In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12949 Ngày in: 05/Nov/2024 lúc 5:56am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: MỘT THỜI ĐỂ NHỚNgười gởi: Lan Huynh
Chủ đề: MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
Ngày gởi: 12/Oct/2021 lúc 11:07am
http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/10/mot-thoi-e-nho.html - Một Thời Để Nhớ...
Chẳng cần nội dung ra sao, ý nghĩa
nói gì. Miễn sao cảm thấy hay độc lạ là được, chủ trương vui là chính.
Những bài đồng dao tưởng chừng
như vô nghĩa, ngây ngô. Nhưng nó lại ăn sâu vào tiềm thức cho mỗi người chúng
ta. Một thuở sống trong một đất nước tự do, thanh bình, một thời để nhớ.
Sau đây là một số bài hát, bài đồng
dao của tuổi thơ, mà các em thường hay hát :
“Ngày xửa ngày xưa, có con mẹ bán
dưa, bả cưa cái cẳng, bả nắn cái nồi, bả nhồi cục bột, bả lột miếng da, bả ca vọng
cổ, bả nhổ cây bông, bả trồng cây chuối, bả muối con cá, bả đá trái banh, bả
sanh thằng nhỏ, cái đầu đó đỏ, cái đít diu diu”.
“Bà Ba bả bán bánh bò bông, bả bẻ
bông bụp, bị bắt bỏ Bót ba bốn bữa, bả buồn bực, bả bể bầu”.
“Trời mưa lâm râm, cây trâm có
trái, con gái có chồng, đàn ông có vợ, đàn bà có con”.
“Cô dâu chú rể làm bể bình bông, đổ thừa con nít, bị đòn nứt đít”.
“Tò te Rô-be đánh đu
Tạc-zăng nhảy dù
Zô-rô bắn súng
Chết cha con ma nào đây
Thằng Tây hết hồn, thằn lằn cụt đuôi”
“Ngày xửa ngày xưa
Có mẹ bán dưa
Mẻ ngồi mẻ địt
Có ông bán thịt
Ổng ngồi ổng hửi
Có bà bán bưởi
Bả ngồi bả chửi
Có ông đi ghe
Ổng ngồi ổng nghe”
“Ngày xửa ngày xưa
Có con mẹ bán dưa
Mẻ cưa cái cẳng
Mẻ nắn cái nồi
Mẻ nhồi cục bột
Mẻ lột miếng da
Mẻ ca vọng cổ
Mẻ nhổ cây bông
Mẻ trồng cây chuối
Mẻ muối con cá
Mẻ đá trái banh
Mẻ sanh thằng nhỏ
Cái đầu đo đỏ
Cái đít vàng khè
Con mẹ bán chè – mẻ sợ chè ế
Con mẹ bán khế – mẻ sợ khế chua
Con mẹ bán cua – mẻ sợ cua bò
Con mẹ bán cò – mẻ sợ cò bay
Con mẹ bán khoai – mẻ sợ khoai sùng
Con mẹ bán mùng – mẻ sợ mùng rách
Mẻ đi bán chạch – sợ chạch nhảy sông
Mẻ bán chà bông – sợ chà bông Trung Quốc
Mẻ bèn bán guốc – guốc mộc ai xài
Mẻ liền bán xoài – sợ xoài phun thuốc
Mẻ bán chùm ruột – bà bầu đâu thèm
Mẻ bán cà rem – bán ế chảy nước
Mẻ bèn bán thuốc – thuốc giả tràn lan
Mẻ bán khăn quàng – hàng ế đầy chợ
Mẻ đi bán phở – bán ế nhà phải ăn
Mẻ định tự tử bằng xăng – không chết vì xăng pha nước
Mẻ nhảy sông tự vận – không chết vì mẻ biết bơi
Mẻ đi chơi bằng xe đò – xe đụng… Mẻ chết
Chuyện tạm đến đây là hết!”
“Ông già quét nhà
lượm được đồng điếu
giắt ở lỗ tai
để mai đi chợ
đi mua dây nhợ
về buộc lồng chim
đi mua cây kim
đem về vá áo
đi mua con sáo
hót cho vui nhà
đi mua trái cà
để dành làm dưa
đi mua con cua
đem về làm chả
đi mua con cá
kho tiêu chặt đầu
đi mua miếng trầu
về nhai nhóp nhép
đi mua con tép
đem về nấu canh
đi mua trái chanh
đem về vắt nước
đi mua cây lược
đem về chải đầu.”
“Cúc cụt đuôi ai nuôi cúc lớn? Cha mẹ già, cúc bỏ cúc đi....
Tuổi thơ ngày ấy rất hồn nhiên, dễ
thương, dễ mến làm sao! Không điện thoại, không Facebook, Zalo, không game
online. Chỉ biết vui đùa, tắm mưa, trèo cây hái trái tắm sông, thả diều ngoài đồng
lúa, hái hoa bắt bướm.
Giờ chỉ còn là kỷ niệm, là nuối tiếc,
biết bao giờ trở lại thời hoa mộng đã qua, thời lên năm lên ba, của “Những ngày
xưa thân ái, xin gửi lại cho ai”.
Sưu tầm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Trả lời: Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Oct/2021 lúc 8:34am
Tui dám cá với Bạn là dù ngày xưa Bạn đỗ ba cái bằng Trung Học
rồi thêm hai cái Bằng Đại Học nhờ trí thông minh và tài nhớ dai đến cỡ
nào thì khi đến tuổi sáu mươi sự thông minh nhạy bén của Bạn cũng suy
giảm và trí nhớ của Bạn cũng có vấn đề. Đứa con của Bạn chỉ Bạn sử dụng
computer Bạn làm trước quên sau nó bèn chán nản nói thôi Bố Mẹ cần gì
thì gọi con làm cho. Rõ khổ. Đã vậy mà cái thằng từng ở tù chung với
mình, từng hai đứa bị còng chung một cái còng mà mình cũng quên mất tên
nó. Tên nó trùng với tên truyện bằng tranh giải trí của con nít trong
Báo Tuổi Thơ mà cũng không nhớ. Nghĩ mãi từ sáng tới chiều chợt đánh đét
một tiếng. À ! Thì ra thằng Chương Còm ! Rồi thì dọn cơm ra lấy chén
quên lấy đũa., vội vàng trở lại thì quên mất mình muốn lấy thêm cái
gì,. đứng gần một phút trời trồng mới nhớ. Có phải là triệu chứng của
Alzheimer ? Yên chí không phải đâu , tuổi già ấy mà. Vậy muốn nhớ thì
phải làm gì ?
Ngày xưa trí nhớ của Bạn tuyệt đỉnh thuộc lòng từng câu thơ
trong Truyện Kiều, nhớ từng công thức toán học hay hoá học mà Thầy Cô
còn cho Bạn cách nhớ bằng thơ văn trong Toán Giải Tích như :
Tìm sin lấy đối chia huyền
Cosin ta lấy kề huyền chia nhau
Còn tang ta hãy tính sau
Đối trên kề dưới chia nhau thấy liền
Rồi học sử địa, để nhớ cái Biển Baltique tận trời Bắc Âu có
hình dáng Bà Tiên, ông Thầy nói phải nhớ là Biển Bà Tiên, Bà Tiên viết
tắt BT có cùng chữ tắt với Baltique cho dễ nhớ. Rồi học chữ Hán thì
Thiên trời, Địa đất, Nhơn người. Phụ cha, Mẫu mẹ, Sư thầy, Cô cô, Bá
bác, Thúc chú, Huynh anh.....Rồi qua tiếng Pháp Ma soeur chi tôì, Mou
mềm, Long dài...Năm khi mười quạ, cinq quand dix corbeaux. Chiều chiều
chim vịt kêu chiều. soir soir canard parler soir.....Bạn nào thông minh
hơn thì đơn giản hoá bài học những ý chính đế khi làm bài cho dễ nhớ mà
tán thêm ra...
Nhưng tuổi già thì khó nhớ nếu không có phương pháp. Tui dám
chắc mười Bạn có đến chín không nhớ đến Bảng số xe hay Bằng Lái Xe. Bằng
lái xe của tui mang số 3529124. Một cách nhớ đầy văn hoá là tui làm thơ
như sau :
BA NĂM lưu gót Sài gòn
HAI mùa xoài CHÍN vẫn còn nhớ thương
MỘT đời lắm chuyện tai ương
HAI lần dang dở đau thương BỐN mùa
Thấy chưa ! Bạn có thể qua thơ dễ nhớ hơn thấy không ?
Năm 1995, tui mua chiếc xe Van cà tàng nhưng dealer vẫn cho
đăng bộ xin bảng số mới. nên nó có số 3 đầu. Bảng số là 3MCG500. Tui bèn
cho nó cái tên để không quên là BA MẦY CHO GÁI NĂM TRĂM. Còn Bà Xã thì
mua xe Camry mới tinh cũng cho số 3 đầu mang số 3SVM095. Để nhớ tui
cho Bả câu thiệu BA (giờ) SÁNG VẪN MÒ KHÔNG CHịU NGỦ. Năm 2005 tui đối
xe Van mới Sienna nó mang bảng số 5BMO985 , NĂM BÀ MỘT ÔNG CHẾT TỚI NƠI
(chết tới nơi là 985). Năm 2018 con gái tặng cho chiếc Camry SE mới mang
bảng số 8BTC 599, tui phán TÁM BÀ THỊT CHÚ NẰM CHỜ CHẾT (nằm chờ chết
là 599). Năm nay mới bán cái nhà ở Arizona tui mua chiếc Lexus LS 430
second hand đi đăng bộ nó cũng cho bảng số mới 8RBV939. Số nầy thật dễ
nhớ và cũng đúng với tình trạng sinh học của tuối tác. ông TÁM RỜ BƯỞI
VỢ CHIN QUÁ CHÍN (chín quá chín là 939) . Tui thứ Tám còn vợ thì đã trên
70 không chín thì cũng rục. !
Tin tui đi ! Bạn thử theo kiểu của tui bảo đảm không quên Bảng
Số Xe hay Bằng Lái. Hay là làm thơ số an sinh xã hội để nếu có mất thì
đi khai báo làm lại cái mới không bị trục trặc. Số An Sinh Xã Hội tui
cũng làm thơ cho dễ nhớ nhưng là tính riệng tư nên không thể đưa lên đây
được.
Máu tếu của mấy cô nàng ca ve ở các Vũ Trường còn kinh dị hơn
tui nhiều. Bước vào Vũ Trường tui đặt gói thuốc lá PALL MALL của Mỹ lên
bàn tán tỉnh em Phòng Anh Lạnh Lẽo Môi Anh Lạnh Lùng. Cô nàng móc gói
CAPSTAN đáp liền Cho Anh Phát Súng Thì Anh Ngũm. Nhưng nàng khác dễ
thương hơn đưa cho tui gói SALEM Sao Anh Làm Em Mệt Mà Em Làm Anh Sướng
rồi nàng chỉ chữ 20 Filter Cigarettes Made In USA đọc tiếp 20 Phút Im
Lặng Thì Em Rên, Chỉ Một Giây Anh Rờ Em Tê Tê Em Sướng Mà Anh Đưa Em Một
Ngàn Uổng Sao Anh ?
Uổng thiệt đó em ơi. Rờ chỉ một giây thôi mà tốn tới một ngàn.
Gói thuốc lá Capstan có 20 đồng, vậy là anh mất tớí 50 gói hút cả tháng
chưa hết ! ./-
Mạch Vạn Niên
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Oct/2021 lúc 2:49pm
Trò Chơi Trẻ Con Khu Đakao Trong Thập Niên 1950:Chơi Tạt, Ðánh Ðáo, Ðánh Trỏng
Chơi Tạt
Ðây là trò chơi rất thịnh hành trong
mùa nắng. Khởi sự chơi thì mỗi đứa chơi phải bỏ ra một số “tiền” bằng
nhau (sẽ nói rõ về “tiền”ở bên dưới), tất cả được đặt vào giữa một cái ô
hình vuông có cạnh độ 5 tấc, vẽ ra ngay trên mặt đường. Sau khi đặt
“tiền” xong, đầu tiên là thi thảy mức để định thứ tự chơi. Mỗi đứa chơi
đứng bên cạnh cái ô, lần lượt thảy miếng chàm (sẽ nói rõ về “chàm” bên
dưới) của mình về phía đường mức là một lằn gạch, cách cái ô độ 15, 20
mét. Thứ tự chơi của từng đứa sẽ được quyết định bởi khoảng cách từ
miếng chàm tới đường mức, gần nhứt thì được chơi trước nhứt, xa nhứt thì
đi chót. Ai thảy miếng chàm của mình qua khỏi đường mức thì đương nhiên
là đi chót. Như vậy, sau khi thi thảy mức, mọi người đều tề tựu về phía
đường mức, và thứ tự chơi đã được quyết định. Theo thứ tự nầy, mỗi
người sẽ lần lượt tạt, nghĩa là thảy cái chàm của mình, sao cho nó lướt
trên mặt đường về phía cái ô, nhằm mục tiêu là cái đống “tiền” được xếp ở
giữa ô. Dĩ nhiên cuộc chơi chấm dứt ngay sau khi tất cả đống “tiền” đã
bị tạt văng ra khỏi cái ô. Vì thế, ngay cả đứa được xếp thứ nhì trong
thứ tự chơi cũng có thể không được tạt, nếu đứa chơi đầu tiên đã tạt
văng ra ngoài khỏi cái ô tất cả số “tiền”. Trong thời gian các đứa chơi
thay nhau tạt, chỉ có một đứa không được đứng ở phía đường mức, mà tiếp
tục đứng bên cạnh cái ô, đó là anh chàng nào xui xẻo, bị đi chót. Nhiệm
vụ của tên nầy là sắp xếp lại cái đống “tiền” nếu có người nào tạt trúng
nó. Số “tiền” văng ra khỏi phạm vị cái ô là thuộc về người tạt trúng.
Số “tiền” còn nằm bên trong cái ô sẽ được tên nầy phụ trách sắp xếp lại
vào giữa cái ô. Sau khi mọi đứa, kể cả đứa đi chót, đã tạt xong, mà một
phần hoặc toàn bộ số “tiền” vẫn còn trong ô, thì tất cả lại tiếp tục tạt
nữa, nhưng lần nầy thì từ phía ngược lại của đường mức, và thứ tự chơi
cũng thay đổi, người nào có miếng chàm ở cách xa cái ô nhứt (sau khi tạt
lần đầu từ đường mức) thì được tạt trước nhứt. Thông thường thì sau lần
chơi nầy số “tiền” sẽ không còn ở trong ô nữa. Và như vậy là chấm dứt
một lần chơi. Sau đó lại đặt “tiền,” lại thi thảy mức và bắt đầu một lần
chơi mới. Như đã mô tả ở trên, muốn tham gia trò chơi tạt nầy phải có
hai điều kiện, có chàm và có “tiền”. Ðiều kiện thứ nhứt không bắt buộc
lắm, vì nếu mình không có miếng chàm riêng của mình mà có một đứa khác
đồng ý cho mình cùng sử dụng miếng chàm của nó thì mình vẫn có thể tham
gia trò chơi được. Tuy nhiên ít có trường hợp nầy lắm vì thứ nhứt là đâu
có khó khăn để kiếm miếng chàm mà phải đi mượn, thứ hai là mình phải
thật quen tay với miếng chàm của mình thì khi thảy mới bảo đảm được kết
quả tốt. Sự ăn thua trong trò chơi nầy rõ ràng là nằm trong hai khả
năng: cái tài thảy mức và cái tài làm sao tạt cho trúng cái đống “tiền”.
Cả hai cái tài nầy đều là kỹ thuật vận dụng miếng chàm. Thảy mức thật
ra cũng chính là một mặt của kỹ thuật tạt, nhưng thay vì tạt là nhắm vào
đống “tiền”, thì thảy mức là nhắm vào cái đường mức. Cái khác nhau giữa
hai kỹ thuật nầy là khi tạt thì phải tính sao cho khi miếng chàm đến
mục tiêu thì nó vẫn còn đủ sức để hất tung đống tiền, trái lại, khi thảy
mức, thì phải tính sao cho khi miếng chàm khi đến gần mục tiêu (tức là
đường mức) thì nó không còn sức di chuyển nữa, hay nhứt là làm sao cho
miếng chàm ngừng lại khi nó vừa tới sát đường mức. Thảy mức rất quan
trọng vì nó tạo cơ hội cho mình được chơi trưóc, khi đống “tiền” còn
nhiều, còn lớn và dễ tạt trúng hơn. Còn tạt thì chính là nguyên nhân
trực tiếp của thắng hay bại. Tạt giỏi là làm sao cho miếng chàm của
mình, sau khi rời khỏi tay mình, chạm vào mặt đường, không bị xốc lên,
lăn lóc, mà tiếp tục luớt nhẹ nhàng trên mặt đường, nhắm đúng vào giữa
cái đống “tiền” và còn đủ sức để hất tung càng nhiều càng tốt số “tiền”
ra khỏi cái ô. Nếu miếng chàm bị xốc lên hay lăn lóc thì hướng đi của nó
sẽ dễ bị lệch, không đánh trúng vào mục tiêu. Sức dùng để thảy miếng
chàm cũng phải được tính toán, tùy theo khoảng cách giữa đường mức và
cái ô. Ngoài ra cũng phải ráng làm sao cho miếng chàm của mình, dù có
trúng mục tiêu hay không, tiếp tục đi xa nhứt về phía bên kia cái ô, để
phòng khi còn có cơ hội tạt ngược trở lại (vì “tiền” vẫn còn, như đã nói
ở trên), thì mình được tạt đầu tiên. Cách nhắm cũng rất quan trọng,
miếng chàm của mình phải trúng vào ngay giữa đống “tiền” thì mới có thể
hất tung toàn bộ đống “tiền” để thắng lớn, chớ nếu chỉ trúng vào một bên
hay một góc của đống “tiền” thì khó mà “ăn” nhiều được. Có kỹ thuật tốt
không cũng chưa đủ, phải có dụng cụ tốt nữa thì mới mong đạt được kết
quả tốt. Vì thế phẩm chất của miếng chàm cũng rất quan trọng. Tuy không
có một quy định nào về hình dáng và kích thước của miếng chàm, nhưng nói
chung, tốt nhứt là miếng chàm phải vừa tay mình, không lớn quá, không
nhỏ quá, không nặng quá, không nhẹ quá. Lớn quá hay nặng quá thì khó mà
thảy xa được, và cũng khó mà canh cho đúng mục tiêu. Nhỏ quá hay nhẹ quá
thì khi trúng mục tiêu lại có khi không “ăn” lớn được. Ngoài ra miếng
chàm phải được mài cho láng ở mặt dưới để có thể lướt thật tốt trên mặt
đường. Và thông thường miếng chàm phải bằng đá xanh cho đủ cứng, không
bị bể khi chạm vào mặt đường. Việc “chế tạo” một khối đá xanh (thường
bọn tôi phải đi ra mấy khu có đường rầy xe lửa mới lượm được mấy cục đá
xanh nầy; đá xanh là tiếng nôm na, tên khoa học của nó là đá hoa cương,
một loại phún xuất thạch) thành một miếng chàm thật tốt cũng mất rất
nhiều công phu và thời gian. Ngược lại nó chính là niềm hãnh diện của
mình, cũng như các hiệp khách ngày xưa quý thanh gươm, hay mấy anh cao
bồi Mỹ quý khẩu “ru lô” của họ vậy. Và cũng chính vì vậy mà ít ai chịu
đi mượn miếng chàm của người khác (mất mặt quá) và cũng ít ai chịu cho
người khác mượn miếng chàm của mình (rủi nó hư thì sao ?). Về “tiền” thì
có ba loại: nút khoén (tức là nắp các chai nước ngọt, còn gọi là nút
phéng), bao thuốc lá, và giấy hình. Vì thế thật ra có ba loại chơi tạt:
tạt nút khoén, tạt bao thuốc hay tạt hình. Luật chơi thì hoàn toàn giống
nhau, như đã mô tả ở trên, chỉ có đối tượng ăn thua là khác nhau. Hai
loại “tiền” đầu tiên thì phải chịu khó bỏ công đi lượm về và chuẩn bị.
Loại “tiền” thứ ba là loại duy nhứt phải bỏ tiền thật ra mua. Nút khoén
thì sau khi lượm về phải cạy bỏ lớp mốp ở bên trong đi, xong rồi dùng
búa hay đá dập cho chúng dẹp và phẳng ra, nhưng phải tránh không làm mất
cái hình vẽ sơn ở trên mặt vì chính các hình đó quyết định về trị giá
của “tiền”. Các loại nắp chai nước ngọt thông thường như nước cam, bạc
hà, xá xị có giá trị thấp nhứt, mỗi cái chỉ tính một đơn vị. Các loại
nắp chai ít gặp hơn như sođa, nước suối Perrier, hay xi rô, bia 33, có
giá trị cao hơn, có cái tính ba, có cái tính năm đơn vị. Bao thuốc lá
thì sau khi lượm về cũng phải được chuẩn bị cho thành “tiền”. Ðầu tiên
là bóc bỏ lớp giấy kiếng bên ngoài (nếu vẫn còn, thường thì không còn)
và lớp giấy bạc bên trong. Xong rồi khéo léo mở banh bao thuốc ra cho nó
thành một tờ giấy mà không bị rách, sau đó xếp nó lại thành hình chữ
nhựt, ngang khoảng 4 cm, dài khoảng 6 cm, với phần mặt bao có tên hiệu
thuốc lá ra bên ngoài và ở phía trên. Cũng giống như nút khoén, bao
thuốc lá có giá trị khác nhau tùy theo hiệu thuốc. Các bao trị giá kém
nhứt, chỉ tính một đơn vị, là các bao thuốc thông thường như Mélia,
Bastos xanh, Bastos đỏ. Trị giá cao hơn là các bao hiệu Capstan, Cotab.
Cao hơn nữa là các bao Con Mèo (Craven “A”), hay Lính Thủy (Navy Cut),
hay Lucky, hay Lạc Ðà (Camel). Loại “tiền” chót, giấy hình, thì phải ra
chợ Ðakao hay chợ Tân Ðịnh để mua. Ðó là các tấm giấy carton mỏng có in
hình màu của các truyện tranh vẽ như Zorro, Tarzan, vv. Các tấm carton
nầy hình chữ nhựt, chiều ngang độ 2 tấc, chiều dài độ 3 tấc, chia làm 30
ô vuông, mỗi ô đều có in hình màu. Mua các giấy nầy về, bọn tôi cắt ra
theo các ô chia sẳn, mổi ô với hình trên đó được tính một đơn vị. Loại
“tiền” nầy thì tất cả đều có giá trị ngang nhau. Trong ba loại trò chơi
tạt nầy, loại tạt hình là loại sinh sau đẻ muộn và kém phổ biến nhứt vì
nó đòi hỏi phải bỏ tiền thật ra mua. Ngoài ra, cũng vì nó kém hấp dẫn
nhứt, chỉ bỏ tiền ra mua là có, không đòi hỏi công phu đi lùng kiếm, lục
lạo, và hên xui, may rủi. Các bạn cứ thử tưởng tượng xem khi bọn tôi
may mắn tìm được một cái nắp chai Perrier, hay môt cái bao thuốc Camel
thì bọn tôi sướng biết là chừng nào. Rồi còn cái công chuẩn bị cho các
thứ đó trở thành “tiền” nữa, cực hơn nhiều nhưng cũng khoái hơn rất
nhiều.
Ðánh Ðáo
Trò chơi nầy thường ít khi có trên bốn
đứa trẻ, mỗi đứa bỏ ra một số “xu” bằng nhau. “Xu” có thể là tiền xu
thật, loại đồng một xu màu xanh xám, bằng kẽm, tương đối dễ bể, do chính
quyền thuộc địa Pháp phát hành, lúc đó vẫn còn lưu hành (vào đầu thập
niên 1950, một xu lúc đó có thể mua được một miếng kẹo da trâu), nhưng
cũng có thể là tiền điếu, bằng đồng thau, do Nhà Nguyễn phát hành, lúc
đó không còn xài được nữa. “Xu” cũng có thể là nút khoén (từ thông dụng
tại Miền Nam để chỉ cái nấp bằng kim loại của các chai nước ngọt, chai
bia, vv.)
Có hai thể loại của trò chơi nầy, một
có lỗ và một không có lỗ. Khi chơi thì chọn một khúc lề đường có mặt đất
phẳng, không có cỏ. Ðầu tiên là đào một cái lỗ (nếu chọn chơi có lỗ),
đường kính sao cho các đồng xu có thể lọt vào gọn gàng, sâu chừng hơn
một phân thôi, ngay bên dưới cái lỗ sẽ gạch một đường dài chừng hơn một
mét, sau đó gạch một đường nữa, song song với đường thứ nhứt và cách
đường nầy chừng hai mét.
Trước khi bắt đầu chơi thì thi thảy
mức hay “oánh tù tì” để định thứ tự chơi. Bắt đầu chơi thì đứa đi đầu
tiên sẽ cầm hết cả xấp tiền xu đã góp lại, đứng tại đường gạch thứ nhì,
ném tất cả về phía đường gạch kia. Nếu chơi có lỗ, thì mục tiêu sẽ là
làm sao ném cho các đồng xu rớt vào trong lỗ, càng nhiều càng tốt, vì
tất cả các xu lọt vào trong lỗ sẽ thuộc về người ném. Số xu không lọt
vào lỗ sẽ nằm rải rác trên mặt đất, chung quanh cái lỗ, hoặc cũng có khi
văng ra xa hơn. Bây giờ các đứa còn lại sẽ bàn với nhau, và sau đó sẽ
chỉ vào một trong các đồng xu đó. Dĩ nhiên, đó là đồng xu ở vào vị trí
mà cả bọn tin là khó chọi trúng nhứt. Ðó sẽ là mục tiêu cho đứa đang
chơi. Trong trường hợp có mấy đồng xu nằm dính chùm với nhau, thì mấy
đồng đó đương nhiên là mục tiêu, bọn còn lại bị tước mất cái quyền chỉ
định mục tiêu. Ðứa đang chơi sẽ dùng một đồng chọi của riêng nó, nhắm
chọi cho trúng cái đồng xu mà đối phương đã chỉ định, hoặc cái đống tiền
xu nằm dính chùm với nhau. Trong trường mục tiêu chỉ định, nếu nó chọi
trúng thì nó sẽ “ăn” hết tất cả các xu. Nếu nó chọi trật hay trúng một
đồng xu khác thì phiên chơi của nó chấm dứt, và đứa có thứ tự kế tiếp sẽ
bắt đầu chơi. Trong trường hợp mục tiêu đương nhiên (đống xu dính chùm)
thì đứa chơi phải dùng đồng chọi của nó chọi thế nào cho tất cả các
đồng xu đó rời ra hết. Nếu làm được vậy, nó sẽ “ăn” hết, nếu không thì
phiên chơi của nó chấm đứt. Ðứa được đi kế sẽ gom tất cả xu lại, đi tới
đường gạch ở đầu kia và bắt đầu chơi. Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến
khi tất cả các xu đã được “ăn” hết.
Trong trò chơi nầy, “võ khí cá nhân”,
tức là đồng chọi, rất quan trọng, góp phần định đoạt thắng bại. Bọn tôi
mỗi đứa đều phải tự chế tạo đồng chọi. Thông thường nhứt là các đồng
chọi bằng chì. Ðể “chế tạo võ khí cá nhân” nầy, bọn tôi phải chịu khó đi
tìm tòi, lục lọi ở mấy bãi rác, tìm cho được mấy miếng chì vụn vặt, tốt
nhứt là mấy cái ngàm thắng xe đạp. Bỏ tất cả vào một cái lon sửa bò,
bọn tôi đốt cái lon cho nóng lên để cho chì chảy ra thành nước (các bạn
đã hiểu tại sao bọn tôi chọn chì rồi phải không, lý do đơn giản là vì
chì có độ nóng chảy rất thấp, dễ “luyện kim,” phải không các bạn?).
Trong khi đó, thì bọn tôi đào một cái lỗ trên mặt đất, chổ có đất sét là
tốt nhứt, vì dễ đào, và dễ “thiết kế” cái lỗ theo ý muốn của mình.
Ðường kính của cái lỗ lớn nhỏ là tùy theo mình muốn đồng chọi của mình
bao lớn. Ðộ sâu của cái lỗ thường khoảng một phân thôi. Khi chì đã chảy
ra thì kiếm một miếng vải cầm cái lon lên (cho khỏi phỏng tay), đổ nước
chì vào trong cái lỗ, canh sao cho vừa đủ, để khi nguội lại mình sẽ có
một đồng chọi có bề dày vừa ý mình. Sau khi chì đã nguội và đông đặc
lại, thì moi đồng chì ra khỏi lỗ, và bắt đầu tiến trình hoàn tất đồng
chọi, bằng cách mài cạnh và mặt của nó cho láng. Thế là mình có được một
đồng chọi hoàn toàn vừa ý mình. Sau đó là bắt đầu tập luyện để chọi cho
chính xác, muốn chọi đồng nào là trúng đồng đó. Ðến đó thì mình đã cảm
thấy sẳn sàng “ra trận” rồi.
Ðánh Trỏng
Trò chơi nầy về sau tôi được biết là
trẻ con ngoài Bắc cũng có chơi và gọi là đánh khăng. Dụng cụ để chơi rất
đơn giản, gồm có hai khúc cây, một dài độ ba bốn tấc gọi là cây tán,
một ngắn độ hơn một tấc thôi gọi là con trỏng. Lý tưởng nhứt là cả cây
tán và con trỏng đều làm bằng củi đòn, một loại củi thân tròn và rất
thẳng, đường kính độ dưới hai phân, màu đỏ, chụm mau cháy và có độ nóng
cao, loại củi nầy tương đối mắc tiền nên không phải nhà nào cũng có khả
năng mua về để chụm lửa. Nếu không có được củi đòn thì tìm mấy nhánh cây
me, hay cây ổi cũng rất tốt, có điều là sẽ tốn công nhiều hơn trong
việc chế biến chúng.
Ở xóm Ðakao của tôi thì luôn luôn chỉ
chơi bốn đứa chia làm hai phe, mỗi phe hai đứa. Chổ chơi thì phải rất
rộng nên dĩ nhiên địa điểm lý tưởng của bọn tôi là bãi đất trống gần vựa
củi của Ông Tư. Ðể chuẩn bị chơi thì đầu tiên là đào một cái lỗ dài độ
hơn hai tấc, bề ngang chừng ba phân, sâu cũng chừng ba phân. Kế đó là
gạch một đường mức cách phía trước cái lỗ chừng hai mét. Ðể ấn định thứ
tự chơi thì mỗi phe cử ra một đứa để “oánh tù tì”. Phe nào thắng thì
được chơi trước. Phe đó sẽ cử ra một đứa để chơi, đứa kia chỉ đứng ngoài
quan sát. Phe còn lại thì cả hai đứa đều đi ra phía đằng trước; vị trí
đứng của tụi nó xa hay gần đường mức hoàn toàn do tụi nó quyết định. Mục
tiêu của tụi nó là đón bắt con trỏng do đối phương phóng ra.
Trò chơi nầy đòi hỏi rất nhiều kỹ
thuật khác nhau vì cách chơi lần lượt thay đổi theo tiến trình của cuộc
chơi, càng về sau càng khó. Ðầu tiên là vít, là lối chơi dễ nhứt, đứa
nào cũng chơi được hết. Khi chơi lối nầy thì con trỏng được đặt nằm
ngang trên miệng lỗ, phía đằng đầu của lỗ, cây tán được cầm bằng hai
tay, đầu kia đặt vào trong cái lỗ, bên dưới con trõng, đứa đang chơi sẽ
dùng hết sức để vít con trỏng cho nó bay lên khỏi mặt đất, tối thiểu là
phải qua khỏi đường mức và làm sao cho đối phương không bắt được nó. Nếu
đối phương bắt được con trỏng thì phiên chơi của phe đang chơi chấm dứt
liền lập tức. Phe đang chơi, lần nầy thì cả hai đứa, sẽ di chuyển ra
phía trước để đón bắt con trỏng. Phe đối phương thì lại cử ra một đứa để
bắt đầu chơi. Nếu đối phương không bắt được con trỏng, thì một đứa sẽ
đi tới chổ con trỏng rớt xuống, lượm con trỏng lên và ném về phía cái
lỗ, lúc đó cây tán đã được đứa đang chơi gát nằm ngang trên miệng lỗ.
Mục tiêu của đối phương là làm sao ném cho con trỏng trúng vào cây tán.
Nếu ném trúng thì phe đang chơi bị chấm dứt phiên chơi liền. Nếu ném
không trúng nhưng con trỏng nằm cách cái lỗ một khoảng ngắn hơn chiều
dài của cây tán thì phe đang chơi cũng bị chấm dứt phiên chơi liền. Nếu
ném không trúng mà con trỏng nằm xa cái lỗ thì đứa đang chơi sẽ cầm cây
tán lên, đi tới chổ con trỏng đang nằm và bắt đầu dùng cây tán đo khoảng
cách từ đó về tới cái lỗ, đếm xem được bao nhiêu chiều dài cây tán, con
số nầy sẽ là điểm của phe đang chơi, và thông thường, ở xóm Ðakao tôi,
số điểm để thắng cuộc chơi là một trăm điểm.
Sau lối chơi vít là lối chơi tán. Bắt
đầu lối chơi nầy, đứa chơi phải cầm cả cây tán lẫn con trỏng trên một
tay. Sau khi hô lớn số điểm đã có được và cách chơi sắp diển ra (thí du:
mười hai, tán) thì đứa chơi sẽ ném con trỏng lên cao, chờ cho nó rơi
xuống ngang tầm tay, dùng hết sức tán cây tán thật mạnh vào con trỏng
cho nó bay vút về phía trước. Nếu tán hụt, hay tán trúng nhưng quá nhẹ
khiến cho con trỏng không bay vượt qua khỏi đường mức thì phiên chơi sẽ
chấm dứt liền. Nếu tán trúng và đủ mạnh để con trỏng bay xa khỏi đường
mức thì phe đối phương sẽ có mục tiêu là chận bắt con trỏng trên không
trung. Nếu phe đối phương bắt được con trỏng thì phiên chơi của phe đang
chơi cũng sẽ chấm dứt liền. Nếu không bắt được thì một đứa trong phe
đối phương sẽ đi lượm con trỏng lên và ném về phía cái lỗ. Ðứa đang chơi
sẽ nhắm vào con trỏng đang được ném trả lại và cố gắng tán cho trúng
nó. Nếu nó tán trúng thì lần nầy phe đối phương không được quyền đón bắt
con trỏng nữa. Nó sẽ đi tới chổ con trỏng rớt xuống và bắt đầu đo
khoảng cách từ đó về cho tới cái lỗ, cộng vào điểm phe nó đã có sau lần
chơi vít. Nếu nó tán hụt và con trỏng rơi xuống cách cái lỗ một khoảng
ngắn hơn chiều dài cây tán thì phiên chơi của phe đang chơi cũng sẽ chấm
dứt liền. Nếu nó tán hụt nhưng con trỏng rơi xuống cách xa cái lỗ thì
nó được quyền đo khoảng cách từ đó về cái lỗ để tính điểm, cộng vào điểm
phe nó đã có sau lần chơi vít.
Lối chơi kế tiếp là chặt. Bắt đầu lối
chơi nầy, con trỏng được gát vào đầu trước của cái lỗ, nữa phần sau của
con trỏng nằm trong cái lỗ, nữa phần trước nằm ngóc đầu lên ở ngoài cái
lỗ. Sau khi hô lớn số điểm đã có và cách chơi sắp diển ra (thí du: ba
mươi sáu, chặt) đứa đang chơi sẽ dùng cây tán chặt vào cái đầu của con
trỏng đang ngóc lên, làm sao cho con trỏng bắn lên cao khỏi mặt đất, chờ
khi con trỏng rơi xuống ngang tầm tay, sẽ dùng cây tán đánh mạnh vào
con trỏng cho nó bay vút về phía trước. Luật lệ cũng y như lối chơi tán
vừa kể trên. Nếu thoát được đối phương lần nầy nữa thì phe đang chơi,
sau khi tính thêm điểm, sẽ chuyển sang lối chơi chót gọi là gánh.
Lối chơi nầy rất khó. Khởi sự chơi thì
đứa đang chơi phải để cây tán nằm vắt vẻo trên vai trái, bàn tay phải
cầm con trỏng. Sau khi hô to điểm đã có và lối chơi sắp diển ra (thí dụ:
sáu mươi lăm, gánh), đứa chơi co chân phải lên, luồn bàn tay phải xuống
dưới chân phải, liệng con trỏng lên cao, hạ chân phải xuống đất, bàn
tay phải chụp cây tán trên vai, và vừa lúc con trỏng rơi xuống ngang tầm
tay, nó dang hết sức tán thật mạnh vào con trỏng cho nó bay vút về phía
trước. Luật lệ cũng y như lối chơi vừa rồi. Nếu lại thoát được lối
phương lần nầy nữa thì phe đang chơi, sau khi tính thêm điểm, và nếu vẫn
chưa đủ một trăm điểm, sẽ trở lại lối chơi vít.
Khi một phe đã đạt đủ số một trăm điểm
thì phe kia phải chịu thi hành hình phạt, gọi là chạy u một khoảng
đường đo bằng ba lần tán. Chạy u là vừa chạy vừa phải thổi u u, mà khi
thổi u u như vậy thì phải nín thở nên không thể chạy xa được. Nếu ngưng
thổi u u mà chưa chạy xong khoảng đường đó thì lại bị phạt thêm một tán
nữa. Ðể kiểm soát việc thi hành hình phạt nầy thì phe thắng không có
cách nào khác hơn là cũng phải chạy kèm theo phe thua. Dĩ nhiên phe thua
thì được quyền thay phiên nhau để chạy tiếp phạt.
(Nguồn: Đakao trong tâm tưởng, của chính tác giả dưới bút hiệu Vĩnh Nhơn. Hamilton, Ontario, Canada: Hoài Việt xuất bản, 2008. Tr. 80-86, 92-99).
Lâm Vĩnh Thế
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Oct/2021 lúc 2:02pm
Nhớ Cà Phê Lá Me Bay
Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)
1.
Ngày xưa, những năm 70 nhiễu nhương, loạn
lạc lại trúng vào thời sinh viên của bọn tôi ở Sài Gòn. Dù đa số trong
bọn đều là con nhà nghèo hay chỉ trung lưu, nhiều bạn phải đi dạy kèm
mới đủ tiền mua cours mà học, nhưng bọn tôi lại khá phong lưu, rộng rãi ở
cái khoản cà phê.
Chỗ đóng đô, quán hẹn quen thuộc thì lu
bù, phồn tạp. Khi có tiền thì ra cà phê Hân hay Duyên Anh trên đường
Đinh Tiên Hoàng, Đakao là gần trường Văn Khoa nhất, đi bô ra quán dưới
cơn mưa nhỏ lại càng thú vị. Lý do nữa là Hân có băng nhạc Paul Mauriat
tuyệt vời, Duyên Anh có cô sinh viên cùng ban triết với bọn tôi làm thu
ngân, biết bao chàng say đắm! Còn khi thong thả cả hai khoản tiền bạc và
thì giờ, cả bọn kéo đến cà phê Hồng ở đường Pasteur, Tân Định. Quán có
chị Hồng, chủ quán, tóc để dài thật liêu trai, cà phê thật đắng, nhỏ
giọt thật chậm để khách lãng đãng thả hồn theo khói thuốc và nhạc họ
Trịnh. Còn những vết ố trên tường cứ ngang ngang nhau, như thể tất cả
khách trước sau đến quán đều dửng dưng có cùng một cỡ xương sống mỏi
mệt, chán chường thời thế và thân phận.
Còn
những ngày cạn túi, bọn tôi vẫn ung dung – thường xuyên ung dung – ra
cà phê lá me. Cho đến ngày nay, nằm ngay trung tâm của quận trung tâm
thành phố là Quận Nhất, ở trước mặt nhà thờ Đức Bà, ngã ba đường Đồng
Khởi ngày nay (đường Tự Do/Catinat xưa cũ) với đường Nguyễn Du vẫn luôn
là khu vực hào nhoáng bậc nhất của Sài Gòn hoa lệ, có mặt toàn những
khách sạn, nhà hàng, văn phòng thương mại, ngân hàng… nguy nga, sang
trọng. Vậy mà thời đó, ở ngã ba này, trên một quãng vỉa hè chỉ là sàn xi
măng xấu thô, chỗ cao chỗ thấp thuộc đường Nguyễn Du, dưới tán lá những
cây me già chợt xuất hiện một hàng cà phê lộ thiên, không bảng hiệu,
thuộc hạng bình dân, xập xệ hết cỡ.
Tượng Đức Mẹ đứng giữa hoa viên phía
trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, lúc nào đó liếc mắt sang phía phải, thấy
cái quán nghèo mạt ở giữa khu phố quá giàu có, hẳn Mẹ không khỏi chép
miệng thương xót: “Tội nghiệp, các con ở nhầm chỗ mất rồi!”.
Quán xập xệ đến mức chỉ bày ra những bô
bàn ghế gỗ tạp cũ mèm, vừa nhỏ vừa thấp. Bàn chỉ đủ ngồi 3-4 người, ghế
đẩu thì mặt ngồi vừa đủ cho bàn tọa người vóc trung bình, không nên mập
và dĩ nhiên, loại ghế đẩu cao chỉ 25cm này làm gì có lưng tựa.
Thường thì bọn tôi hay gọi cái quán cóc,
pha cà phê vớ ngon không kém cà phê phin này là “cà phê Nguyễn Du”, “cà
phê lá me”, có khi hú nhau thật vắn tắt “Ra lá me nhé!”, “Tụi nó ngồi
chỗ lá me đấy!” cũng đủ hiểu. Nhưng, có tên nào khó ưa, được mời cà phê
chùa còn ngầm ý phân biệt, xếp hạng cái quán cả bọn sắp kéo đến, hỏi
kháy “Cà phê hả? Ghế thấp hay ghế cao?”, thì đượng nhiên cà phê lá me
thuộc hạng “ghế thấp”, khỏi tranh cải.
Quán lá me xập xệ, bần dân đến nổi bọn
con trai ngầm chia xẽ nhau một điều kiêng kỵ, tránh không bao giờ rủ mấy
nữ nhóm viên hiếm hoi trong nhóm cùng đến quán. Con gái nhà người ta
nết na, đằm thắm và thanh tân hết mực. Cứ nhìn các nàng trong áo dài
raglan kiêu sa, trang trọng là mình đã phải làm nghiêm, cố nói năng cho
đúng mực đàng hoàng và tôn trọng, có rủ đi uống nước thì cũng phải lựa
quán xá sang trọng cỡ La Pagode, Hân, Duyên Anh, Cafetaria, Bố Già… mới
xứng với các nàng. Ngược lại. làm sao có thể rủ người ta đến cà phê lá
me, ngồi lê lết vỉa hè như dân lãng tử bụi đời, vừa khó coi vừa mất giá
tiểu thư?
2.
Dù
sao mặc lòng, ngày giờ này đã nửa thế kỷ trôi qua, hễ ngồi nhắc với
nhau về quán cà phê lá me đường Nguyễn Du ngày xưa là nhiều người trong
bọn tôi đã như sống lại với cùng những kỷ niệm sâu lắng, những hình
ảnh, chuyện đời vui buồn lẫn lộn của thời trai trẻ, tất cả từng ghi khắc
ở nơi này. Đối với riêng chúng tôi, kỳ diệu là cái quán mộc mạc, không
tên tuổi ấy lại là một kho báu lưu giữ những giá trị sâu sắc, vừa về
thời gian, sử tính vừa về tinh thần, tình cảm và cảm xúc trong đời sống.
Sâu xa hơn, ở tuổi đời xế bóng, một khi bao năm qua tâm hồn đã khô hạn
ít nhiều bởi ảnh hưởng của những thói bươn chãi đến ích kỹ, vun quén cá
nhân, khôn vặt, thực dụng, thô lổ…, chẳng qua là để có thể tồn tại trong
tình cảnh thiếu thốn, khó khăn mọi mặt trong nước hoặc cuộc sống một
thời lưu vong, chưa thể hội nhập ở nước ngoài, đám bạn già chúng tôi
ngày nay cùng thừa nhận rằng những ngày được sống trong tâm thức lãng
mạn, phóng dật của thời kỳ Cà Phê Lá Me viết hoa ấy mới quý giá và đáng
sống làm sao!
Cái thời mà ở một quán cóc lề đường
Nguyễn Du, những buổi chiều gió hiu hiu vừa đủ làm rụng lá me, những
chiếc lá nhỏ xíu bay lạc vào tách cà phê, tách trà bình dân, rẻ tiền của
bọn sinh viên nghèo.
Cái thời mà những cơn gió lớn làm rụng
hạt những cây sao trên đường Trần Quang Khải, những cái chong chóng tím
tím, đỏ đỏ ấy xoay tít trên trời, bay lạc vào những căn gác gỗ tồi tàn,
nhỏ như lỗ mũi, nơi cả bốn, năm tên sinh viên cùng trọ học. Nghèo nàn,
đạm bạc qua ngày, cảm thụ lãng mạn, hơi hoang tưởng…, ngoài ra thì không
có gì cấm được đám thư sinh, hàn sĩ ấy nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương
lai, dự phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà mình đang
dùi mài, tích lũy từ ngôi trường cổ kính bao năm?
Rồi tốt nghiệp cử nhân, ra trường, ai nấy
tứ tán đi làm chỗ này chỗ nọ, cố gắng thực hiện các dự phóng riêng hay
chung mà ngày nào đã từng tranh cải, bàn luận, ra quyết định chọn lựa… ở
cái quán cà phê cóc đơn sơ ấy. Thời sinh viên lãng mạn, đầy hoa mộng
coi như đã khép lại tuy cũng có một số người ghi danh tiếp, làm luận án
cao học nhưng cũng không thường xuyên đến trường nữa. Cũng có nghĩa là
từ đó, bạn bè ít có cơ hội gặp nhau ở trường, để có thể rủ nhau đi cà
phê, dĩ nhiên là trở lại cà phê lá me.
Tôi nhớ, chính vào những lúc tụ tập ở cái
quán cóc lá me đơn sơ ấy, ngoài những tâm sự thậm thụt, tán dóc vu vơ,
nhiều lúc bọn tôi còn bàn đến những vấn đề nghiêm chỉnh về hoạt động
chung của nhóm, cả về những chuyện định hướng cả cuộc sống và tương lai
của mỗi anh em, như: nên học chuyên về triết Đông hay triết Tây, làm
tiểu luận cao học đề tài nào, cùng đào sâu nghiên cứu tư tưởng triết gia
nào, quyết định lập nhóm nghiên cứu và ra tờ báo, cần ghi danh thêm bên
luật hay chính trị – kinh doanh, không nên nhận tiền tài trợ của tổ
chức T.…
3.
Ngoài chuyện từng làm chứng nhân cho
những kế hoạch hoạt động, dự phóng tương lai của đám sinh viên bọn tôi,
cà phê lá me còn lưu giữ cả những chuyện tình thật đẹp hoăc thật tội
nghiệp.
Như
có một tên bạn, học cùng ban Triết đông phương như tôi nên rất thân và
hiểu nhau. Năm đó, người trong mộng của hắn, như lời tình ca mượt mà
“Hỡi người tình Văn khoa…” của Phạm Duy, phải là một tiểu thư yểu điệu
thục nữ, áo dài tha thướt, trang trọng rất Á Đông, đằng này lại là một
cô nàng vốn học trường đầm, vào Văn Khoa là ghi danh ban Anh văn, cái
ngành học à la mode nhất trường thời đó, hay mặc jupe bó đùi rất gợi
cảm.
Kẻ thất tình lầm lạc buồn quá là buồn nên
đã được tôi và vài các bạn đồng môn khác dẫn đi cà phê để an ủi, khuyên
lơn. Gặp lúc cả đám đều cạn túi, bọn tôi chỉ có thể kéo nhau ra cà phê
lá me, bình dân, ít tốn. Vậy mà lại hay!
Bên tách cà phê pha vớ, anh bạn thất tình
mới bộc bạch nguồn cơn, rằng hắn rất cảm kích khi được bạn bè chia xẽ
nỗi buồn riêng tư, nhưng hắn còn đặc biệt cám ơn bạn bè hơn nữa khi bọn
tôi đã dẫn hắn ra cà phê lá me bình dân, rẻ tiền, thay vì là một quán
sang trọng, mắc tiền khác, Hân ở Đa Kao chẳng hạn. Lý do là, khi còn mê
mãi theo đuổi người đẹp trường Tây, hắn từng phải tiện tặn từng đồng
từng cắc, nhịn ăn nhịn uống để có tiền mời người đẹp đi uống nước và đã
vài lần hắn chọn sân khấu cho màn diễn lấy lòng người đẹp là cà phê Hân
cho gần trường.
Rốt cuộc, anh sinh viên nghèo mạt, si mê
người đẹp, thật tội là chỉ đưa cô nàng đi uống nước hạng sang có vài lần
là đã đi đứt một tháng lương dạy kèm, đành ăn mì gói thay cơm dài dài,
hỏi sao có thể lọt vào mắt xanh của người đẹp cho được?
Khi đó, để an ủi kẻ thất tình, run rủi
bạn bè chỉ đưa hắn đến cà phê lá me bình dân, bụi bậm mà lại hay, vì như
đã thấy, tâm hồn đầy sầu, hận của hắn đã lấy lại thăng bằng kha khá. Và
khi bạn bè không đưa hắn đến cà phê Hân hay một quán sang trọng nào
khác là đã tránh cho hắn khỏi bị những nơi này gợi lại niềm đau của mối
hận tình – cả nỗi tủi thân nữa.
Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)
(Tàn năm 2016)
Trích tập tản văn LÃNG ĐÃNG VỚI CÀ PHÊ&NHẠC – PhamNga2017
Ngày chủ nhật 10-10-2021, trong kết
quả cuộc thi viết chủ đề “Sài Gòn, ngày… tháng… năm… ” do fanpage An
Group tổ chức (từ 16/6 đến 30/8/2021), tản văn NHỚ CÀ PHÊ LÁ ME BAY
(Phạm Nga) đã đạt giải Nhì. Bài này đã được chọn đăng trên PKAUS website năm 2017, nay mời các bạn thưởng thức bản vidéo/radio của bài.
https://www.youtube.com/watch?v=LWDfpIGyirc - Sài Gòn Nhớ, Sài Gòn Thương #25 - MC Xuân Hiếu & BTV Chí Cường | An Group <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Oct/2021 lúc 9:43am
https://huongduongtxd.com/xabong-vietnam.pdf - Trương Văn Bền và Hãng Xà Bông Việt-Nam <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Oct/2021 lúc 1:58pm
https://huongduongtxd.com/trochoidandan.pdf - Tìm Về Tuổi Thơ Qua Trò Chơi Dân Gian - Di Hân - Hà Phương <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Oct/2021 lúc 11:33am
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Nov/2021 lúc 1:17pm
Sài Gòn – những vòng xoay ký ức
Kỳ 6 : Ngã sáu “Nỏ thần” và ngã bảy ‘Bình dân’
TTO – Từ ngã sáu Cộng Hòa đi
xe máy khoảng 5 phút là đến ngã sáu Nguyễn Tri Phương. Và rồi cũng bằng
thời gian ấy theo đường Ngô Gia Tự sẽ gặp một ngã bảy rộng lớn, quen gọi
là ngã bảy Lý Thái Tổ.
Ba vòng xoay này nằm liền kề nhau, tạo thành một tam giác như kết nghĩa “vườn đào” lý thú.
“Ngã sáu Nỏ thần” – đường vào Chợ Lớn
Tôi thích gọi đó là “ngã sáu Nỏ thần”
vì mỗi lần qua đây dù đi đường nào cũng trông thấy từ xa chiếc cột trắng
cao vút, nơi đặt tượng An Dương Vương mặc giáp trụ hiên ngang, cầm một
cây cung lớn. Ông như vừa bước ra từ quyển tập đọc sử ký lớp 1 thời của
chúng tôi. Quyển sử có kể chuyện và vẽ hình An Dương Vương xây thành Cổ
Loa và chế tạo nỏ thần để chống quân Tần xâm lược. Chúng tôi mê những
trang sử Việt đầu đời qua những câu chuyện và hình ảnh hào hùng như thế.
Sau này đến châu Âu, tôi nhận ra tượng
đài An Dương Vương được thiết kế đồng dạng tượng đài Trafalgar ở London
và Vendome, Paris. Tuy nhiên, tượng đài anh hùng nỏ thần ở Sài Gòn vẫn
mang ấn tượng và câu chuyện khác biệt. Nó được đặt ở một giao lộ, giáp
ranh giữa Sài Gòn và Chợ Lớn. Khi “trấn giữ” các giao lộ chính yếu ở Sài
Gòn, tượng đài An Dương Vương cùng các tượng đài Phù Đổng Thiên Vương,
Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Hãn, Phan Đình Phùng… đã làm gia tăng niềm tự
hào dân tộc bất khuất và nhắc nhở bài học cảnh giác trước những kẻ
ngoại xâm hung hãn.
Thuở nhỏ, từ xóm Bàn Cờ tôi thường
theo mẹ vào Chợ Lớn để mua hàng đều qua bùng binh ngã sáu. Ngồi trên
xích lô máy, tôi hớn hở nhìn cảnh hai bên đường khác lạ. Khắp nơi treo
la liệt những bảng hiệu vừa ghi chữ Việt, vừa ghi chữ Tàu.
Trên đường Nguyễn Tri Phương có hẳn
một dãy phố chuyên bán trái cây các loại, nổi bật là sầu riêng. Mẹ tôi
gọi đó là khu “La Cai”, cái tên nghe là lạ. Hóa ra đó là từ biến âm của
“Lacaze” – tên đường từ thời Pháp. Về đêm, từ ngã sáu ra đến La Cai là
khu nhậu nhẹt hải sản và ăn khuya.
Đến mùa Trung thu và tết, từ đường
Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo, quận 5) đổ về đây là hai dãy sạp hàng
sáng đèn lung linh. Người Sài Gòn thích dạo chợ đêm “La Cai” để mua bánh
kẹo, lồng đèn, trà sen và đủ loại quà tặng sản xuất ở “Hong Kong… bên
hông Chợ Lớn”!
“Đặc khu bệnh viện” và “xóm sinh viên”
Từ ngã sáu Nguyễn Tri Phương, các con
đường tỏa ra khá nhiều bệnh viện và cơ sở y tế. Có lẽ vùng này là nơi có
mật độ người đi chữa bệnh cao nhất Sài Gòn. Phía La Cai nằm san sát bên
nhau là các nhà thương tư của các bang hội người Hoa như Y viện Quảng
Đông (nay là Bệnh viện Nguyễn Tri Phương), Triều Châu (An Bình) và Phúc
Kiến (Nguyễn Trãi). Trong các nhà thương này đều có đền miếu cổ cầu an
bình cho những người quá vãng.
Trong khi ấy, trên đường Nguyễn Chí
Thanh, Bệnh viện Chợ Rẫy đồ sộ là cơ sở y tế lớn nhất ở miền Nam cho đến
tận bây giờ. Đi về phía nhà thờ ngã sáu – tên chính thức là nhà thờ
Thánh Jeanne d’Arc, gặp Bệnh viện lao Hồng Bàng (Phạm Ngọc Thạch), Trung
tâm Truyền máu và Bảo sanh viện Hùng Vương. Đối diện bên kia đường,
những năm gần đây có thêm Bệnh viện Đại học Y Dược rất bề thế.
Ngã bảy “bình dân” và hàng phố dân dã
Kể ra “xóm sinh viên” còn tỏa ra nhiều
nhánh quanh khu Ngã bảy Lý Thái Tổ. Bản thân giao lộ ngã bảy là nơi
tiếp giáp các quận 1, 3, 5, 10 rất thuận tiện cho đi lại. Tại đây có
hằng hà các xóm lao động và con hẻm để sinh viên và người nghèo tá túc
giá rẻ.
Những năm 1960, trước khi dọn về Bàn
Cờ, gia đình tôi thuê nhà trong một con hẻm nhỏ ở đường Vĩnh Viễn. Đầu
hẻm có một cây si cổ thụ trông rất cổ quái nên mỗi lần vào hẻm tôi lại
nổi da gà. Sau Tết Mậu Thân 1968, vùng này có thêm các xóm lao động “nhà
lầu” là chung cư Sư Vạn Hạnh, Ấn Quang, Minh Mạng, Nguyễn Kim, Nhựt
Tảo, Nguyễn Thiện Thuật.
Trong khi ấy, ngã bảy Lý Thái Tổ còn
là cửa ngõ ra vào dễ dàng nhiều chợ búa lớn nhỏ. Phần lớn là chợ vỉa hè
hay chợ lòng đường như chợ Nguyễn Tri Phương, Bà Hạt, Nhựt Tảo, Bàn Cờ,
Vườn Chuối. Khoảng trước năm 2000, từng có một chợ cá khổng lồ nằm ở
giao lộ Lý Thái Tổ và Trần Quốc Toản (bây giờ là đường 3-2). Đi cách chợ
nửa cây số, mọi người vẫn ngửi thấy mùi tôm cá hừng hực khó quên! Những
năm 1980, trên đường Lý Thái Tổ ra đời chợ hoa Hồ Thị Kỷ, nguyên là khu
tạm cư của dân tị nan từ Campuchia trở về.
Nói chuyện thức ăn, phải kể khu ngã
bảy có nhiều phố ẩm thực tấp nập của người Sài Gòn. Các loại chè xôi dân
dã, bún nước lèo, bánh canh, bánh xèo và hủ tiếu, mì bò viên, cháo
Quảng… đều có mặt ở các chợ và ngõ hẽm. Sau năm 1954, người Bắc di cư
vào mở ra những hàng quán nổi tiếng như phở Tàu Bay, Tàu Thủy, Nghi Xuân
và bánh mì Hòa Mã, bánh mì Hà Nội, thạch chè Hiển Khánh…
Mặt khác, ngã bảy còn là khu phố
chuyên bán các mặt hàng gia dụng và dịch vụ gia đình. Trước nhất là ba
con phố “cặp kè” nhau, bao gồm “phố đồ gỗ, giường tủ” trên đường Ngô Gia
Tự, “phố mành cửa và sơn nhà” ở đoạn Lý Thái Tổ – Sư Vạn Hạnh. Và rồi
“phố màn cửa, chăn gối” ở đầu đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên
Phủ).
Xoay quanh ngã bảy còn có “phố vỏ xe
hơi” và “phố photocopy – đánh máy” ở đoạn Lý Thái Tổ, gần cư xá Đường
sắt. Có lẽ “phố vỏ xe hơi” là cánh tay nối dài của bến xe Petrus Ký, hay
còn gọi bến xe Đà Lạt nay không còn nữa, từng nằm ở đoạn Lê Hồng Phong
hướng ra Việt Nam quốc tự. 30 năm trước, ở góc Nguyễn Đình Chiểu –
Nguyễn Thiện Thuật đã mọc thêm “phố hàng cưới” rất đình đám.
Rạp hát, bệnh viện một thời vang bóng
Ngã bảy Lý Thái Tổ còn là nơi quy tụ
nhiều bệnh viện, rạp hát, trường học rộn ràng nhiều năm tháng. Gần gũi
với xóm tôi là Bệnh viện Nhi Đồng trên đường Sư Vạn Hạnh và Bệnh viện
Bình Dân ngay cạnh cư xá Đô Thành đều là những cơ sở y tế ra đời cuối
những năm 1950. Ở góc đường Nguyễn Thiện Thuật – Phan Thanh Giản thuở
xưa còn có một tòa nhà mang tên Viện Bài lao. Riêng con đường Cao Thắng ở
đoạn hướng ra Bệnh viện Từ Dũ có một loạt nhà bảo sanh tư mang tên Đức
Chính, Đức Huệ, Cô Mười. Hơn 70 năm qua, bao nhiêu đứa trẻ đã chào đời
từ những cơ sở y tế này?
Gần Viện Bài lao là rạp hát Long Vân
khá lớn nhưng đều toàn ghế gỗ. Giống như rạp Đại Đồng ở góc Cao Thắng –
Phan Thanh Giản, rạp Long Vân thường chiếu “pẹcmanăng” hai phim một lúc.
Giá vé hai rạp thuộc loại xoàng, khách vào xem lúc nào cũng được. Rạp
Long Vân những năm gần đây đã bị phá bỏ, xây mới thành Nhà văn hóa Sinh
viên. Còn rạp Đại Đồng thì hóa thành sân khấu kịch Sài Gòn hay diễn kịch
ma. Về phía đường Trần Nhân Tôn có rạp hát xưa mang tên Thanh Chung,
bây giờ gọi là rạp Vườn Lài. Xóm Vườn Lài nằm sau Nhà máy giày Bata
(Hiệp Hưng), từng là “xóm đèn đỏ” nơi nhiều khách “mua hoa” tìm đến.
Cuộc sống vật đổi sao dời, bút mực nào
viết hết được những góc yêu dấu của Sài Gòn từ những phố phường sang
trọng đến những xóm nghèo, bình dân…
Cả bệnh viện Đại học Y Dược và
Trường Y khoa Sài Gòn đều được xây trên đất của Tòa thị chính Chợ Lớn
thời Pháp. Hai ký túc xá Ngô Gia Tự (khi xưa là Đại học xá Minh Mạng) và
ký túc xá Nguyễn Chí Thanh đều ở gần đó. Thuở sinh viên, những năm
1980, tôi có không ít lần “đi học ké” trường Y và thường la cà vào gặp
bạn bè trong các ký túc xá. Khi làm báo Tuổi Trẻ, là phóng viên giáo
dục, tôi càng năng lui tới cái “xóm sinh viên” đông nhất và cũng
“nghịch” nhất ngay giữa nội thành.
Phúc Tiến
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Nov/2021 lúc 10:17am
Dầu "Bác Sĩ Tín" không biết có ai còn nhớ không.
Dầu "Bác Sĩ Tín" không biết có ai còn nhớ không.
Dầu bác sĩ Tín chính là tiền thân của dầu khuynh diệp OPC “mẹ bồng con” ngày nay, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín có một thời lừng lẫy suốt từ cuối thập niên 1940 đến năm 1975, không nhà nào mà không thủ sẵn vài chai.
Hiện nay, chuyên gia kinh tế tài chính-TS Bùi Kiến Thành – con trai cả của ông chủ dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín, tức ông Bùi Kiến Tín, đang suy nghĩ cố gắng phục hồi phần nào thương hiệu dầu mà cha mình gầy dựng. Ở tuổi ngoài 80, TS Thành vẫn còn nhớ cặn kẽ nhiều chi tiết xung quanh chuyện cha mình sản xuất và buôn bán dầu gió.
Tài quảng bá thương hiệu, quảng cáo sản phẩm của ông Bùi Kiến Tín là một trong những điều mà ông Thành tự hào lẫn thích thú, ông Bùi Kiến Thành kể ở cái thời từ năm 1942 đến năm 1956, khi một chiếc xe đạp cũng là cả một gia tài với nhiều người thì “ông papa” của ông đã mua một chiếc xe tải lớn, dài 7-8 m nhưng không đóng tải mà dùng mặt bằng để chất lên đó một chiếc xe hơi Austin mới cáu cạnh.
Gắn kèm chiếc xe là cái bảng to ghi Giải thưởng Bác sĩ Tín.
Ai mua dầu của BS Tín cũng được cho một con số kèm theo. Đi cùng với chiếc xe là đoàn múa lân đánh trống tùng tùng xèng. Xe chạy từ Nghệ An, Hà Tĩnh suốt cho tới Cà Mau. Một chiếc xe quá lạ lùng và tưng bừng như vậy bảo sao dừng ở bãi chợ nào trẻ em, người lớn đều không xúm coi rần rần. Xổ số trúng thưởng sau đó được tổ chức rất nghiêm túc, ngoài xe hơi Austin còn có mấy chục giải phụ là xe đạp. Đó là chiêu mà BS Tín nghĩ ra để từ Nam chí Bắc ai ai cũng biết đến dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín cũng như nhà thuốc Bác sĩ Tín.
Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín cứ thế làm mưa làm gió, có năm nhà thuốc Bác sĩ Tín bán ra đến 25 triệu chai dầu khuynh diệp, trong khi dân số Việt Nam lúc đó chỉ có 20 triệu người.
Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín có màu xanh rất đặc trưng đựng trong những chai nhỏ từ 5cc đến 100cc. BS Tín, ảnh chụp trong giai đoạn 1955-1960.
Bán dầu gió từ ước ao… phát triển dân số Việt Nam
Từ hồi còn học bên Pháp, trong luận án tốt nghiệp bác sĩ của mình, ông Bùi Kiến Tín đã nêu vấn đề của dân tộc ông. Ông có một ước ao được góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh. Làm sao 20 triệu dân hiện tại có sức khỏe tốt để nâng dân số lên 50 triệu cho đúng với tầm cỡ lãnh thổ? Dân Việt Nam lúc đó không có đủ tiền để mua thuốc Tây. Đông dược rất tốt nhưng sản xuất chưa đúng với phương pháp khoa học, chưa hiệu quả. Và ông muốn thay đổi thực tế này. Khi sản xuất và bán thuốc, trên các loại dầu gió, dầu nóng xoa bóp và dầu cù là, BS Tín đều cho dán logo là ảnh một anh lực sĩ Việt Nam nâng cả đất nước Việt Nam lên.
Bên dưới logo là ba chữ “Đại Cường Việt”, kinh doanh, trước tiên là để làm giàu, hẳn nhiên. “Nhưng với ông papa tôi, làm giàu không chỉ cho cá nhân ông mà còn là làm giàu cho đất nước, cho ích nước lợi dân. Thí dụ, khi ông papa làm thuốc ho Bác sĩ Tín, ông đã có ý thức về chủ quyền với câu khẩu hiệu “uống thuốc ho Bác sĩ Tín thở không khí tự do”. Bán thuốc không chỉ để dân khỏe ra mà ông còn muốn xây dựng nhận thức, xây dựng ý thức chủ quyền cho dân” – ông Thành nói về cha mình.
Người vợ “nữ tướng”
Dù là hôn nhân mai mối cho môn đăng hộ đối, lấy nhau từ thuở bà mới 15 tuổi, ông cũng chỉ 18 nhưng vợ chồng BS Tín đúng là một cặp “song kiếm hợp bích”, đồng vợ đồng chồng từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, bà Nguyễn Thị Hòa, vợ BS Tín, có một tiểu sử đặc biệt. Là con gái của một đại điền chủ ở Quảng Nam, bà thay người anh cả đi học xa, thay cha mẹ lo công việc nhà, gồm cả việc trồng trọt, khai khẩn cơ man đất đai vùng Quảng Huế, Đại Lộc.
Từ năm 13 tuổi, cứ tinh mơ 3-4 giờ sáng mỗi ngày, bà đã thức dậy dẫn hàng trăm “quân” lên ruộng đồng các ấp làm việc. Ông Thành tự hào: “Bà má tôi có phong cách của một vị tướng, của một người lãnh đạo chứ không phải là một cô gái quê bình thường. Lấy chồng sớm, tiếp cận với ông papa tôi thì bà ảnh hưởng tầm nhìn của ông chồng. Bà là cô gái quê nhưng không phải ngồi ở đáy giếng mà nhìn lên trời và nhảy ra khỏi miệng giếng”.
Khi công việc kinh doanh dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín phát triển, bà đưa các em ruột của mình, tức người em thứ bảy Nguyễn Phan vốn có tài quản lý, vào Sài Gòn giao cho nhiệm vụ quản lý điều hành nhà thuốc, như là giám đốc sản xuất của nhà thuốc. Hay người em thứ tám Nguyễn Sang thì có nhiệm vụ phân phối thuốc, đưa bốn đoàn xe chở thuốc về các tỉnh, từ Nghệ An trở vào. “Bà má tôi không khác một nữ tướng điều quân khiển tướng, còn các cậu và mọi người xung quanh là “tá”. Bà không nói nhiều nhưng khi nói thì như quân lệnh, nói gì cũng đúng.
Ai cũng sợ, cũng nể bà, kể cả ông papa tôi” – ông Bùi Kiến Thành cho hay, trong chuyện phân phối dầu Bác sĩ Tín, bà có những cách thức mềm mỏng của riêng bà khiến cho hàng triệu chai dầu có mặt ở những nơi mà người ta nghĩ phải qua kiểm soát gắt gao, như rừng U Minh hay chiến khu D. Bà cho xe tải chở dầu gió băng băng vào đó cung cấp cho bộ đội.
Trước khi sản xuất dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín, ông Bùi Kiến Tín khởi nghiệp ở Quy Nhơn, làm các loại thuốc ho, bổ huyết, thuốc trị táo bón. Bà Hòa tích cực tham gia cùng chồng ngay từ những ngày này. BS Tín nói cần một cái nồi đồng thật lớn để nấu thuốc thì bà liền nhận nhiệm vụ đi kiếm cho ra cái nồi như thế, bà đi về quê ngay lúc đám giỗ ở một nhà thuộc tộc họ Bùi thì gặp ông Bùi Thuyên, người nghèo nhất tộc, là cha ruột nhà thơ Bùi Giáng. Nghe chuyện, ông Bùi Thuyên gợi ý cho bà mượn cái nồi: “Nhà tôi có cái nồi không lớn lắm nhưng mà nó cũng lớn”. Như vậy, sự nghiệp làm thuốc của BS Tín khởi thủy xem ra lại có dây mơ rễ má với “thi sĩ điên” Bùi Giáng.
Tốn kém khủng khiếp để có “mùi bà đẻ”
Dầu gió được BS Tín bào chế có công thức đặc biệt bao gồm các loại dầu tràm, dầu bạc hà, dầu hương nhu… và không thể thiếu tinh dầu khuynh diệp. Đây là loại tinh dầu có mùi rất đặc trưng, người bình dân quen gọi “mùi bà đẻ” bởi nó được các “bà đẻ” cực kỳ ưa chuộng, theo ông Lê Hữu Sanh, người năm xưa làm thư ký riêng của BS Tín, thì khi bắt tay sản xuất dầu khuynh diệp, ông chủ mình lúc đó chú ý tới những nhà sản xuất hương liệu của Hà Lan với các loại hương liệu làm nước hoa, sau đó ông phát hiện ở Bồ Đào Nha có sản xuất Eucalyptus là tinh dầu khuynh diệp. Độ tinh khiết của nó đạt đến 99,9%, khử được tất cả loại độc tố có hại cho da.
Và như vậy cho dù loại dầu này rất đắt tiền, nếu dầu khuynh diệp trong nước bán 0,5 USD/kg thì dầu nhập về phải tốn đến 9 USD/kg, gấp chục lần dầu trong nước nhưng BS Tín vẫn quyết định nhập về. Ông Lê Hữu Sanh là người trực tiếp chịu trách nhiệm từ đặt hàng, xử lý giao dịch, khai đóng thuế đến nhận hàng về. “Hồi đó dầu khuynh diệp nhập về bằng đường tàu thủy, đựng trong các thùng phuy. Mỗi lần nhập khoảng 30-40 tấn, chiếm hai container. Mỗi năm tôi nhập dầu về cho ông ấy 4-5 lần. Tốn kém phải nói là khủng khiếp” – ông Sanh nhớ lại.
Và hôm nay chúng ta lại nhớ về ông chủ với nhiều điều “huyền thoại”, ngoài cách giao việc rất độc đáo, đó là ghi âm lời dặn với những điều mục 1, 2, 3, 4… vào băng c***ette, soạn bằng miệng cả những bức thư, những văn bản bằng tiếng Pháp cho thư ký đánh máy ra, ông Lê Hữu Sanh còn nể phục những sáng kiến và năng lực của ông Bùi Kiến Tín khiến ông phải nhiều phen bật ngửa: “Nhiều người nghe qua đều nói ông ấy nghĩ chuyện điên rồ nhưng với tôi, ông ấy là một người tài hiếm có”, ông Sanh kể trong những năm 1950, BS Tín từng nêu ý tưởng triển khai khu Disney Land sao cho giống y chang Disney Land của Mỹ ở khu đất rộng 290 ha tại Biên Hòa nhưng dự án này dở dang vì thời cuộc.
Ông liên doanh với Ngân hàng Crocker Bank của Mỹ sáng lập ra Doanh Thương Ngân hàng với mục đích huy động vốn của các nhà nhập khẩu Việt Nam.
Ngân hàng này hoạt động từ năm 1963 đến 1966. Ông sáng lập và đưa vào hoạt động một loạt cơ sở, như: Cát Thủy Triều ở Bình Thuận khai thác cát tinh bán cho Nhật, Muối Cà Ná sản xuất muối công nghiệp, Công ty Nông nghiệp Khánh Hòa bán cơm dừa cho các cơ sở sản xuất xà bông.
Ông cũng được coi là người sáng lập Công ty Sản xuất Bình điện ắcquy Prestolite do thương hiệu ắcquy Autolite thuộc hãng xe Ford của Mỹ nhượng quyền.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Nov/2021 lúc 1:29pm
Nhà sách Khai Trí xưa – Kỷ niệm của cậu học trò ăn cắp sách
Hoatinhthuong
Bạn đang sao chép nội dung của Trí
Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org.
Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có
sự cho phép của Trí Thức VN.
Nếu tôi nhớ không lầm, đó là vào
khoảng giữa năm 1959 hay 1960, báo chí đăng tin về một cậu học sinh
khoảng chừng 14 -15 tuổi, gương mặt thông minh đĩnh ngộ và câu chuyện ở
nhà sách Khai Trí (báo chí giấu tên và cũng không cho biết trường cậu bé
học, thật ra cậu là học sinh trường Pétrus Ký).
Thời chúng tôi còn học trung học, tức
dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sách tiếng Việt ít nên muốn thi đậu
bắt buộc phải dùng sách tiếng Pháp, như Toán hình học, Toán đại số, Toán
vật lý… Học lớp Đệ tứ (lớp 9 bây giờ) mà làm hết cuốn Toán Hình học và
Đại số của Réunion de Professeurs gồm 1.144 bài thì nhất, đi thi trung
học chắc ăn như bắp.
Thời ấy các tiệm sách lớn như Khai Trí
chẳng hạn không có nhân viên bảo vệ mặc đồng phục ngồi gác ở cửa như
bây giờ, mà có các nhân viên giả làm khách hàng, trông nom, ngăn chặn
những người muốn ăn cắp sách.
Buổi sáng hôm ấy, cậu học sinh này cứ
lang thang mở coi hết cuốn này đến cuốn khác ở chỗ các giá sách tiếng
Pháp. Việc lấm lét nhìn tới nhìn lui của cậu bé khiến nhân viên trông
coi khu sách tiếng Pháp nghi ngờ. Lúc cậu đi ra, họ giữ lại, sờ ngực áo
cậu và lôi ra một cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de
Professeurs quý giá đã nói ở trên.
– Tại sao cậu ăn cắp sách?
Cậu bé tái mặt không nói nên lời.
Chiếc phù hiệu trên ngực áo cậu cho biết cậu học trường Pétrus Ký, một
trong bốn trường trung học công lập lớn nhất rất nổi tiếng tại Sài Gòn
lúc bấy giờ: Gia Long, Trưng Vương, Pétrus Ký, Chu Văn An.
– Hừ, học sinh trường Pétrus Ký mà ăn cắp sách! Tôi gọi cảnh sát đến bắt để cậu chừa cái thói đó đi!
Họ lôi cậu bé tới chỗ quầy thâu tiền
của cô thâu ngân viên, nhờ cô giữ cậu giùm rồi đi gọi cảnh sát. Cậu bé
sợ hãi khóc như mưa như gió:
– Lạy chị, nhà em nghèo không có tiền mua sách, chị nói với chú ấy tha cho em đừng gọi cảnh sát…
Cậu bé khóc quá khiến cô thâu ngân viên cũng thấy mủi lòng:
– Ba má em làm gì mà nghèo?
– Ba em chết, má em quét chợ An Đông…
– Mẹ quét chợ An Đông mà con học Pétrus Ký? Em học đến đâu rồi?
– Dạ thưa quatrième année. Chị tha cho em, nếu cảnh sát bắt, đưa giấy về trường em bị đuổi học tội nghiệp má em…
– Các em quen với tiếng Pháp lắm phải không?
– Dạ.
– Bởi vậy nên mới lấy trộm sách Pháp.
Bằng bấy nhiêu mà đã học lớp Đệ tứ, sắp thi Trung học là giỏi lằm. Nhưng
chú ấy đã đi gọi cảnh sát thì biết làm sao…
Cậu bé sợ quá lại khóc…
Từ đầu đến giờ có một ông đã lớn tuổi, ăn mặc lịch sự vẫn đứng theo dõi câu chuyện. Thấy cô thâu ngân nói thế, ông bảo cô ta:
– Thôi được, cuốn sách giá bao nhiêu để tôi trả tiền. Học trò nghèo mà, lấy một cuốn sách, lỡ bị đuổi học tội nghiệp…
Cô thâu ngân viên chưa biết giải quyết
thế nào thì đúng lúc đó ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách mà mọi
người vẫn gọi là ông Khai Trí, từ ngoài đi vô.
Ông Khai Trí (trái).
Thấy chuyện lạ, ông dừng lại hỏi
chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị
trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách
lên coi sơ qua rồi nói:
– Phải học trò giỏi mới dùng tới cuốn
sách này chứ kém không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi
tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…
Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân
mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp,
viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:
– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem
danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, cô ấy sẽ lấy
cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…
Ông bắt tay, cám ơn ông khách lần nữa rồi đi vào trong.
Ba năm sau, nghe nói cậu bé đậu xong Tú tài phần II, được học bổng du học nước ngoài, hình như sang Canada.
Thời gian qua đi. Một năm sau biến cố
lịch sử 1975, nhà sách Khai Trí bị tịch thâu, mới đầu người ta đặt tên
là nhà sách “Ngoại văn”, sau đó đổi thành nhà sách “Fahasa” (viết tắt
của 3 chữ “Phát hành sách”), hiện nay lại đổi lần nữa thành nhà sách
“Sài Gòn”. Hồi ấy nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt
phá, sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường, nhiều
người đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực… Kho sách 60 tấn
bị tiêu hủy.
Ông Khai Trí bị đi cải tạo. Sau khi
được thả, ông sang định cư bên Hoa Kỳ. 10 năm sau, cùng 2.000 đầu sách
quý, ông Khai Trí ở Mỹ về Việt Nam một lần nữa, mang theo hy vọng làm
được một chút gì cho đất nước. Sách ông lại bịch tịch thâu hết cả. Phần
lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm
trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là
sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả…
Ông Khai Trí những năm cuối đời.
Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu. Ông buồn bã nói:
– Chắc… năm 3.000 thì họ trả…
Ông Khai Trí mất năm 2005 tại Sài Gòn.
Một buổi chiều, người ta thấy một “ông
già” khoảng ngoài 70 tuổi, ăn mặc theo lối Việt kiều, đứng ngắm trước
cửa nhà sách Sài Gòn với nét mặt buồn buồn rồi bước vào hỏi thăm các cô
bán sách về ông Khai Trí, các cô nói hình như ông đã mất cách đây đến
hàng chục năm. “Ông già Việt kiều” lại ra đứng ngắm trước cửa tiệm sách
hồi lâu, lấy khăn giấy lau nước mắt, chắp tay hướng lên trên trời khẽ
vái ba vái rồi đi. Không ai biết ông ta là ai cả…
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Nov/2021 lúc 9:42am
Thuốc lá điếu của thời VNCH
Cách
đây hơn 1OO năm có một số loại thuốc lá điếu từ nước ngoài nhập vào Sài
Gòn phục vụ nhiều tầng lớp và những người lính..., lúc này nhu cầu sử
dụng thuốc lá điếu ngày càng tăng, ngày 8-7-1929, một nhóm các nhà tư
bản người Pháp qua Công ty Hàng hải và Vận tải Sài Gòn (Compagnie
Saigonaise de Navigation et de Transport) thuộc Công ty Vận tải Đường
sông Nam Kỳ (Compagnie des Messageries Fluviales de Cochinchine) đã ra
văn bản chính thức thành lập Công ty vô danh với tổng số vốn 6 triệu
frăng được chia làm 60.000 cổ phần để lập một nhà máy sản xuất thuốc lá
điếu theo công nghệ Âu Tây, đây là nhà máy thuốc lá đầu tiên của Đông
Dương mở rộng sự thu hút đầu tư của tư bản nước ngoài (BAT của Anh,
Ford, Rockefelle của Mỹ), năm 1932, số vốn đã tăng gấp 3 lần (18 triệu
frăng).
Lúc mới thành lập, nhà máy có công suất 100.000 bao/ngày, đến năm 1932
đã tăng 4 triệu bao/tháng; 1939: 44.800.000 bao/năm. Lãi năm 1938:
1.134.000 fran 1941: 4.729.000 fran, công ty này sau có tên là hãng
thuốc lá MIC nằm trên đường Nguyễn Hoàng ở khu vức Chợ Lớn xưa, sản phẩm
của hãng nầy nhắm vào giới trẻ, trung lưu, và gồm các mặt hàng như:
COTAB, Mic EXTRA, RUBY, khoảng gần cuối thập niên 60 cho ra thêm các sản
phẩm như CAPSTAN không đầu lọc, rồi PRESIDENT, CAPSTAN loại có đầu lọc
gói bìa cứng. đến năm 1975 đã có hơn 100 triệu bao hàng năm mang đậm dấu
ấn của hãng thuốc lá MIC.
Ngoài hãng MIC ở miền Nam Việt Nam còn có hãng thuốc lá BASTOS, hãng
thuốc JUAN BASTOS nằm trên đường Tôn Thất Thuyết, Quận Tư, sản phẩm của
hãng nầy được giới thiệu vào miền Nam Việt Nam vào năm 1936, sản phẩm
của Bastos nhắm vào giới bình dân vì đa số là loại thuốc lá sợi đen, gồm
có Melia vàng, Melia trắng loại hơi nhẹ, Bastos xanh và Bastos đỏ.
Khoảng giữa thập niên 60 Melia vàng ngưng sản xuất, qua đầu thập niên 70
hãng Bastos làm thêm các mặt hàng có đầu lọc như Bastos DELUXE, Melia
trắng có mùi vị bạc hà được đóng gói bằng bìa cứng, còn loại Melia xanh
là loại thuốc đen đầu lọc được đóng gói bằng giấy thường. Hãng Bastos
cũng cung cấp cho Quân Tiếp Vụ sản phẩm của mình đó là BASTOS trắng có
dấu hiệu con CHUỒN CHUỒN.
Sau ngày "phỏng giái" dân Miền-Nam cho nên có bài hát chế theo giai điệu
bài "PHỎNG GIÁI": “Mở nắp nồi cơm, chúng ta cùng lấy chén bới...” Đoạn
kết là: “Miền Bắc hút thuốc Lào, miền Trung hút thuốc Rê, miền Nam
Sa-mít, cáp-tăng, con mèo” .., một thời gian sau ngày đánh tư sản hai
hãng thuốc lá này bị cộng sản tịch thu và được quốc hữu hóa và đổi tên
thành Nhà máy thuốc lá Sài Gòn và Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội thuộc Liên
hiệp Thuốc lá miền Nam, sau đó bọn này lấy phần chế biến của Miền-Nam
đem ra Bắc và sau này ở miền Bắc có hai Nhà máy Thuốc lá có tên "Thăng
Long và Bắc Sơn", ngoài ra, còn có một số nhà máy thuốc lá khác ở Thanh
Hóa, Nghệ An nhưng các nhà máy này cho sản lượng thấp và cực tệ, trình
độ khoa học kỹ thuật và thiết bị còn lạc hậu so với Miền-Nam khi đó.
- Ngày hôm nay nếu ai còn đang hút thuốc lá mà sản xuất tại Thăng Long
và Bắc Son chính là ngày xưa các "ANH" ăn cắp của người miền Nam đem ra
Bắc đấy rồi sau này nói là tự mình chế biến và sản xuất.
Sài Gòn Xưa
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Dec/2021 lúc 1:31pm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Dec/2021 lúc 1:11pm
Tân Định & DaKao những ngày xưa cũ
Trần Đình Phước
… Ai
về Tân Định xóm tôi
Cho tôi nhắn nhủ đôi lời nhớ thương
Xa rồi những sáng mù sương
Hoàng hôn nhạt nắng giáo đường thánh ca
Tôi quỳ hồn bỗng mưa sa … (Bích Vân, Đakao.)
Hình trên: Chợ Tân Định - Đường Đinh Tiên Hoàng (đường này hình chụp lúc
còn là đường Cường Để). Bên trái là Đại Học Nông Lâm Súc, cạnh ngã tư
Đinh Tiên Hoàng – Hồng Thập Tự.
Cho đến bây giờ, dù đã xa Tân Định và Dakao nhiều năm, nhưng trong tôi
hai cái tên Tân Định và Dakao lúc nào cũng là một nỗi nhớ khôn nguôi.
Chúng cứ thôi thúc tôi hoài. Đã bao năm qua, tôi muốn tìm về chốn này,
để sống lại với kỷ niệm thuở học trò, mà tình yêu khi đó, chỉ biết, đôi
mắt nhìn nhau cũng đủ rồi. Tôi cứ hẹn đi, hẹn lại, nhưng vẫn chưa bao
giờ thực hiện được ước mơ này. Rồi một dịp tình cờ đưa đến, vào tháng
5/2010, tôi đã toại được ý nguyện. Tôi đã có hai tuần lễ đi qua, đi lại
trên những con đường kỷ niệm của Tân Định và Dakao.
Điều làm tôi rất đỗi ngạc nhiên và thích thú là tên nhiều con đường trong khu vực này vẫn như cũ.
Thật vậy, sau 1975, một số tên đường của thành phố Saigon thân yêu đã bị
đổi bằng những cái tên khác. Nay được thấy lại các tên đường ở khu Tân
Định và Dakao không bị thay đổi nhiều, trong lòng tôi bỗng nhiên dâng
lên một sự xúc động mãnh liệt và niềm sung sướng vô cùng.
Mời các bạn cùng tôi tìm về những con đường kỷ niệm của khu Tân Định và
Dakao với những bồi hồi, rung động khó quên của thời niên thiếu và không
bao giờ phôi pha, dù năm tháng có qua đi.
Trước hết, xin bắt đầu là Cầu Kiệu với con đường Hai Bà Trưng đi về phía
Saigon. Khoảng đường này bên tay phải có hẻm vựa gạo, bác sĩ khám mắt
tên Kính, tiệm bán bông cườm, thuốc cam Hàng Bạc và tiệm cà phê Hải Nàm.
Phía bên phải có hẻm bán chó, tiệm trà Phật Tổ và tiệm bán xe đạp Đoàn
Văn Thẩm.
Quẹo trái ở ngã ba là đường Trần Quang Khải. Phía tay trái là con đường
nhỏ dẫn vô hẻm có tiệm bánh cuốn Thanh Trì ngay đầu ngõ, đối diện là
Hảng Sáo Công Ty, rồi tới trường Việt Nam Học Đường và trường Văn Lang
số 51 Trần Quí Khoách do thầy Ngô Duy Cầu làm Hiệu trưởng. Thầy mất đúng
ngày 30/4/1975. Đối diện trường Văn Lang là Cư Xá Kiến Ốc Cục Tân Định,
dành cho công chức. Đi vào phía trong là chùa Vạn Thọ và một số chùa
nhỏ khác. Phía tay phải là quán cơm Cây Điệp, kế bên là hãng gạch bông
Vân Sơn. Nhìn sang bên đường là trường Trung Học Tân Thạnh của thầy Phan
Út. Trước khi vào cổng trường, phải đi ngang bảo sanh viện Ngô Liêng.
Bảo sanh viện này mang luôn tên bà.
Đi tiếp khoảng hai trăm thước sẽ gặp một ngã tư. Đường Bà Lê Chân bên
tay phải. Ngay góc đường Bà Lê Chân là quán cơm tấm của vợ chồng con
trai nghệ sĩ Bảy Nhiêu. Đối diện là đình Phú Hoà, nơi các đoàn hát bộ và
cải lương tập dượt. Nằm trên đường Bà Lê Chân phía bên trái có nhà in
Bùi Văn Tạ, bảo sanh viện Hà Đông Hà. Trước mặt có con đường mang tên Mã
Lộ. Con đường này chạy ngang phía sau chợ Tân Định. Phía đầu đường Bà
Lê Chân là ngã ba Hai Bà Trưng và Bà Lê Chân. Nằm ngay góc là Y Viện Tân
Định.
Từ đình Phú Hoà nhìn sang bên kia đường là đường Trần Nhật Duật. Xe chè
Huỳnh Thị Ngà nổi tiếng một thời, nằm ngay góc ngã tư đường Trần Quang
Khải và Trần Nhật Duật. Đường này chạy dài tới khu nông cơ cũ. Trên
đường Trần Nhật Duật có bốn con đường nhỏ đâm ngang qua. Thứ tự như sau:
Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí Khoách và Trần Khánh Dư. Riêng hai đường
Đặng Dung và Trần Khánh Dư thì chạy dài được đến đường Trần Khắc Chân,
còn gọi là xóm Cầu Mới. Trên đường Trần Nhật Duật, hẻm số 21 có tiệm ảnh
Nguyễn Kỳ nổi tiếng một thời trong giới học sinh, thích chụp hình chân
dung, nhà số 10 là trường Huỳnh Thị Ngà.
Bà Huỳnh Thị Ngà là một phụ nữ giỏi và đảm lược. Bà biết chèo chống và
điều hành ngôi trường Huỳnh Thị Ngà, mà kế bên có nhiều trường trung học
tư thục khác, lúc nào cũng sẵn sàng cạnh tranh với trường của bà. Nhờ
thế trường của bà mới có thể tồn tại hơn hai mươi năm. Bà mất khoảng
cuối năm 1992 tại tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ). Đối diện trường Huỳnh Thị
Ngà, xéo về đường Đặng Dung là nhà giáo sư khiêu vũ, phía trước nhà có
cây me to. Cách đó vài căn là nhà giáo sư Pháp văn Huỳnh Văn Mĩ. Thầy Mĩ
nổi tiếng về dạy Pháp văn và là một trong những võ sư sáng lập môn phái
Hàn Bái Đường. Không nghe nói về vợ thầy, chỉ thấy thầy đi chợ một
mình, hai tay xách cái gà mên. Thầy qua đời ở Nam Cali năm 2004, hưởng
thọ 93 tuổi. Học sinh trường Huỳnh Thị Ngà rất nể sợ thầy. Trong giờ của
thầy dạy, không em nào dám hó hé vì thầy Mĩ rất nghiêm và khó. Ngoài
ra, thầy cũng là thầy dạy cô hiệu trưởng Huỳnh Thị Ngà hồi nhỏ.
Bây giờ trở ngược ra đường Trần Quang Khải đi về phía Dakao. Trước khi
đến một ngã năm, phía bên phải là phòng nha khoa của một đôi vợ chồng.
Vợ là Nha Sĩ tên Hạnh. Chồng là Không Quân Thiếu Tá Nha Sĩ Dương Quảng
Định (Trung Tâm Giám Định Y Khoa Không Quân). Đi thêm khoảng ba mươi
thước gặp một depot rác nhỏ. Đối diện là chỗ cho thuê sách, tiểu thuyết
và truyện hiếm hiệp Đức Hưng, kế bên là tiệm hàn gió đá Sáu An. Cách đó
vài căn là nơi chuyên sản xuất xích lô đạp và xe ba bánh có tên Ngọc
Quế.
Khi đến ngã năm, bên tay trái là đường Trần Khắc Chân, nhìn xéo về phía
tay phải là đường Nguyễn Phi Khanh. Căn nhà nằm ngay góc đường của ông
Bùi Ngọc Phương. Ông tự phong cho mình là vua dầu hỏa Việt Nam và dự
định ứng cử Tổng Thống VNCH. Nếu đi ngược chiều trên đường Nguyễn Phi
Khanh, ngã ba đầu tiên là đường Huyền Quang, có đình Sơn Trà. Đường
Huyền Quang mang tên một vị sư. Con đường dài khoảng hai mươi thước, đi
hết đường Huyền Quang, quẹo trái là Chả cá Lã Vọng.
Ngã ba kế tiếp là Lý Văn Phức, có một depot rác rất lớn, nơi mà các công
nhân vệ sinh đưa rác về đây, trước khi các xe lớn đến chở đi tái chế và
phế thải. Cuối đường là quán cà phê bà Chi, mà các bài viết về cà phê
Saigon đều nhắc đến. Quẹo trái gặp rạp hát Casino Dakao, tiệm may Cao
Minh và tiệm thạch chè Hiển Khánh. Đối diện là nhà hàng Pháp tên Casino,
tiệm bán quân trang Quế Anh và kế bên là tiệm Phúc chuyên làm con dấu,
thêu cờ và huy hiệu. Nếu quẹo phải sẽ gặp Đền Thờ Đức Thánh Trần Hưng
Đạo.
Đoạn đường Trần Quang Khải từ đây ra đến đường Đinh Tiên Hoàng tuy không
dài lắm, nhưng có rất nhiều cửa hiệu buôn bán. Phía bên phải, ta thấy
có Pharmacy Duyệt, rồi đến bảo sanh viện Chung Nam Quế. Nơi đây các bà
bầu khu Dakao và Gia Định thường đến để khai hoa nở nhụy. Nhà kế bên là
nhà của bà thầy bói mập, chuyên môn coi bói bài, tiếp đó có hai tiệm bán
phụ tùng và sửa xe Honda, rồi cà phê Ngọc Dung số 77 Trần Quang Khải,
của hai chị em tên Ngọc và tên Dung.
Đi thêm một chút nữa sẽ gặp Đình Nam Chơn. Trước đình có thờ hình ông
cọp. Bên trái cổng vào trong sân đình có cây đa to, có lẽ đã trên trăm
tuổi. Thêm vài bước nữa cũng có một Phật đường nhỏ, thuộc Giáo Hội Phật
Đường Nam Tông, được gọi tên là Minh Sư Đạo Quang Nam Phật Đường. Kế bên
là tiệm vàng Bảo Thành, cũng nổi tiếng về bánh Trung Thu, giò lụa, giò
thủ và bánh mứt. Trước 1975, bà Bảo Thành là chủ thầu các bãi giữ hai
bánh lớn nhất Saigon như: Trường Đại học Luật khoa ở đường Duy Tân, Nha
Xổ số Kiến Thiết ở đại lộ Thống Nhất, rạp hát Đại Nam trên đường Trần
Hưng Đạo, và dọc theo hai bên đường Lê Lợi. Cách một căn là tiệm cơm Tàu
có tên Dân Thiên, với các món mì xào dòn và cơm chiên Dương Châu tuyệt
vời.
Tiếp tục phía bên trái. Đầu tiên là chi cục cảnh sát Tân Định. Kế bên là
đình Công Thành Ban, chuyên trình diễn hát bộ. Trước đình cũng có thờ
một ông cọp, kế bên là một ngõ hẻm, đi ra được đường Trần Khắc Chân. Sau
đó sẽ đến một dãy phố, có tiệm quay Ronéo Lửa Hồng, nơi đây quay ronéo
và photocopy bài vở cho các học trò và thầy cô giáo. Ngoài ra cũng bán
nhạc quay roneo sẵn, giá rất bình dân. Cách đó vài căn là một tiệm hòm.
Có tiệm may Của, rồi đến nhà bà con với ông chủ rạp hát Văn Hoa. Nổi
tiếng ở đoạn này là tiệm cầm đồ bình dân có tên là Kim Ngân. Bà chủ lúc
nào cũng trang điểm lộng lẫy như các cô đào cải lương Thanh Nga hay Bạch
Tuyết sắp lên sân khấu trình diễn. Nơi đây lúc nào cũng đông khách vì
tiệm cho cầm và chuộc đồ với giá tương đối dễ thở và thủ tục thì đơn
giản hơn so các nơi khác.
Cách khoảng mười căn nhà, bên trái có một con hẻm lớn, nổi tiếng nhất
vùng Tân Định - Dakao. Đó là hẻm xóm Vạn Chài. Đây là địa điểm quy tụ
anh hùng hào kiệt tứ xứ. Mỗi lần có hành quân cảnh sát để bắt thanh niên
trốn quân dịch thì xe cộ, súng ống rầm rộ, ca nô, thuyền nhỏ chạy dài
dọc theo sông cầu Bông, đèn pin chiếu pha sáng cả một vùng. Cuối cùng
kết quả chẳng đi đến đâu, vì thanh niên trốn quân dịch đã nhảy xuống
sông, lặn qua bên phía Gia Định, hoặc trốn trong các con hẻm sâu, tối
tăm, chằng chịt. Lực lượng kiểm soát cũng không muốn vào chỗ này, vì
không an toàn cho lắm. Đặc biệt, trong hẻm có một trường trung tiểu học
tư thục mang tên Văn Hiến do Thầy Phan Ngô làm Hiệu trưởng. Thầy cũng
từng ra ứng cử và đắc cử Nghị viên thành phố Saigon.
Ra khỏi hẻm, quẹo trái là ngay rạp hát Văn Hoa. Rạp hát này đã từng một
thời là một rạp hát sang trọng của Saigon vì có trang bị máy lạnh, màn
ảnh rộng và giá vé vào cửa cũng tương đối bình dân. Rạp Văn Hoa chiếu đủ
các loại phim. Những lúc chiếu phim mới và hấp dẫn, bà con sắp hàng
rồng rắn, kéo dài tới ngõ xóm Vạn Chài. Khán giả nào không muốn sắp
hàng, không muốn chen lấn đổ mồ hôi, để bị rách quần, rách áo hoặc bị
rạch bóp, thì có thể mua chợ đen, đôi khi phải trả gấp đôi.
Cũng nên nói thêm ở đây, cạnh bên rạp hát Văn Hoa là một quán cà phê
cũng đã đi vào lịch sử của cà phê Saigon. Đó là cà phê Văn Hoa. Quán
được trang bị dàn âm thanh tối tân, nhạc ngoại quốc hấp dẫn luôn luôn
mới nhất, chỗ ngồi thanh lịch, vị trí thuận lợi và do hai chị em ruột là
bà con với ông bà chủ rạp Văn Hoa đứng bán. Cô chị có tên TBD và cô em
có tên TBH. Hai chị em đều là nữ sinh trường trung học Huỳnh Thị Ngà.
Lúc nào đi học, cả hai cô đều mặc đồ đầm rất xinh xắn. Trông giống búp
bê không tình yêu. Nghe đâu cũng có khối anh đến uống cà phê thường
xuyên mỗi ngày, trong số đó có anh là ca sĩ một ban kích động nhạc nổi
tiếng về bài hát Sunday Morning. Ngày nào anh ta cũng đến quán ngồi
đồng, vừa thưởng thức cà phê, vừa trồng cây si cô em TBH. Gia đình cô
TBD hiện ở Montréal, còn gia đình cô TBH từ Montréal chuyển về
Pleasanton (California) vì phu quân cô có công việc làm thích hợp ở đây.
Đoạn đường còn lại, phải nhắc đến một quán cơm xã hội, chuyên phục vụ
cho giới bà con lao động, xe ba gác, xe xích lô, công tư chức và học
sinh, sinh viên nghèo. Giá rất bình dân, chỉ duy nhất năm đồng. Thức ăn
gồm ba món, thay đổi mỗi ngày. Cơm ăn thoải mái, ăn cho đến khi nào no
thì thôi. Ngoài ra, còn được tặng thêm một trái chuối tráng miệng và ly
trà thơm, nóng bốc khói.
Sau đó phải kể thêm hai tiệm bán xi măng, gạch, cát và đá cha truyền con
nối là Tấn Phát và Tâm Long. Nay chỉ còn tiệm Tâm Long tiếp tục, địa
chỉ số 8 Trần Quang Khải, có lẽ cửa hàng đã hơn nửa thế kỷ. Một chút nữa
thì bỏ sót tiệm may áo dài tương đối nổi tiếng là Phương Luân và hiệu
ảnh Ngọc Chương ở kế bên. Hết đường Trần Quang Khải thì gặp đường Đinh
Tiên Hoàng. Quẹo trái sẽ gặp một quán bán thịt gà, thịt vịt và thịt heo
quay. Cạnh đó là một tiệm chuyên sửa xe Vespa và Lambretta. Nhìn sang
bên kia đường là tiệm may áo dài Thanh Châu. Tiệm mang tên người con gái
lớn nhất. Tiệm may Thanh Châu rất nổi tiếng, chuyên may áo dài cho các
ca sĩ và áo cưới cô dâu. Hiện nay tiệm may Thanh Châu vẫn còn và có rất
nhiều khách đến may mỗi ngày. Kế bên là tiệm bán và đóng giầy Đông Hưng.
Bên kia đường Trần Quang Khải là đường Nguyễn Huy Tự. Phía tay phải có
chợ Dakao. Trước khi tới chợ Dakao, sẽ gặp một gánh chè chỉ bán đậu đen.
Bà bán chè, người miền bắc di cư. Bà chỉ bán vào buổi chiều. Chè đậu
đen bà nấu, hạt rất dẻo, hương vị ngọt đậm đà. Thú vị nhất là ngồi chồm
hỗm ăn chè nóng dưới cơn mưa lất phất của Saigon, vì không có ghế cho
khách. Một con đường chạy ngang chợ Dakao là đường Trương Hán Siêu. Bên
trong có đền thờ Phan Chu Trinh và quán bánh cuốn tráng hơi, mang tên
Tây Hồ. Bà chủ bánh cuốn có tên là bà Cà. Bà khởi nghiệp năm 1960, bằng
một cái quán xập xệ, một ít bàn ghế thấp lè tè và mấy tấm bạt cũ để che
mưa. Bên phải có Tín Nghĩa Ngân Hàng. Khi chiều đến, có quán cháo lòng,
mà bà chủ rất khó tánh. Bà luôn luôn ưu tiên bán trước cho nam giới, còn
nữ giới thì bà cho đợi mút chỉ cà tha. Cô hay bà nào không chờ được thì
đi kiếm chỗ khác. Nếu thắc mắc, khiếu nại thì bà sẽ từ chối, không bán.
(Hình trên: Đường Hai Bà Trưng - nhà thờ Tân Định).
Đường Nguyễn Huy Tự rất ngắn, khoảng chừng ba mươi thước. Chấm dứt khi
đụng đường Nguyễn Văn Giai. Chạy thẳng là Viện Nhu Đạo Quang Trung của
Thượng Tọa Thích Tâm Giác. Nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Đối
diện với Viện Nhu Đạo Quang Trung là một ngôi chùa lâu đời của người
Hoa, mang tên chùa Ngọc Hoàng. Đặc biệt, trong chùa có một cái hồ lớn và
sâu. Nhà chùa thả rất nhiều rùa, có những con sống đã vài chục năm trở
lên.
Đường Nguyễn Huy Tự, quẹo trái là đường Bùi Hữu Nghĩa. Có một cây cầu
sắt cũ. Nếu quẹo phải sẽ gặp đường Nguyễn Văn Giai. Trên đường Nguyễn
Văn Giai số 57 - 59 có LỚP TOÁN LÝ HÓA MINH TRUNG, chuyên dạy Luyện Thi
Tú Tài 1 & 2 do Giáo sư Trần Văn Trung làm Giám Đốc. Đi hết đường
Nguyễn Văn Giai sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn sang phía bên kia
đường là đường Huỳnh Khương Ninh. Bên trái là rạp hát Asam, nay đã xây
thành chung cư và tiệm thuốc tây Lịch Cường. Pharmacy mang tên của Dược
Sĩ Tống Lịch Cường. Đầu đường Huỳnh Khương Ninh, có xe bánh mì Bảy Quan
với bánh mì thịt dăm bông và ba tê rất độc đáo. Trên con đường này còn
có trường trung học Huỳnh Khương Ninh.
Ngoài ra cũng phải kể thêm hai quán cà phê đã đi vào gia phả cà phê
Saigon trước năm 1975. Quán thứ nhất là cà phê Hân mà tất cả mọi thứ đều
làm bằng inox từ phin, muỗng, tách đựng đưòng, đựng sữa. Quán thứ hai
là cà phê Duyên Anh. Quán mang tên nhà văn Duyên Anh, nhưng hoàn toàn
không dính dáng đến nhà văn này. Cô bé ngồi tính tiền tên Q. có nụ cười
xinh xinh, đôi mắt tròn, đen láy và tóc dài thắt bím rất dễ thương. Cô
làm cho bao nhiêu đấng anh hùng mê mệt. Cô cũng còn là đề tài cho các
chàng thi sĩ tài tử đến vừa thưởng thức cà phê, vừa làm thơ sầu mộng.
Khu Dakao có thể kể thêm những con đường tên vẫn như cũ là: đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm với hai trường trung học công lập Trưng Vương, Võ Trường
Toản và hồ bơi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tân An Đình.
Đường Nguyễn Thành Ý, đường Phan Kế Bính có Hội Văn Hoá Bình Dân do ông
Huỳnh Văn Lang Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái làm Chủ Tịch, đường Mạc Đĩnh
Chi với Billards Trường Cang, nhà hàng Trường Cang, Hội Việt Mỹ và Ty
Cảnh sát Quận 1, đường Trần Cao Vân, Phan Tôn, Phan Ngữ, đường Phùng
Khắc Khoan với tư gia Đại Sứ Hoa Kỳ. Đường này cũng là một con đường
đẹp, có nhiều lá me bay của Saigon.
Cuối cùng trở về khu Tân Định. Xin chỉ ghi ra những con đường không bị
đổi tên là: Nguyễn Văn Mai nối hai đầu đường Hai Bà Trưng và đường Huỳnh
Tịnh Của. Một đường nữa là Đinh Công Tráng, với món bánh xèo nổi tiếng,
các trường (Tân Thịnh, Les Lauries, Văn Minh) và tiệm chụp hình Duy Hy.
Ngay góc Hai Bà Trưng và Đinh Công Tráng là tiệm thuốc Kính Tiên. Phía
đối diện là trường Thiên Phước, nhà thờ Tân Định và cách nhà thờ Tân
Định khoảng hơn mười thước là cà phê Thu Hương danh tiếng một thời.
Ngoài ra, cũng xin kể thêm đường Pasteur. Nơi đây có nhiều tiệm phở, có
quán cà phê Hồng và có viện Pasteur chiếm một chu vi rất rộng, có bốn
con đường bao quanh, với những cây cổ thụ to đến nỗi năm, sáu người ôm
vẫn không xuể. Ngay ngã ba Nguyễn Đình Chiểu và Pasteur, có một cái mả
đá rất lớn được xây bằng đá ong đã bị giải tỏa, nhìn đối diện là đường
ngõ hẻm vô trường Anh Văn Khải Minh.
Xin phép được dừng ở đây. Hy vọng các bạn đã tìm lại được một chút hương
xưa của ngày tháng cũ năm nào. Một lần nữa Tân Định & Dakao mãi mãi
trong tiềm thức của chúng ta.
Trần Đình Phước (San José, California)
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Dec/2021 lúc 1:22pm
Trần Phan
Ngày
trước 75 hầu hết ca sĩ hát Tân nhạc bằng giọng Bắc ngoại trừ quái kiệt
Trần văn Trạch hát giọng Nam qua bài: Chiều mưa biên giới của Nguyễn văn
Đông được ban nhac Pháp Hòa âm:
Chiều mưa biên giới anh đi DỀ đâu?
Sao còn đứng ngóng nơi DANG đầu.
Giọng trầm ấm của quái kiệt Trần văn Trạch nghe mộc mạc rất dễ thương.
Còn nữa : Ban thoại kịch KIM CƯƠNG phát âm toàn giọng Saigon qua tác
phẩm Lá sầu riêng được khán giả 3 miền tán thưởng nhiệt liệt.Trong Lá
sầu riêng Kim Cương vai cô Diệu nói giọng Sài Gòn, hát giọng Saigon bài
Duyên Kiếp do nhạc sĩ Lam Phương viết nhạc nền :
Anh ơi nếu mộng không thành thì sao.
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm.
Ngày nay, sau 45 năm Bắc Nam thống nhất tìm lại giọng Saigon xưa e rất khó.
Nghe tiếng "Dạ" sao mà thương đến lạ. Người Sài Gòn nói riêng và miền
Nam nói chung, có thói quen dùng từ "dạ" khi nói chuyện, khác với người
miền Bắc lại dùng từ "vâng". Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ
"vâng". Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói "vâng!" là trong dáng dấp
của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt.
Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ "dạ" vào mỗi câu nói:
''Mày ăn cơm chưa con ?
- Dạ, chưa!"
"Mới dìa/dzề hả nhóc?
- Dạ, con mới!"…
Cái tiếng "dạ" đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài
Gòn với một người Sài Gòn thấy nó "thương" lạ.....dễ chịu mà gần gũi,
nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi
khác. Nghe một tiếng "dạ" là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã
rồi hẵng hay...
Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói:
"Từ bữa đó đến bữa nay", còn người Sài Gòn thì nói: "Hổm rày", "dạo này"…
Người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát
hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ "ghê" phía sau câu nói
để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng.
Tiếng "ghê" đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là "nhiều" là
"lắm". Nói ''Nhỏ đó xinh ghê!", nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy. Lại
so sánh từ "hổm nay" với "hổm rày" hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng
một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người
Sài Gòn dùng một số từ "hổm rày, miết…" là người Sài Gòn bắt chước người
miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy
gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất miền Nam chung mà.
Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…
"Nhỏ đó dễ thương ghê!", "Nhỏ đó ngoan!"… Tiếng "nhỏ" mang ý nghĩa như
tiếng "cái" của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi "nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ
Uyên" thì cũng như "cái Thuý, cái Uyên, cái Lý" của người Hà Nội thôi.
Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu "Thằng đó làm gì mà cứ cà rề
cà rề… nhìn phát bực!" Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề
lắm.
Một người lớn hơn gọi:
"Ê, nhóc lại nói nghe!"
Hay gọi người bán hàng rong:
"Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!"…
"Ê" là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu,
có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người SàiGòn.
Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường quên mất từ "bán", chỉ nói là:
"Cho chén chè, cho tô phở"…
"Cho" ở đây là mua đó nghen.
Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này:
"Lấy cái tay ra coi!"
"Ngon làm thử coi!"
"Cho miếng coi!"
"Nói nghe coi!"…
"Làm thử" thì còn "coi" được, chứ "nói" thì làm sao mà "coi" cho được nè
? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ "coi", cũng chỉ như là một từ đệm,
dân Sài Gòn nói dzậy mà.
Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi:
"Mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?"
– Mà "dzậy ta" cũng là một thứ "tiếng địa phương" của người Sài Gòn à.
Người Sài Gòn có thói quen hay nói:
"Sao kỳ dzậy ta?"
"Sao rồi ta?"
"Được hông ta?"…
Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà...hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.
Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có
giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng
này thì đúng là… "bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!"
Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang "màu sắc" riêng.
Người Sài Gòn có cái kiểu gọi "Mày" xưng "Tao" rất "ngọt". Một vài lần
gặp nhau, nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền.
Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy
cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô mà còn rất ư là thân
thiện và gần gũi.
Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài
Gòn. Cách xưng hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn
học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi.
Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách
gọi này nó... tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như "cậu cậu - tớ tớ" của
miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mày
mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái
làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.
Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà
gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy "tụi nhỏ" sẽ
gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng "con" ngọt xớt. Có vẻ như
người Sài Gòn "ưa" tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như đa phần dân
miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước
lượng tuổi của người đối diện.
Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì:
“Dì ơi dì...cho con hỏi chút.....!"
Còn lớn hơn thì dĩ nhiên là "Bác ơi bác..." rồi.
Những tiếng mợ, thím, cậu,..... cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà
gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại
nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là
thím.
Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng "con" chứ không phải "cháu cháu" như một số vùng khác.
Cái tiếng "con" cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa
mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen
thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền. Nói
tiếp chuyện xưng hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này :
Ông đó = Ổng
Bà đó = Bả
Dì đó = Dỉ
Anh đó = Ảnh
Chị đó = Chỉ
Cô đó = Cổ
Còn nữa:
Ở bên đó = Ở bển
Ở trong đó = Ở trỏng
Ở ngoài đó = Ở ngoải
Hôm đó = Hổm.
Nói chung, khi cần lược bỏ chữ "đó", người ta chuyển thanh ngang hoặc
thanh huyền thành thanh hỏi. Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở
nên giữ vai trò quan trọng... ngộ nghĩnh dzậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe
hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất miền Nam - Sài Gòn á nghen.
Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo... số. Như
anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm... Mà nếu anh chị
em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về
ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào.
Thành ra có cách gọi: Chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba
Hùng... Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng "anh-chị-em" đôi
khi được....giản lược mất luôn, trở thành:
"Hai ơi Hai, em nói nghe nè..." và "Gì dzạ Út ?"... Tôi thích cách gọi
này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện
nhờ là cứ "Út ơi...con nhờ chút!" hoặc với mấy chị tôi thì "Hai ơi
Hai... em nói nghe nè!".
Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều khi làm người miền khác nghe hơi...
rối. Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc trưng của
cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà
như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng
Huế Kinh Thành, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm,
và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào
của sông nước miền Nam, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa
xưa, và bằng cả cái "chất Sài Gòn" chảy mạnh trong từng mạch máu người
dân Sài Gòn.
Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng "Dạ!" cùng những tiếng
"hen, nghen" lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những
nhớ thương...
Trần Phan
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Jan/2022 lúc 4:07pm
Cứ mỗi năm qua đi chúng tai lại chào đón
1 cái tết với bao niềm hân hoan chờ đón, sum họp, quây quần. Cầu mong
những điều thật tốt đẹp trong năm mới. Và nó càng ý nghĩa hơn so với
những người làm ăn xa nhà. Mong mỏi một dịp để có thể đoàn tụ bên gia
đình. Và những cái tết cũ đã qua là những kỷ niệm, hồi ức của bao thế
hệ.
11-05-2021
https://tindiachan.com/22-hinh-thuc-lua-dao-pho-bien-tren-mang-xa-hoi -
22 HÌNH THỨC LỪA ĐẢO PHỔ BIẾN TRÊN MẠNG XÃ HỘI
31-10-2021
https://tindiachan.com/ke-nhap-vai -
Kẻ nhập vai
18-12-2021
https://tindiachan.com/su-ton-tai -
Sự tồn tại
Em đứng chờ tôi trước song thưa
Tôi đi qua đầu ngõ
Hỏi nhau thầm xuân đã về chưa…
Khi những câu hát ngân nga trong cái nắng ấm nhè nhẹ những ngày cuối
năm, thì người Saigon biết rằng Tết đã về tràn ngập khắp phố phường. Ai
đó đã từng nói rằng, cuộc sống càng hiện đại, Tết lại càng mất đi niềm
vui. Phải chăng trong nhịp sống hối hả của hôm nay, cái Tết của Saigon
xưa luôn hiện về trong tâm trí những con người mang đầy tâm tư hoài
niệm. Tết Saigon xưa có gì mà khiến biết bao nhiêu người tương tư đến
thế? Mời quý vị cùng tìm hiểu Tết Saigon xưa qua những hình ảnh hiếm hoi
dưới đây.
Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cho rằng, tết Bắc – Trung – Nam, mỗi
miền đều có mỗi đặc trưng khác nhau. Tết trong Nam mộc mạc sơ sài, không
như tết ở miền Bắc và miền Trung giữ nhiều phép tắc và kiêng cử,… Tuy
có sự khác biệt về phong tục và văn hóa, nhưng trong tâm trí của người
Việt, tết là mùa đoàn viên, là dịp để đoàn tụ gia đình, để tưởng nhớ,
cúng bái ông bà tổ tiên,…
Saigon là nơi đất lành chim đậu, là nơi hội tụ của người dân tứ xứ
đến học tập, làm việc và đinh cư. Vì vậy, tết nơi đây cũng là sự kết hợp
của văn hóa nhiều vùng miền hòa vào dòng chảy của nhịp sống và con
người Saigon làm nên một mùa xuân độc đáo, khác biệt nhưng vẫn mang đậm
bản sắc dân tộc.
Những ngày giáp tết
Hằng năm, cứ mỗi lần thấy mấy bác hàng xóm tay cầm thùng vôi, tay cầm
cây chổi là người ta bắt đầu cảm nhận không khí Tết đang tràn về. Quan
niệm người xưa cho rằng, đầu năm mới, nhà cửa có sạch sẽ thì mới đón
rước Phúc Lộc vào nhà. Thế là bắt đầu từ giữa tháng Chạp, người ta đã
bắt đầu chuẩn bị sơn phết tường cổng, dọn dẹp nhà cửa, đánh lại bộ lư
đồng, thay cát trên bàn thờ để chuẩn bị cho ngày lễ rước ông Táo về trời
và đón ông bà tổ tiên và ăn Tết cùng.
Phụ nữ Saigon những ngày giáp Tết cũng phụ giúp trang trí lại cửa nhà
bằng cách mua vài ba bức tranh giấy về treo lên tường, khiến ngôi nhà
thêm tươi mới. Những người có điều kiện hơn, thường mua mấy bức viết chữ
nhũ vàng Ngũ Phúc Lâm Môn, Hiệp Gia Bình An, Phước Lộc Thọ trên những
tờ giấy hồng của mấy ông người Hoa ngồi viết ở chợ về dán trước cửa.
Từ sau ngày 23 tháng Chạp, tức sau ngày đưa ông Táo về trời, không
khí chuẩn bị tết rộn ràng hơn hẳn. Các mẹ, các chị đi chợ về luôn kèm
theo mấy thứ củ quả để làm mứt đón Tết. Rồi cứ sau bữa cơm chiều, mẹ bắt
đầu bày cóc, me, khoai, cà rốt,…ra gọt vỏ. ngâm vôi rồi sên với đường
đến khi khô lại rồi hôm sau mang phơi là có ngay mấy hũ mứt ngon lành
đón tết.
Các khu chợ Saigon thường ngày đã đông người, đến những ngày giáp Tết
lại nhộn nhịp và đông vui hơn hẳn. Có thể nói Tết bắt đầu từ chợ, các
cửa hàng bày bán đủ thứ mặt hàng. Từ sạp nhỏ đến hàng lớn, chất đầy hàng
hóa Tết. Nào là mứt bánh, lạp xưởng, rượu tây rượu ta, nước ngọt, bia,
hoa nhựa, hoa giấy, hoa tươi, khăn trải bàn, chén đĩa, áo quần, veston,
áo dài, áo đầm,…không thiếu bất cứ thứ gì. Ai muốn đi mua sắm thì đến
chợ Bình Tây, ai muốn đi thăm thú thì đến chợ Bến Thành. Hai khu chợ đặc
trưng của Saigon mỗi dịp Tết đến. Nếu chợ Bình Tây nổi tiếng với hàng
hóa đa dạng phong phú với giá cả phải chăng thì chợ Bến Thành lại là khu
vực của những gia đình có điều kiện với những mặt hàng chất lượng và
giá cả không hề rẻ.
Từ ngày 27 trở đi, học sinh bắt đầu được nghỉ học, công nhân viên
chức cũng được nghỉ làm. Những đứa trẻ con trong xóm bắt đầu tụ nhau
lại, Người về quê, kẻ về nhà, nhà nhà lúc này đều rộn ràng tiếng cười
nói. Đến tối 28, người ta bắt đầu dựng một nồi bánh chưng lớn trước nhà
để nấu bánh. Cả nhà quây quần bên nồi bánh, nói chuyện rôm rả, cười đùa
bên nhau để nhắc về chuyện xưa, chuẩn bị đón một cái tết bên cạnh gia
đình.
Đi chùa cầu nguyện
Thăm chùa ngày Tết, cầu mong một năm mới bình an đã trở thành một
điều quen thuộc của người Saigon. Sau giao thừa, người ta thường tập
trung đến Lăng Ông Bà Chiểu, chùa Ông hoặc chùa Bà,… để cầu may mắn, cầu
bình an, cầu tình duyên, cầu gia đạo,… Những hờn giận trong năm cũ đều
được cho qua bằng một cái nhoẻn miệng cười dành cho nhau. Thế là năm
mới, mọi thứ đều mới mẻ và tuyệt vời.
Ngoài đi chùa cầu nguyện, người Saigon xưa còn có tục đi coi bói đầu
năm để xem vận mạng năm nay của họ sẽ ra sao. Cách thức xem bói của
người Saigon xưa rất đa dạng: xem bói bằng hoa mai, bằng quẻ xăm,… Đặc
biệt, xem bói tuồng là một hình thức độc đáo của vùng đất Saigon vốn có
nhiều gánh hát rạp hát.
Thăm viếng người mọi người
Người xưa quan niệm rằng: Mồng một tết Cha, mồng hai tết Mẹ, mồng ba
tết Thầy. Tết với người Saigon xưa ngoài là dịp sum họp với gia đình,
thì còn là dịp để thăm viếng những người thân quen. Người Saigon vốn
chăm chỉ, hăng say làm việc. Nhịp sống Saigon vội vã khiến nhiều người
không có lấy thời gian rảnh rỗi để thăm viếng nhau. Tết là thời gian
thích hợp nhất để mọi người đến nhà, gặp mặt nhau, ôn lại đôi ba chuyện
cũ và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp trong năm mới.
Chợ Hoa ngày tết
Tết Saigon không thể thiếu hoa. Từ những ngày giáp Tết, hoa từ các
nhà vườn ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức,… và cả những tỉnh miền Tây đều được
tập trung về Saigon để bán và trang trí khắp các đường phố. Đủ loại cây
cảnh như mai, cúc, sanh, si, lan, vạn thọ,… với đủ màu sắc, đủ kiểu
dáng lung linh dưới ánh nắng ấm áp của mùa xuân Sài Gòn luôn thu hút ánh
nhìn của những vị khách du xuân. Một trong những dấu ấn đặc biệt nhất
của ngày Tết Sài Gòn đó chính là đường Hoa Nguyễn Huệ. Đi chợ hoa Nguyễn
Huệ trong những ngày Tết cũng phải chen chúc nhau bởi hàng trăm loài
hoa đang đua nhau khoe sắc, tỏa hương thơm ngát như đang gột rửa tâm hồn
con người sau một năm bộn bề và mỏi mệt để đón mừng một năm mới hạnh
phúc và tốt đẹp hơn.
Múa lân ngày tết
Nếu múa lân ở miền Trung và miền Nam chỉ được biểu diễn vào dịp tết
Trung Thu, thì ở Saigon, múa lân ngày Tết cũng chính là một món ăn tinh
thần không thể thiếu nhất là ở khu vực người Hoa sinh sống. Kỹ thuật múa
lân thời kỳ đó đã đạt đến một trình độ cao. Chủ nhà thường treo thưởng ở
vị trí rất cao và khó khăn để thử thách những nghệ nhân múa lân – sư –
rồng phải vận dụng kỹ thuật để lấy được. Kỹ thuật Thanh Long Bạch Hổ lúc
ấy được nhiều người khen ngợi và tán thưởng. Tiếng trống, tiếng chiêng
rộn rã khắp nơi cũng góp phần tạo nên một mùa xuân Saigon rộn ràng và
độc đáo.
Tết của thời hiện đại Saigon vắng hoe. Những người xa xứ thì về quê
ăn tết với gia đình. Người Sài Gòn lại chọn cách đi du lịch thư giãn sau
một năm vất vả. Sài Gòn nhộn nhịp hằng ngày bỗng trở nên vắng lặng và
êm đềm. Cũng chính vì vậy, câu hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa” vẫn
cứ luôn vang vọng mãi tron tâm trí của những người Sài Gòn xưa để nhớ về
những mùa xuân tươi đẹp trong một miền ký ức xa xôi không thể quay về.
Pháo tép dây nổ giòn giã trong những ngày tết
Ngày 8 tháng 8/1994, Thủ tướng chính phủ Võ Văn Kiệt đã ký Chỉ thị số
406-TTg, về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Kể từ sau Chỉ thị
này, từ năm 1995 đến nay không khí Tết trầm lắng và lặng lẽ hơn. Đêm
giao thừa, các miền quê im lìm trong giấc ngủ vì không còn tiếng pháo
thúc giục mong chờ. May mắn các thành phố còn có pháo hoa, nhưng lại
mang cái không khí tập nập xe cộ với khói bụi vì nhiều người đổ ra đường
xem pháo hoa có khi mệt mỏi hơn là vui. Và chỉ những ai sinh từ năm
1994 trở về trước mới từng được nghe đến tiếng pháo Tết thực sự.
Đêm giao thừa, thay vì nô nức ra đường để đến những tụ điểm bắn pháo
hoa, người Việt nhà nào cũng tự sắm cho mình đôi ba bánh pháo. Khi kim
đồng hồ điểm thời khắc giao thừa, mỗi nhà không ai bảo ai đều mang pháo
ra trước cửa nhà mình đốt. Tiếng ρнáσ иổ cứ thế giòn giã khắp các ngõ
xóm, liên tục, liên hồi không dứt, trẻ con cũng thế mà thức cho đến gần
sáng chạy đi khắp xóm xem nhà nào đốt pháo.
Ngày mùng một tết đầu năm mới, nhà nào cũng treo trước cửa một dải
pháo tép. Nhà này châm lửa đốt xong thì lại đến nhà khác đốt tiếp, tiếng
ρнáσ иổ cứ thế lan truyền khắp cả khu phố. Bọn trẻ con trong khu phố,
thường không đợi cho đến khi đám khói của ρнáσ иổ tan, chúng nô đùa ùa
ra để nhặt những tép pháo, những đoạn pháo lép.
Được một lúc sau, những đứa trẻ sẽ mang những viên pháo lép đó chạy
đến một góc sân, chúng buộc những viên pháo vào một que nhang đang cháy
dở và đợi cho đến khi ρнáσ иổ rồi cười thích thú. Việc đó cứ lặp đi lặp
lại cho suốt 3 ngày tết.
Bấm vào hình để xem clip
Những ngày mùng 1, mùng 2 tết, khắp các con đường trong làng, trong
phố đều là những xác pháo đỏ. Người người mặc áo đỏ, nhà nhà khoác lên
mình những câu đối đỏ, con đường con phố cũng mang màu đỏ của xác pháo.
Hình ảnh tết hiện lên đậm đà mà rộn ràng vui tươi.
Rộn ràng tiếng pháo kèm múa lân trong những ngày tết xưa
Tiếng pháo tết có lẽ chỉ kết thúc sau tháng giêng, tháng 2, khi mọi
người quay lại nhịp sống thường ngày. Còn sau tết, lại đến những ngày
hội làng, tiếng pháo vẫn tiếp tục nổ đì đùng trong tiếng hân hoan, tiếng
lễ hội, tiếng hát, tiếng dò hô của những người đi chơi lễ.
Kí ức này, giờ với những đứa trẻ đã lớn chỉ còn là hoài niệm. Cảm
giác về những hình ảnh đỏ hồng của những đoạn pháo tép, về những tiếng
nổ đì đùng và cái mùi của khói pháo khi tan vẫn còn vô cùng đậm nét.
Ngày tết, trong cái lãng đãng của tiết trời xuân, của cái rét vô cùng
nhẹ nhàng, của những bộ quần áo mới, nồi bánh chưng đang sôi, những lời
chào câu thăm hỏi đầu xuân không thể thiếu được tiếng nổ đì đùng, rộn
ràng của những bánh pháo. Những hình ảnh ấy, giờ là kỉ niệm để kể cho
con, cháu chúng ta về một thời tết xưa rộn ràng khác với ngày nay như
thế nào.
Mỗi thời đại một khác, chúng ta hoài niệm về pháo không phải là cố
gắng để mang tiếng pháo quay lại thời hiện đại này, mà đơn giản chỉ là
chúng ta yêu thương hơn những kỉ niệm đẹp trong ngày tết của chính chúng
ta ở trong tuổi thơ mình.
Nguồn: thoixua.vn
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Jan/2022 lúc 1:51pm
Cứ mỗi năm qua đi chúng tai lại chào đón
1 cái tết với bao niềm hân hoan chờ đón, sum họp, quây quần. Cầu mong
những điều thật tốt đẹp trong năm mới. Và nó càng ý nghĩa hơn so với
những người làm ăn xa nhà. Mong mỏi một dịp để có thể đoàn tụ bên gia
đình. Và những cái tết cũ đã qua là những kỷ niệm, hồi ức của bao thế
hệ.
Em đứng chờ tôi trước song thưa
Tôi đi qua đầu ngõ
Hỏi nhau thầm xuân đã về chưa…
Khi những câu hát ngân nga trong cái nắng ấm nhè nhẹ những ngày cuối
năm, thì người Saigon biết rằng Tết đã về tràn ngập khắp phố phường. Ai
đó đã từng nói rằng, cuộc sống càng hiện đại, Tết lại càng mất đi niềm
vui. Phải chăng trong nhịp sống hối hả của hôm nay, cái Tết của Saigon
xưa luôn hiện về trong tâm trí những con người mang đầy tâm tư hoài
niệm. Tết Saigon xưa có gì mà khiến biết bao nhiêu người tương tư đến
thế? Mời quý vị cùng tìm hiểu Tết Saigon xưa qua những hình ảnh hiếm hoi
dưới đây.
Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cho rằng, tết Bắc – Trung – Nam, mỗi
miền đều có mỗi đặc trưng khác nhau. Tết trong Nam mộc mạc sơ sài, không
như tết ở miền Bắc và miền Trung giữ nhiều phép tắc và kiêng cử,… Tuy
có sự khác biệt về phong tục và văn hóa, nhưng trong tâm trí của người
Việt, tết là mùa đoàn viên, là dịp để đoàn tụ gia đình, để tưởng nhớ,
cúng bái ông bà tổ tiên,…
Saigon là nơi đất lành chim đậu, là nơi hội tụ của người dân tứ xứ
đến học tập, làm việc và đinh cư. Vì vậy, tết nơi đây cũng là sự kết hợp
của văn hóa nhiều vùng miền hòa vào dòng chảy của nhịp sống và con
người Saigon làm nên một mùa xuân độc đáo, khác biệt nhưng vẫn mang đậm
bản sắc dân tộc.
Những ngày giáp tết
Hằng năm, cứ mỗi lần thấy mấy bác hàng xóm tay cầm thùng vôi, tay cầm
cây chổi là người ta bắt đầu cảm nhận không khí Tết đang tràn về. Quan
niệm người xưa cho rằng, đầu năm mới, nhà cửa có sạch sẽ thì mới đón
rước Phúc Lộc vào nhà. Thế là bắt đầu từ giữa tháng Chạp, người ta đã
bắt đầu chuẩn bị sơn phết tường cổng, dọn dẹp nhà cửa, đánh lại bộ lư
đồng, thay cát trên bàn thờ để chuẩn bị cho ngày lễ rước ông Táo về trời
và đón ông bà tổ tiên và ăn Tết cùng.
Phụ nữ Saigon những ngày giáp Tết cũng phụ giúp trang trí lại cửa nhà
bằng cách mua vài ba bức tranh giấy về treo lên tường, khiến ngôi nhà
thêm tươi mới. Những người có điều kiện hơn, thường mua mấy bức viết chữ
nhũ vàng Ngũ Phúc Lâm Môn, Hiệp Gia Bình An, Phước Lộc Thọ trên những
tờ giấy hồng của mấy ông người Hoa ngồi viết ở chợ về dán trước cửa.
Từ sau ngày 23 tháng Chạp, tức sau ngày đưa ông Táo về trời, không
khí chuẩn bị tết rộn ràng hơn hẳn. Các mẹ, các chị đi chợ về luôn kèm
theo mấy thứ củ quả để làm mứt đón Tết. Rồi cứ sau bữa cơm chiều, mẹ bắt
đầu bày cóc, me, khoai, cà rốt,…ra gọt vỏ. ngâm vôi rồi sên với đường
đến khi khô lại rồi hôm sau mang phơi là có ngay mấy hũ mứt ngon lành
đón tết.
Các khu chợ Saigon thường ngày đã đông người, đến những ngày giáp Tết
lại nhộn nhịp và đông vui hơn hẳn. Có thể nói Tết bắt đầu từ chợ, các
cửa hàng bày bán đủ thứ mặt hàng. Từ sạp nhỏ đến hàng lớn, chất đầy hàng
hóa Tết. Nào là mứt bánh, lạp xưởng, rượu tây rượu ta, nước ngọt, bia,
hoa nhựa, hoa giấy, hoa tươi, khăn trải bàn, chén đĩa, áo quần, veston,
áo dài, áo đầm,…không thiếu bất cứ thứ gì. Ai muốn đi mua sắm thì đến
chợ Bình Tây, ai muốn đi thăm thú thì đến chợ Bến Thành. Hai khu chợ đặc
trưng của Saigon mỗi dịp Tết đến. Nếu chợ Bình Tây nổi tiếng với hàng
hóa đa dạng phong phú với giá cả phải chăng thì chợ Bến Thành lại là khu
vực của những gia đình có điều kiện với những mặt hàng chất lượng và
giá cả không hề rẻ.
Từ ngày 27 trở đi, học sinh bắt đầu được nghỉ học, công nhân viên
chức cũng được nghỉ làm. Những đứa trẻ con trong xóm bắt đầu tụ nhau
lại, Người về quê, kẻ về nhà, nhà nhà lúc này đều rộn ràng tiếng cười
nói. Đến tối 28, người ta bắt đầu dựng một nồi bánh chưng lớn trước nhà
để nấu bánh. Cả nhà quây quần bên nồi bánh, nói chuyện rôm rả, cười đùa
bên nhau để nhắc về chuyện xưa, chuẩn bị đón một cái tết bên cạnh gia
đình.
Đi chùa cầu nguyện
Thăm chùa ngày Tết, cầu mong một năm mới bình an đã trở thành một
điều quen thuộc của người Saigon. Sau giao thừa, người ta thường tập
trung đến Lăng Ông Bà Chiểu, chùa Ông hoặc chùa Bà,… để cầu may mắn, cầu
bình an, cầu tình duyên, cầu gia đạo,… Những hờn giận trong năm cũ đều
được cho qua bằng một cái nhoẻn miệng cười dành cho nhau. Thế là năm
mới, mọi thứ đều mới mẻ và tuyệt vời.
Ngoài đi chùa cầu nguyện, người Saigon xưa còn có tục đi coi bói đầu
năm để xem vận mạng năm nay của họ sẽ ra sao. Cách thức xem bói của
người Saigon xưa rất đa dạng: xem bói bằng hoa mai, bằng quẻ xăm,… Đặc
biệt, xem bói tuồng là một hình thức độc đáo của vùng đất Saigon vốn có
nhiều gánh hát rạp hát.
Thăm viếng người mọi người
Người xưa quan niệm rằng: Mồng một tết Cha, mồng hai tết Mẹ, mồng ba
tết Thầy. Tết với người Saigon xưa ngoài là dịp sum họp với gia đình,
thì còn là dịp để thăm viếng những người thân quen. Người Saigon vốn
chăm chỉ, hăng say làm việc. Nhịp sống Saigon vội vã khiến nhiều người
không có lấy thời gian rảnh rỗi để thăm viếng nhau. Tết là thời gian
thích hợp nhất để mọi người đến nhà, gặp mặt nhau, ôn lại đôi ba chuyện
cũ và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp trong năm mới.
Chợ Hoa ngày tết
Tết Saigon không thể thiếu hoa. Từ những ngày giáp Tết, hoa từ các
nhà vườn ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức,… và cả những tỉnh miền Tây đều được
tập trung về Saigon để bán và trang trí khắp các đường phố. Đủ loại cây
cảnh như mai, cúc, sanh, si, lan, vạn thọ,… với đủ màu sắc, đủ kiểu
dáng lung linh dưới ánh nắng ấm áp của mùa xuân Sài Gòn luôn thu hút ánh
nhìn của những vị khách du xuân. Một trong những dấu ấn đặc biệt nhất
của ngày Tết Sài Gòn đó chính là đường Hoa Nguyễn Huệ. Đi chợ hoa Nguyễn
Huệ trong những ngày Tết cũng phải chen chúc nhau bởi hàng trăm loài
hoa đang đua nhau khoe sắc, tỏa hương thơm ngát như đang gột rửa tâm hồn
con người sau một năm bộn bề và mỏi mệt để đón mừng một năm mới hạnh
phúc và tốt đẹp hơn.
Múa lân ngày tết
Nếu múa lân ở miền Trung và miền Nam chỉ được biểu diễn vào dịp tết
Trung Thu, thì ở Saigon, múa lân ngày Tết cũng chính là một món ăn tinh
thần không thể thiếu nhất là ở khu vực người Hoa sinh sống. Kỹ thuật múa
lân thời kỳ đó đã đạt đến một trình độ cao. Chủ nhà thường treo thưởng ở
vị trí rất cao và khó khăn để thử thách những nghệ nhân múa lân – sư –
rồng phải vận dụng kỹ thuật để lấy được. Kỹ thuật Thanh Long Bạch Hổ lúc
ấy được nhiều người khen ngợi và tán thưởng. Tiếng trống, tiếng chiêng
rộn rã khắp nơi cũng góp phần tạo nên một mùa xuân Saigon rộn ràng và
độc đáo.
Tết của thời hiện đại Saigon vắng hoe. Những người xa xứ thì về quê
ăn tết với gia đình. Người Sài Gòn lại chọn cách đi du lịch thư giãn sau
một năm vất vả. Sài Gòn nhộn nhịp hằng ngày bỗng trở nên vắng lặng và
êm đềm. Cũng chính vì vậy, câu hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa” vẫn
cứ luôn vang vọng mãi tron tâm trí của những người Sài Gòn xưa để nhớ về
những mùa xuân tươi đẹp trong một miền ký ức xa xôi không thể quay về.
Pháo tép dây nổ giòn giã trong những ngày tết
Ngày 8 tháng 8/1994, Thủ tướng chính phủ Võ Văn Kiệt đã ký Chỉ thị số
406-TTg, về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Kể từ sau Chỉ thị
này, từ năm 1995 đến nay không khí Tết trầm lắng và lặng lẽ hơn. Đêm
giao thừa, các miền quê im lìm trong giấc ngủ vì không còn tiếng pháo
thúc giục mong chờ. May mắn các thành phố còn có pháo hoa, nhưng lại
mang cái không khí tập nập xe cộ với khói bụi vì nhiều người đổ ra đường
xem pháo hoa có khi mệt mỏi hơn là vui. Và chỉ những ai sinh từ năm
1994 trở về trước mới từng được nghe đến tiếng pháo Tết thực sự.
Đêm giao thừa, thay vì nô nức ra đường để đến những tụ điểm bắn pháo
hoa, người Việt nhà nào cũng tự sắm cho mình đôi ba bánh pháo. Khi kim
đồng hồ điểm thời khắc giao thừa, mỗi nhà không ai bảo ai đều mang pháo
ra trước cửa nhà mình đốt. Tiếng ρнáσ иổ cứ thế giòn giã khắp các ngõ
xóm, liên tục, liên hồi không dứt, trẻ con cũng thế mà thức cho đến gần
sáng chạy đi khắp xóm xem nhà nào đốt pháo.
Ngày mùng một tết đầu năm mới, nhà nào cũng treo trước cửa một dải
pháo tép. Nhà này châm lửa đốt xong thì lại đến nhà khác đốt tiếp, tiếng
ρнáσ иổ cứ thế lan truyền khắp cả khu phố. Bọn trẻ con trong khu phố,
thường không đợi cho đến khi đám khói của ρнáσ иổ tan, chúng nô đùa ùa
ra để nhặt những tép pháo, những đoạn pháo lép.
Được một lúc sau, những đứa trẻ sẽ mang những viên pháo lép đó chạy
đến một góc sân, chúng buộc những viên pháo vào một que nhang đang cháy
dở và đợi cho đến khi ρнáσ иổ rồi cười thích thú. Việc đó cứ lặp đi lặp
lại cho suốt 3 ngày tết.
Bấm vào hình để xem clip
Những ngày mùng 1, mùng 2 tết, khắp các con đường trong làng, trong
phố đều là những xác pháo đỏ. Người người mặc áo đỏ, nhà nhà khoác lên
mình những câu đối đỏ, con đường con phố cũng mang màu đỏ của xác pháo.
Hình ảnh tết hiện lên đậm đà mà rộn ràng vui tươi.
Rộn ràng tiếng pháo kèm múa lân trong những ngày tết xưa
Tiếng pháo tết có lẽ chỉ kết thúc sau tháng giêng, tháng 2, khi mọi
người quay lại nhịp sống thường ngày. Còn sau tết, lại đến những ngày
hội làng, tiếng pháo vẫn tiếp tục nổ đì đùng trong tiếng hân hoan, tiếng
lễ hội, tiếng hát, tiếng dò hô của những người đi chơi lễ.
Kí ức này, giờ với những đứa trẻ đã lớn chỉ còn là hoài niệm. Cảm
giác về những hình ảnh đỏ hồng của những đoạn pháo tép, về những tiếng
nổ đì đùng và cái mùi của khói pháo khi tan vẫn còn vô cùng đậm nét.
Ngày tết, trong cái lãng đãng của tiết trời xuân, của cái rét vô cùng
nhẹ nhàng, của những bộ quần áo mới, nồi bánh chưng đang sôi, những lời
chào câu thăm hỏi đầu xuân không thể thiếu được tiếng nổ đì đùng, rộn
ràng của những bánh pháo. Những hình ảnh ấy, giờ là kỉ niệm để kể cho
con, cháu chúng ta về một thời tết xưa rộn ràng khác với ngày nay như
thế nào.
Mỗi thời đại một khác, chúng ta hoài niệm về pháo không phải là cố
gắng để mang tiếng pháo quay lại thời hiện đại này, mà đơn giản chỉ là
chúng ta yêu thương hơn những kỉ niệm đẹp trong ngày tết của chính chúng
ta ở trong tuổi thơ mình.
Nguồn: thoixua.vn
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Feb/2022 lúc 1:54pm
Rồi những lời khen tặng của ký giả kịch trường sẽ in trên báo
nhằm lăng-xê trước cho vở hát, được bầu gánh cho in ra giấy
quảng cáo để xe ngựa đi phát ra, dụ khị bà con đi coi hát tối
nay.
Sau khi cánh màn nhung khép lại, vãn tuồng rồi, soạn giả mời
ký giả đi ăn cháo khuya. Hai người lai rai ba sợi, rượu vô lời
ra, nhắc nhỏ nhau nghe, kêu thêm thắt chỗ nầy mà bỏ chỗ kia.
Còn bài lên báo là hổng có cái vụ chê; chỉ có khen. Vì giết
kẻ thù chớ giết bạn đành sao!
Những lần như vậy, má kêu tía phải dắt tui theo. Mãi sau nầy
lớn lên, tui mới hiểu má tui làm vậy là để bắn tiếng cho mấy
cô đào thinh sắc là tía tui đã vợ con đùm đề rồi, sẽ không
dám rủ rê tía tui đi “ăn chè” bất tử.
Tám giờ tối mới mở màn. Coi chưa hết màn đầu là tui buồn ngủ
híp hai con mắt. Kèn thổi tò te, trống của dàn nhạc Tây nó
đánh rầm rầm, đang mơ màng giấc điệp, ke chảy đầy mồm, bỗng
giựt mình thức giấc. “Ò e Rô Be đánh đu, Tạc Zăng nhảy dù, Zô Rô bắn
súng” là tui biết màn nhung đã khép lại rồi. Tuồng đã vãn.
Mình thức dậy, đi về!
Sau nầy bèo dạt hoa trôi tới nước Úc này đây, đêm giao thừa đi
nhậu, tui gặp lại bản “Ò e Rô Be đánh đu”. Té ra nó là dân ca
“Auld lang syne” xứ Scotland.
Hồi chưa có dịch, mỗi chiều cuối năm, tui thường lang thang thả
bộ ra pub (quán rượu) ở Footscray chỉ cách nhà tui khoảng 10 phút
đi bộ, nhậu. Lúc đó còn đi cày, mệt thiệt nhưng tiền bạc cũng
hơi rủng rỉnh.
Người ta nói hổng có sai mà. Muốn giỏi tiếng Úc hãy học trên
giường với con vợ Úc. Nếu không có con nhỏ Úc nào chịu làm
vợ mình hết ráo thì nên học ở quán nhậu hàng đêm. Không phải
tốn tiền học phí; chỉ phải tốn tiền bia. Tốn tiền nhiều
chừng nào bụng bự và tiếng Úc mau giỏi chừng nấy.
Chính vì nghe cái giọng tiếng Úc lơ lớ, tá lả như xổ tràng
đạn đại liên M60 của tui, con nhỏ Úc gốc Ý phục vụ bia bọt,
“sexy” vì em cổ nhũ, mắt xanh mỏ đỏ nó rất khoái nói chuyện với
tui.
Nhưng năm rồi nè, dịch bùng phát dữ dội, tiểu bang Victoria
(trong đó có thủ phủ Melbourne của tui) mông xừ Thủ hiến Daniel
Andrews ra lịnh đóng cửa quán nhậu một lèo tới 112 ngày.
Chiều chiều không đi nhậu tán dóc được với em, ở nhà cuồng
cẳng, cuồng chân. Tui nhớ cái không khí ồn ào của quán nhậu
vui hết biết chiều cuối năm mà buồn biết bao trong tấc dạ.
Giao thừa năm nay được thằng cha Thủ hiến tiểu bang xả cảng, tui vội vác càng tôm đến quán để gặp lại người xưa.
Em nháy mắt với tui rồi hỏi xỏ: “Bộ sút chuồng hả?”. Tui trả
lời: “Tại nhức đầu!”. Em có vẻ lo lắng: “Nhức đầu sao đi
nhậu?”. Tui trả lời: “Tui sung lắm! Nhức đầu là con vợ của
tui”.
Em đặt trước mặt tui một ly bia đầy bọt. Tui ngửa cổ làm một
hơi nghe cái ót, cạn hết nửa ly. Xong, tui kể cho em nghe câu
chuyện tựa đề Thượng đế cho con hỏi như vầy nè:
Thượng đế ra lịnh: “Adam, ta muốn con làm một chuyện rất quan trọng này
cho ta”. Adam đáp: “Tâu Thượng đế! Ngài muốn con làm gì?”. “Ði xuống
thung lũng”. Adam hỏi lại: “Thung lũng là gì?”.
Thượng đế cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Qua sông”. “Sông là gì?”.
Thượng đế lại cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ði qua ngọn đồi”. “Ðồi
là gì?”. Thượng đế lại cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ở phía bên
kia của ngọn đồi, con sẽ tìm thấy một cái hang cỏ mọc um tùm”. “Hang là
gì?”. Thượng đế cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Trong hang, con sẽ
tìm thấy một con nữ”. Adam hỏi: “Nữ là gì?”.
Thượng đế lại kiên nhẫn cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ta muốn con
sản xuất bé bi”. “Làm thế nào để con làm được chuyện đó?”. “Trời ạ!”.
Thượng đế thở hào hển. Sau đó, ngài thở dài và đem hình ảnh con ong,
con bướm ra làm giáo cụ trực quan để cắt nghĩa cho Adam nghe. Adam
rất thích cái chuyện đó. Nên Adam háo hức xuống thung lũng, băng qua
sông, qua đồi và chui vào một cái hang. Nơi đó Adam tìm thấy một con nữ.
Một lúc sau, Adam quay lại và hỏi: “Tâu Thượng đế, nhức đầu là gì ạ?”.
Con nhỏ phục vụ bia bọt khoái chí cười hí hí. Tui bèn ướm
lời: “Ðêm nay em có nhức đầu hông?”. Nó thè lưỡi nói: “Hổng
dám đâu!”.
Trong lúc tui đón Giao thừa trong quán nhậu thì dân Úc lại túa
ra đường xem bắn pháo bông. Mèo chuột ôm nhau hun hít và cười
vui như con nít.
Khi nửa đêm ập đến, năm 2021 đáng để quên, lùi vào lịch sử. Màn bắn
pháo bông đêm giao thừa dài 12 phút, nổi tiếng trên toàn thế giới tại
cầu cảng Sydney, thủ phủ của tiểu bang New South Wales đông dân
nhứt Úc Châu bắt đầu.
Mọi năm cả triệu người bu lại để xem bừng sáng pháo bông nói
lời tạm biệt năm cũ. Nhưng năm rồi con Delta gây chết người
nhiều quá. Năm nay con biến thể Omicron lây lan dữ quá, dân Sydney
không còn xúm lại chùm nhum một đám. Tụi nó đổ ra đầy bãi biển
Bondi. Vì nơi đó thông thoáng hơn; nguy cơ lây nhiễm cũng thấp
hơn.
Rồi sau đó, những cảnh tượng hùng vĩ tương tự lần lượt nổ tung ở
Adelaide, thủ phủ tiểu bang Nam Úc, Darwin thủ phủ lãnh thổ Bắc
Úc và Perth, thủ phủ tiểu bang Tây Úc vì khác múi giờ.
Không chịu thua kém Sydney, bầu trời đêm Melbourne cũng bừng sáng pháo bông.
Úc này cũng vui! Cưới vợ là đặt dấu “on bon phi nan” cho đời sống độc
thân tự do. Chấm dứt những ngày vui. Những ngày muốn làm gì làm. Giờ
làm bất cứ cái gì cũng phải xin phép. Nghĩa là bắt đầu một cuộc đời nô
lệ. Vậy mà cũng có một thằng Úc cho rằng mình là một người may mắn
mới cưới được một con vợ thổ dân. Ðêm Giao thừa, nó dắt con vợ
mới ra đứng giữa đường. Hai đứa ôm nhau xà nẹo. Chụp hình rồi
post lên facebook khoe với bàn dân thiên hạ là tao vừa bị con vợ
tao tuyên án chung thân.
“Ò e Rô be đánh đu”, thiệt là ngu như một con kangaroo!
Đoàn Xuân Thu
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Feb/2022 lúc 9:12am
Những Rạp Ciné Bình Dân ở Sài Gòn https://aihuubienhoa.com/images/file/FuV7viVK2QgBAmFK/rap-vancam.png">
Nhân đọc một số những bài
viết về những rạp ciné ở Sài Gòn thời trước 1975 của một số bạn post
trên SS, tôi xin đóng góp một bài viết kỷ niệm về những rạp ciné bình
dân.
Lúc còn nhỏ, nhà tôi ở
Phú Nhuận ngay gần góc ngã tư Võ Di Nguy và Chi Lăng, tôi thường lén bố
mẹ đi coi phim ở hai rạp Văn Cầm và Cẩm Vân. Hai rạp gần như đối diện
với nhau trên đường Võ Di Nguy và thuộc hạng bình dân giá khoảng 5 đồng
chuyên chiếu thường trực hai phim, sau này hình như lên giá 50 đồng, tôi
không nhớ rõ. Rạp Cẩm Vân chuyên chiếu phim Ấn Độ như phim “Sữa Rừng
thay Sữa Mẹ”, tôi nhớ phim Ấn Độ nào cũng có màn ca hát nhẩy múa giống
như xem cải lương của Việt Nam, chẳng hạn lúc hai bên đang đánh kiếm tới
hồi quyết liệt thì hai bên ngừng lại ca hát một hồi rồi mới đánh tiếp.
Tôi thường xem ở rạp Văn
Cầm nhiều hơn. Có thể nói rạp Văn Cầm rất tệ và dơ nhưng bù lại phim ở
đây được chọn lọc hay hơn những chỗ khác. Chủ rạp lâu lâu cho chiếu
nhiều phim chỉ dành cho người lớn thí dụ như phim “Angelique” với cô đào
Pháp Michelle Mercier có nhiều màn khỏa thân nóng bỏng. Đi xem phim ở
đây bị rệp cắn là chuyện thường đôi khi còn có chuột chạy ở dưới chân.
Một điều tôi không bao giờ làm là bỏ chân không lên ghế vì lúc thò chân
xuống mò mẫm đôi giầy hay dép của mình vì lỡ đụng chân xuống đất là có
thể bị chuột cắn hay dính nước tiểu của những tiểu tử làm biếng không
chịu đi vô “toa lét” vì phim đang đến hồi hấp dẫn. Chưa kể nhiều khi
khán giả đang xem phim thì có những mẩu thuốc lá vẫn còn cháy của những
tên ba trợn từ đằng sau búng lên phía trước rớt xuống làm phỏng đùi
những ai đi xem phim mà mặc quần xà lỏn. Cho nên đi xem ciné ở những rạp
bình dân luôn luôn phải mặc quần dài vừa tránh không bị rệp cắn vừa
không bị phỏng vì thuốc lá. Phim chiếu ở những rạp bình dân thường
thường là phim cũ đã chiếu ở những rạp lớn như Rex, Eden v.v.. sau một
thời gian mới về những rạp bình dân. Vì phim cũ nên hay bị đứt phim mà
không hiểu sao những lúc phim bị đứt toàn là vào những đoạn gay cấn. Mỗi
lần như vậy là khán giả đập ghế rầm rầm lên. Vì vậy có nhiều ghế bị hư
và rớt cả ra ngoài. Tôi đã nhiều lần vào rạp mầy mò trong bóng tối tìm
chỗ ngồi thấy ở giữa có chỗ trống nên mừng quá, hí hửng len lỏi qua hàng
ghế đầy người ngồi, lúc đến nơi mới biết chỗ đó hổng, không có ghế,
đành phải chửi thề đi ra. Ngoài ra rạp bình dân không có máy lạnh chỉ có
quạt máy nên không khí rất oi bức và nhà tiểu thì còn kinh hoàng nữa,
bước vào thì mùi khai nồng nặc và lớp nhớp ở dưới chân. Những rạp như
Kinh Thành, Casino Dakao, Cao Đồng Hưng cũng thuộc hạng bình dân những
không đến nỗi tệ như rạp Văn Cầm. Ở trong khu rạp Kinh Thành có tiệm bám
kem cây rất ngon, đôi khi ba tôi hay cho tụi tôi đi ăn mì ở tiệm “Tân
Định Mì Gia”, ăn xong ghé vào rạp Kinh Thành mua kem cây đem về ăn. Kem
cây tức là cà rem có cắm cái cây để cầm ăn, có đủ mùi vị như mãng cầu,
đậu xanh, dừa, lá dứa.
Khi lớn vào trung học,
lâu lâu tụi tôi “cúp cua” đi xem ciné ở những rạp khá hơn như Rex, Eden,
Casino Sài Gòn v.v.. Những rạp này có máy lạnh và chiếu phim mới và chỉ
chiếu thường trực một phim và giá thì mắc hơn. Không biết được ai chỉ
dẫn nhưng tụi tôi thường không mua vé mà thường đứng lẩn quẩn gần chỗ
người soát vé. Chỉ cần ông ta nhìn tụi tôi và gật nhè nhẹ là tụi tôi
hiểu ý và tụi tôi cứ đi theo những người đi trước đã mua vé giả bộ là
cùng nhóm và ông soát vé không nói gì thì coi như xong, nếu ông ta chặn
lại hỏi vé thì phải ra quầy mua vé đàng hoàng. Nếu ông ta không chặn lại
thì khi vào trong rạp thì một lúc sau, ông ta sẽ bấm đèn pin đi vô tìm
tụi tôi và tụi tôi đưa tiền cho ông ta, thông thường chỉ bằng một nửa
giá regular. Như vậy có lợi cho cả hai bên, chỉ có chủ rạp là thiệt
thôi. Không phải rạp nào cũng làm được, rạp Rex là không bao giờ vì
người soát vé hình như là người nhà của ông Ưng Thi. Rạp Eden là nổi
tiếng về chuyện này đến nỗi chủ rạp đuổi những người soát vé rất nhiều.
Thông thường chỉ có học trò không có tiền mới làm cái trò này và thường
là vào ngày trong tuần dễ hơn là cuối tuần đông người, chủ rạp cho nhiều
người soát vé nên họ kiểm soát lẫn nhau. Đi xem ciné kiểu này tụi tôi
gọi là đi coi phim “nháy” tức là nháy mắt với ông soát vé để được giá
rẻ. Một điều rất lạ là những ông soát vé rất hay, dù trong rạp tối đến
đâu và tụi tôi ngồi chỗ nào ông ta cũng tìm thấy để đòi tiền. Rạp Eden
đặc biệt có thêm một tầng lầu ở trên kín đáo cho những đôi tình nhân
ngồi hú hí mà không sợ những người chung quanh để ý. Ngoài ra còn có rạp
Vĩnh Lợi là nơi nổi tiếng có dân BD hay đến và rạp Lê Lợi thì chuyên
chiếu phim của Pháp cũ như La Piscine, Quelqu’un Derriere la Porte, Le
P***ager de la Pluie,.. Rạp Văn Hoa Đa Kao cũng là rạp ́tụi tôi hay coi
phim nháy, tụi tôi đã được coi phim Lệ Đá và Vết Thù Trên Lưng Con Ngựa
Hoang ở đó. Tôi nhớ có một lần tụi tôi đang đứng chờ để nháy thì có một
cặp từ hướng cà phê Văn Hoa băng qua đường và đi về hướng người soát vé.
Người đàn ông dáng cao gầy để râu tóc dài lởm chởm và anh ta mặc bộ đồ
quân phục màu đen và chân mang dép bình trị thiên trông rất ngầu. Vai áo
anh có mang phù hiệu của một con hổ và chiếc dù. Đi với anh là một cô
gái trông thuộc loại hippy bụi đời. Anh nắm tay cô ta và đi thẳng vào
rạp, tôi không thấy anh ta mua vé và cũng không thấy ông soát vé nói gì.
Có lẽ ông ta biết là lính "Lôi Hổ" thuộc thứ dữ nên không dám nói gì.
Sau này có rạp mini Rex A
và B, hai rạp này nhỏ nhưng thuộc hạng sang, máy lạnh để tối đa, giá vé
khoảng 400 hay 500 đồng. Tôi nhớ đặc biệt là ghế ngồi là ghế da rộng đủ
cho hai người – lý tường là cho đôi tình nhân ngồi với nhau. Tôi đã xem
phim La Valse Dans L’ombre ở đây với một người bạn trước khi anh đi
trình diện ở Trung Tâm 3. Ở Mỹ, tôi đã đi xem ciné ở nhiều rạp nhưng
chưa có rạp nào có thể nói sang bằng mini Rex ở Sài Gòn. Tuy vậy, một
điều tôi thích là ở Mỹ tất cả những restroom đều ở ngoài chứ không ở
trong chỗ khán giả đang coi phim nên mỗi khi một người cần đi restroom,
những khán giả khác không bị phiền lụy. Ở Sài Gòn, khi một người đi
restroom thì phải đi xuống phía trước nơi restroom của đàn ông và đàn bà
ở hai bên của màn ảnh. Mỗi lần cửa restroom mở ra, ánh đèn từ phía
trong lại loé ra ngoài làm giảm sự chú ý của khán giả lúc xem phim.
Tôi muốn viết thêm về
những rạp ciné hay theater ở Mỹ đều chiếu phim theo xuất hay giờ chứ
không chiếu thường trực và không bao giờ bán vé quá lố nên không bao giờ
có vấn đề mua vé xong vào rạp không có chỗ ngồi phải đứng như ở Sài
Gòn. Tôi nhớ ngay cả rạp Rex là rạp thuộc hạng khá ở Sài Gòn vậy mà mỗi
khi có phim hay là thiên hạ dành giựt nhau để mua vé ở quầy có khi mua
được vé xong là người tơi tả và mất cả đồng hồ nữa vì dân ta không chịu
sắp hàng cho có trật tự. Có lần tôi mua vé để xem phim Daring Doberman
thật vất vả, lúc vô trong rạp mọi người đứng đầy rạp ở giữa những hàng
ghế cũng vì chủ rạp bán vé quá tải. Ở Mỹ bây giờ mua vé online không
phải sắp hàng, tới nơi chỉ đưa smartphone ra là xong. FB
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Mar/2022 lúc 1:22pm
Đài truyền hình số 9
Vưu Văn Tâm
Đài truyền hình Việt-Nam (THVN) hay
đài truyền hình Sài-Gòn được phát hình trên băng tần số 9 nên thường
được gọi là đài truyền hình số 9 hay nôm na là đài số 9 để dễ dàng phân
biệt với đài truyền hình dành cho quân đội Hoa-Kỳ phát hình ở băng tần
số 11 (AFVN, Armed Forces Vietnam Network). Đài THVN phát hình những
chương trình thuần túy Việt-Nam, đài AFVN phát hình những bộ phim truyền
hình của Hoa-Kỳ và luôn thu hút đông đảo khán giả lớn nhỏ, từ giới trí
thức cho đến lớp bình dân.
Thoạt tiên, trụ sở thu hình dùng chung
cơ sở của Trung tâm Điện ảnh Quốc gia trên đường Thi Sách. Không lâu
sau đó, nhà đài được chuyển về nơi bề thế hơn trên đường Hồng Thập Tự.
Chương trình ngày càng được cải tiến phong phú hơn, và được phát hình
mỗi ngày từ sáu giờ chiều đến mười hai giờ đêm với nhiều tiết mục dành
cho thiếu nhi, người lớn bên cạnh những tin tức, phóng sự trong ngày.
Ở lứa tuổi con nít, thằng Tám say mê
đắm đuối mấy chương trình dành cho thiếu nhi như ban Tuổi Xanh, chương
trình Lê Văn Khoa, Xuân Phát, ban thiếu nhi Hoa Thế Hệ, ban Trường Giang
hay chương trình Đố vui để học vào mỗi chiều chủ nhật. Tám cũng ham coi
ké mấy chương trình dành cho người lớn như ca nhạc, cải lương, thoại
kịch được chiếu luân phiên trên sóng truyền hình. Thằng Thi ở lớp 4/10
có mái tóc quăn tít và dựng đứng như mồng con gà trống, cộng thêm cái mỏ
dày hay chu ra nhưng nhìn hết sức có duyên, nhất là mỗi khi nó mang vô
lớp một xấp tờ chương trình phát hình (khổ A3) của tuần tới phát cho bạn
bè coi lấy thảo.
Mấy cô, mấy chị mê mệt mấy vở thoại
kịch có nội dung lâm ly, bi đát của ban Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng với sự
góp mặt của hầu hết nghệ sĩ, kịch sĩ nổi tiếng. Các mẹ, các bà khoái
coi những tuồng cải lương hồ quảng của các gánh Minh Tơ, Huỳnh Long,
v.v.. vào mỗi tối thứ tư và loại tuồng tích xã hội hay hương xa của mấy
gánh hát đại ban như Thanh Minh Thanh Nga, Dạ Lý Hương, Kim Chung, v.v..
được phát hình vào mỗi tối thứ bảy cuối tuần. Những chương trình ca
nhạc Hoàng Thi Thơ, Tiếng hát đôi mươi của ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần
Thiện Thanh, Tiếng Tơ Đồng (mà mấy đứa trong xóm hay nghịch ngợm gọi là
Tiếng tơ già), Phạm Mạnh Cương, v.v.. có riêng rẽ một lớp khán giả yêu
chuộng.
Đám nhóc tì đam mê mấy bộ phim ngoại
quốc dài đăng đẳng như “The wild wild west” (mà tụi nhỏ hay phiên âm
thành “Quai quét”), “lỗ tai lừa” (Star Trek), “Astro boy”, “Batman”,
v.v.. Chúng gặp nhau sau mỗi buổi cơm chiều, thường kháo nhau nội dung,
diễn biến của những thước phim tối hôm qua được xem trên ti-vi và mơ ước
sau này, khi lớn lên được làm anh hùng trừ gian, diệt bạo. Có đứa khéo
tay, chỉ với vài nét phấn trắng đã tạo nên trên nền ciment hình ảnh các
nhân vật Astro boy, Batman một cách sống động và tài tình.
Những chương trình văn nghệ thường kéo
dài đến khuya lơ, khuya lắc vì bị gián đoạn bởi những tiết mục thông
báo tin tức, bình luận, phóng sự đặc biệt, v.v.. Đội ngũ nam, nữ xướng
ngôn viên với gương mặt sáng sủa, nhiều thiện cảm, sở hữu một giọng nói
dễ nghe, dễ hiểu và rất dễ đi vào lòng người. Tám vẫn nhớ cô Mai Liên (*) thường đọc mục tin tức lúc tám giờ tối và chú Trần Nam (*)
đảm trách chương trình bình luận mỗi đêm lúc chín giờ. Giọng nói của
chú ấm áp, truyền cảm và diễn tả cảm xúc theo nội dung từng bản tin. May
mắn là cho đến bây giờ mọi người vẫn có thể nghe được giọng đọc của chú
trong chương trình phóng sự “ngày quân lực VNCH, 19 tháng 6 năm 1973”
trên đĩa hình (DVD) hay trên hệ thống youtube.
Ngày còn ấu thơ, Tám rất thích nghe
giọng nói của chú và mơ ước sau này được giống như chú, được đọc những
bản tin trên đài vô tuyến truyền hình hay được góp tiếng trên làn sóng
điện. Nhưng dòng thời gian chuyển hướng, chiến cuộc xoay chiều đã làm
đổi thay mọi thứ, ít ra là cái ước mơ nhỏ bé của thằng bé lên mười đã
không bao giờ trở thành hiện thực.
Tám còn nhớ như in hình ảnh mở đầu
chương trình “Quê hương mến yêu” của thi sĩ Bàng Bá Lân là một dòng sông
uốn khúc rợp bóng dừa xanh, có lẽ nước chảy ngược hướng nên cô lái đò
đã cố công chống chèo mà chưa đi hết khúc sông. Nền nhạc của đoạn phim
là tiếng hát cô Thái Thanh thổn thức bài ca “Tình hoài hương” của nhạc
sĩ Phạm Duy, “quê hương tôi có con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên
đồng ruộng vắn” ..
Thằng bé yêu thích văn chương, đam mê
sách vở, thường được thầy cô gọi lên đọc những đoạn văn hay những bài
thơ cho cả lớp ngày nào, giờ đây tóc đã điểm sương và bước chân đã đi xa
vùng quê hương nhiều kỷ niệm dấu yêu. Dẫu biết thời gian không thể trở
lại và không bao giờ là liều thuốc tiên như nhiều người vẫn bảo, nhưng
sao Tám cứ luyến lưu hoài ảnh hình những ngày xa xưa đó, những con đường
Sài-Gòn rợp lá me bay và những vòng xe học trò lăn tròn trên con dốc
cũ.
13.12.2021
(*) Cô Mai Liên đứng ở bìa phải, chú Trần Nam đội khăn đóng, đứng thứ sáu trong hình đính kèm, đếm từ bên phải qua.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Mar/2022 lúc 12:27am
https://huongduongtxd.com/buudiensaigon.pdf - Bưu Diện Saigon -Trang Nguyên <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Mar/2022 lúc 12:30am
https://huongduongtxd.com/vemienquakhu.pdf - Mời Người Lên Xe Về Miền Quá Khứ <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Mar/2022 lúc 11:54am
Xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho năm 1958
(chuyện hoài niệm, nên đọc chậm)
Kinh Bồng (Trần Công Bình)
Năm đó tôi chuẩn bị vào lớp Năm (*), dịp hè ngoại lên Sài gòn đón tôi về Mỹ Tho, đi bằng xe lửa.
Cái rộn rạo háo hức của cậu bé sáu
tuổi, tò mò, lạ lẫm với chiếc xe lửa được đi lần đầu tiên trong đời làm
tôi cứ ngủ chập chờn, chỉ mong sao cho màn đêm qua, trời mau sáng. Khi
bên ngoài cửa sổ còn lờ mờ, ngoại đã gọi tôi dậy, một tay xách nãi,
một tay nắm chặt tay tôi đi về hướng Chợ An Đông.
Đến khoảng đất trống cách xa nhà lồng
chợ, ngoại ngồi chồm hổm xuống bãi cỏ, vạch giỏ lấy miếng cau gói trong
miếng lá trầu nhét vào cái ống ngoái têm trầu để thưởng thức cử trầu
sáng. Tôi nhìn lại đoạn đường rầy mình mới chạy lon ton vượt qua. Nó im
lặng, thẳng băng, sắt lạnh như hai con rắn dài chạy mút từ phía Sài gòn
đến hướng Chợ Lớn, rồi đi đâu nữa không biết. Nhưng hôm nay, trên toa
xe, tôi sẽ biết nó chạy đi đâu, để rốt cuộc sẽ về Chợ Mỹ (Mỹ Tho) như
ngoại tôi nói.
Ngoại tôi chưa kịp nhai hết miếng trầu
thì tiếng còi tàu rú lên như bò rống kéo dài liên tục ba hồi, xé tan
cái không khí yên tĩnh của buổi bình minh. Ngoại tôi nhổ toẹt cổ trầu,
móc túi lấy cái khăn nỉ đỏ chùi miệng, tiếp tục nắm chặt tay tôi, chuẩn
bị lên tàu.
Mấy bà bạn hàng, khách thường xuyên đi
tàu đã nhanh chóng đứng đợi thành hàng ngang cách đường rầy cả thước.
Ngoại tôi cẩn thận, dẫn tôi đứng sau họ một đổi để giữ an toàn. Từ phía
Sài Gòn, cái đầu máy đen ngòm, ống khói tàu đen kịch, nhả từng ngụm khói
, trong khi nguyên một con tàu, như con rồng khổng lồ , đen thui, xình
xịt chạy đến. Thét lên tiếng rống cuối cùng, xe lửa từ từ ngừng lại.Khi
cái thanh quây dính từ bánh lớn của đầu máy xe lửa với bánh nhỏ ngừng
hẳn, hành khách lần lượt lên tàu.
Ngoại tôi bợ tôi ngang hông, giữ
lưng, đưa từng bước để tôi đi lên bậc thang , xong kiếm một chỗ trống
trên dãy ghế cây kéo tôi ngồi xuống. Tàu chưa chạy, nhưng tôi đã không
chịu ngồi yên nhìn vào bên trong tàu mà quỳ lên ghế, ló mặt ra cửa sổ
dòm cảnh trí bên ngoài. Với tư thế đó, tôi miệt mài với khung cảnh bên
đường trong suốt chuyến hành trình…
Cảm giác ấn tượng nhất trong ký ức
tuổi thơ đó là lúc tàu đi qua cầu Bến Lức. Gần đến cầu, tàu đi hơi chậm
lại một chút như “lấy hơi” để lên dốc cầu, sau đó còi thét lên inh ỏi,
rồi thì xình xịt, xình xịt , gập ghềnh vang tiếng kêu theo từng nấc của
thanh ray trên cầu. Ôi, cái nhịp điệu đều đặn ấy sao mà lạ lẫm, nó ăn
sâu vào bộ óc non nớt của tôi cho đến ngày nay. Chạy ngược với toa xe
lửa là các thanh dầm cầu sắt với các bù lon to tổ bố vút qua cửa sổ. Còn
bên dưới tàu thì chiếc cầu trống huơ trống hoắc, chỉ có hai đường ray
chạy dọc, nhìn xuống thấy cả lòng sông sâu thẳm đục ngầu phù sa …
Bến cuối của xe lửa là Chợ Mỹ Tho. Đến
chợ, tôi được ngoại dẫn bộ đi ra Cầu Quay ăn hủ tiếu Mỹ Tho sát cầu,
rồi mới lại bến xe ngựa đi về Chợ Gạo,nhà của ngoại.
(*): lớp 1 bây giờ
Share this:
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Mar/2022 lúc 8:22am
Đakao Ngày Tháng Cũ: Xóm Faucault
Lâm Vĩnh-Thế
Tôi sinh ra tại Nhà Bảo Sanh của
Bác sĩ Khải (mà người dân địa phương lúc đó gọi là Nhà thương Ông Khải)
tại Bà Chiểu (xã Bình Hòa, Gia Định) nhưng sau một tuần thì Ba tôi rước
hai mẹ con tôi về nhà tại Đakao. Do đó, tôi lớn lên tại Sài Gòn và sống
trọn 40 năm (1941-1981) trong khu Đakao trước khi rời Việt Nam đi định
cư tại Canada vào tháng 9-1981. Bước vào tuổi 80 này, rất may mắn, trí
nhớ tôi vẫn còn khá tốt và bài viết này được viết ra để chia xẻ với các
bạn những điều tôi còn nhớ được về khu Đakao của những ngày tháng cũ,
của các thập niên 1940-1950-1960.
Bản Đồ Khu Đakao Trước 1975
Ngôi nhà nơi tôi
đã sống và lớn lên mang số 54 của con đường nhỏ và ngắn có tên Pháp là
Rue Faucault. Sau năm 1954, trong thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, tên đường được
đổi sang tên Việt là đường Nguyễn Phi Khanh, và tên đường này vẫn còn
được giữ nguyên cho đến ngày hôm nay. Con đường này, như các bạn thấy
trong bản đồ bên trên, đi từ ngã ba của hai con đường chánh của khu
Đakao là đường Đinh Tiên Hoàng (trước 1954 có tên Pháp là Albert 1er) và
đường Hiền Vương (trước 1954 có tên Pháp là Mayer) cho đến ngã tư, nơi
gặp nhau của 3 con đường là đường Trần Quang Khải (trước 1954 có tên
Pháp là Paul Bert), đường Trần Khắc Chân (trước 1954 có tên Pháp là
Général Mangin), và đường Trần Văn Thạch (trước 1954 có tên Pháp là
V***oigne). Các con đường trong khu Đakao đã được tôi kể lại khá tỉ mỉ
trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng, ở Phần 1 – Những con đường ở Đakao, từ trang 6 đến trang 46.[1]
Đường Nguyễn Phi Khanh chỉ dài độ
500-600 mét và gồm phần lớn là nhà ở. Số nhà trên đường Nguyễn Phi
Khanh được khởi đầu từ phía ngã ba với đường Đinh Tiên Hoàng và đường
Hiền Vương (hay phía Đakao), bên tay phải là số chẳng và bên tay trái là
số lẻ, vì vậy có thể coi phía đó như là đầu đường, và phía ngã tư với
các đường Trần Khắc Chân, Trần Quang Khải và Trần Văn Thạch (phía Tân
Định) là cuối đường.
Trọn con đường chỉ có chừng 3-4 căn
nhà được sử dụng làm nơi làm ăn buôn bán mà thôi. Từ phía đầu đường,
căn nhà đầu tiên bên tay trái là tiệm cà phê Thái Chi nổi tiếng của khu
Đakao (tiệm này chỉ có mặt từ sau năm 1954 vì hai vợ chồng chủ nhân là
người Bắc Di Cư). Ngó xéo qua bên kia đường là một tiệm bán mì, hủ tiếu
của người Hoa (không có bảng hiệu). Cách đó độ 30-40 m, bên kia đường
là nhà của Cụ Ba La (một người Bắc Di Cư) có gắn một tấm bảng nhỏ có ghi
hàng chữ như sau: Ba La – Tử Vi, Bói Dịch.
Qua khỏi ngã ba với đường Lý Văn Phức (trước 1954 là đường Lesèble) độ
chừng 50 mét, cũng bên tay trái là tiệm Ô Mai Bắc Việt, ngó xéo qua phía
bên kia đường (về hướng cuối đường) độ chừng 10 mét là tiêm cơm tấm
cũng rất nổi tiếng của Bà Ba Liên (cũng không có bảng hiệu), và sau hết,
qua khỏi ngã ba với đường Huyền Quan, cũng bên tay tái, gần cuối đường
là phòng mạch và hốt thuốc Bắc của Y Sĩ Điều.
Giống như các con đường khác trong
khu Đakao, đường Nguyễn Phi Khanh cũng có một số đường hẻm nhỏ, một số
là hẻm cụt và một số giúp đi thông qua được đến các con đường nằm chung
quanh là các đường Trần quang Khải, Lý Trần Quán (trước năm 1954, có tên
Pháp là Barbier) và Lý Văn Phức.
Từ đầu đường vào khoảng 40-50 m,
phía bên tay phải, ngó xéo qua tiệm cà phê Thái Chi, là con hẻm đầu
tiên, bề ngang rất hẹp, có lẻ độ chừng 1,5 m thôi. Ở ngoài đầu đường
hẻm nhỏ này, nhìn từ ngoài đường vào, bên tay phải là cái tiệm bán mì,
hủ tiếu đã nói ở trên, mà bà con lối xóm thường gọi là tiệm Xẩm Mập vì
bà chủ người Hoa tương đối mập mạp; bên tay trái là một căn nhà khá lớn,
mặt tiền khá dài, và là một vựa bán sỉ gà vịt cho các bạn hàng của Chợ
Đakao và Chợ Tân Định. Đường hẻm này là một hẻm cụt, chỉ dài độ 20 m,
bên trong chỉ có ba căn nhà nhỏ của ba gia đình người Hoa: 1) Chú Hải là
thợ mộc, chuyên đóng bàn ghế; 2) Chú Chiêu có một xe bán nước ngọt;[2] và 3) Một chú có một xe mì bán dạo mà tôi không biết tên, chỉ gọi là Ba con Muối.[3]
Đi thêm độ chừng 30-40 m về phía
cuối đường, phía bên trái có một con hẻm cụt nữa. Trong hẻm cụt này là
một vài gia đình lao động nghèo người Việt mà tôi chỉ còn nhớ gia đình
của Chú Hai Hòa thợ sơn. Hàng năm, cứ đến gần Tết thì Mẹ tôi đều nhờ
Chú đến quét nước vôi cho căn nhà của gia đình tôi. Chú Hai Hòa có
nhiều con trong đó có thằng Nghĩa cùng học chung với tôi tại Trường Nam
Tiểu Học Đakao. Đối diện bên kia đường cũng có một con hẻm nhỏ, bề
ngang chỉ độ hơn 1 m thôi, cũng là hẻm cụt, trong đó chỉ có một căn nhà
nhỏ mà chủ nhà có mở một lớp học cho các trẻ con trong xóm học để chuẩn
bị xin vào Lớp Chót của hai Trường Tiểu Học Nam và Nữ của khu Đakao.
Hẻm kế tiếp, cũng phía bên tay trái,
là hẻm số 37, cũng là một hẻm cụt. Hẻm này khá rộng, xe hơi có thể chạy
vô được, mặt hẻm tráng xi măng rất tốt, bên trong hẻm có 2 dãy nhà đâu
mặt nhau. Tôi còn nhớ được một vài gia đình đã sống trong hẻm này: 1)
nhà Thầy giáo (tôi không còn nhớ tên) dạy Lớp Nhứt B của Trường Nam Tiểu
Học Đakao; 2) nhà gia đình anh Phan Thanh Liêm về sau là một Giáo sư Đệ
nhị Cấp dạy môn Triết; và 3) nhà gia đình Giáo sư Lương Lê Đồng, Hiệu
Trưởng Trường Trung Tiểu Học Tư Thục Huỳnh Khương Ninh nổi tiếng của khu
Đakao. (Sau ngày 30-4-1975, Giáo sư Đồng trở thành vị Giám Đốc đầu
tiên của Sở Giáo Dục Thành phố ************).
Cách đó không xa lắm, là hẻm số 45.
Hẻm này khá rộng, và có lẽ là con hẻm quan trọng nhứt của đường Nguyễn
Phi Khanh vì có nhiều chi tiết rất đáng nhớ. Vào trong độ 15 m thì hẻm
chia ra hai nhánh; một nhánh là một ngõ cụt, đi thẳng vào sâu thêm độ 20
m nữa thì hết; một nhánh rẽ phía tay phải, nhánh này khá hẹp, đi quanh
co và sau cùng thông ra được một con hẻm khác rộng hơn nhiều dẫn ra
đường Lý Văn Phức, đối diện với cổng sau của Đất Thánh Chà (sang thập
niên 1950, Đất Thánh Chà bị giải tỏa và trở thành cư xá cho nhân viên Sở
Vệ Sinh của Thành phố Sài Gòn). Trong phần đầu của hẻm này, trước khi
đến chỗ chia làm hai nhánh, phía tay trái là bức tường bên hông của ngôi
biệt thư lớn số 43, phía tay phải có một một dãy nhà nhỏ độ 3-4 căn,
trong đó có một căn là của gia đình Anh Nê. Anh Nê là một người Pháp
lai tên là René Robert, có vợ Việt và đã quyết định ở lại Việt Nam sau
khi Quân Đội Viễn Chinh Pháp rút về nước, và đổi sang tên Việt là Trần
Văn Nên, nhưng bà con lối xóm cứ quen gọi là Anh Nê. Anh là một vận
động viên xe đạp nổi tiếng, đã từng nắm giữ chức vô địch về môn đua nước
rút trong một thời gian. Trong nhánh ngõ cụt có hai gia đình người
Bắc, một gia đình chuyên làm các đồ hàng mã, gia đình kia thì có một
người con trai về sau là một nam ca sĩ nhi đồng rất nổi danh mà báo chí
Sài Gòn lúc đó gọi là thần đồng Quốc Thắng.[4]
Ngay tại chỗ ngõ hẻm này chia làm hai nhánh có một ngôi nhà khá lớn của
một gia đình rất đông anh em, trong đó có 2 người con trai rất nổi
tiếng: 1) Giáo Sư Cỗ Tấn Luông của Trường Trung Tiểu Học Tư Thục Huỳnh
Khương Ninh được mọi người trong xóm kính mến, và 2) Đại Tá Cỗ Tấn Tinh
Châu, một sĩ quan cao cấp của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến rất nổi
tiếng, đã từng là Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 (1963), với chức vụ sau
cùng là Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát (tháng 4-1975).[5, 6]
Cách hẻm số 45 độ hơn 20 m, phía bên
kia đường, có một con hẻm nhỏ giữa hai căn nhà số 48 và 50. Hẻm này
chạy dài suốt bên hông của căn phố số 50, và ăn thông sang được đường
Paul Bert. Sang khoảng đầu thập niên 1950, những gia đình sống trong
các căn phố bên đường Paul Bert đã cho xây một bức tường gạch cao ngăn
không cho qua lại nữa, và con hẻm này biến thành một hẻm cụt, và đương
nhiên trở thành một phần đất của căn nhà số 50. Sang cuối thập niên
1960 và đầu thập niên 1970, phần đất đó được làm thành một phòng để cho
gia đình đứa con trai út trú ngụ.
Tiếp tục đi về hướng cuối đường thêm
một khoảng độ gần 100 m, đối diện với ngã ba với đường Lesèble thì có
một đường hẻm nữa, bề ngang độ hơn 2 m, ăn thông qua đến đường Paul
Bert. Lúc còn nhỏ, khi Mẹ tôi sai tôi đi công việc gì bên đường Paul
Bert thì tôi thường dùng hẻm này để đi cho mau. Hẻm này cũng không còn
nữa từ giữa thập niên 1950 vì đã có một căn nhà được xây lên ngay tại
đó. Cách đó độ 50 m, cùng một bên đường cũng, có một con hẻm tương tư,
cũng thông qua đường Paul Bert và sau đó cũng bị xây tường ngăn lại.
Bên kia đường, kế bên tiệm Ô Mai Bắc Việt cũng có một con hẻm cụt rất
nhỏ.
Đối diện với tiệm cơm tấm của Bà Ba
Liên cũng có một hẻm khá rộng nhưng là hẻm cụt. Trong hẻm này có một
gia đình của một bà quả phụ có ba người con, một người con trai lớn, và
hai người con gái nhỏ. Tôi không còn nhớ gì nhiều về hai người con gái
đó, nhưng tôi không bao giờ quên người con trai lớn. Đó là Anh Nhứt,
Nguyễn Văn Nhứt, người hiền lành, đẹp trai, cao lớn, mãnh khảnh, học rất
giỏi, tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Sài Gòn vào năm 1965. Nhưng không ngờ
Anh lại quá vắn số, vừa ra trường, và, theo luật thời bấy giờ, bị trưng
tập vào quân đội (Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Quân Đoàn III) với
cấp bậc Trung Úy và chỉ một thời gian ngắn sau đó thì tử trận, cùng với
Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn, trong một trận phục kích ở Dầu Tiếng vào
tháng 10 năm 1965.[7, 8, 9] Cả
xóm Nguyễn Phi Khanh đều xúc động nghe tin Anh tử trân, nhứt là thương
cảm cho bà mẹ góa của Anh đã phải chịu thêm cái đau đớn mất đứa con trai
duy nhứt.
Con hẻm cuối cùng của đường Faucault,
cũng năm bên tay trái, cách hẻm vừa nói trên độ 50 m là con hẻm rất nhỏ,
đi vòng vo và sau cùng nối vào một con hẻm khác rộng hơn ăn thông ra
đường Barbier. Ngay đầu con hẻm rộng của đường Barbier này có một ngôi
biệt thự khá lớn về sau, khoảng cuối thập niên 1950 hay đầu thập niên
1960, trở thành Trường Mẫu Giáo Mạnh Mẫu khá nổi tiếng.
Con đường Faucault tuy nhỏ và
ngắn, xóm Faucault tuy nhỏ bé nhưng lại là một phần của khu Đakao vốn là
một trung tâm văn hóa khá quan trọng của thành phố Sài Gòn mang nhiều
màu sắc có thể gọi là “địa linh nhơn kiệt.”
Trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng, phần Đakao: Một Trung Tâm Văn Hóa, các trang 122-127, tôi đã đề cập đến các ngôi đình trong khu Đakao [10],
trong đó có Đình Sơn Trà, nằm gần cuối đường Faucault, ngay ngã ba với
Đường Huyền Quan, (trước 1954, đường Huyền Quan có tên Pháp là
Génibrel), một con đường rất nhỏ, và rất ngắn, nối liền hai con đường
Faucault và Barbier.
Sau đây là phần tôi ghi lại kỷ niệm tuổi thơ của tôi về Đình Sơn Trà trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng:
“Trên đường Nguyễn Phi
Khanh, ngay ngã ba với đường Huyền Quan, gần ra tới ngã ba với đường
Trần Quang Khải, cũng có một ngôi đình lớn là đình Sơn Trà. Ðình nầy
chỉ nhỏ hơn đình Nam Chơn thôi, phía trước và dọc theo cạnh đường Huyền
Quan là hàng rào cây sống. Trước mặt tiền của điện thờ cũng là một sân
đất lớn và, cũng như đình Nam Chơn, đây là nơi dựng rạp trong các dịp
cúng kỳ yên. Chính tại ngôi đình nầy tôi đã được mẹ tôi cho đi theo để
coi những vở tuồng hát bội nổi tiếng của thời đó như tuồng San Hậu, Huê
Dung Ðạo, Thần Nữ Dưng Ngủ Linh Kỳ, Trãm Trịnh Ân…, với các cô đào hát
bội một thời vang bóng như Cô Năm Ðồ, Cô Cao Long Ngà … Tôi còn nhớ mãi
cái không khí ngột ngạt của các đêm hát bội tại đây. Rạp bằng vải bố,
che không cao lắm, bên trong rạp rất chật, và nóng bức. Sân khấu bằng
gổ cũng không cao lắm, và gần như lúc nào cách bài trí cũng giống nhau,
dầu là cảnh nhà dân, nhà quan, hay cung vua, cũng chỉ thấy có một cái
bàn với hai cái ghế để ở hai bên, cả bàn và ghế đều có tấm phủ mầu sắc
đẹp. Ngay đưới sân khấu, chỉ có hai hay ba hàng đầu là để ghế, các hàng
còn lại toàn là băng gổ. Ngay trước cái ghế ở chính giữa hàng ghế đầu
có để một cái trống lớn, và người ngồi ở cái ghế đó thỉnh thoảng cầm cây
chầu đánh vào trống mấy cái thùng thùng. Về sau lớn lên tôi mới biết
đó là một vị chức sắc trong đình có nhiệm vụ “cầm chầu” để làm cái việc
đánh giá cách trình diễn của các nghệ sĩ trên sân khấu. Thỉnh thoảng
người đi xem cũng tham gia vào việc tán thưởng các nghệ sĩ bằng tiền, họ
kẹp tiền vào các cây quạt xếp bằng giấy và liệng quạt lên sân khấu.
Ðoàn hát luôn luôn có người phụ trách đi lượm các cây quạt, gở tiền ra
và mang quạt không trả lại cho khán giả.” [11]
Ngoài tính cách “địa linh” của
ngôi đình Sơn Trà cổ kính (có lẽ đã được xây dựng từ đầu thế kỳ 20, đến
nay đã có mặt trên dưới một trăm năm), xóm Faucault lại cũng là một vùng
đất tương đối có thể gọi là “nhơn kiệt” vì đã sản sinh ra một số nhân
vật có tiếng tăm trong lịch sư cận và hiện đại của Miền Nam, cũng như
một số khá đông các vị khoa bảng tập trung trong một khu đất thật nhỏ
trong xóm.
Đối diện với căn nhà nơi gia đình
tôi sinh sống (số 54) là một căn nhà xưa rất lớn, mang số 47. Đó là nhà
từ đường của gia đình ông Nguyễn Văn Của. Ông Của là một nhà tư bản
Việt có quốc tịch Pháp, chủ nhân nhà in và nhà xuất bản lớn tại Sài Gòn
là Imprimerie de l’Indochine (1917-1944), và về sau là Giám Đốc – Chủ
Nhơn (Directeur – Propriétaire) của tờ nhựt báo tiếng Việt lớn và sống
lâu năm nhứt của Sài Gòn thời bấy giờ (1907-1944) là tờ Lục Tỉnh Tân Văn.[12]
Người con trai trưởng của ông Của là ông Nguyễn Văn Xuân, vì có quốc
tịch Pháp, đã được gởi đi du học Pháp từ nhỏ, tốt nghiệp Đại Học Bách
Khoa nổi tiếng của Pháp (Ecole Polytechnique), gia nhập quân đội Pháp,
và trở thành sĩ quan gốc Việt đầu tiên thăng cấp Thiếu Tướng (Général de
Brigade, tướng hai sao) vào năm 1947,[13] với cấp bậc sau cùng là Trung Tướng (Général de Division, tướng ba sao) từ ngày 4-5-1949 [14] Ông là vị Thủ Tướng đầu tiên của Chính phủ Trung Ương Lâm Thời được thành lập vào ngày 2-6-1948 [15] với cả quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ, và quốc ca (là bản Thanh Niên Hành Khúc, gốc
là bản Tiếng Gọi Sinh Viên do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác từ năm
1941) được các chính phủ Miền Nam sử dụng cho đến ngày 30-4-1975.
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân (1892-1989)
Hai mươi năm sau, cũng có dính líu
đến ngôi nhà số 47 này lại là một vị tướng lãnh nổi tiếng của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Một người trong dòng họ của ông Của, được
cử làm quản gia, trông nom ngôi nhà từ đường này, có một người con gái
lập gia đình với một sĩ quan QLVNCH, tên Nguyễn Viết Thanh, lúc đó còn
mang cấp bậc Đại Úy. Năm 1968, vị Đai Úy đó nay là Thiếu Tướng Nguyễn
Viết Thanh, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Ngày 2-5-1970, lúc 1 giờ 40 trưa,
trong khi đang thị sát mặt trận tại biên giới Việt-Miên, ông đã tử nạn
khi phi cơ trực thăng của ông đụng với một trực thăng Cobra của quân đội
Mỹ. Ông được truy thăng lên Trung Tướng. Tướng Thanh chính là vị
tướng đứng hàng thứ ba trong bốn vị tướng lãnh nổi tiếng thanh liêm của
VNCH: “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng.”[16]
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh Quân Đoàn IV (1931-1970)
Cũng chính ngay kế bên ngôi nhà số
47 này, cả 2 hai bên đường, trong một khoảng diện tích độ chừng vài
chục mét vuông thôi, phía bên trái là đến căn nhà mang số 51, và bên
phải là đến căn biệt thự mang số 56, trong hai thập niên 1950 và 1960 đã
có đến 6 vị đỗ Tiến sĩ, một mật độ về khoa bảng có thể nói là vô cùng
hiếm có cho bất cứ vùng đất nào trong cả nước.
Nhớ lại Khoa Thi Hội năm Mậu Tuất
(1898), đời Vua Thành Thái, có 5 thí sinh của tỉnh Quảng Nam, cùng đậu
Tiến sĩ, khiến nhà vua đã khen và ban tặng tấm biển với 4 chữ Ngũ Phụng Tề Phi[17] (có
nghĩa là Năm chim phụng cùng bay). Đó là các cụ Phạm Liệu (1873-1937),
cụ Phan Quang (1873-1938), cụ Phạm Tuấn (1852-1917), cụ Ngô Chuân
(1873-1899), và cụ Dương Hiển Tiến (1866-1907), nhưng đó là thành tích
của cả một vùng đất rất rộng là tỉnh Quảng Nam. Trong trường hợp này,
chúng ta có được 6 vị Tiến sĩ trong một khu xóm chỉ rộng vài chục mét
vuông thôi. Căn nhà số 51 của một gia đình họ Ngô có được 3 vị Tiến
sĩ: 1) Người con trai trưởng là Tiến sĩ Y Khoa Ngô Thiên Khai; 2) Người
con gái lớn là một Tiến sĩ Nha Khoa, tôi không còn nhớ tên, và 3) Người
con trai út là Tiến Sĩ Y Khoa Ngô Đình Chiến (bạn học cùng khóa với
Trung Úy Nguyễn Văn Nhứt đã đề cập bên trên). Ngôi nhà số 56, của Dược
Sĩ Bùi Văn Sách là chủ nhân của nhà thuốc Tây Diệu Tâm tại trung tâm Sài
Gòn, ngay ngã tư đường Bonard (sau 1954 là đường Lê Lợi) và đường
Charles de Gaulle (sau 1954 là đường Công Lý), thì có được hai người con
gái lớn đều là Tiến sĩ Y Khoa. Và sau hết là ngôi nhà số 54, tức là
nhà của gia đình tôi, thì có Anh Tư của tôi, Anh Lâm Vĩnh Tế, đậu Tiến
sĩ về Hóa Lý (Ph. D. in Physical Chemistry) tại Đại Học Montréal,thuộc
tỉnh bang Québec, Canada vào năm 1967.
Kể rộng thêm ra về con người của xóm Faucault, thì ngoài các vị đã kể bên trên, còn phải kể đến vài người sau đây:
Ngôi biệt thự số 36, ngó ngang qua con hẽm số 37 đã kể bên trên,
là nhà của một vị Tiến sĩ Y Khoa là Bác sĩ Nguyễn Văn Đính, về sau cũng
bị trưng tập vào quân đội, và trở thành Trung Tá Y Sĩ của Hải Quân
QLVNCH.; phu nhân của Trung Tá Đính là một Giáo sư của Đại Học Khoa Học
Sài Gòn
Trên đoạn đường Faucault, từ đầu đường đi vào khoảng độ
hơn 100 m, phía bên số chẳng, là nhà của ông Lê Văn Tịnh, Thủ môn nổi
tiếng của Đội Tuyển Bóng Tròn Miền Nam thời Pháp thuộc. Chính tên của
ông về sau đã được sử dụng như một tỉnh từ hay trạng từ để chỉ những thủ
môn xuất sắc của các đội bóng tròn ở trong Nam: “tay đó giữ guôn “tịnh” lắm đó.”
Tóm tắt lại, xóm Faucault nhỏ bé
của tôi đã cống hiến cho Miền Nam một số công dân với những đóng góp
trong các lãnh vực sau đây:
Về chính trị: 1 vị Thủ Tướng Chính phủ
Về quân sự: 2 vị Trung Tướng, 1 vị Đại Tá (TQLC), 1 vị Trung Tá (Hải Quân)
Về khoa học: 8 vị Tiến sĩ: 6 Y Khoa, 1 Nha Khoa, 1 Hóa Học
Về giáo dục: 1 Giáo sư Đại học, và 3 Giáo sư Trung học
Về thể thao: 2 vận động viên nổi tiếng: 1 bóng tròn, và 1 xe đạp
Thay Lời Kết:
Xóm Faucault của tôi thời tôi còn
nhỏ cho đến tuổi trưởng thành nay không còn nữa. Năm 2015, tôi có dịp
về thăm lại quê hương, trong thời gian ở Sài Gòn, tôi thuê phòng tại một
khách sạn nhỏ trên đường Đặng Dung, nhờ đó, tôi đã có được cơ hội đi bộ
một vòng khá lớn, mất khoảng gần 2 giờ đồng hồ trong khu Tân Định –
Đakao, qua các con đường Đặng Dung, Trần Quang Khải, Nguyễn Phi Khanh,
Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Huy Tự (Chợ Đa Kao), Phạm Đăng Hưng, Phan Đình
Phùng, và sau cùng là Hai Bà Trưng; sau khi qua khỏi Chợ Tân Định, tôi
quẹo phải vào đường Bà Lê Chân, ra lại đường Trần Quang Khải và trở về
đường Đặng Dung. Tôi đã đi bộ suốt con đường Nguyễn Phi Khanh (tức là
đường Faucault cũ ngày xưa), từ cuối đường đến tận đầu đường, đi thật
chậm để nhìn cho thật kỷ nhà cửa hai bên đường, và tôi đã cảm thấy thật
buồn vì gần như không còn nhận ra được căn nhà nào của những thập niên
1940-1950-1960 nữa hết, ngay cả ngôi nhà số 54, nơi tôi đã sống 40 năm
từ khi sinh ra năm 1941 cho đến khi rời Việt Nam đi định cư tại Canada
năm 1981, cũng đã thay đổi hoàn toàn khiến tôi không còn nhận ra được
nữa. Không phải chỉ có đường Nguyễn Phi Khanh đã thay đổi, mà tất cả
những con đường tôi đã đi qua kể trên, đều như vậy hết.
Với thời gian, bất cứ ở quốc gia
nào, các thành phố, các thị trấn, các khu phố, đều phải trải qua những
thay đổi. Đó là một quy luật tự nhiên, không thể tránh được, của sự
phát triển về mọi mặt, nhứt là về kinh tế, của các đô thị. Điều đáng
buồn là tại Việt Nam, tai Sài Gòn, hiện nay người ta chỉ nghĩ đến những
cái lợi trước mắt về kinh tế, và hoàn toàn không đếm xỉa gì đến các giá
trị lịch sử và văn hóa của các kiến trúc cổ kính, đặc biệt là các ngôi
đình. Trong khu Đakao, xóm Faucault của tôi, Đình Sơn Trà, cùng với một
số ngôi đình khác trong thành phố, đang trở thành nạn nhân của sự phát
triển kiểu bừa bãi đó, như trong bài viết sau đây đã nói khá rõ:
“Là nơi linh thiêng, nhưng
hiện nay nhiều ngôi đình, miếu hàng trăm năm tuổi ở TP HCM đang bị “xà
xẻo” để làm nơi kinh doanh, buôn bán.” [18]
và với tấm ảnh mới của Đình Sơn Trà như sau:
Đình Sơn Trà đã trở thành cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng
Hình ảnh của xóm Faucault của tôi
trong khu Đakao, của những ngày tháng cũ, nơi tôi đã sống nửa cuộc đời,
với biết bao kỷ niệm vui buồn vẫn còn sống động trong ký ức của tôi, một
lão niên đã bước vào tuổi “bát tuần,” đang thật sự phai tàn dần, và sẽ
vĩnh viễn đi vào lịch sử của một vùng đất mang đậm tính văn hóa của Miền
Nam.
Viết xong ngày 15-12-2021
Hamilton, Ontario, Canada
GHI CHÚ:
Vĩnh Nhơn. Đakao trong tâm tưởng. Hamilton, Ont.: Hòai Việt, 2008.
_________, sđd, tr. 67-70.
_________, sđd, tr. 58-63.
Tiểu sử về thần đồng Quốc Thắng (thập niên 50-60), tài liệu video, có thể truy cập tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.youtube.com/watch?v=LLTrq9PG8Ow - https://www.youtube.com/watch?v=LLTrq9PG8Ow
Cỗ Tấn Tinh Châu. Thủy Quân Lục Chiến VNCH bắt sống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa năm 1959, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://aihuubienhoa.com/a5183/tqlc-giu-hoang-sa-co-tan-linh-chau - https://aihuubienhoa.com/a5183/tqlc-giu-hoang-sa-co-tan-linh-chau
Đại Tá Cỗ Tấn Tinh Châu, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu.com/dt_cotantinhchau.htm - http://www.generalhieu.com/dt_cotantinhchau.htm
Trần Đoàn. Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2 ND, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://svqy.org/2015/2-2015/ysitruong/ysitruong.html - https://svqy.org/2015/2-2015/ysitruong/ysitruong.html
Lê Văn Châu. Những quân y sĩ QLVNCH tử trận đầu tiên, tài liệu trực tuyến, có thể đọc tòan văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://dongsongcu.wordpress.com/2016/06/14/nhung-quan-y-si-qlvnch-tu-tran-dau-tien/ - https://dongsongcu.wordpress.com/2016/06/14/nhung-quan-y-si-qlvnch-tu-tran-dau-tien/
Nguyễn Văn Khôi. Đời lính chiến, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.tvvn.org/doi-linh-chien-nguyen-van-khoi/ - https://www.tvvn.org/doi-linh-chien-nguyen-van-khoi/
Vĩnh Nhơn, sđd, tr. 121-127.
Vĩnh Nhơn, sđd, tr. 123-124.
Lâm Vĩnh Thế. Lục Tỉnh Tân Văn: một trong những tờ báo sống lâu nhứt của Nam Kỳ trước năm 1945, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/07/luc-tinhtan-van-mot-trongnhung-to-bao.html - https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/07/luc-tinhtan-van-mot-trongnhung-to-bao.html
Nguyễn Văn Xuân (trung tướng), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Xu%C3%A2n_%28trung_t%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 - https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Xu%C3%A2n_(trung_t%C6%B0%E1%BB%9Bng)
Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân. Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản, [1979], tr. 54.
Đoàn Thêm, sđd, tr. 44.
Lâm Vĩnh Thế. “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng,” tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/12/nhut-thang-nhi-chinh-tam-thanh-tu-truong.html - https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/12/nhut-thang-nhi-chinh-tam-thanh-tu-truong.html
Ngũ Phụng Tề Phi, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_Ph%E1%BB%A5ng_T%E1%BB%81_Phi - https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_Ph%E1%BB%A5ng_T%E1%BB%81_Phi
Hữu Công. Đình miếu trở thành lò bánh mì, trung tâm thể hình, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vnexpress.net/dinh-mieu-tro-thanh-lo-banh-mi-trung-tam-the-hinh-2203085.html - https://vnexpress.net/dinh-mieu-tro-thanh-lo-banh-mi-trung-tam-the-hinh-2203085.html
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Apr/2022 lúc 12:17pm
https://www.youtube.com/watch?v=C0wLGKmA4zs - Ký Ức "CẦU BA CẲNG" Cầu Đi Bộ Đầu Tiên Ở Saigon Với Hình Dạng Thiết Kế Độc Đáo | Góc Hoài Niệm Xưa <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Apr/2022 lúc 11:24am
https://www.youtube.com/watch?v=eV98dNet3yA - Ký ức Đakao của một cựu học sinh trường Võ Trường Toản ngày xưa, nghe <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Jul/2022 lúc 11:59am
Đoạn Đường Yên Đổ – Champagne Tuổi Ấu Thơ của Tôi
(Thân tặng những ai đã từng quen thuộc với con đường Yên Đổ thân yêu và những ai đã từng đi ngang qua đây, dù chỉ một lần.)
Mỗi người đều có một
con đường kỷ niệm để nhớ và một dòng sông thơ ấu để yêu thương. Riêng
tôi, con đường Yên Đổ nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, nơi tôi trải qua
thời niên thiếu êm đềm cùng với những người thân yêu và bạn bè thì không
bao giờ tôi có thể quên được. Dù bây giờ tôi đang ở cách xa con đường
ấy cả nửa vòng trái đất. Dù cuộc sống căng thẳng từng giờ, từng ngày.
Phải đối phó với bao nhiêu khó khăn trước mặt, tưởng chừng như có thể
xoá nhoà tất cả những gì mà đôi lúc mình muốn nhắm mắt để quên đi. Tuy
nhiên, con đường Yên Đổ vẫn mãi mãi nằm trong tiềm thức của tôi.
Đường Yên Đỗ tên cũ là Champagne, tên
mới là Lý Chính Thắng. Con đường bắt đầu từ ngã ba Hai Bà Trưng (Paul
Blancy) và chấm dứt ở Công Trường Dân Chủ hay Ngã Sáu,Sài gòn. Nếu nhìn
xéo một chút về phía tay trái, nằm phía bên kia đường là Ty Cảnh Sát
Quận Ba.
Trong pham vi bài viết này. Xin mời
quý vị cùng tôi chỉ đi trên một khoảng ngắn của đường Yên Đổ. Từ phía
ngã ba đường Yên Đổ và Hai Bà Trưng đến ngã tư Yên Đổ và Công Lý (Mac
Mahon, De Lattre De T***igny, Gal De Gaulle) mà thôi.!
Xin được bắt đầu phía bên trái trước.
Đầu tiên sẽ gặp trường trung học tư
thục Vạn Hạnh của Thầy Thích Đức Nghiệp. Đây là một cái Villa cũ với
những hòn non bộ đen xì và những cây to nhiều tuổi. Đặc biệt, có một cây
Sung rất già, cho trái chín, màu rượu chát rất hấp dẫn học sinh vào
những giờ ra chơi và tan học. Trái sung nhiều hột, ăn chát chát, ngọt
ngọt và không ngon lắm! Sau này trường Vạn Hạnh sửa lại thành cư xá cho
Mỹ thuê, lúc nào cũng có quân cảnh (MP) Mỹ cầm súng M16 đứng gác trước
các ống cống lớn bằng xi măng đổ đầy cát trong đó. Bà con đi bộ ngang
qua phải đi xuống lề đường.
Căn nhà số 5 là của hai chị em Dược Sĩ
Cư và Huệ. Đi tiếp là một hẻm nhỏ. Tiệm hàn gió đá ở phía trước. Bên
trong có sáu căn nhà được xây bằng gạch. Kế bên là trường tiểu học tư
thục mang tên nhà thơ trào phúng của Pháp La Fontaine, số 7 đường Yên
Đổ do Thầy Đốc là Hiệu Trưởng, con trai thầy tên Mạnh. Trường La
Fontaine có lẽ là một trong những trường tiểu học tư thục đầu
tiên ở vùng Tân Định? Lúc ban đầu trường gồm ba cấp lớp: Năm, Tư và Ba.
Lớp Năm và Tư học tại trường La Fontaine, còn lớp Ba do Thầy Mười dạy
thì mướn một phòng nhỏ ở đầu xóm Chùa trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, gần
đường Đặng Dung. Đa số các trẻ em trong vùng đến tuổi đi học đều bắt đầu
học ở trường này. Một số em tiếp tục học tại trường, còn các em khác
được cha mẹ chuyển sang trường tiểu học công lập con trai Tân Định và
trường tiểu học con gái Đồ Chiểu.
Cách vài căn là một Villa của thầy
giáo dạy kèm tiếng Pháp. Ông là người Việt, nhưng mang quốc tịch Pháp.
Trong sân nhà ông có trồng mấy cây Vú Sữa Bạch rất sai trái. Dù trẻ con
rất thích, nhưng không đứa nào dám leo hái trộm, vì đàn chó Berger của
ông rất dữ. Thỉnh thoảng chúng rủ nhau liệng gạch vô nhà cho chó sủa,
hay nhấn chuông điện gắn trước nhà phá cho bỏ ghét. Nghe tiếng chuông
reo. Ông tưởng khách đến thăm, nên đi ra mở cửa. Nhìn qua, nhìn lại
chẳng thấy bóng dáng ai! Bọn con nít thấy ông, thì ùa chạy như ong vỡ
tổ. Chúng cùng cười và la lớn từ xa “Ông Tây sình đi ăn xin, lọt thùng
đinh”. Ông lẩm bẩm chửi thầm trong miệng “Con nhà không ai dạy!”
Mỗi khi mùa vú sữa chín. Bà chủ sai
người làm công hái xuống cho vào thúng, rồi đem để trước nhà rao bán cho
ông đi qua, bà đi lại với giá cũng ngang ngửa chợ trái cây Tân Định. Bà
con lại có dịp rêu rao “Giàu mà còn ham kiếm bạc cắc lẻ.”
Sau đó là hẻm số 21. Đây là một con
hẻm tương đối lớn. Xe hơi du lịch chạy vào được. Trong hẻm có một trường
tư thục. Lúc đầu lấy tên là Võ Trường Toản. Sau đổi thành Nguyễn Huệ.
Hẻm có một cây khế, một cây li Kê Ma già, trái có ruột màu vàng, còn gọi
là trái hột gà. Khi ăn thường dính màu vàng như nghệ đầy miệng, nhìn
thấy kỳ kỳ. Nằm đối diện với trường Nguyễn Huệ là một Villa trồng đủ
loại cây ăn trái, nhiều nhất là Mận và Lý. Nghe đâu là nhà của một viên
chức cao cấp trong chính quyền. Nếu quẹo trái đi ra phía đường Hai Bà
Trưng. Trên đường đi sẽ gặp một cây Thị rất già cho trái chín màu vàng
chanh, tiết ra mùi thơm nhẹ nhàng.
Người ta đồn cây Thị này có nhiều ma.
Vào ban đêm các ma ông, ma bà, ma cô, ma cậu, ma con nít với quần áo
trắng từ trên cây leo xuống. Tóc xoã dài tới chân với hai con mắt đỏ rực
như hai cục than hồng, lè những cái lưỡi màu đỏ chói, dài hơn cái đòn
gánh. Chúng đi tới, đi lui, nhe hai hàm răng trắng toát, cười ghê rợn
vào những đêm không trăng sao. Thỉnh thoảng các Ma còn rình bắt những ai
đi làm về khuya ngang qua đây. Sau đó đè nạn nhân xuống nhét đất sét
đầy miệng. Sáng ngủ dậy ú, ớ kêu cứu. Do đó, khi có việc cần phải đi
ngang cây Thị. Bà con nhắm mắt, ba chân, bốn cẳng, cắm đầu, cắm cổ, nín
thở phóng cho thật nhanh.
Nếu quẹo phải thì đi ra đường Huỳnh
Tịnh Của (tên cũ là Monceaux). Con đường này trồng toàn cây Mặc Nưa
dùng để nhuộm vải cho ra màu đen rất bền. Trái mặc nưa lúc còn sống màu
xanh giống như trái táo, còn lúc chín thì màu đen. Khi rớt xuống đất,
người đi bộ đạp lên làm đen cả lề đường rất nhơ nhớp. Trong ruột trái
mặc nưa có nhiều hột giống như hột gạo. Ăn bùi bùi, béo béo, deo dẻo.
Học sinh trường Tân Định thường lượm đem đập lấy hột ăn.
Băng qua đường Huỳnh Tịnh Của là xóm
Hầm Sỏi. Đầu ngõ có một máy nước bốn vòi. Nơi đây ồn ào suốt ngày đêm.
Những người gánh nước mướn, coi máy nước như là của riêng mình. Họ tự
cho phép mình được quyền ưu tiên hứng. Bà con thắc mắc là họ sẵn sàng
dùng đòn gánh, móc thùng xỉa xói, hăm he như muốn ăn tươi, nuốt sống.Vì
thế! Để tránh lạc đạn, phiền phức. Ai ai cũng né dân đầu nậu phông tên
chuyên nghiệp này. Tránh voi không hổ mặt người. Xin được hai chữ bình
an. Chờ đến khi nào họ cho hứng thì lúc đó mới dám hứng.
Kế bên là căn gác nhỏ của ông Ba Cạo.
Ông hớt tóc với giá bình dân và cũng là nhạc công cho một ban nhạc Bắc ở
xóm Chùa, Tân Định chỉ trình diễn trong các đám tang, có cả phần khóc
mướn. Hôm nào có ai đến thuê ban nhạc, thì hôm đó ông tạm nghỉ hớt tóc
để trở thành nhạc sĩ đờn gáo và đờn cò. Con nít gặp ông hay đưa ngón tay
trỏ lên miệng kéo qua, kéo lại “Ò, e, con ma đánh đu.Tạc Zăn nhảy dù.
Ông Ba Cạo bắn súng.”
Hầm Sỏi, một thời nổi tiếng về du đãng
ở vùng Tân Định. Các băng nhóm quanh vùng khi nghe đến tên đều kiêng
nể. Trong xóm Hầm Sỏi, có nhiều con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo với nhiều miếu
đền. Hẻm đi ra được đường Công Lý, trường Anh Văn Khải Minh và trở ra
hẻm Đỗ Phong Thuần gặp cổng trước của trường Tiểu Học Tân Định bên kia
đường.
Trở về lại đường Yên Đổ sẽ gặp tiệm
may Huỳnh Lộc chuyên may áo dài. Sau đó đến tiệm Ngọc Diệp bán đồ dùng
cho học sinh và văn phòng phẩm. Kế tiệm Ngọc Diệp là nhà ông PQK. Em
trai ông tên PQH. Cả hai ông đều là triệu phú, được xem là vua Hàng Hải
Việt Nam vì có nhiều tàu. Có cả tàu buôn đi ngoại quốc. Ông Kh..từng là
Chủ Tịch Hội Cựu Học Sinh Trường Bưởi (Chu Văn An.) Ngoài ra, ông cũng
là một nhà sưu tầm đồ cổ nổi tiếng. Không hiểu sao cả hai anh em ông
cùng bị kẹt lại Sài gòn, để rồi lâm vào cảnh tù tội?
Kế bên là phòng mạch của Bác Sĩ Hoàng Minh Mậu tốt nghiệp từ ngoại quốc về.
Một tiệm thuốc Tây tên Sông Gianh, một
Pharmacy khác tên Hồng Duyệt của Dược Sĩ T… khi đó mới ra trường. Cô
chủ nhà thuốc luôn luôn bận áo dài màu thiên thanh. Nhiều người tưởng cô
là chiêu đãi viên Hàng Không Việt Nam biệt phái đến đây làm thêm. Hiện
nay, Dược Sĩ T… có một Pharmacy thuộc loại tầm cỡ ở San José. Ngoài
thuốc tây ra tiệm còn bán đủ các thứ khác giống như các cửa hàng của Mỹ:
Drug Stores, Walgreens, Rite-Aid. Đây cũng là một trong những tiệm
thuốc Tây đầu tiên của Thung Lũng Hoa Vàng.
Nằm kế bên tiệm thuốc là nhà của Luật
Sư Ngô PT. Ông là một Luật Sư kỳ cựu của Luật Sư Đoàn Sài Gòn. Sau đó
đến nhà Đại úy T…Quận Trưởng Hóc Môn. Ông nuôi những con ngựa đua thuộc
loại chiến, từng thắng những giải đua ngựa lớn ở trường đua Phú Thọ.
Cạnh bên là một Villa kiểu Pháp, mà lúc nào cũng kín cổng, cao tường
được quét vôi màu trắng như Toà Bạch Ốc, cùng với những giàn bông giấy
đủ màu sắc đan quyện chằng chịt vào nhau rất thẩm mỹ..
Đến đây là gặp đường Huỳnh Tịnh Của.
Vừa qua khỏi đường Huỳnh Tịnh Của là một căn nhà rất lớn của ông bà chủ
xe đò người miền Bắc mới di cư vào Nam. Năm 1955, vào buổi trưa. Một
chiếc xe Dodge đã đâm thẳng vào nhà ông bà. Người ta nói, có lẽ tài xế
say rượu, nên bị lạc tay lái? Sự việc xảy ra chớp nhoáng trong tích tắc,
khiến bà chủ xe đò thiệt mạng oan uổng! Tiếp theo, là một con hẻm rất
nhỏ chỉ đủ cho một người dắt xe gắn máy ra vào. Hẻm này có nhà của danh
hài Phi Thoàn. Phía ngoài hẻm là tiệm may áo quần phụ nữ tên Thẩm Mỹ số
77 YĐ. Sau 1975 là tiệm chè Yên Đổ nổi tiếng một thời.
Cạnh bên là một tịnh xá nhỏ mang tên
Ngọc Diệp, số 81 Yên Đổ. Bây giờ tịnh xá được xây dựng lại rất bề thế,
khang trang hơn. Có lẽ nhờ tiền cúng dường của chư bá tánh từ nước ngoài
gửi về? Phải kể thêm tư gia Bác Sĩ Trần Quang Diệu. Ông cũng là một Sĩ
Quan Cao Cấp của Cục Quân Y/VNCH. Bước thêm khoảng mười mét sẽ gặp trụ
sở Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế nằm ngay góc ngã tư đường Yên Đổ và Công Lý.
Bây giờ xin được trở lại đầu đường Yên Đổ phía tay phải.
Trước tiên là quán cà phê bình dân Hải
Nàm do một người Hoa làm chủ. Nơi đây, từ sáng sớm tới chiều, bà con
lao động đến nhâm nhi ly cà phê xây chừng được pha bằng vợt, thưởng thức
dầu châu quẩy, bánh tiêu, bánh bao, hủ tíu mì, xíu mại và trà Thái Đức.
Khách thích ngồi đưa cả hai chân lên chiếc ghế đẩu. Vừa ngồi, vừa rung
đùi, vừa tán gẫu,vừa hít hà, thả hồn theo khói thuốc rê Gò Vấp, thuốc
lào Cái Sắn, 888, 555, Mélia vàng, Ruby Queen, Quân Tiếp Vụ, Basto đỏ và
xanh…Kiểu ngồi này còn gọi là kiểu ngồi nước lụt.
Kế cà phê Hải Nàm là tiệm may Văn
Minh, mang tên người con trai lớn của ông chủ. Các con ông bà đều học
giỏi và thành công. Con gái lớn là Dược Sĩ làm chủ tiệm Thuốc Tây góc
Hai Bà Trưng và Trần Quang Khải.
Hai tiệm làm cửa sắt và máng xối nằm
cách nhau, số 4 và số 8 đường Yên Đổ là Đức Kính và Đức Vượng. Tuy có
cùng tên Đức đứng đầu, nhưng hai tiệm hoàn toàn không có bà con thân
thuộc gì với nhau hết! Tiệm sản xuất cà rem cây có tên là Bạch Tuyết thì
nằm giữa hai tiệm làm đồ sắt, số 6 đường Yên Đổ. Sáng sớm những người
bán kem dạo, tụ họp để lấy kem. Sau đó chia nhau đi bán ở các trường học
và xóm lao động quanh vùng, tạo nên một khung cảnh ồn ào và huyên náo.
Sau này ông bà chủ chuyển sang làm đại lý bán xe Honda. Con trai duy
nhất của ông bà tên Tr. qua đời vì bệnh nan y. Bạn thân của anh là một
nhà sư tu xuất và cũng là nhà thơ nổi tiếng có mấy bài thơ được phổ nhạc
làm bà con say mê. Ông tình nguyện hy sinh đứng ra thay thế, tiếp tục
săn sóc vợ con người quá cố cho tròn tình nghĩa bạn bè.
Bên cạnh là giò chả Nhiên Hương. Tiệm
này có bà con họ hàng thân thiết với giò chả Phú Hương ở đường Hiền
Vương. Ông chủ tiệm giò chả Phú Hương mỗi cuối tuần đều đi thăm trường
đua Phú Thọ, để xem giò, xem cẳng các con ngựa đua và cung cấp cỏ nuôi
chúng. Kiếm được bao nhiêu tiền từ giò chả, bánh trái, ông cũng đầu tư
vô đây để trang bị cho trường đua Phú Thọ càng ngày càng quy mô hơn.
Nghe đâu sang đến Canada. Ông không bỏ được nghề chăn nuôi ngựa, tiếp
tục sự nghiệp xây dựng trường đua. Làm được đồng nào, xào hết đồng nấy.
Bây giờ thì hoàn toàn khuynh gia, bại sản. Đúng là“Cờ bạc là bác thằng
Bần.”
Những thanh niên làm công cho tiệm giò
chả không cần tập tạ, tập thể thao. Vậy mà, tay chân anh nào, anh nấy
bắp thịt cũng nở cuồn cuộn như lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án. Chắc là nhờ họ
giã và bằm thịt hàng ngày? Vào mỗi dịp Tết, tiệm giò chả Nhiên Hương
khách hàng ra vào nườm nượp. Giò Chả ra lò đến đâu là hết ngay đến đó.
Vì thế! Khách dự định biếu xén ai, thì phải đặt trước Tết cả tháng.
Hai tiệm giặt ủi Phước và tiệm may
Trường ở kế bên. Diện tích cả hai tiệm rất khiêm nhường. Cạnh đấy là một
vựa củi lớn.Về sau trở thành Salon Mayer bán xe hơi mới và cũ do ông
chủ rạp hát Moderne tên Th. làm chủ. Người ta thắc mắc “Sao ông không
đặt tên là Salon Yên Đổ hay Champagne?”
Tiếp đến là cửa hàng bán xi măng,
gạch, cát, đá tên Hà Thân. Tiệm có một cây Nhãn rất nhiều trái. Trẻ em
trong vùng thường kéo nhau tới hái, bất kể sống hay chín. Hái riết cây
nhãn bị tàn phai không còn nhan sắc. Con trai thì dùng hột nhãn làm đạn
bắn với ná dây thun, hay chơi đánh giặc: chọi qua, chọi lại. Đôi khi các
chiến sĩ nhóc bị trúng đạn nhãn sưng đầu, sứt trán và lỗ mũi ăn trầu.
Về nhà còn bị ba má đánh thêm đòn. Riêng, mấy cô thì lấy hột nhãn đem
khoét thành cà rá đeo tay, chơi trò “Đám Cưới Đầu Xuân.” trao nhẫn nhãn
cho nhau. Hột nhãn màu đen, ruột màu trắng. Đem nấu chè ăn ngon và thơm.
Tiếp theo là tiệm bán phụ tùng và sửa chữa máy may tên Phước Lai.
Bây giờ tới con hẻm số 32. Nơi đây chỉ
có bốn căn nhà. Hẻm này rất rộng. Xe hơi có thể ra vào được dễ dàng.
Con nít ở các xóm chung quanh thường rủ đến chơi u bắt mọi, đá banh, đá
cầu, đánh đáo, tạt hình, tạt lon sữa bò, công xi đờ ghe… Đặc biệt, là
chơi đập vách tường ăn tiền, vì hai bên là hai căn nhà với vách tường
xây bằng gạch. Kết quả vách tường của hai căn nhà rỗ nát như “Dấu Đạn
Thù Trên Tường Vôi Trắng”, bởi đồng năm cắc bằng nhôm màu trắng có hình
Tổng Thống Ngô Đình Diệm của lũ nhóc thi nhau đập liên tục từ sáng cho
tới chiều vào những hôm được nghỉ học.
Căn nhà đầu tiên số 32/1 là của ông
NVL.., Trưởng Ty Tiểu học Sài gòn. Ty tiểu học nằm trong khuôn viên
trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt, trên đường Phan Đình Phùng .Quận 1. Vào
thời đó chức vụ Trưởng Ty rất oai. Ông đi làm có tài xế riêng đưa đón
trên chiếc xe hơi hiệu Traction màu đen mà lúc nào cũng láng coóng.
Người ta thường thấy bác tài trong khi chờ xếp, thường lấy khăn ra lau
tới, lau lui, lau riết xe trở thành bóng lộn. Ông Bà có nhiều con: hai
con trai tên T.. và Tr..học hành bình thường, cô con gái đầu lòng tên D.
Cô lập gia đình với anh Đ… là con trai trưởng của ông bà Đồng Hồ, chủ
tiệm tạp hoá trong xóm Cù Lao – Yên Đổ. Cô giáo D…dạy môn Vạn Vật lớp Đệ
Thất và Đệ Lục trường Trung Học Công Lập Võ Trường Toản. Học sinh nào
đã từng học cô, dù bây giờ đã rời xa trường nhiều năm cũng không thể
quên được cô. Nhất là điểm cô cho học sinh thì khỏi chỗ chê!
Xin tiếp đến tiệm thuốc đông y của
Đông Y Sĩ Trần Gia Viên, chuyên bán thuốc cao đơn hườn tán, thuốc tễ,
dầu Nhị Thiên Đường, dầu Cù Là, dầu Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín, cam thảo,
táo Tàu, nhân sâm, thục địa…kể cả bắt mạch và bốc thuốc.
Kế bên là lò bánh mì Thuận Thái. Nơi
đây, vào ngày 14 tháng 05, năm 1971. Tay vợt bóng bàn nổi tiếng của Việt
Nam Cộng Hoà là Mai Văn Hoà đã thiệt mạng trong một tai nạn giao thông
rất thương tâm. Chiếc xe Lambretta hai bánh do anh lái bị một chiếc xe
vận tải lớn đè lên, khiến anh chết liền tại chỗ. Tay vợt MVH từng chiếm
những thứ hạng cao về môn bóng bàn trên các thao trường quốc tế. Anh
còn được xem là cái máy đỡ banh số một thời đó. Trong khi giao đấu. Dù
đối phương đánh, đập, líp, tiêu cách nào. Anh cũng đều hốt gọn như trở
bàn tay. Trái banh được đưa qua, đưa lại nhiều lần. Chờ khi đối phương
lơ là, mất cảnh giác. Lúc đó, anh sẽ tặng cho đối thủ một cú tiêu thần
sầu, chính xác và chớp nhoáng như mũi tên xẹt. Bao nhiêu danh thủ bóng
bàn thế giới đã cười đau, khóc hận vì sự cò cưa, kẹo kéo, cù nhầy, kiên
nhẫn và gan lì của anh.
Nhà ông Cò Tây nằm sát bên tiệm bánh
mì. Trước nhà có trồng một cây trứng cá. Ông cho rào kẽm gai từ dưới đất
lên đến giữa thân cây. Mục đích làm trẻ con không thể nào leo lên hái
được. Tuy nhiên, chúng canh me khi ông đi vắng. Một đứa dùng chiếc dép
cũ liệng lên cây. Những trái trứng cá chín mọng màu đỏ rớt rụng đầy dưới
đất. Cả đám quỹ sứ hè nhau chạy tới thi nhau lượm. Vừa bỏ trong túi áo,
vừa cho vô miệng ăn nhồm nhoàm một cách thích thú. Trái Trứng Cá chín
rất nhiều hột, vị ngọt và mùi thơm thoang thoảng tuổi học trò với nhiều
nỗi buồn vu vơ. Sau 30/04/1975 gia đình ông Cò được đi định cư ở Pháp.
Kế tiếp là phở bắc Việt Hương mà hồi
nhỏ con nhà nghèo, nên anh em tôi cứ mỗi buổi trưa thay phiên ra mua một
đồng nước phở cho thật nhiều tương, nước mắm rồi đem về nhà cùng chia
nhau chan lên cơm ăn thay canh.
Rồi đến tiệm may Xuân Liên chuyên may
áo dài đám cưới. Hai ông bà có một cô công chúa rất xinh. Lấy tên con
gái đặt cho tên tiệm mình. Ông cũng là một thầu khoán tên tuổi chuyên
đấu thầu các công trình xây dựng lớn. Sau khi ông bà dọn đi nơi khác,
chủ mới đến cũng mở nhà may đặt tên là Phương Mai cũng chuyên may áo
dài.
Tiếp tục đi sẽ gặp phòng mạch của Bác
Sĩ Trần Đình Ngân. Phòng mạch chỉ mở được vài năm, thì ông mất vì bệnh ở
tuổi rất trẻ. Sau khi ông mất. Bác Sĩ BV đến tiếp tục. Ông còn trẻ, cao
ráo, đẹp trai. được rất nhiều nữ bệnh nhân ái mộ đến khám bệnh, dù chỉ
bị cảm mạo sơ sài, hay bệnh giả đò. Miễn sao được Bác Sĩ đặt ống nghe đo
áp huyết và nhịp đập của “Con tim không chịu ngủ yên” là bệnh tan biến
ngay. Đặc biệt, với bệnh nhân nghèo thì Bác Sĩ BV. khám hoàn toàn miễn
phí và còn cho họ cả thuốc. Ông từng là Dân Biểu Quốc Hội và Chủ Tịch
Phù Luân Hội (Lions Club) Sài gòn, có biểu tượng là hình con Sư Tử. Hội
này quy tụ toàn những doanh gia và các tai to, mặt lớn thời đó. Về sau,
ông lập gia đình với một quả phụ chuyên về sửa sắc đẹp. Ông di tản trước
30/04/1975. Nghe đâu ông đang ở Houston (TX).
Ở đây có một cái hẻm nhỏ số 58, gồm
hai mươi bốn căn nhà cất bằng cây, mái ngói. Mỗi tháng có một thư ký Chà
Và cầm sổ đi thu tiền mướn nhà. Trẻ con thường chạy theo sau lưng
la“Chà Và Ma Ní tí te. Cái bụng thè lè, con mắt ốc Bươu.” Chính giữa hẻm
có một cái Giếng, Người ta còn gọi là Xóm Giếng.thêm một cây Mận, một
cây Vú Sữa Tím ở xóm trên, một cây mãng cầu, một cây li kê ma ở xóm dưới
và bốn cầu tiêu hầm. Trong xóm có bốn lò “Bánh Cuốn Tráng Hơi” của bà
Thi, bà Thọ, Bà Triển và Bà Tỵ. Các bà đều từ miền Bắc di cư vào Nam.
Bốn lò bánh cuốn vừa bán lẻ cho bà con trong xóm và các xóm lân cận, vừa
bỏ mối cho các bạn hàng ở các chợ: Tân Định, Phú Nhuận, Đa Kao và Bà
Chiểu. Mặc dù, thời đó nấu bằng củi, nhưng trải qua bao nhiêu năm chưa
hề xảy ra tai nạn nào về lửa củi, hay suýt gây ra hoả hoạn. Rồi sau này
tiến bộ hơn, các bà chuyển sang dùng dầu hôi hiệu con Sò được đựng trong
thùng hai mươi lít. “Bánh Cuốn Tây Hồ” do Bà Cà, còn có tên là Bản làm
chủ, nằm trong đền thờ chí sĩ Phan Chu Trinh. Đa Kao đã đến đây thọ giáo
với Bà Thọ một thời gian, trước khi xuống núi khởi nghiệp bánh cuốn
tráng hơi. Hiện nay Bánh Cuốn Tây Hồ phát triển thành mấy tiệm ở Sài gòn
do các con bà làm chủ và không hề có chi nhánh nào ở nước ngoài.
Hẻm xóm Giếng có thể kể thêm một nhân
viên làm cho trường Đại Học Luật Khoa Sài gòn. Tên ông là HĐM. Chức vụ
chỉ là thư ký đánh máy tầm thường. Tuy nhiên, năm nào trước mùa thi
Luật, hay sau khi có công bố kết quả thi cử. Xóm Giếng xuất hiện nhiều
xe gắn máy của sinh viên đang học ở đây. Họ ào ào đến tìm ông với gương
mặt hớn hở. Trên tay không quên cầm theo chút quà cáp để biếu ông. Có lẽ
bàn tay ông đã giúp cho họ trong khả năng mà ông có thể làm được?
Cạnh phòng mạch bác sĩ BV là trường
dạy lái xe hơi Yên Đổ. Kế bên là nhà in NMH. Ông chủ nhà in tướng oai
vệ. Đi đâu cũng tự lái chiếc xe màu xanh, hiệu Simca. Tay phải xách theo
cặp da như sắp đi tham dự hội nghị quốc tế. Ông rất có uy tín, nên được
các Cha Cố, các Thầy tin cậy. Cô con gái lớn của ông là nữ sinh Trưng
Vương tên NKT. Cô là thi sĩ tuổi học trò. Thơ của cô được đăng thường
xuyên trên các báo Ngôn Luận, Chính Luận, Văn Nghệ Tiền Phong… Đặc biệt,
thi sĩ học trò NKT chỉ sáng tác các bài thơ ca ngợi Lính, và chỉ tặng
riêng cho các anh SVSQ Trường Võ Bị Đà Lạt. Do đó, cô còn có thêm biệt
danh là “Người Tình Alpha Đỏ.” Cô lập gia đình với một SVSQ tốt nghiệp
trường này. Khi mãn khoá, chàng chọn binh chủng Mũ Nâu.
Người hùng của nhà thơ cũng từng theo
học “Đại Học Máu”nhiều năm. Còn cô em kế của nhà thơ tên NPN cũng là nữ
sinh Trưng Vương. Dáng đẹp hơn chị, với gương mặt trái xoan, tóc để dài,
được nhiều chàng trai theo đuổi. Cuối cùng, cô chỉ thích được “Ôi Phi
công danh Tiếng Muôn Đời và Nhìn Xa Phi Trường Việt Nam … Đi không ai
tìm được xác rơi” Nên một chàng phi công trực thăng ở Sư Đoàn 4 Không
Quân tên NĐD, đẹp trai giống như tài tử Đại Hàn nổi tiếng Chơi Xong Dông
nhà trong hẻm Cù Lao, số 60 Yên Đổ đã chiếm được “Trái Tim Mùa Đông”
của nàng, để lại bao nhiêu cây xi hát bài “ Em Đưa Tôi Sang Sông.”
Nhà in NMH nằm ở dưới lầu. Phần trên
lầu là nhà của song thân một sinh viên khoá 16 Võ Bị Đà Lạt tên TTT,
phục vụ tại Sư Đoàn 4 Không Quân. Hai cô em gái kế trông thật duyên dáng
và dễ thương là D.A và D.H… Không có anh lính hào hoa nào“Gõ Cửa Trái
Tim” được hai nàng. Có lẽ các nàng ngại đường nào dài bằng đường Trần
Hưng Đạo, nên không dám đi trên con đường dài này? Cũng có thể các cô lo
sợ, chẳng may các anh kẹt tiền đem bán đi cái quần của mình, xong các
anh đi lom khom thì khốn khổ đời em?
Bây giờ phải kể đến một tiệm tạp hoá
của người Hoa nằm ngay đầu hẻm 60 và 62 tên Quảng Đức Long rất lớn trong
vùng. Bà con gọi bà chủ là thím Xẩm Bài Bà goá chồng và tần tảo nuôi
các con. Tiệm bán mọi thứ hàng hoá, thực phẩm thiết dụng hàng ngày cho
bà con lao động. Bà Quảng Đức Long phúc hậu và rất tốt với mọi người. Bà
sẵn sàng bán thiếu cho bất cứ ai gặp khó khăn không cần làm sổ sách.
Khi nào có tiền trả cũng được. Hình như ai ai cũng đều trả sòng phẳng và
đúng hẹn. Bà có hai đứa con trai tên Xí và Ngầu. Khi đến tuổi quân
dịch. Không muốn cho con làm lính kiểng, lính ma, hoặc chạy chọt được
miễn dịch, nên bà đã bỏ ra một số tiền lớn để lo cho hai cậu đi
bằng đường bộ sang Cam Bốt. Rồi từ đó, có đường dây đưa sang Hồng Kông.
Cô con gái tên Xây Dùng, đẹp người, đẹp nết. Tuổi ngoài ba mươi, mà vẫn
còn ca bài “Sầu Lẻ Bóng.”
Từ ngoài đầu hẻm 60, phía bên trái là
tiệm thuốc Tây Nguyễn Huy do Dược Sĩ Nguyễn Huy làm chủ. Tướng ông cao
lớn như người ngoại quốc với vầng trán cao, hai con mắt lồ lộ. Sau năm
1975, bà con trong vùng vẫn còn gặp hai ông bà một thời gian. Nhưng sau
đó, thì nghe tin đồn là cả hai ông đều mất tích trong“Chuyến Tàu Hoàng
Hôn.” ngoài biển khơi.
Nếu đi thêm khoảng mười thước là gặp
một cây me lớn ở phía trước nhà Luật Sư ĐXQ… Ông tốt nghiệp Cử Nhân Luật
tại Đại Học Luật Khoa Hà Nội khoá đầu tiên vào năm 1930. Các con ông bà
đều công thành danh toại. Hình như họ không nối nghiệp theo ngành của
ông mà lại chọn theo ngành Y. Con gái ông là Bác Sĩ tốt nghiệp ở Mỹ và
chồng cũng là Bác Sĩ đang hành nghề ở Nam Cali.
Quẹo trái là hẻm 62, còn gọi là xóm
nhà Đèn, vì đa số dân trong xóm là người sinh quán ở Quảng Bình, miền
Trung. Tất cả chuyên làm về điện. Họ kéo vô Nam lập nghiệp và rủ rê nhau
cùng vào đây sinh sống. Hẻm này đi ra được đường Công Lý và chùa Vĩnh
Nghiêm. Hai ca sĩ thần đồng Phương Mai, Phương Dung của ban tạp lục Tùng Lâm và nhạc sĩ “Xích lại gần em tí nữa đi em” Mặc Thế Nhân cũng ở trong con hẻm này.
Hẻm 60 rất dài. Giữa xóm có một hẻm
nhỏ là hẻm xóm Vựa Gạo, đi ra được đường Hai Bà Trưng. Cuối hẻm 60 là
một ngã ba giáp với sông Cầu Kiệu. Chiều chiều con nít rủ nhau ra đây
tập lội, ôm thân cây chuối bì bà, bì bõm dưới sông. Có hôm gần mười em
đứng trên cầu Kiệu. Đợi người đi bộ qua đông, rồi chúng cùng đếm: Một,
Hai, Ba. Tất cả “pờ lông dông” xuống sông, làm nước bắn tung toé, ướt cả
người đi đường. Bà con không làm gì được chúng, chỉ còn nước chửi “Đồ
Cô Hồn Sống, thế nào có ngày tụi bây cũng sẽ bị Ma Da rút.”
Trong hẻm 60 có một tiệm giặt ủi quần
áo không tên. Từ ngoài đường đi vào, tiệm nằm phía tay trái. Ông bà có
một con gái và năm con trai. Trong số đó có một người con nổi tiếng
trong giới giang hồ, võ lâm thời đó là VĐK, tức S.. Đảo. Tướng người cao
ráo, đẹp trai, có nét ngạo mạn và oai hùng. Thống lĩnh khu vực Ông Tạ,
bảo kê nhiều sòng ru lết và vũ trường. Anh được nhiều phụ nữ ưa thích.
S.. Đảo bị bắn chết trước một vũ trường ờ Quận 1, Saigon. Lúc anh đang
lui cui, cúi xuống xem bánh xe mô tô bị ai đâm lủng. Sau này, được biết
thủ phạm bắn anh là Phạm Bá …có tật ở chân. Sau 30/04/1975 Phạm Bá.. bị
tử hình và bị xử bắn tại trường bắn Thủ Đức vì tham gia nhiều vụ cướp
dùng súng giết người.
Anh còn có một em trai là VĐC…, một
tay vợt bóng bàn có hạng của đội Quân Vận bị một đàn em thân tín của Đại
Ca Thay là Lâm Chín ngón đâm chết trong khám Chí Hoà. Người em khác của
anh là Sĩ Quan thuộc Binh Chủng Dù đã hy sinh trong một trận đánh ác
liệt tại đèo Lao Bảo. Em nhỏ nhất tên VĐT.. cũng đã mất. Người em cuối
cùng là VĐH mất ngày 29 tháng 07, năm 2014…Có thể xem đây là Ngũ Hổ
Tướng của vùng Tân Định.
Cũng cần phải thêm một nhân vật đặc
biệt là TNP… Anh tốt nghiệp khoá đầu tiên Trường Chính Trị Kinh Doanh Đà
Lạt. Gương mặt có một chút rỗ hoa, nhưng bù lại ăn nói rất có duyên và
có tài kể chuyện tiếu lâm, ai nghe cũng thích. Ngoài ra, anh còn có thêm
một giọng hát tuyệt vời và cao vút. Nhất là bài Mexico, anh hát chẳng
thua gì danh ca Cao Thái vào thời đó. Nhờ những ưu điểm này mà “Cô Láng
Giềng” tên L..là nữ sinh xinh đẹp trường Thiên Phước đã theo chàng bỏ
cuộc chơi rất sớm.
Người anh ruột của anh là TNG thổi kèn
Trumpet rất hay. Bài hát chuyên trị duy nhất mà anh thường xuyên thổi
vào mỗi đêm là Cầu Sông Kwai (The Bridge on the River Kwai.) Mỗi khi
tiếng kèn của anh vừa vang lên, thì cùng lúc đó xướng ngôn viên của Đài
Phát Thanh Sài Gòn cũng vừa cất tiếng “Bây giờ đã là mười giờ
đêm. Xin bà con, cô bác vui lòng vặn Radio vừa đủ nghe, để khỏi làm
phiền lòng hàng xóm đang cần yên tĩnh, để nghỉ ngơi.”
Hẻm 60 còn gọi là xóm Cù Lao rất rộng.
Xe cam nhông lớn đi vào đươc. Ngay đầu hẻm có một máy nước bốn vòi. Nơi
đây có một khoảng đất rộng, tự nhiên biến thành một cái chợ nhỏ hoạt
động sáng, trưa, chiều tối. Nào là: xôi, bánh bèo, bún riêu, sữa đậu
nành, sâm bổ lượng, nước mía, khô mực, hủ tiếu mì, bò viên, khô mực, hột
vịt lộn, thuốc lá lẻ, bắp nướng mỡ hành, ốc gạo, ốc len xào dừa, đậu
xanh, đậu đỏ, bánh lọt, chè đậu đen, bông cỏ, hột é, khoai mì chà bông,
rau trái, hoa quả…sửa xe đạp, sửa gắn máy, hớt tóc bình dân. Đặc biệt,
mấy bàn bán vé số “Kiến Thiết Quốc Gia” rất hấp dẫn và lôi cuốn bà con.
Ai ai cũng ôm giấc mơ trở thành triệu phú để đổi đời.
Hàng tuần, vào mỗi chiều Thứ Ba. Họ
đón chờ kết quả do các em thiếu nhi quay số được tổ chức tại Rạp Thống
Nhứt, hay còn gọi là Rạp Norodom, nằm trên Đại Lộ Thống Nhứt kế Toà Đại
Sứ Anh Quốc và đối diện Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Nếu trúng gió, thì coi như
góp một viên gạch nhỏ xây dựng nước nhà. Cùng đồng ca bài Khoẻ Vì Nước,
Kiến Thiết Quốc gia của Nhạc Sĩ Hùng Lân, hay chế ra thành khoẻ vì nước,
bánh ướt tôm khô.
Và một bài hát khác đã đi sâu vào tận
hang cùng, ngõ hẹp mà hình như hầu hết mọi người đều biết là: “Xổ Số
Kiến Thiết Quốc Gia”của Nhạc Sĩ Trần Văn Trạch, mà báo chí còn đặt cho
ông thêm một biệt danh là “Quái Kiệt.”
Kiến thiết quốc gia. Giúp đồng bào ta. Xây đắp muôn người. Được nên cửa nhà.
Tô điểm giang san. Qua bao lầm than. Ta thề kiến thiết. Trong giấc mộng vàng.
Triệu phú đến nơi. Năm mươi đồng thôi. Mua lấy xe nhà. Giàu sang mấy hồi.
Kiến thiết quốc gia. Giúp đồng bào ta. Ấy là thiên chức của người Việt Nam.
Mua số mau lên. Xổ số gần đến. Mua số mau lên. Xổ số… gần… đến…
(Nhạc Sĩ Trần văn Trạch -1952)
Nơi đây, cũng là bến đậu của các bác
xích lô, ba bánh và Honda ôm chờ đón khách. Lâu lâu cũng xảy ra tình
trạng lời qua, tiếng lại, rồi đưa đến ẩu đả vì giành giật khách hay chạy
phá giá.
Nằm cạnh bên nhà thuốc Nguyễn Huy là
chỗ cho mướn xe xích lô máy của ba má anh Th.., nhân viên thuế vụ ở Gia
Định, có em trai tên Kh..là sĩ quan TQLC, cũng thuộc dân chơi thứ
thiệt.
Cách một căn là giang san của ban kích
động nhạc Les Vampires rất nổi tiếng vào thập niên 60, 70 với Tòng thổi
Saxo, Hồng Hải chơi trống. Kế đến là nhà số 74 YĐ của nữ tài tử Mai
Trâm và Đạo Diễn Vĩnh Noãn. Cô Mai Trâm là một trong những vai nữ chính
của phim“Chúng Tôi Muốn Sống.” Cô có hai công chúa tên Mai D.. và Mai
V..cũng xinh đẹp, duyên dáng như mẹ, được nhiều thanh niên trong vùng
ngắm nghé. Nhưng chẳng anh nào lọt được vào mắt xanh hai nàng.
Kế bên là nhà ông thầu khoán.
Ông có một công tử tên Kh.. là bạn của N..Thịt Bò, Hai Bà Trưng ,Tân
Định,cũng thuộc loại “ham vui hơn ham học.”
Về sau, gia đình cô Mai Trâm bán lại
cho vợ chồng nghệ sĩ Việt Hùng và Ngọc Nuôi. Ở được một thời gian Việt
Hùng và Ngọc Nuôi lại bán cho chị Sáu Nh.. Chị người miền Nam, ăn nói
nhỏ nhẹ, vóc dáng có da, có thịt. Luôn Luôn đeo cặp kính trắng gọng vàng
ra vẻ trí thức. Chị cho sửa căn nhà thành một “Tiệm Phở Hạng
Sang.” Tiệm phở của chị tuyển chọn nhân viên chạy bàn rất trẻ, cao ráo,
xinh đẹp và có thể thi hoa hậu được. Đa số khách đến ăn phở là dân áp
phe, giới văn nghệ sĩ, giới có chút tiếng tăm. Đôi khi cũng có các quan
chức trong chính quyền. Còn như thợ thuyền, lính lác, thư ký công nhật
…với đồng lương ba cọc, ba đồng, thì chỉ ăn phở trong mơ, hay hàm thụ mà
thôi! Đành chấp nhận an phận, thủ thường xơi cơm nấu ở nhà, xực quà do
vợ mua cho chắc ăn . Nếu hôm nào đầu óc bừng bừng lên tới não và thèm
Phở quá! Không thể nào nhịn được, thì chỉ dám thưởng thức loại Phở Bình
Dân gồm bánh phở và nước lèo lỏng bỏng mỡ màng ở các địa danh như: Tân
Bình, Lăng Cha Cả, Xóm Mới, Gò Vấp, Ngã Ba, Ngã Năm, Bệnh Viện Cộng Hoà,
Cây Da Xà, Xóm Mả Lạng, hay qua Cầu Hàn tuốt bên kia Tân Thuận,
cuối đường Trịnh Minh Thế. Đa số các tiệm phở ở đây đều thiếu vệ sinh,
nhơ nhớp, kèm theo môi trường rất độc hại và không an toàn. Thực khách
ăn vào dễ bị trúng độc vì phở có pha nhiều bột ngọt, hàng the, thuốc tẩy
và hoá chất bán đầy rẫy ở chợ Kim Biên. Khi đó phải đi súc ruột ở bệnh
viện nằm ngay góc ngã ba đường Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh
Quan ,Quận 3, Sài gòn, gần trường Colette để chữa trị cho kịp thời. Nếu
không điều trị sớm, thì dễ làm thiu tô cơm nguội ở nhà. Chưa kể gia
đình có thể tan nát, vợ con nheo nhóc vì chê cơm nguội,ham ăn phở ngoài
đường.
Muốn thưởng thức tiệm phở chị Nh..
phải có quen biết trước, hoăc qua sự giới thiệu của những khách đã từng
đến đây, thì may ra mới được tiếp. Còn lạ quắc, lạ queo thì coi như “Vô
phận sự – Xin miễn vào – Cảm ơn.” Hầu như khách đã vào đây ăn một lần.
Khi ra về, thực khách đều tấm tắc khen Phở Ngon. Không nghe ai phàn nàn,
phê bình, hay chê gì hết! Có lẽ được các em bưng phở săn sóc, phục vụ
tận tình, chu đáo từ A đến Z? Đúng là“Vui lòng khách đến – Vừa lòng
khách đi !”
Chị Nh.. kết bạn với nhiều người đàn
ông có chức, có quyền đương thời. Mục đích chỉ dựa hơi và dán “Lá bùa hộ
mệnh” trước cửa tiệm để buôn bán được dễ dàng, không bị gây rắc rối,
phiền nhiễu. Người tình già nhân ngãi, non vợ chồng cuốí cùng của chị
là một Sĩ Quan Huấn Luyện Viên Thể Dục,Thể Thao và Võ Thuật ở một đơn vị
đóng cách Sài gòn khoảng 30 cây số. Chàng cao lớn, oai vệ, đẹp trai.
Lúc đó, chị mua một chiếc Mustang màu đọt chuối đời mới nhất tặng chàng,
để cho chàng le lói với đời và giữ chân chàng khỏi lông bông, lang bang
đi lạc quên đường về.
Sau ngày 30 tháng 04, năm 1975, chàng
bị kẹt, nhưng chị vẫn giữ một lòng chung thủy. Đi thăm nuôi, tiếp tế ông
rất đều đặn. Chị Nh.. qua đời vì ung thư ngực lúc tuổi ngoài năm mươi.
Thời gian cuối đời chị thường đi lễ chùa, ăn chay, tụng kinh sám hối và
làm từ thiện. Hy vọng kiếp sau chị sẽ có đời sống yên bình và nhẹ nhàng
hơn.
Qua khỏi tiệm phở chị Nh..là một Villa
của người Trung Hoa. Bà con thường gọi là nhà ông Xi Na (China) với
những cây bông sứ già cho bông trắng và vàng rất thơm. Sau đó đến một
vựa gạch, cát, đá, xi măng, rồi đến con hẻm 82. Hẻm đi ra được đường
Công Lý. Trong hẻm cũng xuất hiện một tiệm Phở cũng thuộc loại hạng sang
do bà Đ..làm chủ. Bà có dáng người mảnh khảnh, nước da trắng đẹp, tóc
búi tó củ hành, giọng nói dịu dàng dễ gây cảm tình.
Từ ngoài đầu hẻm đi vào tiệm phở phải
đi qua tiệm may HaiVe chuyên may nón lưỡi trai rất nổi tiếng. Một thời,
muốn được gọi là dân chơi Sài Gòn thì phải đội nón do Hai Ve sản xuất.
Bây giờ, chủ tiệm Hai Ve than thở thấu trời mây! Không còn nhiều khách
đến đặt may nón nữa! Vì khi ra đường, bà con phải đội nón bảo hiểm, còn
gọi là“Nồi Cơm Điện.” Đi thêm vài thước, quẹo phải có một ngõ hẻm nhỏ đi
ra được hai hẻm 62, 60 Yên Đổ và đường Huỳnh Tịnh Của nối dài. Nếu tiếp
tục đi khoảng mười thước sẽ gặp tiệm phở của bà Đ..phía bên phải, ngay
cua quẹo ra được cư xá Công Lý.
Mặc dù, nằm tuốt trong hẻm sâu, nhưng
tiệm phở của bà Đ..cũng nổi tiếng không thua kém gì tiệm phở của chị Nh…
Nhân viên phục vụ ở đây cũng đông, được tuyển lựa kỹ càng. Tiêu chuẩn
phải xinh đẹp. Biết cách ăn nói, săn sóc và niềm nở với khách hàng. Muốn
vào thưởng thức cũng đòi hỏi có sự quen biết trước, hoặc thông qua
người thân tín giới thiệu. Đúng là thời buổi nào “Quen biết cũng vẫn
hơn.”
Những lúc khách bên này đông, bên kia
ế, thì chị Nh..và bà Đ..sẵn sàng cùng nhau hổ tương, tác chiến hợp đồng.
Mặc dù, kinh doanh cùng một mặt hàng tương tự. không cần phải bỏ vốn
đầu tư nhiều. Chỉ dùng vốn trời cho do các nhân viên tự nguyện đóng góp
vào. Nhưng giữa chị Nh.và bà Đ…chưa bao giờ xảy ra những xích mích,
tranh chấp và cạnh tranh nghề nghiệp để đi đến mất lòng, rồi oán thù
nhau.
Sau này cần phát triển, khuếch
trương mạnh hơn. Bà Đ..cho ra đời thêm một tiệm Phở Đặc Biệt. Đó là
Villa số 71A HTC của một ông lớn, nằm sâu trong hẻm rộng xe hơi chạy vào
được, rất yên tỉnh, gần bên là nhà may Nguyễn Hà. Nhờ chút “hơi hám”
của ông chủ nhà mà tiệm phở mới của bà không ai dám đến quấy rầy hay bắt
chung tiền mãi lộ. T
Tiệm Phở mới rất đông khách vì sang
trọng hơn, nằm đối diện với Villa của một sĩ quan cao cấp, số 80 HTC.
Ông này cặp bồ với một cô đào cải lương nổi tiếng, khiến bà vợ Hoạn Thư
nổi cơn ghen tam bành làm ùm lên. Kéo theo đám để tử của ông đi đánh
ghen ì xèo. Nhân dịp này, báo chí Sài gòn tha hồ thêu dệt chuyện gia
đình của ông Quan Sáu, mà gốc gác to hơn cây cổ thụ trồng trong Dinh Độc
Lập, hay còn gọi là Phủ Đầu Rồng.
Giờ đây, ông đang hưởng tuổi già ở một
thành phố của Bắc Cali. Thỉnh thoảng ông ngồi tâm sự bên ly cà phê đắng
với các chiến hữu về thời quá khứ vàng son, tiền hô hậu ủng của mình ở
một Trung Tâm Thương Mại lớn của vùng này. Ông thở dài và nói “Bây giờ,
nếu có theo Trời Theo Phật thì “Qua” cũng không còn gì để tiếc nuối.
Riêng, cô đào cải lương vẫn còn ở Việt
Nam. Qua những năm tháng thăng trầm, bềnh bồng, ba chìm, bảy nổi, chín
cái lênh đênh vì nghiệp dĩ. Bây giờ, tuổi đời cô cũng đã ngoài bảy mươi.
May mắn, cô có cuộc sống ổn định và dư giả. Cô thường đi viếng các chùa
chiền, thăm các cô nhi viện, giúp đỡ các nghệ sĩ già neo đơn, khó khăn
không còn con cháu lo lắng, săn sóc. Lâu lâu cô cũng được mời thuyết
giảng về Căn Nghiệp và Nhân Quả ở đời.
Sau năm 1975. hai tiệm phở của Bà
Đ..không còn nữa ! Gia đình bà vẫn tiếp tục sống ở hẻm 82. Sáng sớm bà
và chồng hay đi lễ ở nhà thờ Tân Định. Trên tay lúc nào cũng lần xâu
chuỗi hạt màu đen.
Có một điều dân chúng trong vùng rất
ngạc nhiên! Một thời gian dài buôn bán ồn ào, đình đám, ì xèo và nổi
tiếng nhất Sài Gòn. Nhưng cả ba tiệm Phở vùng Yên Đổ, Tân Định không bị
chính quyền Phường, Quận và Thành Phố để mắt hỏi thăm sức khoẻ, hoặc bị
làm khó dễ. Nếu hôm nào có tổ chức hành quân cảnh sát đến xét “Môn Bài
Kinh Doanh” thì hôm đó cả ba tiệm hình như đã được báo động cùng treo
bảng xin cáo lỗi “Tiệm tạm đóng cửa vài ngày đề sửa sang. Khi nào mở lại
sẽ thông báo đến quý khách.”
Nhân dịp nghỉ giải lao bất đắc dĩ này.
Nhân viên không được phát lương. Vì quen ăn xài lớn, nên thiếu thốn,
phải đi mượn tiền với phân lời cắt cổ “xanh xít, đit đui.” Buồn chán,
nhàn rỗi không biết làm gì, nên ban ngày tụ họp lại giải trí cờ bạc như:
bài cào, tứ sắc, cắc tê, dì dách, cá ngựa. Tối đến cùng kéo nhau đi xem
đại nhạc hội, hát bộ, cải lương. Có vài nhân viên còn đi viếng núi Bà
Đen, núi Cấm, núi Châu Thới, núi Chứa Chan, núi Sam, núi Sập, hay miếu
Bà Chúa Xứ ở tận Châu Đốc để xin xăm, bói quẻ. Cầu mong Thánh Thần phù
hộ cho tiệm phở mau mở lại và đông khách hơn, để có tiền trả nợ, sắm
quần áo, mua phấn son, trả tiền mướn nhà và cung phụng cho đám giang hồ
bảo kê.
Chiến dịch hành quân chỉ làm chiếu lệ
cho lấy có. Vài hôm sau, cuộc bố ráp chấm dứt thì đâu cũng vào đấy! Ba
tiệm phở cùng hạ bảng tạm đóng cửa xuống, và tái khai trương trong tưng
bừng, rầm rộ nhằm gỡ gạc lại những ngày đóng cửa bị thất thu.
Sau hết, xin nói về một Villa lớn rất
đẹp với hoa, lá, cây, trái, hòn non bộ và nuôi nhiều chó. Đó là cơ ngơi
của ông Đội Có. Ông rất giàu gồm: nhiều đất đai, nhà cửa cho mướn. Các
bất động sản của ông nằm đối diện với chợ Phú Nhuận, mà bên cạnh có xe
nước mía nổi tiếng. Hẻm Đội Có mang tên ông đã có từ trước năm 1975. Hẻm
đi ra được đường Chi Lăng và ngược ra được xóm cầu Mới,Tân Định.
Có lúc là Billards A Đ, tên cháu gái
của ông. Cô là nữ sinh trường Marie Curie. Về sau dẹp Bida, mở cà phê
nhạc rất đắt khách, vì nhạc hay, mới nhất và dàn âm thanh sống
động. Hiện nay, Villa không còn nữa. Con cháu được hưởng quyền thừa kế
đã đem bán và chia phần. Villa này bị đập phá hoàn toàn và một công
trình xây dựng về Cứu Hoả đã được mọc lên.
Xin phép được dừng ở đây! Còn nhiều
chi tiết không thể nào nhớ hết! Xin bà con Tân Định và bất cứ ai có cảm
tình với con đường Yên Đổ thân yêu. Hãy vui lòng bổ túc đoạn đường còn
lại như: Xóm Lách có quán bán thức ăn chay chỉ bán vào ban đêm, xóm Bến
Tắm Ngựa, hẻm cư xá Kiến Thiết Công Lý có Phở Cô Lan, xóm Bắc Kỳ hẻm 288
có phở Bà Dậu chính hiệu 100%, không giá, không rau sống, không bột
ngọt và cũng không mở chi nhánh ở bất cứ đâu, kể cả ở nước ngoài. Hiện
nay do con trai bà tên Bình, tuổi Ất Dậu tiếp tục làm chủ. Mặc dù, Bà
Dậu tiêu diêu nơi miền tiên cảnh đã lâu, nhưng có rất nhiều tiệm Phở ở
hải ngoại đều quảng cáo trên các phương tiện truyền thông là phở của họ
là phở Bà Dậu chính gốc trước năm 1975, do chính tay bà Dậu chế biến
theo công thức gia truyền từ nhiều đời. Có lẽ các chủ nhân còn quyến
luyến dư âm ngày tháng cũ, hay vì danh tiếng của tiệm phở này?
Ngoài ra, còn kể thêm hẻm Hàng Không
Việt Nam mà đa số nhân viên làm cho Air Việt Nam hay Nha Căn Cứ Hàng
Không Tân Sơn Nhất cư ngụ, chùa Vĩnh Nghiêm nằm dưới chân cầu Công Lý,
gần trường Tiểu Học Sao Mai. Hai viện bào chế Vanco và TVT của Dược Sư
Trương Văn Chôm, Cảnh Sát Cuộc Đặng Văn Bắc, Cư Xá Yên Đổ, Trung Tâm Đắc
Lộ, Sở Mục Súc Đô Thành Sài gòn hay còn gọi là Sở Thú Y, số 254 Yên
Đổ – Quận 3.
Cứ mỗi buổi sáng cho xe đi bắt các chú
chó chạy rong ngoài đường. Tài xế lái xe rất chậm, rảo quanh các ngả
đường của thành phố. Đứng hai bên cửa tài xế là hai nhân viên tay cầm
cây thòng lọng. Mắt lúc nào cũng láo lia, láo lịa nhìn hai bên lề đường.
Khi thấy một em chó nào đang “Ôi ta buồn. Ta đi lang thang bởi vì đâu”,
hoặc đang chui rúc đầu trong thùng rác kiếm ăn. Nhanh như chớp, hai
chàng nhảy ngay xuống xe. Với thao tác chuyên nghiệp, thành thạo. Trong
tích tắc, em chó đã bị thòng lọng thắt vào cổ, không kịp la ú ớ, và
bị ném rất nhanh vào trong cũi sắt. Em được đem về Sở Thú Y nhốt tạm,
chờ chủ nhân đến đóng tiền chuộc và chích ngừa. Sau vài ngày không đến
chuộc thì các em sẽ được cho đi đầu thai kiếp khác.
Cuối cùng, là một ngôi chùa Miên nằm
dưới chân cầu Trương Minh Giảng nhìn ra phía đường Kỳ Đồng có Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế với hang đá lớn lộ thiên rất linh ứng, được nhiều bà
con không phân biệt tôn giáo đến cầu nguyện, xin được Ơn Trên ban phước
lành và phù trợ.
Xin chào đoạn đường Yên Đổ “Kỷ niệm Ấu
Thơ của tôi”. Bây giờ, nhiều người cũ một số đã đi vào miền miên viễn,
một số về quê hay lập nghiệp nơi phương trời khác. Thay vào đó là những
người hoàn toàn xa lạ dọn đến. Nhà cửa, hàng quán, các kiến trúc cũ đã
được xây dựng mới.
Một thời gian nữa, các dấu tích ngày xưa sẽ biến mất hẳn.Và tất cả chỉ còn đọng lại trong ký ức tuổi thơ mà thôi!
Trần Đình Phước
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Aug/2022 lúc 3:18pm
Một
thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một
số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu
hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn
thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho
đoạn đời "tiếng lóng" khác đến thay thế.
Do
đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian,
chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh
hành tiếng lóng "sức mấy" để thay nói bất lực
hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một
bài hát đường phố "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám".
Những
câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn thời chiến,
quê hương chiến tranh buồn phiền; "sức mấy" đã trở thành bút hiệu của
một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã
chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9
nốt "tính tính tè tè, tè ti tè ti té", làm cho đường phố càng náo
loạn hơn.
Trước
đó cũng từ bài ca "Diễm xưa" của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng
lóng "xưa
rồi Diễm ơi",
mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe không muốn nghe thêm
nữa.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà/Tour
Ivoire, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng
lóng "Cai gà", gọi cảnh sát là "mã tà", vì police (cảnh
sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành "mã
tà".
Cũng
từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như:
"gác-dang" tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra
thành gác-dang.
Cũng như nói "de
cái đít"
tức lùi xe en arrière; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: pour-boire âm
bồi gọi "tiền boa", sau này chế ra là "tiền bo".
Cũng
thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do.
Tỷ như gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là "con
cò", còn nếu gọi "ông cò" là chỉ cảnh sát
trưởng mấy quận ở thành phố, gọi "thầy cò"
tức là các ông chữa mor***e các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói "cò
mồi" là tay môi giới chạy việc, "ăn tiền cò"
thì cũng giống như "tiền bo", nhưng chữ này
chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời
kinh tế phát triển, đi xe auto gọi là đi "xế hộp",
đi xe ngựa gọi là đi "auto hí ", đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp
gọi là "xe điếc", đi nghỉ mát Cap Saint Jacques = Vũng Tàu gọi
là "đi Cấp".
Đi
khiêu vũ gọi là "đi bum", đi tán tỉnh chị em
gọi là đi "chim gái", đi ngắm chị em trên phố gọi là "đi
nghễ",
gọi chỉ vàng là "khoẻn", gọi quần là "quởn", gọi bộ quần áo
mới là "đồ día-vía".
Ði
chơi bài tứ sắc các bà gọi là "đi xòe", đi đánh chắn gọi là "múa
quạt", đi chơi bài mạt chược các ông gọi là "đi xoa", đi
uống bia gọi "đi nhậu", đi hớt tóc gọi đi
"húi
cua".
Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập
Sài Gòn, đó là "đi đầu dầu", tức các chàng trai ăn diện "đi nghễ"
với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng
chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là "hết sẩy", quê mùa chậm chạp gọi là "âm lịch",
hách dịch tự cao gọi là "chảnh".
Tiền
bạc gọi là "địa",
có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lão đa địa" có nghĩa
ông khách già đó lắm tiền,không
giữ lời hứa gọi là "xù", "xù tình", tức cặp bồ rồi tự bỏ
ngang. Làm tiền ai, gọi là "bắt địa", ăn cắp là
"chôm
chỉa",
tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm"
những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng "hia
mão", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như
gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một
lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang
phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ
nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế
vào ngay.
"Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để
đau đâu chữa đó.
Ðào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương",
kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng
lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn
báo chí, đó là "café à la... ghi " tức uống café thiếu ghi sổ...
Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi
"nhật trình".
Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa
đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu",
các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là "tin
chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét"
vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là "luộc bài",
chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài",
truyện tình cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu",
các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải".
Làng nhật trình kỵ
nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa",
nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin
thăm dò có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm
dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin
Cá tháng Tư".
Có
đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Ðó là "tịch", "hai
năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu
diêm chúa",
"đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ", "nhị tỳ"
thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh hưởng từ
ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời
điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành,
người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là "vòng
vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện
Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi".
Một
số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người
nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân
tử, đạo đức giả, gọi là "Ðoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa tình
có nhiều vợ bé...
Sài
Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn
ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo"
mà ra đời.
Thời
Mỹ đến thì một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la
để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó
lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu"
còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ "dân chơi
cầu 3 cẳng" thì thật không biết do đâu?
Có lẽ cầu 3 cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao
như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"?
Ðó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự",
"main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là
"xộ khám". Bỏ học gọi là "cúp cua",
bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng
gót".
Cũng do scandal chàng
nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy kia dẫn em dâu là ca sĩ Khánh Ngọc qua Nhà Bè ăn
chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở
thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng
có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức
"chôm đồ nhà", "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn
nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi".
Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích
le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng còn chất chứa
ân tình.
Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá
hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có
người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu
bu"
để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lý do không rõ
ràng để trốn việc.
Ðể tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc
Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung
của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là
"con rim", gọi tờ giấy 100 USD là "vé", đi ăn cơm bình dân
gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...
Lê Văn Sâm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Aug/2022 lúc 9:00am
HÁT BỘI VỀ LÀNG
Hôm đó, mới năm giờ chiều, cả xóm chợ
An Nhơn nghe tiếng trống chầu “thùng!… thùng!… thùng!…”. Cái trống chầu
để trước trường học, ngay đầu ngõ vô rạp hát An Nhơn. Bên cạnh có để mấy
tấm tranh, trong đó có một tấm vẽ hình hai ông kép đang đánh nhau, một
ông mặt đỏ cầm thương, ông kia mặt rằn có hàm râu quai nón đen hù, dễ
sợ, cầm đại đao.
Tiếng trống vừa trổi lên thì mấy đứa
con nít chạy u tới để coi đánh trống và coi mấy tấm hình hát bội, rồi
bàn nhau “về xin tiền má, tối nay đi coi hát!”
Ở nhà ông nội mấy con, cô Năm nghe
tiếng trống đã nôn nao, nấu cơm, ăn sớm. Cô Năm biểu ba chạy xuống nhà
cô Năm Xây để rủ cổ đi coi hát. Cô Năm Xây đồng ý liền. Ba trở về nhà đã
thấy cô Năm Thái, nhà ở phía bên kia đường, ngay đầu hẻm vô nhà ông nội
mấy con, đang qua rủ cô Năm mấy con đi coi hát! Ba chị em bạn này rất
thân nhau, thường rủ nhau đi ra Sài Gòn mua hàng, mua giày và chụp hình ở
Photo Mỹ Lai, đường Bonard, tức là đường Lê Lợi bây giờ. Ngộ cái là cả
ba cô đều thứ năm: Năm Nu, Năm Xây và Năm Thái.
Cái rạp hát An Nhơn này nhỏ xíu, nằm
chen giữa nhà dân, chỉ có ba căn, cột cây, lợp ngói, ở ngoài ngó vô
không thấy gì ra vẻ rạp hát. Chỉ có khác là mặt tiền có xây một cái
phòng bán giấy. Vậy mà hầu như tháng nào cũng có đoàn hát về, khi thì
hát bội, khi hát cải lương, khi hát xiệc, hát bóng.
Bữa đó nhằm tối thứ Bảy, ba được theo
cô Năm đi coi hát bội. Ba ưa coi hát bội lắm. Ba thích nhứt là nghe nhạc
hát bội, càng nghe càng thấy hay, vì mỗi cảnh đều có bản nhạc diễn tả
được tâm lý, tình cảm của nhơn vật đang diễn. Cảnh triều đình thì nhạc
trang nghiêm, cảnh mẹ già nhớ con thì nhạc êm dịu, nỉ non, cảnh chiến
trường thì nhạc dồn dập, phấn khởi, thúc giục, v.v… Nghe riết rồi quen,
rồi ghiền. Thiệt tình mà nói, ba coi hát bội là để nghe đờn ca, múa hát,
chớ họ la hét om sòm bằng chữ Nho, ba có hiểu gì đâu? Nhưng nhìn họ
biểu diễn bằng điệu bộ, sắc mặt, giọng nói thì biết được họ muốn gì.
Phùng mang, trợn mắt một hồi là có đánh nhau, chắc chắn! Tuy nghe không
rõ, không hiểu từng lời, nhưng ba cũng nắm được toàn bộ câu chuyện của
vở tuồng.
Tám giờ tối mới hát, nhưng mới bảy giờ
thì khu rạp hát đã rộn rịp rồi. Ngõ vô rạp hát là khoảng đất nằm giữa
trường học và Công Sở, có trồng một hàng cây sao cao lớn. Dọc theo tường
trường học và dài theo hàng sao, nhiều người đã dọn hàng ra bán. Hàng
để trên bàn thấp, thường là hột vịt lộn, khô mực, chuối nướng, chuối
sấy, mía ghim, chùm ruột muối, trái cóc, ổi, nước đá xi-rô, sữa đậu
nành, chè đậu xanh, bánh tráng nướng, bánh cam, bánh chài, đậu phộng
nấu, đậu phộng rang, v.v… Quan trọng nhứt là hàng cháo trắng hột vịt
muối và hàng cháo vịt. Người ăn lúm xúm ngồi trên những ghế thấp kiểu
“ghế ăn chè” để dọc theo mấy cái bàn cây thấp chủm. Trai trẻ quanh vùng
nhơn dịp này, dầu không coi hát cũng kéo nhau ra rạp hát chơi, ăn vặt,
nói chuyện với nhau rất vui vẻ.
Quang cảnh từ ngoài ngó vô coi cũng
hay hay: trên mỗi cái bàn đều có để một cái đèn dầu leo lét, hàng, quà
bày đủ màu sắc, người mua, kẻ bán nói chuyện xôn xao.
Trước rạp treo một cây đèn măng-sông
sáng choang, đang có nhiều người sắp hàng mua giấy. Ba chị em cô Năm đã
gom tiền đưa cho chị Năm Thái là người lớn hơn hết để mua giấy ngồi gần
nhau. Ba dòm tấm bảng ghi giá tiền, đọc được:
Cỡ nào là trẻ em? Tùy anh hay chị xét giấy định, cho nên thường xảy ra cãi cọ giữa người đi coi hát và người xét giấy.
Mua giấy rồi, bốn chị em đồng bước vô
rạp. Có một tấm màn lớn màu xanh dương che sân khấu. Trước tấm màn có
treo một cái đèn măng-sông soi sáng khắp cả rạp. Ba để ý thấy ghế thượng
hạng chỉ có 3 hàng, mỗi hàng 6 cái ghế gõ có lưng dựa, để ngay chính
giữa, gần sân khấu. Ghế hạng nhứt để tiếp theo sau ghế thượng hạng. Ghế
hạng nhì sắp ở hai bên. Ngoài ra là giàn, tức là những tấm ván dài đóng
từng bực từ thấp lên cao, sát vách và hai bên rạp.
Bốn chị em vô ngồi ghế hạng nhứt. Cô
Năm Thái nói “Mình con gái, phải nhường cho người lớn ngồi thượng hạng.
Mình ngồi thượng hạng người ta nói mình làm phách”.
Trong rạp người ta nói chuyện ồn ào,
trong lúc ở hậu trường ban nhạc trổi liên tục. Lại thêm mấy chị bán mía
ghim, đậu phộng vừa rao, vừa chen lấn nhau để mời mọc.
– “Leng keng! Leng keng!” Chuông rung ra hiệu sắp hát. Khán giả im bặt vài giây, rồi tiếp tục nói chuyện.
– “Leng keng! Leng keng!” “Mời mấy chị
bán mía ghim, đậu phộng ra ngoài. Mấy chị còn nán lại vài phút để ai
muốn mua thì lẹ lẹ lên!”
– “Leng keng! Leng keng!” Màn kéo lên.
Cảnh triều đình có ngai vàng, cột rồng đầy đủ. Ban cổ nhạc tấu một bài,
ba không biết bài gì, nghe hay quá.
Tiếp theo là ba hồi trống Long Phụng,
rồi vua chẫm rãi bước ra, điệu bộ rất oai vệ. Vua ngồi lên ngai, sửa vạt
áo cho ngay ngắn, vuốt chòm râu đen, quạt quạt mấy cái, rồi cất tiếng:
“Ngôi trời sửa trị “Trẫm, tước hiệu Minh Vương! …
– “Thùng!” Trống chầu đánh lên một tiếng để khen kép đóng vai vua.
Hát bội có cái ngộ là mỗi nhơn vật
bước ra sân khấu đều “xưng tên” để tự giới thiệu cho khán giả biết diễn
viên đang đóng vai trò nào trong vở tuồng.
Ba khoái nhứt là coi mấy ông tướng từ
trong cánh gà bước ra, tướng đi dũng mãnh, múa một đường thương, hoặc
đao, hoặc siêu, hòa theo tiếng nhạc rộn ràng, tiếng kèn tò le thúc giục,
rồi đứng trụ lại, dõng dạc xưng tên!
Cho tới anh hề đóng vai chủ quán, khi mở màn cũng tự giới thiệu:
“Như tôi nay cất quán cheo leo mé lộ “Để phòng khi chi độ bộ hành “Cha tôi xưa vốn thiệt Quán Manh “Tôi nối nghiệp, đặt tên là Quán Mỏng “Nhà không vách cũng không có chõng “Có mấy cái bàn để bán cheo leo “Khách bước vô đủ thấy tôi nghèo “Xin trả tiền mặt chớ đừng ăn chịu!
Trở lại tuồng hát bội. Lâu quá, ba không nhớ là tuồng gì, nhưng có thể tóm tắt sự tích như sau:
Dưới thời vua “Minh Vương”, trong nước
đang thái bình, thịnh trị. Bỗng có giặc phương Bắc xâm lăng. Vua sai
một tướng tài của triều đình cầm quân đánh giặc. Trong lúc quân, tướng
triều đình kéo ra biên ải thì ở trong triều bọn gian thần làm phản,
khiến vua phải bỏ kinh đô lánh nạn, được các trung thần xả thân hộ giá.
Đúng là “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”, nghĩa
là nhà nghèo mới biết con có hiếu, nước loạn mới biết tôi trung. Ở kinh
đô xảy ra nhiều cảnh nhiễu nhương: mẹ già trông con, vợ trông chồng,
bọn gian hùng được thế ức hiếp chúng dân … Nhưng rồi tướng triều đình
dẹp xong giặc, trở lại kinh đô, bắt bọn gian thần trị tội, rước Hoàng
Thượng hồi loan, nhân dân lại hoan ca thái bình như trước.
Chuyện chỉ có vậy mà người soạn tuồng sắp đặt rất hay, màn nào coi cũng không chán.
Ông nội mấy con ngồi nhà đọc sách,
nghe tiếng trống chầu đánh thưởng liền liền, biết là ban hát bội này hát
hay lắm. Đêm đó ông Hương Giáo cầm chầu. Hễ đào kép nào hát ông cho là
“khá”, ông đánh một tiếng “Thùng!” Ai hát hay, ông đánh hai tiếng
“Thùng!… Thùng!…” Gặp đào kép nào hát hoặc múa hay quá, hoặc lời văn hay
quá, ông đánh liền ba tiếng “Thùng!… Thùng!… Thùng!…” thì thường có vài
khán giả ngồi ở ghế thượng hạng hoặc hạng nhứt kẹp tiền vô cây quạt rồi
thảy lên sân khấu để thưởng. Có người trong cánh gà bước ra lượm quạt,
gom tiền thưởng, rồi trả quạt lại cho vị khán giả sành điệu. Nghe nói
đào kép hay có khi được thưởng tới hai đồng bạc một đêm.
Có một cái lệ của hát bội cũng hay
hay. Đó là khi tuồng hát gần kết cuộc, còn chừng ba bốn màn nữa, thì ban
hát “thả giàn”: cửa vô rạp mở rộng, ai muốn vô coi thì vô, khỏi mua
giấy. Khi thả giàn thì bọn thanh niên và trẻ con nãy giờ chơi lẩn quẩn
theo mấy hàng quà lại kéo vô đứng đầy rạp.
Vãn hát, mọi người lần lượt ra về. Một
số còn nán lại ăn cháo vịt, cháo trắng hột vịt muối, cháo trắng tôm
khô, củ kiệu. Anh bán quán trong tuồng hát cũng ra ăn cháo, ngồi chung
với anh kép chánh đóng vai tướng trung hồi nãy. Còn anh kép “Thừa Tướng”
ngồi ăn hột vịt lộn mà cái mặt cũng còn thấy ghét!
Ba theo mấy chị Năm đi thẳng về nhà, không ghé ăn cháo, vì trời đã khuya lắm rồi, ai nấy buồn ngủ quá chừng.
Ban hát bội này diễn tại rạp An Nhơn
bốn đêm rồi dọn đi. Sau bữa hát chót, bà con ở chợ An Nhơn xôn xao bàn
tán chuyện một cô gái trong làng lén bỏ nhà theo kép hát bội. Dưới bến
đò, bà Bảy bán trầu cau lại có chuyện nói với bà Ba bán cá:
– Chị Ba ơi! Chị có hay chuyện con Lành bỏ nhà đi theo kép hát bội không?
– Ối! Sáng nay ngoài chợ người ta đồn rùm, ai mà không hay. Mà con Lành là con nhà ai vậy hả chị?
– Con Lành nhà ở gần Bộng Dầu đó! Nó
mồ côi cha mẹ, ở với ông Hai Minh, kêu ông Hai bằng bác đó! Con nhỏ nhu
mì, dễ thương hết sức, ai dè lại trốn nhà, theo kép hát, hư thiệt là hư!
– Mà nó theo ai vậy chị Bảy?
– Nghe nói nó theo thằng Sửu.
– Thằng Sửu nào vậy chị?
– Cái thằng kép đóng vai Triệu Tử Long
đó! Tối, nó giồi phấn, vẽ mặt, bận quần áo hát bội vô, đội mão coi lịch
sự hết sức. Mà tiếng của nó tốt, múa hát cũng hay, không nói ra chớ
nhiều đứa con gái mê nó lắm! Còn con Lành nghe nói bốn đêm nó đi coi hát
đủ bốn.
– Chèn đéc ơi! Mà cái thằng kép Sửu gì đó, nó bao nhiêu tuổi, có vợ con chưa vậy hả chị Bảy?
– Ai mà biết! Mà thằng đó hả chị, ban
đêm coi nó lịch sự vậy, chớ sáng ra nó xấu hoắc hà, chị Ba ơi! Sáng bữa
nào tôi cũng thấy nó ra ăn cháo huyết của chú Keo, mặt mũi nó đen đúa,
lại bị lác đồng tiền trên cổ nữa, vậy mà con Lành mê cái nỗi gì không
biết nữa!
– Chị nhắc tới chú Keo. Mà chú Keo nấu
cháo huyết ngon quá hả chị? Có hai xu một tô mà có gan, có lòng, lại có
mấy miếng dầu chao quảy, để thêm mấy cọng gừng non, rắc tiêu, bỏ thêm
hành lá …
– Nghe chị nói mà tôi phát thèm!
Trong lúc bà Bảy, bà Ba nói chuyện thì
mấy bà, mấy chị đang chờ đò cũng bàn vô, mỗi người một câu về chuyện cô
Lành theo kép hát Sửu. Một bà già thở ra, ứ hự một cái, rồi nói:
“Trồng trầu thả lộn dây tiêu “Con theo hát bội, mẹ liều con hư!
Đò cặp bến, ai nấy lần lượt cắp thúng,
quảy gánh xuống đò. Trời xanh ngắt, nước trong leo lẻo, chiếc đò êm đềm
trôi qua phía An Lộc.
Coi hát bội quen rồi cũng ghiền lắm.
Nhà ở gần rạp hát nên ba thường được đi coi hát. Có những tuồng coi đi,
coi lại cũng còn hay, như mấy tuồng này:
– Trảm Trịnh Ân – Thần Nữ Dưng Ngũ Linh Kỳ – Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu – Tiêu Anh Phụng Loạn Trào – Ngọc Kỳ Lân Xuất Thế – v.v…
Lúc đó ba còn nhỏ xíu mà có những màn
hát bội làm ba nhớ hoài. Thí dụ như cảnh một ngưới con cõng mẹ chạy
giặc, băng qua một khu rừng. Bà mẹ khát nước, người con để mẹ ngồi trên
một tảng đá, chạy xuống suối để lấy nước. Bà mẹ đang ngồi ca, than thở,
thì trong bụi có cái đầu cọp ló ra, làm ba sợ quá! Rồi con cọp nhảy ra
vồ người mẹ, tha tuốt vô rừng sâu, làm ba sợ muốn khóc luôn! Hoặc cảnh
“Ngọc Kỳ Lân xuất thế”, pháo nổ một cái “đùng”, Ngọc Kỳ Lân miệng ngậm
pháo bông, múa may rất ngoạn mục!
Thường thì cảnh hai tướng đánh nhau,
đánh theo “quy ước” của hát bội, không phải đánh võ thiệt. Nhưng có lần
ông Tám Thưa, một thầy dạy nghề võ, đóng vai Quan Vân Trường. Ông Tám
Thưa hóa trang giống hệt hình “Ông” ba thấy thờ trong Chùa Ông. Ông Tám
cầm Thanh Long Đao, múa một đường siêu tuyệt vời. Ông “loan” siêu nghe
tiếng gió vù vù, tưởng như tên bắn cũng khó lọt vô mình ông được. Ai nấy
coi đều thán phục.
Nhắc tới ông Tám Thưa, ba lại nhớ tới
ông Bảy Phúc, nhà ở sau nhà ông nội mấy con, cũng là một thầy dạy
“nghề”. Năm 1945, những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ông Bảy tập
luyện võ nghệ cho đám thanh niên trong làng, thay vì chỉ tập đi “một!
hai!” như nhiều làng khác.
Nói chuyện về hát bội, ba lại nhớ tới
những buổi cúng đình. Có thể nói ở trong làng vui nhứt là mấy ngày Tết,
kế đó là những ngày cúng đình. Đình An Nhơn lúc đó tọa lạc dưới vòm cây
cổ thụ. Trước Đình có sân rộng, có trồng một hàng sao cây to, bóng mát.
Bên kia đường là một khoảng đất rộng, mùa mưa trồng lúa, mùa nắng trồng
thuốc lá hoặc đồ rẫy: bầu, bí, khổ qua, dưa leo, khoai mỡ, cà chua, cà
tím, v.v…
Rằm tháng Tám âm lịch là ngày cúng
đình. Trước đó, Ban Hội Tề cùng với vài vị tai mắt trong làng và Ban Trị
Sự Hội Đình đã nhóm họp, bàn việc cúng đình.
Người ta dựng trước sân đình một cái
“võ” rộng rãi, cột tre, lợp lá dừa nước, sân khấu đối diện với bàn thờ
Thần, cốt ý để Thần coi hát. Trước sân khấu có sắp ghế, hai bên có đóng
giàn, đủ chỗ ngồi cho vài trăm khán giả. Năm đó trúng mùa thuốc lá, tiền
quỹ của Đình còn dư khá, Đình rước hát bội tới hát ba ngày, ba đêm
liền.
Ngày đầu tiên là lễ “thỉnh Sắc”, tức
là thỉnh “sắc lịnh” của vua Tự Đức ban năm 1852, phong Thần cho “Thành
Hoàng bổn thổ”, có câu “ĐẠI CÀN QUỐC GIA NAM HẢI TỨ VỊ TÔN THẦN”, chứng
tỏ Đình An Nhơn thờ bốn vị thần. Thường ngày, Sắc vẫn
thờ ở Công Sở, tới ngày cúng mới thỉnh Sắc đưa về Đình. Sắc vua đựng
trong một cái hộp bằng gỗ trầm, đặt trên một cái kiệu sơn son thếp vàng,
hai thanh niên ăn mặc chỉnh tề khiêng xuống Đình. Có mấy vị hương chức
áo dài, khăn đóng đi theo “hộ Sắc”. Đoàn thỉnh Sắc đi chẫm rãi theo
tiếng trống và tiếng chiêng, cứ ba tiếng trống là ba tiếng chiêng tiếp
theo:
– “Thùng!… Thùng!… Thùng!…”
– “Beng!… Beng!… Beng!…”
Dân làng nghe tiếng chiêng, trống thì biết ngày mai cúng đình, ai ai cũng sắp đặt để đi cúng và coi hát bội luôn thể.
Theo bản Lý Lịch Di Tích Đình An Nhơn thì
Thần Đình An Nhơn là một bà Thái Hậu (mẹ đức vua) và ba vị công chúa
gốc ở Trung Hoa. Lúc giặc Nguyên chiếm đất Trung Hoa thì các vị này chạy
lạc đến biển Nam Hải vào năm 1276. Bốn vị này không chịu đầu hàng quân
giặc nên đồng nhảy xuống biển trầm mình tuẫn tiết. Từ biển Nam Hải, thi
thể bốn vị trôi lần qua bờ biển Bắc Trung Phần Việt Nam, cuối cùng tấp
vào xã Hưng Cần, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đồng bào cư ngụ tại đây
vớt bốn thi thể lên, quần áo còn đủ, chỉ mất một chiếc hài (giày), bèn
tâu báo với triều đình. Vua Trần Thánh Tôn phái Khâm Sai cử hành lễ an
táng rất trọng thể. Từ đó, hồn thiêng bốn vị hiển hách oai linh, nên
đồng bào lập đền thờ “Đức Thánh Mẫu”. Một chiếc hài trôi lạc vào làng
lân cận. Dân chúng nơi đó vớt hài lên và lập một đền thờ gọi là đền thờ
“Đức Thánh Mẫu Phủ Giày”. Từ đó địa phương này có tên là “Phủ Giày”.
Từ năm 1776 đến năm 1801, chúa Nguyễn
Phúc Ánh nhiều phen tẩu quốc, mượn con kinh tắt xã An Nhơn thoát nạn Tây
Sơn. Đến khi lên ngôi năm 1802, vua sai vị Tổng Trấn Gia Định thành là
Đại tướng Đoàn Hùng và Quận công Nguyễn Văn Trương đến lập đền thờ tại
An Nhơn Xã, nơi Đức Thánh Mẫu hiển linh. Sử tích của bốn vị thần này có
chép lại trên một tấm bảng sơn đỏ, chữ vàng, để trong chánh điện Đình,
và có in ra phát cho khách viếng Đình.
Tối hôm thỉnh Sắc, ban hát bội hát
“xây chầu”. Ba có đi coi xây chầu một lần, ba không hiểu cái gì hết,
nhưng nghe tiếng trống, tiếng đờn và kèn “tò le” cũng thích!
Ba ngày cúng đình vui lắm. Trước sân
đình, tràn qua bên kia đất rẫy, người ta bày bán đủ thứ quà vặt. Cũng
những món ăn bình dân như hột vịt lộn, khô mực, khô hố, rượu đế, rượu
thuốc, chuối nướng, chuối sấy, chuối chiên, mía ghim, chùm ruột muối,
mứt chùm ruột, mứt me, trái cóc, ổi, mận, nước đá xi-rô, xá xị “Con
nai”, chè đậu, bánh tráng nướng, bắp nướng, bắp nấu, đậu phộng nấu, đậu
phộng rang, v.v…, không thể kể hết. Người nhà luân phiên nhau bán suốt
ngày đêm vì hát bội cũng hát suốt ba ngày, ba đêm luôn.
Coi hát khỏi mua giấy, ai muốn vô coi
lúc nào cũng được. Còn ghế trống thì ngồi, chỉ chừa hai hàng ghế đầu cho
Ban Hội Tề và các vị nhân sĩ, hào phú trong làng. Hết ghế thì ngồi
giàn, giàn chật hết thì đứng. Coi tới đói bụng thì về ăn cơm rồi trở lại
coi tiếp. Người đi cúng đình, đi coi hát, tới lui nườm nượp. Cũng có
người bận việc, chỉ đi cúng, không coi hát. Có thể nói không có nhà nào
không đi cúng đình, vì ai cũng tin tưởng nhờ thần thánh phò hộ cho nên
làng An Nhơn được thanh bình, yên ổn, ai nấy lo làm, lo ăn, ít lo trộm
cướp.
Những vị chức sắc chia phiên nhau cầm
chầu suốt cả ba ngày đêm. Không có điện, không có mi-cờ-rô, nên đào kép
phải rán sức mà hát lớn, người cầm chầu phải thưởng chầu đúng lúc cho
đào kép họ vui.
Về việc cúng đình, từ Bắc chí Nam
nhiều sách vở đã tả kỹ, đầy đủ và hay lắm, nên ba chỉ nhắc sơ cho mấy
con biết qua một khía cạnh đặc sắc của phong tục Việt Nam.
Trở lại cái rạp hát An Nhơn. Ngoài hát
bội, đôi khi có đoàn hát cải lương về. Hát cải lương dễ hiểu hơn, ít
nói chữ Nho. Lại hay có những màn “mỹ thuật” đánh phép, phi thân bay lên
cao, hoặc đấu “boa-nha” (poignard), v.v… Hấp dẫn nhứt của hát cải lương
có lẽ là bài ca vọng cổ! Có thể nói không có vọng cổ thì không phải là
cải lương!
Ngoài hát bội và cải lương, lâu lâu
cũng có đoàn xiệc “Lạc Hồng” về An Nhơn diễn. Đoàn này có nhiều màn ảo
thuật rất hay. Diễn viên hầu hết là người Bắc. Ba và các bạn học của ba
ưa đi coi đoàn hát xiệc này lắm.
Rạp An Nhơn cũng có “hát bóng”. Lúc đó
An Nhơn chưa có điện, đoàn hát bóng này có máy đèn riêng. Chiếu phim
câm, vì thời đó chưa có “hát bóng nói”, cũng chưa có phim màu. Nhơn vật
trong phim đi cà giựt, cà giựt. Phim câm, nhưng có tiếng động như tiếng
kèn xe hơi, tiếng xe lửa chạy xình xịt, Tây kêu là “cinéma sonore”, tức
là hát bóng có âm thanh lồng vô. Cái đoàn hát bóng này nghèo quá! Chỉ có
hai ba phim chiếu đi, chiếu lại. Mỗi lần tới An Nhơn hát chừng hai ba
đêm, kiếm một mớ bạc cắc, rồi dọn đi êm!
Đặc biệt, có lần Đoàn Xiệc thú Tạ Duy
Hiển về dựng lều ở miếng đất trống, chỗ cái đồn đất gần Gò Vắp ngó qua.
Đoàn Tạ Duy Hiển này có những màn diễn thú với ngựa, voi, gấu, cọp, khỉ
thật là đặc sắc. Tới màn cọp nhảy vòng lửa thì có kéo rào sắt ngăn cách
chỗ thú biểu diễn và khán giả. Ông Tạ Duy Hiển mặc áo dài gấm, đội khăn
đóng màu vàng, cầm roi điều khiển cho ba con cọp vừa gầm gừ, vừa nhảy
qua vòng lửa cháy rực. Lại có những màn “đu bay” trên cao xem thật rùng
rợn.
Người Việt Nam mình cũng ngộ, không có
môn nào mà mình không học được, và làm được, chẳng kém các nước khác.
Chỉ tiếc là mình nghèo quá, khó tranh đua với người …
Tiền Vĩnh Lạc
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Aug/2022 lúc 8:58am
https://www.youtube.com/watch?v=XJDTReEVdeU - Những Chiếc "XÍCH LÔ ĐẠP" Ngày Ấy | https://www.youtube.com/watch?v=XJDTReEVdeU - Một Nét Đẹp Riêng
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Aug/2022 lúc 3:04pm
Song Thao
1 -
Gỏi Đu Đủ :
Tôi bị gỏi đu đủ bò khô nắm cẳng, cho tới bây giờ. Đĩa đu đủ bò khô đầu
tiên tôi ăn là ở cổng trường Dũng Lạc, bên hông Nhà Thờ Lớn Hà Nội,
khoảng đầu thập niên 1950.
Ngày đó trước cửa trường có nhiều hàng quà vặt, điểm đặc biệt là hầu hết
người bán là đàn ông.
Ừ thì là trường con trai nhưng sao người bán lại cùng dòng giống, chuyện cho tới nay tôi vẫn cứ thắc mắc.
Ông nào cũng có tên không phải do cha mẹ các ông ấy đặt.
Bánh mì giò chả có ông Lý Toét, ông Đại Quấy bán cái chi chi tôi quên béng mất.
Nhưng ông được tôi mến mộ nhất, ngày nào cũng dúi cho ông ấy ít tiền là ông bán món đu đủ bò khô thì lại không có tên.
Tay ông cầm cái kéo cắt thịt bò dập tanh tách không ngừng, như một cách rao hàng.
Khi có khách, hai tay đó cầm hai chai, một nước tương đen đen, một dấm
trắng có pha chút ớt hồng hồng xịt lia lịa xuống chiếc đĩa nhôm đu đủ bò
khô có vương chút rau thơm rau răm xanh xanh trên mặt. Chỉ nhìn hai
cánh tay khua khua đã thấy nước bọt túa ra đầy miệng.
Tôi đã chết mệt với món đu đủ bò khô từ những ngày non dại đó.
Cho tới ngày nay tôi vẫn…non dại.
Vẫn mê món đu đủ bò khô. Vào nhà hàng nào có bán là tôi ít khi bỏ qua.
“Bệnh” này bắt nguồn từ những ngày Hà Nội nhưng nặng thêm từ khi di cư
vào Sài Gòn, khi nếm mùi gỏi đu đủ của ông già áo đen trước cửa tiệm
nước mía Viễn Đông nơi góc đường Lê Lợi và Pasteur.
Thời sinh viên, đậu chiếc xe Goebel hai màu vàng và cam bên lề, anh
chàng tuổi trẻ ngày đó nhào vào hàng ông già áo đen, bưng chiếc đĩa nhôm
ra ngồi trên yên xe đắm đuối với cái vị mằn mặn, chua chua, cay cay,
nồng nồng không thể có trong các món ăn khác.
Đĩa gọi đĩa, thường phải ít nhất hai đĩa mới dứt áo ra đi được. Có những
ngày nặng túi, hai đĩa còn chưa ra đâu vào đâu, hai đĩa tiếp nữa
mới…đủ. Còn tiếc rẻ húp hết nước trong đĩa. Báo hại bữa cơm chiều đó sao
thờ ơ uể oải khiến bà già đưa mắt dò hỏi.
Anh bạn trẻ tuổi Phạm Công Luận, quen trên giấy bút nhưng chưa bao giờ giáp mặt, nhắc nhớ tới ông già áo đen của thời đó.
“Những anh chị tôi, lứa tuổi nay đã bước vào tuổi 60, 70 rất quen thuộc
với hàng bò khô, nay gọi là gỏi khô bò của ông già áo đen bán trên đường
Pasteur.
Họ vẫn nhớ những buổi chiều chưa tắt nắng của Sài Gòn nửa thế kỷ trước,
tan trường Sư Phạm, trường Luật là phóng xe ra ngay góc ngã tư Lê Lợi –
Pasteur, ngồi trên xe gọi mấy đĩa khô bò đu đủ cùng một lúc.
Từ xa đã thấy bóng ông chủ xe khô bò, luôn luôn bận áo đen nên chết tên.
Phải canh làm sao để ăn được gỏi khô bò của “ông già chemise noire” hay
“ông già áo đen” này dù khu đó có tới bốn người bán gỏi khô bò đu đủ
bào. Không mấy ai biết tên gì, chỉ gọi biệt danh như vậy”.
Món khô bò đu đủ bào ngon như thế nào phải nghe ông tổ sư ẩm thực Vũ Bằng tán :
“Có ai một chiều nào nhàn tản trên con đường Pasteur, ở ngã ba Lê Lợi,
có thấy hàng toán người tề tựu ở trước chùa Chà như dự một cuộc mết tinh
vĩ đại? Không, họ không phản đối gì hết mà cũng chẳng yêu cầu gì hết.
Khẩu hiệu của họ căng lên ở trong lòng: họ ăn, họ uống, và uống và ăn để
làm thỏa mãn cái dạ dầy nhiều đòi hỏi. Có người đứng ăn; có người ngồi
ghế ăn; có người ngồi ở xe máy dầu gác chân lên hè để ăn; có người ngồi
xổm trên hè để ăn; lại có người hãm xe hơi lại, thò đầu ra ngoài kêu ăn.
Họ ăn gì vậy? Ăn bánh tôm; ăn bì bún; ăn bánh mì phá lấu; ăn ốc; ăn
bánh canh giò heo; nhưng muốn gì thì gì, món được người ta thưởng thức
nhiều nhất, nồng nhiệt nhất và thành tín nhất vẫn là món đu đủ bào, rưới
rất nhiều giấm ớt lên trên. Ở cái đất quanh năm nắng chói như đây, tạng
người ta nhiệt lắm, lòng lúc nào cũng cứ xót như cào: ăn cái món ấy vào
mát ruột. Các ông ưa quá, mà các bà các cô lại ưa hơn; ăn một đĩa rồi
lại muốn ăn đĩa thứ hai, thứ ba…thứ sáu. Chính tôi đã thấy có một bà ăn
chơi sơ sơ một lúc sáu đĩa như thế rồi xuýt xuýt xoa xoa, chảy cả nước
mắt nước mũi mà có vẻ như vẫn còn thèm ăn nữa. Ờ, cái món đu đủ bào trộn
giấm ớt đó là gì vậy? Thưa, đó là khô bò. Đu đủ bào, trên đặt mấy miếng
khô bò, tưới giấm ớt rồi rắc mấy lá ngò lên trên đó, chỉ giản dị có thế
thôi, vậy mà ăn vào…phải biết! Ngon chết người đi được!”.
Cái món ngon chết người đi được này là món ta hay món tầu, nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi.
Tác giả Lưu Khâm Hưng có vợ người Tàu thắc mắc. Ông cũng nghĩ đây không
phải là món của người Hoa nên hỏi vợ cho chắc ăn. Ai ngờ bà vợ trả lời
tỉnh queo:
“Hồi đó đi học ăn hoài, dường như món này của người Tàu. Mấy xe bán gỏi
đu đủ khô bò ở Chợ Lớn đều do mấy ông Tiều bán. Bởi vậy ăn gỏi khô bò
đâu có chan nước mắm mà là chan nước tương pha giấm ớt”.
Thiệt hôn? Cái món làm say đắm nhiều người Việt này là một món ngoại lai sao?
Tác giả Minh Lê trong bài “Gỏi Khô Bò” đã cất công tìm kiếm.
Theo ông, thành phần chính của món ăn hớp hồn này là đu đủ và bò.
Đu đủ có gốc ở châu Mỹ, được mang sang trồng tại châu Á từ đầu thế kỷ 19.
Trong từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhode, xuất bản năm 1651, chưa
có từ đu đủ. Nhưng trong cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của,
xuất bản năm 1895, từ “đu đủ” đã có ở trang 327, chứng tỏ khi đó đu đủ
đã khá phổ biến ở Việt Nam.
Về thịt bò, dân Việt chuộng nuôi trâu hơn nuôi bò. Nhưng tới năm 1915,
cụ Phan Kế Bính đã liệt kê trong cuốn “Việt Nam Phong Tục”:
“Về thứ đồ ăn thì nhất là hay dùng những thịt trâu, bò, dê, lợn, gà
,vịt, chim, ếch, tôm, cá, cua, ốc..v..v..mà thịt lợn là thứ cần dùng hơn
hết”.
Tác giả Minh Lê viết:
“Vậy vào thời điểm cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, điều kiện “cần và
đủ” cho gỏi khô bò đã có, chuyện còn lại là khoảng năm nào và có ở đâu
trước?
Nói về miền Bắc, tôi “chộp” được câu này:
“Hà Nội 1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi…bây giờ phố xá Hà Nội có
những món ngon mới, như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và giấm,
“lạp chín chương”, ăn vào thấy đủ vị cay chua mặn chát.
Tác giả Nguyễn Duy Hảo, bút hiệu Ba Lăng, ăn gỏi khô bò từ 1948:
“Thú thật là tôi không được biết rõ món đu đủ bò khô có từ bao giờ và
nguồn gốc của nó cũng như do ai sáng chế ra món ăn đáng nhớ này. Riêng
cá nhân tôi đã được thưởng thức món quà đặc biệt này từ năm 1948 tại
cổng trường tiểu học Hàng Than Hà-Nội”.
Khô bò có cách chế biến giống với món phá lấu chiên của người Tiều nhưng
người Tiều ăn phá lấu với cơm chứ không làm gỏi đu đủ. Ngoài khô bò, xì
dầu là dấu ấn của người Hoa. Nhưng đu đủ bào và đậu phọng lại tương tự
như món tam maak hung của người Lào và món som tam của người Thái. Không
biết có nên kết luận là một người Việt nào đó đã kết hợp hài hòa các
món trên để chế ra món gỏi đu đủ khô bò thần sầu mà tôi là một đệ tử
không.
Tôi đã một phen thất vọng với món som tam của Thái Lan. Trong một lần
tới Bangkok vào cuối năm 2019, trước khi có dịch covid, tôi đã háo hức
thử món gỏi đu đủ phổ biến của Thái Lan. Tới Thái Lan mà không thưởng
thức som tam, một di sản văn hóa ẩm thực của đất nước hiền hòa này là
một thiếu sót to lớn. Món này được bán khắp các nhà hàng và xe bán rong
tại Bangkok. Tôi order và thích thú chờ đợi. Cô hàng khá xinh bắt đầu
chế biến. Nhìn mà chóng mặt với cái tay thoăn thoắt vứt nguyên liệu vào
một chiếc cối. Đu đủ xanh, đậu đũa, xoài xanh, cóc Thái, cà chua, chanh,
nước mắm, đậu phọng, tỏi, tôm khô, đường thốt nốt và ớt. Hình như có cả
ba khía nữa. Đĩa gỏi được tôi khới khới cố ăn vài miếng rồi chịu thua.
Cay xé lưỡi, cũng chua chua, chát chát, mặn mặn, ngọt ngọt nhưng đó là
một thứ hầm bà lằng giã nát trong cối. Nhìn đĩa gỏi dở dang mà không dám
nói năng chi. Lỗi tại tôi không biết tiếng Thái. Nếu biết som có nghĩa
là chua và tum có nghĩa là giã thì tôi đã không tốn vài chục baht!
Som tum là một hóa thân tồi của gỏi đu đủ khô bò của ta. Cái miệng đã
nếm qua gỏi khô bò sẽ không bao giờ rời được cái vị chua chua, cay,
ngọt, mằn mặn bùi bùi của món ăn đường phố hấp dẫn này.
Vét hết những sợi đu đủ, nhai xong những miếng khô bò nho nhỏ, người
sành điệu phải húp cho bằng hết phần nước còn sót lại. Đây là một hậu
vị, kết thúc hoàn chỉnh một thức ăn làm mê mệt những cái miệng sành sỏi.
Tôi bao giờ cũng dành miếng gan nướng sém cạnh bùi, béo, cho những miếng cuối cùng.
Chính miếng gan này đã gọi đĩa thứ hai, rồi thứ ba, thứ...
Hình như đã lậm món ăn dân dã nhưng ngon chết người này thì chẳng bao giờ có thể rời xa được.
Không lẽ lại ví cái nghiện gỏi đu đủ khô bò này với mấy ông hít tô phe
ôm ấp nàng tiên nâu nhưng tôi e rằng cả hai đều chung một quyến rũ.
Phạm Công Luận, người tương đối trẻ, sống thời nay nhưng miệt mài đi tìm
những dấu vết xưa của Sài Gòn đã có duyên gặp được anh Nguyễn văn
Tuynh, con trai của ông già áo đen.
Anh Tuynh, người phụ cha bán đu đủ bò khô suốt 9 năm trước khi đi quân dịch, nhớ lại:
Sài Gòn thời ấy không có nhiều hàng quán cầu kỳ như bây giờ. Không chỉ
giới bình dân, giới có học không câu nệ phải ăn hàng quán sang trọng mắc
tiền.
Do đó các xe bán hàng ăn trên lề đường rất đông khách, có đủ cả sinh viên, thầy cô giáo, tiểu thương, công tư chức và quân nhân.
Anh Tuynh tiết lộ cách làm khô bò của ông già áo đen:
“Nhà tôi làm khô bằng lá lách bò, thịt thì bằng thịt ở má bò vì má bò có
gân nên vừa mềm vừa dai, khi chín tới ăn rất thơm ngon. Lá lách bò dài
như miếng gan heo, luộc chín, khứa từng khứa để khi xào nấu thì gia vị
thấm vào bên trong mới ngon. Xong đem xào với sả, ngũ vị hương, muối,
đường, gừng (để khử mùi nồng của lá lách bò) rồi đổ nước vào cho ngập
mặt, đun hơn một giờ cho sệt lại. Sau đó vớt ra cho vào chảo chiên. Qua
ba công đoạn luộc, xào rồi lại chiên nên mới có miếng sém cạnh, vừa bùi
vừa giòn, ngon vô cùng”.
2 - Nước mía Viễn Đông:
Khu nước mía Viễn Đông thời của chúng tôi là một khu ăn hàng số một ở
Sài Gòn. Ngày đó chúng tôi tấp vào ăn, thấy có đủ các…bộ môn: gỏi khô
bò, hủ tiếu, bò viên, bánh cuốn, bò bía, phá lấu.
Người bán tấp nập, người ăn cũng tấp nập. Thấy khu bán hàng quà vặt này
đông vui, chẳng ai trong chúng tôi thắc mắc. Nhưng nay anh Tuynh cho
biết chính cha anh, ông già áo đen bán gỏi bò khô là người đứng ra tổ
chức khu ăn uống nhộn nhịp được đặt tên không chính thức là “bến nước
mía Viễn Đông”.
Bến nằm trên đường Pasteur, khúc từ đường Tôn Thất Đạm đến Lê Lợi. Cha
anh Tuynh đã từng dừng xe bán ở trường Chu văn An, góc đường Lê Thánh
Tôn và Tạ Thu Thâu quanh chợ Bến Thành và đều bị đuổi chạy trối chết.
Khi ông tới bán ở góc đường Pasteur và Lê Lợi, xế cửa hàng nước mía Viễn Đông, cảnh sát ở bót Lê văn Ken cũng đuổi.
Sau khi bàn bạc với các bạn hàng cùng bán tại địa điểm này, ông đến bót
Lê văn Ken xin thành lập một “bến” tập trung buôn bán, đóng thuế đàng
hoàng.
Ông sẽ là người thu thuế nộp lại cho cảnh sát. Vậy là khu ăn hàng của Sài Gòn thành hình.
Có bốn người bán gỏi bò khô, tất cả đều là dân di cư. Ngoài ông già áo
đen, còn có các ông Thung, ông Chiếu và ông Dần. Tôi luôn luôn là khách
trung thành của ông già áo đen, chưa bao giờ biết các ông khác. Ông bác
sĩ Lê văn Lân ngày đó có một bài thơ về “bến” Viễn Đông mang tên “Quà
Rong” được nhiều người biết.
Người đi trăm nhớ ngàn mong
Người về còn nhớ quà rong năm nào
Đầu đường nghe thoáng lời rao
Là tha hồ biết quà nào rẻ ngon
Dăm bông, thịt nguội, mì giòn
Hai đồng một ổ bà con mua giùm
Anh ơi, nước mía Viễn Đông
Hai ly chưa đã, mát lòng em luôn
Thêm đĩa bò bía chấm tương
Ăn kèm phá lấu, em thương anh nhiều
Ốc sò, muối ớt, chanh tiêu
La ve, củ kiệu càng nghèo càng ham
Cóc chua, tầm ruột, ổi dầm
Thua gì xoài tượng, mới dầm đã chua.
Bài thơ đã ghi lại một thời Sài Gòn nhộn nhịp ăn uống xôn xao. Có điều
tại Bến Viễn Đông có tới bốn ông bán gỏi bò khô mà ông bác sĩ không nhắc
tới món này. Thiệt là một người đãng trí!
Tôi phải nói thêm là, những ngày hoa mộng đó, chúng tôi thường không bỏ
về sau khi vét hết vài đĩa gỏi bò khô mà còn một chuyện luôn luôn chẳng
bao giờ đãng trí. Đó là phải xếp hàng uống bằng được một ly nước mía
Viễn Đông. Ly nước mía mát lạnh, vắt thêm trái tắc, uống vào tới đâu
biết tới đó. Đó là một kết thúc hoàn hảo cho một buổi rong chơi với quà
rong.
Tôi muốn kết thúc bằng một tiết lộ nho nhỏ.
Bà chủ nước mía Viễn Đông hiện sống ở thành phố Montréal chúng tôi.
Tôi có gặp bà một lần, chưa tiện hỏi về cửa hàng nước mía huyền thoại ngày đó thì mất liên lạc với bà.
Thiệt đáng tiếc! Tiếc như gan ruột cồn cào khi nhớ lại những ngày hoa mộng đẹp đẽ đó.
Song Thao
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Aug/2022 lúc 9:27am
http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2022/08/nhung-ky-uc-ve-cuoc-song-sai-gon-xua.html - Những Ký Ưc Về Cuộc Sống Sài Gòn Xưa Trước 75: Cho Tôi Lại Ngày Nào…
Trước 1975 tại
Sài Gòn (Và chắc chắn là tại cả miền Nam), nếu tôi nhớ không nhầm, tất cả
các loại xe hơi đều bị bắt buộc phải phết sơn màu vàng lên 1/3 phía trên của
mặt kính 2 đèn trước, với dụng ý ngăn các bác tài khi pha đèn ban đêm sẽ làm
bớt chói mắt người hay xe chạy ngược chiều. Lại nữa, nơi các ngã tư gần mọi
bệnh viện đều có treo bảng “Cấm nhấn còi” để giúp các bệnh nhân ở đó được nghỉ
ngơi thực sự. Rồi các xe đỗ trên các phố cũng đều phải tuân theo bảng “Ngày
chẵn lẻ”.
Tất cả xe taxi – Lúc đó là loại 4 chevaux – đều sơn tuyền một màu xanh hoặc nửa
vàng nửa xanh, nhằm giúp khách nhận biết từ xa để gọi mà không nhầm với mọi thứ
xe chạy “dù” khác. Của đáng tội, thời ấy còn lạc hậu, tôi còn nhớ mỗi khi ngồi
trong xe mà muốn mở cửa bước xuống, thì người ta đã không tìm thấy tay nắm đâu
cả mà phải cầm vào một sợi dây thép căng hết bề ngang cánh cửa để kéo thật
mạnh. Ấy thế mà những chiếc taxi cũ kỹ ấy vẫn đã làm nên một phần chân dung Sài
Gòn thuở ấy. Chúng phải có phần đèn hộp bắt chết trên mui xe, mà về đêm, hộp đó
sẽ sáng lên.
Xe buýt cũng phải sơn một màu đặc trưng để dễ phân biệt với các loại xe đò chạy
tuyến dài. Ví dụ như khi đó, tại gần khu Bà Quẹo, vẫn có bến xe buýt vàng (Gọi
là tô-buýt vàng) mà nếu muốn cầm lái, tức là khi họ rong ruổi mà ngồi sau lưng
họ sẽ là sinh mệnh của mấy chục người vô tội, các bác tài phải trải qua bao
nhiêu năm mướt mồ hôi mới giật được bằng chuyên dụng. Từ 18 – 20, anh đã có thể
học và thi lấy bằng xe 4 chỗ; sau đó vài ba năm, mới lên được một hạng, rồi cày
vô-lăng thêm vài năm nữa, mới cho sờ tới xe tải nhẹ dưới 1 tấn, lại phải thêm
vài niên, mới đủ sức lên xe tải lớn hơn chứ chưa nói là cho phép lái xe chở
khách. Còn muốn lấy dấu “khửa” để lái xe đò thứ thật, tài xế ít nhất cũng đã
trên dưới 40, tức là vào độ tuổi hết “máu” mất rồi, chả còn mấy hứng thú gì
trong chuyện nhấn ga vượt ẩu.
Chuyện đó cũng rõ ràng hệt như chuyện nơi các ngã tư, mọi loại xe đều phải dừng
sau “đường đinh”, là phần kẻ vạch sơn trắng dành cho người đi bộ. Anh cứ thử đỗ
sai làn, hay vượt vạch kẻ xem?
Ngày ấy, người ta còn nhớ vẫn có cụm từ “Nhà thuốc gác” để chỉ các pharmacie
bán thường trực, khác với “nhà thuốc Tây” chỉ mở cửa vào một số giờ cố định
trong ngày và dù là “gác” hay không, trước tiệm nào cũng phải có một hộp đèn
vuông có in hình một chữ thập treo lồi hẳn ra ngoài mặt tiền – Chữ thập này
không nhất thiết phải nguyên màu sơn đỏ khi đèn tắt, mà có thể là màu xanh lá
cây sẫm nữa, nhưng dứt khoát khi thành phố lên đèn, từng hộp đèn mang ký hiệu
quy định ấy cũng phải sáng lên, cho khách đi từ xa biết chỗ mà tìm tới. Tôi
nhớ, khi ấy gần như tất cả đều là nhà thuốc tư, mà hình như tiệm nào cũng đều
có cửa sắt kéo cả. Còn tiệm nào bán thuốc Bắc thì đều có chữ “Đường” ở cuối tên
(Vĩnh Sanh Đường, Thiên Hòa Đường, Thông Tán Đường, Tín Nhân Đường) rất đặc
trưng kiểu người Hoa như trong các phim quyền cước, với các ô ngăn kéo đựng
thuốc đã sấy khô nằm sau quầy, từ sát đất chất lên tới trần nhà, còn trên mặt
quầy thì nào là cân, là bàn dao cầu, là các vuông giấy dầu hay giấy bản màu
vàng có in sẵn chữ Nho trên đó. Nó cũng đặc trưng như khi người ta đi trên phố,
thấy nhà nào có treo trước cửa kính của mình một cái ống đèn hình trụ đứng với
hai màu trắng đỏ, mà khi cắm điện vào, thấy các vạch hai màu ấy quay theo hình
trôn ốc vĩnh cửu, là biết nhà ấy mở tiệm uốn tóc cho phái đẹp.
Người ta khi rủ nhau mở tiệm vàng là phải có chữ “Kim” đứng đằng trước tên tiệm
(Kim Hưng, Kim Xuyến, Kim Hoàng, Kim Thẩm, Kim Ngân, Kim Hoa…) giống như mở
tiệm vải là phải có chữ “Tân” (Tân Hòa, Tân Hương, Tân Mỹ…) hoặc các tiệm hủ
tíu mì, qua mấy chục năm đánh chết cũng phải có chữ “Ký” ở đuôi (Phát Ký, Huỳnh
Ký, Sanh Ký, Nguyên Ký…) trước khi kết bằng hai từ “Mì gia” mà nếu gọi đủ, phải
là “X ký mì gia” gì đấy thì nghe mới ra mùi Trú khách.
Những cái tên làm người ta nhớ nôn nao, như Trưng Vương hay Gia Long là giúp
nghĩ ngay tới những tà áo dài trắng (và tím) tinh khôi trước mọi cổng trường nữ
sinh. Như Võ Trường Toản hay Pétrus Ký là quần xanh áo trắng quanh các cánh
cổng thép nan hoa, che từng khuôn viên mấy trường nam sinh luôn rợp bóng phượng
đỏ ối cả mùa Hè. Còn Colette hay Saint-Exupéry là phải nhớ ra, các bức tường
dài quét vôi màu đỏ không thể lẫn vào đâu được của mấy ngôi trường Tây chắc
chắn là dành cho con nhà giàu, mà số thầy cô người Pháp dạy ở đó chiếm đến một
nửa. Họ sống ở mấy tòa nhà sơn màu cà-phê sữa thanh nhã, mặt tiền có kẻ ô, cao
4-5 tầng, gọi là “khu chuyên gia” nằm quanh khu sân quần trên đường Bà Huyện
Thanh Quan, gần ngã tư Phan Đình Phùng thuở ấy.
Kỷ niệm với bản thân tôi ở trường Saint Ex là thầy Alain Pesqué cao
tới 1,85m, rất đẹp trai, dạy Math Moderne ngày xưa, tức là dạy Tân Toán học,
khác với Math Cl***ique, là Toán Cổ điển. Còn là thầy Albert Moreau dạy Sử Địa
thế giới (Khi đó học sinh học cả Sử Địa Việt Nam, do thầy cô người Việt dạy, và
Sử Địa năm châu do thầy người Pháp dạy), ông có biệt tài xuất chúng là không
cần dùng compas, mà vẽ Quả đất bằng phấn ngay trên bảng, trăm cái đều tròn xoe như
nhau hệt đúc khuôn. Còn là thầy Jean Baud chỉ cao có 1,68m mà tát rất đau, khi
học trò quên vở Science Naturelle (Vạn vật học). Còn là cô Stéphanie Meyer dạy
Français cũng khẻ tay đau điếng người khi trò không thuộc bài, trong khi phía
Văn chương Việt lại có một cô giáo khác. Phải đi qua tất cả những thầy cô ấy
tại Saint Exupéry suốt 2 năm 6ème hay 5ème trước khi sang Marie Curie, vào
4ème.
Ký ức không hề mờ nhạt nơi những gì chính mình biết, hoặc chỉ biết loáng thoáng
nơi các trường Tây khác, dù chính cống hay chỉ “giả cầy”, như Fraternité (Gọi
là trường Bác Ái) trên đường An Dương Vương ngày đó, như Aurore (Rạng Đông) mà
tôi đi hết tiểu học trên phố Phan Đình Phùng, như Couvent Des Oiseaux hay Jean
Jacques Rousseau. Ký ức càng không mờ nhạt đi khi mình đi qua thời tiểu học vào
những năm 1950 – 1960, học chung với hai anh em nhà Tạ Thạch và Tạ Thái, con
ông Tạ Ký lúc đó là thầy giáo dạy Toán tại trường Pétrus Ký, mà cũng là một nhà
thơ, cùng trong làng cầm bút và là bạn với bố tôi. Nếu để đo về độ khá giả của
gia đình bạn bè học cùng trường, tôi sẽ không quên mất Lê Thị Đạt, vẽ rất đẹp
mà học cũng rất giỏi, con bà chủ tiệm bánh mì Hà Nội nức tiếng phố Nguyễn Thiện
Thuật; hay Trần Thu Trang, con bà chủ tiệm bánh mứt Bảo Hiên Rồng Vàng khét
tiếng nơi phố Gia Long – Cửa Bắc.
Những kỷ niệm ấy đến giờ vẫn nồng nàn như tên các rạp hát, cứ nhớ đến Rex là
phải nhớ Omar Sharif, Julie Christie hay Géraldine Chaplin trong Docteur Zhivago;
nhớ tới Eden là nhớ Đại Sát Tinh với Vương Vũ, Tiêu Dao và Điền Phong; nhớ Việt
Long là nhớ Django không cầu nguyện của Franco Nero; hay nhớ Victorama Quốc
tế là nhớ Liz Taylor, Richard Burton cùng Rex Harrison trong Cléopâtre. Nhớ
từng lần ngồi xe taxi cùng ông bô mình ra khu trung tâm, ăn bò kho ở tiệm bà
Phạm Thị Trước hay nhai nhồm nhoàm bánh pâté-chaud ở nhà hàng Xinh
Xinh, rồi khi lớn hơn, chạy xe đạp ra phố Lê Lợi, ngồi chơi cùng thằng bạn
nghèo để bán giúp nó từng tờ nhạc Tinh Hoa Miền Nam hay từng quyển nhạc in ronéo lem
nhem, bày trên cái sạp bằng tre gấp, dựng trước cửa rạp Mini Rex hay trước cửa
tiệm bán đồ lưu niệm Vân Anh khét tiếng thuở nào. Nhớ rằng mình vẫn sướng hơn
bao bạn bè cùng trường, còn có cha mẹ đầy đủ, được ăn học tử tế, biết chút ít
ngoại ngữ dắt lưng, trong khi chúng nó phải từ trường tốt, lui về trường nghèo
vì cha mẹ hết tiền. Và chúng nó phải kiếm sống hàng ngày, bán nhạc, bán sách cũ
quanh khu Khai Trí, bán thuốc lá trước cửa rạp Casino mà không ít lần, mình đi
xem phim lại thấy chúng vất vả đứng đó, chìa tay thu tiền từ từng điếu thuốc
thơm bán lẻ.
Nhớ từng ngày ngồi nhìn thành phố lên đèn trong tuổi thanh niên, qua ô kính cửa
La Pagode hay Givral, nhất định lắc đầu khi mấy thằng bạn lớn hơn, huých khuỷu
tay vào cạnh sườn mình, chìa cho mình từng điếu More màu nâu thon dài. Mà cũng
không cưỡng mãi được, tuổi 22 là biết cầm điếu thuốc Bastos Luxe đầu đời.
Nhớ cả tiệm Cảnh Hưng cho thuê sách nằm đối diện trường Rạng Đông mà bà chủ
tiệm, và nhất là ông chồng bà ấy, thuộc vanh vách từng tựa sách nằm ở đâu, ngăn
kéo nào, tầng kệ nào trong bát ngát cả chục nghìn quyển chất chật cứng cả mặt
tiền tiệm. Nhớ những tối thầm đọc Duyên Anh và Kim Dung trong màn, nhớ cả lần
ngu ngốc hỏi ông già nghĩa của từ “Đốn mạt” là gì khi đọc trộm quyển Anh hùng
đốn mạt của Nguyên Vũ để bị xơi đòn quắn đít. Nhớ cả những bạn văn lẫy lừng của
ông già mình ghé nhà chơi, như Nguyên Sa, Vũ Hạnh, Minh Quân, Võ Phiến và cả
Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn.
Nhớ cả những cây xăng có vòi bơm bánh xe, gắn đứng giữa hai trụ xăng, phải lấy
tay mình quay cây kim hơi về số theo ý muốn rồi từ tốn ngồi xuống, mở nắp vòi,
lắp đầu bơm vô để cho nó tự bơm, khi nào nghe kêu cái “keng”, đủ hơi, là máy tự
động ngừng. Rồi nhớ cả chiếc Vélo Solex của ông già mình, do đi nhiều
quá, bị xóc trên yên cũng quá nhiều qua các ổ gà, ông đã bị sai cột sống.
Nhớ những château d’eau (Tháp nước xây bằng bê-tông) là đặc trưng của
Sài Gòn thuở đó mà theo thời gian, chúng biến mất theo các ngôi nhà cao tầng.
Nhớ các vòi nước phun, người ta ra đó giặt quần áo hay gánh nước vào từng đôi
thùng tôn vuông mà quẩy về nhà. Rồi nhớ cả mùi thuốc phiện mà ông Tư thợ mộc,
làm liên gia trưởng hồi ấy, đêm đêm vẫn thầm đốt bên bàn đèn, loang qua cửa sổ
nhà bên mà vào nhà mình. Nhớ những mầu áo cũ, cặp kính cũ của vài cô bạn trẻ
đầu đời. Nhớ cả làn lông măng sẫm mầu nằm trên mép của Khánh Ly, mặc
áo dài, đi chân đất, hát nhạc Trịnh tại sân trường đại học.
Bà Mai Liên đọc chương trình thời sự trên màn hình chiếc TV National 19 inch;
bà Túy Hồng với các vở kịch trồi lên từ ngày cũ; bà Kiều Hạnh với chương trình
Tuổi xanh; ông Lê Văn Khoa với chương trình Thế giới của em; ba bốn anh em nhà
họ Phạm với ban Hợp ca Thăng Long; tòa soạn tờ Bách Khoa của ông Lê Ngộ Châu
trên phố Phan Đình Phùng; các bức minh họa kiệt xuất của họa sĩ Phạm Tăng, rồi
các bức vẽ chân dung tuyệt tác theo kiểu cubisme của họa sĩ Tạ Tỵ; vở kịch Khói
lửa Kinh thành của Lâm Ngữ Đường qua bản dịch của Vi Huyền Đắc. Nhớ cả dáng gầy
của nhà văn Nguyễn Ngu Í khi ngồi uống cà-phê với bố tôi để cùng tranh luận
không bao giờ có hồi kết về một thứ tiếng Việt kiểu mới do ông ấy sáng tác. Nhớ
từng nốt nhạc mà ông bác Phạm Duy đàn lên từ bài Giọt mưa trên lá… Và nhiều
nữa. Nhiều nữa như từng chữ quá tuyệt trong bài Back To Soriento mà
ông ấy đã chuyển lời. Nhớ cả từng bức ảnh đen trắng của 2 bậc thầy Nguyễn Cao
Đàm và Trần Cao Lĩnh.
Nhớ từng chiếc bánh tôm trong tiệm kem Mai Hương trên phố Lê Lợi, từng ly nước
mía Viễn Đông nơi góc phố Pasteur, từng trang báo Salut Les Copains với Stone
và Éric Charden hay Sylvie Vartan trên đó. Nhớ bài Le seul bébé qui
ne pleure pas hay Laisse aller la musique thấm đầy tính tự sự trên từng cuộn
băng c***ette Anna quen gọi nôm na cho dễ nhớ. Nhớ cả cái bóng ma đi lang thang
trong nghĩa địa mà người ta dàn dựng trên TV với giọng đọc rền rĩ “Tôi chết vì
ma túy” nghe rợn cả tóc gáy ngày ấy. Nhớ bộ ria mép của Trần Quang dẫu nó không
dày và trứ danh như của Omar Sharif…. Nhớ cái đầu trọc của Yul Brynner trong
The Magnificent Seven (Bảy tay súng oai hùng), và nhớ dáng gầy không giống ai
của Audrey Hepburn cùng cái cằm nổi tiếng với hố lõm vào của Kirk Douglas… Nhớ
mang máng cả những người thực ra chẳng cần nhớ làm gì như Hoàng Đức Nhã, người
đã tìm đủ cách để rũ sổ bố tôi từ Nha Báo chí Phủ Tổng thống.
Tại sao tôi đang ở trong những ngày này, mà lại không nhớ gì mấy về chúng cả,
để cứ phải ăn mày vào một thời từng quá cũ và xa? Tại sao bây giờ, mình cứ nhớ
chỉ về những bức bối thực tại, mà lại phải bấu rất đau vào chuỗi ngày cứ ngỡ đã
phôi pha rất lâu?… Tại sao?
Đâm ra lại như nghe loáng thoáng đâu đây, giai điệu buồn bâng khuâng từ bài Kỷ
niệm: “Cho tôi lại ngày nào, Trăng lên bằng ngọn cau, Me tôi ngồi khâu áo, Bên
cây đèn dầu hao… Cha tôi ngồi xem báo, Phố xá vắng hiu hiu, Trong đêm mùa khô
ráo, Tôi nghe tiếng còi tàu…”. Để thấy mình hệt như một con ốc bò thầm trên
đường trăng.
Trịnh Anh Khôi
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Sep/2022 lúc 1:09pm
CÂU HÁT ĐƯA EM
Ngoài Bắc gọi là hát ru: người mẹ hát để ru cho con ngủ. Trong Nam kêu là hát đưa em: hai chị em cùng nằm trên một chiếc võng, con chị đưa võng và hát dỗ cho em ngủ.
Sau đây là một vài câu hát đưa em thường nghe ở làng An Nhơn từ sáu, bảy mươi năm về trước:
Chiều chiều vịt lội, cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
Vô rừng bứt một sợi mây Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn.
Đi buôn không lỗ thì lời Đi ra cho thấy mặt trời, mặt trăng.
Má ơi! Con vịt chết chìm Con thò tay vớt nó, cá lìm kìm cắn con!
Má ơi! Đừng đánh con đau Để con bắt ốc, hái rau má nhờ.
Má ơi! Đừng đánh con đau Để con hát bội làm đào má coi.
Con mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà? Chú chuột đi chợ đường xa Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo!
Con mèo, con mẽo, con meo Ai dạy mầy trèo, mầy chẳng dạy tao?
Má mong gả thiếp về vườn Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.
Ví dầu bầu bí nấu canh Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.
Ba tiền một khứa cá buôi Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều Trông về quê mẹ chín chiều ruột đau.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai.
Áo vá vai, vợ ai không biết Áo vá quàn mới thiệt vợ anh.
Trồng trầu thì phải khai mương Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.
Trồng trầu thả lộn dây tiêu Con theo hát bội, mẹ liều con hư.
Chuột kêu chút chít trong hang Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay Mẹ hay mẹ hỏi: Đi đâu? Nói: Đi hốt muối cho mèo ăn cơm!
Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mẹ dắt con đi Con thi trường học, mẹ thi trường đời.
Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc? Dốc nào dốc bằng dốc Nam Vang? Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ Còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai?
Đố anh con rít mấy chưn? Cầu Ô mấy nhịp? Chợ Dinh mấy người?
Chợ Dinh bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim.
Gió đưa, gió đẩy, về rẫy ăn còng Về sông ăn cá, về đồng ăn cua. (về giồng ăn dưa).
Một mình lo bảy, lo ba Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.
Còn duyên, kẻ đón người đưa Hết duyên, đi sớm về trưa một mình.
Ví dầu nhà dột, cột xiêu Muốn đi cưới vợ, sợ nhiều miệng ăn!
Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.
Con mèo, con chuột có lông Ố́ng tre có mắt, nồi đồng có quai
Bậu nói với qua bậu không bẻ mận, hái đào Chớ mận đâu mà bậu bọc, đào nào bậu cầm tay?
Đến đây dầu đói giả no Dầu khôn giả dại đặng dò ý em.
Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa Anh viết thơ thăm hết nội nhà Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.
Em tôi khát sữa bú tay Ai cho bú thép ngàn ngày nhớ ơn.
Má ơi, đừng gả con xa Chim kêu, vượn hú, biết nhà má đâu?
Trắng da vì bởi phấn giồi Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.
Thôi thôi buông áo em ra Để em đi bán, kẻo hoa em tàn.
Hoa tàn vì bởi mẹ cha Hoa búp không bán, để tàn ai mua.
Nói đẩy đưa cho vừa lòng bạn Chớ sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu.
Thiếp than phận thiếp còn thơ Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình.
Em tôi buồn ngủ buồn nghê Con tằm đỏ chín, con dê đỏ mùi.
Em tôi buồn ngủ buồn nghê Đợi mẹ đi về có bánh em ăn.
Cu kêu ba tiếng cu kêu Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè.
Tiền Vĩnh Lạc
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Sep/2022 lúc 2:02pm
12 con giáp
Tuổi Tý, con chuột lông xù Cắn gà, cắn vịt, chạy ù xuống hang Tuổi Sửu, con trâu kình càng Cày chưa đúng buổi lại mang cày về Tuổi Dần, con cọp quá ghê Bắt người ăn thịt, tha về non cao Tuổi Mẹo là con mèo ngao Hay quấu, hay quào, ăn vụng thành tinh Tuổi Thìn, rồng ở Thiên đình Làm mưa, làm gió, ẩn mình trên mây Tuổi Tỵ, rắn ở bộng cây Nằm khoanh trong ổ, có hay điều gì. Tuổi Ngọ, ngựa ô đen sì Ỷ mình chạy giỏi ngại gì đường xa. Tuổi Mùi là con dê chà Giống nai, có gạc, râu ria bùm xùm. Tuổi Thân, con khỉ ở lùm Chuyền qua, chuyền lại, té ùm xuống sông. Tuổi Dậu, con gà vàng lông Có mỏ, có mồng, lại gáy ó o. Tuổi Tuất là con chó cò Nằm khoanh bên lò, mặt mũi lọ lem. Tuổi Hợi, con heo ăn hèm Đóng chuồng mà nhốt, chẳng thèm thả ra!
Tiền Vĩnh Lạc
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Sep/2022 lúc 3:20pm
Sài Gòn Xưa Và Nay
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonXuaVaNay-F.asp - La Source (French)
BLOG ĐI DU LỊCH CỦA MỘT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở CHÂU Á
- Les Voyages de Camille
Trước/Sau: Sài Gòn Trong Tranh Từ 1900 Đến 2020
Ngày 13 Tháng 8 Năm 2020
Khi tôi xem các bài báo trên trang Saigoneer, tôi nảy ra ý tưởng tái
tạo những bức ảnh giống hệt hồi đó. Tôi đã dành hàng giờ để chọn những
bức ảnh hấp dẫn tôi, tìm những nơi chúng đã được chụp; Sau đó, tôi lưu
ảnh vào điện thoại và các địa điểm trên bản đồ, trước khi đi dạo ở Sài
Gòn để tìm kiếm những góc chụp giống nhau hoặc cùng bầu không khí.
Giữa những truyền thống được bảo tồn và những biến động của đô thị,
bài tập này cho phép tôi khám phá một khía cạnh khác của thành phố và
kết nối lại với cuộc sống hàng ngày của tôi, mang đến cho nó một không
gian hoàn toàn mới.
Tôi phải nói rằng tôi khá hài lòng với kết quả! Thật tò mò về việc các
tòa nhà và cách sống vẫn còn nguyên vẹn như thế nào sau ngần ấy
năm. Tôi hy vọng bạn tận hưởng cuộc hành trình xuyên thời gian này nhiều
như tôi thích làm nó. Chúc bạn thăm khám tốt!
Đến năm 1904,
toàn bộ Sài Gòn chỉ giới hạn trong khu vực mà chúng ta biết ngày nay là Quận
1. Ngoài khu vực trung tâm thành phố được quy hoạch cẩn thận và khu phố
thương mại sầm uất Chợ Lớn (Chinatown), các khu vực ngoại thành của thành
phố đã mọc um tùm với những đầm lầy và những thảm thực vật trải rộng.
Trong bộ sưu
tập ảnh đen trắng này mà tôi không thể tìm thấy tên của các nhiếp ảnh gia,
Sài Gòn vào đầu thế kỷ hiện ra rất hoang sơ và hoang
sơ bởi quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, chính vào thời điểm này,
các kế
hoạch đầu tiên của chính quyền Pháp nhằm
chế ngự thiên nhiên hoang dã ở miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như tuyến đường
sắt xuyên Đông Dương nối Hà Nội với Sài Gòn.
Các sông
Sài Gòn đã
không thay đổi nhiều trong khoảng thời gian 116 năm: vẫn còn những con
thuyền tam bản ,
một loại thuyền sử dụng cho cá hoặc là một nhà nổi. Mặt khác, các ngân hàng
đã phát triển rất nhiều và tiếp tục được khai thác, có thể thấy dưới đây với
việc xây dựng ba tòa tháp mới ở phía trước Quận 1.
Tôi không tìm
được địa danh của bức ảnh gốc, nhưng tôi không thể không vẽ song song với
nhiều lò
gạch có
thể tìm thấy ở đồng
bằng sông Cửu Long ,
phía nam Sài Gòn , đặc biệt là ở tỉnh Bến Tre. Những chiếc lò gạch này dùng
để nướng ... gạch! Những viên gạch được tạo hình từ đất sét khai thác bên bờ
sông, trước khi được tỉ mỉ xếp ra từng viên một bằng tay trong những chiếc
lò khổng lồ này. Đôi khi phải mất một
tuần để làm đầy một lò nướng,
những viên gạch có thể chạm tới mái nhà, và sức chứa của chúng có thể lên
đến 19 tấn! Việc nấu nướng kéo dài khoảng 25-30 ngày và ngọn lửa được duy
trì nhờ vào vỏ của hạt gạo, ít tốn kém hơn nhiều so với củi hoặc than. Sau
khi nung, tro được dùng để làm phân bón và những viên gạch nung kỹ được để
nguội trước khi đưa ra khỏi lò nung. Rõ ràng là phương pháp nấu ăn truyền
thống này vẫn còn nguyên vẹn.
Vào thời điểm
đó, Việt Nam đã bị chìm sâu trong bốn thập kỷ dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, những người đã chia đất nước như chúng ta biết ngày nay thành ba bảo
hộ: Bắc
Kỳ (miền
Bắc Việt Nam), An
Nam (miền
Trung Việt Nam) và Nam
Kỳ (
miền nam Việt Nam). Vào đầu những năm 1920, trung tâm Sài Gòn là một khu phố
hoang sơ với những con đường sạch sẽ và những cửa hiệu lộng lẫy. Bất chấp sự
hào nhoáng và hào nhoáng của Sài Gòn như những bức ảnh này thể hiện, sự giàu
có và tiện nghi chỉ được người Pháp và một bộ phận nhỏ người Việt Nam tham
gia vào chính quyền thuộc địa đánh giá cao.
Loạt ảnh đáng
kinh ngạc này được chụp bởi nhiếp ảnh gia người Pháp Ludovic Crespin vào đầu
những năm 1920. Nó cung cấp cái
nhìn sâu sắc vô giá về Đông Dương thuộc Pháp vào
thời điểm đó, và thật buồn cười khi thấy rằng các tòa nhà hầu như không thay
đổi. 'một ngón tay cái.
Các Tòa
thị chính hoặc
trụ sở của Ủy ban nhân dân thành phố ************ là một phong cách
Beaux-Arts cung điện, được xây dựng bởi kiến trúc sư người Pháp Paul Gardès
từ 1902 đến 1908. Nó được ngày nay được chiếu sáng bởi các dịch vụ của ánh
sáng của thành phố Lyon. Rất tiếc là không mở cửa cho khách tham quan, nhưng
thật khó để không đi ngang qua khi đến thăm thành phố, vì nó nhìn ra đại lộ
Nguyễn Huệ rộng lớn.
Tòa nhà của Tổng
Bí thư Nam Kỳ trước
đây ở góc đường Đồng Khởi và Lý Tự Trọng cũng vẫn còn nguyên vẹn.
Các Nhà
thờ Notre-Dame de Sài Gòn được
xây dựng bởi người Pháp 1877-1880 và đánh dấu sự khởi đầu của đường Đồng
Khởi, mà đi xuống sông. Nó hiện đang được tu sửa và sẽ mở cửa trở lại cho
những người thờ phượng và du khách vào năm 2021.
Bức ảnh này
được chụp tại ngã tư đường Catinat, nay là Đồng Khởi và Mạc Thị Bưởi. Trên
con phố nổi tiếng này, nhiều thương hiệu đề
cập đến di sản thuộc địa Pháp ,
chẳng hạn như nhà hàng Le Bourgeois (nº132), khách sạn Catina Sài Gòn
(nº109), hoặc chuỗi cà phê Katinat tại nº91 (tòa nhà đã đóng cửa với Ngay
bên dưới).
Biến động tại
ngã tư đường Đồng Khởi (đường Catinat cũ) và Lý Tự Trọng (đường Lagrandière
cũ). Khu vực này hiện đã tập trung nhiều cửa hàng, nhà hàng, quán cà phê ...
và là một trong những ngã tư sầm uất nhất của trung tâm thành phố. Để hiểu
rõ hơn về điều này, hãy trải nghiệm dành
một chút thời gian trên sân thượng của Cộng
Cà Phê nằm
ở tầng 1 với tầm nhìn ra lối đi, nó gần như tuyệt đẹp!
Một góc nhìn
khác của Tòa thị chính, của một nhiếp ảnh gia giấu tên, vào năm 1938-39. Kể
từ đó, một bức
tượng ************ khổng lồ nằm
cạnh một em nhỏ trong công viên, như để quan sát thành phố.
Jack Birns là một nhiếp ảnh gia người Mỹ, người đã chụp ảnh ở một số nước
châu Á vào năm 1947-48 thông qua hợp đồng với LIFE . Loạt ảnh đen trắng này
ghi lại sự xâm nhập của thực dân Pháp vào đời sống truyền thống Việt Nam,
tạo ra sự phân đôi thị giác thú vị.
Các đài phun nước cũ trên đường Nguyễn Huệ Avenue đã được
di chuyển hơi xa Town Hall, và hiện đại hóa rõ ràng.
Bên phải, đại
lộ Lê Lợi cũ với
các băng rôn thông báo chiếu phim bằng tiếng Pháp; ở bên trái, cùng một đại
lộ, không có chút quyến rũ nào và đang được xây dựng hoàn chỉnh trong nhiều
tháng ...
Dành thời gian
cho một ly cà phê vẫn
là một phần của cuộc sống hàng ngày ...
Bộ ảnh đầu
tiên này được thực hiện bởi Thomas W. Johnson, một trợ lý tuyên úy làm việc
tại Bệnh viện dã chiến cấp 3 Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào những năm 1960.
Các năm
mới Việt Nam, Tết ,
là ngày lễ nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Hàng năm vào tháng Giêng đến tháng
Hai (các ngày thay đổi theo âm lịch), người Việt cắm hoa trang trí nhà cửa
và kinh doanh. Tại Sài Gòn, dọc theo các con
kênh của quận 14 và 15 ở
phía nam thành phố, người ta có thể ngạc nhiên trước những điểm trưng bày
hoa và cây ăn trái được đưa lên bằng thuyền từ đồng bằng sông Cửu Long. đất
đai màu mỡ.
Có rất nhiều
điều không thay đổi! Bạn
có biết rằng giấc ngủ trưa là thiêng liêng ở Việt Nam? Sau
bữa trưa, mọi người đều di chuyển chậm, nhân viên trải chiếu dưới bàn làm
việc và tài xế taxi cũng làm như vậy, với phương tiện trong tầm tay! Chiếc
mũ lưỡi trai thay thế cho chiếc salacot (mũ bảo hiểm thời thuộc địa) và
chiếc mô tô thay thế chiếc xe kéo, nhưng có vẻ như đôi giày vẫn vô dụng!
Khách sạn đầu
tiên ở Việt Nam, khách
sạn Continental ở Saïgon được
xây dựng vào năm 1878-1880 bởi Pierre Cazeau, một nhà công nghiệp người
Pháp. Khách sạn sau đó sẽ được tân trang lại vào năm 1892, được bán đi, đổi
tên nhiều lần trong Chiến tranh Việt Nam, được trùng tu hoàn toàn từ năm
1988 đến năm 1989 và cuối cùng mở cửa trở lại vào năm 1989 với tên gọi Khách
sạn Continental.. The
Continental nói riêng đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và
chính trị của Sài Gòn thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh Việt Nam, nó có
biệt danh là Đài
phát thanh Catinat ,
vì đây là điểm hẹn của các phóng viên, nhà báo, chính trị gia và doanh nhân
nói về chính trị, tin tức kinh tế và các vấn đề thời sự. .
Nếu mặt tiền
của khách sạn không thay đổi, chúng ta có thể ghi nhận những công trình mới
bao quanh nó, chẳng hạn như trung
tâm mua sắm Parkson
Saigon Tourist Plaza và Vincom
Center ở
phía sau.
Công việc vất
vả của những người
quét rác trên
đường phố Sài Gòn dường như sẽ chỉ còn là chuyện của phụ nữ vào năm 2020 ...
Một món ăn vặt
hàng ngày khác trên đường phố Sài Gòn là những gánh
hàng rong .
Bên trái, bộ
ba phụ nữ trong ngày Chủ nhật đẹp nhất đang đi bộ trên vỉa hè đường Lê Lợi
trong trang phục áo dài (trang
phục truyền thống của Việt Nam), đeo kính râm và kiểu tóc hợp thời trang. Ở
bên phải, ba cô gái trẻ trong trang phục hiện đại đeo mặt nạ (Covid yêu
cầu). Mặc áo
dài bây
giờ chỉ dành cho các dịp lễ, tết, thật tiếc! Chúng ta có đồng ý rằng phụ nữ
có nhiều tầng lớp hơn vào những năm 1960 không?
Ảnh của George
Muccianti với khung cảnh của Bưu
điện Trung tâm Sài Gòn , được xây dựng từ năm 1886 đến
năm 1891 bởi Bưu điện Pháp, vào thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp. Khung kim loại
tráng lệ của bưu điện chính ở trung tâm thành phố được thiết kế bởi Gustave
Eiffel.
Loạt phim sau
đây do quân nhân Hoa Kỳ Bruce Baumler thực hiện vào năm 1965.
Hình ảnh ngôi
đền Hindu tráng
lệ thờ nữ thần
Mariamman trên đường Trương Định. Được xây dựng vào cuối thế kỷ 19
bởi các thương gia Tamil từ quầy Pondicherry của Pháp đến định cư tại Sài
Gòn. Hầu hết họ phải chạy trốn khỏi Việt Nam trong chiến tranh và sự thất
thủ của Sài Gòn. Được chính quyền đóng cửa vào năm 1975 để làm kho, sau đó
được trả lại để thờ vào năm 1993 nhờ các cuộc đàm phán ngoại giao giữa Ấn Độ
và Việt Nam. Lưu ý rằng cấu trúc phía trên của ngôi đền đã được thêm vào từ
năm 1965.
Bức ảnh này
được chụp ở đường Phan Bội Châu gần chợ
Bến Thành nổi
tiếng . Được xây dựng từ thời Pháp thuộc, nó đã thường xuyên được cải tạo,
nhưng kiến
trúc tổng thể vẫn giữ nguyên . Ngày
nay nó là chợ du lịch nhất trong thành phố và có rất nhiều đồ lưu niệm để
thương lượng, các quầy bán trái cây, rau, cá và thịt, nhưng cũng có các quầy
hàng nhỏ để nếm thử nước trái cây tươi, một bát ph hoặc
hải sản.
Một góc nhìn
khác từ Nhà hát lớn Sài Gòn phía khách sạn Continental bên phải và cửa
hàng bách hóa Eden trước
đây ở bên trái, nay đang được cải tạo mang thương hiệu Vincom.
Bức ảnh của
một nhiếp ảnh gia giấu tên về khách
sạn lịch
sử 5 * ,
được thiết kế bởi một doanh nhân Trung Quốc vào năm 1925, theo phong cách
của các khách sạn ở Côte d'Azur. Giống như khách sạn Continental, nó sẽ đổi
tên nhiều lần nhằm xóa ký ức thuộc địa.
Những bức ảnh
này được chụp vào năm 1966 bởi quân nhân Mỹ Rich Krebs, người đã vô tình lưu
giữ ký ức tập thể của một thế hệ cư dân Sài Gòn trong chuyến thăm của ông.
Công viên Chi
Lăng trên
đường Đồng Khởi giờ đã trở thành một khán đài nhỏ xíu trước Trung tâm thương
mại Vincom Center hoành tráng. Tôi đặc biệt tự hào vì đã có thể tái tạo bố
cục của bức ảnh gốc Đối
với giai thoại nhỏ, tôi dừng lại và tự nhủ "thật may mắn, có một chiếc xe
đạp!" Nó sẽ thay thế cho hai chiếc xe tay ga thời bấy giờ ”và trong lúc
chuẩn bị chụp ảnh, một tài xế taxi Grab đã lao qua mũi tôi với tốc độ tối đa
và tôi đã phản xạ đúng!
Tại ngã tư Lê
Lợi và Nguyễn Huệ trước
Tòa thị chính: Đường Lê
Lợi hiện đang được cải tạo, điều này lý giải cho việc giao thông hầu như
không tồn tại so với thời trước.
Nhiếp ảnh gia
Việt Nam Nguyễn Thành Tài từng làm việc cho hãng thông tấn Hoa
Kỳ United Press International (UPI). Những
bức ảnh đen trắng của ông là một sự thay đổi so với các tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông trong Chiến tranh chống Mỹ. Vào năm 1967, một người phụ nữ mời
những người qua đường món bún
thịt nướng cho
một bữa trưa ngồi
nghỉ . Bên phải, một người phụ nữ trong tư thế tương tự đang
bán đồ uống và kem.
Sài Gòn phát
triển đô thị không phải đều tốt. Trái ngược với các dự án xây dựng mới đang
được triển khai, thành phố dường như không bao giờ trở thành một dự án hoàn
thiện và tiếp tục bỏ lại những cư dân nghèo nhất. Trong bức ảnh do Dave Teer
chụp giữa năm 1967 và 1969, chúng ta nhận ra những ngôi
nhà sàn đáng
tiếc vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay trên sông Sài Gòn. Đây là những ngôi
nhà không đạt tiêu chuẩn, những khu ổ chuột thực sự, được làm từ gỗ hoặc
tre, với mái lợp bằng tấm kim loại đơn giản.
Nhiếp ảnh gia
Brian Wickham đã đến Sài Gòn vào năm 1968 và 1969, cho ra đời hơn một trăm
bức ảnh về các địa điểm khác nhau trong thành phố, cả nổi tiếng và xã
hội. Điều này thể hiện việc băng
qua đường Nguyễn
Du của
một nhóm học sinh. Tôi không thể tìm thấy vị trí chính xác nơi bức ảnh được
chụp, vì vậy tôi chỉ phát hiện ra cùng một bảng quảng cáo trên đường và chờ
ai đó băng qua!
Ảnh chụp khác
về các mái nhà ở Quận 1 này so sánh sự đa
dạng về kiến trúc của Sài Gòn :
nhà ống, nhà nhỏ cạnh nhau lợp ngói hoặc thiếc, những tòa nhà chọc trời hiện
đại...
Quân nhân Hoa
Kỳ Darryl Henley đóng quân tại Việt Nam vào cuối những năm 1960, và đã chụp
bức ảnh Đại lộ Nguyễn Huệ này. Tòa nhà trung tâm đã trở thành một biểu tượng
của thành phố, được đổi tên thành The Cafe
Apartments tại
42 Nguyễn
Huệ. Mỗi tầng là nơi tập trung hàng loạt cửa hàng, quán cà phê, nhà hàng ...
rất sành điệu và được giới trẻ Việt thường xuyên lui tới.
Trong một vài
bức ảnh chụp vào những năm 1969-70, cựu binh quân đội Hoa Kỳ D. Hoag đã chụp
được một Sài
Gòn hỗn loạn và mát mẻ .
Tôi không biết
tòa nhà này được sử dụng để làm gì ở góc đường Pasteur và Nguyễn Du, nhưng
ngày nay nó là một trường
mẫu giáo đầy màu sắc ,
ở số 178/1 đường Pasteur.
Các chợ đường
phố bán đồ lưu niệm trên đại lộ Nguyễn
Huệ đã nhường chỗ cho các
cửa hàng thời trang cao cấp như
Chanel và Cartier.
Loạt ảnh sau
đây là một bộ
sưu tập lưu trữ hiếm hoi được
tìm thấy một lần nữa trên trang Saigoneer,
một tập hợp các kỷ vật cá nhân của khách du lịch, binh sĩ nước ngoài và thậm
chí cả phóng viên ảnh.
Nhiếp ảnh gia
giấu tên này cho chúng tôi xem một khu
chợ tạm trên
vỉa hè đường Lê
Lợi . Khu
này đang được sửa chữa lớn nên hầu như không còn người bán hàng rong nào
nữa, chỉ còn lại một số quầy hàng.
Một cảnh quay
khác về con
đường Đồng Khởi nổi tiếng năm
1979.
Ảnh nhà sách
khác này được chụp vào năm 1979 ở phố Thị Như 1979. Chưa tìm được không khí
ở cùng một con phố, tôi lại có cảm hứng với phố
sách (Nguyễn
Văn Bình),
nằm sát Bưu điện Trung tâm. Con phố đông đúc này có các hiệu sách nhỏ và
quán cà phê dễ chịu, nơi bạn có thể đọc sách trong yên bình, một thiên đường
yên bình giữa lòng thành phố.
Khi đến Sài
Gòn năm 1990, Catherine Karnow đã được cha cô, nhà sử học Stanley Karnow,
giới thiệu về những huyền thoại địa phương như Đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Trong 25 năm qua, cô tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh gia tại Việt Nam với
những kết quả ngoạn mục. Instagram của cô ấy: @catherinekarnow
Bức ảnh này
cho thấy sự bảo tồn của một số tòa nhà từ thời Pháp thuộc: ngôi nhà màu vàng
xinh xắn ở số 93-95-97 đường Đồng
Khởi này hiện là một nhà hàng ăn ngon phục vụ ẩm thực Việt
Nam, Nhà hàng Vietnam House.
Một góc nhìn
khác về khách sạn Continental. Quán
cà phê Givral nổi
tiếng trước đây ở góc phố không còn tồn tại ngày nay...
Những bức ảnh
này được nhiếp ảnh gia người Đức Hans Peter Grumpe chụp trong những chuyến
thăm Sài Gòn từ năm 1991 đến năm 1993. Mặc dù thành phố thiếu nét quyến rũ
trong những năm này, nhưng trung tâm của cuộc sống hàng ngày dường như không
có nhiều thay đổi: những người bán hàng rong với những món hàng hiệu, những
người làm tóc du lịch, những nhóm bạn trò chuyện, những gánh hàng rong ...
tất cả những gì chúng ta vẫn thấy hàng ngày trên đường phố Sài Gòn, và thực
tế là tất cả sự quyến rũ của nó!
Bằng chứng là
sự so sánh này chứng tỏ rằng việc ăn
một bát phở ngoài đường vẫn
là một điều bất hủ trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam! Sự khác biệt
duy nhất là những chiếc ghế đẩu bằng nhựa màu xanh và đỏ đã thay thế cho
những chiếc ghế gỗ.
Cũng giống
như cắt tóc trên đường! Trong khi phụ nữ thích đến các tiệm làm tóc thì nam
giới vẫn tiếp tục sử dụng những
thợ cắt tóc lưu động . Được
rồi, tôi phải thành thật với bạn… Tôi chụp bức ảnh này ở Hà Nội năm ngoái,
bức tường là bức tường bao quanh Văn Miếu.
Như một phần
thưởng, một loạt ảnh mà tôi không tìm thấy ngày tháng hay tác giả, nhưng vì
chúng đều là những tòa nhà hàng đầu của thành phố, tôi tự nhủ rằng tôi vẫn
sẽ đưa chúng vào trong này (dài ) danh sách.
Mặt tiền tráng
lệ màu vàng của Bưu
điện Trung tâm Sài Gòn ,
được xây dựng từ năm 1886 đến năm 1891, dường
như vẫn được bảo tồn.
Lấy cảm hứng
từ kiến trúc của Petit Palais ở Paris, Nhà
hát Thành phố Sài Gòn được
xây dựng vào năm 1900. Theo mô hình Gothic, mặt tiền của tòa nhà được trang
trí bằng các dòng chữ và phù điêu (giống như Tòa thị chính). Trong chiến
tranh Việt Nam, nhà hát này là trụ sở của quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Rất
tiếc, Nhà hát Opera không mở cửa cho khách tham quan, nhưng bạn có thể tham
dự buổi biểu
diễn xiếc Việt Nam của
đoàn Lune
Production vào
mỗi buổi tối. Giá cả khá cao (từ 700.000 VND hoặc 26 €), nhưng chất lượng
của các chương trình văn hóa được cung cấp là đáng kinh ngạc.
Một góc nhìn
khác về khách
sạn Majestic hùng
vĩ.
Cảm ơn bạn đã
đi xa đến thế này, tôi thực sự hy vọng bạn thích cuộc hành trình xuyên thời
gian này!
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonXuaVaNay-F.asp - La Source (French)
______________
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Sep/2022 lúc 8:06am
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonKhungTroiQuaNhieuKyNiemCuaMotThoiXaXua.asp - SAIGON - Khung trời quá nhiều kỷ niệm của một thời xa xưa <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2022 lúc 12:14pm
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Oct/2022 lúc 12:56pm
Kỷ niệm: Sài Gòn, gánh hàng rong và lời rao
Nhớ khi xưa đường phố, hẻm nhỏ Sài Gòn thỉnh thoảng lại vang lên những lời rao:
– Ai ăn tàu hủ hôn
– Chè đậu xanh nấu đường, hột vịt lộn hôn
– Chè đậu xanh nước dừa đường cát hôn
– Xôi đâu xanh, xôi bắp đây
– Ai cơm rượu hôn
– Báo mới đây, tin chiến sự nóng hổi đây
– Vé số đây, vé số chiều xổ đây
…
Tui sống gần sông rạch nên có dịp
thưởng thức cả những lời rao của các cô bán xuồng vàm. Đằng sau mấy lời
rao có âm điệu trầm bỗng, ngân nga là những phận người. Nghe rao, tui có
thể đoán là hôm nay họ vui hay buồn, khỏe hay mệt, đắt hay ế… Thương
nhứt là những hôm trời mưa tầm tả, lời rao như ẩn chứa một chút tủi, một
chút lo.
Thỉnh thoảng còn có mấy ông bán chiếu,
bán chổi lông gà, mua ve chai tham gia vào giai điệu đường phố. Cũng có
nhiều người dùng ám hiệu chứ không dùng lời rao như tiếng gõ của ông
bán hủ tíu, tiếng còi của ông thiến heo, tiếng trống bỏi của ông nhuộm
quần áo, tiếng lắc xắc của ông đấm bóp giác hơi…
Tính tui hay thương người lại thích ăn
quà vặt nên bữa nào có xu trong túi là tui hay ủng hộ. Tui có gian mở
hàng nên mấy cô mấy bà hay kiếm tui, thậm chí xúi tui ăn chịu từ từ trả
cũng được. Cũng may là tui nhớ dai chứ ăn chịu mà quên trả thì tội cho
người ta lắm. Mà cũng nhờ đó mà trong thời kỳ ốm đói, tui tuy có ốm
nhưng cũng không đến nỗi đói.
Bây giờ Sài Gòn lời rao thưa vắng dần. Thỉnh thoảng có mấy người rao bằng loa:
– Trung tâm công nghệ hóa màu vừa cho
ra đời một sản phẩm, đó chính là keo dính chuột. Keo dính chuột không
độc hại với môi trường, đặc biệt có thể tái sử dụng nhiều lần với độ bền
và thời gian lâu nhất mà không một loại hóa chất nào có thể so sánh
được. Keo dính chuột còn có thể bẫy được các loại côn trùng như ruồi,
muỗi, kiến, gián, và các loại côn trùng khác…Phương pháp sử dụng được
ghi trên bao bì. Đề nghị đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, đề
phòng giả mạo. đê ngoài tầm tay của trẻ em…
– Bánh mì Sài Gòn đặc ruột, thơm bơ…
…
Cũng là lời rao nhưng mà nó đều tăm tắp, không hấp dẫn, không biểu cảm như lời rao từ nỗi niềm thoát ra ngoài cửa miệng.
Ký ức tuổi thơ ngoài đùa vui với bạn
bè còn có mùi hương hoa cỏ, tiếng côn trùng rả rích, ngọn gió mát rượi
từ mé sông… không thể không nhắc đến những lời những lời rao trầm bổng
và dáng ai nhẫn nại với gánh hàng rong trong hẻm nhỏ liêu xiêu.
Trần Hữu Hiệp
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Oct/2022 lúc 12:34pm
https://www.youtube.com/watch?v=MHFIJBxqT5s - Giai thoại kỳ thú về những ngôi chợ nổi tiếng Sài Gòn xưa <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Oct/2022 lúc 3:31am
Người Nam Kỳ có nhiều cách diễn tả biểu cảm rất ngộ. Thí dụ
như cần rốt ráo thẳng luôn, dứt khoát, không e ngại, chẳng lòng vòng thì kêu là
"nói đại", "làm đại", "nói phứt cho rồi".
Chữ đại trong Hán Việt có nghĩa là to lớn, nhưng qua miệng
dân Nam Kỳ thành biến nghĩa qua nhanh, gọn, rốt ráo, không rào đón trước sau.
"Kinh xáng mới đào
Tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại
Đừng nghi đừng ngại
Bớ điệu chung tình"
Thương đại là thương liền đi, thương mau lẹ, thương nhanh
đi, đừng chần chờ gì hết.
Đọc Hồ Biểu Chánh thấy hành động nhanh gọn còn diễn tả trong
chữ "phứt", phứt hoặc phức là chữ đệm thôi.
Thí dụ: thôi phứt cho rồi, nói phứt cho rồi, lãnh lương nên
đem trả phứt cho dì, con đi phứt cho rồi, tôi muốn chết phứt cho rồi, mướn phứt
một chiếc xe hơi, gả phứt nó cho rồi, xin từ chức phứt cho rồi,...
Phứt có nghĩa là liền đó đa, gả phứt là gả chồng cho con liền.
Mà nhớ nè, cha nào được gả phứt coi chừng rước đồ mắc dịch về
nhà đó nghen.
"Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi
Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm
Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể
Cưới vợ có chừ về thổi lửa queo râu."
Người Nam Kỳ mô tả thơm tho bằng từ “thơm phức”.
Thơm phức là thơm dữ lắm, thơm lừng, thơm thất kinh. Hoa lá
thơm phưc, dầu thơm phức, xà bông thơm phức, da thịt đờn bà cũng thơm phức.
Mờ đạo nghĩa, ân tình, ân nghĩa, lòng dạ, tiết tháo cũng
thơm phức.
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên
dân.
Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Ông Bình-nguyên Lộc thì cái trân quý nhứt của đời ông là ”thổ
ngơi thơm phứt hồn ma cũ” của đất Sài Gòn.
Xin chép vài ba câu thơ của ông Bình-nguyên Lộc cho bà con
Nam Kỳ mình ôn cố tri tân, đặng để lòng mà nhớ mà thương, rồi có thương mới có
ý thức về xứ sở của mình.
“Ghe ơi, vài bữa ghe về
Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?
Mùi đất nước ruộng bùn phảng phất
Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu
Năm năm, bao cuộc bể dâu?
Phút giây in lại như hầu hôm qua”
Có thơm phức thì phải có đối nghịch nó, là thúi hoắc.
Có những người bề ngoài coi tốt đẹp, còn bề trong thì thúi
hoắc. Nhơn cách mờ bị gán cho hai chữ “thúi hoắc” thì tiêu tán đường.
Lâu lâu về xóm, đụng ngay mấy bà “Tám”, ta nghe mấy bả la
lên những tiếng vầy nè: “Mèn đét ơi! Mày trổ giò lớn xộn, giống thằng cha mày quá,
cưới vợ được rồi đa”
Bạn biết mèn đét hay chèn đét là chữ có nghĩa gì không? Đó
là câu “Trời đất ơi!” đó.
Hiểu một cách nôm na thì những câu”chèn đét ơi!” là nói trại
từ “Trời đất ơi !”, là một cách nói trại từ, nói kiêng, kỵ húy ông Trời, không
dám kêu đích danh ông Trời.
Tim trong thư tịch Nam Kỳ xưa thời Phan Thanh Giản thì không
thấy những chữ chèn ơi đó, trong văn Hồ Biểu Chánh cũng không thấy, ông Hồ Biểu
Chánh viết câu kêu lên là “Trời ơi!”, thí dụ đoạn văn sau trong “Ông Cử”:
(Trích đoạn): “Cách một lát, một đứa trẻ ở dưới mé sông đi
lên, tay lắc chuông leng keng, vai vác một tấm băng đỏ lói. Ði tới cái băng chỗ
ông Cử và Ba Sang ngồi, đứa nhỏ ấy dựng tấm bảng một bên, rồi ngồi gần Ba Sang
mà nghỉ chơn.
Ba Sang không biết chữ, không hiểu tờ giấy đỏ dán trên tấm bảng
ấy nói chuyện gì, kêu vỗ vai thằng nhỏ mà hỏi: "Em rao bán giống gì vậy
em?“
Thằng nhỏ cười đáp: "Trời ơi! Anh này quê quá! Bảng rao
hát cải lương, chớ bảng giống gì! Anh không thấy hình đó sao? Hình đó là hình
cô đào nhứt trong gánh, tối nay thủ vai Bàng Quý Phi cụp lắm“.
Ba Sang với lấy tấm bảng, cầm coi cái hình, khen cô đào xinh
đẹp, rồi kêu ông Cử mượn đọc, coi những hàng chữ in trên đó nói cái giống gì vậy“.
(Ông Cử, 1936)
Những câu “chèn ơi”, ”mèng đét ơi” xuất hiện ở Sài Gòn, ở
Nam Kỳ những năm 1960, xuất phát từ những người Nam Kỳ miệt Lục Tỉnh Miền Tây
bình dân chạy giặc về Sài Gòn, nó là tiếng lóng.
Trong văn Bình Nguyên Lộc ta không thấy những từ mèn đét ơi.
Bình Nguyên Lộc là nhà văn Nam Kỳ nhưng không rặc Nam kỳ như
Hồ Biểu Chánh, trong văn ông này vẫn lộn chữ kiểu Bắc Kỳ, trong “Đò dọc” của
Bình Nguyên Lộc ta tìm ra từ “gầy khô đét” kiểu Bắc, đáng lẽ ra là “Ốm khô queo
khô quắt”.
Hồ Trường An là nhà văn xài “mèn đét ơi” nhiều nhứt.
Xin hãy đọc hai đoạn trích sau:
(Trích) “Mèn đéc ơi, thằng nhỏ coi giống hịt thằng Bảy Huỳnh
Kim Báu quá trời quá đất!... Chèn ơi, nụ cười nó giống nụ cười tía nó quá chừng
chừng!”
(Trích)” Trong những thửa ruộng sâm sấp nước, ốc bươu, ốc
lác bắt đầu giao hoan, cua đồng bắt đầu sanh sản. Chèn ơi, giữa mùa mưa, chẳng
những loại nghêu, sò, ốc, hến, cua, còng mài miệt giao hoan, xôn xao sanh sản
mà lũ cá chài, cá úc, cá mè vinh trong sông cũng mê tơi kết trứng thụ tinh”
Miệng thì "mèng đéc ơi?" thì tay phải quơ, tay vỗ
đùi đen đét, mắt phải biểu cảm mới ra cái nghĩa nha hôn, các bạn đạo diễn nhớ
cái khúc này làm cho trúng à, không thì chớ có ra Nam Kỳ à.
Túm lại, mèn đét ơi đã thành di sản đặc trưng Nam Kỳ, nghe
riết thành quen, nó để lại trong lòng người Nam Kỳ bao nhiêu cảm xúc, nghe thấy
vui, xa thấy buồn.
NGUYỄN GIA VIỆT
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Oct/2022 lúc 9:47am
https://www.youtube.com/watch?v=h7WMRt-aMIk - Hủ tiếu Cả Cần món ngon Sài Gòn hơn nửa thế kỷ <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Oct/2022 lúc 9:30pm
https://www.youtube.com/watch?v=PVstE2KEEOo - Anh Bảy Chà Hynos vang bóng một thời <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Oct/2022 lúc 5:53am
https://www.youtube.com/watch?v=U6hoMHT0JOs -
- <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Oct/2022 lúc 5:55am
https://www.youtube.com/watch?v=To7CowTPh7U - Những Hình Ảnh Cổ Xưa Nhất Về Sài Gòn - Chợ Lớn ( 1860-1880 ) <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Oct/2022 lúc 11:33am
https://www.youtube.com/watch?v=tiffmEEVhIY">
Những cây cầu nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975 | Ký Ức Sàigon <<<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Nov/2022 lúc 4:02pm
https://www.youtube.com/watch?v=Jij3YD0Q7uQ">
Chạnh lòng khi tìm về 17 RẠP CINÉ xưa ở Chợ Lớn | Sài Gòn <<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2022 lúc 4:49pm
https://www.youtube.com/watch?v=gXkvsmJIxeg - Xe gì phổ biến ở Sài Gòn trước 1975? | Ký ức Sài Gòn <<<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Dec/2022 lúc 1:18pm
Xóm Nhỏ Thời Thơ Ấu
Hẻm 58 – Đường Yên Đổ – Tân Định
Trần Đình Phước
– Kính dâng lên hương hồn song
thân, các ông bà, cô chú bác, và các bạn cùng trang lứa. Những người đã
đến và ra đi vĩnh viễn từ con hẻm này.
– Thân tặng các bạn đã từng có một tuổi ấu thơ, trong những con hẻm nhỏ thân yêu của thành phố Sài Gòn.
Dù đã bao nhiêu năm
rời xa nơi đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm. Nhưng, ký ức về tuổi thơ không
thể nào nhạt nhoà trong tôi! Xin có vài hàng ghi lại về môt con hẻm nhỏ ở
vùng Tân Định. Đó là hẻm 58, nay là hẻm số 52, còn gọi là Xóm Giếng.
Hẻm nằm trên đường Yên Đổ (tên cũ là
Champagne, và tên mới là Lý Chính Thắng.) Đối diện với đường Huỳnh Tịnh
Của (Monceaux). Hẻm cách đường Hai Bà Trưng (Paul Blanchy), khoảng hơn
một trăm thước, đi ra được hẻm 60 Cù Lao. Phía cuối xóm, cách một cái
giậu, được xây bằng gạch xi măng, đi ra được đường Hai Bà Trưng. Trước
kia, hẻm 58 là một nghĩa trang. Một người Việt mua, cất thành hai mươi
bốn căn nhà gỗ, lợp ngói âm dương, để cho bà con lao động thuê. Sau vài
năm, vì hoàn cảnh khó khăn, nên bán lại cho một công ty Ấn Độ. Mỗi đầu
tháng có một anh thư ký Chà Và, giọng nói lơ lớ, cái bụng phệ, và hai
con mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen, đến gõ cửa từng nhà để thu tiền
mướn phố. Mỗi khi thấy ông.Trẻ con trong xóm, thường lấy ngón tay cái
để lên trên mũi, rồi ngoắc bốn ngón tay còn lại, cùng chọc:” Chà Già, Ma
Ní, tí te. Cái bụng thè lè, con mắt ốc bu. Hù!Hú!Hu!”
Xin được giới thiệu Xóm Giếng của tôi như sau:
Từ ngoài hẻm đi vào:
Bên trái là phòng mạch Bác Sĩ Trần
Đình Ngân, tốt nghiệp ở ngoại quốc về. Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ.
Sau khi ông mất. Bác Sĩ VB đến tiếp tục. Bệnh nhân của Bác Sĩ VB đa số
là phụ nữ. Có lẽ ông đẹp trai, cao ráo, dáng người hào hoa, phong nhã.
Đặc biệt, đối với bệnh nhân nghèo. Ông đều giúp đỡ tận tình, chẳng những
không lấy tiền, mà còn cho thêm thuốc mang về nhà. Ngoài ra, Bác Sĩ VB
cón là Chủ Tịch Phù Luân Hội Sài Gòn và Dân Biểu Quốc Hội VNCH.
Bên phải là tiệm may Xuân Liên, cũng
là tên con gái duy nhất của ông bà chủ. Cô có gương mặt trái xoan, đẹp,
thùy mị và học giỏi. Sau này tiệm may Xuân Liên sang lại cho một phụ nữ
gốc Huế, được đổi tên thành Nhà May Phương Mai.
Hẻm 58 có một cây Mận cho trái to và
ngọt. Một cây Vú Sữa với trái cũng to, màu tím. Khi mùa mận và vú sữa
đến. Con nít trong xóm thường lén leo lên hái, hoặc dùng dép, guốc, gạch
liệng lên cây. Khi những trái mận, vú sữa rớt xuống đất. Cả đám cùng
nhau chạy đến giành giựt. Mạnh thì được, yếu thì thua. Chưa kể là quần
áo bị nhàu rách, dính đầy đất cát. Có em còn bị “lỗ mũi ăn trầu, cái
đầu xỉa thuốc.”
Cuối xóm có bốn cầu tiêu thùng. Cứ ba
đêm, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi đến dọn vệ sinh. Tên thật của
ông không ai nhắc đến. Bà con trong xóm thường gọi ông là ông Đổ Thùng.
Miệng ông lúc nào cũng nhai trầu bỏm bẻm và thường say xỉn.
Chính giữa xóm là một cái Giếng. Vì
thế hẻm còn được gọi là Xóm Giếng. Cái giếng nằm cạnh cây mận, phía
trước nhà số 58/10. Đó là nhà ông bà Tám Phùng. Ông bà có tất cả mười
một người con thứ tự như sau: Tánh, Thu, Xuân, Bé, Phụng, Huệ, Mai,
Hường, Quang, Hiền và Liêm. Khoảng giữa thập niên 60. Ông bà thầu đóng
thùng cho một cơ quan Hoa Kỳ để chuyển hàng về nước. Nên tạo công ăn
việc làm cho bà con trong xóm. Nam, phụ, nữ, ấu đều được thuê tháo,
đóng, gói thùng. Những lúc cần thùng gấp. Đèn điện sáng suốt đêm, chuyện
trò huyên thuyên.Tiếng búa, tiếng đinh nện rầm rập như hò kéo gỗ, nhưng
không thấy ai khiếu nại hay than phiền gì hết!
Một gia đình đông con thứ hai là nhà
ông bà Tư Bụng – 58/22. Các con của ông bà được đặt tên rất có vần, tựa
như thơ: Hồ, Sơn, Hải, Hà, Lâm, Chung, Thủy. Theo bà con lớn tuổi trong
xóm cho biết. Ông bà sinh đứa con gái đặt tên Chung là coi như khoá sổ,
không tiếp tục sanh nữa. Nhưng năm sau, bể kế hoạch, thêm người con gái
út ra đời là Thủy.
Xóm Giếng có bốn gia đình làm bánh
cuốn tráng hơi. Vừa bán lẻ cho bà con trong xóm và các xóm lân cận, vừa
bỏ mối cho bạn hàng ở các chợ Tân Định, Đa Kao và Phú Nhuận: Bà Thọ
(58/5), Bà Tỵ (58/6), Bà Thi (58/12) và Bà Trỉển (58/24). Cả bốn bà đã
lần lượt, cùng hẹn gặp nhau dưới suối vàng mở Câu Lạc Bộ Làm Bánh Cuốn
Tráng Hơi. Trong bốn bà tráng bánh cuốn, chỉ có nhà bà Thọ có cối xay
bột bằng đá. Chồng bà và các con thay phiên nhau xay cho khách, để về
làm bánh xèo, bánh bèo…Riêng ba bà kia phải nhờ nơi khác xay.
Muốn tráng thành một cái bánh cuốn.
Phải trải qua nhiều công đoạn và kỹ thuật. Bắt đầu từ chọn gạo thích
hợp, ngâm nước trước. Sau đó xay thành bột. Nhưn bánh cuốn gồm: hành
tím, củ sắn, nấm mèo, tóp mỡ. Gạo không đúng, pha nước nhiều, pha không
đúng cách, đến khi tráng sẽ không ra được bánh. Nếu nhưn băm không
nhuyễn, lúc cuốn lại bánh sẽ rách. Tay mà lọng cọng, khi lấy bánh từ
khuôn trong nồi ra, sẽ rơi xuống bếp lửa. Khuôn được làm bằng tre hay
kim loại, cuốn vòng tròn theo miệng nồi.Vải bọc khuôn thường dùng loại
Popeline ba trái đào. Thời đó chỉ nấu bằng củi. Nên luôn luôn phải thật
cẩn thận. Lơ đễnh một chút là có thể gây ra hoả hoạn. Sau khi tráng bánh
cuốn xong. Củi lửa được dập tắt, còn lưu lại một ít than vụn. Than này
được bán lại cho những người quạt bánh tráng, bán bắp nướng, bán hột vịt
lộn…Sau này không còn dùng củi, chuyển sang nấu bằng dầu hôi, nên đỡ
vất vả hơn.
Bà Cà, còn có tên là bà Bản là chủ bánh cuốn Tây Hồ – Đa Kao,
đã từng đến đây học nghề, trước khi mở quán bánh cuốn bình dân ở đền
thờ Phan Chu Trinh từ năm 1960. Sau năm 1975. bánh cuốn Tây Hồ chuyển ra
đường Đinh Tiên Hoàng, góc Huỳnh Khương Ninh, nằm đối diện xe bánh mì
Bảy Quang. Bà Cà mất năm 2005. Hiện nay hai người con gái và một con
trai phát triển thành ba tiệm bánh cuốn Tây Hồ.
Căn nhà ông bà Thọ – 58/5 tuy nhỏ.
Nhưng vào năm 1954 đã chứa được bốn gia đình. Trong số đó có gia đình
ông bà Dậu và con trai tên Bình, tên gọi ở nhà là Dậu, vì tuổi con Gà
(Ất Dậu – 1945). Một thời gian sau. Ông bà Dậu dọn qua xóm Lách. Sau đó
chuyển sang hẻm số 288. Còn được gọi là hẻm Bắc Kỳ Di Cư. Có lẽ, hầu hết
bà con trong hẻm đều đi cư từ miền bắc vào? Phở Bà Dậu – Công
Lý bắt đầu từ đây. Khởi nghiệp với một chiếc xe nhỏ, hai cái bàn cũ kỹ,
vài cái ghế thấp lè tè, được che bằng tấm bạt nylon, núp dưới tàn cây
trứng cá. Phở bà Dậu có hương vị đặc biệt và bí quyết riêng so
với các nơi khác, nên khách kéo đến thưởng thức mỗi ngày một đông hơn.
Giá bán một tô phở không thuộc loại bình dân, nên đa số khách đến thưởng
thức đều khá giả, có thêm một số khách từ phương xa nghe tiếng đến ăn
cho biết.
Bà Dậu Công Lý và Bà Cà Bánh cuốn Tây
Hồ đã mất. Tuy nhiên, các con của hai bà vẫn tiếp tục sự nghiệp Phở và
Bánh Cuốn tại Sài Gòn. Hai bà không có con cháu đang sống ở nước ngoài!
Nếu như ở nhiều nơi. Chúng ta thấy các nhà hàng treo bảng hiệu và quảng
cáo Bánh Cuốn Tây Hồ và Phở Bà Dậu chính gốc. Đó chỉ là bắt chước tên.
Có lẽ! Các chủ nhân thấy hai cái tên này có tiếng tăm, nên tự động đặt
tên cho quán mình, nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách, và nhân tiện nhắc lại
một chút kỷ niệm về ăn uống của Sài Gòn trước năm 1975.
Một căn nhà khác là nhà ông bà Tư Đun –
58/21. Ông hành nghề hớt tóc ở hẻm 32, đường Yên Đổ, kế bên nhà thuốc
Đông Y Trần Gia Viên và lò bánh mì Thuận Thái. Đồ nghề của ông gồm: một
cái ghế, một cái kiếng, một cái thùng nhỏ đựng tông đơ, kéo, dao cạo,
chai xịt nước, cái khăn lông và một sợi dây nịt bằng da để mài dao cạo.
Vào dịp tựu trường hay sắp Tết, khách hàng của ông rất đông. Ngoài 80
tuổi, ông vẫn chưa chịu nghỉ. Ông mất năm 2010, lúc chín mươi chín tuổi
rưỡi. Ông thích chơi số đề và thường chọn con số 11(con chó nhỏ.) Hôm
nào ra số 11 là coi như 100% ông trúng.
Nếu ra con chó lớn 51 và 91 thì ông
lầm bầm, tiếc hùi hụi. Vợ ông, bà Tư khô mực, bán đủ các loại khô. Bắt
đầu từ sáu giờ chiều cho đến nửa đêm về sáng, trước hẻm 60 – Cù
Lao. Bà chọn khô mực rất kỹ. Con nào, con nấy đều đáng đồng tiền bát
gạo. Khô được nướng trên than hồng. Sau đó, dùng búa đập khô trên cục đá
hình tròn, giống như cái thớt. Rượu Đế Gò Đen chính hiệu con nai vàng.
Các con khô được treo lủng lẳng rất hấp dẫn. Rượu được bày trên một cái
bàn nhỏ, được chứa trong các chai loại một lít. Khách của bà hầu hết là
dân lao động. Ban ngày lo đi cày. Chiều tối về ghé lai rai vài chung lấy
sức, quên đi một ngày mệt nhọc. Cuối tuần rủng rỉnh thì chơi vài xị cho
quên sầu đời! Sau đó về nhà la lối vợ con, rồi đi ngủ. Bà Tư đã mất.
Hiện nay sự nghiệp khô mực, do hai con gái bà vẫn còn độc thân quán
xuyến. Bàn khô mực của bà Tư Đun, tính ra đã trên nửa thế kỷ. Cục đá
dùng đập khô mực vẫn bền bỉ, chịu đựng theo thời gian. Có lẽ, nó được
xếp vào loại đồ cổ.
Một gia đình nữa, mà bà con lối xóm và
các xóm chung quanh kiêng nể là gia đình bà Chín Thủng – 58/4. Bà Chín
cùng hai con gái là Lùn và Queo, hành nghề gánh nước mướn,
chuyên cung cấp nước cho các xe bán hàng ăn uống trong vùng và một số
nhà trong xóm. Nhà bà có mấy chục đôi thùng loại hai mươi lít, dùng đựng
dầu hôi, hiệu con gà. Tất cả xếp dọc theo máy nước, chưa kể là những
thùng móp, méo, thùng rác cũng được gia đình bà đem sắp hàng. Tự cho
mình chiếm lãnh độc quyền máy nước một vòi, nằm ở đầu hẻm 60 – Cù Lao.
Lúc nào cũng dành ưu tiên hứng trước. Chỉ nhường lại cho thiên hạ, khi
phải quảy gánh đi giao nước. Ai cự nự, yêu sách, lý sự, đòi hứng trước
là cả gia đình bà nhào tới. Hai tay cầm đòn gánh khua như múa võ Sơn
Đông, miệng chửi thề, đập thùng, khiến ai ai cũng xếp re. Vì thế, để
tránh đụng chạm, nhiều người phải chờ đến ban đêm mới dám ra hứng.
Sau này, nhiều gia đình trong xóm được
gắn vòi nước vô trong nhà, nên ít ai thuê gia đình bà bỏ nước nữa! Từ
đó công việc gánh nước mướn của gia đình bà Chín bị ảnh hưởng. Các con
bà chuyển sang bán rượu bình dân trước mái hiên nhà. Khách nhậu ngồi
trên bộ ván nhỏ. Vài cái bàn và các chiếc ghế xập xệ đặt choán cả lối
đi. Bà con trong xóm không ai dám lên tiếng, vì ngán những cái miệng dữ
dằn của gia đình này. Các anh xích lô, ba bánh, xe ôm, thợ nề, thợ mộc,
mua ve chai…thường kéo đến nhậu từ sáng cho đến tối. Say quá, nên xả súp
bắp ngay đầu hẻm, làm ô uế cả xóm. Chưa kể lúc quá say, hát hò, rượt
đuổi con nít và phụ nữ đi ngang qua chạy có cờ. Đôi khi cùng bàn nhậu,
lời qua tiếng lại. Ai cũng cho mình đúng, người khác sai. Thế là xảy ra
ẩu đả, làm ồn ào, mất trật tự, náo loạn cả xóm. Phường, khóm phải đến
giải quyết và cảnh cáo. Im im được vài ngày. Rồi đâu cũng vào đó!
Quán nhậu vẫn tồn tại cho đến ngày
nay, do cháu nội gái bà tiếp nối. Một cháu nội trai của bà tên Ngh..,
tức Ngh.. chó, cầm đầu một đám đàn em ở cầu Kiệu, chuyên săn bắt chó từ
trong thành phố, ra đến ngoại ô, và các vùng lân cận, để cung cấp cho
các quán cờ Tây. Chó kiểng, chó đẹp thì cho chủ nhân chuộc theo luật
giang hồ.
Đối diện nhà bà Chín Thủng là nhà ông
bà Sáu Hạnh – 58/8. Căn nhà nằm cạnh một khoảng đất trống, sát bên cái
giếng. Con nít trong xóm thường kéo đến đây chơi: bắn đạn, tạt lon, tạt
hình, đá banh, đánh đáo, năm mười, bắt cú, giựt khăn, u bắt mọi, nhày
dây, nhảy lò cò, đá cầu, đánh bông vụ… Nên la hét, ồn ào. Do đó, ông Sáu
thường lấy vòi nước ra xịt, làm ướt đất, không thể nào chơi được. Đôi
khi đang lum khum kè đạn vô lỗ, đang lừa banh, chuẩn bị sút, hay đang
quất bông vụ. Thình lình, ông Sáu xuất hiện, tay ông lẹ làng tịch thu
các chiến lợi phẩm. Dân chơi con nít chỉ biết lo bỏ của chạy lấy người.
Sau đó, đứng từ xa. Đếm một, hai,ba. Cùng la:” Ông Sáu
Già, Bẹt Cà Na. Chết thành Ma. Là Lá La.!”Lâu lâu, ông phục kích chộp
được một em nào chậm chân. Ông lôi xềnh xệch, đem tới nhà méc cha mẹ.
Thế là em bé nạn nhân bị cha mẹ đánh đòn, để cho ông Sáu mát lòng, hả
dạ. Có trường hợp đang lôi gần đến nhà. Các em cắn vào tay ông Sáu. Bị
đau quá, nên ông buông tay ra. Thế là! Em thoát nạn. Ông chỉ còn nước,
đứng chửi thề, đưa tay lên trời và hứa hẹn. Lần sau các con sẽ không bao
giờ thoát tay QUA đâu! Có thể nói ông Sáu là hắc tinh, là hung thần của
con nít xóm Giếng. Bây giờ ông đã đi xa! Lâu lâu nhắc lại về ông, cũng
thấy một thoáng chút bùi ngùi!
Con trai duy nhất của ông bà Sáu Hạnh
là Trưởng Hướng Đạo Việt Nam kỳ cựu, Nguyễn Hiếu Trung . Đạo Trưởng Đạo
Bến Nghé, thuộc châu Gia Định. Lúc đó, hầu hết thanh thiếu niên trong
xóm đều được khuyến khích tham gia hướng đạo với sự giúp đỡ của Trưởng
Trung và các Trưởng khác trong Đạo Bến Nghé. Nhưng thời gian sau rơi
rụng dần. Có lẽ hơi tốn kém, mất thời giờ, cha mẹ không thể nào lo xuể
vì phải tìm kế sinh nhai. Tuy nhiên, nhờ phong trào Hướng Đạo, mà đã
thay đổi được một số trẻ em trong xóm, được sống tốt, đàng hoàng. biết
lễ phép và có tấm lòng tha nhân.
Hiện nay vẫn còn vài em, ngày xưa tham
gia hướng đạo, đang còn tiếp tục cuộc chơi HĐ, để giữ lửa cho phong
trào. Trưởng Trung có giọng hát rất hay, cao vút, thuộc ca đoàn nhà thờ
Tân Định. Sau này, gia đình chuyển vô cư xá Nha Căn Cứ Hàng Không, nằm
trong phi trường Tân Sơn Nhất. Hai ông bà cũng có nhiều con: Nga ,
Hoàng, Long , Lân, Phụng…
Xin viết thêm ở đây. Gia đình cua rơ
xe đạp Nguyễn Văn Châu đã từng thuê căn gác nhỏ của số nhà 58/8, để trú
ngụ. Cua rơ Nguyễn Văn Châu đã làm rạng danh nền thể thao nước nhà, mà
cho đến nay, chưa có bất cứ tay đua xe đạp nào của Việt Nam làm được như
ông “Thành tích lẫy lừng và vang dội của ông là trong cùng năm
1961. Ông đoạt chức vô địch xe đạp nước rút Á châu ở Đông Kinh và Vô
địch Đông Nam Á Vận Hội ở Ngưỡng Quang.”
Bây giờ tay đua Nguyễn Văn Châu đã
ngoài 80 tuổi. Hiện ông phụ con trai, bán bánh bèo bì, bánh canh và cơm
tấm trên đường Hai Bà Trưng, dưới dốc cầu Kiệu, gần thuốc cam Hàng Bạc,
hướng về phía chợ Tân Định. Quán cũng tương đối đông khách, nhờ ngon,
giá bình dân và tiếng tăm của tay đua vô địch Nguyễn Văn Châu hồi xưa,
còn lại một chút dư âm.
Tiếp đến số nhà 58/17 của ông bà Yến.
Vì ông bà có hai người con gái tên Yến: Yến chị và Yến em. Cô Yến chị
lập gia đình rất sớm. Yến em đẹp hơn, có chồng là Đại úy Địa Phương Quân
tên H.. tử trận ở Long An. Yến em là quả phụ ở tuổi chưa đầy ba mươi.
Với sắc đẹp dễ nhìn, có nhiều người muốn đi tới. Nhưng Yến em ở vậy thờ
chồng nuôi con. Hiện nay đã là bà ngoại. Ba của hai cô Yến là ông
HĐM là thư ký trường Đại học Luật Khoa Sài Gòn. Năm nào cứ sắp đến mùa
thi là sinh viên thường ghé thăm, tặng quà cho ông. Chắc là có bàn tay
ông đã giúp đỡ gì đó cho họ?
Bà Yến bán hủ tiếu bò kho bình dân. Bà
con trong xóm kéo đến ăn đông vào buổi sáng, vì giá rất rẻ. Người nào
đi làm, sau khi ăn xong, mua bỏ vào gà mên mang theo ăn trưa. Bếp nấu
của bà nằm phía sau, gần sát bên xóm Giậu. Đặc biệt, bà rất mát tay. Ai
đau yếu, tứ thời cảm mạo. Dù đêm hôm, mưa gió. Bà cũng sẵn sàng đến nhà
để cạo gió, cắt lể. Đồ hành nghề của bà là đồng xu nhỏ bằng bạc để cạo,
cái móc tai để lể và lọ dầu cù là Mác Xu để thoa. Nhiều người nhờ bà,
khỏi tốn tiền thuốc men hay đi bác sĩ. Sau đó, họ đến ăn ủng hộ bò kho
của bà.
Cháu ngoại bà tên Trung, con gái đầu
lòng của chị Hảo (con gái thứ hai của bà), đang bán chè bình dân trước
hẻm. Chỉ bán vào ban đêm từ 8 giờ đến khoảng nửa khuya. Lúc đầu rất ế
ẩm. Bây giờ tiếng tốt đồn xa. Ngon và rẻ. Khách kéo đến ăn nườm nượp,
ngay cả những người nước ngoài cũng đến thưởng thức. Hôm nào ế ẩm thì
các công nhân làm vệ sinh đêm, hay không nhà được cô Trung đãi chè miễn
phí. Chỉ quán chè xập xệ, mà nuôi các con đều học thành tài.
Căn nhà tiếp theo số 58/23. Nhà ông bà
Đĩnh hay còn gọi là Chung. Nhà toàn là con gái. Ông bà chỉ có một quý
tử tên Chung. Ông bà rất nuông chiều cậu quý tử này. Anh Chung muốn bất
cứ gì cũng được ông bà tối đa thoả mãn. Vùng Yên Đổ, có lẽ anh Chung là
người chạy Lambretta màu đỏ trắng đầu tiên. Đi lính anh cũng là lính
kiểng. Quanh năm suốt tháng đều thấy tà tà ở Sài Gòn. Anh là dân chơi
thứ thiệt, nhưng không mang tai, mang tiếng. Tứ thứ ăn chơi trên cõi đời
ô trọc, anh đều tham gia tới nơi, tới chốn. Năm nay, tuổi đã ngoài bảy
mươi. Con cái anh đều thành công. Không đứa nào noi gương anh. Đúng là
“Hổ phụ sanh. Nhưng, Hổ không tử.“
Kế bên là căn nhà 58/24 của ông bà
Triển. Gia đình ông bà kiếm thêm thu nhập nhờ hai bàn đá banh tay. Con
nít trong xóm và các xóm lân cận đến chơi từ sáng đến tối. Hai con trai
chủ nhà tên Tân và Mậu có cú lừa banh tuyệt cú mèo. Lừa tới, lừa lui,
lừa xuôi, lừa ngược. Khi thấy đối thủ hơi lơ là, không cảnh giác, bèn
đưa ngay một cú “dít” ngọt xớt như cơm sườn vào lỗ, làm bể thùng nước
lèo đối phương. Thế là bên ngoài khán giả con nít vỗ tay tán thưởng rầm
rộ. Muốn chơi đá banh bàn, phải bỏ đồng năm cắc có hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm
vào lỗ ở phía dưới, nằm giữa bàn. Sau đó giựt mạnh thì banh mới xuống.
Có nơi chủ bàn để năm trái banh, có nơi bảy hay chín trái. Luôn luôn là
số lẻ. Kết thúc những trận đá banh. Hầu hết các đấu thủ, quần áo, mặt
mũi dính dầu nhớt tùm lum.Về nhà không thể nào giấu cha mẹ được. Đương
nhiên là bị đòn!
Kể thêm một căn gia đinh chuyên làm
bìa lịch cho các công ty, hãng xưởng, dùng làm quà quảng cáo cuối năm –
số 58/11. Do anh Phú làm chủ. Vì làm lịch, nên bà con gọi anh là anh Phú
Lịch. Mỗi năm gia đình anh chỉ cần làm vài tháng là dư sống cho suốt
năm. Vào mùa làm lịch đến. Bà con trong xóm có thì giờ rảnh, thường được
anh thuê để phụ. Kẻ dán hồ, người cắt bìa, đục lỗ. Nếu tay nghề cao hơn
thì được giao phụ trách mạ chữ vàng. Làm thâu đêm, suốt sáng để cung
cấp cho kịp thời cho khách hàng. Xích lô, ba bánh vô ra nườm nượp để
chuyển lịch vừa làm xong.
Căn nhà tiếp theo – 58/14 của ông ba
Hoá. Ông chuyên môn ráp kiếng gió xe và lót cao su đệm cửa cho xe hiệu
Peugeot. Lúc đầu, ông làm cho Sàigòn Xe Hơi Công Ty, nằm trên Đại Lộ
Thống Nhất, đối diện Nhà Thờ Đức Bà – Sài Gòn, hay còn được gọi là Vương
Cung Thánh Đường. Về sau, ông xin nghỉ ở đây, để làm tại nhà. Các chủ
xe thường tìm đến nhà ông làm, vì giá rẻ và không phải chờ lâu. Ông bà
không có con. Nên, nhận ba đứa con của người em, về làm con nuôi và cho
ăn học đàng hoàng. Nhưng, chẳng đứa nào ra cơm cháo gì hết!
Và căn nhà cuối cùng là nhà của vợ
chồng anh Chính – 58/22. Anh là võ sư Thái Cực Đạo. Cựu quân nhân Không
Quân VNCH. Các con anh đều được học võ từ nhỏ. Anh bắt các con anh tập
miệt mài: đấm, đá, giựt cùi chỏ, lên gối vào bao gạo, nhét đầy vải vụn.
Anh hy vọng các con sẽ nối nghiệp võ của mình. Anh qua đời ở San José,
vì căn bệnh ung thư, khi tuổi ngoài 50. Con trai đầu lòng của anh là Võ
Sư Nguyễn Thạc. Hiện mở võ đường Thái Cực Đạo, mang tên Thanh Long,
thuộc thành phố Milpitas – miền bắc California. Số võ sinh đến thọ giáo
rất đông.
Chuyện hẻm 58 – Xóm Giếng cũng giống
như muôn ngàn con hẻm nhỏ bình dân của Sài Gòn trước kia. Sáng, trưa,
chiều, tối với những tiếng rao hàng lanh lảnh: bánh giò, bánh chưng,
bánh cúc, bánh gai, bánh xu xê, khoai mì chà bông, huyết heo luộc, xôi
nếp than, bánh bèo, bánh ít trần, bánh ướt, chuối xào dừa, chuối chiên,
chuối nấu, cốm dẹp, chè đậu xanh bột bán, chè thưng, chè táo xọn, chè
hột me, bắp nấu, me ngào, bánh tráng kẹo, bánh bò, bánh da lợn, bánh căn
bà ba, ốc gạo, ốc len xào dừa,…Tiếng thu mua zàng zụng, pạc zụng, ve
chai, quần áo cũ, tủ giường cũ, đồ sắt, đồ đồng, đồ nhôm, hằm bà lằng
bán hôn !…Ngoài ra, còn tiếng lóc cóc, có nhịp, có điệu của các xe mì
bình dân, gõ trên hai miếng tre, vào giữa đêm thanh vắng.
Trẻ con thích nhất là tiếng rao của
ông bán kẹo kéo:” Ông Tây mà lấy bà Đầm. Thấy hàng kẹo kéo, chạy ầm ra
mua. Ông thì bảo bà mua. Bà thì bảo túa lua hết tiền,” hay” Cô kia, vừa
thấp, vừa lùn. Ăn đồng kẹo kéo, nó đùn cô cao.”
Xóm Giếng, hay các xóm nhỏ ở
Sài Gòn không khác nhau là bao nhiêu! Thanh thiếu niên dễ bị cám dỗ, sa
đoạ bởi nhiều thói hư, tật xấu và tệ đoan xã hội. Từ đó sinh ra lêu
lổng, đàn đúm, kết bè, kết đảng, bỏ học và phạm tội. Rồi sau đó vào tù,
ra khám. Thanh thiếu niên xuất thân nơi đây, khó có cơ hội và điều kiện,
để tiến bước trên đường học vấn. Cha mẹ thì lao động chân tay,
chữ nghĩa kém cỏi, không có thì giờ gần bên con cái, để dạy dỗ và săn
sóc. Quanh năm, suốt tháng, quần quật chạy toát mồ hôi, mới lo được
miếng ăn cho gia đình, thì làm sao có thể lo được cho con cái mình được
cái chữ, cái nghĩa với đời! Tuy nhiên, vẫn có một số em đã vượt qua được
nghịch cảnh của gia đình. Cố gắng, chăm chỉ học hành trong hoàn cảnh
khó khăn. Tránh xa mọi sự lôi kéo đưa đến hư hỏng. Nên thoát khỏi vòng
dây oan nghiệt này! và tìm được chỗ đứng trong xã hội!
Còn rất nhiều điều để viết về con hẻm
số 58, Yên Đổ. Xin được phép dừng ở đây! Xin cầu chúc những người Xóm
Giếng cũ đã đi xa. Giờ này, họ đang sống an bình nơi cõi vĩnh hằng như:
ông bà Cả, ông bà Hai Miên, ông bà Ba Hoá, ông bà Tư Bụng, Ông Tư Đen,
Ông bà Tư Đun, ông bà Năm Quí, ông bà Sáu Báu, Ông bà Sáu Lộ, ông bà Sáu
Chái, ông bà Sáu Hạnh, Ông bà Bảy Lô, Ông bà Tám Phùng, Ông bà Chín
Thủng, ông bà Mười Lác, ông bà Thọ, ông bà Triển, ông bà Thi, ông bà Tỵ,
ông bà Đội Phổ, ông bà Yến, ông bà Sĩ, ông bà Chung, ông Hai On, bà Hai
Mập, bà Ba Thông, bà Tư bún Tàu, Bà Năm Đủ, ông Năm Tỵ, ông Bày Bò, bà
Bảy Long, bà Tám Xuân, anh Tánh, anh Hồ, anh Hà, anh Lâm, anh Sơn, anh
Tụ, anh Thành Ba Lù, anh Thành mập, Chị Lùn, chị Viễng, Chị Nguyệt, chị
Bé, chị Ba…
Hầu hết các căn nhà trong xóm đã đổi
chủ mới. Được xây dựng lại thành các căn phố lầu. Chỉ còn lại khoảng vài
căn trước kia giữ dáng dấp cũ. Bây giờ, xóm Giếng không còn khoảng đất
trống cho trẻ em vui chơi như ngày xưa. Cái Giếng cũng đã lấp, cây cối
đã bị chặt bỏ hết. Người lớn tuổi đã theo Trời, theo Phật, theo Ông Bà
về bên kia thế giới. Một số khác đã giã từ con hẻm đi nơi khác lập
nghiệp, hoặc đang sống tha phương nơi xứ người.
Cuối cùng. Xóm Giếng chỉ còn trong nỗi nhớ khôn nguôi mà thôi!
Xin được chào Xóm Giếng thân yêu của tôi!
Trần Đình Phước
(San José, California)
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Dec/2022 lúc 9:59pm
https://www.youtube.com/watch?v=9Ownonfokx4 - Đức tính ân cần của người Sài Gòn <<<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Jan/2023 lúc 7:00pm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Jan/2023 lúc 7:07am
https://www.youtube.com/watch?v=xlYiSlIdm28 -
Tết Sài Gòn xưa trước năm 1975 - Những hình ảnh quý hiếm - < - < - <
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Mar/2023 lúc 2:07pm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Mar/2023 lúc 9:18am
Những biểu tượng của Sài Gòn trong ký ức tuổi thơ của tôi
Tuy không phải sinh ra ở Sài
Gòn nhưng tôi sống ở Sài Gòn khi còn rất nhỏ khoảng 2 hay 3 tuổi. Đến
khi trí óc tôi có thể ghi nhận những hình ảnh và sự kiện chung quanh
mình thì ngày nay những thứ đó không còn thấy nữa. Tất cả chỉ còn là
những kỷ niệm và bây giờ đối với tôi đó là những kỷ niệm đẹp.
Lúc tôi 6 hay 7 tuổi, tức là khoảng
năm 1950, 1951 thì thời đó chưa có TV. Điện ảnh Việt Nam còn trong trạng
thái phôi thai, các rạp chiếu bóng thì chỉ chiếu các phim nói tiếng
Pháp và lâu lâu tôi mới được ba tôi dẫn đi xem. Nhưng tôi rất mê các
phim hoạt họa và phim diễu của Charlot. Vì thế dù chỉ được má tôi cho 5
cắc cho buổi học sáng và 3 cắc cho buổi học trưa, tôi cũng ráng để dành
vài cắc chờ chú có xe chiếu bóng thùng đến để bỏ tiền xem những phim
mình ưa thích.
Chú này đi một chiếc xe đạp chở ở phía
sau porte-bagage một cái thùng sắt mà hai bên hông và phía sau thùng có
đục những cặp lỗ để khán giả con nít đặt hai mắt vào xem phim chiếu từ
một máy chiếu phim quay tay đặt phía trước thùng. Ngoài những phim hoạt
họa hay phim Charlot, chú còn chiếu phim phong cảnh đẹp trên thế giới.
Lúc đó chú sẽ “thuyết minh” cho các khán giả con nít tên của thắng cảnh
và đặc điểm của chỗ đó.
Có khi không đủ tiền xem hát tôi và
một thằng bạn hùn lại để mỗi đứa xem một con mắt. Khi tới pha cụp lạc
trong phim chúng tôi cũng biết vỗ tay tán thưởng.
CHÚ BÁN KẸO KÉO
“Cô kia chồng bỏ chồng chê,
“Ăn cây kẹo kéo chồng mê tới già”
Con nít thường thích ăn kẹo. Tôi cũng
không là ngoại lệ. Mỗi khi nghe chú người Bắc bán kẹo kéo rao hàng bằng
hai câu thơ trên thì dù đang bắn bi hay tạt lon với các bạn, tôi cũng bỏ
cuộc chơi chạy ra bỏ vài cắc để dành để mua một khúc kẹo kéo.
Trên một tấm gỗ cột ở cái porte-bagage
của chiếc xe đạp là một bao vải đưng một khối kẹo kéo thật to. Sau khi
bỏ tiền vào túi chú bán kẹo kéo, mở miệng bao ra lấy tay nắm phần đầu
khối kẹo và kéo ra thành một khúc dài và nhỏ đoạn bún tay cắt một đoạn
kẹo giao cho khách. Người khách nhỏ tuổi sẽ tiếp lấy ngậm một phần kẹo
vào miệng để thưởng thức vị ngọt lịm bên ngoài rồi cắn đứt phần đó ra để
nghe vị béo của các hột đậu phọng bên trong.
Khi nào không có tiền mua, nhìn mấy đưa bạn đang mút những khúc kẹo kéo béo ngọt mà tôi thèm đến chảy nước miếng.
SƠN ĐÔNG MÃI VÕ
Con nít có tính hiếu kỳ, thuở nhỏ tôi
cũng vậy. Tôi mê những màn quảng cáo thuốc cao đơn, hoàn tán, thuốc trị
đau nhức hay xổ lãi, dầu cù là hay nhổ răng dạo có kèm những màn xiệc,
ảo thuật hay múa võ.
Nhưng hấp dẫn nhứt là màn con khỉ mặc
quần áo đỏ cỡi xe đạp chạy vòng vòng hay những màn phóng dao. Giữa những
màn đó, người ta đem sản phẩm ra rao bán hay mời một người trong đám
khán giả vào thử thuốc hay nhổ răng.
Còn màn tôi phục nhứt là vận nội công
chặt bể một chồng gạch. Nghe nói xuất xứ của nghề Sơn Đông mãi võ là từ
môn phái Bắc Thiếu Lâm ở tỉnh Sơn Đông bên Trung Quốc. Ban đầu, là những
võ sĩ đi rong biểu diễn võ thuật để xin tiền như chúng ta trông thấy
trong các phim bộ võ thuật Hồng Kông. Sau khi du nhập vào Việt Nam nghề
đó trở thành bán thuốc dạo có biểu diễn vỏ thuật rồi dần dà trở thành
như một gánh hát lưu động diễn đủ trò như nói trên.
Màn “đứng tim” nhứt là phóng dao. Một
thiếu nữ đẹp đứng dang tay trước một tấm bảng gỗ. Đứng trước cô vài
thước là một người đàn ông lần lượt phóng những con dao cắm vào bảng gỗ
sát thân người của thiếu nữ. Ai cũng khen tài phóng dao của người đàn
ông nhưng không quên phục sự can đảm của cô thiếu nữ.
Khán giả con nít chúng tôi hào hứng vổ tay từng chập cho những màn gay cấn.
GÁNH NƯỚC PHÔNG TÊN
“Trăng đêm nay dìu dịu cả không gian. Tôi với em đi gánh nước cạnh đình làng”
Thời thơ ấu, bài vọng cổ Gánh Nước Đêm
Trăng của Viễn Châu với giọng ca “não ruột” của Út Trà Ôn từ nhà bên
cạnh vọng sang lúc ban đêm làm tôi thao thức không ngủ được trong căn
gác nhà tôi ở quận 4. Nhưng đó là cảnh gánh nước giếng ở vùng quê, ở Sài
Gòn khi tôi còn nhỏ thì ở các khu lao động có những vòi nước công cộng
mà người dân gọi là phông tên nước âm từ tiếng Pháp fontaine.
Tôi còn nhớ mỗi đêm tôi phải mang hai
thùng thiếc, loại thùng dầu ăn đã dùng hết dầu, đục bỏ nắp thùng rồi
đóng một cán gỗ để gánh hay xách, ra chỗ phông tên sắp hàng đợi đến lượt
mình hứng nước.
Sở dĩ má tôi sai tôi sắp hàng hứng
nước ban đêm vì ban ngày người lấy nước đông hơn, hàng thùng chờ hứng
nước có khi dài cả trăm thước. Khi hứng nước xong thì người chị họ tôi
(ở dưới quê lên ở nhà tôi để đi học) gánh về.
Phông tên ở khu vực nhà tôi nằm trên
đường Tôn Đản gần ngả tư Tôn Đản và Đỗ Thành Nhân (nay là Đoàn Văn Bơ). Ở
đây có những tay anh chị làm “đầu nậu” bắt chúng tôi phải nhường cho
gia đình họ lấy nước trước.
Từ ngữ “Marie phông tên” xuất xứ từ
những vòi nước công cộng này để chỉ những người phụ nữ giúp việc nhà cho
những gia đình giàu có.
Cái nhiệm vụ sắp hàng chờ hứng nước ở phông tên được tôi vui vẻ thi hành vì là con nít nên “khoái” thức đêm chơi.
CHIẾC XíCH LÔ MÁY VÀ BÀ NGOẠI TÔI
Tôi còn nhớ, khi còn nhỏ, có những
buổi chiều một chiếc xích lô máy dừng trước cửa nhà tôi với tiếng kêu
quang quác của những con gà. Đó là những lần bà ngoại tôi từ Trà Vinh
lên thăm gia đình người con gái đầu lòng là má tôi.
Lần nào cũng vậy, bà đem lên những bao
gạo, những con gà và những đòn bánh tét. Và đối với tôi, quan trọng
nhứt là những đòn bánh tét, mùi nếp thơm, vị nhân đậu xanh với một cục
mỡ ở giữa thật là béo ngậy, hấp dẫn.
Vào thời đó, xe xích lô máy rất thông
dụng trong việc di chuyển nhứt là để chuyên chở các hành khách có hành
lý cồng kềnh khá nặng. Những người dưới quê lên Sài Gòn tiếp tế cho gia
đình, khi bước xuống xe đò ở bến xe lục tỉnh lúc nào cũng gọi một xe
xích lô máy để chở mình và đồ đạc về nhà người thân.
Bây giờ ở Sài Gòn, xích lô đạp còn tồn
tại một ít, trang trí hoa hoè để chở khách ngoại quốc hay xập xệ để chở
đồ cho bạn hàng các chợ. Còn xe xích lô máy thì đã biến mất có lẽ vì
quá ồn ào và ô nhiểm nên bị cấm lưu hành.
Trước 1975, tôi thường gặp quái kiệt
Trần Văn Trạch với mái tóc dài bất hủ ngồi xe xích lô máy chạy quanh các
đường phố Sài Gòn chắc là để tìm nguồn cảm hứng cho những bài hát hài
của ông.
Lúc còn học tiểu học, tôi thích các cuốn tập hiệu xích lô máy vì các trang giấy trắng và láng.
MÔ TÔ BAY
Hiện nay một đoàn xiệc nổi tiếng khắp
thế giới là đoàn Cirque Du Soleil của Canada. Người sáng lập ra đoàn
xiệc này là Guy Laliberté. Ban đầu, ông ta và một vài người nữa lập
thành một nhóm nhỏ chỉ biểu diễn ngoài đường phố ở Montréal. Về sau, ông
ta quy tụ thành một gánh xiệc lớn biểu diễn khắp nơi trên thế giới.
Dieexnvieen của đoàn xiệc nà đa số là người Nga, Trung Quốc và Mông Cổ.
Ông ta giàu đến nổi dám bỏ ra vài triệu để lên phi thuyền du lịch trên
không gian và mua một cái đảo ở Thái Bình Dương.
Lúc còn nhỏ tôi được ba má tôi dẫn đi
xem xiệc mô tô bay. Khán giả lên cầu thang đứng trên một sàn gỗ quanh
một tường thành hình cầu đường kính 7, 8 mét ghép lại bằng những mãnh
gỗ. Một người biểu diễn chạy một chiếc mô tô quanh vách thành tròn từ
thấp lên cao rồi từ cao xuống thắp. Có khi người ấy buông hai tay hay
đứng trên yên xe để chạy quanh như vậy. Màn trình diễn làm khán giả toát
mồ hội lạnh.
Một trong nghệ sĩ mô tô bay nổi tiếng là danh ca Bạch Yến (tên tuổi cô gắn liền với bản nhạc Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương).
Lớn lên, học vật lý tôi mới hiểu sở dĩ
xe mô tô và người lái không bị trọng lực làm rơi xuống là nhờ sức ly
tâm và tốc độ càng cao thì sức ly tâm càng lớn làm bánh xe hít chặt vào
thành khối cầu.
Ngày nay, xiệc mô tô bay đã mai một chỉ còn một vài đoàn ở miền Bắc và miền Tây nước ta.
XE NGỰA
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng Long thành hoài cổ-Bà Huyện Thanh Quan)
Tôi ở quận 4, gần ngả tư Tôn Đản và Đỗ
Thành Nhân nơi có chợ chồm hổm Cầu Cống. Thuở nhỏ, mỗi sáng tinh sương,
còn nằm trên giường tôi đã nghe tiếng lốc cốc của chân xe ngựa từ xa
tiến dần tới rồi ngừng lại. Những chiếc xe ngựa từ dưới đường Tôn Thất
Thuyết chạy lên đón khách và bạn hàng ở chợ Cầu Cống để chở sang chợ Cũ
và chợ Bến Thành.
Xe ngựa chở khách còn có tên là xe
thổ mộ (mã đất) vì khoang xe do ngưa kéo để hành khách ngồi có mái vòm
như một ngôi mộ. Mã phu (người đánh xe ngựa) ngồi trên càng xe để dành
tối đa chỗ cho hành khách, một tay cầm cương, một tay cầm roi. Hai bên
hông xe có chỗ để hành lý của khách hay treo quang gánh của bạn hàng.
Tôi thường được má tôi dẫn qua chợ Cũ ăn cơm thố bằng xe ngựa.
https://www.ngo-quyen.org/images/file/i4KzS15H2QgBALJn/image010.jpg"> Xe ngựa quảng cáo phim Ấn Độ cho rạp Thành Chung
Nhưng tôi thích nhứt là những chiếc xe
ngựa được các đoàn hát cải lương thuê để quảng cáo cho các tuồng hát
hay các rạp chiếu bóng mướn để phổ biến một cuốn phim đang hay sắp
chiếu. hai bên hông xe có những áp phích (bảng quảng cáo bằng hình vẻ
tên tuồng hay phim cũng như hình các diễn viên). Tiếng trống từ xe ngựa
dồn dập, thúc giục bọn trẻ chúng tôi chạy theo xe để lượm những tờ
chương trình người ta quăng xuống đường.
Ngày nay tìm đâu những hình ảnh đó?
CÁNH DIỀU THỜI THƠ ẤU
Ngày tôi còn nhỏ, thành phố Sài Gòn
không quá đông dân như ngày nay. Quận 4 của tôi còn nhiều đồng ruộng
nhìn mút mắt. Tôi thường đi vô ruộng để bắt dế đá, bắt cá thia thia và
nhứt là để thả diều.
Vài trang giấy tập hay một tờ giấy
bóng màu, hai đoạn tre chuốt nhỏ, một ít cơm nguội và một cuộn dây là
tôi có thể làm một con diều. Muốn thả cho diều bay lên thì phải làm dây
lèo cho đúng và phải chạy một đoạn đường đồng thời thả lần dây ra. Nhờ
gió nên diều lên cao nhưng đôi khi gió mạnh quá diều bị đứt dây bay
mất. Cũng có lúc diều tôi bị diều khác “câu” vì diều đó có dây chắc hơn.
Ngày nay, dân số thành phố lên trên 10
triệu người, đất đai không còn chỗ nào trống, ở đâu cũng là “đất vàng”.
Nghe nói có chỗ 1 mét vuông giá 350 triệu đồng (khoảng 15 ngàn đô, mắc
hơn cả New York và Tokyo) thì còn chỗ đâu để thả diều. Trò chơi trẻ thơ
này chỉ còn ở vùng quê.
Cánh diều trẻ thơ của tôi chỉ còn trong ký ức.
Tùy bút Huỳnh Công Ân
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2023 lúc 2:03pm
NGƯỜI SÈ GOÒNG GIỜ Ở ĐÂU ? (PHẦN 1)
https://tusachonline.files.wordpress.com/2015/03/19.jpg"> Cũng
tình trạng giống như Hà Nội, sau 1954, số người xưa cũ Hà Nội lãng phai
dần. Vì lý do này hay lý do khác, thời thế thế thời, nên đã có biết
bao thay đổi xảy ra.
Tuy
đường phố Hà Nội vẫn như cũ, thậm chí các bảng hiệu đắp xi măng chưa kịp
tẩy xóa hết, nhưng chắc chắn những con người đã từng sinh sống và làm
ăn ở đó không còn trụ lại nhiều.
Hà Nội vẫn còn làng nhàng những ký ức
ngày trước, có thể người ta đôi khi còn nhắc đến cà phê Nhân ở phố Cầu
Gỗ, gánh phở Tư Lùn ngoài rào trường Nguyễn Trãi, hay hàng bánh tôm bà
Béo ở Bờ Hồ, song đích thực tìm lại được những người đó hẳn là quá khó.
Sè Goòng cũng không tránh được sự nhốn
nháo do thời cuộc đẩy đưa. Những ngày cuối tháng Tư 75, người Sè Goòng
thất sắc, ào ào rủ nhau chạy loanh quanh. Người lên Lăng Cha Cả, kẻ vào
Tân Sơn Nhất, anh chạy ra Bạch Đằng, chị vào trong Tân Cảng, đông, rất
đông, thi nhau leo rào vào khuôn viên tòa Đại sứ Mỹ ở Thống Nhất. Lúc
ấy chưa hẳn tất cả nắm rõ sự tình đầu đuôi, nhưng ai cũng cố tìm cho
mình, cho gia đình một sinh lộ mà không biết vì sao nữa.
Để rồi những phút cuối cùng đám đông ê
chề thất vọng vì không sao leo lên được một chiếc trực thăng, một con
tàu lớn hay nhỏ, một khoang phi cơ, đành ngơ ngác quay về, coi như chịu
trận. Kết thúc cuộc chiến tranh, đầy đường của cải vứt tràn. Chẳng ai
buồn nhặt, hốt, vì tất cả xem như không còn giá trị đích thực.
Lềnh khênh vứt khắp nơi nào là quần áo
trận, giày, vũ khí, va ly Samsonite, xe Honda, Vespa, xe đạp, thậm chí
cả ô tô, vì chủ nhân đã bỏ đi đâu đó, hay ê chề chẳng còn muốn vác về
lại nhà. Trải qua nhiều tháng năm tiếp theo, người Sè Goòng tự ên tìm
cho mình một phương cách đi khỏi thành phố.
Người trở lại quê, người dấm dúi sắm thuê
thuyền vượt biển, hay bị chuyển về sống các vùng kinh tế mới. Người cũ
Sè Goòng thưa thớt dần, có người ra đi biền biệt 40 năm, có người lâu
thật lâu không thấy quay về thành phố, để rồi chẳng một ai biết rõ hiện
giờ họ ở nơi đâu ?
Thản hoặc đôi khi bất chợt có người từ
đâu đến hỏi thăm về một cư dân nào đó đã sống ở phố này, nhà này, thì
cũng ít ai biết để cung cấp một vài tin tức cỏn con. Đại để chỉ kháo
với nhau “ hình như nhà ấy dọn đi rồi “, hay tỏ ra không biết gì cả.
Bây giờ, nếu có một người Sè Goòng nào đã
lâu không về thăm lại thành phố chắc sẽ ngạc nhiên và lạ lẫm biết bao.
Bởi vì Sè Goòng thật sự thay đổi hoàn toàn khác. Phố xá rộng ra, nhà
cửa cao lên, cầu treo cầu vượt nhằng nhịt, đường cao tốc tràn đầy, thậm
chí các tên đường cũng nghe lạ hoắc.
Đối với khách, giờ muốn hỏi thăm hẻm ông
Cọp, hay đường này đường kia mang tên ngày trước, có khi sẽ phải đón
nhận sự hờ hững, vì những người tuy mang tiếng là cư dân thành phố hiện
giờ, nhưng họ không nghe, không biết vì họ hoàn toàn là người mới đến
sau 75.
Hiện người ta đã quen với những tên Trần
Đình Xu, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Văn Tần để đâu còn nhớ đến có
một thời đó là đường Trương Minh Giảng, Trần Quí Cáp, Hiền Vương v.v…
Thậm chí, nếu người ở thành phố cũ giờ có muốn tìm lại những nơi thân
quen, xưa đã gửi gấm nhiều kỷ niệm thì cũng khó, hay không còn thấy lại
được. Bến đò Thủ Thiêm, thương xá Tax, hành lang Eden, hiệu sách Xuân
Thu, nhà sách Vĩnh Bảo, nhà hàng Brodard, Pagode, chợ Vườn Chuối, chợ
Cầu Kho, chợ Thiếc, tất cả đều phế mất, đổi tên, hay quên bẵng, còn nói
chi những cái tên nghe thân yêu như Cây Mai, Da bà Bầu, Cây Quéo thì lại
càng bặt vô âm tín.
Có người đặt câu hỏi vậy thì người Sè
Goòng giờ ở đâu ? Lớp họ đã ra đi khắp các phương trời, hoặc gửi thân
nơi biển cả, sau những lần “ đường đi không đến “, hoặc là họ gặp nạn bị
cướp, hiếp và bắt mất tích từ những năm nảo năm nào từ bọn hải tặc, để
giờ không còn rõ họ sống chết ra sao.
Một số trải năm tháng cơ cực tuổi đời đã
phủi tay từ giã trần gian trở về với cát bụi, yên nghỉ giấc thiên thu,
hay vẫn còn nán sống nơi những miền nào đó ngay trên đất nước. Có người
chợt một hôm nào được hỏi “ hồi xưa ở Saigon, anh/chị làm gì, sống ra
sao thì cũng nghe người ấy thờ ơ, dường như mình không phải là người Sè
Goòng cũ “.
Nước phèn, đồng ruộng, dầm mưa giãi nắng
đã làm cho bao sắc nét của Saigon biến đi. Tóc trở nên cứng còng, da
đen nhẻm và tay chân nhiều vết chai cứng. Đối với họ, chắc Saigon là
một dư âm xa tít tắp, dù họ còn đang sống ngay trên quê hương mình mà
vẫn thấy lạc lõng làm sao.
Nhiều người cũng quên mất xuất xứ, bởi vì
cuộc sống “ ngày bán mặt cho đất, tối bán mặt cho trời “, rồi trải qua
bao phũ phàng sóng gió, chính họ cũng đánh rơi cái căn cước sống một
thời ở Sè Goòng đi và chỉ còn mang máng thấy hình như mình đã bị gạc ra
ngoài sổ sách của nơi cũ.
Thản hoặc có một hôm nào bất chợt được
làm một chuyến trở lại chốn trước kia, họ cũng sẽ ngơ ngẩn tự hỏi có
phải đây là Sè Goòng cũ chăng ! Tôi thuộc vào hàng ngũ một trong những
người như thế.
Theo trí nhớ và hiểu biết của tôi, dân
nước tôi đã có đến 3 lần sống chuyển vùng, suốt từ thế kỷ 20 đến giờ.
Đầu tiên là những người được nhà nước Phú Lang Sa gọi mời đi “ tân thế
giới “. Họ được tuyển mộ làm phu cho các đồn điền cao su do người Pháp
mới mở khắp miền Đông Nam Bộ.
Có người tham gia một mình, có người đem
theo cả vợ con, có ngưởi rủ rê nhau cả làng, cả họ vào sống chung cho có
tình đông hương, đồng khói. Bố tôi là một trong những người được mộ đi
khai phá, cạo mủ ở nơi đồn điền mới lập đó.
Dần dần những địa danh Xa Cam, Xa Cát, Bù
Đăng, Bù Đốp, Hớn Quản, Bà Rá, Lộc Ninh, Quản Lợi kéo dài thành một
chuỗi liên hoàn tài sản và nguồn lợi khổng lồ cho những quan tham gia
việc mở đường đi lập nghiệp bày ra.
Những người phu như thế có thể sẽ lưu cữu
mãn đời với cái nghề bạc bẽo, bán thân cho sốt rét ngã nước, chết dấm
chết dúi và bị lãng quên đi. Một số lanh tay lẹ chân, có óc tháo vát,
thông minh, khéo léo thì nhẫn nhục làm, tích cóp dần đồng ra đồng vào và
thoát ra về Sè Goòng đổi đời sống kiểu khác.
Dần dần họ thành những hạt giống, ăn nên
làm ra, đầu tư vào một số ngành nghề : guốc mộc, chạm trỗ, đồ gỗ, buôn
bán để gây cơ sở và lôi kéo bà con, quen biết, người làng vào sinh sống
đông thêm cho có bè có bạn. Có những khu phố rặc toàn người Bắc, như
quanh quanh các con đường gần chợ Bến Thành, họ sống với nghề kim chỉ,
rao mời tơ lụa Hà Đông, sản xuất bánh kẹo, bán hàng ăn, chụp ảnh, cũng
để lại được ít tiếng tăm và sự tin cậy.
Cũng từ những bước đầu tiên đó, họ lập
hội tương tế để cưu mang nhau, hoặc để tựu họp vào các ngày lễ truyền
thống của làng, chia sẻ với nhau niềm vui nỗi buồn nơi đất mới. Họ lấy
tên làng làm danh xưng của hội, hoặc họ lấy tên miền để gọi cho hội có
vẻ bề thế hơn. Có một dạo người ta nghe các tên như Giác Quang tương
tế, Bắc Việt tương tế, Phù Lưu tương tế, Vũ Bản tương tế (hay cái tên
riêng biệt Nhà sách Vĩnh Bảo chẳng hạn).
Đến khi người Pháp thua trận Điện Biên
Phủ phải rút đi, hiệp ước Geneva chấp thuận chia đất nước thành 2 miền,
chờ 2 năm sau sẽ có tổng tuyển cử thì lại một phen nhốn nháo di cư.
Người Hà Nội có 300 ngày để chọn lựa nơi sinh sống của mình.
Tiếng là tự do chọn lựa muốn ở đâu thì ở,
nhưng khi có bóng dáng chính trị đổ xô vào thì chuyện đi hay ở không dễ
dàng như ta tưởng. Càng gần ngày hết hạn thì con đường 5 càng có những
trạm kiểm soát gắt gao. Người ta dùng tình cảm ràng buộc nhau, hoặc ve
vãn, hoặc gây khó khăn để hạn chế bớt số người gánh gồng rủ rê nhau
tếch.
Những chuyến tàu há mồm, những chuyến vận
tải cơ bay dồn dập, người ta choàng cho sự kiện đó cái tên “ di cư 54
“, hẳn nhiên cũng không khỏi bị kèm theo hay đánh giá mỉa mai, như chỉ
có tứ Công mới bỏ quê hương đất nước như thế. Người ta gói gọn 4 Công
để ám chỉ : Công giáo, Công An, Công chức và Công nợ.
Ai nói cứ nói, ai dèm cứ dèm, nhưng một
đi là cứ đi. Có người cũng vì tiếc căn nhà mới tậu hay còn thân nhân
đau ốm thì ở lại, cứ tự nhiên. Lại một lần Sè Goòng giang tay ra đón,
thu vén nơi ăn chốn ở, điều tiết việc ổn định gia cư. Những địa danh
mới được đặt ra như Cái Sắn, Hố Nai, Tầm Vu, Gia Kiệm hoặc những cái tên
kèm một loạt chữ Tân đứng đầu (Tân Bùi, Tân Hà, Tân Phát v.v…)
Bẵng đi 20 năm trôi theo nhau, chiến
tranh vẫn ùng oàng, nhưng vết thương dần dần kín, tuy cái sẹo thì không
sao xóa được. Người Sè Goòng hào hiệp, bao dung, khó giúp nhau lấy
thảo. Những ngày đầu còn rải rác khích bác, cà khịa nhau, chọc trêu
nhau kiểu “ Bắc Kỳ dzốn, ăn rau muống… “, thế nhưng chẳng mấy chốc đã
hòa tan vào nhau đến đỗi lằn ranh ngăn cách tự dưng bị lu mờ.
Người Sè Goòng chính thống không còn hiềm
khich mà thậm chí người mới nhập cư cũng thấy mình bị loãng ra và loáng
thoáng hình dáng Sè Goòng đã ngự trị trong người lúc nào chả biết nữa.
Có người cũng đã tập dẻo giọng trêu đùa nhau : cô Hai, chèn ui, cô ngộ
chi ngộ ác, giờ mà nghe cô câu dzọng cổ, chắc tui uên mất đường dzìa, cô
ui !…
(còn tiếp)
https://tusachonline.wordpress.com/category/do-thanh/ - Đỗ Thành
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2023 lúc 2:04pm
NGƯỜI SÈ GOÒNG GIỜ Ở ĐÂU ? (PHẦN 2)
https://tusachonline.files.wordpress.com/2015/03/113.jpg"> Có
thể từ bản chất dễ dãi, ít câu mâu và sẵn lòng giúp đỡ, nên người Sè
Goòng chủ động chóng xóa đi bờ vực ngăn cách giữa người Nam và Bắc Kỳ.
Cuộc
di cư hàng triệu người có làm xáo trộn phần nào cuộc sống yên ả của
miền Đồng Nai, Bến Nghé, bước đầu cũng có xảy ra dăm ba cuộc xô xát cỏn
con, thế nhưng vốn tính mau hòa hợp, lằn ranh trên tự nhiên khép gần lại
và xóa bỏ hồi nào không hay.
Thậm chí những gia đinh định cư nơi Tân
Mai, Cái Sắn, Dốc Mơ, Tầm Vu lần lần còn được chính bà con sở tại cưu
mang, giúp dựng lên những căn nhà, hay chỉ vẽ cho đường đi nước bước
trong việc mưu sinh, hoặc phục hồi các nghề truyền thống.
Một dạo, loại chiếu Bát Tràng, gỗ Vụ Bản
hay bánh gai Hàng Than cũng đã chen chân vào sinh hoạt ẩm thực và đời
sống của miền Nam. Những cánh đồng cò bay thẳng cánh lần lần xóa đi
những lằn ranh chia cách và mặc nhiên trở thành tình nghĩa đồng bào
thương yêu và lo lắng cho nhau.
Đất lành chim đậu, cái nắng Sè Goòng làm
nhạt phai chuyện nói móc, xỏ xiên nhau, cơn mưa sông Tiền sông Hậu làm
phai đi giọng nói cưng cứng miền ngoài. Sự tiếp xúc tự nhiên làm cho
tình làng nghĩa xóm tự ên kết tụ, lòng người miền Nam hào phóng vốn dĩ
đã quen.
Người Bắc Kỳ hết còn lạ về nghĩa cử
truyền thống miền Nam, nhà nào ở miệt vườn cũng đều đặt sẵn cái khạp
chứa nước và cái gáo dừa có cán ở đầu hè để trưa nắng bạn làm đồng ngoài
kia từ ruộng bước lên có ngay hớp nước uống vô dễ thấy mát ngọt mà tan
đi nỗi mệt nhọc.
Sinh hoạt hằng ngày khiến cho người hai
miền càng ngày càng sát lại gần hơn, chẳng mấy chốc sự ghẹo trêu nhau bị
mất đi hồi nào cũng chẳng biết. Rồi tình cảm nảy sinh, gió mát trăng
thanh, những bữa nhậu, những câu hò, vọng cổ làm cho ruột gan nhau thấm
đậm tình người.
Cuộc di cư hàng triệu người một sớm một
chiều bỗng tan đi chớp nhoáng. Đã có những cuộc tình đẹp thiệt đẹp nảy
sinh, trai Bắc chọn gái Nam vì các cô hiền từ, ngoan, biết chiều chồng,
giỏi bếp núc, và có giọng hò, thả câu lý, ca vọng cổ mượt mà hết xảy.
Ngược lại anh trai Nam chọn chị Bắc vì cái nết hay lam hay làm, chịu
đựng, hi sinh, sẵn sàng gánh vác công lênh nhà chồng như chính nhà mình.
Chả thế mà chiều chiều đã có những chiếu
rượu dưới gốc cây ô môi để nghe các cô em Nam Bộ rỉ rả câu tình lang lả
lướt, và khối anh Bắc cũng mon men học bằng được món luyến láy của cách
nói lối để vào câu vọng cổ dạ lang hay vọng cổ hoài lang rất ngọt ngào.
Ai dám cả quyết lòng mình không rung động khi nghe các nường thỏ thẻ gọi mời : anh Hai ui, có mệt dzô nghỉ chút cho phẻ, gồi đi típ. Và giữa bộn bề của cuộc sống, ai chẳng sẽ chùng lòng khi nghe câu lửng của cô em : nếu có thương nhau, anh dzìa thưa cha thưa mẹ, đừng để em mỏi mòn chờ đợi nhe anh.
Báo sao các ông nhà thơ, nhà văn không
thấy mình rạt rào vì đất nước Sè Goòng ? Ta đã từng ngẩn ngơ vì câu hát
nghe như giọng hò văng vẳng : Nhà Bè nước chảy chia hai; ai dzìa Gia Định, Đồng Nai thì dzìa. Hoặc : nắng Saigon em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…
Cho đến nay, dù vật đổi sao dời thì mỗi
lượt có dịp đi ngang Kẻ Sặt, Phương Lâm, Lâm Hà, Bình Phước ta vẫn còn
bắt gặp dấu ấn của một thời người Bắc chuyển vùng vào sinh sống trong
Nam. Ở những địa phương đó ít nhiều họ cũng góp phần vào dựng xây kinh
tế và nét văn hóa đặc thù của cái nôi sông Hồng nơi mảnh đất đã rộng tay
đùm bọc, cưu mang.
Có nhiều người đơn giản nghĩ rằng đề cập
đến Sè Goòng là chỉ khoanh vùng vào một địa giới cỏn con cũng đổi thay
tên gọi trải qua thời thế. Chẳng hạn có người đã nhắc tới tên Sài Côn
của một vương triều nào đó, có người ám chỉ vùng đất mới được khai phá
vòng vòng quanh những khu phố được dựng xây từ những năm cuối thế kỷ 18,
sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ.
Riêng với tôi, Sè Goòng không chỉ hẹp như
vậy, bởi vì tuy địa danh Saigon được khoanh vùng trong tâm tưởng là như
thế, nhưng khi nói về người Sè Goong giờ ở đâu thì ta phải hình dung ra
cái nghĩa rộng lớn vô cùng.
Bởi vì nhiều người vì lẽ này hay lý nọ
giờ không còn ở lại nơi đất nước mà phiêu bạt khắp các nơi thì trong trí
óc họ Sè Goòng là tất cả, là Bến Tre, Cà Mau, Long Khánh, Bạc Liêu, là
bến Bạch Đằng, cầu Ba Cẳng, là Phước Tỉnh, Phú Xuân v.v… và v.v… của
những đêm hồi hộp nằm ém chờ chạy ồ ra biển, hay ngay cả Tân Sơn Nhất
đĩnh đạc lên chuyến bay ra đi.
Trong những cuộc chuyển vùng bất đắc dĩ
đó, phải nói cuộc tháo chạy 75 là vô cùng bi thảm. Dư luận rêu rao lên
án về một sự phản bội gì đó, về những sự khiếp sợ không rõ ràng, bởi vì
chính thực những người xô đẩy nhau trốn chạy, hay đành ở lại cũng không
hiểu nguyên do đã có lúc khiến họ hãi đến vậy.
Bây giờ có người xa Saigon đã 40 năm
tròn, có người vẫn đi về năm một vài bận, nhưng Sè Goòng vẫn nằm đâu đó
trong suy nghĩ của từng cá nhân. Con số hằng triệu người phân rải rác ở
khắp nơi, chỗ nào mở rộng lòng nhân từ giơ tay cứu vớt họ, tạo cho họ
một cơ hội sống, giúp họ lập lại cuộc đời từ bước đầu.
Thấm thoắt giờ đã hình thành thế hệ 2
hoặc 3 của những người ra đi đó. Nơi đất tạm dung, họ đã có cuộc sống
ổn định, con cái học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm, có tư
hữu, có đóng góp công lao mọi mặt vào dòng chính. Một vài nơi họ còn
lưu lại nhiều dấu tích về một nền văn hóa của dân tộc vì họ nghĩ rằng
các vật thể này nói lên lòng biết ơn của họ với quê hương tạm dung.
Phần lớn họ đã thành công dân của nước sở
tại, thụ hưởng mọi quyền lợi như dân dòng chính. Có thể đời sống họ có
khác đi, họ Tây hơn, Mỹ hơn, Úc hơn, song một phần hồn của họ vẫn chưa
sao quên đi SAIGON của một thời đã sống.
Đối với họ SAIGON vẫn là một ký ức chưa
phai nhạt. Người ta có thể đùa gọi trệu tên của miền đất hồi nào, hoặc
Sè Goòng, hoặc Sài Ghềnh, hoặc Sầu Thành, hay gì gì khác, nhưng nhất
định lảng vảng những chiều thứ bảy tay trong tay dạo phố, lần đầu tiên
trao nụ hôn tình, hay một lần chờ đón nhau nơi cổng trường thì chắc chắn
họ vẫn chưa quên.
Có một điều lạ khiến người viết băn khoăn
là bất kỳ cuộc di dân chuyển vùng nào cũng bắt nguồn từ phía Bắc dồn
vào Nam mà ít khi thấy ngược lại. Kể cả từ khi phong trào mộ phu đi tân
thế giới, khổ chứ có sướng gì đâu thì việc ra đi vẫn là từ con đường
ấy.
Phải chăng vì Sè Goong có một sự vẫy gọi
âm thầm nào đó mà không ai có thể dùng lời lẽ để phân tách ra được.
Thôi thì cứ biết thế đi, vì dẫu có sao thì SAIGON vẫn là một phần của
giải đất hình chữ S kia mà.
ĐỖ THÀNH
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Mar/2023 lúc 10:06pm
SÀI GÒN CỦA TÔI (Đ.Văn)
Sài Gòn vẫn rất dễ thương,
Cái tên dù lạ con đường vẫn quen...
Tôi hay “viện dẫn” hai câu thơ của mình mỗi khi phải hồi âm một cánh thư xa nào đó, thường là câu hỏi “Sài Gòn bây giờ ra sao?”
Thật ra trong cảm nhận của tôi, Sài Gòn vẫn thế. Bởi dù trải qua nhiêu bao biến cố thăng trầm, thì Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, thủ đô trong những trái tim miền Nam ngày nào vẫn không bao giờ thay đổi.
Sài Gòn của một thời tôi mới lớn, những “con đường tình ta đi” Duy Tân, Trần Quý Cáp, Tú Xương, Công Lý. Những chiều bát phố Lê Lợi, Tự Do. Những rạp cine. Món bánh tôm hẻm Casino (Sài Gòn).
Những
xe bò viên Nguyễn Thiện Thuật. Bánh mì thịt trước chợ Trương Minh
Giảng, gỏi đu đủ - khô bò - nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur)…
Sài Gòn của tôi “sáng nắng chiều mưa”. Mưa như được lập trình sẵn. Hoặc chiều hoặc sáng, có khi… cùng giờ nên người Sài Gòn có thể nhởn nhơ bát phố khi “cơn mưa qua”, rất ít khi mưa như… đòi nợ, điều này những năm gần đây hình như thay đổi, mưa dầm và mưa… mất trật tự, người Sài Gòn vốn quen kiểu “xưa” chẳng biết đâu mà lần! Nắng Sài Gòn không quá gắt. Có lẽ nhờ thế nên mới chợt mát chỉ qua màu áo lụa Hà Đông.
Sài Gòn của tôi có những ngôi trường đi vào thơ và nhạc như Văn Khoa, Luật, Gia Long, Trưng Vương, những con đường địa chỉ báo như Lê Lai, Phạm Ngũ Lão… Hồn đất và hồn người quyện nhau hồn hậu, chân tình.
Sài Gòn của tôi quốc vương Cam-bốt từng du học, người Sài Gòn chê hàng Thái, không thèm xài Colgate vì đã có kem Hynos “anh yêu em, anh yêu luôn kem” xịn hơn.
Sài Gòn của tôi trẻ
- luôn luôn trẻ. Không phải vì thiếu phố cổ hay người Sài Gòn không
thích “ra vẻ cụ” mà vì Sài Gòn luôn luôn mới, hồn nhiên và dễ thương,
không điệu đà, kệch cỡm.
Sài Gòn của tôi còn nhiều hơn thế. Không diễn tả hết dù văn hóa cách mấy. Chỉ giản dị như lời hát “Sài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!”
Không lớn lao gì, kỷ niệm chỉ chứa đầy ngăn cặp học trò. Sự ồn ào sống
động, dễ thương của vùng đất và con người. Đi xa, cứ về đến cầu Sài Gòn
hay cầu Bình Điền là coi như đến nhà.
Như bạn bè cùng trang lứa, tôi giữ Sài Gòn như giữ chính cuộc đời mình.
Khóc một ngày khi thương xá Tam Đa bị thiêu rụi. Thức một đêm khi Eden
bị đập bỏ. Có thể thay vào sẽ là một tòa nhà đẹp hơn, nhưng Eden của
ngày nào:
“Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm
Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm
Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
Anh quen rồi, không lạnh - lính mà em!”
Thì không bao giờ còn nữa !!!
Vẫn biết có những sự đổi thay tốt hơn, đôi khi cần thiết, nhưng sao vẫn thấy chạnh lòng. Hơn sáu mươi năm hãnh diện làm “dân Sài Gòn”.
Bỗng chợt giật mình tự hỏi, có khi nào người ta phù phép để Sài Gòn biến mất không nhỉ? Có khi nào Vương Cung Thánh Đường, chợ Bến Thành, bưu điện Sài Gòn, một sớm mai thức dậy người Sài Gòn ngơ ngác hay tin sẽ trở thành trung tâm thương mại, cao ốc chọc trời…
Ôi! Sài Gòn của tôi !!!
Tôi vẫn nói vui rằng mình giữ lại “Sài Gòn xưa”. Từng tên đường, góc phố, giữ lại những buổi chiều hẹn hò: “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” và giữ lại mãi mãi,những dấu yêu xưa!
Và rồi lại buốt tim khi nghĩ đến một ngày nào “Sài Gòn của tôi” sẽ chỉ còn là hoài niệm. Vô tình ai đó sẽ tìm thấy trong những trang sách hằn dấu thời gian ở một hiệu sách cũ.
Sài Gòn ơi !!!
Tôi gặp lại họ rất tình cờ, trong một… tiệm sách cũ, nơi thường lưu lại những gì mà ta còn nhớ hay đã quên.
Những trang giấy đã không còn nguyên màu trắng. Những dòng chữ như cũng
nhạt theo năm tháng. Nhưng hình ảnh, dù phôi pha, thì nụ cười, ánh mắt
cũng gợi nhớ một thời ta đã sống. Thời mà tên tuổi họ trên môi người hâm
mộ Nghệ thuật thứ bảy, và họ được gọi một cách trang trọng là tài tử
minh tinh.
Chưa xa lắm nhưng cũng đủ để quên những gì không muốn nhớ. Khi mà muốn
xem phim người ta không thể làm gì khác hơn là đến rạp, và cứ có phim
hay là rạp chật như nêm… Và rạp hát nào cũng treo đầy ảnh minh tinh tài tử, không phải Hồng Kông, Hàn Quốc như bây giờ mà toàn Việt Nam. Tôi say mê điện ảnh, dù chưa tới tuổi “đến rạp một mình” và yêu họ, dĩ nhiên…
Dạo đó chưa có những chương trình giao lưu, tài tử điện ảnh, ca sĩ tân nhạc cũng chưa phải “chạy sô” như bây giờ. Họ coi nghệ thuật như cứu cánh của đam mê và cả cuộc sống thực tế, nghề tay trái hầu như không có.
Chẳng
ai nghe nói Thẩm Thúy Hằng phải đi… biểu diễn tân nhạc để kiếm thêm,
cũng không thấy Kiều Chinh tham gia chương trình “đại nhạc hội”. Họ cũng chẳng đóng cùng lúc hai, ba phim như các diễn viên “đắt khách”
bây giờ. Dù đó là những tên tuổi lớn của điện ảnh Sài Gòn thuở ấy,
những tên tuổi mà lứa tuổi 40, 50 hôm nay, nếu yêu điện ảnh khó mà quên
được.
Một
Kiều Chinh tuyệt vời trong “Hồi Chuông Thiên Mụ”, Thẩm Thúy Hằng với
“Người Đẹp Bình Dương”, Kiều Nguyệt Nga - Thu Trang trong “Lục Vân
Tiên”, Túy Phượng diễm kiều với vai Công chúa của “Thạch Sanh - Lý
Thông”… Tôi yêu nét thùy mị của Thu Trang, vẻ sắc sảo của Kiều Chinh, và nét đẹp duyên dáng Thẩm Thúy Hằng. Nam tài tử có La Thoại Tân, Anh Tứ, Lê Quỳnh, Anh Sơn, Đoàn Châu Mậu, Tâm Phan, Huy Cường, Trần Quang… Vân Hùng chuyên đóng kịch với kỳ nữ Kim Cương, thỉnh thoảng cũng “lên phim”.
Rất nhiều, thời nào thì nghệ thuật cũng cần rất nhiều. Dù trong số họ
không phải ai cũng đến được vinh quang, và để hoàn thành tác phẩm nghệ
thuật, không chỉ có diễn viên chính.
Tình cờ gặp lại họ trong tiệm sách cũ. Nơi mà quá khứ lẫn với hiện tại,
nơi mà thời gian chừng như bất lực, tôi thấy chút vui pha lẫn ngậm ngùi
khi bắt gặp Lê Hoàng Hoa thời “mới làm quen với máy quay”, một
Lê Mộng Hoàng hơn ba mươi năm về trước vẫn nhăn nhó… như bây giờ. Nụ
cười Kiều Chinh và ánh mắt Thu Trang vẫn còn đó.
Một thời tôi đã lớn lên cùng với tên tuổi họ. Rồi tất cả bỗng như không
còn, bỗng như chưa từng có. Người ta trôi theo nhịp sống bằng những
cách khác nhau, và lưu giữ hay xóa đi dĩ vãng tùy thuộc mỗi người. Có
điều chắc chắn rằng những gì đã có thì vẫn còn đâu đó, và ta sẽ gặp khi
tình cờ một lúc nào đó đảo ngược được thời gian…
Và… thời gian đã đảo ngược với tôi, trong một tiệm sách cũ… Tình cờ !!!
Lý Thụy Ý
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Mar/2023 lúc 3:14pm
“Hồi 54, cả trăm ngàn dân di cư mang theo đủ loại kiểu sống bó trong luỹ tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ.
Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xoà đón nhận.
Lúc đầu tụi bạn ghẹo tôi là “thằng Bắc kỳ rau muống”.
Con nít đổi giọng nhanh mà, trong nhà giọng Bắc, ra ngoài giọng Nam. Thế là huề hết.
Rủ nhau đi oánh lộn phe nhóm là chuyện thường. Khỏi cần biết đúng sai, mày đánh bạn tao, thì tao đánh lại, oánh lộn tưng bừng. Vài ngày sau lại rủ nhau đi xem xinê cọp. Dễ giận dễ quên.
Hè, tụi bạn về quê, Bến Lức, Vĩnh Long, Kiến Hoà… Cũng chia tay hứa hẹn, tình cảm ra rít : “Tao về quê sẽ mang lên cho mày ổi xá lỵ, xoài tượng…” Tôi ngóng cổ chờ bạn, chờ quà. Thực ra, tôi thèm có quê để về.
Tết đến, thầy cô, bạn bè về quê, nhiều người Sài Gòn xôn xao về quê. Tôi ở lại Sài Gòn mà thấy mình vẫn không phải dân Sài Gòn. Vậy ai là dân Sài Gòn chính hiệu đây ? Chẳng lẽ phải tính từ thời mấy ông Pétrus Ký hay Paulus Của ?
Sài Gòn trẻ măng, mới chừng hơn 300 tuổi tính từ thời Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở đây.
Sài Gòn khi cắt ra khi nhập vào, to nhỏ tuỳ lúc. To nhất khi nó là huyện Tân Bình, kéo dài đến tận Biên Hoà.
Nhỏ nhất là vào thời Pháp mang tên Sài Gòn. Ngay trước 1975, Sài Gòn rộng chừng 70km2, có 11 quận, từ số 1 – 11. Hồi đó Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức… còn được xem là nhà quê (tỉnh Gia Định).
Bây giờ Sài Gòn rộng tới 2.000km2.
Sài Gòn đắc địa, có cảng nối biển, là đầu mối giao thương quốc tế, tiếp cận văn minh Tây phương sớm.
Dân Sài Gòn không có địa giới rõ rệt. Nói tới họ có vẻ như là nói tới phong cách của dân miền Nam.
Họ là những lưu dân khai phá, hành trang không có bờ rào luỹ tre nên tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, nói năng bộc trực… Ai thành đại gia thì cứ là đại gia, ai bán hàng rong thì cứ bán.
Sài Gòn không tự hào mình là người thanh lịch, không khách sáo, không mời lơi. Họ lấy bụng đãi nhau.
Sài Gòn có mua bán chém chặt ? Có, đúng hơn là nói thách. Cứ vô chợ Bến Thành xem mấy bà bán mỹ phẩm, hột xoàn hét giá mát trời ông Địa. Không cứ khách tỉnh, dân Sài Gòn lơ mơ cũng mua hớ như thường.
Ít nơi nào nhiều hội ái hữu, hội tương tế, hội đồng hương như Sài Gòn. Có máu lưu dân trong người, dân Sài Gòn thông cảm đón nhận hết, không ganh tị, không thắc mắc, không kỳ thị. Người ta kỳ thị Sài Gòn, chứ Sài Gòn chẳng kỳ thị ai.
Nhiều gia đình người Bắc người Trung ngại dâu ngại rể Sài Gòn, chứ dân Sài Gòn chấp hết, miễn sao ăn ở biết phải quấy là được.
Dân Sài Gòn làm giàu bằng năng lực hơn là quyền lực. Người ta nói “dân chơi Sài Gòn”. Trời đất ! Sài Gòn mà “tay chơi” cái nỗi gì. Tay chơi dành cho những đại gia giàu lên đột xuất từ đâu đó đến.
Sài Gòn a dua thì có, nhưng a dua biết chọn lọc. Coi vậy chứ dân Sài Gòn đâu đó còn chút máu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”.
Cứ xem dân Sài Gòn làm công tác xã hội thì biết, cứu trợ lũ lụt thấy người ta lạnh quá, cởi áo len đang mặc tặng luôn. Họ làm vì cái bụng nó thế, chứ không phải vì PR, đánh bóng bộ mặt.
Biết bao văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung vào đất này “quậy” tưng, tạo ra cái gọi là văn học miền Nam hậu 54 coi cũng được quá chứ ?
Nhạc sĩ Lam Phương, quê Rạch Giá, mười tuổi đã lưu lạc lên Sài Gòn kiếm sống. Năm 17 tuổi nổi danh với bản Kiếp nghèo và khá giả từ đó.
Tiếp cận văn minh phương Tây sớm, nên dân Sài Gòn có thói quen ngả mũ chào khi gặp đám ma, xe hơi không ép xe máy, xe máy không ép người đi bộ, chạy xe lỡ va quẹt nhau, giơ tay chào ngỏ ý xin lỗi là huề.
Những thói quen này giờ đây đang mất dần, nhưng dân Sài Gòn không đổ thừa cho dân nhập cư. Họ cố gắng duy trì (dù hơi tuyệt vọng) để người mới đến bắt chước.
Chợ hoa là một chút văn hoá của Sài Gòn, có cả nửa thế kỷ nay rồi, có dân nhập cư nào “yêu” hoa mà ra đó cướp giựt hoa đâu.
Sài Gòn nhỏ tuổi nhiều tên, nhưng dù thế nào Sài Gòn vẫn là Sài Gòn. Nhiều người thành danh từ mảnh đất này.
Sài Gòn nhớ không hết, nhưng mấy ai nhớ đến chút tình của Sài Gòn ? May ra những người xa Sài Gòn còn chút gì nhức nhối.
Tôi có người bạn Bắc kỳ chín nút, xa Việt Nam cũng gần 40 năm. Tên này một đi không trở lại, vừa rồi phone về nói chuyện lăn tăn, rồi chợt hỏi :
- “Sài Gòn còn mưa không ?”
- “Đang mưa”.
Đầu phone bên kia thở dài :
- “Tao nhớ Sài Gòn chết… mẹ !”
Sài Gòn nay buồn mai quên, nhưng cũng có nỗi buồn chẳng dễ gì quên.
Mới đây đi trong con hẻm lầy lội ở Khánh Hội, chợt nghe bài Kiếp nghèo vọng ra từ quán cóc ven đường. Tôi ghé vào gọi ly càphê. Giọng Thanh Thuý sao da diết quá:
“Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gởi theo gió sương…”
Chủ quán, ngoài 60 cầm chồng báo cũ thẩy nhẹ lên bàn “Thầy Hai đọc báo…” Hai tiếng “thầy Hai” nghe quen quen…
Tự nhiên tôi thấy Sài Gòn như máu chảy từ tâm, Sài Gòn bao dung. Tôi chợt hiểu ra, mình đã là người Sài Gòn từ thuở bào thai rồi, cần gì xin nhập tịch.”
Lạng trên mụn.
Ca khúc thật đẹp mà buồn, quá khứ huy hoảng xa lắm rồi.
Chia sẻ từ fb Hoang Giang
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Mar/2023 lúc 3:22pm
NHỮNG CHIẾC XE MÌ CỦA QUÁ KHỨ
Sài gòn từ khi hình thành là nơi đất lành chim đậu, là nơi giao thoa các nền văn hoá khác nhau. Đó không chỉ là nơi hội tụ của người Việt từ ba miền Nam, Trung, Bắc mà còn là nơi đón nhận nhiều phong tục, lối sống của nhiều dân tộc khác nhau trên thề giới nữa. Đặc biệt là văn hoá ẩm thực. Ở Sài Gòn ta có thể thưởng thức món gan ngỗng béo ngậy của Pháp, món lẩu chua cay của Thái, mắm bò hóc và chè Kampuchia, món sushi của Nhật, món piza của Ý, món cari của Ấn, món nướng của Hàn, món soup rau của Địa Trung Hải, món cháo ếch của Singapore, món Dim sum Hồng Kông...và đặc biệt không thể không nhắc đến những món ăn của người Hoa Chợ Lớn.
Ẩm thực của người Hoa thì vô cùng phong phú, kể ra cũng vài trang giấy. Ở đây, trong phạm vi những dòng ngắn ngủi đầu xuân, tôi chỉ nói tới món hủ tíu và mì của họ. Những món ăn luôn hấp dẫn tôi từ trước đến nay.
Nhắc tới món ăn này trước hết phải kể đến chiếc xe mì.
Đó là những chiếc xe thường xuất hiện vào lúc xẩm tối, bên vỉa hè, nơi góc chợ, chỗ có đông người qua lại. Đó là những chiếc xe chuyên dụng, chỉ dùng để bán hủ tíu, mì. Trên chiếc xe này được trang bị đầy đủ như một quán ăn, có bếp đốt bằng than củi, có chỗ xài bình ga, lửa xanh lét phì phì, có nồi nước lèo hai ngăn to bự chảng, một bên để trụng hủ tíu, mì, ngăn còn lại chứa nước lèo sôi sùng sục. Nước lèo thường được hầm với xương, củ cải trắng, mực, tôm khô, có nơi còn có cả sá sùng. Bên trên có tủ kiếng chia ngăn để thịt, rau hành. Đặc biệt luôn luôn bên cạnh thùng nước lèo có mặt một cái vịm bằng gốm, trong chứa mỡ nước và những miếng mỡ heo thái hạt lựu đã được thắng vàng. Tôi có mấy người bạn làm nghề này bảo rằng thứ làm cho tô mì ngon hay dở đều nằm trong cái vịm thắng mỡ này. Theo họ thì cái này không chỉ chứa mỡ mà còn được gia cố thêm bột nêm, bột ngọt và bí quyết riêng của mỗi xe mì. Trụng xong mì hay sợi hủ tíu, bỏ vào tô, cho thịt, xá xíu, hành, rau, lúc đó múc một muỗng mỡ vào rồi mới chế nước lèo lên. Không có cái muỗng mỡ này, tô mì ăn lạt nhách. Hơn nữa, nồi nước lèo nếu nêm nếm gia vị nhiều quá sẽ mau thiu, không thể để lâu được. Còn cái vịm mỡ gia vị đó thì để bao lâu cũng chẳng hư. Âu đó cũng là kinh nghiệm gia truyền.
Ba mặt của xe mì thường có ba tấm thiếc, nhôm hoặc inox hay ván gỗ, mở ra, cài hai cái móc, để thêm mấy cái ghế xếp nữa thành bàn. Trên đó để chai giấm, chai nước tương, hủ ớt dầm giấm và lon guigoz đựng muỗng đũa. Ông bà nào dân Việt thuần tuý đi ăn mì Tàu mà muốn kiếm nước mắm sẽ không bao giờ tìm thấy ở đây. Nếu quán đông khách, người ta kê thêm mấy cái bàn, vài cái ghế đẩu và quán hoạt động đến khuya.
Nhắc xe mì mà không nói đến những tranh kiếng đủ màu trang trí trên xe là một thiếu sót lớn. Đó là những tấm tranh vẽ những điển tích của văn hóa dân gian Trung Hoa. Đó là những cảnh minh họa truyện Tam Quốc như nhân vật Quan Công mặt đỏ râu dài cỡi ngựa đỏ, Trương Phi râu rậm, mắt lồi dữ tợn, Triệu Tử Long múa đao, đó là cảnh Bát tiên phó hội, Bát tiên quá hải, Tôn ngộ không, Thất hiền, rồng phụng tương giao, cảnh sơn thuỷ.....
Tất cả đều tô màu sặc sỡ, với một kỹ thuật đặc biệt và nét vẽ điêu luyện tuy chỉ do những người thợ mỹ nghệ làm ra. Đến nay, nghề này đã bị thu hẹp lại, các nghệ nhân xưa đã già hay đã qua đời, nghề lại ít người theo nên tranh kiếng ngày nay thiếu mất cái hồn, cái uy nghi, vũ dũng trong nét bút của thời xưa. Hồi đó, mỗi lần đi ăn mì, tôi say sưa ngồi ngắm những tranh vẽ đó, về nhà học vẽ theo đầy cả vở, bị ba tôi phạt hoài.
Ngày nay, những xe mì với tranh kiếng vắng bóng dần trên các vỉa hè, đôi khi lại tìm thấy trong các nhà hàng, người ta để như là một biểu tượng. Chiếc xe mì tranh kiếng nằm nơi góc chợ, bên lề đường có vẻ hay hơn, đắc địa hơn, có sinh khí hơn nhiều.
Ngoài những xe mì cố định, còn có xe mì lưu động. Đó là những chiếc xe nhỏ hơn, trang bị gọn hơn, ít khi có tranh kiếng, nếu có cũng vẽ đơn giản, sơ sài hơn. Ông chủ xe thường là tuổi trung niên, mặc cái áo thun ba lỗ, vai vắt khăn. Bên cạnh thường có những đứa bé cầm hai thanh tre đã lên nước nâu bóng gõ theo nhịp điệu muôn đời không đổi sực ..tắc, sực...tắc. Tiếng gõ vang một góc đường, một con hẻm giữa đêm gợi cho ta thèm muốn một bát mì nghi ngút giữa đêm, giúp cho người đi chơi khuya về có bát mì ngon, giúp kẻ lỡ đường với số tiền ít ỏi qua cơn đói. Bởi những xe mì lưu động này bán giá rất bình dân, tuy vậy cũng có những xe mì lưu động rất ngon không khác gì những xe, những quán cố định.
Nhiều người đi xa có lúc nhớ về quê nhà lại nhớ tiếng sực tắc đêm khuya. Có những người đã già, nhớ lại thời bé dại, cũng có lúc lại nhớ tiếng gõ đều đều của hai thanh tre của chiếc xe mì đi qua ngõ quá khứ.
Tô mì hay hủ tíu thường được ăn cùng với xá xíu, những miếng thịt heo nạc màu đỏ xắt mỏng ăn thơm thơm mùi ngũ vị hương, ngòn ngọt của mật ong phết lên lúc quay lúc nướng. Cũng có mì hủ tíu ăn với cật, gan heo và con tôm hồng hào hấp dẫn. Còn có mì hoành thánh, sủi cảo chấm tương ớt hoặc nước tương. Bỏ vào miệng cảm được cái mềm mại của bột, cái dai dai béo béo đậm đà của thịt, cái ngọt lừ của nước lèo, tất cả hoà thành một hương vị đặc biệt khó quên. Người Hoa Chợ Lớn có người Tiều, người Quảng, người Hẹ, Phúc Kiến, người Hải Nam...Người vùng nào cũng có người làm nghề bán hủ tíu mì. Nhưng riêng tô hủ tíu mì của người Quảng thường có miếng bánh tráng mỏng nho nhỏ chiên vàng ươm, trên có một vài con tôm nhỏ để nguyên chân cắng, râu càng. Cắn miếng bánh dòn rụm, húp thêm niếng nước lèo, đưa thêm vài sợi mì, ngon!
Sau này còn có Hủ tíu sa tế, gồm bò hoặc nai ăn với một loại sauce cay cay trộn đậu phụng giã nát. Hình như những quán bán loại này đa phần là người Triều Châu, không biết đúng không bởi món này cũng không phổ biến lắm?
Tô mì ngon ngoài nước lèo ngọt, đậm đà, thịt chế biến giỏi còn có yếu tố quan trọng là sợi mì phải dai, ăn đến muỗng cuối cùng, mì vẫn không nhão nát. Mì được làm từ bột mì, thêm màu vàng óng của nghệ hoặc phầm màu và nghe đâu phải có tro tàu sợi mì mới dai ngon. Có loại sợi mì nhỏ như sợi bún, cũng có loại to dẹp, ngon dở tuỳ khẩu vị mỗi người mà lựa chọn. Khi trụng mì cũng là một kỹ thuật. Có nơi trụng bằng nước sôi, xong lại qua một lượt nước lạnh, rồi trụng sơ lại nước nóng lượt nữa mới cho vào tô. Trụng như thế sợi mì sẽ dai lâu mà không nát. Mì được khoanh từng vắt nhỏ dáng tròn tròn như hột vịt. Có người muốn ăn no, thường kêu ba hoặc bốn vắt một tô. Nhìn tô mì đầy nhóc thấy ớn. Cũng có đôi chỗ bán mì tươi, kéo mì tại chỗ thành những sợi dài, kiểu mì này cũng ít nơi bán vì rất mất thì giờ chở đợi.
Sợi hủ tíu làm bằng bột gạo, sợi hủ tíu ngon là sợi hủ tíu không bị nhão khi ăn, nuốt vào miệng nghe trơn tuột và cũng cần kỹ thuật khi trụng.
Cũng có nhiều xe mì bán thêm món há cảo, bột được bọc với con tôm, đem hấp chín, khi ăn chấm với tương ớt và xì dầu.
Có người thích ăn chung một tô có mì lẫn hủ tíu, cũng là một cái thú vì ăn được hai thứ trong một tô. Thế nhưng có nhiều xe mì không chịu làm thế, hủ tíu là hủ tíu, mì là mì, không thế có thứ hỗn hợp như thế.
Đi năm châu bốn bể, kể cả một thời gian khá dài ở bên Trung quốc, tôi vẫn không thấy đâu ngon bằng tô hủ tíu mì ở Việt Nam, đặc biệt là tô mì ở Chợ Lớn. Họ cũng gọi là mì nhưng thiếu cái hương vị mình đã dùng qua, cái cảm giác mà mình đã hưởng thụ. Ngay khi ra Hà Nội, hay về Đà Nẵng, vẫn thấy tô mì không giống tô mì Chợ Lớn. Bởi tô mì của quá khứ là tô mì quen thuộc, đã theo ta suốt một quãng đường dài của cuộc đời.
Bây giờ ở Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi, cũng chẳng khó khăn gì để kiếm một bát mì ngon, nhưng ăn trong quán, trong nhà hàng máy lạnh lại không có được cảm giác thú vị của ngọn gió đêm hiu hiu, ngọn đèn đường hắt hiu và phố xá có người qua, ăn trong âm thanh rộn rã của cuộc sống.
Tìm tô mì dễ dàng nhưng không còn thấy những chiếc xe mì lưu động, thay vào đó là những xe mì gõ mới không như cũ, tiếng sực tắc cũng chẳng còn âm thanh cũ, chất lượng, hương vị cũng đổi thay và tiếc nhất là những xe mì vỉa hè có những bức tranh kiếng. Giờ vẫn còn rải rác đâu đó để kiếm tìm, nhưng chắc chắn mốt mai, nó chỉ còn trong kỷ niệm.
Ai cũng có một món ngon của quá khứ, và chằc hẳn món đó là món ngon nhất trong tâm tưởng của riêng mình.
DODUYNGOC
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Apr/2023 lúc 10:14am
Hương Sài Gòn, không phải cô gái tên Hương ở SG! Mà là cái Hương vị Sài Gòn.
Tôi là dân Bắc Kỳ 2 nút,
chẳng có gì liên quan đến SG, cũng chẳng liên quan đến những người SG là Bắc Kỳ
9 nút đã ở SG từ trước 75.
Tôi thường xuyên đi SG
làm việc, làm ăn buôn máy tính những năm 2006-2009, trước đó từ năm 2000 cũng
hay có những chuyến du hí SG vào dịp cuối năm nghỉ hè.
Kể cả sau này sống gần 2
năm ở SG trước khi qua Thái cho nên cũng biết ít nhiều về SG.
Có những lúc một tuần
bay vào SG đến 4 lần. Nhưng có một điều tôi không thể diễn tả nổi là mỗi lần dù
từ ga tàu, bến xe hay sân bay vào đến SG thì lòng rất rộn ràng một cảm xúc khó
tả, cảm xúc của năng động, vui vẻ, hiếu khách, bụi bặm đời thường...
Tôi yêu những ly café SG
đen đá, tôi yêu cả những tiếng rao hủ tiếu gõ, tiếng rao tẩm quất đêm đêm vang
lên trong những con hẻm nhỏ.
Tôi yêu mùi cá nướng rộn
ràng ngậy béo.
Tôi yêu cả mùi thuốc bắc
ở những khu phố người Hoa cạnh chợ Lớn.
Tôi yêu nhũng cơn gió
bên cạnh sông SG hay những bờ kênh vào chiều tối.
Tôi yêu nụ cười người SG
trong nắng vàng của Miền Nam luôn nhiệt tình với khách. Nó khác hẳn với sự bon
chen của xứ Bắc nơi tôi sinh ra.
Tôi yêu cả những gánh
hàng rong nơi có những giọng ca nhạc Vàng không chuyên nhưng say đắm lòng
người... Và yêu cả những cơn mưa bất chợt của xứ sở Miền Nam.
Tôi đã trót yêu cái
Hương Sài Gòn bởi tính cách tôi có một thứ gì giống thế!...
Xin được nhớ đến Sài Gòn
và gọi tên Sài Gòn chứ không phải tên gọi nào khác bởi đơn giản, mỗi khi tới SG
tôi lại thấy xốn xang...
25/05/2020
******
Tôi Yêu Sài Gòn
Tôi đã từng viết hai bài "Hương Sài Gòn" và "Tản mạn
Sài Gòn, Hà Nội" để nói lên cái Hương vị không thể lẫn vào đâu của SG mà
tôi đã trót yêu, trót nhớ.
Và cũng để nói lên sự
khác biệt trong cách sống chân tình, mộc mạc, dễ gần, hiếu khách của người SG.
Hôm nay, tôi kể một
chuyện nữa về SG.
Khi tôi còn nguyên cơ
nghiệp, đi SG làm ăn, thăm thân nhân dường như là cơm bữa. Ăn nhậu, hát hò, vui
chơi đủ cả. Ấy là lúc mình có tiền, có quan hệ thì dễ lắm, ai cũng có thể tiếp
đãi mình tốt nếu mình không làm điều gì tồi tệ.
Nhưng bắt đầu từ cuối
2010, khi tôi mất tất cả từ tiền tài đến gia đình, bước chân đi mang bên mình
hai chữ "Phản động" thì mảnh đất tôi nương náu chính là Sài Gòn.
Thời điểm đó tôi chẳng
có tiền, chẳng có nhà và chẳng có xe. Người thân cũng chẳng có. Nhưng Sài Gòn
với cơm bụi bình dân, trà đá miễn phí, tình người thuong mến, không soi mói ...
Thật dễ sống! Sài Gòn
chính là mảnh đất ấm áp tình người che chở cho tôi những tháng ngày cơ cực nhất
của cuộc đời.
Các bạn có biết, 3/4
cuốn sách "Những sự thật cần phải biết" đã được viết ở Sài Gòn trong
xóm trọ nghèo ở Bình Thạnh, hoặc ngay ở quán Internet công cộng đường Lê Quang
Định với bữa cơm 7k đến 10k... đôi khi thiếu nợ cô chủ quán tuần sau mới trả.
Vậy mà cô chẳng cáu gắt
với thằng Bắc Kỳ nghèo khổ, mà ngược lại đôi khi còn cho thêm miếng canh khổ
qua cho đời bớt... Khổ quá!
Đấy! tình người SG là
thế, Sài Gòn là thế. Tôi đã yêu Hương Sài Gòn, thích cái tính ăn ra ăn, chơi ra
chơi của SG.
Và nhờ SG bao bọc những
lúc hoạn nạn, tôi mới có tự do ngày hôm nay, mới có sách "Những sự thật
cần phải biết"...
Cảm ơn Sài Gòn! và tôi
yêu Sài Gòn! Mãi mãi là như vậy...
Đặng Chí Hùng
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Apr/2023 lúc 1:34pm
https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE -
-
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Apr/2023 lúc 1:35pm
https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE">
Chia sẻ: 60 NĂM NHỚ LẠI... SÀI GÒN 1962 - Nhạc VỀ QUÊ - <<<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Apr/2023 lúc 11:48am
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/May/2023 lúc 7:30am
C https://www.youtube.com/watch?v=EOMs-WOmhic&pp=ygVKIEPDkk4gQUkgTkjhu5ogxJDhur5OIEPDgUkgR-G6oEMgLSBNxIJORyAtIFLDiiAoIEdBUkRFLSBNQU5HRVIgKSBOxIJNIFjGr0E%3D - òn ai nhớ cái Gạc-Măng-Rê (Garde-manger) năm xưa https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE -
- - < - < Cái garde-manger (gạc măng rê), nếu dịch ra chữ thuần Việt, có thể gọi là cái chạn bát (giọng Bắc), hoặc cái tủ bếp (giọng Nam). Có lẽ loại tủ này xuất hiện ở Việt Nam từ những năm Pháp thuộc, nên người Việt gọi vật dụng thân thuộc này bằng một cái tên rất Pháp :
- Gạc măng rê.
Từ những năm giữa thế kỷ 20, hầu như gia đình người Việt nào cũng có một cái gạc măng rê.
Đó là đồ nội thất bằng gỗ được đặt trong nhà bếp dùng để cất trữ thực phẩm, gia vị, dụng cụ nấu nướng,…
Ở Việt Nam, nó được thiết kế thành một dạng tủ kệ chia nhiều tầng, nhiều ngăn, dùng để đựng bát đĩa, xoong, nồi, thức ăn.
Gạc-măng-rê thường có bốn chân và nhô cao khỏi mặt đất. Để tránh các loại kiến, gián bò lên đồ ăn, người ta thường đặt chén nước (thường là bằng sành sứ) dưới 4 chân tủ.
st
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Jul/2023 lúc 11:29am
Quê hương tuổi thơ
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Jul/2023 lúc 11:04am
Gánh hàng rong gây thương nhớ một thuở Sài Gòn
Trong muôn mặt của Sài Gòn trước 1975, hình ảnh những người lao động lam lũ trên đường phố luôn là để tài sống động. Không đến nỗi phải "bán mặt cho đất bán lưng cho trời" nhưng họ cũng đã đổ biết bao mồ hôi công sức để có được bát cơm.
Lảnh lót tiếng rao
"Ai... bánh canh không?, Ai... cháo lòng không?". Tiếng rao thật lớn nhưng êm tai. Người Sài Gòn không thể quên được một dạo những người bán hàng rong được ví như chiếc đồng hồ chính xác nhất. 9 giờ sáng là "Ai tàu hủ không?", đến 10 giờ là "Ai chè đậu xanh bột bán nước dừa đường cát không?".
Cứ thế, suốt ngày mỗi người một giờ, mỗi món ăn một thời điểm chính xác đến độ người dân không cần xem đồng hồ. Không ai cảm thấy khó chịu mà ngược lại, hôm nào vắng họ là cảm thấy nhớ nhung.
Trong bức ảnh "Gánh bánh canh giữa phố Sài Gòn", chị bán hàng có gương mặt phúc hậu, đang nghiêng vành nón, một tay cầm tô, mắt nhìn vào nồi bánh canh đang tỏa hơi nóng bốc lên. Đôi quang gánh của chị đơn sơ, giản dị. Một đầu là nồi bánh canh khá lớn. Đầu còn lại, trên tấm nia là thùng nước rửa tô, một vài chiếc tô sạch.
Khách hàng của chị là một chàng trai mới lớn. Kẹp đôi đũa trong tay, cậu cầm muỗng múc nước lèo húp một cách ngon lành. Tất cả hoạt cảnh êm đềm đó diễn ra trên đường phố.
Một bức ảnh khác, cũng đôi quang gánh nhưng người phụ nữ này bán mía ướp lạnh. Chị là một cô gái còn trẻ. Chiếc nón lá chị móc vào đầu sau của gánh. Ở đầu trước, một tủ kính nhỏ trong đó có một mảng nước đá, xung quanh chất đầy những khúc mía đã róc sạch vỏ.
Một ngày với chị không phải chỉ bấy nhiêu mía trong tủ kính mà "hàng dự trữ" còn đầy ở đầu gánh phía sau. Bởi thế không lạ gì khi thấy chị oằn lưng với đôi quang gánh.
Đường phố Sài Gòn trước 1975 không đông đúc như bây giờ nên sự xuất hiện của những người bán hàng rong không gây trở ngại nào mà ngược lại còn điểm tô thêm cho sắc thái của Sài Gòn.
Bánh tráng kẹo trên đường Tự Do (Quận 1, TP.HCM) nay là Đồng Khởi (Ảnh tư liệu)
Một người đàn bà đứng tuổi với gánh bánh tráng kẹo rong ruổi trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), một trong những con đường lớn ngay giữa lòng trung tâm thành phố. Chị người Quảng Ngãi, nơi có món ăn dân dã độc đáo này. Một chiếc bánh tráng nướng và kẹo mạch nha được kéo thành từng mảng phủ kín lên trên, rất ngon và đậm chất quê hương.
Ngày nay có khác hơn. Cách bán buôn không nhọc nhằn như trước nhờ vào những công cụ trợ giúp. Tuy nhiên đồng tiền họ kiếm được cũng không kém phần cay đắng.
Xe mì trong ảnh nếu còn đến nay cũng phải gần 100 năm. Chiếc xe cũ kỹ. Trong thân xe là lò nấu nước, thùng nước lèo cùng củi than dự trữ. Mì được chứa trong những ngăn kéo.
Nghề nấu mì và xe mì là sản phẩm của người Hoa du nhập vào Việt Nam, sống với người Việt cùng với bao vui buồn đã trở nên quen thuộc.
Trước 1975, những chiếc xe mì này thường cố định ở một vị trí nào đó. Nó là một phần không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của người dân. Từ người lao động đến anh thương gia, ai cũng cần một bát mì khi đói lòng.
Ngoài phục vụ khách tại chỗ, nhiều xe mì còn có người đi vào tận các hẻm đông dân cư trên tay cầm hai thanh tre gõ vào nhau tạo thành tiếng kêu thay cho lời rao chào hàng. Dần dần tiếng gõ ấy trở nên quen thuộc và tên gọi "mì gõ" có từ dạo ấy.
Ở một chiếc xe đẩy tay khác, những con mực khô được treo ở trên cao thành hàng dài. Người bán hàng đang ngồi chờ khách. Xe bán mực khô này xuất hiện khá nhiều ở Sài Gòn vào những năm 1960 - 1970 và vắng dần, đến hôm nay rất khó tìm thấy.
Khách đến tự do chọn cho mình con mực ưng ý rồi đưa cho người bán nướng. Qua bếp than hồng, mùi thơm của mực bốc lên. Mực chín được cho vào chiếc cối quay vài vòng. Con mực tơi ra và chỉ cần xé chấm với tương thì không còn gì bằng.
Trước sự phát triển của công nghệ hiện đại, ít người còn nhớ đến xe nước mía quay bằng tay. Xe nước mía xưa được đóng bằng gỗ, không đẹp như bây giờ.
Ép mía bằng 2 trục nối với tay quay cũng bằng gỗ. Người bán nước mía thời bấy giờ thường là đàn ông mới có sức để quay bởi phải dùng 2 tay và thêm một chân mới quay được vòng tua ép mía.
Hàng rong bây giờ vẫn còn nhưng không như xưa. Đôi quang gánh và tiếng rao lảnh lót gần như đã vào dĩ vãng. Tiếng gõ "lốc cốc" của mì gõ cũng im ắng. Mì vẫn còn bán, mực vẫn còn nướng và nước mía vẫn ngọt như xưa nhưng những chiếc xe ấy trở thành huyền thoại. Với bây giờ, tất cả đều là kỷ niệm trong ký ức người dân Sài Gòn.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jul/2023 lúc 9:51am
Xe ngựa trên lối xưa – hồn quê cũ
Đã từ lâu, chiếc xe thổ mộ đã gắn liền với những phiên chợ sáng chiều của người dân quê Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một.. Nó không những là phương tiện đi lại thuận tiện, mà với dáng vẻ độc đáo, chiếc xe đã tạo cho khung cảnh đồng quê Nam Bộ trở nên duyên dáng và có “hồn” hơn !
Xe thổ mộ là loại xe ngựa chở khách, có hai càng bằng gỗ, do một con ngựa kéo. Tại sao nó có tên là thổ mộ? Có người giải thích vì xe có mui cong nhỏ, trông giống cái gò mã nên được gọi là “thổ mộ”. Lại có người cho rằng, nó bắt đầu từ tên xe là “thảo mã”. Lâu ngày đọc trại ra thành “thổ mộ” (theo Paulus Của).
Lại có ý kiến giải thích nó có nguồn gốc từ chữ “Tombeau” của Pháp đọc trại thành thổ mộ; điều này, cụ Vương Hòng Sển trong cuốn “Tự Vị Tiếng Việt miền Nam” đã bác bỏ và cho biết rằng, người Pháp họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là tombeau cả mà gọi là Boîte d’allumettes (hộp quẹt), có lẽ vì cái hình dáng nhỏ nhắn của nó như cái hộp quẹt chăng?
Có thể ban đầu, khi người Pháp mới sang, họ dùng xe ngựa để kéo pháo. Giống ngựa họ đem từ châu Âu, châu Phi sang. Ngựa giống này cao to, có khả năng kéo nặng được. Lần lần, có nhiều con không thể kéo pháo được nữa, chúng bị dạt ra để kéo đồ vật lặt vặt, kể cả kéo cỏ cho những con kéo pháo ăn. Chính vì thế mà có tên xe là “thảo mã” (xe ngựa kéo cỏ), lâu ngày đọc thành thổ mộ?
Cho dù nó có nguồn gốc thế nào, thì cái tên thổ mộ đã được người dân Nam Bộ gọi đã khá lâu, ít nhất là vào thời điểm sau khi quân Pháp đến chiếm đóng Nam Kỳ.
Người đánh xe ngựa được gọi là “xà ích”, theo nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì “xà ích” là tiếng có nguồn gốc từ Philippines. Những người đánh xe ngựa (xà ích) vốn là những nông dân chất phác, phóng khoáng cởi mở. Họ nhanh chóng tiếp thu một phương tiện giao thông mới, cải tiến nó thành một loại xe chở khách có vóc dáng nhỏ, gọn, phù hợp với đường sá của nông thôn miền Nam.
Hình thức xe cũng khá thẩm mỹ. Tuy giản dị với mái vòm cong cong, nhỏ nhắn nhưng khi di chuyển trên đường làng thì trông rất hài hòa với những ụ rơm, lũy tre làng của phong cảnh đồng quê.
Để hành nghề xe ngựa, việc quan trọng nhất là phải biết chọn ngựa. Lựa chọn ngựa bắt đầu từ màu lông, xái ngựa, tuổi (xem răng), mõm (mõm nhọn kén ăn hơn mõm bằng). Sau đó là huấn luyện.
Việc huấn luyện ngựa do những vị cao tuổi học tập và truyền lại từ sách” Mã Kinh” của Tàu. Có người kỹ lưỡng hơn thì lại coi thêm mạng theo ngũ hành: mạng của người cần phải hợp với mạng của ngựa! Ví dụ: người mạng Thổ chọn ngựa ô; mạng Thủy chọn ngựa Kim (hoặc khứu) lông nâu nhạt; mạng Mộc chọn ngựa Kim than (ngựa trắng điểm đen); mạng Hỏa chọn ngựa Vang (lông đỏ ). Thời trước, xe thổ mộ cũng hoạt động theo luật định.
Ai muốn hành nghề xà ích đều phải qua một cuộc thi khảo hạch để nhà chức trách cấp bằng chứng nhận. Người lái xe phải đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, trước khi thi phải thuộc 36 ký hiệu giao thông trên đường y như thi lái xe bây giờ vậy. Bởi vì lúc đó, xe thổ mộ chẳng những chở khách xuôi ngược ở các vùng nông thôn ngoại thành, mà nó còn chở hàng hóa và khách vào tận các chợ Bến Thành, Cầu Muối…
Vì thế, người xà ích phải hiểu biết luật giao thông đường bộ và có tay nghề cao để bảo đảm an toàn giao thông. Trên xe phải có chuông, nút ấn chuông được đặt bên cạnh chỗ ngồi của người xà ích. Xe chạy khi trời tối phải có đèn lái ở hai bên, hai cái đèn có hình dáng là hai cánh tay người cầm hai chân đèn. Quy định này do người Pháp đặt ra. Đèn được đốt cháy bằng khí đá, nó chẳng soi sáng được bao nhiêu, cốt để cho người đi đường thấy có xe ngựa mà tránh!
Dưới gầm xe phải có bao đựng phân ngựa, không để ngựa phóng uế bừa bãi ra công lộ. Xe ngựa nào không thực hiện đủ những quy định trên sẽ bị “phú lít” xử phạt ngay. Xem thế ta thấy xe ngựa ngày xưa cũng khá văn minh!
Có người nói rằng, lúc trước xe ngựa khi chạy trong thành thị thì xà ích che đi một phần cặp mắt của ngựa, chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ 2 đến 3 mét; mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tâm mà chạy “lạc hướng” dễ gây tai nạn.
Mỗi xe thổ mộ được trang bị một “bộ nhíp” giảm xóc. Tất cả các loại xe như xe bò, xe ngựa kéo, xe lừa của ta từ trước đó chưa hề biết đến cái nhíp giảm xóc bao giờ.
Cùng với sự tồn tại của chiếc xe ngựa là những nghề phụ thuộc theo nó như: nghề xén tóc và xén lông cho ngựa, nghề đóng móng sắt ngựa, nghề đóng thùng xe… Nghề đóng móng sắt do người châu Âu du nhập vào. Ngựa xứ ta trước đó chưa hề đóng móng sắt.
Thời gian khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở vùng Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một có hơn 1000 chiếc xe thổ mộ. Có lẽ nó là phương tiện di chuyển công cộng trên bộ đầu tiên ở nước ta, sau đó mới đến các loại phương tiện khác. Cũng như nhiều nghề khác, nghề xà ích cũng có tính cha truyền con nối . Ở khu Tân Định xưa, có con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, đó là đường xe thổ mộ chạy. Xe thổ mộ cũng có bến như xe buýt hiện nay.
Ngoài ra, ở khu vực kênh Nhiêu Lộc (khu vực gần chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay) có một khu vực gọi “Bến tắm ngựa”, đây là nơi xà ích thường cho ngựa xuống tắm mát nghỉ ngơi sau thời gian dài rong ruổi mệt nhọc trên các ngã đường.
Đối với người dân Sài Gòn-Gia Định và các vùng lân cận, những chiếc xe mui vòm khum cong như những nấm mộ xuôi ngược trên những con đường đất đỏ, (sau được rải đá rồi tráng nhựa); với hình ảnh những chú ngựa nhỏ con, gõ móng lốp cốp trên mặt đường nhựa, cùng với nhạc cổ leng keng ngày trước là một phương tiện chuyên chở rất gần gũi và thân thiện, nhất là đối với bạn hàng các chợ và người bình dân đi lại từ nơi này sang nơi khác.
Trong những ngày giáp Tết, xe thổ mộ càng đẹp và rực rỡ hơn vì rực vàng hoa vạn thọ, hoa huệ, cúc… từ các vùng Gò Vấp, Bà Điểm đổ vào bán ở các chợ nội thành.
Mỗi cổ xe thổ mộ đang chạy như là một bản hợp tấu giàu âm điệu. Âm điệu nền là tiếng vó ngựa lộc cộc giòn giã nện xuống đường.Tiếng khua lốc cốc của cây ví (thanh thép nằm giữa trục bánh xe). Tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng “cốc keng” ngân vang mà rời rạc từ cái chuông xe. Và cuối cùng là lâu lâu lại trỗi lên tiếng hý dài của con tuấn mã sung mãn đầy sinh lực! Tất cả như một bức họa mỹ thuật toát lên nhiều âm thanh của một bản hòa tấu sinh động, và bức họa đó đã thực sự đi vào dĩ vãng, đi vào lịch sử một vùng quê xưa…
Tôn Thất Thọ ĐÁNG NHỚ
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jul/2023 lúc 11:18am
Chuyện tình Ông + Bà Sài Gòn
Chuyện rằng từ thuở xa xưa Ông bà ta đã dây dưa ái tình Bởi thế nên tục truyền rằng: Ông Lãnh, Ông Tạ, Ông Đồn Ba người bạn thiết sớm hôm một nhà
Ông Lãnh bản chất thiệt thà
Thầm yêu nét đẹp mặn mà Bà Đen Nhưng nào ông dám bon chen Sáng đêm chong đèn nhung nhớ thiết tha Ông Đồn bản tánh nguyệt hoa
Chờ Ông Lãnh kẹt, cà rà Bà Đen
Hai người xả láng một phen Sinh ra bé gái đặt tên Thị Nghè Ông Lãnh nghe nói, thuê ghe
Đi thăm cho biết Thị Nghè ra sao
Ngó gần nó cũng bảnh bao Nhìn xa nó cũng hao hao Ông Đồn Bà Đen từ dạo sinh con
Vốn đã đen sẵn nay còn hơn xưa
Ông Đồn nhìn vợ hết ưa
Bỏ lên Long Khánh say sưa miệt mài Bà Đen ngẫm nghĩ chán thay Cũng đi lên núi đêm ngày thở than
Thương cho đứa cháu lầm than
Ông Lãnh hào hiệp cưu mang đem về
Buồn cho cuộc sống ê chề Một già một trẻ bốn bề cô đơn
Ông bèn thẳng xuống Hóc Môn
Cưới luôn Bà Điểm để chôn cuộc đời
Qua bao vật đổi sao dời Bà Đen ở vậy cho vơi nỗi lòng
Chỉ còn Ông Tạ lông bông
Bạn bè lấy vợ nên chồng đã lâu
Cô Giang sắp sửa ăn trầu
Cô Bắc cũng đã từ lâu theo chồng
Ông bèn đi xuống Cầu Bông
Hỏi thăm Bà Chiểu có chồng hay chưa
Bà Chiểu nghe nói bèn thưa:“Chỉ còn Bà Quẹo là chưa có chồng
Bà Điểm tay bế tay bồng”
Buồn tình, Ông Tạ phải lòng Bà Hom
Ông bèn bao cuốc xe ôm
Về lăng Cha Cả lo hôn lễ liền
Phụ rể có cậu Bảy Hiền
Nữ trang Chú Hỏa bạc tiền thiếu đâu
Bà Hạc thì làm phụ dâu
Chú Ía bưng quả, buồng cau, khay trầu Bà Hom tròn mối duyên đầu
Thương cho Bà Quẹo âu sầu đắng cay
Ế chồng mấy chục năm nay
Chỉ vì cái tội thích hay làm tàng Buồn cho nghiệp chướng bẽ bàng
Bà đành an phận chẳng màng hơn thua
Mặc cho thế sự ganh đua Bà liền xuống tóc vô chùa Bà Đanh Bỏ ngoài tai việc chúng sanh
Cam đành vui thú tu hành điền viên
Buồn nhất là ở Phú Yên “Ông Chừ” hổng có tình duyên mặn mà Tự trách số phận “con gà” (mắc dây thun) Ông qua Cam Bốt cưới “Bà La Môn” Tuổi em thì cũng sồn sồn “Vệ Sa” “Sát Đế” một bồ Hindu Ngẩn ngơ vào một chiều thu Ông ra Thiên Mụ khấu đầu đi tu
TH/ST
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jul/2023 lúc 9:40am
Nước mía Sài Thành xưa.
Nước mía là thứ nước giải khát ngon, bổ rẻ và được ép nguyên chất từ mía tươi.
Ngày xưa mấy xe nước mía thường dùng tay để ép mía, bánh xe như vô lăng lái tàu, tay người ép mía phải khỏe mới ép được hết nước ra khỏi những cây mía dài.
Bây giờ hiện đại, các loại máy ép nước mía giờ toàn dùng điện. Khi ép mía người ta thường thêm tắc vào cho thơm và át bớt vị ngọt gắt cổ của thứ nước đường nguyên chất đó. Miếng tắc chua chua vào để hãm vị ngọt khó chịu đó lại và để … thơm hơn. Bản thân người biết uống nước mía thường có thói quen vắt nhiều tắc.
Càng chua càng ngon. Nhưng nước mía cũng phải ngọt ngon thì vắt nhiều tắc mới ngon. Gần đây nhiều nơi có món mía dâu, mía cam, vị chua của dâu hay cam xay chung với nước mía lạ miệng và phần nào làm dịu bớt cái gắt của mía đường. Nhưng gì cũng vậy, vị ngon nguyên thủy vẫn là thứ không thể thay thế được.
Nước mía ngon phải có màu vàng đậm, tung bọt. Vài nơi thường dằn thêm vài hạt muối cho đậm đà. Có nơi thêm nước chanh muối hay tắc muối. Mía ngọt nên uống phải có đá để làm mát dịu cái vị gắt của đường…
Có lẽ ở miền Nam vì nóng quanh năm nên phổ biến hơn miền Bắc. Tuổi học trò đứa nào cũng phải biết nước mía.
Thứ giải khát không đắt tiền và kén chọn khách hàng. Hồi xưa khi còn học cấp 1 chiều nào mẹ cũng mua cho một bịch nước mía chỉ 500 đồng, hút rột rột khi ra khỏi cổng. Ngon hơn nước ngọt nhiều. Ngon hơn cả mấy bịch xirô đá màu xanh đỏ bán nhan nhản ở trước trường.
Ly Lê
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Jul/2023 lúc 1:10am
Có nhà văn nào đó cho rằng khi viết về ẩm thực bụng phải đói mới “lột tả” hết cái ngon
của món ăn.
Tôi rất tâm đắc với ý kiến này. Hồi còn trong trại tù cải tạo, cái bụng lép kẹp
lúc nào cũng sôi ùng ục, tôi và vài người bạn tù có “tâm hồn ăn uống” vẫn
thường kể cho nhau nghe những món khoái khẩu của mình. Ăn “hàm thụ” sao mà ngon
thế. Phải nói ngon gấp nghìn lần ăn… thực thụ!
Thời cải tạo qua đi nhưng thời điêu linh lại kéo tới. Vào thời đó, cái để đút
vào mồm chỉ toàn khoai mì chạy chỉ với bo bo, còn được mệnh danh là… cao lương.
Ngồi nhấm nháp cao lương mà cứ tức anh ách. Ai đó đã khéo chơi chữ mà đặt tên,
mỉa mai không khác gì cái món “mầm
đá” của ông vua ngày xưa!
Nhưng rồi cũng qua đi cái thời ăn để mà sống, người ta bỗng nhớ đến thời… sống
để mà ăn ở Sài Gòn hoa lệ ngày nào.
Theo tôi, một trong những món ngon đó phải kể đến phở. Mặc dù phở có xuất xứ từ
miền Bắc nhưng phở Sài Gòn thường ăn kèm với giá, ngò gai, húng quế vẫn ngon
hơn phở Hà Nội thiếu hẳn các loại rau thơm mà lại không có giá. Vào đến Sài Gòn
ngày xưa có con đường tên Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), một đầu là đường Tự Do (Catinat),
đầu kia là đường Hai Bà Trưng (Paul Blanchy). Tiệm Phở Bắc được bán trong khuôn
viên nhà thờ Hồi Giáo này, nên có tên là Phở Turc.
Sài Gòn 1954, lúc người Bắc mới vào Nam, những tiệm Phở Bắc hãy còn đếm được
trên đầu ngón tay. Ðó là mấy tiệm Phở Thịnh đường Gia Long, Phở Turc đường
Turc, Phở Minh đường Pasteur và Phở 79 ở đường Frère Louis (sau này đổi tên
thành đường Võ Tánh và đến 1975 lại đổi thành Nguyễn Trãi thuộc quận 1).
Ngay bên hông rạp Casino có một hẻm nhỏ, đi vào hẻm đó là một dẫy nhà, đa số là
nhà dân Bắc Kỳ di cư sớm, từ những năm 1920. Tiệm Phở Minh nằm ở dãy nhà đó.
Phở Minh có cả phở bò lẫn phở gà nhưng đặc biệt hơn cả còn có bài thơ do thi sĩ
Trần Rắc đề tặng. Bài thơ được cắt chữ, đóng khung kính, treo trên tường. Bài
thơ Ðường Luật có 4 câu đầu như sau:
Nổi tiếng gần xa khắp thị
thành,
Trần Minh Phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu,
sụn,
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm,
chanh.
Thi sĩ Trần Rắc chính là ông chủ tiệm giày Trần Rắc đường Lê Thánh Tôn, gần
Khám Lớn Catinat năm xưa. Tiệm giầy Trần Rắc, và cả mấy tiệm giầy ở đường này,
đều có cửa sau đi vào hẻm “ẩm
thực” Casino.
Việt Nam ta đúng là… ra ngõ gặp nhà thơ. Ðến như ông chủ tiệm giày cũng có thể
làm thơ về phở chứ chưa dám nói đến Tản Ðà là người viết nhiều về nghệ thuật ăn
uống!
Trên đường Mạc Ðĩnh Chi (M***iges), gần bên hông Tòa Ðại Sứ Mỹ, còn có phở Cao
Vân, dù tiệm phở này không nằm trên đường Trần Cao Vân (Larclause) cách đó không
xa. Theo tôi, phở Cao Vân (25 Mạc Ðĩnh
Chi) chỉ thuộc loại “thường
thường bậc trung” nhưng được nhắc tới cùng với phở Minh vì Cao
Vân cũng có một bài thơ ca tụng phở của thi sĩ Tú Mỡ được viết bằng sơn ngay
trên tường.
Trong các món ăn Quân Tử Vị
Phở là quà đáng quý trên đời
Chủ của phở Cao Vân ngày nay là một ông cụ Bắc Kỳ hom hem theo năm tháng. Ông
không còn đứng ra nấu phở nhưng chiều chiều thường ngồi nhậu lai rai với các “chiến hữu” để hưởng
nhàn!
…Trên đường Pasteur có Phở Hòa, khá nổi tiếng. Ban đầu, lúc khai trương năm
1960, tiệm phở này mang tên Hòa Lộc. Có lẽ sau này khách ăn cứ gọi tắt là Hòa
nên Hòa Lộc biến thành Hòa theo kiểu gọi tên một chữ cho dễ nhớ thường thấy ở
các tiệm phở (?). Phở Hòa chỉ chuyên loại phở bò, nếu vào đây mà tìm tô phở gà
thì không có. Khách phải chịu khó ra đường Hiền Vương (bây giờ đổi tên là Võ
Thị Sáu), đến tiệm Hương Bình, “chuyên
trị” phở gà.
Nói đến phở Sài Gòn tại khu vực trung tâm, phải nói đến tiệm Phở 79, ngay tại
số nhà 79 trên đường Võ Tánh. Khoảng năm 1952, tiệm Phở 79 mở cửa, khi đó nền
nhà của tiệm còn thấp hơn mặt đường. Chỉ vài năm sau tiệm phát đạt, chủ nhân
mua hai nhà bên cạnh, mở lớn thành tiệm Phở 79 khang trang và có thể nói là một
trong những tiệm phở sạch nhất Sài Gòn thời đó.
Trường Sinh ngữ Quân đội có chi nhánh ở đường Nguyễn Văn Tráng rất gần với Phở 79 tại khu vực Ngã Sáu Sài Gòn. Ðám
giảng viên chúng tôi thường xuyên ăn sáng, ăn trưa và cả ăn tối mỗi khi “ứng chiến” tại trường.
Phở tại đây được đánh giá là… “ăn
được.” Nếu ai “ăn
không được” thì chịu khó đi thêm vài bước ra Ngã Sáu, nơi đây
có đủ các món ăn chơi thuộc loại bình dân, từ phở, hủ tíu cho đến mì và có cả
xe… bánh mì mua về trường nằm gặm trong những đêm ứng chiến!
Gần ngã tư Phú Nhuận có phở Quyền trên đường Võ Tánh (thuộc quận Phú Nhuận),
cách cổng phụ của Tổng Tham Mưu chừng 100 mét. Tôi thường ghé ăn nơi đây mỗi
khi về trụ sở chính của trường sinh ngữ trong Tổng Tham Mưu. Nước phở ở đây rất
đậm đà, vị ngọt là của xương ống chứ không phải vì bột ngọt. Phở Quyền còn có
cả món “tái sách tương
gừng” được xếp vào loại… trứ danh.
Con cháu của một số gánh phở nổi tiếng Hà Nội đã vào Nam lập nghiệp năm 1954,
trong cơ hội lịch sử này có phở Tàu Bay. Vốn là quán phở do ông nội mở vào 1950 ở Hà Nội, khi di cư vào Nam, ông
chủ quán được người bạn thân tặng cho chiếc mũ bay. Ông thường xuyên đội nó,
khách thấy lạ, gọi ông “Tàu
Bay” rồi chết tên thành tên quán.
Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ ngày nay vẫn bán và khách quen ngày nào vẫn chịu
khó mò đến đây để tìm lại hương vị đặc thù. Phải nói Phở Tàu Bay rất… hiếu
khách. Gọi thêm nước béo, nhà phở đem ra cả tô chứ không bằng chén nhỏ như
những tiệm khác. Tô đặc biệt của Tàu Bay lại là tô “Xe Lửa,” bánh và thịt
trên mức hậu hĩnh.
…Kể từ khi người Bắc di cư vào Nam, tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tíu, vốn là
món “đặc sản” của
miền Nam. Các tiệm hủ tíu nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ tíu Thanh Xuân đường
Tôn Thất Thiệp (gần chùa Chà Và), hủ tíu Phạm Thị Trước ở đường Lê Lợi (khúc
gần Pasteur), hủ tíu Gà Cá ở đường Hàm Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ
tíu Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực…
Có người đến hủ tíu Phạm Thị Trước gọi thêm bánh pâté chaud ăn kèm, cũng giống
như hủ tíu Gà Cá. Tuy nhiên, mỗi tiệm hủ tíu đều có hương vị riêng khiến một
khi khách đã “kết” thì
khó đi ăn nơi khác. Hủ tíu Sài Gòn sáng nào cũng đông người đến thưởng thức,
không cần đợi đến những ngày cuối tuần.
Thường thì hủ tíu có bánh mềm, chỉ riêng hủ tíu Thanh Xuân hay Mỹ Tho thì thêm
bánh dai, nấu khô hay nước, tùy theo ý thích của khách. Chỉ nhìn dĩa rau dọn
lên trước thì cũng thấy bắt mắt: giá, hẹ, rau cần tàu, tần ô và vài cọng xà
lách. Thêm vào đó, mùi nước lèo xông lên như đập vào khứu giác thực khách làm
cho bụng cứ gào thét…
Người bồi bàn bưng mâm ra để tô hủ tíu trên bàn, mùi nước lèo xông lên mũi, nếm
thử “nghe” được
mùi thơm của nước lèo, thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay. Hủ tíu Thanh Xuân
thì phải có rau tần ô, rau cần tàu, giá sống. Hủ tíu Phạm Thị Trước hay Thanh
Thế cũng thế, nhưng không có rau tần ô. Riêng hủ tíu Gà Cá thì chỉ có giá sống.
Tuy nhiên, các thứ hủ tíu nếu thiếu vài miếng tóp mỡ và cải bắc thảo thì hình
như thiếu mất cái gì đó. Nước lèo vừa ngọt của xương, vừa béo của chất tủy từ
ống xương, thoang thoảng chút mùi của con mực, tôm khô, hào khô và củ cải.
Những thứ ấy quyện vào nhau thành một thứ nước lèo hấp dẫn. Hủ tíu bình dân thì
có những xe hủ tíu bán dạo. Từ mờ sáng cho đến khi màn đêm buông xuống, nghe
tiếng rao… lòng thấy nao nao!
***
Ðối với tôi, một món cũng thuộc loại “khoái
khẩu” ở Sài Gòn là… bánh mì thịt nguội, trong đó có cả jambon,
xúc xích, patê ăn kèm với sốt mayonaise và đồ chua! Bánh mì thịt nguội ăn sẽ
ngon hơn nếu bạn có thì giờ ngồi nhẩn nha tại tiệm: các loại thịt bày trên đĩa
trắng tinh kèm thêm một cục sốt bên cạnh dao, nĩa sạch bóng. Bẻ một miếng bánh
mì còn nóng, trét sốt lên trên rồi một lớp patê, sau đó cắt một miếng jambon…
đưa vào miệng. Tuyệt cú mèo!
Một trong những tiệm bán bánh mì thịt nguội có tiếng ở Sài Gòn từ năm1954 và
còn tồn tại đến ngày nay là Hòa Mã. Tiệm Hòa Mã nằm trên đường Cao Thắng, gần
khu vực Bàn Cờ, nơi có những địa điểm nổi tiếng như Kỳ Viên Tự, Tam Tông Miếu,
Trường Aurore, Cư Xá Ðô Thành, Nhà Bảo Sanh Ðức Chính…
Ngày nay, Hòa Mã không khác xưa là mấy. Hòa Mã cũ kỹ, bảng hiệu phai màu theo
năm tháng vì đã tồn tại hơn 50 năm kể từ ngày mở cửa. Nhiều người nói chủ nhân
Hòa Mã là người đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn… Tiệm Hòa Mã gọi
ổ bánh mì thịt của mình là cát-cút, dùng theo tiếng Pháp c***ecroute, bữa ăn
lót dạ, bữa ăn nhẹ. Những năm 60, giá bán một ổ bánh mì Hòa Mã là 3 đến 5 đồng,
ổ lớn có bơ tươi thì 7 đến 10 đồng.
…Xe bánh mì Tám Lự gần chợ Bàn Cờ chỉ bán từ sẩm tối đến đêm khuya. Một ổ bánh
mì Tám Lự dài cỡ 4 tấc, hai gang tay, tối ăn vào no đến sáng. Bánh mì ngon,
ngoài pâté chả lụa, pâté foie, bơ Bretel còn thêm dưa leo, ngò, hành lá, nước
tương, muối tiêu, ớt xắt. Ngày xưa khách chỉ cần nói: “Cho một tàu lặn hay một tiềm thủy đĩnh
đi, anh Tám!” là khách sẽ có ngay một ổ bánh mì nóng giòn,
thơm phức.
Nếu muốn sang hơn thì lên bánh mì Pâté Tòa Ðô chính trên đường Nguyễn Huệ hoặc
tiệm bánh Hương Lan trên đường Tự Do hay ngồi Thanh Bạch đường Lê Lợi (gần bệnh
viện Sài Gòn). Chỉ cần gọi đĩa bánh mì thịt nguội kèm theo một ly cà phê sữa đá
là đủ no cho đến trưa. Thanh Bạch vẫn là nơi lý tưởng để vừa ăn sáng vừa ngắm
cảnh người Sài Gòn sửa soạn cho một ngày mới.
…Sài Gòn xưa có hai tiệm Thanh Bạch, một ở đường Lê Lợi, bên rạp xi-nê Vĩnh
Lợi. Tiệm Thanh Bạch thứ hai ở đường Phạm Ngũ Lão, trong dẫy phố trệt dưới tòa
soạn nhật báo Sài Gòn Mới năm xưa. Ngoài bánh mì ốp-la, ôm-lết, thịt nguội,
Thanh Bạch có bánh mì bò kho, hủ tíu và đặc biệt là món suông. Bún suông dùng
xương heo để nấu nước lèo, và đặc biệt ở đây là dùng tôm tươi lột vỏ, bỏ đầu,
bằm nhuyễn sau đó vo lại thành sợi dài (như sợi bún). Nước lèo ở đây rất trong,
ăn kèm với rau sống…
Nhà hàng Tài Nam trên đường Ohier (Tôn Thất Thiệp) nổi tiếng với món đuông chà
là chiên bơ rất ngon nhưng cũng rất mắc tiền. Theo nhà văn Sơn Nam, vua chúa
cũng còn thèm “con đuông
chà là,” tên chữ là “hồ
đa tử.” Hồ đa là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang thường mọc
miền nước mặn Nam bộ, giống như cây cau kiểng. Cây dừa rừng có “củ hũ,” tức đọt non,
đến mùa sau Tết thường xuất hiện con đuông, giống như con nhộng. Ðuông ăn đọt
dừa non nên to, mập và thường được bắt trước khi nở thành bướm.
Sơn Nam viết: “Ðem đuông
nướng trên vỉ sắt, cho héo, rồi ăn, chấm với nước mắm nhĩ nguyên chất. Con
đuông béo ngậy vì tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là.”
… Vùng Thanh Ða (Bình Thạnh) nổi tiếng khắp Sài Gòn với món cháo vịt, gỏi vịt.
Vào buổi tối người Sài Gòn hay ra bán đảo Thanh Ða trước là để đón những luồng
gió mát từ sông Sài Gòn thổi vào và khi về, ghé mấy quán cháo vịt, gọi thêm đĩa
gỏi vịt ăn kèm. Nếu là “bợm
nhậu” thì gọi thêm chai bia Con cọp BGI để… đưa cay. Nếu ngại
ra Thanh Ða thì trên đường Hồng Thập Tự cũng có khu bán cháo vịt thuộc loại… “ăn được.” Thịt vịt tại
đây khá mềm, nhai kỹ thấy ngọt và đặc biệt không thấy mùi hôi vốn có của thịt
vịt. Có thể họ tuyển loại vịt chạy đồng nên không hôi (?).
Ðinh Công Tráng là một con đường nhỏ gần nhà thờ Tân Ðịnh nhưng cũng đi vào
lịch sử ăn uống của Sài Gòn với món bánh xèo. Bí quyết của bánh xèo nằm ở kỹ
thuật pha bột, sao cho khi chiên lên, bánh giòn tan khiến người ăn có thể cảm
được cái thú nghe miếng bánh đang được nhai dưới hai hàm răng. Lớp bột gạo pha
chút nghệ khi đổ vào chảo dầu tạo nên một tiếng “xèo” khiến ta hiểu
được tại sao lại gọi là… bánh xèo!
Ngày nay, đường Ðinh Công Tráng trở thành “đường bánh xèo” nhưng người sành ăn thì
chọn quán bên tay trái, nếu đi từ đường Hai Bà Trưng vào. Quán không tên nhưng
người ăn vẫn nhớ vì nó đã đi vào “bộ
nhớ” của người Sài Gòn từ bao năm nay. Những quán đối diện bên
kia đường trông có vẻ lịch sự hơn, sạch sẽ hơn nhưng vẫn chịu cảnh vắng khách
vì là kẻ… hậu sinh.
Khu Ða Kao có tiệm bánh cuốn Tây Hồ (127 Ðinh Tiên Hoàng), gần chợ Ða Kao, quận
1, nổi tiếng. Tại đây, mỗi bàn có để sẵn một thẩu nước mắm và một chồng chén
nhỏ để khách tùy nghi sử dụng, thêm nhiều hay ít ớt bằm theo sở thích riêng của
từng người. Tuy nhiên, có khách lại thích chan luôn nước mắm vào đĩa để bánh
cuốn thấm nước mắm, đậm đà hơn.
Chả quế và giò lụa được cắt thành miếng lớn, để riêng trong một đĩa nhỏ. Khách
có thể chỉ ăn bánh cuốn nhân thịt mà không đụng tới đĩa giò chả, như vậy người
phục vụ nhìn vào đĩa chả còn nguyên mà không tính tiền. Nếu cần, có thể gọi
thêm đĩa bánh tôm hoặc bánh cuốn không nhân.
Sài Gòn cũng có bánh cuốn Thanh Trì kiểu Bắc, mỏng như tờ giấy, ăn với “ruốc” (chà bông) và
nước mắm phải kèm với vài giọt cà cuống mới là “sành điệu”! Còn bánh ướt là kiểu bánh cuốn
bình dân ở Sài Gòn, cũng ăn kèm với bánh tôm chiên, giò, chả và rau, giá. Những
xe bánh ướt được đẩy đi khắp Sài Gòn, có cả nồi hấp nên lúc nào bánh cũng nóng
và người bán bao giờ cũng chan nước mắm vào đĩa thay vì chấm kiểu “thanh cảnh” như bánh
cuốn Thanh Trì.
Lại nói thêm, đường Albert (vào thời Ðệ Nhất Cộng Hòa đổi tên thành Ðinh Tiên
Hoàng) khá dài nên dọc theo con đường này có nhiều địa chỉ ẩm thực nổi tiếng.
Tiệm ăn Chez Albert (lấy tên theo con đường), Cà phê Hân, Mì Cây Nhãn (tên đặt
theo cây nhãn hồi đó còn trồng trước sân), Thạch chè Hiển Khánh (nơi sưu tầm
rất nhiều thơ ca tụng thạch chè)… Tôi chắc chắn còn bỏ quên khá nhiều điểm ăn
uống khác nữa trên con đường này.
Ở góc đường Tôn Thất Ðạm và Hàm Nghi, trước kia vào thập niên 30 có một quán
cháo cá nổi tiếng một thời. Buổi chiều cho đến gần khuya, khách đến ăn rất
đông, nhất là khi cải lương, hát bội, hát bóng vãn hát. Theo Vương Hồng Sển
trong Sài Gòn Tạp Pín Lù, quán cháo cá này của người Tàu, gốc Quảng Ðông, “cha truyền con nối suốt bốn năm thế hệ,
trót trăm năm chớ không phải chơi…” Cháo tại đây nấu bằng gạo
tấm hầm với cá, xương heo và thịt tôm hùm để thành một thứ hồ sền sệt khiến “người đau mới mạnh dùng không sợ trúng
thực, người mệt mỏi ăn vào cảm thấy nhẹ bụng, mau tiêu. Tô cháo cá Chợ Cũ quả
là một ‘tô thuốc tráng thần’…”
Cháo nóng hổi bốc hơi nghi ngút. Vừa thổi vừa húp xì xụp mới thấy được cái thú
vị của món cháo cá Chợ Cũ. Thịt cá giòn, thơm, lẫn lộn hương vị của hành, tiêu,
gừng và có thể ăn với “dầu
chá quẩy.” Thú thật, tôi là người thích thịt hơn cá nhưng
thỉnh thoảng được thưởng thức món cháo cá vẫn thấy ngon đến toát mồ hôi!
Có một tiệm cháo giò heo khá nổi tiếng trong ngõ đường Phan Ðình Phùng (ngày
nay là Nguyễn Ðình Chiểu). Tiệm không có tên, chuyên bán cháo từ 6 giờ tối tới một, hai giờ
sáng. Khách của tiệm này đa số là khách chơi đêm, khách đi nhảy, khuya về đói
bụng đến ăn tô cháo nóng.
Tôi lại nhớ đến món phá lấu ở góc đường Lê Lợi-Pasteur, nơi đây còn có xe bò
bía và nước mía Viễn Ðông. Bán phá lấu là một chú Tàu và “cửa hàng” của chú chỉ
vỏn vẹn một cái khay tròn, trên đó bày đầy đủ nội tạng heo: lòng, dồi, gan, bao
tử, ruột non, ruột già, tim, phèo, phổi… Trông thật hấp dẫn, ngửi thơm phức và
ăn vào thì giòn tan. Phá lấu nói chung có vị hơi ngòn ngọt, gan thì bùi bùi,
lòng thì hơi dai dai nhưng khi nhai kỹ mới thấy ngon… thấu trời xanh!
Nghệ thuật làm phá lấu chắc chỉ mấy chú ba mới đáng hàng sư phụ. Phá lấu làm
tại nhà cũng ướp húng lìu, ngũ vị hương nhưng không thể nào so sánh với phá lấu
góc nước mía Viễn Ðông. Từng miếng phá lấu được ghim sẵn bằng tăm, chấm với
tương đỏ trộn tương đen. Khách ăn xong chú Ba chỉ nhìn tăm mà tính tiền nhưng
tuyệt không bao giờ sai. Quá bộ vài bước là xe nước mía tươi mát đang chờ… để
kết thúc một chuyến ăn hàng bên lề đường.
Gần nước mía Viễn Ðông có xe thịt bò khô của ông Năm (theo tên gọi của khách
quen) và sau 1975 ông dời về đường Tự Ðức (nay đã đổi tên là đường Nguyễn Văn
Thủ) thuộc khu Ða Kao.
Dân chơi Sài Gòn thường xếp hạng: “Ăn
quận 5, nằm quận 3, xa hoa quận 1” nên viết về món ngon Sài
Gòn mà bỏ qua khu vực Chợ Lớn là cả một thiếu sót lớn. Dọc đường Trần Hưng Ðạo
nối với đường Marins (Ðồng Khánh) thuộc địa phận quận 5 có những nhà hàng, tửu
lầu nổi tiếng một thời như Arc-en-Ciel, Ðồng Khánh, Á Ðông, Bát Ðạt.
Theo tôi, Chợ Lớn nổi tiếng hơn cả là đường Lacaze mà người Việt hay gọi trại
là La Cai, tức đường Nguyễn Tri Phương sau này. Khu La Cai có mì vịt tiềm hầm
thuốc bắc, một trong những món “tủ” của
người Hoa. Bên cạnh đó còn có những tiệm hủ tíu mang tên Mỹ Tiên, Cả Cần và
tiệm bánh bao Bà Năm Sa Ðéc.
Ðêm đến có các quán sò huyết dọc theo lề đường. Khách bình dân ngồi ăn nhậu
thoải mái giữa dòng xe cộ ồn ào bên ánh đèn nê-ông từ các nhà hàng, vũ trường
sang trọng của Chợ Lớn “by
night”!
…Thôi thì đời người có lúc hưng lúc tàn, cũng như vận nước có khi thịnh khi
suy. Viết lại món ngon Sài Gòn chỉ để thỏa mãn kiểu “ăn hàm thụ”như đã nói ở
trên. Giờ có cho ăn thực thụ chắc cũng chẳng thấy ngon như thời còn trai trẻ.
Tất cả chỉ còn là… hoài niệm!
Nguyễn Ngọc Chính
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Jul/2023 lúc 8:51am
Qua và Bậu trong văn thơ Nam Bộ
Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua
Qua, bậu là đại từ xưng hô của lứa đôi đặc trưng của miền Trung và nhất là Nam Việt Nam. Cho dù ngày nay hai từ ngữ này không còn được thông dụng trong dân chúng miền Nam: từ bậu hầu như tuyệt đối không dùng nữa và từ qua còn được sử dụng một cách giới hạn. Nhưng trong thơ văn cũng còn được dùng hai từ ngữ này và không giới hạn ở các văn thi sĩ vùng Đồng Nai - Cửu Long.
Qua và bậu trong văn thơ được dùng với nghĩa rất thân mật. Qua là đại từ, ngôi thứ nhứt, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (cô, chú, bác, anh, chị). Khi dùng chung với bậu nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc của người con trai xưng với người yêu. Bậu cũng là đại từ, ngôi thứ hai, nghĩa là người vợ hay người yêu hay người con gái được mến chuộng. Nghĩa cuối cùng trong thời kỳ lẽo đẽo đi chinh phục:
Bậu sang phà Rạch Miễu Qua lẽo đẽo theo sau ...
(Phải lòng con gái Bến Tre, Luân Hoán/Phan Ni Tấn)
Ngày xưa từ bậu cũng được dùng gọi người con trai trẻ tuổi như trong hai câu trích từ Lục Vân Tiên ở dưới, hay trong bài vè “Bậu lỡ thời” của vùng Kiên Giang. Hai đại từ xưng hô qua, bậu đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam, cả đến trong văn chương. Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Biểu Chánh đã ghi dấu tích cho chúng ta: ...Dân rằng:
"Lũ nó còn đây, Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành"...
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu) ... Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:
- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925)
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:
"Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua".
Qua, bậu là đại từ xưng hô của người dân, phương Nam“, hai từ ngữ này đối với người Việt dường như vô nghĩa, đã là từ ngữ xưng hô thân mật của miền đất mới.
Gốc của từ "qua" theo Lê Ngọc Trụ là do chữ wá (hay đọc đúng hơn là u_á) đọc theo giọng Triều Châu của chữ "ngã" tức là "tôi". Nguyên Nguyên có đặt sự liên hệ từ qua với tiếng Mường và tiếng Nhật nhưng có lẽ nên chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu "qua" đã là "tôi" từ âm Triều Châu thì "bậu" cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình Nguyên Lộc có đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu "pa_u" hay "pấu" (giọng đọc khác nhau tùy vùng) là vợ, một danh từ bình thường và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như "cha pấu", "cha pa_u" (vợ tôi) "deo pa_u" (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt "tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê ...".
Từ ngữ ghép này chỉ là một danh từ ghép. Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là "bậu" và bậu trở thành đại từ ngôi thứ hai. Qua, Bậu là từ ngữ Triều Châu được việt hóa hoàn toàn, giống như nhiều trường hợp tương tự như từ "va" (nó, hắn, anh đó, thằng cha đó, ông đó) là do giọng Triều Châu "i_a" của từ Hán Việt "tha", thí dụ "i_a mứng" = tha môn (họ, chúng nó).
Nhưng ở đây cũng cần phải ghi vài sự khác biệt giữa từ gốc Triều Châu và từ việt hóa qua, bậu.
Sau đây là bảng so sánh: Từ ngữ Triều Châu Sau khi việt hóa u_á, wa (cả hai ngôi thứ nhứt) tôi, dùng xưng hô với mọi cấp bực, không có ý nghĩa tình cảm đặc biệt
1) tôi, ta, (cô chú, bác, anh, chị) chỉ dùng xưng hô với cấp dưới;
2) anh, dùng xưng hô với vợ, với người yêu, với người con gái trong thờ kỳ tán tỉnh.
Cả hai cách dùng với ý nghĩa thân mật pa_u (không ngôi thứ) bậu (ngôi thứ hai) vợ, thường không có ý nghĩa thân mật mình, em yêu, nàng (người con gái ở thời kỳ tán tỉnh), với ý nghĩa thân mật. Xưa cũng dùng để một gọi người trai trẻ hơn mình. Từ những từ ngữ Hoa với một ý nghĩa rất thông thường như mọi từ ngữ khác, khi được việt hóa, qua, bậu trở thành những từ ngữ của tình cảm, của thương yêu, của lứa đôi với nghĩa chính xác và súc tích. Qua, bậu tiêu biểu cho ngôn từ việt hóa ở phương Nam, trong đó bên cạnh tiếng Hoa còn phải kể tiếng Pháp, tiếng Miên, tiếng Mã Lai v.v. Từ ngữ việt hóa gốc Hoa phần nhiều được sử dụng giới hạn ở phương Nam là vì điều kiện chung sống, hội nhập nơi đây. Mặc dù số từ ngữ việt hóa (từ Hoa ngữ, từ Miên ngữ) rất nhiều nhưng đi vào ca dao, đi vào văn chương mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ qua và bậu.
Trong ca dao miền Nam những bài có từ ngữ "bậu" chiếm giữa 2 - 3 phần trăm. Nếu ta lưu ý với hàng trăm, hàng ngàn đề tài của ca dao thì số lượng này rất cao. Một sự tình cờ ?: Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ra 4 câu đố bằng ca dao vào dịp trung thu 1955, trong đó có 2 bài ca dao có chữ bậu (Qui Tâm: "Dưới bóng cờ cứu khổ"). - Hộ Pháp Phạm Công Tắc có thông lệ ngày hôm sau những dịp đại lễ đến bao lơn đền thánh đưa ra câu đố để tín đồ tụ họp ở Đại Đồng Xã tìm giải đáp – Theo thời gian hai từ anh, em thay cho qua, bậu trong xưng hô lứa đôi. Dù cho một số người cầm bút hoặc vì nuối tiếc hoặc vì tìm thấy trong hai từ qua, bậu một ý nghĩa thi vị vẫn sử dụng trong nhiều tác phẩm sáng tác sau này nhưng muốn tìm lại dấu vết quê hương phương Nam liên quan tới hai từ này không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc văn của một số văn thi sĩ Nam Bộ mới có hương vị thực sự của qua, bậu của thời khái phá miền Nam. Từ qua tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không "thân mật" một cách đa dạng như từ bậu.
Sau đây vài thí dụ trong những bài đã sưu tầm:
1. Bậu trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi Bướm xa hoa bướm lại dật dờ Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông. (Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời Canh hai vật đổi sao dời Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung. Canh ba cờ phất trống rung Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai Canh tư hạc đậu cành mai Sương sa lác đác khói bay mịt mờ Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2. Bậu trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành Chim kêu dưới suối trên cành Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3. Bậu trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng: Chữ đề tên bậu, không chồng có con. Bậu đừng lên xuống đèo bồng Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4. Bậu trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa, Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi. Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông. Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập, "qua", "bậu" đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ dược xác định rành rẽ hơn từ gốc. Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam (kể từ sông Gianh) vì ở đây số người Việt và người Hoa thuở ban đầu hầu như tương đương. So với những vùng khác của đất nước, tỉ số người Hoa rất cao. Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập, đã một thời đóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện viễn thông trong lịch sử hội nhập miền Nam, đã trở thành dĩ vãng.
Phan TấnTài
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Jul/2023 lúc 10:33am
Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm
cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời
người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không
sao quên được… Nhớ đâu viết đó.
Vũ Thế Thành
Xe cháo huyết… đêm
Mùa đông năm 1975, Sài Gòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng lạnh.
Chiều xuống là… nhậu. Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ,
hoang mang với hiện tại và nghi ngờ ở tương lai. Vô vài xị với bè bạn
cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp về nhà, tấp vô xe cháo huyết gần
trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ
quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…
Cháo huyết ngon, ngon từ cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm
và dai, với vài khoanh quẩy mỏng dính, cho ớt bằm thiệt cay, ấm lòng say
xỉn. Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô. Cháo đã
ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế!
Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa
tô. Phải ăn tới năm tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo, kêu một tô, cho ớt
thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.
Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để xe cháo lại cho vợ chồng
người con trai. Thằng con vẫn nhận ra khách quen, bàn tay múc cháo của
nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn!
Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… Xây cất nhiều, cảnh đổi thay, chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…
Năm nay Sài Gòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con
đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che
khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…
Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…
Quán cháo lòng… chiều
Gọi là quán cho bảnh, chứ đó chỉ là cái sạp, ngó xéo sang chợ Đa Kao ở
đường Nguyễn Huy Tự. Quán chỉ bán buổi chiều, từ hai giờ đến năm giờ là
vãn.
Bà chủ quán trạc ba lăm, chưa chồng, chảnh… Khách chiều bả, chưa thấy
bả chiều khách bao giờ. Mặt lạnh, dễ quạu, ít cười. Ít không có nghĩa
là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với… đàn ông.
Cháo lòng là phải đủ bộ: Huyết, tim, gan, phèo, phổi… Huyết không có
gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm của ông già Tàu, nhưng tim gan phèo
phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày. Dồi làm mới… tuyệt! Khúc
dồi to như ống nước, và chỉ nhồi thịt, không biết bả làm cách nào mà
chiên giòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi. Khách
thích, muốn mua dồi về nhậu, không bán! Mua cháo và dồi, cũng không bán!
Chảnh thế đó!
Cháo hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như cháo huyết
hầm tôm khô mực khô nói trên. Cháo lòng ăn với hành củ tím thái mỏng,
ngâm dấm, ớt bằm…
Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng,
trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu
cho cả tháng đây?
Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ
(600gr)… mang về nộp cho bà già gọi là… trả hiếu (để tối về còn có cơm
nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (ba
gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút. Sữa hộp, làm phòng lab nên nhà nước “bồi
dưỡng độc hại” mỗi tháng một hộp. “May” quá, bà già tôi không biết
uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy hàng ra chợ trời hồi
đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa
Kao) thu gom… Đắt rẻ một chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…
Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm, xuân thu nhị
kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả
lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm… Coi như trên đời không có protein.
Bỏ hết! Nhịn hết! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên
quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với
mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình
người điên đảo… Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao
ngủ được, sức đâu mà chịu nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của
ngày mai khi bước chân vào cơ quan…
Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy. Thời hậu chiến, người ta cho
rằng, trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt. Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái như thế, còn sống
sao thì tùy. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu, sáng chiều mặc áo blouse,
nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burette… Tối về đi
“cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học
nhiều hơn. Hồi đó chưa có… lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa
phần là con cán bộ từ rừng, trình độ quá yếu, dạy phải hạ thấp, hạ thấp
nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hoi. Có vài
em rất giỏi, nhưng lại rớt. Học tài thi phận, cái phận lý lịch buồn từ
trong nhà ra tới ngoài đời. Mấy em bây giờ ở đâu?
Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng… người thế này?
Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy
mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ chảnh,
nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ hai giờ chiều, đang
dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả:
Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…
Ngộ cái gì?
Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huỵch toẹt ra. Chị coi được mắt, làm
đồ mồi ngon, sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị
nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…
Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu… bla… bla…
Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên bỏ nhỏ bà chủ, Hôm
nay tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên
của chị quá xá. Chị bán cho tui một tô, không lấy cháo, chỉ lấy lòng và
dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy… Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.
Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người
khác sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi… đạo đức không? Thế
giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn, giây phút nào vui
đây?
Advertisements
Report this ad
Năm
84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa
Kao. Giữa thập niên chín mươi, trở lại quán cũ, thì người khác ngồi
bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi…
Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ.
Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người,
đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên
được… Nhớ đâu viết đó.
Lúc đầu định viết Món ăn dĩ vãng, viết hết đủ món, viết một
lần cho xong, nhưng mới tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, thấy mỏi
tay… Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn… đọc. Mà dù không còn người
đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào
đâu.
Còn gỏi khô bò, còn sò lông, còn bia lên cơn, còn rượu Cây Lý… Những
thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần,
thật gần… tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết
bài này.
Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá!
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Jul/2023 lúc 10:40am
Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm
cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời
người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không
sao quên được… Nhớ đâu viết đó.
Vũ Thế Thành
Xe cháo huyết… đêm
Mùa đông năm 1975, Sài Gòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng lạnh.
Chiều xuống là… nhậu. Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ,
hoang mang với hiện tại và nghi ngờ ở tương lai. Vô vài xị với bè bạn
cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp về nhà, tấp vô xe cháo huyết gần
trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ
quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…
Cháo huyết ngon, ngon từ cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm
và dai, với vài khoanh quẩy mỏng dính, cho ớt bằm thiệt cay, ấm lòng say
xỉn. Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô. Cháo đã
ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế!
Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa
tô. Phải ăn tới năm tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo, kêu một tô, cho ớt
thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.
Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để xe cháo lại cho vợ chồng
người con trai. Thằng con vẫn nhận ra khách quen, bàn tay múc cháo của
nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn!
Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… Xây cất nhiều, cảnh đổi thay, chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…
Năm nay Sài Gòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con
đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che
khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…
Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…
Quán cháo lòng… chiều
Gọi là quán cho bảnh, chứ đó chỉ là cái sạp, ngó xéo sang chợ Đa Kao ở
đường Nguyễn Huy Tự. Quán chỉ bán buổi chiều, từ hai giờ đến năm giờ là
vãn.
Bà chủ quán trạc ba lăm, chưa chồng, chảnh… Khách chiều bả, chưa thấy
bả chiều khách bao giờ. Mặt lạnh, dễ quạu, ít cười. Ít không có nghĩa
là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với… đàn ông.
Cháo lòng là phải đủ bộ: Huyết, tim, gan, phèo, phổi… Huyết không có
gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm của ông già Tàu, nhưng tim gan phèo
phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày. Dồi làm mới… tuyệt! Khúc
dồi to như ống nước, và chỉ nhồi thịt, không biết bả làm cách nào mà
chiên giòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi. Khách
thích, muốn mua dồi về nhậu, không bán! Mua cháo và dồi, cũng không bán!
Chảnh thế đó!
Advertisements
Report this ad
Cháo
hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như cháo huyết hầm tôm
khô mực khô nói trên. Cháo lòng ăn với hành củ tím thái mỏng, ngâm dấm,
ớt bằm…
Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng,
trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu
cho cả tháng đây?
Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ
(600gr)… mang về nộp cho bà già gọi là… trả hiếu (để tối về còn có cơm
nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (ba
gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút. Sữa hộp, làm phòng lab nên nhà nước “bồi
dưỡng độc hại” mỗi tháng một hộp. “May” quá, bà già tôi không biết
uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy hàng ra chợ trời hồi
đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa
Kao) thu gom… Đắt rẻ một chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…
Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm, xuân thu nhị
kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả
lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm… Coi như trên đời không có protein.
Bỏ hết! Nhịn hết! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên
quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với
mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình
người điên đảo… Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao
ngủ được, sức đâu mà chịu nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của
ngày mai khi bước chân vào cơ quan…
Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy. Thời hậu chiến, người ta cho
rằng, trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt. Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái như thế, còn sống
sao thì tùy. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu, sáng chiều mặc áo blouse,
nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burette… Tối về đi
“cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học
nhiều hơn. Hồi đó chưa có… lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa
phần là con cán bộ từ rừng, trình độ quá yếu, dạy phải hạ thấp, hạ thấp
nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hoi. Có vài
em rất giỏi, nhưng lại rớt. Học tài thi phận, cái phận lý lịch buồn từ
trong nhà ra tới ngoài đời. Mấy em bây giờ ở đâu?
Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng… người thế này?
Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy
mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ chảnh,
nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ hai giờ chiều, đang
dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả:
Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…
Ngộ cái gì?
Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huỵch toẹt ra. Chị coi được mắt, làm
đồ mồi ngon, sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị
nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…
Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu… bla… bla…
Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên bỏ nhỏ bà chủ, Hôm
nay tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên
của chị quá xá. Chị bán cho tui một tô, không lấy cháo, chỉ lấy lòng và
dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy… Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.
Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người
khác sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi… đạo đức không? Thế
giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn, giây phút nào vui
đây?
Advertisements
Report this ad
Năm
84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa
Kao. Giữa thập niên chín mươi, trở lại quán cũ, thì người khác ngồi
bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi…
Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ.
Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người,
đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên
được… Nhớ đâu viết đó.
Lúc đầu định viết Món ăn dĩ vãng, viết hết đủ món, viết một
lần cho xong, nhưng mới tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, thấy mỏi
tay… Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn… đọc. Mà dù không còn người
đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào
đâu.
Còn gỏi khô bò, còn sò lông, còn bia lên cơn, còn rượu Cây Lý… Những
thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần,
thật gần… tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết
bài này.
Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá!
Vũ Thế Thành (trích “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ”,
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Aug/2023 lúc 7:36am
Cùng bán đồ "hằm
bà lằng xí mấu" nhưng Nam Kỳ mình phân biệt rõ hai tiệm: “chạp phô” và
"hàng xén".
Đây là hai tiệm bán đồ
vật dụng khác nhau.
1-Tiệm chạp phô là tiệm bán đồ ăn khô như bánh, kẹo, đồ dùng
hàng ngày như: gạo, đường, nước mắm, nước tương, muối, bột ngọt, gia vị, mì
gói, kim chỉ, dầu hôi, đèn hột vịt, đậu xanh, đậu phộng, la-ve, nước ngọt...
2-Tiệm hàng xén là tiệm hầu như không bán đồ ăn, họ bán nhiều
về chén bát, nồi ơ soong chảo, siêu nồi sắc thuốc Bắc, dao, thớt, thùng đựng
nước, lò dầu, chổi, tượng Phật, tượng Thần Tài, Ông Địa, Bồ Tát Quán Âm, vải
bạt, kẽm buộc, ni lông...
Nói chung là kể ra sẽ
không chính xác vì tiệm chạp phô có thể bán vài thứ món hàng của tiệm hàng xén
nhưng tiệm hàng xén thì không bán đồ ăn của tiệm chạp phô.
Dân miền Nam, Sài Gòn
Chợ Lớn cố cựu, ai mà hỏng biết đó mấy cái tiệm chạp phô hay hàng xén ở tận
hang cùng ngõ hẻm các khu nhà bình dân, xòm người lao động...
*”Đường tương chao,
đậu hũ dưa leo, ai chưa ăn chưa phải... là nghèo...!”
Những tiệm như vậy ở
Sài Gòn, Chợ Lớn và khắp cả Lục Tỉnh miền Tây được gọi là tiệm “chạp phô”.
Thiệt ra hàng xén và
chạp phô đều có tên tiếng Quảng Đông là hàng hoá đủ loại, tạp nham tùm lum tùm
la...
Ngày xưa, mấy tiệm
chạp phô và hàng xén trong xóm mà chủ là người Hoa nó luộm thuộm lắm, chứ không
được như mấy tiệm tạp hóa bây giờ sạch sẽ ngăn nắp hơn nhiều...
Cái kiểu buôn bán của
người Hoa, tính ra họ rất tâm lý và biết cách kinh doanh, vui vẻ, sẵn lòng bán
thiếu những thứ nhỏ nhặt mà ta dùng thường ngày thiết thực như một "siêu
thị" nhỏ. Đúng ra tiệm chạp phô có “ưu điểm” hơn siêu thị. Đố ai ra siêu
thị và kiếm từng món nhỏ lẻ như mua 1 cây kim may, 1 cây đèn cầy, 1 cục đá lửa
ống quẹt, 1 xấp giấy tiền vàng bạc hay 1 xị rượu đế, nửa lít nước mắm,...phải
không bà con.
Hồi xưa, hễ ai cần gì
cứ đến tiệm chạp phô, hàng xén của bà Sẩm, ông Chệt gì đó là có đủ, vài loại
bánh của trẻ con, nước mắm, nước tương, xì dầu, hủ chao.. mà nước mắm, nước
tương không phải chỉ bán tĩn, chai, nhà lỡ hết người lớn sai trẻ con xách cái
chén đến mua năm cắc cũng được, cho đến mấy củ hành, vài củ cải mặn, cây xà
bông màu xanh hiệu cây đờn, cục xà bông thơm Cô Ba... Cái gì để xài trong nhà
cũng có. Ôi thôi hầm bà lằng, đủ hết thảy.
Còn đám con nít hễ
thỉnh thoảng có ai cho năm cắc, một đồng là tụi nhỏ thường hay “phóng xe chân”
ngay đến quán chạp phô này mua bánh liền, được đựng trong những cái keo bằng
thủy tinh có nắp đậy gọi là cái “thẩu”.
Tiệm chạp phô, hàng
xén đã trở thành dĩ vãng, nhưng có những lúc, hai tiếng thân thương bình dị đó
lại kéo ta trở về thời con nít của thuở nào…!
Đinh Trực sưu tầm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Aug/2023 lúc 7:58am
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Aug/2023 lúc 10:54am
Tiệm hủ tiếu 70 tuổi mà vẫn Thanh Xuân, “thôi miên” người Sài Gòn bằng hương vị bí truyền
Đặc biệt quán Thanh Xuân vẫn còn giữ được phong cách ăn hủ tiếu khô kèm với bánh Paté Chaud (người Việt hay gọi là bánh pateso), đây là một loại bánh kiểu Pháp với hàng trăm lớp bánh mỏng, nóng và giòn bên ngoài, nhân bên trong thì gồm thịt băm, gan heo, hành tây, gia vị và một ít hạt tiêu.
Những ngày Sài Gòn dày mây, trời dính cứng vào những chóp đỉnh của những tòa cao ốc, gió như bị nhốt, vây hãm bực bội, không chút mát mẻ dịu dàng. Không có lối ra nào của những tầm mắt thèm thấy một lằn ranh chân trời, làm cái quán này như lọt thỏm giữa bốn bức tường trống huơ, trống hoác. Cái quán như bị bỏ quên, như cái cách người ta hay làm tụi con nít khóc rộ khi vờ bỏ quên chúng lại lúc ra khỏi nhà, quên là một kiểu trừng phạt chỉ đứng sau dọa nạt, cũng là một kiểu “bức tử” những hàng quán kinh doanh…
Vậy mà người đàn bà bận bộ bà ba đứng trong quán, có buồn, có hậm hực vì trời cứng đơ như hóa thạch, xém làm ý nghĩ của bà đóng vôi theo, vẫn thi thoảng xốc ý nghĩ của mình lên, thôi nhìn xa xăm để nhanh tay đảo cái nồi nước sốt đặc quéo, cho nó dậy mùi đều đặn, loang ra như cái cách những bà mẹ giữ gìn cái đầm ấm gia đình bằng cách nấu nướng.
Đúng rồi, tôi còn nhớ, chỗ bà đứng bây giờ, tại số 62 Tôn Thất Thiệp, Quận 1, rất nhiều năm về trước, là cái quán hủ tiếu Thanh Xuân vang danh sầm uất một thời. Nhanh quá, mới đây mà đã hơn 70 năm, thanh xuân đời người đi qua chỉ như là một cái chớp mắt, còn quán Thanh Xuân này vẫn nghiễm nhiên tồn tại làm mê lòng biết bao nhiêu thế hệ thị dân sành ăn Sài Gòn…
Còn nhớ, ngày trước khi thế hệ ông bà tôi còn sống, đã kể về cái quán hủ tiếu Mỹ Tho tên Thanh Xuân này với những từ hoa mỹ để mô tả hương vị “thần thánh” của hủ tiếu khô với kiểu nước sốt bí truyền, và sự hào sảng của buổi sáng rất Sài Gòn khi ông nào ông nấy cũng dắt vợ con tới đây sà vô ăn tô hủ tiếu cho no bụng, rồi thủng thẳng đọc nhật trình, uống ly đen đá. Ngày cũ, quán hủ tiếu này có những đến hơn ba chục bàn, tràn ra phục vụ bữa sáng ngon lành cho tầng tầng lớp lớp thị dân chứ không le hoe vài bàn như bây giờ…
Giai đoạn Sài Gòn tân thời hoa lệ với cuộc kinh thương ngoại quốc mà, thị phần của những món ăn dân dã như tô hủ tiếu này đã ít nhiều bị chiếm bớt, bởi món Tây, món Nhật… “Ai mà còn nhớ hả con, người ta quên rồi, như kiểu mấy đứa nhỏ hay nói là thanh xuân bị chôn vùi đó, nghĩ cũng buồn mà thôi cũng kệ, chứ giờ sao”, ba chữ “chứ giờ sao” kéo dài rồi nhỏ dần của người đàn bà với gương mặt phúc hậu ban nãy, kéo theo cái buồn y như một tuổi xuân bị vùi dập thật. Bà đang cố phân bua cho sự mai một của thương hiệu hủ tiếu được ông ngoại chồng gốc Mỹ Tho gầy dựng nên từ trước những năm 1946.
Bà tên là Võ Thị Tươi, sinh năm 1956, quê miền Tây, là vợ của chủ quán hủ tiếu này hiện nay, đồng thời cũng là người đứng bếp chính, hỗ trợ người con gái độc nhất buôn bán kế nghiệp những khi chồng đang lao đao vì bệnh tật. Bà nói, dù là nói tiếng giao cho con gái buôn bán rồi, mà cũng không yên tâm, sáng nào bà cũng dậy sớm để giúp con gái nêm nếm gia vị cho đúng chuẩn bí truyền, đồng thời chỉ bảo con gái thêm những cái chưa biết. Chiều thì bà cũng đứng nấu nước sốt đặc biệt để chuẩn bị cho sáng hôm sau bán luôn.
“Quán bán liên tục không ngừng nghỉ, dù ít dù nhiều, khách vẫn là khách, ai còn nhớ, ai mối manh lâu ngày cũng đáng trân trọng như nhau, nên dù thế nào bà cũng muốn cái quán Thanh Xuân này được giữ mãi và hương vị đều độc đáo như những ngày đầu” – bà Tươi nói.
Thật tình mà nói, bởi cái tâm của người bán như thế hỏi sao hai cái tên “Thanh Xuân” vẫn còn được nhắc đến là nơi lưu dấu mỹ vị thì son trẻ của biết bao thế hệ Sài Gòn mà chưa ai một lần chê trách. Hủ tiếu ở đây, 70 năm hơn vẫn vẹn nguyên hương vị như thuở ban đầu, 70 năm mà vẫn thanh xuân. Sợi hủ tiếu dai, nửa đục nửa trong dậy thơm mùi gạo mới, nằm gọn lỏn trong tô dù là phần nước hay phần khô đều không vón cục, nhão nhẹt cả ra như một số chỗ bán hủ tiếu như bây giờ. Nước lèo ngọt thanh được ninh từ mực khô và xương heo, thêm chút gia vị sao cho vừa vặn, thỏa lòng được cả những phạm trù vị giác khác nhau của nhiều chiếc lưỡi sành ăn khác nhau, người ăn mặn cũng như người ăn nhạt ai ai cũng tấm tắc khen sao mà bà chủ tài tình.
Loại nước sốt bí truyền dành riêng cho hủ tiếu khô có lẽ là thứ đáng kinh ngạc nhất, công thức chế biến công phu rắc rối đến mức những ai rành rọt về ẩm thực cũng khó lòng tìm ra. Họa may chỉ phân biệt được rằng trong đó có tương hột, cà chua, thịt băm và hàng chục gia vị, nguyên liệu khác cấu thành. Ăn một gắp hủ tiếu được trộn đều thứ sốt này, là nó tan ngay trong đầu lưỡi, ngập tràn khoang miệng hương vị của những buổi sáng Sài Gòn rất đẹp, thanh tao và nhã nhặn, đánh gục giác quan của cả những thực khách sành ăn khó tính nhất.
Ngoài ra, những nguyên liệu khác như tôm, lòng, thịt xá xíu thì lúc nào cũng tươi mới, lại săn chắc không bục vữa ra hay có mùi cũ như nguyên liệu để qua ngày. Rau giá lúc nào cũng xanh mướt, sạch sẽ, lạ và hay ho nữa là ở quán Thanh Xuân, hủ tiếu khô còn được trộn vào thêm ít bắp cải bào nhuyễn để ăn đỡ ngán, lại giòn giòn nhàn nhạt làm bước đệm, đẩy hương vị của sợi hủ tiếu và nước sốt bí truyền lên thêm một bậc.
Đặc biệt, ở quán Thanh Xuân, vẫn còn giữ được phong cách ăn hủ tiếu khô kèm với bánh Paté Chaud (người Việt hay gọi là bánh pateso), đây là một loại bánh kiểu Pháp với hàng trăm lớp bánh mỏng, nóng và giòn bên ngoài, nhân bên trong thì gồm thịt băm, gan heo, hành tây, gia vị và một ít hạt tiêu. Thoạt nghĩ đây sẽ là một cách ăn bất hợp lý, bởi bản thân Paté Chaud nhiều bột, mà hủ tiếu khô vốn ngon thì ngon nhưng khó nuốt, ăn cùng nhau sao chỉ tổ kéo cả hương và vị của cả hai đi
xuống.
Ấy vậy mà thử đi, thử một lần để thấy, sự kết hợp này sẽ cho bạn cảm nhận được thêm một bậc mỹ vị khác của loại hủ tiếu khô nơi đây. Bánh giòn rụm, lại âm ấm tan ra ngay trong miệng, quyện vào những sợi hủ tiếu được bao bọc lớp sốt đặc sệt đa vị bên trên, làm nên một vũ khúc thật sự huy hoàng ngay trong khoang miệng mà tin chắc rằng có rất ít người từng trải qua trong đời.
Và thực chất, ăn hủ tiếu khô cùng bánh Paté Chaud không phải là cách biến tấu tân thời lạ miệng của quán Thanh Xuân, mà đây vốn là kiểu ăn phổ biến của giới công chức Sài Gòn ngày trước tại nhiều tiệm ăn nổi tiếng còn giữ tới tận bây giờ như hủ tiếu cá Nam Lợi trên đường Tôn Thất Đạm (Q1), bún suông Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực (Q1).
Quán Thanh Xuân là vậy, cố giữ nếp ăn xưa như cái thời thanh xuân của riêng mỗi người mà ai ai cũng muốn níu bỏ vào túi áo. Thậm chí, cái bảng hiệu nhuộm màu thời gian ít nhiều đã vàng vọt với tuổi đời cũng trên 70 năm với nét thủ tự đặc trưng của Sài Gòn ngày cũ, vẫn còn được vợ chồng bà chủ Tươi quyết tâm giữ mãi, mặc cho nhiều người đã ngỏ ý mua lại.
“Ờ thì thanh xuân mà, trôi qua nhanh lắm, giữ được cái gì thì giữ, chứ biết sao giờ…” – bà Tươi cứ vậy mà tiếp tục điệp khúc “chứ biết sao giờ” để thêm một lần phân bua cho nề nếp sống nhỏ nhẻ, giang rộng đôi tay bao bọc mà lưu giữ những thứ thuộc về cơ nghiệp gia đình, giữa lòng Sài Gòn hoa lệ biết bao năm nay. Nói rồi bà vẫn cứ ngó xa xăm…
Những khi chứng kiến bà Tươi ngó mông lung về phía xa xăm như tìm một lằn ranh chân trời đâu đó bị chắn ngang bẽ bàng bởi những tòa cao ốc như vậy, bình thường, tôi sẽ nghĩ chắc bà đang muốn tìm lại một thời thanh xuân của chính mình, vô tình đã trôi xa trong khoảng không vây hãm này. Nhưng có lẽ tôi đã lầm, thanh xuân của bà là ở đây, bao nhiêu năm nay bà đã cất nó sau hai vạt áo bà ba, trong cả tấm bảng hiệu úa vàng phía bên trên, hay trong cái nề nếp mà phận một người con dâu phải níu giữ cho gia đình chồng, hay thậm chí là trong từng cọng hủ tiếu bà đã chắt chiu kế nghiệp để rồi truyền lại cho cô con gái nhỏ.
Nhiều lúc nghĩ, có khi nào ăn hủ tiếu ở quán Thanh Xuân này, giống như chụp một bức ảnh trong một tiệm ảnh mang tên Thanh Xuân nào đó, trong một bộ phim nào đó, lâu rồi, người ta cũng sẽ quay trở về được thời thanh xuân của chính mình hay không? Tôi không biết nữa…
Theo Trí Thức Trẻ.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Aug/2023 lúc 3:03pm
KHÓI LAM CHIỀU VƯƠN CHÁI BẾP
Ở thôn quê, những buổi chiều thưa thớt nắng là lúc nhà nhà nấu cơm, Đó là lúc chái bếp sau nhà họ tỏa những làn khói màu lam vẩn vơ trong gió như quyến luyến mái ấm gia đình. Ai đi xa cũng không thể nào quên được hình ảnh thân thương ấy.
Nhà ở thôn quê đều được dựng lên bằng tre, gỗ vách và mái lá đều bằng lá dừa nước.
Đặc biệt, nhà nào cũng có gian nhà bếp phía sau gian nhà chính.
Gian bếp là nơi chất chứa nồi, niêu, xoong, chảo cùng nhiều gia vị cần thiết cho bữa cơm gia đình của những bà nội trợ.
Ở đó cũng là nơi người đàn bà đảm đang thỉnh thoảng tổ chức nấu bánh hoặc món ngon đặc biệt cho gia đình.
Những lúc như vậy, khói từ các bếp lò tỏa bay lên không trung, xuyên qua mái lá vờn vợn hòa cùng những đám mây trên trời. Cảnh tượng ấy lúc nào cũng đẹp. Nhưng đẹp nhất vẫn là vào những buổi chiều tà.
Những buổi chiều tà, khi vạt nắng cuối ngày thoi thóp tắt cuối chân trời thường in vào lòng người những nỗi ai hoài khó tả. Càng khó tả hơn nữa khi nhìn ngắm những vạt khói bếp vươn lên từ mái lá chái bếp sau nhà ai đó.
Bâng khuâng. Hoài cảm. Những xúc cảm không phải ai cũng có trong đời.
Những buổi chiều ấy in đậm trong tâm khảm bất cứ ai. Và người ta luôn nhớ về những buổi chiều vươn khói bếp sau chái nhà. Đứng bất cứ đâu, tựa lưng vào gốc cây ăn trái già cỗi, hoặc ngồi đong đưa trên cánh võng cột giữa hai thân cây, vừa hưởng ngọn gió mát vừa nhìn ngắm cảnh tượng khói bếp vươn lên mái lá đẹp đến nao lòng mà ở thành thị chẳng thể nào có dịp nhìn ngắm, thưởng lãm được.
Nhìn rồi nghiện. Cho nên, khi rời xa làng quê, khuất nẻo đường làng, mất bóng những mái nhà lá đơn sơ, lên thành phố, lòng họ vẫn luôn đoái hoài về chốn xưa, quê cũ. Và họ luôn vương vấn trong đầu óc vào những xế chiều về những vòng khói bếp vươn lên từ sau mái nhà tranh ai đó. Nhớ. Và nhớ. Không thể nào phai.
Cúc Tần
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Aug/2023 lúc 9:43am
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Aug/2023 lúc 10:57am
MILIKET: Một trong những hãng mì nổi tiếng, chứa đựng cả tuổi thơ vẫn còn đó tại Tp Thủ Đức...
Xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm Colusa thành lập năm 1972 với tên gọi Công ty Sản xuất chế biến mì ăn liền Safoco – Sài Gòn thực phẩm.
Sau 75 được đổi tên thành Công ty Cổ phần Lương thực Thực phẩm Colusa. Tiền thân của thương hiệu mì Miliket Colusa vẫn còn đó ở 1230 đường Kha Vạn Cân, phường Linh Trung Tp Thủ Đức, đến ngày nay.
Có thể : “Đây là số ít sản phẩm ăn sâu vào tiềm thức của người dân, miền nam trước kia", ngày còn nhỏ, mỗi lần nấu mì, tôi đều thắc mắc sao không có tôm như trên vỏ ? Mẹ ăn mất tôm của con rồi sao?.
Ai biết về gói mì giấy này thì là kỷ niệm thật nhất về tuổi thơ.
Sau này lớn lên hễ ăn lẩu thì sợi mì của hãng này mới thực sự gợi nhớ, đến giờ đi qua gặp hoài và gợi những kỷ niệm xưa nhọc nhằn vui vẻ vẫn còn.
Cre: Tôi là dân Thủ Đức FB
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Aug/2023 lúc 10:59am
Xe ngựa trên lối xưa – hồn quê cũ
Đã từ lâu, chiếc xe thổ mộ đã gắn liền với những phiên chợ sáng chiều của người dân quê Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một.. Nó không những là phương tiện đi lại thuận tiện, mà với dáng vẻ độc đáo, chiếc xe đã tạo cho khung cảnh đồng quê Nam Bộ trở nên duyên dáng và có “hồn” hơn !
Xe thổ mộ là loại xe ngựa chở khách, có hai càng bằng gỗ, do một con ngựa kéo. Tại sao nó có tên là thổ mộ? Có người giải thích vì xe có mui cong nhỏ, trông giống cái gò mã nên được gọi là “thổ mộ”. Lại có người cho rằng, nó bắt đầu từ tên xe là “thảo mã”. Lâu ngày đọc trại ra thành “thổ mộ” (theo Paulus Của).
Lại có ý kiến giải thích nó có nguồn gốc từ chữ “Tombeau” của Pháp đọc trại thành thổ mộ; điều này, cụ Vương Hòng Sển trong cuốn “Tự Vị Tiếng Việt miền Nam” đã bác bỏ và cho biết rằng, người Pháp họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là tombeau cả mà gọi là Boîte d’allumettes (hộp quẹt), có lẽ vì cái hình dáng nhỏ nhắn của nó như cái hộp quẹt chăng?
Có thể ban đầu, khi người Pháp mới sang, họ dùng xe ngựa để kéo pháo. Giống ngựa họ đem từ châu Âu, châu Phi sang. Ngựa giống này cao to, có khả năng kéo nặng được. Lần lần, có nhiều con không thể kéo pháo được nữa, chúng bị dạt ra để kéo đồ vật lặt vặt, kể cả kéo cỏ cho những con kéo pháo ăn. Chính vì thế mà có tên xe là “thảo mã” (xe ngựa kéo cỏ), lâu ngày đọc thành thổ mộ?
Cho dù nó có nguồn gốc thế nào, thì cái tên thổ mộ đã được người dân Nam Bộ gọi đã khá lâu, ít nhất là vào thời điểm sau khi quân Pháp đến chiếm đóng Nam Kỳ.
Người đánh xe ngựa được gọi là “xà ích”, theo nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì “xà ích” là tiếng có nguồn gốc từ Philippines. Những người đánh xe ngựa (xà ích) vốn là những nông dân chất phác, phóng khoáng cởi mở. Họ nhanh chóng tiếp thu một phương tiện giao thông mới, cải tiến nó thành một loại xe chở khách có vóc dáng nhỏ, gọn, phù hợp với đường sá của nông thôn miền Nam.
Hình thức xe cũng khá thẩm mỹ. Tuy giản dị với mái vòm cong cong, nhỏ nhắn nhưng khi di chuyển trên đường làng thì trông rất hài hòa với những ụ rơm, lũy tre làng của phong cảnh đồng quê.
Để hành nghề xe ngựa, việc quan trọng nhất là phải biết chọn ngựa. Lựa chọn ngựa bắt đầu từ màu lông, xái ngựa, tuổi (xem răng), mõm (mõm nhọn kén ăn hơn mõm bằng). Sau đó là huấn luyện.
Việc huấn luyện ngựa do những vị cao tuổi học tập và truyền lại từ sách” Mã Kinh” của Tàu. Có người kỹ lưỡng hơn thì lại coi thêm mạng theo ngũ hành: mạng của người cần phải hợp với mạng của ngựa! Ví dụ: người mạng Thổ chọn ngựa ô; mạng Thủy chọn ngựa Kim (hoặc khứu) lông nâu nhạt; mạng Mộc chọn ngựa Kim than (ngựa trắng điểm đen); mạng Hỏa chọn ngựa Vang (lông đỏ ). Thời trước, xe thổ mộ cũng hoạt động theo luật định.
Ai muốn hành nghề xà ích đều phải qua một cuộc thi khảo hạch để nhà chức trách cấp bằng chứng nhận. Người lái xe phải đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, trước khi thi phải thuộc 36 ký hiệu giao thông trên đường y như thi lái xe bây giờ vậy. Bởi vì lúc đó, xe thổ mộ chẳng những chở khách xuôi ngược ở các vùng nông thôn ngoại thành, mà nó còn chở hàng hóa và khách vào tận các chợ Bến Thành, Cầu Muối…
Vì thế, người xà ích phải hiểu biết luật giao thông đường bộ và có tay nghề cao để bảo đảm an toàn giao thông. Trên xe phải có chuông, nút ấn chuông được đặt bên cạnh chỗ ngồi của người xà ích. Xe chạy khi trời tối phải có đèn lái ở hai bên, hai cái đèn có hình dáng là hai cánh tay người cầm hai chân đèn. Quy định này do người Pháp đặt ra. Đèn được đốt cháy bằng khí đá, nó chẳng soi sáng được bao nhiêu, cốt để cho người đi đường thấy có xe ngựa mà tránh!
Dưới gầm xe phải có bao đựng phân ngựa, không để ngựa phóng uế bừa bãi ra công lộ. Xe ngựa nào không thực hiện đủ những quy định trên sẽ bị “phú lít” xử phạt ngay. Xem thế ta thấy xe ngựa ngày xưa cũng khá văn minh!
Có người nói rằng, lúc trước xe ngựa khi chạy trong thành thị thì xà ích che đi một phần cặp mắt của ngựa, chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ 2 đến 3 mét; mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tâm mà chạy “lạc hướng” dễ gây tai nạn.
Mỗi xe thổ mộ được trang bị một “bộ nhíp” giảm xóc. Tất cả các loại xe như xe bò, xe ngựa kéo, xe lừa của ta từ trước đó chưa hề biết đến cái nhíp giảm xóc bao giờ.
Cùng với sự tồn tại của chiếc xe ngựa là những nghề phụ thuộc theo nó như: nghề xén tóc và xén lông cho ngựa, nghề đóng móng sắt ngựa, nghề đóng thùng xe… Nghề đóng móng sắt do người châu Âu du nhập vào. Ngựa xứ ta trước đó chưa hề đóng móng sắt.
Thời gian khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở vùng Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một có hơn 1000 chiếc xe thổ mộ. Có lẽ nó là phương tiện di chuyển công cộng trên bộ đầu tiên ở nước ta, sau đó mới đến các loại phương tiện khác. Cũng như nhiều nghề khác, nghề xà ích cũng có tính cha truyền con nối . Ở khu Tân Định xưa, có con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, đó là đường xe thổ mộ chạy. Xe thổ mộ cũng có bến như xe buýt hiện nay.
Ngoài ra, ở khu vực kênh Nhiêu Lộc (khu vực gần chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay) có một khu vực gọi “Bến tắm ngựa”, đây là nơi xà ích thường cho ngựa xuống tắm mát nghỉ ngơi sau thời gian dài rong ruổi mệt nhọc trên các ngã đường.
Đối với người dân Sài Gòn-Gia Định và các vùng lân cận, những chiếc xe mui vòm khum cong như những nấm mộ xuôi ngược trên những con đường đất đỏ, (sau được rải đá rồi tráng nhựa); với hình ảnh những chú ngựa nhỏ con, gõ móng lốp cốp trên mặt đường nhựa, cùng với nhạc cổ leng keng ngày trước là một phương tiện chuyên chở rất gần gũi và thân thiện, nhất là đối với bạn hàng các chợ và người bình dân đi lại từ nơi này sang nơi khác.
Trong những ngày giáp Tết, xe thổ mộ càng đẹp và rực rỡ hơn vì rực vàng hoa vạn thọ, hoa huệ, cúc… từ các vùng Gò Vấp, Bà Điểm đổ vào bán ở các chợ nội thành.
Mỗi cổ xe thổ mộ đang chạy như là một bản hợp tấu giàu âm điệu. Âm điệu nền là tiếng vó ngựa lộc cộc giòn giã nện xuống đường.Tiếng khua lốc cốc của cây ví (thanh thép nằm giữa trục bánh xe). Tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng “cốc keng” ngân vang mà rời rạc từ cái chuông xe. Và cuối cùng là lâu lâu lại trỗi lên tiếng hý dài của con tuấn mã sung mãn đầy sinh lực! Tất cả như một bức họa mỹ thuật toát lên nhiều âm thanh của một bản hòa tấu sinh động, và bức họa đó đã thực sự đi vào dĩ vãng, đi vào lịch sử một vùng quê xưa…
Tôn Thất Thọ Đáng Nhớ
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Aug/2023 lúc 3:14pm
Phà Thủ Thiêm
''
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Aug/2023 lúc 10:24am
https://huongduongtxd.com/hocontrua.pdf - Xem Thêm: https://huongduongtxd.com/hoconruaosaigon.pdf - Hồ Con Rùa tại Saigon <<<<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2023 lúc 8:52am
http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/09/sai-gon-nam-xua-vuong-hoai-uyen.html - Sài Gòn Năm Xưa
Đầu thập niên 70, tôi bước chân vào giảng đường đại học. Từ miền
Trung vào, Sài Gòn đối với tôi như một miền đất hứa vừa hấp dẫn, vừa hứa hẹn những
điều mới lạ.
Hồi đó, đậu được mảnh bằng tú tài toàn phần cũng khó như thi đậu
vào một trường đại học lớn bây giờ. Cả lớp 60 học sinh chỉ đậu có sáu đứa. Chín
mươi phần trăm phải thi lại vào kỳ hai. Ở một thành phố nhỏ của miền Trung như
quê tôi, con gái đỗ tú tài toàn phần có thể đếm trên đầu ngón tay.
Vào đến thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, tôi thấy
cái gì cũng lạ lẫm. Từ những tòa nhà cao tầng, đến những con đường xe cộ tấp nập,
đến những cô gái Sài Gòn ăn mặc theo mốt Hippy (1), rồi áo dài tay Raglan, mini
jupe…
Ngày Văn Khoa khai giảng, số lượng sinh viên đông đến mức chóng
mặt. Nữ sinh viên thì quá nhiều cô đẹp, cô nào cũng ăn diện ngất trời như đi dạ
hội.
Sau này, tôi còn biết Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũng là nơi nhiều
ca sỹ nổi tiếng thời đó đang theo học như Hoàng Oanh, Thanh Lan, Từ Dung… Và
các nhạc sỹ như Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng… thỉnh thoảng vẫn thấy xuất hiện
tại đây.
Ngay cả khí hậu Sài Gòn hồi đó cũng là một điều lạ lẫm. Những
năm tháng đó chưa có biến đổi khí hậu như bây giờ. Trời nắng nóng quanh năm, thỉnh
thoảng vào mùa Hè có những cơn mưa giông đến thật nhanh, thật ào ạt. Người đi
đường chỉ cần tạt vào một mái hiên đứng trú mưa khoảng ba, bốn phút là cơn mưa
dứt hẳn. Và nắng lại bừng lên chói chang gay gắt như chưa từng có cơn mưa bao
giờ.
Mưa Sài Gòn khác hẳn với mưa miền Trung. Ngoài đó, mùa mưa kéo
dài lê thê hết ngày nọ đến ngày kia, có khi kéo dài cả mươi ngày, tuần lễ là
chuyện thường. Đi học hầu như lúc nào cũng mang áo mưa, hai vạt áo dài trắng
bao giờ cũng gấp lên, hai ống quần trắng bao giờ cũng buộc túm bằng hai sợi dây
thun, nếu không muốn bị dính đầy bùn nước. Mùa lạnh, đi học sớm hai hàm răng
đánh vào nhau lập cập, hai bàn tay tê cóng thu trong tà áo dài.
Vào Sài Gòn quanh năm không cần có áo mưa, cũng không cần mặc áo
lạnh, tôi thấy hành trang đi học của mình đơn giản hơn nhiều. Và những người bạn
Sài Gòn học cùng giảng đường cho tôi cảm nhận tính cách người Nam hồn hậu tự
nhiên, ít rào đón như người miền Trung. Có khi họ giành chỗ cho bạn nhưng bạn
chưa đến, họ vui vẻ vẫy tôi đến ngồi vào chỗ, khi thấy tôi đi trễ phải trải giấy
dưới nền mà ngồi – chuyện thường ngày ở những giảng đường đông đúc như Văn Khoa
Sài Gòn.
Ngày Văn Khoa khai
giảng, số lượng sinh viên đông đến mức chóng mặt… (Hình: Khoa Văn Học)
Nhà trọ cách trường không xa lắm, nên hàng ngày đi học tôi vẫn
đi bộ. Hôm nào cũng đi qua cầu Phan Thanh Giản, (2) để đến trường. Những hôm có
thời khóa biểu học cả ngày, tôi mua một ổ bánh mì, một chai nước. Buổi trưa, bạn
bè ở lại giảng đường khá đông, người nào cũng gặm bánh mì, nói chuyện rôm rả, rồi
ngả lưng xuống ghế giảng đường. Trước giờ vào học không quên rãi sách vở ở các
dãy ghế có tay quay để dành chỗ cho bạn.
Hồi đó, không hiểu sao khu trung tâm Sài Gòn có một sức hấp dẫn
kỳ lạ đối với tôi. Từ Đại Học Văn Khoa ở đường Đinh Tiên Hoàng, tôi đi bộ xuống
chợ Bến Thành, lang thang qua những con đường như Lê Thánh Tôn, Nguyễn Huệ. Lê
Lợi… như thể phải đến đấy mới thấy được linh hồn Sài Gòn.
Đến trung tâm Sài Gòn, thế nào tôi cũng ghé vào nhà sách Khai
Trí để thấy cả một thế giới tri thức của con người Đông Tây kim cổ. Không có tiền
mua thì tôi coi… cọp. Rồi sà vào những đống hàng hóa bán solde (3) đổ đống ven
lề đường với vải vóc. giày dép… Túi tiền sinh viên chỉ cho phép tôi mua những
món hàng như thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi ngạc nhiên không hiểu sao ngày xưa mình
lại có thể đi bộ khỏe thế. Có lẽ vì vui nên không thấy đường dài.
Một lần vào ngày Chủ Nhật, tôi đi xe Velo- Solex lên nhà một người
chị ruột ở đường Lê Đại Hành. Lúc đi ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
(4), do mất bình tĩnh khi tránh một người đi bộ ngang qua đường, tôi bị té xe
ngã giữa đường, bị một vết thương rách da ở cằm. Mấy người dân sống ở gần đó chạy
đến đưa dầu cho tôi thoa. Đau thì ít, sợ thì nhiều, tôi hoảng hốt chẳng biết phải
làm gì.
Hồi đó, đâu có điện thoại để gọi người thân như bây giờ. Lúc đó,
một anh thanh niên đi xe Honda dừng xe đỡ tôi dậy. Anh bảo tôi gởi tạm chiếc xe
Velo cho một thanh niên đang ngồi sửa xe đạp ven đường trước Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh, để anh chở tôi đến bệnh viện may vết thương ở cằm. Tôi đã gởi xe
cho anh thanh niên không hề quen biết này, mà không hề có chút nghi ngại để cho
anh thanh niên kia chở đến bệnh viện.
Chủ Nhật, tôi đi xe
Velo- Solex lên nhà một người chị ruột. (Hình minh hoạ: Ngo-Quyen.org)
Vị bác sĩ vừa may vết thương ở cằm tôi, vừa nói: “Em mà không
may chỗ vết thương này thì sẽ trở thành một cái sẹo to đấy.”
May xong vết thương, anh thanh niên tốt bụng kia lại chở tôi về
chỗ cũ. Từ xa, tôi đã thấy chiếc xe Velo – Solex của tôi vẫn dựng bên đường.
Tôi cảm ơn hai người thanh niên không quen biết kia và nghĩ sao
Sài Gòn lại có nhiều người tốt như vậy. Nếu là người gian, anh thanh niên kia
có thể thu dọn đồ nghề rồi mang luôn chiếc xe của tôi đi thì ai biết đâu mà
tìm. Hình ảnh hai con người tốt bụng đó vẫn mãi mãi ở trong ký ức tôi với lòng
cảm mến và biết ơn sâu sắc.
Sau này, trải qua bao nhiêu năm, có dịp vào Sài Gòn đi ngang qua
con đường Trần Quốc Toản, ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (5) năm xưa,
tôi vẫn nhớ về chuyện xưa với một chút ngậm ngùi dâu bể.
Bây giờ – mấy chục năm sau – khi đã sống định cư ở thành phố Sài
Gòn, có dịp chứng kiến cảnh cướp giật, hôi của ngoài đường mỗi khi có tai nạn xảy
ra, hoặc sự vô cảm, thờ ơ của người Sài Gòn mỗi khi có tai nạn thương tâm ngoài
đường, tôi lại bồi hồi nhớ lại hình ảnh Sài Gòn năm xưa cách đây năm mươi năm,
hơn nửa thế kỷ.
Mức độ văn minh hiện đại của cuộc sống tỷ lệ nghịch với sự băng
hoại của thế thái nhân tình! Hai người thanh niên tốt bụng ngày xưa bây giờ làm
gì? Ở đâu? Còn sống hay đã chết? Nếu còn sống, họ đã là những ông già trên dưới
tám mươi tuổi.
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Vũ Đình Liên)
Trong lòng tôi, họ mãi mãi vẫn là biểu tượng cho một Sài Gòn
nhân hậu năm xưa.
Vương Hoài Uyên
(1) Mốt HIPPY: Mốt thịnh
hành vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70.
(2) Cầu Phan Thanh Giản: Bây giờ là cầu Điện Biên Phủ.
(3) Bán solde: Bán hạ giá, từ thông dụng hồi đó.
(4) Đường Trần Quốc Toản: bây giờ là đường 3 Tháng Hai.
(5) Học Viện Quốc Gia Hành Chánh: bây giờ là Học Viện Hành Chánh Quốc
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Sep/2023 lúc 9:01am
Tôi sống ở Sài Gòn 20
năm và xa Sài Gòn đã 30 năm. Mỗi khi nhớ tới quê nhà, Sài Gòn vẫn như một đốm
sáng không bao giờ tắt. Có lẽ vào độ tuổi thanh niên, độ tuổi mà cuộc sống mãnh
liệt nhất, tôi đã gắn bó với Sài Gòn. Biết bao chuyện để nhớ. Nhất là vào thời
điểm tháng tư.
Tôi không xa Sài Gòn
vào tháng 4 năm đó. Không một toan tính nào trong rất nhiều toan tính được hanh
thông. Ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài Gòn, tôi vẫn còn nguyên tại nhà. Nhà
tôi ở Thị Nghè, một trong những mũi tiến công của địch quân. Chín năm trước
đây, năm 2005, khi tờ Việt Mercury ở San Jose ra số đặc biệt 30 năm nhìn lại
ngày mất Sài Gòn, Nguyễn Xuân Hoàng có hú tôi viết bài cho anh. Ngày đó, tôi đã
ôn lại giờ phút Sài Gòn bị dày vò. “Tiếng chân người, tiếng nói xôn xao từ
ngoài đường vọng vào ầm ĩ. Tôi chẳng buồn nhìn ra ngoài. Chiếc cổng sắt im lìm
bỗng có tiếng gõ mạnh. Tôi mở chiếc lỗ nhỏ trên cánh cửa kín mít nhìn ra. La
Phương! Tôi vội vàng mở cửa. Người ký giả kỳ cựu của làng báo Sài Gòn uể oải
bước vào. Chẳng ai buồn nói. Chỉ mới mấy bữa trước La Phương còn lạc quan vào
một giải pháp trung lập. Cuộc chiến có trên 20 năm tuổi sẽ được kết thúc bằng
một giải pháp có thể chấp nhận được cho cả hai phía. Người cựu ký giả của hãng
thông tấn Pháp AFP có liên hệ nhiều với người Pháp đã khẳng định một cách lạc
quan như vậy. Tình hình chính trị mấy ngày qua như càng ngày càng xấu đi. Ba
Tổng Thống trong vài ngày là một chỉ dấu không tốt đẹp gì. Hy vọng đặt cả vào
một Dương Văn Minh được lòng nhiều phe phái. La Phương nhún vai, lắc đầu. Moa
cũng không hiểu sao nữa! Ngồi một lúc, La Phương ngơ ngẩn ra về…Nghe thấy tiếng
xe tăng chạy ngoài đường, tôi vội ra coi thử xem sao. Hai chiếc đầy nhóc lính
cộng sản đứng giương cao lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phần phật bay theo
gió đang tiến vào Saigon theo đường Hùng Vương dẫn tới cầu Thị Nghè. Bỗng tôi
nghe thấy tiếng súng ở phía cầu. Mọi người nhốn nháo. Những thanh niên đeo băng
đỏ, mặt đằng đằng, chạy tới chạy lui. Khu chợ đồ Mỹ tự phát bên lề đường như
đàn kiến bị phá vỡ tổ. Chỉ một lúc, đâu lại vào đấy. Người ta kháo nhau về mấy
tiếng súng vừa qua. Lính giữ cầu đã nổ súng vào đoàn xe và bộ đội trên xe đã
bắn lại. Xác chết còn nằm trên cầu. Những người đi coi về kể lại như kể về một
chuyện xảy ra trên màn ảnh. Tôi đứng nhìn khu chợ càng ngày càng phình ra. Họ
bán những đồ Mỹ hôi được bằng cách phá kho Tân Cảng ở gần đó. Đồ dùng hằng hà
sa số đủ thứ. Bàn ghế, dụng cụ văn phòng, máy lạnh, quạt máy, kem đánh răng,
sữa bột, bánh kẹo, đồ chơi, đồ nhà bếp… Giá cả rẻ rề. Chỉ mấy ngày trước giá đồ
Mỹ còn vắt vẻo trên cao, chẳng phải ai cũng mua được. Bây giờ đồ Mỹ lê la dưới
đường, giá cũng sát sạt dưới đường. Người mua kẻ bán bận bịu như không hề biết
là họ đang bị kéo đi theo một khúc quanh của lịch sử. Khúc quanh gắt dữ dằn”.
Đời tôi cũng quanh
theo khi vào giữa tháng 5, tôi xách chiếc túi nhỏ tới trường Trưng Vương trình
diện đi “học tập cải tạo”. Đó là lần thứ nhất tôi xa Sài Gòn. Chẳng kịp nhỏ
được một giọt nước mắt. Cải tạo (sic) về, chúng tôi như những con kiến bị vây
khổn, chỉ tính đường thoát đi xa. Mãi tới mười năm sau, tôi mới thực sự xa Sài
Gòn. Lần này tôi mới có nước mắt, không biết là nước mắt vui hay buồn!
Sài Gòn đến với tôi
trước khi tôi tới Sài Gòn. Cuối thập niên 1940, ông anh họ con một ông bác tôi,
từ Sài Gòn ra Hà Nội chơi. Anh em tôi cứ ngơ ngẩn khi nghe ông anh nói tiếng
Sài Gòn trong lúc chơi đùa với nhau. “Tìm” được ông anh Sài Gòn nói là “kiếm”
khi chúng tôi chơi trò trốn tìm. “Được” lại gọi là “đặng”. “Thằng ấy” thành
“thẳng”. Và tiếng “ủa” ông anh tôi thốt ra thường xuyên khiến chúng tôi cười
ngất. Ngày đầu ở Sài Gòn, thấy một đám cãi nhau ngay trước cửa nhà ở đường Lê
Thánh Tôn, gần chợ Bến Thành, tôi chạy ra coi. Hai bà buôn bán la lối, xỉa xói
kịch liệt. Tôi dỏng tai ra nghe. Những âm thanh lạ lùng hình như không phải là
tiếng Việt. Khi trở vào nhà, ông bác tôi hỏi mấy người đó gây nhau chuyện chi
vậy, tôi ngây ngô trả lời: “Cháu chẳng hiểu họ nói gì!”. Ông bác tôi cười ngất
thằng cháu Bắc Kỳ di cư ngồ ngộ! Mới nghe thì thấy giọng Sài Gòn cũng ngồ ngộ.
Cái giọng như một thứ trái cây chín nẫu, nhẽo nhẹt nhưng thơm ngọt tình thân.
Ông Hải Phan có những phân tích kỹ lưỡng về cái giọng Sài Gòn: “Giọng người Sài
Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau
ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng
không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang, sang
sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là
mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu... Người miền khác có thích hay khoái, có
yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà
chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dzìa nghen!” .
Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dzìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết
câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!”. “Thôi”
ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng
nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên lên tiếng “Hay hén mậy?”
bằng giọng điệu thoải mái…Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì
quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” . Mà
“dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn
có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như
là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi
người, nửa đùa đùa vậy mà, “coi dzậy mà hổng phải dzậy”.
Sống lâu với Sài gòn,
đã quen với cái giọng Sài Gòn, thấy dễ thương chi lạ. Nhất là nghe người con
gái Sài Gòn thủ thỉ tiếng Sài Gòn. Những đứa trẻ di cư năm 1954 đó, sống với
Sài Gòn, chơi với bạn bè Sài Gòn, lớn lên bồ với con gái Sài Gòn, thấy giọng Sài
Gòn nghe rất hợp với những thủ thỉ tâm tình. Nhiều ông bạn Bắc Kỳ di cư của tôi
chỉ vì một cái giọng mà rước về nguyên một con người. Ông M.Q.H. diễn tả sự
khác biệt này bằng một hình ảnh: “Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng
hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ổi đào Hà Nội thơm
lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa
chỉ nhắm được tí là hết. Ổi sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm
như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều
người ăn, chấm muối ớt, nghe qua là chảy nước miếng. Con gái Sài Gòn cũng vậy,
nghe qua là…chảy nước miếng!”.
Sài Gòn dần dần thân
tình, thấm vào máu, nằm trong tim của lũ chúng tôi. Vậy nên tới bây giờ, nhớ về
quê hương, chỉ nhớ tới Sài Gòn. Tôi đã bao lần định trách khéo ông Du Tử Lê đã
làm chết tim tôi khi nghe bản nhạc “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn” được phổ từ thơ của
ổng. Vậy mà bao lần gặp ông, khi ở Cali, khi ở Montreal, tôi chẳng thốt ra lời
được. Những địa danh Thị Nghè, Xa Lộ, Hàng Xanh làm tôi chết điếng nỗi nhớ nhà.
Sài Gòn, cái nôi của
tuổi mới lớn, là những chói chang trong mỗi chúng tôi. Tuổi trẻ chúng tôi ở đó.
Tình yêu đầu của chúng tôi ở đó. Mảng đời tươi vui nhất của chúng tôi ở đó. Dễ
gì quên được. Nhà văn Lý Thụy Ý cũng không bao giờ quên: “Sài Gòn của một thời
tôi mới lớn, những “con đường tình ta đi” Duy Tân, Trần Quý Cáp, Tú Xương, Công
Lý. Những chiều bát phố Lê Lợi, Tự Do. Những rạp ciné. Món bánh tôm hẻm Casino.
Những xe bò viên Nguyễn Thiện Thuật. Bánh mì thịt trước chợ Trương Minh Giảng,
gỏi đu đủ - khô bò - nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur)…Sài Gòn của tôi
“sáng nắng chiều mưa”. Mưa như được lập trình sẵn. Hoặc chiều hoặc sáng, có
khi… cùng giờ nên người Sài Gòn có thể nhởn nhơ bát phố khi “cơn mưa qua”, rất
ít khi mưa như… đòi nợ! Nắng Sài Gòn không quá gắt. Có lẽ nhờ thế nên mới chợt
mát chỉ qua màu áo lụa Hà Đông. Sài Gòn của tôi có những ngôi trường đi vào thơ
và nhạc như Văn Khoa, Luật, Gia Long, Trưng Vương, những con đường địa chỉ báo
như Lê Lai, Phạm Ngũ Lão… Hồn đất và hồn người quyện nhau hồn hậu, chân
tình…Sài Gòn của tôi trẻ - luôn luôn trẻ. Không phải vì thiếu phố cổ hay người
Sài Gòn không thích “ra vẻ cụ” mà vì Sài Gòn luôn luôn mới, hồn nhiên và dễ
thương, không điệu đà, kệch cỡm. Sài Gòn của tôi còn nhiều hơn thế. Không diễn
tả hết dù văn hoa cách mấy. Không lớn lao gì, kỷ niệm chỉ chứa đầy ngăn cặp học
trò. Sự ồn ào sống động, dễ thương của vùng đất và con người. Đi xa, cứ về đến
cầu Sài Gòn hay cầu Bình Điền là coi như đến nhà. Như bạn bè cùng trang lứa,
tôi giữ Sài Gòn như giữ chính cuộc đời mình. Khóc một ngày khi thương xá Tam Đa
bị thiêu rụi. Thức một đêm khi Eden bị đập bỏ”.
Sài Gòn ngày nay đang
bị cắt lìa khỏi quá khứ. Những thương xá Tam Đa, hành lang Eden, đường Tự Do
còn níu chăng những bước chân bát phố của chúng tôi một thời hoa mộng. Những
Pagode, Brodard, Givral ngày xưa nay đã bị cày nát, mất máu. Có một lần, về với
Sài Gòn, ngồi lại với bạn bè còn lại tại Givral, tôi đã như được sống lại thời
xưa cũ. Nếu cần khóc, chắc tôi cũng khóc được, nhưng ngày đó tôi chỉ lâng lâng
như một thời quá khứ bỗng vụt dậy, khẽ lay vai tôi, ấn chìm hồn tôi xuống.
Givral nay không còn nữa. Ngày nghe tin Givral bị khai tử cùng với hành làng
Eden, nhà sách Xuân Thu, tôi đã lặng đi. Bạn bè cũ ngày đó, nay biền biệt. Nhà
thơ Đỗ Trung Quân tiếc nuối. “Givral khai trương đồng thời với tòa nhà Vincom
Center. Nó vẫn nằm ở vị trí cũ. Nhưng, tất nhiên, nó không còn như cũ. Một
Givral mới với một lịch sử đi qua quá sâu đậm với người Sài Gòn. Những ai nặng
hoài niệm một không gian ấm cúng kiểu Tây hẳn sẽ hoàn toàn lạ lẫm với Givral
hôm nay, kiến trúc tổng thể của khối nhà Vincom pha trộn kiến trúc Á- Âu, nó
phảng phất đường nét của kiến trúc đâu đó trên đảo quốc Singapore. Givral mới
cũng xóa hẳn phong cách kiểu Pháp đã có hơn nửa thế kỷ của nó. Giờ đây, dù lộng
lẫy, nó chỉ như một quán cà phê hộp có bán bánh ngọt. Thế thôi! Hóa ra muốn làm
văn hóa, hay tìm lại một không gian mà lịch sử tình cờ để lại nơi đây, không dễ
dàng chút nào. Nó đòi hỏi những người tiếp quản, và tiếp tục nó cần nhiều điều
hơn chỉ là nơi “xơi bánh ngọt – uống cà phê”.
Sài Gòn đã mất dấu.
Lâu lắm tôi không về lại Sài Gòn. Song thân tôi đã lần lượt theo nhau đi trong
hai năm liền. Đó là hai lần cuối cùng tôi về lại Sài Gòn, để sống những giờ
phút buồn bã của chia lìa. Cũng đã trên chục năm. Ngày đó, Sài Gòn mới chỉ mất quán
Cái Chùa. Nhìn trên mạng internet thấy những hình ảnh diêm dúa của Sài Gòn ngày
nay, tôi thấy hụt hẫng. Trát son trát phấn, Sài Gòn như xa lìa chính mình.
Không còn là Sài Gòn của chúng tôi. Ông Nguyễn Hậu, một người mới từ Bắc vào
Sài Gòn, cũng thấy tiếc Sài Gòn xưa, Sài Gòn thời đích thực là Sài Gòn. “Sài
Gòn xưa thật đẹp, văn minh và thanh bình với những con người hiền lành, mộ đạo.
Nếu không có những bức ảnh tư liệu mà mỗi ngày càng được người ta chia sẻ càng
nhiều, không có hàng ngàn những bản thu âm trước 1975 về dòng nhạc trữ tình Sài
Gòn đã một thời lên tới đỉnh cao của văn hóa/ nghệ thuật, rồi các kiệt tác văn
chương…, những người sau này ắt hẳn chẳng bao giờ tin vào điều đó – Hòn ngọc
Viễn Đông – vì sách giáo khoa không nói như vậy. Tôi đến với mảnh đất này với
tâm thế của một người hiền lành và tôi cũng nhanh chóng nhận ra mình chưa đủ tử
tế và hiền như Sài Gòn. Tôi tri ân Sài Gòn như đất mẹ thứ hai đã cho tôi biết
bao điều tốt đẹp, đã dung dưỡng và trao cho tôi những điều thật tử tế. Tôi đến và
ở lại Sài Gòn không chỉ vì mưu sinh, một ước mơ ngông cuồng nữa, mà vì tôi yêu,
tôi thấy mình thuộc về mảnh đất này. Tôi cũng biết nhiều người xứ tôi đã làm
cho Sài Gòn dữ và biến dạng đi từng ngày. Tôi chỉ có tâm nguyện một ngày còn ở
lại nơi này là một ngày gieo xuống những hạt mầm lành, gieo xuống sự tử tế và
gìn giữ những hạt mầm tử tế còn sót lại… Tôi chỉ là một tay Bắc Kỳ lạc thời, tơ
tưởng và hướng đến cái đẹp và sự tử tế. Tôi tin vào những giá trị bền vững theo
thời gian và trên con đường ngược chiều ấy tôi tìm thấy hay nói đúng hơn là
nhận ra những người cũng ấp ôm một điều tốt đẹp nào đó cũng đang cố gắng đi
ngược chiều đồng loại. Tôi nhớ hoài một câu nói của người bạn đời của mình:
“Đêm hỗn mang thắp hỏa châu đi tìm bộ lạc”… Có lần một người bạn Sài Gòn mà tôi
rất quý mến nói “anh thật sự là một người Sài Gòn”, với tôi, đó là lời khen
tặng mà tôi trân trọng vô ngần và có thể nói là hãnh diện nhất (Có lẽ là không
xấu hổ với những tiền bối đến đây từ những năm 54 và rất được người Sài Gòn yêu
mến)”.
Cái mà Sài Gòn làm
được là đã thu phục được chân tâm của những con người ở bên kia vĩ tuyến. Chỉ
bằng sự văn minh và đáng yêu của chính mình. Chắc chúng ta hầu như ai cũng biết
về giai thoại nhà văn Dương Thu Hương đã ngồi khóc trên vỉa hè Sài Gòn ngày bà
theo đoàn quân tiến vào Sài Gòn. Bà đã trả lời nhà báo Đinh Quang Anh Thái của
báo Việt Tide vào cuối năm 2007: “ Khóc thì tôi có hai lần khóc. Lần thứ nhất
khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong
đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của
tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của
miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản
trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác
phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện
thông tin như TV, radio, c***ette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc
là những giấc mơ. Ông Thái đừng quên rằng, ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách
vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ
có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát
thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể;
có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ
ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ
. . .nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát
khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử.
Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải”.
Sự hàm hồ của lịch sử
đã cướp đi cái tên Sài Gòn. Sài Gòn ngày nay đang đội vòng gai. Nhưng cái tên
Sài Gòn vẫn mãi mãi ở trong lòng người dân Việt, nhất là trong sâu thẳm tâm trí
của chúng tôi, những đứa con của Sài Gòn.
SONG THAO
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Oct/2023 lúc 8:16am
https://www.youtube.com/watch?v=rWojCVUSdmA - Thương nhớ BẾN PHÀ miền Tây ! https://www.youtube.com/watch?v=m8jRHAgEQAE - - < - < - <
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Nov/2023 lúc 3:03pm
Đường Pasteur - Nhớ người không quen
Đối với tôi, đường Pasteur là con đường rất đẹp, với lề đường rộng và cây xanh chen lẫn các ngôi biệt thự xây từ thời thuộc địa vẫn còn tồn tại.
Đây là con đường sang trọng và tao nhã, với cây cao bóng cả thả nắng vàng xuống mặt đường mỗi ngày.Thật khó hình dung con đường này, vốn lộ giới chỉ khoảng 20 - 25m, thời Pháp thuộc thực chất là hai con đường chạy dọc hai bên một con rạch nước chảy, có lẽ đổ ra rạch Nhiêu Lộc, đều mang số 24.
Năm 1865, khi người Pháp đã ổn định chế độ thuộc địa, họ đặt tên đường bên trái là Olivier còn đường bên phải là Pellerin. Sau con rạch được lấp đi và hai đường nhập làm một, thành đường Pellerin.
Năm 1955, chính quyền TT Ngô Đình Diệm đổi thành đường Pasteur. Tháng 8.1975, đường đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai nhưng cho đến năm 1991, lấy lại tên Pasteur. Đường chạy từ đường Võ Văn Kiệt cho đến Trần Quốc Toản khoảng 2,5 cây số.
Có lẽ sự kiện đầu tiên mang tầm vóc lớn nhất mà cư dân dọc hai bên đường chứng kiến là sự kiện nhà yêu nước Phan Châu Trinh mất năm 1926. Linh cữu của cụ được quàn trên con đường này, nhà Bá Huê Lầu của ông Huỳnh Đình Điển ở số 54. Tang lễ được thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành như nghi thức quốc tang. Từ tờ mờ sáng, người người từ khắp thành phố và vùng phụ cận đổ về đường Pellerin để đưa tang.
Đám tang đi theo lộ trình từ nhà 54 qua đại lộ Norodom (nay là đường Lê Duẩn), đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) rồi đi thẳng xuống Phú Nhuận đến nghĩa trang Gò Công tương tế ở Tân Sơn Nhứt. Đó là một sự kiện chấn động vì lễ tang của cụ lớn chưa từng có ở Sài Gòn, với hơn 6 vạn người tham dự đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Sự kiện lớn đó khuấy động không khí yên tĩnh của con đường toàn biệt thự kín cổng cao tường này. Dù vậy, đoạn đường Pellerin phía trung tâm Sài Gòn thuộc quận 1, mé Hàm Nghi vẫn sôi động hơn do hoạt động buôn bán so với hai bên dãy phố từ ngã tư giáp đường Lê Duẩn ngày nay đi xuống phía đường Trần Quốc Toản với đa số biệt thự.
Người đi xe đạp trên đường Pellerin khoảng 1950. Trong hình là chỗ gãy góc của đường Pasteur, đó chính là ngã tư Pasteur - Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng). Ảnh: TL
Một nhà sưu tầm dĩa nhạc cho biết thời thập niên 1920 - 1930, trên đường này có đại lý hiệu dĩa Béka là hãng Société indochinoise d’ Importation ở số 40-44 rue Pellerin, vừa bán máy vừa bán dĩa mà anh thỉnh thoảng thấy in trên bao bì dĩa hát xưa. Anh kể khi tò mò lục báo Phụ Nữ Tân Văn xuất bản thời đó tìm tung tích hãng dĩa mới biết ngay góc Pasteur và Hàm Nghi bây giờ từng có dinh lãnh sự Trung Hoa mới được dời về năm 1936, là sự kiện long trọng đối với người Hoa ngụ cư nên họ kéo nhau đi xem chật đường. Sau này, đây là tòa đại sứ Đài Loan cũ trước khi dời về đường Hai Bà Trưng trước năm 1975.
Báo chí xưa thuật lại: đầu hè năm 1937, ngã tư Pellerin và Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) có một vụ đụng xe đáng nhớ. Buổi chiều, một chiếc xe tracteur kéo theo chiếc rờ mọt trên đường này chạy xuống đến ngã tư nói trên thình lình thấy một chiếc xe đạp ba bánh của chú Lý Yên chở vài chục tĩn nước mắm từ chợ Bến Thành định đưa lên Phú Nhuận bán.
Anh tài xế xe tracteur thấy chiếc xe đạp đó liền bẻ tay lái qua bên phải để tránh nên chạy lủi xuống mé sông. Thình lình, có một chiếc xe mui kiếng của bà Phạm Thị Vân ở dưới đường Pellerin chạy lên bị chiếc tracteur đụng ngay phía hông trái rất mạnh. Anh lái xe mui kiếng thấy xe mình bị đụng liền lấy tay lái qua phải, ủi chiếc xe nước mắm lật ngang, bao nhiêu nước mắm bể hết ráo.
Cuối cùng, chiếc tracteur vẹo bánh trước, chiếc xe mui kiếng bị móp hông trái và xe đạp ba bánh hư nát. Nước mắm bốc mùi khiến dân khu phố chung quanh bị ám ảnh đâu cũng có mùi nước mắm mất mấy ngày.
Trang báo quảng cáo một nhà buôn trên đường Pasteur. Ảnh: TL
Lúc đó, nhà số 2-4 là Ngân hàng Indochine. Số 25 là quán cà phê kiêm nhà hàng Yeng Yeng, hiện nay là một cơ sở của Saigon Tourist. Số 93 Pasteur là dưỡng đường của bác sĩ Trần Văn Đỗ, được quảng cáo có nhiều phòng rộng rãi để nuôi bệnh và sản phụ; có cả nhà mổ và sinh khó, có cả rọi kiếng (X quang), chụp hình phổi tim bao tử, trị bệnh bằng tia cực tím.
Bên kia đường, số nhà 80, thời gian sau xuất hiện thêm một ông “y khoa học sĩ bào chế” tên Nguyễn Văn Cung gần Chợ Cũ chuyên trị bệnh hậu như nhức mỏi, phong thấp, bại xụi, tê thấp, lao phổi, máu huyết, tê bại, phong đơn, phong tình… Số nhà 162 trước đây là nhà Đốc phủ Hải, hiện nay là một tòa nhà lớn cho thuê làm văn phòng.
Trước năm 1975, khi tôi còn nhỏ đã có nhiều dịp đi ngang con đường xinh đẹp này, nhưng kỷ niệm lại không vui vì phải đi chích thuốc ngừa phong đòn gánh (bây giờ gọi là bệnh uốn ván) ở Viện Pasteur cuối đường. Lúc đó, nhớ mang máng chỗ phở Hòa bây giờ chỉ là xe phở bán trên lề đường mà tôi được ăn sau khi chích ngừa.
Gần đó là nhà may Thiết Lập rất nổi tiếng ở Sài thành thường quảng cáo trên báo, mà nhà tôi thường có tờ tuần báo Thẩm Mỹ Tân Tiến để chị tôi đọc mục dạy cắt may của bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhân. Thời đó, áo dài kiểu tay raglan đang thịnh hành. Nhìn vào tiệm may thấy thợ ngồi đông đúc, nghe nói tới 50 thợ may. Báo chí đăng trung bình mỗi ngày tiệm giao khoảng 100 áo dài cho khách, các ngày gần lễ Giáng sinh hay Tết còn nhiều hơn.
Tiệm may Thiết Lập. Ảnh: TL
Trên con đường này, lưu dấu một hình ảnh mà những người lớp tuổi bảy mươi sống ở Sài Gòn trước năm 1975 trở lên còn nhớ. Trong cuốn Hồi ký của Nguyên Sa, ông kể một kỷ niệm về thời còn làm báo ở Sài Gòn, thỉnh thoảng ông đi chơi cùng nhà văn Mai Thảo trên chiếc xe Fiat hiệu Austin, lòng vòng các đại lộ Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… Mai Thảo lái xe đến một căn nhà gần bờ sông Sài Gòn, cả hai ngồi trong phòng khách nhà một thiếu nữ mắt rất đen và to mà Mai Thảo quen biết. Cô ta đến sau bức bình phong, thay bộ đồ để đi chơi cùng hai ông. Phía sau bức bình phong chỉ ló ra đầu và hai chân, cô ta nhìn Nguyên Sa cười có vẻ e thẹn. Sau đó, cả ba lên xe đi chơi tối, có khi đi chơi ở nhà hàng - vũ trường Arc en Ciel.
Lần cuối cùng Nguyên Sa gặp cô gái ấy là trên đường Pasteur. Ông kể khi đang yên vị trên xe thì “Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích”. Cả hai xuống xe, băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.
Nguyên Sa thấy: “Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm dị dạng. Hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất. Dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”. Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói bằng xúc giác, không có âm thanh nào được cất lên”.
Khi trở lại xe, Nguyên Sa nói ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung, tên người phụ nữ thay áo sau tấm bình phong mỗi lần hai ông đến đưa nàng đi làm, đi ăn hay ra hóng mát. Cô bị tạt axít trong một trận đòn ghen mà báo chí đưa rất nhiều. Nguyên Sa nhìn bạn ngậm ngùi: “Cẩm Nhung!” và Mai Thảo nhìn về phía trước, như nói một mình “Nhung đấy!”.
Con đường không quá dài, nhưng mỗi đoạn đường mang đến một cảm giác khác. Nhớ hồi nhỏ, ra Lê Lợi mua sách cùng với anh thì thế nào cũng phải ghé góc Lê Lợi - Pasteur ăn gỏi khô bò và uống nước mía. Xuôi xuống, qua công viên trước dinh Độc Lập thì biệt thự và cây xanh nối tiếp, đến gần cuối đường, đi qua viện Pasteur ngay góc Trần Quốc Toản có một bô rác nhỏ làm xấu con đường xinh đẹp này. Rồi lớn lên, đi làm. Thỉnh thoảng tôi ngồi uống cà phê trên vỉa hè gần cổng trường Đại học Kiến trúc ở số 196 Pasteur.
Ở đó, tôi nghe một đàn anh hành nghề kiến trúc sư tốt nghiệp từ trước năm 1975 kể câu chuyện khó tin trong trường. Anh kể trường này có nhiều… ma mà sinh viên ở lại trường làm bài khuya thường “thấy”. Ma là phụ nữ ngồi ru con ở đầu tường gần khu nhà vệ sinh. Ma cụt giò chiếm phòng chấm bài. Cuối họa thất 1 có cô nữ sinh mặc áo dài trắng ôm cặp ngồi trên bàn vẽ đung đưa chân, khu khác còn chàng thanh niên thường thơ thẩn.
Bài viết đăng trên một diễn đàn cựu sinh viên kiến trúc kể rằng hồi lính Nhật chiếm Sài Gòn trước năm 1945 có đóng trụ sở ở đây, phía dãy nhà văn phòng và họa thất là khu chuồng ngựa, gần đó là phòng giam người. Người dân gần đó chứng kiến lính phát xít Nhật giết nhiều người ở đây nên có oan hồn uổng tử đi lởn vởn.
Điều đáng tiếc nuối nhất với tôi là vườn hoa Vạn Xuân đối diện Đại học Kiến trúc phía bên trái ngay góc ngã tư Pasteur - Trần Quý Cáp mà những năm 1980 tôi còn thấy. Trước năm 1975, đối diện vườn hoa này ngoài Đại học Kiến trúc còn có trường tiểu học Trần Quý Cáp, phòng đọc sách thiếu niên Trung tâm Sài Gòn. Vạn Xuân là vườn hoa nhỏ, một trong hai vườn hoa đẹp ở Sài Gòn cùng vườn hoa Chi Lăng. Vườn có cây cối xanh tươi, phía xa có ngôi nhà kiểu thuộc địa sơn vôi màu vàng, được dân quanh đó gọi là Nhà đèn, cảnh trông như một vườn hoa ở nước Pháp trong tranh vẽ.
Trước năm 1975, đây là nơi nam sinh các trường Lasan Taberd, Võ Trường Toản hay nữ sinh Marie Curie, Gia Long, Trưng Vương thích đến dạo chơi, có nhiều kỷ niệm thuở học trò. Từ thập niên 1980, vườn hoa này nhập vào khuôn viên nhà thi đấu thể thao Phan Đình Phùng nên bị xóa sổ.
Vườn hoa Vạn Xuân nay không còn. Ảnh: TL
Tôi vẫn đi con đường này hằng ngày, thỉnh thoảng nhìn vào trụ sở Hội Mỹ thuật thành phố, ở ngôi nhà 218A. Ở đó, bỗng nhớ những dòng chữ của họa sĩ Hà Cẩm Tâm, học trường Mỹ thuật Gia Định ra, vẽ đẹp và viết nhiều bài rất hay trên trang Gió O. Tháng 4.1997, về thăm nhà sau 20 năm ở xứ người, ông sẵn dịp làm một cuộc triển lãm cá nhân tại Hội Mỹ thuật thành phố. Cuộc triển lãm kéo dài trong mươi ngày đầu tháng 6.1997 với 45 bức tranh sơn dầu vẽ tại Sài Gòn trong một tháng.
Trong bài Tưởng mất mà còn, ông nhắc đến nhà văn Dương Trữ La là bạn thân thiết: “Dương Trữ La ở phòng tranh chơi với tôi suốt buổi chiều. Ra ngồi uống cà phê vỉa hè đường Pasteur, tôi ngước mắt nhìn hai hàng cây trẻ thơ hai bên đường năm nào mà hôm nay đã thành những cổ thụ già như trong Ai xuôi vạn lý của Lê Thương. Chẳng nói nhiều với nhau, thỉnh thoảng chỉ nhắc lại kỷ niệm, bạn bè kẻ còn người mất, người chết kiểu này, kẻ sống kiểu kia, người ở lại, kẻ ra đi mịt mờ sương khói. Trong tâm thức, cả hai đều chung một con đường tuần cảm, một chấn động đầy vơi, một nỗi bàng hoàng, một niềm chua xót...”. Vài câu lay động lòng kẻ hậu sinh, tuy chưa bao giờ hân hạnh gặp và nay ông cũng đã mất.
Kỷ niệm vụn về con đường nhắc lại mà thấy hơn 60 năm vèo qua quá nhanh trên thành phố này.
PHẠM CÔNG LUẬN
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Nov/2023 lúc 8:58am
Nghe tiếng trống 3 dùi một: Thùng
thùng! Thùng! Thùng thùng,Thùng!..là tôi nôn nao cả người. Đó là tiếng trống
“rao bảng” của gánh bầu Trình về hồi sáng mà thằng Tửng đã thông báo cho cả bọn
chúng tôi hay. Mẹ đã hứa cho tôi tối được xem hát, nhưng với điều kiện là phải
xắt và bằm xong một thúng chuối cây cho con ụt
(heo)! Chuyện nầy không nặng mà cũng không nhẹ nhàng gì. Với con dao xắt mà thợ
rèn rèn để chuyên dùng cho việc xắt chuối nên nó bén ngót;và nhờ cái cán dài
tựa vào vế, nên cây chuối to đùng tôi chỉ khứa có 6 khứa là xong một lát, nhưng
sao lần nầy tôi thấy ngán cái việc tầm thường nầy quá! Còn nửa thúng nữa mới
xong, tôi định bỏ dao chạy ra xem (“rao bảng”), nhưng sợ mất thời gian mà trễ
xuất hát. Đúng ra tôi muốn đến sớm để cùng lũ bạn chơi đùa và “ăn” nước đá
nhận, chứ tới tối mới mở màn, thì làm sao trễ được? Phải chi có thằng Tửng lại,
biểu nó phụ bằm thì hay biết mấy!
Từ “rao bảng” thời bây giờ ít được
nhắc tới nên các bạn khó mường tượng được. Như vầy: Khi gánh hát vừa tới nơi
thì có bộ phận trang trí sân khấu...và một bộ phận đi... “rao bảng”!
Thường bầu hát mướn một cỗ xe ngựa,
(loại phương tiện giao thông cao cấp thời ấy ở quê tôi), hai bên hông và sau xe
được treo 3 tấm bảng đề tên tuồng hát và hình ảnh ấn tượng nhất của vở tuồng
được diễn tối hôm đó. Trên xe có một cái trống chầu và một người đánh trống,
thường là người trong đoàn, nhưng đôi khi cũng là người tình nguyện ở lớp tuổi
đàn anh của chúng tôi (để được đi xe ngựa và được
đánh trống chơi)! Sau xe ngựa là cả bọn chúng tôi... chạy bộ theo; dọc đường
lại được các bọn khác tháp tùng, nên xe “rao bảng” cũng coi xôm tụ lắm.
Cứ hai tiếng nhặt, một tiếng khoan
(Thùng thùng! Thùng!) theo bước chân ngựa thật chậm từ đầu làng đến cuối làng.
Và như thói quen như nghe tiếng chuông cà rem; nghe tiếng trống, thì ai cũng
biết gánh hát về!
Tiếng trống xa dần. Hồi sáng thằng
Tửng nói tối nay hát tuồng Tôn Tẩn Hạ San tôi càng háo hức được xem. Tôi khoái
chuyện nầy qua lời kể của mẹ tôi, nên lấy lại khí thế xắt cho xong nửa thúng
còn lại. Để khích lệ tinh thần, mỗi lần khứa dao, tôi đọc thầm trong bụng:
“Tôn-Tẩn-Hạ-San-Tôn-Tẩn- phực!”, đến “phực”, 6 khứa dao, là xong một lát chuối;
lát mới tôi đếm lại từ đầu: “Tôn-Tẩn..phực!” được 5,10 cái “phực” thì đã mỏi
tay. Tôi kiên nhẫn thêm vài cái “phực” nữa thì thằng Tửng áo vắt trên vai, cổ
lòng thòng chiếc ná thun, vốn là vật bất ly thân của nó; hổn hển hỏi tôi:
- Chưa rồi sao mậy?
Tôi mừng húm:
- Mầy phụ bằm
với tao đi! Gần xong rồi!
Nó tự động lấy tấm thớt và con dao
quen thuộc, ngồi cạnh tôi, hốt chuối ra bằm.
Thao tác nhuần nhuyễn như đầu bếp chuyên nghiệp bằm
thịt!
Trong bọn, tôi thích thằng Tửng
nhất, vì nó xông xáo và hay giúp đở bạn bè. Nó lại có nhiều tài vặt mà bọn
chúng tôi không có hoặc thua xa; như dám bơi qua lại con rạch cái hai lần khi
nước chảy xiết, biết cỡi trâu, đặt lờ, bắt cá và leo cây như khỉ, còn gan dạ
nữa! Đi chơi với nó không hề bị đói. Mùa vú sữa thì ăn vú sữa ở đinh, chùa. Các
mùa khác thì...chui rào hái trộm! Gần tết, khi ruộng vừa gặt xong, những chỗ
nước đọng lại, nó chỉ huy chúng tôi đắp hầm bắt cá. Trong lúc chờ đợi cá nhảy
vào, nó làm bẫy cò ke để bắt những con cò xấu số đang lặn hụp tìm mồi.
Được cá, nó bảo chúng tôi bứt gốc rạ
khô, đốt lên rồi thảy cá lớn cá nhỏ vào. Chỉ một lát, mùi cá chín bốc lên ngậy
cả mũi. Khều cá ra, lấy rạ chà sơ lớp cháy bên ngoài, để lộ lớp thịt vàng lươm…
Tôi dừng tay lại:
- Mầy rủ tụi nó chưa?
- Rồi! Làm lẹ đi!
Cứ mỗi lần gánh hát về thì bộ mặt
làng tôi coi xôm tụ lắm. Mới 4 giờ chiều mà mấy chị đã trưng bày các “cửa hàng”
của mình: 4,5 xề mía chặt khúc, mấy xề đậu phọng nấu. Tấp nập nhất là “cửa
hàng” nước đá của chị Tuyết. Đó là một bàn chữ nhật khá cũ kỹ, ở trên để một
bàn bào nước đá, cả chục cái ly và 2 chai sirô. Chị liên tục bào đá, hứng vào
một ly rồi ém chặt lại, sau đó xịt sirô vào, lật úp ly lại, lấy ra khối đá hình
cái ly đượm màu sirô đỏ thắm, trao cho người mua, toàn là bọn trẻ lứa tuổi
chúng tôi! Cứ thế chúng tôi mút! Mút liên tục (nếu không thì sirô theo đá tan
ra thì uổng lắm).Tay nầy tê thì đổi qua tay kia, mút chừng nào khối đá còn một
miếng nhỏ, chúng tôi bỏ tọt vào miệng nhai rào rạo! Món nầy gọi là “nước đá
nhận”, xem ra rất thích hợp với chúng tôi, bởi vừa ăn, vừa chơi đùa được, lại
tiện lợi là, sau khi ăn xong, hai môi đỏ đẹp như thoa son; hai tay sạch trơn,
như vừa rửa vậy!
Không hiểu sao, cái món vừa ngon
lành, vừa rẻ tiền, vừa tiện lợi như thế mà ngày thường các chị không bán, mà
phải đợi đến gánh hát về?
Gánh hát đêm đầu, người xem đông. Vì
diễn ở nhà lồng chợ, chợ làng tôi cũng như chợ huyện thời ấy chỉ là một dãy nhà
nhiều căn liên tục, xung quanh không rào, không cửa (mới gọi là nhà lồng), nên
gánh hát về phải lấy vải dày bao xung quanh, chỉ chừa một cái cửa để “bán vé”.
Nói “bán vé” chứ vé viết gì đâu? Người bán “vé” luôn là bà bầu, tức là vợ của
ông bầu gánh hát, kèm theo là con hay người trong đoàn mà bà tín cẩn. Cứ người
lớn vô cửa thì 3 đồng, con nít 1 đồng. Những đêm cuối, thì người lớn 2 đồng,
con nít vẫn giữ nguyên, bởi 1 đồng chỉ giá trị 2 gói xôi! Tuy vậy, bà bầu cũng
“du di”, thấy đứa nào sạch sẽ... như tôi (!), thì bà cho 2 đứa 1 đồng! Bởi cái
“du di” nầy mà xãy ra nhiều chuyện buồn cười:
- Sao 2 thằng đó 1 đồng mà tôi với
con tôi tới 3 đồng?
- Thì…thì tại 2 đứa đó dễ thương.
- Vậy chớ con tôi dễ ghét lắm hả?
Tui với nó 2 đồng rưỡi thôi!
- Bà vô 4 người mà trả có 2
đồng rưỡi, chắc chết tôi quá! Dắt một đứa, cõng một đứa, bồng một đứa….
- Em bé không tính tiền mà!
- Thôi vô đi bà nội, rầu bà quá!
2 anh em thằng Xoài thằng Mận là
chuyên gia coi cọp. Chúng đợi ở cửa, lợi dụng lúc đông người, xô đẩy nhau,
chúng chen vào. 10 lần cũng lọt được 5,6, những lần còn lại bị... kéo lổ tay,
đuổi ra.
Tôi vốn nhát gan, nên mua “vé” đàng
hoàng. Thằng Tửng nói với tôi:
- Mầy mua “vé” được rồi đó!
- Đợi một hồi cho bớt chen lấn rồi
hãy vô.
- Đồ ngu! Mầy vô sau, đứng sau người
ta, có nước... hửi đít họ chớ làm sao mà coi?
Rồi kéo tôi ra sau hông nhà lồng,
chỉ vào một chỗ; nói:
- Lát nữa mầy vô, mầy lại cây cột
nầy nghen!
Tôi ầm ừ, vì không phải lần đầu tiên
tôi a tòng với nó. Nó dặn lại:
- Nhớ à nghen!
Vào cửa, vừa tới cây cột nó chỉ thì
ở ngoài nó đánh vào vải “bịch, bịch”, biết ám hiệu, tôi nhìn quanh rồi giở vải
cho nó chui vào. Chiến thuật nầy hiệu quả hơn của Xoài, Mận nhiều, vì hầu hết
nó vô trót lọt! Nếu xui rủi bị phát hiện thì nó cũng không bị kéo lỗ tai; mà là
tôi! Tôi khoái nó ở chỗ, dù có trót lọt hay không, hôm sau nó cũng đãi tôi một
chầu đá nhận!
“Rạp hát” không có ghế ngồi cho khán
giả, muốn ngồi ghế thì tự đem ghế nhà vào, thường là mấy bà già, còn hầu hết
thì ai vô trước, đứng trước, ai vô sau đứng
sau. Còn vô sau mà muốn đứng trước thì cứ chen lấn! Mấy đêm đầu, người sát như
nêm, mùi mồ hôi ngậy mũi, tiếng cãi cọ luôn xãy ra khi chờ đợi mở màn:
- Mấy thằng quỷ nầy làm gì chạy tới
chạy lui hoài vậy? Một người bịt mũi:
- Ai bỏ “bom nguyên tử” vậy ta?
Mọi người vừa bụm miệng thì lại có
tiếng:
- Hùm... “trái” nầy còn ác liệt hơn
nữa!
Ai cũng cười rung cả bụng. Một chị
gái:
- Lợi dụng hả?
- Chật phải cho người ta đụng chớ?
Sợ thì ở nhà đi!
Quê tôi trước sau có 4 gánh hát
(chuyện hi hữu tại một xã nghèo thưa thớt dân cư), mà bầu Bời, bầu Trình là kỳ
cựu nhất. Đào kép trong đoàn đa phần cũng là con em trong làng. Dẫu sống đời
lang bạc, nhưng họ cũng ít nhiều ưu ái với nơi cắt rún chôn nhau. Hậu trường
các gánh khác chúng tôi dễ gì được vào xem. Với các gánh nầy, chúng tôi vào
thoải mái, miễn đừng lớn tiếng, phá phách, với đừng... ăn ổi chín là được! Lần
đầu tôi cầm trái ổi chín rục, thơm lừng, vừa cắn một miếng thì chị Ẩn, đào
chánh giật lấy. Tôi ngơ ngác:
- Ổi của em mà!
- Biết rồi! Trái nầy em cho chị.
- Bộ chị có bầu hả? Sáng mai em hái
cho chị.
Chị vò đầu tôi:
- Không phải, nhưng ăn trước bàn tổ
không nên, ông bầu thấy ổng quánh bây giờ.
Chị lại cười:
- Ví (với) một lát, mấy em không
được ăn me trước mấy ông thổi kèn nghe không?
Tôi ngơ ngác dạ dạ cho qua. Sau nầy
mới biết, không cho ăn ổi vì sợ... ông tổ thích mùi ổi chín mà bỏ đi (về nhà
người ăn ổi); còn không cho ăn me trước mấy ông thổi kèn vì sợ mấy ổng... thèm
chảy nước miếng mà thổi không được! Từ đó, tôi còn nghe người lớn nói như vầy:
- Ăn cướp không bao giờ cướp đồ (tài
sản) của gánh hát!
- Sao vậy?
- Vì họ cùng một ông tổ mà ra, hồi
đó ông tổ gánh hát bỏ nghề rồi đi... ăn cướp (?)
- Ối! Xa lơ xa lắc, giờ cướp đại,
chết thằng tây nào?
- Bậy! Nếu cướp của gánh hát thì bị
quan bắt liền, hồi trước ổng thề như vậy.
- Ờ hén.
- Có ghe cướp, cướp nhằm ghe gánh
hát mà không biết, chừng về thấy mấy cái rương toàn là râu ria, áo mão, hoảng
hồn, đem trả không kịp!
Khán giả đa số là bà già, ông già,
các lớp đàn anh đàn chị chúng tôi, tức khoảng 17,18 tuổi, tuổi sắp có chồng, có
vợ! Thời đó, nam 18, nữ 16 có chồng có vợ là chuyện thường tình. Lớp trên 20,
con cái đùm đề, ít ai đi coi. Tuổi trung niên còn ít nữa, không hiểu vì sao!
Có một khán giả rất đặc biệt là
thằng Hợp (sau nầy là kép cải lương của anh sáu Triều), nó ngồi một chỗ cũng
rất đặc biệt: Dưới “bàn vua”. Đó là cái bàn chữ nhật như cái buya-rô của thầy
giáo, không trải drap, phía sau là cái ghế đẩu, tượng trưng cho ngai vàng!
Không hiểu sao, đêm nào cũng có cái bàn ấy đặt sát tấm màn phong cảnh tận cuối
sân khấu, dù đêm đó không có vai vua cũng vậy!
Hợp ngồi xếp bằng dưới cái... “long
bàn” ấy. Áo luôn phanh ngực, lâu lâu quẹt mũi,nhìn xuống coi.. khán giả, bởi
mặt bàn che khuất tầm nhìn, làm sao coi đào kép?
Có gánh hát nào lại cho khán giả
ngồi chỗ đó, ngoài gánh bầu Bời, bầu Trình? Ban đầu mở màn thấy nó ngồi, ai
cũng cười dễ dãi, sau thành quen, xem như đó là ghế danh dự dành cho nó vậy!
Có lần vị vua nào đó lâm triều, vừa
ngồi xuống ngai (ghế đẩu), vua duỗi chân ra, đạp nhằm nó, vua “ý” một tiếng,
làm “bá quan văn võ” (thường có 4 người - 2 văn 2 võ) cũng giật mình. Khán giả
thì cười rần. Rồi đâu cũng vào đấy, vua làm việc vua, nó ngồi tiếp!
Lại lần khác, vua vỗ bàn quát: “Giáp
sĩ đâu?”, cùng lúc ngoài rạp có tiếng tía nó gọi: “Hợp ơi, về biểu!”, nó lật
đật “dạ” một tiếng thật lớn còn hơn cả tập thể gánh hát “dạ” trong hậu trường,
rồi vội vàng đứng dậy, đội luôn cả “long bàn” trên đầu. Vua quan ngơ ngác, còn
khán giả thì cười vỡ bụng.
Thế mà hôm sau, nó cũng không vắng
mặt ở chỗ ngồi danh dự đó!
Cũng nên nói thêm, gánh hát không có
máy đèn. Ánh sáng là chiếc đèn măng sông duy nhất được treo giữa sân khấu và
hàng ghế đầu tiên của khán giả. Nói “hàng ghế” cũng đúng, vì dường như đêm nào
cũng có 1,2 hàng ghế thượng hạng dành cho các cụ, dù ghế nầy do các cụ mang
tới. Đó hàng ghế bất khả xâm phạm trong một điều luật bất thành văn: Các anh
chị và lũ chúng tôi ở phía dưới, cãi cọ, chen lấn làm gì làm, tuyệt nhiên không
ai dám lướt qua các hàng ghế trưởng bối đó. Các cụ dù vô sau, chỉ cần đưa ghế
lên (cho dễ đi), là có hàng loạt tiếng nói:
-Tránh ra cho bác Bảy (ông Ba,bà
Hai...)đi cà tụi bây ơi! - Cái thằng nầy lì quá, nói nãy giờ mà cứ giỡn hoài!
Đó không phải
là văn hóa kính lão, là điều đáng tự hào của
quê hương tôi đó sao?
Về tuồng tích thì thường là những trích đoạn của các truyện Tàu mà cô
Năm tôi thường đọc cho các người lớn trong làng nghe trong các buổi đám cưới,
đám giỗ, hay những lúc nông nhàn, như “Phụng Nghi Đình”, “Tiết Đinh San cầu
Phàn Lê Huê”,“Tôn Tẩn hạ San”, “Triệu Tử Long
đoạt ấu chúa”, “Chiêu Quân cống Hồ”... Thật tình, giờ tôi nhớ được nội dung
những chuyện ấy là nhờ nghe cô Năm đọc, còn coi hát bội, tôi không nhớ gì hết
ngoài mấy tiếng “tróc mã đề thương, ứ ư,ứ ư...” bởi hát bội thường “hát” chữ
nho, hiểu đâu mà nhớ?!
Vài năm sau (khoảng năm 1959), các
gánh hát bội của bầu Trình, bầu Bời dần dà ế khách, bị lép vế bởi các đoàn cải
lương ở xa đến như Điền Viên, Kiếp Bướm, Ánh Sáng. Gánh bầu Trình phải diễn
luôn cả suất ban ngày mà hầu như không đủ sống, bởi khán giả toàn là lũ nhí
chúng tôi, mà tụ lại không bằng một gánh Sơn Đông mãi võ! Suất đêm là chính,
lại bị “sập giàn” hoài!(*), bởi cũng chỉ có đám chúng tôi vào coi, chỉ là ham
vui, hơn là ham coi hát!
Cửa vé vắng tanh, thằng Mận, thằng
Xoài không còn cơ hội “thừa nước đục thả câu”, còn tôi cũng không dám giở màn
cho thằng Tửng chui vào. Thằng Hợp cũng tự động rời khỏi đít “long bàn”. Các
“cửa hàng” mía, đậu phọng đã dẹp tiệm, chỉ còn lại “cửa hàng” nước đá của chị
Tuyết. Chị bào nước đá thư thả hơn, gọi tụi tôi là “cưng” chứ không là “tụi
bây” như trước, và ly nước đá cũng cao hơn, sirô nhiều hơn!
Ban ngày tôi thường lân la vào hậu
trường chơi, chị Ẩn nằm một mình trên võng, thấy tôi chị cười, khoe hai hàm
răng đều đặn, không phấn son mà tôi thấy chị đẹp lắm, song trông chị buồn còn
hơn khi chị đóng vai Chiêu Quân lúc rời xa đất Hán!
- Ủa? Sao có một mình chị ở đây vậy?
Mấy anh đâu hết rồi?
Mắt “Chiêu Quân” nhòa lệ:
- Mấy ảnh đi bắt cá hết rồi, chị ở
nhà nấu cơm.
- Sao hồi sáng không mua, bắt làm
chi cho mệt?
Chị rời võng, đến thêm củi cho nồi
cơm tổ bố. Có lẽ khói cay, làm mắt chị ươn ướt, đỏ hoe:
- Hát ế quá đâu có tiền mua cá, em!
Hai giọt nước mắt chị rơi xuống, tôi
chạnh lòng, vừa thương chị, vừa ân hận về việc đã bao lần a tòng với thằng Tửng
giở vải để cho nó vào coi cọp. Chị lau nước mắt cười thật buồn, hỏi tôi:
- ... Ổi nhà em có trái nhiều không?
- Có, có nhiều lắm. Sao chị bảo
không nên ăn ổi chín chỗ này?
Chị vẫn cười buồn:
- ... Chị muốn ăn ổi chua.
- Chị có bầu hả? Sao bụng chị nhỏ
xíu vậy?
Chị hơi vui vì lời trẻ con của tôi;
không đáp, chỉ gật nhẹ. Tôi nhanh nhẩu:
- Vậy chị chờ em chút nghe.
Rồi chạy vụt ra réo to:
- Tửng ơi Tửng! Tửng ơi Tửng! Về nhà
tao chơi.
Chiều hôm ấy ông bầu đến từ giã bà
con ở dãy ngã tư. Ông buồn hơn mọi ngày. Khi đến nhà thầy Tư (tiệm thuốc bắc)
thì bà con cũng kéo đến. Chú Chín chệch Xồi:
- Tui tặng ông bầu 2 ký lường
(đường) táng uống lước (nươc). Chừng nào lảnh (rảnh) dìa (về) hát cho dui
(vui).
Chú Chín chệch Xồi sống ở làng đã
lâu đời, có vợ Việt, ăn mắm sống nên không “nị, ngộ” như các chú Tàu ở huyện.
Một lát chú Hai Cộc xách một xô cá
từ mé triền lên:
- Mới tát đìa! Biếu anh Ba (ông bầu
thứ ba) và anh em ăn lấy thảo.
Thằng Hợp vừa hít mũi vừa bưng một
đĩa lớn bánh cam bánh cồng đầy ắp (chắc bán ế) lại, thưa:
- Má con nói biếu ông bầu ăn uống
nước.
Thiếm tư quay quanh rồi nói:
- Ở đây cũng có bánh trái rồi... Hay
là đứa nào mang qua nhà lồng cho mấy em ở bển. Đem cá của anh hai cho mấy em
làm luôn thể, tối rồi.
Thầy Tư ngập ngừng nói với ông bầu:
- Hổm rày chắc vất vả lắm hả anh Ba?
- Thì anh thấy đó, cứ “sập giàn”
hoài!
Chú Chệch Xồi:
- Hay là ông bầu dìa mua bán dí
(với) tui, kiếm ăn lược lám ló!(được lắm đó)
Mọi người ái ngại cho câu nói thiệt
lòng của chú Chín. Nhưng ông bầu chỉ thở dài:
- Làm như cái “nghiệp” anh Chín ơi!
Khi ế anh em cứ than thở đòi về làm ruộng, nhưng khi được bà con ái mộ thì quên
hết! “Cái nghiệp” khó dứt lắm anh ơi. Như con tằm ăn dâu phải nhả tơ đền nợ dâu
vậy.
Sáng hôm sau khi tôi định xách thêm
bọc ổi chua và gói muối ớt cho chị Ẩn thì thấy thằng Tửng bọc một áo xoài đứng
ở trước cửa. Tôi trố mắt hỏi nó:
- Mày ăn cắp hả?
- Tao xin đàng hoàng. Tao nói xin
cho chị Ẩn, thiếm Bảy bảo hái cho khá khá. Ăn cắp gì mà nhiều dữ vậy?
Khi chúng tôi đến, mọi người đang ăn
cơm. Chị nắm tay chúng tôi, nghẹn ngào:
- Cám ơn 2 em nghen!
Ăn cơm xong mọi người lỉnh kỉnh gánh
gồng xuống ghe. Tôi và Tửng đứng trên bến. Chị vò đầu chúng tôi rồi xuống sau
cùng:
- Mấy em ở lại rán học giỏi nghe.
Lần sau chị về chị bao mấy em coi hát khỏi mua vé.
Thằng Tửng coi bộ sượng sùng vì lời
chị. Tôi nói:
- Chừng nào chị về nhớ ẵm em bé về
chơi nghen.
Ghe rời bến, chị yếu ớt vẫy tay. Ghe
đi xa, chúng tôi nhìn đến khuất bóng mới thôi. Tôi ngó qua Tửng, nó ngượng
ngùng quẹt nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc. Và lần cuối cùng tôi gặp chị Ẩn.
Kha Tiệm Ly
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Dec/2023 lúc 10:14am
Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương
tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập
vài hãng xe chở khách đi miền Tây, thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến
khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện, nghe vậy
thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe
khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam.
Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi
miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và
rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học
từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn
Nam”: “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi
như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho
gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi
sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ, tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc,
rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành
cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường.
Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò
do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người,
nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập
hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại
lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được
mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ, giao thông kết nối khắp
nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe
đò, khi chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm,
bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng
và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.
Cụ Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu
là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau, trước khi cho
xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe
chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài
Gòn”.
- Kỷ niệm kinh hoàng về chiếc xe than ..
Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái
thùng phía sau xe được lặp lại từ sau khi bọn cộng sản vào tiếp quản trong giai
đoạn từ sau năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều
biết rõ, tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe
phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở
đuôi xe, thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ
xì từ giữa thập niên 50. Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy
chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu, có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết,
lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than, hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng
xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực.
Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không
kịp, cán phải cháy lốp xe.
Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn –
Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn
chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước, trên mui phía đầu xe thường
có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn
máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại
ở Càn Long, Trà Vinh, năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con, xe lô
có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe
đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường
phố, phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe,
chạy lộ trình nào, riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống
cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn
màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành
khách.
Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường,
không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách
xuống cuốc bộ, để gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm,
lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt
lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường.
Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi
hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng
vì bị ngồi bó gối.
Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua
cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới
ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải
lương trên truyền hình, sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường
nhiều nơi bị “mấy thằng việt cộng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu
cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát, đường về Trà Vinh chỉ hơn
160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận, đi xe lô cho được
nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi
miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt
Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ
bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh
sát xét hỏi.
Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm
thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng
thêm nước uống, khăn ướt lau mặt, xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền
và sông Hậu, tôi ngồi xe Taxi ngày nay chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất
sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò
là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.
- Từ thời Quốc Gia Việt Nam tới thời Việt-Nam-Cộng-Hòa
Hồi đó khu xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò
về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần
Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng
thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân, còn bến Miền
Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước
kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và
Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển
về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ
Lĩnh hiện nay.
Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân
Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho
nhu cầu ngày càng tăng, sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến
này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường
Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông
và miền Tây nhỏ hẹp.
Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò, mỗi chuyến xe
chuyên chở nỗi niềm hoài niệm, có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam,
có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc
lộ như tôi, cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền
Trung.
Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa và cũng có người tuổi
đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa
lơ hay những lúc đi tắm biển ở thành phố Vũng Tàu xưa.
Một thời kỷ niệm và đầy nhung nhớ.
Nguồn Sài Gòn Xưa
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Feb/2024 lúc 4:47pm
Nghề xà ích ngày xưa
Cho đến giờ, tôi vẫn còn nhớ như in người đánh xe ngựa ở Mỹ Tho là ông Bảy Tốt, người ta thường ông ‘Xà Tốt’, bởi ‘tài’ xe ngựa bấy giờ còn có tên là ‘xà ích’.
Vào những năm 1970, do chiến tranh loạn lạc mà mẹ dắt tôi xuống tận Ngã ba Trung Lương (thuộc TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang bây giờ) để thuê quán bán hàng nước giải khát. Lúc ấy mặc dù mới 12-13 tuổi nhưng tôi thường đi xe ngựa vào chợ Mỹ Tho mua hàng cho mẹ.
Do quen nên ông Bảy thường cho tôi đi nhờ và tôi được ngồi ngay trên chiếc càng phía trước đối diện với ông Bảy, lúc về có hàng hóa thì bỏ hết vào cái cần xé được ông treo ở hông xe. Con đường dài tới 5-6 km ngựa phải chạy tới 20-30 phút. Ông Bảy là người vui tính, ông và tôi hay nói đủ mọi thứ chuyện trên đời.
Ông Bảy bảo ông biết đánh xe từ hồi còn thanh niên, xe ngựa thời bấy giờ được người ta gọi là xe ‘thổ mộ’. Khi tôi nói ông giải thích rõ hai từ này, ông Bảy cười:
Ông cũng chẳng hiểu chính xác, người thì bảo rằng người Hoa kiều ở Việt nam đọc là ‘Thụ Mã’, nhưng giọng họ không rõ như vậy nên phát âm gần như hai từ ‘Thổ Mộ’. Lại có người nói mui xe ngựa được đóng khum khum y như cái gò mộ đất, bèn gọi là ‘Thổ Mộ’. Nhưng kệ, mình cứ kêu ‘xe ngựa’ là chính xác nhất.
Rồi ông Bảy còn kể tôi nghe chuyện ra đời của chiếc xe ngựa. Ông bảo xe ngựa có xuất xứ bên phương Tây, sau đó đến Trung Quốc, nhưng mỗi xe có hai con ngựa cùng kéo gọi là ‘song mã’.
Trước đó những nhà giàu mua ngựa về làm phương tiện đi lại vì ngày ấy người ta chưa có bất kì một loại xe nào. Thế nhưng chỉ một người cỡi được thôi, cùng lắm là hai người chứ làm sao chở được cả nhà khi đi đám tiệc hoặc đi chơi, nên họ nghiên cứu ra cái xe để dùng ngựa kéo. Ông cho rằng đó cũng là một sáng kiến tuyệt vời và phải khẳng định nó là tiền thân của những loại xe nhỏ, xe to sau này.
Khi người Pháp đưa sang Việt Nam thì vẫn có hai ngựa kéo, nhưng chỉ ít lâu sau người Việt tự chế xe ngựa chỉ cần một ngựa mà thôi, làm người Pháp phục lấy phục để.
Bánh xe ngựa thời trước năm 1945 được làm bằng gỗ, những đoạn gỗ được xẻ cong cong chỉ dài khoảng 40-50 cm thôi, nhưng phải là gỗ Hương hoặc gỗ Cam se mới chắc và bền, sau đó được bào gọt cho thật nhẵn rồi ghép lại bằng những đinh vít chắc chắn. Tăm xe được làm bằng những thanh sắt tròn và đặc chịu được sức nặng cả tấn, rồi để tránh ma sát và tránh bị bào mòn bánh gỗ người ta làm chiếc ‘vỏ’ bằng loại cao su đặc dày đến 3-4 phân.
Có một điều đặc biệt nữa là khi gắn bánh xe vào trục người ta không cần đến bạc đạn (ổ bi) như các loại xe bây giờ mà trục ngang của xe cũng bằng gỗ hương.
Tôi chợt hỏi: “Thế thì nó nhanh mòn phải thay liên tục sao ông Bảy?”. Ông lắc đầu: “Gỗ hương hay cam se chắc lắm, phải mấy năm mới phải thay chứ không phải thay hoài đâu.”
Khi xe đạp, xe máy, xe hơi có nhiều thì xe ngựa ở các thành phố lớn cũng giảm đi đáng kể, song ở nông thôn vẫn dùng, vì đường xá ở các làng quê bấy giờ chưa được rải nhựa hay bê tông như bây giờ nên về mùa mưa sình lầy lắm, chỉ xe ngựa mới đi được.
Ông Bảy đánh xe ngựa mãi từ năm 1950, nhưng rồi do chiến tranh và sự biến đổi của đất nước, cộng với hoàn cảnh gia đình nghèo toàn phải đi đánh mướn hay gọi là làm phu xe, mà ông phải gián đoạn. Cho tận đến năm 1976, ông phải bán đi 8 sào đất ruộng cộng với số tiền tích trữ bao nhiêu năm trời mới mua được con ngựa và cỗ xe, nên mới chính thức làm nghề liên tục.
Lúc này thì rất ít xe ngựa chạy bằng bánh gỗ nữa mà thay bằng bánh hơi cho nhẹ nên kiểu dáng xe bị thấp hơn, người ngồi trên xe không còn oai phong như trước nữa. Ông Bảy giải thích rõ ràng rằng, thường thùng xe ngày xưa cao ngang với bụng ngựa và được gắn 4 cái ghế đàng hoàng. Nhà giàu thời đó cầm ba toong, đội mũ nỉ, mặc bộ quần áo Tây… ngồi trên ghế cao trông lẫm liệt lắm. Nhưng từ khi thay bằng bánh hơi buộc lòng thùng xe phải đóng thấp xuống, xe ngựa chở khách mà chỉ kéo có một ngựa cần phải đóng thùng cho cân xứng với bánh xe để không bị tròng trành. Vách thùng đóng cao ngập đầu người ngồi, nắng thì kéo bạt ra, mưa phải trùm kín bít bùng.
Xe chở khách chuyên nghiệp hầu như không có ghế mà chủ xe chỉ trải chiếc chiếu sạch dưới thùng xe, khách lên xe thì treo dép, guốc lên các móc phía trên đầu, quanh gánh, thúng mủng. Hàng hóa thì để ngoài gờ hai hông hoặc trên nóc thùng chứ bên trong không thể bỏ thêm cái gì nữa, vì xe chở 6 người, mỗi bên 3 người ngồi ngang chân người nọ phải đặt sát vào mông người đối diện.
Ông Bảy mỗi lần ra bến đợi khách hay đưa khách về bến thường hay ghé quán nhà tôi nên tôi biết xà ích ngày xưa bỏ một số tiền sắm cái ngựa không phải dễ, bởi nghe ông Bảy bảo tới 4-5 cây vàng. Thế nhưng dù có chạy 4 hay 6 chuyến đi về từ ngã ba Trung Lương vào đến chợ Mỹ Tho đi nữa thì cả ngày cũng chỉ mua được 10 ký gạo. Thậm trí sáng ra ông chỉ dám uống ly cà phê, trưa ăn ổ bánh mỳ không để tối đến về nhà ăn cơm chứ bản thân tôi chưa bắt gặp ông Bảy ngồi ăn hủ tiếu hay bún trong tiệm, quán bao giờ. Nhưng khi ngựa bị đau bệnh ông lại phải mướn ngựa kéo xe để giữ khách, những ngày hôm ấy nếu đủ khách chạy hàng chuyến mới còn dư chút đỉnh, thiếu khách coi như huề hoặc lỗ.
Gia đình tôi trở lại Tây nguyên năm 1981. Đến mãi năm 1997 tôi mới về thăm lại thì nghe nói ông Bảy đã bỏ nghề ngay sau khi tôi đi vài năm, phần do tuổi cao, sức yếu, phần vì xe hơi phát triển nhiều người ta chê xe ngựa chạy chậm không đi. Tôi định đi tìm ông, nhưng người làng bảo họ ‘cũng lâu lắm rồi chẳng gặp lại ông ấy nữa, có khi ông Bảy đã mất’. Đành thôi. Thế nhưng nhìn về nơi bến xe ngựa ngày xưa tôi vẫn hình dung như có ông với râu tóc bạc phơ đội chiếc nón lá không còn lành lặn như ngày nào ngồi trên càng xe cầm roi điều khiển con ngựa chuẩn bị xuất bến.
K’Sim (Dăk Nông) Saigon Xưa ST
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Feb/2024 lúc 4:18pm
Tôi
là con gái Bắc kỳ chính cống, nhưng lại lớn lên ở Sàigòn, nên Sàigòn
đối với tôi là một ‘quê nhà’ thắm thiết vô cùng. Tôi đến với Sàigòn,
thuở Sàigòn còn là một thành phố với những hình ảnh mộc mạc thanh khiết.
Gái Sàigòn đơn giản hiền hòa với áo bà ba trắng, với quần đen ống thật
rộng, với đôi guốc mộc nhẹ tênh hình cái thuyền, với mái tóc dài ôm trọn
khuôn mặt không chút phấn son.
Hồi
mới tới Sàigòn, gia đình tôi tạm trú tại nhà bà dì ở đường Quai de
Belgique, sau này đổi thành Bến Chương Dương. Ðứng ở trên lầu, tôi có
thể nhìn thấy quang cảnh thuyền bè đi lại tấp nập. Những chiếc thuyền
chở đầy những buồng chuối vàng au, những lồng gà, lồng vịt, những chùm
dừa xiêm còn nguyên cả cành nằm chen chúc nhau, khoe cái vỏ xanh láng
mướt. Tất cả tượng trưng cho sự trù phú của miền Nam.
Nhà
dì tôi ở gần chợ Cầu Kho nên ngày đầu tiên chúng tôi đã được một ông
chú họ dẫn đi chợ. Tôi mê nhất là gian hàng trái cây bởi vì có nhiều
thứ ngoài Bắc không có. Tôi còn đang trố mắt ngó những trái to tròn như
trái banh có hai mầu khác nhau, trái xanh mướt như ngọc, trái tím thẫm
như mầu trái bồ quân thì cô bán hàng đã đon đả nhìn ông chú tôi:
– Mua ‘dú sữa’ đi thầy hai. ‘Dú sữa’ của em đặc biệt ‘giường nhà’ ngọt lắm đó.
Thì
ra mấy trái mà tôi đang ngó là mấy trái vú sữa ở vườn nhà cô ta. Hồi
đó tôi mới có 12 tuổi, còn ngây ngô chưa biết nói tiếu lâm nên hơi ngạc
nhiên khi thấy ông chú tôi nhìn cô ta cười tủm tỉm với đôi mắt tinh
nghịch:
– Vú sữa của cô ngon thiệt hả?
Cô ta gật đầu lia lịa:
– Ngon thiệt mà thầy hai.
Chú tôi chọn mua một chục trái, cô ta đưa thêm 4 trái và nói:
– Thường một chục có 12 trái thôi nhưng là của ‘giường nhà’ nên một chục em tính 14 trái lận.
Chú
tôi đưa tiền trả, thay vì phải thối lại 50 xu, cô ta cầm tờ 1$ xé toạc
ra làm đôi, đưa chú tôi một nửa. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này sang
ngạc nhiên khác. Ngày đầu tiên đã học được hai cái đặc biệt của Sàigòn.
Một chục là 12 hoặc 14, nửa tờ giấy 1$ là 50 xu.
Phải
công nhận người miền Nam rộng rãi và đơn giản. Một chục mà cho thêm
thành 12 tới 14 và thay vì mất công đi tìm tiền xu thì cứ việc cầm tờ
giấy 1$ xé béng ra làm 2 là xong ngay. Giản dị và tiện lợi biết bao.
Sàigòn
đã thu phục tình cảm của tôi một cách nhanh chóng. Hai mươi mốt năm
sau, khi rời bỏ Sàigòn tôi đã khóc như phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt
rốn. Sàigòn đã trở thành một nơi chốn thân thiết vô cùng. Không yêu
Sàigòn sao được khi Sàigòn là nơi chứng kiến tất cả kỷ niệm vàng son của
thời con gái. Sàigòn với ngôi trường Trưng Vương yêu dấu, nơi đã cho
tôi biết bao nhiêu người thầy đáng kính, bao nhiêu người bạn dễ thương,
bao nhiêu tình cảm quí mến chân thành. Làm sao quên được con đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm rợp lá me bay, những chiều tan học, tràn ngập những tà
áo trắng quấn quít gót chân son. Thảo cầm viên đã được nghe không biết
bao nhiêu lời thì thầm tâm sự của các nàng Trưng Vương, những giờ nghỉ
học, vừa chuyện trò, vừa lang thang hái trộm những cánh hoa mầu tím, ép
vào những trang sách học trò. Con đường Thống Nhất rộng thênh thang đưa
tới rạp Norodom tưng bừng rộn rã của những ngày Đại hội Văn nghệ học
sinh. Tôi như vẫn còn mường tượng thấy khung cảnh rộn ràng trong hậu
trường sân khấu. Tuy bận rộn sửa soạn cho những màn trình diễn, nhưng
các chàng Chu Văn An vẫn không bao giờ quên gửi đến các nàng Trưng Vương
những ánh nhìn say đắm. Chỉ một cái nhìn thật nhanh, thật nhẹ mà sao
cũng đủ làm cho ai kia má phải ửng hồng.
Vòng
ra bờ sông là bến tàu lộng gió của những sáng đón đưa, những chiều hò
hẹn. Con đường Lê Lợi với những chiều thứ bảy đẹp trời cùng bạn bè dạo
phố. Mỗi lần đi qua tiệm Kim Sơn ở góc đường, chúng tôi luôn luôn phải
vờ chăm chú ngó mấy món hàng linh tinh bầy bán lề đường, để tránh những
cặp mắt nhìn hau háu của mấy ‘ông nội’ ngồi ‘pẹc mơ năng’ ở ngoài hiên
giống như mấy ‘Side-walk café’. Tiệm sách Khai Trí là nơi hấp dẫn nhất.
Luôn luôn làm chúng tôi mê mẩn trước những cuốn tiểu thuyết còn thơm
mùi mực mới.
Màn cuối cùng của
buổi dạo phố thường thường là góp tiền lại, rủ nhau vào một tiệm kem.
Vừa nhấm nháp những thìa kem dâu, kem dừa mát rượi, vừa nghe những bản
nhạc ngoại quốc nổi tiếng thịnh hành mà chúng tôi thay phiên nhau yêu
cầu nhà hàng để dĩa hát, như A Certain Smile, You’re My Destiny, I Went
to Your Wedding, Diana v.v…
Hôm
nào có phim hay cả bọn lại rủ nhau chui vào một trong hai rạp ciné
permanent Lê Lợi hay Vĩnh Lợi. Mỗi lần vào đây là chúng tôi phải đề cao
cảnh giác. Vì luôn luôn có một số các chàng thanh niên hay lợi dụng sự
đông đúc chen lấn để dở trò ba mươi lăm. Một hôm có một chàng đứng sát
sau lưng định dở trò, tôi bèn làm như vô tình quay ngang người lại hích
cho chàng một cái cùi chỏ nên thân. Tan ciné, tôi kể chuyện cho lũ bạn
nghe, chúng cười hi hí có vẻ khoái chí lắm. Từ đó các bạn tôi học được
màn” hích cùi chỏ” để trừng trị các chàng gian manh. Sau khi xem ciné,
nếu còn đủ tiền rủng rỉnh trong túi, chúng tôi rủ nhau vào hẻm Casino
làm một chầu bánh tôm, bún chả. Nếu chỉ còn ít tiền, thì ra góc Viễn
Ðông. Ðứng ở lề đường ăn phá lấu với thịt bò khô. Ăn xong, ớt còn cay
xè trong miệng mà vẫn đủ tiền uống một ly nước mía cốt vắt thêm miếng
chanh nhỏ xíu, hoặc sang hơn, vắt nguyên nửa quả quít thì còn gì sướng
hơn nữa. Có hôm thay vì ăn ở góc Viễn Ðông, chúng tôi lại đi ngược
chiều ra góc chợ Bến Thành. Nơi có hàng bò viên nóng hổi, thơm phức mùi
tiêu với hành ngò. Sau đó, tráng miệng bằng một ly đậu đỏ bánh lọt.
Hoặc rủ nhau vào quán Bà Ba Bủng ở đường Thủ Khoa Huân, sau chợ Bến
Thành, ăn bún riêu, bánh cuốn. Sàigòn có không biết bao nhiêu món ngon,
hấp dẫn những cái miệng thích ăn quà vặt của các nàng Trưng Vương thuở
đó.
Khi
Mùa Giáng Sinh tới, Sàigòn tưng bừng như mở hội. Người ta không phải
bận tâm lo mua quà tặng nhau như ở xứ Mỹ. Ðêm Noel, có đạo hay không,
mọi người cũng thích rủ nhau đi dạo trên đường Tự Do. Trai thanh, gái
lịch, quần áo lượt là, chen vai, thích cánh, suốt dọc hè phố từ nhà Quốc
Hội đến nhà thờ Ðức Bà. Người trẻ đi để ngắm nhau. Người lớn tuổi đi
tìm không khí Noel, cái không khí mà suốt bao nhiêu năm sống trên đất Mỹ
tôi không làm sao tìm lại được. Hầu như tất cả dân ‘chịu ăn chịu chơi’
của Sàigòn đều có mặt trên đường Tự Do. Ði dạo mỏi chân, mọi người lại
rủ nhau vào ngồi trong Givral, La Pagode, Continental, hay ngồi ở công
viên rộng lớn trước nhà Quốc Hội hoặc trước tòa Ðô chánh để chờ nghe
tiếng chuông đổ hồi rền rã của nhà thờ Ðức Bà báo hiệu lễ nửa đêm, mừng
Chúa ra đời.
Sau
lễ, mọi người về nhà ăn Réveillon. Nồi cháo gà nóng hổi, khói lên nghi
ngút, là món không thể thiếu trong bữa tiệc mừng Giáng Sinh đặc biệt
này. Noel của Sàigòn thật vui, thật đầm ấm, thật nhẹ nhàng, thoải mái.
Không có quá nhiều lo nghĩ về vấn đề tài chánh phải chi tiêu cho quà
cáp.
Không khí Noel ở đất Mỹ mang
tính cách thương mại nhiều hơn là không khí thiêng liêng đặc biệt của
ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Trước Noel cả mấy tháng người ta đã
trưng bầy cây Noel để bán. Bắt mọi người phải nhìn ngắm mãi đâm nhàm
chán. Gần sát ngày lễ Noel ai cũng tất bật lo chuyện mua quà, gói ghém
cho kịp giờ mở quà đêm mừng Chúa ra đời. Tất cả chỉ có vậy. Ðêm Noel
người ta chỉ thấy quá mệt mỏi. Rộn ràng được một chút lúc mở quà. Sau
đó là hết. Trống vắng buồn tênh. Thời tiết lạnh lẽo, nhà thờ Việt Nam
thì ở quá xa, hơn nữa kiếm được chỗ đậu xe không phải là dễ. Mùa đông
buốt giá, chưa kể nếu có tuyết, đường trơn trượt nguy hiểm. Do đó ít ai
nghĩ đến chuyện đi lễ nửa đêm. Bởi vậy cứ mỗi lần mùa Giáng Sinh tới
là tôi lại nhớ Sàigòn da diết. Nhớ thánh lễ nửa đêm thật tưng bừng ở
nhà thờ Ðức Bà. Nhớ con đường Tự Do tràn ngập người đi của những đêm
Noel đầm ấm năm xưa.
Tết
đến còn vui hơn nữa. Xung quanh chợ Bến Thành những gian hàng bán bánh
mứt được dựng lên san sát với nhau. Tiếng rao hàng của những loa phóng
thanh vang lên rộn rã. Người đi mua sắm tấp nập. Ai cũng” tay xách
nách mang”. Ngày Tết, không nhà nào là không có đủ thứ mứt, hạt dưa,
bánh chưng, dò chả.
Nhắc đến Tết ở
Sàigòn là ai cũng phải nhớ ngay đến chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ với
những cành đào, cành mai tươi thắm. Những chậu cúc, chậu thược dược đủ
màu đua nhau khoe sắc. Những chậu quất trĩu quả vàng tươi. Những bát
thủy tiên toả hương thơm thật dịu dàng, thanh khiết. Nhưng có một thứ
hoa đẹp nhất làm chợ rực rỡ hẳn lên đó là”hoa biết nói.” Các nàng thiếu
nữ yểu điệu trong những tà áo dài đủ mầu, tha thướt đi dạo trong chợ hoa
là hình ảnh đẹp nhất của ngày Tết ở Sàigòn.
Tôi
còn nhớ thời con gái, cứ 23, 24 Tết là chúng tôi đã nôn nao sửa soạn
quần áo để rủ nhau đi chợ hoa. Dạo chợ hoa là một náo nức không thể
thiếu của các nàng thiếu nữ mỗi lần Tết đến. Cũng như đi chợ hoa để
ngắm người đẹp là một điều bắt buộc, không thể nào quên của các chàng
trai.
Chợ
hoa ở đây (vùng Hoa Thịnh Đốn) sao tẻ nhạt quá. Có lẽ vì hoa không đủ
thắm, lại chỉ có lưa thưa, bầy bán rải rác nên không hấp dẫn được người
đi. Vả lại các chàng nếu có muốn đi chợ hoa để ngắm người đẹp, thì cũng
chỉ tìm thấy những áo ‘cốt’ dầy cồm cộm, to xù xù di động. Chứ làm sao
có thể tìm lại được những bóng dáng yêu kiều trong tà áo dài lả lướt
của chợ hoa Nguyễn Huệ năm xưa. Thời tiết lạnh lẽo quá, ít ai ở đây còn
nghĩ đến chuyện mặc áo dài đi chợ Tết, nên hình ảnh chiếc áo dài trở
nên hiếm quí vô cùng. Thật tội nghiệp cho những người Việt Nam xa xứ
nơi tôi ở. Phải cố gắng tưởng tượng mùa xuân trong cái giá buốt của mùa
đông. Hoa tuyết rơi mà phải tưởng tượng là hoa đào nở, gió đông lạnh
lẽo mà cứ cố nhắm mắt lại để mơ tưởng đến ánh xuân nồng. Tết năm nào
tôi cũng cố gắng tìm cho được một cành hoa vàng forsynthia để trang
hoàng nhà cửa. Ðể tự đánh lừa mình là nhà ta cũng có mai vàng.
Tết nhất đến nơi mà sao giọng Don Hồ cứ buồn não nuột, anh chàng đang hát một bài mà tôi rất thích của nhạc sĩ Ðức Huy:
“Tôi
hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều. Nhất là những buổi chiều hay mưa.
Cũng may Cali trời mưa ít không như Sàigòn. Nếu không, tôi đã khóc một
giòng sông…”
Ngoài
cửa sổ, chiều nay trời thật đẹp. Những giải nắng vàng còn vương vấn
trên mấy ngọn cây cao. Mấy hôm nay trời tạnh ráo, không có lấy một giọt
mưa nhỏ. Vậy mà không hiểu sao bỗng nhiên lòng tôi chùng hẳn xuống và
…hình như hồn tôi đang “Khóc một giòng sông..”
Hồng Thuỷ
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph