm, vì nói xàm sẽ mang lại xui xẻo.
Người xông Đất (nhà)
Người Việt Nam tin tưởng ở sự liên quan giữa con người và huyền bí,
may mắn nên người ta chọn người để xông nhà. Nếu người xông đất là người
vui vẻ thì chủ nhân sẽ có một năm vui vẻ, hạnh phúc. Ngược lại, gặp
người thô lỗ cọc cằn, rượu chè, hút xách, cờ bạc thì năm đó chắc chắn sẽ
gặp nhiều chuyện không may, rắc rối.
Để tránh các điều trên, người ta thường chọn mặt gửi vàng, nghĩa là
chọn trước người xông đất, nếu là người quen thân thì điều đình trước
để có sự phối hợp. Thông thường người được lựa chọn xông đất thường là
người có đạo đức, có gia đình hạnh phúc, sức khoẻ cường tráng.
Ngũ quả.
Ngũ quả là năm thứ quả để cúng như mẳng cầu (na), xoài, cam quýt
hoặc, bưởi, hồng, và dưa hấu. Dưa Hấu có ý nghĩa là giàu sang,con cháu
đầy đàn. Dưa Hấu còn tượng trưng cho phì nhiêu, phồn thịnh, may mắn vì
ngày xưa An-Tiêm đã biến một hoang đảo cằn cổi thành một miếng đất trồng
dưa hấu sai trái, được mùa và phồn thịnh.
Những phong tục ngày Tết
Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay như khai bút, khai canh, hái
lộc, chúc Tết, du xuân, mừng thọ…. Từ già đến trẻ ai cũng biết, ngày
tết trong nhà ít nhất cũng phải có cành hoa, bánh chưng, chai rượu…
Tống cựu nghinh tân
Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, cùng hàng xóm vệ sinh nhà thờ,
đường xóm, tắm giặt, mua sắm quần áo mới và mọi thứ thức ăn, vận dụng
trong ngày tết…
Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi,
không cãi cọ nhau, không vứt rác bừa bãi, không nghịch ngợm, trách phạt
nhau…. Đối với hàng xóm láng giềng, trong năm cũ có điều gì không hay
không phải đều xuý xoá hết, tất cả mọi người dù lạ dù quen, sau phút
giao thừa đều niềm nở, vui vẻ và chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi
Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh
khoẻ tiến bộ, thành đặt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến càng sớm càng tốt,
nhưng nhiều nhà chủ tự đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở
chốn nghiêm trang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “nhẹ
vía” mà mình thích đến xông nhà.
Đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ra ít khách, không ai dám đi
đến nhà khác sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì
không hay lại đổ tại mình “nặng vía”, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu
tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc tết. Trước hết con cháu mừng tuổi
ông bà, cha mẹ. ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi
cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm làng giềng, bạn bè thân
thích, đồng thời chúc nhau những lời chúc tốt đẹp. Người nào thích điều
gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất, luôn hướng tới sự
tốt lành và kiêng nói tới những điều rủi ro hoặc xấu xa.
Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại hỏi thăm nhau, nhân
ngày lễ tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm. Nhiều nhà, hễ đến chúc
tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mới
vui lòng, năm mới từ chối sợ bị “ giông” cả năm.
Quà tết, lễ tết
Việc biếu quà tết có ý nghĩa tỏ ân nghĩa tình cảm, con rể tết bố mẹ
vợ, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc… Quà biếu, quà tết
đó không đánh giá theo giá trị thị trường, nhưng cũng đừng nên gò bó,
câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà ngại không dám đến.
Lễ mừng thọ
Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở nước
ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân
thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần…. tính
theo tuổi mụ. Ngày tết, ngày xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi,
con cháu tụ tập đông vui.
Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ấn, học trò sẽ khai
bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở cửa
hàng lấy ngày. Sau ngày mồng Một, tất cả “ Tứ dân bách nghệ” đều chọn
ngày “khai nghề”, nếu mồng Một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt
đầu, riêng khai bút thì giao thừa xong chọn giờ hoàng đạo thì bắt đầu.
Kiêng không hốt rác đổ đi trong ba ngày Tết
Tục này nguyên từ bên Tàu, trong “ Sưu thần kỳ” có chuyện người lái
buôn tên là Ân Minh được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt,
đem về nhà được vài năm thì giàu lên. Một hôm nhân ngày mồng Một tết, Ân
Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Ân Minh lại
nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hót rác ngày tết, ta bắt chước và đến nay
vẫn nhiều người theo tục này.
Cúng giao thừa ngoài trời
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan
niệm: Mỗi năm Thiên Đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom thiên hạ
dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có vị trí như quan toàn quyền. Và các
cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao các quan quân quản hạ giới
hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới
tiếp quản thiên hạ.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả… ra ngoài
trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời cai quản mình năm cũ
và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới để
mong các quan phù hộ cho một năm mới mọi sự tốt lành.
Điềm Lành và kiêng Kỵ Trong Ngày Mùng 1 Tết- Hoa mai: Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may.
Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.
- Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.
- Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.
- Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm
đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì
sẽ may mắn và thành đạt cả năm.
- Đầu năm mọi nhà đều mua muối để cầu may mắn đến. Vẫn có câu là Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi.
Kiêng kỵ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt
đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người,
do đó, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
- Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả
một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu
riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc.
Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang
kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm
giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
- Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia
đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số
các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm.
Trường hợp chết đúng ngày mùng 1 Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
- Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình,
vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng
Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn
thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió…
- Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vô như nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.
- Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của
Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt.
Khi hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
- Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay.
- Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… Nếu ăn những thứ này bào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ xúi quẩy.
- Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được
đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không
vui xảy ra với gia đình.
- Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
- Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.
HH sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 11:12pm
http://www.blogphongthuy.com/?p=3789 - Cây cảnh khai vận may mắn trong năm mới Theo phong thủy, có nhiều loại cây được xem là “cây cát tường”, tức
là cây có thể mang lại may mắn và sức khoẻ của gia đình.
Cây Quất, Quýt:
Phát âm Hán của chữ “quất” gần giống với âm của từ “cát”, cây quất
thường được chọn để trang trí nhà vào ngày Tết. Mọi người chọn những cây
lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới
được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Do đó mỗi khi tết đến xuân
về, nhà nhà đều bày trí cây Quất với hy vọng mang lại niềm vui và may
mắn cả năm cho gia đình.
Trong kinh doanh, đặt cây Quất ở văn phòng hoặc cửa hàng sẽ đem lại cát
khí lớn lao, sự đầu tư sáng suốt và thu được nhiều tài lộc. Cây Quất còn
là biểu tượng của sức khoẻ, bình an trường thọ và sự may mắn trong tình
duyên.
Cây Xuân:
Cây xuân có sức sống rất lâu, dân gian thường gọi là “vua của các loài
cây”, có nơi rất thịnh hành phong tục trồng cây xuân. Theo truyền thuyết
thì trong đêm Trừ Tịch (đêm Giao Thừa) thì trẻ con sẽ sờ vào cây xuân
rồi đi vòng quanh cây xuân mấy vòng với hy vọng sẽ chóng lớn.
Cây Hòe:
Được gọi là cây “lộc”, là một trong ba loại cây được người xưa coi trọng
nhất. Họ luôn coi đó là biểu tượng của sự giàu sang phú quý. Theo điển
tích Trung Hoa, ở trước triều môn mà trồng 3 cây hòe là tượng trưng cho
chức Tam Công trong triều đình, vì thế nhân gian thường hay trồng hòe
trước cửa nhà với ước mong con cái thành danh sau này. Nếu trồng Hòe
phía sau nhà thì lại bị coi như bế tắc công danh.
Cây Cọ:
Trong phong thủy thì cây Cọ có tác dụng sinh tài, giữ của. Vì thế, rất
nhiều gia đình đã trồng những cây Cọ cảnh bên hiên nhà hoặc ở lối đi vào
nhà vừa tạo bóng mát vừa mong muốn ăn nên làm ra.
Cây Đào:
Được xem là tinh hoa của Ngũ Hành, theo phong thủy cây này có thể trị
bách quỷ, do đó khi đón năm mới mọi nhà hay trồng Đào trước cửa nhà. Hoa
Đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh
mẽ. Ở Trung Quốc, hoa đào còn là biểu tượng cho lễ cưới.
Những ai độc thân nếu treo một bức tranh cây đào có quả trong phòng
riêng thì người đó sẽ may mắn trong đường tình duyên. Cũng có thể đặt
một bức tượng hình cây đào ở hướng Tây Nam để có vận may trong tình
duyên.
Cây Trúc:
Cây Trúc ngụ ý trời đất trường xuân, trời đất dài rộng. “Trúc” gần âm
với “chúc” có ý chỉ chúc phúc tốt đẹp. Theo phong thủy Trung Quốc thường
cho rằng, trước và sau nhà có Trúc là đem lại tốt lành cho cả gia đình.
Loại cây này tượng trưng cho sự mảnh mai, thanh nhã, rất thích hợp với
nhiều không gian và phong cách thiết kế khác nhau.
Cây Tre:
Cây Tre cũng mang rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Cây Tre là biểu tượng
của tuổi thọ bởi luôn xanh tươi quanh năm trong bất cứ thời tiết nào và
vẫn có thể phát triển trong những điều kiện rất khó khăn. Treo một bức
tranh vẽ theo lối truyền thống hình dáng cây Tre lá xanh tươi trong
phòng học hay văn phòng có thể gặp may mắn về việc học hành và công việc
kinh doanh.
Cây Bách:
Có ý chỉ đức độ. Trong quan niệm dân gian, đồng âm với “bách” là “bách”
(100) là số cao nhất, nhiều và toàn vẹn, có ý chỉ đại cát.
Theo phong thủy, cây Bách còn là loại cây mang lại sự trường tồn, cuộc
sống dài lâu. Vì vậy, loại cây này rất thích hợp để làm quà biếu tặng
cho những người lớn tuổi.
Cây Quế:
Còn gọi là cây Mộc, hoa Quế thường nở vào dịp Hè. Phong thuỷ quan niệm,
hoa quế là cây tốt lành, nếu trồng cây quế trong nhà sẽ có đường làm
quan phát tài, vinh hoa phú quý.
Cây Ngô Đồng:
Được coi là “cây linh”, có khả năng ứng nghiệm. Truyền thuyết cho rằng
cây ngô đồng có thể hấp dẫn loài phượng hoàng đến ở, là con vật thần kỳ
khác lạ. Vì vậy khi trồng cây ngô đồng trước sân nhà sẽ mang lại bình
yên, may mắn tốt lành cho gia chủ.
Thạch Lựu:
Trong phong tục tập quán, cây Thạch Lựu được xem là “thạch lựu bách tử”,
là tượng trưng của “đa tử đa phúc” (nhiều con nhiều phúc). Trên thực tế
hoa và quả thạch lựu màu đỏ như lửa, quả lại có thể giải khát chống
say, có giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng, vì vậy trở thành cây được
trồng trong vườn của nhiều nhà. Không chỉ trong phong thuỷ mà ở dân
gian, các gia đình đều trồng những cây Lựu trước nhà bởi họ tin rằng,
cây Lựu luôn đem đến điềm may và tin tốt lành cho gia chủ.
Hồ Lô:
Trong phong thủy quan niệm, cây Hồ Lô là loài thực vật có thể xua đuổi
phiền muộn; cổ nhân thường dùng những đồ đựng hình dáng “bảo hồ lô” có
thể ngăn chặn được sự nhiễm các loại sóng và bức xạ.
Hồ Lô là vật khí không thể thiếu để hoá giải hung khí và tăng cường sức
khoẻ. Dùng quả hồ lô treo bên cạnh giường ngủ hoặc trong phòng ngủ sẽ
mang lại bình yên và sức khoẻ cho gia chủ, tránh được rất nhiều bệnh
tật. Nó còn là công cụ giúp tình cảm vợ chồng thêm đằm thắm. Quả Hồ Lô
đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc, hãy treo nó
bên cạnh chiếc nôi của trẻ, sẽ tránh được đau bệnh và tật khóc dạ đề cho
trẻ. Hồ Lô cũng là quà tặng đầy ý nghĩa cho những gia đình có người ốm
đau hoặc có người già với hy vọng mang lại sức khoẻ và trường thọ.
Trúc hạnh vận:
Còn gọi là trúc phú quý, người ta thường trồng một bồn trúc hạnh vận và
chăm sóc bằng nước sạch sẽ giúp cho ngày càng cao lớn, có tác dụng thúc
đẩy vận mệnh rất tốt đối với những người thi đại học hoặc thi cao hơn
nữa.
Hoa Mai:
Màu vàng của hoa Mai thuộc Thổ trong Ngũ Hành, theo quan điểm của người
Việt, Thổ luôn nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng tượng trưng cho sự
thịnh vượng và phát triển. Mai đã từng được Trung Quốc coi là quốc hoa,
ngày nay là Mẫu Đơn.
Mai nở hoa lúc đông xuân giao mùa, “độc thiên hạ nhi xuân” nên còn có
tên là “hoa báo xuân”. Do mọi người cho rằng năm cánh hoa của nó là năm
thần cát tường, tượng trưng ngũ phúc: vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ,
thuận lợi, hòa bình. Do đó, có bức tranh “mai khai ngũ phúc” cũng phù
hợp với âm dương Ngũ hành: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, thể hiện mong muốn
gia đình được may mắn, hạnh phúc trọn vẹn.
Hoa Cát Tường:
Hoa Cát Tường lại nhỏ bé xinh xắn, quanh năm xanh tốt, nó rất dễ sinh
trưởng trong bùn lầy hay trong nước, tượng trưng cho “cát tường như ý”.
Linh Chi:
Cây Linh Chi là biểu tượng cho sự trường thọ. Trong những bức tranh tốt
lành thường thấy miệng con hươu hay mỏ con hạc ngậm cành linh chi. Những
bức tranh đó thường được dùng làm lễ vật chúc thọ và mang lại may mắn
cho các thành viên trong gia đình.
Hoa Sen:
Sau khi nhà Đường tôn Phật Giáo thành quốc giáo, hoa Sen được mọi người
rất tôn kính. Quê hương Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni trồng rất nhiều sen, vì
vậy Phật môn thường tự ví mình với hoa Sen.
Ở Trung Quốc, hoa Sen được tôn sùng tượng trưng cho quân tử. Khi trồng
Sen trong vườn hoặc cắm hoa Sen trong nhà sẽ làm cho không khí gia đình
thoải mái hơn, êm ấm hơn.
Mẫu Đơn:
Mẫu Đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng và phồn vinh. Nó còn gọi được
là “vua hoa” hay “hoa phú quý”. Mẫu Đơn có màu đẹp và ngụ ý cát tường.
Do đó, khi làm vườn thường được kết hợp với đá thọ tạo thành “trường
mệnh phú quý”, cùng hoa trường xuân kết hợp thành “phú quý trường xuân”.
Mọi người thường trồng hoa Mẫu Đơn trong nhà với mong muốn gia đình
luôn thịnh vượng, hạnh phúc và có nhiều con cháu.
Cây hoa Hồng:
Hoa giữ được lâu, còn có tên là Nguyệt Nguyệt Hồng. Vì hoa nở bốn mùa
nên dân gian coi là điều tốt, chỉ bốn mùa bình an. Hoa Hồng và Thiên
Trúc kết hợp có ý chỉ “tứ quý trường xuân”.
Cây Nho:
Dây Nho quấn quýt đan xen vào nhau, tượng trưng cho sự hòa hợp.
Nho thường trồng thành giàn. Vào mùa hè, giàn Nho cho cảm giác đặc biệt
mát mẻ, thoải mái. Nho tượng trưng cho cuộc đời gắn bó, hạnh phúc.
Hải Đường:
Theo phong thủy dân gian quan niệm, khi hoa Hải Đường nở sẽ mang lại phú quý cho gia đình.
Loài hoa còn tượng trưng cho anh em hòa hợp, cuộc sống vui vầy.
(Theo: Lục Bảo)
Theo quan niệm của phong thủy, một số cây cảnh có tác dụng phong thủy như hoa mai, hoa đào, hoa cúc, hoa lan…
Trồng những loại cây đó trong nhà sẽ mang đến những điều tốt đẹp cho gia đình trong năm mới.
Hoa mai
Hoa mai thích hợp với khí hậu ở miền Trung và miền Nam nước ta. Mai
vàng tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Trong ngày Tết, mọi người
thường mua cây (hoặc cành) mai vàng nhiều lộc bởi theo quan niệm của
phong thủy.
Hoa mai nở đúng lúc giao thừa hay sớm mùng một sẽ mang lại nhiều may
mắn, thịnh vượng và hạnh phúc sẽ đến với gia đình trong năm đó.
Hoa đào
Nếu miền Nam chuộng hoa mai trong ngày Tết thì miền Bắc nước ta lại
thường mua những cành đào để trang trí cho căn nhà vào những ngày đầu
Xuân.
Hoa đào không chỉ có tác dụng xua đuổi tà ma mà còn có thể mang đến
nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh và bình an
trong năm mới.
Hoa cúc Ngày Tết, người ta thường thấy xuất hiện hoa cúc trong nhà, đặc biệt
là hoa cúc vàng và đỏ… Bởi vì theo phong thủy, hoa cúc là biểu tượng của
sự sống, tăng thêm phúc lộc cũng như sự hoan hỉ đến nhà.
Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí
trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong
nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ.
Cây quýt (quất)
Cây quất (hoặc quýt) tượng trưng cho sự thu hoạch và cũng là một khởi
đầu tốt đẹp. Vì thế, vào đầu năm mới, ta thường thấy mỗi gia đình
thường mua một cây quất (quýt) quả vàng xum xuê, lá xanh tốt với mong
muốn khởi đầu một năm mới tốt đẹp, giúp gia tăng tiền tài và vận may cho
các thành viên trong gia đình.
Hoa thủy tiên
Hoa thủy tiên được xem là loài hoa thanh tao, quyền quý. Trồng hoa
thủy tiên có tác dụng khử tà, mang lại cát tường như ý cũng như tăng
thêm tài khí cho gia đình.
Hoa thủy tiên là loại hoa rất khó trồng, hoa thường được trồng trong
nước, hình dáng giống như củ hành tươi. Trước khi mua về, bạn nên tìm
hiểu cách chăm sóc để cây hoa có thể sống thật lâu trong nhà.
Cây sung cảnh
Cây sung là loại cây khá dễ trồng và dễ sống. Chọn một cây sung có
dáng đẹp và nhiều quả trang trí trong nhà vào ngày Tết cũng có thể mang
đến sự no đủ và nhiều điều tốt lành cho năm mới.
Hoa đồng tiền
Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân
năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc
và tiền của cho gia đình.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 05/Feb/2012 lúc 10:36am
Nghi thức Cúng Sao
Hàng năm vào ngày rằm tháng giêng thường gọi là Lễ
Thượng Nguyên, đa số người Việt Nam chúng ta thường cúng sao tại chùa
hay tại nhà để cầu giải trừ tai ương, tật bệnh trong năm .
Nhân dịp năm củ sắp qua, năm mới sắp đến chúng ta sẽ tìm hiểu về nghi
thức Cúng Sao gọi theo danh từ nhân gian. Trong Nghi Lễ Phật Giáo Việt
Nam thường gọi là Lễ Dược Sư Nhương Tinh Giải Hạn. Đây là một thực tế,
chúng ta sẽ tìm hiểu về nghi thức của lễ nầy.
Theo sách Phật Giáo Đại Tạng kinh Trường Tế Mục Lục có ghi một số kinh sách liên quan đến “Sao” như sau:
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Cập Chư Thiên Sở Thuyết Cát Hung
Thời Nhật Thiện Ác Tú Diệu Kinh, Chư Tinh Mẫu Đà La Ni Kinh, Phật Thuyết
Thánh Diệu Mẫu Đà La Ni Tinh, Tú Diệu Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Thất Tinh Tụng
Niệm Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Bí Yếu Nghi, Phật Thuyết Bắc Đẩu
Thất Tinh Diên Mệnh Kinh, Thất Diệu Nhương Tai Quyết, Thất Diệu Tinh
Thần Biệt Hành Pháp, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Pháp… Ngoài ra trong sách
Nhị Khóa Hiệp Giải, khi nói đến 16 vị Đại Đệ Tử của Phật trong kinh Di
Đà cò hai ngài liên quan đến tinh tú đó là Ngài Ly Bà Đa và ngài Kiếp
Tân Na và rải rác trong nhiều kinh sách khác như kinh Ma Đăng Già, Xá
Đầu Luyện Thái Tử Nhị Thập Bát Tú, Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương. .
.
Tinh tú có quan hệ và ảnh hưởng như thế nào đến con người?
Lẽ dĩ nhiên là mọi vật chung quanh chúng ta, hay xa hơn như
mặt trăng, mặt trời, tinh tú v.v… đều có ảnh hưởng đến mỗi một chúng
ta. Theo phép thiên văn Ấn Độ ngày xưa tinh tú còn gọi là tú diệu trong
đó phân chia ra Nhị Thập Thất Tú (27 ngôi sao), Thập Nhị Cung (12 Cung),
Cửu Diệu (9 sao) và Thất Tinh (7 sao). Riêng Trung Quốc lại có 28 sao
(Nhị Thập Bát Tú: Thêm sao Ngưu). Mọi sự việc của cõi Trời và cõi người
thường phản ánh lẫn nhau, hiện tượng dữ, lành đều hiện ra nơi tinh tú.
Các phép dự đoán hiền dữ, tốt xấu theo tinh tú, như trong kinh Tú Diệu
Ngài Bồ Tát Văn Thù đã nói với chúng ta rằng: giờ, ngày, tháng, năm sinh
của mỗi một con người cùng theo sự biến hóa của sao ở trên trời, lịch
pháp theo đường Hoàng Đạo thời tiết cũng thay đổi, vận hàng của mặt trời
và mặt trăng cũng thay đổi. Cho nên khí lực, thể lực, vận mạng cùng sự
tốt xấu, may rủi, tai kiếp, vinh lộc, tài vận, sức khỏe, cảm tình, con
cái, cháu chắt, sự nghiệp v.v…của con người đều tương quan chặt chẽ vơí
nhau.
Đây là một vấn đề liên quan đến thiên văn, tôn giáo và cả tín ngưỡng
nhân gian nữa, nên chỉ xin trình bày tổng quát để người Phật tử chúng ta
có một khái niệm về việc cúng Sao mà thôi.
1. Nhị thập thất tú tức là 27 sao gồm: Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác,
Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu,
Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh. Quỹ, Liễu. (Riêng Trung Quốc lại có thêm
sao Ngưu là 28 nên gọi là nhị thập bát tú). Phật Giáo Việt Nam chỉ thấy
dùng Nhị Thập Bát Tú trong Đàn Giải Oan Bạt Độ vào những năm cuối thập
niên 90 đến nay, còn trước năm 1995 không thấy mặc dù trong nghi thức
có ghi, đây cũng là vì đáp ứng nhu cầu của nhân gian theo mỗi thời đại
và dân tộc.
2. Theo Mật giáo, Kim Cương Bộ viện vị trí ở ngoài Mạn Đà
La của Thai Tạng Giới, chia làm hai phần: Thái dương có: cung Sư Tử,
cung Nữ, cung Xứng, cung Yết, cung Cung, và cung Ma Yết. Thái âm có:
cung Bảo Bình, cung Ngư, cung Bạch Dương, cung Kim Ngưu, cung Nam Nữ,
và cung Giải. Phân theo phương hướng có: Hướng Đông: Cung Nam Nữ,
cung Bạch Dương, cung Kim Ngưu. Hướng Tây: Cung Xứng, cung Yết, Cung
Cung. Hướng Nam: Cung Bảo Bình, cung Ngư, cung Ma Yết. Hướng Bắc: Cung
Giải, cung Sư Tử, Cung Nữ. 12 cung nầy so với Thiên văn học ngày nay
chỉ khác một ít tên gọi còn đa số là giống nhau.
3. Cửu Diệu: (Diệu là ánh sáng chói lọi, long lanh), là 9
thứ phát ra ánh sáng mạnh ở trên trời, tục gọi là 9 sao hay còn gọi là
cửu chấp. Trong Đại Nhật Kinh Sớ nói: Chấp có 9 loại gồm có 9 sao là:
1. Nhật (mặt trời = Thái dương), 2. Nguyệt (mặt trăng = Thái âm), 3.
Thủy = Thủy diệu, 4. Hỏa ( Hỏa tinh = Vân Hớn), 5. Mộc (Mộc đức), 6. Kim
(Thái Bạch), 7. Thổ (Thổ tú) 8. Sao La Hầu, 9. Sao Kế Đô. Riêng Phật
Giáo nếu xét về bản địa thì:
- Nhật là Quan Âm hoặc Hư Không Tạng.
- Nguyệt là Đức Thế Chí hoặc Thiên Thủ Quan Âm.
- Thủy là Đức Vi Diệu Trang Nghiêm Thân Phật hoặc Thủy Diệu Quan Âm.
- Mộc là Đức Dược Sư Phật hoặc Mã Đầu Quan Âm.
- Kim là Đức A Di Đà hoặc Bất Không Quyến Sách.
- Thổ là Đức Tỳ Lô Giá Na Phật hoặc Thập Nhất Diện Quan Âm.
- La Hầu là Đức Tỳ Bà Thi Phật.
- Kế Đô là Ngài bất không Quyến Sách.
4. Thất Tinh: Thất tinh là 7 vì sao ở hướng Bắc và hình
như cái đấu (đẩu) thường gọi là Đại Hùng Tinh, Trong kinh “Phật Thuyết
Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh Kinh” chép rằng: Tại cung Trời Tịnh Cư (Tịnh
Cư Thiên cung), ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thỉnh cầu đức Phật giải
thích về ảnh hưởng của 7 ngôi sao tức Bắc Đẩu Thất Tinh. Đức Bổn Sư trả
lời rằng: tên 7 vì sao đó là Thánh hiệu của 7 vị Cổ Phật như sau:
1. Tham Lang là Đông Phương Tối Thắng Thế Giới Vân Ý Thông Chứng Như Lai.
2. Cự Môn là Đông Phương Diệu Bảo Thế Giới Quang Âm Tự Tại Như Lai.
3. Lộc Tồn là Đông Phương Viên Châu Thế Giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
4. Văn Khúc là Đông Phương Vô Ưu Thế Giới Tối Thắng Cát Tường Như lai.
5. Liêm Trinh là Đông Phương Tịnh Trụ Thế Giới Quảng Đạt Trí Tuệ Như lai.
6. Võ Khúc là Đông Phương Pháp Ý Thế Giới Pháp Hải Du Hý Như Lai.
7. Phá Quân là Đông Phương Mãn Nguyệt Thế Giới Dược Sư Lư Ly Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có 2 vị Nội phụ và Ngoại bật là:
8. Động Minh Ngoại Phụ Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Hỷ Thế Giới Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
9. Ẩn Quang Nội Bật Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Viên Thế giới An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Đức Phật dạy tiếp: Nếu có Thiện nam, Tín nữ cứ mỗi năm,
tháng giêng ngày mồng 8, tháng 7 ngày mồng 7, tháng 9 ngày mồng 9 sắm
sửa hương hoa, nước sạch, cắm đèn theo hình Thất Tinh, thay y phục sạch
sẽ cúng dường trước Tinh Tượng (hình ảnh của Thần Sao) tức 7 vị Cổ Phật
trên, tùy tâm sở cầu, sẽ có cảm ứng.
Bảy vị Phật trên là Thất Phật Dược Sư tức là Thiện Danh Xưng Cát Tường
Vương Như Lai, bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai, Vô
Ưu Tối Thắng cát Tường Như Lai, Pháp hải Lôi Âm Như lai, Pháp Hải Thắng
Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Như vậy
là 7 vị Phật Dược Sư đã hóa thành Hộ Pháp Tinh Quân của Đạo Giáo Trung
Quốc.
Trên đây là tóm tắt những sự liên hệ trong các kinh điển giữa Sao và Phật giáo.
Việc cúng “Sao” thường bị coi như là không chánh pháp. Như vậy có đúng không?
Nếu cung hành bất cứ một lễ gì mà không đúng nghi thức đều sai chánh
pháp. Bởi vì trong thời gian mạt pháp nầy ranh giới giữa tín ngưỡng nhân
gian và Phật giáo rất khó phân biệt cũng vì đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
nhân gian một cách quá mức độ như trong chùa có bói toán hay xin xăm
v.v… Do đó mà trở thành xa chánh pháp. Người Phật tử ai cũng hiểu được
muốn có kết quả cho những lời cầu nguyện của mình, chính mình phải qui
hướng về chánh pháp, dùng sự tu thiện tích phước, sám hối, tụng kinh,
niệm Phật để đạt được mục đích cầu nguyện. Còn tín ngưỡng nhân gian lại
dùng hành vi mua chuộc, hối lộ Thần Thánh để hy vọng thỏa mãn ý nguyện
của mình. Chúng ta hãy trở lại nghi thức cúng “Sao”, ai cũng biết rất rõ
có hai cách cúng: tại chùa và tại tư gia. Nếu theo đúng nghi thức mà
nghi lễ Phật giáo Việt nam đã có từ xưa đến nay thì đúng chánh Pháp, làm
trái lại thì sai chánh pháp bởi vì theo định nghĩa, Nghi Thức là sự tác
pháp ( Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương Tiện: “Nghi thức thuyết pháp của chư
Phật ba đời”. Ví dụ: Nghi Thức Tiến Linh theo Phật giáo hoàn toàn khác
với nghi thức Cúng Giỗ của dân tộc. Do đó mà cung hành không đúng Nghi
thức sẽ không đạt mục đích tối hậu của Phật Giáo là âm siêu, dương thái.
Trước khi nói đến Nghi Thức cúng “Sao” tôi xin nhắc lại: như đã trình
bày ở trên, Thập Nhị cung, Cửu Diệu, Thất Tinh đều là danh hiệu cũng như
hóa thân của chư Phật và Bồ Tát để cứu giúp chúng sanh khỏi tai ách.
Cho nên chúng ta cúng dường lên chư Phật, chư Bồ Tát là hợp lý không có
gì trái cả. Hơn nữa công năng của kinh, chú Phật giáo thường dùng cũng
như sự linh nghiệm hữu cầu tất ứng của chư Phật chư Bồ Tát theo đại
nguyện của các Ngài như: Sự cứu chửa bệnh hoạn của đức Phật Dược Sư, đức
A Di Đà được tôn xưng là Vô Thượng Y Vương, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng
Quang, Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng.v.v… với đại nguyện rộng lớn
có cầu đều được đáp ứng, ánh sáng hào quang của các Ngài không gì sánh
bằng được. Huống gì là ánh sáng của “sao” chắc chắn là không thể nào hại
được chúng ta khi mà chúng ta đã ở trong vùng ánh sáng của các Ngài che
chở. Hơn nữa trong lục đạo cũng có một đạo thường hay quấy nhiễu chúng
sanh, đó là các vị A Tu La, nên chư Phật và Bồ Tát mới hóa thân để cứu
chúng sanh và hộ trì Phật Pháp vì lòng đại từ, đại bi của chư Phật. Sau
đây tôi xin trình bày tóm tắt về Nghi Thức Lễ Dược Sư Nhương Tinh Giải
Hạn theo Phật Giáo Việt Nam.
Theo cuốn Nghi Lễ Phật Giáo của Hòa Thượng Giải Năng, nghi
thức cúng Sao Hội ( tức cúng chung tất cả mọi người) như sau:
- Niêm hương bạch Phật - Đảnh lễ Tam Bảo – Tán bài Dương Chi.
- Điểm đăng tức thắp đèn ( cắm theo hình Thất tinh như đã nói ở trên, hoặc đèn Dược Sư)
- Thỉnh Đế Thích Ngọc Hoàng ( Ngọc Hoàng Phật Giáo gọi là Thích Đề Hoàn Nhân) mà chúng ta thường gặp trong kinh..
- Thỉnh Đẩu Tinh Giáo Chủ tức Ngài Tiêu Tai Xí Thạnh Quang Vương Phật.
- Tụng chú Đại Bi – Tuyên sớ - Tụng Nhương Tinh kệ.
- Đại chúng lạy trùng hiệu trong Sám Dược Sư (24 lạy)- Tụng chú Tiêu Tai
- Hồi Hướng - Phục nguyện –
- Tam Tự Quy - Lễ Tất.
Còn nghi thức cúng tại tư gia được chia làm hai loại: Loại thứ nhất
hoàn toàn giống như trên. Còn loại thứ hai dùng một ít kinh, chú ngữ của
Phật giáo nhưng nghi thức thuộc về tín ngưỡng nhân gian, chúng tôi xin
miễn bàn ở đây.
Hôm nay chắc chắn có một số vị sẽ không tin là kinh Phật
lại nói về sao, vận mạng v.v… Vậy Phật tử chúng ta có cách nào để phân
biệt được đúng là Kinh Phật hay không? Theo lời hướng dẫn của Hòa
Thượng Thích Thánh Nghiêm trong cuốn Phật Học Quần Nghi như sau: “… tốt
hơn hết nên tra cứu đối chiếu với mục lục trong Đại Tạng Kinh. nếu có
ghi trong mục lục ở phần NGHI NGỤY , vẫn có thể tin, có thể đọc. Còn như không có trong Kinh Lục,
thì phải xét xem nó có trái với nguyên tắc căn bản của Phật Pháp hay
không. Lại nữa, ngoài những sách dùng giáo nghĩa Phật Pháp để giải
thích Kinh Phật có tên Kinh rõ ràng, và sách thuật lại phát minh của cổ
đức với thái độ thuật nhi bất tác (nghĩa là chỉ noi theo ý của
cổ nhân rồi thuật lại, mà không sáng tác theo ý riêng mình) như Khổng Tử
đã nói. Tóm lại, tốt nhất không nên xem những Kinh sách còn chưa xác
định rõ là chân hay ngụy.
BẮC ĐẨU THẤT TINH PHÙ
(1) (2) (3)
(4) (5) (6)
(7)
1. Phá Quân Tinh, 2. Võ Khúc Tinh, 3. Liêm Trinh Tinh, 4. Văn Khúc Tinh
5. Cự Môn Tinh, 6. Tham Lang Tinh
Trúc Viên
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 28/Apr/2012 lúc 10:21pm
http://tyhuu.com/doc-ngoc -
http://www.blogphongthuy.com/?p=3992 - Phép Xem Thập nhị Long Hình
Tìm năm người chết theo Thập nhị Long hình trong sách Cao Ly
Đồ Hình lập ra, để coi khi ông bà cha mẹ từ trần có sự ảnh hưởng tốt xấu
cho con cháu.
Hoặc con cháu chọn được năm tốt trong Thập nhị Long hình để cải táng mộ phần cho người thân…
Khi cha mẹ chết, coi về CUNG TỬ thấy tốt, coi qua bàn tay này cũng
tốt, đó là Đại kiết, còn một bên tốt một bên xấu, đó là Bán kiết bán
hung (nửa tốt, nửa xấu), còn cả hai đều xấu thì là Đại hung, con cháu
nếu không tu nhân, tích đức, sẽ bị lụn bại, suy vong.
Phép này căn cứ theo 12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và gọi theo tuổi của người chết là: “THẬP NHỊ
LONG HÌNH”.
Dùng 12 phần hình thể của con Rồng để tượng trưng:
1- Thần. 2- Tề. 3- Mục. 4- Vĩ. 5- Tảng. 6- Phúc. 7- Giác. 8- Nhĩ. 9- Yêu. 10- Túc. 11- Tỷ. 12- Trường.
Phép xem thì không luận là Nam hay Nữ đều căn cứ theo Tam Hợp của tuổi người chết, như tuổi người chết là:
A- Thân, Tý, Thìn thì khởi THẦN tại Thìn.
B- Dần, Ngọ, Tuất thì khởi THẦN tại Tuất.
C- Tỵ, Dậu, Sửu thì khởi THẦN tại Sửu.
D- Hợi, Mão, Mùi thì khởi THẦN tại Mùi.
Rồi đếm theo chiều thuận, mỗi cung mỗi chữ: Thần, Tề, Mục, Vĩ, Tảng,
Phúc, Giác, Nhĩ, Yêu, Túc, Tỷ, Trường. Đến năm chết của người đó thì
dừng lại, xem vào chữ gì để định tốt, xấu.
Ví dụ: Người tuổi Hợi, chết trong năm Mão vào chữ gì?
Căn cứ theo Tam Hợp của tuổi người chết là: “Hợi,Mão,Mùi”, ta khởi
THẦN tại Mùi, Tề tại Thân, Mục tại Dậu, Vĩ tại Tuất, Tảng tại Hợi, Phúc
tại Tí, Giác tại Sửu, Nhĩ tại Dần, Yêu tại Mão, thì dừng lại. Vì Mão là
năm của người chết.
Như vậy người tuổi Hợi chết vào năm Mão là vào chữ Yêu trong THẬP NHỊ LONG HÌNH.
(Người chết là Đàn Bà cũng xem như đàn Ông)
Sau đó muốn biết chữ Yêu tốt hay xấu thì xem bài giải sau.
Ý nghĩa 12 bộ vị Huỳnh Long:
1- Thần: Môi Rồng. 2- Tề : Rốn Rồng. 3- Mục: Mắt Rồng. 4- Vĩ: Đuôi
Rồng. 5- Tảng: Trán Rồng. 6- Phúc: Bụng Rồng. 7- Giác: Sừng Rồng. 8-
Nhĩ: Tai Rồng. 9- Yêu: Lưng Rồng. 10- Túc: Chân Rồng. 11- Tỷ: Mũi Rồng.
12- Trường: Ruột Rồng.
Phép giải:
Thần, Giác chi niên sự bất tường
Nhĩ, Tề tất định chủ hồi hương
Mục, Yêu gia phá nhơn dâm đảng
Vĩ, Túc ca du loại cổ phường
Tỷ, Tảng tử tôn hưng thôn ấp
Phúc, Trường hốt kiến cận quân vương.
Giảng nghĩa:
Thần, Giác: là năm lắm bất tường
Nhĩ, Tề: chắc được lúc hồi hương (thi đỗ)
Mục, Yêu: nhà nát vợ con hỏng
Vĩ, Túc: phiêu linh hát vệ đường
Tỷ, Tảng: cháu con nhà, lẫm rộng
Phúc, Trường: gần gũi bậc quân vương
1. Thần: Môi Rồng.Hung.Chủ về kiện tụng.
2. Tề : Rốn Rồng.Cát.Chủ về đỗ đạt.
3. Mục: Mắt Rồng.Hung.Chủ về bất hạnh
4. Vĩ: Đuôi Rồng.Trung cát.Chủ về thiên ry.
5. Tảng: Trán Rồng.Cát.Chủ về tử tôn.
6. Phúc: Bụng Rồng.Cát.Chủ về quan lộc.
7. Giác: Sừng Rồng.Hung.Chủ về quan sự.
8. Nhĩ: Tai Rồng.Cát.Chủ về danh giá.
9. Yêu: Lưng Rồng.Hung.Chủ về ly tán.
10. Túc: Chân Rồng.Cát.Chủ về thành đạt.
11. Tỷ: Mũi Rồng.Cát.Chủ về giàu sang.
12. Trường: Ruột Rồng.Cát.Chủ về quan lộc.
Xem cung Tử:
Cung tử là cung của người chết. Tìm cung người chết để biết tốt xấu
vì người chết phạm phải năm tốt hay xấu có ảnh hưởng đến con cháu người
còn sống được hưng vượng hay bị suy vi.
Muốn tìm cung tử xem theo bàn tay dưới đây mà tính:
CÁCH TÍNH:
Người chết năm ấy được bao nhiêu tuổi, cứ lấy số tuổi đó mà tính. Nữ
khởi tại cung KHÔN đếm theo chiều nghịch. NAM khởi tại cung CẤN đếm theo
chiều thuận, Đại số và Tiểu số đều liên tiết, hết số chục tới số lẻ,
tới tuổi của người chết đến cung nào, lấy cung đó mà tính tốt xấu.
Ví dụ: Người chết 62 tuổi, coi Nam cung gì? Nữ cung gì?
CUNG NỮ:
Bấm tay tại cung KHÔN (theo bàn tay trên) đếm 10, theo chiều ngịch,
20 tại cung Ly, 30 tại cung Tốn, 40 tại cung Chấn, 60 tại cung Khảm, 61
tại cung Càn, 62 tại cung Đoài. Bà 62 tuổi chết tính vào cung ĐOÀI.
CUNG NAM:
Bấm tay lên cung CẤN theo chiều thuận đếm: 10 tại CẤN, 20 tại CHẤN,
30 tại TỐN, 40 tại LY, 50 tại KHÔN, 60 tại ĐOÀI, 61 tại CÀN, 62 tại
KHẢM. Ông 62 tuổi tính vào cung KHẢM.
Muốn biết cung nào tốt xấu ra sao thì xem bài thơ dưới đây, tên cung viết chữ thường là xấu, còn viết chữ IN HOA là tốt.
Càn ngộ hung thần gia chủ nguy. KHẢM
phùng vạn sự đắc giai kỳ CẤN
cung an ổn bình thường sự CHẤN
tích kim ngân lợi khả tri
Tốn ngộ quan tài tam mang một
Ly sinh khẩu thiệt, tử tận su KHÔN
ngộ quý nhân, quan chức trọng.
Đoài quy tản tộc hữu trùng bi.
Bài này có nhiều chỗ chép, chữ dùng không giống nhau, nhưng chỉ là đại đồng tiểu dị không đáng kể, đại khái thì bốn cung: KHẢM, CẤN, CHẤN, KHÔN là bốn cung tốt, còn Càn, Tốn, Ly, Đoài là bốn cung xấu. Nguồn sưu tầm trên Internet
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 04/May/2012 lúc 4:19am
http://tyhuu.com/doc-ngoc - " Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả Anh hùng hào kiệt có hơn ai ....".NCT
Chắc cũng có những lúc chúng ta vấp phải tảng đá hay đạp nhầm gai nhọn. Khi thấy công việc làm ăn thất bại, thân thể yếu đuối, và tinh thần suy nhược, hình như không còn khả năng đứng vững trên đường đời.... Hầu như mọi
người ai cũng từng trải qua những giai đoạn như thế này. Đây là biểu
hiện tinh hoa của TINH - KHÍ -THẦN bị cạn kiệt.-
bạn sẽ cảm thấy năng lực, năng lượng và nhiệt tình trước đây giảm đi đáng kể - HH mách với bạn một vài việc làm nho nhỏ, để giải buồn vừa để tạo lại một vùng không gian mới trong phòng làm việc của riêng mình . HH
SẮP ĐẶT LẠI BÀN LÀM VIỆC
Hầu như những cảm giác như thế này gây ra là do ảnh hưởng một phần bởi vùng không gian trực
tiếp làm việc của chúng ta. Khi bạn thấy thất bại, thường điều này gây ra bởi một số
biến cố làm chất xúc tác.
Những biến cố này có thể là do sự từ chối, bác bỏ, thất bại, thất vọng,
bị la mắng, phê bình, hoặc bị đối xử không công bằng. Thế thì mọi vật
quanh bạn sẽ làm tăng thêm cảm giác tuyệt vọng.
Vào những lúc như thế, bạn hãy sử dụng PHONG THỦY
để nâng đỡ tâm hồn bạn và khơi dậy lòng tự tin. Hãy xem bàn giấy của
bạn là một tiểu vũ trụ của biểu tượng thái cực, là đại diện cho khí âm
vũ trụ và tinh hoa của khí dương được biểu hiện trong biểu tượng bát
quái. Chia mặt bàn thành chín ô vuông bằng nhau như ma trận vuông. Điền
tên các hướng vào những ô vuông này.
Máy vi tính hướng đến một hướng tốt, căn cứ vào việc sử dụng quái số.
Hồ sơ được đặt ở hướng đông.
- Bắt đầu ở đâu ??
- Hãy sắp xếp các đồ vật trên bàn như sau:
Đặt máy tính ở bên phải, hoặc ở hướng Tây hoặc Tây Bắc. Nếu không,
hãy chọn một nơi mà bạn có thể đối diện với một trong những hướng tốt
(dựa trên công thức Quái số).
- Đặt hồ sơ ở ô hướng Đông hoặc Đông Nam. Điều này giúp bạn đạt được hiệu quả khi xử lý những vấn đề có trong hồ sơ.
- Đặt khay đựng hồ sơ ở hướng Tây để đảm bảo rằng bạn sẽ được bảo vệ, bất kể những quyết định của bạn.
- Bài trí đèn ở hướng Nam để đạt được sự công nhận của cấp trên. Một
cây nến nhỏ ở đây cũng khá mạnh, hoặc đặt một cái đèn để bàn.
- Để cục dằn giấy bằng thủy tinh ở hướng Tây Bắc để kích hoạt sự may
mắn. Điều này sẽ làm ông chủ / sếp ngưỡng mộ bạn. Đặt một miếng pha lê
tròn trên bàn ở góc Tây Bắc sẽ luôn luôn tạo ra sự tài trợ.
Theo First News - Trí Việt
HH sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 05/May/2012 lúc 7:22pm
http://tyhuu.com/doc-ngoc - 2**
Treo đồng hồ để xem thời gian, để trang trí làm đẹp không gian và đem lại may mắn cho cả nhà
Cùng với tranh ảnh, đồng hồ cũng được xem là vật trang trí mang lại
nét đẹp tinh tế cho ngôi nhà. Tuy nhiên, khi treo đồng hồ cũng cần lưu ý
đến những điều được xem là “không nên” trong khoa KHAM DỰ để có được một tổ ấm hạnh phúc và bình an.
Theo quan niệm của PHONG THỦY phương Đông, tất cả đồ vật có thể động thì đều có ảnh hưởng đến Phong
Thủy trong nhà. Kim đồng hồ luôn di chuyển không ngừng, vì thế khi bài
trí trong nhà cần lưu ý đến mấy điểm sau:
1. Có thể bài trí đồng hồ tại hướng CHU TƯỚC ( phía trước nhà ), bởi vì hướng Chu Tước phía trước thuộc di động. Bên cạnh đó, bài trí và treo đồng hồ tại hướng Thanh Long. Theo phong thủy, hướng Thanh long là hướng cát, vì thế bên trái của phòng có thể treo đồng hồ.
2. Không được treo hoặc bài trí hướng Bạch Hổ bởi vì hướng này là hướng hung nên bên phải phòng không được treo đồng hồ.
3. Không được bài trí đồng hồ tại hướng Huyền Vũ, bởi vì hướng này là phía sau nên tĩnh không nên động.
4. Phía trên sofa không nên bài trí đồng hồ sẽ dễ gây áp lực về tâm lý cho người ngồi phía dưới.
5. Không nên chọn đồng hồ có góc nhọn hay những hình thù có nhiều sắc
cạnh sẽ gây nhiều bất lợi và rối loạn luồng khí tốt khi di chuyển vào
nhà.
6. Không nên để mặt đồng hồ quay vào trong nhà mà nên quay ra cửa và
ban công. Đồng hồ thuộc động nên khi trong nhà vắng người vẫn có thể
khiến căn phòng tràn đầy sức sống.
7. Không nên treo đồng hồ hướng vào những thứ giống hình dáng của nó
hoặc hình Bát quái, bài trí như vậy sẽ khiến tinh thần của gia chủ dễ bị
ức chế và bực bội.
8. Ở phòng ngủ, kỵ nhất là treo đồng hồ ở đầu giường hay vị trí đối diện với giường ngủ gây nên không khí ảm đạm, buồn bã.
HH sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/May/2012 lúc 9:38pm
3 * THỜI VẬN
Đời người thường xảy ra biết bao thăng trầm nhưng cơ hội
để bạn có được hạnh phúc lại không nhiều. Vì vậy nếu bạn biết phối hợp
thời kỳ tốt đẹp của cuộc đời vào những công việc trọng đại như hôn nhân,
xin việc, chuyển ngành, mở mang cơ nghiệp mới thì cuộc sống của bạn sẽ
khá hơn.
Thời vận đỏ chính là thời kỳ khí số của bạn sung mãn nhất. Nếu bạn
biết nắm bắt lấy nó, như vậy bạn đã nắm bắt được hạnh phúc của mình ở
mức độ cao hơn.
Người ta thường nói đến thời vận lúc trẻ,
thời vận lúc thanh niên, thời vận lúc trung niên và thời vận khi về già.
Tổng hợp cả bốn loại thời vận trên, chúng ta hãy gọi là “bốn loại thời
vận”, trong bốn loại thời vận ấy, thời vận thời nào của bạn rực rỡ nhất?
Mối quan hệ rất mật thiết giữa mùa sinh của một người với bốn loại thời vận:
Người sinh vào mùa Xuân (từ tháng Một đến tháng Ba) thuộc loại sơ niên vận (từ khi sinh ra đến năm 20 tuổi) vận số cực thịnh.
Người sinh vào mùa Hạ (từ tháng Tư đến tháng Sáu) thuộc loại thanh niên vận (từ 20 đến 35 tuổi) vận số cực thịnh.
Người sinh vào mùa Thu (từ tháng Bảy đến tháng Chín) thuộc loại trung niên vận (từ 35 đến 50 tuổi vận số tốt đẹp).
Người sinh vào mùa đông (từ tháng Mười đến cuối tháng Mười hai) thuộc
loại vãn niên vận (từ 50 tuổi trở lên vận số tốt đẹp). Nếu thời gian vận
số tốt nhất của cả đời đến với bạn mà bạn biết nắm lấy cơ hội thì bạn
sẽ gặt hái thành công.
Ví dụ bạn là người cầm tinh con Ngựa, được sinh vào mùa Hạ. Những người
cầm tinh con Ngựa sinh vào mùa Hạ thuộc loại vận số tốt nhất vào độ tuổi
thanh xuân. Người sinh năm Ngọ có số vận đỏ vào năm Dần và năm Mùi. 1. NGƯỜI SINH VÀO MÙA XUÂN
Một năm được chia ra làm bốn mùa. Mùa Xuân tứ đầu tháng Một đến cuối tháng Ba. Mỗi mùa là ba tháng.
Những người sinh vào mùa Xuân thuộc loại sơ niên vận.
Bởi vì mùa Xuân là mùa mà vạn vật hân hoan tiến vào thời kỳ phồn vinh,
hoa lá đua nhau khoe sắc, o¬ng bướm rập rờn, cây cối đâm chồi nảy lộc
mọi thứ trên đời đều như trẻ lại. Đồng thời vào xuân, băng tuyết đã bắt
đầu tan chảy, khắp nơi hoa nở, chim hót rộn ràng và các loại động vật
ngủ đông cũng đã bắt đầu thức giấc. Vạn vật đều tràn trề sức sống. Chính
vì vậy ông cha ta đã gọi cuộc sống của mỗi con người thời trai trẻ là
“tuổi thanh xuân”. Và vận số loài người cũng bị ảnh hưởng bởi niềm hân
hoan bước vào thời kỳ phồn vinh ấy. Những người sinh vào mùa Xuân ngay
từ lúc còn nhỏ đã được ông trời ưu đãi, quá trình trưởng thành của họ
chẳng khác gì hình vẽ của một ngọn núi lửa
Bạn trẻ có thể trưởng thành nhanh chóng hay không đều dựa vào trạng thái
tinh thần của bậc làm cha, làm mẹ. Tức là tinh thần của họ cũng được
thoải mái , thư thái trong không khí của mùa Xuân và sinh ra đứa con với
tinh thần thư thái ấy. Những đứa con này lớn mạnh nhanh chóng, đó là lẽ
đương nhiên.
Trong không khí hân hoan tiến tới sự phồn vinh ấy, lại được cha mẹ nuôi
dạy, chăm sóc, yêu thương khi trong lòng họ tràn đầy sắc xuân, vận số
của đứa trẻ ấy từ khi được sinh ra cho tới năm hai mươi tuổi vốn được
ông trời đặc biệt ưu đãi. Mà cái gọi là “được ông trời đặc biệt ưu đãi”
ấy không phải chỉ thỏa mãn về phương diện vật chất mà còn có cả tình yêu
thương của cha mẹ nữa. Nó còn bao hàm tổng hợp tất mọi ưu đãi trong đời
sống, môi trường.
Vì vậy, đứa bé có được nhân tố tuyệt với để trưởng thành có thể nói là
những đứa bé sinh vào mùa Xuân đều có đầy đủ. Vì vậy, đối với những đứa
trẻ được sinh vào mùa Xuân, trong quãng thời gian “Sơ niên vận” của mình
vốn là thời kỳ vận số tốt. Nếu chúng biết nắm bắt lấy thời điểm “vận số
tốt” ấy thì ngay từ lúc còn trẻ chúng đã có thể xuất đầu lộ diện, tiến
lên cao, cả đời thuận buồm xuôi gió.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải lưu ý đến vận xấu của mình ở độ tuổi trung niên.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải đặc biệt chú ý đến những năm hạn.
Vì vậy nếu bạn được sinh vào mùa Xuân, bạn nên cố gắng vươn lên ngay
trong thời kỳ rực rỡ nhất “Sơ niên vận” của mình, cố gắng nắm lấy thời
vận lúc đang lên, đồng thời cũng phải lưu ý đến độ tuổi trung niên là
lúc thời vận của mình đang xuống, phải thật cẩn thận trong lời ăn tiếng
nói và công việc.
Bạn nên thận trọng khi làm một việc lớn mới vào năm vận hạn. Những người
sinh vào mùa Xuân nếu có sự cạnh tranh, tranh chấp xảy ra vào độ tuổi
trung niên tức là lúc vận hạn của mình thì dù bạn không sai nhưng người
gánh chịu phần thua thiệt vẫn chính là bạn. 2. NGƯỜI SINH VÀO MÙA HẠ
Mùa Hạ vào khoảng tử đầu tháng Tư đến cuối tháng Sáu. Nếu bạn là người
sinh vào mùa Hạ thì vận số cả đời của bạn, thuộc loại “Thanh niên vận”
Đối với nhùng người sinh vào mùa Hạ thì vận số của họ thịnh nhất vào
khoảng lúc tuổi thanh niên. Bất kể họ làm việc gì đều tự do tự tại. Đồng
thời, nếu bạn biết vận dụng tốt quãng thời gian có vận số thịnh nhất
của mình thì cuộc đời của bạn sẽ phát triển tốt.
Vào mùa Hạ mặt trời rực rỡ, chiếu rọi khắp nơi, mọi vật đều tràn đầy sức
sống. Trong thời gian này lúa đang trổ bông, phấn hoa lan tỏa khắp
không gian để chuẩn bị kết trái. Mùa Hạ là mùa mà vạn vật vận động mạnh
mẽ nhất trong bốn mùa. Mùa Hạ chính là ngưỡng cứa của mùa Thu, là mùa
thu hoạch. Nếu dùng bốn mùa để ví với cuộc sống của một đời người thì đó
là mùa mà người ta có nhiều biến động lớn nhất. Nếu nói theo màu sắc
thì biểu tượng của mùa Xuân là màu xanh lục còn màu đỏ là biểu tượng của
mùa Hạ.
Những người sinh vào mùa Hạ cần phải biết nắm lấy vận đỏ vào độ tuổi thanh niên của mình.
Nếu bạn là người được sinh vào mùa Hạ thì đến khi về già, quay đầu nhìn
lại vận mệnh cả đời của mình, nhất định bạn sẽ thấy vận mệnh của mình
phát triển rực rỡ nhất vào độ tuổi tứ 25 đến 30 của mình.
Nếu bạn là người sinh vào mùa Hạ, dù cho thửa nhỏ của bạn trôi qua không
được êm đềm cho lắm nhưng tuyệt đối bạn chớ nên nhụt chí. Những người
thành công đều là những người đã vượt qua được thử thách của hoàn cảnh,
ngay từ nhỏ đã theo đuổi mục tiêu của cuộc đời, biết dũng cảm tiến lên
phía trước, luôn nỗ lực phấn đấu không biết mệt mỏi. còn tiếp HH sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/May/2012 lúc 9:43pm
3. NHỮNG NGUỜI SINH VÀO MÙA THU
Ai cũng biết rằng mùa Thu có ba tháng, kéo dài từ đầu tháng Bảy đến cuối tháng 9.
Các bạn thử hình dung lại
mùa Thu ở vùng ngoại ô xem sao. Đầu tiên, mùa thu chính là mùa thu
hoạch. Lúa hay các loại hoa mầu khác đều được thiên nhiên ban thưởng hậu
hĩnh, cuối cùng cũng đã tới lúc chín muồi, tạo cho người nông dân cảm
giác vui vẻ khi thu hoạch mùa màng về nhà. Vùng ngoại ô miền núi cũng
khoác lên mình nét đẹp rực rỡ. Đó chính là một trong những đặc trưng cua
mùa Thu. Thế nhưng sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong, khung cảnh
ngoài đồng lại khiến người ta có cảm giác cô tịch, vắng lặng, không thể
che giấu nổi nỗi buồn mang mác của mùa. Thu trước phong cảnh tiêu điều,
cô tịch của vạn vật.
Những người sinh vào mùa Thu - Vốn bị ảnh hưởng của mùa thu hoạch. Như
biểu đồ đã chỉ, vào độ tuổi trung niên - Độ tuổi chín chắn của cuộc đời
vận số thịnh nhất sẽ đến với họ.
Vận số của bạn có chiều hướng đi xuống vào độ tuổi trước trung niên. Các
bạn chớ ngại khi liên tưởng đến cây lúa, trước khi trổ bông kết trái đã
phải trải qua sự khảo nghiệm của mưa gió. Tức là vào mùa Hạ, nhưng đợt
gió mạnh thổi qua làm thân cây nghiêng ngả, rập rờn. Như vậy cây lúa mới
có được điều kiện thụ phấn giữa hoa đực và hoa cái, mới có được vụ thu
hoạch vào mùa Thu. Cũng giống như đạo lý trên, những người sinh vào mùa
Thu trước khi bước vào cuộc tranh thắng phụ đều phải trải qua các cuộc
khảo nghiệm kỹ lưỡng.
Có vượt qua được các cuộc khảo nghiệm ấy hay không, điều này phụ thuộc bởi vận mệnh của những người sinh vào mùa Thu.
Những ngườii sinh vào mùa Thu phải biết cần cù cố gắng ở độ tuổi thanh niên.
Ngoài ra còn một vấn đề cần phải nói nữa là giống như tranh minh họa ở
trang trước đã hiển thị, cuộc sống nửa trước của cuộc đời họ đa số đều
trải qua một cách bình lặng. Do đó, thông thường mà nói, họ không đủ
lòng kiên nhẫn để đợi cho qua kỳ ngủ đông này, thường có những hành vi
khinh xuất manh động, tự đào mồ chôn mình hay oán trời chẳng chiều
người, cảm thấy vô cùng thất vọng trong cuộc sống, có rất nhiều người
vứt bỏ mọi sự cố gắng của mình đi. Kết quả là dù vận số cực thịnh thời
trung niên của họ có tới , không những họ không biết nắm lấy, thậm chí
họ để nó trôi đi một cách tự nhiên còn mình thì chết dần trong sự buồn
bực.
Ngược lại, những người biết nuôi hy vọng cho tương lai của mình trong
thời kỳ ngủ đông này, vẫn liên tục cố gắng một cách không biết mệt mỏi
tất đến độ tuổi trung niên họ sẽ thu được thành quả mĩ mãn của mình.
Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa. Đối với những người sinh vào mùa Thu, làm
việc vất vả thời thanh niên nhất định sẽ được dền bù xứng đáng về sau
này. Hơn nữa tôi cũng muốn khuyên những người sinh vào mùa Thu một điều
là: Chớ nên theo người của mình. Nếu bạn làm được như vậy, bất luận bạn
theo đuổi sự nghiệp gì, qua độ tuổi 35 của mình, nhất định bạn sẽ gặt
hái được thành công. Còn đối với công việc chuyên ngành hay đổi sang
công việc mang tính tự do thì bạn vẫn cần phải cẩn trọng trong thời
thanh niên, tuyệt đối chớ nên manh động.
Ví dụ như những người cầm tinh con Hổ vốn rất hay thay đổi công việc,
chính vì vậy mà không ít người đã để thời điểm vận số cực thịnh của mình
qua đi một cách phí phạm. Nhưng nếu những người sinh vào mùa Thu có
khuynh hướng ấy, thời thanh niên họ liên tục thay đổi công việc, kết quả
giành cho họ là trăm điều hại mà chẳng có lấy một chút lợi nào, trở
thành kẻ thất bại của cuộc đời.
Nhưng nếu họ thay đổi công việc vào thời kỳ vận số thịnh nhất ở độ tuổi
trung niên của mình, rất có thể họ sẽ đạt được những thành tích khiến
người khác phải ngưỡng mộ, từ đó tạo ra một cuộc sống phát triển mạnh
mẽ, hoàn toàn mới của mình.
Cũng giống như việc thay đổi ngành nghề vậy. Trên phương diện hôn nhân,
đa số những người sinh vào mùa Thu nếu kết hôn muộn sẽ có cuộc sống gia
đình, hạnh phúc. Nếu họ kết hôn sớm thì không tốt, dễ thay đổi.
Bội thu ở độ tuổi từ bốn mươi đến năm mươi.
Tóm lại, những người sinh vào mùa Thu sẽ có vận số cực thịnh ở độ tuổi
trung niên của mình. Dù nhắc đến những nhân vật thành danh thì họ đều
thuộc số những người bắt đầu phát ở độ tuổi từ ba mươi đến bốn mươi, đến
độ tuổi trung niên họ bắt đầu gặt hái thành công to lớn. 4. NGƯỜI SINH VÀO MÙA ĐôNG
Mùa Đông dài ba tháng, vào khoảng từ đầu tháng Mười đến hết tháng Mười
hai. Nếu bạn sinh vào mùa Đông, như vậy vạn số của bạn sẽ thuộc loại
“Vãn niên vận”.
Bởi bạn được sinh vào mùa Đông, hoa cỏ tàn tạ phải gánh chịu gió lạnh
tuyết rơi và cũng là mùa ngủ đông của các loài động vật. Đó chính là
cách tự bảo tồn của các loài động, thực vật để vượt qua mùa Đông lạnh
lẽo, chờ đợi mùa Xuân ấm áp.
Tức là nhùng người sinh vào mùa Đông như bạn vốn trời ban cho số vừa
phải ẩn mình đợi đến mùa Xuân, vừa phải dưỡng thần, tích luỹ nhuệ khí,
vốn có sức nhẫn nại lớn vô cùng. Dù bạn gặp phải bất cứ nghịch cảnh gì,
bạn đều có thể điềm nhiên chấp nhận. Và bạn cũng có khả nàng tự khắc
phục cực kỳ siêu việt. Vì vậy, so với những người sinh vào các mùa khác,
vào độ tuổi trung niên trở về trước thì bạn không bằng được họ nhưng vì
bạn biết dựa vào tính nhẫn nại và khả năng khắc phục chính mình nên lúc
về già có thể bạn sẽ thành danh, cuộc sống dễ chịu.
Phải chăng vận số của những người sinh vào mùa Đông không tốt bằng “sơ
niên vận”, “thanh niên vận” , “Trung niên vận” ? Chưa hẳn đã thế. Như
trên đã nói, dù quãng thời gian vận số cực thịnh của cuộc đời họ đến
muộn nhưng vẫn có những năm vận số tốt đều đặn đến với họ theo một chu
kỳ nhất định. Và nếu can chi của họ có vận số tốt (ví dụ như người cầm
tinh con Rồng, Hổ, Rắn, Khỉ, Lợn vốn là những con vật có vận số mạnh hơn
những loài khác trong mười hai địa chi) lại kết hợp với thời gian sinh,
thậm chí với cha mẹ bạn học có duyên số tốt thì bạn cũng có thể có vận
tốt may mắn đến.
Những người sinh vào mùa Đông đã giành được đại thắng nhờ tính nhẫn nại và công phu chờ đợi của mình.
Dù bạn nắm bắt được vận tốt vào độ tuổi thanh niên nhưng vận số lúc ấy
của bạn vẫn chưa phải là vận số thực sự. Xét theo một khía cạnh khác thì
vận số đó không có một chút tính chắn chắn nào. Tức là dù bạn có thể
xuất đầu lộ diện từ lúc bạn còn trẻ nhưng e rằng bạn khó có thể giữ nó
lại cho đến lúc bạn già.
Những người sinh vào mùa Đông dường như phải đợi đến lúc về già mới nắm
bắt được hạnh phúc thực sự của mình. Vì vậy vào độ tuổi thanh xuân dù
luôn gặp phải nghịch cảnh có tài mà không được trọng dụng, không nắm
được vận đỏ thì bạn cũng chớ lấy đó làm bi quan. Hãy vui vẻ thoải mái,
bình tâm tĩnh trí đợi đến khi thời cơ đã chín muồi.
Nguồn: PTTH
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 16/May/2012 lúc 7:31pm
http://www.blogphongthuy.com/?p=2747 - 4 * Cách bố trí phòng làm việc của lãnh đạo cơ quan và công ty.
Tránh xa “Xung Sát”.
Phía trước, xung quanh phòng làm việc chỗ cửa hoặc cửa sổ
nếu như có một con đường lớn xuyên thẳng, hoặc có cột điện, trạm biến
áp, ống khói lớn, các góc nhọn của vật kiến trúc đó gọi là “Xung Sát”.
Nếu như sự “Xung Sát” không lớn khoảng cách lại xa thì cũng không cần
ngại lắm. Nếu như tại cửa sổ, cửa phụ thì chúng ta có thể dùng rèm cửa
che đi. Nếu như ở cửa lớn thì vấn đề nghiêm trọng hơn, nếu có thể chuyển
cửa ra vị trí khác là tốt.
Nếu không thể thì nên dùng các vật phẩm PT hóa giải.
- Chọn lựa hàng xóm tốt.
Phong Thủy Học cho rằng, môi trường xung quanh có lực ảnh hưởng đến thân thể con
người. Bởi vậy chỗ phòng làm việc nên tránh thật xa các khu vực chùa
miếu,bệnh viện, trại giam, tòa án đó là nơi có âm khí, oán khí, bệnh khí
rất thịnh không có lợi cho công việc lãnh đạo.
- Lấy “Ta” làm trung tâm.
Phong Thủy Học có một câu rất kinh điển “Sơn Hoàn Thủy Bão Hữu Tình”,
có thể lấy các vật kiến trúc cao lớn làm Sơn, đem đường đi lối lại, chỗ
nhìn hơi thấp làm Thủy, Sơn và Thủy cần ôm vòng bảo vệ xung quanh ta,
hình thành ra khái niệm Tứ Tượng trong các cục đẹp của Phong Thủy Học:
Tiền Chu Tước (Phía trước là chim Khổng Tước Đỏ), Hậu Huyền Vũ (Sau
là Rùa Thần Đen), Tả Thanh Long (Trái là Rồng Xanh), Hữu Bạch Hổ (Phải
là Hổ Trắng).
Nói một cách khác phía trước hơi xa nơi làm việc cần có chỗ hơi thấp
rộng rãi, phái sau hơi xa một chút có chỗ cao lên; bên phải có đường xá
đi lại quanh co uốn khúc; bên trái cần có vật kiến trúc nhô cao hơn ta
chút chút.
Còn như ngay tại chỗ làm việc của mình phía trước lại có vườn hoa
nhỏ, hoặc hồ nước phẳng lặng trôi nhẹ. Ấy tức là thượng Phong thượng
Thủy vậy.
- Tàng Phong Tụ Khí.
Phòng của lãnh đạo tốt nhất là ở vào phía trong, bên ngoài là các
phòng nhân viên giúp việc. Các phòng nhân viên giúp việc cần nhỏ (Hoặc
phòng lớn chia cho nhiều người), đây không phải vấn đề phân biệt đẳng
cấp mà chính là để Tụ Nhân Khí tạo sự gắn kết giữa các nhân viên.
Cửa giữa gian ngoài và gian trong không nhất thiết mở ở giữa, mà nên
bố trí sao cho tất cả đều có thể vào phòng “Sếp” một cách nhanh nhất
nhưng từ một bên cạnh. Nó làm cho Tài Khí từ phòng của “Sếp” không bị
tiết thoát ra ngoài, lại ứng với cách cục Phong Thủy “Uốn lượn là có
Tình”.
Bên ngoài phòng nhân viên giúp việc sẽ là phòng của các bộ phận
chuyên môn trước tiếp liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. ở vị trí
này học có thể nắm bắt dễ dàng các biến động, chu trình của xí nghiệp
mà xử lý kịp thời.
Trong phòng của nhân viên giúp việc nên bày hoa cảnh, bể cá non bộ,
làm cho Khí trong phòng luôn tươi mát, khiến cho người người qua lại đều
hài lòng. Bức tường giữa phòng sếp và nhân viên giúp việc nếu có thể bố
trí Kính Pha Lê đẹp sáng thì càng tốt, tuy nhiên cần được che kín. Nó
tạo cảm giác hơi “thần bí” càng tốt.
- Ánh Sáng Tốt Đẹp.
Phòng làm việc của Sếp hai bên cần có cửa sổ kính, nhưng ánh sáng quá
mạnh quá thông lại không tốt, nó làm cho người ở trong phòng dễ bị suy
nhược thần kinh hoặc cảm thấy mệt mỏi. Nếu như ngoài cửa sổ là các cảnh
sắc không đẹp thì nên lấy rèm che đi.
Về cung vị thì cửa sổ quay về các hướng Đông, Nam, Tây đều được duy
chỉ không nên quay về Bắc. Bởi Bắc là thuộc cung Khảm, chủ về mệt mỏi,
vất vả (Khảm – Hãm). Âm Khí quá thịnh, Dương Khí khó phát triển, áp lực
cho công việc sẽ rất lớn.
Nếu như là bất khả kháng thì cửa sổ không nên mở quá lớn, hoặc không
nên ngồi quá gần. Các vật dụng trong phòng như giá sách, bàn làm việc
nên dùng mầu sắc ấm áp để chống lại âm khí.
- Cách Bố Trí Cần Thể Hiện Khí Chất Và Phẩm Chất Của Lãnh đạo.
Cách bố trí Phong thủy của phòng làm việc và nhà ở không giống nhau.
Phòng làm việc cần thể hiện được uy quyền một cá nhân, nó là văn hóa của
doanh nghiệp, nó tạo ra lợi thế cho quyết sách cùng các cuộc thương
thảo của bản thân Sếp và doanh nghiệp.
Âm thanh, treo tranh, bày đồ cần có Khí Lực, sao cho khách đến không
thể không khâm phục Sếp về cả trình độ lịch lãm cũng như uy quyền. Tất
cả đều dựa trên mệch lý Bát Quái (thể chất) của vị Sếp ấy mà sắp đặt.
- Hướng Ngồi Và Bàn Làm Việc.
Bàn làm việc của sếp không thể đối diện cửa phòng vào, phía sau lưng
cũng không thể có cửa mở thông, như phạm phải thì cái đó Phong Thủy Học
gọi là “Lục Sát”. “Lục Sát” tức là sự mâu thuẫn tuyệt đối (Theo 6 hào
trong quẻ kép Kinh Dịch) mọi sự đều khó thành.
Nếu ánh sáng quá nhiều thì bàn làm việc nên tránh xa cửa sổ một chút,
ánh sáng yếu thì ngược lại. Bàn làm việc lớn hay nhỏ cần căn cứ theo sự
lớn nhỏ của Phòng, cũng cần theo khuôn khổ thân hình của Sếp mà định,
cần có tỷ lệ đẹp.
Tất cả cách bố trí vật phẩm sử dụng trong phòng đều phải thay đổi cho
phù hợp với mình. Đó là nguyên tắc tối thượng. Thế cục hình thành một
vòng cung hướng ra ngoài, bàn làm việc của Sếp cần được đặt trong vòng
cung bảo vệ đó, tất cả cần hình thành một lực hướng tâm bảo vệ, tăng
cường ích lợi cho Sếp.
Nguồn:PTTH http://www.phongthuytonghop.com/ -
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 16/May/2012 lúc 7:52pm
5 * ĐỊA HÌNH BÊN NGOÀI
Một ngôi nhà được coi là thịnh vượng, đem đến sự thoải
mái an toàn cho gia chủ không phải chỉ có kiến trúc đẹp, trang thiết bị
hiện đại là đủ, mà còn phải có điều kiện môi trường xung quanh cũng tốt.
Nếu điều kiện của địa hình bên ngoài không tốt thì kiến
trúc bên trong cho dù có chăm chút đến mấy cũng là không đủ, thậm chí
khó tránh khỏi sự suy giảm về sức khỏe, tài lộc và công việc.
Địa hình bên ngoài ngôi nhà chính là một trong những yếu tố rất quan
trọng. Trong khoa học gọi là yếu tố cần cho sự thịnh vượng của những
người sống trong nhà.
Nhà đâm ngõ
Một trong những ảnh hưởng không tốt của địa hình bên ngoài đối với
một ngôi nhà là bị đường lộ hoặc ngõ hẻm đâm vào. Cửa nhà nằm trực diện
với đường lộ lớn, xe cộ và người qua lại luôn thẳng hướng đi tới, tạo
cảm giác luôn có thể xảy ra tai nạn vào bất cứ lúc nào, từ đó sẽ gây tâm
lý bất an. Cư trú lâu ngày trong ngôi nhà như thế dễ bị suy giảm sức
khỏe, sinh ra bệnh tật, dễ làm nảy sinh những quyết định sai lầm ảnh
hưởng tới cuộc sống, sự nghiệp. Đối với trường hợp là ngõ hẻm nhỏ, hoặc khe hở hẹp giữa hai tòa nhà
đối diện (gọi là xung thiên sát) mà nhỏ hơn so với cửa nhà hoặc bề mặt
đối diện của ngôi nhà thì càng tạo ra xung khí mạnh cuốn theo không khí,
gió, bụi, tạp âm tác động đến gia chủ. Sự tác động đó có thể ví như
dòng chảy xiết và những ảnh hưởng xấu càng diễn ra nhanh hơn. Trường hợp
này, xây cất cửa hàng cửa hiệu để kinh doanh cũng không tốt.
Trên đây là 2 trường hợp nên tránh khi xây dựng một ngôi nhà. Vì, nếu
chỉ chú trọng đến phương hướng, bố cục, cách bài trí của ngôi nhà mà
không quan tâm đến cấu trúc tốt xấu của địa hình bên ngoài, chính là chỉ
chăm chút phần ngọn mà bỏ qua phần gốc.
Theo Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 19/Feb/2014 lúc 7:17am
Năm Giáp Ngọ
Nói chuyện xuất hành
Ngày thứ Sáu 31 tháng 1 năm 2014 là ngày Nhâm Dần, tháng Bính
Dần, tức Mồng Một TẾT Nguyên Đán , khởi đầu năm Giáp Ngọ ,
là năm thứ 11 của Vận 8 Hạ Nguyên . Tất cả Can Chi của trụ
năm, tháng, ngày và cả trụ giờ Canh Tý cũng đều được tương
sinh, cho nên năm nay Giáp Ngọ, nhất định phải được tốt lành hơn
so với các năm trước.
Theo cách tính của người xưa thì năm Giáp Ngọ có Nạp Âm là 4
. Hà Đồ thì số 4-9 thuộc hành Kim . Theo Ngũ Hành Tương Ngộ
thì Kim gặp Kim là giàu sang, phú quý . Vậy nên, những người
mạng Kim, năm nay sẽ gặp nhiều may mắn, ăn nên làm ra . Những
người mạng Thủy được Kim sinh, hẳn gia đạo an lành, mọi sự đều
như ý. Những người mạng Hỏa khả năng khắc được Kim, theo lý
của Dịch , gặp các năm Kim thì lại có nhiều cơ hội hái ra
tiền. . Những người mạng Thổ bị sinh xuất nên cả năm phải chạy
vạy, lao đao. Riêng các người mạng Mộc thì đành phải chịu một
năm xấu vì bị Kim khắc.
Theo thuyết Tam Nguyên Cữu Vận thì chũ vận Bát Bạch hành Thổ
đang sinh Kim. Những người mạng Kim gặp đúng Kim của năm Giáp
Ngọ . Tốt càng thêm tốt, cho nên đầu năm không phải lo tìm hướng
xuất hành . Các mạng khác kể cả người mạng Thủy đang đươc Kim
sinh, nhưng lại bị khắc bởi Bát Bạch vận tình hành Thổ, nên
cũng cần phải chọn đúng hướng xuất hành như các mạng khác,
để sao cho năm mới Giáp Ngọ gia đạo bình yên, ăn nên làm ra ,
mọi việc đều được tốt lành như ý . .
1/ Xuất hành hướng chính Bắc :
Lịch sách nói năm nay Sinh Bắc -Tử Nam , khuyên người có thể
chọn phương Bắc xuất hành. Nhưng nếu tính theo vòng tràng sinh
thì các sao Tuyệt, Thai , Dưỡng của Ngọ Hỏa đang tại Hợi, Tý
và Sửu là các nơi Tam Sát đang ngụ . Lại còn Tý Ngọ tương xung
thì Tuế Phá, Đại hao cùng với Thiên Khốc, Thiên Hư đồng cư tại
Tý Thủy phương Bắc. Đầu năm mà gặp phải những bại tinh thường
gây ra lắm tang thương bệnh tật , nên đành chọn hướng khác
, nhớ tránh xa phương này mà xuất hành hái lộc
2/ Xuất hành hướng Đông Bắc .
Hướng đương vận, tốt . Lại còn thêm Tuế Lộc , Bạch Hổ, Phi Liêm
…. Sách xưa có nhắc là gặp năm Ngọ thì nhớ tìm hướng Đông
Bắc mà nghênh Tài .
Vậy, đầu năm này, nhất định chọn hướng Đông Bắc xuất hành,
hầu mong sao cho suốt năm gia đạo an khang , gặp nhiều may mắn,
kiếm cho được nhiều Tài, nhiều Lộc .
Đặc biệt các vị đang kinh doanh, bán buôn thương mại, năm nay
chỉ có hướng Đông Bắc là hướng tốt duy nhất để xuát hành
hái Lộc mà thôi . Xuát hành hướng này, các nhà đầu tư, kinh
doanh thương mại sẽ có cơ hội thành công hơn rất nhiều so với
các năm trước .
3/ Xuất hành hướng chính Đông :
Quý Thần tại chính Đông . Các sao Đào Hoa, Thiên Hỹ và Thiên
Đức cũng đang tại phương này . Vi nào tự thấy mình sao vẫn mãi
còn cô đơn lẻ bóng , thì đầu năm đừng quên phải chọn xuất
hành hướng chính Đông ; nhất định trong năm sẽ có rất nhiều cơ
hội gặp được trung nhân như ý.
4/ Xuất hành hướng Đông Nam :
Mặc dù Phượng Các và Quả Tú dang tọa chốn này. Nhưng khi sao
Thiên Trù , Điếu Khách mà lỡ gặp phải Phá Toái với Tuần
Không thì chắc chắn trong năm sẽ gây ra tai họa. Tình tiền đều
mất . Vì vậy, đầu năm nhớ không nên chọn hướng này xuất hành
hái Lộc.
5/ Xuất hành hướng chính Nam :
Lịch sách bày bán trên thị trường đều cho rằng đầu năm Giáp
Ngọ, Tài Thần đang tại chính Nam, cho nên khuyên chọn hướng Nam
xuất hành hái lộc.
Các nhà viết sách, làm lịch đã căn cứ vào ngày mồng Một Tết
đầu năm có hàng Can là Nhâm mà khẳng định là Tài Thần đang
tại hướng Nam . Họ còn có lý do để khuyên người nên chọn phương
Nam cầu Tài là tại Lưu Niên phi Tinh Bát Bạch cũng đang tọa
phương này .
Thế nhưng , một sô tài liệu khác, lại khẳng định gặp năm Giáp
Ngọ, tuyệt đối không nên chọn hướng Nam, mà phải chọn xuất
hành hướng Bắc là vì năm nay Sinh khí tại Bắc và Tử khí tại
Nam . Hiệp Kỷ Biện Phương Thư xuất bản tử đời Càn Long cũng
xác định tháng giêng gặp ngày Nhâm Dần kỵ xuất hành hướng Nam
để cầu Tài vì Tài đang tại vùng Tử khí , sẽ gặp lắm hiểm
nguy !
Tìm đọc kỷ thêm để biết, thì ra năm nay, Đai Sát và Tuế Hình
đang trấn thủ phương Nam cho nên các tài liệu khẳng định Tử
khí tại Nam là đúng. Đầu năm mà nhắm hướng Nam xuất hành để
tìm Tài thì coi chừng vì tài mà mất mạng.
Vậy nên vị nào tự thấy mình cao số khả thể trấn áp được hai
sao cực kỳ hung hản là Tuế Hình và Đại Sát bên cạnh Thái
Tuế đầy uy lực, thì cứ gồng mình thử nhắm hướng Nam xuất
hành đầu năm biết đâu lại trúng lớn ?
6/ Xuất hành hướng Tây Nam :
Hướng này khá tốt nhờ Thái Dương Đắc địa ngộ Thiên không. Sách
xưa cũng viết năm Giáp Ngọ thì Đại Cát phương Khôn. Đầu năm
cầu mong sao cho gia đạo bình yên thì có thể chọn hướng này
xuất hành
Những vị nào làm ăn kinh doanh cần đó đây để đầu tư, giao dịch
hay phải thường xuất ngoại, đầu năm nhớ đừng nên chọn hướng
này xuất hành vì Mã đã bị Triệt !
7/ Xuất hành hướng chính Tây :
Hồng Loan, Thái Âm , Thiên Phúc, Lưu Hà thêm Niên Tinh Lục Bạch .
Đầu năm xuất hành cầu cho gia đạo an vui, hạnh phúc, nhớ chọn
hướng này .
Nam nhân nào lâu nay than thở, rằng sao mấy năm qua, tình đến
nhưng tình lại ra đi, để cứ mãi phòng không gối chiếc, thì năm
nay thử chọn hướng này xuất hành xem ra có khà hơn không ?
Vị nào buôn bán , đầu tư, kinh doanh hay cầu thăng quan tiến chức thì không nên chọn hướng này xuất hành .
8/ Xuất hành hướng Tây Bắc :
Hướng Tây Bắc đặc biệt năm nay là hướng duy nhất dành cho tất
cả những ai muốn mưu cầu Danh Lợi – Hai sao có tính quyết định
là Quốc Ấn – Long Trì đầy uy lực đang bên cạnh Ngũ Hoàng lại
thêm Quan Phù như sắc lệnh sẳn sàng ký phát .
Vị nào mãi mấy năm rồi, vẫn chưa tìm được việc làm hay vị
nào muốn tăng quan, tiến chức, hoặc vị nào đang cầu thắng cử,
tranh quyền, thì nhớ thật kỷ đầu năm phải chọn hướng Tây Bắc
là hướng tốt nhất để xuất hành.
Hai sao Tuế Đức cùng với Nguyệt Đức đêm ngày bao vệ tối đa cho
những vị nào thật lòng muốn cầu . Cầu Quan mà biết lấy chữ
Đức làm đầu thì cũng nên cầu và cầu thìchắc chắn sẽ được
toại nguyện.
Tóm lại , năm Giáp Ngọ 2014
- Vị nào muốn xuất hành để cầu Tài Lộc thì chọn hướng Đông Bắc .
- Vị nào muốn cầu gia đạo bình an thì tốt nhất nên chọn
chính Đông . Hai hướng thứ đến là chính Tây và Tây Nam
- Vị nào cầu mongTình Yêu đến thì chọn hướng chính Đông –
Vị nào đã từng bị tình phụ, phủ phàng ngang trái, thì năm
nay, nên chọn hướng chính Tây
- Vị nào cầu cho trong năm được thăng quan tiến chức hay
may mắn tìm được công ăn việc làm như ý, thì nhớ đầu năm phải
nhắm hướng Tây Bắc mà xuất hành
Nhớ năm nay, xấu nhất là hướng chính Nam. Đầu năm mà chọn
hướng này xuất hành cầu Tài thì có thể tiền mất tật mang vì
sẽ gặpTuế Hình và Đại Sát.
Hướng chính Bắc thì bị Tuế Phá, Thiên Khóc, Thiên Hư cùng với
Tai Sát - toàn gặp sát, bại tinh thì cũng cần biết để tránh .
Riêng hướng Đông Nam là hướng của Thiên Trù - dù được Phượng
Các và Quả Tú thêm mắn thêm muối - mà lại bi Điếu khách cùng
với Phá Toái gây hại coi chừng bễ nồi gạo. Đầu năm, cần cầu
mong cho an lành thì không nên chọn hướng này xuất hành mà cấu
tài, hái lộc .
Giờ Tốt để xuất hành đầu năm :
Sách Tàu nói ngày Nhâm Dần đầu năm là ngày Triệu tướng quân
nhận sắc phong, khuyên không nên chọn Hướng Nam vì gắp Tử Khí ,
đai hung , nhưng có thể chọn giờ Ngọ và giớ Mùi xuất hành sẽ
có Lộc có Tài và sẽ được gặp Quý Nhân phò trợ.
Giờ Ngọ là từ 11 giờ sáng đến 1 giờ trưa .
Giờ Mùi là từ 1 giờ trưa cho đến 3 giờ chiếu .
Theo Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính thì ngày đầu năm Giáp
Ngọ có thể chọn những giờ hoàng đạo sau đây để xuất hành
cầu Tài, hái Lộc:
Giờ Tý – Giờ Sữu : Đúng giao thừa cho đến 3 giờ sáng .
Giờ Thìn – Giờ Tỵ : Từ 7 đến 11 giờ sáng .
Giờ Mùi : Từ 1 đến 3 giờ chiều .
Giờ Tuất : Từ 7 đến 9 giờ đêm .
Năm mới, cầu mong cho tất cả gia đạo được an khang và thành công đa phương diện
Thầy Quảng Đức VA
Hoa Hạ ghi lại
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 27/Jan/2015 lúc 8:58pm
Năm Ất Mùi Nói Chuyện Xuất Hành
Trưa ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Ngọ đã khởi Lập Xuân, vậy mà phải nữa tháng sau mới đến ngày Tết Nguyên Đán năm Ất Mùi 2015, nhằm vào thứ Năm 19 tháng 2 Dương Lịch 2015. Tức là ngày Bính Dần, tháng Mậu Dần, thuộc Vận 8 Hạ Nguyên. Theo phép Ngũ Hành, Ất Mộc khắc chế Mùi Thổ là Can khắc Chi, tức năm nay Ất Mùi không phải là năm tốt. Nhưng nếu tính ngày Bính Dần khởi dầu cho năm mới, thì Dần Mộc sinh cho Bính Hỏa là Chi sinh Can lại là ngày tốt . Xưa nay, hể gặp một sinh một khắc là huề. Tốt xấu phải chờ động xuất. Vì vậy đặc biệt năm nay, phương hướng xuất hành có khả năng trở thành một trong những yếu tố chủ động quan trọng để quyết định thành bại, được thua.
Theo cách tính của người xưa thì Bính Dần khởi đầu năm là ngày Nhật Nguyệt hợp, đại cát, các thiên thần La hán giáng hạ.
- Tài Thần tại Dậu chính Tây,
- Hỹ Thần tại Thân Tây Nam,
- Sinh Đông Bắc -Tử Tây Nam.
Nếu tính theo năm thì Ất Mùi , Lộc tại Mão chính Đông , Tuế và Nguyệt Đức tại Tý chính Bắc .
Theo Tử vi, Tuần tại Thìn Tỵ và Triệt tại Ngọ Mùi, Thiên Hỷ tại Dần, Ấn Phù tại Hợi và Đào Hồng Hỹ tại Tam hợp của Thân Tí Thìn. .
Theo Cổ Dịch, Ngũ Hoàng tại Dậu chính Tây và Nhị Hắc đang tại Đông Nam .
1/ Xuất hành hướng chính Bắc :
Năm nay, Niên Vận Tinh Bát bạch đến phương chính Bắc chủ phát tài, lợi tăng điền sản. Tuế Đức và Nguyệt Đức cũng tại nơi đây . Muốn cầu được Tài mà vẫn còn cái Đức thì đầu năm xuất hành nhât định nhớ nên chọn phương naỳ. Thái Dương cùng với Thiên Khôi, Đào hoa hợp từ cung Thân chiếu về có Hồng, có Hỹ thêm Thiên Phúc, Thiên Việt thì thiện nam tín nữ nào muốn cầu Tình cũng đừng quên xuất hành hướng chính Bắc. Xuất hành hướng này trong năm chắc chắn vừa được Tài được Lộc vừa cơ hội gặp được ý trung nhân hằng từng mơ ước.
2/ Xuất hành hướng Đông Bắc :
Lục Bạch, thêm Thiên Hỹ, Long Đức . Phương này cũng là phương đương vận, lẽ ra phải tốt . Ngặt là Tuế Phá, Tuế Hình và Phá toái, Thiên Hư lãng vãng sẳn sàng gây họa. Cho dù Lịch sách có nói năm nay Sinh tại Đông Bắc thì cũng phải nhớ xuất hành đầu năm nên tránh xa phương này.
3/ Xuất hành hướng chính Đông:
Phương của Lưu niên Nhất Bạch và Tuế Lộc đang tọa thủ cùng Đại Tướng quân, Tử vi, Bạch hổ, Phi liêm...... Vị nào đang tại chức còn lắm quyền uy nên đầu năm nhắm hướng này mà xuất hành vừa cầu được Lộc, vừa được tăng thêm Quan tiến thêm Chức. Các vị nào đang nắm quyền điều động các công ty xí nghiệp lám ăn lớn, năm nay cũng nên cần chọn xuất hành hướng này.
Vị nào, ngày hai bửa sáng vác ô đi, chiều vác ô về, chỉ mong cầu cho an phận thì nhớ tuyệt đối tránh xa phương này.
4/ Xuất hành hướng Đông nam :
Thiên Quan, Thiên Tướng ngộ Kình dương ngay tại nơi đây. Người xưa dặn rất kỷ là hể Quan Tướng ngộ Kình thì y như dao đang kề cổ. Tuần không cũng đóng tại đây thì e cho dù có gặp được Tuế Mã , Điếu khách với Thiên Lương Phúc Đức thì cũng không cứu nỗi . Chưa kể Nhị Hắc cũng đang lãng vãng sẳn sàng tác oai. Thôi thì năm nay, chọn hướng xuất hành thì nhớ tránh xa phương này để khỏi dây dưa với tai họa.
5/ Xuất hành hướng chính Nam :
Gặp phải Thất Sát, Đai Hao lại thêm Niên tinh Thất Xích thì hướng Nam năm nay rất dễ bị Hỏa tai . Xuất hành hướng này hoàn toàn bất lợi . Hướng này cũng đang bị Triệt Lộ, đóng đường. Đầu năm vô ý chọn xuất hành , vừa ra khỏi nhà nếu không gặp ngay đường cấm thì cũng gặp cảnh sát tặng cho tờ giấy phạt đầu năm.
6/ Xuất hành hướng Tây Nam :
Lưu Niên Cửu Tử đến Tây Nam thì sách xưa nói con cái nhẹ lòng, dễ bị dụ dỗ sinh ra hư đốn. Nếu tính sao Liêm Trinh cũng là sao Đào Hoa thứ hai, thì Đào Hồng, Thiên Hỷ mà gặp Thiên Không thì chẳng khác chi Tình có cũng như không, thì hướng này chắc chắn không phải là hướng để cầu Tình. Lịch sách cũng nói năm nay Sinh Đông Bắc, Tử Tây Nam lại thêm Thái Tuế thì hướng Tây Nam năm nay lại càng không phài là hướng để cầu Quan cầu Lộc. Vậy nên,xuất hành nhất định không chọn Tây Nam.
7/ Xuất hành hướng chính Tây :
Tang Mơn, Ngũ Quỷ, Tai Sát đang tại chốn này, lại cũng là nơi cư ngụ của Ngũ Hoàng Đại Sát . Cho dù hướng này là hướng của Tài Thân ngày Bính đi nữa cũng nhớ không nên chọn hướng này xuất hành cầu Tài dầu năm.
8/ Xuất hành hướng Tây Bắc .
Theo Dịch số thì hể lưu niên Tam Bích nhập Trung Cung như năm nay Át Mùi 2015, Phục Ngâm phải về đúng Tây Bắc . Gặp Phục Ngâm là mọi việc trể nãi, dây dưa, không tốt. Lại còn xưa nay sách tử vi nào cũng nhắc câu phú : Nam bất nhân Phá quân Thìn Tuất...........lại đúng năm nay Phá Quân đắc địa tại Tuất. Như vậy thì quả hướng Tây Bắc không phải hướng tốt để đầu năm xuất hành cầu Quan, cầu Lộc .
Thế nhưng, theo cụ Thiên Lương, nếu Tử Vi đang nắm quyền uy thống trị thì Phá Quân là đối lập công khai . Tây Bắc Tuất Hợi đang có đũ bộ Quốc Ấn- Địa Quan Phù và Tấu Thư thì rõ ràng Ấn Phù đang trong tay đối lập- Lại còn tháng giêng Hỹ tại Tuất và năm Mùi Nghênh Tài tại Hợi thì Tây Bắc Tuất Hợi cũng khả năng là phương tốt lành để đầu năm có thể chọn xuất hành .
Nên nhớ Ấn Phù chỉ ban cho đại nhân quân tử có chính nghĩa rõ ràng. Sao Thiên Đồng chủ Phúc đang bị hãm địa thì những kẻ ăn theo, luồng gió bẻ măng đừng trách bại tìnhThiên Khốc sẳn sàng gây nên tai họa khôn lường.
Tóm lại :
Năm nay nên chọn Chính Bắc xuất hành vừa được Tiền vừa được Tình.
Vị nào đương quyền thì chọn Chính Động
Vị nào đại nhân quân tử, có chính nghĩa, đang phía đối lập thì nên chọn xuất hành hướng Tây Bắc .
Giờ hoàng đạo xuất hành hái lộc đầu năm :
- Giờ Tí – Sửu : Từ giao thừa đến 3 giờ sáng.
- Giờ Mùi : Từ 1 đến 3 giờ chiều.
- Giờ Tuất : Từ 7 đến 9 giờ đêm.:
Đặc biệt
Giớ Thìn – Tỵ : Từ 7 giờ cho đến 11 giờ sáng là giờ Không Vong . Đầu năm mà phải đi làm đúng giờ và không thể chọn được phương Tốt để xuất hành thì hãy nhớ câu : Không vong nào ấy vô dùng, cát thời tất ừng, dù hung bất thành và câu : Tứ bề thọ địch thì tìm nơi Không mà tránh, mà có thể an tâm chọn xuất hành giờ này vậy.
Năm mới, xin kính chúc tất cả được an khang và thịnh vượng .
QUẢNG ĐỨC .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Feb/2015 lúc 7:36am
Giấy Khai Sinh Cho Năm Mới
Thiên Thời Địa Lợi với Nhân Hòa,
Ba thứ loanh quanh khó thoát ra
Từ khi cất tiếng oe oe khóc
Đến lúc còng lưng ...tuổi đã già !
Cao xanh Trời đã an bài sẳn
Đất mẹ hiền hòa vẫn chở che
Sang hèn, cao thấp đâu ai chọn
Vinh nhục, buồn vui, " Nghiệp" tự Ta
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/Feb/2015 lúc 7:37am
Phi Tinh Năm 2015- (Thiên Thời)-
Phi tinh các sao quản năm Ất mùi vận 8 hạ nguyên
- Tam Bích nhập Trung cung.
- Tứ Lục ở hướng Tây-bắc, nhập Càn cung.
- Ngũ Hoàng ở hướng Tây, nhập Đoài cung.
- Lục Bạch ở hướng Đông-bắc, nhập Cấn cung.
- Thất Xích ở hướng Nam, nhập Ly cung.
- Bát Bạch ở hướng Bắc, nhập Khảm cung.
- Cửu Tử ở hướng Tây-nam, nhập Khôn cung.
- Nhất Bạch ở hướng Đông, nhập Chấn cung.
- Nhị Hắc ở hướng Đông-nam, nhập Tốn cung.
Phương Kị nhất là :
- Đoài cung, Chính Tây có sao: Ngũ Hoàng, Liêm trinh, Thổ. Chủ tai họa, bệnh tật.
- Tốn cung, Đông Nam có sao: Nhị Hắc, Cự môn, Thổ. Chủ tật bệnh, ôn dịch.
Phương tốt nhất là:
- Chấn cung, Chính Đông có sao Nhất bạch, Tham lang, Thủy.
- Cấn cung, Đông Bắc có sao Lục bạch, Vũ khúc, Thủy.
- Khảm cung, Chính Bắc có sao Bát bạch Tả phụ hành thổ.
Những phương hướng khác tùy thuộc vào tuổi tác công việc để chọn hướng xuất hành, động thổ, làm phong thủy cho phù hợp.
Cách hóa giải xung sát và phương vị xấu xem phần Thần quy, Trần triều Quốc bảo, Thạch anh ngũ sắc.
*Trung ương, Trung cung : Có sao Tam Bích Lộc Tồn Tinh đóng, đây là hung tinh chuyên về thị phi, tranh đấu, ngoài ra còn dễ gặp phải tai nạn, quan trường kiện tụng, bệnh về gan mật. Thêm nữa Tam Bích hiện tại trong Vận 8 đã là Sát Khí cực đỉnh, khắc Vận Bát Bạch Thổ nên tính chất càng nguy hiểm. Nếu như nhà mở cửa ở phương này, khí xấu tích tụ, khiến người trong nhà tâm trạng trở nên rất xấu, dễ nổi nóng, dễ giận dữ, tranh cãi. Năm nay Cung Tinh tỷ hòa, nếu như sắp xếp phong Thủy tốt, có thể sinh được quý tử, sự nghiệp cũng có thể tiến thêm một bước. Nếu sắp xếp không tốt, dễ xuất hiện giặc cướp, phá tán, có bệnh phong tật,, hoặc đau gan mật.
*Càn cung, Tây bắc : Có sao Tứ Lục Văn Khúc Tinh phi bay đến, sao này chủ về Văn Xương, khoa danh, bằng cấp ưu tú, cũng chủ về chiêu đào hoa nhân duyên. Nếu đem bàn học đặt vào vị trí này, thành tích học tập tất có sự vượt trội. Nếu tại chỗ này làm việc về giấy tờ, đầu óc cũng linh mẫn hơn, phúc đến tâm linh cũng có nhiều thuận lợi hơn. Đối với cấp lãnh đạo, tất là Ngựa Tốt gặp Bá Nhạc, có cơ duyên thăng tiến với cấp trên, có biểu hiện xuất sắc, khiến công tác có bước tiến vượt bậc. Văn Khúc Tinh cũng chủ về nhân duyên và đào hoa vận. Đó có thể là nhân duyên kết thân với nhiều người, có thể là bài trừ tiểu nhân và đem đến nhân duyên lý tưởng cho hôn nhân.
Năm nay Văn Khúc Tinh đi vào trung cung, có hiện tượng Sao khắc Cung, nếu bố cục Phong Thủy tốt, tất các thành viên trong gia đình đều được văn tài vật phú, học nghiệp, cong tác thuận lợi. Nếu bố cục không tốt tất gặp bất lợi, tinh thần bất an, trong nhà u ám, nữ chủ bệnh tật, khó sinh nở, gia cảnh suy đồi.
*Tốn cung, Đông nam : Nhị Hắc Cự Môn Tinh bay vào phương vị này, đây là sao chủ về bệnh tật tổn thương, đặc biệt là các bệnh về dạ dày, huyết quang. Trong năm nay thì không nên động thổ tại phương vị này. Nếu chỗ này là cửa lớn, người ở trong nhà có thể sẽ đột nhiên nhiễm bệnh tật hoặc phát sinh các biến chứng xấu về sức khỏe, thậm chí có thể phải phẫu thuật, không thể không phòng. Năm nay Cung Tinh tương khắc, nếu phong thủy có lợi, chủ phụ nữ nắm quyền, gia tài tà tích, duy con trưởng là không lợi. Nếu phong thủy đang suy bại thì có thể dẫn tới vợ chồng bất hòa, lừa dối, nạn cờ bạc, dễ có kẻ bắt gà trộm chó, phụ nữ dễ mắc bệnh đầy bụng, rất là hung hiểm.
*Cấn cung, Đông Bắc: Năm nay Lục Bạch Vũ Khúc Tinh nhập vào ở vị trí phương này, đâu là một trong Tam Cát (gồm Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch). Nó có tác dụng đem lại vinh hoa, thăng tiến, chiêu quý nhân, được cấp trên, người lớn giúp đỡ, thành công, Lục Bạch cũng chủ về Dịch mã, chủ có việc đi xa, du lịch, lên chức, di dời, thậm chí là chuyển đổi công việc. Chỉ cần vân dụng thích đáng sẽ hoàn thành được Tâm Nguyện, xứng ý xứng lòng. Năm nay Sao Cung ngang hòa, được cung tương trợ, Kim Khí hơi vượng quá, chỉ cần có được sắp đặt địa hình hợp lý, tất chủ thăng quan tiến chức, đại quyền đến tay, tài vận cũng tốt. Nếu bố cục sai, tất phạm vào ứng với “Giao Kiếm Sát” tranh cãi, đấu đá, cạm bẫy, xuất hiện trộm cướp, khẩu thiệt quan phí, lớn bé trong nhà không yên..
*Khảm cung, Chính Bắc : Năm nay Bát Bạch Tả Phụ Tinh bay vào phương Bắc, đây là sao giàu có đứng đầu trong Tam Bạch, lại là đương vận nên tối quý, ngoài mang lại tài vận giàu có, cũng là sao mang lại nhiều cát tường, công việc sự nghiệp thuận lợi, hôn nhân giá thú cũng lợi ích nhiều. Nếu cửa phòng hoặc cửa nhà ở vị trí này, tất là gia trạch hưng vượng, tài vận hanh thông, có thể thêm đinh, trí nghiệp, đào hoa vận có thể đưa đến kết hôn. Nếu như gia trạch lại là đương vận đắc thế, cát lại thêm cát, hỷ sự trùng trùng. Năm nay Tinh Cung tương sinh, nếu bố cục phong thủy tốt, chủ nhiều việc tốt đến, phú gia địch quốc, thăng quan tiến chức. Nếu bố cục phong thủy không tốt, tất chỉ lửa cháy đất thành tro, dễ mắc bệnh về mắt mũi, nóng bụng, máu xấu, lại e có hỏa tai.
*Khôn cung, Tây Nam : Năm nay Cửu Tử Hữu Bật Tinh bay vào phương vị phía bắc, đây là sao hỷ khánh vui vẻ, chủ về văn minh, đại cát đại lợi, có việc vui mừng giáng lâm, như kết hôn, sinh nở, thăng chức, khởi nghiệp và thành công. Năm nay Tinh Cung tương khắc, lại có thái tuế thúc đẩy bay xuống, đồng thời là phương vị của Tam Sát, sát khí cũng khá nặng, nên tránh nằm ngồi tại vị trí này. Nếu phong thủy bố cục tốt, chủ gia đình có việc vui, âm dương chính phối, thủy hỏa ký tế,sinh con trai, giàu có bất ngờ. Nếu phong thủy bố cục không tốt, tất gặp đào hoa sát, hôn nhân bất hạnh, mắt tật tai ù, e có bệnh nặng.
*Ly cung, Chính Nam : Năm nay Thất Xích Phá Quân Tinh vào phương Nam, đây là sao thuộc về Quan phi tai tiếng, chủ các việc rắc rối về quan sự, cẩn thận phòng trộm cướp, an ninh, cướp bóc. Sao này cũng chủ về nghệ thuật giải trí ăn chơi, đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực này thường có lợi. Sao này hiện đang là thoái khí hung cát vô thường, nên sinh không nên khắc, nếu như bố cục không hợp, hoặc vận dụng sai, tất có sự cản trở về sự nghiệp, lợi dụng, hoặc dễ gặp phải tai nan, cũng dễ có bệnh phải mổ xẻ thân thể. Sao này cũng là một sao về Thiên Tài, năm nay là Sao Cung tương sinh, sắp xếp phong thủy cho chính xác, chủ liên tục thăng quan, tài Thần đến cửa, tiền bạc phong túc, gia đình yên vui. Con cái mạnh khỏe. Nếu bố cục sai, tất tiền tài hao tán, miệng sinh dị vật, con cái nhiều bệnh.
*Chấn cung, Chính Đông : Năm nay phương Chính Đông có Nhất Bạch Tham lang bay đến, Tham Lang Tinh là một trong ba sao tốt của Huyền Không Phi Tinh, chủ được Văn Quý, Nhân Hòa, Giàu Có, Cảm Tình và Đào Hoa. Đối với người muốn thăng chức, đi xa, cầu tiến đều có sự trợ lực rất tốt. Năm nay Cung Tinh tương khắc, nếu bố cục phong thủy tốt, âm dương điều hòa, chủ lợi về văn chức, có cái giàu về đất cát, gia vượng nhân đinh thịnh, người thân khỏe mạnh. Ngược lại như sắp xếp Phong Thủy không đúng, tất vợ chồng bất hòa, có nhiều bệnh về dạ dày và thận, người nhà hay bị bệnh.
*Đoài cung, Chính Tây : Năm nay Chính Tây là vị trí của Ngũ Hoàng Liêm Trinh Tinh bay vào. Ngũ Hoàng là lưu niên quan sát, phương vị này rất kỵ hưng công động thổ, , nếu không tất là chiêu gọi hung hiểm. Ngũ Hoàng là sao cực hung dữ, đến đâu là không lưu tình, không nên bất cẩn coi thường. Nếu cửa lớn bố trí ở phương này, tất cần lưu ý hóa giải. Năm nay Cung Sao tương sinh, Thổ Khí giảm bớt, sức phá hoại của Ngũ Hoàng cũng giảm bớt nhiều, nếu bố cục phong thủy tốt, dễ có được tiền tài, con cái hiếu thuận, nên đề phòng có nạn huyết quang. Nếu phong thủy sắp xếp không tốt, tất chủ gia dễ các bệnh như đau đầu, đau xương. Có chuyện quan phi khó giải quyết, nhức đầu nhức óc.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/Feb/2015 lúc 7:50am
Chọn người xông nhà theo tuổi :
Chủ nhà tuổi TÝ nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu
Chủ nhà tuổi SỬU nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý
Chủ nhà tuổi DẦN nên chọn người tuổi Ngọ, Tuất, Hợi
Chủ nhà tuổi MÃO nên chọn người tuổi Tuất, Hợi, Mùi
Chủ nhà tuổi THÌN nên chọn người tuổi Dậu, Thân, Tý
Chủ nhà tuổi TỴ nên chọn người tuổi Thân, Dậu, Sửu
Chủ nhà tuổi NGỌ nên chọn người tuổi Mùi, Dần, Tuất
Chủ nhà tuổi MÙI nên chọn người tuổi Ngọ, Hợi, Mão
Chủ nhà tuổẫoTHÂN nên chọn người tuổi Tỵ, Tý,Thìn
Chủ nhà tuổi DẬU nên chọn người tuổi Thìn, Tỵ, Sửu
Chủ nhà tuổi TUẤT nên chọn người tuổi Mão, Dần, Ngọ
Chủ nhà tuổi HỢI nên chọn người tuổi Dần, Mão, Mùi
Chọn người xông nhà theo Mệnh :
Chủ nhà mệnh Kim nên chọn người mệnh Thổ, Thuỷ, Kim
Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn người mệnh Thuỷ, Hoả, Mộc
Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn người mệnh Kim, Mộc, Thuỷ
Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn người mệnh Mộc, Thổ, Hoả
Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn người mệnh Hoả, Kim, Thổ
Chọn người xông nhà theo Trạch Lưu Niên :
Năm nay người 19-28-37-46-55-64-73 được trạch Phúc, tốt
Năm nay người 20-29-38-47-56-65-74 được trạch Đức, tốt
Năm nay người 17-26-35-44-53-62-71 đượctrạch Bảo, tốt
Năm nay người 18-27-36-45-54-63-72 được trạch Phúc, tốt
Những tuổi còn lại là trạch : Bại, Hư, Khốc, Quỷ, Tử đều xấu
Hợp can chi và tương sinh với gia chủ :
Xét theo khía cạnh âm dương ngũ hành, khi chọn người xông nhà cần tìm người hợp về can hoặc chi và tránh người khắc về can hoặc chi. Nếu được hợp cả can lẫn chi là tốt nhất.
Theo hệ can chi, ai sinh vào năm nào trong số 12 con giáp từ Tí (chuột) đến Hợi (lợn) và thuộc thiên can (từ Giáp đến Quý) đều được nạp âm, dương và Ngũ hành. Xét theo tính xung hợp của tuổi can chi gồm có:
1. Đồng khí (đồng cực) thì đẩy nhau, khác khí (khác cực) thì hút nhau, như hai cực của một thanh nam châm đó là tương tác "âm dương".
2. Tương tác "Ngũ hành" theo cơ thể "tương sinh" hay "tương khắc". Đồng hành thì tị hòa.
Theo hai nguyên lý trên, 10 thiên can và 12 địa chi mang tính xung hợp như sau:
Thiên can hợp: Giáp (dương) hợp Kỷ (âm), Đinh (âm) hợp Nhâm (dương), Ất (âm) hợp Canh (dương), Mậu (dương) hợp Quý (âm, Bính (dương) hợp Tân (âm).
Thiên can xung: Theo cơ chế đồng khí và ngũ hành tương khắc: Giáp xung Mậu (cùng là Can dương) - Mộc khắc Thổ; Ất xung Kỷ (cùng là Can âm) - Mộc khắc Thổ; Bính xung Canh (cùng là Can dương) - Hỏa khắc Kim; Định xung Tân (cùng là Can âm) - Hỏa khắc Kim; Mậu xung Nhâm (cùng can Dương) - Thổ khắc Thủy; Kỷ xung Quý (cùng Can âm) - Thổ khắc Thủy; Canh xung Giáp (cùng Can dương) - Kim khắc Mộc; Tân xung Ất (cùng Can âm) - Kim khắc Mộc; Nhâm xung Bính (cùng Can dương) - Thủy khắc Hỏa; Quý xung Đinh (cùng Can âm) - Thủy khắc Hỏa.
Địa chi hợp: Lục hợp âm dương có 6 cặp địa chi hợp nhau theo cơ chế "1 âm + 1 dương", gọi là "lục hợp": Tý - Sửu hợp Thổ; Dần - Hợi hợp Hỏa; Mão - Tuất hợp Hỏa; Thìn - Dậu hợp Kim; Tỵ - Thân hợp Thủy; Ngọ - Mùi (Thái dương - Thái âm).
Tam hợp cục: Trong 12 chi, cứ 3 chi phối hợp thành một hình "tam giác đều" đỉnh ở 4 hướng thuộc 4 hành, gọi là "Tam hợp".
Đó là: Thân, Tý, Thìn: Thủy cục; Hợi, Mão, Mùi: Mộc cục; Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa cục; Tỵ, Dậu, Sửu: Kim cục. Còn Thổ vì ở Trung tâm nên không thành Cục.
Địa chi xung: Các Chi ở các hướng đối nhau và có các hành tương phản. Đó là: Tý - Ngọ tương xung (Bắc -Nam; Thủy - Hỏa); Mão - Dậu tương xung (Đông - Tây, Mộc - Kim); Tý - Ngọ tương xung (Hỏa - Thủy); Dần - Thân tương xung (Mộc - Kim).
Các chi đối hướng và đồng cực, tức đồng khí cũng xung nhau: Thìn - Tuất tương xung (đều là Dương - Thổ); Sửu - Mùi tương xung (đều âm Thổ).
Địa chi tương hình (là cản trở lẫn nhau, không hòa hợp). Có 3 trường hợp: Tý Ngọ - Mão Dậu; Dần Thân- Tỵ Hợi; Sửu Mùi - Tuất Thìn. Có hai chi tự hình, đó là Thìn với Thìn, Ngọ với Ngọ.
Địa chi tương hại (tức là làm hại lẫn nhau), có sáu trường hợp: Tý - Mùi tương hại (Thủy - Thổ); Sửu - Ngọ tương hại (Thổ - Hỏa); Dần - Tỵ tương hại (Mộc Thổ); Thân - Hợi tương hại (Kim - Thủy); Dậu - Tuất tương hại (Kim - Thổ).
Ngoài cách chọn tuổi theo can chi, có thể chọn theo ngũ hành của mệnh và chọn người có mệnh tương sinh với mệnh của gia chủ, tránh người có mệnh khắc với mệnh gia chủ, nhưng tránh can hoặc chi khắc can, chi gia chủ.
Ví dụ: Gia chủ tuổi Quý Hợi (mệnh Thủy) nên chọn người mệnh Kim (Canh Tuất, Tân Hợi) xông nhà là tốt vì Kim sinh Thủy. Tránh người có mệnh Thổ (Bính Thìn, Bính Tuất) đến xông nhà vì Thổ khắc Thủy.
Khái quát tính tình của 12 tuổi :
1, Người tuổi Tý tính nết bộc trực nhưng lời nói, cử chỉ rất cẩn thận, chặt chẽ, sống rất tiết kiệm. Dễ bị kích động nhưng tính tự chủ khá cao, ngoại giao khéo, thích nơi náo nhiệt.Tuổi này xung khắc với tuổi Ngọ và hợp với tuổi Sửu (bạn có thể mời người tuổi này đến xôngnhà, tốt nhất là tuổi Tân hay Quý Sửu)
2, Người tuổi Sửu cần cù nhẫn nại, bảo thủ và quá thận trọng trong công việc. Bề ngoài họ mềm mỏng, chất phác và rất tôn trọng truyền thống, ưa kỷ luật, thẳng thắn, công minh, không thích dùng thủ đoạn và hay ghi chép sổ sách. Tuổi này xung với tuổi Mùi và hợp với tuổi Tý (bạn có thể mời người tuổi Bính Tý hoặc Mậu Tý đến xông nhà là tốt nhất)
3, Người tuổi Dần thích thể hiện năng lực, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tính tập trung cao độ cho mục đích công việc nhưng cách sống lập dị và ưa hoạt động. Họ cũng là người có nhiều sáng kiến, ý diễn đạt sáng sủa, thích trang phục đẹp và cuộc đời gập ghềnh. Tuổi này xung với tuổi Thân và hợp với tuổi Hợi (bạn có thể mời người tuổi Quý Hợi hoặc ất Hợi đến xông nhà là tốt nhất)
4, Người tuổi Mão ôn hòa, mềm mỏng, cử chỉ thanh lịch, nhã nhặn và có khiếu về khoa học xã hội và chính trị nhưng lại không ưa đấu tranh trực diện, thích an nhàn mặc dù rất thông minh, trí tuệ. Họ không quan tâm nhiều đến cuộc sống gia đình và rất tự tin vào khả năng của mình. Tuổi này xung với tuổi Dậu và hợp với tuổi Tuất (bạn có thể mời người tuổi Nhâm Tuất hoặc Giáp Tuất đến xông nhà là tốt nhất)
5, Người tuổi Thìn nóng nảy vội vã, nhiệt tình và ôm nhiều khát vọng quá cao. Họ thường coi mình là trung tâm vũ trụ nên hay tự cao, tự đại. Tuy nóng nảy, cứng rắn đôi khi võ đoán nhưng họ lại thẳng tính, không hay để bụng và không ưa sự ràng buộc.Tuổi này xung với tuổi Tuất và hợp với tuổi Dậu (bạn có thể mời người tuổi Đinh Dậu hoặc Kỷ Dậu đến xông đất đầu năm là tốt nhất)
6, Người tuổi Tỵ thường có thiên hướng về triết học hoặc tâm lý học. Họ không thích nghe ai khuyên bảo, luôn đa nghi và bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích. Họ rất thông minh nhạy bén và không chịu nhường ai vì những tham vọng riêng của mình. Tuổi này xung khắc với tuổi Hợi và hợp với tuổi Thân (bạn có thể nhờ những người tuổi Bính Thân hoặc Giáp Thân đến xông đất).
7, Người tuổi Ngọ phóng khoáng nhanh nhẹn và hay cả thèm chóng chán. Họ có tính độc lập cao, thích hoạt động thể chất, khá nóng nảy và cố chấp nhưng đôi khi tiền hậu bất nhất vì thiếu nhẫn nại. Tuổi này xung khắc với tuổi Tý và hợp với tuổi Mùi (bạn có thể nhờ người tuổi Đinh Mùi hoặc ất Mùi đến xông nhà)
8, Người tuổi Mùi chính trực hiền lành, dễ cảm thông với người khác, yêu nghệ thuật và dễ tha thứ, nhưng họ cũng yêu tự do cá nhân, đa sầu đa cảm, sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán việc gì, hay để lỡ cơ hội tốt. Tuổi này xung khắc với tuổi Sửu và hợp với tuổi Ngọ (bạn có thể mời người tuổi Bính Ngọ hoặc Mậu Ngọ đến xông đất đầu năm)
9, Người tuổi Thân nhanh nhẹn, thông minh tháo vát. Họ ưa tranh đấu nhưng lại khéo che đậy kế hoạch của mình. Là những người đa tài, làm được nhiều ngành nghề nhưng luôn cảm thấy mình giỏi hơn người khác nên thường chủ quan thái quá dẫn đến thất bại. Tuổi này xung khắc với tuổi Dần và hợp với tuổi Tỵ (bạn có thể mời người tuổi Đinh Tỵ hoặc Tân Tỵ đến xông nhà đầu năm)
10, Người tuổi Dậu rất bảo thủ, câu nệ, cố chấp với bản chất kiêu ngạo. Tuy tài giỏi, có năng lực và tài tổ chức, lại quyết đoán ưa tranh luận nhưng cách nghĩ cứng nhắc, không linh hoạt để thích ứng được với hoàn cảnh.. Tuổi này xung khắc với tuổi Mão và hợp với tuổi Thìn (bạn có thể mời người tuổi Mậu Thìn hoặc Canh Thìn đến xông đất đầu năm)
11, Người tuổi Tuất.Tuổi này xung khắc với tuổi Thìn và hợp với tuổi Mão (bạn có thể mời người tuổi Đinh Mão hoặc Kỷ Mão đến xông đất đầu năm)
12, Người tuổi Hợi.Tuổi này xung khắc với tuổi Tỵ và hợp với tuổi Dần (bạn có thể mời người tuổi Canh Dần hoặc Nhâm Dần đến xông đất đầu năm)
Theo PTG Trần Ngọc Kiệm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 02/Sep/2015 lúc 9:29am
Tôi mới được đọc bài này . Chuyển các HV đọc cho biết :
QĐ
Thăng Long lược Phong Thủy kí
Gọi là long mạch được chia ra thân (can long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)… Lớn thì gọi là đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long… Long mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi, bát Quái… con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử… Đó chính là một bộ nhớ vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không – Thời gian trong tổng thể cái gọi là quá khứ, vị lai… của vũ trụ. Sách “Địa giải Huyền thư” nêu rằng nằm trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện, xã)… Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết, vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy.
Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao… nên xem Trời là tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long mạch tạo nên sự vận hành của “khí”. Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát… biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường. Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bẩy mươi tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây giờ.
Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý tưởng: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời…” (Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì… Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long… vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước.
Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy “cát” đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí “hung”. Thăng Long ngược lại với nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài. Ba triều vua trước (Ngô, Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Liệu đó có phải là lý do chính để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau (Trần, Hậu Lê…), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận Kinh sư.
Long mạch để phúc trạch cho con người không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một “giới hạn” đã định sẵn cho những “nhà” nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau:
Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc… thì Ngài lại cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc Giang) – quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt, vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác.
Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý, tồn tại được hơn một trăm bẩy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông (con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bẩy. Cuối cùng, Thiếu Đế (con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau:
Đời thứ nhất:…………………………………..Trần Thái Tông
Đời thứ hai:…………………………………….Trần Thánh Tông
Đời thứ ba:……………………………………..Trần Nhân Tông
Đời thứ tư:………………………………………Trần Anh Tông
Đời thứ năm:…………………………………..Trần Minh Tông
Đời thứ sáu:…Trần Hiến Tông – Trần Dụ Tông – Trần Nghệ Tông – Trần Duệ Tông
Đời thứ bẩy:………………………….Phế Đế – Trần Thuận Tông
Đời thứ tám:……………………………………Thiếu Đế.
Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái Tông đến Trần Nghệ Tông – đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly.
Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi.
Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt.
Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm (1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bẩy đời. Đó là một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung Hoàng cùng đời thứ bẩy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thử bẩy? Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở thành Cổ Lộng của Trần Cảo, vị vua do chính Lê Lợi lập nên và cũng do chính Lê Lợi sai người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho Trần Cảo?
Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau lại bị chính Lê Lợi giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước(?). Gia phả ấy còn chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì (trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân gian có câu: “hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” nói về ngày giỗ của hai vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai là… đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi…). Thế là trước sau vẫn đủ… tám đời. Nếu quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa… công bằng. Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ:
Đời thứ nhất:…………………………………..Trần Cảo (hoặc Lê Lai)??
Đời thứ hai:……………………………………..Lê Thái Tổ
Đời thứ ba:………………………………………Lê Thái Tông
Đời thứ tư:……………………………………….Lê Nhân Tông
Đời thứ năm:……………………………………Lê Thánh Tông
Đời thứ sáu:…………………………………….Lê Hiến Tông
Đời thứ bẩy:………………..Lê Túc Tông – Uy Mục Đế – Tương Dực Đế
Đời thứ tám:……………………….Lê Chiêu Tông – Cung Hoàng Đế
Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây sẽ nói) mà thôi.
Mạc Đăng Dung tàn sát con cháu Lê Lợi, cướp cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc, chiếm giữ Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long mạch đó mà phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung, trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước.
Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà Mạc. Song thực ra chỉ có hư vị, Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã có lời “sấm”: “phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”. Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan…
Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa quá khứ – hiện tại và tương lai… điều mà chính khoa học đang cố chứng minh và ngày càng tiến gần tới… cổ xưa. Kiến thức về long mạch của người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do, kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con cháu chúng ta sau này.
Viết tại Tân Uyên – Bình Dương 11/2005
Phạm Lưu Vũ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 16/Nov/2015 lúc 9:57am
Những vị trí nhất thiết không đặt bàn thờ
Bàn thờ là nơi linh thiêng, đại diện cho âm phần của ngôi nhà. Những vị trí đặt bàn thờ nên tránh sẽ giúp bạn không mắc phải sai lầm đáng tiếc.
Vị trí đặt bàn thờ kị nhất là dựa vào trụ nhà và có cửa sổ bên cạnh. Như thế khí không tụ, cúng bái bao nhiêu cũng theo gió bay mất, không ở lại với gia đình.
Nhà bếp là nơi có tính hỏa mạnh, bàn thờ áp lưng vào bếp thì chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống.
Nhà vệ sinh, nhà tắm âm khí nặng nề, đặt ban thờ phía trước khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau ban thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ở lưng.
Nếu trong nhà không còn vị trí đặt ban thờ nào khác thì nên lấy bình phong che lại. Tủ dưới ban thờ không nên dùng làm nơi cất trữ đồ đạc.
Nhà đang thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc dùng tấm vách ngăn sơn đỏ để tránh tranh chấp nhau.
Bàn thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Vì bàn thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường bàn thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu bàn thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán.
Ban thờ là nơi linh thiêng, đại diện cho âm phần của ngôi nhà. Những vị trí đặt ban thờ nên tránh sẽ giúp bạn không mắc phải sai lầm đáng tiếc.
Nhung vi tri nhat thiet khong dat ban tho hinh anh
Vị trí đặt ban thờ kị nhất là dựa vào trụ nhà và có cửa sổ bên cạnh. Như thế khí không tụ, cúng bái bao nhiêu cũng theo gió bay mất, không ở lại với gia đình.
Nhà bếp là nơi có tính hỏa mạnh, ban thờ áp lưng vào bếp thì chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống.
Nhà vệ sinh, nhà tắm âm khí nặng nề, đặt ban thờ phía trước khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau ban thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ở lưng.
Nếu trong nhà không còn vị trí đặt ban thờ nào khác thì nên lấy bình phong che lại. Tủ dưới ban thờ không nên dùng làm nơi cất trữ đồ đạc.
Nhà đang thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc dùng tấm vách ngăn sơn đỏ để tránh tranh chấp nhau.
Ban thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Vì ban thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường ban thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu ban thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán.
Bàn thờ bị đường đi đâm thẳng vào dễ gây bất an tổn hại đến cung tài lộc, nhân đinh của gia đình, dễ gây tai nạn ngoài ý muốn hoặc bệnh tật tấn công.
Ban thờ ngược với hướng nhà dễ khiến người trong nhà bất hòa, dễ gặp bất trắc bệnh tật. Nếu đặt ở vị trí quay sang trái hoặc sang phải nhà thì chủ nhân dễ có tâm sự phiền muộn khó nói ra. Nếu sắp đặt bàn thờ đối diện với nhà vệ sinh thì người trong nhà gặp nhiều bệnh tật đau đớn.
Nếu ban thờ đối diện với nhà bếp dễ khiến nguời trong nhà hay tranh cãi những việc nhỏ, tính tình nóng nảy. Nếu phía trên ban thờ có xà nhà có thể khiến chủ nhân dễ bị đau đầu, cuộc sống vất vả.
Nếu đặt đối diện với cầu thang, chủ nhân dễ bị động dao kéo, tai nạn đổ máu. Nếu đặt dưới cầu thang thì người trong nhà khó có cơ hội phát triển. Nếu đặt trên nền đất lồi lõm không bằng phẳng có thể khiến chủ nhân gặp khó khăn trong mọi việc. Nếu phía trên, dưới, trái, phải ban thờ có cửa sổ thì chủ nhân dễ bị tán tài.
Tất cả những vị trí đặt ban thờ đó đều nên tránh để chuyện hương khói của gia đình được tốt đẹp, gia chủ an tâm, con cháu hưởng phúc.
Sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 16/Nov/2015 lúc 10:03am
Ban thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà, phải chú trọng để cả nhà được yên ổn và hưởng an lành. Những điều kiêng kị khi đặt ban thờ dưới đây sẽ giúp bạn tránh được những lỗi không đáng có
Ban thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà, phải chú trọng để cả nhà được yên ổn và hưởng an lành. Những điều kiêng kị khi đặt ban thờ dưới đây sẽ giúp bạn tránh được những lỗi không đáng có.
Nhung loi khong dang co khi dat ban tho hinh anh
Vị trí đặt ban thờ là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất trong phong thủy ban thờ. Điều kiêng kị khi đặt ban thờ là vị trí phạm phải sát khí hoặc xú khí, tức là đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh, bếp, dưới xà nhà hay xung với cửa.
Đây đều là các vị trí rất xấu trong phong thủy, không thích hợp để đặt ban thờ. Đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh thì ô uế, hại sức khỏe; gần bếp thì hỏa vượng, thiêu rụi gia chủ, tán tài, phá phúc; dưới xà nhà thì áp lực đè nén, họa chết giáng đầu; xung với cửa thì có dao hướng tới, họa không lường được.
Điều kiêng kị khi đặt ban thờ thứ nữa là xung quanh có quá nhiều đồ đạc. Ban thờ nên đặt ở nơi thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ.
Theo nguyên tắc trái Thanh Long, phải Bạch Hổ thì phía trái ban thờ kị đồ diện, phía phải ban thờ kị bừa bộn. Bởi đồ điện thuộc Kim, không hợp với Bạch Hổ, dễ sinh sát khí mà làm hại gia chủ. Thanh Long chủ sức khỏe, sự nghiệp, đặc biệt ảnh hưởng tới nam giới trong nhà, phương này mà ô uế thì những thứ ấy đều hại.
Phía dưới ban thờ nên đặt một chiếc la bàn để tăng vượng khí, phía bên phải đặt tì hưu, bạch ngọc để cải thiện môi trường phong thủy. Ngoài ra không nên đặt thêm thứ gì khác, đặc biệt là dưới ban thờ.
Nếu như hướng của ban thờ ngược với hướng của nhà sẽ khiến cho gia đình không hòa thuận, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến việc không có con nối dõi. Đây là điều kiêng kị khi đặt ban thờ nhất thiết phải chú ý. Bởi đôi khi, gia chủ chỉ chú ý tới không gian, vị trí mà cho rằng hướng ban thờ không quan trọng. Cần phải nhớ, ban thờ là nơi tích tụ tâm linh, có hòa hợp với nhà thì mới tốt.
Đặt bài vị sát tường sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ, vận mệnh cả đời của con cháu, vì vậy luôn phải để một khoảng trống nhỏ giữa bàn thờ và bài vị tổ tiên. Ngược lại với bài vị, tượng Thần Phật phải đặt sát tường mới tốt.
ST
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 25/Dec/2015 lúc 12:50am
Năm Át Mùi nói chuyện xuất hành .
Trưa ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Ngọ đã khởi Lập Xuân, vậy mà phải nửa tháng sau mới đến ngày Tết Nguyên Đán năm Ất Mùi 2015, nhằm vào thứ Năm 19 tháng 2 Dương Lịch 2015. Tức là ngày Bính Dần, tháng Mậu Dần, thuộc Vận 8 Hạ Nguyên. Theo phép Ngũ Hành, Ất Mộc khắc chế Mùi Thổ là Can khắc Chi, tức năm nay Ất Mùi không phải là năm tốt. Nhưng nếu tính ngày Bính Dần khởi đầu cho năm mới, thì Dần Mộc sinh cho Bính Hỏa là Chi sinh Can lại là ngày tốt. Xưa nay, hể gặp một sinh một khắc là huề. Tốt xấu phải chờ động xuất. Vì vậy đặc biệt năm nay, phương hướng xuất hành có khả năng trở thành một trong những yếu tố chủ động quan trọng để quyết định thành bại, được thua.
Theo cách tính của người xưa thì Bính Dần khởi đầu năm là ngày Nhật Nguyệt hợp, đại cát, các thiên thần La hán giáng hạ.
- Tài Thần tại Dậu chính Tây.
- Hỹ Thần tại Thân Tây Nam.
- Sinh Đông Bắc -Tử Tây Nam.
Nếu tính theo năm thì Ất Mùi, Lộc tại Mão chính Đông, Tuế và Nguyệt Đức tại Tý chính Bắc.
Theo Tử vi, Tuần tại Thìn Tỵ và Triệt tại Ngọ Mùi, Thiên Hỷ tại Dần, Ấn Phù tại Hợi và Đào Hồng Hỷ tại Tam hợp của Thân Tí Thìn.
Theo Cổ Dịch, Ngũ Hoàng tại Dậu chính Tây và Nhị Hắc đang tại Đông Nam.
1/ Xuất hành hướng chính Bắc:
Năm nay, Niên Vận Tinh Bát bạch đến phương chính Bắc chủ phát tài, lợi tăng điền sản. Tuế Đức và Nguyệt Đức cũng tại nơi đây. Muốn cầu được Tài mà vẫn còn cái Đức thì đầu năm xuất hành nhât định nhớ nên chọn phương này. Thái Dương cùng với Thiên Khôi, Đào hoa hợp từ cung Thân chiếu về có Hồng, có Hỷ thêm Thiên Phúc, Thiên Việt thì thiện nam tín nữ nào muốn cầu Tình cũng đừng quên xuất hành hướng chính Bắc. Xuất hành hướng này trong năm chắc chắn vừa được Tài được Lộc vừa cơ hội gặp được ý trung nhân hằng từng mơ ước.
2/ Xuất hành hướng Đông Bắc:
Lục Bạch, thêm Thiên Hỷ, Long Đức. Phương này cũng là phương đương vận, lẽ ra phải tốt. Ngặt là Tuế Phá, Tuế Hình và Phá toái, Thiên Hư lãng vãng sẳn sàng gây họa. Cho dù Lịch sách có nói năm nay Sinh tại Đông Bắc thì cũng phải nhớ xuất hành đầu năm nên tránh xa phương này.
3/ Xuất hành hướng chính Đông:
Phương của Lưu niên Nhất Bạch và Tuế Lộc đang tọa thủ cùng Đại Tướng quân, Tử vi, Bạch hổ, Phi liêm... Vị nào đang tại chức còn lắm quyền uy nên đầu năm nhắm hướng này mà xuất hành vừa cầu được Lộc, vừa được tăng thêm Quan tiến thêm Chức. Các vị nào đang nắm quyền điều động các công ty xí nghiệp làm ăn lớn, năm nay cũng nên cần chọn xuất hành hướng này.
Vị nào, ngày hai bữa sáng vác ô đi, chiều vác ô về, chỉ mong cầu cho an phận thì nhớ tuyệt đối tránh xa phương này.
4/ Xuất hành hướng Đông nam:
Thiên Quan, Thiên Tướng ngộ Kình dương ngay tại nơi đây. Người xưa dặn rất kỷ là hể Quan Tướng ngộ Kình thì y như dao đang kề cổ. Tuần không cũng đóng tại đây thì e cho dù có gặp được Tuế Mã, Điếu khách với Thiên Lương Phúc Đức thì cũng không cứu nỗi. Chưa kể Nhị Hắc cũng đang lãng vãng sẳn sàng tác oai. Thôi thì năm nay, chọn hướng xuất hành thì nhớ tránh xa phương này để khỏi dây dưa với tai họa.
5/ Xuất hành hướng chính Nam:
Gặp phải Thất Sát, Đai Hao lại thêm Niên tinh Thất Xích thì hướng Nam năm nay rất dễ bị Hỏa tai. Xuất hành hướng này hoàn toàn bất lợi. Hướng này cũng đang bị Triệt Lộ đóng đường. Đầu năm vô ý chọn xuất hành, vừa ra khỏi nhà nếu không gặp ngay đường cấm thì cũng gặp cảnh sát tặng cho tờ giấy phạt đầu năm.
6/ Xuất hành hướng Tây Nam:
Lưu Niên Cửu Tử đến Tây Nam thì sách xưa nói con cái nhẹ lòng, dễ bị dụ dỗ sinh ra hư đốn. Nếu tính sao Liêm Trinh cũng là sao Đào Hoa thứ hai, thì Đào Hồng, Thiên Hỷ mà gặp Thiên Không thì chẳng khác chi Tình có cũng như không, thì hướng này chắc chắn không phải là hướng để cầu Tình. Lịch sách cũng nói năm nay Sinh Đông Bắc, Tử Tây Nam lại thêm Thái Tuế thì hướng Tây Nam năm nay lại càng không phài là hướng để cầu Quan cầu Lộc. Vậy nên,xuất hành nhất định không chọn Tây Nam.
7/ Xuất hành hướng chính Tây:
Tang Môn, Ngũ Quỷ, Tai Sát đang tại chốn này, lại cũng là nơi cư ngụ của Ngũ Hoàng Đại Sát. Cho dù hướng này là hướng của Tài Thần ngày Bính đi nữa cũng nhớ không nên chọn hướng này xuất hành cầu Tài dầu năm.
8/ Xuất hành hướng Tây Bắc:
Theo Dịch số thì hể lưu niên Tam Bích nhập Trung Cung như năm nay Át Mùi 2015, Phục Ngâm phải về đúng Tây Bắc. Gặp Phục Ngâm là mọi việc trể nãi, dây dưa, không tốt. Lại còn xưa nay sách tử vi nào cũng nhắc câu phú: Nam bất nhân Phá quân Thìn Tuất... lại đúng năm nay Phá Quân đắc địa tại Tuất. Như vậy thì quả hướng Tây Bắc không phải hướng tốt để đầu năm xuất hành cầu Quan, cầu Lộc .
Thế nhưng, theo cụ Thiên Lương, nếu Tử Vi đang nắm quyền uy thống trị thì Phá Quân là đối lập công khai. Tây Bắc Tuất Hợi đang có đủ bộ Quốc Ấn- Địa Quan Phù và Tấu Thư thì rõ ràng Ấn Phù đang trong tay đối lập- Lại còn tháng giêng Hỷ tại Tuất và năm Mùi Nghênh Tài tại Hợi thì Tây Bắc Tuất Hợi cũng khả năng là phương tốt lành để đầu năm có thể chọn xuất hành.
Nên nhớ Ấn Phù chỉ ban cho đại nhân quân tử có chính nghĩa rõ ràng. Sao Thiên Đồng chủ Phúc đang bị hãm địa thì những kẻ ăn theo, luồng gió bẻ măng đừng trách bại tình Thiên Khốc sẳn sàng gây nên tai họa khôn lường.
Tóm lại:
Năm nay nên chọn Chính Bắc xuất hành vừa được Tiền vừa được Tình.
Vị nào đương quyền thì chọn Chính Đông.
Vị nào đại nhân quân tử, có chính nghĩa, đang phía đối lập thì nên chọn xuất hành hướng Tây Bắc.
Giờ hoàng đạo xuất hành hái lộc đầu năm:
- Giờ Tí – Sửu: Từ giao thừa đến 3 giờ sáng.
- Giờ Mùi: Từ 1 đến 3 giờ chiều.
- Giờ Tuất: Từ 7 đến 9 giờ đêm.
Đặc biệt
Giớ Thìn – Tỵ: Từ 7 giờ cho đến 11 giờ sáng là giờ Không Vong. Đầu năm mà phải đi làm đúng giờ và không thể chọn được phương Tốt để xuất hành thì hãy nhớ câu: Không vong nào ấy vô dùng, cát thời tất ứng, dù hung bất thành và câu: Tứ bề thọ địch thì tìm nơi Không mà tránh, mà có thể an tâm chọn xuất hành giờ này vậy.
Năm mới, xin kính chúc tất cả được an khang và thịnh vượng.
QUẢNG ĐỨC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 25/Dec/2015 lúc 12:53am
NĂM BÍNH THÂN NÓI CHUYỆN XUẤT HÀNH
Thầy Quảng Đức
Thứ Hai ngày 8 tháng 2 năm 2016 là ngày khởi đầu cho năm mới Bính Thân. Tết Nguyên Đán năm Bính Thân nhằm vào ngày Canh Thân, tháng Canh Dần khởi từ giờ Bính Tí.
Theo Ngũ Hành sinh khắc thì Đia chi Thân Kim của trụ năm sẽ bị Khắc bởi Bính Hỏa Thiên Can. Hễ thấy năm nào Can Chi khắc chế nhau thì ngưới xưa cho rằng năm ấy không phải là năm tốt . Lại còn Bính của trụ giờ hành Hỏa bị Địa chi Tí Thủy khắc. Thêm Can Canh hành Kim của trụ tháng cũng khắc Dần Mộc Địa chi. Can chi của Tứ trụ ngày giờ tháng năm gồm chĩ 8 chữ, vậy mà đã có 6 chữ khắc chế nhau. Chỉ còn trụ ngày Canh Thân nhờ Can Chi đều Kim bình hòa nên tốt . Vậy là 3 xấu 1 Tốt . May mà Nhật Thần Chũ Tể thì trụ ngày quyết định thành bại, thì cho dù 1 tốt của trụ ngày chế ngự được 3 xấu của trụ năm tháng và giờ đi nửa thì cũng đâu có dễ ?
Theo Cổ Dịch, Nhị hắc sẽ nhập trung cung. Nhị Hắc đến đâu tai họa tật bệnh gieo rắc đến đó. Trung cung là chốn của Ngũ Hoàng Liêm trinh thì Nhị Hắc càng thêm hung hản. Phép Can Chi Ngũ Hành cho rằng 1 Tốt của trụ ngày khả năng chế ngự được 3 xấu của trụ năm, tháng và giờ được Cổ Dịch giải thích là Nhị Hắc Bệnh phù Âm Thổ ngừng gây tai họa nhờ gặp được Dương Thổ. Thổ hội đũ Âm Dương hài hòa sẽ tạo thành cái Đức, mà Đức của Thổ thì to lớn vô cùng . Năm nay Bính Thân 2016 còn thuộc vận 8 Hạ Nguyên. Số 8 Bát Bạch Dương Thổ , 8 với 2 hợp Thập, thành 10, gọi là Thiên Tâm Thập Đạo hay còn gọi là Thiên Tâm Hợp Thập chủ Vượng Phát rất Nhanh .
Vậy thì, dù được Tốt, mà cái xấu thì vẫn còn đầy rẫy chung quanh, cho nên xuất hành năm nay vẫn phải nhìn trước sau, cẩn thận để sao cho mọi chuyện được an lành.
A/ Xuất hành hái Lộc.
Lộc có 4 là Tuế Lộc, Hóa Lộc, Thiên Trù và Lưu Niên Văn Tinh :
1/ Tuế Lộc:
Tuế Lộc là Lộc quan trọng nhất, đang tại Tỵ hướng Đông Nam. Hướng này đang bị Tuần triệt án ngữ. Đầu năm xuất hành, xưa nay đều tránh xa phương Tuần Triệt. Thế nhưng năm nay Thiên Tâm Hợp Thập khả năng thông khí được cho 8 cung thì ít ra phải có ngoại lệ. Sao Nhất Bạch đến phương của Tứ Lục là Tứ Nhất đồng cung chủ thi cữ thì đổ đạt cao. Vị nào còn phải tìm công danh qua đường thi cữ thì nhớ chọn phương Đông Nam xuất hành.
Đặc biệt nam nữ có cung phi là Đoài số 7 cũng nên chọn xuất hành hướng này mà hái Lộc đầu năm. Đoài Số 7 mà hội nhập với 1 và 4 tạo thành Tam ban xão quái , y như xâu chuổi ngọc quý gắn liền nhau mà phái Huyền Không cho là điều kỳ diệu.
2/ Hóa Lộc :
Hóa Lộc thì tùy tư cách riêng tư của từng người lựa chọn. Người thích tình, người thích tiền, người thích công danh quyền uy hiễn đạt. Lại cũng có người cầu mong tên tuổi lẫy lừng. Đầu năm chỉ chọn được 1 hướng xuất hành thì cứ suy nghĩ tìm ra hướng nào thích hợp nhất mà cầu, chứ không nên bắt cá hai tay. Vị nào tìm công danh qua thi cữ thì tìm phương Đông Nam như trên đã nói. Các vị khác thì cần đọc tiếp để biết mà chọn phương nào thích hợp.
Cũng nên biết năm nay hành Hỏa thì người mạng Hỏa an lành. Người mạng Thổ thuận lợi. Người mạng Kim sẽ bị lao đao. Người mạng Mộc phải chạy vạy đỗ mồ hôi và người mạng Thủy thì lại nhiều cơ may thành đạt.
3/ Lộc của Lưu Niên Văn Tinh :
Lộc này đến nhờ có công danh qua khảo thí nên cần có bằng cấp, học vị hay ngành nghề chuyên nghiệp, được đào tạo lớp lang, có trường, có lớp.
Năm nay Lưu Niên Văn Tinh đang tại Thân hướng Tây Nam cho nên sách vở nói năm Bính Thân 2016 Nghênh Tài tại Tây Nam là vậy.
Thế nhưng hướng Tây Nam không những tốt cho những người muốn hái Lộc, nghênh Tài, mà còn là hướng Tốt Lành bao trùm cho tất cả.
Tây Nam số 2 Âm Thổ hội đũ Âm Dương nhờ gặp Bát Bạch niên, vận tinh Dương Thổ. Thổ đũ Âm Dương tạo thành cái Đức của Thổ . Đức của Thổ
to lớn vô cùng. Không gì quý bằng Đức thì đầu năm biết chọn phương Tây Nam xuất hành thì cầu chi mà chẵng đặng?
4/ Lộc của Thiên Trù :
Lộc Thiên Trù là Lộc do tích lũy mà có. Năm nay Thiên Trù đang tại chính Bắc đương Tí , cũng là nơi Niên Tinh Thất xích lai vãng. Thất Xích vốn sẵn hiếu động đến phương Thủy thì vận Đào Hoa lại đến. Ba bộ Thốn Quan và Xích thì xích là Thận bộ hành Thủy thì cho dù đồng âm Xích, nhưng chữ và nghĩa khác nhau mà gặp phải Đại Sát thì Xích nào cũng phải đi vào cửa tử . Vị nào có tính đèo bồng lẵng lơ vì tính hiếu động của bộ Thận, thì cố ghi vào lòng để nhớ mà tránh…………
Nam Nữ nào còn độc thân, đơn chiếc, có phi tinh là Tốn, số 4 , thì có thể an tâm, mạnh dạn chọn phương này xuất hành, đầu năm cầu hái Lộc Tình thì sẽ được như ý , nhờ điều kỳ diệu của Tam Ban xão quái 1, 4, 7.
Vậy chọn xuất hành cầu Lộc Thiên Trù phương chính Bắc năm nay chỉ hợp cho những nam nữ có phi cung là Tốn số 4 mà thôi
B/ Xuất hành để Cầu Tài .
Vị nào muốn Nghênh Tài thì chọn Tây Nam xuất hành.
Nhưng 2 ngày đầu năm thì Tài Thần đang tại Chính Đông. Vị nào có thể xuất hành vào các ngày mùng 1 hoặc 2 Tết, thì cũng có thể chọn hướng này mà cầu Tài.
Đặc biệt nam nữ nào có phi cung là Càn số 6, xưa nay phải kỵ chính Đông, thì năm nay nên chọn hướng này mà xuất hành sẽ được Tài
Những vị nào, mấy năm sau này, tự nhiên đổi tính gàn bướng, khó chịu thì cũng coi chừng đang bị phương và tọa của cửa, hướng nhà, hướng giường hay bếp của Càn với Chấn phối nhau đã lâu ngày .
Phương của Càn là Tây Bắc và phương của Chấn là chính Đông.
Những người đã gàn bướng, đổi tính ngang ngược, nói lắm thì họ cũng chẵng thèm nghe. Nhưng nếu may mắn, nhờ phúc nhà, năm nay họ lại đồng ý chọn phương này xuất hành thì mọi chuyện sẽ đổi khác. Các số 3, 6 và 9 thuận nghịch cách 3 tạo thành Tam Ban xão Quái thì khí sẽ thông mà phái Huyền Không cho là điều rất kỳ diệu của tạo hóa thì cái tình gàn , cọc cằn sẽ hết và vận xui sẽ không còn.
Nhắc kỷ lại là Nam Nữ nào có cung Phi là Càn thì năm nay, hãy rán nhớ chọn phương này mà xuất hành.
C/ Xuất hành để Cầu Tình .
Cầu Tình thì chọn Đào hoa làm chũ. Năm nay Đào Hoa đang tại Dậu phương Đoài chính Tây cũng là phương của Niên tinh Tứ Lục số 4 và Phá toái, Thiên Không .
Theo phái Huyền Không số 4 Tứ Lục đến phương Đoài thì sẽ bị họa của Đào hoa. Tử Vi cho rằng Đào Hoa mà ngộ Thiên Không thì y như sắc sắc không không của đạo Phật, chỉ hợp cho những kẻ muốn tìm đường để tu. Vậy thì vị nào có tính đào hoa mà đầu năm cố ý hay vô tình lỡ xuất hành hướng chính Tây thì nên cần phải biết tu tâm dưỡng tánh. Đào hoa mà gây nên họa thì không biết đường nào mà tránh, thân danh liệt bại, gia đình tan rã và hạnh phúc không cánh bay xa…..
Nhớ rằng hướng Tây năm nay không phải là hướng Xấu nhưng lại không phải là hướng Tốt cho những ai muốn cầu tình.
Những vị nào còn độc thân muốn cầu Tình thì sẵn hai phương Tây Nam, Đông Bắc thông được Khí nhờ Tam Ban xão quái và Đức của Thổ hội đũ hai khí Âm Dương thì có thể chọn hai hướng này mà xuất hành.
D/ Xuất hành để Cầu cho thân tâm an lạc và gia đình hạnh phúc :
Phương Tây Nam cho dù Thái Tuế và Tuế sát cùng với Ngũ quỷ án ngữ, nhưng nhờ cái Đức của Thổ bao trùm quá lớn nên là phương tốt lành cho tất cả.
Vậy những ai mong cầu sao cho thân tâm an lạc, gia đình hạnh phúc thì nên chọn hướng này xuất hành đầu năm.
E/ Phương ngoại lệ:
Đặc biệt, năm nay, Ngũ Hoàng đại sát đến Phương Đông Bắc . Phương này còn có Tuế Phá , Tuế Hình và Thiên hư của Lục bại thì lẽ ra phải chịu xấu. Nhưng nếu tính kỷ lại, Ngũ hoàng đại sát đến phương Cấn dương Thổ thì uy lực của Ngũ Hoàng sẽ bị tiết khí. Lại còn Nhị Hắc tại Trung cung ảnh hưỡng toàn khắp thì Cung tọa của Bát Bạch sẽ trở thành nơi giao hội của Cữu Tinh Thập Đạo, hợp thập thành 10.
Khi khí đã thông, Tuế Hình và Thiên hư sẽ được Phương Các Giãi Thần hóa giãi, tức thì Tuế Phá cùng với Tuế Đức, Thiên hỹ sẽ cầm chắc Quốc Ấn trong tay thì chính nghĩa có thể sang tay cho nhũng ai xưa nay bị cho là phá.
Những vị nào đang ở vào thế đối lập hoặc những vị nào xưa nay bị tiếng oan là kẻ phá hoại và ngay cả những người làm ăn thua lỗ rồi bị xếp vào loại phá gia chi tử và những ai vẫn còn lao đao vì mang tiếng bạc tình hay bị tình phụ thì năm nay nhớ chọn phương Đông Bắc mà xuất hành.
G/ Phương Xấu nhớ biết tránh không nên xuất hành :
Còn laị hai phương xấu là Chính Nam và Tây Bắc :
1/ Phương Chính Nam cung Ly, Kình Dương cùng với Điếu khách và Tai sát làm nơi cư ngụ. Niên tinh Lục Bạch năm nay đến Ly thì gia đình vợ con hay sinh chuyện. Phương này chỉ tốt cho những vị Nam Nữ nào có cung Phi là Chấn. Chấn số 3 sẽ cùng với 6 Lục Bạch sẽ tạo thành Tam bam xão Quái tại số 9 cung Ly cho nên xuất hành đầu năm phương này chỉ tốt cho Nam Nữ nào có phi cung là Chấn số 3 mà thôi.
2/ Phương Tây Bắc cung Càn là phương đầy dẫy chết chóc của nhóm lục bại Tang Môn, Thiên Khốc thêm Cô thần vói Đường Phù, Quan Phù , Địa Võng . Cho dù có Thái Âm đưa đường dẫn lối thì đầu năm xuất hành cũng nên tránh xa phương này cho sinh mạng được bảo toàn.
E/ Giờ Tốt để xuất hành:
Các giờ Tốt cho xuất hành là :
Giờ Thìn Tỵ từ 7 đến 11 giờ sáng.
Giờ Mùi từ 1 đến 3 giờ chiều.
Giờ Tuất 7 đến 9 giờ tối.
Riêng từ giao thừa cho đến 3 giờ sáng là giờ Không vong, không tốt nhưng cũng chẵng xấu, cần thì cứ xuất hành.
Năm mới, kính chúc tất cả quý vị được an khang và thịnh vượng
QĐ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 25/Dec/2015 lúc 1:01am
GIẤY KHAI SINH CHO NĂM MỚI 2016
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 04/Apr/2016 lúc 9:40am
Tin Hay Không Tin??? Lá Số Tử Vi
– Phạm Thành Châu
Bạn tin có số mạng không? Người không tin, quạt lại “Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét kiếm tiền?” Người tin với người không tin, cãi nhau, có bao giờ ai chịu thua ai!
Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng con người có số phận hay không?
Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan hôn tang tế. Ai bịnh hoạn đến mời ông tôi bắt mạch, hốt thuốc, người nào có ý xây dựng gia đình cho con cháu cũng đến nhờ ông tôi xem tuổi có hạp không, hậu vận có khá không? Hoặc có người thân vừa qua đời cũng đến thỉnh ý về ngày giờ động quan, xem hướng mồ mả. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao?
Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi.
Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy.
Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse,” là làm việc làng nhàng gì đó ở Ty Thanh Niên, Thể Thao của thị xã. Ðến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố.
Ðó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.
Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm.
Ðến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo “Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!”.
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi “Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con”. Ông tôi cười “Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.” Tôi hỏi “Như vậy tương lai của con ra sao?” Ông tôi trầm ngâm “Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy. Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy “Ðức năng thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quân tử…”. Tôi tò mò “Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?”. Ông tôi lại cười “Người xưa nói rằng ‘Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư’… Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp”.
Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin, nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo “Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?”. Ông tôi có vẻ hào hứng lắm “Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát…
Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển.
Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.
Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức lêu lổng, chẳng ai quản lý được cả. Ði học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò, rên rỉ, nỉ non mấy bài hát mà Duy Khánh, Chế Linh thường hát.
Ðến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm “hành trang ứng thí”. Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặpkhó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa.
Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè…” trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ… Thực tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quỳ xuống, long trọng khấn vái “Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết”. Khi ngẩng lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm.
Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!? Chúng thắc mắc, tôi phét lác “Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi”. Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi – thi đâu đậu đó – và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông. Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt.
Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm”. Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Ðứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Ðến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám.
Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?”. Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo “Nói đi!”
Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc “Nói đi!”. Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi.
Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói “Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tàng cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!”. Ông ta ngẩng lên nhìn tôi “Sao anh biết?”. Tôi phấn khởi “Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mõi trong người.”
Ông ta lại nhìn tôi, mặt lạnh tanh “Ðây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc là gì không? Viết công thức ra xem?”. Tôi gãi đầu, ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào?
Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải người ngoài hành tinh, gì cũng không biết!
Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên, đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi “Anh học vạn vật với thầy nào?”. “Thưa thầy, em học với thầy Ðồng Ðen.”
Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tội phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo “Gặp thầy Ðồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay. Gần hết giờ rồi!”. Tôi thưa “Thưa thầy, em là người chót”. Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.
Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật!
Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như mình nằm mơ.
Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Ðúng như ông tôi nói “Thi đâu đậu đó!”
Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Ðốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp.
Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở.
Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài luật Hiến Pháp của Giáo Sư Nguyễn Văn Bông.
Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Ðốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không?
Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỷ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được?
Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi.
Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn… Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói “ông quan thanh liêm” cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi.
Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái Thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu.
Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Ðức.
Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người “văn võ toàn tài,” sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh.
Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng.
Khi có thông cáo tập trung cải tạo, Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Ðến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (?)…
Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên Làng Cô Nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV.
Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù.
Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân… Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy…
Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ không phải mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn,” bài “Bác Đang Cùng Chúng Cháu Hành Quân” cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù, cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, cán bộ Việt Cộng vừa chiếm được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả thù… Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình.
Ðúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải Phóng miền Nam,” đến câu “Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng…” thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào “Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!”
Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù không biết ngày nào ra? Khổ nỗi, cán bộ Cộng Sản lại bảo “Ty Công Vụ” là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.
Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù Cộng Sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh…
Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng! Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?
Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rãi, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc…
Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa.
Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang “Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?”. Tôi bảo “Tôi làm đội trưởng”. “Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?” Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi… Ông A, ông B, ông C… Ông ta lại hỏi “Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?” “Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha…”
Ông bạn tù giải thích “Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Ðây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?”. Tôi nổi sùng “Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?”. “Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?”. Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười.
Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo Cộng Sản.
Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, hoặc khi đày lên núi rừng, nếu có biến động, cứ bắt tù ngồi vào bao bố và bắn chết và khiêng bỏ xuống hố, tiện việc nhà nước, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải dùng bao bố?
Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp đồng bào họ lại bảo “Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!”. Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp… đủ cả.
Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp… sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra mục đích lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.
Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu li. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Ðủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo.
Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn… ngày nào cũng xảy ra. Ðậu xe, khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Ðôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc… Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt.
Thấy thế tôi nổi sùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại.
Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống… Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử Hội Ðồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương.
Ðến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng, tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi tham gia Hội Ðồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn cứ năn nỉ, tôi đành chấp nhận, cứ nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán, thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là “đẹp không thể tả!”. Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một hồ nước mùa thu” long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt,” mặt cứ thộn ra, ai cũng thấy rõ.
Thế là từ “lần đầu gặp gỡ” hình ảnh cô, giọng nói, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn, hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi xin trợ cấp, xin việc…
Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông trung tá, gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng.
Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li, sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ. Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp… Ði đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lý do là không rành tiếng Mỹ. Cô thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại hay không! “Ai chiến thắng mà không hề gian khổ? Nghĩa là cứ nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai.” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô.
Nhưng phải làm cách nào mà nếu cô có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược lại cô sẽ nghĩ rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng lên, vào bên trong lo việc bếp núc.
Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể chuyện nầy, hay lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt “Cô có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người, trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, miệng lúm đồng tiền, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?”
Cô lặng yên một lúc rồi nói “Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi một người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta…”. Nói xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền. Tôi buồn chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, trong đầu tôi, cô vẫn còn đẹp nhưng rất xa lạ, đến độ tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.
Cái Ban Chấp Hành Cộng Ðồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân dịp Việt Cộng đưa mấy ca sĩ tân nhạc, cổ nhạc qua miền Ðông nước Mỹ làm công tác văn hóa vận, cả Hội Ðồng Quản Trị với Ban Chấp Hành họp lại, tìm cách tẩy chay. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lập kế hoạch, chương trình rất kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả! Tôi họp mọi người để phân công.
Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết liệt phản đối thì các vị đó lại cười “Tụi tôi biết anh quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động đồng bào không đến coi hát của văn công Việt Cộng, là chuyện nhỏ…”. Tôi ngạc nhiên “Sao quý vị biết tôi đi tù cải tạo?”. Các ông ấy nhao nhao lên “Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Ði chung một chuyến bao bố (tù bị đày ra Bắc, được phát bao bố), ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy”. Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, nên không nhận ra, vả lại, có người đẹp bên cạnh thì tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa!
Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp… ngày xưa! Và tôi vẫn lại làm xếp họ! Tôi đâu khác gì quan tể tướng? Lúc trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói “bye!” một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ.
Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quý vị ấy tiếp tay, liên lạc với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu buồn phiền!”
Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay “Cô thấy nhiệm vụ của chủ tịch Ban Chấp Hành có khó khăn, vất vả gì không?”. Cô nhìn tôi dò xét “Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là không khó khăn bao nhiêu”. Tôi hỏi “Thế cô có thể thay tôi làm chủ tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong nhiệm vụ nầy”. Cô ngạc nhiên “Anh định làm gì mà trao nhiệm vụ nầy cho tôi?”. Tôi nói “Tôi sắp đi tiểu bang khác”. “Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì cô gái mà anh đã kể cho tôi nghe?”. Tôi làm ra vẻ suy tư “Ðúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa… Tôi hi vọng, cô làm chủ tịch, sẽ được mọi người giúp đỡ…”. Cô lắc đầu “Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi…”. Tôi đành nói “Thôi được, tôi sẽ tính sau. Dù sao thì tôi cũng nhất quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi chán rồi. Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm ở đó”.
Lúc đứng lên cô cười hỏi “Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không có tiền thì tôi cho ghi sổ”. Tôi cũng cười bảo “Khi thất tình thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên đường”. Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ “Tôi mang đến anh một tin vui đây.” Tôi nghi ngờ “Ðang rầu thúi ruột, vui gì nổi!”. “Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô Bé Ni không?
Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?’ Cô bé trả lời “Dạ thương!” Tôi hỏi “Thương nhiều hay ít?”. Cô bé nói “Dạ thương nhiều!”. Vậy anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?”
Tôi kêu lên “Trời đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất tình được!?”. Cô nhìn tôi hóm hỉnh “Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?”. Tôi lắc đầu, vừa chán vừa ngượng “Ðó là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên tôi…”. Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi.
Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi không nói thì không còn dịp nào khác nữa “Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được. Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi… Chỉ xin cô đừng cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi làm cho cô bực mình…”
Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào ly nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới nói “Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng bào… Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi.
Có cô nào mắt lá răm, miệng núm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh…”
Bao năm nay, quý ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch, làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu, thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên “Hoan hô chủ tịch gia đình trị!”. Chỉ vì vợ tôi vẫn lại là cô phó chủ tịch ngoại vụ năm nào.
Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người có số mạng không?”
Nguồn TVTC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
|