In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Quê Hương Gò Công
Forum Discription: Những cảm xúc về quê hương Gò Công
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2283 Ngày in: 14/Nov/2024 lúc 5:02pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: GÒ CÔNG...VỀ TẤT CẢNgười gởi: Lan Huynh
Chủ đề: GÒ CÔNG...VỀ TẤT CẢ
Ngày gởi: 22/Jan/2010 lúc 6:23pm
Ngôi mộ bát lăng đẹp nhất miền Nam ở Gò Công
Trong một dịp rong ruổi về Gò Công, chúng tôi thấy được những cụm mộ đá tuyệt mỹ, trúc cách thật đa dạng với vô số những bức chạm trổ công phu. Đặc biệt là ngôi mộ bát giác trong vườn chùa Long Thiền (nay thuộc ấp Hoà Bình, xã Bình Nghị, Gò Công Đông, Tiền Giang). Đối với chúng tôi, đó là lần đầu tiên mồ mả trở thành một trong những thứ phải để tâm như những thành tựu kiến trúc – mỹ thuật
Toàn cảnh ngôi mộ đá bát lăng
Từ đó, chúng tôi tìm hiểu làng đục đá Bửu Long (Biên Hoà), Núi Sập (Long Xuyên) và rồi theo lời chỉ dẫn của các lão nghệ nhân đi đây đó tìm hiểu. Tất thảy không có một ngôi mộ đá nào tạo nên ấn tượng về quy mô lẫn trình độ mỹ thuật như ngôi mộ trong vườn chùa Long Thiền nói trên.
1. Theo thầy Nhật Tánh, viện chủ tổ đình Long Thiền, thì chùa khai sơn tạo tự hồi thế kỷ thứ 19 trên cuộc đất do bà Trần Thị Sanh hiến cúng. Bà Sanh là con thứ sáu của một gia vọng tộc ở Gò Công. Bà được đời sau ca ngợi không chỉ ở việc giàu có mà vì bà là vợ thứ của Bình Tây nguyên soái Trương Công Định.
Tháng 8.1964, Trương Định hy sinh, bà tìm cách lãnh xác chồng về an táng lập mộ dựng bia khắc dòng chữ “Đại Nam, lãnh Anh – Hà lãnh binh, kiêm Bình Tây đại tướng quân, Trương Công huý Định chi mộ”, tổ chức tang lễ long trọng trước mắt kẻ thù. Bấy giờ mà làm được như vậy, bà quả là một phụ nữ bản lĩnh... Về sau, do đám tay sai chỉ chọt, thực dân Pháp đục xoá chữ trên bia lỗ chỗ, riêng bốn chữ “Trương Công huý Định” bị băm nát không còn dấu vết. Mãi đến năm 1930, mới dựng lại bia mới. Theo lời tục truyền chính bà Dương Thị Hương, con gái riêng của bà Sanh, tức nghĩa nữ của Trương Định, đứng ra làm việc này.
2. Theo lời thuật lại của thầy Nhật Tánh, bà Dương Thị Hương, theo nếp nhà của mẹ, là một phật tử thuần thành và lại là một đại thí chủ. Bà quy y với hoà thượng Hải Hội – Chánh Niệm, thường gọi là hoà thượng Long Hoà (Bà Rịa), được ban pháp danh Thanh Đăng và mặt khác, do chùa Long Thiền có quan hệ thân thiết với gia đình nên bà xin lập mộ ở vườn chùa khi còn tại thế. Đó là nguyên do, ngôi mộ toạ lạc tại vị trí này.
Những dòng chữ khắc trên mộ biểu – cột trụ trung tâm của ngôi mộ cho chúng ta biết chủ nhân của nó đúng là bà Dương Thị Hương (pháp danh Thanh Đăng, tự Diệu Quang), thọ 90 tuổi. Bà sinh năm 1844 (Giáp Thìn niên, thất nguyệt, thập lục nhật kiết thời sanh) và mãn phần vào năm 1933 (Quý Dậu niên, thập nguyệt, thập bát nhật, tý thời khứ). Các thông tin này cho chúng ta biết ngôi mộ – tháp là sản phẩm được tạo tác vào những năm đầu thế kỷ, trước năm 1933.
Tất cả các “nhân duyên” đó có thể thấy trong bài minh chữ Hán khắc trên tấm bia có công năng như bức bình phong đặt trên nền đàn của ngôi mộ tháp.
3. Đúng như miêu tả một cách đại thể trong bài minh này, ngôi mộ tháp có hình bát giác, phần “tháp” gồm năm bậc (Bát lăng biểu lý, Ngũ cấp nga nguy). Nói là vậy, song cũng cần lưu ý đôi điều về kiểu thức kiến trúc của ngôi mộ này.
Tháp của nhà Phật có nhiều loại, song về cơ bản là một kiến trúc gồm: lan can, nền đàn, thân tháp, bát úp, bình đầu, luân cái (còn gọi là bàn cái, thừa lộ bàn: hình giống như chiếc mâm tròn, nhiều lớp chồng lên nhau trên “bình đầu”, ở giữa có cây trụ xuyên qua, trên đầu có lọng) và bình báu. Mỗi loại tháp có công năng khác nhau, riêng về mộ tháp, có quy định cho hạnh không xuất gia – gọi là “phàm phu hiền thiện” – thì xây đầu bằng và không được dùng luân cái (khác với tháp chứa chân thân hay khôi thân của chư tăng). Điều này giải thích hình dạng và kiểu thức đặc biệt của ngôi mộ tháp này. Nói cách khác, kiểu dáng kiến trúc này là một thể kết hợp giữa mộ và tháp hầu tạo nên một trúc cách viên dung những quy thức giữa tháp và mộ, hình thức mà chúng tôi tạm gọi là mộ tháp.
Phần mộ, một mặt vừa mô phỏng hình bát úp của tháp vừa còn bảo lưu mặt bằng vuông vuông của hình dáng gò mộ phổ biến. Đó là một “gò” cao được xây bằng các phiến đá da quy, từ mặt đất lên đến nền đàn có đến 10 bậc cấp. Nền đàn được bao quanh bằng bao lơn bát giác (kín bảy cạnh chừa một cạnh làm cổng), kế đó là dãy bích tường, cũng bát giác và chính giữa là “tháp” bát giác năm bậc, bình đầu và tại trung tâm bình đầu đặt mộ biểu: đế là “năm luân cái”, thân trụ lục giác, đầu cột theo thức phối trí (composite order) và đỉnh cột là búp sen truyền thống. Trong cấu trúc trung tâm này, phần gọi là “tháp”, cũng có thể coi như một đài bệ năm bậc của trụ mộ biểu hình sen. Tính chất “lưỡng khả” này đã hoá giải được sự câu thúc của các quy định về tháp mộ và như vậy là đạt được sự lưỡng toàn giữa “lý” và “biểu”, tức tạo nên một hợp thể mộ tháp – kiểu thức mà dân chúng địa phương gọi nôm na là “mộ tán dù”.
Về mặt điêu khắc, công trình này lại là một tập thành khá đầy đủ các kỹ pháp tạo hình, từ hình khối ba chiều như mộ biểu/trụ sen, dĩa quả tử (mãng cầu, khế, măng cụt, phật thủ...) đặt trên đỉnh trụ tráp ở các góc bát giác của vòng tường bích đến các mảng phù điêu, các bức văn tự chạm chìm... Đặc điểm dễ nhận ra ở đây là các đồ án chạm khắc đậm tính trang trí, chú trọng đến tính đăng đối trong việc bố cục các mảng trang trí của toàn thể cấu trúc cũng như trong từng cấu kiện riêng biệt. Điều đó đã tạo nên thể dạng chân phương và bình chỉnh của công trình. Mặt khác, việc bố trí xen kẽ các mảng phù điêu và bức văn tự lại tạo nên vẻ thoáng đãng và thanh thoát, không lậm vào sự cầu kỳ.
Nếu đầu cột mộ biểu theo thức phối trí chỉ ra ảnh hưởng của kiểu thức phương Tây hay các dĩa quả tử, gồm các loại trái cây thổ sản thì ngược lại các phù điêu lại tuân thủ các đề tài truyền thống: dây lá hoá rồng, cổ đồ bát bửu (ống tiêu, bầu trói, phát trần, bảo bình, quạt vả...), đề tài cảnh – vật cặp đôi (trúc – tước, hoa – điểu, tùng – hạc, tùng – lộc, liên – áp...). Các phù điêu đề tài cảnh vật cặp đôi đa phần đều tuân thủ khuôn mẫu “một cây – một con” truyền thống, song cũng thấy một số bức phá cách bằng cách tích hợp các chi tiết phụ, khiến cho chúng nghiêng về tranh phong cảnh.
Nói chung, theo quan niệm “sống cái nhà, già cái mồ”, truyền thống xứ ta luôn coi trọng phần “âm trạch” ngang với “dương cơ”. Mồ yên mả đẹp là mong muốn chung của mọi người và luôn được con cháu lưu tâm thực hiện khi điều kiện vật chất cho phép. Chính vì vậy, trong lịch sử không ít các ngôi mộ, lăng mộ là những công trình kiến trúc – mỹ thuật. Đặc biệt, đây là ngôi âm trạch của một phụ nữ xứng đáng là nghĩa nữ của Phấn dũng tướng quân Bình Tây đại nguyên soái nên ngoài giá trị nghệ thuật còn hàm chứa những ý nghĩa lịch sử đáng trân trọng.
Huỳnh Ngọc Trảng – Nguyễn Đại Phúc http://www.sgtt.com.vn/detail35.aspx?newsid=47263&fld=HTMG/2009/0222/47263
Trả lời: Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Jan/2010 lúc 9:42am
Bà Mụ trời .
Từ buổi ban đầu của công cuộc sáng thế,Thượng Đế đã tạo dựng nên người nữ với thiên chức làm mẹ. Người ta thường nói:
Có vàng đeo lấy mà phô, Có con nó nói trầm trồ cho nghe.
Bởi vì người đàn bà có chồng mà son sẻ ví như hoa mà hoa nở trên non:
Có chồng mà nỏ có con , Như hoa nó nở trên non một mình.
Bởi vì: Con cái là hậu tự, là hạnh phúc trời ban cho cả gia đình. Nhưng những đau đớn trong giờ khai hoa nở nhuỵ thì không ai gánh thay cho được. Có chăng là bàn tay nhân ái và giọng nói dịu êm của bà mụ sẽ vỗ về, an ủi sản phụ phần nào. Trong hoàn cảnh bình thường, việc sinh con của người phụ nữ cũng đã là vất vả khôn lường. Nếu không, tại sao có câu:
Đàn ông đi biển có đôi, Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Công việc đi biển vốn nhọc nhằn và nguy hiểm.Vì giữa trời nước bao la, làm sao mà biết trước được những lần mưa gió, bão bùng. Thời đó, hải bàn và phong vũ biểu chưa được xử dụng cách phổ thông. Ông cha ta chỉ ngắm trời mây để dự đoán thời tiết thôi. Khi thì: Ráng vàng trời gió, ráng đỏ trời mưa. Ráng cao gió táp, ráng rạp mưa rào.
Hay là:
Tháng bảy heo may, Chuồn chuồn bay thì bão.
Hoặc:
Chuồn bay thấp thì mưa, Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm. Nhiều nhiều nữa... http://song.software.informer.com/ - Song thai phụ nào cũng ít nhiều biết được bước đường trở thành người mẹ của mình.
Thượng Đế tạo nên người đàn bà vô cùng dịu dàng, đôi khi yếu đuối trong tình cảm.Nhưng sức chịu đựng với thời gian có lúc thật phi thường. Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ dân Gò Công chịu chung số phận với cả nước về thảm hoạ chiến tranh. Giai đoạn đất nước trong thời chiến tranh Việt Pháp. Vùng quê của Gò Công đâu có bảo sanh viện hay nhà hộ sinh ở nông thôn.Thai phụ chuyển dạ thì đi mời mụ vườn. Từ vùng Gia Thuận - Tân Phước đến Giồng Nâu - Tăng Hoà. Ai ai cũng nghe, cũng nói về một bà mụ đỡ đẻ giỏi, đã từng cứu mạng nhiều sản phụ qua cơn sinh khó. Mà người dân Gò Công âu yếm gọi là Bà Mụ Trời. Ý nói bà do trời sai đến hay bà giỏi nhờ quyền phép Ông Trời ban cho. Hiểu sao cũng được! Tháng tháng, ngày ngày , bà bận rộn với công việc làm ăn, làm phước của mình.Bà đi từ Tân Niên Tây đến Cầu Sơn Qui. Đi từ Rạch Già - Tân Phước đến Vịnh Đôi Ma - Vàm Láng. Từ Bình Ân đến Tân Bình Điền rồi Tăng Hoà. Đâu đâu cũng thấy in dấu chân bà trên vùng đất quê nghèo và trong trái tim của những người làm chồng, làm vợ. ***
Vào một đêm khuya. Trăng hạ tuần nhàn nhạt. Bà ra sân phía hiên ngoài ngồi tiểu tiện. Thật lâu không thấy trở vào nhà nữa. Nhiều tiếng đồng hồ trôi qua.Nửa đêm. Rồi rạng sáng. Cả nhà ai cũng lo âu.Nỗi sợ hãi bắt đầu tăng dần. Tiếng mõ nổi lên. Đèn, đuốc sáng rực. Người ta đã tìm thấy nhiều dấu chân lạ của loài động vật trên nền cát của sân ngoài. Bỗng có tiếng của bậc trưởng thượng la lên: - Dấu chân cọp! Bà con ơi dấu chân cọp! Đoàn đông người tìm mãi vẫn không có dấu hiệu gì để có thể nghi ngờ Bà Mụ Trời bị cọp xé xác cả. Hôm sau, nhiều làng bên ai cũng vì thương mến bà đổ xô đi tìm kiếm. Bà vẫn bặt tin.. . Năm ngày năm đêm sau. Bà Mụ Trời trở về khi bình minh vừa ló dạng. Giữa lúc mọi người đã nản lòng, mệt mỏi. Tựa giấc mơ! Không ai dám hỏi một lời. Vì bà nói: - Tôi cần ngủ. Rồi bà nằm yên. Đi vào giấc ngủ miên man. Bà thức giấc lúc trời đã về chiều.Nhà nhiều người, đông đúc như hội chợ.Nhưng lạ một điều: Không khí thật lặng im, có thể nghe được tiếng muỗi vo ve.
Bà kể rằng: Tối hôm đó, bà bị cọp vồ rồi hất bà lên lưng, phóng mạnh vào tận rừng già. Tại đó, một con cọp cái đang chuyển dạ. Theo kinh nghiệm, bà biết là có trở ngại. Thế rồi, phải mất 2 ngày đêm cọp con mới chào đời.Bà còn kể trong những năm tháng làm mụ của bà, đây là lần thứ nhứt bà đỡ cho con vật. Mà sau đó con cọp đực đã phủ phục dưới chân bà , liếm tay bà và mang trả bà về ngôi nhà cũ.
Không ai bảo ai, người người đều tạ ơn đất trời vì nơi đây có một con người sống có ích cho con người và cho con vật nữa! Tưởng chừng câu chuyện qua đi. Khoảng chừng một tháng sau. Cũng vào đêm tối. Người nhà bà Mụ Trời ghe tiếng "bịch" thật lớn ở ngoài sân. Phải đợi cho yên ắng một lúc mọi người mới dám hé cửa ra nhìn. Ô kìa! Một con heo rừng nằm đó.
Đã nhiều chục năm trôi qua. Bà Ngoại tôi đã mất từ năm 1967. Mẹ tôi giờ đã 91 tuổi.Bị lẫn.Tôi không thể hỏi gì thêm về Bà Mụ Trời. Có thể tôi đã quên đi nhiều điều mà tôi từng nghe bà tôi kể. Nhưng chắc chắn một điều. Bà Mụ Trời rất được nhiều người biết ơn và thương mến. Ngày Xuân Canh Dần tôi muốn nhắc về Bà Mụ Trời mà cũng để nhắc về con cọp có nghĩa tại vùng đất Gò Công. Một vùng đất với nước mặn đồng chua nhưng mỗi con người luôn nồng nàn tình nghĩa.
Hoàng Yến.
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 26/Jan/2010 lúc 6:38pm
BÀ VỢ THỨ Hằng năm gần Tết, nếu có dịp về quê tảo mộ ông bà bên ngoại, Chi cũng không quên đến chúc Tết sớm trước bà mợ vì đó là người còn sống thọ lâu trong gia đình. Đặc biệt hơn, mợ là người vợ thứ của cậu Chi. Thời phong kiến các ông có vợ chánh thất rồi mà còn có quyền thêm hầu thêm thiếp, vợ một vợ hai . Dù chính thức hợp pháp hay không, thông thường họ không được chấp nhận ngang hàng với các bà cả dù có đám cưới sau khi bà cả không còn nữa. Người đời gọi họ vợ thứ, vợ kế, thứ thất, vợ bé, bà sau, dì hai, má ghẻ, thường ít được cảm tình kính trọng mà có vẻ bị chê bai khinh thường. Các người con dòng lớn cũng không quên câu: “Mấy đời bánh đúc có xương, Mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng.”
Thật ra so sánh với lối sống càng ngày càng phóng khoáng tự do theo trào lưu tiến bộ nhanh đến chóng mặt, phải công nhận thân phận phụ nữ Việt ta thời trước có nhiều ràng buộc cứng rắn quá. Khung son tứ đức lồng nổi bật đóa hoa tam tòng khép kín đời của các bà âm thầm trong bốn bức tường gia đình như những cung vàng điện ngọc giam giữ phi tần cung nữ suốt đến cuộc đời.
Nghĩ cũng lạ, nói chung các ông thương yêu kính quí mẹ mình nhưng lại thường quên quan tâm lưu ý đến bà mẹ của con mình. Vậy trong tình phu phụ, chữ ‘phụ’ nầy vừa có nghĩa là vợ mà vừa còn là giúp, phụ tá mà thôi chứ không phải nam nữ bình quyền. Các ông được xã hội xưa cho cái đặc quyền đa thê, không phải chỉ tái giá ‘tục huyền’ sau khi vợ chết mà có khi bà nhà còn sống sờ sờ các ông mặc nhiên vẫn có quyền ‘ tìm của lạ ‘. Câu ‘Trâu tìm cột chứ cột đâu có tìm trâu’ còn chứng tỏ rằng giữa hai phái các ông luôn giữ thế chủ động, vậy mà phái yếu vẫn bị lên án phê phán khắt khe không khoan nhượng vì câu “luật bất thành văn” nầy
“Trai năm thê bảy thiếp, Gái chính chuyên một lòng”
Hơn thế nữa, đáng thương trường hợp người con gái nhẹ dạ bị gạt lầm lỡ một lần cũng bị lên án gắt gao, còn tội ngoại tình thì bị xử nặng nề không dung tha. Câu ‘ông ăn chã bà ăn nem’ vế đầu hợp lý cho phái nam chứ còn vế sau thì phải đổi lại ‘bà nhịn chờ’, cho dù có đói meo cũng cố mà dằn lòng, không được phép tùy tiện lên cơn ăn lén. Ngay cả trong Thánh kinh của đạo Ki tô cũng có chuyện’ người phụ nữ ngoại tình’ bị bắt quả tang. Theo luật Mô sê bấy giờ, phải bị ném đá cho đến chết, còn ở xứ ta không bị bêu đầu mà chỉ bị cạo đầu bôi vôi không phải để đi tu ‘cầu đạo’ đâu.
Nghịch lý nhất là các ông đã đề cao tấm trinh tiết của người thiếu nữ lên hàng đầu, thế mà chính các ông cũng là thủ phạm tàn nhẫn hái hoa bẻ nhụy không tiếc thương.Ngay các bà góa cũng khó thể ‘bước thêm bước nữa’ vì tiếng tăm gương tốt ‘’ tiết phụ khả phong ‘’. Vẫn biết “Một vợ thì nằm giường Lèo, Hai vợ thì nằm chèo queo, Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm “.
Nhiều ông cũng chẳng để ý chi. Tục ngữ có câu :’’Chết trẻ còn hơn lấy lẽ’’ Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã thông cảm hoàn cảnh và duyên phận hẩm hiu lẽ mọn : ‘Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,… Thà trước thôi đành ở vậy xong.’
Riêng về các bà vợ hầu thiếp ái thê mẹ ghẻ, sách sử cũng đã đề cập từ ngàn xưa và nước nào cũng có và ít khi được châm chế trong việc luận phê. Không phải chỉ có vua chúa với tam cung lục viện trong hoàng cung, mà quan lớn nhỏ đại gia trọc phú cho đến dân thường đều được thừa hưởng ân huệ đó do luật pháp chế độ phụ hệ phong kiến từ ngày xửa ngày xưa.
Pháp chẳng hạn có chuyện http://blanche.software.informer.com/ - Blanche Neige et les sept Nains Bạch Tuyết với bảy Chú Lùn hay Cendrillon Nàng Lọ Lem trong đó bà mẹ ghẻ nào cũng độc ác. Một bà không con ganh tị cuống cuồng với sắc đẹp con chồng, luôn luôn phập phồng lo sợ mình không phải là người đẹp nhất trên đời. Quân sư cố vấn của bà là một chiếc gương thần tố cáo tên địch thủ nào vượt bà đoạt tước hiệu hoa hậu trên. Thế là từ lòng ganh tị sang thù hận dễ dàng rồi âm mưu bàn kế làm khổ nạn nhân cho thoả lòng tự ái, thế cậy quyền:
“Xưa nay hãm hại người ta đã đầy” (Nhị độ Mai)
Bà trong truyện thứ hai cho ta thấy bộ mặt khác của tính ganh tị mà con người căn bản ai cũng có. Tính nầy giống như con rắn mê hoặc Ê-và ăn trái táo cấm để rồi Nàng dụ dỗ A-dong ăn luôn, nhưng ông tổ loài người chỉ nuốt nửa chừng nên có truyền thuyết về cục xương ở cổ chỉ thấy rõ ở đàn ông mà người Pháp gọi là Pomme d’Adam. Có con càng nên trở thành ích kỷ hơn, bà mẹ ghẻ dành giựt hết mọi quyền lợi cho con riêng, đày ải làm điêu đứng đứa con mồ côi mẹ xấu số bạc phận không tiếc thương. Các truyện nầy không khác mấy truyện Việt nam Tấm Cám và thầy Mẫn tử, vai đào độc nầy ngay trên sân khấu, phim, tuồng cũng bị khán giả ghét cay ghét đắng. Dù sao đáng thương nhất vẫn là những bà thứ không con, từng phục vụ chồng, gia đình chồng cho đến ngày ông mất đi, tuổi đời đã lớn, không có tài sản riêng, không còn ai trọng vọng cầm giữ nữa, các bà thường trở về ở với bà con của mình trong lúc xế chiều nầy. Đúng là « Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. » (Hồ xuân Hương)
Phận người vợ sau đã khổ rồi huống hồ trong trường hợp người vợ còn sống mà ông còn tằng tịu với một hoặc vài bà nhỏ khác, và khó xử nhất người đến sau lại là em hay chị ruột của vợ mình.
Ở các nước Tây phương, chuyện tái giá, tái hôn, tục huyền, ly dị xảy ra không làm ai ngạc nhiên hết, không còn sống hạnh phúc với nhau được thì đường ai nấy đi, không thù hận ? Cuộc chia tay tốn kém nhiều bút mực thuộc về những người nổi tiếng, minh tinh màn bạc như Liz Taylor, Brad Pitt, Madonna hay như cuộc tình tay ba của hoàng tử Anh http://charles24.software.informer.com/ - Charles ngay khi công nương Diana còn sống, cũng là đề tài gây sốc một thời. Người dân Anh thương tiếc Diana nhưng cũng dễ dãi chấp nhận sự có mặt của bà tình địch của Diana.
Chuyện lộn xộn xôn xao của tổng thống Mỹ Clinton ngay ở tòa Bạch Ốc cũng chỉ củng cố địa vị của ông hơn.Thời sự nóng bỏng năm http://200910.software.informer.com/ - 2009 là bà vợ của Thủ tướng Ý Berlusconi hăm dọa ly dị chồng léng phéng với các cô người mẫu. Rồi ông cũng vẫn được bầu làm thủ tướng như thường và ông còn tuyên bố rành mạch vui vẻ :’ Tôi cũng chỉ là một người đàn ông’. Cố Tổng thống Pháp Mitterand, hồi còn sinh thời và còn tại chức, có con gái với bà thứ hai trước mặt thế giới thế mà vợ con bà lớn, báo chí trong nước có rầm rộ tố cáo gì đâu.
Như thế, ngay cả xã hội phụ hệ văn minh ngày nay như vô tình mặc nhiên bao che các ông hơn. Người ta tha thứ dễ dàng hơn chuyện ngoại tình của phái nam hơn phái nữ như chấp nhận ‘phu xướng phụ tùy’ chứ ‘chồng quì vợ dọi’ hay’ gà mái đá gà cồ’ là không hợp lý, bị người đời dèm pha chẳng tha. Tuy nhiên, thật ra không phải bà vợ lẽ nào cũng tệ, như trường hợp bà mẹ kế của thầy Mẫn tử đã biết cải hối phục thiện.
Trường hợp mợ sau của Chi là trường hợp điển hình khác nữa. Mợ Xanh là một bà góa có gia sản bên chồng để lại. Mợ cũng không tái giá nuôi con đến gần mười năm cho đến khi tình hình căng thẳng ở nông thôn. Pháp đi ruồng bố ráp luôn và phong trào chống Pháp đang tập trung lực lượng và tìm nơi họat động ở các xả ấp xa. Đàn bà góa thời bấy giờ giỏi dang có chút tài chút sắc, thật khó sống yên một mình nuôi con giữa hai gọng kềm và vây quanh bởi bao thành kiến phiền toái bực mình xuyên tạc. Ngay phần đông các bà cũng không thích chồng mình giúp đỡ người neo đơn đặc biệt nầy vì biết đâu ‘lửa gần rơm lâu ngày cũng bén’. Còn các ông, bản tính thường đã là phóng khoáng quảng đại, vì thế nếu ông nầy tỏ ra hào hoa nghĩa hiệp, ông khác cũng tự cho quyền cứ ỡm ờ thả rong xe dê tìm lá so đũa, đâu mất mát gì. Mà đến từng tuổi nầy tất nhiên các ông thường đã có gia đình hoặc suôi gia con cháu đùm đề rồi, ít còn người cu ky độc thân đâu.
Vẫn biết khó có thể ở góa mãi vì tuổi đời chưa bốn mươi, mợ Xanh còn được tiếng tốt chịu khó đảm đang tốt bụng, ở vùng xôi đậu tranh sáng tranh tối, ban ngày lo sợ bị lính lê dương Pháp ruồng bố, tránh đạn súng cối mortier, bom lửa http://napalm1.software.informer.com/ - napalm dội xuống các vùng bị tình nghi. Ban đêm là lãnh vực của du kích, đào hầm cho cán bộ nằm vùng, tích trữ lương thực, làm giao liên, tuyên truyền, chiêu mộ người hoạt động. Sau nầy chính nhà mợ cũng bị bom ra tro, cậu con trai duy nhất của mợ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc bên cạnh thằng bạn chết cháy co quắp đen như than. Thời bấy giờ miền Nam còn là thuộc địa Pháp nên có phong trào ngấm ngầm hoạt động chống xâm lăng đô hộ. Không phải chỉ có các sĩ phu trí thức giàu sang mới chủ xướng việc đối đầu với kẻ thù, chính giới nông dân mới thuộc thành phần âm thầm hy sinh nhiều nhất. Mợ tự vừa làm ruộng trồng vườn vừa buôn gánh bán bưng, bán cháo lòng ở chợ. Ngày nào như ngày nào tờ mờ sáng gà gáy mợ đã quảy gánh nặng trĩu vội vã ra đi để cho kịp buổi chợ làng nhóm thường rất sớm.
Ngày ngày đòn gánh tre oằn vai nhịp nhàng theo bước vội trên bờ con, chân bám mặt đường trơn trợt sau hay dưới cơn mưa gió mùa, mỗi bên chiếc thúng lồng trong đôi gióng với dụng cụ cần thiết. Trong chiếc gióng trước một nồi cháo ầm ĩ cho nhừ đặt trên bếp than lửa riu riu, bên trên tràng đựng thịt, lòng heo, chiếc gióng sau gồm chậu nước rửa, tràng tộ muỗng đũa, rổ rau, nước chấm gia vị, tất cả đều được sắp xếp gọn gàng bắt mắt phát thèm.
Còn nói chi đến việc trồng trọt, mợ Xanh có bàn tay ‘xanh’ như tên như mợ, theo cách ngày nay nói về môi sinh. Những liếp rau cải cần bẹ to xanh mướt, đám mía xào xạt với lóng dài to vàng óng, những cây bắp nếp thẳng tấp trổ cờ cao ngọn báo cho biêt năm đó trúng mùa và nhất là đám chuối sứ thế nào trong đó cũng có vài bụi chuối hột vì dân ta thích dùng lá, hoa chuối hột hơn của các loại chuối khác.
Cây chuối, cây tre là hình ảnh nổi bật nhất ở đồng quê, cần thiết nữa nên hầu như nhà nào cũng có. Dân ta dùng cả cây từ ngọn đến rễ không chừa bỏ phần nào. Ngày nay với kỷ thuật mới, quan niệm tiến bộ về mỹ thuật, cộng với óc sáng tạo phong phú linh động, nghệ nhân ta đã chế tạo từ tre ra dụng cụ thông thường càng ngày càng hoàn thiện hơn, không những có ích mà còn bền bĩ đẹp chứ không ‘tốt mã rã đám’ đâu. Hơn thế nữa, với tài khéo léo truyền thống gia truyền và óc tưởng tượng cầu tiến dồi dào, nhiều ngành mới liên quan biến thành sản phẩm tre trúc thành tác phẩm nghệ thuật độc đáo tuyệt vời. Nhìn những bức tranh phiến tre họa khắc khảm xa cừ hay tô điểm bằng những hình vẽ hoa văn quen thuộc truyền thống hay thư pháp đổi mới tân tiến, những bức họa đồng quê sơn thủy, chân dung cả người lẫn thú, người với bộ râu tre khô quắc thước, đầu rồng, bờm sư tử nổi bật linh hoạt sống động, ta cảm thấy tre sao mả gần gũi với cuộc sống dân mình làm sao.
Còn cây chuối cũng thật là đa dụng. Nhân ngày giỗ, lễ, bàn thờ được trang trí bằng một bình hoa với cây chuối non vươn sức sống mới lá xanh giữa nhửng cành nở ngài hồng tím, hoa huệ trắng, bông ngãi, bông điệp ta đỏ vàng xung quanh cũng thật độc đáo. Nếu có dịp thình lình về vùng quê miền Nam, bạn thường sẽ được đãi bằng thực phẩm cây nhà lá vườn liên quan phần lớn do hai cây đặc biệt ấy. Thân chuối non hay hoa chuối người ta xắt mỏng trộn thành món rau ghém hay gỏi làm mồi để nhậu hay món rau sống ăn kèm với mắm kho, lẩu mắm. Canh chua bằng bắp chuối hột, dai dai dòn dòn và trắng hơn hoa chuối khác, cùng lá me non với tôm đất hay cá chốt vừa vớt lên đổ ra còn nhảy soi sói, chấm muối ớt sừng trâu đỏ au, nhớ chỉ thôi đã thấy phát thèm chảy nước mắt. Cá lóc mang còn đỏ hồng, nếu gặp dịp tát ao, quấn rơm dùng thanh tre xỏ lụi xuyên qua từ đầu tới đuôi được nướng trên lữa rơm ngào ngạt thơm.
Ngoài chuồng gà vịt gần những cây me cây táo, ổi, còn có chuồng cặp ngỗng cổ dài như ống nước cao su giữ nhà rất giỏi kêu ó lên inh ỏi khi có người lạ đến nhà. Thích ơi là thích lượm nhặt được trứng ngỗng to hơn trứng gà và cả trứng vịt Xiêm, nhưng sợ hết hồn hết vía lúc bị cái bầy ngỗng rượt cắn mổ, cái cần cổ dài dai dẻo mà chắc cứng nghiêng nghiêng, cà sát trên mặt đất di động cất cao hạ xuống trong tư thế của con rắn hổ mang giáp trận, vừa chạy đến xáp lá cà vừa la éc éc oác oác chói tai xốc óc, cái mỏ bèm bẹp của nó thật cứng chui luồn cạp cắn đau bầm mình dễ sợ.
Cho đến một hôm, mợ Xanh không đi bán được. Số là như thường lệ, sáng sớm mợ đều quảy gánh cháo đi bán, trời còn tối nên mợ mang theo cây đèn lồng hay cây đèn chai, năm nầy qua năm khác. Thế mà, sáng hôm sau, có người phát hiện mợ Xanh đang nằm ngủ khì bên gánh cháo còn nóng hổi gần khét trên đường mòn ra chợ. Kêu mợ tỉnh dậy, mợ chẳng nhớ gì cả mà không hiểu tại sao mợ lại nằm đây không xa nhà bao nhiêu. Người ở đây thường bảo là ma dẫn đi. Có người khác còn bị nhét vào miệng cỏ khô, bùn đất, đó là chuyện ma người lớn thường kể có thể để hù các em trẻ phá phách nghịch ngợm không chịu đi ngủ sớm, ham đi chơi ngông về khuya. Bác sĩ cho rằng vì mợ làm việc quá độ nên may mà chỉ bị thiếp đi nếu không, hậu quả còn nghiêm trọng hơn. Thế là sau cơn đột biến ấy, mợ quyết định bước lên bước nữa.
Vả lại tình thế lúc bây giờ cũng căng quá. Bố ráp của Pháp, nhà ở quê tất phải đào hầm để tránh bom đạn mọt chê, đại bác nả vào ban đêm để ngăn du kích hoạt động hoặc yểm trợ lực lượng hành quân. Ban ngày sợ giặc, ban đêm tiếp tế trợ giúp thành phần kháng chiến chống Pháp. Trong những người hoạt động phải trốn tránh đó nay ở vùng nầy mai di qua vùng khác, nhà nầy thường xuyên hơn người khác, mợ thấy mình không thể nào tiếp tục sống góa mãi được nên đã chọn cậu Tư cậu của Chi.
Cậu Tư con nhà có học, có gia đình con cái, nhà làm ruộng lớn, hoạt động theo cao trào bấy giờ yêu nước chống ngoại xâm, nên cũng thường trốn tránh ở nhà mợ. Có thể hình ảnh của một người anh hùng hay cảm về tài ứng biến hay vì sắc vóc của cậu, có thể là tất cả lý do đó biến mợ thành bà vợ thứ tình nguyện.
Cũng may mà mợ lớn của Chi là người đức hạnh, tốt bụng, có tầm nhìn phóng khoáng, hiểu biết rộng, thông cảm hoàn cảnh số phận đàn bà thời bấy giờ nên đã chấp nhận lời xin đến tạ lỗi thú tội của mợ sau. Từ đó hai bà, nhà ai nấy ở, sống rất hòa thuận nhau. Khi nhà của mợ Xanh bị Pháp đốt cháy tiêu tan, chính mợ lớn đã đem các con của mợ sau về ở chung cho tiếp tục đi học, trong khi mợ Xanh trở về làng mình dựng chòi bám đất. Cậu của Chi rất may mắn không phải bị đau đầu khó xử vì một cảnh hai quê nầy cho đến ngày qua đời. Còn thêm điểm đáng khen là khi mợ Xanh già yếu trên chín mươi tuổi, mợ vẫn còn chứng kiến được anh chị em hai dòng lớn nhỏ vẫn luôn trên thuận dưới hoà. Cho đến ngày lâm chung, chính người con http://trai.software.informer.com/ - trai cả đã đứng ra làm chủ tế đám tang ‘ dì ‘cùng với các em cùng cha một cách chân thành cảm quí.
Chuyện các ông có phòng nhì phòng ba là chuyện thường có lúc bấy giờ. Chi còn biết, ba của bạn Chi là một thương gia Việt gốc Hoa, có đến ba bà mà mỗi bà ở một nơi khác nhau, mỗi bà được chu cấp một cái tiệm hàng xén chạp phô để tự lực cánh sinh nuôi con cái và phục vụ ông chồng chung. ‘Chén dĩa trong sóng còn khua ‘huống hồ gia đình chia bảy chia ba. Thế mà thời bấy giờ chuyện đánh ghen ít có xảy ra đâu.
Ở đời người vầy người khác, các bà vợ lớn cũng thế, người tốt, người vẫn ghen ngầm hay dữ dội như Họan Thư hay sư tử Hà Đông. Ngay trong tỉnh nhà, hai chị em ruột giàu sang đều có cùng một người chồng có địa vị, thế mà rất hòa thuận chị chị em em. Lại trường hợp khác cũng tương tự như vậy, hai chị em đều có con cùng ở chung nhà, thế mà vẫn tránh nói chuyện nhau cho đến một người mất đi.
Một trong những câu chuyện đẹp về kiếp chồng chung thật khó tin đến nhiều người cho rằng là giả tưởng. Cô vợ lẽ trẻ không cưới hỏi đã được bà vợ cả đem về nuôi nấng trong nhà mình khi câu chuyện mang http://thai3.software.informer.com/ - thai vỡ lở gây tai tiếng cho sự nghiệp của cả hai bên. Chẳng những hai bà sống thông cảm nhau không ganh tị ghen bóng ghen gió mà còn cùng hợp sức nuôi dạy các con nên người cho đến ngày ông và bà cả mất đi và các con đã lập gia đình ra riêng. Tưởng đến đây là chấm dứt thế mà, sau 75, bà vợ thứ được các con của mình bảo lãnh sang Mỹ. Khi biết tin các con dòng lớn còn ở Việt nam, người bị đi học tập, người vượt biên mất trắng, bà luôn luôn gửi tiền về giúp đỡ như con của chính mình.
Trong lịch sử nước ta, không ai phủ nhận công ơn của một thứ phi đức hạnh ở thế kỷ thứ 19, một lòng vì dân vì nước như Hoàng thái hậu Từ Dũ (1810-1902), con của Đức Quốc Công Phạm đăng Hưng, vợ của vua Thiệu Trị và mẹ vua Tự Đức.
Tuy nhiên tám thế kỷ trước đó, một cô thôn nữ hái dâu mồ côi nghèo trở thành phu nhân, thứ phi, Nguyên phi rồi Hoàng thái hậu, đã đóng góp rất tích cực hữu hiệu chẳng những cho cơ nghiệp của vua Lý Thánh Tông mà cho đất nước và dân tộc ta bấy giờ, Hoàng thái hậu Ỷ Lan (1044-1177). Từ thế kỷ thứ mười một, Đức Bà đã có những tư tưởng thật tiến bộ văn minh sáng tạo, nhân đạo, phương sách tổ chức, cải tổ, chấn hưng thức thời mọi mặt xã hội đối nội đối ngoại phù hợp với đời sống và lòng dân. Cho đến ngày nay, gương sáng tuyệt vời đó khó tìm thấy được ở trong và cả ngoài nước nữa.
Xin nhớ rằng không phải xuất thân từ gia đình vọng tộc quí phái đã được chuẩn bị huấn luyện trước như thông lệ ngày xưa, Đức Bà được tuyển vào cung qua một giai thoại nên thơ lãng mạn. Thế mà, Ỷ Lan phu nhân biết mình biết người nên khổ công tìm tòi học hỏi nhiều mặt làm cả triều đình khâm phục, và các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác giả văn học thời Lý -Trần. Có những câu kệ trong những bài kinh của Đức Bà còn truyền tụng đến ngày nay :
« Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc không đều chẳng quản Mới thấu được chân tông. »
Đức Bà còn hai lần thay chồng, con làm nhiếp chính, lịch sử còn ghi công ơn. Lần thứ nhất, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Chiêm thành. Cũng năm nầy nước Đại Việt ta bị lụt to, mùa màng hư hại, loạn lạc nổi lên khắp nơi. Ở đây chúng ta mới thấy phát xuất hiện rõ tinh thần cao độ yêu nước yêu nòi, lòng nhân từ, tính bất khuất không chịu thua hoàn cảnh của bậc anh hùng, liệt nữ, nhà chính trị thức thời ái quốc đúng nghĩa. Không lợi dụng địa vị để củng cố kéo thêm bè cánh, thế lực để hưởng thụ trên máu xương của đồng bào, dù không qua một trường phái chính trị nào, thế mà chỉ bằng ý chi vượt khó, biết nghe lời cố vấn thừa đức tài kinh nghiệm có kế sách đứng đắn, Đức Bà, cô gái nông dân trồng dâu nuôi tằm Lê thị Yến trở thành Nguyên phi hiểu đời, thực tế, tài trí đức độ nên đã có quyết định kịp thời cứu đói người nghèo, ổn định tình thế, dẹp yên loạn lạc, duy trì luật pháp, bảo đảm kỷ cương phép nưóc. Anh thư như thế trên thế giới nầy, trong việc chấn hưng đất nước, thật có mấy ai ?
Lần thứ hai, năm 1072, vua Lý Thánh Tông băng hà, Lý Nhân Tông lên ngôi mới 7 tuổi, ở "khâu" nầy, ta mới thấy tài điều khiển nước khéo léo của Đức Bà, hai lần cùng tể tướng Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống xâm lược (1075, 1077). Nhưng điểm đáng nói thêm ở đây là tinh thần yêu nước của Bà thật thuần khiết, biết dẹp lửa hận thù giữa thắng thua, đối địch, bỏ qua hiềm khích cũ, trọng nhân tài, đã mời Lý đạo Thành về trao lại chức Thái sư cùng chung lo việc nước. Hành động nầy thật không phải dễ thực hiện đâu nhất là sau cuộc chính biến hay khi nắm trong tay cả thế quyền. Lịch sử dựng giữ nước ta đã bao phen bất lực chứng kiến cảnh đau lòng ‘nồi da xáo thịt’ ‘cạn tàu ráo máng’ ‘nhổ cỏ phải nhổ tận gốc’ vô nhân ấy từ trước cho đến ngày nay, ngay ở thời kỳ văn minh thế kỷ 21 nầy mà vẫn chưa rút ra được kinh nghiệm xương máu để cùng hưởng sống hòa bình.
Hoàng thái Hậu Ỷ Lan còn là người không quên gốc nông dân nghèo của mình. Một trong chính sách rất sáng tạo nhân đạo và tiến bộ nhất mà Đức Bà đã ban hành là tha cung nữ và chuộc nô tỳ, con gái nhà nghèo bị bán đi ở đợ gán nợ cho nhà giàu. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã viết :’Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy’.
Chúng ta không quên việc giải phóng nô lệ được Tổng thống đầu tiên Hoa kỳ http://george111.software.informer.com/ - George Washington tuyên bố năm 1777 và Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ mới ra đời qua văn bản ở thế kỷ thứ 19 do Tổng thống Abraham Lincoln hai lần ngày 22-9-1862 và 1-1-1863, Pháp đến năm 1848 và Trung quốc mãi đến thế kỷ 20, năm 1909. Vậy mà sáng kíến cao đẹp đổi đời nầy đã được khởi xướng áp dụng từ đầu thế kỷ thứ 12, năm 1103, do cô gái quê Việt hái dâu tựa gốc cây lan lên làm Thái hậu, đáng phục biết dường nào.
Thời Bà, luật pháp cũng rất nghiêm minh. Đức Bà đã xuống chiếu cấm giết trâu bò bừa bãi mà còn phạt nặng kẻ trộm trâu. Chồng trộm, vợ cũng phải phạt nặng như chồng và ngay cả láng giềng không tố cáo hay a tòng cũng bị phạt lây. Thông thường, các nhà cầm cân nảy mực dù liêm khiết, tế nhị, xét đoán công tâm vẫn bị ràng buộc bởi những đạo luật hiện hành. Chỉ một yếu tố đơn giản đó thôi cũng đủ làm cán cân đôi khi bị nghiêng lệch vì những sơ hở, thiếu sót, văn bản chưa kiện toàn, chưa cập nhật hóa kịp thời. Do đó cho đến ngày nay, việc chống tham nhũng, gian thương buôn lậu, ma túy dính dáng đến các gốc bự chóp bu trong chính trường, kiêu binh còn ít cơ may áp dụng có hiệu quả vì bệnh ngàn đời là huyện binh vực huyện phủ binh phủ. Điểm son ở đây là hơn mười thế kỷ trước, Đức Bà đã nghĩ đến tính độc lập của ngành tư pháp rồi, một trong ba ngành căn bản trong các chế độ dân chủ tự do sau nầy.
Về tôn giáo, để hiểu rõ hơn về đạo Phật, Bà trao đổi đối đáp trực tiếp với các cao tăng về thuyết giáo lý đạo Phật,và chính nhờ các câu chuyện giữa Đức Bà và các vị sư thời Lý, sách ‘Thiền uyển tập anh’ đời Trần còn ghi rõ, mà đến nay chúng ta mới biết được nguồn cội sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Quyết tâm học hỏi không ngừng tận tường để áp dụng đúng phục vụ đất nước của Đức Bà thật phi thường và đáng làm gương lưu danh.
Đến đây, chúng ta lại liên tưởng đến trường hợp khác, oan uổng cần tìm hiểu lại tận tường để vinh danh, của một bà vợ thứ thế kỷ 19 cũng đã cống hiến rất nhiều cho đất nước, tích cực chống Pháp mặc tiếng thị phi, miệng đời, mà người đương thời bấy giờ hiểu sai lệch về Bà, do thành kiến phong tục xã hội xưa hoặc do guồng máy cai trị tuyên truyền xâm lăng đô hộ Tây, Bà hầu Trần thị Sanh ở Gòcông. Sinh ra trong một gia đình giàu có vọng tộc, mẹ Bà là cô ruột của Cô Phạm thị Hằng, và chính cha mẹ Bà đã nuôi dưỡng giáo dục cô cháu gái mồ côi mẹ trước khi được tiến cung và sau nầy trở thành Hoàng thái hậu Từ Dũ. Góa chồng một con, Bà quán xuyến gia sản to lớn, có thế lực nhất nhì trong vùng.
Trong bối cảnh chính trị miền Nam lúc bấy giờ, năm 1861, Pháp tấn công Gia định lần thứ hai, Ông Trương Định cùng với Ông Nguyễn tri Phương giữ chiến tuyến Chí Hòa. Thế rồi Chí hòa lại thất thủ, Ông Trương Định lùi về Gò công giữ Định Tường, Gia định.
Năm 1862, Pháp chiếm Biên Hòa và ngày 5-6-1862, triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất với Pháp. Ông Trương Định, một lãnh tụ nghĩa quân lúc bấy giờ từ chối lời dụ hàng của tướng Pháp Bonard và bất chấp luôn chiếu vua Tự Đức ra lệnh bãi binh tháng 2- 1863. Câu nói khẳng khái của Ông :
« Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta. »
Trương Định rút về Gòcông làm căn cứ địa kháng chiến, được nhân dân tôn làm Bình Tây Đại Tướng quân. Về phần Bà Sanh, để có thể giúp Trương Định một cách danh chánh ngôn thuận, bất chấp dư luận, một đám cưới tổ chức http://long.software.informer.com/ - long trọng tại nhà cha mẹ của Bà, nhà từ đường họ Trần hiện nay còn ghi dấu, và vì thế từ đó Bà trở là một cái đích chĩa vào, lên án từ mọi phía. Việc tái giá của Bà chẳng những là cái gai nhọn cho gia đình bên chồng mà còn một hiện tượng chống đối với đạo tam tùng thứ ba « phu tử tùng tử » chồng chết theo con theo phong tục phong kiến thời bấy giờ.
Sinh năm 1820 theo sách sử, vậy là khi rút về Gòcông năm 1861, Ông Lãnh binh Trương đã 41 tuổi, tất nhiên không ai phủ nhận là có thể Ông đã có gia đình từ lâu rồi, mà rất tiếc không một sử liệu nào xác minh điều nầy. Hơn thế nữa, như chúng ta biết rõ các ông đâu có bị phạt tội nếu có thêm vợ một vợ hai. Thế mà người dân địa phương vẫn gọi khiếm danh Bà là Bà hầu. Lạ hơn có sách ghi là Ông Trương còn có cưới ở Gòcông một bà tên Lê thị Thưởng giàu có và có con trai nữa ( ? ) giúp Trương Định mộ quân thêm khí giới, mà từ trước đến nay không một tài liệu lịch sừ nào nêu rõ được bà Thưởng nầy gốc gác ở đâu, con cái của ai ở địa phương nầy..
Lại còn có nhà văn khác phê rằng Bà Sanh bằng lòng gá nghĩa với Trương Định là để dựa vào thế lực của Ông, hầu củng cố địa vị và bảo vệ gia sản của mình. Lập luận kết tội nầy quả không vững, có phần quá đáng, ác ý. Chúng ta biết rằng từ khi Ông Trương Định đã không tuân lệnh vua Tự Đức về việc bãi binh và trở ra Phú Yên, Ông Trương đã không còn là người thuộc quyền trìều đình Nguyễn nữa và đặc biệt đối với Pháp Ông trở thành một tên « loạn quân » nguy hiểm kháng cự đối đầu mà Pháp cần triệt hạ dù bất cứ giá nào. Tất nhiên người trong cuộc, Bà Sanh và dân chúng địa phương, biết rõ điều đó. Vậy thì nếu chỉ vì quyền lợi riêng thôi thì không một ai dại gì mà hiến cả tài sản, hy sinh danh tiếng cuộc đời của mình cho một vị tướng ly khai mà thế quân sự của nghĩa quân lúc bây giờ cần phải chỉnh đốn cấp tốc. Tóm tắt lại, chỉ có vị nào hun đúc đầy lòng yêu nước cao độ, tinh thần quyết chống xâm lăng đô hộ, bầu nhiệt huyết can đảm dấn thân hy sinh tuyệt đối mới có thể thực hiện được hành động quên mình cao cả đó, và trong trường hợp nầy lại do một phụ nữ, một vợ thứ, một bà hầu, một điểm son đuợc phê thêm sáng chói trong lịch sử bảo vệ nước nhà.
Chưa hết đâu, tấm lòng trung trinh và tinh thần cách mạng của Bà trong hoàn cảnh nào cũng không hề lay chuyển. Bằng cớ là chỉ ba năm sau, Ông Trương Định tuẩn tiết ngày 20-08-1864. Pháp đã đem phơi thây Ông để răn đe dân chúng. Chính Bà Sanh đã lấy danh nghĩa là vợ chính thức, can đãm đệ đơn xin Pháp đem thây Ông về chôn cất trang trọng, lập mộ vinh danh trên đất của cha mẹ ruột của mình lưu dấu ngàn năm. Thế nhưng, để tiếp tục xóa bỏ mầm mống chống đối Pháp và tiêu diệt lòng tri ân đối với những chiến sĩ anh hùng, nhà cầm quyền Pháp tại Gòcông bắt phạt Bà 10.000 quan Pháp, lý do vì lập bia mộ trái phép và bắt đục bỏ hàng chữ Bình Tây Đại Tướng Quân mà Bà đã cho ghi trên bia mộ.
Mười năm sau, Bà lại xin trùng tu mộ Ông Trương. Thế rồi các bức hoành phi và trụ đá ghi thân thế và sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc lại bị đục bỏ. Dưới thời Pháp thuộc, ngôi mộ trở nên hoang phế vì sự cấm đoán và dòm ngó của lính kín mật thám. Những người lớn trên bảy mươi tuổi ở châu thành Gòcông và làng lân cận đều còn nhớ rằng, thời bấy giờ, con gái đàn bà ít ai dám đi ngang qua khu mộ cây cối um tùm nầy, một mình, sợ ma rượt bắt, ma thật hay ma người giả dạng ?.
Vậy thì xin thưa Bà Trần thị Sanh quả thật là một tiết phụ đã biết hy sinh cái riêng tư của mình vì cuộc đại nghĩa rộng lớn cao cả hơn và nhất là có công lưu danh ngàn xưa tên tuổi sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Định. Lòng yêu nước và tri ân chân chính của Bà đáng được tôn vinh, ghi danh trong sách sử.
Thật ra sử kiện ngày xưa thường truyền miệng và ít được trực tiếp mắt thấy tai nghe nhất là liên quan đến phụ nữ và bí sử chuyện hậu trường sân khấu chính trị. Nhà viết sử cũng chỉ nghe kể lại nên câu chuyện có khi được thêm mắm dậm muối, thêm thắt tình tiết gay cấn éo le, khó hoàn toàn trung thực. Rồi chuyền tai người nầy sang người kia, đời trước truyền sang đời sau, dễ tam sao thất bản, người bênh kẻ đả kích, ai cũng dành phần đúng về mình, nhất định nguồn tin của mình là chính xác, đích thật, rốt cuộc người chết không sống lại để phân xử, hòa giài, biện minh. Người đương thời cứ đua nhau tranh luận chí tử. Rồi người thời sau lại lần giở trang sử xưa, tiếp nối luận bàn, thế hệ nầy sang thế hệ khác. Việc xác minh sử kiện cho đúng đề vinh danh người có công thôi, rất cần, cũng mới thấy không phải là một chuyện dễ làm. Thật đáng tiếc và ân hận biết dường nào !
Ngày nay với phương tiện dồi dào khoa học kỷ thuật tân tiến, người đương thời văn minh có làm được nhiều tiến bộ trên mọi bình diện lắm. Thế mà, sự thật chưa chắc được phơi bày thật sự, hoàn toàn khách quan, tự do. Hy vọng thế hệ trẻ tương lai càng ngày càng khôn ngoan và may mắn hơn trong việc truy tìm sử tích phân biệt đâu là chính tà công tội một cách hợp lý hợp tình.
Chúng ta còn nhận thấy thêm rằng cuộc đời như một ván cờ không thiên vị ai, trong đó tất cả đều là con cờ. Trong ván cờ người, con cờ người đều quan trọng như nhau trong địa vị, vị trí riêng, dù là tướng xe pháo ngựa hay là con chốt. Không phải chỉ có con xe tài, con pháo giỏi, con ngựa hay là cần thiết thôi, con tốt cũng có có thể chiếu tướng bí như thường :
« Đem tốt đầu dú dí vô cung » (Hồ Xuân Hương).
Hy vọng rằng qua những kinh nghiệm vơi đầy trong quá trình lịch sử, tấm gương của mọi thành phần xã hội, những thành kiến bất công, nhận thức còn nông cạn do con người tạo ra, chúng ta sẽ biết tìm cách đối phó, rút ra những bài học hữu dụng tốt đẹp hơn hầu có thề sống phù hợp hòa đồng với trào lưu tiến bộ văn minh càng ngày càng phức tạp của thế giới ngày mai. Trần Thành Mỹ
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Jan/2010 lúc 4:54pm
Về thăm một vùng địa linh
(Cập nhật: 16.01.2010 03:33)
Huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang là vùng đất địa linh nhân kiệt với những con người kiệt xuất như Trương Định, Thủ Khoa Huân... Đây là quê hương hai hoàng hậu của hai vua triều Nguyễn. Đó là bà Từ Dũ vợ vua Thiệu Trị và Nam Phương hoàng hậu vợ vua Bảo Đại
VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIÊT Chiều cuối năm, chúng tôi về thăm Gò Công. Tiết trời hanh nhẹ, mát dịu với nắng vàng và gió mơn man thổi. Con đường Quốc lộ 50 dẫn vào thị xã Gò Công đang được khẩn trương thi công. Hai bên đường, những thửa ruộng vào mùa gặt lúa chín vàng ngút mắt, những vườn cây trái xum xuê xanh mát yên bình... Chúng tôi như cảm nhận được sức sống mới đang trỗi lên từ mảnh đất cửa ngõ ra biển Đông của Tổ quốc.
Gò Công hiện gồm các huyện: Gò Công Đông, Gò Công Tây và Tân Phú Đông. Theo sử liệu, lịch sử hình thành vùng đất Gò Công có từ lâu đời. Cuối thế kỷ XVII, lần lượt nhiều nhóm di dân miền Trung đến khai phá rồi hình thành các cụm dân cư trên các giồng đất cát: giồng Nâu, giồng Chùa, giồng Lãnh, giồng Bà Lẫy, giồng Đình... chuyên sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức đơn vị hành chính, vùng đất này thuộc quận Tân Bình, dinh Phiên Trấn (Gia Định). Gò Công từng là tỉnh lỵ, là trung tâm phát triển kinh tế - xã hội của Nam bộ, là trung tâm phát triển hạt nhân của khu vực đông bắc Tiền Giang. Nhân dân Gò Công đã hưởng ứng cuộc kháng chiến của anh hùng Trương Định, tổ chức đánh Pháp từ chiến lũy pháo đài đại bản doanh Kiểng Phước - Gia Thuận. Cuộc kháng chiến sau đó lan khắp ba tỉnh miền Tây, gây cho thực dân Pháp nhiều khó khăn. Người dân Gò Công mãi ghi nhớ công lao các tướng sĩ, nghĩa quân dưới quyền Trương Định như: Đốc binh Trương Công Luận, Đốc binh Chấn, Đốc binh Chung, Tú tài Trần Văn Hội... Hiện ở thị xã Gò Công có tượng đài Trương Định, trước tượng đài là con đường mang tên ông. Đây là con đường văn hóa của thị xã. Gần đó là đền thờ Trương Định.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cùng với nhân dân cả nước, nhiều người con của Gò Công - Tiền Giang đã ngã xuống vì độc lập của Tổ quốc. Khu tượng đài văn hóa tưởng niệm về cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đã được dựng lên tại trung tâm thị xã Gò Công. Tượng đài nằm cạnh một trường tiểu học, như nhắc nhở thế hệ sau khắc ghi công ơn người đi trước.
Thái hậu Từ Dũ, Nam Phương hoàng hậu
VÀ HAI BÀ HOÀNG HẬU Gò Công từ xưa đã có truyền thống tôn vinh sắc đẹp. Ở Tăng Hòa, Gò Công Đông, hiện vẫn còn một ngôi mộ khắc ghi phần mộ của “hoa hậu tỉnh Gò Công”. Đó là bà Nguyễn Thanh Tùng (1919-1951).
Thái hậu Từ Dũ tên Phạm Thị Hằng, tự Nguyệt Thường, là trưởng nữ của Quốc công Phạm Đăng Hưng và bà Phạm Thị Vị. Bà Từ Dũ là vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức. Bà nổi tiếng là người đức hạnh, biết yêu quí dân và giỏi nuôi dạy con. Thái hậu Từ Dũ sinh ngày 19-5-1810 (Canh Ngọ) tại giồng Sơn Quy (còn gọi là gò Rùa), thuộc làng Gò Công, Tân Hòa, tỉnh Gia Định (nay là huyện Gò Công Đông, Tiền Giang). Thuở nhỏ bà nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, hiếu thuận và ham đọc sách. Năm 14 tuổi, hoàng hậu Trần Thị Đang, vợ kế của vua Gia Long, tuyển bà vào hầu hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng, là vua Thiệu Trị sau này. Bà sinh cho vua Thiệu Trị hai công chúa và hoàng tử Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là vua Tự Đức sau này. Khi lên ngôi, vua Tự Đức nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhất định chối từ. Năm 1894 (năm Tự Đức thứ 2), nhân dịp khánh thành cung Gia Thọ, bà mới thuận nhận tôn hiệu là Hoàng thái hậu.
Sau này, khi vua Tự Đức mất, bà còn được phong nhiều tước vị khác nữa, như: Từ Dụ Bát huệ Thái hoàng Thái hậu, Từ Dụ Bát huệ Khang thọ Thái thái hoàng Thái hậu. Ngày 12- 5- 1902 (năm Nhâm Dần), bà mất, thọ 92 tuổi. Triều đình cử hành đại lễ an táng bà gần phía sau bên trái lăng vua Thiệu Trị. Hiện khu lăng này nằm ở chân dãy núi Thuận Đạo, thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Khi chúng tôi ghé thăm Gò Công quê bà, giờ chỉ còn lại khu lăng mộ hoàng gia. Đây là nơi an nghỉ của cha bà là ông Phạm Đăng Hưng và vợ ông. Khu lăng mộ khá khang trang nằm lặng lẽ bên Quốc lộ 50. Hiện khu lăng mộ đang được sửa sang thêm để đón du khách.
Nam Phương hoàng hậu tên thật Nguyễn Hữu Thị Lan là vợ của vua Bảo Đại. Bà sinh ngày 4-12-1914 tại Gò Công, Tiền Giang (nay thuộc huyện Gò Công Tây, Tiền Giang) là con gái của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ. Gia đình theo Công giáo và bà có tên thánh là Marie Thérèse. Năm 12 tuổi bà được gia đình cho sang Pháp học tại một trường nữ danh tiếng ở Paris. Sau khi thi đậu tú tài (tương đương THPT bây giờ), năm 1932 bà về nước.
Trong một buổi dạ tiệc ở khách sạn La Palace tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông dương và viên Đốc lý thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Vĩnh Thụy, sau này là vua Bảo Đại, đã gặp nhau. Sau đó dù mẹ vua Bảo Đại là bà Từ Cung, không thuận tình, nhưng rồi lễ cưới giữa ông vua này và Nguyễn Hữu Thị Lan vẫn cử hành. Họ có với nhau hai hoàng tử và ba công chúa.
Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Bà Nam Phương sang Pháp sống những năm tháng cuối đời với một gia tài lớn trong cô đơn. Ngày 14-9-1963, bà qua đời ở tuổi 49. Chúng tôi tìm về xã Đông Sơn, huyện Gò Công Tây - cố hương của bà Nam Phương - hỏi thăm hi vọng tìm lại dấu tích về bà. Hỏi nhiều người dân và những cán bộ làm văn hóa, tuyên giáo của địa phương, họ cho biết nơi đây không còn dấu tích gì về bà và gia tộc nữa. Thời gian đã làm phai mờ bao dâu bể của thế sự.
Phần mộ ông Phạm Đăng Hưng
THAY LỜI KẾT Gò Công hôm nay đang ngày một phát triển, khởi sắc. Thị xã Gò Công hiện là đô thị loại 4, đang phấn đấu để trở thành đô thị loại 3 vào năm 2010. Nhiều công trình chỉnh trang đô thị đang được thực hiện từng ngày, nhiều khu đô thị mới được xây dựng thêm. Với vị trí hết sức thuận lợi có bãi biển Tân Thành, đường biển dài hơn 30km tiếp giáp và là cửa ngõ ra biển Đông, Gò Công là một vùng đất giàu tiềm năng. Những công trình Quốc lộ 50, công trình xây dựng quốc gia cầu Mỹ Lợi thay cho phà Mỹ Lợi sẽ nối Tiền Giang với Long An và TPHCM giúp cho Gò Công phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Rời thị xã Gò Công trong nắng chiều, nhìn những tà áo dài trắng của nữ sinh trường THPT Trương Định bay vờn trong gió, thanh khiết, hồn nhiên và đẹp nao lòng, để rồi nhận ra một điều thú vị: cuộc sống hôm nay đẹp biết bao.
NGUYỄN VĂN THỊNH
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Jan/2010 lúc 9:01am
Hủ tíu Gò Công
Hủ tíu - còn gọi hủ tiếu - là món ăn phổ biến khắp phía nam, đến nay đã xuất hiện ở miền trung và miền bắc. Trong các chương trình liên hoan văn hóa ẩm thực Việt Nam tại nước ngoài, đặc sản hủ tíu luôn được trân trọng giới thiệu. Tuy nhiên, dẫu từng nấu và xơi hủ tíu hoặc thỉnh thoảng hoặc thường xuyên, nào phải ai ai cũng hiểu rõ gốc gác cùng bao biến thể của món ăn này.
Từ đâu ? Bao giờ ?
Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy !
Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn bởi tiếng Hán quả điều mà dân Tiều (Triều Châu) phát âm thành cổ chéo. Nghĩa là "bánh sợi". Thì đấy là sợi bánh bằng bột gạo, gần giống bánh phở (âm Hán-Việt: phấn, nghĩa gốc là bột) song hủ tíu khác cơ bản ở chỗ sợi bánh thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới trụng nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm-thơm-bùi-béo.
Như thế, trên cơ sở từ nguyên, có thể thấy rằng món hủ tíu thông dụng xưa nay khắp "Nam Kỳ lục tỉnh" vốn từng được khai sinh tít tận Trung Hoa rồi du nhập vào nước ta qua biên giới tây nam sau một thời gian "quá cảnh" tại Campuchia. Và cũng tương tự phở (ngầu phảnh/ngưu nhục phấn) cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tíu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.
Một Việt kiều ở Pháp vẫn được bạn bè quen gọi bằng biệt danh Sous Chef vì anh từng làm bếp phó tại một khách sạn lớn giữa thủ đô Paris và từng đi đó đi đây để trao đổi nghiệp vụ "dao thớt". Sous Chef nói: Gặp dịp khảo sát món hủ tíu ở Bắc Kinh, Quảng Châu và Hồng Công (Trung Quốc) cũng như ở Phnom Penh (Campuchia) mọi người Việt chắc đều ngạc nhiên nhận ra hủ tíu những nơi ấy rất khác hủ tíu quê nhà. Khác và không ngon bằng ! Sợi bánh của họ ít dẻo thơm bằng. Nước lèo (nước súp) của họ thì kém trong, kém ngọt. Còn tôm thịt cùng gia vị cũng tồn tại lắm dị biệt.
Những "biến tấu" hấp dẫn
Sous Chef còn nêu ý kiến đáng chú ý: Nhiều nước, hủ tíu tồn tại cũng chỉ vài ba "chủng loại". Riêng Việt Nam, thật đặc sắc, hủ tíu được phát triển tới hàng chục kiểu khác nhau.
Về phở, giáo sư Phan Ngọc chịu khó lục lọi sách vở và thống kê thấy 17 kiểu cả thảy. Tôi thì la cà nhà hàng, quán xá, quầy, sạp, xe, gánh ở một số tỉnh thành phía nam, ghi nhận chưa đầy đủ được 25 kiểu hủ tíu. Này nhé: hủ tíu Nam Vang, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Sa Đéc, hủ tíu mì, hủ tíu nui, hủ tíu hoành thánh, hủ tíu xào, hủ tíu xá xíu, hủ tíu thịt băm, hủ tíu sườn heo, hủ tíu lòng heo, hủ tíu cá, hủ tíu cua, hủ tíu tôm, hủ tíu gà ta, hủ tít gà ác, hủ tíu bò kho, hủ tíu bò viên, hủ tíu bò tái, hủ túi bò sa tế, hủ tíu nai sa tế, hủ tíu vịt quay, hủ tíu nấm, hủ tíu măng, hủ tíu chay. Nói chung, mỗi kiểu đều chia 2 dòng là khô và nước, do đó nhân đôi lên vị chi món hủ tíu đã có sơ sơ 50 kiểu. Tùy nơi, tùy lúc mà các kiểu được linh động tổ hợp thành "model" mới như hủ tíu mì-nui-hoành thánh, hủ tíu cá-tôm-cua, hủ tíu nấm-măng, hủ tíu thập cẩmhủ tíu chuột, hủ tíu dơi, hủ tíu rắn, hủ tíu rùa. Thời gian qua, bên cạnh mì ăn liền nhiều loại hủ tíu ăn liền còn xuất hiện nhan nhản trên thị trường, âu cũng góp phần làm phong phú thêm bảng thực đơn "chuyên đề" hủ tíu . v.v. Ấy là tôi chưa liệt kê đôi kiểu "độc chiêu" thỉnh thoảng bắt gặp ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như
Nói theo lý luận bếp núc Âu Mỹ, thì hủ tíu nằm trong hệ thống mỹ vị Pháp (gastronomie) vô cùng phong phú vì nó mang tính cách mở, linh hoạt, phóng khoáng, dễ hội nhập và thích ứng. Như vậy, tô hủ tíu phản ánh phần nào tính cách lẫn bản sắc của người dân Nam Bộ.
A Cánh - một chủ tiệm hủ tíu người Việt gốc Hoa ở quận Gò Vấp, TP ************ - tiết lộ: Gia đình ngộ (tôi) ít nhất đã ba đời sống bằng nghề này. Cũng như bún bò và phở, muốn nấu hủ tíu ngon thì phải đặc biệt chú ý tới nồi nước lèo. Hủ tíu khô hay uớt gì cũng cần nước lèo, chỉ khác là hủ tíu khô phải dọn nước lèo riêng thôi. Nồi nước lèo ngọt thơm nhờ hầm xíu quách (trư cốt: xương heo), củ cải, tôm khô và khô mực nướng. Ngộ còn thả thêm miếng xí pố (khô cá) nướng thiệt thơm. Bán hủ tíu mì, các quán chuyên nghiệp thường tự sản xuất sợi mì cho đúng ý, đồng thời chế biến xíu mại cùng tài páo (bánh bao) luôn. Dọn tô hủ tíu cũng phải lưu tâm kỹ các thứ gia vị cần thiết như zìm (muối), tsu (dấm), chương dẩu (xì dầu/nước tương), càng không thể quên tăng xại (đông thái).
Đông thái là cải bắc thảo thái mỏng và muối khô, một loại "phụ tùng" độc đáo thường thấy các tiệm hủ tíu đựng trong thạp gốm tráng men màu da lươn. Sau khi bỏ bánh sợi và mì sợi vào vợt kim loại nhúng xuống thùng nước sôi rồi trút vô tô, đầu bếp nhón một ít đông thái, thêm tóp mỡ, giá trụng thả vô tô nốt. Tiếp theo là đặt xá xíu thịt băm, miếng gan heo, quả trứng cút; kế đó rắc lá hẹ (chứ không phải hành lá) xắt nhỏ, rồi múc nước lèo chan vô tô. Cuối cùng, bứt ngọn xà lách xanh muốt làm đôi, bỏ trên mặt tô và dọn mời. Thực khách tùy gu mà thêm dấm, ớt, tiêu, xì dầu, đoạn trộn đảo và xưởng xích (thưởng thức) nóng sốt. Khi dùng, có người gọi thêm chén xíu mại, có người xơi kèm chiếc bánh quẩy (giò cháo quẩy).
Ấy là món hủ tíu mì quen thuộc. Thay mì bằng nui, bằng hoành thánh (vằn thắn), thành hủ tíu nui hay hủ tíu hoành thánh. Tô hủ tíu sườn thì lổn nhổn mấy miếng sườn heo non nấu hồng nhự (chao đỏ) với hương vị rất đặc trưng. Hủ tíu bò kho, bò viền, bò tái, bò sa tế hoặc hủ tíu gà cũng khác xa phở bò, phở gà. Hủ tíu bò sa tế nổi tiếng trên địa bàn TP ************ có ba quán cùng lấy hiệu Tô Ký do ba anh em ruột làm chủ, hai quán thuộc quận 6, một quán thuộc quận 5. Riêng hủ tíu gà, ở TP ************ có mấy tiệm "chuyên trị" món này tọa lạc trên đường Nguyễn Trãi. Nồi nước lèo dành cho hủ tíu gà phải hầm toàn xương gà với củ cải, thảo quả, mục quả (đu đủ) cùng gia vị, sao cho nước ngọt thanh và trong veo. Thịt gà xé đặt lùm lùm miệng tô, cùng mề, gan, tim, cật gà đã được xử lý bằng bí quyết riêng, ăn sao thấy lạ miệng và ngon đáo ngon để. Các loại hủ tíu thủy hải sản (cá, tôm, mực, cua,v.v.) giá cả thường đắt nhất, có tiệm tính tới 25.000 đồng/tô, song chẳng phải chỗ nào cũng nấu đạt chất lượng.
Ba bảy là gì ?
Nhiều người "nghiện" hủ tiếu cho biết: Muốn ăn hủ tíu tôm thì ghé ngã năm Bình Hòa ở quận Bình Thạnh. Hủ tíu cá, phải lên Chợ Lớn. Hủ tíu cua, về Gò Vấp. Nhưng mấy món hủ tíu thủy hải sản, chưa đâu nấu cừ khôi bằng quán chú Xồi ở miệt Lái Thiêu (Bình Dương).
Chú Xồi hoặc chú Chệc chỉ là tên gọi chung đàn ông Hoa kiều. Thực tế, tại nhiều thị tứ phía nam, đa số quán tiệm hủ tíu đắt khách thường do bà con người Việt gốc Hoa đứng bếp. Phần lớn các tiệm này cũng là "mì gia" treo biển hiệu song ngữ Việt - Hoa mà thoạt trông dễ nhận biết (và cũng dễ bị giả mạo) là hiệu danh chứa hậu tố Ký như Diệu Ký, Lưu Ký, Tuyền Ký, Hưng Ký, Hồng Ký, Tô Ký, Quang Ký, Oai Ký, Phánh Ký, Zìn Ký. Gia vị dùng cho hủ tíu cũng đậm đặc chất Tàu: nào đông thái, nào dấm đỏ, nào hắc xì dầu, v.v. Vậy mức độ Việt hóa món ăn này thể hiện ở điểm nào ? Sous Chef phân tích nghe khá hợp lý: Hủ tíu là món gốc Hoa, nhưng đã Khmer hóa và nhất là Việt hóa để thích nghi thủy thổ, cơ địa. Rõ rệt nhất là tô hủ tíu Mỹ Tho. Anh biết rằng tập quán ngươi Hoa là dùng dấm, xì dầu và hầu như chẳng bao giờ ăn rau sống. Hủ tíu Mỹ Tho thì dùng chanh, giá sống cùng lắm loại rau mùi, và độ mặn nhạt được nhấn nhá bằng thứ gia vị chính cống Việt Nam: nước mắm.
Tôi đã về thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) để lai rai khảo nếm món hủ tíu lừng danh nơi dãy quán quanh khu vực cầu quay. Ba Châu - chủ tiệm hủ tíu đắt khách trên đường Trưng Trắc - cho biết: Một trong những yếu tố tạo nên nét riêng của hủ tíu Mỹ Tho là bánh sợi. Sợi bánh được làm từ gạo Gò Cát dẻo thơm, loại gạo mà không phải đất nào cũng trồng được. Hiện cả tỉnh Tiền Giang có hai lò sản xuất bánh hủ tíu số zách: lò Bảy Hưng ở ngay Mỹ Tho, và lò Tám Thảo dưới Gò Công. Còn bí quyết nấu hủ tíu ngon hả? Phải xử lý nguyên vật liệu và gia vị sao để nước lèo, thịt thà, rau củ thiệt là vừa miệng. Khoản này thuộc loại gia truyền, khó chỉ bày chi tiết cụ thể lắm à !
Bên cạnh hủ tíu Mỹ Tho, đất phương nam còn nổi tiếng hủ tíu Sa Đéc. Khách sành điệu ở Sài Gòn vẫn còn nhắc quán hủ tíu chính hiệu Sa Đéc do một ngôi sao sân khấu mở tại góc đường Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương vào khoảng năm 1973: bà Năm Sa Đéc, người bạn đời của nhà sưu tầm cổ ngoạn Vương Hồng Sển. Bây giờ, hai ông bà đã quy tiên, quán xưa cũng thay tên, đổi chủ. Thèm tô hủ tíu thơm mùi gạo Tân Khánh, hiện chỉ còn cách lặn lội về tỉnh Đồng Tháp, vượt sông Tiền, ghé thị xã Sa Đéc mà lùng sục. Há lẽ ăn tô hủ tíu, chạy ba quãng đồng ?
Đặt vấn đề bếp núc vùng (cuisine réogionale) học giả J. F. Flandrin yêu cầu tiếp cận các món ăn đặc biệt ở mỗi khu vực địa lý nhằm phát hiện "mô hình cấu trúc của hệ thống thực tiễn và khẩu vị ẩm thực của một vùng có gì khác so với các vùng lân cận". Áp dụng phương pháp chọn mẫu, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra ba món phổ biến đại diện cho ba phong cách bếp núc vùng của nước ta: miền bắc có phở Hà Nội, miền trung có bún bò giò heo Huế, miền nam có hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Sa Đéc. Nhìn từ góc độ nào đấy, tô hủ tíu miền nam không chỉ là món đặc sản. Luận theo giáo sư Trần Quốc Vượng, tô hủ tíu còn là hiện vật sống động biểu hiện cả quá trình "đan xen, hỗn dung, tiếp biến, giao thoa, tương tác của văn hóa Việt Nam nói chung, của nghệ thuật ẩm thực Việt Nam nói riêng".
Hủ tíu kia cũng có ba bảy đường chế biến, soạn bày, thưởng thức và nhận định. "Ba bảy" đây chẳng phải "3 hay 7", cũng chẳng phải "từ 3 đến 7", mà là "37" (băm bảy) hoặc nhiều hơn...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Jan/2010 lúc 12:19pm
Lăng Hoàng Gia: Quần thể kiến trúc độc đáo ở Gò Công
Lăng Hoàng Gia là nơi yên nghỉ của những người quá cố thuộc dòng họ Phạm Đăng – một dòng họ nổi tiếng ở Nam Bộ vào thế kỷ 18, 19. Khu lăng này tọa lạc trên gò Sơn Quy (nay thuộc ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang) cách TP. Mỹ Tho khoảng 30km.
Gò Sơn Quy là một giồng khá cao có hình dáng như một con Rùa nằm, khi đến Gò Công Phạm Đăng Dinh đã chọn đất này để sống và các đời kế tiếp của dòng họ Phạm cũng sinh sống tại nơi đây, đã có 13 người qua đời được xây lăng mộ tại đây trong khoảng thời gian 1811 đến đầu thế kỷ 20.
Đặc biệt, trong những lăng mộ đó là của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng (ông ngọai của Vua Tự Đức) là một kiến trúc tâm điểm, độc đáo trong quần thể lăng mộ này. Phần mộ được xây dựng từ năm 1825, hình bát giác mang dáng dấp của một chiếc nón quan trong triều, khác với những mộ ở Nam Bộ.
Trước mộ có bốn trụ thấp cách điệu giữa búp sen va chiếc nón, ngoài ra bình phong được xây khá cầu kỳ, đường nét uyển chuyển làm cho ngôi mộ trở nên cổ kính và uy nghiêm.
Theo sử liệu, dòng họ Phạm có nguồn gốc như sau: cuối thế kỷ 17, tiến sĩ Phạm Đăng Khoa từ đất Thăng Long tránh loạn Trịnh Tùng theo Chúa Nguyễn từ Ái Tử (Quảng Trị) vào Phú Xuân (Huế), có vợ là Nguyễn Thị Dương rồi sinh được 3 con trai, sau đó ông mất tại Phú Xuân, thọ 91 tuổi. Con Phạm Đăng Khoa là Phạm Đăng Tiên, con trai của Phạm Đăng Tiên là Phạm Đăng Dinh, con trai thứ của Phạm Đăng Dinh là Phạm Đăng Long, con trai thứ của Phạm Đăng Long là Phạm Đăng Hưng. Phạm Đăng Hưng có vợ là Phạm Thị Dụ sinh được 2 người con trai và 1 người con gái là Phạm Thị Hàng, sau trở thành Chương Hoàng Hậu là vợ của Vua Thiệu Trị, mẹ của Vua Tự Đức, đây còn là một hiền phụ nổi tiếng Việt Nam thời đó. Hầu hết, những người con của họ Phạm đều là những nhà nho học và giữ chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn.
Quang cảnh bên trong Lăng Hoàng Gia. Ảnh: Internet
Trong hợp thể kiến trúc tại Lăng Hoàng Gia còn có một kiến trúc quan trọng nữa là ngôi từ đường của dòng họ Phạm Đăng. Ngôi từ đường này được xây dựng năm 1826 gồm: một nhà thờ, nhà khách, nhà kho cùng các công trình phụ đều được làm bằng gỗ quý và trang trí đẹp.
Có thể nói đây là một quần thể kiến trúc xưa và lạ, bởi đây là nơi yên nghỉ của dòng họ làm quan nhiều đời và là họ ngoại của các ông vua Nguyễn. Du khách đến đây có thể tìm thấy được những di tích của một giai đoạn lịch sử đã qua ẩn hiện đâu đó trong từng phần của khu lăng mộ.
PV
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Jan/2010 lúc 6:22am
Lăng Trương Công Định
Lăng Trương Công Định Khu di tích Trương Định gồm lăng và đền Trương Định tọa lạc trong nội ô thị xã Gò Công. Lăng là phần mộ Trương Công Định, vị anh hùng của Việt Nam Ông sinh năm 1820 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông là Trương Tầm giữ chức Lãnh binh Gia Định. Từ nhỏ Trương Định đã thông hiểu binh thư, võ nghệ. Thời Thiệu Trị, ông theo cha vào Nam, ông lấy vợ người Tân An, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang) rồi ở luôn quê vợ.
Ông là người đi đầu trong việc một dân nghèo khai hoang lập ấp ở huyện Tân Hòa (nay là thị xã Gò Công), được triều đình bổ chức Quản Cơ. Năm 1860 ông giữ đồn Kỳ Hòa (Gia Định), sau khi thất thủ, và chủ tướng là ông Nguyễn Tri Phương lui binh về Biên Hòa.
Ông đã anh dũng chống Pháp ở rừng chồi Hòa Hưng, được triều đình Huế thăng lên Lãnh binh, ông rút binh về Gò Công, tiếp tục kháng chiến, phục kích và thắng binh Pháp ở Rạch Lá, triều Huế, khắc ấn phong ông chức Bình Tây Đại nguyên soái, ông đánh úp quân Pháp chiếm lại được Gò Công (tháng 03.1862), nhưng Pháp làm áp lực với Huế, triều đình một mặt giả tước chức ông để lấy lòng Pháp và phái Phan Thanh Giản khuyên ông hạ khí giới, nhưng ông chỉ giữ một lòng trung, ngày 26.02.1863, Pháp rút lui từ Thượng Hải về bao vây Gò Công, ông cảm tử đánh xáp lá cà, mở huyệt lộ rút về chiến khu mới giáp ở Cái Bè, Tân An, Hóc Môn, Bà Điểm, cuối cùng ông kéo binh về Lý Nhơn (nay là một xã thuộc huyện Cần Giờ, TP.HCM), trong "Đám Lá Tối Trời", thắng Pháp một trận vẻ vang, lập một chiến khu khác tại Gò Công chạy dài từ Bình Xuân đến Bình Thành và Kiểng Phước.
Nhưng ngày 19.08.1864, ông định kéo quân từ Bình Xuân để về Gia Thuận, ông bị tên bộ hạ phản trắc Huỳnh Công Tấn bắn gãy xương sống tử trận.
Nhân dân thương tiếc chôn ông tại thị xã Gò Công. Mộ ông được xây bằng đá ong với hồ ô dước, trên diện tích 67m2.
Lăng Trương Định là di tích lịch sử là kiến trúc dạng mộ táng tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Đền thờ: xây dựng theo kiến trúc Đông phương vừa cổ kính, vừa tân thời với các án thờ, khuôn biển chạm trổ sơn son thiếp vàng.
Ngày 18.07 (Âl) năm 1973, lễ khánh thành Đền thờ anh hùng dân tộc Trương Định diễn ra rất trọng thể và trang nghiêm.
Để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Trương Định, hàng năm vào ngày 19, 20 tháng 8 dương lịch, Thị xã Gò Công tổ chức trọng thể lễ hội tưởng niệm với các nghi lễ chính: Lễ rước linh (Thỉnh ông); Lễ Tiên thường và Chánh tế; Lễ Dâng hương của chính quyền địa phương cùng các hoạt động văn hóa với mục đích hướng về cội nguồn tưởng nhớ công đức tiền nhân
( Sưu tầm )
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Feb/2010 lúc 12:16am
Hội xuân Canh Dần khai mạc đêm 26-01-2010, tại sân vận động huyện Gò Công Tây. Hội xuân năm nay diễn ra trong tuần lễ giao lưu văn hóa Lễ hội Kỳ yên trưng bày, triển lãm những thành tựu nổi bật của huyện về phát triển kinh tế - văn hóa xã hội - an ninh quốc phòng và công tác vận động quần chúng; những hình ảnh, mô hình, hiện vật, sản phẩm hàng hóa thuộc các khối: Nông nghiệp, Công thương, Văn hóa thông tin và Thể thao, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, An ninh Quốc phòng, Dân vận, Mặt trận.
Nhiều loại cây kiểng, hòn non bộ của các nghệ nhân trong và huyện cũng được trưng bày do Hội Sinh vật cảnh huyện phụ trách. Nhiều đoàn nghệ thuật, vui chơi giải trí phục vụ khách du xuân thưởng lãm. Đặc biệt, nhiều cuộc hội thi diễn ra như hội thi Kiến thức nhà nông, Tìm hiểu Luật giao thông, Chưng nghi ngũ quả, Cắm hoa, Ẩm thực, Tìm hiểu Luật Thuế... Nhiều gian hàng khuyến mại tiêu dùng hàng Việt Nam. Hội xuân kéo dài đến ngày 01-02-2010.
Tin, ảnh: Kiều Tước Ngu (Theo tiengiang.gov.vn)
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 01/Feb/2010 lúc 12:19am
Gò Công Tây tưng bừng Lễ hội Kỳ yên
(Cập nhật: 31.01.2010 22:44)
Hàng năm, cứ vào độ vầng trăng tháng cuối tròn dần là xóm làng Gò Công Tây rộn ràng trong Lễ hội Kỳ yên. Trẻ em xúng xính trong bộ quần áo mới; người lớn tươm tất y phục chỉnh tề, hồ hởi nhanh bước tề tựu trước đình làng trong ngày lễ hội.
Vùng đất này, thế kỷ XVII đã có người Việt từ các tỉnh miền ngoài đến sống rải rác trên giồng cát. Ðây là một trong ba nơi của xứ Gò Công có người Việt đến sớm (ngoài giồng Sơn Quy thuộc thị xã Gò Công và vùng Ðồng Sơn ngày nay).
Người Việt đến khai hoang vùng này ngày một đông. Ðáng kể nhất là khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, có ông Trần Văn Huê cùng hơn 40 nam nữ đến lập nghiệp. Họ tích cực khai hoang những vùng đất cao. Ông Huê là người giỏi giang, biết hốt thuốc, sống đức độ, được dân trong vùng quý mến. Năm Mậu Thìn 1808 lập làng Vĩnh Lợi, lúc đó thuộc tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, trấn Ðịnh Tường, ông Huê đứng chân trong chính quyền làng, sửa sang ngôi miễu có từ trước thành đình làng Vĩnh Lợi. Bảy năm sau, vào năm Ất Hợi 1815, ông Huê lập chợ Vĩnh Lợi, dân trong vùng quen gọi là chợ Giồng. Khi ông Huê qua đời, giồng đất này được gọi là Giồng Ông Huê và chợ Vĩnh Lợi cũng được gọi là chợ Giồng Ông Huê.
Người Việt lần lượt di cư ngày một nhiều, có một số người tiếp nhận văn hóa Chàm, thờ chúa Ngọc hay gọi là thờ thánh Mẫu, vì cho rằng thánh Mẫu rất thiêng liêng. Năm 1885, họ xây dựng một ngôi miễu thờ Thánh Mẫu Thiên Y A NA khá lớn, hiện còn phía sau trường Măng non huyện. Cũng năm Ất Dậu 1885, trong làng xây dựng một trường học, được gọi là trường tổng, là một trong 6 trường của xứ Gò Công. Có chợ, trường, đình, miễu, khu vực này nhanh chóng trở nên sầm uất, đình đám, hội hè cũng rôm rả hơn nơi khác. Hàng năm, từ 14 đến 16 tháng chạp, dân làng hân hoan vào lễ hội Kỳ Yên (tức lễ hội Cầu An). Do quan niệm Thánh Mẫu rất thiêng, nên mỗi lần cúng đình phải làm lễ viếng Bà tại miễu, đưa linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế Bà rất long trọng, rồi mới đưa linh vị thần trở về đình an vị. Dân làng đưa lễ vật: xôi, thịt, trà, rượu, bánh, trái, thậm chí cả heo quay đến cúng đình. Các trò chơi dân gian kéo dài suốt 3 ngày, như đẩy cây, nhảy bao bố, bịt mắt đập nồi, bắt vịt trên sông, ngâm thơ, múa lân, ra câu hò, câu đối ... Tại đình, đội múa lân, múa rồng liên tục trổ tài rất vui nhộn. Các đêm có diễn tuồng hát bội. Suốt mấy ngày đêm dân làng lũ lượt đi ra đình làng cúng bái, chiêm ngưỡng.
Năm Giáp Thìn 1904, vùng Gò Công tan tác bởi cơn bão lớn, và sau là trận đại dịch. Người chết quá nhiều. Nỗi kinh hoàng còn ám ảnh đến nhiều năm sau. Dân làng lập "Ðàn tràng" để cầu an; dựng bài vị Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo để xua đuổi âm binh, cô hồn quấy phá. Do thờ vua nên hàng năm vào lễ Kỳ Yên, đình phải tổ chức múa rồng cho hợp với tước vị của vua. Ðây là nét đặc biệt của đình Vĩnh Bình mà nhiều đình khác không có.
Năm 1995, cùng với sự quyên góp của dân làng, những nhà hảo tâm, chính quyền địa phương cho xây dựng một ngôi đình mới, tọa lạc tại ấp Đông, lấy mẫu đền thờ Trương Ðịnh, bổ sung một số chi tiết cho thêm phần cổ kính.
Trong những ngày này, đường phố thị trấn Vĩnh Bình nhộn nhịp hẳn lên. Nhà nhà đều dọn dẹp tươm tất, chưng mâm ngũ quả trước cửa nhà để đón rước "sắc thần". Từ xế chiều ngày 14 tháng chạp (âm lịch), đội lân rồng của đình đón "Bàn các ấp" của thị trấn - một nghi thức có từ lâu của đình để cung thỉnh những vị đang được thờ tại các miễu và thỉnh vong linh các bậc tiền bối có công với địa phương. Trên bàn là các phẩm vật về nông nghiệp cùng với bàn tay khéo léo của các nghệ nhân làm nên những hình tượng tứ linh trông rất sinh động để cúng tạ thành hoàng. Sau đó là lễ đưa linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế rồi lại đưa linh vị thần trở về đình. Ngày 15 tháng chạp diễn ra các lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, vong linh liệt sĩ, cho đến nửa đêm thì cúng tế thần. Suốt ngày 16 tháng chạp, dân làng đến dâng lễ vật (thịt, xôi, bánh, trái) cùng khách thập phương đến cúng tế và chiêm ngưỡng những ngày lễ hội tưng bừng. Màn đêm dần buông, ánh trăng mười sáu dần ló dạng là lúc đội rồng đi quanh chợ, chúc sự phát đạt, an khang thịnh vượng cho mọi người, mọi nhà. Nửa đêm, lễ tống gió được tiến hành. Những con tàu bằng giấy kiếng, trang trí cầu kỳ, thắp những cây đèn cầy, thả trôi sông cùng các nghi lễ tống gió độc, những điều xui xẻo ra biển, kết thúc 3 ngày đêm náo nhiệt tưng bừng của những ngày lễ hội.
Để tạo thêm không khí vui tươi nhân dịp đón Xuân về và chuẩn bị đón Tết Nguyên đán, huyện Gò Công Tây tổ chức hội xuân từ ngày 12 đến ngày 18 tháng chạp (âm lịch). Tại đây diễn ra các trò chơi giải trí, các cuộc thi múa mâm vàng, hội diễn múa lân, các hội thi kiến thức nhà nông, tìm hiểu chính sách thuế, Luật Giao thông; giới thiệu, trưng bày những kiệt tác hoa kiểng cổ, bonsai, hòn non bộ do Hội Sinh vật cảnh đảm trách; những sản phẩm hàng hóa, triển lãm thành tựu kinh tế - văn hóa -xã hội của địa phương. Các đêm hội xuân đều có biểu diễn nghệ thuật: xiếc hoặc mô tô bay, ca nhạc với một số danh ca, danh hài thu hút rất đông khách du xuân trong và ngoài vùng đến thưởng lãm.
Lễ hội Kỳ yên ở Gò Công Tây mang đậm nét văn hóa của vùng đất nông nghiệp, là dịp để người dân vui mừng sau một năm đã qua yên ổn, thuận hòa, cầu phúc cho một năm mới bình an, mùa màng bội thu...
Kiều Tước Nguyên (Theo tiengiang.gov.vn)
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 01/Feb/2010 lúc 12:56am
Đây là hình chụp lễ hội Kỳ Yên năm ngoái tại Gò Công Tây
------------- Lộ Công Mười Lăm
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Feb/2010 lúc 7:51am
http://www.quehuonggocong.com/home/gocong/?gocong/tg.do?catgc=ylt;_news&iNews=_12373722.gocong&f=6413:thixagocong - Đặc sản xứ Gò
Cá cơm - món ăn bình dân
Trong các buổi tiệc, giỗ ở miền quê Gò Công (Tiền Giang), ngoài những thức ăn thịt, cá ê hề, chủ nhà thường dọn kèm mỗi bàn vài ba thố mắm cá cơm chua cùng bún, rau sống. Giản dị như vậy, nhưng món mắm chua luôn lôi cuốn khách bằng hương vị đậm đà, dân dã…
Vào những tháng mưa nhiều, cá cơm đẻ rộ, sản lượng đánh bắt nhiều vô kể. Ngư dân làm mắm dùng trong gia đình khá đơn giản: ướp từng lớp cá với muối theo tỷ lệ vừa phải, đựng trong khạp gọi là mắm sống, để dành ăn lâu dài. Nổi tiếng cả nước là nước mắm cá cơm Nam Ô. Nam Ô là một làng nhỏ ngay trên quốc lộ 1, thuộc thành phố Đà Nẵng. Vào tháng 3, ngư dân tập trung đánh bắt loại cá cơm than, trộn với muối Cà Ná hạt to cho vào chum, vại gài đậy kín. Khoảng 6 tháng sau trộn cá muối lại và khi trên mặt chum xuất hiện lớp men màu trắng thì lấy vải mịn để lọc. Nước mắm Nam Ô có màu cánh gián, độ đạm cao, thơm ngon đặc biệt.
Một món ăn ngon được chế biến công phu từ cá cơm là… nem. Cắt đầu và phần bụng cá, bỏ ruột, rửa sạch, ngâm nước muối cho cá nhũn ra, gỡ bỏ xương, ngâm lại với nước dừa cho thấm chất ngọt. Vớt để ráo nước, gói cá vào vải mùng vắt khô, quết nhuyễn với tỏi nướng, cá sẽ dai và thơm. Trung bình 1 kg cá cần 50 g tỏi cùng với muối, đường, tiêu hột, bột màu thực phẩm, tỏi sống xắt lát mỏng, trộn đều với cá và gia vị rồi vo viên cỡ ngón tay cái, thoa ngoài bằng mỡ nước. Dùng vài lá chùm ruột gói viên cá, ngoài là lá vông, lá chuối, cột dây chữ thập thật chặt. Sau một tuần là ăn được. Nem cá cơm dễ tiêu, hàm lượng dinh dưỡng cao.
Món mắm cá cơm chua ăn cùng bún, rau sống thường lôi cuốn khách trong các bữa tiệc.Cách chế biến cũng không khó. Cá cơm cắt đầu, bỏ ruột, chà bằng rổ tre cho sạch vảy. Để ráo nước, rải phơi nắng vừa độ dai và trong. Đâm nhuyễn tỏi, ớt vừa khẩu vị trộn đều với cá, sắp khéo vào hũ thủy tinh, nấu nước mắm ngon cùng đường cát trắng cho sôi, để nguội đổ ngập cá. Mía chặt lóng chẻ tư gài ép cá không cho nổi, đậy kín. Bình quân 2 kg cá cơm khi thành phẩm còn độ 1 kg mắm. Để từ 10 đến 15 ngày, mắm có mùi thơm là dùng được. Khi ăn, xắt khóm miếng nhỏ, rim đường cát cho dẻo, đu đủ xanh bào sợi bóp muối, vắt khô sẽ giòn và không làm nát cá. Trộn các thứ với mắm, thêm chanh, ớt tuỳ thích. Nếu trộn để hai ngày sau mắm sẽ chua và thơm ngon hơn. Ăn kèm thịt phay luộc, bún, khế, chuối hột non, dưa leo và các loại rau thơm. Những vị này hoà lẫn nhau tạo cảm giác rất ngon miệng, trên hết vẫn là hương mắm cá cơm ngọt dịu, đằm thắm chất quê.
Tuy là món ăn bình dân dễ chế biến, nhưng mắm cá cơm chua rất được ưa chuộng và thường không thiếu vắng trong các buổi tiệc, giỗ của người Gò Công chính gốc./.
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Feb/2010 lúc 1:11am
TẾT QUÊ MÌNH
Hằng năm nhìn ngắm những chiếc lá trở màu vàng nâu cam đỏ rất nên thơ trong màn sương mờ trắng đục, tiết trời se lạnh, lò sưởi mở ra, đèn đuốc sáng hơn, người phương Tây biết rằng thu tàn đông đến, ngày ngắn dần đêm tối dài hơn, năm củ sẽ qua năm mới sắp tới. Tết Tây theo dương lịch tính theo mặt trời và luôn bắt đầu vào mùa Đông. Thấy tờ lịch cuối cùng tất niên, ngày tân niên Âu Mỹ bắt đầu, báo hiệu cho Tết ta sẽ đến không xa mấy. Người nước ngoài thường chỉ để ý đến Tết Trung quốc hơn, không phân biệt Tết của các nước Á châu khác trong đó có Việtnam, có lẽ vì phần đông người Tàu thuộc giới buôn bán nổi tiếng kinh tài truyền thống lâu đời có mặt khắp thế giới, nên việc tổ chức lễ hội rất có qui cũ, rầm rộ, phô trương phong tục tập quán, vui tươi, đẹp đẻ, độc đáo, lôi cuốn. Tây phương có câu ‘ Ở đâu có khói là có người Hoa ‘. Thêm vào đấy, điểm trội đặc biệt của họ vẫn là bằng mọi cách luôn bảo tồn nền văn hóa, truyền thống và nhất là ngôn ngữ. Sống ở nước ngoài, với óc thực tế, họ tích cực học tiếng ngoại để hội nhập tiến bộ, nhưng giao dịch trong cộng đồng Hoa vẫn là Hán tự. Người Trung hoa quả là thành phần có khả năng sinh tồn nhất thế giới. Thật ra, nước nào cũng mừng năm mới ‘tống cựu nghinh tân’, duy trì truyền thống. Ngày đầu năm khác nhau, nhưng thường dễ nhớ nhất là của hai nhóm, phe tính theo dương lịch lấy ngày 1 tháng 1, phe âm lịch ngày mồng một tháng giêng, điển hình là nước ta. Năm mới Âu Tây tính từ năm bắt đầu Công nguyên đến nay bao nhiêu năm được ghi bằng số, như 2010. Còn tên của năm ta thì do một cầm tinh, theo một chu kỳ 60 năm thì mới trở lại tên cũ, bằng cách ghép tên một trong Thập Can với một của Thập nhi Địa Chi. Mười Can đó, theo thứ tự, là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, Mười hai Chi là 12 con giáp Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Khởi hành là Giáp Tý, rồi kế tiếp là Ất Sửu cho hết chu kỳ 60 năm thì trở lại Giáp Tý…Năm http://200910.software.informer.com/ - 2009 là năm Kỷ Sửu chẳng hạn, năm 2010 là năm Canh Dần mà dân gian truyền khẩu về 12 con giáp :
Tuổi Tý con Chuột trong nhà, tha gạo, tha nếp, tha dồn xuống hang. Tuổi Sửu con Trâu kềnh càng, cày chưa hết buổi đã mang cày về. Tuổi Dần con Cọp dữ ghê, bắt người ăn thịt đem về non cao. Tuổi Mẹo là con Mèo ngao, hay quấu hay quào ăn vụng thành tinh. Tuổi Thìn ông Rồng ở trên thiên đình, hô phong hoán vũ ỷ mình trên mây. Tuổi Tỵ con Rắn ở với cỏ cây, nằm khoanh trong bọng không hay điều gì. Tuổi Ngọ con ngựa ô đen xì, ỷ mình sức mạnh kể gì đường xa. Tuổi Mùi là con Dê chà,có sừng, có gạc râu ria um tùm. Tuổi Thân con Khỉ ở lùm, chuyền qua chuyền lại té ùm xuống sông. Tuổi Dậu là con Gà vàng, có mồng, có tít gáy ò ó o. Tuổi Tuất là con Chó cò, nằm khoanh trong lò lỗ mũi lọ lem. Tuổi Hợi là con Heo ăn hèm, ăn no rồi ngủ chẳng thèm lo chi. Âm lịch tính theo mặt trăng, nên luôn luôn những ngày đầu và cuối không có bóng chị Hằng và trăng tròn ngày thứ 15 giữa tháng ta gọi là ngày rằm, tháng 1 gọi là tháng giêng và tháng 12 là tháng chạp. Vì dựa trên dương lịch nên ta nhận thấy ngày mồng một Tết ta hằng năm thay đổi không trùng ngày năm cũ trên lịch Âu Mỹ, khi lúc ở tháng giêng lúc hay tháng hai. Để mừng năm mới thì ở khâu chuẩn bị nói chung nước nào cũng thế, tùy theo khí hậu phong tục riêng, người người nhà nhà già trẻ gái trai đều nghĩ về đến Tết với một hy vọng thầm kín nào đó, năm tới hơn năm qua. Cũng lịch đủ loại, báo Xuân kèm Tử vi, bói toán, tiên đoán vận mệnh thế giới, trong nước, hiện tượng lành dữ đặc biệt trong năm. Thiệp chúc Xuân, quà Tết đủ loại từ đồ chơi đến thực phẩm, tâm lý của mọi người là hướng về tương lai sung túc may mắn hơn. Chẳng hạn ở các nước Âu Mỹ, nhà nào cũng có một cây thông thật hoặc nhân tạo trang hoàng thật đẹp tùy theo túi tiền của chủ nhân để đón chào Noel Đêm Chúa sinh ra đời 24 rạng ngày 25 tháng 12. Theo truyền thống các nước theo dương lịch, có nước như Mỹ chọn mua trước một cây thông to cao đẹp trang trí thật lộng lẫy để được trồng trước Tòa Bạch Ốc, hoặc như Bỉ ở công trường chánh thủ đô Bruxelles http://place.software.informer.com/ - Place Royale hay Palais http://royal1.software.informer.com/ - Royal trước Tết, hay trước đền Thánh Phê rô ở http://vatican.software.informer.com/ - Vatican Rome. Ra đường đâu đâu cũng được chỉnh trang mang bộ mặt mới, mặt tiền nhà cửa, phố phường đường sá. Con người mà, ai cũng muốn tỏ vẻ ‘sạch mặt sạch mày’ để quên đi phiền muộn đã qua và mạnh dạn bắt đầu tiếp tục hành trình sắp tới. Cuối năm là tổng kết, đầu năm là bắt đầu cuộc sống trên mọi mặt tâm linh thể xác để tiến lên như sự tuần hoàn vũ trụ thiên nhiên. Nhìn các em bé hân hoan, lưỡng lự trước những hàng Tết mỗi năm mỗi cải tiến theo thị hiếu nhu cầu càng ngày càng đòi hỏi cao của người tiêu thụ tràn ngập xa xí phẩm, sản xuất công nghiệp hàng loạt đâu phân biệt tốt xấu, độc hại khó lường, sao mà gợi nhớ đến Tết quê mình ngày chưa xa xứ, không có ông già Noel râu tóc bạc như tuyết hay như Sint Niklaas và Hắc Tiểu đồng Zwarte Piet ở Bỉ, phân phát quà cho các trẻ còn mơ mộng chuyện thần tiên. Thế ra, « đi một ngày đàng học một sàng khôn » là có thật, thế nhưng cái túi càn khôn nhân loại thật vô cùng. Ngay cả cái chu kỳ vận chuyển bốn mùa xuân hạ thu đông bình thản, vô tư quen thuộc không lạc nhịp bao giờ ấy thôi cũng cho ta thấy không có hiện tượng nào giống hiện tượng nào, luôn luôn biến thể, đố ai biết trước chính xác tận tường, Notradamus hay Trạng Trình, Khổng Minh Gia Cát Lượng ? Có ai tiên đoán đúng Bức tường Bá linh sụp đổ ngày 9-11-89 thống nhất hai miền Đông Tây Đức chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới, hay sự đắc cử của Tổng thống Mỹ, người da màu đầu tiên Barack Obama năm 2009 đâu. Phải công nhận Tết quê mình quả là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Khí hậu cũng đãi ngộ ngày Xuân thêm màu sắc âm thanh hương thơm nồng ấm vui tươi thân thiện. Thêm vào đấy nền văn hóa đa nguyên Á Âu điểm xuyết bằng tính siêu nhiên của nhiều tôn giáo khác nhau đã tô son thếp vàng nét độc đáo của phong tục truyền thống từ ngàn xưa mà dù phải trải qua bao thời kỳ lệ thưộc mất tự do ông cha ta luôn quyết giữ ‘ ôn cố tri tân ‘ ‘ cây có cội nước có nguồn ‘. Theo bước tiến của thế giới, các thế hệ tiếp nối nhau luôn cố gắng gìn giữ duy trì tập tục căn bản đặc thù văn minh dân tộc, đề cao tình yêu quê hương, bổn phận của mỗi công dân bảo tồn đất nước và đoàn kết để phát triển mọi mặt theo dòng chảy toàn cầu. Khác hẳn với người Trung hoa chẳng hạn, lễ tảo mộ vào Tiết Thanh minh tháng ba, còn dân ta đặc biệt là trước Tết. Ông cha ta đã phải gian nan từng bước, tả xung hữu đột, chiến đấu không ngừng với thiên tai nhân tai, giặc trong giặc ngoài mới có được giang sơn chữ S xinh đẹp còn giàu tài nguyên quí chưa khai thác, bao lơn nhìn xuyên qua biển Đông ra Thái Bình dương. Tổ tiên ta từ bao thế hệ nầy sang thế hệ khác là những nhà tiên phong khai phá vùng đất mới hoang rừng thiêng nước độc để định cư và truyền lại cho con cháu chẳng những cái di sản vật chất hữu thể mà đặc biệt hơn thấm nhuần những đức tính căn bản con người mà lòng tri ân là nòng cốt. Biết ơn chứng minh là có nguồn cội, giống dòng, văn hóa văn minh dân tộc, xã hội, gia đình, đồng hương. Hiện tại là giây liên lạc giữa hai cái vô cực, cực trừ không ai biết rõ lúc nào khai thiên lập địa, cực cộng ngày tận thế hay tương lai về đâu. Hiện tại quả là tương lai của quá khứ và trở thành quá khứ của tương lai. Ông cha ta rất khôn ngoan đánh động vào tính và tình người nhắc nhớ rằng dù cá nhân là độc nhất không ai giống ai, tự do nhưng không thể sống biệt lập, luôn luôn cần người khác. Do đó cần phải sống quây quần liên kết giúp đỡ nhau, đoàn kết là sinh khí sức mạnh để sống còn. Tri ân còn khơi dậy lại lịch sử dân tộc hầu rút tỉa kinh nghiệm, những bài học từ những trang sử khi thì oai hùng khi thì uất hận để dựng và giữ nước, gương sáng chói của các bậc anh hùng liệt nữ, những lời dặn dò của tiền nhân. Cụ Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt làm tù biệt viễn xứ sang tận bên Tàu đã bảo với con http://trai.software.informer.com/ - trai Nguyễn Trải khóc biệt tiễn cha ở cửa Ải Nam quan hãy quay về ‘ trả thù nhà đền nợ nước ‘.Vua Trần Nhân Tông trong lời di huấn của Ngài đã cảnh giác : ‘ Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo…Không thôn tính được ta, thì gặm nhấm ta….Vậy nên các ngươi phải nhớ lời ta dặn :’Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không đuợc để lọt vào tay kẻ khác.’ Ta để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu. ‘ Tri ân còn nhắc cho người đương thời bổn phận của mình, những người kế thừa hưởng thụ di sản thiêng liêng nầy tất cũng sẽ trở thành những công dân tiếp bước tiền nhân truyền gương cho các thế hệ sau. Tri ân thuộc tâm linh cần phải truyền đạt bằng hành động qua nhiều hình thức cụ thể đa dạng. Nếu chúng ta không duy trì tỏ lòng biết ơn ông cha ta ngày trước thì làm sao con cháu ta hiểu rõ được cội nguồn. Hơn thế nữa, với sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của xã hội, ánh sáng chói lòa các nền văn minh của bao nước lớn khác làm lung lay dễ dàng niềm tin vào lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết cần thiết sống còn, để rơi nhanh vào ảo ảnh muôn màu vọng ngoại, nếp sống cực kỳ xa hoa ích kỷ, nhất là hiện nay thế giới đang lâm vào thời kỳ khủng khoảng kinh tế thị trường. Một tập tục đẹp thể hiện lòng biết ơn là lễ Tảo mộ. Hầu như nước nào cũng có, như Âu châu ngày Lễ Các Thánh 1-11 hằng năm, Lễ Tạ ơn http://thanksgiving.software.informer.com/ - Thanksgiving ngày thứ năm cuối tháng 11 ở Mỹ và http://canada.software.informer.com/ - Canada thứ hai thứ nhì tháng 10. Phần mộ là bằng chứng cụ thể đánh dấu lai lịch thành phần xả hội của người thân quá cố để thế hệ sau kế thừa gìn giữ bảo tồn phát huy. Đây còn là nơi tập trung con cháu có dịp gặp gỡ tiếp nối vòng liên hệ dòng tộc càng ngày càng rộng lớn hơn. Cũng vì cái gì liên quan đến con người nên vì thế mà mồ mả cũng có cấp bậc như Kim tự Tháp ở Ai cập, Lăng Tần Thủy Hoàng và Binh Mã Dõng, Lăng tẩm như Lăng Gia long, Mệnh Mạng, Tự Đức ở Huế, Lăng Hoàng gia ở Gòcông, Ngôi mộ Chiến sĩ Vô Danh (Tombe du Soldat Inconnu) ở Pháp,… Nếu ở trần gian có những ngôi nhà từ đường, tổ đình, nhà thờ ông bà cho mỗi dòng họ thì phần mộ tượng trưng điểm hẹn đi về hằng năm của ông bà không ranh giới giữa thế giới hữu và vô hình, chẳng cần thẻ thông hành http://visa.software.informer.com/ - visa và hoàn toàn tự do mang theo, không sợ bị phạt vì quá ký lô qui định, đồ quốc cấm, tất cả quà biếu Tết, tiền bạc cả đô la Mỹ, nhà lầu, xe xịn, phi cơ,… hàng mã bằng giấy. Hơn thế nữa, do theo quan niệm hữu thần, chúng ta còn có lễ đưa rước trang trọng Táo quân, vị đại sứ thiêng liêng mỗi năm trước Tết ta, về chầu Thượng đế dâng sớ tấu trình gia sự của mỗi gia đình trần thế. Ông cha ta khôn ngoan đã biết liên kết quan niệm thờ cúng thần linh và người khất mặt khuất mày bên kia thế giới áp dụng vào việc thờ cúng tổ tiên một cách tự nhiên không gượng ép đầy nghĩa tình người. Khác hẳn với Âu Tây, Trung quốc, chúng ta chọn thời điểm cho lễ Tảo mộ theo tinh thần truyền thống và nghi lễ Việt nam. Bắt đầu sau ngày rằm tháng chạp, ngày tước lá mai để mai vàng nở rộ đươm hoa đúng ngày năm mới, khi mùa vụ đã xong thu lúa về nhà, lễ tảo mộ nhắc nhở con cháu thời kỳ nghỉ ngơi vui chơi giải trí bồi dưỡng sau một năm dài cực nhọc. Trước sự chuyển giao cũ mới của trời đất, ta nhận ra thời gian qua vĩnh viễn, hiện tại mới đó chưa bằng được cái tíc tắc đồng hồ mà cũng đã trở thành dĩ vãng ngay rồi. Cái chết của con người là kết thúc cuộc đời như đêm trừ tịch cuối năm trôi qua tự nhiên không cưỡng được nhưng cũng là điểm giao hòa và bắt đầu một năm mới, tương lai trang bị kinh nghiệm vật chất tâm linh của quá khứ đầy hứa hẹn hy vọng. Vậy thì chúng ta người đương thời đang sống thật cũng sẽ qua đi như tổ tiên ta, thế giới bên kia là cõi về tất nhiên của mọi con người không phân biệt chủng tộc, giai cấp, tuổi tác, và từ đó chúng ta phải biết bổn phận và nhiệm vụ của kẻ kế thừa của mình trong gia đình dân tộc. Điểm độc đáo ở đây là ông cha ta rất sâu sắc thâm trầm trong việc giáo dục truyền thụ tình yêu qua nội tâm bình thản và lòng biết ơn. Người qua đời vẫn ’sống khôn thác thiêng’ luôn luôn phò trợ cho con cháu và sự hiện diện như phảng phất qua khói trầm hương nghi ngút trước phần mộ trong ngày tảo mộ hay trên bàn thờ gia tiên trong ngày trọng đại cưới xin, ma chay giỗ Tết. Chỉ có thời gian trước Tết như mặc nhiên ấn định từ xưa, người ta mới được đến sửa sang lại ngôi mộ mà thôi, lau chùi quét dọn, nhổ cỏ, sơn phết, đấp đất cao lên mộ lài vì ngoài thời gian tảo mộ, việc trùng tu sửa chữa cần phải có sự đồng ý về hợp hay nghịch tuổi tác của tất cả các chi liên hệ mới được thực hiện. Việc duy trì lễ tảo mộ chẳng những là một tập tục đẹp mà đối với người Việt còn mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Đây là con đường hành hương về quá khứ cội nguồn, tìm lại niềm tin vào lòng yêu thương che chở của người tại thế và nhất là người khuất mày khuất mặt để rồi hy vọng được trang bị kinh nghiệm hơn hầu tiếp tục cuộc sống xứng đáng là con người. Đây cũng là cơ hội chứng tỏ lòng biết ơn qua cách chia sẻ chung hưởng, không phải chỉ với những người còn sống mà cả với người quá cố vì thân xác có thể bị tiêu hủy nhưng cái hồn thiêng không mất. Con cháu trong dịp nầy đến tận phần mộ trân trọng mời ông bà về vui chơi ăn Tết với gia đình, ‘báo cáo’ cho biết thực trạng cuộc sống, trình bày dự án mơ ước của mình năm tới. Ông bà được phục vụ như người thân xa nhà về thăm do con cháu hiếu thảo, không ai được làm phiền lòng khách quí nên trong những ngày Tết kiêng cử cải cọ rầy rà. Bà con từ nhiều đời xa nhà còn có dịp trở về quê đất tổ quây quần bên bàn thờ tổ tiên chứng giám con cháu vui ăn Tết. Một tình cảm sâu sắc thấm nhuần tình gia đình sẽ làm ấm lòng thệ trước sang thế hệ sau và nhận ra rằng tình yêu phải có hai chiều, từ tình yêu chân thành cội nguồn gia đình mới có thể yêu rộng lớn hơn xã hội tổ quốc và ngược lại nếu mất tình người, thế giới trần thế nầy sẽ trở thành http://robot.software.informer.com/ - robot vô cảm vô hồn, đáng thương. Nhìn nhà nhà ai ai cũng nghĩ như nhau về tảo mộ, gặp nhau trên đường về nghĩa trang hay bên phần mộ của người thân, nghĩa xóm làng như được xẻ chia hưởng ứng cùng ý hướng, tình đồng hương như được thăng hoa hơn vì câu ‘ nhất cận thân, nhì cận lân ‘ được bổ túc bằng ‘ bà con xa không bằng láng giềng gần ‘. Bài học còn đáng nêu ra thêm ở đây là không có gì là bất di bất dịch trên cõi hồng trần nầy, mất còn, kết thúc bắt đầu liên quan xoay vần nhau là chuyện không có gì phải quá lo nghĩ bận tâm. Như vậy sự chuyễn động bình thường đều đặn đó cho ta thấy có ‘ bôn ba cũng không qua thời vận ‘, hay ‘ Ton bras est invaincu mais non pas invincible ‘ Corneille - Le Cid (Cánh tay anh chưa bị thua nhưng không phải là không thể bị đánh bại được) chứng minh rằng không có chỗ sống cho kẻ độc tài vì là con người ‘ Nul ne peut se vanter de se p***er des hommes.’ Sully Prud’homme. (Không ai có thể khoe mình là bất cần mọi người.). Thật ra, Tết ở nơi nào phù hợp với phong tục tập quán, khí hậu của nơi đó, Tết quê mình thì quen thuộc hơn mang ý nghĩa riêng dấu vết lịch sử tâm linh của chính dân tộc mình. Càng được tiếp cận với thế giới phóng khoáng rộng mở văn minh, ưu điểm là biết chọn lọc điều hay tân tiến để sử dụng thích nghi với mình, tránh du nhập những phù phiếm hời hợt xa hoa xa vời thực tế lạ lùng không thích ứng đời sống vật chất và tinh thần dân tộc. Tết quả là thời gian thích hợp nhất để chúng ta rà kiểm điểm lại những thành quả trong năm qua, rút tỉa kinh nghiệm cần thiết làm bàn đạp tiến lên trên mọi bình diện cho năm mới. Tết với lễ tảo mộ chẳng hạn, cũng nhắc rõ chúng ta có nguồn cội đã được tổ tiên từ thế hệ nầy sang thế hệ khác bất khuất kiên cường dựng và giữ nước. Chúng ta hiện tại là chủ nhân gia sản vô giá nầy, phải ý thức bổn phận và nhiệm vụ kế thừa của mình chẳng những là cần bảo tồn và phát huy cái tinh thần quốc hồn quốc túy yêu nước nòi giống mà còn cả cái giang san gấm vóc nguyên vẹn từ Ải Nam quan đến Mũi Cà mau đã có trên bốn nghìn năm văn hiến cho thế hệ tương lai. Trần Thành Mỹ
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Feb/2010 lúc 4:45pm
Gò Công thương yêu
Bước ra ruộng, gió mênh mông,
Ai ru con ngủ bên sông bồi hồi...
"Ví dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Bậu ra bậu lấy ông câu,
Bắt con cá bóng chặt đầu kho tiêu.
Kho tiêu kho ớt kho hành,
Kho ba lượng thịt để dành em ăn.
Em ăn em uống rượu say,
Bỏ ruộng ai cày bỏ giống ai gieo."
Đường về Đèn Đỏ cheo neo,
Cây Bàng, Cầu Muống quê nghèo năm xưa
Tân Thành thương kẻ nắng mưa,
Chòi rơm, vách lá, võng đưa con buồn.
An Hòa, Xóm Thủ, Yên Luông,
Tân Tây, Kiểng Phước, dơi luồn bóng cây.
Trường Đua, ao nước có đầy?
Chiều lên Xóm Đạo nhớ ngày xa xăm.
Bến Chùa trưa ghé vào thăm,
Mãng cầu chín tới để rằm giỗ ông.
Ngoại còn đội chiếc khăn bông?
Nội còn đứng ngóng cau hồng trổ hoa?
Chẳng khóc sao mắt lệ nhòa?
Chẳng thương sao nhớ người ta, nhớ hoài?
Mai đi ngắt một đọt xoài,
Một trái chùm ruột, một ngòi sún nâu.
Thương ai cắn trái táo sâu,
Ba mươi năm có còn màu mắt trong?
Mai đi lòng chẳng hẹn lòng,
Nhưng sao cứ nhớ Gò Công, muốn về...
Sưu tầm
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Feb/2010 lúc 5:56pm
ĐẶC SẢN XỨ GÒ
NHAM GÒ CÔNG
Nham Gò Công còn là một món gỏi mà đa số quý ông thích ăn nhậu những món dân dã đều cho là rất " bắt mồi" nhất là khi họ sử dụng luôn cả phần mô phổi cua cắt nhỏ khiến cho món ăn nồng hăng hơn. Nhìn quý ông nhấm nháp miếng nham rồi đưa cay bằng rượu trắng Gò Đen nặng gắt mùi, chép miệng khen ngon thì chắc là họ có cái lý riêng của họ. Và chính mùi vị đặc trưng của món nham Gò Công như thế cho nên bạn Phuong Nguyen tìm món nham Gò Công trong tất cả những hàng đặc sản miền tây ở TP.HCM mà không thấy là điều dĩ nhiên. Nhưng nếu bạn gọi món gỏi cua thì họ sẽ dọn ra một món gỏi có hình thức và cách chế biến giống hoàn toàn món nham Gò Công. Có khác chăng là họ dùng cua biển hoặc cua nước ngọt thuần túy chứ không phải là loại cua nước lợ Gò Công và món gỏi cua này nhiều người lại cho là rất dễ ăn vì không có cái mùi... Gò Công đó.
Vào năm 1996, công ty Saigon Tourist (TP.HCM) đã tổ chức một hội diễn món ăn dân tộc VN và trong hội thi này món nham Gò Công của đầu bếp Vũ Đình Tuân (khách sạn Đồng Khánh) đã lên ngôi đầu bảng đoạt huy chương vàng. Sau hội thi, vài tờ báo đã đặt vấn đề tại sao lại trao huy chương vàng cho món ăn địa phương này mà không là món ăn địa phương khác, những món ăn dân tộc khác (nói chung) đã tồn tại hàng trăm năm qua thì không có giá trị gì sao? Đây là vấn đề ẩm thực, ai biết món nham đó là đúng món nham Gò Công? Ban giám khảo đủ uy tín để đại diện cho dân tộc của cả ba miền đất nước không? Mọi chuyện ầm ỉ rồi cũng qua đi, chuyện ăn uống mà, có gì mà ghê gớm vậy và người ta tuyên bố rằng huy chương vàng là để trao riêng cho cá nhân vị đầu bếp đó đã có tinh thần truyền bá một món ăn địa phương ít người biết, không phổ thông lắm... đó mới là trọng điểm của cuộc thi, chứ nham Gò Công đâu dám qua mặt những món bún bò Huế, bún thang Bắc, mì Quảng... đại khái như vậy. Nếu bây giờ vì tò mò, ai thích thử món nham Gò Công thì cứ vào nhà hàng Đồng Khánh Sài Gòn gọi một phần xem thử nó ra làm sao. Và nếu bạn chưa lần nào ăn món nham Gò Công, ngay tại Gò Công, làm bằng cua nước lợ của đất Gò Công thì chẳng bao giờ bạn biết được người ta phục vụ cho bạn món gì và nham Gò Công ngon... thì ngon thế nào?
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Feb/2010 lúc 9:27am
http://blog.tamtay.vn/duyduongtg/blog/entry/600898/Ve-Tien-Giang-tham-thi-xa-Go-Cong-.html - Về Tiền Giang, thăm thị xã Gò Công
http://www.tamtay.vn/home/duyduongtg - duyduongtg viết ngày 11/01/2010
Từ hướng TP ************ khoảng 70km, đến ngã ba Trung Lương thuộc TP Mỹ Tho, rẽ theo quốc lộ 50 hơn 40 cây số... bạn đến Gò Công. Nơi đây là quê hương của hai vị hoàng hậu triều Nguyễn là Từ Dũ và Nam Phương, cũng là nơi gắn liền với với tên tuổi vị anh hùng Trương Định.
Trong bán kính hơn chục cây số từ trung tâm thị xã Gò Công, du khách có rất nhiều địa chỉ để đi chơi. Trước hết là những ngôi nhà cổ có từ thời Pháp thuộc, đặc biệt hơn cả là dinh Chánh Tham Biện hay còn gọi là Dinh Ông Chánh. Khách có thể gặp nhiều dinh thự hình dáng tương tự như Dinh Ông Chánh ở nhiều tỉnh lỵ của miền Nam nhưng dinh thự này đặc biệt ở chỗ toàn bộ được xây dựng bằng gạch ngói chở từ Pháp sang với quy mô kiên cố và rộng lớn. Qua hơn 120 năm tồn tại, hiện nay Dinh Ông Chánh đã xuống cấp trầm trọng nhưng du khách vẫn có thể chiêm ngưỡng được nét đẹp của một công trình kiến trúc phương Tây cổ xưa.
Còn tại phường 1, thị xã Gò Công là Lăng Trương Định. Lăng được xây bằng đá ong với hồ ô dước, trên diện tích 67m2. Lăng Trương Định là di tích lịch sử và là kiến trúc dạng mộ táng tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Đền thờ được xây dựng theo kiến trúc Đông phương vừa cổ kính, vừa hiện đại với các án thờ, khuôn biển chạm trổ sơn son thếp vàng.
Cách lăng Trương Định về hướng gò Sơn Quy là cụm lăng Hoàng Gia được xây dựng vào năm 1826 trên diện tích 2.987m2. Cụm lăng gồm phần mộ của dòng họ Phạm Đặng Hưng (dòng họ ngoại của vua Tự Đức) và ngôi nhà để thờ cúng. Đến đây, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc thời nhà Nguyễn mà còn có dịp tìm hiểu nghệ thuật chạm khắc của những nghệ nhân xứ Gò và tiếp cận với nhiều bia đá ghi lại một phần lịch sử của vùng đất này.
Gò Công còn có một làng nghề nổi tiếng từ hàng trăm năm nay, đó là làng nghề Ông Non chuyên đóng tủ thờ. Những chiếc tủ đóng bằng các loại danh mộc như gõ, mun, cẩm lai... lấp lánh hình ảnh tứ linh, tứ quí, các tích xưa và phong cảnh non sông được cẩn, khảm bằng vỏ ốc và xà cừ. Điều đặc biệt nhất của chiếc tủ thờ Gò Công là những người thợ ở đây không dùng đinh sắt mà chỉ ráp các mối nối bằng mộng, chốt. Tủ thờ của xóm ông Non được sử dụng tại đền Hùng (Phú Thọ) đến nay vẫn được khách hàng khắp nơi ưa chuộng.
Rời thị xã Gò Công, theo hướng đông khoảng 15 km, khách sẽ đến bãi biển Tân Thành. Đây là một trong những bãi biển cát đen được đánh giá là đẹp nhất ĐBSCL. Dọc theo đường ra biển, khách sẽ gặp những ruộng muối trắng phau. Nếu có thời gian, du khách nên ghé vào nhà dân, tìm hiểu quy trình làm muối. Bà con nơi đây rất hiếu khách, sẵn sàng dẫn bạn đi thăm ruộng muối, những vuông tôm và những điểm nuôi cua, đồng thời thết đãi bạn những món ngon đặc biệt của xứ Gò Công. Đến bãi biển vào lúc nước ròng, bạn có thể cùng ngư dân xuống biển xúc nghêu và nô đùa thỏa thích cùng sóng biển- rất thú vị...
Nếu đi theo hướng ngược lại, bạn sẽ đến biển Vàm Láng cách thị xã 12 km. Chợ Vàm Láng là chợ đầu mối chuyên mua bán hải sản với hầu hết là các sản phẩm từ biển Gò Công, rất phong phú và giá cả khá “mềm”. Sau khi thăm chợ biển, bạn có thể đến làng Kiểng Phước để xem bảng sắc phong thần do vua Gia Long ban tặng và xem bộ xương cá ông không còn nguyên vẹn ở đình làng Vàng Láng. Vào ngày 16 đến 18 tháng 8 âm lịch hàng năm, tại đây diễn ra lễ hội Nghinh Ông với sự góp mặt của hàng trăm ghe thuyền được trang trí đèn hoa rực rỡ. Dọc đường đi, khách còn có thể ghé xã Phú Tân huyện Gò Công Đông để tham quan lũy Pháo Đài, một công trình quân sự phòng thủ kỳ vĩ do Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định chỉ huy xây dựng để đánh thực dân Pháp những năm giữa thế kỷ 19.
Du khách ở Sài Gòn có thể tận dụng hai ngày nghỉ cuối tuần đi xe gắn máy đến thị xã Gò Công. Nếu đi bằng xe đò, khách có thể đón xe đi TP HCM đến ngã ba Trung Lương rồi đón tiếp xe về Gò Công. Tại bến xe Miền Tây, mỗi ngày cũng có chuyến xe đò về bến xe Gò Công, khởi hành lúc 10 giờ. Từ đây, khách có thể dễ dàng đón xe về Gò Công.
Thôi, xin tạm biệt Gò Công
http://www.tamtay.vn/home/duyduongtg - duyduongtg viết ngày 11/01/2010
Người gởi: danghuuphuc
Ngày gởi: 08/Feb/2010 lúc 9:00am
CÔ GÁI BÁN TRẦU Ở CHỢ GÒ CÔNG TRỞ THÀNH ĐẠI ĐIỀN CHỦ
“Người giàu nhứt tỉnh Gò Công là “Bà Tư Nói”, tên trong khai sinh là Lâm Tố Liên. thuở hàn vi, cô Tố Liên bán trầu cau tại chợ Gò Công hồi Tây mới qua. Cô Thiên không chồng con. Cô góp nhóp tiền mua một mẫu ruộng. Sau đó, lần hồi cô mua may bán đắt, lại có huê lợi của mẫu ruộng, nên cô sắm thêm ruộng. Công cuộc làm ăn càng lúc càng thạnh vượng, cô bỏ nghề bán trầu cau, mở tiệm bán tơ lụa nho nhỏ. Vào tuổi ngũ tuần, Lâm Tố Liên có lợi tức 400 mẫu ruộng tốt, giàu bực nhì ở Gò Công, ăn đứt ông Phủ Huỳnh Đình Khiêm (Phủ hàm) ở Đồng Sơn, ông Cai tổng kiêm Hội đồng Nguyễn Văn Hạc, ông Huyện Quái, ông Phủ Hải, ông Hội đồng Đinh Nhựt Chu...
Khi lớn tuổi, cô Lâm Tố Liên được dân Gò Công kêu bang “Bà Tư Nói”. Tiệm của bà bán đủ thứ lãnh: lãnh Bưởi ngoài Bắc, lãnh Nam Vang, lãnh Tân Châu, lãnh Thượng Hải (lãnh trơn, lãnh bông). Ngoài ra, bà còn bán những hàng lụa sản xuất trong nước như lụa Hà Đông ở ngoài Bắc, lụa Duy Xuyên ở Quảng Nam, the La Cai, the và xuyến đất Diên Khánh, hàng Cẩm ở Châu Đốc, lụa Tân Châu, cùng các loại cẩm nhung, cẩm vân, cẩm tự, cẩm trước, cẩm cuốn, cẩm quệt, cẩm kim... (cẩm là loại hàng lụa, còn gọi là “gấm”).
Cẩm nhung có nhiều loại màu, đem ra ánh sáng mặt trời thì thấy có vạch sáng rờn rợn. Cẩm vân, màu trắng, màu vàng, là hàng dệt nền khô bông mướt hình cụm mây. Cẩm tự màu đen nền ướt bông khô, dệt hình chữ thọ, Cẩm trước màu đen hay trắng, nền ướt bông khô, dệt hình lá trúc. Cẩm cuốn dệt bông hình quyển sách cuốn tròn, có buộc nơ. Cẩm quyệt dệt bông hình trái quýt có đeo hai chiếc lá. Cẩm kim dệt hình mũi kim nhỏ, thuộc loại nền khô bông ướt. Lại còn cẩm sen loại nền khô bông ướt, dệt hình bông sen. Nếu kêu cho đúng nghĩa phải gọi cẩm quýt là “cẩm quất”, cẩm kim là “cẩm châm”,”cẩm sen” là “cẩm liên”, cẩm cuốn là “cẩm thư” để tránh tiếng Hán ghép vào tiếng Nôm.
Về sau, bà Tư Nói nhờ một ông thầu khoán ở chợ Gò Công gọi là ông Tư Bảy, cất cho bà một cái nhà ba căn hai chái, nền cẩn đá da quy (giống như vảy rùa), nền cao tới ngực, mái lợp ngói lưu ly. Để có thứ ngói này, ông thầu khoán Tư Bảy phải đặt mua Lái Thiêu. Ngói lưu ly là ngói móc (có người gọi là ngói vảy cá, vì có cái móc để cày vào sườn nhà khi lợp giống như lớp vảy cá, hoặc vảy rồng được tráng men bóng lộn. Ông Tư Bảy mua ngói lưu ly tráng men vàng và ngói lưu ly tráng men lục để lợp nhà bà Tư Nói. Ngói vàng, dưới ánh mặt trời, thì có màu men chậu xứ Giang Tây. Vào mùa gặt lúa vào giữa tháng Chạp tới giữa tháng Giêng, mỗi ngày hàng chục chiếc xe bò chớ lúa tới lẫm (vựa lúa) của bà Tư Nói để đong lúa cho bà. Tuy có nhà đẹp, nhưng bà Tư Nói thích ở căn tiệm bán lãnh lụp xụp của mình, còn ngôi nhà nguy nga tráng lệ của bà, dành cho gia đình bà Bảy em (em gái ruột của bà. Khi bà qua đời, bà Bảy em (chớ không phải Em) làm cái nhà mồ cho bà. Ngôi nhà mồ nguy nga đồ sộ không thua phủ thờ (nơi thờ bà Từ Dụ Thái hậu, cách chợ Gò Công 4 cây số.
Theo sách:Gò Công Vọng tiếng đất lành của Phan Thanh Sắc thì nhà Bà nguy nga thứ nhì sau nhà Bà Phủ, nay là Nhà Truyền Thống Thị xã Gò Công. Bà là Đại điền chủ trước năm 1945 đứng bộ trên ngàn mẫu ruộng ở mấy chục làng trong Tỉnh Gò công. Bà cất Chùa Thiêng Liêng trên Đường Huyện Chi gần Cầu Đúc lên Yên Luông ,bên cạnh nhà mồ để chết rồi thì hồn nương cửa Phật...
Truyện của HỨA HOÀNH
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Feb/2010 lúc 2:50am
Thi ảnh ''Quê hương đất nước con người Gò Công'' lần thứ I
(Cập nhật: 08.02.2010 05:27)
Nhân dịp mừng xuân Canh Dần 2010, sáng 3-2-2010, tại Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao huyện Gò Công Đông đã tiến hành tổ chức chấm thi ảnh nghệ thuật "Quê hương đất nước con người Gò Công" lần I, do Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao huyện Gò Công Đông tổ chức với sự bảo trợ nghệ thuật của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh.
Hội đồng giám khảo do ông Hoàng Thạch Vân, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh VN làm Chủ tịch đã tuyển chọn 41 ảnh triển lãm trên 81 ảnh dự thi của 16 tác giả của huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công và trao 9 giải thưởng:
- Huy chương vàng "Kéo lưới" của Lương Bình (Gò Công Tây )
Kéo lưới, tác giả Lương Bình
- Huy chương bạc "Mưu sinh" của Minh Hải (thị xã Gò Công)
Mưu sinh, tác giả Minh Hải
- Huy chương đồng "Lặng lẽ" của Quốc Đặng (thị xã Gò Công)
Lặng lẽ, tác giả Quốc Đặng
Sắc xuân, tác giả Quốc Đặng
6 giải khuyến khích thuộc về các tác giả: Phước Lộc, Lương Bình (2 giải), Quốc Đặng (3 giải)
Đây là lần đầu tiên Gò Công Đông tổ chức thi ảnh, nhưng đã được anh em nhiếp ảnh Gò Công nhiệt tình dự thi.
Giám khảo Hoàng Trung Thủy- Ủy viên Hội đồng nghệ thuật quốc gia đã nhận xét: "Ảnh có ý tưởng tốt, bám sát chủ đề quê hương, bám biển lên đồng, màu sắc rực rỡ đẹp ... , nhưng đề tài về công nghiệp, đánh bắt biển còn mỏng. Xử lý ảnh có tiến bộ, hợp lý tuy còn có vài lỗi nhỏ!...".
Cũng trong buổi chấm giải, nhạc sĩ Lê Ngân, Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Tiền Giang cho biết, các tác giả đoạt giải vàng, bạc, đồng được tiêu chuẩn kết nạp hội viên tỉnh. Với thành công bước đầu này, hi vọng sang năm Gò Công Đông tiếp tục phong trào, tập huấn mở trại sáng tác, nâng cấp đội ngũ hội viên nhiếp ảnh CLB Nhà Văn hóa trung tâm.
Duy Anh (Theo tiengiang.gov.vn)
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Feb/2010 lúc 9:26am
Huế ở Gò Công
Nói đến Gò Công, người ta nhớ ngay đến vùng đất của cây sơ ri, nơi cất tiếng chào đời của hai bà hoàng triều Nguyễn: Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị) Và Nam Phương (vợ vua Bảo Đại).
Đây còn là vùng căn cứ kháng chiến chống Pháp của anh hùng dân tộc Trương Định. Vì vậy, du lịch về Gò Công, người ta không chỉ đi biển Tân Thành nằm nghe gió lộng và thưởng thức hải sản từ những quán ăn chạy dài theo các sân nghêu mà còn là dịp nhớ lại quá khứ hào hùng và chiêm ngưỡng một di tích... rất Huế.
Từ TP.HCM đi về Gò Công theo quốc lộ 50 là tiện nhất. Theo hướng này, bạn sẽ qua phà Mỹ Lợi. Vừa rời khỏi phà, bạn bắt đầu thấy trái sơ ri được bày bán rất nhiều hai bên đường. Gò Công có nhiều vườn trồng sơ ri, chỉ cần với tay là có thể hái những trái chín ửng hồng trong những khu vườn xanh mát. Chạy về hướng Gò Công chừng 14 cây số, bạn sẽ thấy một con đường nhỏ mang tên Từ Dũ. Cuối con đường là khu lăng Hoàng gia mang dấu ấn đặc thù của kiến trúc lăng tẩm triều đình Huế, được xây dựng tại giồng Sơn Quy, từ năm 1826.
Giồng Sơn Quy (còn gọi là Gò Rùa, Núi Đất) không chỉ là khu đất cao cặp sông Sơn Quy, mà còn là di tích lịch sử mang đậm dấu ấn một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc trong những năm chống Pháp đầu tiên. Đó là nơi Bình Tây Đại soái Trương Định chọn làm chiến lũy, dựng đại bản doanh ngăn đường tiến quân của Pháp nhằm bảo vệ thị xã Gò Công từ năm 1861. Sau khi đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, thủ lĩnh Trương Định cho nghĩa quân đắp chiến lũy Sơn Quy bằng đất ruộng, nơi cao nhất chừng 3m, dài chừng 300m. Ngày nay, đến giồng Sơn Quy, dấu tích chiến lũy xa xưa chỉ còn trong ký ức, nhưng bạn sẽ hiểu thêm vì sao cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu viết: "Núi Đất nửa năm ngăn sức giặc", để nhớ về một thời oanh liệt của anh hùng Trương Định.
Sơn Quy giờ không còn rõ nét chiến lũy, tuy nhiên, nơi đây vẫn còn có một di tích lịch sử quốc gia: Lăng Hoàng gia. Đây là di tích hiếm hoi còn sót lại của triều đình Huế ở vùng đất Nam bộ. Khu lăng Hoàng gia là quần thể kiến trúc gồm đền thờ và 19 ngôi mộ của những bậc tiền hiền có công khai khẩn đất Gò Công, mà tiêu biểu là mộ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng - ông ngoại vua Tự Đức và là cha của Từ Dũ Thái hậu.
Khu lăng mộ Đức Quốc Công
Kiến trúc ngôi mộ của Đức Quốc công không xây theo tiền lệ "ngưu phanh mã phục" (Trâu nằm ngựa quỳ) như bao văn thần võ tướng cùng thời, mà được xây kết hợp với màu sắc văn hóa địa phương: đỉnh trụ, hình nón lá, xung quanh trang trí tám đóa sen. Bình phong quanh mộ được chạm nổi năm con sư tử.
Đền thờ "Đức Quốc Công Từ" hay đền "Thích Lý” được xây dựng từ năm 1826, theo kiến trúc nhà gỗ ba gian hai chái đặc trưng Nam bộ. Đến năm 1849, vua Tự Đức cho đại tu theo kiến trúc cung đình, có cổng tam quan, thềm tam cấp, nhà khách, nhà trù, tàu ngựa. Năm 1889, vua Thành Thái tiếp tục cho tu sửa đền, mộ, làm thêm tường hồ, cổng gạch theo phong cách phương Tây. Năm 1921, đền được tân trang một lần nữa, lát thêm gạch men, bao lam, hoa văn khắc gỗ.
Cổng tam quan vào lăng Hoàng gia
Cảnh vật phai dấu theo thời gian nhưng ngắm nhìn khu lăng Hoàng gia ở giồng Sơn Quy, cảm giác như có cái gì rất Huế ở nơi này.
Khánh Huy
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Feb/2010 lúc 5:11pm
Tiếng kêu cứu của những ngôi nhà cổ...!
Thị xã Gò Công vốn là “thủ phủ” của các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang - nơi hội tụ, giao lưu văn hóa, nghệ thuật, kinh tế của toàn khu vực. Giá trị này đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ, sinh hoạt của người dân Gò Công từ bao đời nay. Tuy nhiên, trước tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trên khắp các lĩnh vực trong đời sống hiện nay thì liệu vai trò “thủ phủ” cũng như những giá trị truyền thống có còn được lưu giữ nổi?
Nhắc đến thị xã Gò Công, ai cũng đều có một cảm nghĩ đó là một vùng còn hàm chứa nhiều nét cổ kính và tự nhiên nhất vùng ĐBSCL. Vùng đất xứng danh “địa linh nhân kiệt” này qua năm tháng vẫn còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị, những danh nhân được người dân tự hào tôn vinh. Ngoài một số quan chức thời Nguyễn, Gò Công còn là nơi sản sinh nhiều danh nhân tên tuổi trong đời sống xã hội đương thời, nhất là về văn hóa, giáo dục, chính trị như Thái hậu Từ Dụ, Hoàng hậu Nam Phương, Trương Định, Hồ Biểu Chánh... Các di tích lịch sử được bảo vệ, lưu truyền như lăng mộ họ Phạm (tổ tiên của bà Từ Dụ, mẹ Vua Tự Đức), mộ Trương Định xây cất vào năm 1864 bằng đá ong trộn ô dước, mộ bia bằng đá trắng Quảng Nam khắc đầy đủ chức tước của ông: “Đại Nam Bình Tây Đại tướng quân Trương Công Định chi mộ”.
Bên cạnh các di tích có giá trị vừa kể, hiện tại Gò Công còn tồn tại nhiều ngôi nhà cổ nhất tỉnh. Theo tư liệu lịch sử (hiện còn lưu giữ ở Phòng Văn hóa Thông tin thị xã Gò Công) tỉnh Gò Công trước đây có 40 làng, người dân thường gọi là “làng Thành Phố”. Nhà cửa nơi này lúc đó chỉ toàn làm bằng lá, đến năm 1862 mới được xây bằng những ngôi nhà tường vững chắc. Năm 1862 cũng là năm “làng Thành Phố” trở thành tỉnh lỵ Gò Công. Năm 2002 tổ chức JICA của Nhật đến khảo sát thì Tiền Giang có 350 ngôi nhà cổ mà riêng TX Gò Công có đến 2/3 loại nhà cổ giá trị này.
Khoảng 3 năm trở lại đây tốc độ phát triển của TX Gò Công khá nhanh. Đặc biệt, là những thay đổi về diện mạo đô thị thông qua việc đầu tư cơ sở hạ tầng. Những ngôi nhà mới được cất lên khang trang “ăn theo” những con đường nội ô vừa được nâng cấp, mở mới, đã tô điểm thêm nét đẹp vốn có của “làng Thành Phố” thuở nào. Đến hết năm 2004, thị xã đã hoàn thành việc nâng cấp 20 tuyến đường nội ô với đầy đủ hệ thống cấp thoát nước, chiếu sáng, vỉa hè, cây xanh đồng bộ; mặt đường được trải bê tông nhựa. Đường Trương Định được xem là đẹp nhất thị xã. Song song đó còn mở nhiều tuyến đường trọng điểm nhằm mở rộng đô thị trung tâm theo hướng Bắc - Nam tạo điều kiện cho thị xã tiếp cận dễ dàng, thuận tiện hơn với khu du lịch biển Tân Thành và Quốc lộ 50 đi TPHCM. Đồng thời, chợ mới Gò Công cũng đã được đưa vào sử dụng nhằm thúc đẩy giao lưu hàng hóa, dịch vụ, thương mại cho toàn vùng. Đình Trung đã được trùng tu nâng cấp đáp ứng mong mỏi của nhân dân về một địa chỉ thờ cúng đã ăn sâu vào tâm linh người dân Gò Công. Hàng loạt những di tích lịch sử văn hóa đã được đầu tư tôn tạo nhằm giáo dục truyền thống và phát triển du lịch như đền thờ lăng mộ Trương Định, di tích kiến trúc nghệ thuật (nhà cổ, được xây dựng cuối thế kỷ XIX) của Đốc phủ Nguyễn Văn Hải, Nhà truyền thống thị xã (nhà bà Lâm Tố Như xây dựng năm 1933)...
Năm 2005 tỉnh Gò Công sẽ mời các ngành tư vấn thiết kế, khảo sát lập kế hoạch thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng Khu di tích lịch sử Lăng Hoàng gia. Trong đó, dự kiến vùng qui hoạch rộng 70 - 100ha xây dựng hoàn thành lăng mộ này gắn liền với tour du lịch của Tiền Giang. Dự án đó nếu được hoàn thành thì ai muốn tìm lại dấu tích xưa một thời của cha ông thì TX Gò Công cũng vẫn là một địa chỉ thích hợp.
Dù hiện tại ở đây số nhà cổ còn lại khá nhiều, nhưng chỉ có những ngôi nhà thuộc sở hữu Nhà nước mới được gìn giữ như nhà Đốc phủ Hải, Nhà Truyền thống TX, Đền thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng... còn nhà tư nhân thì chịu! Cán bộ quản lý di tích TX Gò Công cho biết: Biết rằng để những ngôi nhà cổ của dân mất dần là rất đáng tiếc, nhưng biết làm sao được khi ngay cả kinh phí bảo quản tôn tạo di tích nhà cổ thuộc sở hữu Nhà nước còn gặp khó khăn. Hiện tại những ngôi nhà cổ thuộc dạng phố (kiểu như ở Hội An, Quảng Nam) hầu như không còn, còn chăng là những ngôi nhà biệt lập, nằm rải rác trong thị xã. Tất cả đều có chung một thực trạng là “xuống cấp trầm trọng, hư đâu vá đó. Theo người trông coi nhà của thầy Tăng Tiến Minh (đang định cư ở Mỹ) thì căn nhà này có tuổi thọ trên 100 năm, đang xuống cấp trầm trọng, những ngày mưa phải dùng thau hứng nước nhiều nơi. Để trùng tu, tốn đến vài tỉ đồng, tiền đâu và trùng tu để làm gì?! Giải pháp mà chủ nhà đang nhắm tới là đập bỏ để xây mới! Hay nhà của ông Bùi Doãn Cung xây dựng khoảng năm 1895 ở ấp Gò Tre, xã Long Thuận. Đây là ngôi nhà cổ đặc trưng Nam bộ nhất trong vùng. Ngôi nhà này có dạng chữ đinh, lợp ngói âm dương, vách gỗ, cột căm xe, có diện tích 300m2 nay đã mục nát nhưng chủ nhà đành nhìn mà chịu, hễ dột đâu chèn đó! Thầy Phạm Đăng Thanh, người đang cai quản ngôi nhà cho biết sẵn sàng để nhà nước trùng tu khai thác nhưng không được chấp thuận! Nhà ông Mười Cần (số 112, đường Nguyễn Văn Công) tuy xót xa cho tình trạng xuống cấp nhưng ngại để Nhà nước tham gia trùng tu vì sợ ảnh hưởng đến chủ quyền! Đây cũng là tâm lý phổ biến nhất của các chủ sở hữu nhà cổ. Chính vì thế mà việc trùng tu duy trì nhà cổ ở Gò Công hiện nay đang rơi vào tình trạng bế tắc.
Không biết khi tìm ra được hướng giải quyết để giữ gìn thì nhà cổ Gò Công sẽ còn lại bao nhiêu?
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Feb/2010 lúc 12:08am
Chuyến xe buýt mùa xuân
Chị Tư đón xe ôm từ Bình Ninh ra ngã ba An Thạnh Thủy, ngồi trong quán nước chờ chuyến xe buýt Gò Công-Mỹ Tho. Quốc lộ 50 lổm chổm đất đá, khói bụi, mỗi khi có một chiếc xe hơi chạy qua, cả đoạn Quốc lộ như một ụn khói dày đặc ngồn ngộn bốc lên, tràn vào ly nước trà đá của chị, chị Tư đưa tay che ly nước đá mà không dám hít thở.
Bỗng có một người đàn ông mặc chiếc áo sơ mi màu xanh bộ đội tay bồng đứa bé khoảng 3 tuổi dịu quặt trên tay chạy vào quán nói: "Bán cho tui chai dầu gió đi chị!". Người chủ quán với lấy chai dầu nói: "Năm ngàn rưỡi chú ơi!". Người đàn ông ngồi xuống ghế, một tay đỡ con, một tay đút vào túi áo lấy ra mấy tờ giấy bạc đưa cho chị chủ quán. Chị chủ quán đếm lại rồi nói thiếu năm trăm đồng. Người đàn ông lúng túng nói: "Bớt cho tui nhe". Chị chủ quán lắc đầu: "Tui hỏng có bán thách đâu mà bớt". Người đàn ông tiu nghỉu nhìn đứa con chặc lưỡi, đứng dậy chuẩn bị rời quán. Chị Tư nãy giờ quan sát, thấy vậy nói: "Tôi có tiền lẻ nè, cô bán cho chú ấy đi!". Người đàn ông nhìn cô Tư cảm ơn rồi xức dầu vô trán, hai thái dương đứa bé.
Ông lái xe ôm gần đó hỏi: "Đi xe ôm không? Lên tôi chở cho, đợi xe buýt biết chừng nào". Người đàn ông đáp:" Tôi hết tiền rồi, để tôi sang nhà bên kia lộ là người bà con với tui, tui mượn tiền rồi đi". Ông xe ôm nói: "Nhà đó đi tảo mộ rồi, chiều mới về". Người đàn ông lắc đầu: "Xui quá con ơi!". Cô Tư thấy vậy nói: "Tôi cho chú thêm năm chục ngàn nữa nè, đưa bé đi nhà thương lẹ lên, nó đừ lắm rồi!". Người đàn ông cám ơn rồi quày quả leo lên xe ôm chạy đi trong khói bụi mịt mù.
Rồi xe buýt đến, chị Tư lên xe mà trong lòng không yên, cứ nghĩ về đứa bé lúc nãy, không biết có sao không, với số tiền ít ỏi như vậy làm sao nằm bệnh viện được. Ngồi bên cạnh người phụ nữ ăn mặc tươm tất, lại vui tánh, chị Tư kể lại chuyện ở ngã ba An Thạnh Thủy. Người phụ nữ này vừa nghe vừa gật đầu đồng ý với chị Tư là hoàn cảnh cháu bé thấy thương quá, nếu gặp như thế chị ấy sẽ giúp đỡ liền.
Khi xe buýt qua khỏi ngã ba Ông Văn, tới cổng Bệnh viện đa khoa Chợ Gạo thì chị Tư thấy người đàn ông lúc nãy hớt hải ôm đứa bé chạy ra ngoài, leo lên xe ôm đi tiếp về hướng Mỹ Tho. Chị Tư biết là người ta đã chuyển cháu bé lên bệnh viện tỉnh rồi, chắc là tại bệnh nặng lắm nên bệnh viện huyện mới "bó tay". Chị Tư nói với người phụ nữ bên cạnh: "Đó, cháu bé hồi nãy tui kể chị nghe đó, giờ ba nó bồng chạy tiếp lên Mỹ Tho rồi kìa!". Người phụ nữ nói: "Trời, làm sao chạy theo kịp để cho tiền người ta, tội nghiệp quá!". Anh tài xế xe buýt còn trẻ, nghe vậy mới hỏi: "Mấy bà muốn giúp người ta thiệt hôn, tui chạy theo kịp cho!". Người phụ nữ nói: "Bác tài chạy theo chiếc xe ôm đó đi, để tui cho tiền người ta!". Anh tài xế xe buýt nhấn ga chạy theo chiếc xe gắn máy, xe buýt qua mặt xe gắn máy rồi tấp vô lề. Chiếc xe ôm chạy rất nhanh, vụt qua chiếc xe buýt. Anh phụ xe nhảy xuống đất dang tay chận chiếc xe ôm lại la lớn: " Dừng lại, dừng lại để người ta giúp cháu bé!". Ông xe ôm ngạc nhiên, thắng xe lại, chị phụ nữ đưa tiền cho anh phụ xế ba trăm ngàn để đưa cho cha cháu bé. Anh tài xế cũng móc ra năm chục ngàn, rồi anh phụ lái lấy ra ba chục ngàn trong túi gộp vô đưa hết cho cha cháu bé bị bệnh nặng. Bất ngờ được giúp đỡ, người đàn ông nhìn lại chiếc xe buýt gật đầu cám ơn, đôi mắt ông ấy đẫm nước mắt lúc nào không hay. Rồi chiếc xe ôm rồ ga chạy nhanh để kịp đưa cháu bé vào bệnh viện tỉnh.
Mọi người trên xe nói chuyện rộn ràng về ngày tết, một ngọn gió xuân tràn vào xe thật mát, chị Tư hít một hơi dài và thấy trong lòng dâng lên một niềm vui khó tả. Mùa xuân đang về, mùa xuân cho tất cả mọi người.
BS Nguyễn Thành Úc
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Feb/2010 lúc 5:46am
Các giai thoại, sự tích ở Gò Công
Nói tới Gò Công, ai ai cũng từng nghe địa danh "Vàm Láng" nhưng nguồn gốc hai chữ đó còn rất mơ hồ. Theo dân cố cựu đất Gò Công thì "Vàm Láng" là chỗ con Rạch Cần Lộc ăn thông ra biển. Phía ngoài con Rạch (VAM) rộng và sâu, còn gọi "Vàm họng". Chữ "Vàm" nguyên thuỷ là chữ cổ của người Chân Lạp, đọc là "Peam hay Giám" (theo bác học Trương Vĩnh Ký). Cách họng Vàm một khoảng có một mái hà lãng (chỗ nước rộng mênh mông), nhiều rừng cây dày dac hai bên bò, có chỗ có nước ngọt, nên ban đêm heo rừng, nai thường đến nước uống. Vì thế chỗ này hồi xưa còn gọi "lang lộc". Vì ở gần Vàm "Láng lộc" nên dân địa phương gọi tắt "Vàm Láng". Vàm Láng là nơi Chúa Nguyễn Ánh và đoàn tòng vong trên biển lâm nạn, được cá ông hộ tống, đưa vào bờ. Vì thế khi lên ngôi, vua Gia Long sắc phong cho loài cá ông chức "Nam Hải Đại Tướng quân". Hiện nay, trên bờ Vàm Láng có miêu thờ "thuỷ thần" trong có sắc phong này. Hàng năm đến ngày rằm tháng 6 âm lịch, các chủ ghe đánh cá các người sống về nghề thuỷ sản (đóng đáy, cào, xếp ...) góp tiền, tổ chức "Lễ nghinh ông" rất trọng thể. Tại "Lăng ông" chỗ thờ bộ xương cá ông), có tổ chức hát bộ ba ngày ba đêm liền cho công chúng lân cận đến xem. Ngoài ra, còn các trò chơi khác như múa lân, đơn ca, võ đài, đốt pháo bông, cờ bạc, ăn nhậu thả giàn. Từ các nơi xa xôi, mọi người dùng đủ phương tiện như ghe, tàu, xe đò, xe du lịch tới đậu nghẹt một khúc sông, và đường chật dẫn đến "Lăng ông". Lễ "nghinh ông" chính tổ chức vào đêm rằm. Người la chọn một chiếc ghe đánh cá đẹp Nhựt, có buồm, chèo (sau này dùng ghe gắn máy), trang hoàng màu sắc lộng lẫy, trên ghe, chỗ giữa có đặl bàn hương án, cò treo, kết hoa. Ngoài ra còn có ban nhạc lễ, đào kép, ban khánh tiết ... đều xuống nghe lúc 9 giờ đêm, chèo (hoặc chạy máy) ra khơi để làm lễ "Nghinh ông". Khi chiếc ghe chủ lễ thỉnh thần (cá ông) trở về, vừa đến cửa Vàm Láng, thì mấy trăm chiếc thuyền đánh cá khác, lớn nhỏ đủ cỡ ra nghinh đón. Ghe nào cũng có bàn hương án, treo cờ, kết hoa từ trên chót VOT cột buồm dẫn xuống mạn thuyền đủ thứ màu sắc trông rất vui mắt. Mỗi chiếc thuyền là một cộ đèn, Dậu hai bên sông kề nhau chạy dài đến bến "lăng", ánh sáng, màu sắc lung linh một khúc sông. Đoàn thuyền nghinh ông tới dâu, dân chúng đốt pháo mừng tới đó. Khí sắc thần được một vị vào lăng, đoàn hát bộ khai mạc, trình diễn. Cuộc chơi tiếp diễn suất đêm, tôi, náo nhiệt vô cùng. Lễ hội "nghinh ông" là ngày lễ văn hoá địa phương ở Gò Công.
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Feb/2010 lúc 5:51am
Nam Kỳ đất lành chim đậu
Hoi năm 1918, nhà văn Phạm Quỳnh có vào thăm Nam Kỳ. Ông viết bài "Một tháng ở Nam Kỳ" đăng liên tục nhiều kỳ trên báo Nam Phong. Tuy có thái độ tự tôn, nhưng nhà văn Phạm Quỳnh cũng ngạc nhiên thấy mức sống của các ông Cai tổng, điền chủ, Hội đồng trong Nam quá cao, quá sung túc hơn những ông Tổng đốc, Tuần phủ, án sát ngoài Bắc . Các điền chủ lớn trong Nam là những ông vua nho nhỏ tại địa phương. Điền chủ có vài ngàn mẫu ruộng như một ấp riêng, có chợ riêng, hàng chức ngôi nhà nền đúc, có máy điện, máy lạnh, xe du lịch, ca-nô và tôi tớ hàng chức người phục dịch trong gia đình. Trong khi đó, nông dân, tá điền, những người làm góp phần cho họ giàu có chỉ có mỗi căn chơi lá op ẹp và chiếc xuồng ba lá ... Chúng tôi không có thành kiến như cộng sản ", ông nhà giàu thì bóc lột, là ác ôn, là tróc phú bất Nhơn" Giới nào cũng có người tốt kẻ xấu.. Nhiều điền chủ có vài ba trăm công ruộng, đối đãi thân mật với tá điền như anh em, chỉ những người quá giàu thỉnh thoảng mới có người khắc khe. Thói thường "phú quý thì bất Nhơn, còn ban cung sanh đạo tặc gian trá" Tá điền., Muon lam nông dân đáng thương mà các điền chủ cũng có khi không đáng trách. Lỗi ấy tại chế độ thực dân dung dưỡng. Thực dân muốn cho một số ít người thật giàu để họ trung thành và áp bức kẻ nghèo thay họ, giúp họ một cánh tay đắc lực trong việc nội trị. Bây giờ, dưới chế độ cộng sản, người nông dân Nam Việt còn nghèo khổ hơn vì nhà nước độc quyền mua sản phẩm, độc quyền bán phân bón, thuốc trừ sâu còn lại thu thuế rất cao. Nếu giàu quá lúc không khỏi mang tiếng bóc lột, mà con cháu của sẵn, ăn không ngồi rồi, sinh lắm thói hư tật xấu, cũng là một khía cạnh khác của xã hội đương thời. Các đại điền chủ ở Nam Kỳ hồi trước đều có hàng chức lâm lúa. Mỗi là làm một dãy nhà liên kế, rộng 4, 5m, bề dài từ vài chức đến hàng trăm mét. Nhiều gia đình giàu quá, không biết xài cách nào cho hết tiền, con cái nên phung phí cũng là chuyện dĩ nhiên. Ông cha kiếm tiền dễ thì con phải xài phá. Đó là định luật. Ít khi, nhưng vẫn có những người giàu biết nhân nghĩa thiện, làm việc. Hội đồng Đoàn Hữu Nhơn ở Bến Tre tặng nguyên một ghe chài lúa cho làng để cất trường học. Bà Huyện Xây ở Vũng Liêm, cứ mỗi ngày rằm lớn thường làm chay, phát chẩn, dựng rạp trước nhà để đãi người nghèo, khát hành ... Không phải ông phú quý thì tàn ác mà nghèo khổ là đạo đức, đáng thương hại tất cả. Trung thành với chủ trương từ trước tới nay, chúng tôi không phê phán công việc làm ăn của họ mà chỉ liệt kê, tìm hiểu. Một nguồn gốc của sự giàu sang phú quý khác, được cắt nghĩa bằng thuyết phong thuỷ. Tuy mơ hồ, nhưng hồi trước ai cũng tin vào thuyết này. Con người sống nhờ đất. Đất tạo ra của cải nuôi sống loài người. Con người không thể tồn tại nếu thiếu đất. Lịch sử Đông Tây kim cổ chứng minh rằng vấn đề ruộng đất là nguồn gốc mọi sự bất hoà trong mỗi gia đình, sự xích mich giữa dòng họ, sự tranh chấp trong xóm làng, Lạng giếng và là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh . Nói cho cùng, nguyên nhân gây ra hai cuộc thế chiến hồi đầu thế kỷ 20 này cũng chỉ là cuộc tranh chấp đất đai mà ra. Đất nào sinh ra người nấy. Thuyết phong thuỷ giải thích tại sao có "địa linh nhân kiệt sinh,? Theo quan niệm cổ, ông bà ta cho rằng cuộc đất linh thiêng sông núi làm Un đúc, đã sản sinh những anh hùng, hào kiệt. Đó là thế đất kết tụ khí thiêng sông núi, đồng bằng như một sự kết hợp hài hoà, mà những người am hiểu địa lý không thể được biết?
Ngày nay, khoa học chưa tìm ra mối quan lương ấy. Tuy vậy các nhà doanh nghiệp, nhút là ở Á Châu, mỗi khi tìm đồng sở thiết lập hãng xưởng, Nội mở văn phòng, luôn luôn nhờ thầy địa lý tìm thế đất vượng phát. Cũng có khi gặp thế đất xấu, nhưng do nhu cầu làm ăn, họ phải "cải tạo bằng cách trấn yếm. Quan niệm về địa lý phong thuỷ còn giải nghĩa tại sao có những người hồi hàn vi lao đao khổ sở, không có cục đất chọi chim, mà chỉ trong một thời gian ngắn trở nên giàu có, trở thành những thế gia vọng tộc, dòng họ nhiều đổi hưởng phú quý. Trái lại, có những người đang giàu có, hưởng vinh hoa phú quý, làm ăn phát dạt, phút chốc sup đổ, trở thành trắng tay. Viết được loạt bài này tôi mắc nợ ơn nghĩa nhiều người. Trong số đó có nhà văn và bạn đồng hương cũ Hồ Trường An, giúp chúng tôi rất nhiều tài liệu để bài viết được sống động, phong phú. Tôi xin chân thành cám ơn nhà văn Hồ Trường An.
Chúng tôi xin bắt đầu từ tỉnh Gò Công. Trọng bộ Nam Kỳ lục tỉnh, chúng tôi có nhắc đến Gò Công là nơi phát tích các dòng họ quý tộc. Bài này chỉ kể đến các nhà giàu xưa. So với các tỉnh nằm trong lưu vực giữa hai sông Tiền và Hậu Giang, Gò Công là tỉnh nhỏ, đất hẹp, nhiều phèn và nước mặn, mỗi năm chỉ làm ruộng có một mùa. Tuy nhiên theo nhiều ông già bà cả kể lại đó là một cuộc đất quý, một thế đất "Long đầu phượng y" (đầu rồng, đuôi phượng). Ở đây người ta thường truyền tụng hai câu ca dao: Đầu rộng đuôi Phụng le này, Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con. Đối với người bình dân, đó là hai câu "Thái đố" (xuất quả) tức Buồng cau. Thực vậy, ít có nơi nào trên đất nước có nhiều địa danh "long phung" như vùng Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre. Nào là Côn Rồng (cù lao Rồng) trước chợ cũ Mỹ Tho, Côn Phụng (nơi hành hương của ông Đạo Dừa). Theo thuyết phong thuỷ đã cắt nghĩa vị trí địa lý đắc lợi của tỉnh Gò Công như sau: "Đất Gò Công sở dĩ sản sinh nhiều bậc công hầu khanh tướng (Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào, bà Từ Dụ Thái hậu, bà Đinh Thị Hạnh, thứ phi của vua Thiệu Trị ... ) thì phía Nam Gò Công là nơi tiếp giáp với Mỹ Tho, Bến Tre có Vàm Rồng ở làng Hữu Vĩnh, Long Uông Rạch ở xã Tăng Hoà, Rạch Long Trọng trên có cầu Ngang. Rạch này làm ranh giới giữa hai làng Thạnh Nhựt (Gò Công) và Hoà Bình (Chợ Gạo). Hồi trước có nạn xét giấy thuế thân, ông bà kề lại, khi ông hương chức xét làng, dân nghèo trốn qua làng Hoà Bình, còn phía Mỹ Tho xét thì đàn ông trốn qua làng Thạnh Nhựt như trò chơi cút bắt. Chỗ Rach Long Tượng, nối từ Thạnh Nhựt ăn ra Tiền Giang, được gọi là "đầu Rồng", theo kiểu "long đầu hí thuỷ" Còn đuôi. Rồng nằm về phía Bắc. Vùng phía Bắc tỉnh ly Gò Công, có địa danh "vườn Phụng" làm ông Thôn Cửu lập ra giữa thế kỷ 19, với Gò Lân ở làng Sơn Quy. Thế đất đó gồm đủ "Long Lân Quy Phụng" tức "tứ linh," nên làng nào nằm trong cuộc đất "tứ linh", sẽ vượng phát phú quý. Các làng Sơn Quý, Q. Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Bình Thành ... chính là nơi phát tích các thế gia vọng tộc của Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ này. Đây là quê hương của các ông Phủ hàm Khiêm (Huỳnh Đình Khiêm), Phủ Bảy Lê Quang Liêm, Phủ Hải cùng nhiều nhà giàu lớn khác. Hôi mươi mấy năm trước vùng, ở Gò Công có lưu truyền mấy câu hát: Bóng lân đã hiện Gò Đông, Rùa về quy tụ bên sông Đài Tây. Phụng trương cánh Bắc lố mày, Rồng thiêng uốn khúc Nam Nhai ẩn mình. Dưới con mắt của các nhà địa lý phong thuỷ, chính đây là thế đất có các huyệt Trước Châu, Thành Long, Bạch Hổ ... ai có hài cất tổ phụ được an táng vào những nơi đó, con cháu sẽ trở nên giàu sang phú quý. Thế đất "Gò Sơn Quy" nằm ven một con sông nhỏ, nối Rạch Hàng chảy qua chợ Gò Công, là nơi có nước ngọt, phù sa bồi tân, là Nội lập vườn, làm ruộng đều tươi tốt. Đất linh sinh người tài tuấn. Phụ nữ ở đây nhiều người xuất sắc, quê của thân phụ Nam Phương Hoàng hậu, hay những người dân giã như cô Nguyễn Thị Kiêm (Mạnh Mạnh nữ sĩ), bà Nguyễn Đức Nhuận (nhũ danh Cao Thị Khánh), chủ nhiệm tuần báo Phụ Nữ Tân Văn nổi tiếng ở Nam Kỳ (1928-1933), bà Phan Thị Bạch Vân, sáng lập "Nữ Lưu Thơ Quán" xuất bản nhiều sách kêu gọi lòng yêu nước, đến nỗi thực dân lo sợ, phải cấm và bắt bà đưa ra toà ... Một thiếu nữ khác, học giỏi, yêu nước, thuộc hạng thượng lưu xã hội là bà bác sĩ Nguyễn Thị Sương. Bà Sương sinh năm 1910, được gia đình cho qua Pháp du học rất sớm lúc mới 17 tuổi. Tại đây, bà Sương học các trường Lycee de Varsailles (Nice), rồi qua Aix En Provence, tốt nghiệp Tú tài Triết học. Sau đó bà lên đại học ban Lý Hoá và đỗ vào trường thuốc. Năm 1940, bà Nguyễn Thị Sương là người phụ nữ đầu tiên lục tỉnh đậu Y khoa bác sĩ. Bà là lãnh tụ Thanh nữ Tiền phong hoạt động mạnh ở Sài gòn năm 1945, nhưng sau bị Việt Minh giết vì uy tín của bà đối với quần chúng quá lớn. Chồng bà, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký thuộc nhóm Trotskyist, cũng chịu chung số phận với bà. Thuộc hàng thế gia vọng lộc bậc nhut tại Gò Công là gia đình họ Phạm Đăng. Xuất phát từ Quảng Ngãi, dòng họ Phạm Đăng theo đoàn người di dân trong đợt Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ, đã đến Gò Công, cất nhà ở tại Giồng Sơn Quy. Phải đợi hai thế hệ sau họ Phạm Đăng có người ra làm quan cho Tân Triều tới chức Thượng Thư, một trong tứ trụ của Triều đình. Phạm Đăng Hưng có con gái là Phạm Thị Hàng, ga cho vua Thiệu Trị tức Từ Dụ, mẹ ruột vua Tự Đức. Gò Sơn Quy cũng là quê hương của cô Đinh Thị Hạnh, thứ phi của Thiệu Trị. Đinh Thị Hạnh sinh con trai trước bà Từ Dụ, đặt tên Hồng Bảo, tuoc Công An Phong, nhưng không được nối ngôi, mặc dầu là con trưởng. Việc này đã lao ra cuộc đảo chính vua Tự Đức bất thành. Hồng Bảo bị bức tử trong ngục. Các con của Hồng Bảo phải đổi theo họ Đinh của mẹ (Đinh Đạo). Ông Nguyễn Hữu Hào và vợ là bà Lê Thị Bính (con gái ông Huyện sĩ Lê Phát Đạt) đã sinh ra Nguyễn Thị Hữu Lan tức Nam Phương Hoàng hậu sau này. Nhà giàu xưa thuộc hàng dân giả có nhiều người có tiếng tam nhu Phủ ông Huỳnh Đình Khiêm ở làng Đồng Sơn, ông Hội đồng Nguyễn Văn Hạc, ông Phủ Hải ... Theo nhà văn Hồ Trường An cho biết: "Người giàu nhut tỉnh Gò Công là" Bà Tư Nói ", tên trong khai sinh là Lâm Tố Liên. thuở hàn vi, cô Tố Liên bán Trầu cau tại chợ Gò Công Tây hồi mới qua. Cô Thiên không chồng con. Cô nhóp góp tiền mua một mẫu ruộng. Sau đó, lần hồi cô có thể mua bán đắt, lại có Huê lợi của mẫu ruộng, nên cô sắm thêm ruộng. Công cuộc làm ăn vượng càng lúc càng Thạnh, cô bỏ nghề bán Trau cau, mở tiệm bán tơ lụa nho nhỏ. Vào tuổi ngũ tuần, Lâm Tố Liên có lợi tức 400 mẫu ruộng tốt, giàu bực nhì ở Gò Công, ăn đứt ông Phủ Huỳnh Đình Khiêm (Phủ hàm) ở Đồng Sơn, ông kiêm tổng Cai Hội đồng Nguyễn Văn Hạc, ông Huyện Quái, ông Phủ Hải, ông Hội đồng Đinh Nhựt Chu ... Khi lớn tuổi, cô Lâm Tố Liên được dân Gò Công kêu bang "Bà Tư Nói". Tiệm của bà bán đủ thứ lãnh: lãnh Bưởi ngoài Bắc, lãnh Nam Vang, lãnh Tân Châu, lãnh Thượng Hải (lãnh trơn, lãnh bông). Ngoài ra, bà còn bán những hàng sản xuất trong nước như lụa lụa Hà Đông ở ngoài Bắc, lụa Duy Xuyên ở Quảng Nam, Cai La, xuyến và đất Diên Khánh, Cẩm hàng ở Châu Đốc, lụa Tân Châu, cùng các loại cẩm nhung, cẩm vân, tự cẩm, cẩm trước, cuốn cẩm, cẩm quét, cẩm kim ... (cẩm là loại hàng lụa, còn gọi là "Gấm"). Cẩm Nhung có nhiều loại màu, đem ra ánh sáng mặt trời thì thấy có vạch sáng Ron Ron. Cẩm vân, màu trắng, màu vàng, là hàng khô nền dệt bông mây mướt cụm hình. Cẩm tự màu đen nền ướt bông khô, dệt hình chữ thọ, Cẩm trước màu đen hay trắng, nền ướt bông khô, dệt hình lá trúc. Cuốn cẩm dệt bông hình tròn quyển cuốn sách, có buộc không có. Cẩm quyết dệt bông hình trái Quýt có đeo hai chiếc lá. Cẩm dệt kim hình mũi kim nhỏ, thuộc loại nền khô bông ướt. Lại còn cẩm sen loại nền khô bông ướt, dệt hình bông sen. Nếu kêu cho đúng nghĩa phải gọi là cẩm Quýt "cẩm quất", cẩm kim là "cẩm châm", "cẩm sen" là "cẩm liên", cuốn cẩm là "cẩm thư" để tránh tiếng vào ghép tiếng Hán Nôm. Hàng cẩm tự chỉ để dành có thể quần. Còn các loại hàng cẩm vân, cẩm cúc, cẩm kim, cẩm sen ... để dành có thể áo. Ngoài ra còn dùng để có thể lẫn áo quần cẩm nhung là, cuốn cẩm, trước cẩm, cẩm Quýt. Cẩm vân còn có thứ màu tím. Cẩm nhung ngoài màu đen màu trắng, còn có màu tím, Hương màu, màu mắm Ruốc, màu khói nhang. Về sau, có thứ cẩm Phụng chim mình dệt khô Phụng đang bay, thường có màu đen trắng hay màu. Người hay chữ thời trước gọi là cẩm "Gấm". Ở Tây Ninh, chỗ gần ngã rẽ vào chợ Long Hoa, có một địa danh gọi là Cẩm Giang (Sông Gấm). Cắt nghĩa hiện tượng này có người lớn tuổi hiểu biết chuyện xưa nói rằng: "Cách nay non một thế kỷ, chỗ này là mát con Rạch rau đầy (còn gọi là lục bình, hay bèo Nhựt Bản) trợ bông màu tím như? Gấm nên mới đặt tên là Cẩm Giang. Tại tỉnh Tứ xuyên (chỗ hợp lưu 4 con sông, gần ngay tỉnh lý) bên Trung Quốc, cũng là quê hương của các loại lụa cẩm. Tương truyền lụa sản xuất tại Tứ Xuyên, đem giặt dưới sông này thì trở nên trong sáng, đẹp hơn, nên họ đặt. tên sông ấy là "Cẩm Giang". Về sau, bà Tư Nói nhờ một ông thầu khoán ở chợ Gò Công gọi là ông Tư Bảy, cất cho bà một cái nhà ba căn hai chai, nền cẩn đá da quy (giống như rùa vảy), nền cao tới ngực, mái lợp ngói lưu ly. Để có thứ ngói này, ông thầu khoán Tư Bảy phải đặt mua Lái Thiêu. Ngói lưu ly là ngói móc (có người gọi là ngói vảy cá, vì có cái móc để cày vào sườn nhà khi lợp giống như lớp vảy cá, vảy rồng hoặc người đàn ông được tráng bóng lộn Ông Tư Bảy mua. Ngói tráng men lưu ly vàng và ngói lưu ly tráng men lục để lợp nhà bà Tư Nói Ngói vàng., dưới ánh mặt trời, thì người đàn ông có màu chậu xứ Giang Tây Vào mùa gạt lúa vào giữa tháng Chap tới giữa tháng Giêng,. mỗi ngày hàng chức chiếc xe bò chớ lúa tới làm (vựa lúa) của bà Tư Nói để đong lúa cho bà Tuy có nhà đẹp,. nhưng bà Tư Nói căn thích ở tiệm bán lãnh LUP Xup của mình, còn ngôi nhà nguy nga tráng lệ của bà, dành cho gia đình bà Bảy em (em gái ruột của bà. Khi bà qua đời, bà Bảy em (chớ không phải Em) làm cái nhà mồ cho bà Ngôi nhà. mồ nguy nga đồ để không thua phủ thờ (nơi thờ bà Từ Dụ Thái hậu, cách chợ Gò Công 4 cây số) Khi bà. Từ Dụ mất, được an táng tại Vạn Niên Cơ (Khiêm Lăng) ở ngoài Huế, nhưng con cháu của Phạm Đăng Hưng ở Gò Công thích hàng thuộc quốc, xum lại lập đền thờ bà, gọi là "Phủ thờ" Hồi trào Tây lẫn trào Bảo Đại, các con cháu của dòng. họ Phạm Đăng khỏi đóng thuế thân lẫn thuế điền cho nhà nước.
Người giàu thứ hai là ông Tri phủ Huỳnh Đình Khiêm ở làng Đồng Sơn. Đất Đồng Sơn thuộc vùng có mùa nước mặn lẫn mùa nước ngọt, nên có thể lập vườn. Lập vườn có Huê lợi bán quanh năm, còn làm ruộng chỉ được một mùa lúa. Dân Gò Công ở vùng Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Kiểng Phước vì gần biển, nên có nước ngọt khi có mưa già, nên khó lập vườn. Họ chỉ làm ruộng được vào đầu mùa mưa. Ông Phủ Khiêm nhờ có ruộng vườn nên lẫn mau giàu. Ông là ông ngoại của luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên Bộ trưởng dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Châu là tái của luật sư Trần Văn Chương, chồng trước của bà Trần Lệ Chi, là anh em cột chèo với ông Ngô Đình Nhu. Người thuộc hàng dân giã, giàu thứ nhì ở Gò Công là ông Hội đồng Nguyễn Văn Hạc (tên một loài chim). Ông có một người con gái đầu lòng, tên là cô Hai Én. Mấy người em trai của cô Hai Én, đều có tên thuộc loài chim ở miền đồng bang sông Cửu Long. Đó là cậu Bà Nhạn, cậu Tư Quắc, cậu Năm Sắt, cậu Sẻ Sáu, Bảy và Tám Trích Diệc. Cô Hai Én kết hôn với quan thầy thuốc, tức bác sĩ Nguyễn Như Ánh. Cô có mở một tiệm có thể thiệt lớn ngoài chợ Gò Công. Cậu Bà Nhạn mua chức hương hào, một chức nhỏ trong ban hương chức hội tề. Hồi tiền chiến, các cậu dân ở miệt vườn, tuy có tiền của, nhưng chẳng có chức phận chi, thường bỏ tiền ra mua chức hay hào hương hương thân. Nhờ đó mà hai chức mai sau, họ có thể leo tới chức hương trưởng, hương sư, hương cả. Vào năm 1945, gặp lúc phong trào Việt Minh nổi dậy, thầy hương hào bị ghép tội Việt gian, tội địa chủ bóc lột tá điền, nên Việt Minh xử bắn thầy. Năm Sắt ôm mối thù không đội trời chung với Việt Minh, nên tình nguyện Điềm chỉ cho Tây những ổ kín của Việt Minh (khi Tây làm chủ được lục tỉnh), những cơ quan bí mật của Việt Minh trong lãnh thổ Gò Công để báo thù cho anh mình ... Về sau, Năm Sắt lên Sài gòn, làm phóng viên nhiếp ảnh cho Nhựt báo Thần Chung. Ông ta giỏi phong cầm, được quái kiệt Trần Văn Trạch mời trình diễn phong cầm (accordéon) trong các buổi phụ diễn tân nhạc cho hai rạp hát bóng Văn Cầm (Chợ Quán) và rạp Nam Việt (Chợ Cũ). Ông Đốc phủ Hải, ngoài ruộng đất ra, còn là người lập hãng nước đá đầu tiên ở Gò Công. Người con trai của ông là cậu Bé Sáu, được du học bên Tây, ăn học thành tài. Ông Huyện Quái có người con trai là ông huyện Hải. Về sau, ông Huyện Quái có nạp một người vợ góa của một anh tá điền để làm thiếp. Chị này đẻ một đứa con trai, đặt tên là Bà Huệ. Cậu Huệ được cha mẹ cưng, được anh trưởng chuông chiều. Cậu đi học, có tài xe lái xe nhà đưa rước. Người thiếp của ông Huyện Quái có nhan sắc, được chồng sung ái. Trong đám tôi tớ có đứa ghen tức, đặt điều là ông Huyện Hải thông dâm với dì ghẻ, cho nên Bà Huệ là con của ông Huyện Hải với người thiếp. Nói như vậy tức là bề ngoài Huyện Hải là anh Bà Huệ, nhưng thiệt ra là cha của Bà Huệ. Hư thực ra sao chỉ những kẻ trong cuộc mới biết. Ông Hội đồng Đinh Nhựt Chu có người con trai là hương quản Dương (Đinh Nhựt Dương) ở Tân Niên Tây. Ruộng đất của ông đều ở vùng nước mặn (biển ruộng). Nhưng các ruộng lúa ở Biên (biển ở đây có nghĩa là bưng Biên) như lúa tiêu, nàng cơ lúa, lúa nàng quot ... đều cao hơn lúa ở vùng khác, lại thường nặng hơn hột lúa hột. Thầy hương quản Dương giữ chức thấp trong 12 vị hương của ban chức hương chức hội tề, nhưng tía thay giữ chức hội đồng địa hạt, thầy quen biết các quan tai to mặt bự ở ngoài tỉnh. Vào thời thái bình thịnh trị, tuy giữ an ninh cho làng Tân Niên Tây, nhưng thầy vẫn ngồi xe máy đi đá gà, đi hột tôi. Thầy là người đầu tiên mua máy đèn, mua giàn máy hát Columbia, Mua đĩa hát nhạc Tây ... Sau đó, thầy cũng là người đầu tiên mua xe hơi, chiếc Renault Celt 4. Bởi thầy giàu, giao thiệp rộng, quen biết nhiều nên các ông hương chức hội tề từ cả hương xuống xã trưởng, thầy không dám lớn khỉnh. Còn các ông Phủ, ông Huyện, thầy Cai tổng, thầy Bàng biển, không dám cậy oai hùng thầy Hiệp. Thầy Thôn Thọ, trước làm thầy giáo. Vì thầy là nhà giàu, nên nghề gõ đầu trẻ chỉ là nghề để giải muộn thầy, chớ không phải việc mưu sanh chánh của thầy. Được ít năm, thầy nghỉ việc chỉ giữ công việc nho cho làng. Đó là chức "thôn", công nho là tiếng xưa, có nghĩa là công quỹ ngân quỹ hay. Thầy Thôn Thọ có tiệm sửa xe đạp, bán đồ phụ tùng xe đạp. Ngoài ra, thầy còn bán đèn Ti để Landy của Tây bằng xăng đốt, sau đó bán đèn dầu lửa Ai da bằng, và đèn Pétromax của Đức hai loại này thuộc loại người đàn ông chon. Về sau, thầy dẹp tiệm sửa xe, lập một cái đề bô (depot) rượu, xéo xéo chợ Gò Công. Nhà giàu chót là ông Hội đồng Lợi nhờ làm ruộng và lập vườn mà giàu có, chớ không có nguồn lợi nào khác. Ngoài ra còn thầy Ba Vị, có nhà máy chà gạo ở Vĩnh Trị, cách chợ Gò Công 7 cây số, cách Giồng ông Huê 3 cây số cũng là một nghiệp chủ đáng kể. Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, thì ông Huyện Hải (con ông Huyện Quái), hương hào Nhạn, Thôn thầy Thọ, ông Hội đồng Lợi, thầy Ba Vị cùng hai đứa con trai mới 15, 16 tuổi của thầy đều bị xử bắn. Lúc đó trong đám Việt Minh ở chợ Gò Công, có chủ tịch Côn, là thợ hot tóc ở tiệm Minh Hồng, làm chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, ban giữ chức trưởng Quốc gia tự vệ cuộc (Công an). Thầy giáo Philippe (thủ lãnh Thanh niên Tiền phong), Trần Thanh Liêm bí thơ uỷ ban Nhân dân và tên chủ tiệm tạp hoá Vạn Lợi (không giữ chức vụ gì). Khi Tây tới chiếm tỉnh Gò Công, có khuyên dân chúng ai lỡ theo Việt Minh trong thời kỳ Việt Minh cướp chính quyền, hãy ra đầu thú, sẽ được ân xá để làm ăn như xưa. Chỉ trừ chủ tịch Côn, tên thợ hot tóc tiệm Minh Hồng, thầy giáo Philippe, tên Trần Thanh Liêm, tên chủ tiệm Vạn Lợi, là 4 tên tội phạm đầu như vậy, cần phải bắt giết để trừ hậu hoạn. Về sau thầy giáo Philippe, ban đêm băng qua con lộ Giây thép, bị lính du kích đi tuần tiểu bắn chết. Tên thợ hot tóc tiệm Minh Hồng, ban đêm lên về thăm vợ ở làng Vĩnh Trị cũng bị lính ở đồn Vĩnh Trị phục kích bắn chết tại trận. Họ cột thây hắn treo lên cây ở lộ Giây Thép để cho thân nhân của những kẻ chết đến nhòm mặt. Còn chủ tịch Côn thoát chết trong một trận ruộng bố, ăn cảm thấy nan tội cũ, nên cùng tên chủ tiệm Vạn Lợi trốn lén núi Thiên Giải ở Bà Rịa để tu hành. Từ năm 1946 trở về sau, cả hai không bao giờ chương mặt ở lãnh thổ đất Gò Công nữa. Trải qua bao cuộc biển dâu, không ai còn nhắc tới họ nữa ". Ngoài ra, trong Gò Công tỉnh cũng còn nhiều nhà giàu xưa, kẻ ở phía Bắc tỉnh ly, người ở phía Nam như ông Phủ Bảy Lê Quang Liêm, ông huyện Hiền, ông Hội đồng Nguyễn Minh Chiếu (có tên đường ở Phú Nhuận ). Nhà giàu trước lớp nữa, thuộc thế kỷ 19, được người đời nhắc tới là ông Mai Tấn Huệ, một cự phú đã khai thác nhiều sở ruộng, lập vườn, xây đập để ngăn nước mặn tràn vào ruộng. Nghe đâu hồi trước ông làm quan võ dưới Triều Nguyễn tới chức Chưởng cơ, nên dân chúng nhớ ơn gọi chỗ đó là "đập ông Chưởng", nay vẫn còn. Gò Công còn là quê hương của một chàng công tử ăn chơi Khet tiếng được dân chúng tôn cậu là dân "" hay "công tử" tiền phong của Nam Kỳ. Cuộc đời của công tử Hải Miếng, con lãnh binh Huỳnh Công Tấn, chúng tôi có viết lại trong bài Gò Công, nơi phát tích các dòng họ quý tộc. Làng Đồng Sơn, trù phú nhut trong tỉnh, ruộng sâu, đất cát Phì nhiêu, tuoc nhiều vườn cây trái tươi tốt. Đó là cuộc đất của nhiều bậc cự phú trong tỉnh. Đồng Sơn cũng là quê quán của người viết tiểu thuyết tiên phong ở Nam Kỳ là Lê Sum, tự Trường Mậu (Viết báo Nông Cổ Mạn Đàm). Chỗ này là trung lâm văn hoá của Gò Công hồi giữa thế kỷ 18. Từ miền ngoài, các vị khoa bảng lỡ vận, các ông đồ theo đoàn người di dân đến đây lập nghiệp. Lớp người có căn bản Nho học đầu tiên ấy, đã đào tạo các ông Phan Nhiêu, Nhiêu Chánh ở địa phương. Tới đây chúng tôi xin nói thêm về nguồn lợi kinh tế Trầu cau ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ này để độc giả thấy sự quan trọng của nó trong các thứ Huê lợi của miền Nam. Người đời nay khó hình dung được nhu cầu của trâu, cau, thuốc hút, thuốc Hạ hồi trước quan trọng thế nào trong đời sống. Thế hệ sinh ra và lớn lên vào cuối thế kỷ 20 có thể không biết gì về tập quán xã giao hồi trước: "miếng Trầu là đầu câu chuyện". Nhiều bà già xưa thường nhắc câu "cơm ăn không đắng, ăn Trầu giải khuấy". Trai gái gặp nhau mời trâu. Khách tới nhà, việc đầu tiên là mời ăn trâu, bất luận đàn bà hay đàn ông. Hồi đó, ông ra đường người ta luôn luôn có gói Trấu, bịt đựng thuốc đem theo như vậy bất ly thân. Những bà nhà giàu xưa, mỗi lần đi đâu có tôi tớ bưng ô Trầu đi theo. Chẳng những ở Gò Công mà còn nhiều nơi tại Nam Kỳ như Gia Định, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long ... nguồn lợi về Trầu cau chiếm hàng đầu, theo tài liệu địa phương chí Nam Kỳ trong năm 1903. Hồi trước, ông bà ta ít ăn trái cây như cam, bỏ thuốc lá, dừa, chuối nhưng bắt buộc phải ăn Trầu luôn miệng. Nói theo tiếng bình dân "miếng nông này chưa hạ, tới miếng kia động quan". Điều đó cũng chứng tỏ rằng nghề bán Trầu cau đem lại một món lợi lớn cho bà Tư Nói để khởi đầu sự nghiệp làm giàu của bà. Cũng thuyết "địa linh nhân kiệt" đã cắt nghĩa tại sao làng Điều Hoà ở Mỹ Tho lại có nhiều vị Đốc phủ sứ nhut Nam Kỳ. Đó là quê hương của các ông Đốc phủ sứ Nguyễn Văn Thâm, Phủ Lê Minh Tiên, Phủ Lê Văn Mầu, Phủ Lê Công Sung (thân phụ công tử Phước George). Ông Phủ Nguyễn Văn Kiên sinh năm 1878 lại làng Điều Hoà Mỹ Tho, thuở nhỏ theo học trường Lê Myrle de Vilers, rồi sau tiếp tục lên Sài gòn theo học trường thông ngôn tức "College des Stagiaires". Những thập niên cuối thế kỷ 19, Pháp mở trường thông ngôn có mục đích đào tạo lớp công chức người bản xứ, họ hàng nên nâng đỡ, cấp học bổng để theo học. Nhiều gia đình nghèo, nhưng có con hiếu học, chỉ vài năm sau trở thành thầy ký, thầy thông, rồi từ từ leo lên hàng phủ, huyện cũng dễ dàng. Tốt nghiệp năm 1898, ông Kiên lần lượt thăng huyện, rồi phủ và từng ngồi chủ quận ở các quận Thủ Thừa, Bình Phước (Tầm Vu) thuộc tỉnh Tân An và Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ. Ông Nguyễn Văn Thâm Phủ sinh năm 1882, sau khi tốt nghiệp tại trường Mỹ Tho, ông lên Sài gòn, thi vô trường lớn Ch***eloup Laubat. Năm 1900, ông ra trường làm thư ký tập sự tại dinh Thống đốc (còn gọi Soài Rạp phủ), rồi đổi ra làm đại lý hành chánh (như Quận trưởng) tại các tỉnh Sa Đốc, Tân An, Trà Vinh ... tới năm 1935 thì về hưu với quan nac thang chót của trường ngạch thuộc địa: Đốc phủ sứ. Các ông Lê Minh Tiên, ông Lê Văn Mầu, dân cố cựu ở Mỹ Thọ, Vĩnh Long đều nghe danh tiếng về sự giàu có. Riêng ông Phủ Lê Văn Mầu, đương thời làm chủ trọn cù lao Rồng trước chợ Mỹ Tho. Cù lao Rồng, tên chữ là Long Châu, làm vua Gia Long đặt ra, nằm án ngữ trước châu thành Mỹ Tho, dài 2 cây số. Thời Pháp thuộc, chỗ này là nơi một người trí binh cùi. Sáu Trần Bá Lộc, ông Đốc phủ Mâu có lẽ là người giàu nhut nhì trong tỉnh Mỹ Tho. Theo dư luận những vị cao niên kể lại cho biết giai thoại "ác lai ác báo". Đó là sự nghiệp của hai cha con Tổng đốc Trần Bá Lộc và con là Trần Bá Thọ (Hội đồng quản hạt, kiêm Tổng đốc hàm). Nguyên vào năm 1876, Trần Bá Lộc có mua trọn cù lao Dài, còn gọi là cù lao Ngũ Hiệp hay cù lao "Năm Thôn" (sau này là xã Quái Thiện, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long). Sở dĩ gọi "Cù lao Năm Thôn" vì trên cù lao này có 5 ấp: Thanh Bình, Thanh Lương, Phù Thới, Thới Bình ... Cù lao này, hồi Pháp mới chiếm được Nam Kỳ (1872) có bán cho hai Đại uy Hải Quân giải ngủ là Brou và Taillefer với giá tượng trưng chỉ có 3.000 quan (Francs). Hàng năm Taillefer và Brou phải trả thêm 3.180 quan (Francs) như tiền thuế và phải trả mãn đời. (Xin xem thêm bài "Cù Lao Năm Thôn và lãnh chúa Taillefer", sách Nam Kỳ lục tỉnh, tập I, Văn Hoá xuất bản).
Tân An là một tỉnh nhỏ, đất phèn nhiều, nhưng là chỗ khởi nghiệp của ông Huyện Sĩ (Lê Phát Đạt), nhà giàu nhut Nam Kỳ, được dư luận gọi là "Thiên hạ đệ nhút gia". Tân An cũng có nhiều người giàu lớn như ông Cai Nguyên, ông Hội đồng Vận, và nhút là gia đình họ Nguyễn tại làng Tân Trụ, người dược địa phương gọi là "gia đình danh giá nhut" trong tỉnh. Dưới con mắt của người dân quê, ai giàu có, may mắn có nhiều con trai, gái ăn học thành tài, không đạt ra làm quan, cũng nhờ phước đức ông bà kiếp trước ăn ở hiền lành:
Khen ai kiếp trước khéo tu, Ngày sau con cháu võng dù ngang nghinh.
Gia đình họ Nguyễn làng Tân Trụ gồm có các ông: Người anh cả là Nguyễn Văn Ca, làm Quận, tốt bực trong ngành hành chánh tức Đốc phủ sứ, từng ngồi ghế chủ quận Ô Môn. Người thứ hai là Nguyễn Văn Vinh, cũng học trường Ch***eloup Laubat, làm thơ ký trước Phủ Thống đốc Nam Kỳ, roi được thăng huyện, đốc phủ sứ từng ngồi chủ quận nhiều nơi khắp lục tỉnh. Em trai thứ ba Nguyễn Văn Duyên, giáo sư, du học Pháp, đỗ bằng brevet Superieur, từng giữ nhiều chức vụ cao trong ngành giáo dục. Hai em kế là Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Văn Phan đều là dược sĩ, tốt nghiệp trường Dược Hà Nội. Người em út Nguyễn Văn Khát, y sĩ Đông Dương, cùng khoá với các bác sĩ Phương Hữu Long, Nguyễn Bính (thân phụ nhà văn An Khê) ông là thân phụ của luật sư Nguyễn Văn Huyền, nguyên chủ tịch Thượng Nghị Viện thời Việt nam Cộng hoà.
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Feb/2010 lúc 8:50am
Hoàng Tố Nguyên và những vần thơ về quê hương Gò Công
Hoàng Tố Nguyên có tên thật là Lê Hoằng Mưu, sinh năm 1929, tại Gò Me, xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
Sau khi học hết bậc tiểu học ở Gò Công, ông lên Sài Gòn học trung học. Ngày 23-9-1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Nam Bộ bùng nổ. Theo tiếng gọi của non sông, ông gia nhập bộ đội chiến đấu ở nội thành Sài Gòn, rồi hoạt động văn nghệ và tuyên truyền. Từ năm 1949-1951, ông phụ trách Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Thủ Dầu Một. Sau đó, ông làm Biên tập viên báo Cứu Quốc Nam Bộ rồi báo Vì Tổ quốc.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, làm Biên tập viên báo Văn Nghệ. Năm 1956, ông là Ủy viên thường trực Ban đại diện Văn nghệ Nam bộ ở miền Bắc. Năm 1957, ông công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1959, ông trở lại với nghề báo, làm Biên tập viên báo Độc Lập. Năm 1969, theo sự phân công của Ủy ban Trung ương các hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, ông nhận nhiệm vụ xây dựng phong trào văn nghệ ở tỉnh Hà Tây; và sau đó là tỉnh Thái Bình.
Thời gian này, ngoài việc tích cực gầy dựng hoạt động văn hóa văn nghệ ở địa phương, ông đã lao vào sáng tác một cách miệt mài và bền bỉ. Các tập thơ của ông liên tiếp được ra đời, như Đất nước (1955), Gò Me (1957), Từ nhớ đến thương (1960), Quê chung. (1962), Gởi chiến trường chống Mỹ (1966), Tên quê hương. Nếu như hai tập thơ đầu là tiếng lòng và nỗi nhớ khôn nguôi của ông về quê hương miền Nam thân thương và anh dũng; thì các tập thơ còn lại là lời ca tự hào về công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và niềm tin tất thắng của dân tộc trong cuộc trường chinh chống Mỹ.
Trong những tập thơ ấy, Gò Me là tập thơ nổi tiếng nhất. Và trong tập thơ Gò Me, bài thơ Gò Me là bài thơ hay nhất; mở đầu bằng những câu thơ:
Quê tôi đó, mặt trông ra bể,
Đóm hải đăng tắt lóe đêm đêm.
Con đê cát đỏ cỏ viền,
Leng keng nhạc ngựa, đường lên chợ Gò.
Qua thơ của ông, Gò Me-Gò Công hiện lên vô cùng tươi đẹp, thanh bình, dung dị và chân chất:
Ruộng Gò Công, có bay thẳng cánh,
Ao Gò Me, nước gánh không vơi.
Ruộng vây quanh, bốn mùa gió mát,
Lúa Nàng Keo chói rực mặt trời.
Ao làng trăng tắm mây bơi,
Nước trong như nước mắt người tôi yêu.
Không chỉ thế, trong thơ ông còn có cả những cô gái Gò Me xinh xắn, giỏi giang và yêu đời:
Những chị, những em, má núng đồng tiền,
Nọc cấy tay tròn, nghiêng nón làm duyên.
Véo von điệu hát cổ truyền,
Tre thôi khúc khích, mây chìm lắng nghe.
Nhìn chung, thơ của ông có thể gom vào ba chủ đề lớn: thứ nhất, thơ viết về Bác Hồ, vị cha già dân tộc; thứ hai, thơ viết về miền Bắc xã hội chủ nghĩa, về những con người đã sản xuất và chiến đấu vì đồng bào miền Nam ruột thịt; thứ ba, thơ viết về miền Nam, trong đó có quê hương Gò Me biết mấy thân thương của ông, đang quật khởi vùng lên, chống ách bạo tàn của bọn giặc ngoại xâm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tháng 6-1975, ông mất tại Hương Canh, Thái Bình sau một cơn bạo bệnh. Một năm sau, trong lời đề tựa tập thơ Từ thương đến nhớ, nhà thơ Chế Lan Viên viết: "... Tôi nhận được tin anh mất ở Sài Gòn, ngẩn ngơ vì thương tiếc một cây bút, những dòng thơ...Tôi tiếc cho Hoàng Tố Nguyên (Lê Hoằng Mưu) đã có một quê hương Gò Me-Nam bộ lúc ra đi, đã có một quê hương Hương Canh-miền Bắc lúc trở về, có cả một Tổ quốc thống nhất xã hội chủ nghĩa, giữa ngày sắp được đoàn tụ, thế mà không sống đến phút đoàn tụ ấy. Tôi cũng tiếc cho Gò Me, Gò Công quê anh đã không có anh trở về... Trong mấy nhà thơ Nam bộ tập kết ra Bắc hồi ấy, phải nói rằng anh là một trong mấy người có tài hơn cả...Lần đầu tiên khi thơ anh xuất hiện ở Thủ đô, nó đã được nhiều người yêu mến và giới sành thơ trân trọng."
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP
Địa chỉ: Trường Đại học TG, 119, Ấp Bắc, P 5, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Feb/2010 lúc 1:03am
http://www.quehuonggocong.com/home/gocong/?gocong/tg.do?catgc=ylt;_news&iNews=_42131324.gocong&f=9431:thixagocong - Tản mạn Gò Công
Nuôi yến sào trong nhà
Sau khi VietNamNet đưa thông tin về việc phát hiện http://www2.vietnamnet.vn/xahoi/doisong/2006/09/612348/ - chim yến làm tổ trong rạp chiếu phim ở Quảng Ngãi, chúng tôi được đơn vị chủ công trình nuôi yến là trung tâm Eka Vietnam đưa đi tham quan mô hình nuôi chim yến trong nhà do đơn vị này khởi xướng.
Nhiều nơi nuôi được yến sào trong nhà
Theo anh Lê Danh Hoàng, Giám đốc Trung tâm Eka, chim yến sào sinh sống ở hầu hết dọc biển duyên hải miền Trung và Nam bộ. Từ trước đến nay người ta vẫn quan niệm rằng yến sào chủ yếu sinh sống, làm tổ ở các đảo khơi, còn việc chim yến làm tổ trong nhà rất hiếm và ngẫu nhiên. Nhưng theo anh Hoàng không hẳn là như vậy, chim yến không nhất thiết phải bay đi kiếm ăn ở khơi xa, mà có thể làm tổ trong nhà, sống thành bầy đàn ngay trong đất liền. Vì vậy, việc nuôi chim yến trong nhà là khả thi.
Một bằng chứng là Trung tâm Eka có nhà nuôi yến ở khá nhiều nơi thuộc hầu hết các tỉnh từ Đà Nẵng trở vào. Eka Vietnam có địa chỉ tại 68F Ngô Tất Tố, phường 22 quận Bình Thạnh, TP.HCM. Eka Vietnam là trung tâm kinh doanh trực thuộc Công ty TNHH Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Chấn Hưng được ủy nhiệm độc quyền cung cấp các tài liệu, thiết bị chuyên ngành nuôi yến trong nhà mang thương hiệu Eka thuộc tập đoàn Eka Indonesia. Chủ đơn vị này là hai anh em Lê Danh Hiển - Lê Danh Hoàng. Eka Vietnam chính là đơn vị đã phát hiện ra chim yến vào sinh sống trong rạp Hòa Bình vào tháng 10/2005, và đã thuê căn nhà bên cạnh với giá 2,3 triệu đồng/tháng để dụ chim yến vào.
Căn nhà đầu tiên Eka gọi yến vào làm tổ ở Phan Rang tỉnh Ninh Thuận và đã thành công, được thực hiện cách đây 1 năm. Hiện nay ngoài những căn nhà tự đầu tư để nuôi, Trung tâm Eka đã hợp tác với cư dân là những nhà đã có chim yến vào làm tổ ngẫu nhiên hoặc những vùng có chim yến quần tụ, đầu tư gọi yến vào nhà. Đến nay ở hầu hết các tỉnh đều có nhà nuôi chim yến của Trung tâm Eka hoặc cùng hợp tác đầu tư, gồm: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, TP.HCM, Tiền Giang. Ngay tại TP.HCM, Trung tâm Eka cho biết có chim yến vào làm tổ trong nhà ở cảng Ba Son, Ngân hàng Nhà nước, sân vận động Tao Đàn. Eka đã đầu tư cho một ngôi nhà khu vực quận 3, hiện có hàng trăm con vào sinh sống, làm tổ.
Đến giờ này, tổng đầu tư của Eka cho các cơ sở nuôi yến khoảng 3 tỷ đồng. Khách hàng của Eka khoảng trên 30 người. Một số trong số này yến đã vào ở nhiều năm qua, đã có khai thác, nay Eka đầu tư trang thiết bị mở rộng thêm như gỗ làm giá để chim yến làm tổ, máy dụ chim yến vào nhà… Một số khác mặc dù chưa có chim yến vào làm tổ, nhưng bằng kinh nghiệm quan sát, Hoàng và Hiển dự báo khu vực làm tổ và đầu tư cho các chủ nhà trong khu vực để dụ chim vào.
Nghề “độc”!
Năm học đại học thứ hai, Lê Danh Hoàng gặp ông E. Nugroho, tiến sĩ người Indonesia, sang tiếp thị các chương trình và vật tư cho việc nuôi yến trong nhà. Lê Danh Hoàng đã xin theo học kỹ thuật, kinh nghiệm. Hoàng được hai Tiến sĩ là Nugroho và When Drato dẫn dắt, và tham gia học hỏi ở nhiều nước khu vực Đông Nam Á. Sau khi tiếp thu được nhiều kỹ thuật và kinh nghiệm, Lê Danh Hoàng cùng anh là Lê Danh Hiển thành lập Trung tâm Eka Vietnam.
Ở Việt Nam, phải nói nghề nuôi chim yến là nghề độc nhất vô nhị. Lúc Trung tâm Eka thành lập, chưa ai biết nuôi chim Yến. Sau căn nhà đầu tiên nuôi yến ở thị xã Phan Rang tỉnh Ninh Thuận thành công, Trung tâm mới dám nhân rộng ra khắp các tỉnh. Bắt đầu từ việc bỏ tiền ra tự đầu tư, sau đó kêu gọi tham gia. Khi số người tham gia đã khá đông, Trung tâm Eka làm luôn các dịch vụ như cung cấp thông tin, tổ chức các khóa học kỹ thuật nuôi yến, kiêm tư vấn, thiết kế xây dựng nhà yến, cung cấp trứng yến, vật tư, thiết bị, tài liệu nuôi và chế biến yến sào.
Tại huyện Gò Công tỉnh Tiền Giang, Eka mua một căn nhà 4 tầng đối diện chợ đặt chi nhánh. Chỉ có tầng trệt để ở và làm việc, còn lại 3 tầng trên nuôi chim. Đây không phải là nhà có chim vào làm tổ sắn, mà mới vừa xây dựng xong và anh em Hoàng - Hiển dụ vào. Gần kề là hai căn nhà khác của khách hàng, được Eka đầu tư hơn 2 tháng, đã có trên 80 con chim vào làm tổ. Chủ căn nhà này đặt 10 camera quan sát. Đối diện những căn nhà này, ngay tại khu chợ cũng có một văn nhà với gần 100 chim yến đang làm tổ.
Cách chợ Gò Công 5km, tại ấp Khương Thượng, xã Long Bình, có một ngôi nhà yến vào làm tổ đã trên 20 năm qua. Hiện tại trong ngôi nhà này có trên 1.000 con, mỗi mùa làm khoảng 400 cái tổ. Bình quân mỗi tổ yến 10gr, tức mỗi mùa chủ nhà thu được 4kg. Thời giá hiện nay 24-25 triệu đồng/kg, vậy cứ mỗi mùa chủ nhà thu được ngót 100 triệu đồng. Theo kiến thức của Lê Danh Hoàng, yến ở đảo khơi do phải đi ăn xa, không đủ sức nên mỗi năm chỉ có một mùa làm tổ, và tổ mỏng. Còn yến nuôi trong nhà cho tổ dày, và mỗi năm có thể cho tới 4 đợt làm tổ.
Mong muốn phát triển làng nghề
Sau khi các khách hàng của Eka biết phương pháp dẫn dụ và nuôi yến, đã tự đầu tư theo hướng kinh doanh tương tự Eka, nhưng hầu hết không thành công. Mặc dù là lộc trời cho, nhưng không phải ai cũng có thể khai thác.
Vì vậy, hiện giờ chỉ có Eka là thành công nhất trong lĩnh vực nuôi chim yến sào trong nhà. Gần đây, Eka kết hợp với khách hàng ấp và nuôi chim với số lượng lớn tại Nha Trang. Ngoài ra trung tâm còn tư vấn xây dựng và cung cấp thiết bị cho hàng chục nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Mặc dù vậy, Hoàng và Hiển luôn mong muốn chuyển giao kỹ thuật để phát triển rộng rãi nghề nuôi yến ở Việt Nam. Quan điểm của Hoàng và Hiển phải phát triển hoạt động nuôi yến thành một ngành nghề. Từ đó, nghề nuôi yến ở Việt Nam mói có thể gia nhập vào phong trào trong khu vực và thế giới, và sẽ mang lại giá trị, lợi ích nhiều hơn cho người nuôi yến. Hiện tại trong khu vực đã có nhiều nước nuôi yến trong nhà là Indonesia với hơn 200.000 căn nhà. Tiếp theo là Malaysia và Thái Lan với hơn 5.000 căn nhà đã được xây dựng tại mỗi nước. Kế đến Ấn Độ, Srilanka…
Để hỗ trợ cho việc phát triển rộng rãi chương trình này, Hoàng và Hiển đã khảo sát các tỉnh dọc bờ biển từ Bắc vào Nam, lập ra bản đồ đánh dấu những vùng có thể nuôi yến trong nhà. Trung tâm Eka thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, tài liệu cho người nuôi yến và cả người muốn kinh doanh. Bên cạnh đó hai anh em lập ra website http://www.ekavietnam.com/ - http://www.ekavietnam.com/, giới thiệu các thông tin và kiến thức cho người nuôi yến.
Cũng với ý nghĩ phát triển chương trình này, Hiển và Hoàng đã mua một khu đất tại xã Long Bình huyện Gò Công, lập dự án xây dựng thành làng yến với 100 căn nhà. Phương pháp thực hiện dự án ngoài một phần vốn bỏ ra, Trung tâm sẽ mời gọi tham gia. Nếu trước đây nói đến yến sào, người ta chỉ biết có Khánh Hòa, sau đó là vài tỉnh khác của duyên hải miền Trung, thì nay theo nhận định của hai anh em Hiển - Hoàng, khu vực phía Nam mà tập trung là Tiền Giang mới là vùng đất có đông đảo chim yến. Đây là điều kiện thuận lợi để khoanh nuôi, bảo vệ và phát triển nghề nuôi yến trong nhà.
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Mar/2010 lúc 6:11am
Lịch sử phát triển Gò Công
Thời Pháp thuộc
Năm 1876 Gò Công, vốn trước kia thuộc tỉnh Định Tường thời "Nam Kỳ lục tỉnh", trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực (circonscription) Mỹ Tho do thực dân Pháp đặt ra. Hạt tham biện (còn gọi là Tiểu khu hành chính, trị sở được dân gian quen gọi là tòa Bố) Gò Công gồm 4 tổng: Hòa Đồng Thượng (có 8 làng), Hòa Đồng Hạ (có 10 làng), Hòa Lạc Thượng (có 10 làng), Hòa Lạc Hạ (có 12 làng).
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Gò Công trở thành tỉnh Gò Công, với số tổng và số làng không đổi. Tỉnh lị là thị xã Gò Công.
Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, Gò Công trở thành quận thuộc tỉnh Mỹ Tho. Sau đó lại tái lập tỉnh Gò Công với 5 tổng, thêm tổng Hòa Đồng Trung, số làng cũng thay đổi.
Thời kỳ 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ bỏ cấp tổng, còn làng thì thống nhất gọi là xã.
Năm 1946 Gò Công là một trong 21 tỉnh của Nam Bộ.
Thời Việt Nam Cộng Hòa
Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sáp nhập tỉnh Gò Công vào tỉnh Định Tường mới thành lập trên phần đất tỉnh Mỹ Tho. Ngày 20 tháng 12 năm 1963, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập tỉnh Gò Công, tách từ tỉnh Định Tường.
Gò Công là một tỉnh nhỏ, phía bắc với giáp hai tỉnh Long An và Gia Định, phía đông là biển Đông, phía nam giáp tỉnh Kiến Hòa, phía tây giáp tỉnh Định Tường. Ranh giới phía nam của Gò Công là sông Cửa Đại, ranh giới phía bắc là sông Vàm Cỏ Tây, còn ranh giới phía đông bắc là sông Nhà Bè đổ ra cửa Soài Rạp.
Khi mới tái lập tỉnh Gò Công gồm 2 quận Châu Thành (đổi tên từ quận Gò Công) và Hòa Đồng với 4 tổng 31 xã. Ngày 6 tháng 4 năm 1965, chia quận Châu Thành (tỉnh Gò Công) thành 2 quận: Hòa Tân, quận lỵ tại xã Tân Niên Tây với 9 xã; Hòa Lạc, quận lỵ tại xã Tăng Hòa với 9 xã; chia quận Hòa Đồng thành 2 quận: Hòa Đồng, quận lỵ tại xã Vĩnh Bình với 8 xã; Hòa Bình, quận lỵ tại xã Bình Luông Đông với 5 xã. Như vậy tỉnh Gò Công có 4 quận.
Đến tháng 8 năm 1968, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng tách quận Gò Công khỏi tỉnh Mỹ Tho để lập lại tỉnh Gò Công.
Sau năm 1975
Tháng 2 năm 1976 tỉnh Gò Công nhập với Mỹ Tho thành tỉnh Tiền Giang. Hiện nay địa bàn tỉnh Gò Công cũ tương ứng với thị xã Gò Công và các huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây.
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 03/Mar/2010 lúc 6:18am
Chuyện về Quốc Mẫu TỪ DŨ THÁI HẬU
Đêm nay, Từ Dũ Thái Hậu thấp thỏm lo âu, cũng chỉ vì bên ngoài trời tối mịt, có lẽ đã canh hai, mưa vẫn rả rích rơi đều… Suốt từ trưa đến giờ, tin tức về thuyền ngự vẫn bặt tin. Ngày mai, sáng sớm là làm lễ kỵ ở đền Phụng Thiên rồi, mà nhà vua vẫn chưa về. Vua đã trình trước với Thái Hậu là hôm nay tuần hành ở cửa biển Thuận An. Lúc đi, trời quang mây tạnh, không ngờ xế chiều trời nổi cơn giông, thuyền ngự chắc bị ngược gió nên không tiến được.
Cũng đúng vào lúc Thái Hậu đang hồi hộp mong ngóng như vậy, thì ở ngoài cửa Thuận, trên chiếc thuyền ngự, Vua Tự Đức cũng đang đứng tì mình trong khoang thuyền, dán mắt nhìn ra ngoài trời mưa gió, những ngón tay dài run run, gõ dồn từng nhịp trên khung cửa mạn thuyền. Mỗi đợt sóng bập bềnh đập vào mạn thuyền, làm cho thuyền chòng chành, lại khiến ngài lo sợ.
Cửa sổ khoang trong hé mở, viên quan chỉ huy thuyền ngự khẽ nói với viên hiệu úy đứng canh:
- Xin tâu lại với Ngài Ngự, chỉ độ ba khắc nữa là thuyền cập bến, bão đã yên, nhưng sức nước vẫn còn chảy xiết, đã tăng thêm nhiều tay chèo, nên không còn lo gì nữa.
Quả nhiên không mấy chốc, thuyền ngự đã cập bến. Nhà vua cùng tả hữu thở phào trút nỗi lo âu, vội kéo nhau đổ bộ về cung. Kiệu rồng đang chờ sẵn, nhà vua ra lệnh cho phu kiệu gia tăng tốc lực. Ngài đang sợ. Sợ vì nỗi lo âu của Thái Hậu trong hành cung.
Kiệu rồng nhanh chóng dừng lại trước cửa; Mặc cho cơn mưa chưa ngớt, Tự Đức hấp tấp đội mưa, lao vội vào cung của Thái Hậu. Bà Từ Dũ vẫn nằm im trên sập, thoáng thấy bóng nhà vua, liền bỏ sách và kính xuống, xoay mình quay mặt vào trong tường. Tự Đức rón rén lại gần,quỳ xuống:
- Kính tâu Thái Hậu, con đã về.
Bà vẫn nằm im không đáp. Cả gian phòng hoàng cung im ắng, ánh bạch lạp tỏa sáng lạnh lùng. Tự Đức càng thêm kinh sợ. Nhà vua đưa mắt ra lệnh cho cung nữ hầu Thái Hậu. Hình như đã quen với nề nếp quy định, thỉnh thoảng vẫn diễn ra trong chốn thâm cung này, người cung nữ vội vàng bưng mâm son nhỏ, trên là cây roi mây ngắn, dâng lên vua Tự Đức. Nhà vua đỡ lấy mâm, cung kính đặt lên sập, ngay sau lưng Thái Hậu, Đoạn lùi lại nằm xấp xuống sàn nhà, úp mặt chờ đợi. Thái Hậu vẫn nằm quay lưng ra, không cử động. Mọi người im lặng gần như nín thở.
Vài ba phút qua đi, Từ Dũ Thái hậu mới trở mình, ngồi dậy, thong thả phán:
- Thôi! Con đứng dậy đi. Con đã làm ta bồn chồn suốt một buổi trời. Bao nhiêu quân quan vì con mà chịu giông tố khó nhọc. Liệu mà ân thưởng cho người ta. Rồi sắp đặt để mai hầu kỵ. Tự Đức lồm cồm ngồi dậy, lạy tạ mẹ rồi lui vể cung điện riêng của mình. Ngay đêm ấy, bữa ngự thiện không kéo dài. Ông ăn qua loa vài miếng rồi vội đến án thư, dùng bút son phê lên một tờ chỉ dụ, giao cho các quan lập tức trong ngày mai, ban thưởng cho quân sĩ và tùy tùng hộ tống thuyền vua trong chiều mưa hôm trước.
Câu chuyện trên đây xảy ra đã đến gần 150 năm, nhưng ngày nay nhiều người trong hoàng tộc nhà Nguyễn ở Huế vẫn còn nhớ rõ. Sách báo chép lại khá nhiều (Các sách liệt truyện viết bằng chữ Hán, sách báo quốc ngữ thì có bài của ông Thân Trọng Huề, Trần trọng Kim, Trần Thanh Mại, Tạ Quang Phát v.v…) và đều ca ngợi Thái Hậu Từ Dũ, một bà mẹ xứng đáng ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX.
Từ Dũ là tên hiệu tôn phong. Thật ra, tên bà là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1810, con gái ông Phạm Đăng Hưng ở Gò Công, huyện Tân Hòa, Gia Định. Cô gái vùng quê miền Nam đã được tuyển vào cung làm vợ Vua Thiệu Trị và sinh hạ hoàng nam là Nguyễn Hồng Nhậm.
Vào cung từ khi còn ít tuổi, theo quy định của triều Nguyễn, không lấy Trạng Nguyên, không lập Tể Tướng, không tấn phong Hoàng Hậu, nên khi Vua Thiệu Trị băng hà, bà vẫn chỉ là Quý Phi. Nguyễn Hồng Nhậm lên ngôi lấy hiệu là Tự Đức, nhiều lần cùng quần thần, muốn tấn tôn cho bà là Hoàng Thái Hậu, song bà viện mọi cớ từ chối, bà nói với con:
- Tăng thêm hư danh cho đẹp đẽ trong hoàn cảnh nhân dân mất mùa yếu kém, thì cũng làm tăng cái thất đức của ta mà thôi… Ta chỉ mong các công khanh và bề tôi hãy hết sức giúp vua ở chức vụ mình, làm cho ta ngày ngày thấy được sự thái bình của đất nước thì không còn cái vui nào hơn thế.
Cho đến năm 1870, bà tròn sáu mươi tuổi mới được tổ chức lễ tấn phong Hoàng Thái Hậu. Từ Dũ còn buộc phải tiến hành thật đơn giản, ít tốn kém… Tiếng tốt của bà vì thế mà được lưu truyền.
Nhắc tới Từ Dũ thái hậu, ai cũng phải thừa nhận rằng bà là một con người khiêm cung, kiệm ước. Uy tín của bà ngày càng lớn, bà càng nghiêm khắc với người trong họ mình. Thói thường một người làm quan cả họ được nhờ, huống chi bà là Hoàng Thái Hậu; Trong họ Phạm, có thân tộc bà, từ Gò Công ra Huế, cầu xin vua Tự Đức ban cho chức tước. Bà ân cần bảo nhà vua:
- Người trong họ mẹ, không có công lao gì thì không được ban cho tước lộc. Hễ có ai làm điều gì trái phép nước thì cứ nghiêm trị như thường để làm gương công minh cho dân trong nước biết.
Thái hậu Từ Dũ vốn là người thích sử sách. Bà khuyến khích Vua Tự Đức phải đọc sách nhiều ,và cùng con suy nghĩ, bàn luận không những kinh thư, Hán sử, để rút ra bài học trị nước, mà còn luôn luôn quan tâm đến hiện tình đất nước. Bà thường nhắc nhở con:
- Nhân bất học bất tri đạo (Người không học thì không biết đạo lý); Làm vua thì phải cảnh giác với những tham quan ô lại; Từ xưa đến nay, quan lại, một chữ tham là chưa trừ được. Mọt nước hại dân chẳng qua là như vậy… Quan bổ ra tỉnh ngoài, khi về thì vị nào cũng giàu có. Của cải ấy không lấy của dân thì lấy ở đâu?
Bà rất hài lòng khi trong triều có những vị quan mẫu mực, văn võ kiêm toàn như Nguyễn Tri Phương, công bình như Vũ trọng Bình.
Đức Từ Dũ, không chỉ có những lời dặn dò chỉ bảo nhà vua trong những buổi tâm sự riêng tư hay bàn bạc về sách vở. Nhiều lần, bà đã trực tiếp uốn nắn những việc làm sai trái của nhà vua. Như việc ông Phạm Phú Thứ, dám dâng sớ chỉ trích nhà vua, lơi là việc quốc sự, lúc vua Tự Đức mới lên ngôi, còn trẻ chưa chú tâm vào việc triều chính lắm; nhà vua bực bội cách chức Phạm Phú Thứ, đuổi về làm lính ở bên bờ sông Lợi Nông. Câu chuyện đến tai Thái Hậu. Bà chờ dịp thuận tiện trò chuyện với nhà vua, Bà lựa lời hỏi Tự Đức:
- Ông Phạm dâng sớ khuyên con, ông ta được cái gì?
Vua Tự Đức trả lời:
- Dạ, ông không được cái gì cả. Nhưng con thấy làm bề tôi mà trách vua như vậy là quá đáng.
- Thế khi về làm lính, ông ta có oán hận gì không?
- Con không nghe chuyện ấy.
Bà Từ Dũ gật đầu tỏ vẻ hài lòng:
Thế thì người này đáng trọng lắm. Dâng sớ trách vua là vì thương vua, yêu dân, giúp vua lại bị nạn mà không hề hờn giận. Theo mẹ đấy chính là người chính trực và trung thành. Con nên nghĩ lại nghe con.
Được mẹ khuyên nhủ rõ ràng và thỏa đáng, Tự Đức liền ân xá cho Phạm Phú Thứ, mời ông về kinh, giao chức vụ mới. Quả thực sau này Phạm Phú Thứ đã giúp nhà vua rất nhiều, đề xuất những ý kiến mới xây dựng đất nước.
*
* *
Đức Từ Dũ đã sống trong thời kỳ nước nhà gặp nhiều biến cố. Quân Pháp xâm lược nước ta, lấn chiếm hết nơi này đến nơi khác. Bà rất đau lòng trước những thất bại đắng cay. Khi tin miền Nam bị mất, bà đã khóc lóc thảm thương và nhịn ăn ba ngày; Rồi đêm 23 tháng 5 kinh thành Huế thất thủ, bà cũng theo Vua Hàm Nghi trốn ra ngoài để đi Quảng Trị. Do tuổi già sức yếu không thể chịu đựng gió sương, và không muốn cản trở bước đường của đội quân xuất bôn, bà cùng với tam cung lại trở về Huế, sống một cuộc sống âm thầm, lặng lẽ cho đến khi bà qua đời, thọ 93 tuổi.
Tại Sài Gòn, từ lâu đã có một bệnh viện mang tên bà được đặt tại 284 đường Cống Quỳnh, Quận Ba. Đó là Bệnh Viện Từ Dũ.
sưu tầm
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: mai phan
Ngày gởi: 03/Mar/2010 lúc 10:52am
Cuộc đời Huỳnh Công Miêng, con trai Lãnh binh Huỳnh Công Tấn có nhiều nét độc đáo. Huỳnh Công Miêng là người có máu giang hồ mã thượng, thích ngao du và làm việc nghĩa, tính tình hào phóng, dám ăn thua đủ với kẻ mạnh hiếp yếu. Các hành vi nghĩa hiệp ấy được dân chúng Nam Kỳ ưa thích, truyền tụng và tôn làm “cậu” và gọi “cậu Hai Miêng”. Công tử Hai Miêng xuất hiện trước tiên ở Nam Kỳ, là “công tử” tiên phong lớp trước, mệnh danh là “miễn tử lưu linh”, có nghĩa là được miễn sưu thuế, đi đâu mặc tình, không ai được phép “hỏi giấy”... Thừa hưởng sự nghiệp đồ sộ của cha để lại, cậu Hai Miêng ăn xài huy hoắc, phá phách, coi tiền như rác. Đương thời cậu Hai Miêng ăn chơi khắp trong lục tỉnh. Ai cũng nghe danh cậu. Nếu cậu có phạm tội gì nhỏ, cũng không bị truy tố vì Pháp còn nhớ ơn thân phụ cậu. Truyền thuyết về cậu Hai Miêng kể lại rằng: “Có một lần cậu vào thăm quan tham biện Mỹ Tho (Tỉnh trưởng bây giờ) với thái độ hống hách khác thường: Bước vô trường án(1), vỗ ván cái rầm, Búa xua(2) ông tham biện, bạc tiền ông để ở đâu? Hai câu trên được dân chúng truyền tụng, chứng tỏ hành vi ngang tàng của cậu, không nể bất cứ ai, kể cả viên Tỉnh trưởng người Pháp. Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miêng, Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc) Lê Công Phụng, con nuôi của Lãnh binh Tấn, được qua Pháp du học trường La Seyne gần Toulouse. Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, Tri huyện... hàm. Đợt sau cậu Hai Miêng có Lê Công Hoàng, Nguyễn Quang Nghiêm (cô cậu với Lộc) đều đậu Tú tài, hồi hương liền được bổ làm Tri huyện ngay. Trường hợp cậu Hai Miêng lúc mới về nước, Pháp cho cậu phục vụ dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc, hy vọng cậu nối nghiệp cha, thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa lập công. Khi Lộc đem quân ra Bình Thuận, Khánh Hoà, cậu Hai Miêng cũng có mặt trong đoàn quân thứ đó. Lần này Lộc lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe doạ giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Kế sách ấy tuy cũ, dã man nhưng hiệu quả. Pháp kích động cậu Hai Miêng lập công, nhưng công việc ấy không hợp với bản tính hào phóng của cậu. Cậu vốn ghét những kẻ ỷ mạnh hiếp yếu, binh vực người cô thế, và rất oán ghét bọn cường hào ác bá. Chán nghề chém giết, cậu Hai Miêng xin xuất ngũ để sống cuộc đời của một kẻ “miễn tử lưu linh”, ngồi ghe hầu chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Cậu Hai Miêng sống cuộc đời ngoại hạng, vượt xa các công thức đương thời. Nghe đồn rằng cậu được Pháp cấp cho tấm giấy “miễn tử lưu linh”, đi tới đâu cũng không bị ai làm khó dễ, miễn dòng thuế thân, miễn sưu dịch, miễn lính tráng. Tuy nhiên, một nhà văn chuyên sưu tầm truyện xưa tích cũ là cụ vương Hồng Sển cũng cho biết “chỉ nghe đồn như vậy, chớ chưa thấy tận mắt tấm giấy “miễn tử lưu linh” của cậu Hai Miêng”. Cậu Hai Miêng cũng cờ bạc cầu vui, hút thuốc phiện, bao em út ăn xài không tiếc của. Dư luận Gò Công hồi trước thường kể giai thoại về cậu Hai Miêng như sau: Lúc mới về nước, cậu chỉ thích võ nghệ, luyện côn quyền (một loại võ khí cổ, chỉ dùng sức mạnh), múa kiếm. Cậu nổi tiếng anh hùng khắp xứ. Vì không muốn bị ràng buộc, làm tay sai cho Pháp. Cậu trả chức tước Pháp ban cho. Hàng ngày cậu đi đá gà, uống rượu, hối me (một thứ cờ bạc) thả giàn. Có lần cậu đi xuống Giồng Tháp để hốt me, nhiều đàn em theo để mang một bao bạc giấy, thứ bạc con cò, rất có giá trị hồi cuối thế kỷ 19. Cậu Hai Miêng cầm chén hốt me, có các thủ hạ là Bảy Danh, Ba Ngà, Tám Hổ lo vừa tiền và chung tiền. Sòng me nào có cậu cũng ăn thua rất lớn. Lúc sòng bạc tan, cậu ra về, đi ngang qua một vườn xoài, thấy nhiều trái xoài vừa chín ửng vàng, trông rất ngon lành, cậu kêu chủ nhà hỏi mua. Chủ nhà bằng lòng, đi lấy cây sào tới hái. Cậu cười, nói: - Để tôi hái cho, khỏi cần sào! Nói xong, cậu giậm chân, nhún mình, nhảy lên rứt một lượt mấy trái xoài chín cây. Ai nấy đều khen ngợi. Trong “Thơ Cậu Hai Miêng” có đoạn mở đầu như sau: Nam Kỳ có cậu Hai Miêng, Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công. Cậu Hai là bực anh hùng, Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh! Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh Khác với cha hống hách, cậu Hai Miêng ăn ở rộng rãi với mọi người, hay chia xẻ tiện nghi với anh em, bè bạn và những kẻ dưới tay, cho nên du côn khắp xứ đều kiêng nể cậu, kính phục cậu Cậu tới đâu cũng được đồng bào ủng hộ, thương mến: Xóm làng ai cũng đều thương, Cậu Hai trung hậu, lòng nhân ai bì? (Thơ Cậu Hai Miêng) Hồi đó, trong những đám giỗ, đám cưới có dịp thức khuya, đồng bào Nam Kỳ hay kể nhiều giai thoại về cậu Hai Miêng: “Khi Pháp cho đào Ao trường đua (xung quanh là đường vòng đua ngựa), bắt dân phu trong tỉnh Gò Công phục dịch, làm sưu cực khổ. Họ cưỡng bách lao động như tù khổ sai: ban ngày đào đất, đắp lộ ban đêm ăn ngủ tại chỗ. Hết toán này tới toán khác thay phiên, còn bị cặp rằn (tức giám thị) đánh đập như súc vật vì muốn công việc mau xong. Một buổi sáng, cậu Hai Miêng đi ngang qua đó, thấy cảnh làm việc quần quật mà còn bị đánh như trâu ngựa. Nổi máu anh hùng, cậu liền thộp ngực một tên cai mã tà (cảnh sát bây giờ) hung ác, đấm đá luôn. Cai Phi, cặp rằn đều bị cậu cho ăn mấy bạt tay, rồi cậu bắt họ đội đất chạy lên chạy xuống như mấy người dân đang bị hành hạ. Ngoài ra cậu còn quất cho họ mấy roi. - Tao đánh chúng bây coi tụi bây có đau như dân phu hay không? Cũng từ đó, dân phu đào Ao trường đua bớt bị hà hiếp, đánh đập như từ trước đến nay. Đi ngao du tới đâu, cậu Hai Miêng cũng trừng trị bọn cường hào ác bá tới đó. Đối tượng trừng trị của cậu là bọn nhà giàu, điền chủ hống hách, các ông làng, cai tổng chuyên môn bắt nạt dân địa phương. Ngay đến cả Tây, cậu Hai Miêng cũng ương ngạnh, cứng đầu, không khuất phục. Khi hết tiền, cậu ghé dinh tham biện, chủ tỉnh “mượn đỡ” để xài. Nể tình cha cậu, các quan Tây cũng giúp đỡ ít nhiều. Hồi trước ở miền Nam, thấy ai ăn ở tánh nết ngang tàng, ông bà ta thường nói: Cậu Hai, cậu chớ có lo, Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài(3) Tôi được nghe một giai thoại chính cụ Nguyễn Văn Vực kể lại: “Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miêng ngao du tới xứ Bạc Liêu. Lúc đó nhằm mùa khô, nhiều ghe chài đến “ăn lúa” tại nhà các đại điền chủ. Lúc đó, dưới bến sông, trước nhà anh em ông chủ Thời, chủ Vận diễn ra cảnh vác lúa xuống ghe rộn rịp như cái chợ. Ở địa phương này, dân chúng ai cũng ngán hai anh em chủ Thời, chủ Vận. Ông chủ Thời có một cô con gái tên là “Cô Hai Sáng”. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ “Sáng” như “buổi sáng”, “hồi sáng mai”, mà phải nói lại “buổi sớm”, “sớm mới”... thì đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao. Khi mấy chiếc ghe hầu của cậu Hai Miêng do thủ hạ chèo đi ngang qua, vô tình ông chủ Thời trông thấy, kêu một đứa bạn (người ở đợ) gần đó, hỏi lòn: - Ghe của ai đi dưới sông đó bây? Nghe câu hỏi phách lối ấy, cậu Hai Miêng tức giận. Cậu cho ghe ghé lại. Thấy cô Hai Sáng đang đứng chơi dưới bến, cậu Hai Miêng liền cho tay chân bộ hạ bắt cô ta trói lại, và kéo lên cột buồm. Khi biết đó là cậu Hai Miêng, quan tham biện Pháp còn nể, ông chủ Thời xuống nước nhỏ, năn nỉ. Ông thương lượng với cậu Hai Miêng “xin chuộc” cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc. Bao cà ròn đơn bằng đệm bàng, đáy rộng, miệng túm, hồi trước thường dựng gạo, dung lượng khoảng 10 lít (hay 1 yến), rất thông dụng ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Lúc đó nhiều Hoa kiều từ miền Hoa Nam nhập cư vào miền Nam, chịu khó buôn bán lẻ. Hàng ngày, họ vác một bao cà ròn trên vai đựng cốm, kẹo, thuốc cảm mạo, kim, chỉ, thuốc hút, bánh in... đi len lỏi vào các miền quê bán dạo. Người dân quê gọi “cái chợ nhỏ lưu động ấy” là “chệt cà ròn” (cà ròn khị). Khi ông chủ Thời năn nỉ xin tha cho cô Hai Sáng, cậu Hai Miêng bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng. Bình thời, cậu Hai Miêng có tác phong của người bình dân, thân với tá điền, lối xóm quen lạ. Gặp lúc đương đầu với ai, cậu rất hung dữ vì có võ nghệ, dám chấp cả bọn du côn, đàng điếm chuyên ăn hiếp kẻ cô thế. Có lần cậu Hai Miêng xuống điền ông La Bách (Labast) ở Sóc Trăng, trừng trị bọn cặp rằng hà hiếp các nông dân tá điền, dân chúng địa phương còn nhắc tới cậu như một cử chỉ biết ơn. Tuy có học bên Tây, nhưng cậu Hai Miêng cũng có ít nhiều tác phong của bọn du côn do ảnh hưởng của Thiên địa hội. Ông Cai tổng Lê Quang Chiều, người Phong Điền, Cần Thơ, là thúc phụ của bác sĩ Lê Văn Hoạch(?), có soạn quyển “Quốc âm Thi Hiệp Tuyển”, trong đó, có bài thơ ca ngợi cậu Hai Miêng: Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng? Ba mươi tám tuổi du huỳnh tuyền. (1857-1895) Sao lờ Bến Nghé xiêu người ngó, Khói toả Cầu Kho thăm vợ hiền. Đúng bực phong lưu trời vội dứt Những trang hào kiệt đất không kiêng. Cho hay khuất bóng danh còn tạc, Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền. Huỳnh Công Miêng mất năm 1895, được an táng trong một ngôi mộ lớn ở đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là Trần Đình Xu). Thơ Cậu Hai Miêng là một trong những tập thơ có sức phổ biến rất mạnh ở Nam Kỳ. Thấy dân chúng hâm mộ con người ngang tàng ấy, người Pháp tìm cách ngăn cấm, nhưng không ngặt nghèo như các bài thơ khích động tinh thần yêu nước khác. Nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc lòng từng đoạn khác nhau. Quyển “Thơ Cậu Hai Miêng” do tác giả Văn Phước Nguyễn Bá Thời Sáng tác, nhà in Tín Đức Thư xã ấn hành năm 1928, lưu truyền lai rai, mãi đến năm 1954 mới tuyệt bản. Hai vợ chồng Huỳnh Công Tấn chỉ có 3 người con: một trai là Huỳnh Công Miêng, hai gái đều tu theo dòng kín. Thay vì sống cảnh đời trần tục để hưởng phú quý do tài sản của cha để lại, cả 3 người đều tìm một cuộc sống riêng tư. Tuy không phải là con đường phục vụ dân tộc để trả món nợ tội lỗi của cha, nhưng họ cũng không làm điều gì đáng chê trách. Vì lẽ đó, trong dư luận miền Nam có người nói rằng trường hợp Huỳnh Công Tấn “cây đắng sanh trái ngọt” không biết có đúng không? Chú thích: (1) Trường án: cái bàn dài; bua-rô ông chánh tham biện (2) Búa xua: Bonjour, câu chào tiếng Pháp. (3) Kho bạc, tức ty ngân khố
Lạ một điều là: hiện nay tại đình Nhơn Hòa tại vùng Cầu Muối Quận 1 TPHCM có bài vị thờ Huỳnh công Miêng. Phải chăng lúc sanh thời cậu Hai Miêng là tay anh chị , nên được những tay anh chị khác của vùng Cầu Muối các thời đại sau, tôn trọng , thờ tự ( theo Cựu giáo Phan Thanh Sắc.Gò Công.....)
Trích ngang sách truyện của Hứa Hoành
------------- maiphan
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Mar/2010 lúc 2:43am
http://www.quehuonggocong.com/home/gocong/?gocong/tg.do?catgc=ylt;_news&iNews=_12373722.gocong&f=1827:thixagocong - Đặc sản xứ Gò
Vọp nấu canh chua
Ở Gò Công, Tiền Giang có món đặc sản là vọp nấu canh chua với lá me non (cách nấu tư ơng tự canh gà lá giang) chấm với nước mắm đâm hay mắm ruốc Gò Công, con vọp chỉ có ở vùng nước mặn ven sông Gò Công (hình dáng tựa con nghêu nhưng to hơn 4 - 5 lần và thịt to dầy, ăn dai và ngọt). Mời bạn xuống ÐBSCL để thử món ốc bươu hấp lá gừng. Chọn khoảng 20 - 30 con ốc bươu lớn ngâm nước vo gạo một đêm cho nhả hết nhớt rồi chà sạch vỏ, lấy dao chặt bỏ đít, bỏ khúc ruột cùng phía sau, cạy miệng rồi xả nước để ráo. Nhấn cho thịt ốc lỏng ra rồi lót một chiếc lá gừng vào. Nhồi vào miệng ốc thịt ba chỉ băm với lá gừng non, lá chanh, nấm hương, bột ngọt, tiêu, muối, nước mắm... (nếu cầu kỳ cho thêm trứng vịt trộn nhuyễn). Ðem ốc hấp cách thủy, nước sôi cũng là lúc ốc chín. Món này vớt ra ăn liền, nước chấm là nước mắm chanh pha đường, tỏi, ớt xaỵ...
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 07/Mar/2010 lúc 5:38pm
Đất Gò Công: mắm làm nên danh
Dấu tích xa xưa
Gần sát mũi Cà Mau về phía Tây nam có một vịnh biển mang tên là vịnh Gò Công. Ngay trung tâm vịnh, nơi con sông Bảy Háp đổ ra, có một xóm chài trù mật cũng có tên là xóm Gò Công. Theo ông Tư Tua, một kỳ lão đã 74 tuổi, thì dòng họ ông từ vùng Gò Công của tỉnh Tiền Giang ngày nay, đến đây định cư đã đã hơn 200 năm. Ngoài cái tên nguyên quán mà những người di cư xa xưa mang theo, thì dấu vết nguồn gốc còn nhìn thấy được của người dân ở đây, đó là nghề làm mắm. Những loại mắm làm từ con tôm hiện còn ở quê gốc Gò Công, thì ở đây không thiếu món nào. Nhưng chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp chứ không bán. Duy chỉ có mắm còng thì không, dù ở đây cũng không thiếu con còng. Vì sao thế thì cũng không ai biết.
Con còng là một loài cua nhỏ, sinh sôi đông đúc trên đất sa bồi bờ biển. Khác hơn các loại mắm làm từ con cua (như mắm ba khía của Rạch Gốc, Cà Mau chẳng hạn), mắm còng Gò Công làm từ con còng trong chu kỳ vừa lột vỏ, nên con mắm rất mềm và có mùi thơm rất đặc biệt. Chu kỳ còng lột chỉ xảy ra đồng loạt vào ngày mùng 5 tháng năm âm lịch hàng năm. Người già Gò Công còn kể, cách nay chưa xa, tới mùa này, từ cù lao Tân Thới, còng lột vô bao cà ròn (đan bằng sợi bàng) chất đầy xe ngựa dập dìu chở về các lò mắm quanh vùng ngoại ô chợ Gò Công. Đi khắp Nam bộ, ngoài Gò Công chỉ thấy có mắm còng ở vùng biển Ba Tri của Bến Tre, nhưng số lượng rất ít.
Nhưng nổi tiếng nhất nghề mắm Gò Công là mắm tôm chà. Chữ chà ở đây là chà xát. Con tôm tươi khi vừa đánh bắt được rửa sạch, để ráo, cắt bỏ phần đầu từ mắt trở lên, ướp rượu muối rồi quết nhuyễn, đem phơi nắng 3 ngày. Sau đó chà qua rây (lưới lỗ li ti) để ép lấy phần thịt tôm, cho gia vị vào, đem phơi nắng tiếp độ nửa tháng, lại để tiếp trong mát chừng nửa tháng nữa thì ăn được. Nhưng muốn thật ngon, phải để từ hai tháng trở lên. Từ 3 ký rưỡi đến 4 ký tôm thì làm ra được 1 ký mắm. Thực chất mắm tôm chà là một món thức chấm cao cấp được làm từ thịt tôm. Khi ăn chỉ cần cho vào chút chanh, tỏi, ớt đánh đều lên (không cần bột ngọt). Thịt luộc, tôm luộc hay cá nướng với rau sống, xoài chua bằm cuốn bánh tráng, chấm mắm tôm chà là hết ý. Không cần cầu kỳ đến thế thì một trái khóm (thơm), vài trái ổi chua hay cóc xanh chấm mắm tôm chà nhắm rượu cũng có thể làm cho khối bợm nhậu say quắc cần câu.
Từ cung đình đi ra hay từ dân gian đi vào?
Ngoài loại mắm tôm chà, Gò Công còn nổi tiếng loại mắm tôm chua nguyên con. Dân Gò Công gọi loại mắm tôm chua này là mắm bà Từ Dũ. Ngày nay trên đường ngược Bắc, khi vừa qua đèo Hải Vân, đến khu vực Lăng Cô, du khách sẽ gặp loại mắm này bày bán trong các lọ thuỷ tinh trông rất đẹp mắt. Và khi ăn, hương vị của nó chẳng khác gì loại mắm tôm chua của Gò Công. Đọc trong Khâm định đại nam hội điển sự lệ, thấy món mắm tôm này cũng có trong thực đơn của triều đình Huế (gọi là tôm chua). Tương truyền đây là món mắm do bà Từ Dũ chế ra cho nhà bếp cung đình và từ đó đã chỉ dạy lại cho những người cùng quê. Tuy nhiên, nếu tính về mặt thời gian, thì món mắm này cùng với những người Gò Công di cư vào Cà Mau còn trước hơn cả bà Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung và sau đó trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Khác hơn mắm tôm chà, vị mặn của mắm tôm chua là từ loại nước mắm ngon, chất gây men tạo nên vị chua là từ rượu, tỏi giã nhuyễn và đường mía.
Ngày nay, nghề mắm Gò Công vẫn được duy trì và đang trên đà làm ăn phát đạt. Nổi tiếng và cũng lâu đời nhất ở đây là lò mắm Bà Hai. Bà Hai - người làm ra thương hiệu của lò mắm này đã qua đời từ lâu. Kế nghiệp hiện nay là con gái bà và người cháu ngoại là anh Huỳnh Hiếu Nghĩa, một thầy giáo dạy hoá của trường trung học địa phương. Lò mắm của anh Nghĩa mùa Tết 2006 vừa rồi bán ra được hơn 70 triệu đồng. Hiện thời cả mắm còng, mắm tôm chà và mắm tôm chua của lò Bà Hai được bà Tuyết Nga của khu du lịch Một Thoáng Việt Nam bao tiêu gần như toàn bộ.
Được hỏi đang đà làm ăn khấm khá thế, sao cơ sở không mở rộng, không tăng năng suất? Anh Nghĩa cho biết, nhà anh quyết tâm giữ nghề bằng cách giữ lấy chất lượng là chính nên chỉ làm với con tôm, con còng nguyên liệu của vùng Gò Công mà thôi.
(Theo SGTT)
-------------
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/Mar/2010 lúc 11:17am
Những chiến tướng của Trương Định qua tư liệu dân gian ở Gò Công
1. ĐẶNG KHÁNH TÌNH
Đặng Khánh Tình chưa rõ năm sinh năm mất, người thôn Vĩnh Hựu, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, khi Trương Định phất cờ khởi nghĩa, ông gia nhập nghĩa quân, đầu tiên giữ chức Đội. Về sau, do có chiến tích nên được thăng lên làm Đốc binh. Sau khi Trương Định mất (1864), ông trở về quê nhà, chiêu tập nghĩa sĩ, sắm sửa lương thực, vũ khí, lập căn cứ, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp. Để có danh nghĩa và uy tín tập hợp, chỉ huy nghĩa quân, ông tự xưng là Phó Lãnh binh và được nhân dân quen gọi là Phó Lãnh binh Tình. Ông có một người phụ tá rất đắc lực là Nguyễn Văn Chung (Được biết, ông Nguyễn Văn Chung là ông nội của nhà cách mạng nổi tiếng ở Gò Công là Nguyễn Văn Côn). Giữa hai vị thủ lĩnh nghĩa quân này có tình bạn chiến đấu rất gắn bó với nhau. Cho nên, ở địa phương có câu ca:
Chừng nào hạc nọ xa đình,
Hạc xa hương án, Chung Tình mới xa.
Và:
Vĩnh Hựu Tình Chung, chân chánh khí,
Tân Niên Hòa Quới, thị anh hùng. (1)
Dưới sự chỉ huy của ông, hoạt động của nghĩa quân dần dần được mở rộng. Lo sợ ảnh hưởng của phong trào kháng chiến ngày càng sâu đậm trong nhân dân, thực dân Pháp ra lệnh cho Huỳnh Văn Tấn huy động lực lượng mạnh tấn công vào căn cứ Vĩnh Hựu. Sau ba ngày bao vây, quân giặc đồng loạt mở cuộc tiến công. Ông chỉ huy nghĩa quân kiên quyết đánh trả; nhưng do thế yếu, ông bị địch bắt.
Sau đó, bọn chúng giam giữ ông ở khám đường Gò Công. Tại đây, bọn cai ngục vừa giở trò mua chuộc, dụ dỗ; vừa tra tấn hết sức dã man nhằm buộc ông phải đầu hàng. Nhưng, ông vẫn giữ vững khí tiết, thà chết chứ không cam chịu làm tay sai cho kẻ thù ngoại bang. Cuối cùng, thực dân Pháp đã hèn hạ xử chém ông tại chợ Gò Công. Tàn bạo hơn, bọn chúng đã cho bêu thủ cấp của ông trong nhiều ngày để đe dọa nhân dân. Nhưng chính điều đó đã khiến cho quần chúng càng thêm căm thù thực dân Pháp và cảm thương vị anh hùng đã vì nước quên thân.
Hiện nay, phần mộ của ông ở ấp Thới An, xã Long Vĩnh, huyện Gò Công Tây vẫn được nhân dân hương khói quanh năm.
2. ĐỖ TRÌNH THOẠI
Đỗ Trình Thoại chưa rõ năm sinh, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh và học giỏi. Năm 1843, ông thi đỗ Cử nhân tại trường thi Gia Định; được triều đình bổ làm Tri huyện Tân Hòa (bao gồm khu vực Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay); nên được mọi người quen gọi là Huyện Thoại. Về sau, chưa rõ vì lý do gì mà ông bị triều đình cách chức.
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định. Với lòng yêu nước nồng nàn của một trí thức chân chính, ông tham gia công cuộc chống Pháp ở mặt trận Chí Hòa (Gia Định, nay là thành phố ************). Tháng 2 1861, đại đồn Chí Hòa bị thất thủ, ông trở về Gò Công, mộ nghĩa dũng và kết hợp với Trương Định nổi lên kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược.
Sau khi hạ thành Mỹ Tho vào trung tuần tháng 4 1861, quân Pháp tiến đánh Gò Công; sau đó, bọn chúng đã cho thiết lập nhiều đồn bót ở đây nhằm kiểm soát và bình định vùng đất vừa mới chiếm được. Với quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước và bảo vệ chủ quyền dân tộc, ông đã chỉ huy nghĩa quân tiến hành nhiều trận tập kích táo bạo vào các vị trí chiếm đóng của quân viễn chinh Pháp ở Gò Công, gây cho chúng những thiệt hại đáng kể.
Tiêu biểu là trận tập kích đồn Gò Công ngày 22 6 1861. Vào lúc tờ mờ sáng, ông trực tiếp điều động nghĩa quân bất ngờ mở cuộc tấn công. Với cương vị là tướng chỉ huy, ông đã dũng cảm xông lên phía trước, bất chấp hiểm nguy mặc dù súng của địch từ trong đồn bắn ra hết sức dữ dội.
Sau khi vượt qua những vòng rào phòng thủ kiên cố, nghĩa quân đã đột nhập được vào bên trong đồn. Một trận giáp chiến kịch liệt giữa quân ta và quân Pháp đã diễn ra. Hàng ngũ của quân địch trở nên rối loạn. Bằng võ nghệ cao cường, ông đã dùng gươm giết chết tên lính thủy quân lục chiến Bodiez và đâm trọng thương tên trung úy Paulin Vial, Trưởng đồn kiêm Giám đốc bản xứ sự vụ Gò Công. Nhưng, thật không may, ông bị trúng đạn; và anh dũng đền nợ nước, để lại bao niềm thương tiếc của sĩ dân Gò Công.
3. MẠC BẢO ĐƯỜNG
Mạc Bảo Đường chưa rõ năm sinh, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông gia nhập lực lượng nghĩa quân Trương Định; tham gia nhiều trận đánh ác liệt với quân Pháp, lập được những chiến công oanh liệt, nên được Trương Định phong chức Thống quản cơ với trọng trách là chỉ huy nghĩa quân bảo vệ phòng tuyến phía tây (thuộc địa bàn huyện Gò Công Tây hiện nay) của căn cứ Gò Công.
Năm 1862, quân Pháp tiến đến xóm Nhà Dài (nay là ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây). Nhận được tin cấp báo, mặc dù là ngày mùng 5 Tết, ông vẫn lên yên ngựa, nhanh chóng tập hợp và chỉ huy nghĩa quân bất ngờ bao vây, tấn công quân địch. Trận chiến đã diễn ra rất quyết liệt. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp đã tập trung mọi loại hỏa lực bắn mạnh vào lực lượng nghĩa quân. Giữa lúc đó, ông bị trúng đạn của đối phương. Do vết thương quá nặng, ông đã anh dũng đền nợ nước.
Phần mộ của ông, do sự thay đổi của các khu dân cư trong những thế kỷ qua, nên chưa biết đích xác ở đâu; chỉ biết rằng, nơi chôn cất ông tọa lạc tại một khu đất thuộc ấp Chợ Mới, xã Long Hòa, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
4. NGUYỄN NGỌC CHẤN
Nguyễn Ngọc Chấn chưa rõ năm sinh, người thôn Tân Niên Tây, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia khởi nghĩa Trương Định, lập được nhiều chiến công, nên được phong chức Đốc binh, do đó, mọi người quen gọi là Đốc binh Chấn. Trong quá trình chiến đấu, ông là một trong những cộng sự thân tín nhất và được Trương Định đặc biệt tin cậy. Ngày 20 8 1864, trong trận đánh trả cuộc tập kích bất ngờ của quân địch do Huỳnh Văn Tấn chỉ huy, ông đã cố sức bảo vệ Trương Định; nhưng sự việc không thành; và cuối cùng, vị chủ tướng anh hùng đã ngã xuống trong vòng tay của ông. Bản thân ông cũng bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông về giam giữ ở Gò Công. Bọn chúng giở thủ đoạn vừa mua chuộc, dụ dỗ; vừa đánh đập, tra tấn dã man, hòng buộc ông phải quy hàng. Nhưng, ông vẫn một lòng trung thành với đất nước và dân tộc. Bất lực trước ý chí kiên cường của vị Đốc binh yêu nước, thực dân Pháp đã đày ông ra Côn Đảo. Mãi chín năm sau, ông mới được trả tự do. Về lại quê nhà, ông mở trường dạy học nhằm truyền dạy tinh thần đấu tranh bất khuất cho môn sinh và lập đền thờ hương khói thờ phụng Trương Định và những nghĩa quân đã vì nước quên thân.
Năm 1907, do tuổi cao sức yếu, ông qua đời tại Giồng Tháp (Gò Công). Mộ của ông được xây bằng đá xanh theo lối 'Ngưu phanh', tọa lạc tại xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
5.TRẦN VĂN HIỀN
Trần Văn Hiền chưa rõ năm sinh năm mất, người thôn Long Thạnh, huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định. Do lập được nhiều chiến công, ông được Chủ tướng Trương Định phong chức Đốc binh. Tháng 8 1864, Trương Định bị giết hại, cuộc khởi nghĩa tan vỡ, ông bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo. Sau đó, ông vượt ngục trở về Gò Công, chiêu tập nghĩa sĩ, chuẩn bị khởi binh chống Pháp. Phong trào ngày một lớn mạnh. Để gây thanh thế, từ căn cứ Long Thạnh, ông chỉ huy nghĩa quân tấn công đồn Chợ Giồng (nay thuộc thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây), gây cho địch nhiều thiệt hại.
Sau trận này, chính quyền thực dân huy động lực lượng mạnh từ Mỹ Tho và Gò Công đến đàn áp. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Ông bị thực dân Pháp bắt, đày đi Cayenne (Trung Mỹ); và qua đời ở tại đó.
6. TRẦN VĂN THIỆN
Trần Văn Thiện, chưa rõ năm sinh, người thôn Đồng Sơn, huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, được Bộ Chỉ huy nghĩa quân phong chức Phòng, nên còn được gọi là Phòng Thiện. Do có chiến tích nên ông được Trương Định tin tưởng giao cho nhiệm vụ trấn giữ mặt trận Đồng Sơn. Sau khi Trương Định bị giặc Pháp sát hại (1864), ông vẫn chiêu mộ nghĩa sĩ, tích trữ quân lương, tiếp tục cuộc kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược. Để buộc ông phải ra hàng, địch giở thủ đoạn hèn mạt là bắt thân phụ của ông tra tấn rất dã man. Nhưng thân phụ của ông chẳng thà chịu cảnh tù đày, chứ nhất định không gọi ông ra đầu thú. Nghĩa quân của ông hoạt động đến năm 1875 thì mới bị quân Pháp tiêu diệt hẳn. Ông bị địch bắt tại Thạnh Nhựt (nay thuộc huyện Gò Công Tây) và nhận án tử hình một cách ung dung. Trước lúc lên đoạn đầu đài, ông vẫn lạc quan bày tỏ lòng yêu nước và nói câu: 'Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục'; nghĩa là 'Thà chịu chết chứ không chịu nhục'. Giặc Pháp đã chém đầu ông tại lầu Bà Tám Huê Chín Đào (nay thuộc ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh).
Hiện nay, phần mộ của ông vẫn còn tại ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
7. TRƯƠNG CÔNG LUẬN
Trương Công Luận chưa rõ năm sinh năm mất, người huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là Gò Công, Tiền Giang).
Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, có thừa tài trí và lòng dũng cảm, lập được nhiều công trạng trong chiến đấu, nên được phong làm Phó tướng. Sau khi Trương Định hy sinh (20 8 1864), ông tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp tại vùng Gò Công. Với lối đánh phục kích, khi ẩn khi hiện, nghĩa quân do ông chỉ huy là nỗi ám ảnh thường xuyên đối với quân địch. Sau đó, thực dân Pháp tổ chức lùng sục, bố ráp nghĩa quân. Cuối cùng, ông sa vào tay giặc. Dụ hàng không được, bọn chúng đã hèn hạ chém đầu ông.
Hiện nay, phần mộ, miếu thờ và nhà lưu niệm của ông tọa lạc tại thị trấn Tân Hòa, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
8. TRƯƠNG ĐIỀN
Trương Điền chưa rõ năm sinh năm mất, tương truyền là con của quan Lãnh binh tỉnh Gia Định Trương Cầm và là anh của Trương Định, quê quán ở thôn Tư Cung, phủ Bình Sơn, trấn Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi).
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Sài Gòn (tháng 2 1859), ông chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở Đường Tranh (nay thuộc huyện Cần Giờ, TP ************), khởi binh đánh bọn giặc xâm lược. Bị quân Pháp đàn áp, ông rút quân về Gò Công, dự định gia nhập lực lượng của Trương Định; nhưng mới vừa đến nơi thì vị Bình Tây Đại tướng quân đã bị giặc sát hại (tháng 8 1864); nên ông đành tạm dừng quân ở Gò Tre (nay thuộc thị xã Gò Công).
Quân Pháp hay tin được vội truy đánh. Ông chỉ huy nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm. Nhưng do thế giặc quá mạnh, ông phải cho nghĩa quân di chuyển về Rạch Già (nay thuộc xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông) để củng cố lực lượng. Quân địch lại bám theo tấn công. Ông đành phải mở đường máu chạy thoát về vàm Kỳ Hôn (Chợ Gạo). Sau đó, giặc Pháp tiến hành cuộc truy nã rất gắt gao nhằm bắt sống ông. Thế nhưng, bằng sự mưu trí và dũng cảm, một lần nữa, ông lại thoát khỏi vòng vây của địch; lần về Long Bình (nay thuộc Gò Công Tây) ẩn náu. Tại đây, được sự giúp đỡ chí tình của nhân dân, ông lập căn cứ Bưng Sen, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước tình hình đó, thực dân Pháp huy động lực lượng lớn tổ chức cô lập, phong tỏa vùng căn cứ này. Do bị chặn đường tiếp tế, nghĩa quân dần dần lâm vào tình thế vô cùng khó khăn; lương thực, vũ khí, thuốc men thiếu thốn nghiêm trọng. Giữa lúc đó, do phải trải qua nhiều gian khổ, ông bị bệnh nặng và qua đời.
Hiện nay, phần mộ của ông tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
9. VÕ ĐĂNG ĐƯỢC
Võ Đăng Được chưa rõ năm sinh, người thôn Đồng Sơn, nay là xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, từng theo Chủ tướng đánh nhiều trận với quân đội viễn chinh Pháp. Trong một trận đánh ác liệt ở Tân An (Long An), do quân địch có hỏa lực mạnh nên nghĩa quân tạm thời rút lui. Lúc đó, tuân theo mệnh lệnh của Trương Định, ông chỉ huy một cánh quân lui về Đồng Sơn, củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ, tích trữ lương thực và vũ khí nhằm tạo thành một phòng tuyến, bảo vệ căn cứ Gò Công từ hướng tây bắc. Năm 1863, thực dân Pháp mở cuộc tiến công đại quy mô vào chiến lũy Đồng Sơn. Mặc dù có sự chênh lệch lớn về quân số và vũ khí, nhưng ông đã cùng với nghĩa quân chiến đấu rất kiên cường, dũng cảm, nhằm chặn bước tiến của địch. Sau đó, quân giặc phải sử dụng pháo hạng nặng để công phá. Cuối cùng, căn cứ bị tan vỡ; ông đã anh dũng hy sinh tại trận tiền.
Ngưỡng phục và kính thương người anh hùng nông dân đã ngã xuống vì đại nghĩa, nhân dân ở đây đã lập một ngôi miếu thờ ông (được gọi là Dinh Ông). Đồng thời, đồng bào ở trong vùng cũng kiêng kị không gọi tên của ông, từ 'Được' được gọi trại thành 'Đặng'. Hiện nay, phần mộ và miếu thờ của ông tọa lạc tại xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP
CHÚ THÍCH:
(1) Ở thôn Tân Niên Trung (nay thuộc huyện Gò Công Đông) có hai ông Hòa và Quới đều tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định và lập được nhiều chiến công.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Mar/2010 lúc 1:30am
Chữ Hiếu Một Vị Vua
Khi nói đến bổn phận làm con phải biết kính hiếu đối với cha mẹ, mà không kể vua Tự Đức có hiếu với mẹ là thiếu sót, cho nên trích dẫn trong quyển Tìm Hiểu Các Danh Nhân từ trang 279 đến trang 281 cùng tác giả Nguyễn Phú Thứ như sau :
Để TƯỞNG NHỚ VUA Tự-Đức Là vị vua rất có Hiếu với Mẹ bậc nhứt trong 13 vị Hoàng ĐẾ Triều Nguyễn.
Được biết, vua Tự-Đức là con thứ hai của Vua Thiệu-Trị (1841-1847) và Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (1810-1901) tức Bà Phạm-Thị-Hằng quê quán làng Tân Niên Đông, huyện Tân-Hòa, Tỉnh Gò-Công (thuộc Gia-Định thành).
Để được đầy đủ tiểu sử Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, may thay! tôi được giáo sư tiến sĩ Nguyễn-Thanh-Liêm từ nam California Hoa kỳ gởi tặng đặc san Tiền Giang Hậu Giang số 6 phát hành năm 2002, thì thấy từ nơi trang 221 đến 226 có bài viết của Nguyên Minh, xin mạn phép trích dẫn sơ lược như sau :
... Theo tài liệu sưu tập thì nhũ danh của bà là Phạm Thị Hằng. Gia phả dòng Phạm Đăng còn ghi rõ là : "Ngự húy bên tả là chữ Nữ, bên hữu là chữ Càng tức là chữ Hằng". Ngoài ra, ở một phần khác của gia phả lại ghi nhũ danh của bà là Phạm Thị Hằng Nga với lời chú thích "nguyên nhân đặc tên đó là vì lúc thọ thai phu nhân Quốc Công Phạm Đăng Hưng tức bà Phạm Thị Dụ chánh thất nằm mộng thấy trên đỉnh màn một vầng trăng tròn".Bà được triệu về kinh vào năm 14 tuổi và mãi đến khi vua Tự Đức lên ngôi vua, thì bà được tôn phong là Hoàng Thái Hậu hiệu là Từ Dũ... khi bà băng hà, gia phả dòng Phạm Đăng ghi rằng tôn thụy của bà là :"Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dũ Bác Huệ Trai Tức Tuệ Dạt thọ Đức Nhân Công Chương Thái Hoàng Thái Hậu" và lăng tẩm của bà tọa lạc tại Xương Thọ Huế".
Về ngày sanh và ngày mất của bà như sau :
Ngày sanh của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà sanh ngày 9 tháng 5 âm lịch năm Canh Ngọ (1810). Về năm tháng thì gia phả dòng Phạm Đăng cũng ghi như vậy, nhưng ngày sanh lại là ngày 19 (mười chín). về điều này, gia phả còn chú thích thêm là ngày Nhâm Thân, giờ Kỷ Dậu. Sách Đại Nam liệt truyện, tập III, trang 25 ghi bà sanh ngày 9 tháng 5 mùa hạ năm Gia Long thứ 9. Điều này cần được soi rọi để biết là ngày 9 hay 19 ?
Ngày mất của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà mất vào ngày 5 tháng 4 âm lịch năm Nhâm Dần (1902) thọ 92 tuổi. Về ngày tháng thì gia phả cũng ghi như vậy, nhưng thêm chi tiết là giờ Mão ngày mùng 5 (Canh Tý) và năm là năm Tân Sửu, với tuổi thọ 93. Ở đây, có mấy điểm cần xét lại :
Về năm Tân Sửu, gia phả dòng Phạm Đăng còn chú thích thêm là năm Thành Thái thứ mười ba. Vua Thành Thái lên ngôi năm 1889. Từ đó suy ra thì năm thứ mười ba của ngài làm vua là năm 1901, đúng là năm Tân Sửu. Đại Nam Liệt Truyện; tập III, trang 64 cũng ghi là bà mất vào năm Tân Sửu (1901). Tuy nhiên, nói đến tuổi thọ thì gia phả dòng Phạm Đăng cũng như Đại Nam Liệt Truyện lại sai. Hai tư liệu này ghi là bà thọ 93 tuổi. Nếu đem hai ngày sanh tử trừ đi sẽ là 91 năm và theo quan Niệm người Việt Nam thì tính là 92 tuổi. Phải chăng người ghi chép muốn tăng tuổi thọ cho tiền nhân để muốn nói lên cái "đại phúc" của bậc tiền bối của mình?
sưu tầm
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 15/Mar/2010 lúc 3:10am
...
gia phả dòng Phạm Đăng ghi rằng tôn thụy của bà là :"Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dũ Bác Huệ Trai Tức Tuệ Dạt thọ Đức Nhân Công Chương Thái Hoàng Thái Hậu" và lăng tẩm của bà tọa lạc tại Xương Thọ Huế"...
....
Thật ra, ở Huế không có chỗ nào có tên Xương Thọ mà chỉ có gò Thọ Xương do đổi tên từ gò Long Thọ (Long Thọ Cương), tên chữ là «Thọ Khương Thượng Khố» - thời các Chúa Nguyễn gò Thọ Xương là kho thóc, đến các Vua Nguyễn là kho đồ gốm và là nơi làm gạch ngói, quốc sử triều Nguyễn đã xếp gò Long Thọ là thắng tích ở kinh đô Huế.
Xương Thọ là tên lăng của Đức Bà Từ Dụ, gọi kiểu Tàu là XƯƠNG THỌ LĂNG, kiểu Ta là Lăng XƯƠNG THỌ, người Huế gọi là Lăng Đức Bà. XƯƠNG THỌ LĂNG toạ lạc tại làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy - Huế.
------------- hoangngochung@ymail.com
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 21/Mar/2010 lúc 11:37pm
Mắm tôm chua quyến rũ thực khách nhờ hương vị ngon lẫn màu sắc tuyệt hảo - Ảnh: Tạ Tri
Mắm tôm chua quyến rũ thực khách nhờ hương vị ngon lẫn màu sắc tuyệt hảo - Ảnh: Tạ Tri
Mắm tôm chua Gò Công quyến rũ không kém mắm tôm chua Huế về hương, sắc lẫn vị... Mắm tôm chua là món ngon bình dị, thường có mặt trong những bữa ăn gia đình nơi quê hương Trương Định. Một món ăn gợi nhớ những chân ruộng phèn có lúa mùa, nghe âm vang tiếng tôm đất tháng mười búng “tóc tách” giòn tan.
Tiện lợi và bổ dưỡng
Vùng đất Gò Công xưa nghèo khó, nhiều nhà thường trữ những vại mắm cá đồng, mắm cá biển, mắm tôm chua để ăn quanh năm. Từ giữa tháng mười âm lịch đến ra giêng là mùa tôm đất và cũng là mùa làm mắm tôm chua ngon ngậm mà nghe.
Theo mùa, nông phu đi làm đồng có thể mang theo ít mắm và vài trái ớt hiểm trong cà–mèn. Đến lúc nghỉ trưa, họ gạt vội mồ hôi, với tay bứt mớ đọt rau muống đỏ, chồi bông súng, đọt ráng, đọt lộc vừng...dưới rạch hay bên mé kênh. Vậy là họ ăn ngon lành với mắm.
Mắm còn giúp cứu nguy khi nhà kẹt tiền chợ lại có bà con khá thân ghé chơi. Những lúc ấy, mẹ tăng cường thật nhiều đọt rau nhà, rau dại: xoài, cóc, choại, sộp, bằng lăng, chuối chát, khế... Rau và mắm tôm chua như cặp đôi tri kỷ, cứ âm thầm hun đúc, dưỡng nuôi bao khí phách quật cường chốn địa linh nhân kiệt xứ đất gò chim công từng đậu lại.
Chua dịu, mặn thanh
Cũng xin nói thêm, mắm tôm chua Gò Công phổ biến là dạng mắm mặn, có thể để lâu 7-10 ngày, nếu chưa trộn thêm rau, gia vị. Còn nếu bạn trữ mắm trong tủ lạnh, để 3 - 6 tháng sau vẫn ngon. Nguyên liệu làm mắm ngon nhất là con tôm đất, cỡ gần bằng ngón tay út người lớn. Được biết, cách làm cũng khá công phu: chọn tôm đất tươi rói, ngâm qua nước phèn chua. Vớt ra, đợi ráo, ngâm rượu vừa ngập mình tôm. Vớt ra, cắt râu và đuôi, rửa lại bằng nước rượu vừa ngâm. Sau đó ướp khoảng một muỗng canh muối hột giã nhỏ với nửa ký tôm, đợi ngấm một đêm. Vớt tôm ra, để ráo. Nấu nước mắm và đường cát theo tỷ lệ 2-1, thật sôi, để nguội. Với một ít tỏi đã lột vỏ và ớt sừng trâu giã, thân mía lau (mía đường) chẻ nhỏ và lá chùm ruột. Xếp lá chùm ruột dưới đáy vại hoặc hũ keo. Kế tiếp xếp tôm trộn tỏi và ớt giã vào. Chế nước mắm đường đã đun sôi cho ngập tôm, dùng mía chẻ gài tôm lại thật chặt, đậy kín. Mang phơi nắng từ 7-10 ngày, nước mắm sẽ ngả màu hổ phách, óng ánh. Vậy là ngon ăn!
Hiện nay nhiều nội trợ quê đức bà Từ Dũ có thời gian chăm chút, phối trộn mắm tôm chua thành nhiều món ngon buông đũa còn thèm. Ngon mộc mạc là món tôm chua trộn đu đủ hườm bào sợi nhỏ, dài như que tăm, thêm ít đường cát và tỏi, ớt giã. Hoặc họ trộn mắm tôm chua với ít đường, tỏi, ớt giã và nước cốt chanh, ăn kèm với tai heo luộc hay dưa tai heo. Cái giòn giòn, thanh mát, chua ngọt cứ quấn quýt nơi đầu lưỡi, vòm họng.
Tạ Tri
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2010 lúc 5:13am
http://www.quehuonggocong.com/home/gocong/?gocong/tg.do?catgc=ylt;_musicgc&KC=0&f=5649:thixagocong - Nhạc Gò Công<<<XIN BẤM VÀO
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Mar/2010 lúc 8:01pm
Biển Gò Công một chiều yên vắng
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Apr/2010 lúc 10:47am
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Apr/2010 lúc 10:21am
Độc đáo mắm còng lột
Mắm còng lột giờ đây có quanh năm nhờ "công nghệ" còng lột trái mùa-Ảnh: Hùng Anh
Những ngày mưa dầm trời se lạnh, có đĩa mắm còng lột chính hiệu Gò Công và chai rượu thuốc nhâm nhi cùng bạn bè thì không còn gì bằng Bữa tiệc mắm còng lột cũng chẳng quá cầu kỳ. Đĩa mắm còng lột trắng muốt, bên trên rắc những sợi ớt đỏ tươi, xung quanh xếp mấy miếng khóm chín rim đường vàng ươm, phía dưới lót dưa leo xắt khoanh cùng cải xà lách xanh non mát mắt. Quanh đĩa mắm là bún, thịt ba rọi, lòng heo luộc, xoài sống để nguyên vỏ xắt miếng, rau thơm các loại và có hẳn một đĩa còng chưa lột rang me. Nhập tiệc, gắp một con còng lột kèm với khóm, dưa, rau, bún, thịt luộc đưa vào miệng, vị ngọt, chua cay thấm vào chân răng, lan khắp các gai vị giác của lưỡi.
Đặc sản danh bất hư truyền
Ông Cao Văn Hổ, chủ lò mắm tôm chà Kim Sa, ở phường 2, thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang) nói mắm còng lột của xứ biển Gò Công không phải thèm là có ăn.
Cùng với mắm tôm chà, mắm còng lột là đặc sản danh bất hư truyền do ông bà ngày xưa để lại cho con cháu xứ biển nghèo khó. Nhưng, mắm tôm chà có thể làm quanh năm vì tôm bạc đất nhiều vô kể, muốn thưởng thức lúc nào cũng được. Còn mắm còng lột, mỗi năm chỉ có một mùa, kéo dài hai, ba tháng là hết.
Bà Năm Sa, một trong những người lớn tuổi còn giữ nghề làm mắm đặc sản từ con tôm, con còng của xứ Gò Công, kể rằng lúc còn nhỏ xíu, con còng ở đất rẫy Gò Công nhiều vô kể. Hồi ấy bà cố, bà sơ của bà làm mắm còng lột chỉ để ăn trong gia đình hoặc làm quà cho sui gia, khách quý chứ không bán.
Đám tiệc trong xóm, nhà nào được nể trọng lắm người dự đám mới mang đến một hũ sành mắm còng lột. Hàng năm, đúng vào ngày tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch, ở cù lao Phú Đông nằm giữa sông Cửa Tiểu, Cửa Đại, không biết từ đâu còng kéo nhau về từng bầy, nằm lớp lớp ở các ao nước cạn để lột vỏ. Người ta nói đó là "ngày hội còng lột”.
Bà Năm Sa nhớ rằng, vào "ngày hội còng lột”, dân cù lao Phú Đông hoặc thị trấn Tăng Hòa, thị xã Gò Công và nhiều địa phương khác đều đổ xô mang ghe đến bắt còng về làm mắm.
Con còng lột mang về rửa sạch, moi bỏ yếm và ruột, để cho ráo nước rồi xếp vào hũ sành.
Sau đó đâm tỏi, ớt lấy nước, trộn với nước mắm nhĩ nấu sôi, để thật nguội mới châm vô những hũ còng lột trắng phau, rồi xếp vào chỗ mát. Mười lăm ngày sau con còng lột chín đều thành mắm. Nhưng không giống các loại mắm khác, mắm còng lột chỉ có thể giữ được tối đa 3 tháng, nên sau tháng 7 âm lịch, xứ Gò Công cũng hết mắm còng, muốn ăn phải chờ "ngày hội còng lột” năm sau.
Về sau, hàng năm "ngày hội còng lột” vẫn còn xuất hiện trên cù lao Phú Đông nhưng còng càng ngày càng ít.
Mắm còng lột trái mùa
Năn nỉ mãi bà Năm Sa mới chịu bật mí xuất xứ của hũ mắm còng lột trái mùa. Số là vài năm gần đây, nhiều Việt kiều gốc Gò Công mỗi khi về thăm quê đều nằng nặc tìm ăn cho bằng được đặc sản mắm còng lột quê nhà.
Con "còng hội" không còn, mắm còng lột càng quý hiếm. Vậy là những người còn nhớ nghề làm mắm còng lột ở Gò Công nghĩ ra cách thức: cho người qua Cần Giờ (TP.HCM) lùng mua còng sống, sau đó pha vôi Càng Long với nước rồi đổ vào ngâm còng. Sau 24 giờ, con còng lột vỏ, người ta lấy con còng lột "nhân tạo" đó để làm mắm, để thỏa nỗi nhớ quê hương của các Việt kiều. Thế nên giờ đây mắm còng lột gần như có quanh năm.
“Nếu nhìn kỹ, con mắm còng lột hiện nay không có hai càng và tám chân, chỉ có trơ trơ cái thân mình. Lý do là con còng lột bằng nước vôi Càng Long chỉ lột được mình, càng và chân mà không lột được vỏ cứng nên phải bỏ. Ngày xưa con còng lột vào ngày hội mùng 5 tháng 5, làm mắm xong xếp ra đĩa càng, chân vẫn còn đầy đủ chớ đâu có trụi lủi như bây giờ”, bà Năm Sa bùi ngùi nhớ lại.
Hùng Anh
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Apr/2010 lúc 7:05am
http://my.opera.com/chimyen/about/">
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/May/2010 lúc 12:32pm
Những món đặc sản “chân quê”
Những món đặc sản “chân quê”
Ở mỗi vùng quê đều có nhiều món ăn đặc sản độc đáo, đã đi vào ca dao…
“Chả Chèm, nem Phùng”, nem Phùng (Hà Tây) chế biến từ bì lợn thái nhỏ, chần nước sôi cho chín, trộn với một ít mỡ lợn. Bì đã cạo trắng bong, thái nhỏ, sao cho sợi bì vừa dài vừa mỏng, vừa nhỏ vừa săn, trộn với thính gạo tẻ ủ chua, nắm từng thỏi nhỏ dài chừng 3, 4 đốt ngón tay, quấn ngoài bằng lá sung, lá ổi, ngoài cùng bọc lại bằng lá chuối, kẹp từng đôi quấn lạt mỏng. Đấy là:
Nem Phùng đã nếm là mê;
Vài ly quốc lủi quên về - Bạn ơi!”.
Về thăm nhà thờ đá Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, nhiều người lại nhớ đến bún mọc Quang Thiện. Đây là đặc sản vùng biển “Núi Vàng”: “Đêm ngày sóng vỗ ngoài khơi; Chuông nhà thờ đổ từng hồi - chiều buông…”. Vùng quê này làm bún là phải chọn gạo ngon, mà Kim Sơn “trình làng” nhiều loại gạo được xếp ở lớp đầu trong hàng “ngũ cốc” của nước ta. Gạo ngon làm bún, nên sợi bún trắng bong, vừa dai vừa dẻo, vừa săn vừa giòn. Thịt lợn bắp phải lọc cho hết gân, hớt mỡ, viên từng viên nhỏ như hòn bi, thả nhẹ vào nước sôi chừng 10 phút, viên mọc sẽ nổi lên màu trắng hồng, trông rất ngon mắt và mùi thơm dịu trong bát bún.
Về đây Quang Thiện chiều người; Nếm chơi bún mọc nhớ đời, không quên”. Ngược lên Yên Bái thăm hồ Thác Bà, thăm nhà máy thuỷ điện đầu tiên của nước ta, thả thuyền mà dạo trên hồ nước đầy, trên đầu là bầu trời xanh ngăn ngắt, thỉnh thoảng lại gặp dăm bảy cánh chim chấp chới, cảnh quan này vừa thơ mộng, vừa quyến rũ.
Trong lòng hồ sâu in ánh mặt trời và in từng chòm sao khi đêm về, có một loại cá cực ngon: cá lăng kho khô, mà nấu giấm thì… hết chê. Cá này bùi, thơm, ngậy, gỏi cá lăng xếp vào loại đầu bảng.
Về miền Trung thăm Quảng Ngãi nơi có núi Ấn, sông Trà, ăn một bữa cơm đời thường với cá bống, bạn thấy vừa ấm lòng vừa no bụng. Sông Trà cho một loại cá bống… siêu ngon. Hẳn là, đất và nước ở đây rất… “nịnh” loại cá bống này. Cơm gạo ngon, xới bát cơm bốc khói, hơi khô mà “đi” với cá bống sông Trà kho tiêu thì ai cũng cảm thấy ngon miệng. Bữa cơm dân quê này làm ta có thể quên những món giò, nem, ninh, mọc vừa “phải dùng” trong dịp Tết vừa qua. Quảng Ngãi đưa con cá bống sông Trà lên “thương hiệu”:
Anh đi, anh nhớ quê nhà Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu”.
Bây giờ, mời bạn bè về vùng đất Chín Rồng. Ngồi ô tô hoặc chiếc tàu thuỷ sơn màu xanh, bạn đến với Tiền Giang xanh ngắt miệt vườn. Có thể bạn được nghe “câu hát” này: “Bánh giá chợ Rồng, mắm còng Phú Thạnh”.
Vùng đất cù lao xã Phú Thạnh, huyện Gò Công Tây khi nào vụ gặt vừa xong thì còng kéo đến bám vào chân rạ. Rồi đến lúc còng lột vỏ, cho bà con một loại “thực phẩm” ngon. Bắt còng lột vỏ, chế biến thành một loại mắm – “mắm còng Phú Thạnh”. Loại mắm này có thể trở thành một “thương hiệu” trước hết là ở nơi vùng quê sông nước này.
Mắm còng “đi” với thịt luộc hoặc cá nướng, kèm bún và rau sống, lại có dăm ba lát khế với món chuối hột non, xem ra cũng “được bữa” lắm. “Mắm còng - loại mắm chân quê; thăm Tiền Giang mời bạn bè về “nếm” chơi”.
Đến mỗi địa phương, “nếm thử” vài món đặc sản, âu cũng là dịp tìm hiểu thêm về sự phong phú, đa dạng của ẩm thực Việt Nam mình./.
Tạ Hữu/VOV
__________________
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/May/2010 lúc 6:09pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Lan Huynh
Những món đặc sản “chân quê”
Những món đặc sản “chân quê”
Ở mỗi vùng quê đều có nhiều món ăn đặc sản độc đáo, đã đi vào ca dao…
Bây giờ, mời bạn bè về vùng đất Chín Rồng. Ngồi ô tô hoặc chiếc tàu thuỷ sơn màu xanh, bạn đến với Tiền Giang xanh ngắt miệt vườn. Có thể bạn được nghe “câu hát” này: “Bánh giá chợ Rồng, mắm còng Phú Thạnh”.
Vùng đất cù lao xã Phú Thạnh, huyện Gò Công Tây khi nào vụ gặt vừa xong thì còng kéo đến bám vào chân rạ. Rồi đến lúc còng lột vỏ, cho bà con một loại “thực phẩm” ngon. Bắt còng lột vỏ, chế biến thành một loại mắm – “mắm còng Phú Thạnh”. Loại mắm này có thể trở thành một “thương hiệu” trước hết là ở nơi vùng quê sông nước này.
Mắm còng “đi” với thịt luộc hoặc cá nướng, kèm bún và rau sống, lại có dăm ba lát khế với món chuối hột non, xem ra cũng “được bữa” lắm. “Mắm còng - loại mắm chân quê; thăm Tiền Giang mời bạn bè về “nếm” chơi”.
Đến mỗi địa phương, “nếm thử” vài món đặc sản, âu cũng là dịp tìm hiểu thêm về sự phong phú, đa dạng của ẩm thực Việt Nam mình./.
Tạ Hữu/VOV
__________________
"Bây giờ, mời bạn bè về vùng đất Chín Rồng. Ngồi ô tô hoặc chiếc tàu thuỷ sơn màu xanh, bạn đến với Tiền Giang xanh ngắt miệt vườn. Có thể bạn được nghe “câu hát” này: “Bánh giá chợ Rồng, mắm còng Phú Thạnh”.
"Chợ Rồng" hay chợ Giồng ?
Tiền Giang có chợ Rồng không ? thuộc địa phận nào?
Mong được các anh chị và các bạn chỉ giáo thêm.
Đa tạ,
------------- mk
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 06/May/2010 lúc 9:53pm
mykieu viết:
" ...“Bánh giá chợ Rồng, mắm còng Phú Thạnh”.
"Chợ Rồng" hay chợ Giồng ?
Tiền Giang có chợ Rồng không ? thuộc địa phận nào?
Mong được các anh chị và các bạn chỉ giáo thêm.
Đa tạ, "
Có lẽ là bánh giá Chợ Giồng đó mykieu ơi (nếu không đọc theo giọng Bắc ).
Bây giờ lại có bánh giá Hòa Đồng như đã viết trong chủ đề "bánh giá hôn" đó.
Xin mời.
------------- Lộ Công Mười Lăm
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/May/2010 lúc 1:52am
Cám ơn anh LôCngMuoiLam đã giải thích "Bánh giá chợ Giồng"
Còn bánh giá Hòa Đồng hấp dẫn quá. Lại có số điện thoại để gọi đặt bánh nữa .
Trong hình, số bánh giá đã chiên xong để trên mâm và chảo đủ cho nhiều người ăn đấy , vì một người chỉ ăn nổi 1 cái mà thôi ( ăn chung với rau sống, salad, giá , bún ,...+ nước mắm tỏi ớt chua chua ngọt ngọt , Eo ơi ! ...)
Nhưng Gò Công mình , bánh giá bán buổi sáng , chừng 9 giờ hết rồi .
SG về, muốn có ăn ngay phải nhờ bà com mua trước để dành .
Cũng lâu lắm rồi, mk chưa được ăn bánh giá, dù có về Gò Công.
Thôi thì , ăn hàm thụ qua hình ảnh anh LoCongMuoiLam gửi lên vậy.
Đa tạ,
------------- mk
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2010 lúc 12:05pm
BÁNH GIÁ CÔ MƯỜI HIHIHI......
DẠ MỜI CẢ NHÀ THƯỞNG THỨC BÁNH GIÁ CÔ MƯỜI...
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/May/2010 lúc 3:06pm
MỜI CẢ NHÀ THƯỞNG THỨC MẮM TÔM CHUA THỊT LUỘC
http://www.pixel-pusher.co.uk/phuong/wp-content/uploads/2008/03/dscn1738.jpg">
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 15/May/2010 lúc 5:28pm
Bản lĩnh cô gái Gò Công
Đất Gò Công, nơi sinh ra những tên tuổi gắn liền lịch sử: Bình tây Đại nguyên soái Trương Định, Hoàng Thái hậu Từ Dũ, Nam Phương Hoàng hậu,… cũng là mảnh đất quê hương của “nữ tướng” Nguyễn Thị Huệ Trinh, Tổng giám đốc Công ty TNHH SX TM DV Thuận An. Phải chăng vì mang trong mình dòng máu truyền thống đó mà người phụ nữ này có sức mạnh đáng nể để “tay không” dựng nghiệp?
“Thần thoại” phụ phẩm
Xuất thân từ nhà nghèo, ngay sau khi học hết lớp 12, cô gái xứ Gò Công (Tiền Giang) đã bước ngay vào con đường mưu sinh. Trong một lần đến An Giang tìm việc, Huệ Trinh thấy các nhà máy chế biến cá tra, basa vứt bỏ phần mỡ sau khi lấy phi-lê. “Tình cờ mà nên duyên”, Huệ Trinh xin về cho vào chảo thắng theo phương pháp thủ công rồi mang đến các cơ sở chế biến mỡ bôi trơn. Với giá bán chỉ bằng nửa sản phẩm mỡ động vật trên thị trường, mỡ cá của chị nhanh chóng được chấp nhận và có mặt tại TP HCM, Đồng Nai, Tây Ninh... Đây là việc mà cả vùng ĐBSCL chưa ai làm nên chị được các nhà máy xem như cứu tinh, tạo điều kiện cho chị “khai thác” lượng phụ phẩm mà nhẽ ra là phế phẩm ấy.
So với chi phí sản xuất, chị lãi hàng chục lần nhưng Huệ Trinh vẫn chưa hài lòng vì chưa tận dụng được 50% lượng đạm còn lại sau khi đã lấy đi phần mỡ nước. Qua nhiều phương án, cuối cùng chị nghĩ ra cách dùng bã mì mà các nhà máy ở Đồng Nai bán “giá rẻ như cho” để trộn với phần đạm này thành loại thức ăn gia súc bán các hộ nuôi cá với giá cực rẻ... Và một lần nữa chị lại “trúng lớn”.
Không dừng ở đó, chị tiếp tục khai thác các phế phẩm khác của cá như: đầu, vi, xương thành bột cá xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu mỗi năm lên tới 3-4 triệu USD. Từ chỗ chỉ bỏ đi, giờ đây, giá trị phụ phẩm của con cá tra đã vươn lên ngang tầm giá trị phi-lê.
Thành công nối tiếp thành công, năm 2001, chị đầu tư cơ sở chế biến mỡ cá tra Thuận An 1 tại huyện Châu Phú với công nghệ hiện đại. Nhưng một thời gian sau đó, khó khăn ập đến như để thách thức bản lĩnh người phụ nữ Gò Công. Thấy cơ sở của chị “ăn nên làm ra”, nhiều người cũng “ăn theo”, nhảy vào tranh nguồn phụ phẩm. Không bỏ cuộc, năm 2003, chị mạnh dạn vay vốn đầu tư nhà máy chế biến phi-lê công suất 60 tấn nguyên liệu/ngày, đánh dấu thời điểm Thuận An chính thức gia nhập vào ngành công nghiệp cá tra, basa bằng “chính phẩm” chứ không chỉ là phụ phẩm.
Thuận lợi và an toàn
Thuận An, cái tên ghi nhận mảnh đất quê hương thứ 2 của Nguyễn Thị Huệ Trinh, cũng là nơi gửi gắm kỳ vọng doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, an toàn. Và thực tế, dưới bàn tay “chèo lái” của “nữ thuyền trưởng” Huệ Trinh, công ty Thuận An đã vượt qua “sóng gió”, tìm được bến đỗ an toàn trong lĩnh vực thủy sản.
Khi nhà máy đầu tiên của Thuận An hoạt động cũng là thời điểm Hoa Kỳ áp mức thuế bán phá giá, ngành chế biến cá tra xuất khẩu Việt Nam lao đao. Huệ Trinh rà tìm và tận dụng người có tay nghề cao đang bị thất nghiệp từ cuộc khủng hoảng để tham gia quy trình đa dạng hóa sản phẩm cá tra: chả giò, cá viên, bao tử đông... được thị trường trong nước đón nhận. Trên đà đó tiếp tục mở rộng nhà máy, thu thêm 1.200 lao động giỏi từ các nơi về. Năm 2007, khi thị trường xuất khẩu cá tra hồi phục, Thuận An đạt Code Châu Âu, lập tức sản phẩm của Cty có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới: Ba Lan, Ả Rập... Năm 2008 tiếp tục xuất hiện tại nhiều thị trường như Hà Lan, Tây Ban Nha, Ai Cập...
Với tinh thần cầu tiến, chịu khó học hỏi và bản tính năng động, sáng tạo, Nguyễn Thị Huệ Trinh đã đưa Thuận An luôn đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch, bản thân chị được công nhận doanh nhân tiêu biểu 3 năm liền (2007-2009). Đầu năm 2010, Thuận An đón nhận Cúp vàng và danh hiệu Chất lượng vàng thủy sản Việt Nam, cũng chính là lúc khai trương dự án khai thác khép kín cá tra: Khánh thành nhà máy chế biến phi-lê thứ 2, công suất 150 tấn/ngày tại huyện Châu Thành (An Giang) với hệ thống chế biến phụ phẩm theo chuẩn HACCAP và khởi động vùng nuôi trồng 70ha tại huyện Phú Tân theo hướng thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (Global GAP) để tính chuyện "vươn ra biển lớn".
Bên cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, nữ Tổng giám đốc Huệ Trinh cũng rất quan tâm đến hoạt động xã hội. Hàng năm, công ty trích phúc lợi đáng kể để hỗ trợ người lao động gặp khó khăn, khen thưởng học sinh giỏi và trao học bổng cho học sinh nghèo hiếu học, đồng thời tham gia hoạt động từ thiện tại địa phương. Từ năm 2007 đến cuối 2009, tổng nguồn tiền đóng góp cho các hoạt động xã hội từ thiện lên đến gần 800 triệu đồng. Doanh thu tăng trưởng, đời sống người lao động không ngừng được cải thiện, đó là phần thưởng xứng đáng cho sự đóng góp tận tụy của người phụ nữ tài năng này.
Thủy sản Việt Nam
-------------
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 15/May/2010 lúc 5:39pm
Tận dụng lợi thế địa phương làm nội lực của chính mình
An Giang là cái nôi của nghề nuôi, chế biến và xuất khẩu cá ba sa, cá tra. An Giang cũng là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng và kim nghạch xuất khẩu cá nước ngọt. Những nhà máy có sản lượng cá tra phi-lê hàng đầu Việt Nam cũng tọa lạc tại An Giang. Và cũng từ nhiều điểm nhất đó, có một người, ngay từ giữa thập niên 90, đã biết cách tận dụng phụ phẩm từ cá tra, ba sa của nhà máy để chế biến thành sản phẩm xuất khẩu mang lại thu nhập hàng triệu đô-la, đó là chị Nguyễn Thị Huệ Trinh – Tổng giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại & Dịch vụ Thuận An.
Trong quá trình phát triển, cũng như nhiều doanh nghiệp khác, công ty Thuận An đã gặp không ít trở ngại. Chị Huệ Trinh đã tâm sự với AFA về thuận lợi và khó khăn của công ty mình.
AFA:Thưa chị, trong tình hình giá cá tra xuất khẩu bị sụt giảm, nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất, vậy công ty Thuận An có bí quyết gì mà vươn lên mở rộng, xây dựng thêm nhà máy chế biến cá tra fillet? Chị Nguyễn Thị Huệ Trinh: Từ trước năm 2007, công ty Thuận An chỉ sản xuất gia công cá tra cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, mục đích là tận thu phụ phẩm để chế biến thành các sản phẩm như mỡ cá, bột cá, hay chế biến các phụ phẩm khác của cá như bong bóng, bao tử … thành các sản phẩm giá trị gia tăng để tiêu thụ trong nội địa và xuất khẩu.
Khoảng tháng 8/2007, công ty được cấp Code, lúc nầy mục tiêu sản xuất của công ty mở rộng hơn, tức là ngoài khâu chính là chế biến phụ phẩm, còn tăng công suất chế biến cá tra phi-lê. Nhờ mở được thị trường ở một số nước châu Âu, châu Á và châu Phi nên năng lực công suất nhà máy hiện có không đáp ứng đủ. Thực ra, dự án xây dựng nhà máy đã hình thành từ hơn một năm trước, nhưng do còn trở ngại một số thủ tục nên mới chậm thi công. Còn một nguyên nhân khác thúc đẩy công ty phải xây dựng thêm nhà máy chế biến cá fillet là do bà con nông dân phát triển ao nuôi lớn, mỗi lần thu hoạch vài trăm tấn, nếu không mở rộng nhà máy, thì với sản lượng mua 50-60 tấn/ngày sẽ rất khó cạnh tranh với các công ty bạn.
AFA:Công ty thành công và phát triển là nhờ những phụ phẩm cá tra, ba sa, vậy hướng phát triển của công ty thời gian tới vẫn lấy phụ phẩm cá tra làm mặt hàng sản xuất chính? Chị Nguyễn Thị Huệ Trinh: Trong tình hình hiện nay, xem ra việc đầu tư sản xuất fillet cá tra để lấy phụ phẩm đã lỗi thời. Tuy vậy, nền tảng phát triển của công ty là từ phụ phẩm, công ty đã nhập thiết bị công nghệ hiện đại để sản xuất sản phẩm từ phụ phẩm, cho nên công ty sẽ tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu bột cá, mỡ cá, và một số sản phẩm chế biến khác, song song với tiếp tục đầu tư sản xuất thức ăn công nghiệp. Bên cạnh đó, để tồn tại và phát triển trong điều kiện sẽ thiếu hụt nguồn cá tra trong thời gian tới, công ty sẽ tự tổ chức nuôi để tạo nguồn nguyên liệu cho mình.
AFA:Như vậy, công ty đã thực hiện quy trình sản xuất rất là khép kín, từ nuôi ra cá tra nguyên liệu, đến chế biến thành cá fillet, tận dụng phụ phẩm từ chế biến để làm ra sản phẩm lợi nhuận cao, rồi đem tất cả sản phẩm đi xuất khẩu, vậy bí quyết nào để chị quản lý một tập thể công nhân đa nghệ như vậy? Chị Nguyễn Thị Huệ Trinh: Thật ra thì việc quản lý nhân sự không hề dễ. Qua nhiều năm kinh nghiệm, công ty thấy rằng chỉ có biện pháp khoán lương mới nâng cao được trách nhiệm của nhân viên. Với chiến lược đó, công ty đã thực hiện giao chỉ tiêu khoán cho từng phòng ban tự quản lý và trả lương cho nhân viên mình. Tự mỗi đơn vị có trách nhiệm giữ gìn của công như là của chính mình. Cách làm nầy bước đầu cũng đã thấy hiệu quả. AFA:Xin chân thành cảm ơn chị, chúc công ty luôn gặt hái được nhiều thành công trên những bước đường hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngô Bảo Trung (AFA)
-------------
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/May/2010 lúc 9:51am
Cầu Mỹ Lợi có tổng chiều dài 2,7km, được xây dựng cách bến phà Mỹ Lợi 200m về phía hạ lưu. Theo thiết kế, bề rộng mặt cầu là 18m, đường dẫn vào mặt cầu là 16m, có 4 làn xe cơ giới. Phần cầu chính có 5 nhịp vòm thép (150m/nhịp). Độ cao của cầu đảm bảo cho phương tiện thủy có trọng tải 10.000 tấn vào sông Soài Rạp an toàn.
Tổng vốn đầu tư của dự án hơn 1.600 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Công trình sẽ được khởi công vào tháng 6/2010 và hoàn thành sau 3 năm.
Thu Hiền
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 24/May/2010 lúc 8:15am
Về biển Gò Công ăn “tôm xe cán”
Rõ ràng là con tôm đập, hà cớ gì gọi nó là con “tôm xe cán”? Câu chuyện trà dư tửu hậu có lúc trở thành gia vị khiến món ăn trở nên khác lạ.
Về Gò Công lần nào cũng được nếm món ngon. Mắm tôm chà, mắm còng, mắm nha... tuy là đặc sản nhưng ăn hoài cũng chán. Giữa trưa nắng chang chang, mấy ông bạn chí cốt lụi hụi ra sân sau nhà hốt lên một mớ tôm, nhìn thấy kỳ cục: tôm khô mà không phải tôm khô. Lấy một con nhai sống, nghe giòn giòn, dai dai, vị ngọt của thịt tôm có tẩm ướp thêm gia vị lan từ đầu lưỡi xuống dạ dày.
Nhưng các chiến hữu ở xứ Gò không cho khách ăn sống mà vội vàng bắc chảo dầu, đổ mớ tôm vô chiên cho giòn, bốc mùi thơm lựng. Khách nuốt nước miếng thòm thèm, còn chủ nhà cho tôm ra dĩa, ráng lục lọi trong bếp được trái ớt sừng xắt khoanh, mấy cọng rau ngò, vài mắt me chín dầm nước mắm, mời khách nhập tiệc mà vẫn áy náy, xuýt xoa phân trần: phải chi có thêm mấy trái xoài sống, vài trái dưa leo trộn gỏi thì tuyệt cú mèo. Nhưng có hề chi, con tôm lạ chiên giòn ăn vô miệng cảm thấy hơn đứt con tôm sú luộc nước dừa của vùng Cà Mau, Bạc Liêu.
Lúc khách đã ngà ngà, dĩa tôm vơi hơn phân nửa, gia chủ mới bật mí chuyện con tôm lạ. Thật ra, nó chỉ là tôm biển, tôm đất, vùng ven biển Gò Công nơi nào cũng có. Bắt được mớ tôm tươi mang về, chủ nhà làm sạch, lặt bỏ đầu, lột vỏ chừa lại khúc đuôi, xong tẩm ướp gia vị cho vừa ăn. Nếu mang đi phơi khô như con tôm khô thông thường thì chẳng có gì để nói. Đàng này, tẩm ướp gia vị xong, gia chủ tỉ mẩn bỏ từng con tôm lên chiếc thớt gỗ, dùng con dao yếm to bản đập một nhát vừa đủ sức cho nó “dẹp lép như con tép”, rồi trải lên sàn, lên nia phơi nắng. Mùa này, chỉ phơi hai nắng là con tôm vàng ươm, thơm phức, nướng hay chiên ăn kèm với rau sống, gỏi xoài, chuối chát, khế chua đều ngon bá cháy.
Nhưng rõ ràng đây là con tôm đập, hà cớ gì mà gọi nó là con “tôm xe cán”? Mấy ông bạn ở xứ Gò Công cười ha hả kể rằng, có lần một ông nhậu xỉn bị vợ cự, tức mình thảy nguyên bịch tôm ra đường. Hai vợ chồng cà nanh chẳng ai chịu ra lượm vô, xe chạy qua chạy lại cán mấy con tôm dẹp lép, tới chừng tiếc của mang vô ăn thử thì thấy coi bộ ngon hơn con tôm đập bằng dao, nên đặt luôn cái tên “tôm xe cán” cho nó... hấp dẫn.
Chuyện thiệt hay tiếu lâm bàn nhậu thì chưa biết, nhưng ai ăn cũng khen con “tôm xe cán” ngon hơn gấp mấy lần con tôm khô, lại khó kiếm. Cũng có thể do làm “tôm xe cán” dụng công rất nhiều nên ít người sản xuất đại trà, chỉ nhà nào có đăng đó, lưới đáy hoặc tàu đánh tôm mới chế biến món tôm kỳ cục này, nên nó thuộc hàng quý hiếm, Lẽ dĩ nhiên, thứ nào quý hiếm thì đắt đỏ, cho nên con tôm khô Gò Công chỉ có 300.000 – 400.000 đồng/kg trong khi con “tôm xe cán” giá lên đến 1 – 1,2 triệu đồng/kg mà thiên hạ vẫn lùng mua cho bằng được.
saigontiepthionline
-------------
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 29/Jul/2010 lúc 8:36am
Nâng cấp kênh Xuân Hòa - Cầu Ngang phục vụ tưới tiêu 37.000 ha đất canh tác Dự án Ngọt hóa Gò Công
Nhằm phát huy hiệu quả ngăn mặn, trữ ngọt, đảm bảo tưới tiêu cho 37.000 ha đất canh tác của Dự án Ngọt hóa Gò Công, tỉnh Tiền Giang đầu tư trên 136 tỉ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để triển khai nâng cấp, mở rộng kênh Xuân Hòa - Cầu Ngang.
Đây là kênh trục chính cấp nước ngọt cho toàn Dự án Ngọt hóa Gò Công. Tuy nhiên, qua nhiều năm đưa vào sử dụng, kênh đã bị bồi lắng, bị lục bình che lấp và nhiều hộ dân lấn chiếm hành lang - kể cả lòng kênh - khiến việc cấp nước tưới tiêu không còn phát huy được tác dụng. Để khắc phục, tỉnh chủ trương nạo vét, mở rộng lòng kênh, giải tỏa việc lấn chiếm trái phép... Công trình này được tỉnh chia làm 3 gói thầu với 18 hạng mục công trình, trong đó ngoài việc nạo vét, mở rộng kênh còn làm 9 cầu, 5 cống lấy nước không chỉ đảm bảo hiệu quả phục vụ sản xuất mà còn đáp ứng nhu cầu giao thương, đi lại của người dân địa phương.
Theo ông Nguyễn Văn Minh, Phó Trưởng ban Quản lý dự án (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), công trình kênh Xuân Hòa - Cầu Ngang được nâng cấp đáp ứng cấp nước phục vụ sản xuất cho các huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông và thị xã Gò Công. Từ đó, giúp nông dân khắc phục tình trạng nhiễm mặn và khô hạn hàng năm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tăng mùa chuyển vụ hiệu quả từ 1 vụ bấp bênh lên 2- 3 vụ ăn chắc, trồng rau màu chuyên canh trên chân ruộng cũng như xây dựng các mô hình kinh tế trang trại hiệu quả, nâng cao được đời sống nông hộ.
Tỉnh Tiền Giang chọn công trình kênh Xuân Hòa "Cầu Ngang làm công trình trọng điểm chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội". Các đơn vị thi công đã tập trung phương tiện, thiết bị, công nhân lao động làm việc khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm đưa vào sử dụng. Theo báo cáo của Ban Quản lý Dự án thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, đến đầu tháng 7/2010, cơ bản các hạng mục công trình đều đã hoàn thành, chỉ còn 2 cống thi công dở dang là cống Bình Xuân và cống Sơn Quy A đang được khẩn trương hoàn thiện, đưa vào khai thác trước ngày diễn ra đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội như tấm lòng của nhân dân Tiền Giang hướng về Trái tim Tổ quốc .
-------------
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Nov/2010 lúc 1:00am
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Nov/2010 lúc 2:33am
MẸ GÒ CÔNG
Bảo Yến
http://www.youtube.com/watch?v=qaVSguqcv6w -
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Nov/2010 lúc 5:05am
ÁO TRẮNG GÒ CÔNG
http://www.youtube.com/watch?v=brHEtBkTCis -
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Nov/2010 lúc 6:28am
Sao Anh Không Về Thăm Lại Gò Công
Trình bày: /tim_kiem?by=casi&key=Ph%c6%b0%c6%a1ng+Dung - Phương Dung
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=yGaHcCMRBI - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=yGaHcCMRBI
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Nov/2010 lúc 4:53am
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 3:29am
SAO EM KHÔNG NHỚ GÒ CÔNG
Mộng Thi
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=8xuYcmvSmh -
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 12:50pm
Lan Huỳnh ơi có phải Mộng Thi là người Gò Công không?
------------- Lộ Công Mười Lăm
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 9:30pm
Mộng Thi
sinh năm 75 tại Sài Gòn và là con út trong một gia đình có 6 người con. Thân phụ cô là một sĩ quan cấp tá thuộc binh chủng Biệt Đông Quân, quê quán ở Vĩnh Long. Còn mẹ cô, một người sinh quán ở Gò Công là người đã khuyến khích cô rất nhiều, ngay từ những ngày đầu tiên.
Vào năm 94, Mộng Thi lúc đó được 19 tuổi, theo chân cha mẹ và anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mặc dù đã từng xuất hiện nhiều lần trên những chương trình thiếu nhi trên đài Truyền Hình và Truyền Thanh ở Việt Nam, nhưng với bản tính nhút nhát, cô bé có tên là Mộng Thi không hề nghĩ là mình sẽ tiếp tục con đường ca hát ở một môi trường hoàn toàn xa lạ đối với gia đình cô, cho đến một lần cô cho là gặp được một dịp may mắn. Trong một buổi đi lễ ở nhà thờ Tin Lành trong dịp lễ Phục Sinh năm 96, Mộng Thi gặp Chung Tử Lưu, là người đã biết đến tiếng hát cô từ khi còn ở Việt Nam và sau đó được nam ca sĩ này giới thiệu với Lê Phú Cường, giám đốc Trung Tâm Hải Âu. Vào đúng thời kỳ loại nhạc tình tự quê hương và tình cảm phổ thông được nhiều người nghe ưa thích, tiếng hát của Mộng Thi chỉ trong một thời gian ngắn đã được chấp nhận qua những nhạc phẩm có lời lẽ giản dị và mộc mạc... Sau khi tên tuổi được biết đến qua 6, 7 CD trong thời kỳ đầu tiên, Mộng Thi đã nhận được một số lời mời đi show, nhưng thời gian đó cô còn ở xa, chưa dọn về gần vùng Little Saigon nên đã không nhận lời... Vào giữa năm 97, Mộng Thi chính thức ký giao kèo độc quyền với trung tâm này sau khi cô dọn về thành phố Garden Grove, ngay vùng Little Saigon để sinh hoạt được dễ dàng.
Về những nhạc phẩm trình bày mang âm hưởng ngũ cung, thuộc loại tình tự quê hương Mộng Thi thường trình bày do yêu cầu của trung tâm cộng tác, cô cho biết là thoạt đầu không thích lắm vì đã quen với loại nhạc thiếu nhi hoặc nhạc trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là đã từng thực hiện một CD mang tựa đề "Tuổi Biết Yêu 1" trước khi sang Mỹ với những nhạc phẩm trẻ tình cảm. Nhưng dần dần cô đã cảm nhận được cái sắc thái đặc biệt của loại nhạc mà cô cho là hơi khó hát này. Và rồi với sự cố gắng cùng với sự khám phá những cái hay của nhạc tình tự quê hương, Mộng Thi càng ngày càng tỏ ra thích hợp với những nhạc phẩm được đa số thính giả yêu thích này.
Với những nhạc phẩm tình cảm phổ thông, giọng ca của Mộng Thi cũng đã tỏ ra rất thích hợp. Sự kiện này có lẽ đến từ bản tính mộc mạc, đơn sơ của người thiếu nữ tuy còn còn rất trẻ, nhưng không thích chưng diện nên chỉ thích ăn mặc giản dị như váy dài, áo thun hoặc váy ngắn với áo sơ mi bình thường...
Mộng Thi chỉ mới xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu vào tháng 11 năm 98, trong một chương trình thời trang tại vũ trường Majestic. Cô cho biết đã tỏ ra rất sợ và khớp vì trước đó chỉ thu mình trong phòng thu băng, chưa hề xuất hiện trước công chúng từ ngày sang Mỹ...
(Nguồn Internet)
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 9:42pm
http://lyric.tkaraoke.com/10058/Anh_Hai_Ve_Lang.html - Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - Ca sĩ : http://lyric.tkaraoke.com/100240/Singer/Mong_Thi/ - http://lyric.tkaraoke.com/10058/Anh_Hai_Ve_Lang.html - http://lyric.tkaraoke.com/10058/Anh_Hai_Ve_Lang.html
Ô kìa anh hai, anh hai vác cây đàn guita Trở về làng xưa, anh hai bước qua con đò nghèo Dừng lại để thăm cô Lan đang trồng liếp dưa Đôi má cô Lan hồng hồng, say đắm bao ngày nhớ mong
Ô kìa anh Tư, anh Năm với cô Hường, cô Mai Đón mừng anh hai, anh hai bước chân đi về làng Tình tình tình tang đêm vui dân làng hát ca Thôn xóm chung vui họ hàng, ly đế chum trà mời sang
Nhớ ngày xa xưa âu lo khi trời đổ mưa Đói nghèo vây quanh, đi lo con nợ bạc tiền Mái lá dột xiêu, mưa rơi sói mòn áo rách Một đời dầm sương dãi nắng Đôi mắt buồn lệ nhòa thương đau
Qua rồi gian nan, tương lai sáng theo lời câu ca Tiếng hò ngân nga đêm vui, bước chân theo cùng nàng Tìm lại tình yêu cô Lan cây đàn với anh Trăng sáng đêm soi mộng lành, đôi mắt đa tình lều tranh
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 10:32pm
VẬY LÀ MK BIẾT THÊM MỘT CÔ CA SĨ CÓ QUÊ NGOẠI GÒ CÔNG
CÁM ƠN LanH NHE
------------- mk
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Dec/2010 lúc 6:08am
THƯƠNG VỀ GÒ CÔNG
Hoàng Oanh
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=POHy1nM3an -
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Dec/2010 lúc 6:13am
CHIỀU GÒ CÔNG
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=t3qvhDUOFf -
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Dec/2010 lúc 5:30am
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Dec/2010 lúc 5:53am
Tạ ơn trời.
Mấy ngày qua, tiết trời dìu dịu hẳn lại. Sáng nắng ấm. Về chiều đôi khi lất phất mưa. Trước những sân nhà đã thấy cây phong thay màu lá. Thì ra trời đã vào Thu tự lúc nào. Có bao giờ ra khỏi nhà lúc sáng sớm, bạn khoan bước vội vào xe. Dừng lại một phút thôi. Nhìn toàn cảnh xung quanh mình để tạ ơn trời đất? Cây cỏ xanh xanh. Hoa đủ sắc màu. Xe cộ ở con đường trước nhà phóng qua vun vút. Và chính bạn. Một phút nữa thôi. Cũng là con người hoàn toàn khoẻ mạnh, hoà vào dòng thời gian để bắt đầu một ngày làm việc của chính mình?
Bạn ơi!
Cứ bằng lòng với những gì mình đang có - mà thấy hạnh phúc không xa - đủ để Tạ Ơn Trời. Khi Thượng Đế cho bạn còn hơi thở. Đôi mắt còn có thể nhìn một cách tinh tường. Đôi tai còn có thể phân biệt rất rõ mọi âm thanh. Thể trạng có thể thích nghi dễ dàng theo thời tiết chuyển xoay. Đôi tay còn có thể kéo chăn mỏng đắp chân khi nằm xem tin tức trên Tivi. Đôi chân còn có thể đi bách bộ nhiều vòng mỗi chiều cho thể hình thon gọn, cho mạch máu lưu thông. Xin nhớ Tạ Ơn Trời.
Tạ ơn người.
Có bao giờ bạn thử ngồi suy tưởng để cảm nhận tình yêu thương vời vợi của mẹ cha? Thượng Đế tạo dựng nên bạn trong lòng mẹ. Nhưng người! Phải! Chính người đã mang nặng, đẻ đau, bạn mới có mặt trên đời. Bạn ơi! Hãy tạ ơn người.
Còn người cha: Dường như lạnh lùng, nghiêm khắc. Nhưng lòng có lúc nào không dõi theo bước bạn đâu? Những bước đầu tiên bạn ngã ư? Chính người đã nâng bạn lên. Khi bạn giật mình sợ hãi vì ngoài trời gió mưa, sấm chớp, bão bùng. Chính người ôm bạn vào đôi tay vững vàng, bảo vệ. Bạn sợ bóng đêm ư? Chính người thắp lên ngọn lửa xua đi tăm tối.
Sắp qua đi thời cắp sách bạn bối rối không biết phải làm gì. Phải chăng chính người đã giúp bạn định hướng tương lai?
Bạn ơí! Mẹ cha yêu bạn biết bao. Dù cho cuộc đời làm cho người giập bầm, đau khổ người vẫn luôn dành cho riêng bạn nụ cười. Hãy tạ ơn Thượng Đế và hãy Tạ Ơn Người.
Tạ ơn đời.
Ngày chào đời dù chào đời bằng tiếng khóc thì bạn ơi đời vẫn còn nhiều lắm những đáng yêu với tròn vẹn nụ cười. Đây nầy: Ánh bình minh với làn sương sớm. Mây giữa trời thu bàng bạc hiền hoà. Gió giao mùa có làm bạn khắc khoải nhớ mong đến đâu thì đó vẫn là hạnh phúc.
Cuộc đời có lúc vui, lúc buồn. Có khi hợp, khi tan. Đời có thời kỳ thịnh vượng có thời kỳ khó khăn. Đời cũng cho ta nước mắt, nụ cười. Tại cõi đời nầy ta có đầy đủ cả mà có khi cũng không còn gì cả. Dầu sao, bạn ơi. Hãy tạ ơn đời.
Tạ ơn em.
Những dòng nầy ta viết để tạ ơn em. Em Sài Gòn dấu yêu mà một thời tuổi trẻ ta đã từng sống, từng vui, từng buồn. Ta quen thuộc từng nẻo đường. Ta quen mắt từng vẻ ưa nhìn của Hòn Ngọc Viễn Đông. Em ơi! Nơi nào ta đã qua? Đường Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Cường Để, Đinh Tiên Hoàng, Duy Tân, Trần Quốc Toản, Lý Thái Tổ, Lê văn Duyệt, Nguyễn Tri Phương, ... Chợ Bến Thành, Bến Bạch Đằng, Chợ Đũi, Chợ Nancy, Chợ Hoà Bình. Cư xá Lê Đại Hành. Trại Hoàng Hoa Thám, Chợ Vườn Chuối, Chợ An Đông, Chợ Nguyễn Tri Phương ... Ôi! Ta thả hồn lang thang về chốn cũ để mà nhớ mà thương.
Hỡi em Sài Gòn mà ta dấu yêu, Biết bao đớn đau từ ngày xa cách, Em! Chính em là trái tim Tổ Quốc, Chất chứa bóng hình kỷ niệm thân thương, Cứ mỗi lần nơi xứ lạ hoàng hôn, Ta thấy nhớ nhiều ly chè Hiển Khánh. Sống ở quê người, quanh năm trời lạnh, Nhớ Bến Bạch Đằng lồng lộng gió Thu, Có những đêm dài rả rích gió mưa, Thèm phở Hiền Vương, thèm hơi thở ấm, Lòng tự nhủ lòng quê người là tạm, Sài Gòn ơi! Ta quyết sẽ quay về ...
Tạ ơn em Sài Gòn với ngút ngàn kỷ niệm. Ta sẽ ôm Sài Gòn vào lòng với nước mắt đoàn viên. Vâng sẽ có một ngày như thế. Hãy khắc ghi vào lòng Sài Gòn như ghi khắc giữa tim ta ...
Hoàng Yến
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 07/Dec/2010 lúc 5:06am
CHỊ CHÍN
Ngoại tôi thuộc vào hạng khá giả trong làng Vĩnh Hựu với ba ngôi nhà rộng lớn, vườn tược bao chung quanh, có đầy đủ thứ cây ăn trái và một cỗ xe ngựa để ông ngoại tôi dùng làm phương tiện di chuyển mỗi khi đi họp ban hội tề. Năm đó tôi lên tám tuổi, sống với ngoại tôi và học lớp 3 nơi trường làng, một ngôi trường duy nhất nằm cạnh nhà việc và chùa Quan Âm.
Tôi quên khoảng thời gian nào mà chị Chín và những cô chú trong nhóm của chị đến ở tại nhà ngoại tôi, nhưng tôi nhớ tất rõ, một hôm đi học về, tôi thấy trong nhà ngoại tôi có rất nhiều người lạ mặt, họ có vẻ từ phương xa tới vì chưa bao giờ tôi gặp họ trong làng. Tôi biết tất cả, từ dượng Mười hớt tóc ở ngã ba đến chú Thiều bán thịt ở lộ mới, từ bà Tám bán xôi ở trường học đến cậu ba Quít ở bến đò... Trong nhóm những người đến làm việc tại nhà ngoại tôi có chị Chín là có vẻ mến tôi hơn cả. Chị trạc khoảng hai mươi lăm tuổi, người miền Nam, mảnh khảnh và với cặp mắt trẻ thơ của tôi lúc đó, tôi cho là chị rất đẹp. Bà ngoại tôi dành phân nửa ngôi nhà lớn phía trên để cho chị Chín và các bạn của chị sử dụng. Họ làm việc rất hăng say từ sáng đến chiều tối và có khi làm luôn suốt cả đêm. Tôi thấy họ loay hoay với đủ thứ máy móc, thứ để đánh máy giấy tờ, thứ để in truyền đơn và những thứ máy kỳ lạ mà sau này lớn lên tôi mới biết đó là máy truyền tin. Súng ống, đạn dược các loại được để gọn trong góc nhà...
Bà ngoại tôi và những ngưới làm trong nhà ngày ngày lo cơm nước cho những người khách lạ đó rất đầy đủ, tươm tất. Vài ngày sau, tôi thấy họ làm việc ít hơn những ngày đầu khi mới đến, thỉnh thoảng có vài người vắng mặt đôi ba ngày rồi lại trở về, duy có chị Chín là không đi đâu cả, chị ngồi trước máy đánh chữ gõ lạch cạch suốt ngày. Những lúc rỗi rảnh, chị thường dẫn tôi ra phía sau vườn và dưới bóng mát của buội chuối hay bên gốc dừa, chị dạy tôi hát những bài hát như: Mùa thu rồi, ngày hăm ba Ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến...
hay: Còn đâu nơi chiến khu trong rừng chiều Êm đềm tiếng suối reo ngàn thông reo Còn đâu nơi chiến khu trong rừng chiều Bên đồi tiếng suối reo đạn bay vèo...
hoặc: Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng Kiếm ngưồn tươi sáng Ta nguyền đồng lòng điểm tô non sông Từ nay ra sức anh hào Đoàn ta chen vai nề chi chông gai lên đàng...
Với mớ tuổi non dại của tôi thuở đó, tôi mường tượng ra một cảnh nên thơ nơi miền sơn cước lúc chiều tà, có những người tuổi trẻ, cả trai lẫn gái quây quần bên nhau làm việc như họ đang làm việc nơi nhà ngoại tôi lúc này vậy. Chị Chín còn dạy tôi những bài thơ mà cho đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn nhớ: Tôi muốn tôi là một cứu thương Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường Nằm lăn trên lá hay rơm uû Băng trắng đầu mình những vết thương...
Cũng với trí óc non dại của tôi, tôi ước muốn trở thành một cứu thương để được gần các anh chiến sĩ ở sa trường, để được tự tay mình băng bó những vết thương cho những anh chiến sĩ, mà theo lời chị Chín là những người hy sinh thân mình để chống lại kẻ xâm lăng.
Sự thân mật giữa riêng tôi và chị Chín mỗi ngày mỗi tăng vì mỗi khi chị có việc vắng mặt ở nhà ngoại tôi một ngày là tôi thấy nhớ chị, nhớ gương mặt của chị cũng như nhớ giọng nói êm đềm của chị khi chị dạy tôi một bài hát hay đọc cho tôi nghe một bài thơ. Ông bà ngoại tôi cũng có cảm tình sâu đậm với chị và tất cả mọi người làm việc chung vôùi chị và trái lại, theo cặp mắt tôi, những người này cũng đối đãi với ông bà ngoại tôi bằng một tình yêu thương đậm đà qua những lời nói kính mến, những cử chỉ lễ độ. Có dịp đi đâu về, ai ai cũng có một món quaø nho nhỏ để tặng ngoại tôi mà họ cũng gọi là «ngoại» như tôi vậy. Cái này dành cho ngoại, cái kia cũng dành cho ngoại. Khi thì một chú cho bà ngoại tôi một cái ngoáy trầu làm bằng vỏ đạn, khi thì một chị tặng cho ông ngoại tôi một con dao nhỏ, trên cán có khắc hình ngôi sao.
Thắm thoát mà chị Chín và những người bạn của chị ở tại nhà ngoại tôi đã được một năm và trong thời gian này ông bà ngoại tôi xem họ như là người trong nhà. Thỉnh thoảng họ dọn dẹp để dựng một sân khấu nơi cuối dãy nhà trên để trình diễn văn nghệ cho bà con trong làng xóm xem. Hình ảnh các anh chiến sĩ hiên ngang mà tượng trưng là những người cầm súng trong các vở kịch, trong các nhạc cảnh đã gieo vào lòng tôi nhiều cảm mến. Tuổi trẻ thơ ngây của tôi không khỏi xúc động khi thấy những chiến sĩ như những bóng ma âm thầm, lần mò đi trong đêm tối, nơi rừng sâu thăm thẳm, giữa mùa dông buốt giá trong khi tiếng hát cao vút từ hậu trường cất lên: "Mùa đông gió lạnh lùng, gió lạnh lùng. Chim thôi bay nhìn mưa gió hãi hùng. Ngoài xa, ngoài biên cương, bao chiên binh..."
Nhóm ngườøi của chị Chín vẫn đi đi về về nơi nhà của ngoại tôi, thỉnh thoảng lại có thêm vài người lạ mặt, nhưng cũng mất đi vài người cũ, duy chỉ có chị Chín vẫn ở luôn tại nhà ngoại tôi làm việc.
Năm mười một tuổi, học xong lớp Nhất, tôi thi đỗ bằng Sơ học thì một biến cố xảy ra. Một hôm chị Chín thỏ thẻ với bà ngoại tôi để xin cho tôi theo làm việc với chị. Chị khen tôi học giỏi, thông minh, sẽ có tương lai rực rỡ sau này nếu tôi được bà tôi cho phép đi theo chị. Chị cũng cho bà ngoại tôi biết là lần này chị và các bạn của chị sẽ đi xa, không trở lại nhà ngoại tôi nữa và nếu bà ngoại tôi bằng lòng thì ba hôm nữa tôi sẽ tháp tùng cùng đoàn người của chị để lên đường. Thật ra lúc đó tôi không có ý kiến gì cả trong khi chị Chín đưa ra lời đề nghị như vậy vì tôi chưa biết chị đưa tôi theo để làm gì? Trong trí óc non nớt của tôi, tôi nghĩ rằng có lẽ mình sẽ được như các anh chiến sĩ trong các vở kịch, trong các nhạc cảnh, sẽ được mọi người thương yêu, kính mến, hoặc nếu được chị cho làm cứu thương, tôi sẽ được ở cạnh các anh chiến sĩ ngoài sa trường.
Nhìn ngoại, tôi thấy bà trầm ngâm, có vẻ suy nghĩ thật nhiều khi nghe chị Chín nói như vậy và cuối cùng ngoại tôi cương quyết từ chối lời yêu cầu của chị Chín, lấy lý do rằng tuy tôi sống với ông bà ngoại nhưng còn ba má tôi ở xa, quyền định đoạt là của ba má tôi... Hơn nữa tôi mới được mười một tuổi, lứa tuổi còn phải cắp sách đến trường để học hỏi, chưa phải là tuổi «hoạt động», nói theo tiếng của chị Chín. Kể từ lúc đó, một không khí ngột ngạt, khó chịu, nẩy nở trong nhà ngoại tôi, không bên nào nói với bên nào một lời gì. Chị Chín cũng lầm lầm lì lì, không còn những lời nói ngọt ngào, dịu dàng đối với tôi. Chị cũng không còn dạy tôi những bài hát, đọc cho tôi nghe những bài thơ nữa. Ba hôm sau, cả đoàn người âm thầm lên đường cũng như khi họ đến.
Tháng với ngày lần lượt trôi qua, chúng tôi, cả ngoại và tôi đều quên dần dần gương mặt của những người đã đến trú ngụ trong nhà chúng tôi, duy chỉ có một người mà tôi còn nhớ rất rõ, đó là chị Chín, cũng như tôi còn nhớ những bài hát, những bài thơ chị Chín đã dạy cho tôi mà những khi một mình thơ thẩn ngoài vườn, tôi thường hay ngân nga nho nhỏ những âm điệu quen thuộc đó. Riêng ông ngoại tôi thì vẫn mỗi tuần hai lần đi hội họp ban hội tề ở nhà việc trên một cỗ xe ngựa do người giúp việc đưa đi hoặc do chính ông tôi điều khiển lấy.
Bỗng một đêm, trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, chị Chín lại xuất hiện, nhưng lần này với một nhóm ngưòi lạ, khác với nhóm người lần trước, và chị Chín cũng trông khác hẳn lúc xưa. Lần này chị mặc một bộ đồ bà ba đen, khác với trước kia chị thường mặc một quần đen và một chiếc áo bà ba trắng bông xanh, lúc ngắn tay, khi dài tay. Trên cổ chị bây giờ lại có thêm một chiếc khăn rằn, chân chị mang một đôi dép cao su... Những người đi với chị trông không có cảm tình chút nào, người nào người nấy mặt đằng đằng sát khí, cũng như chị Chín không còn nét dễ thương của chị ngày trước nữa. Ông bà ngoại tôi không nhận ra chị Chín, duy chỉ có tôi biết ngay là chị dù hôm nay chị thay đổi quá nhiều, từ cách ăn mặc cho đến cử chỉ, lời nói...
Chị Chín cho biết lý do ngay lúc vào nhà là để, theo lệnh ở trên, mời ông ngoại tôi về ủy ban làm việc. Chị cũng cho biết thêm ông ngoại tôi ngoài tội là điền chủ còn làm hương cả trong làng nên tội gấp đôi. Mặc những lời van xin khóc lóc của bà ngoại tôi và tôi, đoàn người đi theo chị trói hai tay ông ngoại ra phía sau lưng và dẫn ông ngoại tôi ra đi trong đêm tối.
Kể từ ngày đó cho đến khi bà ngoại tôi vì đau buồn nên sinh bệnh mà từ giã cõi đời, vẫn không có tin tức gì về ông ngoại tôi, trong khi vào khoảng thời gian đó, hàng ngày không có ngày nào là không có xác người nổi trôi lềnh bềnh trên khúc sông gần bến đò, có cái xác thì bị trói tay ra đàng sau, mắt còn bị bịt kín, có cái xác không có đầu, có cái xác mất chân... Có lẽ ông ngoại tôi cũng là một trong những cái xác nổi trôi, vô thừa nhận đó.
Ngôi nhà thân yêu của ông bà ngoại tôi, nơi ghi dấu hơn mười năm kỷ niệm thời thơ ấu của tôi, ít lâu sau, bị lính Pháp thiêu hủy, vườn tược đều bỏ hoang, cây cỏ dại mọc um tùm. Tôi từ giã xóm làng cũng từ năm đó để xuống Gò Công tiếp tục việc học và lần nào mỗi khi ra đường gặp một người đàn bà mặc bộ đồ bà ba đen, khăn rằn quấn cổ, tôi liên tưởng ngay đến chị Chín, đến lòng dạ của một con người mà tôi cho rằng còn kém xa loài thú vật...
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Dec/2010 lúc 5:08am
NỔI BUỒN GÁC TRỌ Phương Dung
http://www.youtube.com/watch?v=xDt_hBJerP0&feature=related -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/Dec/2010 lúc 1:12am
Lý Con Sáo Gò Công (Tân Cổ)
Trình bày: /tim_kiem?by=casi&key=Tu%e1%ba%a5n+Ch%c3%a2u%2cThanh+Ng%c3%a2n -
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=6nEKFoHlyg -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Dec/2010 lúc 9:19pm
THANH NGUYÊN
Gửi Thanh Nguyên vài hàng ngợi khen cảm mến, Cám ơn Em đã đưa trường cũ vươn lên. Từ học sinh, giáo sư rồi Hiệu trưởng, Sống trọn lòng người con giữ truyền thống quê hương.
Em như một đóa hoa hàm tiếu hứa hẹn đầy hương sắc, tinh khiết, mảnh mai, thanh tao, nguyên vẹn. Mái tóc thề mềm mại e ấp bay bay theo mỗi làn gió nhẹ như đài hoa vưong miện điểm tô nụ hoa hy vọng. Ai chẳng thích ngắm nhìn vẻ đẹp trinh tuyền ấy, và cũng không một ai muốn xoa tan đi ngẫu hứng hồn thơ, mộng mơ qua tính ngây thơ, không giả tạo. Không có một nhục dục, ích kỷ nào trước hiện tượng Thanh Nguyên. Không phải là hoa khôi lộng lẫy, rực rỡ gây phản ứng rạo rực, kích thích giác quan mà là một thiếu nữ bẩm sinh thiên phú từ vóc dáng, cử chỉ, giọng nói đến nụ cười dễ gây ấn tượng nhẹ nhàng, êm đềm, tín cẩn đi thẳng vào lòng người. Em tung tăng hồn nhiên thành thật đến với mọi người không mặc cảm, dự tính, hậu ý. Hơn thế nữa, óc cầu tiến, ham học hỏi, không hám danh, vô vụ lợi, lại tin tưởng vào chính mình, ngôi sao tốt chiếu mạng, diễm phúc được gia đình bao bọc nhất là bà mẹ hiền đức tận tụy hy sinh, tương lai sáng lạn đến với mình không vướng mắc. Con đường nhung lụa dưới chân, tâm trí đã được hun đúc bằng bao gương kinh sử, tâm hồn được thanh lọc bằng những nốt nhạc huyền diệu thanh cao, Em say sưa tự nguyện dấn thân quên mất thời gian thẳng bước. Từ một nụ hoa chớm nở, Em đã vươn mình trên mảnh đất nhân kiệt địa linh, thành đóa hoa mỹ miều khiết trinh tỏa xa hương ngạt ngào khoe sắc thắm. Hòa mình với các kén khác trắng xinh, hóa thành tằm nhả tơ dệt lụa tiếp tục sự nghiệp giáo dục cao đẹp hướng dẫn bao lớp trẻ tiến lên làm vinh dự quê hương. Tiếng hát cùng thời gian vươn cao theo nhịp tim của từng niên khóa học, du qua ba miền đất nước, nhắc nhớ vùng đất lành sinh trưởng bao phụ nữ lừng danh. Em là chim họa mi bắt đầu Điệp khúc mùa Xuân suốt 7 năm dưới mái trường Trung học Gò công, 14 năm nhạc trưởng giàn nhạc Đại hợp xướng nổi tiếng Trung học Trương Định quê nhà.
Riêng mến tặng Em bài thơ phổ nhạc (thơ Nguyễn Bính ) đổi lời: ‘’Hởi cô học sinh bé của tôi ơi, Hy vọng môi cô mãi mỉm cười. Tiếng hát vượt thời gian vút thẳng, Giữa bầu trời rộng mở ngàn khơi.
Cô chưa hề riêng nghĩ đến ‘ai’ Chỉ hôn vào những đóa hoa tươi, Vẫn ôm gối chiếc đêm đêm ngủ, Còn dấn thân lo nghiệp với người.
Nghỉa là quên mình đãy mà thôi, Thế là vì người quá mất rồi, Với cô một cũng là tất cả, Cô là Hiệu trưởng trường quê tôi’’
Cô giáo cũ Trần Thành Mỹ
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Dec/2010 lúc 10:56pm
ĐƯỜNG VỀ NGOẠI
Đường dẫn về quê ngoại, Hai bên mạ xanh đồng. Bờ đê xưa thoai thoải, Lúa ngậm sữa đòng đòng. Chân dẫm bám từng bước, Nghiêng dù nón gió đùa. Tà áo bay tha thướt, Rút ngắn quen đường mòn. Hàng tre già vẫn thẳng, Phe phẩy chiếc khăn đầu. Tết nêu cao pháo nổ, Dấu ấn nhất hàm râu. Cây sữa trắng cậu trồng, Bóng mát khoe tàng rộng. Đong đưa hàng so đũa, Bên giàn mướp đậu rồng. Mỗi lần về xóm ngoại, Quẹo mặt bờ lớn vào. Ngọn me huơi tin báo Xúm xít rộn cười vui. Lần tản cư về đấy Quê ngoại đầy dân thành. Bố ráp chạy theo mẹ, Dân ta quyết chống Tây.
Nhà ngoại bị thiêu rồi, Cậu rơi vòng lao lý. Cặm dùi trên đất tổ, Mợ tần tão dựng bồi. Gò xưa nhà ngoại mới Tre trúc vẫn đón mời. Thanh sắc đua hoa lá, Khiết nhã thềm thư hiên. Con đường ghi ký ức, Phôi pha dấu cuộc đời. Phẳng phiu hay đoạn khúc, Kỷ niệm chẳng hề vơi.
Quê mình ai cũng có, Đất mẹ nuôi hình hài. Đâu phải từ khe nứt, Quên gốc dạ đổi thay.
Xanh biếc khoảng trời cao, Tim nhịp nhớ xôn xao. Mây bồng bềnh hơi thở, Sao vướng nước bờ mi. Mơ ngày về quê ngoại, Thoăn thoắt trên bờ mòn, Hít tự do hương đất, Gội hồn nước tình non.
T.T.M.
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Dec/2010 lúc 5:21am
Chung Một Dòng Sông
Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - Hoàng Phương
Anh miền Gò Công quê hương Trương Định Em xứ dừa xanh ngát Bến Tre Cùng chung bên nhau con nước sông Tiền Say đắm tình quê hương thủy chung Mưa nắng hai mùa xao xuyến tình vấn vương
Trang sử hùng Gò Công quê hương Trương Định Trang thơ hồng Đồ Chiểu Bến Tre Gọi nhau qua con sóng vỗ về Trăng hữu tình xanh xanh rừng lá Cao ngất tấm lòng nghe tiếng đàn miền Đông Đất nước yên vui nghe màu xanh giục giã Con nước sông Tiền chở nặng phù sa Trên những con tàu chiều ra biển rộng Cây lúa trên đồng xanh lá đơm bông
Em đi về Gò Công thăm quê miền cát mộng (bỏng) Anh đi về chiều nặng bóng dừa xanh Tình ca quê hương như máu tim cội nguồn Tha thiết tình sinh sôi Cửu Long Chim én bay về khua xao động tình quê...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Dec/2010 lúc 8:28pm
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Dec/2010 lúc 9:22pm
Thương Một Người Ở Xa
Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - http://lyric.tkaraoke.com/16851/Thuong_Mot_Nguoi_O_Xa.html -
Thương một người ở xa một mình đôi mắt đỏ Con thuyền đi sóng vỗ sông nước sao đổi bờ Về thăm lại Phú Đông lòng bỗng thấy mênh mông Sông rì rào ca hát tình yêu em dạt dào Đi qua cầu Cả Thu nhìn dòng sông bối rối Rung rinh chùm hoa sứ bỗng nhớ em cuối trời.
ĐK:
Ai ca điệu quê hương tình yêu nồng đôi tay (*) Con tim nồng chân lý anh mơ mãi vườn dừa Xanh xanh bên đồng lá vạn lúa đồng hương bay Điện sáng soi đêm dài đường Phú Đông tương lai...!!!
( => Thương một người ... )
Xanh xanh bên đồng lá vạn lúa đồng hương bay Điện sáng soi đêm dài đường Phú Đông tương lai...!!!
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Dec/2010 lúc 12:06am
Trưa Hè Trên Bãi Biển Gò Công
Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - Hoàng Phương
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Jan/2011 lúc 6:26am
http://lyric.tkaraoke.com/10899/Chieu_Nghe_Bien_Hat.html - Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - Hoàng Phương Ca sĩ thể hiện: http://lyric.tkaraoke.com/101869/Singer/Ngoc_Hue/ - Ngọc Huệ & http://lyric.tkaraoke.com/102210/Singer/Don_Ho/ - Đon Hồ http://lyric.tkaraoke.com/10899/Chieu_Nghe_Bien_Hat.html - http://lyric.tkaraoke.com/10899/Chieu_Nghe_Bien_Hat.html
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jan/2011 lúc 12:03am
http://lyric.tkaraoke.com/13044/Huong_Hoa_Su.html - Tác giả: http://lyric.tkaraoke.com/1054/Hoang_Phuong/ - Ca sĩ : http://lyric.tkaraoke.com/100372/Singer/My_Huyen/ - - http://lyric.tkaraoke.com/13044/Huong_Hoa_Su.html
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Jan/2011 lúc 12:42am
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Feb/2011 lúc 6:43am
Chuyện ngày xưa - Mộng Thi
Lần đầu tiên khi nghe bài hát "Chuyện ngày xưa" không hiểu sao cứ thấy thương ghê cô gái trong bài hát. Mà bài hát cũng bình thường thôi, thậm chí có thể xếp vào loại "sến" nhưng nghe vẫn thấy thích. Thích những câu chữ rất gợi trong bài hát như "Hôm nào em đến chơi mà quên mang tiếng cười", hay "Khi nhìn sâu trong đáy mắt mưa rơi", hoặc là "Lửa thương chưa tắt nên em để lại hương tóc dài". Cụm từ "quên mang tiếng cười" rất hay, người nghe có thể hình dung được ngay tâm trạng và nét mặt của cô gái. Có một cái gì đó vương vương trong tâm tình của cô ấy, đến chơi nhà người quen mà vẫn phảng phất nét buồn man mác. Rồi hơn thế nữa, cô ấy chẳng những quên cười mà còn "đáy mắt mưa rơi". Những giọt nước mắt chưa tuôn rơi mà chỉ lóng lánh nơi đáy mắt như cố che giấu nỗi lòng. Nàng dù chẳng nói một lời, chẳng thở than, chẳng rơi một giọt lệ nhưng người tình cũ cũng đã tinh ý cảm nhận được khi “nhìn sâu” vào mắt nàng. Qua cách cảm rất tinh tế của chàng người nghe như đã phần nào chạm được vào niềm u uẩn của người yêu chàng. Một người thì kín đáo, lặng lẽ; một người thì tinh tế, dường như họ rất hiểu nhau dù chẳng nói với nhau một lời.
Giá như nàng thở than cho cuộc tình dang dở đã qua hay than thân trách phận cho cuộc hôn nhân hiện tại thì bài hát đã rơi vào lối mòn của hằng hà những ca khúc tình cảm phổ thông khác. Nhưng không như thế, có cái gì đó rất đáng chú ý ở nàng. Khi người yêu nàng chẳng thể dằn lòng phải cất tiếng hỏi "Khi hỏi duyên cớ sao để hoa kia úa màu", nàng đã rất nhẹ nhàng: "Thôi quá muộn, ta gặp nhau khi áo cưới may xong, còn gì mà mong". Chỉ có một chiếc áo cưới mới may xong thôi mà, đã chính thức là vợ của người ta đâu nhưng với nàng như vậy cũng coi như chim đã vào lòng, cá đã cắn câu rồi, “còn gì mà mong” nữa. Sao mà nghe xót xa quá. Có lẽ đây chính là điều khiến ta rung động và càng lúc càng bị cuốn hút hơn. Đó chính là tính cách chung thủy và khuôn phép rất Á Đông này đây. Cuộc hôn nhân hiện tại chắc rằng không mấy vui đối với nàng và bây giờ nàng đang đối diện với người yêu xưa với biết bao yêu thương của những ngày xưa cũ. Thông thường trong những tình huống như thế này người ta dễ khóc than kể lể cho thỏa nỗi lòng hoặc cùng người trong mộng nối lại tình xưa như lòng hằng ao ước. Nhưng cô ấy đã rất ý thức và biết dừng lại bên bờ lễ giáo. Chắc chỉ có phong tục của người Á Đông mới có được sự ràng buộc chắc chắn đến thế và điều đó góp phần tạo nên tính thủy chung, chịu đựng chỉ có ở phụ nữ Châu Á. Có thể nét thuỷ chung này bây giờ đã lỗi thời nhưng nó vẫn tạo nên sự kính trọng cho một nhân cách. Và nhân cách cao đẹp đó đã khiến người ta rung động. Niềm rung động đó càng mãnh liệt hơn khi đến cuối cuộc hội ngộ cô ấy ra về dù "lửa thương chưa tắt" mà cũng chỉ dám "để lại hương tóc dài" cho người yêu cũ. Rất tiết hạnh, dù tiết hạnh đó chắc chắn sẽ khiến lòng người trong cuộc quặn đau và tiếc nuối biết chừng nào.
Vừa nghe hát vừa thả hồn trong tưởng tượng ta như nhìn thấy cô gái trong bài hát là một cô gái rất đẹp với một mái tóc dài, đặc biệt là cô ấy có đôi mắt đẹp và buồn. Cô ấy dịu dàng, thùy mị, kín đáo. Và cô gái mang đậm tính cách Á Đông ấy có lẽ chỉ có ở ngày xưa thôi, ngày nay người ta đã yêu theo kiểu khác rồi, hiện đại và táo bạo hơn. Thế nên bài hát mới có tựa đề là "Chuyện ngày xưa". Vâng, ngày xưa của những Quỳnh Nga, Thoại Khanh, Châu Long ... đó mà.
Mộng Thi đã hát rất hay bài hát này. Mộng Thi đã chọn cách hát đơn giản, hiền lành, man mác buồn. Không quá sến khi sa đà vào việc tô đậm những tình tiết buồn, dang dở, cũng không quá sắc xảo trong cách nhấn nhá câu chữ và càng không có cách ca trong vắt ngây thơ-vốn là ưu thế của Mộng Thi. Cô ca tự nhiên, vừa phải, man mác buồn đúng với tính cách của cô gái trong bài hát. Qua tiếng ca của Mộng Thi ta càng thấy cảm mến cô gái đẹp cả về hình thức và nhân cách trong bài hát đồng thời cũng thương lắm cho uẩn khúc trong lòng cô.
Người gởi: đông quyên
Ngày gởi: 02/Feb/2011 lúc 7:03am
"Thôi quá muộn, ta gặp nhau khi áo cưới may xong, còn gì mà mong". Chỉ có một chiếc áo cưới mới may xong thôi mà, đã chính thức là vợ của người ta đâu nhưng với nàng như vậy cũng coi như chim đã vào lòng, cá đã cắn câu rồi, “còn gì mà mong” nữa. Sao mà nghe xót xa quá. Có lẽ đây chính là điều khiến ta rung động và càng lúc càng bị cuốn hút hơn. Đó chính là tính cách chung thủy và khuôn phép rất Á Đông này đây. Cuộc hôn nhân hiện tại chắc rằng không mấy vui đối với nàng và bây giờ nàng đang đối diện với người yêu xưa với biết bao yêu thương của những ngày xưa cũ. Thông thường trong những tình huống như thế này người ta dễ khóc than kể lể cho thỏa nỗi lòng hoặc cùng người trong mộng nối lại tình xưa như lòng hằng ao ước. Nhưng cô ấy đã rất ý thức và biết dừng lại bên bờ lễ giáo. Chắc chỉ có phong tục của người Á Đông mới có được sự ràng buộc chắc chắn đến thế và điều đó góp phần tạo nên tính thủy chung, chịu đựng chỉ có ở phụ nữ Châu Á.
Đáng lẽ đừng gặp lại thì hay hơn.
------------- bx
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Feb/2011 lúc 6:36am
/mp3/search/do.html?t=1&q=Th%C3%AC+Th%E1%BA%A7m+M%C3%B9a+Xu%C3%A2n - Trình bày: /mp3/search/do.html?t=2&q=M%E1%BB%99ng+Thi - - http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Thi-Tham-Mua-Xuan-Mong-Thi.IWZEI7CA.html
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Feb/2011 lúc 7:50am