GIAI THOAI VĂN-THƠ-NHẠC-NHẠC SĨ-VĂNTHI SĨ
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Âm nhạc
Forum Discription: Bàn luận về âm nhạc, gồm Ca Nhạc Sỹ hay các lời bài hát.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=3010
Ngày in: 16/Nov/2024 lúc 3:34pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: GIAI THOAI VĂN-THƠ-NHẠC-NHẠC SĨ-VĂNTHI SĨ
Người gởi: mykieu
Chủ đề: GIAI THOAI VĂN-THƠ-NHẠC-NHẠC SĨ-VĂNTHI SĨ
Ngày gởi: 29/Sep/2010 lúc 6:39am
Nhạc phẩm : Chiếc kẹp tóc thơm tho
Nhạc sị : Phạm Duy
Ca sĩ : Đức Tuấn
http://www.nhacso.net/Music/Song/Tru-Tinh/2009/09/05F68745/ - http://www.nhacso.net/Music/Song/Tru-Tinh/2009/09/05F68745/
Saturday, 25 September 2010
http://budsas.blogspot.com/2010/09/chiec-kep-toc-thom-tho.html -
Phạm Duy: "Một ngày kia xuống phà qua con sông Hậu Giang, tôi gặp một bé gái bán vé số. Bé xinh xắn, sạch sẽ, lễ phép... Tôi muốn tặng bé ít tiền nhưng cháu không nhận. Tôi bèn mua ít tấm vé số với giá đặc biệt. Khi phà sắp sửa tách bến thì cháu chạy vội xuống, dúi vào tay tôi một chiếc kẹp tóc còn thơm mùi tóc dậy thì con gái. Có lẽ đó là món trang sức đắt giá nhất trên người cháu. Cháu tặng tôi như một cử chỉ đền đáp, vì cháu không muốn nợ ai thứ gì cả. Tôi không thể không nhận. Cầm chiếc kẹp tóc nhỏ trong tay, trong lòng tôi cứ dâng lên nỗi xúc động. Cũng như bé gái ấy, tôi không muốn nợ ai bất cứ thứ gì. Tôi thích sự sòng phẳng. Bé gái và tôi, chúng tôi đã gặp nhau."
* Thế rồi có ngày hồi hương Cuộc đời trăm phương nghìn hướng Tạm thời ngừng cuộc lãng du Cho qua đi những ngày mưa nắng Ngày đầy hay ngày thưa vắng Cho đi theo cảnh đất trời xa Quên đi cảnh đất trời xa.
Thế rồi tôi bước về quê Sau nhiều tang thương dâu bể Bao phen vật đổi sao dời Quê hương mình vẫn là nơi Để tìm về lẽ sống mà thôi Mình tìm ra chính mình thôi.
Thế rồi tôi xuống Hậu Giang Tôi qua bến phà sông lớn Đang nhìn những cánh bèo trôi Bỗng nghe rộn rã câu mời "Mua xổ số ông ơi Ông ơi Mua xổ số ông ơi!"
Tôi nhìn em bé thật xinh Guốc mộc, áo lành không rách Mắt tròn, trong sáng và to, Đôi má em và môi em đỏ Mái tóc dầy, mùi tóc thơm tho, Với chiếc kẹp tóc đơn sơ.
Thế rồi tôi móc túi ra Tặng em chút quà không nhỏ Lắc đầu em cứ nhìn tôi Em không muốn xin tiền người "Mua xổ số đi thôi Ông ơi Ông ơi Mua xổ số đi thôi"
Thế rồi tôi cũng phải mua Dẫu rằng tôi chẳng tin xổ số Tôi mua một lúc hai mươi tờ Em cười đôi má đỏ hoe Em cười đôi má đỏ hoe
Thế rồi phà tới bến quê Thế rồi tôi bước lên xe Bé thơ chạy tuốt lên bờ Rút kẹp tóc ra Rút kẹp tóc ra "Con tặng cho ông đó"
Thế rồi tôi vẫn còn đi Trên đường giang hồ đây đó Mang theo hương vị quê mùa Hương nồng từ đất quê ta Đến từ kẹp tóc em thơ “Chiếc kẹp tóc thơm tho” * http://budsas.blogspot.com/2010/09/chiec-kep-toc-thom-tho.html - http://budsas.blogspot.com/2010/09/chiec-kep-toc-thom-tho.html #
Đức Tuấn và "chiếc kẹp tóc thơm tho"
Thứ ba, 26 Tháng sáu 2007, 18:40 GMT+7
– Tuấn hài lòng nhất với những ca khúc mà qua đó Tuấn có thể hiện được đam mê nhạc kịch của mình. Chính đam mê ấy đã giúp Tuấn thể hiện thành công bài Chiếc kẹp tóc thơm tho, một trong những sáng tác mới nhất của Phạm Duy
http://vietbao.vn/Van-hoa/Duc-Tuan-va-chiec-kep-toc-thom-tho/20710789/181/images/vn2/van-hoa/20710789_images1343715_DucTuan-bia.jpg"> |
Album Đức Tuấn hát tình ca Phạm Duy | Từ lúc nhạc sĩ Phạm Duy trở về nước đến nay, Đức Tuấn là một trong số ít ca sĩ trẻ được lão nhạc sĩ vừa ý khi thể hiện những bài hát của ông. Trước khi đi Mỹ du học, ca sĩ Đức Tuấn vừa kịp hoàn thành album Đức Tuấn hát tình ca Phạm Duy và biểu diễn lần cuối trước khi tạm xa khán giả một thời gian.
Đức Tuấn đã hát bao nhiêu bài của nhạc sĩ Phạm Duy rồi?
Tuấn đã hát hầu hết những bài của nhạc sĩ Phạm Duy đã được phép phát hành tại Việt Nam. Hát từ các chương trình ghi âm đến những những đêm diễn của riêng Tuấn. Bài cũ thì nhiều người đã nghe và đã biết rõ rồi, gần đây Tuấn đã thu bài mới của nhạc sĩ Phạm Duy, đó là Chiếc kẹp tóc thơm tho nằm trong loạt bài Hương ca của ông.
Cảm xúc của Đức Tuấn mỗi khi hát nhạc Phạm Duy có gì thay đổi không? Đặc biệt là khi hát những bài mới sáng tác gần đây?
Có những điều thay đổi nhưng cũng có những cái bất biến. Với Tuấn, trình diễn âm nhạc của Phạm Duy luôn là một áp lực thú vị. Với những bài hát cũ, Tuấn tự đặt nhiệm vụ cho mình phải hiểu thấu được những tinh túy trong những ca khúc ấy, bởi chúng đã trở thành những tình khúc vượt thời gian, thành kỷ niệm của rất nhiều khán giả.
Bây giờ Tuấn phải làm sao để các khán giả “cũ” chấp nhận mình, như một người kế tiếp các lớp ca sĩ trước đã thành danh với nhạc Phạm Duy. Đồng thời, Tuấn lại phải làm hài lòng khán giả mới, chưa biết nhiều tới âm nhạc của Phạm Duy.
Hát trong tâm lý chịu áp lực như thế khiến cảm xúc của mình phải vừa luôn thay đổi, để những gì mình biểu diễn luôn tươi mới, lại vừa phải giữ được những gì đã trở nên ổn định trong âm nhạc của Phạm Duy.
Tuấn hài lòng nhất với những ca khúc mà qua đó Tuấn có thể hiện được đam mê nhạc kịch của mình. Chính đam mê ấy đã giúp Tuấn thể hiện thành công bài Chiếc kẹp tóc thơm tho, một trong những sáng tác mới nhất của bác Phạm Duy. Chính bác Phạm Duy đã chỉ định Tuấn hát bài này, bác còn nói rằng chắc chắn Tuấn sẽ thành công. Và đó là một nguồn vui lớn của Tuấn.
http://vietbao.vn/Van-hoa/Duc-Tuan-va-chiec-kep-toc-thom-tho/20710789/181/images/vn2/van-hoa/20710789_images1343717_DucTuan-ThuMinh.jpg"> |
Thu Minh sẽ cùng đi học với Đức Tuấn |
Đức Tuấn thích những bài nào của nhạc sĩ Phạm Duy nhất?
Rất khó để nhận xét bài này được thích hơn bài kia, mà nói là bài nào cũng thích thì mọi người lại bảo là Tuấn khách sáo. Nói tóm lại Tuấn yêu tất cả các bài hát mình đã thể hiện, còn những bài mình chưa có dịp hát thì cũng chưa thể nói được nhiều, vì mình chưa thực sự ngấm được. Thành công với dòng nhạc Phạm Duy đúng là điều chỉ có trong mơ, nay đã là sự thật. Với Tuấn, điều quan trọng hơn là khán giả hài lòng nhất khi Tuấn hát bài nào đó, của Phạm Duy hay của nhạc sĩ nào cũng vậy.
Trong album mới Đức Tuấn sẽ hát nhạc Phạm Duy theo phong cách nào?
Trong album này, Tuấn trình bày 10 ca khúc. Hầu hết được hoà âm theo phong cách bán cổ điển, có pha trộn với một số nhạc cụ dân tộc Việt Nam và đặc biệt là chính nhạc sĩ Đức Trí, người sản xuất album, sẽ biểu diễn các loại nhạc cụ này. Tuấn hy vọng mình sẽ làm được một chương trình biểu diễn lớn quảng bá cho album này và có thể trình diễn cùng dàn nhạc giao hưởng. Việc này đòi hỏi nhiều công phu tập luyện cũng như chi phí rất cao. Hiện Tuấn và Đức Trí đang bàn bạc việc này một cách nghiêm túc.
Đức Tuấn sẽ đi Mỹ du học, khi nào Tuấn nói lời tạm chia tay với khán giả trước khi lên đường hay sao?
Đêm nhạc tại 24/6 là show diễn cuối cùng của Tuấn trước khi lên đường vào đầu tháng 7. Cùng tham gia khoá học ngắn ngày tại Berklee College of Music, Boston với Tuấn còn có Thu Minh và Đoan Trang. Cũng vui vì có thêm những bạn thân cùng xa xứ với mình.
Tại sao Đức Tuấn lại quyết định đi học trong lúc công việc đang phát triển?
Việc học lúc nào cũng cần thiết, sự nghiệp càng phát triển thì lại càng phải cập nhật cho mình. Càng học mới càng thấy mình thiếu nhiều. Với lại, dòng nhạc bán cổ điển mà Tuấn chọn đòi hỏi nhiều ở kỹ thuật hát và biểu diễn, nhất là việc học hỏi những phong cách, trường phái mới của thế giới.
Có khi nào Đức Tuấn nghĩ đến trường hợp đi học về mà hát sẽ khó hơn không? Nhất là thời gian làm khán giả quên mình?
Tuấn không đi quá lâu, chỉ hai tháng thôi, vì thế không lo lắng chuyện này. Lúc này, điều Tuấn quan tâm nhiều nhất lại là đêm nhạc đầu tiên của ngày trở về. Tuấn hy vọng khoá học này giúp Tuấn được nhiều trong việc thực hiện album với những trích đoạn nhạc kịch nổi tiếng, một kế hoạch lớn của Tuấn trong năm nay.
|
(Theo_VietNamNet) |
http://vietbao.vn/Van-hoa/Duc-Tuan-va-chiec-kep-toc-thom-tho/20710789/181/ - http://vietbao.vn/Van-hoa/Duc-Tuan-va-chiec-kep-toc-thom-tho/20710789/181/
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Oct/2010 lúc 6:03pm
Lê Trạch Lựu viết về "Em Tôi"
Tháng 05/1948 - Năm 1948 là năm tôi đi trại hè Sầm Sơn, đi với đoàn Hướng Đạo, cùng nhiều đoàn khác, tập trung tại sân ga Hà nội. Tôi thoáng thấy một cô gái xinh xinh, dáng người phong nhã, có đôi mắt đẹp tuyệt vời. Không hiểu sao tôi thấy tôi như choáng váng, má tôi nóng bừng như lên cơn sốt...
lần đầu tiên tôi thấy tôi có cái cảm giác lạ lùng này. Nhà đoàn tôi « đóng trại » to lớn, rộng rãi, đó là những biệt thự nghỉ mát của bọn Pháp thuộc điạ bỏ lại, trước nhà là bãi biển mênh mông, sau nhà có một cái giếng. Trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy, đội nón, dưới nắng trang trang rũ áo, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn cô ta. Thỉnh thoảng cô nàng ngửng đầu lên, vành nón che đôi mắt, nhưng tôi biết là cô ta đang nhìn tôi. Thú thật, tim tôi đập thình thình. Chao ơi, yêu đương là như vậy hay sao? Đây là một rung động đầu tiên, nào đâu tôi có biết cảm giác này từ thuở ra đời.
Về Hà nội tôi tìm nhà cô ta, vì có duyên nên tìm được ngay, cô ta ở gần nhà tôi. Bây giờ ta phải tìm biết tên cô ta nữa! Chiều nào tôi cũng đi qua nhà cô ta, để nhìn vào nhà, tìm lại đôi mắt đẹp. Tôi thấy có nhiều cậu trai cỡ bằng tuổi tôi đi qua đi lại trước cửa nhà, như tôi. Lúc đó tôi cũng thấy hơi hơi lo... sợ mất !
Nhưng may cho tôi, hồi ấy có một chú bé đi theo tôi hoài, hỏi ra là chú Mỹ, em cô Phượng. Trời ơi là trời, đất ơi là đất! Chúng tôi đi chơi với nhau. Một hôm, tôi viết một lá thư và mạnh dạn tôi hăng hái ra đi, nhưng chiều hôm đó tôi không thấy cô ta ra đứng ngoài cửa hóng mát. Rồi chiều hôm sau, chiều sau nữa. Thế rồi một chiều nào đó, tôi lại thấy cô ta đứng rũ tóc bên thềm. Tìm đủ nghị lực, tôi sán gần cô ta, tay đưa lá thư, miệng lắp bắp một câu: « Phượng... Phượng cầm... cầm lấy cho... cho... tôi... tôi... lá thư này... » Rồi xong, tôi cắm đầu đi mất, không dám quay lại, sợ nhìn thấy hoặc cô ta xé lá thư, hoặc quẳng xuống lề đường... tôi sẽ mắc cỡ ... Để đỡ cho cái nặng nề đó, tôi tìm cách nói khéo với chú Mỹ, chú bằng lòng ngay. Thế là chú thành con chim xanh của tôi. Chiều nào chú cũng để một lá thư lên bàn. Bẩy tháng trời tôi viết đều đều, gần bẩy chục lá thư mà vẫn không thấy trả lời. Tôi đau khổ quá không biết cô ta có yêu tôi không, tại sao cô ta không trả lời tôi, dù thuận dù không... Lúc bấy giờ tôi mới biết là tình yêu, thế nào là đợi chờ, là có nhiều đau khổ. Héo hon con người.
Thế rồi một hôm chú Mỹ tất tưởi chạy đến nhà tôi, đưa cho tôi một lá thư, hôm đó là một tuần trước ngày kháng chiến toàn quốc, tôi bồi hồi cầm lá thư, ở một góc có đề : Xin TRẠCH LỰU đừng giận KIM PHƯỢNG mà xé lá thư này..., tôi mở ra, đọc từng hàng chữ đều đều, tròn tròn, vuông vắn. Phượng nói yêu tôi từ ngay lúc đầu... nhưng muốn thử lòng tôi để xem tôi có phải là người đứng đắn rồi nói rằng ngày mai Phượng đi tản cư... ở Hà Ðông, cách làng tôi mấy làng... Tôi bàng hoàng như tỉnh một giấc mơ lâu dài chờ đợi từ bao nhiêu giờ, bao nhiêu phút. Thế là hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà nội qua làng tôi tới làng tạm trú của gia đình nàng, chúng tôi đi chơi dọc dòng sông Nhuệ cùng chú Mỹ, mẹ của Phượng, bà cụ nhìn chúng tôi âu yếm từ đằng xa ... đi chơi cùng nhau hết cả buổi chiều, tôi không dám cầm tay Phượng, tôi ân hận tới bây giờ. Tôi trở về thành, thế rồi chiến tranh, ba năm sau tôi sang Pháp. Không rõ Phượng ở đâu, tôi vẫn nhớ Phượng hoài. Một hôm trong trường cái nhớ nó làm tôi điên đầu... trong giờ Etude cuối lớp có anh chàng TRẦN BÍCH LAN NGUYÊN SA đang đọc Socrate hay sao, bên phải gần cửa sổ HOÀNG ANH TUẤN... không biết hắn làm gì, chắc đang làm thơ, tôi cầm cây đàn bấm bấm... hai ngày sau thành bài EM TÔI... cả nhạc lẫn lời. Chủ nhật ra Paris, đường Volontaires, sau bữa cơm trưa, quây quần với nhau, trong đó có Anh Tuấn, Thi Liên, Thoa em gái Nguyên Sa về sau lấy Trần đình Hòa, Bội Liên đã nhận được bài tôi gửi tới trường, hồi đó cô ta có yêu tôi, nhưng tôi tránh vì cô ta con nhà giầu... , Bội Liên dạo nhac trên mấy phím ngà... Nhạc EM TÔI vang lên khắp cả căn phòng, tôi tê tái nghe nhạc tôi, tôi thấy là lạ, chưa quen... vì mỗi lần tôi đã nghe trong tôi hay nghe cây đàn bên tôi nói với tôi, bây giờ những ngón tay ngà chạy qua phím đàn đến với tôi, tôi như ngỡ ngàng đi vào cơn mê... Thế rồi tôi chép lại nhạc và lời trên trang giấy học trò, trên những giòng như đã kẻ nhạc, tôi gửi tới nhà xuất bản TINH HOA... Những tháng năm qua...
KHI «EM TÔI» ĐƯỢC NỔI TIẾNG , TÔI KHÔNG ĐƯỢC SỐNG CÙNG VỚI THỜI ĐẠI ĐÓ VÌ TÔI Ở XA , TÔI KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN RÕ RÀNG THẾ NÀO LÀ MỘT BẢN HÁT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI YÊU CHUỘNG... TRAI HAY GÁI, AI AI CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH CÓ MỘT NGƯỜI YÊU , HAY MÌNH ĐƯỢC YÊU , HAY MÌNH TƯỞNG TƯỢNG CHÍNH MÌNH LÀ CÔ GÁI ẤY , CÒN CẬU TRAI ĐƯỢC YÊU CÔ GÁI DỊU DÀNG, THƠ NGÂY, ÂU YẾM , MƠ MÀNG CHO NÊN AI AI CŨNG HÁT... CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH... CŨNG CẦM LẤY CÂY ĐÀN...
Rồi một hôm tôi tìm ra điạ chỉ của Phượng tôi viết về cho chú Mỹ, Mỹ trả lời tôi: « Em nhận được thư anh, thế là anh vẫn mạnh, chị Phượng đợi anh trong một năm dài, thấy anh không về, tưởng anh chết, rồi ba năm sau chị Phượng để tang anh. Nhiều người đến hỏi chị, chị chỉ lắc đầu. Chị vẫn đợi anh, nhưng hôm qua chị Phượng đi lấy chồng, chị đã 26 tuổi rồi, ngày ngày thầy me thúc dục. » Thế là tôi cắt đứt, để Phượng đi lấy chồng cho êm thấm, có bổn phận với chồng với con. Tôi không muốn ám ảnh Phượng nữa để cho nàng yên phận. Sáu chục năm rồi vẫn nhớ em, Nhớ ai rũ tóc đứng bên thềm, Nhớ người giặt áo bên bờ giếng, Nhớ nhiều, nhớ mãi, mãi không quên...
Sáu chục năm sau, tôi được biết tin một người bạn cùng trường năm xưa, anh Nguyễn Thiệu Giang viết cùng một tờ báo với tôi hồi đó cùng Thanh Nam, tôi có nhờ anh ta đến căn nhà cũ, anh nói Phượng không còn ở đấy nữa. Nhưng có cho tôi số phone, tôi gọi Phượng, đầu giây Phượng trả lời, tôi nói là tôi, cô ta nhắc đi, nhắc lại ba lần, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, như không tin là có thật, khi tôi bảo là tôi thì cô ta òa ra khóc. Nói chuyện cùng nhau hơn nửa tiếng, sau những lúc ân cần hỏi han. Phượng có nói, anh ấy có theo đuổi Phượng trong bốn năm trời, Phượng bảo Phượng có người, anh ta cứ đeo đẳng, Phượng có nói với anh ấy chuyện Phượng và anh. Anh ta chịu là trong lòng Phượng có một người. Tôi xin thành thật cảm ơn Phượng, tình yêu Phượng cho tôi. những năm đợi chờ, đau khổ. Một lúc sau tôi hỏi Phượng: «Thế Phượng còn giữ mấy lá thư ấy không? » Tôi muốn tìm hiểu văn thời 16 tôi viết ra sao chắc là văn lủng củng lắm. Phượng trả lời tôi: « Em để vào trong một cái hộp, nó đi theo em tất cả mọi nơi, trong đó có cả tập ảnh chụp hồi đó, nhưng chồng em thấy lúc nào em cũng buồn, nói với em nên giấu nó đi một chỗ, khi nào vui thì hãy mở ra. Thế là ông ta bỏ vào đâu không rõ, mấy năm sau ông ta mất, tìm kiếm khắp nhà không ra. Em chỉ nhớ anh viết dài lắm... viết dài lắm... Hôm nọ em muốn tìm cái hình anh hồi đó, mà không thấy đâu. Tủi thân, em lại ngồi khóc, may rằng con, cháu em bữa đó tụi nó không có nhà...
Tháng mười năm 2009 Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - Paris 2009
Em tôi
NHẠC SĨ :Lê Trạch Lựu
TRÌNH BÀY : CA SĨ TUẤN NGỌC
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=bWb-gGWAat - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=bWb-gGWAat |
http://cuongde.org/index.php/nhac-vang/S/65-si-phu/152-si-phu-thoi-tieng-hat-len-ngoi-1 -
Em tôi ưa đứng nhìn trời xanh xanh. Mang theo đôi mắt buồn vương giấc mơ. Vu vơ đắm đuối, vương ngàn áng mây Bao đêm thầm đếm trên trời đầy sao sáng. Buồn vương man mác theo lời gió reo lời thơ Trầm tư se sắt tơ lòng đắm theo đàn khóc Bao nhiêu nước mắt chôn sầu đắng cho lời thơ, Giờ này em hát câu chiều mơ.
Bao giờ tôi về gần em. Cùng đếm này trăng này sao kia nhé em, Trăng sao dâng ý thơ, mây bay khắp trời, Thuyền tình lung linh trong khói sương lam, Ngày về xa quá người ơi...
Em mơ tiếng sáo, dập dìu bên trăng Đêm đêm u tối về đây thắp sao ... Dư âm tiếng hát vương buồn mắt nhung, Tôi xin gió biếc ca ngợi mầu suối tóc... Đừng quên em nhé môi còn thắm duyên còn xanh, Đàn trăng phô sắc huy hoàng sáng hơn màu nắng. Cho anh rót thắm đem về nhớ nhung lời thơ, Đường đời anh muốn em còn mơ. |
**************
Nghệ sĩ Trần Quang Hải trong bài
Lịch Sử Tân Nhạc Việt Nam gọi nhạc sĩ Lê Trạch Lựu
là nhạc sĩ thuộc dòng Nhạc Tình Tự Dân Tộc 1954-1963.
| |
http://cuongde.org/index.php/nhac-vang/S/65-si-phu/152-si-phu-thoi-tieng-hat-len-ngoi-1/1564-em-toi-le-trach-luu - http://cuongde.org/index.php/nhac-vang/S/65-si-phu/152-si-phu-thoi-tieng-hat-len-ngoi-1/1564-em-toi-le-trach-luu
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Oct/2010 lúc 6:35pm
http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/post/4781/256496 - - Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý: http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/post/4781/256496 - - Giữa cảnh nghèo cô đơn
http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/post/4781/256496 - http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/gallery/4781/21_ns18-400.jpg">
Ông nằm đó, im lìm trên chiếc giường sắt nhỏ. Căn phòng chật chội ngột ngạt, hầm hập hơi nóng của buổi trưa Sài Gòn. Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý trở mình khó khăn khi thấy chúng tôi đến thăm ông. Ông yêu cầu đỡ ông ngồi dậy, thay áo cho ông ra ghế uống trà nói chuyện dù chúng tôi muốn ông cứ nằm nghỉ và trò chuyện. Nhạc sỹ lừng danh Nguyễn Văn Tý, thần tượng của nhiều thế hệ người Việt Nam yêu tình ca, nhạc cách mạng hiện ở trong căn nhà nhỏ, cũ kỹ, tường vôi tróc lở, thiếu thốn tiện nghi ở số 94/19 đường Trần Khát Chân - quận 1 - TP HCM. Nhìn quanh căn nhà, vài chiếc ghế cũ kỹ, bộ ấm chén cọc cạch ố vàng, chiếc đài cát sét han gỉ từ những năm 80. Bên cạnh giường ông nằm là chiếc đàn organ bám bụi, hỏng mất vài phím, có tuổi thọ không dưới 15 năm ông dùng để viết nhạc. Trên tường trơ trọi chiếc đàn tì bà cũ sờn, tróc hết nước sơn đã lâu rồi không cất tiếng vì những ngón tay của ông 5 năm nay không còn nghe lời nhạc sỹ nữa. Ông với chiếc gậy chống ba chân, khó khăn đứng lên, chúng tôi dìu ông ra ghế. Nhạc sỹ nói: "Bác quen rồi, nếu không có ai dìu, để có thể đi từ đây ra nhà vệ sinh, bác phải mất gần 10 phút". Lòng nghẹn đắng, chúng tôi run run khi chạm vào người nhạc sỹ - thần tượng của ông bà, cha mẹ chúng tôi một thời giờ như ngọn nến trước gió, lê đi từng bước nhỏ khó khăn. Trên ban thờ, hai lư hương của hai bà vợ lạnh lẽo. Ông ngồi xuống thở dốc, khó khăn và cười: "Bác không biết các cháu là ai, nhưng thấy có người đến thăm bác mừng lắm. Cả tuần nay bác chẳng trò chuyện với ai. Buồn chỉ nhìn lên ban thờ, lẩm nhẩm tâm sự với hai bà ấy thôi". Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý có hai đời vợ. Bà vợ đầu tiên sống với ông một năm, sinh hạ một con gái thì qua đời. Bà Bạch Lê là vợ thứ hai - em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, mất năm 2004. Năm nay nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý 85 tuổi, tuổi mà người ta đang vui vầy cùng cháu con, hưởng phúc ấm những ngày cuối đời bình lặng. Nhưng hiện ông sống cô đơn lay lắt trong căn nhà lạnh lẽo. Hai lần tai biến mạch máu não khiến nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý bị liệt nửa người. Lần thứ 3 - lần tai biến cuối cùng không biết lúc nào xảy ra với ông khi sức khỏe của ông càng ngày càng yếu. http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/gallery/4781/21_ns18-400.jpg"> Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đi lại phải có chiếc gậy 3 chân và phải có người dìu. Cô giúp việc mà ông coi như con hàng ngày đến đỡ đần ông việc nhà, nấu nướng. Ngồi bên ông, ôm lấy bàn tay run run của ông và nghe thời gian, không gian như dừng lại. Một lúc sau, người nhạc sĩ già nói: "Từ khi bà ấy mất năm 2004, bác sống cô đơn và buồn lắm. Hai năm sau bác bị liệt. Con ở Hà Nội hơn 10 năm mới vào một lần. Đứa ở Sài Gòn thì một tháng đến thăm bác một lần. Nhiều lúc mong thấy các con lắm, nhưng bác biết chúng nó cũng bận bịu, vả lại cũng khó khăn đủ đường. Mỗi lần Tết đến, vào mồng 2, bác đi thăm các con và lì xì cho các con từ số tiền bác cố gắng mỗi tháng để dành ra một ít. Đó là thời gian bác thấy vui nhất. Giống như hồi trẻ thơ vậy, mong Tết về trước cả tháng. Ngày xưa mong Tết vì pháo thơm, vì có quà lì xì của bố mẹ, giờ mong Tết để nhìn thấy nụ cười của con cháu". Chúng tôi hỏi bác sinh sống hàng ngày thế nào, tiền hưu có đủ trang trải cuộc sống, thuốc men không? Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý buồn buồn nói: "Một tháng bác có 3 triệu tiền lương hưu, nhưng phần lớn dùng để mua thuốc trị bệnh. Còn lại vài trăm ngàn để ăn uống sinh hoạt. Rau cháo đạm bạc qua ngày thôi. Bác phải uống nhiều thuốc lắm, toàn thuốc đắt tiền phải tự mua, còn thuốc được cấp ít dùng vì không hiệu quả. Lâu lâu bác lại được người ta trả một ít tiền bản quyền, cũng chả biết có ở đâu để đòi, mà có biết thì cũng làm sao mà đi đòi?". - Thế còn bạn bè có biết bác ốm đau để đến thăm hỏi giúp đỡ bác không ạ? - Chỉ có một người thôi, mỗi tháng qua biếu bác 200 ngàn. Tháng nào quên thì tháng sau biếu bác 400 ngàn. Thỉnh thoảng nhà thơ Đỗ Trung Quân và vài người bạn qua thăm, động viên giúp đỡ bác. Có lúc buồn quá, bác gọi điện cho nhà thơ Đỗ Trung Quân hỏi có chương trình ca nhạc gì hay, dẫn bác đi xem với, bác buồn quá. Bây giờ có người để bác gặp mặt, nói chuyện cũng là niềm hạnh phúc, an ủi lớn với bác rồi. Thấy các cháu qua chơi bác vui lắm. Có người trò chuyện bác thấy khỏe ra. Nhạc sỹ nhìn chúng tôi mắt rưng rưng. Dừng lại một lúc, tay run run cầm tách trà, nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý nói tiếp: - Bác không trách bạn bè vì có nhiều người cũng không biết bác hiện thời ra sao, hoặc xa xôi cách trở, người còn người mất. Có người thành đạt, gia tài đồ sộ như ông Phạm Duy, danh tiếng lẫy lừng bác cũng ngồi đây mừng thay cho bạn thôi. Bác mong họ hạnh phúc, khỏe mạnh và không lâm vào tình trạng như bác. Nhiều khi, bác buồn quá ngồi ngẫm lại những kỷ niệm cũ, với anh em bạn bè, với những người phụ nữ bác từng yêu, thời kháng chiến hào hùng ấm tình đồng đội. Rồi những “Dư âm”, “Người đi xây hồ kẻ gỗ”, “Mẹ yêu con”… vọng về từ đâu đó của ký ức để bác nguôi ngoai". Ông nhìn lên ban thờ và mỉm cười: "Bà ấy đẹp lắm, mặn mà và thanh tao. Những năm bác đi công tác biền biệt, bà ấy (chỉ bà vợ sau - Bạch Lê) phải về ở với mẹ chồng ở Thanh Chương - Nghệ An. Về sau bà ấy kể lại, những khi máy bay địch vần vũ trên bầu trời, bụng mang dạ chửa bà được mẹ bác đỡ lên bè chuối đẩy ra giữa sông để tránh bom. Khi bác về thăm nhà, nghe kể lại mà bác vừa xúc động vừa mừng vì mẹ và vợ mình vẫn an toàn qua cơn bom đạn. Mừng hơn khi bác được làm cha lần thứ hai. Bác không biết diễn tả thế nào cho các cháu hiểu cảm giác khi bác run run vén mùng nhìn đứa con gái bầu bĩnh, mắt to tròn thích thú nhìn bác, đôi môi chúm chím bập bẹ… Những hình ảnh thiêng liêng ấy là dòng suối âm nhạc tuôn trào cho ca khúc “Mẹ yêu con” ra đời. Các cháu chắc cũng từng nghe bài hát đó"
Nguyễn Phúc
Dư Âm
Sáng tác: Nguyễn Văn Tý Ca sĩ : Quang Dũng
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3PPYpVADBs - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3PPYpVADBs
Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời
Anh yêu tiếng hát êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ Muốn nói cùng em đôi lời trìu mến.... Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ
Hẹn em từ muôn kiếp trước Nhớ em mấy thuở bạc đầu Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn Em để cung đàn đưa anh về đâu ?
Dư âm tiếng hát reo lên trong lòng anh bao nhớ nhung Đê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió Đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.
Dáng đứng bến tre
Sáng tác : nguyễn văn Tý
Trình bày : Ca Sĩ Cẩm Ly
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=FAghieArVD - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=FAghieArVD
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Apr/2012 lúc 9:58pm
Gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư
Wednesday, 12th September 2007
Gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư Sáng
hôm nay ( thứ bẩy ngày 14.7.2007) Hoahuyen đi dự sinh hoạt Câu Lạc Bộ
UNESCO Thơ Đường chi nhánh thành phố ************ và bất ngờ được diện
kiến nhà thơ Phạm Thiên Thư "bằng da bằng thịt" ngoài đời thường, vốn là
người ngưỡng mộ ông từ lâu nên hoahuyen rất cảm động được trò chuyện
với nhà thơ PTT, ông thật giản dị và dễ gần... ai ngờ ông là tác giả của
100 khổ thơ " Ðưa Em Tìm Ðộng Vàng" nổi tiếng và các tác phẩm tiêu biểu
đã đọng lại khó phai mờ trong lòng độc giả xa gần như:
http://www.quangduc.com/tho/212donghoavang.html - http://www.quangduc.com/tho/213donghoavang-a.html - http://www.quangduc.com/tho/214emlechuanay.html - http://www.quangduc.com/tho/215vetchimbay.html - - Vết Chim Bay. http://www.quangduc.com/tho/206suoimayhong.html - Riêng
bài thơ " Đưa em tìm động hoa vàng" đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc
trở thành một bài hát nhiều người biết đến nhất làm lên tên tuổi của nhà
thơ http://www.freewebtown.com/hoahuyen04156/gallery/310273/aud-219526.wma - Nhạc Sĩ: Phạm Duy Lời: Phạm Thiên Thư Trình bày: Ngọc Hạ ***
Những bài thơ PTT tặng hoahuyen sáng 14.7.2007
http://inlinethumb29.webshots.com/668/1486068559034323750S600x600Q85.jpg - http://inlinethumb29.webshots.com/668/1486068559034323750S600x600Q85.jpg"> http://inlinethumb29.webshots.com/668/1486068559034323750S600x600Q85.jpg - - Nhân đây Hoahuyen xin được giới thiệu nhà thơ Phạm Thiên Thư qua bài viết của - HÀ THI
http://inlinethumb29.webshots.com/668/1486068559034323750S600x600Q85.jpg - - PHẠM THIÊN THƯ
tên thật Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đình
Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiên Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung
Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang
trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn, TPHCM (1954-
nay)Từ
1964-1973: Tu sĩ PG, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn
quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000:
Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata
(viết tắt chữ Pháp -Thân - Tâm)
Tác phẩm đã in:
Thơ Phạm Thiên Thư (1968); Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương); Động Hoa
Vàng (Thơ) 1971); Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô
Thanh, 1972; Kinh thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú); Quyên
Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ); Kinh Hiếu; Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu)
gồm 12.000 câu lục bát; Ngày xưa người tinh (thơ); Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975. Các nhạc bản: Ngày
Xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu, Em lễ
chùa này, Huyềnthạoi trên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ (Nhạc Phạm
Duy), Như cánh chim nay (Nhạc Cung Tiến), Guốc tía, Đôi mắt thuyền độc
mộc (Nhạc Võ Tá Hân); Độc Huyền (Nhạc Nguyễn Tuấn), Động Hoa vàng (Nhạc
Trần Quang Long).... Tác
phẩm dự định xuất bản: Hát ru lịch sử (Trường ca lục bát); Bốn chục
ngàn câu châm ngôn; Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt - tiếu liệu pháp);
Huyền ngôn tâm bút; Điện cong Phathata dưỡng sinh, Vua núi vua nước
(Sơn Tinh Thủy Tinh)
NHÀ THƠ PHẠM THIÊN THƯ Người thi hoá kinh Phật
Nhà
thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như một đạo sĩ xuống núi, ông trở thành
người rao giảng về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ..., ông đã thi
hóa Kinh Kim Cương Bát - Nhã của Phật giáo. Trong
lịch sử văn học, những nhà thơ Phật giáo, những thiền sư Việt Nam như
Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... đã góp phần
không nhỏ làm phong phú, nâng cao giá trị cho văn học VN với những nét
chấm phá ở mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và lịch sử dân tộc. Bất
ngờ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 1969 "Đoạn Trường Vô Thanh" của
nhà thơ Phạm Thiên Thư với 3254 câu thơ được tác giả viết như là “hậu
Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)” của thi hào Nguyễn Du. Những năm
tiếp theo, Nguyễn Du có Văn Chiêu Hồn thì Phạm Thiên Thư có Chiêu Hồn
Ca. Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu thì Phạm Thiên Thư cũng
có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... Nhà
thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn nhưng cũng đã đóng góp vào văn
học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo:
thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải
thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam VN) vào năm 1971. Một số thơ của ông
được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ
ông: “Em lễ chùa này”, "Ngày Xưa Hoàng Thị", "Động Hoa Vàng", “Gọi Em Là
Đóa Hoa Sầu”.... ... Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say... Ừ, thì mình ngại mưa mau Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi Sông này chảy một dòng thôi Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
... Ta về rũ áo mây trôi Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
... Thì thôi! Tóc ấy phù vân Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
... Mai anh chết dưới cội đào Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu... (Động Hoa Vàng) Thơ
Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc
giả ngẩn ngơ, bất ngờ. Nhân vật chính trong thơ là một ông sư lãng mạn
như những chàng trai mới biết yêu: ...Em làm trang tôn kinh Anh làm nhà sư buồn Đêm đêm buồn tụng đọc Lòng chợt nhớ vương vương Đợi nhau từ mấy thuở Tìm nhau cõi vô thường Anh hóa thân làm mực Cho vừa giấy yêu đương... (Pháp Thân) Tình
yêu trong thơ Phạm Thiên Thư là những cảm xúc thánh thiện, kín đáo với
một chút bẽn lẽn: yêu nhau mà không dám tay trong tay, vì sợ tình sẽ tan
biến thành khói sương: ... Anh trao vội vàng Chùm hoa mới nở Ép vào cuối vở Muôn thuở còn vương...
Thiền tâm biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng: ... Đôi mày là Phượng cất cao đôi môi chín ửng khóe đào rừng mơ tiếng nàng vỡ bạc thành thơ tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
... Dù mai lều cỏ chân trời khói hương lò cũ khóc người trong thơ em còn ửng má đào tơ tóc xưa dù có bây giờ sương bay... Đôi khi tình yêu nồng nàn đến nỗi “con vạc đậu bờ kinh” cũng ghẹo nhà sư ỡm ờ trần tục: ...Hỏi con vạc đậu bờ kinh Cớ sao lận đận cái hình không hư Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ... (Động Hoa Vàng) Thế
giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ
mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Sau 30.4.1975
ông còn thực hiện cuốn Kinh Hồng ca ngợi chế độ mới. Sau đó là một giai
đoạn nhà thơ lui về ở ẩn. Từ năm 1976 đến 1981, Phạm thi sĩ không “lên
non tìm động hoa vàng” như Nguyễn Đức Sơn mà nhà thơ mở quán hớt tóc ở
Lăng Cha Cả. Từ 1981 – 1983 ông bán tạp hoá, rượu thuốc, trà đá… ở đường
Lý Chính Thắng. Sau 1983 Phạm Thiên Thư nghiên cứu về PHATHATA (Pháp,
Thân, Tâm). Tiếp theo đó, ông được bác sĩ – nghệ sĩ Trương Thìn, Viện
trưởng Viện Y học dân tộc mời về cộng tác với Viện. Trong suốt thời gian
này, Phạm Thiên Thư vẫn lai rai cho đăng báo những bài thơ ngắn. Thỉnh
thoảng đôi lần văn thi hữu cũng gặp ông đến dự họp ở Hội Nhà văn TPHCM.
Phạm Thiên Thư thực sự hoà nhập trở lại với văn đàn khi trường ca "Đoạn
Trường Vô Thanh" của ông được tái bản một cách trang trọng! HÀ THI http://blogtiengviet.net/hoahuyen?cat=1243 - - Sưu tầm - Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau Thôi thì thôi đừng ngại mưa mau Đưa nhau ra tới bên cầu nước xuôi Sông này đây chảy một giòng thôi Mấy đầu sông thẫm tóc người cuối sông http://inlinethumb24.webshots.com/3671/1101299543034323750S600x600Q85.jpg - Nhớ xưa em chưa theo chồng Mùa Xuân may áo, áo hồng đào rơi Mùa Thu em mặc áo da trời Sang Đông lại khoác lên người áo hoa Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau Thôi thì em chẳng còn yêu tôi Leo lên cành bưởi khóc người rưng rưng Thôi thì thôi mộ người tà dương Thôi thì thôi nhé... đoạn trường thế thôi Nhớ xưa em rũ tóc thề Nhìn trăng sao nỡ để lời thề bay Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ http://inlinethumb13.webshots.com/3084/1486041658034323750S600x600Q85.jpg"> Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng ngủ say Thôi thì thôi để mặc mây trôi Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan Thôi thì thôi chỉ là phù vân Thôi thì thôi nhé... có ngần ấy thôi Chim ơi, chim dưới cội hoa Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà Mai ta chết dưới cội đào Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu Mai ta chết dưới cội đào Khóc ta xin nhỏ... lệ vào... thiên thu...
http://hoahuyen.vnweblogs.com/print/2407/21495
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Apr/2012 lúc 6:57pm
Mời thưởng thức nhạc
http://www.youtube.com/watch?v=hst6I4Vh0pY&feature=email"> http://www.youtube.com/watch?v=hst6I4Vh0pY&feature=email - - p Nhân Sinh -Thanh Thuy PPS Link : http://www.box.com/s/b331d49c34acdb7f89bc -
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Apr/2012 lúc 11:52am
Phạm Công Thiện
Thần đồng ngôn ngữ, triết
học(1/6/1941 - 8/3/2011) __
Phạm Công
Thiện sinh năm
1941 tại Mỹ Tho (Tiền Giang) . Học vấn của ông là cả một bí ẩn. Tuy chưa bao giờ có một mảnh
bằng Tú tài trong tay nhưng ông đã được nhiều trường Đại học nổi tiếng thế giới
mời giảng dạy, trong đó có trường đại học Yale của Mỹ và Sorbonne của Pháp.
Ở lứa tuổi chưa tới 16, ông đã trở thành cộng tác viên
trẻ nhất của tạp chí Bách Khoa. Năm 15 tuổi, ông đọc thông viết thạo năm ngoại
ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tiếng Phạn và tiếng La
Tinh. Tất cả những điều này đều được chứng nhận qua các vị học giả và các
chuyên gia ngôn ngữ học của nhiều trường Đại học.
Ngoại ngữ là
một chìa khóa giúp ông mở nhiều cánh cửa triết học Tây phương để ông thai nghén
và cho ra đời tác phẩm “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học” được ông viết
khi chưa tới 19 tuổi. Tác phẩm này đã đưa tên tuổi ông trở thành một hiện tượng
mà thời gian ấy người ta gọi là thần đồng Triết học của Việt Nam.
Nhà thơ Viên
Linh, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Khởi Hành, người theo sát với Phạm Công Thiện
từ những năm đầu tiên khi ông xuất hiện cho biết những năm đầu khi ông nổi
tiếng tại Việt Nam:
“Thật ra
Phạm Công Thiện nổi tiếng trước khi đi ngoại quốc. Theo như tôi nhớ Phạm Công
Thiện được Hòa thượng Thích Minh Châu cử đi du học vào năm 1969 vì Phạm Công
Thiện đã nổi tiếng từ năm 1965! Phạm Công Thiện nổi tiếng từ cuốn “Ý thức mới
trong văn nghệ và triết học”, cuốn này in năm 1965 tức là 4 năm trước khi ông
ra nước ngoài.
Tôi còn nhớ
khi ra cuốn sách thì tôi đã có dịp làm việc với Phạm Công Thiện vài tháng vào
năm 1964 khi nhà thơ Nguyễn Vỹ xuất bản nhật báo Dân Ta. Trước đó nhà thơ
Nguyễn Vỹ xuất bản tạp chí Phổ Thông thì Thiện đã viết trên Phổ Thông rồi. Khi
tờ Dân Ta ra đời thì Nguyễn Vỹ nhờ Phạm Công Thiện về cộng tác lúc đó thì chúng
tôi gặp nhau.”
Một kỳ tích
thứ hai của ông là năm 18 tuổi, Phạm Công Thiện được mời giữ chức giảng viên
môn Triết học của Viện Đại học Vạn Hạnh. Sau đó không lâu ông phụ trách soạn
thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Đại học Vạn Hạnh.
Từ năm 1968 - 1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện.
Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng.
Khai phá Thiền Tông Phật
giáo
Thật ra tác
phẩm quan trọng nhất của ông là tập tiểu luận mang tên “Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư
Thiền tông”. Tác phẩm này thật sự mở một cánh cửa cho Phật giáo Việt Nam khai
phá mảnh đất Thiền Tông lúc bấy giờ còn quá mới mẻ đối với người Việt, với hơn
80% theo Phật Giáo. Nhà văn Viên Linh nói về tác động của tác phẩm này đối với
Phật giáo Việt Nam
lúc bấy giờ:
“Một trong
những tác phẩm song song với “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học” là cuốn
“Bồ Đề Lạt Ma, tổ sư của Thiền Tông” in năm 1964. Phật giáo sau khi thay đổi
chế độ thì phong trào Thiền Tông lan tràn khắp nơi từ người lớn cho tới người
trẻ. Phạm Công Thiện tôi gọi là nhóm Vạn Hạnh, hay là những trí thức trẻ xuất
gia, mà lớp đi tu trẻ lúc ấy thì gồm có Phạm Công Thiện, Tuệ Sĩ, Chơn Phát,
Nguyễn Hữu Hiệu, Chơn Hạnh, Trần Vân Tiên, Ni cô Trí Hải và Bùi Giáng. Bùi
Giáng thì nhiều tuổi hơn cả.
Nhóm này
xông vào các tờ báo như tạp chí Tư Tưởng, hay là Giữ Thơm Quê Mẹ của ông Nhất
Hạnh, cũng như những nhà xuất bản, dịch thuật nhiều tác phẩm Phật giáo như
Hessman Hess hay Suzuki. Trong lớp đó thì Phạm Công Thiện và Tuệ Sĩ là hai
người có thể nói là dẫn đầu. tất cả những người này đều rất trẻ lúc ấy chỉ
khoảng 24 -25 tuổi đã đóng góp rất nhiều cho văn hóa Phật Giáo Việt Nam thời kỳ
đó.
Sau khi cuốn
sách đó ra thì nổi lên một phong trào sinh viên đi tìm hiểu những khai phá mới
sau một thời gian dài 9 năm dưới chế độ cũ. Khi thay đổi một chế độ thì chế độ
kế tiếp người ta đi tìm cái gì phản nghịch lại quá khứ hay mở mang những chân
trời mới.
Thiện chỉ là
một thành phần trẻ xung kích lúc ấy chứ đầu não của sự thay đổi văn hóa lúc ấy
là những bậc thầy ở Đại học Vạn Hạnh. Lúc đầu thì có Thượng tọa Nhất Hạnh, giáo
sư Nguyễn Đăng Thục là những người ảnh hưởng nhiều nhất vì trước khi có đại học
Vạn Hạnh thì những tờ báo Phật Giáo lúc ấy từ trường Cao đẳng Phật học ra gồm
ông Nhất Hạnh, Hòa thượng Thanh Từ, Thanh Kiểm là những bậc thầy của Phật giáo
lúc ấy.”
Nhà thơ
Bên cạnh
những tác phẩm nặng về tư tưởng Phạm Công Thiện còn làm thơ và tác phẩm nổi
tiếng khác của ông là “Ngày Sanh Của Rắn” đã được nhà xuất bản An Tiêm ấn hành
lần đầu năm 1966 tại Sài Gòn, tác giả đã từ chối không cho tái bản trong suốt
hơn 20 năm sau đó mà không cho biết lý do.
Tập thơ chia
làm 12 khúc và khúc thứ 8 có lẽ hay và dễ cảm thụ nhất. Bài này đã được phổ
thành ca khúc “Tôi đứng trên đồi mây trổ bông” (Lê Uyên Phương).
Khúc thứ 8
mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi
tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi
thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông
Nhà thơ Viên Linh thì lại tâm đắc với một bài thơ mới sáng tác sau này của Phạm
Công Thiện, tựa bài thơ mang một từ vỏn vẹn là “Đi” mà ông đọc sau đây:
Đã đi rồi đã đi chưa?
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hà phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuẩn hình thiên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Đại huyền biến ngưỡng phiêu tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Áng nga nga nặng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim.
Đây là bài
thơ nói về sự ra đi của chính mình của Phạm Công Thiện. Bài thơ này mới in vào
năm 2009 trong tập thơ mới nhất của anh tên “Trên đỉnh cao tất cả là im lặng.”
Nhận xét về
cá tính của Phạm Công Thiện nhà thơ Viên Linh nói:
“Phạm Công
Thiện là người Mỹ Tho trong nhóm bạn trẻ đó đều là người Bắc và Trung nhưng anh
có tài và là người đa năng nên được rất nhiều người yêu mến. Phạm Công Thiện là
người mang lại sự phát triển cho Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn sau năm 1963.”
Chúng tôi
xin mượn lời của nhà thơ nói về mình như một lời từ giã ông, một nhân tài ngôn
ngữ, tư tưởng và thi ca Việt Nam:
“Cái gì làm
tôi không hiểu nổi, cái ấy làm tôi say sưa yêu dấu.” và:
“Tôi yêu
những gì khó khăn, những gì khô khan, những gì rắc rối. Tôi yêu đọc những quyển
sách khó hiểu và nặng nề. Tôi thích đọc những quyển tiểu thuyết khô khan lượm
thượm dài dòng, tôi ưa những cánh cửa đóng kín, những hàng rào cao.”
Chú
Thích (thêm) :
I. Quan Điểm (của Phạm Công Thiện):
- Phạm Công Thiện không coi mình là một triết gia,
dù mọi người vẫn gọi ông với chức danh đó. Trên ngòi bút của mình, ông đã
phủ nhận tất cả các triết gia: "Ngay đến Heraclite, Parmenide và
Empédocle, bây giờ tao còn xem thường, tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ
phạm của nền văn minh hiện đại, chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu
dại nhất mà ta đã gặp trong đời sống tâm linh của ta". Ông coi những
nghệ sĩ như Goethe, Dante như những thằng hề ngu xuẩn. Và đối với Sartre,
Beauvoir: "Nếu họ muốn xin gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà còn chửi
vào mặt họ". Về thiền tông: "Tao đã gửi thiền tông vào một phong
bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới". Về
dạy học và các văn sĩ cùng thời: thời gian tao học ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học
vì tao thấy những trường đại học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là
nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo sư của tao chỉ là những
thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ hơn là họ dạy tao...Bây giờ nếu
có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao
cũng không nghe theo nữa. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy
cho tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao.
Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự
nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý
thức hay có ý hức: trí thức "mười lăm xu", ái quốc nhân đạo
"ba mươi lăm xu", triết lý tôn giáo "bốn mươi lăm xu".
- Ngoài ra cũng có thể nhắc đến những quan niệm của
ông về tiếng Việt: "Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel
hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử, không cần phải đọc
Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và
nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý
cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như
CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều
đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.”
“
|
Việt là
gì? Tính là gì? Hai câu hỏi này không phải là câu hỏi; tất cả mọi câu hỏi đều
có sẵn mọi câu trả lời. Tính và Việt làm cho những câu hỏi trở thành những
câu hỏi; Tính và Việt là chân trời mở rộng hé mở cho con người nhìn thấy tất
cả những câu hỏi và đồng thời tất cả những câu trả lời, tất cả những gì có thể
hỏi được và đồng thời tất cả những gì có thể trả lời được trên cuộc đời này,
từ thượng cổ đến hiện tại, từ số không đến vô số và vô hạn.
Nước Việt
Nam đang bị tàn phá đến cùng độ, dân Việt Nam bỗng nhiên và tự nhiên được tính
phú cho chịu đựng và thể nhận tất cả nỗi điêu đứng đau đớn cùng cực của thế
kỷ 20; năm chục năm cuối cùng của 2.000 năm sau Thiên chúa giáng sinh là
thuộc về Mệnh của Việt Nam: tất cả những xáo trộn hỗn mang kinh hoàng nhất
của nhân loại đang đập vào người Việt Nam; hố thẳm mở rộng và sâu; máu lửa từ
trời đất đổ xuống và vọt lên; tất cả những khám phá vĩ đại nhất của văn hóa
loài người từ mấy ngàn năm nay bỗng nhiên và tự nhiên được thể nhận tựu hình
tại Việt Nam (Cộng sản và Tư bản; Phật giáo và Thiên chúa giáo, tôn giáo và
chính trị, quốc tế và dân tộc, cơ khí và con người, lý thuyết và hành động,
truyền thống và cách mạng, thiên mạng và nhân mạng, tự do và nô lệ, bạo động
và bất bạo động, chiến tranh và hòa bình, thực tại và ảo tưởng, sự thật và
giả tạo, nhập thế và xuất thế, xã hội và tu viện; cá nhân và quần chúng, lý tưởng
và tuyệt vọng, mộng và thức, sống và chết).
|
”
|
|
- Quan điểm về Triết học và Khoa học:
“
|
Triết lý
là hỏi; triết học là hỏi về hỏi; trong chữ triết khi chiết tự, ta thấy có chữ
khẩu; khẩu là miệng, miệng dùng để nói; nói là hỏi (và trả lời). Không bao
giờ trả lời nếu không ai hỏi. Chỉ trả lời là khi có hỏi đi trước. Triết lý là
hỏi; khoa học là trả lời. Khoa học là gì? Đây là câu hỏi: khoa học không thể
trả lời câu hỏi này, bởi vì đây là câu hỏi về khoa học; mà bản chất của khoa
học là chỉ trả lời; mà trả lời thì chỉ trả lời khi người khác hỏi; khoa học
không thể hỏi khoa học, vì hỏi khoa học là phản bội khoa học, là không phải
khoa học. Phận sự triết lý là hỏi; phận sự khoa học là trả lời. Người ta
thường nói: Hỏi tức là trả lời. Câu ấy có nghĩa là triết lý bao trùm cả khoa
học. Triết lý là bóng tối; khoa học là một ngọn đèn cầy yếu ớt; bóng tối vây
phủ ngọn đèn, nhưng bóng đèn leo lét bắt đầu chiếu rọi ánh sáng yếu ớt lên
không gian. Ánh sáng trả lời bóng tối. Bóng tối kêu gọi ánh sáng; bóng tối
hỏi, ánh sáng liền trả lời. Ánh sáng chỉ là ánh sáng là nhờ vào bóng tối;
ngược lại, bóng tối không thể nhờ vào ánh sáng; vì nếu bóng tối là nhờ vào
ánh sáng thì ánh sáng sẽ phá hủy bóng tối và bóng tối sẽ không còn gọi là
bóng tối nữa. Bóng tối là bóng tối, nhưng ánh sáng chỉ là ánh sáng là nhờ
bóng tối; mặt trời chỉ là mặt trời là nhờ nằm trong không gian đen tối vô
tận.
Triết lý
là hỏi.
Triết học
là hỏi về hỏi.
Khoa học
là trả lời câu hỏi của triết lý, nhưng không thể trả lời về câu hỏi về câu
hỏi; vì nếu trả lời về câu hỏi về câu hỏi, thì sẽ bị triết lý hỏi về câu trả
lời của khoa học về câu hỏi về câu hỏi; lúc bấy giờ khoa học lại trả lời nữa;
nhưng câu trả lời này lại bị hỏi nữa. Cứ như thế mà đi mãi, từ hỏi đến trả
lời, từ trả lời đến hỏi, cho đến vô tận, vô cùng không bao giờ dứt được, áp
dụng infinitum.
Như thế cả
triết lý và khoa học đều rơi vào ngõ cụt, ngõ bí, không lối thoát.
|
”
|
II. Tác phẩm (của Phạm Công Thiện):
Thơ, văn, tiểu luận
- Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, tổ sư Thiền tông (1964)
- Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965)
- Ngày sinh của rắn (1967)
- Trời tháng Tư (1966)
- Im lặng hố thẳm (1967)
- Hố thẳm của tư tưởng (1967)
- Mặt Trời không bao giờ có thực (1967)
- Bay đi những cơn Mưa Phùn (1970)
- Ý thức bùng vỡ (1970)
- Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)
- Sự chuyển động toàn diện của tâm thức trong tư
tưởng Phật Giáo (1994)
- Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng
- Triết lý Việt Nam về sự vượt biên (1995)
- Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ Tát sáng rực
khắp bốn phương Trời (1998)
- Tinh tuý trong sáng của đạo lý Phật Giáo (1998)
- Trên tất cả đỉnh cao là Im Lặng
- Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử
- Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết học là
gì?
- Ðối mặt với 1000 năm cô đơn của Nietzche.
Dịch
- Jiddu Krishnamurti, Tự do đầu tiên và cuối cùng
(1968)
- Martin Heidegger, Về thể tính của chân lý (1968)
- Martin Heidegger, Triết lý là gì? (1969)
- Friedrich Nietzsche, Tôi là ai? Đây là người mà
chúng ta mong đợi! (1969)
- Nikos Kazantzakis, Rèn luyện tâm thuật huyền linh
(1991)
Theo
Nguyễn Hưng Quốc:
" .....Điều đặc biệt là sự ngưỡng mộ của nhiều người đối với Phạm Công
Thiện không hề chấm hết sau năm 1975. Ở hải ngoại, nhiều người vẫn tiếp tục đọc
Phạm Công Thiện, đã đành. Ở trong nước, nhiều người, đặc biệt trong giới cầm
bút, vẫn tiếp tục say mê Phạm Công Thiện. Trong những lần về Hà Nội, chuyện trò
với bạn bè, một trong những điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là có khá nhiều nhà
văn và nhà thơ ở miền Bắc cũng đọc Phạm Công Thiện rất kỹ. Và thích. Họ nhắc
đến Phạm Công Thiện với một sự ngưỡng mộ không hề che giấu. Nhớ, có lần, một
nhà thơ ở Hà Nội nói với tôi: Một tài năng và nhân cách kiểu như Phạm Công
Thiện không hề có và không thể có ở miền Bắc. Trong cả tài năng lẫn nhân cách
của ông đều có cái gì ngang tàng, phóng đãng, bạt mạng, bay bổng, vượt ra ngoài
mọi khuôn phép và quy ước của xã hội, những điều hoàn toàn bị cấm kỵ dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Trong giới
cầm bút ở Sài Gòn hiện nay, sự ngưỡng mộ đối với Phạm Công Thiện lại càng rõ.
Theo kinh nghiệm của tôi, từ những cuộc tán gẫu về văn nghệ với bạn bè ở Sài
Gòn, nhắc đến bất cứ một tên tuổi nào trước 1975, ý kiến mỗi người mỗi khác;
chỉ duy nhắc đến Phạm Công Thiện là dễ được mọi người đồng tình với nhau nhất.
Đồng tình về sự uyên bác của ông. Đồng tình về cái tính nghệ sĩ hiếm có của ông.
Tuy nhiên,
điều tôi chú ý và muốn nhấn mạnh nhất là: sự ngưỡng mộ giành cho Phạm Công
Thiện kéo dài khá nhiều thế hệ. Những người đã trưởng thành trước 1975 ngưỡng
mộ ông ư? Thì cũng dễ hiểu. Cả những người trưởng thành sau 1975, trong một
hoàn cảnh lịch sử và khí quyển văn hóa hoàn toàn khác trước, vẫn say mê và đánh
giá rất cao Phạm Công Thiện.
Trong loạt
bài tưởng niệm Phạm Công Thiện trên Tiền Vệ mới đây, chúng ta bắt gặp nhiều lời
phát biểu đầy ưu ái dành cho Phạm Công Thiện. Như, nhà thơ Inrasara (sinh năm
1957), trong bài “Chớp lửa thiêng Phạm Công Thiện & tuổi trẻ tôi”: “Tôi tin
tưởng vào thiên tài. Với tôi, Phạm Công Thiện là thiên tài.” Hay, như nhà thơ
Nguyễn Quốc Chánh (sinh năm 1958), trong bài “Cái rực rỡ của tuyệt vọng”:
“Trong tưởng tượng của tôi, nếu chọn 10 tác giả của Sài Gòn trước 1975, trong
số đó sẽ có Phạm Công Thiện. Còn nếu chọn 5, trong số đó vẫn có Phạm Công
Thiện. Và nếu chỉ chọn một, thì người đó, dĩ nhiên là Phạm Công Thiện.”
Trong bài thơ “Những con đường và cơn mưa phùn tháng ba”, viết khi nghe tin
Phạm Công Thiện qua đời, nhà thơ Khương Hà (sinh năm 1985) mở đầu bằng mấy câu:
em đừng nói
với tôi về rừng
buổi chiều hình như đã mưa
cơn mưa phùn mãi mãi ở lại chứ không bay đi như cơn mưa phùn của Thiện
em cũng đừng nói với tôi về mặt trời
vốn không bao giờ có thực
Tôi chú ý
đến mấy chữ “Cơn mưa phùn của Thiện”.
Tôi đã nghe
khá nhiều nhà thơ trẻ ở Sài Gòn, thuộc lứa tuổi của Khương Hà (sinh sau năm
1980), mỗi lần nhắc đến Phạm Công Thiện đều chỉ nói “Thiện” như thế. Không có
họ, không có tên đệm gì cả. Chỉ “Thiện” thôi.
Lúc đầu,
thoạt nghe, thú thật, tôi hơi có chút ngỡ ngàng. Nhưng sau, ngẫm lại, lại thấy
hay. Nó có cái gì gần gũi, thân mật và thân thiết lạ lùng. Một sự gần gũi, thân
mật và thân thiết, thứ nhất, có tính xuyên-thế hệ, và thứ hai, không hề có ở
bất cứ một người cầm bút nào khác. Không ai gọi Nguyễn Tuân là “Tuân”, Mai Thảo
là “Thảo”, Thanh Tâm Tuyền là “Tuyền”, Trần Dần là “Dần”… như vậy.
Chỉ có Phạm
Công Thiện.
Một mình
Phạm Công Thiện."
Nhà Thơ, nhà
nghiên cứu Triết học, Giảng sư về Thiền tông Phạm Công Thiện qua đời hôm 8/3/2011
tại Thành Phố Houston, Texas, hưởng thọ 71 tuổi. .......................................................................................................................................................................................................
Thơ: Phạm Công
Thiện Nhà thơ Phạm công Thiện, thời trẻ, có lúc
tu tại một Phật Viện Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại
mấy hôm, khi về Chùa, anh có thơ :
Mưa chiều thứ bảy, tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc thường đọc cho chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng
chưng hửng khi nghe Phạm Công Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng
Pháp :
Je suis le Retour
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã hiểu chung chung : thứ bảy là trước chủ nhật, cây khế là cây khế,
ngọn đồi là ngọn đồi, nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội hàm câu thơ không
phải chỉ có vậy.
(Nguồn: Đặng Tiến)
(Internet)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Apr/2012 lúc 12:05pm
http://www.youtube.com/watch?v=dmbRX6p7WOA&feature=email - - Bài thơ Khúc thứ 8 do Lê Uyên Phương phổ nhạc có tên Tôi đứng trên đồi mây trổ bông, ( Giọng hát của anh Lê Văn Lộc trong cặp đôi Lê Uyên Phương)
Click : http://www.youtube.com/watch?v=dmbRX6p7WOA&feature=email - -
http://www.youtube.com/watch?v=dmbRX6p7WOA&feature=email - Toi Dung Tren Doi May Tro Bong -Pham Cong Thien -Le Uuyen Phuong -NNS (HD)
PPS Link : http://www.box.com/s/962c7ea93968087fe09c - http://www.box.com/s/962c7ea93968087fe09c
New Version : http://www.box.com/s/962c7ea93968087fe09c - http://www.box.com/s/962c7ea93968087fe09c
Lê Uyên Phương (1941 – 1999)
Quê Dalat, là một trong những Nhạc sĩ lớn của dòng nhạc miền Nam Việt Nam trước 1975.
Ông tên thật là Lê Văn Lập. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tằng Tôn Nữ Phương
Nhi, ông lấy chữ Phương trong tên của Mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ
Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, ông ghép thành nghệ danh Lê Uyên
Phương.
Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh năm 1968 và hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Vì
Lâm Phúc Anh không muốn dùng tên thật nên lấy nghệ danh là Lê Uyên, cắt từ chữ Lê Uyên Phương. Hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương.
Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với Buồn
đến bao giờ. Những năm đầu thập niên 70, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên
và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm
Chiến tranh khốc liệt nhất của cuộc,
Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng
bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt.Ông đã
viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta...
Năm
1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam
California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My . Sau
15 năm chung sống, cuộc hôn nhân của hai người tan vỡ.
Ông mất ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine), vì bệnh ung thư phổi.
(INTERNET)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/May/2012 lúc 6:31pm
Những bóng hồng trong thơ nhạc
Chiều nay sương khói lên
khơi...
Trong những ca khúc đầy tâm trạng hoài hương, mang nỗi buồn man
mác như: Làng tôi (Chung Quân), Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương), Quê
mẹ (Thu Hồ), Làng tôi (Văn Cao), Ngày về (Hoàng Giác)... thì
Thuyền viễn xứ của Phạm Duy dù có buồn nhưng giai điệu khác hẳn: lạ hơn, sang
trọng hơn...
Bạn thân của tôi, nhà báo Trần Thanh Bình, có một giọng hát khá
tốt cho nên trong những lúc ngà ngà cuộc bia thường được đề nghị hát giúp vui
(không đề nghị... cũng hát), và hầu như lúc nào anh cũng cất lên: “Chiều nay
sương khói lên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời.
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt
bến lau thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn
về...”(Thuyền viễn xứ). Giọng hát nghiệp dư của Trần Thanh Bình chỉ cỡ đó,
nhưng cũng đủ làm xuyến xao tâm hồn người nghe, nói chi được thưởng thức tiếng
hát của những danh ca như Thái Thanh, Sĩ Phú.
Bìa bản nhạc Thuyền viễn xứ - Ảnh: H.Đ.N
|
Thế nhưng, nhiều người chỉ biết Thuyền viễn xứ là của Phạm
Duy chứ chẳng mấy ai để ý rằng đây là một ca khúc phổ nhạc, dù trên bìa bản
nhạc (thời đó, từ đầu thập niên 1940 cho đến 1954 trong toàn quốc, cả Cao Miên,
và từ 1954 đến 1975 ở miền Nam, những bản nhạc được xuất bản dưới hình thức in
rời bằng giấy cứng khổ lớn in 2 mặt, gấp lại ở giữa), Thuyền viễn xứ được cả
hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu ấn hành đều ghi rõ: nhạc: Phạm Duy, thơ:
Huyền Chi.
Huyền Chi là bút danh của Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934 tại Từ
Sơn (Bắc Ninh), theo gia đình vào Nam từ trước năm 1954. Lúc mới vào Nam
(1948-1949), cô ở với chị gái tại Đà Lạt, sau đó về Sài Gòn (1950) vừa đi học
vừa phụ mẹ trông nom sạp vải ở chợ Bến Thành. Bài thơ Thuyền viễn xứ là một
trong 22 bài thơ nằm trong tập thơ Cởi mở của Huyền Chi xuất bản năm 1952,
trong thời gian cô sinh hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa
soạn chuyên trách mục thơ cho Tạp chí Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương. Và
đây là nguyên văn bài thơ Thuyền viễn xứ, mà tác giả là một cô gái 18
tuổi:
Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường... lại đi...
Nhà thơ Huyền Chi năm 18 tuổi - Ảnh: tư liệu
|
Tuy lời thơ có vẻ... cổ phong (vốn là chuẩn mực vào thời đó) nhưng
vẫn toát lên một nỗi buồn man mác. Bố cục bài thơ cũng rất “chắc tay”, hồn thơ
tinh tế. Tập thơ vừa in xong tại nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo thì
tình cờ Huyền Chi gặp nhạc sĩ Phạm Duy khi ông đến thăm bà Đào (chủ nhà in). Cô
ký tặng nhạc sĩ tập thơ Cởi mở. Cũng nghĩ là chút duyên văn nghệ thế thôi, bởi
đó là lần gặp gỡ duy nhất giữa hai người. Vậy mà người được tặng tập thơ đã
chọn một bài thơ lục bát rất... truyền thống trong tập thơ ấy để phổ thành ca
khúc. Điều đáng nói là nhạc sĩ Phạm Duy đã trổ tài “phù thủy” khiến trong ca
khúc phổ thơ của ông, khó ai tìm thấy bóng dáng của thể loại lục bát. Đã vậy,
đoạn giữa được chuyển qua âm giai trưởng nghe vừa xa vắng, vừa rạo rực mênh
mang: “Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi. Đời nhịp sầu lỡ bước, Bước hoang mang
rồi. Quay lại hướng làng, Đà Giang lệ ướt nồng. Mẹ già ngồi im bóng. Mái tuyết
sương mong con bạc lòng...”.
Trong quyển Hồi ký Phạm Duy (tập 3, ấn bản 2008), tác giả
viết: “Gần hai năm đã trôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền
Bắc vào miền Nam, lo ổn định nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài
Gòn... Vào thời điểm này (trước cuộc di cư 1954), Huyền Chi, một cô em bán vải
ở chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ nhạc bài thơ nhan đề Thuyền viễn xứ. Bài thơ
này nói lên tâm trạng một người Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để vào sinh
sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong bài thơ nhớ miền viễn xứ, trong tôi lại nổi
dậy sự viễn mơ của bài Bên cầu biên giới năm xưa, tôi bèn soạn bài Viễn du...”.
Huyền Chi lập gia đình với giáo sư Trần Phụng Tường vào năm 1954,
và theo chồng ra Phan Thiết, nơi ông đang dạy Pháp văn ở Trường trung học Phan
Bội Châu. Ở đây bà mở hiệu sách Bút Hoa và dạy Anh văn.
Nguyễn Phước Thị Liên, một cựu học sinh của Trường trung học Phan
Bội Châu, đã “vẽ lại” chân dung của Huyền Chi như sau: “Huyền Chi là một phụ nữ
đẹp, tài sắc vẹn toàn. Cô có nước da trắng khỏe, dáng người cao, gương mặt
tươi, miệng cười hiền hậu dễ mến, tà áo dài màu thiên thanh đài các trong những
chiều lộng gió, khi thầy cô sánh vai giữa thành phố Phan Thiết, đã làm xao
xuyến bao tâm hồn nữ sinh lúc bấy giờ...” (Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng
12.2011).
Sau 1975, gia đình bà Huyền Chi chuyển vào Sài Gòn. Bà hiện vẫn
còn sống tại đây, còn chồng bà - ông Trần Phụng Tường mất năm 2010. Trong 7
người con của hai ông bà có 4 người hiện ở Việt Nam, 3 người ở nước ngoài. Chắc
chắn những người con ở xa quê này cũng sẽ có tâm trạng như mẹ của mình vào hơn
nửa thế kỷ trước, khi: “Chiều nay gửi tới quê xưa. Biết là bao thương nhớ cho
vừa. Trời cao chìm rơi xuống đời. Biết là bao sầu trên xứ người. Mịt mờ sương
khói lên hương. Lũ thùy dương rủ bóng ven sông. Chiều nay trên bến muôn phương.
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường...” (Thuyền viễn xứ).
Hà
Đình Nguyên
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120413/nhung-bong-hong-trong-tho-nhac-ky-10-chieu-nay-suong-khoi-len-khoi.aspx
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Apr/2013 lúc 12:20am
Về đâu áo lụa Hà Đông ? “Nắng
Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…”. Lụa Hà Đông
nức tiếng xa gần chính là lụa được dệt nên tại làng Vạn Phúc(Hà Đông-Hà
Nội.
Có
tuổi đời gần 1.000 năm, lụa Vạn Phúc có đặc điểm mềm, mỏng, nhẹ, thoáng
mát nhưng không rạn, nhăn; qua thời gian màu không phai, hoa văn vẫn
sắc nét, sợi lụa không bị xê dịch. Bởi vậy,
lụa Vạn Phúc xưa kia chỉ dành để may y phục cho vua chúa và các gia
đình quan lại quyền quý.
Hiện nay làng Vạn Phúc còn rất ít người
dệt lụa. Đáng kể nhất là xưởng dệt lớn của nghệ nhân Triệu Văn Mão và
một xưởng nhỏ của phường lụa Vạn Phúc. Trước kia làng lụa Vạn Phúc cũng
trồng dâu nuôi tằm kéo tơ nhưng hiện nay bà con đã bỏ hẳn công đoạn tự
sản xuất tơ vì việc trồng dâu phụ thuộc rất nhiều vào mùa vụ, không đáp
ứng được nhu cầu sản xuất. Nguồn tơ bây giờ chủ yếu
được thu mua từ các làng nghề chuyên trồng dâu nuôi tằm ở các tỉnh lân
cận. Hình ảnh những dải lụa dài nhiều màu sắc được căng ra phơi dọc theo
dòng sông Nhuệ cũng đã lùi vào quá khứ. Toàn bộ các công đoạn dệt, sấy,
hấp, phơi đều được thực hiện bằng máy móc ngay trong xưởng dệt. Hình
ảnh những người phụ nữ cần mẫn ngồi quay tơ dệt lụa thủ công lùi sâu vào
dĩ vãng. Chỉ khi đi sâu vào bên trong làng, người ta mới có thể tìm
thấy những guồng quay tơ thủ công mà nhiều gia đình làng lụa còn lưu giữ
như một kỷ niệm đáng tự hào.
Điều đáng buồn là hiện nay không
ít chủ cửa hàng trong làng dùng lụa Trung Quốc để làm giả lụa Vạn Phúc.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín lụa Vạn Phúc. Một nghệ nhân lâu
năm tâm sự,
lụa giả ồ ạt chiếm thị trường khiến cho hàng thật khó cạnh tranh về mặt
giá cả. Hiện nay, giá bán lụa 100% tơ tằm truyền thống khoảng 350.000
đồng/m, lụa 70% tơ tằm giá khoảng 120.000 đồng/m.
Chẳng biết
những gia đình dệt lụa cuối cùng của làng lụa Vạn Phúc còn duy trì được
tới đâu, sợ rằng nay mai đây lụa Hà Đông cũng chỉ còn tồn tại trên thi
ca, sách vở.
Một số hình ảnh làng lụa Vạn Phúc:
Cổng làng được làm mới với những đường cong trên mái thay thế cho khung thép
tạm
bợ đã nhiều năm
Không gian yên tĩnh của nơi thờ Tổ nghề
Tơ được mua từ các tỉnh lân cận
Việc
cuốn tơ vào con thoi cũng được thực hiện ngay trên giàn cửi. Mỗi một
lõi tơ này khi lắp vào con thoi sẽ dệt được một gang tay lụa với khổ
ngang 1m.
Con thoi đã được hiện đại hóa để phù hợp với khung cửi chạy bằng động cơ điện
Các hoa văn trên lụa được tạo nên từ những mẫu như thế này
Để ra được một khổ lụa, những người thợ lành nghề phải căng lên khung dệt đến 8.000 sợi tơ
Công việc căng rồi luồn 8.000 sợi tơ như vậy qua một dàn kim tiêu tốn mất 3 ngày làm liên tục
Tuy
đã được cơ giới hóa nhưng máy móc không thể thay thế hoàn toàn những
bàn tay khéo léo của nghệ nhân sửa từng đường tơ rối khi dệt
Hoa văn tinh tế và sắc sảo trên lụa Hà Đông
Sản phẩm khăn được dệt từ chất liệu đũi, rất nhẹ và thoáng mát
Lụa
Hà Đông còn được dùng để tạo nên các sản phẩm bình dân như ví lụa thổ
cẩm, túi xách, khăn cho giới trẻ, khăn cho người trung niên…
Những ngày cuối tuần, ngoài những đoàn khách trong nước còn có một lượng lớn khách quốc tế đến thăm và mua lụa về làm quà
Phố lụa san sát, không hiếm những cửa hàng dùng lụa Trung Quốc để giả lụa Hà Đông
Cách duy nhất để phân biệt lụa Trung Quốc và lụa Hà Đông là xem dấu hiệu trên mép cuộn lụa ***
Áo Lụa Hà Đông Tác giả: http://poem.tkaraoke.com/10021/Nguyen_Sa/ - Nguyên Sa Trần Bích Lan Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn mà mua thu dài lắm ở chung quanh linh hồn anh vội vã vẽ chân dung bay vội vã vào trong hồn mở cửa
gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn thơ học trò anh chất lại thành non và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
em không nói đã nghe từng gia điệu em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh anh trông lên bằng đôi mắt chung tình với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu nhưng sao đi mà không bảo gì nhau để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại giận thơ anh đã
nói chẳng nên lời em đi rồi, sám hối chạy trên môi những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng ***
Mời
quý Đồng Hương và Thân Hữu thưởng thức bài Áo Lụa Hà Đông, thơ của cố
thi sĩ Nguyên Sa, Ngô Thụy Miên phổ nhạc, Vũ Khanh hát. http://www.youtube.com/watch?v=ZEGEmDTPI98 - http://www.youtube.com/watch?v=ZEGEmDTPI98
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jul/2013 lúc 7:14pm
Từ Hoa sứ nhà nàng đến nhạc Gò Công
29/07/2013 - 04:40
Nhiều người dân Gò Công vẫn hát Hoa sứ nhà nàng mà
không hề biết tác giả của nó chính là ông thợ sửa đồng hồ phố huyện.
Tôi còn nhớ, năm
1986, băng nhạc Gò Công nổi lên như một hiện tượng của cả nước. Khắp
trong Nam ngoài Bắc, mọi người đổ xô nhau tìm băng c***ette nhạc Gò Công
của nhạc sĩ Hoàng Phương. Có người nhận xét băng nhạc này dường như có
chất của nhạc Trầm Tử Thiêng hay có một chút gì đó giống nhạc của Trúc
Phương… Nhưng không, nhạc Gò Công là dòng nhạc của xứ biển Gò Công không
thể lẫn vào đâu.
Chỉ biết nhạc Gò Công, không biết tác giả Tôi về biển Tân Thành (Gò Công Đông, tỉnh Tiền
Giang), trong luồng gió chướng mát lạnh. Bãi nghêu mênh mang, dòng người
tấp nập đi ra biển. Văng vẳng bên quán cóc ven đường là khúc nhạc Gò
Công - Chuyện tình hoa muống biển. Thời cực thịnh, nhạc Gò Công
được mở khắp nơi, băng c***ette bán rất chạy nhưng toàn băng sang lại
(sao chép) nên chẳng ai trả tiền tác quyền cho nhạc sĩ. Nhưng nhạc sĩ
Hoàng Phương không buồn, anh vẫn liên tục sáng tác những khúc ca ca ngợi
quê hương mình. địa danh Gò Công nhờ vậy trở nên nổi tiếng, được mọi
người biết đến.
Các bài hát của anh được viết trên nền nhạc Boléro,
đơn giản, êm dịu và rất dễ hát. Bàng bạc trong nhạc Hoàng Phương ta luôn
nghe thấy tiếng sóng biển rì rào, tiếng sóng như lời ru của mẹ mà anh
đã được nghe từ thuở còn nằm nôi và kỷ niệm tuổi thơ, những ngày nô đùa
cùng bạn bè trên bãi biển. Tình yêu quê hương đầy ắp, trong sáng, Boléro
Gò Công của Hoàng Phương là như vậy.
Nguyên gốc bài Hoa sứ nhà nàng.
Tôi hỏi nhiều người dân Gò Công về anh nhưng họ chẳng
biết ông Hoàng Phương nào cả, chỉ biết nhạc Gò Công thôi. Tôi phải vào
Phòng Văn hóa-Thông tin huyện thì ở đây cho biết Hoàng Phương mất năm
2002, hiện còn một người con công tác ở huyện Gò Công Tây.
Cuối cùng tôi cũng tìm được anh Nguyễn Hoàng Tùng, sinh năm 1966, là con cả của nhạc sĩ. Anh cho biết đôi nét về cha của mình.
Thân thế người nhạc sĩ
Hoàng Phương tên thật là Nguyễn Kim Hoàng, sinh năm
1943. Ông nội ông là Nguyễn Kim Ngọc - Hương sư Ngọc, ở xã Long Bình,
huyện Gò Công Tây. Cha ông là Nguyễn Kim Trọng về lập nghiệp tại xã Tân
Thành, Gò Công Đông. Ông sinh ra ở xóm Cầu Muống, xã Tân Thành, cách thị
xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang khoảng 17 km, cách bãi tắm biển Tân Thành
chỉ 2 km. Lớn lên, ông học Trường Trung học Trương Công Định ở thị xã Gò
Công. Những năm vào trung học, ông đam mê âm nhạc, tự học đàn violon và
organ. Năm 12 tuổi, ông tìm đến nhạc sĩ Lê Dinh, lúc đó là thầy dạy
nhạc ở Trường nam Tiểu học Gò Công để học nâng cao. Hết lớp đệ nhị (nay
là lớp 11), ông ôm đàn về nhà, bỏ học.
Lúc nhỏ, nhạc sĩ Hoàng Phương bị một cái mụn mạch
lươn ở mắt cá nên bị rút gân, chân đi khập khiễng. “Tái ông thất mã”,
nhờ chân bị tật nên ông cũng không bị bắt đi lính, chuyên tâm học thêm
đàn guitar, rồi học thêm nghề sửa đồng hồ của cha và nghề thợ bạc để
kiếm sống. Năm 1968, ông lên Sài Gòn tham gia ban nhạc cùng Vinh Sử,
Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. nhạc phẩm đầu tay của ông là tác phẩm Hoa sứ nhà nàng cũng được sáng tác vào năm này.
Hoàng Tùng với cây đàn ghi ta kỷ vật của cha.
Sau thành công của Hoa sứ nhà nàng, ông cho ra đời một loạt tác phẩm: Mùa
nhạn trắng, Tìm em quán phượng, Đàn thương cô quán trong làng, Anh về
đẹp tình quê hương, Nhớ em, Sông quê tình nhớ, Căn nhà mộng ước… Tuy nhiên, người ta chỉ nhớ nhất bài Hoa sứ nhà nàng, dường như Vinh Sử và Lê Hựu Hà đã lấn át Hoàng Phương…
Sau 1975, Hoàng Phương về Gò Công mở tiệm sửa đồng
hồ. Năm 1985, ông tích lũy ít vốn mở được tiệm vàng Toàn Tân. Nghiệp
nghệ sĩ tưởng chừng như đã chấm dứt.
Trở lại từ Hoa sứ nhà nàng
Tôi thắc mắc, ngọn lửa nghệ sĩ đã tắt lịm trong ông
11 năm, vì sao đùng một cái năm 1986 Hoàng Phương sáng tác một mạch gần
20 bài và nổi lên thành hiện tượng “nhạc Gò Công”? Anh Hoàng Tùng cười:
“Năm 1986, khi Bộ Văn hóa cho lưu hành bài hát Hoa sứ nhà nàng của
cha tôi trên các phương tiện thông tin đại chúng, ông sướng run người.
11 năm người ta lên án nhạc vàng, đến nỗi ông không dám cầm đàn, không
dám khoe mình là nhạc sĩ. Bây giờ, bài hát của ông đã được Nhà nước công
nhận. Cảm ơn làn gió đổi mới, tối ngày cha tôi ôm đàn, ghi ghi chép
chép… rồi bày ra cha con hát với nhau!”.
Hoàng Phương và người vợ đầu. Ảnh trong bài: NN
Năm đó, ông sáng tác không mệt mỏi, hàng loạt bài hát về quê hương Tiền Giang: Trưa
hè trên bãi biển, Chung một dòng sông, Gò Công hồng trang sử, Biển
thức, Về nông trường Phú Đông, Tiếng chim mùa xuân, Nhà em đó bên kia
sông, Biển Gò Công khi em đến, Chiều xuân qua thị trấn Gò Công, Ánh mắt
quê hương, Khung trời quê, Khúc Cachiusa hát ở bên sông Tiền, Mỹ Tho
thành phố cội nguồn, Mẹ Gò Công, Biển tím, Khung trời quê...
Hoàng Tùng nhớ lại: “Cha tôi bỏ hết công việc làm ăn
để lao vào sáng tác. Ông còn liên hệ với Phòng Văn hóa-Thông tin huyện
dàn dựng biểu diễn các bài hát của ông cho công chúng Gò Công thưởng
thức. Nhưng rồi cũng chẳng ai thèm nhớ. Lúc này cha tôi mới hiểu ra,
mình không phải là nhạc sĩ hòa âm, phối khí nên dàn dựng nghe dở òm. Thế
là ông gom tiền nong, lặn lội lên Sài Gòn tìm nhạc sĩ Quốc Dũng và Lê
Hựu Hà. Họ phối khí hòa âm xong thì ca sĩ Bảo Yến (vợ Quốc Dũng) hát
thử. Thấy hay thế là thu băng c***ette. Vậy là người ta ùn ùn đi tìm
băng nhạc Gò Công”.
Trở về với biển
Sau năm 1986, Hoàng Phương tiếp tục cho ra đời các bài hát về quê hương và trở nên quen thuộc với không ít người yêu nhạc như: Hương sơ ri, Đôi
mắt quê hương, Chiếc cầu chiều mưa, Nỗi sầu tương tư, Chiếc thuyền từ
ly, Hẹn em bên cửa sông Tiền, Nhớ biển Gò Công, Xa rồi Gò Công, Chuyến
xe Tiền Giang. Hoàng Phương cũng đã cùng với con trai là Hoàng Tùng cho ra đời bài Ao nhà ao bên.
Như hầu hết các ca khúc khác, ông vẫn dành cho tình
yêu lứa đôi những giai điệu mượt mà hơn. Những chuyện tình dang dở,
những mối tình quê, đậm đà, chân chất như chính những con người quê ông:
thật thà, mặn nồng, chung thủy. Ở góc độ khác, nhạc Hoàng Phương là
nhạc biển quê ông. Quê hương Hoàng Phương có hoa sứ, có sơ ri, có hoa
muống biển, có con dã tràng… không lẫn vào đâu được. Có lẽ vì thế mà
nhạc của ông đã đi vào lòng rất nhiều người yêu nhạc ở miền Nam thời đó
và cho đến cả bây giờ.
Hoàng Phương hào sảng và mê đắm, ông sống đời nghệ sĩ
đúng nghĩa, tất cả cho nhạc phẩm. Có thể nói Hoàng Phương là nhạc sĩ
đầu tiên ở Tiền Giang dám bỏ tiền sản xuất băng c***ette gồm những ca
khúc về tình yêu và vùng đất Gò Công. Trong cuộc đời ông, nghệ thuật
không song hành với kinh tế. Về cuối đời, hai tiệm vàng lần lượt mất đi,
cuộc sống mỗi ngày càng trở lên cơ cực, ông lên Sài Gòn tìm đến các
trung tâm băng nhạc để kiếm sống nhưng cũng không vực dậy được kinh tế.
Năm 2002, ông lâm bệnh nặng.
Ngày 14-8-2002, nhạc sĩ Hoàng Phương đã đi về với biển. Tôi trở lại biển Tân Thành vẫn nghe tiếng hát vọng về: “Mùa xuân không về phố bao giờ!”.
NGUYỄN NGỌC
------------- mk
|
Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 05/Aug/2013 lúc 9:32pm
Vài kỷ niệm với nhạc sĩ Hoàng Phương và băng nhạc Gò Công
Đăng lúc: Thứ hai - 22/07/2013 10:03
Anh sinh năm 1943, tuổi Mùi, lớn hơn tôi một con giáp. Chúng tôi quen
biết nhau từ năm 1976 nhờ vào mối duyên yêu thích văn nghệ. Lúc ấy, tôi
đang thất nghiệp. Biết tôi có ý muốn học nghề sửa đồng hồ nên anh nhận
tôi làm “đệ tử”, dạy không lấy tiền tại tiệm sửa đồng hồ của anh nằm
trên đường Hai Bà Trưng (gần chợ Gò Công cũ).
Anh
bị khuyết tật một bên chân từ bé nên bước đi hơi khập khiễng, nhưng
không vì thế làm mất đi nét nghệ sĩ trời phú cho anh. Mới giải phóng,
hầu hết mọi người đều ăn mặc giản dị, riêng anh lại luôn nổi bật trước
đám đông, không thể lẫn với ai được: Mái tóc để dài, luôn diện chiếc áo
dài tay màu chói hoặc có hoa văn, thơm phức mùi nước hoa và lúc nào áo
cũng bỏ vô quần. Với cách ăn mặc như thế, có người sẽ cho là không hợp
thời, là lập dị; có người lại cho là hợp với nét nghệ sĩ tính của anh.
Riêng với tôi thì sao cũng được, anh “Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng… anh”.
Mình sống vừa lòng với chính mình là tốt lắm rồi! Anh học xong
“đệ nhất cấp” (lớp 9) thì chuyển sang học nghề sửa đồng hồ của cha và
sau đó học thêm nghề thợ bạc. Anh có tiếng và “phất” lên từ hai nghề
này. Đồng thời, do có sẵn máu đam mê âm nhạc nên anh quyết tâm vừa tự
học, vừa “tìm thầy học đạo”. Nhạc sĩ Lê Dinh, Trúc Phương, Châu Kỳ là
những người thầy đầu tiên định hướng cho anh đi theo con đường sáng tác.
Và nhạc phẩm đầu tay mới ra đời năm 1968: “Hoa sứ nhà em” đã gây tiếng vang, tạo đà cho những bài hát tiếp theo: “Anh về tình đẹp quê hương, Đàn thương cô quán trong làng, Anh Hai về làng, Tìm em quán Phượng…”.
Tiệm đồng hồ của anh chỉ vuông vức hơn mười mét vuông còn là nơi gặp
gỡ với rất nhiều nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng trước giải phóng. Mỗi lần về
Gò Công, họ đều ghé thăm anh. Nhờ thế, tôi mới biết anh quan hệ rất rộng
với giới nghệ sĩ và tôi mới có dịp được gặp và tiếp xúc với các nhạc
sĩ, ca sĩ: Lê Dinh, Châu Kỳ, Trần Trịnh, Vinh Sử, Trần Thiện Thanh, Duy
Khánh, Chế Linh… Trong tiệm luôn có sẵn cây guitar thùng. Lúc rảnh, anh
lấy ra đàn hát, tuy chất giọng… không được hay nhưng bù lại rất biểu
cảm. Có khi ngẫu hứng, anh lấy tập viết nhạc ra ghi vội vài giai điệu,
đêm về sáng tác tiếp. Hôm sau đã thấy anh cất lên… tiếng hát với cung
đàn một ca khúc mới. Nghe ca khúc "Chuyện tình hoa muống biển" qua tiếng hát Bảo Yến:
Trong thời gian học nghề sửa đồng hồ với anh, thỉnh thoảng vào buổi
trưa nắng vắng khách, chợt thèm canh chua cá phi chấm muối ớt ở quê, anh
lại ngẫu hứng đóng cửa tiệm rủ tôi lên chiếc Yamaha dame màu xanh vượt
15 cây số về nhà cha mẹ ở ấp Cầu Muống, xã Tân Thành. Mỗi lần về thăm
nhà, tôi thấy anh như được sống lại với tuổi thơ. Nơi đây, tôi được tận
mắt chứng kiến tài bắt cá bằng tay không của anh. Đúng là có thấy mới
tin: Anh mò dọc các hang quanh bờ ao, một lúc sau đã thấy anh đưa tay
lên cao khoe một con cá vừa bắt được. Anh em chúng tôi câu thêm vài con
cá phi, rồi đi hái rau thơm, bẻ bắp chuối đem vào nấu nồi canh chua “cây
nhà lá vườn”. Nấu xong, mới bày cả xoong còn ngun ngút khói đặt trên
chiếc chiếu đất trải dưới mái hiên. Bữa cơm đơn giản như thế mà lại thấy
ấm cúng, thật ngon… Anh say sưa kể lại thời thơ ấu rất nên thơ của
mình: Vào những trưa hè, nằm thao thức trên bộ ván gõ, ghiền nghe tiếng
cu cườm gáy vang trên cành me, như lời anh nói: “Nghe thật là đã cái lỗ
tai!”, giấc ngủ êm đềm đến lúc nào không hay. Hôm nào không ngủ được thì
rủ thêm bạn đi hái trộm ổi, mãng cầu… Nổi hứng thì cả đám đạp xe ra
biển tắm cho đến chiều mới về nhà. Lâu lâu, lại vác đôi cọc tre có giăng
lưới sẵn đi bẫy chim ăn đêm ngoài bãi biển. Tuổi thơ anh, ngày
ngày được hít thở khí trời từ biển; được nghe tiếng sóng vỗ rì rào của
biển; được mơ màng cùng cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, cùng màu tím của
hoa muống biển trong những lần lang thang, nô đùa cùng chúng bạn trên
cồn bãi… Có lẽ từ những kỉ niệm khó quên đó đã nuôi lớn tâm hồn nghệ sĩ
luôn chất chứa trong anh, tạo nguồn cảm hứng để anh có được những tác
phẩm dạt dào tình biển rất riêng, rất hình tượng: Biển thức, Biển tím, Biển nắng, Chuyện tình hoa muống biển, Đi trên bãi biển Gò Công (phổ thơ Song Hoài), Nhớ biển Gò Công… Hoàng Phương thời trẻ (người bên phải)
Cuộc đời anh đã trải qua đủ cả hai kiếp sống: Lúc giàu sang, anh có
tiệm vàng, tiệm đồng hồ, xe hơi, vài căn nhà phố; khi nghèo khó, anh
phải cùng vợ con sống trong mái nhà chật chội trống trước hở sau nằm
ngay trước mảnh đất của cha mẹ anh. Nhưng bất hạnh ở chỗ, cái nghèo lại
đến sau; nó bám riết anh hàng chục năm cho đến tận cuối đời. Phải nói,
chính vì quá đam mê làm nghệ thuật và lại tiêu xài rộng rãi, phóng
khoáng trong giao tiếp, đã làm tiêu tan tài sản, sự nghiệp mà anh gầy
công tạo dựng. Thật trớ trêu, chính trong cảnh sống túng bấn, cùng khổ,
cảm xúc của anh lại dạt dào, thăng hoa bên làn khói thuốc liên tục hút
trên môi; trong men say chếnh choáng những tưởng để quên đời. Và cây đàn
cũ kỹ, thiếu dây lại gắn bó cùng anh cho ra đời những bài hát hay: Thuyền giấy chiều mưa, Chung vầng trăng đợi, Nhớ biển Gò Công, Hương bâng khuâng (phổ thơ Trần Anh Tài), Hẹn em bên cửa sông Tiền… Anh ít làm thơ, hình như phần lớn chất thơ đã trút hết vào lời hát. Anh chỉ có bài thơ “Biển Gò Công khi em đến” đăng trên tập san Văn nghệ Gò Công năm 1985. Chỉ duy nhất một bài nhưng lại là bài thơ hay: Biển Gò Công khi em đến Bầu trời xanh xanh hơn Sóng mặn hôn bờ cát Bỗng dưng cũng ngọt lành Ơi ngày ta gặp gỡ Chim trên cành mãng cầu Gọi nhau mừng gặp quả Anh vin cành tìm hái Em thật thà ngăn lại Nhường quả chín cho chim Chim say quả, say trời Líu lo lên tiếng hót Trả ơn người, ơn đời Biển Gò Công, em đến Gió như gọi nắng lên Dấu chân mềm trên cát Như tình em lặng êm! *
Trở lại với “Băng nhạc Gò Công” ra đời năm 1985 của anh. Ngày ấy, có ba
người chơi thân, gặp anh hàng ngày là anh Hai Sĩ bên Văn hóa thông tin,
anh Ron bên Ủy ban và tôi nên chúng tôi luôn là những người đầu tiên
được anh “khoe” một đôi bài mới đem từ TP.HCM về do nhạc sĩ Quốc Dũng
soạn hòa âm phối khí, ca sĩ Bảo Yến, Nhã Phương trình bày. Thế là anh em
lại rủ nhau đến nhà Năm Thiên ở “bến xe ngựa” cũ - nay là đường Lý Tự
Trọng - để nhờ cái máy c***ette hai băng của anh phát ra cho mọi người
cùng thưởng thức. Thời này, cuộc sống còn khó khăn nên ít người có dàn
máy hát rời. Người nào sắm được máy c***ette hai băng bên phát bên thu
đã là sang lắm. “Băng nhạc Gò Công” cuối cùng cũng hoàn chỉnh sau
nhiều tháng anh vất vả, bỏ công ăn việc làm đi đi về về giữa Thành phố
với Gò Công suốt mấy tháng trời. Rồi bỗng vào một buổi tối, trước và sau
giờ chiếu phim tại rạp hát Chiến Thắng, mọi người ngạc nhiên, thích thú
khi được nghe tiếng hát ngọt ngào, truyền cảm của ca sĩ Bảo Yến và Nhã
Phương phát ra từ chiếc loa trước rạp những giai điệu mượt mà viết về
tình đất, tình người Gò Công. Sau đó, được phát trên Đài truyền thanh
địa phương; rồi theo những chuyến xe miền Tây lan rất nhanh xuống tận Cà
Mau; theo những chuyến xe Bắc - Nam vượt ngàn cây số ra tận biên giới
phía Bắc. Địa danh Gò Công bỗng chốc được cả nước nhắc đến. Nghe ca khúc "Hoa sứ nhà nàng" qua tiếng hát Quốc Đại:
Phải nói vào thời điểm ấy, “Băng nhạc Gò Công” đã tạo nên một hiện
tượng âm nhạc gây xôn xao dư luận nhiều nhất trong cả nước. Bắt đầu xuất
hiện một số bài viết của giới phê bình lên tiếng khen chê trên vài tờ
báo và có một số cuộc tranh luận trong cũng như ngoài giới văn nghệ về
giá trị nghệ thuật của băng nhạc. Mặc cho dư luận săm soi “lời ra tiếng
vào”, các bài hát của nhạc sĩ Hoàng Phương vẫn vang lên đến tận các ngõ
xóm; từ quán cóc đến nhà hàng; từ trên xe hơi đến xe cà rem, kẹo kéo… đi
đến đâu cũng nghe: “Đi qua cầu Cả Thu. Nhìn dòng sông bối rối. Rung
rinh chùm hoa sứ. Bỗng nhớ em cuối trời...”, “Dưới nắng hồng, tôi đi
giữa Gò Công. Đất như cao, trời như thấp lại…”. Là người dân Gò
Công, mấy ai lại không vui, không xúc động khi nghe có người nhắc nhớ
đến tên quê hương mình, hát nhạc quê hương mình! Một điều quan
trọng tôi muốn nêu lên trong bài viết này: Có một số bài hát của anh
được phổ từ thơ, nhưng khi giới thiệu trên báo đài, hầu như tôi chỉ thấy
tên nhạc sĩ Hoàng Phương. Đây là thiếu sót trầm trọng của người giới
thiệu, biên tập; là một thiệt thòi rất lớn cho những người có thơ được
anh phổ nhạc. Tôi xin dẫn chứng: “Hương bâng khuâng” của Trần Anh Tài, “Đôi mắt quê hương” của Hoa Sứ Đỏ, “Em gái ngủ” của Đại Triều, “Mẹ Gò Công” của Trần Thanh Thủy… Riêng bài “Đi trên bãi biển Gò Công” phổ thơ của Song Hoài. Trong “Băng nhạc Gò Công” trước đây, ca sĩ Bảo Yến hát chính xác lời thơ: “Một trưa hè trôi êm trôi êm, trên bãi biển Gò Công em bước…”, nhưng không hiểu tại sao sau này ai lại sửa tựa bài hát là: “Chiều hè trên bãi biển”. Và các ca sĩ đều hát sai tuy chỉ hai từ, nhưng lại làm hỏng ý nghĩa của bài thơ, không thể nào chấp nhận được: “Một trưa hè trôi êm trôi êm, trên bãi biển… chiều nao chung bước…”.
Trời ơi, thời gian như có phép màu, đang “trưa” bỗng hóa thành “chiều”,
nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Bài thơ tác giả chỉ tả có một em gái dạo
bước trên bãi biển, bỗng biến thành hai mình (?!). “Chiều nao” làm sao
được, nó mâu thuẫn với đoạn dưới khi nhà thơ tả: “…Nắng chói chang về làm rát bỏng bàn chân. Có phải chăng cát giận cát hờn, chẳng muốn nhận dấu chân em làm kỉ niệm…”. Buổi
chiều thì làm gì có cái “nắng chói chang”. Vì thế, tôi mong các “ca sĩ”
hãy hát đúng lời gốc bài hát phổ thơ ban đầu. Đừng vì muốn đại chúng
hóa hay vì lý do nào khác mà sửa lời một cách vô nghĩa, vô ý thức như
trên. Xin hãy trả lại hai tiếng Gò Công rất đỗi mến thương trở lại đúng
vị trí ban đầu của nó. Có lẽ tác giả Song Hoài và nhạc sĩ Hoàng Phương
sẽ rất hài lòng! Anh qua đời năm 2002, sau cơn bạo bệnh. Trước
hôm anh mất, tôi và anh Hai Sĩ có vào bệnh viện thăm, thấy anh vẫn còn
tỉnh táo. Anh nói anh thèm ăn miếng kẹo đậu phộng và uống ly cà phê sữa.
Tôi nhìn hàm răng anh chỉ còn đôi ba cái xệu xạo bên gương mặt xanh tái
mà rơm rớm nước mắt. Vậy mà không ngờ, hôm sau lại được tin anh mất…!
Cuộc đời anh đa đoan chuyện tình cảm nên mang nhiều duyên nợ. Anh đã yên
phận anh, chỉ tội cho vợ con anh ở lại, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Dẫu chuyện đời tư của anh có lắm điều tiếng, nhưng về mặt văn hóa nghệ
thuật, các sáng tác của anh để lại cho đời, cho quê hương thì rất đáng
được chúng ta trân trọng! “Cuối dòng sông Cửu Long. Trước mặt nhìn biển Đông. Bên cửa con sông Tiền. Quê tôi Gò Công…!”. (Gò
Công hồng trang sử). Khi nghe những lời hát trên, có người con xa xứ
nào không thấy chạnh lòng? Có ai mà không thương, không nhớ, không sớm
hẹn ngày về…?! Hy vọng một ngày thật gần, chúng ta sẽ được thưởng
thức đêm nhạc Hoàng Phương ngay chính trên mảnh đất quê hương của anh.
Chắc hẳn, dù đang ở tận suối vàng, anh cũng kịp trở về tình tự cùng “Biển thức…!”.
Vũ Cường
(Theo Văn nghệ Tiền Giang số 58)
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Sep/2013 lúc 12:35am
Phòng
trà Anh Vũ 1962 nghe Khánh Ly hát .
Phòng trà Anh Vũ trên con đường Bùi Viện Saigon một thưở.
Cùng dăm ba người bạn đã hay dến nghe nhạc, có những
đêm mưa ào ạt lúc khuya ra về .
Vậy mà thoáng đó đã hơn 50 năm !
Nữ ca sĩ Khánh Ly ngày ấy mới vào nghiệp, còn qúa non trẻ, còn
chưa có nhạc Trịnh Công Sơn để nổi tiếng.
Nhưng giọng ca người này đã rõ nét đầy triển vọng của một ca sĩ
hạng A sau này.
Khánh Ly tự tin vững vàng, đã hát trước đám đông một cách thản
nhiên dễ dàng, có khi tưởng như đến lạnh lùng.
Vậy mà nghe kỹ ra, chất giọng Khánh Ly rất sâu lắng, buồn lơi
lơi, nhè nhẹ truyền cảm cùng tha thiết vô ngần....
Những ca khúc người ca sĩ này trình bầy thường là những ca khúc
tiền chiến nổi tiếng như :
Con thuyền không bến, Gửi gió cho mây ngàn bay, Lá thư, Tạ từ, Nỗi
lòng, Em đến thăm anh một chiều mưa ..vv..
Giờ đây, tình cờ thấy lại hình ảnh Khánh Ly xưa cũ nơi
phòng trà Anh Vũ trong "Chiều Vàng" của Nguyễn Văn Khánh.
Tóc Khánh Ly còn ngắn , điểm trang còn mộc mạc đơn sơ như vẫn
nguyên nét nữ sinh.
Xin mời coi lại, xem có ai cùng thời còn nhớ đến các phòng trà
Anh Vũ, Hòa Bình, Tự Do ..vv.. tại Saigon thưở đó hay không?
http://youtu.be/64nBne2UQIs - (Nguồn : từ E-mail một người bạn)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Sep/2013 lúc 3:03pm
DƯ ÂM BUỒN
https://1-dot-sproxy-srv.appspot.com/3.bp.blogspot.com/-gBefyIa9AkE/UdZOpS54QGI/AAAAAAAAGhk/GFd93zP0uY0/s500/5a.jpg">
* MINH DIỆN
Tôi dừng xe trước căn nhà nhỏ bé số 94/19 trong con hẻm đường Trần Khắc
Chân, quận 1, thành phố Hổ Chí Minh. Nhìn qua cửa sổ tôi đã thấy mái
đầu trắng phơ mờ ảo. Đó chính là nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, một cây đại thụ
trong làng âm nhạc Việt Nam, nổi tiếng với các tác phẩm như Dư âm, Mẹ yêu con, Bài ca năm tấn, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Dáng đứng Bến Tre... Một phụ nữ bồng đứa trẻ bước ra, hỏi
tôi:
- Chú tới thăm nhạc sỹ hả?
- Vâng!
- Mời chú vào!
Tôi bước qua manh chiếu, tránh mấy thứ đồ lộn xộn, vào căn phòng nhỏ
xíu. Chiếc giường cá nhân thấp gần sát đất trải tấm đệm rách, có chiếc
gối và chiếc mền chăn nhàu nát. Trên tường treo chiếc đàn tì bà cũ kỹ
đứt dây cạnh tấm ảnh chủ nhân thời hoàng kim. Cạnh cửa sổ một chiếc bàn
con, vài quyển sách và bản nhạc phủ đẩy bụi bặm. Bên trái một chiếc đàn
Organ có lẽ ra đời từ những năm tám mươi, đã rệu rã với những phím đàn
đen xỉn, mốc meo. Chiếc máy C***ete cũng cũ kỹ như chiếc đàn Organ đặt
trên đầu giường, băng ghi âm đang nhả bài Dư âm, giọng ca buồn của Ánh Tuyết như cô
đặc trong bầu không khí ẩm mốc, cô quạnh.
Nhạc sỹ đang chuẩn bị ăn cơm chiều. Chiếc khay nhựa đặt trên chiếc ghế
gỗ, có chén cơm, chén canh, vài miếng đậu phụ. Tôi lên tiếng:
- Em chào anh ạ!
Ông già ngẩng nhìn tôi. Khuôn mặt vuông vức, vầng trán cao, tóc râu trắng toát lòa xòa.
- Em là ai nhỉ? Anh quên mất rồi!
- Minh Diện đây anh !
- À, anh nhớ ra rồi! Khỏe không em?
Ông chìa bàn tay xương xẩu, khô héo, teo tóp cho tôi , rồi bào :
- Đưa giúp anh chiếc gậy , anh em mình ra kia uống trà!
Tôi nói:
- Thôi, ngoài đó đang sắp mưa, lạnh lắm!
https://1-dot-sproxy-srv.appspot.com/1.bp.blogspot.com/-EHlwe7KRGss/UdZO1JDkG0I/AAAAAAAAGhs/DnBpkjv007U/s500/5b.jpg">
|
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
| - Ừ, thế thì ngồi đây nói chuyện!
Ông nói thế, và cười. Vẫn ánh lên nét hồn nhiên trên đôi mắt đa tình
của một thời từng làm rạo rực trái tim bao cô gái trẻ. Ánh mắt của một
mối tình ngang trái đẹp như mơ , tạo lên một “dư âm” hơn nửa thế kỷ trước.
Nguyễn Văn Tý năm nay đã 89 tuổi. Ông kể, hồi ấy ông ở Quỳnh Lưu, Nghệ
An, có người mai mối cho một người con gái và dẫn đến nhà cô chơi. Cô ấy
đẹp nhưng nói nhiều, cái duyên lộ ra hết ra ngoài. Bỗng một cô bé có
đôi mắt to tròn, gương mặt thánh thiện, đẹp như vầng trăng mười sáu,
thấp thoáng sau chị gái. Nguyễn Văn Tý nhìn đắm đuối và cô bé đáp lại
bằng nụ cười e ấp. Thế là cảnh “Tình chị duyên em” xảy ra và người nhạc sỹ chiến sỹ phải nén lòng, lặng lẽ ra đi, bởi ngày ấy kỷ luật vệ quốc quân vô cùng khe khắt.
Rồi một lần Nguyễn Văn Tý tình cờ gặp lại người con gái ở Vinh Yên. Cô
đẹp hơn, là một diễn viên văn công, và đã có người yêu. Cô hỏi Nguyễn
Văn Tý : “Sao ngày ấy anh bỏ đi biệt ?”. Nguyễn Văn Tý không trả lời,
trao cho cô gái bản nhạc Dư âm mà ông đã sáng tác trong một đêm thầm nhớ người con gái ấy:
“ Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng thơ.../ Đê mê lòng nhớ
giấc mơ, môi em hé rung / Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió...”
Sau cuộc chia tay , Nguyễn Văn Tý không gặp lại người con gái ấy. Ông
bị cuốn theo bước chân hối hả của bạn bè, đồng đội trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Ông có mặt trong đoàn văn hóa của Cục quân huấn,
rồi nhận nhiệm vụ đi xây dựng Đoàn văn công Sư đoàn 304, làm trưởng đoàn
, vừa hát vừa sáng tác trên các mặt trẫn Cao Bằng, Lạng Sơn, Điên Biên
Phủ. Tuy nhiên bài “Dư âm” của ông chỉ được hát vài lần rồi bị cấm và
ông bị kiểm điểm vì người ta nói bài hát ấy ủy mỵ, thiếu lập trường tư
tưởng cách mạng.
Trong khi miền Bắc cấm thì miền Nam lại hát. Bài hát Dư âm bay bổng
trên đài phát thanh Sài Gòn . Và đó là tai họa dáng xuống đầu Nguyễn
Văn Tý. Người ta ghép ông vào nhóm “Nhân văn giai phẩm”.
Tôi hỏi :
- Có một bài báo viết , ngày ấy , theo lời khuyên của Lưu Hữu Phước, anh về Hưng Yên . Có đúng không anh?
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý nói:
- Đó là một lý do. Còn một lý do nữa, là mình đã sửa cà nhạc và lời một
bài hát cho một nhạc sỹ. Bài hát nổi tiếng và ông ta trở thành một cán
bộ lãnh đạo Hội âm nhạc. Ông ta muốn nhân cơ hội đẩy anh đi cho khuất
mắt, để khỏi lộ chuyện nhờ sửa nhạc...
- Anh ở Hưng Yên cũng lâu nhỉ?
- Tám năm. Đúng tám năm!
- Ngày đó nhờ ông Lê Qúy Quỳnh và nhà thơ Trần Doanh, anh mới được trở lại Hà Nội?
- Em nhớ dai nhỉ! Đúng vậy đấy. Anh Quỳnh tốt và quý anh lắm. Một hôm anh Trần Doanh xuống chơi, anh nói:
- Cho tôi về Hà Nội đi đây đi đó , may ra viết được cái gì, chứ ở
đây mãi làm con chim chết khô trên đồng đay mất thôi!
Trần Doanh đưa tờ giấy bào:
- Viết đơn đi!
Anh viết ,Trần Doanh ký liền và đưa anh Lê Qúy Quỳnh. Anh Quỳnh nói:
- Mình rất quý cậu, bà con Hưng Yên không quên bài “Tiếng chim hót trên đồng đay” của cậu. Đi đâu cũng đừng quên Hưng Yên.
Nguyễn Văn Tý như con chim sải cánh bay khắp mọi miền đất
nước. Ông thâm nhập thực tế, chắt lọc chất thơ, chất nhạc từ trong cuộc
sống lao động, chiến đấu cùa quân dân ta , tạo nên tác phẩm. Ông sáng
tác không nhiều, không có những khúc tráng ca. Những tác phẩm của ông
mang đậm chất dân ca, được chắt lọc từ những làng quê ông đã đi qua.
Những tác phẩm ấy đi vào lòng người và ngân mãi qua nhiều giọng hát cùa
các thế hệ ca sỹ: Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre...
Bây giờ, khi đêm đêm những bài hát ấy vang lên ở một tụ điềm ca nhạc,
một phòng trà,và những ca sỹ lộng lẫy trong ánh đèn mầu, nhận những
tràng pháo tay và sau đó nhận những phong bao tiền cát xê vài triệu đồng
, thì trong căn phòng vài mét vuông này, người nhạc sỹ già Nguyễn Văn
Tý vò võ trong cô đơn, bệnh tật và nghèo túng.
Ông nói với tôi:
- Từ ngày vợ anh chết, anh sống một mình. Anh có hai người con
gái, một ở Hà Nội, một ở Sài Gòn , nhưng cả hai đều nghèo , anh không
muốn làm gánh nặng thêm cho con cháu. Tất cà các khoản lương hưu và tiền
bản quyền của anh mỗi tháng bây giờ được gần sáu triệu. Phần lớn dùng
để uống thuốc vì về già nhiều bệnh lắm. Một phần trả lương cho người
cháu vợ chăm sóc mình. Mỗi tháng chỉ còn vài trăm ngàn rau dưa thôi em
ạ...
- Có cơ quan đơn vị nào quan tâm giúp đỡ anh không ? Như Hưng Yên, Thái
Bình, Bến Tre, Hà Tĩnh...Những địa phương nổi tiếng nhờ bài hát của anh!
Người nhạc sỹ già khẽ lắc đầu. Và ông nhớ lại một chuyện buồn:
- Một lần, Hội nhạc sỹ tổ chức sinh nhật anh, ông Phó giám đốc sở Văn
hóa thông tin tỉnh Bến Tre mang lên cho mười triệu. Ông ấy không đưa cho
anh mà đưa cho ban tổ chức. Sau lễ sinh nhật , ban tổ chức mới cho anh
biết và bảo số tiền đó đã chi vào lễ sinh nhật hết rồi !
Dừng một lát, nhạc sỹ cười , rướm nước mắt:
- Gìá mà họ chia đôi số tiền đó, cho anh năm triệu em nhỉ ?
Tôi động viên ông quên chuyện cũ đi. Ông đã không tiếc tuổi trẻ dấn
thân vào con đường cách mạng thì nhớ làm chi những chuyện buồn ấy.
Tôi đặt vào tay nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý chút tiền và ghi vào mảnh giấy
trên bàn số điện thoai, và dặn ông: “ Khi nào cần anh bảo cô người làm
gọi điện cho em!”
Tôi chào ông ra về.
Cơn mưa chiều sắp ập xuống.
Dắt
xe ra về, tôi ngoái lại nhìn qua cửa sổ, vẫn thấy mái tóc bạc phơ
nghiêng ngả như đung đưa . Và giọng ca Ánh Tuyết hát bài Dư âm buồn thăm thẳm !
Chiều 04-07-2013
M. D
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/Oct/2013 lúc 2:09am
http://bacsiletrungngan.wordpress.com/ - Khoảng lặng của hồn tôi18/09/2013
(((
Giai thoại về ca khúc "Giáo đường im bóng"
Mối tình đẹp của vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ
http://4.bp.blogspot.com/-tC1Eka9iOu8/UZs3cCm6qTI/AAAAAAAAAJE/df0BWeX8weM/s1600/nguyen-thien-to.gif">
Nguyễn Thiện Tơ sinh ra tại Hà Nội,
xuất thân trong một gia đình công nhân (xưởng in Viễn Đông) tại căn nhà
số 22 phố Charron mà nay là phố Mai Hắc Đế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Yêu thích âm nhạc từ năm 10 tuổi, vào năm lên 12, Nguyễn Thiện Tơ theo
học ghi-ta Hawaii (Hạ Uy cầm) với thầy giáo Trần Đình Khuê; chỉ ba tháng
thì ông đã được biểu diễn cùng thầy trên đài phát thanh Pháp. Sau đó
ông theo học ghi-ta với một người Pháp và bắt đầu biểu diễn ở các phòng
trà và chương trình từ thiện với hai nhạc cụ này.
Nguyễn Thiện Tơ là người sáng lập nhóm
Myosotis cùng với Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh,… nhưng theo nhạc sĩ Phạm
Duy thì Nguyễn Thiện Tơ là một nhạc sĩ độc lập, tức là không thuộc nhóm
nhạc nào.
Năm 1938, khi mới 17 tuổi, Nguyễn
Thiện Tơ sáng tác bản nhạc đầu tay "Giáo đường im bóng" viết về một cô
gái theo đạo Thiên Chúa, 16 tuổi và tên là Hà Tiên. Ông kể lại: "Trong
kỳ nghỉ hè năm 1938 (lúc này còn là học sinh trường Thăng Long ở Hà
Nội), tôi được mời tham gia biểu diễn đàn ghi-ta ởNam Định. Ở đây tôi đã
làm quen với cô nữ sinh Hà Tiên cũng đến đây đóng góp tiếng hát của
mình. Sau buổi dạ hội ca nhạc, tôi được bạn bè cho biết là gia đình cô
ấy theo đạo Thiên Chúa. Nghĩ mình là kẻ ngoại đạo nên mới viết nên "Giáo
đường im bóng" sau ngày ấy."
Nguyễn Thiện Tơ hoàn thành phần nhạc
của ca khúc Giáo đường im bóng trước, sau đó nhà thơ Phi Tâm Yến – bạn
thân của Nguyễn Thiện Tơ – viết lời. Theo Phạm Duy thì nhạc sĩ Lê Thương
cũng thầm yêu cô Hà Tiên đó và đã viết nên ca khúc Nàng Hà Tiên.
Ban đầu cuộc tình giữa Nguyện Thiện Tơ
và Hà Tiên không được gia đình cô chấp nhập bởi ngăn cách tôn giáo. Về
sau hai ông bà đã thuyết phục được gia đình và thành hôn vào năm 1944.
Nguyễn Thiện Tơ tiếp tục dạy ghi-ta và ghi-ta Hawaii. Trong số những
người học ông, có những nhạc sĩ nổi tiếng như Doãn Mẫn, Đoàn Chuẩn và
Nguyễn Văn Quỳ.
Sau ngày quân đội Việt Minh tiếp quản
Hà Nội, Nguyễn Thiện Tơ về Đài Tiếng nói Việt Nam, thổi sáo trong dàn
nhạc của đài. Đến năm 1959, ông chuyển sang dàn nhạc giao hưởng nhạc vũ
kịch. Năm 1965, ông chuyển về hãng Phim truyện Việt Nam.
Giai thoại về ca khúc "Giáo đường im bóng"
Nguyễn Thiện Tơ là một nghệ sĩ guitare
Hawaine nổi tiếng thời ấy song song với sáng tác nhạc. Ca khúc "Giáo
đường im bóng" là ca khúc đầu tay của ông, xuất phát từ nỗi nhớ cô gái
xứ đạo – mối tình đầu của ông. Tại căn nhà số 22 phố Charron
ngày ấy (22, Mai Hắc Đế, Hà Nội bây giờ), trong gia đình công nhân xưởng
in Viễn Đông có một cậu con trai khoảng 12 tuổi rất mê âm nhạc. Nghe
tin có thầy giáo Trần Đình Khuê mở lớp dạy guitare hawaïenne, cậu lập
tức xin bố đi học. 14 tuổi, Nguyễn Thiện Tơ – tên cậu bé – màng đàn đến
nhà thầy giáo Khuê. Học được 3 tháng, cậu đã được biểu diễn cùng thầy
trên đài phát thanh Pháp. Hai, ba năm sau, Nguyễn Thiện Tơ học tiếp Tây
ban cầm, do một người Pháp dạy. Chàng thanh niên bắt đầu sử dụng hai thứ
nhạc cụ này biểu diễn ở các phòng trà và ấp ủ ý định sáng tác.
Sau đó ít lâu, thỉnh thoảng Nguyễn
Thiện Tơ lại được mời đi biểu diễn từ thiện. Mỗi lần, chàng nghệ sĩ trẻ
được mời vể biểu diễn tại Nam Định. Khi biểu diễn xong, đang đứng đàng
sau cánh gà, có một cô gái trẻ, đẹp nhờ chàng lên hộ dây đàn. Nàng có
vóc người mảnh mai, gương mặt thanh tú thêm nét quý phái khiến chàng lần
đầu tiên nhìn đã cảm mến ngay. Khi nàng đàn và hát xong, rất nhiều
người rắc kim tuyến giấy vào nàng, riêng chàng trai Hà Thành làm nàng
phải quay lại nhìn rồi thẹn thùng quay đi, không phải vì nắm vụn giấy mà
là đôi mắt đăm đắm của chàng. Một vài hôm sau, có một chương trình thể
thao, nàng đến xem, hy vọng sẽ gặp chàng ở đó và nàng đã không thất
vọng. Nhận ra nàng, chàng chỉ cười chào mang tính xã giao, rồi về trước.
Từ lúc đó, chương trình thể thao ấy với nàng không còn gì hào hứng nữa,
nàng cũng bỏ ra về. Rồi một hôm, qua một người bạn, chàng biết nàng tên
là Vũ Hà Tiên, sắc đẹp và tài năng cầm ca thuộc hàng nổi tiếng của
thành Nam, chàng mới cùng người bạn ghé chơi nhà nàng.
Hôm ấy, nàng yêu cầu chàng đàn một bài
nàng thích là bài "forget me not"… Họ đã say nhau từ lúc đó. Cũng từ
đấy, họ thỉnh thoảng thư từ cho nhau rồi hẹn gặp nhau. Có lần, họ củng
nhau đi chơi bằng tàu điện khắp Hà Nội, những khoảnh khắc ấy kéo dài 6
năm. 6 năm "tình trong như đã…" nhưng tình yêu vẫn chữa vượt cái nắm
tay.
Chàng bên lương nàng bên giáo. Để yêu
nhau, họ không thể vượt qua rào cản của tôn giáo (mà thời ấy rào cản này
rất dữ). Có những lần, chàng gần như tuyệt vọng khi nghĩ rằng tình yêu
sẽ không đi đến đâu nên viết ca khúc "Giáo đường im bóng", ấy là năm
1938, lúc chàng 17 tuổi và nàng 16 tuổi. Sau khi đọc lời ca, thi sĩ Phi
Yến đã sửa lời để tác phẩm hoàn thiện với những câu như " lá êm êm rơi
trên gương hồ, hình như mối tơ duyên xa mờ…Sóng rung rinh hồ xưa đây,
hồn tôi nhớ nàng mê say, ngày xa ấy u trầm quá…. Và sóng mắt huyên còn
biết đâu tìm". Viết xong, chàng cũng không gửi cho nàng và nàng cũng
chưa biết ý đồ cũa chàng trong bài hát đó. Họ tiếp tục yêu trong
lặng thầm, bởi ngăn cách tôn giáo. Hơn nữa gia đình nàng không đồng ý
cho nàng lấy anh nhạc sĩ "lênh đênh". Có nhiều lúc chàng không làm chủ
được nỗi nhớ, nỗi thất vọng mơ hồ, cầm bút viết nhạc để bày tỏ nỗi lòng.
Do đó mới có những "Nhắn gió chiều", "Trên đường về", "Đêm trăng xưa",
"Ngày vui đã qua", "Cung đàn xuân xưa" trong làng nhạc tiền chiến. Nhưng
rồi nàng cũng thuyết phục được gia đình, chấp nhận không có kim cương
và nhẫn quý trong ngày cưới để làm vợ anh nhạc sĩ ấy. Lấy nhau rồi,
người đẹp thành Nam yên vị với công việc của người vợ, còn chàng nghệ sĩ
Hà Thành tiếp tục dạy guitare hawaiienne và Tây ban cầm (dạy từ năm
1940). Trong những học trò của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ ngày ấy có những
người đã đi vào lịch sử tân nhạc như Đoàn Chuẩn, Dzoãn Mẫn…. Cô
gái xứ đạo ngày xưa, người mà nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ gửi tiếng thương
qua gió chiều thuở nào, giờ đây đã 83 tuổi. Ông bà vẫn sống ở giữa ngôi
nhà 22 Mai Hắc Đế. Bà Vũ Hà Tiên vẫn còn giữ bài thơ ông gửi cho bà và
những tấm hình thuở thiếu thời. Cây đàn guitare hawaiienne không còn nữa
nhưng vẫn còn cây đàn Tây ban cầm, thỉnh thoảng ông lại đưa ra gảy….
Gần 70 năm chung sống, chưa một lần nặng lời
Giữa phồn
hoa ồn ã chốn Hà thành, có một cặp vợ chồng già năm nay tuổi đều đã
trên 90 nhưng ngày ngày họ vẫn ngồi bên nhau tâm sự trên một căn gác nhỏ
của phố Mai Hắc Đế. Họ vẫn nhìn nhau bằng đôi mắt trìu mến, âu yếm gọi
nhau bằng "anh - em" rất đỗi ngọt ngào khiến người đối diện thực sự xúc
động. Đó là vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ với một mối tình đặc biệt,
đầy chất thơ, là "nguyên cớ" bài hát "Giáo đường im bóng" ra đời từ năm
1938 và vẫn rất được yêu mến đến ngày hôm nay, nhất là mỗi mùa Noel
về...
(http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/tulieuvanhoa/2012/2/56702.cand)
Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ và gia đình
Ngày ấy, sự khác biệt về tôn giáo đã
khiến đôi bạn trẻ tưởng không thể đến được với nhau. Nhưng cuối cùng
tình cảm chân thành đã thuyết phục được gia đình. 6 năm sau
ngày gặp gỡ, họ mới tổ chức đám cưới. Gần 70 năm chung sống, ông bà cho
biết mọi sự đều tâm đầu ý hợp, thuận vợ thuận chồng, chưa bao giờ nói
nặng lời với nhau, cũng chưa bao giờ làm nhau buồn lòng. Trải
qua bao thăng trầm cuộc sống, chiến tranh loạn lạc, ông bà có với nhau
tất cả 8 người con. Bà Tiên không quản ngại vất vả, đặt gánh nặng kinh
tế lên đôi vai bé nhỏ của mình, lo toan mọi việc chu toàn trong gia
đình. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ tâm sự, ông sáng tác bài hát
"Giáo đường im bóng" với ý nghĩ tình yêu của mình sẽ không đến được bến
bờ vì có quá nhiều rào cản, nhưng cuối cùng, chính ông cũng không khỏi
bàng hoàng, xúc động khi nhận thấy rằng cuộc đời mình lại có quá nhiều
may mắn như vậy. Ông nói: "Tôi sinh ra, lớn lên, già đi và có
lẽ chết đi cũng trong căn nhà này thôi…". Điều ông nói nghe thật giản dị
nhưng không hề dễ dàng, đơn giản để sống cho nhau một cuộc đời đẹp như
thơ, như mộng ấy. Và cũng thật không hề dễ dàng để cùng nhau
đi đến cuối con đường mà vẫn ngập chìm trong ánh mắt hạnh phúc, trìu mến
như lời bài hát: "Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ… ".
Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ bên người bạn đời.
"Giáo đường im bóng"
Nhạc: Nguyễn Thiện Tơ Lời: Phi Tâm Yến
Lời 1:
Nhớ tới đêm đầy ánh sáng
Hương trong gió tràn mênh mang Giây phút như ngừng thôi rơi Tiếng kinh muôn lời Dáng xinh xinh bao tiên kiều quỳ ngân Thánh kinh ban chiều Trong giáo đường đêm Noel ấy ngàn đời tôi mến yêu Tiếng A men đều âm u Hòa theo gió vàng đêm thu làm xao xuyến tâm hồn quá Thời khắc mơ Thánh giá xa vời lắm với chuông chiều ngân Hồn thánh thót mưa dầm buồn tới âm thầm Nơi giáo đường im bóng tôi thầm mong ngóng Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ
Lời 2: Tới chốn xưa nàng vắng bóng, Tôi mơ mắt huyền nhung trông. Bao phút vui thần tiên qua, Thấy đâu bây giờ. Lá êm rơi trên gương hồ, Hình như mối
duyên xa mờ. Nay đến làm tôi xao xuyến, Hồi đời tươi sáng êm. Sóng rung rinh hồ xưa đây, Hồn tôi nhớ nàng mê say. Ngày xa ấy u trầm quá, Và chóng qua. Biết đến đâu tìm kiếm, Nối dây tình duyên, Và sóng mắt mơ huyền còn biết đâu tìm. Tôi tiếc thời tươi sáng trôi cùng năm tháng. Trí óc âm thầm nhớ mắt nàng huyền mơ.
Ấn-bản 1951 – Tinh Hoa 150
http://bacsiletrungngan.wordpress.com/2013/09/18/moi-tnh-dep-cua-vo-chong-nhac-si-nguyen-thien-to/
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Oct/2013 lúc 8:46am
LAM PHƯƠNG , NGƯỜI NHẠC SĨ TÀI HOA
Vào
những năm của thập niên 50, ở miền Tây tỉnh Vĩnh Long nhỏ bé, tôi còn
nhớ người chị cả của tôi, chị Xuân Đào, lúc đó khoảng đôi mươi, hay hát
những bài Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Tình Anh Lính Chiến, Khúc Ca Ngày Mùa.
Lúc đó tôi còn rất nhỏ, chỉ vài tuổi đời, nhưng không hiểu sao, những
hình ảnh và những bài hát mà chị Xuân Đào cùng các bạn, người đàn
guitare, người hát vẫn còn in đậm trong đầu óc tôi đến hôm nay.
Nhắc
đến Lam Phương và những bài hát của người nhạc sĩ tài hoa nầy, tôi
không thể nào không nhớ đến người chị của tôi. Chị Xuân Đào lớn hơn tôi
19 tuổi, khoảng cách giữa người chị cả và tôi, cô em thứ 7 trong gia
đình, gần như là khoảng cách của mẹ và con, vì chị có thể lập gia đình
và có con vào tuổi đó. Chị thay má tôi, chăm sóc tôi như con của chị,
bồng ẳm, cho ăn, tắm rửa, ngay cả những lúc đi chơi, những lúc có bạn
trai đến thăm viếng, lúc nào tôi cũng ‘lẩm đẩm’ dưới chân chị…. Và các
bạn trai của chị, muốn được yên để chuyện trò cùng ‘người đẹp’ đã phải
mua chuộc tôi bằng những gói bánh kẹo, nhất là những gói nho khô chỉ
được vài hạt, tôi
nhom nhem một chút là đã hết. Khi đã ăn hết gói nho khô mà tôi ưa thích
nhất trong các loại bánh kẹo (tôi còn nhỏ mà đã khôn quá mức, phải
không ??), tôi nắm áo chị vòi vĩnh : « Chị Hai, em ăn hết nho rồi ». Thế
là để được ‘rảnh nợ’ hoặc chị hoặc các anh bạn của chị phải chạy ra
trước nhà tôi để mua thêm vài gói nho khô của ông Tàu có chiếc xe đẩy,
bán đủ thứ bánh kẹo. Lúc đó nhà tôi ở khu phố nhộn nhịp nhất Vĩnh Long,
khu ‘rạp hát’ nên những ngưới bán hàng hay bày bán đủ thứ trước căn phố
nhà ba má tôi.
Chị
Xuân Đào và các bạn hay tụ tập tại nhà để ca hát. Hai người chị của tôi
dạo đó là Xuân Đào, Xuân Hương nổi tiếng vì đẹp và thanh lịch, cả Vĩnh
Long ai cũng biết tiếng 2 người chị lớn nầy (tờ báo Cựu Học Sinh Tống
Phước Hiệp ở San José năm nào đó cũng nhắc đến 2 chị). Nhưng số phận của
2 người chị lớn của tôi không may mắn, lại thêm phần chua xót cho chị
Xuân Đào….
Làm
sao tôi quên được những bài hát mà chị Xuân Đào đã ngân nga : Xuyên lá
cành trăng lên lều vải, Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…hay : Đêm nay
trăng sáng quá anh ơi, Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu….hay :
Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát, Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ
xác, Chiếu hồn quê qua khúc ca ngày mùa….
Xuyên
qua người chị cả, nhạc sĩ Lam Phương đi vào lòng tôi, vào thế hệ của
tôi như một dấu ấn, không xóa nhòa được. Tôi lớn lên với những bài hát
của Lam Phương. Người nhạc sĩ tài hoa nầy sáng tác những bài hát vừa
mượt mà về thể điệu mà lời ca cũng thật nồng nàng, ý nghĩa :
Xuyên lá cành trăng lên lều vãi.
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi
Thương những người mạch sống đang khơi
Đang tìm một cuộc đời cho lòng vơi nét phong sương...
(Tình anh lính chiến)
Đêm nay trăng sáng quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng…
(Chuyến đò vĩ tuyến)
Và bài Khúc Ca Ngày Mùa, năm 1954 là một tuyệt tác từ lời đến thể điệu, mà người miền Nam nào cũng biết, cũng hát được vài câu của bài nhạc nầy :
Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát
Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác
Chiếu hồn quê bao khúc ca yêu đời
Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát
Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát
Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời
Lờ lững trôi qua trôi mãi trong chiều tà tiếng tiêu buồn êm quá
Hồn ngất ngây trong tiếng hát đưa nhịp nhàng tiếng cười thơ ngây
Mịt mùng đêm thâu cung hằng chênh chếch bóng khuất sau rặng tre
Tiếng ai hò chập chùng đưa xa
Hò là hò lơ hó lơ hò lờ
Này anh em ơi! Giả cho thật đều, giả cho thật nhanh
Giả cho khéo kẻo trăng phai rồi
Khoan hò khoan tiếng chày khua vang mãi trong đêm dài…
(Khúc ca ngày mùa, 1954)
Lam
Phương có nghệ thuật viết những bài hát đi sâu vào lòng dân gian, đến
nỗi đôi khi người ta hát mà không biết bài hát thuộc về tác giả nào. Lúc
còn ở VN vào thập niên 60, 70 khi tôi đã bắt đầu lớn, những bài nhạc
của Lam Phương tôi vẫn nghe mãi bên tai, khi thì của chị hàng xóm, khi
thì anh bán hàng rong, khi trong gia đình…
Lúc đó tôi nghe những bài Ngày Hạnh Phúc: Trời hôm nay xanh xanh, gió đưa cành mơn man tà áo…, Bức Tâm Thư:
Vài hàng gởi anh trìu mến,
Vừa rồi làng có truyền tin,
nói rằng nước non đang mong,
đi quân dịch là thương nòi giống…
Ước nguyền hứa duyên trao người,
Cấm tay súng tòng quân anh tươi cười,
Lòng thầm đang lớn ươm đầy tơ,
Nhờ trời cam quít đã lên mùa,
Chờ ngày dệt xong áo chung tình,
Em mang tới đồn mà tặng anh,
Lạy trời tròn năm tròn tháng,
Nợ làng ơn nước đã đền xong,
Xóm làng hát câu thanh bình,
Về nơi cũ tìm vui duyên lành.
Những
bài nhạc nầy Lam Phương viết với tâm trạng yêu đời, nhìn cuộc sống với
ánh mắt lạc quan. Thật vậy, vào thời 50, 60 miền Nam rất yên bình, người
dân không quá vất vã, ruộng lúa, cây trái xum xê. Cứ về miền Tây lúc đó
là thấy sự sung túc, dư thừa của người dân.
Dần
dần, theo thiển ý của tôi Lam Phương mất đi nét tươi trẻ, yêu đời, lạc
quan, ông bắt đầu sáng tác những bài buồn, thương khóc cho thân phận như
những bài Kiếp Nghèo, Nghẹn Ngào, Trăm Nhớ Ngàn Thương.
Tôi
vẫn nhớ bài Nghẹn Ngào (?) đã làm nhạc nền cho vở kịch ‘Áo người trinh
nữ‘ trên Đài Truyền Hình vào những năm cuối của thập niên 60, với nữ
minh tinh Thẩm Thúy Hằng đóng vai cô thợ may. Đoạn cuối vỡ kịch, cô thợ
may đã trầm mình tự vẩn và chiếc áo cưới mà cô may cho người vợ sắp
thành hôn của người cô yêu, được thả theo dòng sông… Nhạc trổi lên: “
Thôi anh đi về đi, Đau thương nầy em xin dành mang, Anh đi về đi cho vui
lòng người ta”…. đã làm mủi lòng không biết bao nhiêu khán giả và đã in
trong tâm nảo tôi.
Như
vậy, Lam Phương là môt người nhạc sĩ in đậm dấu ấn của ông vào một thế
hệ lớn lên ở thập niên 50, 60, 70. Sau 1975, người VN lưu lạc 4 phương
trời, lâu lâu tôi mới nghe lại những bài nhạc VN xưa cũ, riêng những tác
phẩm mới, được các nhạc sĩ miền Nam di tản ra ngoại quốc sáng tác, tôi
thỉnh thoảng khám phá được qua những c***ettes, những CD và những băng
hình, DVD của các hảng sản xuất ở Mỹ, Pháp…Riêng Lam Phương ở ngoại quốc
sáng tác nhiều bài nhạc, nhưng tôi thích những bài vui, yêu đời như
Thiên Đường Ái Ân, Bài Tango Cho Em.
Biết
về cuộc đời của Lam Phương ngày nay, tôi xót xa trong lòng vì ông bây
giờ bịnh tật, sống âm thầm ở Cali…Một tài năng về âm nhạc như Lam Phương
mà phải sống đạm bạc lúc về già, thật là bất công. Tại sao những người
nghệ sĩ VN cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật, đạt đến đỉnh cao của
nghệ thuật mà họ yêu mến và đeo đuổi, được quảng đại quần chúng trọng
vọng thế mà vẫn không khá giả ?? Đó là tình trạng chung của giới nghệ sĩ
VN chăng?
Năm
1791 Mozart chết trong nghèo nàn, năm 1890 Van Gogh tuyệt vọng, tự vẩn
bằng súng. Ngày nay Mozart được tôn sùng là thần đồng âm nhạc và những
bức tranh của Van Gogh trị giá hàng trăm triệu Mỹ kim. Ở thời đại nầy
người ta biết giá trị của người nghệ sĩ nhiều hơn. Nếu họ có tài và được
vinh danh, họ sống sung mản nhờ vào lợi lộc do tài năng của họ đem lại.
Đối với VN, tại sao người nghệ sĩ không được trọng đãi như vậy?
Nước
Pháp có cơ quan SACEM (Socìété des auteurs, compositeurs, et éditeurs
de musique) chuyên lo bảo vệ bản quyền của nhạc sĩ được họ công nhận.
(Muốn gia nhập Sacem người nhạc sĩ phải nộp cho họ một vài sáng tác của
mình để một hội đồng cứu xét, vì họ chỉ thu nhận thành viên có tài năng
âm nhạc thật sự. Theo tôi được biết VN có ba nhạc sĩ là thành viên
Sacem, đó là Lê Mộng Nguyên, Trịnh Hưng và Quách Vĩnh Thiện. Riêng nhạc
sĩ Lam Phương có lẽ lúc ông sống ở Pháp, ông đã không nghĩ đến việc xin
gia nhập cơ quan danh tiếng này mà tất cả các nhạc sĩ Pháp đều có mặt :
Charles Trenet với những bài La Mer, Douce France ; Françoise Hardy với
những bài Tous les garçons et les
filles…Serge
Gainsbourg với những bài Poupée de son, poupée de cire ; La
Javanaise…vv) Sacem đòi hỏi các hộp đêm, phòng trà, các buổi trình diễn
âm nhạc, các Đài Truyền Hình, Truyền Thanh, các cửa tiệm, các cơ quan
công hay tư có phát âm nhạc… tất cả phải trả bản quyền tác giả qua trung
gian của Sacem. Sau đó họ chi trả lại cho nhà soạn nhạc tùy số lần
tác phẩm được xử dụng. Nhờ vậy có những nhạc sĩ sống thoải mái nhờ tiền
bản quyền. Điều đó được người Pháp xem là đương nhiên vì họ có câu nói
rất hay: Toute peine mérite salaire. (Mọi sự cực nhọc, xứng đáng được
trả lương) thì nhạc sĩ hao mòn tâm sức mình để sáng tác cũng phải được
trả công hậu hỉnh.
Người
VN không có cơ quan nào bảo vệ nghệ sĩ. Chúng ta có thói quen xem những
tác phẩm nghệ thuật như một điều tự nhiên, sẳn có trong tầm tay, ‘của
chùa‘, không cần biết tác giả là ai, và dĩ nhiên không hề nghĩ phải trả
tiền bản quyền cho tác giả…Thật là buồn ! Tôi có được biết một vài nghệ
sĩ rất nổi tiếng, khi sang sinh sống ở các nước tự do, không còn muốn
vấn vương vào con đường nghệ thuật vì cho đó là ‘hẩm hiu, bạc bẻo‘. Như
nghệ sĩ Thành Được, đã bỏ hẳn cải lương, không muốn xuất hiện, chỉ muốn
sống yên ổn để làm ăn. Ca sĩ Thanh Phong (ở Pháp) cũng vậy. Những nghệ
sĩ nào còn vương nợ tơ tằm, vấn vương kiếp cấm ca lắm mới đeo đuổi
con đường nghệ thuật dù biết là ‘bạc bẻo‘.
Từ
36 năm xa quê hương, tôi chỉ về lại VN 2 lần. Một lần để giải quyết
việc gia đình, lần sau tôi đi du lịch cùng với nhóm người Pháp, từ Nam
chí Bắc. Tôi muốn biết quê hương VN có những gì…VN bây giờ không còn lưu
luyến bước chân tôi, vì sau 2 lần trở về và sau đó với những gì tôi
được nghe được thấy, tôi đau buồn, chua xót không muốn quay trở lại quê
nhà nữa. Như bao nhiêu người VN khác, nhà cửa của gia đình tôi đã mất,
anh chị em tôi tản lạc… Riêng chị Xuân Đào của tôi, sau năm 1975 đã sống
tàn tạ vì là vợ sĩ quan VNCH, chồng đi học tập, chị một mình nuôi 5 đứa
con dại… nhan sắc phôi phai, đau ốm và chị đã mất trong cảnh đạm bạc.
Còn chị Xuân
Hương mất ở tuổi đôi mươi vì một chứng bịnh ung thư hiểm ác.
Tôi chỉ thích nghe nhạc vui, hay nếu là nhạc buồn thì đừng quá tuyệt vọng, nhưng đôi khi nghĩ ngợi về VN nghe bài Biết Đến Bao Giờ của Lam Phương tôi cảm thấy thấm thía và cảm nhận cuộc đời thật ngắn ngủi và vô thường :
Đời là vạn ngày sầu
Biết tìm vui chốn nào
Ta quen nhau bao lâu
Nhưng tình đã có gì đâu…
Dù đời mình còn dài
Nhưng ngày vui chóng tàn
Ta yêu nhau đi thôi
Cho mộng không vỡ thành đôi…
Ôi ước mơ nhiều cũng thế thôi
Đời chỉ là bạn cùng sương gió
Nghe gió đêm từng cơn ru cô đơn…
Ước
mong sao người VN sẽ sống vui hơn, tương lai sẽ rạng rỡ hơn. Muôn vàn
cảm ơn Lam Phương, người nhạc sĩ tài hoa đã cho đời nhiều bài nhạc thật
khó quên, đã cho riêng tôi khi nghe lại những bài nhạc thời thanh bình
cũ, thấy VN vào những năm 50, 60 thật tươi đẹp và hạnh phúc. Người ta
chỉ có thể đi ngược lại dòng thời gian trong những giấc mơ, đôi khi tôi
muốn nằm mơ thật nhiều.
Thanh Vân
(Paris, 6 tháng 3 năm 2011)
Vĩnh Long
1962
SanDiego 2010
ACTV
Association Culturelle Traditionnelle Vietnamienne
( Hội Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam )
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Oct/2013 lúc 8:50pm
Nguyễn Ánh 9: “Tình chỉ đẹp khi cùng… ăn phở”
Thứ hai, 14/10/2013, 10:23 (GMT+7)
http://nguyentandung.org/nguyen-anh-9-tinh-chi-dep-khi-cung-an-pho.html - -
- ( http://nguyentandung.org/cat/van-hoa - Văn hóa )
- Tôi gặp Nguyễn Ánh 9 tại nhà riêng của ông tại Sài Gòn. Người nhạc sĩ
già tiết lộ ca khúc đầu tiên và cũng là duy nhất tặng vợ (người đã có
gần 50 năm gắn bó cuộc đời với ông – bà từng là một nghệ sĩ thiết hài
đầu tiên ở Việt Nam) sau rất nhiều những bản tình ca buồn mà ông tự nhận
là lấy cảm xúc và khóc giùm người khác, lần đầu tiên ông tự “khóc” cho
hạnh phúc của chính mình trong ca khúc viết tặng vợ ấy… >> http://nguyentandung.org/hay-buoc-ra-cuoc-song-hoi-nhung-nhac-sy-dang-kinh-trong-thap-nga.html - Hãy bước ra cuộc sống, hỡi những nhạc sỹ đáng kính trong 'tháp ngà' >> http://nguyentandung.org/them-mot-nhac-si-thang-than-nhan-xet-ve-ca-si-viet.html - Thêm một nhạc sĩ thẳng thắn nhận xét về ca sĩ Việt >> http://nguyentandung.org/vinh-biet-nhac-si-dat-nuoc-tron-niem-vui.html - Vĩnh biệt nhạc sĩ "Đất nước trọn niềm vui" >> http://nguyentandung.org/cong-dong-nghi-ngo-ly-do-ns-nguyen-anh-9-tu-gia-san-khau.html - Cộng đồng nghi ngờ lý do NS Nguyễn Ánh 9 từ giã sân khấu >> http://nguyentandung.org/diem-lai-cac-su-kien-noi-bat-tuan-thu-48.html - Điểm lại các sự kiện nổi bật tuần thứ 4/8
Bị đuổi khỏi nhà vì trót mê đàn
Một tấm hình nhỏ xíu bằng hai đốt ngón tay úa màu thời gian, vô tình
rơi ra từ chiếc ví nâu đã cũ của người nhạc sĩ già. Những ngón tay gầy
guộc, nhăn nheo –gần 60 năm từng lướt trên phím piano, run run nhặt tấm
hình với ánh nhìn đầy ấm áp: “Vợ tôi đấy, tôi đã đem theo tấm hình này
từ ngày quen bà ấy. Chúng tôi đã đi với nhau một chặng đường dài, rất
dài…”.
Thế rồi nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, người nhạc sĩ mang cái tên theo con số
“hên” mà chính vợ ông đã đặt cho ông sau khi lên xe hoa cùng ông, kể về
con đường của ông đến với nghệ thuật và đến với cuộc tình duy nhất của
ông.
“17 tuổi tôi bị bố mẹ đuổi ra khỏi nhà vì không chịu đi theo con
đường mà bố mẹ đã định sẵn mà theo đuổi niềm đam mê nghệ thuật cùng cây
đàn piano. Gia đình tôi là gia đình khá giả ở Nha Trang. Bố tôi một kỹ
sư xây dựng chuyên thầu những công trình lớn, còn mẹ tôi nổi tiếng là
người đàn bà của gia đình “công dung ngôn hạnh”. Bố mẹ tôi chỉ muốn tôi
trở thành một kỹ sư hoặc bác sĩ những nghề mà ông bà coi là đứng đắn và
danh giá. Với ông bà, cái gì dính đến nghệ thuật cũng đều “xướng ca vô
loài”.
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 lúc trẻ
Tôi đã có những ngày không nhà cửa, không gia đình, lang thang nay
đây mai đó, nên tôi càng quyết chí để trở thành “cái gì đó” để chứng
minh cho bố mẹ thấy người nghệ sĩ là “xướng ca” nhưng không hề “vô
loài”. Tôi đã chọn Đà Lạt là nơi dừng chân của mình.Tôi vừa học đàn
piano, vừa đi đánh đàn ở các phòng trà để kiếm sống. Tôi quen một người
bạn ở trường nhạc, cứ hè đến người bạn rủ tôi về Sài Gòn đánh đàn ở các
phòng trà để luyện tay nghề và cũng để kiếm thêm thu nhập.
Mối duyên với Khánh Ly và “Không” ra đời
Khi đàn ở các phòng trà Sài Gòn ông đã gặp Khánh Ly. Khánh Ly đến hát
với vai một ca sĩ lấp khoảng trống cho các ca sĩ chính, khi ca sĩ chính
đến muộn hoặc bỏ “sô”. Ông đã chứng kiến một lần Khánh Ly chuẩn bị lên
sân khấu thì ca sĩ chính kịp đến, Khánh Ly phải lủi thủi bước xuống, rồi
lủi thủi ra về. Người nhạc sĩ tương lai cảm nhận được nỗi buồn của
người ca sĩ có giọng hát trời phú mà không ai biết để khám phá, vì sao
cô chán nản cuộc đời tìm đến thú vui rượu và thuốc lá. Ông nói: “Nhìn
vào mắt Khánh Ly thấy nó buồn lắm!”.
Sau đó Khánh Ly bỏ về Đà Lạt hát cho các phòng trà Đà Lạt, ông đã trở
thành người bạn của Khánh Ly cùng với Trịnh Công Sơn kết thành bộ ba
thân thiết: nhạc sĩ – ca sĩ – người đệm đàn. Chính âm nhạc của Trịnh
Công Sơn gắn kết tiếng hát của Khánh Ly đã làm cho Nguyễn Ánh 9 nhận ra
rằng, là người nghệ sĩ rất cần một điểm tựa, rất cần một sự đồng điệu.
Đến bây giờ ông cũng không hiểu lý do nào mà “bộ ba” lại tan rã, ngẫm đi
ngẫm lại, chắc là do số phận và thời cuộc. Nhưng điều ông được lớn nhất
khi từng là thành viên của bộ ba này là chính Khánh Ly sau này là người
gợi ý cho ông nhớ về mối tình xưa thuở mới lớn của ông, thôi thúc ông
sáng tác ca khúc đầu tiên của cuộc đời mình: “Không! Không! Tôi không
còn, tôi không còn yêu em nữa!…”. Để rồi lập tức sau ca khúc Không –
cũng là một con số – đã dắt díu từ trong tâm hồn đam mê âm nhạc của ông
ra đời hàng loạt ca khúc như: Biệt khúc, Cô đơn, Chia phôi, Một lời cuối
cho em, Ai đưa em về… từ đó cái tên Nguyễn Ánh 9 trở thành một hiện
tượng âm nhạc ở Sài Gòn. Các ca khúc của ông không chỉ vang lên ở các
phòng trà mà những người lao công cũng có thể ngân nga “đêm nay ai đưa
em về”, hay là “Không! Không! Tôi không còn yêu em nữa” và họ cũng có
thể nghe “hạnh phúc như đôi chim uyên tung bay giữa trời nắng ấm”…
Nàng thơ, ngưởi đàn bà định mệnh
Mê cây đàn, tự mày mò học từ sách, không theo một trường lớp hay thầy
giảng nào, với sự cảm thụ âm nhạc nhạy bén và đầy tinh tế, cùng với
“nghề dạy nghề” khi đi “du mục” ở hầu hết các quán bar Sài Gòn. Ông trở
thành một nghệ sĩ dương cầm đệm đàn không thể thiếu của hầu hết các ca
sĩ gạo cội của Sài Gòn như Khánh Ly, Ánh Tuyết, Trần Thu Hà, Elvis
Phương… Ông tâm niệm, người đệm đàn là người phải nói lên được tinh thần
của bài hát, tác giả muốn nói gì, bài hát đó muốn nói lên điều gì, buồn
vui giận dữ hay yêu thương thì mới đệm cho ca sĩ hay được. Ông tự tin
cho hay, bất cứ ca sĩ nào hát với ông rồi, sau đó không thể nhờ ai đệm
đàn khác được, họ sẽ thấy thiếu vắng và vô hồn. Trần Thu Hà sau khi hát
xong “Cô đơn” do ông đệm đàn đã run run, “Khi con hát với “bố”, con cảm
thấy người con sao sao ấy, con không biết con “bay” tới đâu luôn…”
Nhạc sĩ và vợ
Ông đã dạy cho con trai ông là nhạc sĩ Nguyễn Quang “Con học đàn khi
nào con quên đi con đang đánh thì con mới thành công”. Mình quên đi
nhưng nhớ trong tiềm thức, đó là phản xạ tự nhiên. Với ông, cây đàn như
khúc ruột, không có cây đàn, ông như không có hơi thở, ông thà không có
phụ nữ chứ không thể không có cây đàn – người nhạc sĩ già nhấp một ngụm
cà phê và cười vui nói.
Và rồi từ tiếng đàn ấy ông đã gặp vợ ông – người đàn bà như định mệnh
gắn bó suốt cuộc đời với ông. Bà là nghệ sĩ thiết hài đầu tiên của Việt
Nam. Bà nhảy thiết hài điêu luyện từ năm 12 tuổi. Hai người làm chung ở
một phòng trà ở Sài Gòn, ông đệm đàn cho bà nhảy. Từ sự đồng điệu qua
âm nhạc, hai người đã đến với nhau như một lẽ tự nhiên, thấu cảm. “Chúng
tôi đến với nhau, khi đó bà nhà tôi 20 tuổi, tôi 25 tuổi. Chúng tôi bị
hai bên gia đình phản đối kịch liệt vì cho rằng một cuộc hôn nhân “xướng
ca vô loài” thì làm gì bền chặt?! Hai bên gia đình không đồng ý, chúng
tôi tự làm đám cưới và sống với nhau hạnh phúc để chứng minh cho bố mẹ
thấy rằng, “xướng ca” không “vô loài”!”.
Tuy lúc đầu quyết định đến với nhau có chút bốc đồng nhưng sau gần 50
năm sống với nhau, ông nghĩ đó là một quyết định đúng đắn trong cuộc
đời của ông. Đến giờ phút này ông tự tin nói, chưa một bóng dáng “giai
nhân” nào khác bước vào cuộc đời ông, kể cả trong những ca khúc. Tuy
trong nghề của ông có rất nhiều phụ nữ ái mộ, tìm đến chia sẻ, nhiều
người tình nguyện muốn bên ông nhưng ông đều từ chối.
Ông nói: “Tôi không bao giờ bỏ gia đình, bỏ người phụ nữ đã giữ cây
đàn cho tôi”. Ông kể, tất cả những ca khúc của ông đều mượn tạm từ những
câu chuyện tình của bạn bè, từ phim ảnh… ông “khóc” giùm người khác và
ông “đau” giùm người khác. Chẳng hạn như ca khúc Biệt khúc của ông. Khi
ông chứng kiến bạn ông có người yêu bỏ đi xa, gần 20 năm sau gặp lại,
tình cảm vẫn còn nhưng không thể đến được với nhau. Ông đã viết thay
bạn: “Biết em còn nhớ tình yêu thứ nhất/Biết em còn nhớ tình xưa chất
ngất… Đắng cay tìm đến trong tình đắm say…”.
Và có điều đặc biệt ở người nhạc sĩ này. Bất cứ ca khúc nào ông sáng
tác xong đều hát cho vợ ông nghe. “Cô ấy luôn cho tôi những ý kiến.
Chẳng hạn khi tôi sáng tác ca khúc Lặng lẽ tiếng dương cầm trong đêm.
Câu chót tôi có viết: “lặng lẽ tiếng đàn trong đêm/ một nỗi buồn không
tên/ một tình yêu tôi đã quên” – bà ấy đã nói “anh viết “một tình yêu
tôi đã quên” thì tình yêu của anh nó nhạt lắm chẳng đáng một… xu. Anh
phải viết là “lặng lẽ tiếng đàn trong đêm/ một nỗi buồn không tên/ một
tình yêu đâu dễ quên” thì mới đúng”. Từ đó những bài hát tôi viết ra bà
ấy hay góp ý. Bà ấy làm việc nhà, đi ngang qua ngang lại, thấy tôi ngêu
ngao hát bà lắng nghe rồi đế vào “ồ cái này được này, ồ cái kia em thấy
không hợp lắm vì thế này, vì thế kia…”. Không bao giờ bà ấy hỏi, anh
viết bài này cho ai, cho cô nào? Với tôi, tình yêu bây giờ với bà không
rộn ràng như xưa, nhưng chữ thương ở đây nó nặng lòng lắm!”.
Mỗi năm tới sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới ông đều làm một món quà nho
nhỏ giành cho bà. 47 năm sống chung với nhau ông vẫn giữ thông lệ như
vậy. Có lần nhân kỷ niệm 36 năm ngày cưới, ông không có quà cho bà. Thế
là ông ngồi vào cây đàn piano và sáng tác ngay bài Chuyện chúng mình –
một bài hát ông gửi gắm toàn bộ những gì muốn nói với bà bấy lâu nay mà
không nói được. Ông ví ông như một con thuyền, còn bà là bến đỗ, thuyền
trôi ra sông, ra biển, biển khơi lúc nào cũng đầy sóng gió, thuyền thấy
mình nhỏ bé và mỏi mệt quay trở lại bến, bến vẫn đứng đó, vẫn chờ đợi
thuyền…
Khi sáng tác ông đã bật khóc khi viết đến câu “Hạnh phúc nào không
tả tơi, không đắng cay…”. Ông khẽ cất tiếng hát, giai điệu nhẹ rơi, mắt
ông ngân ngấn. (Tôi thấy thấp thoáng bà đứng trên cầu thang lặng lẽ
quan sát ông).
Bài hát khi viết xong đã được con trai ông là nhạc sĩ Nguyễn Quang
thu vào băng c***ette và tặng bà. Ông kể: “Đó là món quà mà bà thích
nhất trong tất cả món quà ông tặng”. Ông không muốn công bố bài hát vì
muốn giữ là món quà riêng và duy nhất mà ông làm tặng bà – tình yêu thứ
nhất, tình yêu duy nhất! Ông cười: “Người ta nói tình chỉ đẹp khi còn
dang dở – còn tôi thấy “tình chỉ đẹp khi cùng… ăn phở”. Và ông giơ lên
bức tượng nhỏ xíu bằng đồng, hóm hỉnh nói: “Bức tượng này, tôi với bà ấy
mới qua Mỹ tìm mua, người ta có giải Oscar về nghệ thuật, còn mình có
giải Oscar về cặp đôi đẹp nhất!”.
(Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam)
http://mydoba.com/bai/3ca579c1728e40d78304504413418c69/nguyen-anh-9-tinh-chi-dep-khi-cung-an-pho
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Nov/2013 lúc 5:24am
NGƯỜI TÌNH TRONG “NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU” CỦA PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
thuỵvi
Lời ngỏ :
“Tôi là người
đàn bà sống để yêu thương và viết. Trong loạt bài Người Tình Trong Tình
Khúc do tôi sưu tập và viết lại không với ý nghĩa là một công việc “thóc
mách” mà viết với tâm cảm chia sẻ để chúng ta cùng chiêm nghiệm và
chiêm ngưỡng những cuộc tình đẹp, mãi đẹp… dù phải chia lìa, hay vẫn có
nhau bên đời này”.
Công chúng hiếm
khi bắt gặp được tấm hình chụp chung cả đại gia đình như tấm hình chúng
ta thấy trên gồm có Phạm Duy và người đàn bà người ta đồn chính sự phụ
bạc của Khánh Ngọc khiến Phạm Đình Chương phỏng thơ Thanh Tâm Tuyền
thành ca khúc “Nửa Hồn Thương Đau” thật xuất thần !
Trước khi chúng ta trở về quá khứ để lần lại sự thật, người viết xin nhắc lại một chút về người nghệ sĩ tài hoa này.
Nhạc
sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Khi soạn nhạc
ông lấy tên thật là Phạm Đình Chương. Đi hát có tên là Hoài Bắc. Quê nội
ở Hà Nội còn quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình mang
truyền thống âm nhạc, thân phụ là Phạm Đình Phụng.
Người
vợ đầu của cha ông, sinh được 2 người con trai tên Phạm Đình Sỹ và Phạm
Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con
gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm tức ca sĩ Hoài Trung, trong
ban hợp ca Thăng Long như đã nói.
Người
vợ sau tức mẹ ruột Phạm Đình Chương sinh 3 người gồm trưởng nữ là Phạm
Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là
nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức
nữ ca sĩ Thái Thanh.
Khánh Ngọc là
một ca sĩ thành danh trong làng nhạc từ những năm giữa thập niên 1950
đến đầu thập niên 1960, cô là một ca sĩ được nhiều người biết với tên
gọi “ngọn núi lửa”, bởi cô có bộ ngực hấp dẫn và thường quyến rũ khán
giả say đắm mỗi khi cô lên hát.
Ngoài ra cô còn
là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng trước cả Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng,
Trang Thiên Kim, Kiều Chinh… Khán giả ngày hôm nay có thể không biết
đến cô, nhưng trong ký ức những khán giả miền nam trước năm 1975… và
nhất là những khán giả tuổi 60-70 thì Khánh Ngọc là một trong những ngôi
sao thuộc thế hệ đầu tiên sáng chói trong làng điện ảnh Sài Gòn.
Từ nhỏ, lúc còn
đi học cô rất thích ca nhạc, nên năm 12 tuổi đã theo học nhạc với nhạc
sĩ Dương Thiệu Tước và Minh Trang, lúc đó cặp nghệ sĩ này giữ phần ca
nhạc ở Đài Phát Thanh Pháp Á và Quốc Gia. Cuộc đời nghệ thuật của cô bắt
đầu từ đó. Bản nhạc đầu tiên cô trình diễn là bản “Tiếng Hát Lênh Đênh”
của Từ Pháp, hát ở rạp Nam Việt, Saigon. Lúc đó trước khi trình chiếu
phim luôn có những chương trình phụ diễn tân nhạc và ca sĩ Khánh Ngọc đã
hát hằng tuần ở các rạp Nam Việt, Nam Quang, Văn Cầm, Đại Nam và đi lưu
diễn nhiều nơi khác.
Đến năm 13, 14 tuổi ca sĩ Khánh Ngọc hát ở các Đài
Phát Thanh và hát trong các chương trình đại nhạc hội ở Saigon, các
tỉnh, Đà Lạt, và ra Miền Trung, Sau đó ca sĩ Khánh Ngọc gia nhập Ban Gió
Nam trong đó có Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung và Hoài Bắc, rồi ra
Bắc thì có Trần Văn Trạch, nhạc sĩ Võ Đức Thu và ban ca nhạc nhảy múa là
Lưu Hồng, Lưu Bình.
Vào năm 1955 có
phái đoàn ngoại quốc đến Saigon để tìm các diễn viên cho phim “Ánh Sáng
Miền Nam”. Đạo diễn phim này là người Phi Luật Tân cũng chọn nhiều diễn
viên, nhưng qua một chương trình nhạc cảnh “Được Mùa” do Ban Hợp ca
Thăng Long trình diễn tại rạp Việt Long, đạo diễn Phi Luật Tân “chấm”
cùng lúc là minh tinh của ba bộ phim đều thành công, Khánh Ngọc cũng
được khán giả mến mộ nhiều nên cô đã ca hát mỗi tối ở các vũ trường lớn
của Saigon, Chợ Lớn lúc bấy giờ. Khánh Ngọc là một vì sao sáng chói nhất
của vòm trời ca nhạc điện ảnh Việt Nam.
Khánh
Ngọc cũng chính là người vợ thương yêu của Phạm Đình Chương. Thời gian
này nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe phong phanh Khánh Ngọc ngoại tình
nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ và bỏ ngoài tai tất cả những
nguồn tin “lá cải” ấy. Cho đến khi biết được sự thật không thể phủ nhận
được. Vào những năm của thập kỷ 60, báo chí Sài Gòn xôn xao vụ ly dị của
vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương – Khánh Ngọc. Có thể nói rằng sự
tan vỡ của gia đình tiếng tăm thời bấy giờ được dư luận quy cho môt cuộc
tình vụng trộm giữa ca sĩ Khánh Ngọc và “tình địch” không ai chính là
nhạc sĩ Phạm Duy !
Đó là một chia tay bất ngờ, không thể oan trái hơn, giữa ông và nữ ca sĩ Khánh Ngọc.
Thảm
kịch với sức chấn động và, dư chấn dội lại dài lâu từ dư luận, thân,
tâm, đã dập tắt mọi tiếng cười. Khóa chặt mọi nẻo đường dẫn tới tiếng
hát.
Ban “Thăng Long”’ bị chôn sống sau địa chấn.
Nhà
văn Mai Thảo kể, rời bỏ đầu tiên khỏi “bản doanh” đại gia đình Thăng
Long ở đường Bà Huyện Thanh Quan là Phạm Duy và Thái Hằng. Phần còn lại
gồm cả “Bà mẹ Thăng Long” (thân mẫu nhạc sĩ Phạm Đình Chương), dọn về
một ngôi nhà nhỏ ở đường Võ Tánh.
Đó là thời gian
họ Phạm sống những ngày gần như cắt đứt mọi liên hệ xã hội. Ông chỉ
tiếp xúc với một số bằng hữu thân thiết, giới hạn. Vẫn theo lời kể của
nhà văn Mai Thảo, đang từ một “tay chơi” một “star,” thần tượng của giới
trẻ thời đó, Phạm Đình Chương đã lột xác thành kẻ khác. Ông thay đổi
hoàn toàn. Từ sự không còn một chút để ý quần áo, ăn mặc, tới sự tắt
ngấm nụ cười. Ông trở thành một người không chỉ kiệm lời, đôi khi còn
bẳn gắt nữa.
Mai Thảo, tác giả tiểu thuyết “Mười đêm ngà ngọc,” một truyện dài viết về gia đình Thăng Long, nói : “Nhiều
khi cả ngày Hoài Bắc không mở miệng… Nhưng số anh em thân, vẫn lui tới,
không bảo nhau, chúng tôi tôn trọng sự im lặng của Hoài Bắc. Chúng tôi
tìm mọi cách, nghĩ đủ mọi chuyện chỉ với mục đích sao cho bạn vui. Bạn
có thể có lại nụ cười…”
Trái với một
vài bài viết cho rằng ngay sau đó, họ Phạm đã sáng tác một số ca khúc
như “Nửa hồn thương đau” hay “Người đi qua đời tôi,” “Khi cuộc tình đã
chết”… Như một phản ứng tức khắc với phần số.
Sự thực dư chấn
của thảm kịch đã giảm thiểu mọi hoạt động của nhạc sĩ Phạm Đình Chương
một thời gian khá dài. Nó như một dấu lặng (bất thường) trong âm nhạc !
Bản
nhạc “Nửa hồn thương đau” viết xong vào năm 1970, tại Đêm Mầu Hồng,
đường Tự Do theo yêu cầu của anh Quốc Phong, giám đốc Liên Ảnh Công Ty,
để dùng cho cuốn phim Chân Trời Tím do công ty này sản xuất. Toàn bản
nhạc do chính Phạm Đình Chương đặt lời. Chỉ duy nhất có hai câu cuối bài
trích ở tác phẩm Lệ Đá Xanh, thơ Thanh Tâm Tuyền, nhạc Cung Tiến mà
thôi.
Khi được hỏi
tại sao chỉ còn hai câu chót mà “Nửa hồn thương đau” lại phải mượn nhạc
Cung Tiến thì Phạm Đình Chương cho biết : “Khi tôi nhận lời viết một
nhạc phim cho phim “Chân trời tím,” Quốc Phong chi ngay tiền tác quyền.
Trước sự điệu nghệ của bạn, tôi đã bắt tay vào việc sáng tác. Thời gian
tôi dành cho ‘Nửa hồn thương đau’ không nhiều lắm. Nhưng khi tới phần
“coda” tức là lúc phải đi ra, kết thúc ca khúc, tôi loay hoay không biết
phải viết sao cho hợp với nội dung bản nhạc… Nghĩ thời hạn “nộp bài”
còn xa, tôi cất nó đi. Bất đồ, một buổi tối Quốc Phong ghé lại ‘Đêm mầu
hồng’ đòi nợ ! Bảo, mọi chuyện đã sẵn sàng. Ê kíp quay đã ‘bấm máy’. Chỉ
còn thiếu nhạc phim thôi. Quốc Phong gia hạn cho tôi, tối đa, hai ngày !
Ông biết mà, tôi làm gì được với hai ngày phù du đó ! May sao, khi ấy,
trên nóc chiếc piano của tôi, lại có bài ‘Lệ đá xanh’ của Cung Tiến, phổ
thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi thấy cái coda bài này có vẻ thích hợp với ‘Nửa
hồn thương đau’, thêm nữa, cả hai đều là bạn rất thân; thế là… ‘a lê
hấp’, tôi dùng ngay cai ‘coda’ đó. Và, tôi có ghi rõ là tôi ‘mượn’ của
Cung Tiến…”
Nhìn lại giai
đoạn “hậu địa chấn” bi kịch vùi dập đời riêng của họ Phạm, kể từ cuối
thập niên (19)50 tới 1967, những người theo dõi sáng tác của ông trong
giai đoạn này, hầu như không tìm thấy một ca từ nào mang tính kết án,
nguyền rủa hay, thù oán… Mà trái lại.
Ngay ca khúc
“Nửa hồn thương đau” được dư luận nhắc tới, bàn tán nhiều nhất và, đề
quyết rằng, họ Phạm viết ca khúc này nhằm gửi tới người bạn đời đã chia
tay trong quá khứ của ông thì, “đỉnh điểm” của ca từ cũng chỉ là những
câu hỏi ném ngược về quá khứ. Như một tỏ-tình- với-dĩ-vãng. Một
nâng-niu-vết-sẹo-định-mệnh: “Nhắm
mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau / ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau /
hay ta còn hẹn nhau kiếp nào? / Anh ở đâu ? / Em ở đâu ?” (Lời hoàn toàn của Phạm Đình Chương.)
Từ góc độ này,
có người đã kết luận, nhạc sĩ Phạm Đình Chương không chỉ lớn lao ở tài
năng, mà ông còn lớn lao ở phong cách đối mặt với thảm kịch và, ăn ở với
người, với đời nữa. *
Ngay với ca
khúc tựa đề “Người đi qua đời tôi” thì họ Phạm cũng đã chọn câu thơ như
một câu hỏi, có thể làm nao lòng người nghe là : “Em đi qua đời anh /
không nhớ gì sao em ?”
Bà Khánh Ngọc giờ ra sao ?
Sau
khi ly hôn và giao đứa con trai khoảng 4 tuổi lại cho nhạc sĩ Phạm Đình
Chương nuôi. Năm 1961 bà Khánh Ngọc qua Mỹ học về điện ảnh. Trong một
cuộc phỏng vấn được đưa lên Youtube do bà Tuyết Mai thực hiện tại
Florida vào năm 2007 (**), người viết thấy bà Khánh Ngọc còn đẹp, nhất
là nhìn hấp dẩn lắm, ánh mắt rất đa tình, ác liệt, miệng rộng, hơi móm
nhưng duyên dáng. Bà nhắc lại những giai đoạn ca hát như ở trên. Có lẽ
bà Tuyết Mai nóng ruột tò mò muốn hỏi về những chuyện riêng của “ngày
xưa” nhưng ý tứ không dám sổ sàng. Riêng bà Khánh Ngọc lúc nào cũng
cười, khi nhắc đến ban hợp ca Thăng Long, thái độ bà rất thản nhiên, bà
cho biết, khi qua Mỹ bà gặp một du học sinh và hai người hiểu nhau rồi
kết hôn. Hiện bà có 3 người con và đang sống hạnh phúc tại Losan. Bà vẫn
thường xuyên đi đây đó ca hát trong những hội đoàn cộng đồng bè bạn và
ao ước được về sống tại Việt Nam trong những ngày cuối đời.
Người
viết chưa thấy tài liệu nào nói ông Phạm Đình Chương có gặp lại bà
Khánh Ngọc lần nào không. Nhưng trong bài Tưởng mộ Phạm Đình Chương của
Mai Thảo, và trong bài tưởng mộ Mai Thảo của bà Lê thị Huệ có nhắc đến
bà Ý Liên, người vợ sau của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và vẽ lại hình ảnh
bà như sau :
- “Hai lần tôi
gặp Liên trong hai đêm tối. Một lần ở nhà Phạm Đình Chương ở ngôi nhà
vùng Norwalk, khi tôi ngó thấy Ý Liên lần đầu tiên tôi nói với Mai Thảo
và Phạm Đình Chương, Liên là Liên tiểu thuyết. Liên im ắng nhìn tôi và
ngồi yên trong vị trí tôi đặt định cho Liên. Đêm nay tôi gặp lại Liên
hai ông kia không còn. Nhưng một người đàn ông khác, ông Đặng Trần Thức
quay lưng lại mời Liên ngâm một bài thơ. Đêm sâu và giọng Liên nhung êm :
“Trời cuối thu rồi em ở đâu. Nằm trong mồ lạnh chắc em sầu” Tình yêu
Liên rút lòng ra rũ rượi như bóng ma da đêm. Đâu đó thấy hai chiếc bóng
Phạm Đình Chương và Mai Thảo in trên tường nhà Trần Diệu Hằng đêm nay
!…” (***)
Chúng ta hãy
nghe lại bài hát này với giọng ca Thái Thanh, để khắc khoải, buồn cho
một cuộc tình không trọn vẹn, như của tôi, như của bạn, như của những
người chung quanh chúng ta…
thuỵvi
Cảm ơn, và, xin phép được trích :
(*) Trang Du Tử Lê
(**) Mời xem YouTube về bà Khánh Ngọc do Tuyết Mai thực hiện :
http://www.youtube.com/watch?v=nkLjrxrrRZ0 - http://www.youtube.com/watch?v=nkLjrxrrRZ0
(***) Trang Gió
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Nov/2013 lúc 9:28pm
HÙNG CƯỜNG ...Nghệ sĩ tài hoa đến
" NGÔI MỘ NHỎ VEN ĐƯỜNG LÀNG "
Những chuyện đã biết và chưa hay về HÙNG CƯỜNG ,có lẽ nhiều người muốn biết
Một bài viết giới thiệu khái quát về một Nghệ Sĩ HÙNG CƯỜNG ...
Mời Quý Vị hãy nhớ về một cuộc đời ...HÀO HOA...
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - (theo
Báo Lao động)
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - - ớ - ở - ờ - ệ - ổ - ậ - ầ - ế - ự - ệ - ậ - ạ - ả - ị - ả - ề - ừ - ợ - ấ
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường cũng là nam nghệ sĩ được cho là có nhiều vợ và bồ nhất ở Sài Gòn.
Vậy mà khi chết đi, ông nằm trong ngôi mộ nhỏ ven con đường làng ở Bến
Tre.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - - ộ - ấ - ả
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Cho
tới ngày nay, chưa có ai làm được chuyện “kinh thiên động địa” trên sân
khấu cải lương như Hùng Cường. Đó là vào năm 1959, một nghệ sĩ chưa
từng được biết trong giới cải lương, chưa từng đảm nhận bất cứ vai phụ
nào, bỗng bất ngờ xuất hiện trong vai chính và
thành công vang dội.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Đó
là điều không thể hiểu nổi, bởi một người theo nghề cải lương phải mất
ít nhất 2-3 năm làm “giàn bao” mới lên được vai phụ, rồi cũng mất chừng
ấy thời gian mới lên được vai chính nếu thực sự có tài và khổ luyện.
Người làm chuyện “động trời” ấy là ca sĩ tân
nhạc Hùng Cường.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Trước
đó, dù là ca sĩ tân nhạc nổi tiếng, nhưng Hùng Cường rất yêu thích cải
lương, nên bỏ công sức nghiên cứu, học hỏi. Với một nền móng nhạc lý
vững vàng, cộng với chất giọng đã được trui rèn và sự kiên trì, cố gắng
khổ luyện, ông đã mạnh dạn bước lên sân khấu
cải lương và khẳng định ngay tên tuổi của mình.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Đoàn
cải lương Ngọc Kiều như đánh cược với chén cơm manh áo của mấy chục con
người khi chấp nhận cho ca sĩ tân nhạc Hùng Cường chưa hề hát cải lương
đóng vai chính Roméo trong vở mới dựng “Mộng đẹp đêm trăng”. Một giàn
diễn viên gạo cội thời đó của đoàn Ngọc Kiều
như Ngọc Đáng, Ngọc Giàu, Hoàng Kinh, Thanh Sang, Kim Nguyên, Thanh Kỳ…
đã chấp nhận làm “giàn bao” cho Hùng Cường.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Kể
từ đó, trên bầu trời cải lương miền Nam xuất hiện một ngôi sao rực
sáng, Hùng Cường đã giúp cho tiếng tăm và doanh thu của đoàn Ngọc Kiều
cải thiện đáng kể. Với vóc dáng “sáng” sân khấu, chất giọng tenor khỏe,
lối diễn xuất vừa tự nhiên vừa tự tin và rất hợp
lý, cùng những bài bản cải lương đã được luyện tập kỹ càng, Hùng Cường
đã thành công vang dội ngay từ vai diễn đầu.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Tức
thì, chủ đoàn Ngọc Kiều ký tiếp hợp đồng với Hùng Cường để hát vai
chính trong kịch bản mới “Tuyết phủ chiều đông” sẽ khai trương tại rạp
Viễn Trường (Mỹ Tho, Tiền Giang) sau một tháng tập dượt. Hùng Cường đã
mướn riêng một nhạc sĩ cổ nhạc đến nhà ông luyện
tập ngày đêm. Ngoài ra ông rất nhạy bén, biết được sở đoản, sở trường
của mình, nên đã phối hợp với soạn giả cải lương lồng vào kịch bản khá
nhiều đoạn tân nhạc, khai thác đúng tài năng của ông.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - “Tuyết
phủ chiều đông” của soạn giả Bạch Yến Lan và giọng hát mới toanh Hùng
Cường đã tạo nên một sự kiện chấn động “thánh địa cải lương” Mỹ Tho. Rạp
Viễn Trường đầy kín từ chỗ ngồi đến chỗ đứng, bên ngoài còn dư khán giả
gần nửa rạp.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Tiếp
theo, đoàn Ngọc Kiều dựng tiếp vở cải lương “Màu tím đèn hoa giấy”,
khai trương từng bừng tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo năm 1960, rồi tiếp tục
lưu diễn nhiều tỉnh, thị xã lớn ở miền Tây. Hùng Cường đóng vai Kha
Phong – một kiếm sĩ Phù Tang điêu luyện, bên cạnh
tài danh Ngọc Đáng. ”Ngôi sao” cải lương Hùng Cường rực sáng từ dạo đó.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - - ị - ế - ạ
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường tên thật là Trần Kim Cường, sinh năm 1936 tại tỉnh Bến Tre, sau
theo gia đình về sinh sống ở Sài Gòn. Ngay từ khi còn là học sinh Trường
Trung học Trần Hưng Đạo, ông đã có thể tự sáng tác và biểu diễn những
bài hát học sinh trong các lần hội diễn của
trường. Sau khi học xong “tú tài”, ông chính thức theo nghiệp ca hát
tại các vũ trường Kim Sơn, Baccara…
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Ngay
từ những năm 1954-1955, Hùng Cường đã nổi tiếng với các nhạc phẩm “tiền
chiến” như : Ông lái đò, Vọng ngày xanh, Sơn nữ ca, Đường xưa lối cũ…
Tất cả đều được thu đĩa và đạt số bán kỷ lục ở Sài Gòn bấy giờ.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Sau
khi bước sang cải lương và thành công vang dội, Hùng Cường vẫn tiếp tục
gắn bó với sân khấu ca nhạc và lại làm người hâm mộ quay cuồng theo ông
với một thể loại nhạc mới lạ lần đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn – nhạc
giật, như cách gọi lúc đó là nhạc “kích động”,
một dạng pop-rock đã được Việt Nam hóa. Nhạc “kích động” với giọng ca
Hùng Cường chỉ thực sự đạt đỉnh cao khi phối hợp cùng Mai Lệ Huyền – một
ca sĩ nữ cũng “quậy” không kém.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Những
ca khúc tươi vui và “kích động” như : Hai trái tim vàng, Vì chưa ngỏ ý,
Túp lều lý tưởng… đã từng làm sôi động giới trẻ miền Nam cuối thập niên
1960 – đầu 1970.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Sau
ca nhạc, cải lương, Hùng Cường tiếp tục “lấn sân” sang điện ảnh. Hàng
loạt các phim do Hùng Cường thủ vai chính được người xem chú ý thời bấy
giờ như : “Chân trời tím”, “Mãnh lực đồng tiền”, “Còn gì cho nhau”,
“Nắng chiều”, “Ly rượu mừng”, “Vết thù trên lưng
ngựa hoang”… Lúc mới bước sang điện ảnh, Hùng Cường bị châm chích rất
ác ý, chê bai là “cải lương”.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Thế
nhưng, sau khi thành công với phim đầu tiên “Chân trời tím”, nhiều hãng
phim đã mời Hùng Cường cộng tác và phim nào có tên ông cũng ăn khách.
Hãng phim Kim Thân đã trả thù lao khá cao để mời Hùng Cường và Mai Lệ
Huyền đóng cặp trong phim “Mãnh lực đồng tiền”.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Theo
chân Hùng Cường, nhiều đào kép cải lương khác ở Sài Gòn cũng tham gia
đóng phim, mà nổi hơn cả là Thanh Nga và Mộng Tuyền. Lúc đầu, các nữ tài
tử điện ảnh rất ngại đóng cặp với kép hát cải lương, trong đó có Hùng
Cường. Theo báo chí thời ấy, công ty phim truyện
Liên Ảnh trước khi mời Kim Vui đã có ngỏ ý mời Thẩm Thúy Hằng đóng cặp
với Hùng Cường, nhưng Thẩm Thúy Hằng từ chối, có lẽ do “định kiến” ấy.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Nhưng
sau đó “người đẹp Bình Dương” Thẩm Thúy Hằng mới tiếc rẻ, khi thấy Kim
Vui nổi bật bên Hùng Cường trong phim “Chân trời tím” và phim vừa thành
công về tài chính vừa đoạt Giải văn học nghệ thuật Sài Gòn năm 1971, lại
vinh dự là lần đầu tiên một cuốn phim Việt
Nam phụ đề Pháp ngữ được gửi đi trình chiếu tại Ðại hội điện ảnh tổ
chức ở Dianard, Anh Quốc.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Vào
những năm 1960, khi cải lương đang chiếm lĩnh Sài Gòn, một nhóm “kịch
sĩ” đứng đầu là Vân Hùng, La Thoại Tân, Hùng Cường hợp cùng kỳ nữ Kim
Cương, Thẩm Thúy Hằng và ca sĩ Túy Hồng tạo nên một “đặc chủng” nghệ
thuật mới mang tên “Kịch nghệ Sài Gòn”. Kịch Sài
Gòn ra đời muộn, không ồn ào, không thu hút ngay được nhiều khán giả
tới rạp, nhưng dần dần cũng tạo được chỗ đứng.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng -
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Ngoài
kỳ nữ Kim Cương vốn là con nhà nòi về kịch nói, số còn lại đều từ điện
ảnh, ca nhạc sang. Có thể nói, chính những cái tên như Thẩm Thúy Hằng,
Hùng Cường đã lôi kéo một lượng khán giả không nhỏ, giúp sân khấu kịch
Sài Gòn có chỗ đứng và phát triển dần.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - “Cải
lương chi bảo” Bạch Tuyết bên mộ phần danh ca Hùng Cường. Trước 1975,
Hùng Cường thường ca diễn cặp đôi với Bạch Tuyết trên sân khấu cải
lương.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - - ờ - ễ
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Trong
giới tài tử điện ảnh ở Sài Gòn trước năm 1975, có hai người được cho là
giỏi võ nhất, đó là Lý Huỳnh và Hùng Cường. Lý Huỳnh vừa đóng phim vừa
mở võ đường Thái cực đạo, nên được phong là “võ sư”.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường mê đánh quyền Anh từ thời học sinh, sau này ông vẫn tiếp tục tập
quyền Anh như là môn võ thể dục giúp rèn luyện sức khỏe. Lúc ấy, phong
trào tập luyện quyền Anh ở Sài Gòn rất yếu, số người giỏi chỉ có thể đếm
trên đầu ngón tay, trong đó có Hùng Cường.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Năm
1970, khi hàng trăm ngàn bà con Việt kiều bỏ nhà cửa, đất đai, tài sản ở
Campuchia về Việt Nam lánh nạn và sinh sống, mở lò dạy quyền Anh thì
phong trào mới phát triển trở lại. Sau đó, người ta tổ chức thi đấu môn
quyền Anh, Hùng Cường cũng đăng ký “thượng
đài”, nhưng vào phút cuối đã bỏ cuộc vì bận theo đoàn hát đi lưu diễn
xa. Chuyện này được Hùng Cường thể hiện lại trong nội dung một vở cải
lương sau đó.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường còn thọ giáo môn võ Bình Định của một thầy dạy võ nổi tiếng ở Quy
Nhơn trong một lần đi diễn ở đây. Khi về Sài Gòn, Hùng Cường rước hẳn
thầy dạy võ vào Sài Gòn dạy cho mình cả năm trời. Với năng khiếu bẩm
sinh, Hùng Cường đã nhanh chóng thăng đến hạng
đai đen.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng -
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Nhờ
tập luyện nhiều môn võ Đông Tây kim cổ mà Hùng Cường rất giỏi võ và có
sức khỏe hơn người. Khi đóng phim hay diễn trên sân khấu, ông thường ra
đòn giống như thật, nếu người bạn diễn cũng giỏi võ, họ sẽ cống hiến cho
người xem những màn biểu diễn võ thuật đẹp
mắt. Nhờ giỏi võ mà khi đóng phim ở những trường đoạn đánh nhau hoặc
cảnh đóng nguy hiểm, Hùng Cường thường tự đóng chứ không nhờ người đóng
thế, đó cũng là một lợi thế của Hùng Cường so với những nghệ sĩ đóng
phim khác.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Nét
mộc mạc của Hùng Cường khi mới gia nhập làng giải trí.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Từ
khi cuộc Chiến tranh Việt Nam bùng nổ (1964), lượng ca khúc về đề tài
chiến tranh và người lính mau chóng chiếm ưu thế trên thị trường băng
đĩa. Hùng Cường là một trong những giọng ca hàng đầu của dòng nhạc lính.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Do
sự đa dạng của quân – binh chủng Việt Nam Cộng hòa, màu áo lính trở nên
đặc trưng cho từng đơn vị. Thời điểm chiến tranh lan rộng, giới nghệ sĩ
thường chọn cho mình một sắc áo để ca diễn ; với nét hào hoa, lịch lãm
thường thấy, Hùng Cường có vẻ rất hợp với
bộ quân phục Nhảy Dù (biệt danh của binh chủng này là Thiên thần mũ đỏ dù hoa).
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Khi
hát cặp với Bạch Tuyết, Hùng Cường thường chọn cổ nhạc để phù hợp với sở trường của hai người.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường, Phượng Liên tham gia chương trình văn nghệ “Tiếng nói động viên” của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 1969.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường, Phượng Liên trong vở cải lương “Đời là một chữ T”, đoàn Dạ Lý Hương – 1969.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Trước
1975, Hùng Cường – Mai Lệ Huyền là thương hiệu đắt show nhất trong dòng
kích động nhạc. Đương thời, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhận xét : “ - Lính mà chưa biết Mai Lệ Huyền thì chưa thực sự là … lính“,
cũng bởi vì đôi ca sĩ này thường hát nhạc lính và rất được giới quân
nhân ái mộ, họ cũng thường lưu diễn tại các tiền đồn, có khi địch – ta
chỉ cách nhau vài mét.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường – Mai Lệ Huyền được mệnh danh là “Song ca trời phú”.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Một
album được thiết kế rất đẹp của Mai Lệ Huyền có Hùng Cường góp giọng
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường và Thanh Nga trong phim Nắng chiều (1971).
Cuốn phim này là một thành quả hợp tác của điện ảnh Việt Nam Cộng hòa và
Hồng Kông, cảnh quay thực hiện tại Huế, Quảng Trị.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường và Kiều Chinh trong phim Bão tình (1972). Bộ phim được thực hiện hoàn toàn tại bãi biển Nha Trang.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Sau
1975, danh ca Hùng Cường bị mắc kẹt lại ở Việt Nam mấy năm, ông vượt
biên sang Mỹ (sau nhiều lần vượt biên và bị tống giam) và tiếp tục sự
nghiệp ca hát cho đến khi qua đời (1996). Câu nói nổi tiếng nhất của ông
được đồn đại : “ - Đố
ai bắt được chim Cường !“.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Hùng
Cường – Mai Lệ Huyền sau 1975.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Sau
1975, do tuổi tác đã cao, Hùng Cường – Mai Lệ Huyền chủ yếu tái hiện
các ca khúc đình đám trước 1975, nhưng phối giọng có phần nhẹ hơn.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Album
cuối cùng trước khi tạ thế của Hùng Cường.
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng">
https://pinterest.com/pin/create/button/?url=http://ttxva.org/nguoi-co-nhieu-vo-va-bo-bac-nhat-sai-gon-tu-nghe-si-tai-hoa-den-ngoi-mo-nho-ven-duong-lang/&media=http://ttxva.org/wp-content/uploads/2013/10/hung-cuong-1.jpg&description=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20nhi%E1%BB%81u%20v%E1%BB%A3%20v%C3%A0%20b%E1%BB%93%20b%E1%BA%ADc%20nh%E1%BA%A5t%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20:%20T%E1%BB%AB%20ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%20t%C3%A0i%20hoa%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%B4i%20m%E1%BB%99%20nh%E1%BB%8F%20ven%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%A0ng - Còn
rất lâu nữa, người yêu nhạc mới quên được hai giọng ca này.
***
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Nov/2013 lúc 6:39am
Những bóng hồng trong thơ nhạc.
Bài thơ Màu tím hoa sim của
Hữu Loan được vinh danh là “một trong những bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX” và
lập những kỷ lục: Bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc nhất (7 ca khúc) và Bài
thơ được mua với giá cao nhất (100 triệu đồng, thời điểm năm 2004).
Nhà thơ Hữu Loan thời thiếu niên (đầu thập niên 30 thế kỷ trước) thuộc dạng cực
kỳ thông minh. Bố ông là tá điền, nhà nghèo không có điều kiện cắp sách đến
trường như các bạn đồng trang lứa, Hữu Loan chỉ được cha dạy cho “chữ có, chữ
không”… Vậy mà cậu đỗ đầu kỳ thi cao đẳng tiểu học, rồi rời quê nhà (làng Vân
Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn) để lên tỉnh lỵ Thanh Hóa vừa đi dạy kèm, vừa
theo học trường Trung học Đào Duy Từ. Năm 1941, Hữu Loan ra Hà Nội thi tú tài,
thi chỉ để “chứng tỏ con nhà nghèo cũng có thể đỗ đạt”. Y như rằng, trong hơn
700 thí sinh, nhưng số người đỗ chỉ “đếm trên đầu ngón tay” ấy lại có tên…
Nguyễn Hữu Loan.
Dạo ấy ở Thanh Hóa có cửa hàng vải và sách báo của bà Tham Kỳ (bà này tên thật
là Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Thanh tra Canh nông Đông Dương Lê Đỗ Kỳ, nên
gọi tắt là bà Tham Kỳ). Bà là người hiền lành, tốt bụng. Thấy “cậu tú Loan” là
người hay chữ có tiếng lại thường đến cửa hàng của mình đọc sách, nên đã bàn
cùng chồng mời “cậu tú” làm gia sư cho các con của mình, gồm: Lê Đỗ Khôi, Lê Đỗ
Nguyên (tức trung tướng Phạm Hồng Cư sau này), Lê Đỗ An và cô con gái Lê Đỗ Thị
Ninh…
Trong hồi ký, nhà thơ Hữu Loan viết: “Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà
gọi mãi đứa con gái - lúc đó 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước lên khoanh tay,
miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!”. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn
thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào
tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em học, dạy viết… Em
thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như
“bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo… những buổi
trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà
mang ra giếng giặt…”.
Có một buổi chiều, anh giáo trẻ đưa cô học trò nhỏ lên chơi ở ngọn đồi gần nhà.
“Leo đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi bên em. Chúng tôi ngồi thế một
hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời… “Thầy có thích ăn sim không?”. Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu
sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên
thảm cỏ… Khi tôi tỉnh dậy, em ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả
sim đen láy, chín mọng… “Thầy ăn đi!”. Quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì
nhưng thú thật chưa bao giờ tôi ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng
tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím,
đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên,
em cũng cười theo.
Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi
ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống
đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em đưa bàn tay nhỏ xíu như chiếc
lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Em vẫn
đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều
nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô
học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp…
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn, việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do
bố mẹ em ngấm ngầm soạn kịch bản. Tôi bàn chuyện may áo cưới thì em gạt đi, bảo
là “yêu nhau cốt là ở cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả!”. Tôi cao ráo,
học giỏi, làm thơ hay lại… đẹp trai nên em thường gọi đùa là “anh chồng độc
đáo”. Đám cưới được tổ chức tại ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
(nơi gia đình ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng) - rất đơn sơ nhưng hai chúng
tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần nghỉ phép của tôi trôi qua thật nhanh. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn
đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có điều giờ em không còn là
cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi rồi quay đầu
nhìn lại… Nếu như chín năm trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì
lần này… đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống!
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Hôm đó là ngày 25 tháng 5
âm lịch năm 1948. Em ra giặt quần áo ngoài sông Chuồn, vì muốn chụp lại tấm áo
bị nước cuốn trôi nên trượt chân chết đuối… Khi ấy, chúng tôi đang đóng quân ở
Nghệ An, tôi ngồi lặng đi, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra… Chẳng cần phải
suy nghĩ gì, những câu, những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nàng có ba người anh đi
bộ đội/Những em nàng/Có em chưa biết nói… Tóc nàng xanh xanh/ngắn chưa đầy
búi/Em ơi giây phút cuối/không được nghe nhau nói/không được trông nhau một
lần/Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím/áo nàng màu tím hoa sim…”.
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương. Viết lại
bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã
chép lại và chuyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu
tím hoa sim…”.
Sau năm 1975, nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Sài Gòn. Một hôm đang đi trên phố ông
bắt gặp một người đàn ông cụt chân ôm cây guitar cũ kỹ hát xin tiền. Lời bài
hát nghe quen quá: “Những đồi hoa sim ơi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền
biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai. Mấy lúc
xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về. Rồi một chiều mưa bay, từ nơi
chiến trường Đông Bắc đó, lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi…”. Hỏi, mới
biết đó là bài Những đồi hoa sim mà lần đầu tiên Hữu Loan được nghe. Ông đề
nghị người hành khất hát lại một lần nữa, rồi vét sạch tiền trong túi bỏ vào
chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc”, rồi bước đi với
đôi mắt ngấn lệ…
Hà Đình
Nguyên
Thúy đã đi rồi, nhiều bạn đọc đã
quan tâm đến nữ ca sĩ tài sắc một thời Thanh Thúy và yêu cầu cho biết rõ hơn về
nhân vật này. Xin cung cấp thêm nhiều chi tiết thú vị…Thanh
Thúy tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy, sinh năm 1943 tại Huế trong một gia
đình có 5 người con. Do bà mẹ mắc bệnh nan y nên gia đình Thanh Thúy phải rời
đất Thần kinh đưa mẹ vào Sài Gòn chữa trị.
Gia đình họ thuê một căn nhà nhỏ trong con hẻm trên đường Cao Thắng. Để mưu
sinh và để kiếm thêm tiền phụ vào việc thuốc thang cho mẹ, Thanh Thúy đã đến
với nghiệp ca hát khi mới 16 tuổi. Thân gái dặm trường nơi đất khách quê người,
điều khiến cho Thanh Thúy “dám” tự tin xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu chính là
giọng hát của mình vốn từng được nhiều lời khen ngợi.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Lần đầu tiên tiếng hát Thanh Thúy đến với công chúng Sài Gòn là ở phòng trà
Việt Long của Đức Quỳnh vào cuối năm 1959. Với chất giọng trầm ấm, hơi khàn và
lối phát âm, nhả chữ rất riêng, giọng ca của Thanh Thúy mang nỗi buồn man mác,
nghẹn ngào nức nở. Dáng dấp mảnh mai và mái tóc dài buông lơi trên đôi vai gầy
trong tà áo dài màu trắng hoặc lam nhạt... tạo cho nàng ca sĩ xứ Huế này một
phong thái thật đặc biệt…
Những bản nhạc Thanh Thúy thường hát là Giọt mưa thu (Đặng Thế Phong), Tiếng
xưa (Dương Thiệu Tước), Kiếp nghèo (Lam Phương), Tàu đêm năm cũ, Nửa đêm ngoài
phố (Trúc Phương)…
Tháng 6.1960, thân mẫu của Thanh Thúy qua đời, điều đó càng làm cho giọng hát
của chị thêm não nùng để những ai “lỡ nghe” đều có cảm xúc lâng lâng… Và, như
đã nói ở bài trước, có cả một thế hệ văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đâm ra…mê mệt với
Thanh Thúy, trong đó có một chàng thư sinh mới tò te bước vào làng nhạc, nhưng
sau này rất nổi tiếng: Trịnh Công Sơn!
Trong tác phẩm Về một quãng đời Trịnh Công Sơn (của Nguyễn Thanh Ty), nhạc sĩ
tâm sự: “Năm đó tôi 17 tuổi, trọ học ở Sài Gòn, đêm nào tôi cũng lò dò đến các
phòng trà để nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào
trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn bởi tôi mặc
cảm nghèo và vô danh, trong khi Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người
đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và
tiếng hát của nàng. Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước chanh. Đêm đêm
tôi thao thức với những khát khao, mơ ước phải làm một cái gì đó để tỏ cho
Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng. Cái khát vọng đó đã giúp tôi
viết nên bản nhạc Ướt mi đầu tiên trong đời...”.
Đó là lần ngồi ở nhà hàng Mỹ Cảnh, chàng trai trẻ Trịnh Công Sơn đã viết vào
một mảnh giấy nhỏ, đề nghị ca sĩ Thanh Thúy hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế
Phong. Điều chàng bất ngờ là Thanh Thúy đã hát bài này với một cảm xúc thật
mãnh liệt, khi hát “...vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành, như nhủ trời
xanh: Gió ngừng đi, mưa buồn chi, cho cõi lòng lâm ly... Ai nức nở thương đời
châu buông mau, dương thế bao la sầu...” - nhớ đến người mẹ bị lao phổi nặng,
đang mỏi mòn chờ con trong căn nhà nhỏ ở con hẻm sâu - nàng đã bật khóc. Những
giọt nước mắt đọng trên vành mi của người ca sĩ tuổi mới tròn trăng đã gieo vào
lòng Trịnh Công Sơn nỗi xúc cảm tràn ngập để chàng viết thành ca khúc Ướt mi.
“Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên mình
chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa tặng
ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội. Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ sát
sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn. Đã
mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán giả là đã có người
chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã thành công.
Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ thoáng nhìn
tôi một chút rồi quay vào hậu trường. Đêm đó, tôi nôn nao không ngủ được... Mãi
đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mỏi mòn chờ đợi thì một đêm kia,
khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra dấu cho dàn nhạc
tạm im tiếng để nàng nói vài lời: “Thưa quý vị ! Đêm nay Thúy sẽ trình bày một
tác phẩm rất mới của một nhạc sĩ rất lạ tặng cho Thúy. Đó là nhạc phẩm Ướt mi
của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng đêm nay sẽ có sự hiện diện của tác giả để
Thúy được nói vài lời cám ơn”. Nói xong, nàng quay sang ban nhạc, đưa bản nhạc
của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát: “Ngoài hiên mưa rơi rơi,
lòng ai như chơi vơi. Người ơi nước mắt hoen mi rồi. Đừng khóc trong đêm mưa,
đừng than trong câu ca... Buồn ơi trong đêm thâu, ôm ấp giùm ta nhé: người em
thương mưa ngâu, hay khóc sầu nhân thế…Trời sao chưa thôi mưa, ôi mắt người em
ấy. Từ đây thôi mờ, nước mắt buồn mi em thơ ngây...”. Tôi run lên trong lòng vì
sung sướng và xúc động…Khi dứt tiếng hát, nàng dừng lại khá lâu, có ý chờ người
tặng nhạc. Tôi thu hết can đảm, bước lên và nói: “Xin cám ơn Thanh Thúy đã hát
bài nhạc của tôi”. Nàng “A” lên một tiếng ra vẻ bất ngờ rồi nói tiếp: “Thúy rất
cám ơn anh đã tặng cho bản nhạc. Thúy muốn nói chuyện riêng với anh được không
?”. Tôi luống cuống gật đầu…Tôi cùng nàng đón taxi về nhà nàng. Nhà nàng ở sâu
trong một ngõ hẻm...
Cũng chính từ ngõ hẻm nhà nàng mà Trịnh Công Sơn làm tiếp bài Thương một người:
“Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương nụ cười và mái tóc buông
lơi. Mùa thu úa trên môi, từng đêm qua ngõ tối, bàn chân âm thầm nói. Lặng nghe
gió đêm nay, ngại buốt quá đôi vai. Bờ vai như giấy mới, sợ nghiêng hết tình
tôi…”. Đó là hai bản nhạc trong “thuở vào đời” của Trịnh Công Sơn và những kỷ
niệm thật đẹp với nữ ca sĩ Thanh Thúy.
Hà Đình Nguyên
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Đặng Thế Phong là một trường
hợp đặc biệt. Ông là một trong rất ít nhạc sĩ tiên phong của thời kỳ tân nhạc
còn phôi thai, chết rất trẻ nhưng kịp để lại cho đời 3 ca khúc bất hủ.
Người viết có may mắn được gặp gỡ hai người biết khá rõ về cuộc đời Đặng Thế
Phong. Đó là nhạc sĩ Lê Hoàng Long, tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa (hiện sống
tại TP.HCM) và nhà văn Phạm Cao Củng (gặp cách đây khoảng 10 năm, khi ông từ Mỹ
về thăm quê hương, qua sự giới thiệu của họa sĩ Mạc Chánh Hòa). Theo nhà văn
Phạm Cao Củng thì Đặng Thế Phong là một chàng trai rất đẹp, đàn hay hát giỏi,
thích hóa trang thành thiếu nữ trong những vở kịch ngắn. Anh diễn rất đạt nên
ai cũng yêu thích, nhất là phái nữ.
Nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì khẳng định người yêu của Đặng Thế Phong tên Tuyết.
Tuyết không đẹp nhưng có duyên. Cô là con gái một chủ tiệm buôn bán “gối màn chăn
drap” ở chợ Sắt (Nam Định). Vốn tính nhút nhát, Đặng Thế Phong nghĩ mãi cũng
không biết làm cách nào để “tiếp cận” người đẹp. Cuối cùng, anh vờ làm khách
hàng vô hỏi giá rồi... nhét vội vào tay nàng một lá thư. Chẳng biết nội dung
bức thư đầu tiên này mùi mẫn như thế nào mà sau đó cô Tuyết đã cự tuyệt một anh
thông phán trẻ làm việc ở Tòa Đốc lý Nam Định, khi anh này dạm hỏi.
Thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng
Trước khi quen và yêu Tuyết, Đặng Thế Phong đã sáng tác ca khúc đầu tay Đêm thu
trong một đêm cắm trại của Hướng đạo sinh (1940). Ca từ của bản nhạc rất trong
trẻo, lạc quan... Còn bản Con thuyền không bến thì được sáng tác ở Phủ Lạng
Thương (Bắc Giang) khi tình yêu giữa nhạc sĩ và cô Tuyết đang độ chín mùi.
Một hôm, ông cùng một nhóm bạn văn nghệ sĩ lên Bắc Giang chơi, nhân đó họ tổ
chức một đêm đi thuyền trên sông Thương. Cùng lúc đó, chàng nhận được tin Tuyết
ngã bệnh nơi quê nhà. Lòng dạ bồn chồn, xót xa, Đặng Thế Phong ôm đàn bước vào
khoang thuyền, bỏ mặc các bạn đang đùa vui. Khi đêm sắp tàn thì bản nhạc hoàn
tất với những lời ai oán não nùng gửi về... chân mây: “Đêm nay thu sang cùng
heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây... như nhớ thương ai chùng tơ lòng...”,
rồi “... Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng. Biết bao buồn thương,
thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng...”.
Sớm hôm sau, Đặng Thế Phong tức tốc trở về Hà Nội, người đầu tiên được nghe
chính tác giả hát ca khúc này là người yêu của ông. Cô Tuyết hết sức cảm động.
Chưa hết, chỉ ít lâu sau, Con thuyền không bến ra mắt khán giả thủ đô tại Nhà
hát Lớn Hà Nội qua tiếng hát của nữ ca sĩ Vũ Thị Hiển. Từ Nam Định, cô Tuyết đã
bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội, ngồi cạnh Đặng Thế Phong, ngay ở hàng ghế
đầu để nghe bài hát “người ấy làm riêng cho mình”. Hạnh phúc còn nhân đôi bởi
chỉ khoảng một tuần sau, tại rạp Olympia (phố Hàng Da, Hà Nội), cô Tuyết còn
được chứng kiến người mình yêu tự đệm đàn, tự hát ca khúc này mà ánh mắt luôn
trìu mến hướng về chỗ cô ngồi, trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của khán giả.
Trời thu gieo buồn lây
Sau khi từ Bắc Giang về, Đặng Thế Phong đã nhuốm bệnh. Thời đó, bệnh lao là một
bệnh nan y và luôn bị những người chung quanh xa lánh.
Bệnh tình ngày càng trầm trọng, ở tỉnh không đủ điều kiện chữa trị, Đặng Thế
Phong phải chuyển lên Hà Nội, sống chung với ông chú họ Nguyễn Trường Thọ trong
một căn gác ở làng hoa Ngọc Hà (ngoại ô Hà Nội). Tuy vậy, tình trạng vẫn không
khá hơn chút nào. Gia cảnh nghèo nàn, tiền bạc phải vay mượn để chữa trị, cuộc
sống kham khổ làm cho tình cảnh của nhạc sĩ càng thêm nghiệt ngã... Cô Tuyết vì
phải phụ giúp gia đình chuyện buôn bán ở thành Nam nên vài hôm mới lên Hà Nội
chăm sóc người yêu rồi lại tất tả quay về.
Tháng 7 mưa ngâu. Cảnh buồn tê tái. Đặng Thế Phong nhớ Tuyết quay quắt... Nhạc
hứng tuôn trào, chàng gượng ngồi dậy, ôm đàn và viết nên khúc nhạc buồn da
diết: “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn, mây hắt hiu
ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong hơi thu, ai khóc ai than hờ... Trời thu
đến nơi đây gieo buồn lây. Lộng vắng bốn bề không liếp che gió về. Ai nức nở
quên đời châu buông mau, dương thế bao la sầu...”. Bản nhạc được chàng đặt tên
là Vạn cổ sầu. Bạn bè góp ý nhạc thì hay nhưng cái tựa bi thảm quá. Cuối cùng,
tên bản nhạc được đổi thành Giọt mưa thu.
Cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi, Đặng Thế Phong nhờ ông Thọ đưa về Nam
Định. Từ đấy cho đến lúc Đặng Thế Phong lìa đời, cô Tuyết lúc nào cũng túc trực
bên giường bệnh để chăm sóc ông, khiến những người quen biết đều xót xa thương
cảm cho một mối tình vô vọng lẫn nể phục tính cách cao thượng chung thủy của
Tuyết.
Tang lễ của chàng nhạc sĩ 24 tuổi ấy được rất nhiều thanh niên nam nữ của thành
Nam tham dự. Ngoài việc đưa tiễn một người con tài hoa nổi tiếng của quê hương,
họ còn muốn chia sẻ và tỏ lòng trân trọng đến với cô thiếu nữ mặc áo đại tang
đi sau linh cữu của chàng (việc này được phép của cả hai gia đình).Đặng
Thế Phong sinh năm 1918 tại TP.Nam Định. Cha là Đặng Hiển Thế - thông phán Sở
Trước bạ Nam Định. Thân phụ Đặng Thế Phong mất sớm, hoàn cảnh gia đình quá túng
thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ dở việc học (đang học năm thứ hai bậc thành chung
- tương đương lớp 7 bây giờ) để lên Hà Nội tìm kế sinh nhai.
Với chất nghệ sĩ thiên phú và tư chất cực kỳ thông minh, Đặng Thế Phong đã
“len” vào được Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (học dự thính). Ở Hà Nội,
Đặng Thế Phong vừa học vẽ vừa thực hành để nuôi thân. Ông chuyên vẽ minh họa
cho tờ báo Học sinh do nhà văn chuyên viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng làm
chủ nhiệm.
Hà Đình Nguyên
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được
ghi nhận là một trong những người đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, còn người
bạn đời của ông - ca sĩ Minh Trang - cũng được cho là một trong những ca sĩ
tiên phong của làng ca nhạc Việt.
Tiếng hát “lá ngọc cành vàng”
Trước khi gặp nhau, Dương Thiệu Tước và Minh Trang đều xuất
thân từ những gia đình “danh gia vọng tộc”.
Dương Thiệu Tước sinh năm 1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa,
tỉnh Hà Đông. Ông là cháu nội của cụ nghè Dương Khuê. Ở giai đoạn phôi thai của
nền tân nhạc Việt, trong khi nhiều người mượn những bài hát phương Tây rồi đặt
lời Việt cho dễ hát thì ông lại cả gan viết “lời Tây theo điệu ta”.
Dương Thiệu Tước đánh đàn guitar hawaienne rất giỏi, ông còn là chủ nhân của
một cửa tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn. Trong sinh
hoạt hằng tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài
mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d'aimer (Thú yêu đương), Souvenance
(Hồi niệm), Ton Doux Sourire (Nụ cười êm ái của em)... Lời ca của những bài này
do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh) soạn bằng Pháp ngữ. Ông từng tuyên bố:
"Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc
Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương'' (Báo Việt
Nhạc số 5, ngày 16.10.1948)...
Còn cô Nguyễn Thị Ngọc Trâm (tên thật của Minh Trang) là con gái của quan Tổng
đốc Bình Định Nguyễn Hy (sau này ông còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, rồi Thượng thư
Bộ Hình). Ngọc Trâm còn là cháu ngoại của công chúa Mỹ Luông (còn gọi là Bà
Chúa Nhất) - em ruột vua Thành Thái... Ngọc Trâm chào đời năm 1921 trong một
nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự (Huế). Như một định mệnh, 25 năm sau, một bài
hát bất hủ mang tên Đêm tàn Bến Ngự của một nhạc sĩ tài hoa ra đời mà tên tuổi
của ông sẽ gắn liền với cuộc đời của cô bé Ngọc Trâm sau này.
Thời thiếu nữ, ngoài sắc đẹp trời cho, Ngọc Trâm còn sở hữu một giọng hát thiên
phú. Những năm học tiểu học ở trường dòng Jeanne d’Arc, rồi trung học ở Lycée
Khải Định (Huế) thập niên 1930, tiếng hát của cô làm cho biết bao thầy cô, bạn
bè cùng trường ngây ngất. Dĩ nhiên, đó là những bài hát Pháp, bởi lúc đó chưa
có bài hát nào mà bây giờ chúng ta gọi là “nhạc tiền chiến”… Năm 1942, sau khi
tốt nghiệp tú tài toàn phần (nên nhớ vào lúc đó rất hiếm phụ nữ đỗ đạt như
thế), Ngọc Trâm kết hôn với một giáo sư nổi tiếng của đất thần kinh: giáo sư
Ưng Quả (cháu nội của Tuy Lý vương Miên Trinh)… Nhưng chỉ mấy năm hương lửa mặn
nồng, giáo sư Ưng Quả qua đời trong giai đoạn chuyển mình của đất nước, chế độ
phong kiến cáo chung. Lúc này, giai cấp quan lại, thượng lưu không còn được ưu
đãi, cuộc sống của họ trở nên khó khăn… Năm 1948, Ngọc Trâm đưa 2 người con vào
Sài Gòn dự thi và trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên cho Đài phát thanh Pháp
Á. Công việc của cô là dịch những bản tin từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và đọc
những bản tin đó trên làn sóng. Trong những lần dịch tin, Ngọc Trâm thường
nghêu ngao những bài hát Việt mới thịnh hành gần đây như Giọt mưa thu, Con
thuyền không bến (Đặng Thế Phong, sáng tác năm 1939), Tiếng xưa (1940), Đêm tàn
Bến Ngự (1946) của Dương Thiệu Tước... Hát chơi vớ vẩn thế thôi, vậy mà tiếng
hát ấy đã làm cả đài phát thanh ngẩn ngơ. Một hôm, ông Hoàng Cao Tăng - chủ sự
Phòng Văn nghệ chợt đề nghị Ngọc Trâm thử hát trên sóng phát thanh một bài. Sau
những đắn đo và cả những lời động viên, khuyến khích, tiếng hát của… nữ ca sĩ
Minh Trang lần đầu tiên gửi đến quý thính giả Đài Pháp Á qua ca khúc Giọt mưa
thu của Đặng Thế Phong. Minh Trang hát hay đến nỗi đài phát thanh quyết định
trả “cát sê” ngay, không kể tiền lương...
Cũng cần nói thêm, do ngại ngùng nên Ngọc Trâm không dám hát với tên thật mà
ghép tên của hai người con (Bửu Minh và Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang) thành nghệ
danh (Đoan Trang sau này trở thành nữ ca sĩ Quỳnh Giao ở hải ngoại).
Từ đó, tiếng hát của nữ ca sĩ Minh Trang theo sóng phát thanh của Đài Pháp Á
lan tỏa khắp nơi. Năm 1949, chính Thủ hiến Bắc kỳ Nguyễn Hữu Trí gửi công văn
mời đích danh ca sĩ Minh Trang tham dự Hội chợ đấu xảo tại Hà Nội. Đây là dịp
để các nhạc sĩ hào hoa xứ Bắc kéo nhau đến chiêm ngưỡng nhan sắc của “giọng hát
vàng phương Nam”. Và định mệnh đã xuống tay khi trong số những tài tử ấy có mặt
Dương Thiệu Tước. Tuy đã có hai mặt con nhưng Minh Trang lúc ấy vẫn giữ được
một vẻ đẹp quý phái “chim sa, cá lặn”.
Duyên nợ ba sinh
Đúng 60 năm sau (2009), ở tuổi chín mươi, bà Minh Trang kể lại
với nhà thơ Du Tử Lê rằng: “Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn
Mẫn… lăng xăng, líu lo, rối rít, ông ấy (Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến
cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi
càng thêm chú ý. Trước khi gặp gỡ, tôi đã từng hát nhạc của ông ấy nên tôi cũng
rất ao ước được gặp mặt con người tài hoa này”. Thế rồi “tình trong như đã, mặt
ngoài còn e”...
Khi Minh Trang trở lại Sài Gòn, chỉ ít ngày sau nàng nhận được thư tỏ tình của
tác giả Tiếng xưa. Có lẽ vẻ lạnh lùng, ít nói của ông khi cùng các bạn vây
quanh Minh Trang là do ông tự mặc cảm mình đã có vợ (19 tuổi, ông lập gia đình
với bà Lương Thị Thuần, cũng xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Thời đó việc
kết hôn thường được các cụ dàn xếp theo truyền thống “môn đăng hộ đối”. Ông bà
đã có 3 con gái và 2 con trai). Thế nhưng khi Minh Trang như cánh chim vút bay
xa thì ông không thể dối lòng được nữa, ông thật sự bị “hớp hồn” bởi vẻ đẹp và
giọng hát của nàng. Những cánh thư liên tiếp qua lại giữa hai miền. Những ca
khúc ông sáng tác trong giai đoạn này do Nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) xuất bản,
ông không còn đứng tên đơn lẻ nữa, mà ghi “Nhạc và lời: Dương Thiệu Tước - Minh
Trang”. Đó là những ca khúc bất hủ, tiêu biểu như Bóng chiều xưa, Buồn xa vắng,
Khúc nhạc dưới trăng, Ôi quê xưa, Vui xuân...
Nữ ca sĩ Minh Trang cũng kể lại rằng, trước khi nhận lời cầu hôn của nhạc sĩ
Dương Thiệu Tước, chính bà đã bay ra Hà Nội để gặp người vợ trước của ông này
và thông báo quyết định của hai người. “Có thể không có một người phụ nữ thứ
hai, nhất là ở thời đó, hành xử như tôi. Nhưng đó là tôi, cách của tôi: tự tin
và tự trọng!” - bà nói.
Khi hai người chính thức chung sống ở Sài Gòn, ông làm tặng vợ mình ca khúc
Ngọc Lan. “Ngọc Lan” là do tên Ngọc Trâm của bà. Nếu ai có bản gốc của Nhà xuất
bản Tinh Hoa (1953) sẽ thấy tất cả những chữ Ngọc Lan trong bài hát đều được
viết hoa, để phân biệt đây là tên người chứ không phải là tên loài hoa: “Ngọc
Lan, dòng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng
nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Ngọc Lan, giọng ướp men
thơ, mát êm làn lụa bông là. Ngọc Lan, trầm ngát thu hương, bờ xanh bóng dương
phút giây chìm sương... (Ngọc Lan).
Sau 25 năm chung sống, đôi tài tử giai nhân có thêm 5 người con
(1 trai, 4 gái). Cùng với Bửu Minh và Đoan Trang, tất cả đều được “bố Tước” đào
tạo bài bản ở Trường quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Sau năm 1975, bà
Minh Trang và các con sang định cư ở Mỹ. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ở lại và qua
đời vào ngày 1.8.1995 tại TP.HCM, thọ 80 tuổi. Bà Minh Trang mất ngày 17.8.2010
tại California (Mỹ), thọ 90 tuổi.
Hà Đình Nguyên
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Jan/2014 lúc 6:01pm
TÂN NHẠC VIỆT NAM
dưới thời
Xã Hội Chủ Nghĩa
http://2.bp.blogspot.com/-NrlH6CVRLdM/UPzOg0YCciI/AAAAAAAAILQ/b9pZ8X6dqVI/s1600/le+dinh.jpg -
LÊ DINH
Về
âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có
thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ
hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm
nhạc Việt Nam.
Nhìn
lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên
mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải
cách - như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc
yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê
Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn
Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê
Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai,
nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau
chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căn như bây giờ. Chẳng hạn
như bài “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương,
một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được sọan sau, nhưng cũng được
coi như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia tài âm nhạc Việt
Nam.
Nhắc
lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy của
nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn
nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca
khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.
Tiếp
theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan
nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi
nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế
Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh
Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại
cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn
ngủi. Nhắc lại những bài như:
“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”
Hoặc:
Suối mơ, bên rừng thu vắng
Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”
Hay:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi
Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi…”
Hoặc như:
“Biệt ly, nhớ nhung từ đây
Chiếc lá rơi theo heo may…”
Chúng
ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào lòng
người. Còn lởi ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến như
thế.
Rồi
bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai nhạc
hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những tác
giả tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người này
có Phạm Duy, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy
Nhượng, Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy
là người có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều
nhất, hay nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm
điệu và lời ca như:
Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…”
Hoặc man mác căm hờn, như:
“Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng:
Quân thù về đây đốt làng…”
Rồi
1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự
do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn
tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do nơi
miền Nam - đất lành chim đậu - cùng chung với những nhạc sĩ sáng tác đã
sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một lực
lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn
nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.
http://1.bp.blogspot.com/-cDmgECjMwmE/UPzO8rkvYHI/AAAAAAAAILY/ZPfpmmEpCG8/s1600/20110704-Nh%E1%BA%A1c+s%C4%A9+V%C4%83n+Ph%E1%BB%A5ng2.jpg - http://hon-viet.co.uk/NhacSiVanPhung.jpg
Nhạc sĩ Văn Phụng
Ngay
từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân,
Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc
Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh,
Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An,
Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam
nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951), Lam Phương,
Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh
Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh
Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng,
Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ
trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng,
Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song
Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca,
Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác
dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến
năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng )
Dù
dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự do
cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và những
bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến ngày nay.
http://2.bp.blogspot.com/-pDxIEmqFFU4/UPzPSwOVcaI/AAAAAAAAILg/gNbK7auqYRQ/s1600/nguyen+hien.jpg - http://hon-viet.co.uk/NhacSiNguyenHien.jpg
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền
Trong
khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ
miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên,
không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến
thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ
Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy
Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS
một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận…
cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao
với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”,
Phan Huỳnh Điểu
với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca
tụng, tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép
của bác thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và dép này. Chỉ còn
thiếu cái áo lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi. (Dưới thời đệ Nhất
Cộng Hòa - và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa - miền Nam VN chỉ võn vẹn có
một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi. Đó
là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam. Đây không phải
là chú trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca
tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì muốn mang ơn
người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu
đồng bào
di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây chỉ là một hành động để
nói lên lòng biết ơn thôi)
Từ
1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần
phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây
giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn
nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là
như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc
nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không?
Còn nhạc thì nghe qua rồi - dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa - hỏi có ai
nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi
không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày
nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói
của chúng tôi không mảy may quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi,
thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn
cười, trong một bài hát, nghe sao giống như lời đối thọai trong một vở
tuồng cải lương hạng bét:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”
Về
âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu nhạc nào
đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao không nhớ
được? Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác
nhau, bỏ chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, rồi ráp lại
cho thành một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy một bài nào
đó của miền Nam, trước 1975, như:
”Xuyên lá cành trăng lên lều vải
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”
Hay như:
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”
Hoặc:
“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”
Chúng
ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ
thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.
Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?)
Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh - Anh sẽ không níu kéo
- Anh ba Khía - Ông xã bà xã - Khi cô đơn em nhớ ai - Anh sai rồi -
Quen một ngày cho vui - Em có thể làm bạn gái anh không - Đừng buông tay
anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một
tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ
con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là người đã trưởng thành nhưng chưa
biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một bài hát cũng phải nghe cho được
chứ? “Xin anh đừng” rồi
thôi, hết.
Về
lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua
tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam
trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng
người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ,
chúng ta hãy xem qua lời ca: Bài “Giá như chưa từng quen”:
“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau
Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”
Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:
“Nếu ta đừng quen nhau, thì đời chưa vướng u sầu
Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”
Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.
Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:
“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…
Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”
Đây
là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc “anh
đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác nhau:
“Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó, âm
nhạc XHCNVN là như thế đó.
Về
phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một
cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao
không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la,
biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và
còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở
giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy -
người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không
có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo,
tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe
không thể nào
chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn
éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và
cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự
do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút
nào.
Một
phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại cách
viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi tài
cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu hỏi,
còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế
thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho
thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì
hát làm chi?
38
năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ
chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập
bao nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ
thời kỳ âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ
của họ gọi để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu
diệt nhưng không được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.
http://2.bp.blogspot.com/-NrlH6CVRLdM/UPzOg0YCciI/AAAAAAAAILQ/b9pZ8X6dqVI/s1600/le+dinh.jpg - LÊ DINH
Link nguồn :
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=4&ved=0CDsQFjAD&url=http%3A%2F%2Fbon-phuong.blogspot.com%2F2013%2F09%2Ftan-nhac-viet-nam-thoi-xa-hoi-chu-nghia.html&ei=xbjVUreELuOgigf8_4HABQ&usg=AFQjCNH_Hesnt6CpMMbTLZA1Eo2MptbkjA&bvm=bv.59378465,d.aGc&cad=rja - TÂN NHẠC VIỆT NAM THỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (Lê Dinh)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Jan/2014 lúc 6:31am
"Thuở trâm cài" Bản nhạc mới được công bố của nhạc
sĩ Đoàn Chuẩn
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sinh năm 1924 tại Hải Phòng, thuộc thế hệ nhạc sĩ đầu tiên
của nền tân nhạc Việt Nam, được mệnh danh là nhạc sĩ của mùa thu. Ông sáng tác
không nhiều, khoảng 20 bài, trong đó có nhiều bản nhạc đậm “tiết thu” như:
Chuyển bến, Lá đổ muôn chiều, Thu quyến rũ, Gửi gió cho mây ngàn bay, Ánh trăng
mùa thu, Tình nghệ sĩ, Lá thư, Vàng phai mấy lá...
Năm 2002, gia đình nhạc sĩ Đoàn Chuẩn nhận được bản nhạc Ánh trăng mùa thu do
Đoàn Chuẩn viết năm 1947, xuất bản năm 1952.
Anh Nguyễn Ngọc Khôi trước năm
1975 theo học thanh nhạc do ca sĩ Đoàn Chính (con trai cả của nhạc sĩ Đoàn
Chuẩn) dạy, đã tặng bản nhạc này. Đoàn Quỳnh Hoa, cháu gái gọi nhạc sĩ Đoàn
Chuẩn bằng ông trẻ, một trong những người tích cực đi tìm lại các kỷ vật của
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và may mắn tìm được bản thu âm năm 1960 tại Đài tiếng nói
Việt Nam ca khúc Hoa thơm bướm lượn do Đoàn Chuẩn cùng Tạ Tấn hòa tấu và bút
tích chép tay bản nhạc Thuở trâm cài, một tác phẩm chưa một lần được công bố và
có nhiều điều “lạ”. Thuở trâm cài được tác giả ký bút danh Việt Tử.
Nghệ sĩ
guitar Hawaii Đoàn Đính, là con trai thứ hai của Đoàn Chuẩn, khẳng định đây
chính là nét bút của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, bút danh Việt Tử đã được ông sử dụng
vài lần.
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (giữa)
Từ năm 2010 đến nay Đoàn Quỳnh Hoa thường xuyên về Hải Phòng tìm thông tin về
cây đàn guitar Hawaii ba cần mà Đoàn Chuẩn đã chơi trong khoảng thời gian dài,
sau khi giải tán trường dạy nhạc tại số 9 phố Cao Bá Quát đã thất lạc nhiều năm
chưa tìm được. Quỳnh Hoa kể lại một vài thông tin về cây đàn với nhiều học trò
của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn trong đó có nghệ sĩ guitar Hawaii Bạch Liên. Trong một
lần tâm sự, Bạch Liên cho biết vào khoảng năm 1968 - 1969 bà theo học guitar
Hawaii tại nhà Đoàn Chuẩn số 9 Cao Bá Quát. Một chiều thu, cô Bạch Liên được
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn gọi vào và cho biết có một bản nhạc rất hay, ông muốn cô học
trò của mình luyện tập, sau đó ông đã chép bản nhạc Thuở trâm cài cho cô học
trò cưng của mình.
Phần lớn các bản nhạc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn được sáng tác với tiết tấu Blue
nhưng bản nhạc Thuở trâm cài có tiết tấu Bolero, giọng mi trưởng, chơi trên đàn
guitar Hawaii rất hay.
Vẫn những ca từ hết sức mộng mơ “hết sức Đoàn Chuẩn” như
“Cài trâm lên mái tóc nàng đứng soi để những cho gương mờ!....”, “Anh ước mơ
thầm kín, những cánh hoa trìu mến phủ thắm lối duyên”...
Từ năm 1947 - 1956,
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sáng tác nhiều ca khúc bất hủ: Ánh trăng mùa thu (ca khúc
đầu tay sáng tác năm 1947), Tình nghệ sĩ, Lá đổ muôn chiều, Chuyển bến, Gửi gió
cho mây ngàn bay, Đường về Việt Bắc, Cánh hoa duyên kiếp, Thu quyến rũ, Gửi
người em gái miền Nam...
Trong những năm 1988 - 1989, Đoàn Chuẩn sáng tác ca khúc
Khuôn mặt em (thơ Văn Cao), Đường thơm hoa sữa gọi (thơ Vân Long), Phấn son,
Một gói nho khô, một cành penseé, Màu nắng có bao giờ phai đâu. Bản nhạc Thuở
trâm cài được Đoàn Chuẩn sáng tác trong thập kỷ sáu mươi thế kỷ trước. Đây có
thể coi là sự gạch nối giữa hai giai đoạn 1947 - 1956 và 1988 - 1989 trong sự
nghiệp sáng tác của ông. Là một nhạc sĩ gắn với nhiều giai thoại và bút danh
Việt Tử lại là một bí ẩn nữa của người nhạc sĩ tài hoa cần tìm lời giải thích?
Link nguồn: http://touch.doctin247.net/ban_nhac_moi_duoc_cong_bo_cua_nhac_si_doan_chuan-8-22452384.html
Nhạc phẩm : Thuở Cài Trâm
Nhạc sĩ : Việt Tử (Đoàn Chuẩn) Ca sĩ : Quỳnh Hoa
1/
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&ved=0CDMQFjAB&url=http%3A%2F%2Fmp3.zing.vn%2Fbai-hat%2FThuo-Tram-Cai-Quynh-Hoa%2FIWA08CUU.html&ei=c3LWUuwY5J2IB8eigYgK&usg=AFQjCNHahsXZUZTugwMUW4LF2eZeSCAW5A&sig2=70lEuxVSLzQWlAe9CElskQ&bvm=bv.59378465,d.dGI - Thuở Trâm Cài - Quỳnh Hoa | 320 lyrics, upload bởi lathaihongvi mp3.zing.vn/bai-hat/Thuo-Tram-Cai-Quynh-Hoa/IWA08CUU.html
2/
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&ved=0CCsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DbMe5uqk_1Kc&ei=c3LWUuwY5J2IB8eigYgK&usg=AFQjCNFIiUL8OGkya6L26MDuQBlFhVgVZQ&sig2=m8Bu9lAJuM3N4Cq-cRqgTQ&bvm=bv.59378465,d.dGI - Thuo Tram Cai - Doan Chuan ( Viet tu ) - Ca sy Quynh Hoa - YouTube http://www.youtube.com/watch?v=bMe5uqk_1Kc
http://www.facebook.com/l/vAQHROIxz/mp3.zing.vn/bai-hat/Thuo-Tram-Cai-Quynh-Hoa/IWA08CUU.html -
|
| |
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Feb/2014 lúc 10:49pm
'Triệu đóa hồng' - câu chuyện tình lãng mạn vượt biên giới
Đến với khán
thính giả Liên Xô từ đầu thập niên 1980, giai điệu cùng câu chuyện tình
đơn phương của họa sĩ nghèo trở thành khúc nhạc tình bất hủ, được nhiều
người trên thế giới đồng cảm và đón nhận.
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/nhung-bai-hat-nga-quen-thuoc-voi-nguoi-viet-2423120.html - Những bài hát Nga quen thuộc với người Việt http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/tac-gia-trieu-bong-hong-qua-doi-1971586.html - Tác giả 'Triệu bông hồng' qua đời
Bài hát: Triệu Đóa Hoa Hồng (Live) Cẩm Vân: http://giaitri.vnexpress.net/nhac/liveshow-da-tiec-van-425635.html - Liveshow Dạ Tiệc Vân
Trong tình yêu, sự lãng mạn vừa đủ làm duyên đôi lứa thêm nồng, tình
thêm xanh thắm, ngọt ngào. Còn lãng mạn thái quá, không phù hợp với thực
tế thì bị gọi là viển vông. Triệu đóa hồng là khúc ca
buồn về sự lãng mạn nhưng có sức lay động lớn bởi sự chân thành, mộc
mạc. Lời bài hát dựa theo câu chuyện tình yêu của chàng họa sĩ nghèo
người Gruzia, Niko Pirosmani (1862-1918) và nàng ca sĩ người Pháp
Magragita.
|
Chân dung họa sĩ Niko Pirosmani.
|
Niko Pirosmani sinh ra trong gia đình nông dân nghèo. Ông mồ côi từ bé
và được hai người chị chăm sóc. Lớn lên, Pirosmani giúp việc cho các gia
đình giàu có. Ngoài ra, ông từng làm nhân viên bến xe lửa, thợ sơn,
người trông cửa tiệm... Pirosmani tự tìm hiểu về hội họa và tự học vẽ.
Sau đó, ông kiếm sống bằng việc vẽ bảng hiệu, tranh chân dung... theo
đơn đặt hàng.
Đến cuối đời, Niko Pirosmani vẫn là họa sĩ nghèo. Ông mất vào giữa năm 1918 vì thiếu dinh dưỡng và bệnh gan.
Niko Pirosmani cả cuộc đời cô đơn. Năm 25 tuổi, ông cầu hôn chị nuôi -
một góa phụ tuổi 40 - và bị chối từ. Tháng 3/1909, các áp phích quảng
cáo rầm rộ về bảy đêm diễn của cô ca sĩ phòng trà kiêm vũ nữ người Pháp Margarita.
Niko ngay lập tức bị quyến rũ bởi nàng. Ông vẽ Margarita rồi điền ở
dưới bức tranh dòng chữ "Anh yêu em". Đó là tình yêu không được đáp lại,
dù Pirosmani dùng tất cả những gì mình có để bày tỏ tình yêu với nàng.
Người đời lưu truyền chuyện tình giữa họa sĩ và ca sĩ rằng, Pirosmani
đã bán tất cả gia sản - kể cả căn nhà anh sinh sống - để mua một biển
hoa tặng người anh yêu. Rồi buổi sáng, khi thức giấc, trông ra quảng
trường trước nơi ở, ca sĩ nhìn thấy cảnh tượng và nghĩ có lẽ triệu phú
nào đã làm việc này. Khi biết là anh họa sĩ nghèo, nàng đến gặp họa sĩ
và tặng anh một nụ hôn. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất trong cuộc
tình đơn phương của chàng họa sĩ. Kết thúc chuyến lưu diễn, ca sĩ lên
tàu rời đi, cùng một người giàu có.
|
Bức tranh vẽ nàng Margarita.
|
Chuyện tình của Niko Pirosmani sau đó được ghi lại trong tiểu thuyết
của K. G. Paustovsky. Andrei Voznesensky lấy cảm hứng từ câu chuyện đó
sáng tác thơ, cũng chính Voznesensky từ bài thơ của mình, đặt lời cho
nhạc của Raimonds Pauls, từ đó có bản Triệu đóa hồng.
Có anh họa sĩ sống một mình
Chỉ có một ngôi nhà nhỏ và những bức tranh
Anh mê đắm nàng ca sĩ yêu hoa.
Họa sĩ bán ngôi nhà của mình
Bán luôn những bức tranh
Rồi dùng trọn số tiền mua cả biển hoa.
Triệu, triệu, triệu bông hồng đỏ
Từ khung cửa sổ em có thấy
Người đang yêu, người yêu em thật lòng
Người đã biến cả cuộc sống của mình thành hoa để tặng em.
Buổi sáng khi em thức dậy đến bên khung cửa
Có lẽ em không ngờ tới
Ngỡ mình đang trong mơ
Quảng trường nhà em hoa lấp đầy.
Lòng em bối rối
Triệu phú nào làm một cách lạ lùng vậy?
Nhưng bên dưới cửa sổ chỉ có một hơi thở lẻ loi
Anh họa sĩ nghèo đứng đó.
Cuộc gặp gỡ thật ngắn ngủi
Chuyến tàu đêm mang nàng đi
Nhưng trong đời nàng có bài hát điên rồ về hoa hồng.
Họa sĩ vẫn sống một mình
Vất vả và đau đớn
Nhưng trong đời anh từng có một quảng trường đầy hoa.
Triệu, triệu, triệu bông hồng đỏ
Từ khung cửa sổ em có thấy
Người đang yêu, người yêu em thật lòng
Người đã biến cả cuộc sống của mình thành hoa để tặng em (*)
Sở dĩ nói Voznesensky đặt lời cho nhạc của Pauls bởi trước đó, Pauls
sáng tác giai điệu và được Leons Briedis viết lời bằng ngôn ngữ Latvia,
với tên gọi Marina tặng cho con ( http://giaitri.vnexpress.net/video/video-nhac/marina-trao-tang-con-2950497.html?p=1 - xem video ).
Bài hát nói về cô bé thuở ấu thơ được nghe mẹ hát một ca khúc, sau này
khi lớn lên, cô hát tặng con gái giai điệu này. Nhưng chỉ khi
Voznesensky viết lời bằng tiếng Nga với câu chuyện tình buồn, giai điệu
như được thổi hồn mới, được chắp cánh để vượt ra khỏi biên giới một quốc
gia.
Triệu đóa hồng gắn liền tên tuổi của nữ ca sĩ Alla Pugacheva.
Năm 1983, với ca khúc này, Alla Pugacheva đoạt giải Bài hát của năm tại
Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn Liên Xô (cũ). Đây trở thành một
trong những nhạc phẩm nổi tiếng nhất Liên Xô trong suốt thập niên 1980.
Tại rất nhiều buổi biểu diễn của mình, khán giả cùng Pugacheva cất lời
hát về chuyện tình chàng họa sĩ.
|
Ca sĩ Alla Pugacheva với đôi mắt xanh quyến rũ.
|
Trong giai thoại được kể lại, họa sĩ Niko Pirosmani tặng Margarita
không chỉ có hoa hồng đủ sắc màu mà còn có cả kim ngân, huệ, anh túc,
thược dược... Lời bài hát nhắc tới hoa hồng đỏ thắm - mang tính ước lệ
để chỉ tình yêu. Bởi từ lâu, hoa hồng được ví là sứ giả của tình yêu,
được nhiều dân tộc coi là quốc hoa. Hoa hồng cũng là đề tài thường thấy
trong hoạt động sáng tác của nghệ sĩ. Họa sĩ Nga Alexei Antonov từng làm
người xem mê đắm bởi những bức tranh http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/canh-hong-quyen-ru-trong-tranh-hoa-si-nga-2657583.html - đơn sơ, thanh tao và tinh khôi về hoa hồng, cho người xem cảm nhận được hương thơm ngát.
|
Hoa hồng trong tranh Alexei Antonov.
|
Hay trong nhạc Hoa ngữ, ca khúc 999 đóa hồng (ca sĩ Đài Chính Tiêu, http://giaitri.vnexpress.net/video/video-nhac/dai-chinh-tieu-hat-999-doa-hong-2950506.html?p=1 - xem video )
cũng là tượng đài của những bản tình ca. Bài hát nói về sự cô đơn, buồn
tiếc của chàng trai khi chia tay. Anh vốn trồng 999 cây hoa hồng cho
người yêu. Chia tay rồi, hoa héo úa còn chàng trai tiều tụy. Con số 999
đóa hồng có ý nghĩa rằng tình yêu trao cho em là vĩnh cửu. Ngày nay, vẫn
có không ít gã si tình dùng 999 đóa hồng bày tỏ tình yêu với người
trong mộng.
|
Hình ảnh hoa hồng trên trang giấy kẻ ô vuông nhỏ trở thành phần ký ức của một thế hệ.
|
Có lẽ cũng chính nhờ hoa hồng, nhờ lòng yêu mến của con người trên thế
giới với hoa hồng, bài hát Nga gần gũi hơn, dễ đi vào lòng người hơn.
Phải chăng vì thế mà sự lãng mạn, si tình tới mức bán nhà mua hoa của
chàng họa sĩ lại nhận được đồng cảm của người nghe đến vậy? Tác phẩm
được dịch ra nhiều thứ tiếng Nhật Bản ( http://giaitri.vnexpress.net/video/video-nhac/trieu-doa-hong-loi-nhat-ban-2950642.html?p=1 - video ), Anh ( http://giaitri.vnexpress.net/video/video-nhac/trieu-bong-hong-loi-anh-2950498.html?p=1 - video ), Hàn Quốc ( http://giaitri.vnexpress.net/video/video-nhac/trieu-bong-hong-loi-han-quoc-2950499.html?p=1 - video ), Trung... và cả tiếng Việt. Ở Nhật Bản, đây được coi là biểu tượng của tình ca.
Triệu đóa hồng vang lên trong nhiều trường học, công trường...
ở Việt Nam những năm 1980-90. Bài hát được nhiều chàng trai chọn là sứ
giả, giúp họ thổ lộ tình cảm với người yêu. Triệu đóa hồng đến nay vẫn có sức lay động người nghe, dù vật đổi sao dời.
Hải Lan
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/goc-nhin-am-nhac/trieu-doa-hong-cau-chuyen-tinh-lang-man-vuot-bien-gioi-2948507.html - http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/goc-nhin-am-nhac/trieu-doa-hong-cau-chuyen-tinh-lang-man-vuot-bien-gioi-2948507.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Feb/2014 lúc 11:25pm
Tình sử của Hoàng Thi Thơ và Lam Phương
Đăng bởi http://quannhacvang.com/author/admin/ - truongvan - February 27, 2013
http://quannhacvang.com/wp-content/uploads/2013/02/sheet.png">
Trong đời
sống âm nhạc trước 1975, có nhiều mối tình nghệ sĩ mà câu chuyện của nó
cũng ly kỳ và ngang trái không khác gì nội dung các bài hát thời đó,
trong đó phải kể đến mối quan hệ giữa Hoàng Thi Thơ và Lam Phương và nữ
ca sĩ Thúy Nga.
Nói về tài
năng thì chưa có ai đặt Lam Phương và Hoàng Thi Thi lên bàn cân để đo
đếm, nhưng nói về sự đào hoa thì Hoàng Thi Thơ có thể chấp Lam Phương
cả 2 tay. Trong khi rất thành công về mặt thương mại với nhiều bài hát
được nhiều thế hệ khán giả yêu thích thì nhạc sĩ Lam Phương lại luôn được xem là nhạc sĩ bất hạnh nhất trong tình yêu. Cho đến cuối đời Lam Phương vẫn sống trong cô đơn và “sớm mai thức giấc nhìn quanh một mình”
cho dù nét nhạc của ông thuộc loại tài hoa bậc nhất. Những sáng tác
của Lam Phương đa số có đề tài về tình yêu tan vỡ, cả khi ở trong nước
lẫn ra hải ngoại. Đó là các bài Cỏ Úa (Bão tố triền miên ngày em về nhà đó, buồn hắt buồn hiu ngõ đêm sầu cô liêu), Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi (Thôi là hết, chia ly từ đây, người phương trời kẻ sống bơ vơ), Biết Đến Bao Giờ (Đời là vạn ngày sầu biết tìm nơi chốn nào, ta quen nhau bao lâu nhưng tình đã có gì đâu), Như Giấc Chiêm Bao (Em ơi còn những gì, ngoài một đời chia ly)…
Cũng có 1 thời gian ông tràn trề hạnh phúc khi cưới vợ lần 1 với nữ ca
sĩ, kịch sĩ Túy Hồng và cho ra đời nhiều bài lạc quan tin yêu như Ngày Hạnh Phúc, Em Là Tất Cả, hoặc lần cưới người vợ thứ 2 ở hải ngoại để cho ra đời các tác phẩm Bài Tango Cho Em, Tình Đẹp Như Mơ, Mùa Thu Yêu Đương… Tuy nhiên rốt cuộc cả 2 mối tình đều tan vỡ, âm nhạc của ông lại nhuộm 1 màu đau thương như trong Một Đời Tan Vỡ (Tình một đời tình mang lừa dối. Còn tình một đêm sóng vỗ ra đi), hoặc Lầm (Anh đã lầm đưa em sang đây) và Một Mình (Sớm mai thức giấc nhìn quanh một mình).
Trong các
mối tình không thành của Lam Phương, có tình yêu đơn phương dành cho nữ
ca sĩ tài sắc Thúy Nga (không phải Thúy Nga Paris). Tới năm 1955, khi
mới 17 tuổi, Lam Phương đã trở nên nổi tiếng với loạt bài ăn khách là Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Trăng Thanh Bình.
Còn Thúy Nga lúc đó đã 18 tuổi với chất giọng Alto đã chinh phục được
hầu hết Saigon khi đó, và được nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đem lòng yêu mến,
ông đã trở thành 1 người thầy, người anh dẫn dắt trong con đường âm
nhạc và cũng là người tình đầu tiên của Thúy Nga. Đến năm 1957, khi
Thúy Nga chính thức là vợ Hoàng Thi Thơ, Lam Phương khi ấy đang hành
quân ở vùng thôn vắng nghe được tin đã vô cùng đau đớn và viết bài hát
cuối cùng tặng người trong mộng:
Một chiều hành quân qua thôn xưa lúc nắng xuân chưa nhạt màu,
Chạnh lòng tìm người em gái cũ: Em tôi đã đi phương nào?
Nghẹn ngào nhìn qua hàng tre xanh ngắm bóng chim đua trên cành,
Giờ tìm đâu hình bóng cũ: Em ơi em về đâu?
(Chiều Hành Quân)
Để đáp lễ, Hoàng Thi Thơ đã viết bài:
Ai cấm được tình yêu
Ai ép lòng cô liêu
Khi lòng còn say nước non tình tứ
…
Tha thiết tình người ơi
Ao ước tình tình vơi
Mong tình còn mãi
Đến hơi tàn cuối
Tha thiết tình người ơi
Ao ước tình tình vơi
Mong tình còn mãi thiết tha trong đời.
(Yêu Mãi Còn Yêu)
https://fbcdn-sphotos-d-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/72682_10151305145098015_1927404977_n.jpg">
Vợ chồng Hoàng Thi Thơ – Thúy Nga năm 1969 (sau khi cưới 12 năm)
Trong khi
Lam Phương đau khổ vì người yêu đi lấy chồng, thì ở bên kia chiến tuyến
tại Hà Nội, khi nghe lén trên Đài phát thanh Sài Gòn về thông tin nhạc
sĩ Hoàng Thi Thơ cưới ca sĩ Thuý Nga thì ca sĩ nhạc đỏ Tân Nhân đã xỉu
lên, xỉu xuống và bỏ ăn mấy ngày vì đau khổ.
Tân Nhân và
Hoàng Thi Thơ có cùng quê ở Quảng Trị, học cùng trường, sau này cùng đi
theo kháng chiến. Tân Nhân theo kháng chiến từ lúc mới 16 tuổi, theo
đoàn văn công Bình Trị Thiên. Năm 1949 trong 1 lần bị Pháp càn, đơn vị
tan tác, các thành viên đoàn chạy vào rừng sâu thoát và mất liên lạc…
Tin đồn về trận càn Phong Lai dù được cải chính của Việt Minh nhưng vẫn
lan truyền về đất Nghệ Tĩnh. Tin Tân Nhân bị giết làm bàng hoàng thầy
trò ngôi trường nổi tiếng một thời bà theo học. Trường Huỳnh Thúc Kháng
đã làm lễ tưởng niệm cô học trò Tân Nhân. Người bạn học cùng quê trước
đó là Hoàng Thi Thơ – lúc này đang công tác ở Nghệ An – nghe tin như
tan nát cả cõi lòng. Anh đã thể hiện nỗi nhớ thương Tân Nhân bằng bài
hát Xuân chết trong lòng tôi:
Xuân ơi Xuân
Chim xa đàn
Xuân ơi Xuân
Ngờ đâu Xuân chết trong lòng tôi
Trong tiếng đàn…
Ôi chim xa cành
Bướm lìa hoa
Trùng phùng xa lắm…
Khi trở về và nghe được bài hát này, Tân Nhân đã rất xúc động.
Nỗi thương
nhớ dành cho người (ngỡ) đã chết của Hoàng Thi Thơ đã làm động lòng cô
nữ sinh. Bà lại lên đường ra Nghệ An và gặp lại Hoàng Thi Thơ lúc đó
cũng đang tìm bà, rồi bắt đầu một tình sử đẫm nước mắt.
Hoàng Thi
Thơ một lần về công tác và thăm quê nhà đã bị Pháp bắt giam 1 thời
gian và ở lại luôn miền Nam sau hiệp định Geneve 1954 chia cắt đất
nước. Chàng đã bỏ lại Tân Nhân với đứa con trong bụng và vào Sài thành.
Tân Nhân ôm hận, nén nhớ thương về lại Bắc, tự nguyện dấn thân cho
kháng chiến và trở thành 1 ca sĩ huyền thoại của nhạc đỏ với bài Xa
Khơi của Nguyễn Tài Tuệ. Bài hát nói về nỗi nhớ thương của người con gái
đất Bắc đối với người trai nơi miền Nam. Bài hát hợp cả với chất giọng
lẫn hoàn cảnh nên Tân Nhân trình bày đạt cảm xúc cao độ:
Nắng tỏa chiều nay
Thuyền về mái động chiều nay
Nhìn phương Nam con nước vơi đầy thương nhớ
Nhớ thương anh ơi
(Xa Khơi)
Đứa con kết
quả của mối tình lãng mạn ấy sống cùng mẹ trên đất Bắc với hai nỗi đau
riêng là không được biết mặt cha và chịu một lý lịch có cha là nhạc sĩ
dưới chế độ Sài Gòn… Đứa con lúc đầu lấy họ mẹ, mang tên Trương Nguyên
Việt, sau đó lấy tên khác là Lê Khánh Hoài với họ của người cha kế.
Ngoài ra còn có bút danh Triệu Phong (là quê quán của Hoàng Thi Thơ)
khi viết báo.
http://quannhacvang.com/wp-content/uploads/2013/02/BaTanNhan1-200x300.jpg">
Ca sĩ Tân Nhân
Nói thêm về
Hoàng Thi Thơ, cả 2 lần đất nước biến động, ông đều di cư không chủ
đích. Lần đầu năm 1954 khi ông được phân công công tác ở quê nhà rồi bị
Pháp bắt và kẹt lại luôn khi đất nước chia đôi. Lần 2 năm 1975 thì khi
đó ông đang cùng đoàn nghệ sĩ Việt Nam lưu diễn ở Nhật vào tháng 4.
Sau đó thì đoàn tụ lại với vợ con tại Hoa Kỳ. Cuộc đời Hoàng Thi Thơ dù
trải qua nhiều biến cố nhưng ông vẫn được toại nguyện của mình khi “tình còn mãi đến hơi tàn cuối” năm 2001. Còn Lam Phương đến gần cuối đời vẫn đang còn ôm nhiều mối tình tan vỡ trong cô độc.
Trương Văn
(Nguồn: http://quannhacvang.com/tinh-su-cua-hoang-thi-tho-va-lam-phuong/ - http://quannhacvang.com/tinh-su-cua-...va-lam-phuong/ )
http://yeunhacsen.net/forum/threads/2324-T%C3%ACnh-s%E1%BB%AD-c%E1%BB%A7a-Ho%C3%A0ng-Thi-Th%C6%A1-v%C3%A0-Lam-Ph%C6%B0%C6%A1ng
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Feb/2014 lúc 11:28pm
http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-lam-phuong-1.jpg">
CUỘC TÌNH TRỚ TRÊU
CỦA NS LAM PHƯƠNG
Đối với nhiều người, Lam Phương là nhạc
sĩ tài hoa bậc nhất Sài Gòn trước năm 1975 với những tác phẩm để đời như
Khúc ca ngày mùa, Kiếp nghèo, Phút cuối, Tình bơ vơ, Thành phố buồn…
Còn Túy Hồng cũng là nữ nghệ sĩ đa năng bậc nhất Sài Gòn khi ấy, khi bà
vừa là ca sĩ, kịch sĩ…
Trai miền Tây gặp gái miền Đông
Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng,
sinh năm 1937, tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Tuổi thơ của Lam
Phương là một chuỗi ngày dài buồn đau và bất hạnh. Nhà nghèo, cha của
ông đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, bỏ 6 người con tuổi còn thơ dại
cho người vợ không nghề nghiệp ổn định, một mình tảo tần hôm sớm nuôi
con. Năm ông mười tuổi, mẹ gửi ông lên Sài Gòn, ở nhà của người bác ruột
để ông được học hành, nhờ đó mà lịch sử tân nhạc nước nhà có được một
nhạc sĩ Lam Phương.
Lên Sài Gòn, Lâm Đình Phùng học ở trường
Les Lauriers. Ngoài giờ học văn hóa, ông còn học thêm nhạc. Ông tự học
guitare bằng các tài liệu tiếng Pháp do lúc đó ở Việt Nam chưa có sách
dạy nhạc tiếng Việt. Thấy ông là một học trò nghèo nhưng chăm chỉ, các
thầy dạy nhạc (nhạc sĩ Hoàng Lang, nhạc sĩ Lê Thương) tận tình chỉ dạy
cho ông mà không nhận tiền thù lao. Năm 1952, sáng tác đầu tay của ông,
nhạc phẩm Chiều thu ấy ký tên Lam Phương ra đời. http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-lam-phuong-2.jpg"> Ông vay tiền của bạn bè để mướn nhà in in nhạc, sau đó thuê xe chở nhạc đi bán lẻ khắp Sài Gòn. Năm ấy, ông mới 15 tuổi.
Thành công với tác phẩm đầu tay, Lam
Phương càng miệt mài sáng tác. Ba năm sau, Lam Phương tung ra hàng loạt
ca khúc viết về quê hương, trong đó nổi tiếng nhất là Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Nhạc rừng khuya, Khúc ca ngày mùa…
Đặc biệt, nhạc phẩm Khúc ca ngày mùa thành công vượt bậc hơn cả. Bản
nhạc được viết theo thể loại nhạc đồng quê, nhịp điệu Mambo, với âm giai
bằng cung rê thứ.
Các hãng đĩa nhựa như Dư âm, Sóng nhạc,
Asia… tranh nhau ký hợp đồng với Lam Phương để được thu âm bài hát Khúc
ca ngày mùa này, tiếng tăm của bản nhạc mới thật sự bùng nổ. Với tiếng
hát điêu luyện của đôi song ca tài danh Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết, lúc
hợp, lúc bè, lúc đuổi như càng đưa bài hát lên chín tầng mây. Khúc ca
ngày mùa còn được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
chọn để dạy cho học trò ca múa. Lam Phương đã thật sự thành danh khi ông
mới 18 tuổi.
http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-lam-phuong-31.jpg"> Túy
Hồng tên thật Trương Ánh Tuyết, bà sinh ra tại Bình Dương và lớn lên
tại Sài Gòn. Túy Hồng có người anh trai là bạn thân của Lam Phương,
những ngày thứ bảy và chủ nhật, Lam Phương thường đến nhà bạn để hòa
nhạc và dạy hát cho Túy Hồng. Túy Hồng rất ngưỡng mộ Lam Phương vì mới
15 tuổi mà đã sáng tác được bài Chiều thu ấy. Về phía Lam Phương, nhạc sĩ trẻ này cảm thấy chưa có cô gái nào hát nhạc mình hay bằng Túy Hồng.
Thời điểm này, Lam Phương lại đang hợp
tác với ban nhạc kịch lớn Dân Nam nên đề nghị Túy Hồng cùng với mình đầu
quân về đoàn. Kể từ đó, Túy Hồng bắt đầu trình diễn các ca khúc của Lam
Phương và rất thành công với các ca khúc : Đèn khuya, Kiếp nghèo, Kiếp ve sầu, Tiễn người đi, nhất là hai bản Chiều tàn và Phút cuối.
Đưa nhau lên đỉnh vinh quang
Lam Phương – Túy Hồng cưới nhau năm 1959.
Lúc đó, ngoài phần phụ trách nhạc cho ban kịch Dân Nam của đôi kịch sĩ
Anh Lân và Túy Hoa, http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-tuy-hong-2.jpg"> Lam
Phương còn viết nhạc nền cho các ban kịch lừng danh thời đó như : Kim
Cương, Thẩm Thúy Hằng. Đến năm 1968, với sự động viên của chồng, Túy
Hồng đứng ra thành lập riêng một đoàn kịch – Đoàn kịch “Sống – Túy
Hồng”.
Chính đoàn kịch này đã đưa tên tuổi của
Lam Phương và Túy Hồng lên tột đỉnh vinh quang. Đoàn kịch Sống – Túy
Hồng còn có một lợi thế mà ít ban kịch nào có được, đó là ban kịch đưa
các bài tình ca vào các vở diễn thành công nhất, nhờ phần lớn các bài
hát tuyệt vời của người nhạc sĩ tài hoa Lam Phương, thời điểm đó là đức
phu quân của Túy Hồng.
Kịch do Sống – Túy Hồng dựng không quá bi
thảm, kết thúc luôn dành chỗ đứng cho một niềm hạnh phúc nào đó, khán
giả xem kịch Sống – Túy Hồng thường ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm.
Tất cả những vở kịch của ban kịch Sống – Túy Hồng (do Túy Hồng đóng chính) đều ghép nhạc của Lam Phương vào phần ngoại cảnh, http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-tuy-hong-1.jpg">
làm cho vở kịch sống động hơn, truyền cảm hơn, thu hút người xem nhiều
hơn. Ngược lại, mỗi nhạc phẩm của Lam Phương vừa ra đời đều được “giới
thiệu” trong một vở kịch của Túy Hồng.
Thời ấy, cứ mỗi tối thứ năm hàng tuần,
Đài truyền hình Sài Gòn có tiết mục “thoại kịch” và những vở kịch của
ban kịch “Sống – Túy Hồng” bao giờ cũng thu hút nhiều người xem. Thời ấy
truyền hình còn hiếm, người ta kéo nhau đến những nhà có tivi để xem
kịch “Sống – Túy Hồng”, trong nhà, cửa ra vào, ô cửa sổ… đều chật cứng
người xem. Tôi còn nhớ, khi bài hát Thành phố buồn của Lam Phương
được hát dìu dặt trong suốt một vở kịch của Túy Hồng phát trên truyền
hình, sáng hôm sau bài hát ấy bán đắt như tôm tươi, chàng học sinh, sinh
viên nào cũng muốn mua bài Thành phố buồn về để trên kệ sách.
Trong khoảng thời gian này, sức sáng tác
của Lam Phương càng dàn trải trên nhiều thể loại phong phú, hầu hết các
ca khúc ông đưa ra đều in đậm dấu ấn trong đời sống âm nhạc miền Nam,
điển hình như Chờ người, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Thành phố buồn, Tình chết theo mùa đông…
Ông bước lên vị trí một nhạc sĩ thành
công nhất miền Nam về mặt tài chánh. Còn bà Túy Hồng cũng sánh ngang với
những Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng trên sân khấu kịch nghệ. http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/9-tuy-hong-4.jpg"> Vợ chồng Lam Phương – Túy Hồng cất nhà lầu, sắm xe hơi, trở thành đôi vợ chồng nghệ sĩ giàu có bậc nhất lúc bấy giờ.
Sáng 30/4/1975, vào phút chót Lam Phương –
Túy Hồng đã nghe theo người bạn đem gia đình lên tàu Trường Xuân ra
khơi. Vì trước đó không có ý định ra đi, nên Lam Phương xuống tàu với 2
bàn tay trắng, bỏ lại hai căn nhà lầu, chiếc xe hơi mới toanh và khoảng
30 triệu đồng trong ngân hàng (lúc đó vàng 9999 chỉ khoảng 36.000
đồng/lượng).
Buồn như nước mắt
Đến định cư ở Mỹ, để có tiền nuôi vợ con,
Lam Phương phải làm đủ thứ nghề, từ lau sàn nhà, dọn dẹp cho hãng
Sears, đến những việc nặng nhọc như thợ mài, thợ tiện… Sau khi cuộc sống
nơi xứ người dần ổn định, cứ mỗi cuối tuần ông cố gắng thu xếp thuê một
quán ăn làm sân khấu ca nhạc kịch để bạn văn nghệ gặp nhau, để Túy Hồng
và ông có cơ hội sống lại với nhạc kịch.
Chính trong khoảng thời gian này, một
điều mà Lam Phương không bao giờ ngờ tới đã xảy đến : Túy Hồng không còn
chung thủy với ông nữa, bà đã “ôm cầm sang thuyền khác”. Trong tâm
trạng đau khổ, uất hận, Lam Phương lại cho ra đời một tuyệt phẩm mang
tên Lầm, với những câu từ chua xót :
http://hoangnguyen1608.files.wordpress.com/2014/01/6-ns-lam-phuong.jpg"> “Anh đã lầm đưa em sang đây. Để đêm thường nghe tiếng thở dài/Thà cuộc đời yên trong lòng đất. Được
trở về tiếng khóc ban sơ/Hơn là mang kiếp mong chờ. Anh đã lầm đưa em
về đây. Cho tâm hồn tan nát từng ngày. Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí.
Dìu lòng người sang chốn đam mê. Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…”.
Lam Phương rời Mỹ để trốn chạy niềm đau,
ông sang Paris làm công cho một tiệm tạp hóa, quét dọn, đóng gói, khuân
vác… Cho đến một ngày, ông gặp được một tình yêu mới và ông đã kết hôn
với người đàn bà này. Lam Phương như cây khô được hồi sinh, ông lại sáng
tác các ca khúc ngợi ca tình yêu, như : Mùa thu yêu đương, Tình hồng Paris, Tình đẹp như mơ, Bài tango cho em…
Thế nhưng, chỉ được vài năm, người phụ nữ từng tạo cho ông niềm say mê để viết nên câu ca “Từ ngày có em về, nhà mình tràn ánh trăng thề”, rồi cũng bỏ ông mà theo người khác.
Năm 1995, Lam Phương trở về Mỹ và kết hôn với một phụ nữ khác. Định mệnh khiến xui thế nào ông lại sáng tác bài Một mình.
Tháng 3/1999, ông bị tai biến mạch máu não, liệt nửa bên người, giọng
nói không được bình thường. Rồi người đàn bà thứ ba cũng lẳng lặng rời
xa ông. Giờ đây, ông sống một mình với chiếc xe lăn trong căn nhà hiu
quạnh. Hơn 50 năm sáng tác với khoảng 200 ca khúc để cuối cùng bài hát
Một mình đã vận đúng vào đoạn cuối đời ông ! http://cafevannghe.wordpress.com/2014/01/27/chuyen-tinh-lam-phuong/
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Mar/2014 lúc 9:30pm
Tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc
Ðọc " 'Lá Trúc Che Ngang' : chuyện tình của cô tôi," tác giả Hoàng Quỳnh Hoa
Trần Bình Nam
Hàn
Mạc Tử là một thi sĩ có tài. Ông sinh năm 1912, lớn lên bị bệnh nan y
và qua đời năm 1940 khi người Pháp còn đô hộ Việt Nam. Thơ văn và những
mối tình lớn nhỏ của ông tạo thành một biến cố văn học tại Việt Nam sau
khi ông chết. Cả một thế hệ cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 bừng
dậy vì những vần thơ trữ tình đầy nước mắt của ông. Nhất là những vần
thơ thi sĩ dành cho bà Hoàng Thị Kim Cúc, người yêu trong mộng của ông.
Năm
1939 thế giới chiến tranh bùng nổ. Năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp kéo
theo cuộc cách mạng chống Pháp giành độc lập. Ðất nước chia cắt. Sau đó
là cuộc nội chiến khốc liệt, Nam Bắc thống nhất, dân
tình phân ly, chia rẽ. Thế nhưng hiện tượng văn học Hàn Mạc Tử hình như
không bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn chính trị tại Việt Nam. Trước
chiến tranh, trong chiến tranh, và sau khi thống nhất, ở trong Nam cũng
như ngoài Bắc, trong nước cũng như hải ngoại giới văn học vẫn viết về
Hàn Mạc Tử mà không hề bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp Quốc-Cộng. Trong
đó có các nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Chế
Lan Viên, Võ Long Tê và Nguyễn Ðình Niên, Nguyễn Bá Tín...
Tác giả Hoàng Quỳnh Hoa. |
Và mới
đây cuối năm 2013, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà Kim Cúc, người
cháu gọi bà Cúc bằng cô ruột là bà Hoàng thị Quỳnh Hoa cho xuất bản cuốn
“Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” (nhà xuất bản Ðà Nẵng -
Hiệu sách Tường Tâm, Huế phát hành). Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” tiết lộ
nhiều tư liệu liên quan đến mối tình Hàn Mạc Tử - Kim Cúc trước đây chưa
được công bố do bà Kim Cúc chuyển lại cho bà Quỳnh Hoa trước khi qua
đời tại Sài gòn năm 1988 do một tai nạn lưu thông.
Theo
cuốn “Lá Trúc Che Ngang” thì sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, qua thơ văn
được phổ biến, bà Kim Cúc biết tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho mình,
nên bà đã thu thập và lưu giữ mọi tư liệu liên quan đến Hàn Mạc Tử. Bà
Kim
Cúc rất buồn phiền vì đa số sách hay các bài viết về mối tình của Hàn
Mạc Tử đối với bà đều sai sự thật. Bà nghĩ những gì chung quanh Hàn Mạc
Tử là chuyện văn học cần được đính chính, chưa nói đến cần được đính
chính để giữ gìn uy tín của gia đình bà.
Cá
nhân bà từ năm 1971 từng biên thư cho các nhà văn nhà thơ viết không
đúng về Hàn Mạc Tử. Và mấy chục năm sau bà nhờ Giáo Sư Võ Long Tê, ông
Nguyễn Ðình Niên, một giáo sư cùng dạy trường Ðồng Khánh Huế, và cô cháu
Quỳnh Hoa viết sách đính chính. Ông Võ Long Tê là người nhận được nhiều
tư liệu do bà Kim Cúc gởi đến, nhưng vì một lý do nào đó sách ông hứa
viết vẫn chưa ra đời. Ông Nguyễn Ðình Niên thì bận việc dạy học và dịch
kinh. Cuối cùng bà
Quỳnh Hoa - như đã nói - đã thực hiện lời yêu cầu của người cô xấu số
bỏ công nghiên cứu, viết và in cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của
cô tôi” - LTCN.
Theo cuốn “Lá Trúc Che
Ngang” nhà thơ Hàn Mạc Tử có tên là Nguyễn Trọng Trí, gốc làng Thanh
Thủy, Thừa Thiên. Ðầu thập niên 1930 ông là một công chức chập chững vào
đời làm việc tại ty Ðạc Ðiền Quy Nhơn. Năm 1932, cụ tham tá Hoàng
Phùng, thân sinh cô Kim Cúc cũng được đổi từ Huế vào Ty Ðiền Ðịa Quy
Nhơn. Cô Kim Cúc, một thiếu nữ xinh đẹp năm đó vừa tròn 19 tuổi đi theo
thân phụ.
Chàng thanh niên Nguyễn Mạnh
Trí gặp cô Kim Cúc tại một hội chợ do chính quyền bảo hộ tổ chức hằng
năm tại Quy Nhơn. Bị tiếng sét ái tình, Trí tìm cách
tiếp xúc với cô, nhưng cô Kim Cúc, vốn thuộc gia đình giáo dục khắt
khe, luôn tìm cách tránh né. Nhân Trí làm việc cùng sở với Hoàng Tùng
Ngâm, em con chú con bác với cô Kim Cúc nên đã thổ lộ tâm sự với bạn và
nhờ bạn làm cánh nhạn đưa thơ.
Nể bạn
Ngâm nhận thơ nhưng không chuyển, nghĩ là không thích hợp với gia phong,
và khuyên Trí nếu yêu cô Kim Cúc thì nên nhờ mai mối đi hỏi chính thức.
Có
ít nhất hai lần Hàn Mạc Tử tìm cách đón gặp cô Kim Cúc trên đường phố
định ý đưa thư, nhưng cô Kim Cúc né tránh không tiếp chuyện, cũng không
nhận thư. Về mai mối thì văn học không ghi lại gì rõ ràng hơn là câu
chuyện mơ hồ đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử nhờ một người cậu đến nhà thăm ông
cụ của cô Kim Cúc
dọ ý, nhưng thấy không xong ông giả vờ để quên một bức thư Hàn Mạc Tử
viết cho bạn kể lể sự thầm yêu trộm nhớ Kim Cúc của mình (LTCN - trang
62)
Chuyện dạm hỏi này là nguyên nhân
của lời đồn “gia đình Kim Cúc đã từ chối lời cầu hôn của Hàn Mạc Tử với
lý do không môn đăng hộ đối” mà ông Quách Tấn đã viết trong số 73 báo
Văn năm 1967 (LTCN - trang 28).
Sự thật
là, cô Kim Cúc theo đúng gia phong đất thần kinh của thời đại, nghiêm
cấm phụ nữ tiếp xúc với phái nam nên cô không có một tình ý gì với Hàn
Mặc Tử qua những cố gắng tiếp xúc làm quen và chuyện mai mối của người
thi sĩ.
Dư luận cho rằng Hàn Mạc Tử
thất tình nên năm 1932 đã bỏ Quy Nhơn vào Sài gòn lập sự
nghiệp. Ðầu năm 1936 Hàn Mạc Tử trở lại Quy Nhơn, và mấy tháng sau thì
cô Kim Cúc theo thân sinh trở về Huế. Nỗi thất vọng của Hàn Mạc Tử trở
nên chất chứa.
Năm 1937 Hàn Mạc Tử bị
bệnh cùi, một chứng bệnh nan y. Ông đau khổ vì mối tình ôm ấp không được
đáp lại, lại đau đớn vì cơn bệnh hành hạ thể xác, nhưng ông dấu bố mẹ
vào nằm điều trị tại trại cùi Quy Nhơn và chỉ biết thổ lộ nổi lòng với
người bạn thiết là Hoàng Tùng Ngâm. Bệnh càng nặng mối tình của Hàn Mạc
Tử càng nóng bỏng và thơ của ông càng rung động lòng người đã giúp đưa
Hàn Mạc Tử vào bầu trời vinh quang của văn học Việt Nam sau khi ông qua
đời.
Hình bìa tác phẩm “Lá Trúc Che Ngang - Chuyện Tình của Cô Tôi.” |
Thương
bạn, năm 1939 Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho chị Kim Cúc yêu cầu cô viết
thư thăm hỏi Hàn Mạc Tử. Và cô Kim Cúc đã gởi một tấm bưu thiếp (carte
postale) cô mua tại tiệm ảnh Tăng Vinh in hình một thiếu nữ chèo đò trên
sông Hương với vài lời thăm hỏi, không đề ngày, không ký tên. Cảm động,
Hàn Mạc Tử đáp lễ với bài thơ viết tay:
Ở đây thôn Vỹ Giạ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, Vườn ai mướt qua xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây; Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó? Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?
Ðầu thơ Hàn Mạc Tử viết mấy lời:
Túc hạ,
Có
nhận được bức ảnh Bến Vỹ Dạ lúc hừng đông, hay là một đêm trăng? Và mấy
hàng chữ của túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến nghĩa
năm xưa thì phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật
đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào đó được gặp lại túc hạ mới phỉ
tình cho. Thăm túc hạ bình an và vui vẻ. Hàn Mạc Tử (ký) –
(Xem bút tự của Hàn Mạc Tử - LTCN - trang 88 & 89)
Ngày 1 tháng 11, 1940 Hàn
Mạc Tử qua đời tại trại cùi Quy Nhơn và chuyện tình của ông qua những
bài thơ đẫm nước mắt, chứa đầy máu và trăng trở thành một đề tài lớn
trong giới văn học khắp ba kỳ.
Tuy
không có quan hệ tình cảm qua lại gì trước với Hàn Mạc Tử, danh tiếng,
thơ văn và mối tình phong kín đậm đà của Hàn Mạc Tử đã làm cho quả tim
Kim Cúc rung động.
Ðáp lễ bài thơ “Ở
đây thôn Vỹ Giạ” (sau này giới văn học tự động viết lại chữ “Dạ” cho
đúng chính tả) bà Kim Cúc chép lại bài thơ của Hàn Mạc Tử và viết một
bài cảm tác cùng tên bên cạnh, với lời nhập đề: Ngày đầu Xuân đề tặng
hương hồn anh H. M. Tử, người tài hoa bạc phận, một tâm hồn tha thiết
yêu đương, và
một cuộc đời vô cùng đau khổ. (LTCN - trang 91)
Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ Thầm giữ trong lòng một ý thơ Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm. Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ!
Một mình một cõi với nước mây Với cả đau thương với hận này Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây.
Hồn anh lẩn khuất tận mô xa, Hoa biết cùng ai thổ lộ ra Tuy sống giữa đời phức tạp ấy Ai biết tình ai vẫn đậm đà! H.H. thôn nữ
H. H. là Hoàng Hoa, một bút hiệu khác của bà Kim Cúc.
Thủ bút của bà Kim Cúc (trang 91, Lá Trúc Che Ngang) |
Tháng 11 năm 1942 nhân lễ
giỗ lần thứ hai của Hàn Mạc Tử, bà Kim Cúc đã viết một bài văn xuôi ca
ngợi thành tích văn học của Hàn Mạc Tử trong đó bà cho rằng mộng thành
danh của Hàn Mạc Tử đã thành: Âm dương đôi ngã làm sao nhắn Sự nghiệp trăm năm chí đã thành Trong
bài văn xuôi này Kim Cúc tự cho là người thân của Hàn Mạc Tử cám ơn ông
Quách Tấn đã hết lòng sốt sắng đối với Hàn Mạc Tử và ước mong rằng ông
Quách Tấn sẽ nỗ lực thu góp xuất bản thơ của Hàn Mạc Tử nhiều hơn nữa
(LTCN - trang 104).
Một năm sau cũng
nhân lễ giỗ lần thứ ba của Hàn Mạc Tử bà Kim Cúc viết một tự truyện nhan
đề: “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê”(LTCN
- trang 107). Tự truyện được phóng tác dựa vào những tâm tình của Hàn
Mạc Tử đối với cô Kim Cúc gởi cho bạn năm 1936.
Người
“Gái Quê” trong tự truyện chính là cô và cũng là nhan đề của tập thơ
“Gái Quê” in năm 1936 của Hàn Mạc Tử trong đó chan chứa mối tình kín đáo
của Hàn Mạc Tử dành cho cô.
Lời văn
của tự truyện ướt át không che dấu sự đáp ứng ân tình muộn màng của bà
Kim Cúc dành cho Hàn Mạc Tử. Bà trích dẫn từng câu từng ý trong tập thơ
“Gái Quê” để diễn lại cơn sóng lòng của Hàn Mạc Tử trong từng giai đoạn
yêu đương của Tử mà bà không hề biết. Chàng thơ thẩn vì yêu:
“Tứ gió xuân đi gió hạ về Anh thường gởi gắm mối tình quê Bên em mỗi lúc trên đường cái Hóng mát cho lòng được thỏa thuê”
Em có ngờ đâu trong những đêm, Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm, Anh đi thơ thẩn như ngây dại Hứng lấy hương nồng trong áo em (Trích “Âm thầm” - Gái Quê)
Chàng thất vọng quyết bỏ xứ “Quy Nhơn” vào miền Nam “xa ngút ngàn” để xây đắp sự nghiệp.
Nước non muôn dặm tình đương nặng Sự nghiệp trăm năm chí chửa thành
Chàng trở về cũng để chỉ:
... Nép mình trong cánh cửa Hé nhìn dáng điệu của người yêu Bước đi ngượng nghịu trên đường cái Mỗi lúc ngang qua trước mặt lều. (Trích “Tôi không muốn gặp” - Gái Quê)
Chàng từng điên cuồng không kiềm chế được khi nghe tiếng đàn trong nhà Kim Cúc vọng ra:
Ðêm nay ta lại phát điên cuồng Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng Ðứng rũ trước thềm nghe ngóng mãi Tiếng đàn the thé ở bên trong (Trích “Tình thu” - Gái Quê)
Qua tự truyện “Thi sĩ Hàn
Mạc Tử với người gái quê” Kim Cúc viết “về sau lâu lắm có lẽ những nén
hương tâm chàng đốt chân thành quá nên đã kinh động đến lòng người thiếu
nữ vô sự kia... Nhưng mà đáng buồn cho thi sĩ, thiếu nữ vẫn không thể
làm thỏa lòng chàng được...” Cô Kim Cúc không giải thích tại sao tim cô
đã kinh động mà cô không thể đáp trả. Phải chăng gia đình cô không thuận
như tin đồn và ông Quách Tấn đã viết năm 1967 và năm 1971 cô Kim Cúc đã
yêu cầu đính chính, nhưng 17 năm sau (1988) khi xuất bản cuốn “Ðôi nét
về Hàn Mạc Tử” ông Quách Tấn vẫn giữ nguyên đoạn đó (LTCN - trang 28).
Theo
“Lá Trúc Che Ngang”, trong những điều chuyện thêu dệt chung quanh mối
tình Hàn Mạc Tử - Kim Cúc, bài viết “Ba
mối tình của Hàn Mạc Tử” của ông Kiêm Ðạt đăng trong một tờ Phụ Nữ Diễn
Ðàn năm 1985 tại Nam California là có tính thêu dệt nhất (LTCN - trang
181).
Ba mối tình ông Kiêm Ðạt nói
đến là ba mối tình với Mộng Cầm, Thương Thương và Kim Cúc. Theo bà Quỳnh
Hoa, nội dung bài viết của ông Kiêm Ðạt hoàn toàn không đúng sự thật,
nhất là khi ông viết rằng giữa Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc đã có “những
ngày yêu thương cuồng nhiệt”.
Cuốn“Lá
Trúc Che Ngang” có một đặc điểm. Nó không làm cho “chuyện tình của cô
tôi” thêm hoang đường mà chỉ có mục đích trả lại sự thật cho văn học. Sự
thật đó là: Có một mối tình giữa nhà thơ Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc.
Nhưng nó không ướt át hai chiều như các
cây bút nổi tiếng thời đó và sau này tô vẽ. Nó là mối tình của Hàn Mạc
Tử đối với một người thiếu nữ xuân sắc đang tuổi dậy thì trong khung
cảnh thơ mộng của thành phố biển Quy Nhơn. Nàng biết, nhưng lễ nghi ràng
buộc không cho phép nàng đáp lại. Rồi để nó đi qua như nước chảy qua
cầu, cho đến khi nhà thơ yểu mệnh năm 28 tuổi.
Và cơn bão văn học sau đó đã làm động lòng người thiếu nữ một thời chưa dám yêu.
Cuốn
“Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi”của bà Quỳnh Hoa là một đóng
góp lớn cho văn học. Nó cho thấy trước khi Hàn Mạc Tử chết đó là mối
tình một chiều. Bà Kim Cúc chỉ viết một tấm thiệp nhỏ an ủi người bệnh
và thi sĩ đáp lễ bằng một bài thơ. Ngoài ra hai người
chưa từng trao đổi một lời qua lại. Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” giúp cho
những ai viết về Hàn Mạc Tử sau này có những tư liệu chính xác.
Nhưng
còn một câu hỏi cuốn “Lá Trúc Che Ngang” không có câu kết luận: Bà Kim
Cúc không lấy chồng, tu tại gia, sống một cuộc đời ăn chay niệm Phật có
phải vì cô đã yêu và sống vậy để đáp ân tình người đã khuất không?
Bài
thơ cảm tác đáp bài “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và trong tự truyện “Thi sĩ Hàn
Mạc Tử với người gái quê” tình yêu muộn màng của bà Kim Cúc đối với Hàn
Mạc Tử đã thể hiện rõ nét. Trong cái khung văn hóa của đất thần kinh
thập niên 1940, một người con gái chưa chồng đặt bút xuống với nội dung
và cách hành văn đó là một nhìn nhận
“công khai và minh bạch” quả tim mình đã có chủ bởi một người đã khuất.
Cho nên nếu bà Kim Cúc ở vậy cũng không phải là một điều ngạc nhiên.
Nhờ
bà Kim Cúc kho tàng thi văn Việt Nam thêm phong phú nếu chỉ nói đến bài
thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và tập “Gái Quê”. Cuộc đời ở vậy của bà Kim Cúc
đã làm cho văn học sử Việt Nam có thêm một thiên tình sử cực đẹp. Và
cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” đã giúp làm nổi bật nét
đẹp hiếm có này.
Trần Bình Nam March 14, 2014 mailto:binhnam@sbcglobal.net - - binhnam@sbcglobal.net http://www.tranbinhnam.com/ - - www.tranbinhnam.com
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Mar/2014 lúc 9:38pm
Những tư liệu mới nhất về sự thật mối tình Hàn Mạc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc
09:51 | 25/10/2013
LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi
Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu
cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra
nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị
Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.
Ảnh: internet
Trước đây, Tạp chí Sông Hương đã công bố bài viết “Sự thật mối tình Kim
Cúc - Hàn Mạc Tử” của tác giả Nguyễn Đình Niên trên Số Đặc Biệt Sông Hương
tháng 12/2012, với nhiều tư liệu xác tín “Mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử không
hẳn là mối tình đầu, như thi sĩ Quách Tấn đã bảo, cũng không hẳn là mối tình có
kết thúc - Đó không phải là mối tình bị tan rã do bởi hoàn cảnh gia đình nên
“hôn ước bất thành” hay bởi sự ngộ nhận giữa đôi người trong cuộc. Thi sĩ có
ước hẹn gì cùng giai nhân đâu… Đó không phải là một mối tình câm, mà chính là
mối duyên nở dần ra trong im lặng…”.
Để bạn đọc hiểu rõ hơn về sự thật của mối tình nổi tiếng này, được sự cho phép
của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Hoa, SH xin giới thiệu Phần I của cuốn sách nói
trên.
|
Một trang phụ bản trong sách "Lá trúc che ngang- chuyện tình của cô tôi" - Ảnh: internet |
HOÀNG THỊ QUỲNH HOA
Vài nét về cô tôi
Tôi giống Cô ở cái mặt vuông chữ điền, khuôn mặt được thi vị hóa trong
một bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Em gái tôi, Hỷ Nguyên, thì giống Cô ở
cái mũi cao và thẳng như đầm, còn em Hoàng Thị Bích Tâm thì có mái tóc
quăn và dáng người thấp nhỏ như Cô. Bích Tâm, tên chơi là Nghệ mà nhiều
người quen thân Cô vẫn
gọi, là cô em con chú tôi mà cũng là con nuôi của Cô. Vâng, Cô tôi là
Hoàng Thị Kim Cúc, nguyên giáo sư Nữ Công Gia Chánh trường Nữ Trung Học
Đồng Khánh, Huế và sau này là “Chị Cả” của tất cả các anh chị em gia
đình Phật tử từ ba miền đất nước. Nhưng nếu Cô không nhận được bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Giạ
thi sĩ Hàn Mạc Tử gởi tặng năm 1939 thì chắc chắn, ngoài anh chị em Gia
Đình Phật Tử và nữ sinh Đồng Khánh, chẳng ai biết đến Cô. Nay thì tên
cô đã đi vào văn học Việt Nam vì tên Cô gắn liền với tên tuổi Hàn Mạc
Tử.
Những huyền thoại
Tiếc thay, những người viết về Hàn Mạc Tử và mối tình đầu của nhà thơ,
từ xưa đến bây giờ, dường như không ai biết rõ mối giao tình giữa thi sĩ
và “nàng thơ” thứ nhất của ông, nên những bài viết của họ có tính cách
tiểu thuyết hơn là truyện ký. Những người xem như bạn thân của thi sĩ
như nhà cầm bút Trần Thanh Mại(1), và nhiều người khác.
Lời mời ra chơi thôn Vỹ
Bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ Hàn Mạc Tử chép gởi tặng Cô năm 1939 -
về sau được xếp vào tập thơ Đau Thương - có lẽ là bài được nói đến
nhiều nhất trong mấy trăm bài thơ của thi sĩ. Năm 1939 là năm bệnh của
ông phát nặng, thơ của ông sáng, hiền lành, lời lẽ rất nhẹ nhàng, bóng bẩy, chứ không buồn thảm, u uất…”(2).
Vỹ Dạ là địa danh của thôn Vỹ, Hàn Mạc Tử viết Vỹ Giạ, sau này được
viết lại là Vỹ Dạ Câu mở đầu của bài thơ, “Sao anh không về chơi thôn
Vỹ? nghe như một câu hỏi bình thường đã làm nhiều nhà bình văn, bình thơ
cho rằng đó là lời Cô mời thi sĩ ra thăm thôn Vỹ. Quách Tấn, trong thư
gởi Cô (23/3/1971), đã dùng câu thứ nhất của bài thơ như đầu đề bài thơ.
Ông viết, “Xin chị cho biết thêm chi tiết này: Cô gái Vỹ Dạ trong
bài ‘Sao anh không về chơi thôn Vỹ’ có phải là chị chăng? Và có phải do
chị gởi tặng Tử một phiến ảnh chụp bên khóm trúc với lời mời về thăm
thôn Vỹ chăng?” Và mặc dầu Cô đã trả lời: “Thưa ông, bức ảnh đó
chỉ là bức ảnh phong cảnh, chụp cảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong ảnh
không có cô gái nào khác ngoài cô chèo đò. Cô gái mà ông hỏi đó là do
sức tưởng tượng của thi nhân…”. Cuối thư, Cô lập lại: “Ngoài trừ bức ảnh phong cảnh đó và bài thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ thì Tử và tôi không có thư từ gì cho nhau nữa cả.” (15/4/1971). Như vậy là từ năm 1971, Quách Tấn đã biết sự thật mà 17 năm sau, trong cuốn hồi ký, ông vẫn viết “Khi
Tử đau nằm ở Quy Nhơn, Hoàng Cúc có gởi vào tặng Tử một phiến ảnh ‘cô
gái Huế’ với lời mời ‘ra chơi Vỹ Dạ’. Tạ lòng tri kỷ, Tử gởi tặng lại
một bài thơ nhan đề là Đây thôn Vỹ Dạ ”(3). “Sao anh không về chơi
thôn Vỹ” là câu thứ nhất của bài thơ thi sĩ cảm hứng viết ra, không dính
dáng gì đến Cô cả.
Chế Lan Viên cũng cho rằng “Sao anh không về chơi thôn Vỹ” là
đầu đề của bài thơ khi ông viết bài báo cho tờ Sông Hương (số 15, ngày
25/5/1987) nói rằng bài thơ với đầu đề ấy nằm trong tập Nắng Xuân. Cô biên thư cho Chế Lan Viên (10/9/87) đính chính vụ này. Cô viết: “Tiện đây cũng xin thưa Anh rõ là bài thơ ‘Sao anh không về chơi Thôn Vỹ’ nhan đề của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ và bài ấy không có mặt trong tập Nắng Xuân…”. Nhiều người khác thì chỉ nói ngắn gọn “bài thơ thôn Vỹ” là ai cũng biết đó là bài thơ Ở đây Thôn Vỹ Giạ của Hàn Mạc Tử làm tặng Cô.
|
Ảnh: internet |
Bức ảnh mặc áo lụa trắng đứng sau khóm trúc
Cả Quách Tấn lẫn Nguyễn Bá Tín đều cho rằng Cô gởi tặng Hàn phiến ảnh
của mình, mặc áo trắng đứng sau khóm trúc ở sau vườn nhà nơi thôn Vỹ. Vì
vậy, thi sĩ đã có câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” và “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Tôi không hiểu tại sao hai ông này viết như vậy? Hay họ đã quên chi
tiết này chăng vì khi cuốn hồi ký của Quách Tấn do Quê Mẹ xuất bản năm
1988 thì cũng đã mười bảy năm qua từ khi Quách Tấn đọc thư của Cô đề
ngày 15 tháng 4 năm 1971. Cô viết rõ bức ảnh Cô gởi cho Hàn không phải
là ảnh Cô mà là “một bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte postale [Cô ghi carte visite nhưng carte visite thì nhỏ quá, chắc cô ghi nhầm].
Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy
khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước, với
lời thăm hỏi sức khỏe Tử viết sau tấm ảnh mà không ký tên, rồi gởi nhờ
Ngâm trao lại.”
Trong cuốn hồi ký Hàn Mạc Tử, anh tôi của Nguyễn Bá Tín xuất bản năm 1991, hai năm sau khi Cô qua đời, ông khẳng định: “Cho
tới khi anh đau nặng rồi 1939, chị Cúc còn cho anh một phiến ảnh cỡ 6 x
9: chị Cúc mặc áo dài lụa trắng như những cô gái Huế thời bấy giờ đứng
trong vòm cây xanh mát, Anh làm ngay bài Đây thôn Vỹ Dạ (tr. 66-67)”. Trong cuốn Hàn Mạc Tử trong riêng tư, ông Tín vẫn quả quyết rằng bức ảnh Cô gởi cho Hàn năm 1939 là ảnh Cô. Ông viết: “Chính bức ảnh 6/9 này đã giúp Hàn sáng tác bài thơ tuyệt vời Đây thôn Vỹ Dạ. Hình bóng chị Cúc xuất hiện trong phiến ảnh nhỏ này đã làm sống lại mối tình đầu, thương nhớ lại trở về…” (tr 118). Ở trang 123, ông Tín lại nhấn mạnh: “Cuối năm 1939, nhận được bức ảnh chị, anh càng thương nhớ chị. Trong bài thơ Đừng cho lòng bay xa,
anh ước ao gặp được hồn phách chị trong vùng trời xa lạ thần tiên như
cõi Niết Bàn anh đã trông thấy những lúc du hành xuất thần.” Nếu Cô
được đọc những dòng này chắc Cô sẽ sửng sốt, không hiểu tại sao “cậu
Tín” lại bóp méo sự thật như vậy! Thư Cô viết cho “Cậu mợ Tín” ngày
16/10/1987 mà Võ Đình Cường đã trích nguyên văn nhiều đoạn rất dài nói
rõ đầu đuôi câu chuyện rằng Cô chẳng hay biết gì về mối tình si của Hàn
Mạc Tử cho đến mấy năm sau, khi đọc được mấy dòng tâm sự của Hàn viết
cho bạn. Cô viết: “Vào đầu năm 1936, sau khi ông trợ Cát là cậu tôi,
ghé nhà chơi, lúc ra về bỏ quên bức thư của Tử gởi cho cậu mà nội dung
chỉ nói về chuyện tâm tình của Tử. Tử có tới gặp tôi hai lần. Lần đầu
chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần thứ hai, Tử mạnh dạn trong d
áng điệu rụt rè, lắp bắp mấy lời tỏ tình, rồi đưa tặng tôi tập thơ Bâng Khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thơ…
… Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự Hội chợ Huế, mang theo một xấp tập Gái Quê
vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em trong hội chợ. Tử đưa tặng
anh em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên
lặng nhìn! Mấy hôm sau, Ngâm cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà lại
đứng ngoài ngõ nhìn vô. Rồi từ ngày đó chúng tôi không gặp nhau lại,
không thư từ thăm viếng, hứa hẹn, mỗi người mỗi ngả…”. Mấy năm qua,
khi Hàn Mạc Tử bệnh nặng, và theo lời Hoàng Tùng Ngâm đề nghị, Cô gởi
mấy lời thăm hỏi sức khỏe sau một tấm ảnh phong cảnh Huế, không phải bức
ảnh Cô mặc áo lụa trắng đứng sau khóm trúc!(4)
Không xứng mặt đông sàng
Câu chuyện “không xứng mặt đông sàng” là do Quách Tấn dàn dựng. Bài của
ông đăng trong báo Văn số 73, trang 93 ra ngày 7/1/67 nói về thân thế
thi sĩ Hàn Mạc Tử, Quách Tấn đưa ra câu chuyện ông nội tôi không chấp
nhận Tử vì chê thi sĩ không xứng mặt đông sàng. Bài này viết từ năm 1967
nhưng Cô không biết cho đến khi giáo sư Nguyễn Đình Niên đem báo Văn từ
Nha Trang về Huế năm 1971 và đưa cho Cô xem. Lúc đầu Cô muốn giữ im
lặng cho qua nhưng khi đoàn Dạ Lý Hương đưa lên sân khấu câu chuyện Hàn
Mạc Tử, diễn đoạn Tử nhờ người đến cầu hôn, bị ông bà thân nhà gái từ
chối, hắt hủi vì lẽ Tử không xứng mặt đông sàng, mà diễn viên trong vai
ông nội và bà nội tôi thì đanh đá chua ngoa lắm. Cô không xem nhưng nghe
những người xem rồi nói lại làm Cô xốn xang lắm. Cô liền viết thư cho
Quách Tấn (15/1/1971) phiền trách ông đã viết nhiều điều quá sai sự
thật. Trong bức thư thứ hai gởi Quách Tấn (15/3/1971), Cô viết: “Thầy
tôi đổi vào Quy Nhơn tháng 2, 1932, làm việc ở sở Địa Chánh, đến tháng
8/1936 thì về hưu. Như vậy HMT không phải là tùy thuộc Thầy tôi. Vì theo
ông cho biết thì Tử làm ở sở Đạc Điền. Hai sở này không liên hệ gì nhau
cả. Suốt thời gian ở Quy Nhơn, Thầy tôi không hề gặp, hoặc biết mặt hay
nghe tên tuổi Tử… thì làm gì có chuyện Thầy tôi nói Tử không xứng mặt
đông sàng!”
|
Bút tích bức thư của Quách Tấn |
Bức thư trả lời của Quách Tấn (23/3/1971) hứa sẽ sửa lại những điểm sai. Ông viết: “Nhận được thư và tài liệu chị gởi cho, tôi rất mừng. Xin cảm ơn chị và sẽ theo tài liệu này sửa lại đoạn văn kia.” Vậy là từ năm 1971 Quách Tấn hứa sẽ sửa lại những điều ông viết sai mà, 17 năm sau, trong cuốn hồi ký Đôi nét về Hàn Mạc Tử, ông vẫn viết: “Tử
muốn đưa tình yêu vụng lén đến cuộc hôn nhân. Nhưng hôn sự bất thành!
Bất thành không phải vì Tử gặp cảnh rủi ro của chàng Kim Trọng. Bất
thành vì vấp phải trường hợp của Tản Đà khi nhờ người dạm hỏi Đỗ thị.
Nghĩa là thân sinh của Hoàng Cúc - lúc bấy giờ làm tham tá sở Đạc Điền
mà Tử là tùy thuộc - chê Tử không xứng mặt đông sàng.”(5)
Trong cuốn Hàn Mạc Tử trong riêng tư, Nguyễn
Bá Tín cũng có nhắc lại huyền thoại này. Ông viết: “Trong một dịp về Huế
ghé thăm chị Cúc nhắc lại những câu chuyện ông Tấn viết về chị trong
đôi nét về Hàn Mạc Tử, chị nói: Ông Tấn kể chuyện anh Trí đi Sài Gòn lập
chí để xem người ta còn khinh anh nữa không. Người ta đây ông Tấn ám
chỉ tôi. Vì tôi đã chê anh Trí không xứng môn đăng hộ đối.
Chị Cúc nói: Giữa anh Trí và tôi chưa hề có lời trao đổi chê khen, dù là
gián tiếp, chưa hề có thái độ thân sơ, khinh trọng. Vậy ông Tấn dựa vào
đâu mà xét đoán tôi quá tầm thường như vậy. Dòng họ tôi sống theo Nho
phong Phật giáo có bao giờ mặc áo khỏi đầu. Anh Trí cũng biết vậy. Anh
Trí viết trong bài Ở đây thôn Vỹ Dạ cũng đã thông cảm ý đó Gió theo lối gió mây đường Mây.
Chị Cúc cũng thổ lộ:Nếu nói về chuyện môn đăng thì thật là quá khinh bạc
đối với gia đình Hàn Mạc Tử. “Ông cụ tôi, chị nói (cụ Hoàng Phùng, thân
sinh chị), đã từng là bạn đồng liêu với cụ Tham (cha tôi) khi hai người
còn làm việc tại Tòa sứ Hội An năm 1901. Tôi đọc gia phả cụ tôi có ghi
năm đó bàn giao công việc đối với cụ Tham Nguyễn Văn Toản khi cụ chuyển
ngành qua Thương Chánh. Nói như ông Tấn thì thật sai lầm làm cho tôi hổ
thẹn.”
Thật đúng như nhà văn Phật tử Võ Đình Cường phàn nàn, “Những người
có liên hệ mật thiết với Hàn Mạc Tử mà chị [Cúc] đã cho biết sự thật, và
yêu cầu họ đính chính, thì họ đã không làm, hay làm ngược lại, gây thêm
hỏa mù trong một khung cảnh đã có nhiều ‘sương khói’ làm ‘mờ nhân ảnh’.” Võ Đình Cường phiền trách Quách Tấn và Nguyễn Bá Tín cố ý viết sai sự thật để câu chuyện thêm ly kỳ(6).
Những ngày yêu thương cuồng nhiệt
Bài Ba mối tình của HMT do Kiêm Đạt viết trong tờ Phụ Nữ Diễn Đàn
ở Nam California (1985) làm Cô rất buồn bực. Bài viết rất lộn xộn, thứ
tự ngày tháng sai lạc, tình tiết sự việc sai lạc. Thông tin về cả “ba
người tình” đều không đúng. Ngay cả mấy vần thơ của Hàn Mạc Tử mà ông
trích dẫn cũng có nhiều chỗ sai! Ông còn cho rằng bài thơ Thôn Vỹ
là Hàn ghi lại “một mối tình tinh khiết tuyệt trần” với Thương Thương
vì theo ông thì nhà Thương Thương ở Vỹ Dạ! Về phần Cô thì Kiêm Đạt rêu
rao rằng Hoàng Thị Kim Cúc đã có “những ngày yêu thương vô cùng cuồng
nhiệt” với thi sĩ. Kiêm Đạt kết luận như vậy vì ông cho rằng những vần
thơ sau đây là do Cô làm và gởi cho thi sĩ trong những ngày yêu đương ấy
và đã được đăng trong tờ báo Sông Hương:
Người đã cho ta kỷ niệm đầu
Và nghìn cay đắng, gởi về sau,
Không gian mờ mịt, thời gian tím
Ai biết chăng ai, nỗi thảm sầu.
Những bức thư tình đượm nét hương
Của tình đẹp đó, đến muôn phương
Tan rồi, những bước không hò hẹn
Đã bước cùng nhau một nẻo đường.
Cô bực bội buồn phiền, đã thảo một bức thư gởi ông Tổng Biên tập Tạp chí
Sông Hương, nhưng sau đó Cô đổi ý, chỉ nhờ một bằng hữu của Cô có bút
danh là Thế Hữu viết cho Kiêm Đạt và tờ Phụ Nữ Diễn Đàn (tháng 12, 1985) nói rõ rằng tám câu thơ trên là của một thi sĩ vô danh đã bắt chước và nhại theo thơ Huy Cận. Thế Hữu viết, “…Sự
thật thì 8 câu thơ trên là mấy câu của một thi sĩ vô danh nào đó đã bắt
chước tập thơ Huy Cận (bắt chước và nhại theo Huy Cận, tác giả tập ‘Lửa
Thiêng’) thế thôi. Ông Kiêm Đạt không nhớ 2 câu thơ cuối của bài thơ
ông trích ở trên là 2 câu thơ nằm trong tập Lửa Thiêng, in lần đầu năm
1940 hay sao?”
Tôi sẽ cho in toàn bài của Kiêm Đạt vào phần phụ lục để sau này không
còn ai theo tài liệu của ông khi viết về mối tình của Cô như một tác
giả, theo như tôi được biết, hiện đang sống ở nước ngoài, lấy bút hiệu
là Vương Tiểu Muội trong bài Hương Nồng Trong Áo Em. Vương Tiểu
Muội là cựu nữ sinh Đồng Khánh. Cô không ngờ cô giáo dạy nữ công gia
chánh của mình thời trung học là nhân vật trong “cuộc tình thiên thu của
nhà thơ Hàn Mạc Tử”, cho nên cô “ngẩn ngơ” khi đọc bài Ba Mối Tình của Kiêm Đạt. Cô cảm thấy hứng thú bèn viết nên bài Hương Nồng Trong Áo Em “để tưởng nhớ cô giáo C.” có suy nghĩ rằng: “…người
đàn bà đơn sơ, thầm lặng, đôn hậu ấy đã suốt đời cưu mang trong tấm
hình hài thon nhỏ của mình mối tình cao như núi, rộng như trùng khơi,
bao la như không gian, thăm thẳm như thời gian.” Rồi cô trích bốn câu thơ đầu trong bài viết của Kiêm Đạt:
Người đã cho ta kỷ niệm đầu
Và nghìn cay đắng, gởi về sau,
Không gian mờ mịt thời gian tím
Ai biết chăng ai, nỗi thảm sầu
và đề dưới là của H. T. Kim Cúc. Tôi được đọc bài này trong tập hồ sơ
của Cô và thấy cuối trang đề TSH 99. Có lẽ là tờ Tiếng Sông Hương trang
99. Bài này dài 3 trang, từ 99 đến 101.
Năm 1985, ông xã tôi từ tiểu bang California đem về Maryland tờ Phụ Nữ Diễn Đàn có bài của Kiêm Đạt. Ba tôi gởi bài báo về Huế. Sau đó Cô gởi cho tôi bút tích của Hàn Mạc Tử [bản copy] gồm bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Giạ
cùng mấy dòng cảm ơn, thăm hỏi mà các sách báo đã đăng đầy đủ. Cô nhắn
tôi viết cho tờ báo trên, nói lên những chỗ sai lầm. Cô viết lý do Cô
gởi tài liệu cho tôi là “để em biết sự thật và tùy em muốn viết bài đính chính thì tùy tiện còn O không muốn hệ lụy đến chuyện thế gian nữa.” Cô gởi cho tôi bài tự truyện nhan đề Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê “gọi là kỷ niệm cái ngày thi sĩ qua đời”. Câu chuyện được phóng tác theo những lời tâm tình của thi sĩ gởi cho một người bạn...
Hồi ấy tôi cũng bận rộn và nhát gan nữa nên cứ lần khân, vẫn hy vọng một
ngày nào đó có dịp về thăm lại thôn Vỹ và nghe Cô tâm sự. Thời gian lớn
lên bên Cô, chúng tôi cũng hay hỏi Cô có “cảm” thi sĩ Hàn Mạc Tử không
thì Cô chỉ tủm tỉm cười mà không nói năng chi. Chúng tôi trêu, “Chắc o
cũng có thích hí?” thì Cô cũng chỉ cười mỉm rồi bỏ đi.
Năm 2000, khi tôi về Huế, em Hoàng Phước Thiện, thủ tự từ đường ở Vỹ Dạ,
cho tôi mấy cuốn sách khảo cứu về Hàn Mạc Tử do các tác giả tặng gia
đình. Tôi đem sách về nhà đọc, lòng dặn lòng một ngày nào đó sẽ ngồi
xuống và viết về những điểm mà tôi nhận thấy những nhà cầm bút đã không
phản ảnh đúng câu chuyện Cô tôi kể. Không hiểu sao tôi vẫn cứ hẹn rày
hẹn mai cho đến năm 2009, bỗng dưng tôi quyết định xuống nhà ở Vỹ Dạ và
yêu cầu em Thiện mang hết tư liệu của Cô cho tôi xem.
|
Bút tích của Hoàng Thị Kim Cúc |
Những bức thư để lại
Thật bất ngờ khi thấy những bức thư Cô viết cho nhiều người: Quách Tấn,
Võ Long Tê, Chế Lan Viên, Nguyễn Bá Tín, Tuấn Khanh - con gái của bà Như
Lễ [chị của HMT] - và cả thư gởi cho ba tôi nữa, tôi thấy có ghi hai
chữ “để lại”. Thì ra Cô đã viết hai bản, một gửi đi và một bản lưu. Tôi
không hiểu lý do tại sao Cô thấy cần phải lưu lại một bản? Cô biết sau
này sẽ có người cố tình không nói đúng những lời Cô tâm sự về mối tình
đầu của thi sĩ? Cô biết có ngày những bức thư ấy sẽ nói lên những sự
thật mà Cô không thể nói được? Không ai biết Cô đã có suy nghĩ gì khi
làm quyết định lưu lại mấy tờ thư kia! Một bất ngờ nữa và thật cảm động
khi tôi được đọc những bức thư chú tôi [Hoàng Tế Ngộ] viết cho Cô, thư
của cô Ngọc Anh là em gái Cô, thư chú Ngâm [Hoàng Tùng Ngâm, em thúc bá]
viết vào những năm Hàn Mạc Tử mới qua đời. Tôi thấy ngậm ngùi thương Cô
vô hạn. Tôi có cảm tưởng như Cô đang thì thầm, trò chuyện, phân bua với
tôi!
Giáo sư Nguyễn Đình Niên & Giáo sư Võ Long Tê
Hè năm ấy tôi đem về Mỹ tất cả những tư liệu về Cô và Hàn và những trang
ghi chép những phần không thể copy được, nhưng rồi cũng trân trọng cất
kỹ! Năm 2010 tôi lại có dịp về thăm Huế và tìm gặp giáo sư Nguyễn Đình
Niên, người đầu tiên được Cô kể lể câu chuyện “Hàn Mạc Tử + Kim Cúc” năm
1971 để ông hoàn thành luận án cao học của ông về Hàn Mạc Tử. Khi nghe
tôi nói ngày trước Cô muốn tôi viết về thời gian Hàn Mạc Tử tìm cách
quen biết Cô, anh Niên thúc giục tôi nên viết, bởi vì theo anh Niên thì
khoảng ba năm trước khi Cô từ trần, Cô muốn anh Niên viết lại chuyện
“Hàn Mạc Tử + Kim Cúc” do tài liệu Cô cung cấp nhưng anh đã không làm
được. Anh Niên ân hận tâm sự: “Thời điểm đó tôi còn đi dạy, và quá bận vì tôi đang dịch bộ kinh Lăng Già
từ chữ Hán ra chữ Việt, nên tôi thưa với Cô là ‘hãy thong thả’, lý do
chính là vì tôi nghĩ Cô còn thọ rất nhiều năm nữa. Sau đó, thì ông Tê
nhờ người em ruột của vợ ông (Trần Xuân Lộc), đi với tôi xuống nhà Cô,
năn nỉ mượn tài liệu. [Vợ ông Tê là học trò cũ của Cô, bà Trần Thị Như Quỳnh].
Tôi nghĩ tôi đã không viết được, thì nên để ông Tê viết, nên tôi đã hết
sức nói vô cho ông Tê để Cô cung cấp tài liệu cho ông Tê.”
|
Chắc Cô thấy cũng đã đến lúc cần phổ biến sự thật, vì đã 15 năm sau khi
trao đổi thư từ với Cô, Quách Tấn vẫn không đính chính những điểm sai
lầm trong bài viết của ông, nên năm 1986, Cô bằng lòng đưa những tư liệu
về Hàn Mạc Tử cho ông Tê. Anh Niên rất buồn là cho đến ngày Cô mất,
cuốn sách của ông Tê vẫn chưa ra đời, mặc dù trong thơ gởi anh Niên đề
ngày 17, tháng 3, năm 1988, ông Tê tuyên bố: “Sách tôi đang viết đang ngon trớn, trong năm nay sẽ trao cho cô Kim Cúc và anh xem trước.”
Trong bức thư tâm sự với ba tôi (11/5/1988), Cô cũng có nhắc đến cuốn
sách ông Tê viết sắp xong và hy vọng sẽ biếu ba tôi một cuốn. Tài liệu
ông Tê mượn với lời hứa danh dự sẽ hoàn trả, nhưng cho đến nay chúng tôi
không biết giáo sư Võ Long Tê đang ở phương trời nào. Trước ngày Cô lâm
nạn, Cô có thư cho tôi nhờ hỏi xem ông Tê định cư ở đâu để đòi tài liệu
lại cho Cô, những tài liệu Cô đưa cho ông từ năm 1986 mà Cô rất trân
quý. Cô nói với tôi Cô không có gì quý báu để lại cho em Bích Tâm làm
của hồi môn, chỉ có những tài liệu về thi sĩ Hàn Mạc Tử chú Ngâm trao
cho Cô sau khi thi sĩ qua đời là quý giá.
Tài liệu gởi cho Võ Long Tê
Cô ghi tài liệu gởi lần đầu gồm:
- Tập Nắng Xuân.
- Thủ bút bài “Ở Đây Thôn Vỹ Giạ”.
- Giấy về lễ chu niên của thi sĩ HMT của nhà văn Trần Thanh Mại.
- Cái carte [visite] của HMT.
- Bài báo kỷ niệm lễ đại tường của HMT.
- Bài tùy bút nói về HMT với người gái quê.
- Bức ảnh 6/9 [khi cô 19 tuổi lúc HMT gặp cô. Ông Tê muốn cho ảnh này vào sách].
- Tờ giải thích mấy điểm Võ Long Tê hỏi.
Mấy lần sau, Cô gởi thêm:
- Những bài thơ Đường của Hàn Mạc Tử chép do Hoàng Tùng Ngâm đem về, Cô ghi từ bài 1 đến bài 34.
- Bức thư Hàn Mạc Tử viết cho người cậu bà con [ông Trợ Cát] năm 1932.
- Bức thư Hoàng Tùng Ngâm viết báo tin Hàn Mạc Tử từ trần.
- Mấy bài thơ Cô làm hồi xưa, năm 1930, 31 xướng họa chơi với các em Cô.
Ông Tê muốn xem những bài ấy để tìm hiểu tâm trạng của cô hồi còn nhỏ,
lời ông Tê.
- Cái ảnh của Hoàng Tùng Ngâm gởi tặng.
- 4 mảnh thư của H. T. Ngâm gởi cô có liên quan đến HMT.
- 18 bài thơ của HMT lúc mới làm xong “Ngâm đem về cho coi, tôi chép lại
để anh thấy nét chữ của tôi hồi đó. Cũng có thể trong mấy bài thơ trên
sau này có bị sửa đổi nhiều chữ như trong tuyển tập HMT của Chế Lan
Viên.”
- Hai bài của Hoàng Vân Nghi (em Hoàng Tùng Ngâm).
- Bài của Kiêm Đạt do ông anh ở Mỹ gởi về.
- Và “mới đây anh Niên đã gởi tất cả các bản chính vào anh chị luôn, tôi
không giữ lại bài nào.” (thơ gởi cho Võ Long Tê ngày 10 tháng 9 1987).
Sau khi gởi hết tài liệu đi rồi, Cô thấy hụt hẫng thế nào ấy nên đã than
thở với ông Tê (thư đề ngày 10/9/87), “thật tình tôi cũng không hiểu vì
sao từ bao nhiêu năm nay vẫn tâm nguyện giữ kỹ mối tình thầm lặng của
nhà thơ, nhất là không muốn phô trương trên mặt báo. Vì lẽ đó, tôi đã
cương quyết không trả lời với bất cứ ai đến hỏi trong thời gian qua, thế
mà không hiểu vì sao nay lại có thể trao tất cả nỗi niềm riêng tư của
mình cho anh Niên và anh chị, tự nhiên cảm thấy mình bị chịu thiệt mất
rồi.” Đọc mấy dòng này, tôi thấy bùi ngùi thương Cô xót xa. Không hiểu
vì sao giáo sư Võ Long Tê không hề liên lạc với Cô nữa sau khi nhận đủ
những tư liệu cần thiết cho công việc biên khảo của ông. Bức thư ông
viết cho Cô đề ngày 30 tháng Sáu, 1988 cám ơn đã nhận đủ tất cả tài liệu
là lần cuối cùng ông liên lạc với Cô. Gia đình họ Hoàng chúng tôi tha
thiết yêu cầu gia đình giáo sư Võ Long Tê hoàn trả tất cả những gì giáo
sư mượn của Cô ngày trước để Cô được mỉm cười an vui ở một cảnh giới nào
đó.
|
Bút tích bức thư của Võ Long Tê |
Tư liệu được phổ biến
Tôi có thể đoán được lý do tại sao bỗng dưng Cô lại chịu buông bỏ lời
nguyền xưa, ân cần trao hết tài liệu cho nhà khảo cứu Võ Long Tê năm
1986, 1987, và 1988. Lý do ấy được Cô trình bày trong bức thư gởi cho ba
tôi: “Em nghĩ các tư liệu đó là của văn học nước nhà, không phải
của riêng em, với lại gặp dịp có người đứng đắn, giỏi, ông [VLT] viết
rồi dịch qua tiếng Pháp, nên em cho ông mượn các tư liệu em có, để ông
dựa theo đó mà viết cho chính xác, cũng là một cách gián tiếp cải chính
những sai lầm mà lâu nay nhiều người đã viết”.
Đối với bài viết của Kiêm Đạt, Cô bực tức hơn cả lúc đọc tập Văn có bài
của Quách Tấn nói về thân thế thi sĩ Hàn Mạc Tử có nhiều đoạn quá sai sự
thật, nhất là khi đoàn cải lương dựng màn hát dựa theo những dữ kiện
sai lạc ấy, cho nên khi ông Nguyễn Đình Niên - giáo sư dạy văn ở Trường
Đồng Khánh - xin Cô tài liệu để viết luận án cao học về Hàn Mạc Tử thì
Cô bằng lòng ngay, vì Cô sợ ông Niên sẽ dùng tài liệu sai lạc của Quách
Tấn (thư cô viết cho QT ngày 15/1/1971). Cô còn hỏi Quách Tấn nếu cần
tài liệu để viết lại bài khác cho đúng sự thật hơn thì Cô sẽ sẵn sàng.
Cô viết: “Lâu nay nhiều người muốn gặp tôi hỏi về HMT, song tôi đều
từ chối, vì nghĩ rằng đó là một câu chuyện riêng tư, không muốn ai biết,
nhưng nay mọi người đều biết, và biết sai, sẽ không lợi cho lịch sử sau
này và cũng không hay cho thân thế thi sĩ, nên buộc lòng tôi phải lên
tiếng.”
Trong thư gởi Tuấn Khanh (1/10/87), học trò cũ của Cô và cháu gọi HMT bằng cậu, Cô viết, “…cô
đã trả lời những câu thầy Niên hỏi. Thầy hỏi rất dè dặt và viết cũng
rất kín đáo. Thầy Niên là người đầu tiên mà cô tiếp xúc để nói về H.M.T
sau bao nhiêu năm âm thầm giữ kín. Năm kia thầy Niên này nỉ cô có tài
liệu gì gởi cho thầy Võ Long Tê [thầy cũ của giáo sư Niên], thầy Tê đang
viết về HMT. Thầy Tê là người đứng đắn, học rộng biết nhiều. Nghĩ vì
ngày nay nhiều người biết câu chuyện tình của cậu [HMT] mà biết sai lạc,
nên cô mới đưa tài liệu cho thầy Tê, để sau này họ khỏi phỏng đoán này
nọ, rồi xuyên tạc mãi đi xa sự thật.”
Cô càng thấy cần thiết phải đính chính sau khi thấy Chế Lan Viên viết
nhiều chi tiết sai lạc về Cô trong bài “Ông Nghị Gật“ đăng ở tờ Sông
Hương số 15, ngày 25 tháng 5 năm 1987. Lúc đầu Cô cũng định lặng lẽ cho
qua nhưng khi thấy Chế Lan Viên viết rằng bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ được đăng trong tập Nắng Xuân
thì Cô tự tay viết cho Chế Lan Viên (10/9/1987) phiền trách ông đã
không tìm cách kiểm chứng dữ kiện trước khi cho đăng báo. Tập Nắng Xuân do Hàn Mạc Tử tự xuất bản năm 1937; bài thơ Thôn Vỹ được làm năm 1939 không thể có mặt trong tập Nắng Xuân được. Cô bực mình vì Chế Lan Viên đã dành lấy tập Nắng Xuân - bản Hàn Mạc Tử tặng Cô - trên tay Vân Khanh, cháu của Hàn Mạc Tử, rồi đưa bài Ông Nghị Gật từ tập Nắng Xuân đăng trong tờ báo Sông Hương với những lời bàn của ông về Cô làm Cô phiền lòng lắm.
Theo thư gởi cho ba tôi ngày 11/5/1988, thì Cô muốn chờ sách của ông Tê in xong sẽ gởi “tặng
anh để anh ngạc nhiên, bất ngờ thì hay, song nay nghĩ lại, em cần để
anh và chị em biết trước, mặc dù biết đại khái, để khi có sách xem biết
thêm chi tiết thì càng hay, chứ nay không nói trước với anh chị em trong
nhà thì em sai quá…”. Đúng ba tháng sau, ngày 11/8/1988,
Cô bị tai nạn giao thông rồi hôn mê luôn. Có thể vì linh cảm được điều
này chăng nên Cô thấy cần kể lể với ông anh rồi còn căn dặn: “Anh
xem xong đưa mấy cháu xem cho vui. Nếu có thể được, anh đánh máy cho em
vài bản về đoạn em kể câu chuyện tình của HMT em gởi cho mấy chị em ở
đây coi... Khá Anh [Hoàng Tế Ngộ], Khá Em [Hoàng Hoan Nghinh]), hay Em
Nhỏ [Hoàng Thị Ngọc Anh] thì có biết chuyện, song cũng biết lờ mờ, vì em
cũng không nói chi hết, mấy em ở trong nhà cũng chỉ biết qua sách
báo... Trong gia đình, anh là người đầu tiên mà em kể câu chuyện tâm
tình của em. Với người ngoài thì em có nói với ông đang viết về HMT [Võ
Long Tê] có liên quan đến em mà thôi.”
Nhân vật Hoàng Tùng Ngâm
Tôi đọc đi đọc lại những bức thư người thân của Cô gởi sau ngày Hàn Mạc
Tử qua đời mà ngậm ngùi thương cảm. Tôi nghĩ là tôi có thể hiểu được tâm
tình của Cô, hiểu được tại sao Cô vẫn một mực kêu “oan” là mình không
hề đáp lại mối tình si của thi sĩ, cho nên Quách Tấn đành phải kết luận
mối tình đầu của thi sĩ là mối tình đơn phương. Thưa, cô tôi là một
người có một “tâm hồn ủy mỵ” - lời Cô nói về mình trong bài Một năm qua
(xem phần III) - là một con người ướt át, đa sầu đa cảm. Tôi còn nhớ
sau 1954, khi nghe hát bài ‘Hướng về Hà Nội’, mặc dầu chưa hề biết Hà
thành, Cô xúc động lặng lẽ rơi nước mắt. Không lẽ nào Cô không có chút
động lòng khi nhà thơ trẻ đón đường e thẹn làm quen. Hàn Mạc Tử đón
đường hai lần, và hai lần Cô hấp tấp bỏ đi không dám đứng lại chuyện
trò, mặc dầu chàng trai trẻ kia đâu phải là người xa lạ. Cô đã biết thi
sĩ qua người em thúc bá Hoàng Tùng Ngâm. Chú Ngâm là người bạn thơ rất
thân với Hàn Mạc Tử. Chú cũng làm việc ở Quy Nhơn và ở cùng nhà với ông
nội tôi nhưng chú cho làm một túp ‘lều tranh’ riêng của chú sát vách nhà
lớn ở trên đường Khải Định, cách nhà Hàn Mạc Tử mấy căn thì phải. Chú
muốn ở riêng biệt như vậy để bạn bè chú được tự do lui tới mà Hàn Mạc Tử
là vị khách thường xuyên của cái lều tranh đó. Thi sĩ có làm tám câu
thơ vịnh ‘Lều tranh ông Hoàng’ - là ông Hoàng Tùng Ngâm, không dính dáng
gì đến lầu ông Hoàng ở Phan Thiết - tặng bạn, dán ở trước cửa lều mà Cô
chỉ nhớ hai câu đầu:
Một lều trăng gió ngó lôi thôi
Mái lủng tường xiêu cũng sướng rồi…
Chú Ngâm là người báo tin cho Cô biết Hàn Mạc Tử đau nặng và xin Cô gởi
thư thăm hỏi người xưa. Cô rất thương cảm nhưng cũng chỉ viết đôi dòng
hỏi thăm sức khỏe sau một tấm ảnh phong cảnh mua ở hiệu chụp hình Tăng
Vinh, Huế, mà cũng chỉ gởi nhờ chú Ngâm trao lại. Em lấy chồng, bài thơ ở trang cuối của tập Gái Quê, thi sĩ đề “tặng Thanh Trai họ Hoàng”. Thanh Trai là biệt hiệu của Hoàng Tùng Ngâm.
H.T.Q.H
(SH296/10-13)
.....................................................
(1) Phần phụ lục trong cuốn hồi ký của Quách Tấn do Quê Mẹ xuất bản
1988, bà Như Lễ, chị ruột Hàn Mạc Tử, phiền trách ông Trần Thanh Mại đã
đưa ra những điểm sai sự thật về gia đình thi sĩ trong cuốn sách của
ông. Lời bà Như Lễ: “Trần Thanh Mại nói về trường hợp sanh Hàn Mạc
Tử một cách hết sức xuyên tạc! Ông nói rằng bà thân chúng tôi đã uống
rượu lậu của ông thân chúng tôi bắt được, và say sưa lướt khướt. Do đó
sanh ra Tử thiếu tháng. Cho nên Tử sanh ra chỉ bằng con nhái chàng nằm
lỏng lẻo trong bàn tay một người lớn.” (tr. 156).
(2) Võ Đình Cường, Huyền thoại về người tình đầu tiên của Hàn Mạc Tử và bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ, tr 45 trong Tập Thành Đạo, PL 2535 (số 22 tháng 1/1992).
(3) Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, tr 65, Nxb. Quê Mẹ, 1988.
(4) (6) Võ Đình Cường, Mấy tư liệu chính xác về Mối tình giữa Hàn Mạc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc trong Tập văn Phật đản P.L. 2536 của Ban Văn Hóa Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam số 23 tháng 5, 1992.
(5) Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, tr 64.
Link nguồn :
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p4/c18/n13042/Nhung-tu-lieu-moi-nhat-ve-su-that-moi-tinh-Han-Mac-Tu-va-Hoang-Thi-Kim-Cuc.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Mar/2014 lúc 12:48am
Người tình trong
“Thu, hát cho người”
và
“Ru con tình cũ”
Người tình trong “Thu, hát cho người” và “Ru con tình cũ” (*)
-Trương Văn Khoa-
Thời trung
học, cứ mỗi lần đi học ở trường Tiểu La, tôi vẫn có thói quen hay uống
café tại một quán rất quen thuộc tên là Café Thu. Quán giản dị với những
chiếc bàn gỗ cũ kỹ theo năm tháng. Ngày ấy, ở thị trấn Hà Lam (Thăng
Bình, Quảng Nam), ai cũng biết quán này, chủ nhân là một người đàn bà
trên 30 tuổi nhưng còn đẹp và sâu lắng. Một điều đặc biệt, café ở đây
rất ngon, nhạc hay và buồn như chính chủ nhân của nó. Lúc rỗi, tôi
thường nói chuyện với chủ quán, những lúc như thế, đôi mắt cô Thu thường
đượm buồn, xa xăm, nhớ về một dĩ vãng không xa lắm...
Ru con tình cũ (Đinh Trầm Ca) - Khánh Hàhttp://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ru-con-tinh-cu-dinh-tram-ca-khanh-ha.qNzol9OGl2.html
Thu Hát Cho Người - Tuấn Ngọchttp://www.nhaccuatui.com/bai-hat/thu-hat-cho-nguoi-tuan-ngoc.vz8u6GsjoS.html
Cách đây khoảng 40 năm, trên đoạn đường từ ngã tư Hà Lam đến
cổng trường trung học Tiểu La - Thăng Bình, người dân ở thị trấn nhỏ lẻ này chắc
không quên cô nữ sinh tên là Thu, hàng ngày cắp sách đến trường. Hồ thị Thu,
người vùng quê ngày ấy thường gọi là Thu Chuẩn (ba cô tên là Chuẩn) để phân
biệt với những cô Thu khác. Thu học ban C, có giọng hát hay, quyến rũ và từng
là hoa khôi của truờng Tiểu La lúc bấy giờ. Với mái tóc dài xõa ngang lưng,
khuôn mặt trái soan, làn da trắng hồng, thướt tha trong tà áo dài trắng, Thu đã
làm cho biết bao nhiêu chàng trai điêu đứng. Trong số đó, Vũ Đức Sao Biển và
Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ), những học trò chân đất, nhìn người đẹp rồi mơ mộng yêu
đương, về nhà làm thơ viết nhạc... Đynh Trầm Ca có "Ru con tình cũ",
Vũ Đức Sao Biển có "Thu, hát cho người", những bài thơ này đã được
giới học sinh, sinh viên chép nhau rồi truyền tụng. Tên tuổi của các thi sĩ
cũng nổi danh từ đó. Chỉ có một điều, đây là những mối tình trong mộng tưởng,
tình yêu đơn phương, lãng mạn ở lứa tuổi học trò. Thời gian trôi đi, Thu
lấy chồng sớm, chàng trung úy pháo binh tên Trần Đình Ái, một pháo đội trưởng
pháo binh. Ái là sĩ quan pháo binh yểm trợ cho bộ binh hành quân ở vùng Sơn
Tịnh, Quảng Ngãi. Thời ấy vào khoảng năm 1973.
|
Thu của ngày ấy- |
"Thu, hát cho người" để tặng cho Thu được Vũ Đức
Sao Biển sáng tác vào năm 1968, là một trong nhạc phẩm làm nên tên tuổi
của ông:
"Giòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu
nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng
hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi
sim, ta nhớ người vô bờ
Ta vẫn
chờ em dưới gốc sim già đó
Để hái
dâng người một đóa đẫm tương tư
Đêm
nguyệt cầm ta gọi em trong gió
Sáng
linh lan hồn ta khóc bao giờ
Ta vẫn
chờ em trên bao la đồi nương,
Trong
mênh mông chiều sương
Giữa thu
vàng, bên đồi sim trái chín
Một mình
ta ngồi khóc tuổi thơ bay
Thời
gian nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly
nào không buồn phiền trên dấu môi
Mùa vàng
lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc
hoài mong, ta hát vì xa người.
http://truongvankhoa.vnweblogs.com/gallery/15370/previews-med/Vu%20Duc%20Sao%20Bien%20%281970%29.jpg"> |
Vũ Đức Sao Biển năm 1970 |
Bài hát được 2 danh ca Hà Thanh và Anh Ngọc hát trên Đài
Phát thanh Sài Gòn. Sau đó, những giọng ca tên tuổi của Miền Nam như: Phượng
Bằng, Mai Hương, Quỳnh Dao, Kim Tước, Vân Quỳnh, Vân Hà, Ngọc Long...thể hiện
rất thành công. Bài hát được công chúng đón nhận nồng nhiệt và trở nên nổi
tiếng lúc bấy giờ.
Một thời, “Thu, hát cho người” đem đến nhiều giai thoại cho
giới văn nghệ sĩ, nhất là Quảng Nam, Đà Nẵng và TP. HCM. Tháng 1/2010,
trong chương trình “Gặp gỡ cuối tuần” phát trên HTV7, Vũ Đức Sao Biển có đề cập
đến bài hát và coi đó là tình cảm trong sáng của chính tác giả với một người
con gái cùng quê ở Quảng Nam. Sau một thời gian xa cách, khi trở về, cô gái
ngày xưa giờ có lẽ đã có một bến bờ khác. Một mình lang thang lên đồi sim tím,
nơi đã từng gắn bó với mối tình ngày xưa, cảm xúc chợt ùa về… Và “Thu, hát cho
người” ra đời trong hoàn cảnh đó.
Cuối năm 2011, một lần viết về bài hát này trên báo “Người
lao động”, Vũ Đức Sao Biển giải thích rằng, tựa đề ca khúc “Thu, hát cho người”
là hát cho chính mình, hát cho mùa sim tím, tháp cổ và dòng sông ở vùng quê
nghèo khó Thăng Bình (Quảng Nam). Lần này, không hiểu vì sao, trong bài báo “Tôi
viết Thu, hát cho người”, ông không hề nhắc đến những câu chuyện về Thu ngày ấy
? Ông tâm sự, thuở học trò, tâm hồn trong sáng như dòng suối êm đềm xuôi chảy
dưới chân đồi. Mùa thu, hoa sim tím nở như một tấu khúc dịu dàng. Hoa sim, màu
hoa tím nhạt lãng mạn, bình dị giữa thu vàng lại gợi nhớ đến như vậy ? Ông nhớ
hoa, nhớ người, ôm đàn và hát lên:
"Giòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu
nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng
hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi
sim, ta nhớ người vô bờ…”
Thật ra, Vũ Đức
Sao Biển đã mượn ý của thi sĩ Thôi Hiệu (đời Đường) trong bài “Hoàng hạc lâu”
với câu:
“...Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du…”
(…Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không…)
Và ngẫu nhiên, những lời trong bài hát “Thu, hát cho người”
cũng trùng với ý thơ của thi sĩ nổi tiếng người Pháp Guillaume Apollinaire
(1880-1918) trong bài thơ để đời L'Adieu (Lời vĩnh biệt):
“…J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus
sur terre
Odeur du
temps brin de bruyère
Et
souviens-toi que je t'attends…”
Sau này, Bùi Giáng dịch thành:
(…Ta đã hái nhành lá
cây thạch thảo
Em nhớ
cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta
sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng
trùng lai không có ở trên đời
Hương
thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ
nhé ta đợi chờ em đó ... )
Năm 2007, trong một lần gặp gỡ văn nghệ, khi Vũ Đức Sao Biển
nhắc lại câu hát:
“Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó.
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư…”
nhà văn Sơn Nam đã “phê bình” Vũ Đức Sao Biển :
“Mày nói dóc ! Cây sim ngoài Quảng Nam của mày thấp tịt, vậy mày ngồi
chỗ nào để đợi con nhỏ đó ? Mà cái đồi sim thì trống huơ trống hoác, con nhỏ đó
có đến thì mày mần ăn được gì ?”
http://4.bp.blogspot.com/-yM2PORzYZDw/UA0GFVwI-QI/AAAAAAAAD2k/jQELEYJeWKQ/s1600/dynhtramca.jpg"> |
NS: Đynh Trầm Ca |
Vũ Đức Sao Biển lý giải rằng, cây sim già không nhỏ, đặc
biệt là khi mọc trên đồi cát, có cây cao vài ba mét, tỏa bóng mát quanh năm.
Ngày ấy, tuổi 20, lòng Vũ Đức Sao Biển vô cùng trong sáng chẳng bao giờ
dám nghĩ tới hai chữ “mần ăn” như ông già Nam bộ đã nói.
Liên quan đến mối tình thơ mộng này, vào năm 1967, tại La
Qua, Vĩnh Điện, (Quảng Nam), Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ) đã viết tặng cho Hồ
Thị Thu ca khúc "Ru con tình cũ" rất thiết tha. Năm 1970, trong
một đêm nhạc ở Sài Gòn, một người ở Nhà xuất bản âm nhạc Khai Sáng đã
chuyển bản nhạc này cho Lệ Thu, cô ca sĩ nổi tiếng này đã bật
khóc ngay trong phòng thu âm khi hát đoạn đầu tiên: "Ba năm qua em trở
thành thiếu phụ, ngồi ru con như ru tình buồn..."
Bản nhạc cũng được ca sĩ Hà Thanh hát trên đài phát thanh
Sài Gòn
Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con
như ru tình buồn
Xin một
đời thôi tiếc thương nhau
Xin một
đời ngủ yên dĩ vãng
Ba năm
qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru
con như ru tình sầu
Kỷ niệm
nào ghi dấu trên tay
Cho lòng
này dài những cơn đau
Ôi ba
năm qua rồi
Đời chưa
nguôi gió bão
Người xa
xôi phương nào
Người có
trách gì không?
Thôi anh
ơi anh đừng hờn trách nữa
Đời em
như rong rêu tội tình
Xin gục
đầu ghi dấu ăn năn
Thôi
đừng buồn em nữa nghe anh
Sau này, người con gái
tên Thu cũng đi vào trong bài thơ "Cây đàn thương nhớ" của Đynh Trầm
Ca với những hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò:
“Buổi ta vác cây đàn ngang trường cũ
ai như em đứng ngó cuối hành lang
ai như ta ngồi mơ sau cửa lớp
có lẽ nào mình còn đó sao, Thu ?...".
Café Thu ngày ấy cũng không còn nữa… Hồ Thị Thu bây giờ đã
ngoài 60 và trở thành một bà chủ tiệm bán hàng trang trí nội thất ở thị trấn Hà
Lam. Mỗi lần về lại Thăng Bình, lên những đồi sim bạt ngàn ở vùng trung du
(Bình Định, Bình Trị,...), tôi lại khe khẽ hát trong hoài niệm, trong nỗi nhớ
về những tháng ngày xưa cũ...
"...Thời gian
nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly
nào không buồn phiền trên dấu môi
Mùa vàng
lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc
hoài mong, ta hát vì xa người..."
(http://truongvankhoa.vnweblogs.com)
ĐỌC THÊM: Liên quan đến Thu, người con gái, người tình
trong hai ca khúc “Thu, hát cho người” và “Ru con tình cũ”, nhà báo người Quảng
Nam Hà Đình Nguyên có kể lại:
Đất Quảng Nam vốn sinh ra nhiều nhân tài và cả
nhiều giai thoại. Trong đó một giai thoại hy hữu là có 2 nhạc sĩ đương thời
cùng nặng tình với một nàng thiếu nữ, và mỗi người đã sáng tác một ca khúc để
riêng tặng nàng. Cả hai bài hát này đều rất quen thuộc với công chúng…
Đó là một giai thoại lý thú mà giới văn nghệ Quảng
Nam và Sài Gòn vẫn kể cho nhau nghe: Ngày xưa (thập niên 60), ở một thị trấn
nhỏ của tỉnh Quảng Nam, có một cô học trò trung học, ngày hai buổi ôm cặp đi về
trên con đường bụi mù phố lẻ. Nàng họ Hồ, tên Thu, có mái tóc dài, mặt trái
xoan, da trắng hồng và cặp mắt long lanh như sóng nước hồ thu. Sóng mắt của
nàng đã làm trái tim hai chàng nhạc sĩ tài hoa lỗi nhịp. Nhờ đó mà giới yêu
nhạc có được hai ca khúc “để đời” mà hát: bài Thu, hát cho người của Vũ Đức Sao
Biển và bài Ru con tình cũ của Đynh Trầm Ca.
Người viết là “thằng em” thân thiết của cả hai
nhạc sĩ. Mười lăm năm trước, khi tôi vào làm Báo Thanh Niên thì anh Vũ Đức Sao
Biển là “sếp” – phụ trách tờ Thanh Niên bán nguyệt san, còn khi anh Đynh Trầm
Ca giã từ ngày tháng phiêu dạt ở phương Nam để đưa vợ con về quê (năm 1998) thì
chính tôi là người đưa tin trên báo. Chuyện cả hai ông anh cùng yêu một cô gái
rồi viết nhạc, tôi cũng đã biết từ lâu nhưng nay mới có dịp… hỏi cho ra nhẽ.
Với anh Vũ Đức Sao Biển, trong những phát biểu
chính thức thì anh không hề nói anh viết Thu, hát cho người cho đích danh một
ai cả. Chỉ là một buổi sáng năm 1968, anh lang thang trên đồi sim ở Thăng Bình
quê anh, chợt nhớ về một người con gái đã xa mới bật ra những tứ nhạc: “Dòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt. Mùa thu nào cho người về thăm chốn
xưa...”, rồi bảo: Những câu thơ Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản của Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu đã ám ảnh anh, để anh làm câu tiếp theo "Hoàng hạc bay,
bay mãi bỏ trời mơ, về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…" Gì thì gì, chính dấu phẩy
sau chữ Thu trong cái tựa Thu, hát cho người đã khiến anh bị “bắt quả tang”:
viết cho Thu chứ còn ai vào đó nữa!…
Tôi hỏi anh Đynh Trầm Ca thì anh
cười khà khà: “Chuyện cũ rích, mà nếu tau kể thì có hay ho chi mô. Tau cho mi
số điện thoại của ông anh rể của cô đó và cả của cô đó nữa. Mi hỏi đi!”. Tôi
mừng rơn, gọi cho anh Hồ Luân đang ở Quảng Nam. Anh ấy tuôn một tràng: “Thằng
Mạc Phụ (tên thật của Đynh Trầm Ca) quen con Thu là qua tui. Dạo đó tui để ý cô
chị (tên Liên), Liên bị bệnh, tui muốn đến thăm nhưng đi một mình thì hơi run,
bèn rủ thằng Phụ đi theo. Ai dè, tới nhà Liên, hắn gặp cô em, đâm ra như… mất
hồn! Còn con Thu có “tình cảm” chi với Võ Hợi (tên thật của Vũ Đức Sao Biển)
không thì tui không rõ. Nhưng mà tui thấy nhiều khi người ta hư cấu mà… hay quá
trời, đến nỗi mình là người trong cuộc mà còn ngẩn tò te nữa đó. Năm rồi, cô em
tôi kể trong cuộc nhậu có một ông lãnh đạo địa phương. Ổng hỏi: “Ở Quảng Nam có
hai nhạc sĩ nổi tiếng, quý vị biết là ai không?”. Mọi người đáp: “Vũ Đức Sao
Biển với Đynh Trầm Ca chứ ai!”. “Đúng. Vậy hai ông này có đặc điểm gì?”. Đáp:
“Cùng yêu cô Thu và cùng viết bài hát cho cô này!”. “Đúng luôn, nhưng mà xuất
xứ của từng bài hát ra sao?”. Không ai trả lời được, lúc đó vị này mới kể:
“Hai ông này là nhạc sĩ nên
chơi thân với nhau. Thân quá, cho nên khi yêu thì cũng yêu một người. Nhưng do
ông Đynh Trầm Ca nghèo, mà lại xấu trai còn ông Vũ Đức Sao Biển chẳng những đẹp
trai mà còn làm được bản nhạc Thu, hát cho người rất nổi tiếng nên cô Thu… lấy
ông này. Khi cặp vợ chồng này có một đứa con thì một hôm ông Đynh Trầm Ca đến
thăm bạn cũ, thấy ông Vũ Đức Sao Biển đang ngồi… ru con. Chuyện vãn được một
lúc thì ông Vũ Đức Sao Biển bận việc gì đó, mới nhờ bạn ru con hộ mình. Ông
Đynh Trầm Ca ngồi ru con (của) người tình cũ, thấy buồn thấm thía, nên mới cảm
tác ra bài Ru con tình cũ. He he… Hay quá phải không chú mày?”…
Tôi hỏi nhân vật chính: Thu – người đẹp của một
thời: “Chị ơi, sao người ta lại gọi chị là Thu Chuẩn?”. “À, Chuẩn là tên ba của
tôi, ở miền quê người ta thường gọi tên “kép” như thế để phân biệt con nhà này
với con nhà kia”. Hỏi “chuyện xưa”, chị cười bảo: “Dạo đó tôi với anh Đynh Trầm
Ca cũng có tình cảm nhưng chỉ là tình cảm tuổi mới lớn. Hồi quen anh ấy tôi mới
học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ) trường Trung học Tiểu La, nhưng rồi không duyên
nợ. Tôi lấy chồng năm 1966, chồng tôi người gốc Hà Nội. Một năm sau thì tôi
biết anh Đynh Trầm Ca có viết bài Ru con tình cũ…”. “Do đâu chị biết được?”.
“Chu choa, bài này được hát ra rả trên radio, không muốn nghe cũng phải nghe!
Còn chuyện anh Vũ Đức Sao Biển thì sau này tôi có nghe một người bạn gái kể là
anh ấy cũng có tình cảm với tôi và có viết bài Thu, hát cho người. Nếu đúng vậy
thì… cũng là chuyện có duyên không nợ…”.
Có một trùng hợp lý thú là cả Đynh Trầm Ca lẫn Vũ
Đức Sao Biển đều bỏ quê, trôi dạt vào phương Nam. Đầu thập niên 70 thế kỷ
trước, Vũ Đức Sao Biển vào Bạc Liêu dạy học suốt mấy năm rồi lên Sài Gòn làm
báo. Sau 1975, Đynh Trầm Ca cũng dắt díu vợ con trôi dạt về Sóc Trăng, An
Giang, rồi Sài Gòn… đến năm 1998 mới hồi hương. Anh hiện là ông chủ quán Thạch
Trúc Viên ở thị trấn Vĩnh Điện (Điện Bàn, Quảng Nam). Có một chuyện ly kỳ nữa
là dạo còn ở miền Tây, một lần Đynh Trầm Ca xuống bến đò thấy cha con một người
hành khất, người cha ôm cây đàn guitar cũ kỹ hát, còn đứa con gái cầm chiếc
thau nhôm móp méo đi đến từng người để xin tiền. Bản nhạc mà người hành khất
đang hát là bài… Ru con tình cũ: “Ba năm qua em trở thành thiếu phụ. Ngồi ru
con như ru tình buồn… Ôi, ba năm qua rồi, lòng chưa nguôi gió bão… Người xa xôi
phương nào, người oán trách gì không?”. Đynh Trầm Ca nghe mà thắt cả lòng.
Tháng 5.1988, Báo Thanh Niên đăng bài thơ Bất chợt trên bến đò ngang của anh:
“…Mười mấy năm rồi người con gái sang sông/Tôi viết lời ca sao buồn quá
vậy?/Những lời ca cho lòng tôi thuở ấy/Ai biết bây giờ/Bố con người hành khất
dùng để ăn xin?”. Nhạc sĩ Xuân Hồng đã phổ nhạc bài thơ này.
-Hà Đình Nguyên-
(*): Tựa đề do NPV đặt lại
Nguồn: http://www.nhuygialai.com/2012/07/nguoi-tinh-trong-thu-hat-cho-nguoi-va-ru-con-tinh-cu.html#ixzz2wlHcWI1g - http://www.nhuygialai.com/2012/07/nguoi-tinh-trong-thu-hat-cho-nguoi-va-ru-con-tinh-cu.html#ixzz2wlHcWI1g
(blog: Phố núi và bạn bè...)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Mar/2014 lúc 1:33am
Vũ Đức Sao Biển
Thu hát cho người
Lê Ngọc Trác
Vũ Hợi sinh ngày 12 tháng 02 năm
1948 tại Tam Kỳ , Quảng Nam. Khi bước vào con đường sáng tác văn học
nghệ thuật, Vũ Hợi là người hạnh phúc khi được chính thân phụ của anh -
một người am hiểu Hán học và say mê âm nhạc đặt cho anh bút danh Vũ Đức
Sao Biển, với kỳ vọng người con trai thân yêu của mình như một vì sao
rực sáng giữa biển trời mênh mông. Quả đúng như kỳ vọng của người cha,
bút danh Vũ Đức Sao Biển đã nổi tiếng, trở nên thân thuộc với nhiều
người yêu thơ văn, âm nhạc trong và ngoài nước.
Vũ Đức Sao Biển viết nhiều lĩnh vực: Sáng tác ca
khúc, biên khảo, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký và viết cả tiểu phẩm
trào phúng (với bút danh Đồ Bì) Hơn 40 năm cầm bút, tính đến năm 2007,
Vũ Đức Sao Biển đã xuất bản các tác phẩm:
Về nhạc có các tuyển tập ca khúc: Thu hát cho người (1998), Điệu buồn phương Nam (2002), 50 ca khúc tiêu biểu của Vũ Đức Sao Biển (2008) và 3 CD ca nhạc: Thu hát cho người (2000), Tình ca phương Nam (2002), Hoài niệm Trường Giang (2003).
Về tiểu thuyết có các tác phẩm: Hoa trên cát (1989), Ảo ảnh sương khói (1991), Kiếm hoàng hoa (1995).
Về tiểu phẩm trào phúng có: Bản báo cáo biết bay (1983), Vạn tuế đàn ông (1989), Vĩnh biệt thốt nốt (1996), Thỏ thẻ cùng hoa hậu (1998), Ba đời ham vui (1999).
Về biên khảo có tác phẩm: Kim Dung giữa đời tôi gồm 4 tập, Nhân vật Kim Dung qua lăng kính pháp luật (2002), Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung.
Về hồi ký có tác phẩm: Úi chao, 60 năm (2007).
Ngoài ra Vũ Đức Sao Biển còn dịch tiểu thuyết võ hiệp Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung.
Qua tác phẩm, Vũ Đức Sao Biển nổi lên như một nhạc sĩ chuyên viết ca khúc trữ tình mang âm hưởng dân ca. Những ca khúc: Thu hát cho người, Đêm gành hào nghe điệu hoài lang, Bài thơ quê lụa, Điệu buồn phương Nam, Hoài niệm Trường Giang... đã làm say mê những người yêu âm nhạc. Ca khúc Thu hát cho người
ra đời đến nay đã hơn 40 năm vẫn còn được nhiều người yêu thích và sống
mãi với thời gian. Tác phẩm này đã được 72 giọng hát khác nhau thể
hiện. Các ca sĩ Lệ Thu, Cẩm Vân, Quang Minh, Thanh Long B***... trình
bày nhạc phẩm Thu hát cho người đã lay động tâm hồn biết bao người.
Riêng
đối với chúng tôi, Vũ Đức Sao Biển còn là một nhà thơ. Từ thập niên 60,
70 của thế kỷ 20, đã xuất hiện thơ của Vũ Đức Sao Biển trên các tạp chí
văn học xuất bản ở miền Nam. Ca khúc "Thu hát cho người"
chính là một bài thơ tình. Lời thơ đẹp, giai điệu nhẹ nhàng với những
hình ảnh đầy thơ mộng, nói về tình yêu đơn phương, cô đơn, hoài vọng
trong nỗi niềm chia xa:
"Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư
Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió
Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ
Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương,
Trong mênh mông chiều sương
Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín
Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay
Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly nào không buồn phiến trên dấu môi
Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.
..."
Năm 20 tuổi, Vũ Đức Sao Biển viết "Thu hát cho người".
Những hoài mong vô vọng trong cuộc tình đầu tiên đã ghi dấu ấn sâu đậm
trong tâm hồn nhà thơ. Để rồi, hai mươi năm sau, khi trở về "chốn xưa,
niềm nhớ", Vũ Đức Sao Biển viết thêm bài thơ "Lên Mỹ Sơn"
với cùng một tâm trạng của ngày xưa, "ngồi hát trên rừng thu tịch mịch.
Ngồi hát giữa mùa thu Quảng Nam" tím màu hoa sim thương nhớ (Có ai bảo
nhà thơ của chúng ta không si tình và chung tình?):
"Ôm cây đàn, leo lên tháp Mỹ Sơn
Nhìn xuống thấy sim chạy dài theo núi
Với cỏ xanh mùa thu dịu dàng
Nghe lòng ta dạt dào nhớ lại
Rằng: Hôm qua, ta mới đôi mươi
Hồn nhẹ như mây khói tuyệt vời
Lên tháp chờ em, em không tới
Mênh mang mênh mang sương chiều rơi
Ta trót yêu người sông Thu Bồn
Tình như mây trắng đỉnh Trường Sơn
Ba năm làm một bài thơ nhỏ
Cất hoài trong túi chờ tri âm
Mà em ngày đó chẳng lên rừng
Đợi mãi và thơ không đọc được
Ta ngồi chẳng lẽ hát mình nghe
Đập vỡ cây đàn lên vách tháp
Mới đó mà qua hai mươi năm
Nhớ em như biển nhớ trăng rằm
Ta bỏ ngàn thương vào túi áo
Lặng lẽ về đây với Mỹ Sơn
Ngồi hát trên rừng thu tịch mịch
Và hát giữa mùa thu Quảng Nam".
(Lên Mỹ Sơn - 1987)
Nhiều
người đã đồng cảm với Vũ Đức Sao Biển. Và, bắt gặp chính tâm trạng của
mình của một thời đã yêu và một thời thương nhớ xa xăm.
Trong nhạc và thơ của Vũ Đức Sao Biển mang đậm hơi thở cuộc sống, hình ảnh của Quảng Nam quê hương anh. Và, đất trời Bạc Liêu cùng các tỉnh miền Tây Nam
bộ - nơi anh đã từng gắn bó, sống và dạy học suốt 12 năm trời. Riêng
trong thơ Vũ Đức Sao Biển, chúng ta bắt gặp hình ảnh màu hoa sim tím -
một loài hoa bình dị, dân dã với màu tím gợi trong lòng chúng ta nỗi
niềm thương nhớ và ly biệt. Trong "Thu hát cho người" bàng bạc một màu hoa sim tím "đẫm tương tư". Với "Lên Mỹ Sơn" đậm đà màu tím giữa khung trời hoài niệm. Và, trong bài thơ "Quay về" là "cô phụ đóa sim em?".
Vũ Đức Sao Biển từng tâm sự: "Tôi
đã phiêu du qua ngàn mây trắng, đã xa đồi sim, tháp cổ. Giữa phố thị
phồn hoa mơ màng, tôi vẫn yêu đóa hoa sim tím nhạt, đơn sơ và hồn nhiên
của núi rừng Trung bộ... Đêm đêm tôi nằm giữa phương Nam mà vẫn nghe
tiếng gió hát qua đồi sim, tiếng chân đi trên bờ cát mịn, tiếng của miền
thu lãng mạn trên dòng sông Thu lặng lờ trôi về phương Đông". Phải
chăng chính vì thế nên cùng với thơ sáng tác bằng tiếng Việt, trong thơ
làm bằng chữ Hán của Vũ Đức Sao Biển vẫn phảng phất hương sắc của màu
hoa sim tím. Trong một lần lên Tây Nguyên, Vũ Đức Sao Biển viết bài thơ
bằng chữ Hán với tựa đề "Quá Mang Giang":
"Thiên trượng cao sơn thiên lý quan
Tây Nguyên nhân thuyết thị Mang Giang
Tử hoa trùng điệp sơ thu phóng
Văn điểu đồng minh phụng tích hoàng".
Vũ Đức Sao Biển đã tự dịch bài thơ chữ Hán của mình ra tiếng Việt như sau:
"QUA ĐÈO MANG GIANG
Ngàn trượng non cao, ngắm dặm ngàn
Người Tây Nguyên gọi ấy Mang Giang
Hoa sim lớp lớp đầu thu nở
Nghe tiếng chim ca, phụng tiếc hoàng".
Thơ
Vũ Đức Sao Biển viết về tình yêu đều mang một nỗi buồn chia xa, ly
biệt. Thơ anh là tiếng lòng bật lên từ nỗi nhớ thương. Giữa trời thu
nhuộm màu hoa sim tím, Vũ Đức Sao Biển hát cho mình và hát cho người.
Và, đã nhận được sự đồng cảm, yêu mến của những người yêu thơ./.
Tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- Úi chao, 60 năm (Hồi ký của Vũ Đức Sao Biển)
- Vũ Đức Sao Biển (Trần Hiếu)
- Vũ Đức Sao Biển (Bách khoa toàn thư mở WIKIPEDIA)
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=12494 - http://www.vanchuongviet.org/
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/Apr/2014 lúc 8:35pm
CÒN MÔT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ http://www.google.com/url?q=http%3A%2F%2Fnguyentran.org%2FTN%2FNhac%2FConChutGiDeNho-VuHuuDinh-PhamDuy-LeThu.mp3&sa=D&sntz=1&usg=AFQjCNFwDpVlc4HG9MS5_Uy3nIA0KZzU9w - Thơ Vũ Hữu Định https://www.youtube.com/watch?v=EPj0QRn9WE4 -
Có
lẽ không có một thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như
vậy trong văn học Việt Nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không
gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm
của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay
những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh.
Với
tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của
riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy.
Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..
Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành.
Năm
tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm
hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường
đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng.
Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang
phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang
thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa
lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc
hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…
Thời
gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm.
Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh
lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang
thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa
bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân
xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù
sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên
đầu dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…
Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng. Ngày
đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u
ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến
tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi
bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào
ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái
buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong
óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một
phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi
hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào
ngực.Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những
vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống
mình…
Thi
sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi
bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu
Đinh...
Nếu
nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku
trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam
thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ dễ thương của một vài
con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng của “Em”, của
thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những
nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì
nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều
hình ảnh trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của
tưởng tượng, của hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ
nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như
thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh
lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu
được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.
Bài
thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý.
Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất
thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh:
“Phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật gần anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần phố xá không xa nên phố tình thân đi dăm phút đã về chốn cũ một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng em Pleiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt da em mềm như mây chiều trong xin cảm ơn thành phố có em xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc trên đồn biên giới còn một chút gì để nhớ để quên.”
Hình
như về sau này, khi Cộng sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập
thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến
của chiến tranh để trở thành một tài sãn văn hóa của dân tộc...
Bài
thơ này được trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở
trong nước, nhưng không phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu
thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút
gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai xa lắc trên đồi biên giới / Còn
một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã khác nhau
nhiều!
Tôi
không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo
nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung
nhà thơ ấy như sau:
”với
chiều cao khoảng một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ
bát, cộng thêm lối an vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi
thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười
xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn
mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40 này.
Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng
Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó
hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của
anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải,
Sôn Trà,.. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong
dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn
này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ
đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen
biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi.
Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vợ có con nhưng
mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn!
Ông
mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông
đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc
tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết. Một dư luận
khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình từ
trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa
ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay
vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau
xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông …
Nguyễn Mạnh Trinh
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 19/Jun/2014 lúc 9:31pm
Cập nhật: 17/06/2014 07:40
http://www.baocalitoday.com/vn/tin-tuc/van-nghe/nguyen-xuan-hoang-tren-con-doc-tu-sinh.html# -
Nguyễn-Xuân Hoàng
trên con dốc tử sinh
Thực ra không ai có thể chọn lựa một căn bệnh để được chết
theo ý mình, ngoại trừ thứ tự do chọn lựa rất bạo động là tự sát cũng
thường thấy ở các nhà văn như: Ernest Hemingway Ngư Ông và Biển Cả bằng
súng (1961), Yukio Mishima Đền Vàng bằng gươm (1970), Yasunari Kawabata
Ngàn Cánh Hạc bằng hơi ngạt (1972), Nhất Linh Đoạn Tuyệt bằng thạch tín,
Tam Ích Nghệ Thuật và Nhân Sinh treo cổ (1972)… Hoàng thì đã và đang
sống một cuộc sống tràn đầy,...
Gửi
Nguyễn Xuân Hoàng cùng với Chị Trương Gia Vy và Các Cháu
Nếu bảo qua tuổi 70 xưa nay là hiếm,
thì Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã bước qua tuổi 74, đó là ý niệm tuổi tác của thế
kỷ trước. Sang đến thế kỷ 21, với tiến bộ của y khoa, qua tuổi 80 nay cũng
không còn là hiếm. Quen được Nguyễn-Xuân Hoàng trong hoàn cảnh nào thì tôi
không nhớ, nhưng đó là một tình bạn khá lâu năm.
Khoảng giữa thập niên 1960-1970
Nguyễn-Xuân Hoàng đã cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đình Toàn, Đặng Phùng
Quân, Nguyễn Nhật Duật và Nguyễn Quốc Trụ chủ trương nhà xuất bản Đêm Trắng. Họ
đều ở lứa tuổi trên dưới 30, với sức sáng tác đang sung mãn với phong cách
riêng mỗi người, được coi như là nhóm “Tiểu Thuyết Mới”, với quán La Pagode như
một điểm hẹn sinh hoạt. Và tên tuổi mỗi người trong nhóm, sau này đều trở thành
nhân dáng những nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn-Xuân Hoàng.
Giữa những năm giông bão của cuộc chiến tranh lúc đó, thỉnh thoảng
tôi được đọc và cả quen biết họ trong những giai đoạn và các hoàn cảnh
khác nhau, do rất khác về môi trường sinh hoạt và tôi thì cũng ít có
thời gian ở Sài Gòn. Ra tới hải ngoại, hai người trong nhóm Đêm Trắng mà
tôi còn giữ được mối liên lạc là Nguyễn-Xuân Hoàng và Nguyễn Đình Toàn.
Mấy dòng viết vội và muộn màng này chỉ là những hồi tưởng đứt đoạn
để gửi tới một người bạn là Nguyễn-Xuân Hoàng. Xong bậc trung học 1959,
khởi đầu Hoàng có ý định học Y khoa, là sinh viên PCB Đại học Khoa học
Sài Gòn một năm, thấy ngành học không thích hợp, Hoàng chuyển sang học
ban Triết, Đại học Đà Lạt, sau Hoàng Ngọc Biên một năm. Tốt nghiệp 1962,
là giáo sư Triết trung học Ngô Quyền ở Biên Hoà một niên khóa và sau đó
được chuyển về trường Petrus Ký Sài Gòn cho tới 1975. Nhưng Nguyễn-Xuân
Hoàng lại được biết tới nhiều hơn như một nhà văn một nhà báo tên tuổi
từ những năm 1970. Hoàng là tổng thư ký tạp chí Văn Sài Gòn từ 1972,
tiếp nối Trần Phong Giao, cùng với những tác phẩm đã xuất bản gồm tuyển
tập truyện ngắn: Mù Sương, Sinh Nhật; tuỳ bút: Bất Cứ Lúc Nào Bất Cứ Ở Đâu; tạp ghi: Ý Nghĩ Trên Cỏ; và hai truyện dài: Khu Rừng Hực Lửa, Kẻ Tà Đạo…
Sau 1975, bị kẹt lại và như mọi người, Hoàng cũng trải qua những
năm tháng thăng trầm theo vận nước, nhưng rồi cuối cùng 10 năm sau,
Hoàng và gia đình cũng tới được đất nước Mỹ 1985. Không còn là nhà giáo,
Hoàng sinh hoạt toàn thời gian trong lãnh vực báo chí và văn học: tổng
thư ký hai tờ nhật báo Người Việt California (1986-1997) và tạp chí Thế
Kỷ 21 (1989-1994), trong ban chủ biên tạp chí Văn Học cùng với nhà văn
Nguyễn Mộng Giác, sau đó kiêm thêm chủ bút tạp chí Văn chuyển tay từ nhà
văn Mai Thảo 1996. Tưởng cũng nên nói thêm tờ báo Văn này đã khiến vợ
chồng Nguyễn-Xuân Hoàng mang món nợ không nhỏ với cơ sở in báo Văn, mà
mãi lâu mới trang trải hết. Tác phẩm Nguyễn- Xuân Hoàng do ông Từ Mẫn Võ
Thắng Tiết, giám đốc nhà Văn Nghệ xuất bản ở hải ngoại gồm các tập
truyện và tuỳ bút: Căn Nhà Ngói Đỏ, và hai truyện dài trong bộ trường thiên ba tập [trilogy]: Người Đi Trên Mây, Bụi và Rác…
Năm 1996, di chuyển theo công việc mới, San Jose thung lũng hoa
vàng là chặng định cư cuối cùng của hai vợ chồng Hoàng. Nguyễn-Xuân
Hoàng vẫn sinh hoạt báo chí toàn thời gian, ban đầu với chức vụ tổng thư
ký tuần báo Việt Mercury thuộc San Jose Mercury News và sau đó là chủ
bút tờ tuần báo Việt Tribune như một “family show”
của hai vợ chồng Nguyễn-Xuân Hoàng – Trương Gia Vy cho tới nay. Quen
biết thân thiết với vợ chồng Peter Zinoman Nguyệt Cầm, dịch giả Số Đỏ / Dumb Luck của Vũ Trọng Phụng; Hoàng được mời làm lecturer thỉnh giảng cho môn Văn học Việt Nam đương đại tại UC Berkeley.
Nguyễn-Xuân Hoàng và Ngô Thế Vinh tại tòa soạn Việt Tribune 2008. photo by Trương Gia Vy
Nguyễn-Xuân Hoàng rất quảng giao, mặc dù anh luôn than là ít bạn.
Cũng vì vậy mà các bạn thân đặt tên cho anh là Nguyễn Đông Hoàng. Và khi
biết bạn mình ngã bệnh, đã có rất nhiều học trò cũ và bằng hữu đến thăm
và cả viết về Nguyễn-Xuân Hoàng, một số bài đã được Phùng Nguyễn cho
phổ biến trên Da Màu trong nhiều tuần lễ, số trang viết ấy đủ cho chiều
dày của một cuốn sách.
Từ ngày Trịnh Y Thư báo tin cho biết căn bệnh của Nguyễn-Xuân
Hoàng, vậy mà cũng đã gần 12 tháng. Các tin tức về sức khoẻ và bệnh tình
của Hoàng tôi được biết hoặc trực tiếp từ Nguyễn-Xuân Hoàng hoặc qua
hai người bạn Phùng Nguyễn và Trịnh Y Thư.
Trước đó, cũng khoảng 3 năm, Nguyễn-Xuân Hoàng thường kêu đau lưng,
đối với người bệnh ở lứa tuổi ngoài 70 như Hoàng thì một chẩn đoán
thông thường của bác sĩ gia đình là đau lưng do “thoái hoá cột sống”.
Tới một giai đoạn đau nhiều hơn, bác sĩ cho chụp lại hình quang tuyến
cột sống, cũng vẫn với chẩn đoán như trên. Nhưng vì lần này bác sĩ quang
tuyến thấy có những đốm trắng như miểng kim loại quanh cột sống nên đã
hỏi là Hoàng có bị thương do miểng đạn ngoài chiến trận khi còn ở Việt
Nam hay không, Hoàng xác nhận là không.
Tới một giai đoạn mà các thuốc chống viêm giảm đau kể cả opiates
cũng không còn mấy hiệu quả thì Hoàng được gửi vào một bệnh viện, để qua
một loạt các thử nghiệm và cuối cùng với chẩn đoán là Hoàng bị một căn
bệnh khá hiếm: sarcoma ở sống lưng; sarcoma là loại bướu ung thư mô liên kết/ connective tissue như xương, sụn, mô mỡ, bắp thịt, mạch máu…
Có lẽ đây là một chẩn đoán “không sớm” nếu không muốn nói là khá
trễ, và cũng từ đây Hoàng được chuyển sang một bệnh viện chuyên khoa
thuộc Đại học Stanford. Không được tiếp cận với hồ sơ bệnh lý của Hoàng,
nhưng được biết Hoàng cũng đã trải qua các giai đoạn trị liệu như hoá
trị / chemotherapy, xạ trị/ radiation therapy
và nhưng hình như Hoàng không còn ở giai đoạn sớm để được điều trị phẫu
thuật/ surgery. Nguyễn-Xuân Hoàng rất can đảm đi hết “đoạn đường chiến
binh” đã đi tới bước cuối cùng của các phương thức điều trị, dĩ nhiên
với không ít những chịu đựng do các tác dụng phụ/ side-effects.
Trong suốt thời gian ngã bệnh, và cả mới đây thôi, trong giai đoạn 6
tuần được chuyển sang khu phục hồi của bệnh viện, Nguyễn-Xuân Hoàng vẫn
không ngừng làm việc với laptop và cell phone. Hoàng không chỉ lo cho
tờ báo Việt Tribune vẫn ra hàng tuần, báo chí đã như một cái nghiệp và
cũng là nguồn sinh kế của gia đình. Cũng trong giai đoạn này,
Nguyễn-Xuân Hoàng còn phối hợp với Đinh Quang Anh Thái báo Người Việt
trong việc hiệu đính và layout hai cuốn sách: Người Đi Trên Mây [đã đăng hết từng kỳ trên nhật báo Người Việt], Bụi và Rác
[đang đăng tới kỳ thứ 100 cũng trên Người Việt]. Cũng từ trong bệnh
viện, chính Hoàng là người quyết định chọn bài viết của Nguyên Sa và
Phạm Công Thiện cho phần trích dẫn bìa lưng của hai cuốn sách.
Mẫu bìa 2 cuốn sách xuất bản sau cùng của Nguyễn-Xuân Hoàng
Khi tìm hình tác giả NXH cho bìa lưng, Hoàng đã chọn tấm hình đang
cầm điếu thuốc hút, có lẽ nơi một góc phố nào đó trên “con đường báo
chí” Phạm Ngũ Lão khoảng năm 1980, và cũng do “méo mó nghề nghiệp” tôi
bảo đùa là đó là một chọn lựa không đúng / potitically incorrect,
tạo gương xấu cho đám trẻ sẽ bắt chước hút thuốc để được trở thành nhà
văn nổi tiếng như Nguyễn-Xuân Hoàng. Hoàng thì không xem đó là câu nói
đùa nên đã trả lời rất nghiêm túc rằng đó là bức hình thời còn trẻ mà
Hoàng rất thích, và thời tuổi trẻ ấy ai mà không hút thuốc, và nó cũng
rất phù hợp với bối cảnh của cuốn sách. Mặc dầu được Hoàng eMail “mình giao phó hết cho NT Vinh quyết định thay NX Hoàng”
nhưng thực ra mọi sự đều làm theo ý Nguyễn-Xuân Hoàng. Tôi nhắc nhở
Đinh Quang Anh Thái là Nguyễn-Xuân Hoàng còn nguyên sự minh mẫn nên mọi
chuyện liên quan tới hai cuốn sách nên hỏi thẳng anh Hoàng. Không làm
thay những gì người bệnh vẫn còn làm được, đây là cũng là nguyên tắc tôi
học được trong ngành y khoa phục hồi; và phương cách cách điều trị
occupational therapy hay nhất là làm cho Hoàng luôn luôn bận rộn. Và cả
trên giường bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã vui với sự bận rộn ấy. Hoàng
còn cho biết là sau khi đăng hết Bụi và Rác, Hoàng sẽ viết tiếp bộ
trường thiên Trilogy, Tome III sẽ có một tên sách rất ngắn gọn một chữ
là “Lửa” cảm xúc từ những cơn bão lửa cháy rừng của bang California và
rồi cũng sẽ cho đăng tiếp từng kỳ trên nhật báo Người Việt.
Nguyễn-Xuân Hoàng ở một góc phố Sài Gòn?
Riêng tôi và các bạn của Hoàng không dấu được niềm vui khi biết bạn
mình, giữa những cơn đau hành hạ của bạo bệnh mà vẫn cứ nuôi dưỡng
những dự định cùng hướng về tương lai.
Trong suốt gần một năm trời, Nguyễn-Xuân Hoàng ra vào bệnh viện
Stanford gần như thường xuyên, khi dài ngày khi ngắn hạn. Niềm đau ung
thư là nỗi thống khổ ròng rã nhất của người bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng.
* Sáng ngày 1 tháng 6, 2014 Nguyễn-Xuân Hoàng từ nhà phone cho tôi,
nói một vài câu rất ngắn và rất yếu: “Vinh ơi, mình đau quá và chỉ muốn
chết”. Lúc đó, bỗng thoáng hiện trong đầu óc tôi một thuật ngữ y khoa euthanasia / painless death
với Jack Kevorkian, phương pháp giúp người bệnh nan y quá đau đớn được
chết yên thấm. Kervorkian được báo chính mệnh danh là Doctor Death thì
đã bị kết án tội sát nhân bậc hai / second degree murder, phải ngồi tù 8 năm trước khi được tại ngoại. Physician-***isted suicide
cho đến nay vẫn bị coi là phạm pháp. Chọn lựa một cách chết ra sao là
do quan niệm và niềm tin của mỗi người. Và rồi tôi cũng chỉ có thể
khuyên Hoàng là nên vào lại Stanford để được chăm sóc điều trị giảm đau.
Cùng ngày, chiều hôm đó chị Trương Gia Vy đưa Hoàng vào bệnh viện. Khi
phone thăm, Hoàng cho biết đã phần nào bớt đau nhưng lúc nào cũng chỉ
muốn được về nhà.
Rồi cũng buổi tối hôm đó, qua internet tôi gửi cho Nguyễn-Xuân
Hoàng bài điểm sách mới của anh Dohamide về cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển
Đông Dậy Sóng, từ nhiều năm tôi thì vẫn gửi bài viết cho Việt Tribune
của Nguyễn-Xuân Hoàng, và không ngờ rất mau chóng, Hoàng eMail ngay cho
tôi:
“Cám ơn Ngô Thế Vinh, mình xin phép Vinh cho đăng trên
VOA và Việt Tribune. Việt Tribune thì không có vấn đề gì nhưng bên VOA
thì bài chưa đăng ở đâu hay chưa post ở đâu mới được. Vinh cho mình biết
trước khi mình gửi cho VOA nhé.” Nxh Sent from my iPhone. Tôi trả lời ngay là bài non-exclusive, đã được Phùng Nguyễn mới post trên Da màu và anh Nguyên Giác Phan Tấn Hải đăng trên Việt Báo. Hoàng hồi âm: “Tiếc quá! Vậy thì mình chỉ có thể đi bài trên Việt Tribune thôi.” (Nxh Sent from my iPhone)
Để rồi tôi cũng được biết thêm một điều là trong bấy lâu, không
phải chỉ có tờ tuần báo Việt Tribune đều đặn ra hàng tuần, Nguyễn-Xuân
Hoàng vẫn còn duy trì cả sinh hoạt Blog’s NXH trên VOA.
* Sáng ngày 7 tháng 6, 2014 Hoàng phone cho tôi và Phùng Nguyễn báo
tin: toán bác sĩ điều trị Stanford đã gặp chị Vy và các con Hoàng, báo
tin cho biết họ đã “give up” không có thể làm thêm gì được nữa và sẽ cho Hoàng xuất viện về nhà. Hoàng nói: “Mình biết sẽ phải như vậy, nhưng Vy thì khóc quá”.
Không khóc sao được khi biết người bạn đời của mình đang gian nan trên
dốc tử sinh và cạn dần sự sống từng ngày. Và bạn bè ai cũng biết là sức
khoẻ của chị Vy bấy lâu cũng không khá gì, bị suy thận mãn tính ESRD / End Stage Renal Disease từ nhiều năm, chị vẫn phải tự làm công việc lọc máu qua màng ruột / peritoneal dialysis tại nhà mỗi đêm thay vì tuần ba lần tới lọc máu tại các trung tâm thận nhân tạo / hemodialysis.
* Phan Nhật Nam thì nghĩ rằng tôi chưa được biết tin, nên buổi tối
đã khá khuya, Nam phone báo tin cho biết tình trạng ở giai đoạn cuối của
Nguyễn-Xuân Hoàng, khi toán bác sĩ ở Stanford quyết định cho xuất viện.
Tôi hiểu rằng thay vì chuyển tới khu hospice chăm sóc người bệnh cận
tử, Hoàng đã chọn về nhà, sống với gia đình bao giờ cũng dễ chịu hơn.
*Sáng ngày 10 tháng 6, 2014 tôi gọi thăm Hoàng qua cell phone, và
được biết Hoàng đang trên xe với chị Vy đi vào Stanford. Tôi khựng lại
và hỏi Hoàng là họ lại có quyết định điều trị tiếp hay sao, thì Hoàng
nói không, chỉ vào bệnh viện cho mấy buổi “xạ trị giảm đau / palliative radiation”. Tôi hiểu rằng đây chỉ là bước “điều trị xoa dịu / palliative treatment”
cho người bệnh nan y. Cho dù không thể chữa khỏi nhưng “điều trị xoa
dịu” với ứng dụng kỹ thuật cao / high tech, có khả năng giúp người bệnh
sống những ngày tháng ngắn ngủi còn lại với phẩm giá, làm sao cho bớt
đau đớn và cả phần nào thanh thản cho tới phút lâm chung.
* Sáng ngày 12 tháng 6, 2014 phone thăm bạn, Hoàng cho biết sau 5
vòng xạ trị, đã bớt đau và buổi tối thì ngủ được. Như từ bao giờ, tôi
vẫn tránh tối đa những câu hỏi về bệnh tình của Hoàng – điều sẽ làm cho
người bệnh rất mệt, hai người bạn chỉ lãng đãng nói chuyện văn chương,
nói về Nxb Đêm Trắng và nhóm Tiểu Thuyết Mới. Nouveau Roman là một
khuynh hướng văn học có khởi đầu từ Pháp vào giữa thập niên 1950’s với
các tên tuổi như Alain Roble-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor,
Claude Simon. Theo Nguyễn-Xuân Hoàng, thì ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm
Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm. Nhóm 6
người ấy đa số xuất thân nhà giáo, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc
Trụ.
Từ 1954, trong vòng 20 năm của Miền Nam, các phong trào văn học
được tự do nở rộ. Tự Lực Văn Đoàn tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất
Linh, Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học
tiền chiến với nỗ lực làm mới văn chương, rồi tới nhóm tự nhận là Tiểu
Thuyết Mới nhưng theo Nguyễn-Xuân Hoàng thì Hoàng Ngọc Biên tuy không
trong nhóm Đêm Trắng nhưng chính Biên mới thực sự là người khởi đầu
nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, dịch một số tác phẩm
của Alain Roble-Grillet và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy
qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất
bản, Saigon, 1970. Cũng theo Hoàng Ngọc Biên, thì ngoài danh xưng,
những năm trước 1975 thực sự đã không có một phong trào Tiểu Thuyết Mới
tại Sài Gòn.
Hoàng Ngọc Biên & Ngô Thế Vinh
* Kỹ thuật y khoa ngày nay thì có thể đã tiến xa, nhưng quan niệm
thì không mới; vì từ xa xưa người sinh viên khi mới vào học trường y đã
được dậy dỗ đức khiêm cung trong y thuật: "chữa khỏi đôi khi; xoa dịu
thường xuyên; và luôn luôn an ủi / La médecine c’est guérir parfois,
soulager souvent, consoler toujours." Ambroise Paré, bác sĩ phẫu thuật
Pháp thế kỷ 16 đã là người đầu tiên nhắc tới câu nói ấy nhưng nguồn gốc
thì có lẽ đã có từ một nền y khoa cổ đại xa xưa hơn rất nhiều. Bản thân
người viết, cũng hơn 45 năm đã và đang hành nghề y khoa với những hoàn
cảnh khác nhau trong cũng như ngoài nước, thì với cái chết của mỗi người
bệnh, cho dù đã biết trước, thì cảm giác vẫn hụt hẫng như một phần mất
mát của cuộc sống.
Sự mất mát ấy càng thấm thía hơn khi đó là chính là mấy người bạn
thân của mình. Phải chứng kiến một Nghiêu Đề, người bạn tấm cám với
những cơn đau ung thư tuỵ tạng vật vã đến xanh xao; một Cao Xuân Huy
Tháng Ba Gẫy Súng can trường ngần ấy cũng đã oằn người vì những cơn đau
di căn từ ung thư mắt hành hạ. Nay tới một Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đang
khắc khoải với những trận đau bướng bỉnh và rất quái quỷ như vậy. Cũng
để thấy cái bể khổ của sinh lão bệnh tử và nhận ra rằng khả năng y khoa
hiện nay còn giới hạn tới dường nào. Bể khổ thì mênh mông, nhìn lại
chẳng thấy đâu là bờ. Cảm xúc đọc lại mấy câu thơ của Vô Ngã Phạm Khắc
Hàm, không phải Nguyễn-Xuân Hoàng mà chính tôi cũng tìm được nguồn an
ủi.
Ta tụng ngàn năm Quán Thế Âm,
Chúng sinh ta khóc nỗi mê lầm
Ngàn năm quỳnh nở trong đêm vắng
Rung động ba ngàn cõi viễn thâm.
… Người thích câu rùa đọc Lạc thư
Vớt con cá nhỏ thấy chân như
Ta nâng trang sách nghìn thu đọng
Trời đất rưng rưng giữa mịt mù
… Từ đấy ngàn năm vách lắng tai
Lời kinh vi diệu thấm linh đài
Tình thương từng giọt rơi trên đá…
Buổi trưa hôm ấy, trong giờ lunch break bên ngoài bệnh viện, tôi và
ba bác sĩ khác: một gốc Do Thái, một Trung Đông, một Ấn Độ ăn trường
chay, bốn người ngồi chung bàn với nhau, nhân sau cái chết mới mẻ của
một đồng nghiệp bị ung thư với những ngày cuối cùng thống khổ ra sao, họ
bàn là liệu nếu có thể lựa chọn cho mình một cách chết. Ba khả năng
thông thường nhất đưa tới cái chết ở thời đại hiện nay: cơn truỵ tim
chết ngay, cơn tai biến mạch máu não có thể đưa tới tàn phế, và căn bệnh
ung thư ác tính… và mọi người đã có cùng một chọn lựa cho một cái chết
nhanh nhất là bệnh tim. Và rồi cũng trong ngẫu hứng, trưa hôm đó họ đã
order các món ăn không thiếu chất mỡ động vật và dĩ nhiên là không theo
tiêu chuẩn của dinh dưỡng của Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ.
Thực ra không ai có thể chọn lựa một căn bệnh để được chết theo ý
mình, ngoại trừ thứ tự do chọn lựa rất bạo động là tự sát cũng thường
thấy ở các nhà văn như: Ernest Hemingway Ngư Ông và Biển Cả bằng súng (1961), Yukio Mishima Đền Vàng bằng gươm (1970), Yasunari Kawabata Ngàn Cánh Hạc bằng hơi ngạt (1972), Nhất Linh Đoạn Tuyệt bằng thạch tín, Tam Ích Nghệ Thuật và Nhân Sinh treo cổ (1972)…
Hoàng thì đã và đang sống một cuộc sống tràn đầy, nên tôi cũng hiểu
rằng bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu, bạn tôi cũng đã sẵn sàng chuẩn bị cho
dặm cuối của một chặng đường cheo leo trên con dốc tử sinh. Mark Twain
thì bao giờ cũng với một cái nhìn rất nhẹ nhàng về cái chết: “A man who lives fully is prepared to die at any time.”
Và rồi ra, đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó chắc Nguyễn-Xuân Hoàng
cũng sẽ ngoảnh lại rồi mỉm cười mà nhắn với bằng hữu rằng: “Tường thuật về cái chết của tôi có phần quá đáng/ The report of my death was an exaggeration" ( Mark Twain).
Vẫn cứ chúc Bạn Ta những ngày tháng còn lại an lành.
NGÔ THẾ VINH
Long Beach 15/06/2014
http://www.baocalitoday.com/vn/tin-tuc/van-nghe/nguyen-xuan-hoang-tren-con-doc-tu-sinh.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Oct/2014 lúc 6:09pm
http://www.phamduy.com/en/van-nghien-cuu/mot-doi-nhin-lai-ngan-loi-ca/5778-38-noi-ve-ca-khuc-va-tho-pho-nhac -
-
Written by http://phamduy.com/en/component/comprofiler/userprofile/phamduy - Phạm Duy
-
Một Đời Nhìn Lại - Ngàn Lời Ca Nói Về Ca Khúc và Thơ Phổ Nhạc
Tranh Nguyên Khai
Vào năm 1970, nhà xuất bản BORDAS, Paris-Montreal cho ra đời một cuốn sách nhan đề LA LITTÉRATURE EN FRANCE DEPUIS 1945.
Các tác giả là Jacques Bersani, Michel Autrand, Jacques Lecarme, Bruno
Versier... đã cho rằng từ năm đó trở đi, Văn Học Pháp Quốc không phải
chỉ là thơ, tiểu thuyết và kịch bản mà thôi. Vào thời đại này, trong văn học phải kể thêm truyện trinh thám, truyện bằng tranh và ca khúc.
Riêng về ca khúc, người ta nhận định rằng: sau thế chiến 2, vì sự góp
mặt của các thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ như Jacques Prévert, Boris Vian,
Joseph Kosma, Georges Br***ens, Charles Trenet v.v... ca khúc (chanson)
của nước Pháp phải đi vào văn học sử bởi vì nó đã không còn là một thứ
nghệ thuật yếu kém (un art mineur) nữa rồi. Thơ Prévert được phổ thành
ca khúc và rất thành công cho nên vào lúc đó triết gia Jean Paul Sartre
làm lời ca cho bài La Rue Des Blancs Manteaux, nhà thơ Raymond Queneau soạn lời cho ca khúc Si Tu T'imagines.
Georges Br***ens thì đem thơ Victor Hugo, Paul Fort ra phổ nhạc. Léo
Ferré phổ thơ Aragon và Hélène Martin phổ thơ Jean Genet... Trong sách,
có nói rõ về chỗ đứng của ca khúc : En quelques années, la chanson
est devenue intelligente, humoristique, sensible, satirique, enfin
intéressante. La chanson a pénétré dans toutes les couches sociales. (...) Elle fait partie de notre vie quotidienne. Biên giới giữa ca khúc và thơ gần như không còn nữa. Nhạc còn làm cho thơ (hay lời ca cũng vậy) đi nhanh vào lòng người.
Bây
giờ ta nói đến Văn Học Sử Việt Nam. Phần nhiều nó là những thi phẩm
được hát lên như TRUYỆN KIỀU, LỤC VÂN TIÊN với lối kể Kiều và nói thơ
Vân Tiên. Dân chúng thường biết đến văn chương thi ca qua hình thức ca
ngâm cho nên tác phẩm thường có thêm chữ NGÂM hay chữ CA vào, ví dụ
CHINH PHỤ NGÂM, CUNG OÁN NGÂM KHÚC, GIA HUẤN CA. Còn HÁT Ả ÐÀO thì hoàn
toàn là thơ của những thi sĩ lỗi lạc như Tú Xương, Nguyễn Khắc Hiếu
v.v... Ta có thể nói văn học Việt Nam của thời trước là những ca khúc ngắn hay những ca khúc dài.
Trong Nhạc Sử Việt Nam, kể từ khi có Tân Nhạc để thay thế cho Cổ Nhạc, ca khúc dù là những đoản khúc hay những trường ca,
dù sử dụng nhạc ngũ cung của dân tộc hay đi theo đường lối nhạc chủ âm
của Âu Mỹ... ca khúc đều đã đóng một vai trò rất lớn. Nó có một chỗ ngồi
rất vững trong lòng người, không phải là một mà tới ba, bốn thế hệ.
Chẳng cần phải nghiên cứu kỹ càng, ta cũng thấy rằng trong 50 năm qua,
nhạc điệu của ca khúc Việt Nam mỗi ngày một phong phú thêm, lời ca mỗi
ngày một trí thức hơn, mỗi thời đại, mọi tình cảm đều được diễn dịch qua
hàng ngàn ca khúc của hàng trăm tác giả, từ Lê Thương, Ðặng Thế Phong
qua Văn Cao tới Trịnh Công Sơn... Và nếu thế hệ nhạc sĩ đương thời hay
tương lai rất giỏi về nhạc lý, về nhạc thuật, chịu bỏ công ra để soạn
phần hoà âm, phối khí mới mẻ cho những ca khúc cũ của các bậc cha chú
thì nhạc Việt Nam chắc chắn sẽ không thua nhạc cổ điển hay tân thời của
Âu Mỹ đâu ! Hơn nữa, vì hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của nước ta cho nên
nhạc Việt còn có rất nhiều sự sống mà chưa chắc nhạc cổ điển hay nhạc
tân kỳ của Âu Mỹ có thể có được.
Khởi sự là một người soạn ca
khúc, rồi không hề có một mặc cảm nào cả, tôi cứ mãi mãi là người soạn
ca khúc bởi vì sau khi đi học ở Pháp về và nhìn vào tình trạng sinh hoạt
âm nhạc ở nước mình thì tôi thấy không thể đi vào con đường nhạc thuần túy
như nhạc cổ điển Tây Phương được. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng nếu tiếp
tục soạn ca khúc thì phải thăng hoa nó lên, nghĩa là phải làm sao cho cả
hai phần nhạc và lời càng ngày càng tiến bộ. Nghĩa là vào lúc cuối đời,
làm sao nhạc của mình có thể tiến dần tới cõi giao hưởng mà hình như
mọi người đều coi là cái đỉnh của nghệ thuật âm thanh và làm sao cho lời
ca của mình có thể được cho vào văn học sử.
Ca khúc của tôi,
như mọi người đã biết, về phần lời ca, đa số là do tôi soạn, còn một số
là những bài thơ đã nổi danh hay chưa ai biết tới khi được tôi phổ nhạc.
Lý do tôi thích phổ thơ cũng rất là giản dị. trước hết, tôi yêu thơ từ
ngày còn bé. Lớn lên, tôi có nhiều bạn là thi sĩ làm thơ hay và làm cho
tôi càng yêu thơ hơn lên. Cuối cùng, tôi có một người tình rất yêu thơ
tiền chiến và làm 300 bài thơ tình tặng tôi.
Hành trình phổ nhạc những bài thơ hay của tôi xét ra cũng thật là dài. Khởi sự với thi phẩm của những thi sĩ đã thành danh như Cô Hái Mơ của Nguyễn Bính (1942), rồi tới Tiếng Thu (1945) rồi sau đó là Vần thơ Sầu Rụng, Hoa Rụng Ven Sông, Thú Ðau Thương của Lưu Trọng Lư. Tôi đến với Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ vào năm 1952, với Ngậm Ngùi của Huy Cận và với Chiều của Xuân Diệu vào đầu thập niên 60. Những bài thơ của các thi sĩ lớn khác như Mầu Thời Gian của Ðoàn Phú Tứ, Tỳ Bà của Bích Khê, Con Qùy Lại Chúa Trên Trời của Nhất Tuấn cũng được tôi đem vào nhạc trong những ngày xa xưa đó.
Ngoài
việc phổ nhạc những bài thơ đã trở thành thơ cổ điển của nền THƠ MỚI,
vào những năm 60, tôi là người đóng góp vào việc phổ biến những bài thơ
tình của lớp thi sĩ trẻ vừa mới được in ra hoặc chưa ai biết tới như : Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Ðừng Bỏ Em Một Mình của Hoài Trinh, Mùa Thu Paris, Tiễn Em, Kiếp Sau, Bên Ni Bên Nớ, Về Ðây, Chiều Ðông của Cung Trầm Tưởng, Mùa Xuân Yêu Em của Ðỗ Quý Toàn, Tâm Sự Gửi Về Ðâu của Lê Minh Ngọc...
Thơ về chiến tranh/hoà bình và về tình yêu trong suốt 30 năm ly loạn ở trong nước cũng được tôi phổ nhạc rất nhiều như : Thanh Niên Ca của Ðào Duy Kỳ, Ðồi Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Lời Mẹ Dặn của Phùng Quán, Kỷ Vật Cho Em của Linh Phương, Tưởng Như Còn Người Yêu của Lê Thị Ý, Khi Tôi Về của Kim Tuấn, Nhân Danh của Nguyễn Ðắc Xuân, Bi Hài Kịch của Thái Luân, Ði Vào Quê Hương của Hoa Ðất Nắng, Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ, Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ của Ngô Ðình Vận, Mười Hai Tháng Anh Ði của Phạm Văn Bình, Còn Chút Gì Ðể Nhớ của Vũ Hữu Ðịnh, Ở Rừng U Minh Ta Không Thấy Em của Nguyễn Tiến Cung, Chuyện Tình Buồn của Phạm Văn Bình... Ðó là chưa kể trường khúc CHIẾN CA MÙA HÈ gồm 13 bài thơ của Phạm Lê Phan mà tôi phổ nhạc trong Mùa Hè Ðỏ Lửa vào năm 1972.
Trong
khoảng đầu của thập niên 70, tôi lại có diễm phúc là làm cho mọi người
nhanh chóng biết tới hai hiện tượng về thơ là : thơ rất Ðạo của Phạm
Thiên Thư: Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng, Gọi Em Là Ðoá Hoa Sầu, Em Lễ Chùa Này... (nhất là mười bài thơ được phổ thành MƯỜI BÀI ÐạO CA), và thơ tình ngộ nghĩnh của Nguyễn Tất Nhiên: Thà Như Giọt Mưa, Em Hiền Như Ma Soeur, Hai Năm Tình Lận Ðận...
Ra hải ngoại, ngoài những bài thơ ngắn của Hà Huyền Chi như Mười Năm Một Chuyện Tình Buồn, Năm Ngàn Năm Về Trước, của Nguyên Sa như Vết Sâu, của Cao Tần như Thư Em Ðến, Mai Mốt Ông Về, của Viên Linh như Thủy Mộ Quan, của Nguyễn Xuân Quang như Mây Trôi Trôi Hết Một Ðời, của Duyên Anh như Có Bao Giờ Em Hỏi, Em, Anh Ðã Tới Paris và một loạt 5 tập thơ của Ngô Xuân Hậu nhan đề MỘ KHÚC I, II, III, IV và V... tôi còn tung ra hai loại ca là Ngục Ca và Hoàng Cầm Ca mà mọi người đều biết đó là thơ Nguyễn Chí Thiện và thơ Hoàng Cầm do tôi phổ thành ca khúc.
Thế
là sau khi đã đi qua gần như hầu hết các nẻo thơ của Nền Thi Ca Việt
Nam Hiện Ðại trong tuổi thanh xuân và tuổi giữa trưa rồi, bây giờ vào
tuổi về chiều, hành trình phổ nhạc phải dẫn tôi tới THƠ HÀN MẶC TỬ và
THƠ NGUYỄN DU.
Sau đây là bảng danh sách (chưa đầy đủ) của những bài thơ mà tôi đã phổ nhạc:
1942 Cô Hái Mơ (theo thơ Nguyễn Bính)
1945 Tiếng Thu (theo thơ Lưu Trọng Lư)
1947 Thanh Niên Ca (theo thơ Ðào Duy Kỳ)
1952 Tiếng Sáo Thiên Thai (theo thơ Thế Lữ)
1953 Thuyền Viễn Xứ (theo thơ Huyền Chi)
1958 Kiếp Nào Có Yêu Nhau (theo thơ Hoài Trinh) Tình Quê (theo thơ Hàn Mặc Tử) Hoa Rụng Ven Sông -- Vần thơ Sầu Rụng -- Thú Ðau Thương (theo thơ Lưu Trọng Lư) 1959 Mùa Thu Paris -- Kiếp Sau -- Chiều Ðông -- Về Ðây -- Bên Ni Bên Nớ -- Tiễn Em (theo thơ Cung Trầm Tưởng)
1960 Nhạc Cảnh Mầu Tím Hoa Trinh Nữ (theo thơ Kiên Giang)
1961 Ngậm Ngùi (theo thơ Huy Cận)
1962 Mộ Khúc (theo thơ Xuân Diệu) Tâm Sự Gửi Về Ðâu (theo thơ Lê Minh Ngọc) Nhạc Cảnh Chức Nữ Về Trời -- Nhạc Cảnh Tấm Cám (libretto của Năm Châu) Quán Bên Ðường (theo thơ Bình Nguyên Lộc) Mùa Xuân Yêu Em (theo thơ Ðỗ Qúy Toàn)
1966 Nhân Danh (theo thơ Nguyễn Ðắc Xuân) Bi Hài Kịch (theo thơ Thái Luân) Ði Vào Quê Hương (theo thơ Hoa Ðất Nắng)
1968 Kỷ Vật Cho Em (theo thơ Linh Phương) Khi Tôi Về (theo thơ Kim Tuấn)
1969 Ðừng Bỏ Em Một Mình (theo thơ Hoài Trinh) Tỳ Bà (theo thơ Bích Khê)
1970 Con Qùy Lạy Chúa Trên Trời (theo thơ Nhất Tuấn) Mùa Thu Chết (theo Apollinaire) Thu Ca Ðiệu Ru Ðơn (theo Verlaine)
1971 MƯỜI
BÀI ÐạO CA Pháp Thân -- Ðại Nguyện -- Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng --
Quán Thế Âm -- Một Cành Mai -- Lời Ru Bú Mớm Nâng Niu -- Qua Suối Mây
Hồng -- Giọt Chuông Cam Lộ -- Chắp Tay Hoa -- Tâm Xuân (theo thơ Phạm
Thiên Thư) Ngày Xưa Hoàng Thị -- Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng -- Em Lễ Chùa Này - Gọi Em Là Ðoá Hoa Sầu (theo thơ Phạm Thiên Thư) Huyền Thoại Trên Một Vùng Biển (theo thơ Thái Phương Thư tức Phạm Thiên Thư) Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ -- Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (theo thơ Ngô Ðình Vận) Thôi -- Anh Yêu Em Vào Cõi Chết (theo thơ Nguyễn Long) Mười Hai Tháng Anh Ði -- Chuyện Tình Buồn (theo thơ Phạm Văn Bình) Tưởng Như Còn Người Yêu (theo thơ Lê Thị Ý) Mầu Tím Hoa Sim (theo thơ Hữu Loan - sửa lại ca khúc đã soạn từ lâu) Nụ Hôn Ðầu (theo thơ Trần Dạ Từ)
1972 Còn Chút Gì Ðể Nhớ (Vũ Hữu Ðịnh) Rừng U Minh Ta Không Thấy Em (Nguyễn Tiến Cung) CHIẾN
CA MÙA HÈ Qua Cầu Ái Tử -- Bên Giòng Thạch Hãn --Lời Dặn Dò -- Suối
Trăng Hờn -- Ðêm Hội Máu -- Một Tình Thương -- Ðêm Hội Pháo -- Bất Khuất
-- Ðưa Mẹ Về -- Trị Thiên Yêu Dấu -- Sữa Trắng Rừng Xanh -- Mặc Niệm --
Xin Tha Thứ (theo thơ Phạm Lê Phan) Khúc Lan Sầu (theo thơ Thanh Lan) Xin Tình Yêu Giáng Sinh (theo thơ Trụ Vũ)
1973 Thà
Là Giọt Mưa -- Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ -- Em Hiền Như Ma Soeur -- Anh Vái
Trời -- Hãy Yêu Chàng -- Hai Năm Tình Lận Ðận (theo thơ Nguyễn Tất Nhiên
1975 Ta Yêu Em Lầm Lỡ (theo thơ Ðào Văn Trương)
1978 Thư Em Ðến (theo thơ Cao Tần) Mưa Rơi Ở Ca Li (theo thơ Nam Lộc) Những Mùa Ðông Dĩ Vãng (theo thơ Hà Huyền Chi) Biển Máu (theo thơ Diệu Văn)
1980 Mây Trôi, Trôi Hết Một Ðời (theo thơ Nguyễn Xuân Quang) NGỤC
CA Từ Vượn Lên Người -- Ðảng Ðầy Tôi -- Ngày 19 Tháng 5 -- Xưa Lý Bạch
-- Những Thiếu Nhi Ðiển Hình Chế Ðộ -- Tôi Có Thể --. Chuyện Vĩ Ðại Bi
Ai -- Thấy Ngay Thủ Phạm --Nước Ðổng Trác Ðiêu Thuyền -- Sẽ Có Một Ngày
-- Ðôi Mắt Trưương Chi -- Cái Lầm To Thế Kỷ -- Vì Ấu Trĩ -- Tia Chớp Này
Vĩ Ðại -- Ôi Mảnh Ðất Nửa Trên Hình Chữ S -- Trong Bóng Ðêm -- Ðất nước
Tôi -- Xin Hãy Giữ Mầu Trong Trắng -- Biết Bao Giờ Lời thơ Của Tôi --
Thời Ðại ************ (theo thơ Nguyễn Chí Thiện)
1981 Sương Khói Tây Nguyên (theo thơ Lâm Hảo Dũng) Người Tù Dũng Liệt (theo thơ Thái Tú Hạp)
1982 Anh Ði Từ Ðộ Ấy -- Bài Ca Dang Dở Cho Con -- Trinh Nữ Biển Xanh (theo thơ Nguyễn Long) Mộ Khúc I -- Mộ Khúc II -- Mộ Khúc III -- Mộ Khúc IV -- Mộ Khúc V (theo thơ Ngô Xuân Hậu) Tôi Phải Chết Từ Năm Ngàn Năm Về trước (theo thơ Hà Huyền Chi) Mai Mốt Ông Về -- Xa Em Anh Về (theo thơ Cao Tần)
1983 Ðất Mẹ Và Ðôi Ta -- Bài Ca Tình Ái -- Cười Chung Một Nụ (theo thơ Trần Quan Thái)
1984 Có Bao Giờ Em Hỏi -- Em ! Anh Ðã tới Paris (theo thơ Duyên Anh) HOÀNG
CẦM CA Tình Cầm -- Lá Diêu Bông -- Qua Vườn Ổi -- Cỗ Bài Tam Cúc -- Ðạp
Lùi Tinh Tú -- Trăm Năm Như Một Chiều (theo thơ Hoàng Cầm) Mầu Thời Gian (theo thơ Ðoàn Phú Tứ) Lời Mẹ Dặn (theo thơ Phùng Quán)
1985 Bài thơ Xanh (theo thơ Vi Khuê) Thủy Mộ Quan (theo thơ Viên Linh) Vết Sâu (theo thơ Nguyên Sa)
1986 Từ Dạo Ta Buồn (theo thơ Cung Vũ) Buồn Xưa -- Sao Em Biết Thu Về -- Tìm Người (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) 1987 Mơ Về Đất Mẹ -- Hãy Trả Về Em -- Mộ Chiều Xuân (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) Mười Năm Chuyện Tình Buồn (theo thơ Hà Huyền Chi)
1990 Tình Như Biển Xanh Muôn Thuở -- Một Khắc Bay Chơi (theo thơ Trần Văn Nam)
1993 Tập
HOA THÔNG THIÊN : Huyền Trân -- Người Em Xứ Huế -- Em Ðến Thăm Tôi --
Tôi Ðưa Em Về -- Thần Tượng -- Si Mê-- Sao Em Chẳng Nói -- Mừng Cưới --
Xin Làm Nhân Chứng -- Hoa Thông Thiên -- Em Tập Viết -- Nếu Em Hỏi --
Người Em Gái -- Lỗi Hẹn (theo thơ Ðào Tiến Luyện) Ngựa Biển (theo thơ Hoàng Hưng) Tôi Yêu (theo thơ Bạch Vân) Tháng Mười Yêu Dấu (theo thơ Võ Hoàng Châu) Lời Vọng -- Tháng Tư Không Quên (theo thơ Trần Thiện Hiệp)
Buồn Xưa -- Sao Em Biết Thu Về -- Tìm Người -- Xuân Chết -- Nếu Ngày
Mai Tôi Chết -- Gửi Lại Em Yêu -- Mãi Tiễn Ðưa -- Hãy Trả Về Em -- Mộ
Chiều Xuân (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) Ðá Soi Nhật Nguyệt -- Ảo Giác -- Lỗi Hẹn (theo thơ Thái) Thuyền Say -- Lời Cuối (theo thơ Nguyễn Thị Thanh Bình) Còn Cát Bụi Tìm (theo thơ Ngô Tịnh Yên) Trường
Ca HÀN MẶC TỬ Tình Quê -- Ðây Thôn Vỹ Dạ -- Dalat Trăng Mờ -- Trăng Sao
Rớt Rụng -- Hồn Là Ai -- Trút Linh Hồn -- Lạy Bà Là Ðấng Tinh Truyền
Thánh Vẹn -- Ôi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel -- Phượng Trì Ôi Phượng Trì
(theo thơ Hàn Mặc Tử)
1994 Mặt Trời Buồn (theo thơ Mùi Qúy Bồng) Thu Man Mác (theo thơ VTT Paris) Mùa Xuân Hoa Thắm -- Nhớ Con Sông Ðà (theo thơ Danielle) Ngàn Hôn Mộng (theo thơ Nguyễn T.)
1997 MINH
HỌA TRUYỆN KIỀU - PHẦn MỘT Rằng Năm Gia Tĩnh Triều Minh -- Ngày Xuân
Con Én Ðưa Thoi -- Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba --Ngổn Ngang Gò Ðống
Kéo Lên -- Sè Sè Nấm Ðất Trên Ðường -- Ðau Ðớn Thay Phận Ðàn Bà -- Một
Vùng Cỏ Áy Ác Tà -- Dễ Hay Tình Lại Gặp Tình -- Gốc Cây Lại Vạch Một Bài
Cổ Thi -- Dùng Dằng Nửa Nửa Về -- Chàng Vương Quen Mặt Ra Chào -- Tình
Trong Như Ðã Mặt Ngoài Còn E (theo thơ Nguyễn Du)
2002 MINH
HỌA TRUYỆN KIỀU - PHẦN HAI Người Đâu Gặp Gỡ Làm Chi -- Lơ Thơ Tơ Liễu --
Một Buổi Êm Trời -- Biết Đâu Hợp Phố -- Đá Biết Tuổi Vàng -- Hán Sở
Tranh Hùng -- Tư Mã Phượng Cầu -- Kê Khang Và Khúc Quảng Lăng -- Chiêu
Quân Cống Hồ -- Càng Tỏ Hương Nồng -- Trăng Thề Còn Đó -- Càng Tỏ Hương
Nồng -- Trăng Thề Còn Đó (theo thơ Nguyễn Du)
Trên đây là bản
danh sách chưa đầy đủ của những bài thơ mà tôi đã phổ nhạc trong đó có
một số bài không được tôi cho vào MỤC PHẠM DUY TỔNG QUÁT. Nay tôi xin
được ghi những bài đó vào mục THƠ PHỔ NHẠC này để các bạn đọc và nghe
lại những bài -- đa số là thơ tình -- đã một thời trở thành những ca
khúc ghi lại khá nhiều những kỷ niệm buồn vui của các bạn... Và của cả
riêng tôi nữa.
Phạm Duy
http://www.phamduy.com/en/van-nghien-cuu/mot-doi-nhin-lai-ngan-loi-ca/5778-38-noi-ve-ca-khuc-va-tho-pho-nhac
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Nov/2014 lúc 11:57pm
Giai Thoại Về Nhạc Phẩm Làng Tôi NHẠC SĨ chung quân(1936-1988)
Tác Giả: Phan Văn Thanh, CHS Văn Đức Lớp 12C Niên Khóa 1972 – 1975
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam …
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng!
Năm ấy, đoàn hát Kim Chung lần đầu tiên có kế
hoạch thực hiện bộ phim nhựa có tiếng nói (âm thanh). Để cho bộ phim
thêm phần hấp dẫn, trang trọng và gây ấn tượng với
công chúng trong buổi chiếu ra mắt, toàn bộ
êkíp điều hành, bầu sô, đạo diễn … đồng ý việc tổ chức một cuộc thi sáng
tác bài hát làm nền cho phim với giải thưởng lớn
cho tác phẩm được chọn. Đây cũng là bộ phim
nhựa có âm thanh đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam vào thời ấy.
(1952)
Cuộc thi được tổ chức rộng rãi trong công
chúng, không phân biệt tuổi tác, chuyên nghiệp hay nghiệp dư…đã có nhiều
nhạc sĩ tên tuổi cùng một số những người mới thành
danh trong làng ca nhạc giải trí thời đó tham
gia. Đề tài sáng tác là quê hương và con người Việt Nam.
Sau nhiều lần chọn lựa rất công bằng và vô
tư, ban giám khảo đã mất khá nhiều thời gian bàn bạc, nhận xét rồi cân
nhắc để đưa ra một sự chọn lựa chính xác, dù biết đó
là một quyết định rất khó khăn. Cuối cùng,
Ban tổ chức đã công bố, tác phẩm được chọn để trao giải là bài hát “Làng
Tôi” của một tác giả vô danh tiểu tốt, cái tên nghe
chừng như rất xa lạ trong làng ca nhạc Việt
thời ấy đó chính là nhạc sĩ Chung Quân.
Bản nhạc Làng Tôi được chọn vì nó mang hơi
thở của một vùng quê yên bình, lời lẽ cũng mộc mạc, dung dị thấm đẫm
tình cảm của người dân Việt Nam, cho dù năm đó tác giả
bài Làng Quê mới chỉ vừa 16 tuổi. Nhạc phẩm
Làng Quê và cái tên Chung Quân ra đời từ dạo ấy. Nhờ giai điệu du dương,
thắm thiết tình người tình quê của Làng Tôi cứ mãi
bay xa mà cái tên nhạc sĩ Chung Quân trở nên
nổi tiếng và đi vào lòng người.
Nhiều nhạc sĩ tên tuổi và giới văn nghệ thời
đó có hơi ngỡ ngàng, nhưng mọi người đều công nhận bản nhạc "Làng Tôi"
xứng đáng được nhận giải thưởng vinh dự đó.
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn ... người bốn phương.
Bản Làng tôi đã giành được giải của công ty
điện ảnh, đoàn cải lương Kim Chung ở Hà Nội để làm bản nhạc nền cho phim
Kiếp Hoa.
Hành trình về phương Nam
Thế rồi, thế sự đổi thay theo mệnh nước nổi
trôi. Năm 1954, Chung Quân cùng gia đình di cư vào Nam, định cư ở vùng
Khánh Hội. Nhờ đã từng học sư phạm chuyên ngành về nhạc
và danh tiếng của Làng Tôi, Chung Quân được
Bộ Quốc gia Giáo dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại
hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi. Thời gian
giảng dạy ở trường Nguyễn Trãi, Chung Quân là
thầy dạy nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Ngô Thụy Miên, Vũ
Thành An, Đức Huy, Nam Lộc... Cũng khoảng thời gian 1955
- 1956, ông có soạn bản hợp xướng Sông Bến
Hải, theo một vài ý kiến thì đó là một trường ca có giá trị nghệ thuật,
viết về cuộc di cư năm 1954, nhưng về sau không thấy phổ biến
rộng rãi.
Trường Nguyễn Trãi năm ấy có cậu học trò
nghèo nên buổi trưa thường không về nhà mà nghỉ lại ở trường cùng bữa ăn
trưa là gói xôi mà mẹ cậu đã mua cho cậu đem theo từ sáng sớm.
Thay vì nghỉ trưa, cậu học trò lại tha thẩn
trong trường để rồi lắng nghe được câu chuyện tranh cãi giữa hai người
thầy.
Trong một căn phòng, tiếng của vị giáo sư Hà
Đạo Hạnh (cử nhân toán) đang ầm ĩ nói với nhạc sĩ Chung Quân
- Trình độ học vấn của anh chỉ đáng là
học trò của tôi thôi. Việc anh được dạy chung với những giáo sư như
chúng tôi là một vinh dự cho anh, anh có biết điều đó không?
- Nhưng thưa giáo sư, nếu hỏi công
chúng có biết nhạc sĩ Chung Quân là ai không? Thì chắc chắn nhiều người
biết đó là tác giả của bản nhạc Làng Tôi. Còn như hỏi họ, có biết
giáo sư Hà Đạo Hạnh là ai không? Tôi
tin người ta không mấy người biết.
Câu chuyện đang đến hồi hấp dẫn, và cậu học
trò cố áp sát tai để chờ nghe tiếp xem Giáo sư Hà Đạo hạnh trả lời ra
sao, bỗng từ phía sau, một bàn tay lạnh lùng của thầy giám thị
véo vào tai cậu học trò kéo đi chỗ khác! Và
vì thế mà câu chuyện đành dở dang ở đây.
Rồi thời gian trôi qua, tưởng mọi chuyện đã
rơi vào quên lãng. Nhưng không, nhạc sĩ Chung Quân đã không chịu bỏ qua
dễ dàng như vậy, ông nhất định phải đòi lại món nợ danh dự này.
Không công danh thà nát vói cỏ cây.
Nhạc sĩ Chung Quân sau đó đã quyết chí tiếp
tục con đường kinh sử, ông ghi danh theo học và hoàn thành tú tài toàn
phần, sau đó, ông lại tiếp tục việc học để đạt cho kỳ được mảnh
bằng Đại học. Cuối cùng, ông đã tốt nghiệp cử
nhân văn chương tại Anh quốc.
Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Nhớ lại câu chuyện ngày xưa, nhạc sĩ Chung
Quân sao chép tất cả văn bằng mà mình có được gửi về cho giáo sư Hà Đạo
Hạnh kèm theo lời nhắc nhở rất nhẹ nhàng lịch sự.
Thưa giáo sư Hà Đạo Hạnh, tất cả những gì mà
giáo sư làm được thì Chung Quân tôi cũng đã làm được. Còn những gì Chung
Quân tôi làm được thì giáo sư đã không làm được.
Viết tới đây tôi bỗng nhớ tới bài thơ của cụ Nguyễn Công Trứ có đoạn như sau:
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm lên tiếng phi thường đâu đấy tỏ …
Nhạc sĩ Chung Quân đã đòi lại món nợ danh dự
năm xưa một cách sòng phẳng bằng ý chí và lòng kiến nhẫn của chính ông.
Rất lịch sự, tế nhị mà cũng rất quân tử. Không ồn ào, không gióng
trống khua chiêng làm người khác phải ngượng
ngùng, mất thể diện. Quả thật, chẳng ai biết trước được chuyện gì xảy ra
trong cuộc đời.
Cậu học trò nghe lén câu chuyện ngày xưa sau
này cũng theo cái nghề “gõ đầu trẻ”. Ông dạy Trung học đệ nhị cấp (cấp
3) ở miệt dưới tận tỉnh Bạc Liêu. Ngoài công việc dạy học, ông còn
làm thêm nghề tay trái là viết báo, viết văn
với bút hiệu Thái Phương. Sau biến cố 1975, ông nghỉ dạy và chuyển hẳn
sang viết báo. Hiện nay, độc giả biết nhiều đến ông với bút danh nhà
văn Đoàn Dự.
Đã có lần, nhà văn Đoàn Dự gặp lại thầy cũ là giáo sư Hà Đạo Hạnh và ông có hỏi vị giáo sư:
- Thưa Thầy, sao ngày đó thầy lại nặng lời với Nhạc sĩ Chung Quân thế ạ!
- Hồi ấy tôi có hơi nóng nảy nên đã quá lời
Mọi chuyện rồi cũng qua đi, người
xưa giờ cũng đã trở về cùng cát bụi, nhưng câu chuyện thì sẽ còn mãi như
một bài học, một tấm gương về cách đối nhân xử thế của người xưa vậy .
Nguồn : http://www.truongvanduc.net/LangToi.htm
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Nov/2014 lúc 10:11pm
Ai muốn đánh cắp "Nỗi Lòng Người Đi" của Anh Bằng?
http://2.bp.blogspot.com/-hVVdqRM1ATw/VEfBx48p62I/AAAAAAABs5Y/Efk6eiw_p_w/s1600/tmp-danlambao.jpg">
http://danlambaovn.blogspot.com/ - Phạm Trần (Danlambao)
- Vấn đề suy thoái đạo đức, ăn gian nói dối, mua bán bằng cấp và chạy
chức chạy quyền trong xã hội thời Cộng sản không còn ngạc nhiên mà là
thói quen của một bộ phận cán bộ, đảng viên, ngay cả trong lĩnh vực văn
hóa, văn nghệ. Lãnh đạo đảng và nhà nước đã nhiều lần nhìn nhận như thế
nhưng không sao cải thiện được.
Giáo sư Hoàng Tụy, nhà toán học nổi tiếng của Việt Nam từng nói: “Giả
dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống
dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng
không thể là ngành giả dối. Thế nhưng đã có hơn một nhà khoa học nước
ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy
là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở
các tầng nấc.” (trích Phỏng vấn của báo Dân Trí)
http://2.bp.blogspot.com/-xo1Wx4sKoPY/VEddURDy0QI/AAAAAAAAEao/oF3LZ_tWc28/s1600/GS%2BHoang%2BTuy.jpg"> |
Giáo sư Hoàng Tụy |
Ông Hoàng Tụy, người có Anh hùng Hoàng Diệu là Bác ruột còn nói với báo điện tử Việt Nam Quality (VieQ.VN) ngày 03/03/2014: "Việc
sử dụng bằng giả, bằng thật mà chất lượng dỏm có hại trực tiếp đến cơ
quan nhà nước, làm ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống của chúng ta. Muốn
nâng cao chất lượng bộ máy nhà nước, không có cách nào khác phải chống
bằng giả, phải bảo đảm giá trị thật của bằng cấp. Tình trạng bằng giả
chỉ chui được vào cơ quan nhà nước theo cách nói của Bộ trưởng Phạm Vũ
Luận không phải là khám phá gì mới mẻ, chẳng qua quan chức nói ra thì
nghe... lạ tai, chứ dân chúng thì biết rõ điều này. “Nhất hậu duệ, nhì
quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ” là câu vè nghe chướng tai nhưng lại
rất thực tế."
Thực tế đã chứng minh số người có bằng giả đã hoặc đang làm việc trong
các cơ quan nhà nước không hiếm ở Việt Nam. Người nổi tiếng trong vụ
khai gian bằng Tiến sĩ là Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang nay đã bị sa
thải. Ông Quang khai đã có bằng Tiến sĩ tại Đại học Uppsala, Thụy Điển,
nhưng sự thật thì trường này, theo báo chí Việt Nam, chỉ cấp chứng chỉ
về nghiên cứu Khoa học Dược phẩm tự nhiên cho ông Cao Minh Quang, chứ
không phải văn bằng.
Báo VnExpress viết ngày 16/9/2011: “ĐH Uppsala xác nhận: "Ông Cao
Minh Quang, sinh ngày 6/6/1953, đạt chứng chỉ "Licentiatexamen" về
nghiên cứu khoa học dược phẩm tự nhiên vào ngày 26/10/1994. Đây là chứng
chỉ chứ không phải văn bằng. Theo quy định của trường Uppsala chứng chỉ
nói trên cần phải đạt được để tham dự khóa học tiến sĩ".
Bằng chứng này đã xác nhận một thực trạng ai cũng biết đang diễn ra
trong xã hội Việt Nam: Ở bất kỳ địa vị nào trong xã hội, nhất là những
kẻ có chức có quyền, cũng có thể gian dối để đạt lợi ích cá nhân mà
không cần phải hổ thẹn với lương tâm.
Trường hợp của "Nỗi Lòng Người Đi"
Vì vậy khi đem bi kịch gian dối lồng vào sự bất lực của nhà nước trong
cuộc chiến phòng, chống tham nhũng từ bao nhiêu năm mà nay vẫn còn
“nghiêm trọng” cũng không phải là một ngoại lệ. Nếu sự dối gian này cũng
đã lan sang lĩnh vực Văn nghệ trong thời gian 2 năm qua đối với Tác
phẩm Âm Nhạc nổi tiếng “Nỗi lòng người đi” của Nhạc sĩ Anh Bằng thì cũng không ai ngạc nhiên.
Tuy chuyện “tranh quyền Tác giả” bài ca lịch sử này đã râm ran từ lâu
nhưng không mấy người quan tâm cho đến khi Đài Truyền hình VTV1 loan báo
có chương trình Giai điệu tự hào mang chủ đề Người Hà Nội lúc 20h ngày
24/10 (2014), và Ca khúc Nỗi lòng người đi - của nhạc sĩ hải ngoại Anh Bằng sẽ lên sóng VTV1.
Vì vậy ông Khúc Ngọc Chân - nguyên nhạc công cello Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam đã làm to chuyện rằng chính ông ta mới là Tác giả của “Nỗi Lòng Người Đi”, có tên gốc là “Tôi Xa Hà Nội” viết năm 1954!
Câu chuyện bắt đầu như thế này :
http://4.bp.blogspot.com/-p9oDQ_zSCRA/VEddb7PyDkI/AAAAAAAAEbE/yiR3ItVsUKs/s1600/nhacsianhbang02.jpg">
Nhạc sĩ Anh Bằng, người có tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1926 tại
Nga Điền, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cùng quê với Nhà thơ Hữu Loan, Tác
giả của Bài Thơ bất tử “Mầu tím hoa sim”.
Khi bước sang tuổi 88 năm 2014, Nhạc sĩ Anh Bằng đã có một gia tài gần
700 ca khúc nhạc tình, nhạc dân tộc và nhạc trẻ nổi tiếng, trong đó có “Nỗi lòng người đi” ra đời ngày 15/04/1967.
Khi Tác phẩm này in ra, ai cũng thấy chỉ có một mình tên Tác giả Anh Bằng in trên Bản nhạc.
http://4.bp.blogspot.com/-tIim8qlDcRs/VEddUunxAiI/AAAAAAAAEak/--FVZUFvWc0/s1600/Hinh%2BBia-Noi%2BLong%2BNguoi%2BDi.jpg">
Và trong suốt 47 năm qua, qua trình diễn của nhiều thế hệ ca sĩ từ trong
nước ra hải ngoại, không có bất cứ một ai dám “cả gan” tranh chấp chủ
quyền với ông.
Tại sao? Bởi vì ông đã viết ra “Nỗi Lòng Người Đi” cho cả một thế
hệ người Bắc di cư vào Nam năm 1954, trong đó có gia đình ông, sau khi
Việt Nam phải chia đôi đất nước tại Hội nghị Geneve tháng 07/1954.
http://3.bp.blogspot.com/-JW_qIkvB1s8/VEddaYd4A_I/AAAAAAAAEa8/iwD0Sg1i1rk/s1600/NoiLongNguoiDi-AB.jpg">
Nội dung bài hát nói lên tâm trạng rời bỏ quê hương Hà Nội của một Thanh
niên đã phải bỏ lại người yêu đi tìm tự do vì không thể nào có thể ở
lại miền Bắc sống chung với quân Việt Minh thời ấy.
Lý do dễ hiểu vì Anh Bằng thuộc một gia đình chống Cộng sản như Tiểu sử ông đã cho biết: “Năm
1935 ông xa gia đình để học Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia
thuộc tỉnh Thanh Hóa, sau đó ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà
Nội. Vì gia đình anh em ông chống Việt Minh, vào thời kỳ Kháng Pháp, ông
bị Việt Minh bắt giam ở trại Lý Bá Sơ. Các anh em ông bị tuyên án tử
hình nhưng sau được thả, riêng người anh Trần An Lạc bị Việt Minh thủ
tiêu. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở khu Bà
Chiểu, Sài Gòn cho đến năm 1975.”
Chuyến ra đi lịch sử của Anh Bằng năm 1954 và cuộc di cư vào Nam trong
thời gian 300 ngày của trên 1 triệu người dân miền Bắc đã in đậm trong
tâm khảm người Việt Nam thời ấy. Vì vậy, mỗi khi nghe ai hát “Nỗi lòng người đi” là người dân gốc Bắc, dù ở trong nước hay hải ngoại suốt 60 năm qua (20/7/1954 – 20/07/2014), cũng phải rưng rưng nước mắt!
Thế nhưng, tuy đã gần đến tuổi 50 kể từ ngày ra đời 1967, “Nỗi lòng người đi”
vẫn không thoát khỏi một tai nạn không ai có thể ngờ tới xẩy đến năm
2012 qua “một việc làm chung” của 2 người ở Hà Nội, Nhà báo phê bình ân
nhạc Nguyễn Thụy Kha và Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân, người tự nhận chính ông
mới là “tác giả thật” của “Nỗi Lòng Người đi” đã được ông Anh Bằng đặt thay cho “tên nguyên thủy” là “Tôi Xa Hà Nội”.
Nguyễn Thụy Kha - Khúc Ngọc Chân
http://3.bp.blogspot.com/-wQ51X2rlLZ4/VEddXHlDbxI/AAAAAAAAEa0/Cp2qgV88fN4/s1600/Khuc%2BNgoc%2BChan%2Bva%2BNguyen%2BThuy%2BKha%2B%28anh%2BN.M.%2BHa2%29.gif">
Lập luận của 2 ông Kha và Chân có một số điểm “rất nên thơ” nhưng họ lại không chứng minh được:
Thứ nhất, hãy nghe ông Nguyễn Thụy Kha kể: "Một buổi sáng cuối thu Hà
Nội, có một người nhỏ thó đến văn phòng tôi làm việc ở 59 Tràng Thi -
Hà Nội. Ông tự giới thiệu là Khúc Ngọc Chân.
Tôi nhìn mãi mới nhận ra ông đã từng là nghệ sĩ đàn cello ngồi ở Dàn
nhạc Giao hưởng Việt Nam từ những năm mới thành lập. Các anh em của ông
là Khúc Phác và Khúc Ka Hoàng cũng đều là dân nhạc nổi tiếng từ lâu. Ông
Chân họ Khúc, đích thị là con cháu Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang - Hải
Dương rồi. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá
tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn
cảnh ra đời của ca khúc “Nỗi lòng người đi” mà chính ông là tác giả với
cái tên đầu tiên là “Tôi xa Hà Nội.”
Thế rồi chuyện tình của Tác giả “Tôi Xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân được ông Kha kể:
“Vốn yêu âm nhạc, ông Chân tìm đến học đàn với thầy Wiliam Chấn ở gần
Hồ Tây. Lúc ấy, cả nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Tạ Tấn cũng đều đến học thầy
Chấn nổi tiếng. Qua học thầy mà ông Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội
tên là Nguyễn Thu Hằng, kém ông hai tuổi. Rồi tình yêu nhen lửa. Họ đã
có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ Hồ Gươm. Không thể
quên những chiều ngồi bên bờ hồ té nước đùa vui với nhau.
Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký hiệp định Genève. Ông
Chân phải theo gia đình về quê. Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông
cảm xúc bâng khuâng.
Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đình người yêu đã xuống Hải
Phòng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di cư vào Nam. Ông tìm xuống Hải Phòng để
sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống tàu. Những ngày đó, với cây
guitar luôn mang theo bên mình, Khúc Ngọc Chân viết Tôi xa Hà Nội tại
khách sạn Cầu Đất – Hải Phòng, viết lại những gì đã bâng khuâng trong
suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:
(1) "Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói bay theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai bên hồ
Khua nước chơi như ngày xưa.”
Trong khi Anh Bằng viết :
“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa.”
Bài của Nguyễn Thụy Kha viết tiếp như ông viết Truyện tình thơ mộng của Khúc Ngọc Chân: “Chàng
tròn 18 tuổi. Nàng tròn 16 tuổi. Khi ấy, tuổi ấy yêu đương là bình
thường. Nếu nỗi nhớ thương người yêu ngày đó đã khiến cho Hoàng Dương
viết ra Hướng về Hà Nội nổi tiếng, thì Khúc Ngọc Chân cũng viết Tôi xa
Hà Nội nổi tiếng không kém. Chàng lại tiếp tục dào dạt trở lại cái cảm
xúc ấy, cái giai điệu ấy nhịp 3/8 hát chậm và tình cảm (Lento - Espressivo):
(2)“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Thuở ấy tôi mang cây đàn
Quen sống ca vui bên nàng
Nàng khóc tơ duyên lìa xa…”
Nhạc Anh Bằng :
“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên lìa tan.”
Nguyễn Thụy Kha còn bi thảm hóa cuộc gặp của đôi tình nhân Nguyễn Thu Hằng-Khúc Ngọc Chân với những dòng: "Không
biết trong những ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Phòng, nàng đã khóc bên
chàng bao lần. Chỉ biết rằng họ vẫn an ủi nhau, nàng cứ vào trước, chàng
hứa hẹn rằng sẽ vào sau, sẽ tìm nàng ở Sài Gòn. Nàng hãy gắng chờ đợi
giữa đô hội phồn hoa:
(3)“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa dòng đời
Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”
Nhưng đoạn này lại giống hệt như lời của Anh Bằng:
“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”
Nhưng đến đoạn chót của Bài hát thì ông Khúc Ngọc Chân thay đổi:
(4)“Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu não đi trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Ai nhắn thay tôi đôi lời, chỉ ước mơ mong đẹp đôi.”
Trong khi Anh Bằng đã viết:
“Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi
trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi.”
Những mặt trái bị lộ
Đến đây thì chân tướng không thật bắt đầu lộ ra với giọng văn tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Kha: "Ca
khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát thuộc lòng, hát
đi hát lại đến chan chứa cảm xúc. Khi ấy đã là cuối tháng 11.1954.
Ngày đưa tiễn nàng và gia đình xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng
và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu
ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, còn chàng thì cứ bập bùng guitar và hát
Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe. Nàng thì vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên
mạn thuyền. Một cảnh tượng chia tay thật lãng mạn như trong tiểu thuyết
của Tự lực văn đoàn. Và rồi con tàu đã rời xa đất liền, trôi mãi vào
biển cả mênh mang, mang theo nàng và mối tình đầu day dứt cùng giai điệu
đượm buồn kia. Còn chàng thì quay về, rồi trở lại Hà Nội. Nhưng nỗi nhớ
nàng thì cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.”
Lối “tả chân” của Nhà văn Nguyễn Thụy Kha chất chứa đầy đủ những hoạt
cảnh cần thiết cho một khúc phim tình cảm của thời bình trên chiếc du
thuyền, nhưng chắc chắn không thể có “trong chuyến đò” di cư của người
miền Bắc vào Nam của thời 1954. Tất nhiên vào khi ấy, không người di cư
tất tưởi nào lại còn đủ bản lãnh để thư thái mà “bập bùng guitar và hát
Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe” , và nàng cũng “ung dung”, chả quan tâm gì
đến bố mẹ và gia đình ngồi quanh để “vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên
mạn thuyền”!
Về trường hợp của cô Nguyễn Thu Hằng, qua ngòi bút điêu luyện không cần có chứng minh, ông Nguyễn Thụy Kha viết:
“Còn nàng, khi vào Sài Gòn, vì mưu sinh, với khả năng văn nghệ và vẻ
đẹp của mình, nàng đã đến đầu quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm
việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của chàng đã được nàng tự hát trong
những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để chia sẻ với bao người
khác có tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, một ca khúc hay
như thế đã lọt vào thẩm âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó cũng đã lìa xa Hà
Nội. Chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng. Ca khúc đã có một số phận
khác khi được nhạc sĩ nhận thức và tìm cách xử lý. Còn ở Hà Nội, Khúc
Ngọc Chân đâu ngờ gia đình ông bao đời không chịu làm cho Tây đã không
theo dòng người di cư mà ở lại Hà Nội vừa giải phóng. Vậy là lời hứa với
nàng đành lỡ dở theo thời gian.”
Đến đây thì “mùi sắc” chính trị “làm cho Tây” và “Hà Nội vừa giải phóng”
đã được Nguyễn Thụy Kha lồng vào âm nhạc. Chả lẽ Nguyễn Thụy Kha không
biết đâu phải hơn 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư xuống Nam là vì đã
“làm cho Tây” nên đã đi theo Tây vào Nam?
Cũng chẳng lẽ ông Kha không biết lực lượng Việt Minh đã “tiếp quản”
thành phố Hà Nội từ tay quân đội Pháp sáng ngày 10/10/1954 chứ đâu có
đánh đấm gì mà bảo là “giải phóng” như Ban Tuyên giáo đảng CSVN đã viết
tài liệu tuyên truyền trong dịp kỷ niệm 60 năm mới đây (10/10/1954 –
10/10/2014)?
Không dừng ơ đây mà Tác giả Nguyễn Thụy Kha đã cùng với Khúc Ngọc Chân đong đưa tiếp với nhiều huyền thoại:
Nhà báo này viết: “Ở lại Hà Nội, năm 1956, ông Chân vào học đàn cello
ở Trường Âm nhạc Việt Nam. Khi tốt nghiệp thì về công tác tại Dàn nhạc
Giao hưởng Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn nhạc Giao hưởng
vào biểu diễn ở Sài Gòn vừa giải phóng, ông Chân đi tìm người yêu qua họ
hàng thân thiết thì biết tin người yêu vò võ đợi chờ ngày gặp lại đã
mất vì mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi “tam thập nhi
lập”. Theo người thân của người yêu, ông đã tìm đến mộ nàng và thắp
hương, thầm khóc cho cuộc tình chia phôi bất hạnh. Chính vì người yêu đã
mất, nên ông không sao hiểu nổi bằng cách gì mà ca khúc Tôi xa Hà Nội
của ông lại lọt vào tay nhạc sĩ Anh Bằng, được ông sửa thành nhịp 4/4
theo điệu Slow và phổ biến “quá trời” tại Sài Gòn.”
Rồi ông Kha và ông Chân kể tiếp như người chết đuối vớ được phao giữa dòng nước xoáy:
"Ông Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy, nếu ca khúc lan ra mà
lại ghi tên ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở Dàn nhạc Giao
hưởng cho đến khi về hưu. Nhưng vì ca khúc ghi là của tác giả Anh Bằng,
nên những ca từ rất thực của ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà
Nội tạm bị chiếm lại trở thành một vệt đen mang đậm nỗi ấm ức của bao
người di cư ở bên kia chiến tuyến. Lại nữa, vì Anh Bằng đổi tên ca khúc
thành Nỗi lòng người đi nên vệt đen kia hóa thành có thực khi đất nước
bị chia cắt. Cũng chính vì thế mà cho đến nay Nỗi lòng người đi (vốn là
Tôi xa Hà Nội) vẫn chưa được cho phép hát lại.”
Nhưng làm sao mà ông Chân có thể “hát lại” được, bởi vì Trung tâm bảo vệ
quyền Tác giả Âm Nhạc Việt Nam ở Hà Nội (Vietnam Center for Protection
of Music Copyright , VCPMC) đã bác lời xin bảo vệ quyền lợi cho ông vì
ông “đã không chứng minh được quyền Tác giả” của mình.
Nguyên văn điện thư của Bà Đinh Thị Thu Phương, Phó quản lý, đặc trách
ngoại vụ của Trung Tâm gửi Nhạc sĩ Anh Bằng về tác quyền như sau:
From: "Dinh Thu Phuong" < mailto:phuong.dtt@vcpmc.org - phuong.dtt@vcpmc.org >
Date: September 24, 2014 at 1:08:06 AM PDT
To: < mailto:anhbangasia@gmail.com - anhbangasia@gmail.com >, < mailto:anhbangasia@yahoo.com - anhbangasia@yahoo.com >
Subject: Fwd: NOI LONG NGUOI DI
Kính gửi Nhạc sĩ Anh Bằng,
Cháu nhận được email kèm theo bản nhạc của bác đã lâu, nhưng phải chờ
thẩm định, rồi lại vì bận nhiều việc quá nên hôm nay cháu mới hồi âm
tới bác được, mong bác thứ lỗi.
Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân ủy quyền cho VCPMC ca khúc Tôi xa Hà Nội từ
ngày 24.4.2014, tuy nhiên sau đó phát hiện có sự song trùng với ca khúc
Nỗi lòng người đi của bác. VCPMC đã yêu cầu 2 bên cung cấp chứng cứ bằng
văn bản, nhưng ông Khúc Ngọc Chân không có, vì vậy VCPMC đã quyết định
ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội. Điều đó có
nghĩa VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi lòng người đi
của nhạc sĩ Anh Bằng. Cháu xin chúc mừng bác ạ.
Đây là việc thường xuyên phải giải quyết của VCPMC, mong bác giải
thích với mọi người rằng chỉ thuần túy là việc tranh chấp dân sự bình
thường, ai không đủ chứng cứ là thua, có thế thôi, không phải là âm mưu
chính trị gì đâu (như có bài viết ở hải ngoại phỏng đoán) vì sự việc nó
quá tầm thường không đáng để suy diễn làm ảnh hưởng đến chính sách đại
đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam.
Để thực hiện khoản 1, 2 Điều 3 của Hợp đồng ủy quyền (mà cô Trương Mỹ
Dung – học trò của bác ở Việt Nam đã thay mặt bác ký với VCPMC) một lần
nữa cháu đề nghị bác vui lòng gửi qua email cho cháu toàn bộ ca khúc
của bác mà bác đang có, nếu đã là xuất bản phẩm trước 1975 tại Sài Gòn
thì bác scan cho cả mặt ngoài và mặt trong của bản nhạc khổ giấy A3, ca
khúc nào chưa xuất bản hoặc viết sau 1975 chưa in thì bác gửi cho cháu
bản chép tay cũng được. Cháu cảm ơn bác trước.
Cháu xin gửi kèm theo đây 1 quyết định của Giám đốc VCPMC và 1 mẫu Hợp đồng ủy quyền để bác tham khảo.
Trân trọng kính chào bác – người nhạc sĩ tài danh mà tác phẩm luôn
hướng tới và dành cho tình yêu con người cùng quê hương đất nước Việt
Nam. Chúc bác vui khỏe và dồi dào sức sáng tạo.
Kính thư,
--
Dinh Thi Thu Phuong (Ms)
Deputy Manager of External Relations Divison,
Cellphone: about:blank - +84 91 660 5156
Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC)
66 Nguyen Van Huyen Str, Cau Giay District., Hanoi, Vietnam
Phone: about:blank - +844 3762 4718 (ext: 268) / Fax: about:blank - +844 37624717
Office hour: 8am - 5pm GMT+7, Mon-Fri
http://www.vcpmc.org/ - www.vcpmc.org .
Ngoài ra, Giám đốc Trung Tâm, Nhạc sĩ Phó Đức Phương cũng ra Quyết định ngày 12 tháng 09 năm 2014 có 3 điểm, nguyên văn như sau:
Điều 1: Ngừng bảo vệ quản lý và khai thác 1 ca khúc “Tôi xa Hà Nội” của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân.
Điều 2: Những ca khúc khác của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân vẫn được bảo vệ, quản lý và khai thác bình thường.
Điều 3: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký. Các phóng ban chức năng của Trung tâm chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
(Phó Đức Phương-Ký tên và đóng dấu).
http://2.bp.blogspot.com/-Hf_v6lLh3XI/VEdmnqjEr0I/AAAAAAAAEbw/IBDFVLdb4NE/s1600/Pho%2BDuc%2BPhuong-Huy%2Bbo%2Bbao%2Bve%2Bquyen%2Bcua%2BNS%2BKhuc%2BNgoc%2BChan.png">
Tiếp tục sai lầm
Bài viết của Nhà báo phê bình âm nhạc Nguyễn Thụy Kha xuất hiện trong
Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 804 và được Website Giai Điệu Xanh đăng
lại ngày 21/12/2012 còn tiếp tục sai lầm rằng: “Tìm hiểu về nhạc sĩ
Anh Bằng qua nhiều luồng thông tin, qua trang mạng Google thì thấy rằng
điều ông Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai sinh là
Trần An Bường. Ông sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh Bình.
Ông học trung học tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày
30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas . Ông vẫn
hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung
tâm Asia Entertainment tại Houston.”
Ngay trong đoạn này, ông Kha đã “khẳng định chuyện kể của ông Chấn “rất
có cơ sở”, căn cứ theo những gì ông Kha tìm được trên mạng điện tử
Google, nhưng ông lại nói sai “Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ,
cư trú tại Houston, bang Texas . Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng
đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại
Houston”, trong khi gia đình Nhạc sỹ Anh Bằng và Trung tâm Asia chưa bao giờ sinh sống hay xây dựng sự nghiệp âm nhạc ở Houston, Texas.
Tuy vậy, tác giả Nguyễn Thụy Kha cứ “đong đưa” với chữ nghĩa để tiếp tục thêu dệt rằng: “Ngày
ấy, khi vào Sài Gòn, theo thiển nghĩ của tôi, Anh Bằng chưa được biết
đến như Chung Quân, Cung Tiến. Nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một
thiếu nữ làm ở quán bar hát những khi chia sẻ mà lại không biết xuất xứ.
Với khả năng âm nhạc của mình, Anh Bằng đã thuộc được giai điệu này.
Ông thấy rất hợp tâm trạng của ít nhất là những thanh niên vừa phải xa
Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Vậy là cuộc sử dụng một giai điệu mang tâm
trạng của thanh niên xa Hà Nội, nhưng để hợp thời thế, Anh Bằng đã
chuyển nhịp 3/8 gốc của ca khúc Tôi xa Hà Nội thành nhịp 4/4 dùng tiết
điệu Slow.”
Tệ hại hơn, Thụy Kha còn dựa vào lời nói của người duy nhất tự nhận là Tác giả “Tôi xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân để bịa ra rằng: “Còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên của một nhà thơ tình nổi tiếng là Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là nhà thơ đã từng tham gia chiến tranh tại Nam bộ và có
bài thơ Tiểu đoàn 307 được Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc rất hoành tráng.
Nhưng sau Hiệp định Genève, ông đã ra tập kết ở miền Bắc. Có lẽ thông
tin này, Anh Bằng không biết, nên ông đã tự “vu” cho Nguyễn Bính chịu
trách nhiệm ca từ này.”
Nhưng Nhạc sĩ Anh Bằng, đã trả lời câu hỏi của tôi (Phạm Trần) về chuyện Nguyễn Bính như sau:
“Cảm ơn Anh đã tỏ ra rất quan tâm đến ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI của tôi đang bị cướp đoạt một cách trắng trợn.
Anh đã xem Bản nhạc được in và phát hành năm 1967 tại Sài Gòn chỉ có
tên Tác giả là ANH BẰNG trong ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI. Tuyệt đối
không có tên Thi sĩ Nguyễn Bính in bên cạnh như kẻ gian manh, xáo quyệt,
vô lương tâm, vô liêm sỉ bịa đặt.
ANH BẰNG xin minh xác như vậy để Anh yên tâm.”
http://4.bp.blogspot.com/-7WApZ7NqGA0/VEddiVqLZyI/AAAAAAAAEbc/Lok7HFmoTlo/s1600/Trang%2Btrong%2B%281%29%2B-Noi%2BLong%2BNguoi%2BDi.jpg">
http://3.bp.blogspot.com/-CjnIVvj6Xlw/VEddifQOjRI/AAAAAAAAEbk/ktuQWIavHqQ/s1600/Trang%2BTrong%2B%282%29-Noi%2BLong%2BNguoi%2BDi.jpg">
Nhạc sĩ Lê Dinh, người bạn tâm giao của Anh Bằng trong nhóm 3 Nhạc sĩ Lê
Minh Bằng (Lê Dinh-Minh Kỳ-Anh Bằng) phản ứng về chuyện này:
“Bài viết này, của báo trong nước, tôi cũng đã đọc cách nay một tuần.
Đây chỉ là một bài viết lập lại những lý luận mà họ đã lải nhải như
trong nhiều bài trước, không có gì mới lạ.
Nhưng họ không đá động gì tới việc cô Đinh thị Thu Phương, Vietnam
Center for Protection of Music Copyright (VCPMC / thuộc Trung Tâm Bảo Vệ
Quyền Tác Giả) đã xác nhận với Anh Bằng, qua thư đề ngày 24-09-14,
rằng: “Sau khi thẩm định, VCPMC đã quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và
khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội (của Khúc Ngọc Chân vì không cung cấp
chứng cứ bằng văn bản). Và VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc
Nỗi lòng người đi của nhạc sĩ Anh Bằng”.
Như vậy, chúng ta xem như việc này đã kết thúc qua lá thư của cô Đinh
thi Thu Phương (CVPMC) gửi cho Anh Bằng ngày 24-09-14 (được trích trên
đây)
“…Việc lên tiếng của VCPMC là một tiếng chuông cảnh cáo những kẻ giả
mạo để ăn cướp công lao của những nhạc sĩ sáng tác, vì không gì dễ bằng,
cứ lấy một tác phẩm cũ nổi tiếng nào đó, của một nhạc sĩ nổi tiếng nào
đó, chép bằng máy vi tính, sửa lại vài chữ và nói đây là bài nhạc của
tôi sáng tác năm đó, năm đó… ông nhạc sĩ này lấy bài nhạc của tôi làm và
nói là của ổng. Chủ nhà trở thành kẻ cướp và kẻ cướp trở thành chủ nhà,
quá dễ.
May mà có sự quyết định sáng suốt của Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả,
nếu không thì sẽ có loạn trong làng âm nhạc Việt Nam, chứ chẳng không.”
Tại sao đến 2012 mới biết ?
Về chủ quyền bài hát, ông Khúc Ngọc Chân tỏ ra lúng túng khi phóng viên
báo Thể thao- Văn hóa Việt Nam (Thethaovanhoa.vn) hỏi ngày 15/10/2014
rằng: “Tại sao đến tận bận bây giờ ông mới nhận Nỗi lòng người đi là
của mình. Ông có bằng chứng gì thuyết phục rằng đó chính thức là ca khúc
của mình không? Ông đã sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu
ông có còn nhạc bản ngày xưa hay không?”
Ông Chân đáp gọn: “Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được. Ca khúc của tôi
sáng tác hồi đó chính ra chỉ có 2 người biết với nhau là tôi và cô
người yêu thôi.”
Về chuyện bảo Anh Bằng ghi tên Nhà thơ Nguyễn Bính vào bản nhạc, ông Chân lại ú ớ khi được báo Thanh niên-Văn hóa (TTVH) hỏi: “Sau này rồi có ai biết có bài nào nhác nhác như thế của ông Nguyễn Bính không?
Khúc Ngọc Chân: “Không có. Gia đình Nguyễn Bính ở Nam Định cũng không
còn ai, con cháu đi hết rồi. Tất cả các tuyển tập thơ Nguyễn Bính không
có bài nào như thế.
May cho tôi là khi kể chuyện này với nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha và một
số người bạn, có người lên mạng đã copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác
đề rằng Nỗi lòng người đi, nhạc Anh Bằng, thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên,
sau bài viết đầu tiên của Nguyễn Thụy Kha được đưa lên mạng thì đến ngay
cả Thụy Kha đi tìm bản đề thơ Nguyễn Bính cũng không có nữa mà chỉ đề
là tác giả Anh Bằng thôi, bỏ phần thơ đi. Nếu mà sự thực phổ thơ Nguyễn
Bính thì vẫn để nguyên chứ. Giả dụ là thơ của Nguyễn Bính thật thì không
sao, không thì tôi phải là Nguyễn Bính chứ không phải Anh Bằng, bởi Anh
Bằng chỉ phổ nhạc thôi mà.”
Nhưng tại sao ông Khúc Ngọc Chân (KNC) không yêu cầu ông Nguyễn Thụy Kha
và “một số người bạn” trưng ra bằng cớ về chuyện “đã copy được bản nhạc
Anh Bằng sáng tác” có tên Nguyễn Bính trên đó?
Báo TTVH: “Ông nói rằng Nỗi lòng người đi không phải của Anh Bằng,
vậy chỉ cần ông đưa ra bằng chứng xác đáng đó là của ông và nếu thực sự
là của ông thì dù cho nhiều người chưa biết thì sẽ biết đến ca khúc này
là của ông?
KNC: "Người yêu của tôi đã mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác
giả. Tôi chỉ muốn nói về một số phận khác khi ca khúc được một nhạc sĩ
nhận thức và xử lý và đã thành một ca khúc hay, đó là điều may mắn. Khi
xưa, lúc tôi biết Anh Bằng phổ nhạc, tôi cũng không dám nói ra, bởi Tôi
xa Hà Nội với những ca từ rất thực diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà
Nội tạm bị chiếm của tôi lại trở thành một vệt đen thì sao?"
Chân trái đá chân phải
Trong ki đó, Nguyễn Mạnh Hà (báo Tiến Phong, 11-10-2014) viết: “Khúc
Ngọc Chân khẳng định, mãi tới năm kia (2012) ông mới biết đến sự tồn tại
của Nỗi lòng người đi. Bởi ông không thích và rất ít nghe nhạc hải
ngoại.
Qua lời kể của ông Chân thì thậm chí Nguyễn Thụy Kha cũng biết đến
“nghi án” Nỗi lòng người đi. Ông Chân thuật lại lời ông Kha trong cuộc
gặp lần đầu tiên của hai người: “Anh có cái bài Nỗi lòng người đi bên
kia người ta nói là bài của anh?!” Nhưng Nguyễn Thụy Kha lại khẳng định
không hề biết đến nghi án này cho tới khi Khúc Ngọc Chân kể ra. Tuy
nhiên, ông Kha vẫn cảm thông với cách trình bày hơi khó hiểu của ông
Chân: “Người ta không phải người ăn nói với công chúng. Nhưng mình biết
được cái lõi của vấn đề. Tôi bằng trực giác biết chắc chắn bài này của
ông ấy rồi!”.
“Phổ thơ cũng được nhưng đấy là cái sai lầm nhất của Anh Bằng. Toàn
bộ gia tài Nguyễn Bính không có bài thơ nào như lời bài “Nỗi lòng người
đi”. Mà lúc đấy Nguyễn Bính tập kết ra Bắc ra Hà Nội rồi, không dính
dáng đến miền Nam nữa mà viết cái đó. Đấy là kẽ hở của câu chuyện.
Thế rồi Nguyễn Mạnh Hà nhận xét: "Sự vô danh của Khúc Ngọc Chân là
một điều bất lợi khi đặt cạnh Anh Bằng- tác giả của hàng trăm bài hát
trong đó có Khúc thụy du, Nếu vắng anh, Anh còn nợ em, Tình là sợi tơ…
Một điểm yếu nữa trong câu chuyện của Khúc Ngọc Chân mà những người đứng
về phía Anh Bằng xoáy vào là có nhiều hình ảnh tư liệu cho thấy tàu há
mồm đưa người vào Nam cập sát cảng Hải Phòng. Trong khi ông Chân kể, ông
vẫn còn hát Tôi xa Hà Nội cùng người yêu trên thuyền từ bến Bính ra
“phao số không” để tiễn nàng lên tàu há mồm. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha,
người gốc Hải Phòng, cho hay Thu Hằng vào Nam là đợt đầu tiên, tháng
11/1954. Lúc đó tàu há mồm chưa cập vào cảng Hải Phòng."
Với những gì chúng ta đọc được quanh “vụ án Nỗi Lòng Người Đi” của Nhạc sĩ Anh Bằng cho thấy đã có những thay đổi nguy hiểm trong tâm tư của cả giới làm văn nghệ ở Việt Nam trong thời đại “gian
dối đã ngự trị trên, không những con người mà cả nền tảng văn hóa
truyền thống lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của dân tộc làm kim chỉ nam
cho đời sống hàng ngày.”
Một nền văn hóa loạn xạ như thế phải là mối lo nhức nhối của mọi người, vì như Giáo sư Hoàng Tụy đã báo động: “Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối.” -/-
(10/2014)
http://1.bp.blogspot.com/-hBzkCECcszU/Um65ayjTv1I/AAAAAAAAAAU/wrdi97Cbuf4/s1600/Traitimxanh-sig.png">
http://danlambaovn.blogspot.com/ - Phạm Trần
http://danlambaovn.blogspot.com/ - danlambaovn.blogspot.com
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 27/Jan/2015 lúc 1:18am
Ca
Sĩ Mộc Lan là :
"NGƯỜI
EM GÁI MIỀN NAM"
của Nhạc
Sĩ ĐOÀN CHUẨN
Hà
Đình Nguyên
**
Mời nghe Quang Tuấn hát
" Gửi người em gái miền Nam" :
https://www.youtube.com/watch?v=OtrKtscyW64 - https://www.youtube.com/watch?v=OtrKtscyW64
Những
người am hiểu và gắn bó với nền tân nhạc Việt Nam, hẳn vẫn còn nhớ về một thế hệ
nữ ca sĩ cách đây hơn 60 năm. Đó là những giọng ca: Mộc Lan, Tâm Vấn, Châu Hà,
Kim Tước... Thời may, tôi được gặp một người trong số họ: danh ca Mộc Lan.
Tiếng tăm của nữ danh ca một thời Mộc Lan thì tôi đã từng nghe biết từ lâu qua
những lời truyền tụng và sách báo. Thời hoàng kim của bà đã cách đây hơn nửa thế
kỷ nên một kẻ hậu bối như tôi dù rất ao ước cũng khó lòng gặp được, bởi bà đã
“mai danh ẩn tích” từ rất lâu... Qua sự giới thiệu của một nhà thơ, được biết
nhà văn Trần Áng Sơn (vốn là chỗ quen biết với tôi) chính là em ruột của bà,
tôi nhờ anh Sơn dẫn đến thăm bà. Một ngày cận Tết, anh Trần Áng Sơn đưa tôi đi,
nhưng dặn nhỏ: “Hạn chế hỏi chuyện đời tư nhé!”. Tôi vâng dạ mà... buồn thiu bởi
thú thực tôi đang rất muốn hỏi bà một số chuyện tình cảm liên quan đến các nhạc
sĩ Châu Kỳ, Đoàn Chuẩn..., đành gặp trước rồi tính sau.
Dù đã được anh Trần Áng Sơn báo trước nhưng tôi cũng không thể ngờ người đàn bà
tài sắc một thời này, nay lại có hoàn cảnh khó khăn như thế. Bà hiện sống - có
thể nói là cô độc trong một căn nhà chỉ chừng mười mấy mét vuông ở cuối con hẻm
nhỏ trên đường Lê Văn Sỹ (Q.3, TP.HCM). Càng cô độc hơn khi một mình bà phải
nuôi nấng, chăm lo cho người con gái trên 50 tuổi bị bệnh tâm thần. Mảnh lưng
ong ngà ngọc một thời nay đã còng xuống, trí nhớ có phần mai một nhưng vẻ xuân
sắc ngày ấy vẫn chưa phai nét trên khuôn mặt mà mái tóc đã gội tuyết sương...
Bà khoe: “Tôi mới vừa nói chuyện qua điện thoại với nhạc sĩ Trịnh Văn Ngân ở
bên Mỹ gọi về (nhạc sĩ Trịnh Văn Ngân là tác giả các ca khúc Buồn thu, Đường tơ
lưu luyến, Người đưa thư đã đi qua...). Bây giờ buồn lắm, bạn bè chỉ còn dăm
người, ai nhớ đến mình, gọi điện hỏi thăm hay gửi cho chút quà là mừng lắm, cảm
động lắm... Châu Hà, Kim Tước đang ở nước ngoài, chỉ có Tâm Vấn thỉnh thoảng có
ghé thăm. Tất cả đều già yếu rồi nên chẳng ai trách ai...”.
* Cô đi hát từ bao giờ và bài hát đầu tiên cô biểu diễn trước công chúng là bài
nào?
- Tôi tên thật là Phạm Thị Ngà, sinh năm 1931, tuổi Mùi. Đi hát từ thời 14 - 15
tuổi ở Đài Pháp Á. Nghệ danh Mộc Lan do nhạc sĩ Lê Thương đặt cho tôi. Bài hát
đầu tiên thì không nhớ nổi nhưng tôi nổi tiếng với bài hát Em đi chùa Hương
(thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhạc Trần Văn Khê). Ông Khê viết bài này rất kỳ công,
có xen kẽ những đoạn vừa nói vừa diễn tả rồi lại hát, cho nên bài hát rất dài
và rất kén người hát. Tôi may mắn được coi là người đầu tiên thể hiện thành
công bài hát này... Nghe nói ông Khê về nước mấy năm nay rồi, lẽ ra tôi phải đến
thăm ông vì cái ơn hồi đó ông uốn nắn cho giọng hát của tôi từng chút một,
nhưng giờ cả hai đều già yếu. Tôi nhớ dạo ông ấy còn ở bên Tây, tôi đã từng về
quê của ông ấy ở xã Vĩnh Kim (Cái Bè, Mỹ Tho) hát. Mới đó mà đã hơn 50 năm rồi...
* Ngoài Em đi chùa Hương, cô còn hát thành công những ca khúc nào nữa?
- Nhiều lắm. Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều (Lâm Tuyền), Gởi gió cho
mây ngàn bay, Chuyển bến (Đoàn Chuẩn), Thoi tơ (Đức Quỳnh), Nhớ nhung (Thẩm
Oánh), Phố buồn (Phạm Duy)... Sau này, tôi hát trong ban Tiếng Tơ Đồng của nhạc
sĩ Hoàng Trọng. Lúc đó, Hoàng Trọng được mệnh danh là “Vua Tango” nên những bài
tango của Hoàng Trọng đều do tôi hát đầu tiên...
* Hiện cô còn giữ băng đĩa nào ghi âm những bài hát này không?
- Hồi xưa, tôi ghi âm nhiều lắm. Thu vào đĩa 45 vòng, vào băng Magne, Akai...
nhưng rồi mấy lần dọn nhà đâm ra thất lạc, cái nào giữ được thì ẩm mốc, hư hỏng
hết... Có mấy người bạn ở nước ngoài gửi cho vài đĩa nhạc nhưng nhà chẳng có
máy mà nghe nên cũng chỉ để đó.
*Nhiều người cho rằng bài hát Gởi người em
gái là của Đoàn Chuẩn viết riêng cho Mộc Lan. Điều này đúng không?
- (cười...). (Anh Trần Áng Sơn gật đầu xác
nhận: “Đã có rất nhiều tài liệu cho rằng nhân vật nữ trong Gởi người em gái của
Đoàn Chuẩn chính là chị Mộc Lan”)... Thực ra thế này, dạo đó tôi ở
trong Nam, còn ông Đoàn Chuẩn ở ngoài Bắc, ông ấy sáng tác và gửi bài hát vào
Nam cho các ca sĩ, không cứ gì gửi cho riêng tôi. Tôi vào Nam từ rất sớm do ông
anh tên là Long dắt vào. Mấy năm sau, khi tôi chung sống với ông Châu Kỳ ở Huế
thì tôi đón Trần Áng Sơn vào ở chung (1952). * Cô nhận xét thế nào về nhạc sĩ Châu Kỳ?
- Ông ấy rất hiền lành, đã hứa làm cái gì thì làm tới nơi. Riêng với phong trào
âm nhạc thì ông ấy rất nhiệt tình. Sống có tình cảm nên bạn bè rất quý. Có điều
nhậu vô là nói lèm bèm. Tính tôi nghe nhiều không chịu được, bực lắm! Mình đi
hát thì phải tiếp xúc với nhiều người mà ông ấy lại quá ghen...
* Nhạc sĩ Châu Kỳ mất, cô có biết tin không?
- (ứa nước mắt)... Trước đó ít lâu, tôi có việc đi ngang Hội quán Nghệ sĩ trên
đường Trần Quốc Thảo (Q.3), thấy Châu Kỳ ngồi phía bên ngoài. Thấy tôi, Châu Kỳ
ngoắc lia lịa: “Bà vào đây chút đã!”. Tôi xua tay: “Tôi mắc công chuyện phải đi
gấp!”... Ít lâu sau nghe tin ông ấy mất. Tâm Vấn và Thanh Nhạn gọi điện thoại bảo
tôi nên đến viếng ông ấy một chút nhưng tôi bệnh quá không đi được. Để chừng
nào tôi khỏe khỏe một chút, tôi với Tâm Vấn sẽ đến thắp cho ông ấy một nén
hương...
...Chia tay người của một thời mà lòng tôi nặng trĩu. Nhan sắc ấy, giọng ca ấy
từng khuấy đảo sân khấu ca nhạc cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Kẻ đưa người đón dập
dìu mà nay vò võ còng lưng trong căn nhà chật hẹp. Có tâm sự cũng chẳng biết sẻ
chia với ai bởi bên cạnh bà giờ chỉ còn người con gái ngờ nghệch, khật khùng...
Anh Trần Áng Sơn bảo thậm chí đến cơm nước bà cũng không thể tự nấu, phải đặt
cơm tháng, người ta mang đến nhà cho mẹ con bà... Buồn ghê!
Hương sắc 60 năm trước
Khi biết tôi có ý định viết về nữ ca sĩ một thời vang bóng Mộc Lan, nhà văn Trần
Áng Sơn không nói gì nhưng trao cho tôi bộ Những trang sách khép mở (3 tập). Để
bạn đọc hình dung được một Mộc Lan hương sắc của 60 năm về trước, xin trích từ
những trang viết của Trần Áng Sơn:
“Khi tôi chưa đầy một tuổi thì mất cha. Mẹ tôi, người đàn bà chân quê không đủ
sức nuôi dưỡng, dạy bảo 8 đứa con đang sức ăn sức lớn. Tình cảnh gia đình thật
bi đát, 8 anh chị em tôi ở trong tình trạng xẻ nghé tan đàn bất cứ lúc nào...
Cuối cùng người lãnh trách nhiệm hy sinh để cứu những đứa em còn quá nhỏ dại là
anh hai tôi - anh Long. Anh phải từ bỏ trường học, từ bỏ võ đài - nơi anh ấy
đang nổi lên như một võ sĩ quyền Anh trẻ tuổi đầy hứa hẹn. Anh dắt theo hai chị
tôi: chị Ngọc, chị Ngà từ Hải Phòng vào Sài Gòn tha phương cầu thực. Cảnh chia
ly ấy diễn ra khi tôi vẫn còn là một đứa trẻ lẫm chẫm tập đi. Tôi lớn dần lên
trong cơ cực, trong đạn bom Thế chiến thứ hai, và khi tiếng súng toàn quốc
kháng chiến nổi lên cũng là lúc gia đình tôi hoàn toàn bị đứt liên lạc với các
anh chị tôi ở Sài Gòn...
Ngày các anh chị rời xa gia đình, tôi còn quá nhỏ nên không hình dung được họ
ra sao, nhưng qua lời mẹ tôi kể lại thì các anh chị tôi đều rất đẹp: anh Long
cao lớn, đẹp như thầy chúng tôi. Còn chị Ngà (sau này là nữ danh ca Mộc Lan -
PV) đẹp như tranh vẽ, mẹ kể da của chị trắng như trứng gà bóc, răng đều tựa như
hạt cườm, tay cứ như tay tiên. Tóm lại trong 5 chị gái, chị Ngà tôi đẹp nhất.
Tôi giữ hình ảnh đẹp như tranh vẽ của người chị trong tâm hồn như một niềm kiêu
hãnh...
Một hôm vừa đi học về, tôi ngạc nhiên thấy nhà có khách - một người phụ nữ sang
trọng, rất đẹp, cái đẹp sắc như dao cau. Tôi ngỡ ngàng ngộ nhận đó là chị Ngà
tôi ở Sài Gòn mới về. Nhưng không phải, người ấy là chị Thanh, chị dâu tôi - vợ
anh Long. Đúng là chị về từ Sài Gòn để tìm lại gia đình sau hơn 10 năm thất lạc.
Mẹ tôi rất mừng, cơn ác mộng những đứa con thất lạc trong chiến tranh không còn
phủ cái bóng ảm đạm lên gia đình tôi nữa. Mẹ tôi còn cho biết chị Ngà tôi bây
giờ đã trở thành ca sĩ nổi tiếng khắp Bắc - Trung - Nam. Chị ấy đang lưu diễn ở
Hà Nội theo lời mời của Đài phát thanh Hà Nội cùng với nữ ca sĩ số một của Hà Nội
bấy giờ là Minh Đỗ. Tin này đối với tôi thật bất ngờ. Thời thơ ấu khổ cực nhưng
tôi luôn giữ hình ảnh người chị đẹp như tranh trong ký ức, chị ấy đã phải rời
xa tổ ấm để chia bớt phần ăn cho những đứa em. Thế mà cô gái nghèo ấy sau hơn
10 năm xẻ nghé tan đàn đã trở thành ca sĩ danh tiếng. Tuy chưa biết khi hát chị
tôi lấy nghệ danh là gì nhưng tôi tin chắc cái tên phải xứng với sắc đẹp và giọng
hát của chị ấy. Vào thời điểm này (1952), tôi sắp bước sang tuổi mười lăm...
Sau chuyến lưu diễn ở Hà Nội, chị Ngà tôi và anh Long về Hải Phòng thăm mẹ và
các em sau hơn 10 năm đứt liên lạc. Đúng như mẹ tôi nói, chị tôi đẹp thật, đẹp
hơn cả lời miêu tả với tất cả niềm âu yếm của mẹ tôi. Các anh chị tôi nhìn thấy
cảnh mẹ và các em sống quá cơ cực đã đi đến quyết định làm thay đổi cuộc đời
tôi. Cuối năm 1952, các anh chị tôi về thăm mẹ lần thứ hai và chuyến bay của
hãng Air France cất cánh từ sân bay Gia Lâm đến Huế có tôi bay cùng...
Những ngày đầu ở Huế, tôi sống chung với chị và anh rể - đôi vợ chồng ca nhạc
sĩ Mộc Lan - Châu Kỳ trong một căn phòng nhỏ phía sau Ty Thông tin Huế dưới
chân cầu Tràng Tiền. Căn phòng quá nhỏ cho một đôi uyên ương quá nổi tiếng ở đất
Thần Kinh. Tôi cứ ngỡ đẹp và hát hay như chị tôi thì phải ở trong lâu đài khuê
các. Vậy mà thực tế lại như thế này ư? Nó khác xa với hình ảnh rực rỡ của chị
tôi khi đứng trên sân khấu cất tiếng hát họa mi làm say mê biết bao tâm hồn mơ
mộng, đa tình, trong đó có cả tôi. Tiếng hát của chị tôi nâng tâm hồn tôi bay
theo cánh diều căng gió trên bầu trời xanh ngắt...
Anh rể tôi - nhạc sĩ Châu Kỳ khá đẹp trai, giỏi nhạc hát hay, không cao lớn
nhưng đứng trên sân khấu không đến nỗi bị khuất lấp bởi sự rực rỡ của chị tôi.
Giọng hát của anh chị tôi là một sự tô điểm cho nhau, khi họ song ca, cảnh vật
trở nên tưng bừng, lòng người rộn rã. Mặc dù lúc đó ở Huế có cặp song ca nổi tiếng
Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết nhưng họ thuộc về một lớp khán giả riêng biệt, khác
hẳn với đôi uyên ương Mộc Lan - Châu Kỳ, họ thuộc về mọi lứa tuổi, mọi thành phần
nhưng trước hết là giới trẻ bởi sự trẻ trung của mình và cũng vì nghệ thuật ca
hát mới mẻ mà họ cống hiến mỗi khi xuất hiện...
Ít lâu sau, anh Long có lệnh gọi nhập ngũ. Anh Châu Kỳ và chị tôi vào Sài Gòn
và họ chia tay nhau. Tôi rất buồn vì cuộc chia ly này. Người chị đẹp như tranh
của tôi bước chân xuống đời cũng vấp váp như bất kỳ cô gái nào, vì yếu đuối, vì
ảo vọng. Thế là Huế để lạc mất con chim họa mi của mình. Liệu có còn ai nhớ đến
bản nhạc Đi chơi chùa Hương (thơ Nguyễn Nhược Pháp, Trần Văn Khê phổ nhạc) khi
duy nhất thời đó chỉ một ca sĩ hát thành công, đó là chị tôi - Mộc Lan.
Mấy năm sau tôi cũng từ biệt Huế vào Sài Gòn. Tôi lại về sống chung với chị tôi
đang trong tình trạng phòng không chiếc bóng. Trên bước đường công danh, chị
tôi đã tiến một bước dài. Khác với Thái Thanh, Tâm Vấn, chị tôi bước lên sân khấu
như một nữ hoàng. Không sân khấu đại nhạc hội nào vắng bóng chị tôi. Các ban nhạc
trên đài phát thanh, các câu lạc bộ, phòng trà, nơi nào cũng muốn có ca sĩ Mộc
Lan hiện diện...”.
Giai thoại cuộc tình Đoàn Chuẩn
- Mộc Lan
Bấy lâu nay, trong giới nghệ sĩ
vẫn lưu truyền có một mối tình thật lãng mạn giữa chàng nhạc sĩ phong lưu Đoàn
Chuẩn và nữ ca sĩ lừng danh Mộc Lan. Chuyện tình này mang đậm phong cách hào hoa
của “Đoàn công tử”. Thực hư như thế nào chỉ những người trong cuộc mới rõ.
Ở đây chúng tôi xin thuật lại như là một giai thoại. Xuất phát của giai thoại
này có lẽ là từ bộ sách Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến (2 tập) do nhạc sĩ
Lê Hoàng Long biên soạn, trong đó có bài viết Gởi gió cho mây ngàn bay nói về
cuộc gặp gỡ và lối tỏ tình ly kỳ của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn với ca sĩ Mộc Lan. Nhiều
bài viết (trên báo chí, trên mạng internet) và cả những lời kể hầu như đều dựa
theo những tình tiết mà nhạc sĩ Lê Hoàng Long đã viết. Người viết bài này cũng
đã từng gặp gỡ những người trong cuộc (Lê Hoàng Long, Mộc Lan, Châu Kỳ) chỉ trừ
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (do ông ở ngoài Bắc và nay đã mất). Cuối năm 2002, khi thực
hiện bài phỏng vấn tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa tại tư gia của ông ở đường
Cách Mạng Tháng Tám (gần Bệnh viện Thống Nhất - ngã tư Bảy Hiền), nhạc sĩ Lê
Hoàng Long có tặng cho người viết bộ Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến, do đó
mới “thắc mắc” chuyện tình cảm giữa nữ danh ca sắc nước hương trời Mộc Lan và “Ông
hoàng nhạc tình” Đoàn Chuẩn.
Như ở bài trước chúng tôi đã từng nói đến, nữ ca sĩ Mộc Lan nổi tiếng cả nước với
bài hát Đi chơi chùa Hương của nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp.
Bài hát này có những đoạn xen kẽ giữa hát và nói thơ cho nên rất dài và kén người
hát. Dạo ấy (đầu những năm 1950), bài hát này hầu như chỉ có Mộc Lan độc diễn.
Nàng là người gốc Hải Phòng nhưng vào Sài Gòn khá sớm (khoảng cuối thập niên
1940), lập gia đình với ca sĩ kiêm nhạc sĩ Châu Kỳ, rồi về quê chồng ở cố đô Huế
sinh sống. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nàng vẫn được mời đi lưu diễn, kể cả ra Bắc
(sau năm 1954, chia đôi đất nước mới cách ngăn sự đi lại giữa hai miền). Và
trong một lần hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà hát Lớn (Hà Nội), giọng ca và sắc đẹp
của nàng đã khiến một anh chàng đẹp trai, tài hoa và phong lưu bậc nhất thời đó
ngây ngất. Chàng chính là nhạc sĩ Đoàn Chuẩn...
Thời ấy ở miền Bắc có những sản vật nổi tiếng
được truyền khẩu và trở thành “ca dao, thành ngữ”: “Dưa La, cà Láng, nem Báng,
tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét” (dưa của làng La, cà của làng Láng,
nem do làng Báng gói, tương do làng Bần làm, nước mắm của hãng Vạn Vân, cá rô sống
ở Đầm Sét mới là món ngon đích thực). Đoàn Chuẩn chính là con của chủ hãng nước
mắm Vạn Vân giàu có nức tiếng ở Hải Phòng. “Cái nết” ăn chơi của Đoàn công tử
cũng là đề tài râm ran từ Hải Phòng đến tận Hà Nội (có lẽ chỉ thua bậc tiền bối
là công tử Bạc Liêu ở trong Nam mà thôi). Chàng có hai thú đam mê, đó là âm nhạc
và...ô tô!. Về âm nhạc, ông từng học đàn guitar với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ và
học guitar Hawaii với nhạc sĩ Wiliam Chấn. Sáng tác đầu tay của ông là ca khúc
Ánh trăng mùa thu (1947) ký tên Đoàn Chuẩn - Từ Linh (kể cả sau này, tất cả tác
phẩm của Đoàn Chuẩn đều ký tên Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Nhiều người cho rằng đến
nay Từ Linh vẫn là một ẩn số, nhưng theo tìm hiểu của người viết thì Từ Linh
tên thật Hà Đình Thâu, vốn là nhiếp ảnh gia và là em ruột một người bạn thân của
Đoàn Chuẩn. Người được nhạc sĩ chia sẻ từng bản nhạc khi vừa viết xong cũng như
trút hết bầu tâm sự về những bóng hồng đi qua đời mình. Sau 1954, Từ Linh vào
Nam và mất năm 1992. Một tình bạn “tri âm, tri kỷ” rất đáng trân trọng. Về ô tô
thì vào thời điểm đó ông có đến 6 chiếc, trong đó có chiếc Ford Frégatte (cả Việt
Nam chỉ có 2 chiếc của ông và... Thủ hiến Bắc kỳ). Tài tử Ngọc Bảo, người cùng
thời với nhạc sĩ đồng thời là giọng hát được coi là hát nhạc Đoàn Chuẩn thành
công nhất từng thú nhận: “Tôi là tay ăn chơi có hạng nhất Bắc kỳ nhưng còn thua
xa người lịch lãm, hào hoa Đoàn Chuẩn”... Đoàn Chuẩn kết hôn từ rất sớm (năm
1942), vợ ông là cô bạn cùng lớp, cùng 18 tuổi - tên Xuyên, đẹp người đẹp nết,
chịu đựng sự hào hoa của chồng cũng như chung thủy chăm sóc ông cho đến cuối đời
một cách rất đáng khâm phục...
Trở lại
với sự kiện sau khi nghe nữ danh ca Mộc Lan hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà hát Lớn
(Hà Nội), “Đoàn công tử” quyết tâm chinh phục người đẹp nhưng thời gian nàng
lưu lại Hà thành quá ngắn, không đủ thời gian cho công tử “xuất chiêu”. Khi Mộc
Lan trở về Sài Gòn thì ít lâu sau chàng cũng đáp máy bay theo vào. Nhưng rồi
qua dọ hỏi, chàng lâm vào tình trạng bẽ bàng khi biết được cành lan kia đã có
chủ, nàng đã là vợ của nhạc sĩ Châu Kỳ. Tuy thế với cách “chơi ngông công tử”,
Đoàn Chuẩn đã đặt một khoản tiền rất lớn cho một tiệm hoa, để mỗi buổi sáng người
đẹp sẽ nhận được một bó hoa hồng tươi thắm mà không hề có tên người gửi tặng.
Suốt 3 tuần đều đặn như thế, Mộc Lan không khỏi xúc động cũng như rất tò mò muốn
biết người tặng hoa “mai danh ẩn tích” kia là ai? Nghĩ hết cách, nàng đành phải
nhờ chủ tiệm hoa chuyển tới người ấy một bức thư cảm ơn với những lời lẽ chân
thành nhưng cũng có những đoạn đầy ẩn ý. Được sự đồng ý của Đoàn Chuẩn, người
chủ tiệm hoa đã tiết lộ tên và địa chỉ của “gã tình si hào hoa” - chính là...
“Ông vua slow” Đoàn Chuẩn vang danh khắp nước. Mộc Lan thật bất ngờ và xúc động.
Đoàn Chuẩn lại tiếp tục gửi tiền vào để tiệm hoa đều đặn tặng hoa cho nàng
trong suốt hai tháng nữa... Rồi một ngày, Mộc Lan nhận được một cánh thư gửi từ
phương Bắc. Trong phong bì không phải là những lời tỏ tình yêu thương mà là một
bài hát. Khuông nhạc được kẻ bằng tay cẩn thận, ca từ được viết nắn nót trên tờ
giấy pơ-luya xanh mỏng tang: “Gởi gió cho mây ngàn bay. Gởi bướm đa tình về
hoa. Gởi thêm ánh trăng, màu xanh lá thư về đây với thu trần gian...”. Và dường
như Đoàn Chuẩn cũng nhận biết đây là mối tình vô vọng nên lời ca càng trở nên
da diết: “Nhưng thôi tiếc mà chi, chim rồi bay, anh rồi đi. Đường trần quên lối
cũ, người đời xa cách mãi. Tình trần không hàn gắn thương lòng...”.
Cũng
theo nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì nhạc sĩ Đoàn Chuẩn còn viết Gởi người em gái (tựa
cũ Gởi người em gái miền Nam) tặng riêng cho... ca sĩ Tâm Vấn (bạn thân của Mộc
Lan). Người viết đã có may mắn được gặp bà Tâm Vấn trong một cuộc triển lãm
tranh ở đường Lê Thánh Tôn (Q.1, TP.HCM), bèn đánh bạo hỏi bà chuyện này. Bà cười
xòa: “Không, ông ấy làm bài này là để tặng cho Mộc Lan, bạn tôi”.
Châu Kỳ
- Mộc Lan dìu nhau vào mộng
Nàng là chim họa mi với tiếng hát lảnh lót, chàng là con bướm đa tình gieo rắc
giọng hát tiếng đàn và cả những mối tình trên chặng đường lưu diễn...
Những năm đầu thập niên 1950, khởi đầu ở Sài Gòn và sau đó là ở Huế nổi lên một
đôi uyên ương rực rỡ trên sân khấu ca nhạc, đó là đôi Châu Kỳ - Mộc Lan.
Người viết có được may mắn là chơi rất thân với nhạc sĩ Châu Kỳ khi ông đã gần...
80 tuổi. Tình bạn vong niên này kéo dài được khoảng 10 năm thì nhạc sĩ mất.
Quen nhau bên những ly bia ở Hội quán Văn nghệ (81 Trần Quốc Thảo, Q.3, TP.HCM
- gọi tắt là 81 TQT), người viết thuộc rất nhiều những ca khúc của Châu Kỳ và
thường hát cho ông nghe (say mới dám hát). Ông ngồi im gật gù, đôi lúc “nhắc tuồng”.
Dạo ấy, nhà ông ở tuốt bên Tân Quy Đông (Nhà Bè). Hằng ngày, ông đạp xe hơn 20
km đến 81 TQT chỉ để uống vài ly bia, nhìn mặt bạn bè, người quen cho đỡ nhớ rồi
lại đạp xe về nhà. Có lẽ nhờ “hoạt động thể thao” này mà sức khỏe của ông khá dẻo
dai, 80 tuổi vẫn còn minh mẫn. Ông cũng lập một “kỷ lục” ngồ ngộ: mất 18 chiếc
xe đạp chỉ vì ham vui với bạn bè. Bạn bè sau đó cũng gom góp mua lại chiếc khác
cho ông, nhưng ít bữa sau... lại mất! (nên họ nhại bài Đón xuân này tôi nhớ
xuân xưa của ông để trêu: “Mất xe này ta sắm xe kia...”). Đến khi nhà ông chuyển
về phường Phước Bình (Q.9) xa đến 50 km ông mới giã từ chiếc xe đạp để chuyển
qua đi xe ôm. Dăm bữa lại thấy ông đi xe ôm đến 81 TQT gặp bạn bè...
Châu Kỳ sinh năm 1923 tại làng Dưỡng Mong (Thừa Thiên-Huế). Cha ông là Châu Huy
Hà, một nghệ nhân ca Huế. Chị ruột là Châu Thị Minh, được xem là nữ minh tinh
duy nhất của miền Trung trong “Ngũ nữ minh tinh” (miền Nam có Phùng Há, Năm Phỉ,
miền Trung: Châu Thị Minh, miền Bắc: Ái Liên, Bích Hợp). Ở Lycée Khải Định,
Châu Kỳ được học nhạc với sư huynh Pière Thiều - giáo sư âm nhạc đầu tiên ở Huế.
Vị này còn dạy cho Châu Kỳ kỹ thuật hát. Dạo đó hầu như chưa có nhạc Việt nên
Châu Kỳ thường hát những bài do danh ca Pháp Tino Rossi thể hiện như J’ai deux
amours, Tant qu’il aura étoiles, Òu vous étiez... đến nỗi bạn bè gọi ông là
“Deuxième Tino Rossi”. Khi người chị Châu Thị Minh lập đoàn ca Huế hiệu Hồng
Thu, Châu Kỳ trở thành ca sĩ chính của đoàn và nghiệp cầm ca khoác lên đời ông
từ đấy.
Năm 1942, đoàn Hồng Thu lưu diễn ở Savanakhet rồi Thakhet (Lào). Ở Thakhet khi
đang diễn vở kịch Hồn lao động thì Châu Kỳ bị mật thám Pháp bắt, đem lên giam ở
Ba Vì. Rời nhà giam trở về Huế, Châu Kỳ bàng hoàng nghe tin mẹ mình bị chết đuối
trong một cơn lũ. Những buổi chiều bên dòng Hương giang ngổn ngang tâm sự, Châu
Kỳ viết nhạc phẩm đầu tay Trở về (1943): “Về đây nhìn mây nước bơ vơ. Về đây
nhìn cây lá xác xơ. Về đây tìm bóng chiều mơ. Mong tìm mái tranh chờ. Mong tìm
thấy người xưa...”. Nhạc phẩm Trở về đã gây một tiếng vang trong giới tân nhạc
lúc đó với âm hưởng buồn man mác, càng nghe càng thấm thía. Từ đó cho đến cuối
đời, Châu Kỳ đã viết khoảng 200 nhạc phẩm. Về ca từ, ông đã viết được những câu
“xuất thần”, chẳng hạn để tả nét đẹp của cô gái Huế, ông chỉ cần 3 câu: “Buổi
trưa em che nón lá, cá sông Hương liếc nhìn ngẩn ngơ, lũ chim quyên ngất ngây từ
xa...” (Huế xưa)...
Tài hoa như thế nên Châu Kỳ cũng là khách đa tình. Từ những cô gái Lào gặp trên
đường lưu diễn, rồi cô tiểu thư con quan thượng thư triều đình Huế (nhân vật
chính trong ca khúc Giọt lệ đài trang) đến cô nữ sinh Đoàn Thị Sum ở Nha Trang
đã vì tình mà quyên sinh bởi bị bố dượng ngăn cấm (mối tình này được nhạc sĩ viết
thành nhạc phẩm Nha Trang, sau này bà Kha Thị Đàng - vợ ông sửa tựa thành Nha
Trang hoài nhớ). Bi kịch này xảy ra khi Châu Kỳ đang đi diễn ở Phan Rang. Nghe
tin cô Sum tự tử, Châu Kỳ cũng quyết hủy mình theo, nhưng bà chị Châu Thị Minh
khóc lóc, khuyên giải nên Châu Kỳ bỏ vào Sài Gòn (năm 1947) để tìm quên.
Sài Gòn chính là nơi định mệnh đã chọn để tạo nên một hiện tượng của làng ca nhạc
thời đó với sự xuất hiện của cặp uyên ương Châu Kỳ - Mộc Lan. Chàng là ca sĩ -
nhạc sĩ tài hoa, nàng là con họa mi giọng ca vang khắp Bắc - Trung - Nam. Chính
nàng đã cho chàng nếm trải hạnh phúc và cũng chính nàng đã cứa vào tim chàng những
vết thương đớn đau tưởng chừng không bao giờ nguôi...
Gần 60 năm sau (tức những năm 2000 - NV), mối tình này được nhạc sĩ Châu Kỳ nhiều
lần kể riêng với người viết. Rằng khi vào Sài Gòn, ông ở đậu nhà nhạc sĩ Mạnh
Phát. Hai người thành lập nhóm “Thần Kinh nhạc đoàn” (sau này là ban nhạc Tiếng
Thùy Dương). Một năm sau, nàng ca sĩ gốc Hải Phòng cũng có mặt tại Sài Gòn. Những
ngày “chân ướt, chân ráo” ở Sài thành, nàng được nữ ca sĩ Minh Diệu (vợ nhạc sĩ
Mạnh Phát) cưu mang. Vậy là tài tử và giai nhân gặp nhau trong căn nhà của một
cặp nghệ sĩ cũng rất ư “tài tử, giai nhân”. Tiếng sét ái tình đến ngay từ cái
nhìn đầu tiên. Rồi chàng dắt dìu nàng đi hát ở các rạp Văn Cầm (gần cầu chữ Y),
Aristo (đường Lê Lai), Thanh Bình (đường Phạm Ngũ Lão), Quốc Thanh (đường Nguyễn
Trãi), Khải Hoàn (đối diện chợ Thái Bình)... Chỉ chưa đầy nửa năm, họ chính thức
trở thành vợ chồng. Rồi chàng đưa nàng về Huế ra mắt gia đình. Cả hai vợ chồng
sau đó được ông Thái Văn Kiểm - Giám đốc Nha Thông tin và Đài Phát thanh Huế là
chỗ thân tình tạo điều kiện cho được hát thường xuyên trên đài với mức lương
3.800 đồng/tháng - một mức lương khá hậu hĩnh vào thời điểm bấy giờ.
Ở Huế, danh tiếng của đôi uyên ương Châu Kỳ - Mộc Lan nhanh chóng nổi như cồn,
mặc dù ở đất Thần Kinh lúc đó cũng có một đôi vợ chồng nghệ sĩ nổi tiếng không
kém, đó là nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết và ca sĩ Ngọc Cẩm (song thân của ca sĩ Hồng
Hạnh bây giờ). Có thể nói đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhưng cũng thật ngắn
ngủi - một kỷ niệm đẹp nhưng đau thương của nhạc sĩ Châu Kỳ...
Khúc ly ca Chàng là nhạc sĩ tài hoa, nàng là ca sĩ nổi tiếng - định mệnh đã đưa họ đến với
nhau, yêu nhau ngay lần gặp đầu tiên.
Rồi họ nên duyên vợ chồng, trở thành đôi uyên ương đẹp đôi và nổi tiếng một thời.
Tiếc rằng, họ đã không dìu nhau đi hết con đường nghệ thuật cũng như đường đời,
để cho nhạc sĩ Châu Kỳ phải đau đớn viết nên Khúc ly ca...
Như chúng tôi đã đề cập ở bài trước, Châu Kỳ và Mộc Lan gặp nhau ở Sài Gòn qua
“nhịp cầu” của cặp vợ chồng nghệ sĩ Mạnh Phát - Minh Diệu. Chỉ ít tháng sau, họ
tổ chức lễ cưới và đưa nhau về Huế ra mắt gia đình chồng. Tại Huế, họ được ông
Thái Bá Kiểm - Giám đốc Nha Thông tin và Đài Phát thanh Huế nâng đỡ, tạo điều
kiện cho họ được biểu diễn thường xuyên trước công chúng cũng như trên sóng
phát thanh với mức lương khá hậu hĩ. Tuy nhiên, cái “tổ uyên ương” của họ chỉ
là “... một căn phòng nhỏ phía sau Ty Thông tin Huế dưới chân cầu Tràng Tiền.
Căn phòng quá nhỏ cho đôi uyên ương quá nổi tiếng ở đất Thần Kinh...” (trích
trong Những trang sách khép mở - Trần Áng Sơn). Phải chăng đó cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cho cuộc hôn nhân của họ mau chóng đổ vỡ?
Sinh thời, nhạc sĩ Châu Kỳ đã từng nhiều lần tâm sự với người viết: Chung sống ở
Huế được 6 năm thì nàng “phải lòng” và đi lại với một người bạn học cũ của Châu
Kỳ - người này là con một bà chúa (hoàng tộc), chủ sòng xóc đĩa ở Kim Long (Huế).
Vì chuyện đau lòng này mà Châu Kỳ đành đưa vợ trở vào Sài Gòn để giấu không cho
gia đình mình biết và cũng để ngăn trở đôi tình nhân. Tuy nhiên, Châu Kỳ vẫn
không ngờ tình địch vẫn bám theo. Ở Sài Gòn, đôi nhân tình vẫn hẹn hò, gặp gỡ
nhau... Lời ong tiếng ve râm ran nên Châu Kỳ quyết theo dõi vợ. Ông nhờ nhà thơ
Đặng Văn Nhân (người đứng ra tổ chức đám cưới cho Châu Kỳ và nàng) chở đi bằng
xe hơi bám theo nàng vào tận Chợ Lớn. Châu Kỳ không đủ can đảm chứng kiến người
đã từng cùng mình “hương lửa mặn nồng” nay lại ở trong vòng tay người khác nên
nhờ ông Đặng Văn Nhân đi bộ theo dõi, còn mình ngồi lại trong xe. Khi ông Nhân
trở ra kể lại sự tình, Châu Kỳ thấy trời đất như sụp đổ, ông tông cửa xe, định
đâm đầu xuống sông tự tử, may nhờ có ông Nhân ôm ghì lại. Người viết hỏi: “Rồi
ông có gặp lại nàng?”. “Có, nhưng mà cũng lâu lắm rồi. Đó là hôm đám tang nhạc
sĩ Lê Thương (1996 - NV), cô ấy đi cùng ca sĩ Tâm Vân đến phúng điếu. Chúng tôi
chỉ chào hỏi xã giao. Không nói chuyện gì nhiều. Chuyện cũ cũng đã vời xa quá rồi!”.
Chuyện trên là do đích thân nhạc sĩ kể với người viết. Ông không nói tên tình địch,
nhưng trong tập sách Những trang sách khép mở, nhà văn Trần Áng Sơn cũng có đề
cập đến nhân vật này. Đó là một người đàn ông tuy lớn tuổi nhưng có ngoại hình
rất thu hút, khuôn mặt quyến rũ, được mọi người kính trọng gọi là Mệ Phủ (“mệ”
là tước hiệu chỉ người thuộc hoàng tộc). Mệ Phủ là trung úy Ngự lâm quân bảo vệ
hoàng cung. “Ông ta thường đến thăm các chị tôi vào những buổi chiều, lúc nào
cũng mang quà cáp cho mọi người, nhất là các chị tôi. Ông tự lái chiếc xe jeep
hiệu “Lăng-Rô-vơ”, tiếng máy nổ rất êm... Mỗi lần ông đến, chị Ngọc tôi mừng rỡ
như muốn reo lên. Cũng dễ hiểu, thường thì quà tặng chị là món quà lớn nhất, đẹp
nhất. Sau đó, ông còn lái xe đưa cả nhà khi thì đi nhà hàng, khi xem phim ở rạp
Morin, cũng có lúc ông đưa cả nhà đi thăm khắp các di tích, dinh thự các đời
vua Nguyễn. Tuy tặng những món quà đắt nhất, đẹp nhất cho chị Ngọc nhưng người
ông chú ý lại là cô em Mộc Lan, con họa mi tuyệt sắc của cố đô Huế. Tôi nhận ra
điều này vì thời gian gần đây anh Châu Kỳ ít đi chung với chị tôi, nhất là
trong những lần có sự hiện diện của vị khách quý tộc... Rồi, anh Châu Kỳ đã
công khai phản đối gia đình tôi về sự hiện diện quá ư đặc biệt của Mệ Phủ. Với
tư cách gia trưởng, anh Long tôi không chấp nhận thái độ của em rể. Cuộc xung đột
đi đến kết quả đổ vỡ. Ít lâu sau, anh Long có lệnh gọi nhập ngũ. Anh Châu Kỳ và
chị tôi vào Sài Gòn và họ chia tay nhau” (Những trang sách khép mở - Trần Áng
Sơn).
Đây là giai đoạn đầy những đau thương, u uất chất chứa trong nhiều ca khúc của
Châu Kỳ: Từ giã kinh thành, Khúc ly ca, Đàn không tiếng hát, Biệt kinh kỳ,
Khuya nay anh đi rồi, Tìm nhau trong kỷ niệm, Hương giang tôi còn chờ, Đừng nói
xa nhau, Tiếng ca đó về đâu (thơ Nguyễn Tiến Thịnh) và nhất là ông đặt lời cho
ca khúc Mưa rơi của anh bạn nhạc sĩ hoàng tộc Ưng Lang, lúc đó ở Huế đi đâu
cũng nghe thanh niên hát: “Mưa rơi chiều nay vắng người. Bên thềm gió lơi. Mơ
bóng ngàn khơi... Mưa rơi màn đêm xuống rồi. Mây sầu khắp nơi. Thương nhớ đầy
vơi... Ai đi như xóa bao lời thề. Thuyền theo nước trôi không về, thấu cùng
lòng ai não nề, riêng chốn phòng khuê... Mưa rơi đìu hiu dưới trời. Đêm dài vắng
ai. Thương nhớ nào nguôi...”.
Nhạc sĩ Ưng Lang (sinh năm 1919, lớn hơn nhạc sĩ Châu Kỳ 4 tuổi), cũng vốn là
chỗ thân thiết với người viết (ông từ trần ngày 17.8.2009 tại TP.HCM). Khi tôi
hỏi ông về chuyện nhạc sĩ Châu Kỳ đặt lời cho bài Mưa rơi, ông nói: “Bài hát
tôi làm lúc đó đã xong cả nhạc lẫn lời. Thế rồi Mộc Lan xa Châu Kỳ mà đi Hà Nội.
Châu Kỳ có tâm sự buồn như vậy cho nên khi thấy bài hát của tôi thì đề nghị cho
thay đổi vài chỗ trong lời hát cho gần với cảnh ngộ của mình! Tôi đồng ý để
Châu Kỳ sửa vài chỗ như thế và đồng ý để Châu Kỳ đứng tên nơi phần lời ca cho
đúng với nguyện vọng về mặt tình cảm riêng tư của anh ấy...”.
Đôi uyên ương rẽ cánh, mỗi người bay đi một ngả kể từ lúc ấy...
Hậu Châu Kỳ - Mộc Lan
Họ đã từng có một thời
gian chung sống rồi chia tay... Dòng đời cuốn mỗi người về một phía, ở đó họ lại
gặp ý trung nhân của riêng mình sau những trải nghiệm về hạnh phúc lẫn khổ đau.
Khoảng năm
1954, đôi uyên ương Châu Kỳ - Mộc Lan từ Huế vào Sài Gòn thì chia tay nhau. Mộc
Lan trở về với nếp sống độc thân. Lúc này Mộc Lan đã rất thăng tiến trong lĩnh
vực ca hát, tên tuổi của cô nổi như cồn. Cô thuê một căn phòng ở khách sạn Viễn
Đông trên đường Phạm Hồng Thái mà hầu như lúc nào cũng nườm nượp khách ra vô. Khách
của Mộc Lan phần đông là người trong giới nghệ thuật: nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ,
họa sĩ, kịch tác gia... Hầu hết họ đến là để liên hệ công việc nghề nghiệp
nhưng cũng có những người tự nguyện đến “trồng cây si” trước người phụ nữ “ngọt
ngào như một thỏi sô-cô-la” (chữ dùng của Trần Áng Sơn).
Trong số những
người ái mộ này có một “ông vua”. Đó chính là nhạc sĩ Hoàng Trọng - Trưởng ban
nhạc Tiếng Tơ Đồng mà Mộc Lan đang là ca sĩ chính. Kể cũng lạ, số phận đưa đẩy
để Mộc Lan luôn là đối tượng say mê của những ông vua, ông hoàng... không ngai.
Hết nhạc sĩ Đoàn Chuẩn “ông hoàng slow” lại đến nhạc sĩ Hoàng Trọng “vua tango”
(chưa kể nhạc sĩ Châu Kỳ cũng xứng đáng được gọi là “vua nhạc trữ tình”). Họ được
giới mộ điệu xưng tụng và thừa nhận là “vua” của một thể loại âm nhạc nào đó, rồi
nghiễm nhiên “lên ngôi” mà không một ai tranh chấp. Hoàng Trọng có nhiều ca
khúc nổi tiếng như Gió mùa xuân tới, Dừng bước giang hồ, Ngàn thu áo tím...,
nhưng những bài hát viết theo điệu tango mới được coi là “thương hiệu” của ông
(Mộng lành, Mộng ban đầu...). Nhà văn Trần Áng Sơn nói về Hoàng Trọng như sau:
“Trong con mắt tôi, anh không phải là mẫu người phụ nữ thích. Người tầm thước
nhưng hơi nặng nề, nước da ngăm bì bì, gương mặt không có cá tính. Tuy nhiên,
tính anh lại rất hiền, củ mỉ cù mì, ít nói, thuộc loại tán gái bằng cách ngồi
lì, chẳng nói và có lẽ cũng chẳng liếc mắt đưa tình. Anh rất thường đến thăm chị
tôi, mỗi lần anh đến, anh ngồi một đống. Đến âm thầm khi về cũng lặng lẽ. Lối
tán này hình như làm chị tôi... hết chịu nổi! Có vẻ như anh không phải là kẻ đi
chinh phục, lại không biết gì về tâm lý phụ nữ và thế là anh bị “knock-out”
ngay ngưỡng cửa nhà tôi” (Những trang sách khép mở).
Điều đáng nói là Châu Kỳ và Hoàng Trọng có một tình bạn thâm giao. Họ từng đứng
tên chung trong vài tác phẩm (nhạc Hoàng Trọng, lời Châu Kỳ) như: Nhắn người
giang hồ, Tiếng nhạc trong sương, Hững hờ (bài Hững hờ chính là món quà tỏ tình
của Châu Kỳ với người vợ sau của ông).
Riêng về Châu Kỳ, sau khi chia tay Mộc Lan, ông sống u uất một thời gian dài. Rồi
số phận run rủi cho ông gặp cô nữ sinh Kha Thị Đàng ở nhà một người bạn. 18 tuổi,
cô hoa khôi của trường Nữ trung học Gia Long đẹp e ấp như một đóa hoa hàm tiếu
(liệt sĩ Kha Vạng Cân là con ông bác ruột, nhưng do cha mất sớm nên được thân
phụ Kha Thị Đàng đem về nuôi, sau tham gia cách mạng). Trong hồi ký Thi Đàng Kỳ
Duyên, bà Kha Thị Đàng (nay đã 73 tuổi) nhớ lại: “Có vài lần tôi gặp anh Châu Kỳ
tại nhà Hương (bạn cùng lớp), anh được ba má và anh Triệu (anh của Hương) rất
quý trọng. Riêng tôi cũng chào hỏi dăm ba câu chuyện nhỏ, dửng dưng và vô tư. Rồi
một ngày định mệnh đã đến, anh tìm gặp riêng tôi và tặng tôi bài nhạc Hững hờ
do anh mới sáng tác (thực ra là sáng tác chung của Hoàng Trọng và Châu Kỳ), với
lời tặng “Trách ai khéo hững hờ...”. Sự xúc cảm đột ngột của đứa con gái mười
tám tuổi đời như một sức mạnh an bài số phận cho tôi sau này. Tôi biết gia
đình, tía má, anh chị đều không vui với tình duyên của chúng tôi nhưng với tình
thương con, thương em, dù rất miễn cưỡng cũng có một tiệc cưới nhỏ trong gia
đình và giúp chúng tôi tổ chức một tiệc cưới khá linh đình với hơn một trăm
khách tại nhà hàng lớn ở đường Tản Đà. Bạn bè, khách yêu nhạc cùng tất cả nghệ
sĩ tân nhạc và cả nghệ sĩ cải lương của thành phố đều có mặt. Đây là một đám cưới
nghệ sĩ được tổ chức trong tình thương mến thương...”.
Là con gái một gia đình vọng tộc họ Kha, tổ tiên gắn bó với vùng đất Sài Gòn -
Chợ Lớn từ thời khai hoang mở cõi, truyền thống gia đình thấm nhuần đạo lý Khổng
Mạnh cho nên việc cô nữ sinh 18 tuổi yêu và quyết định lấy một anh chàng nghệ
sĩ lớn tuổi, dở dang một đời vợ quả là một quyết định quá khó khăn với cô. Sau
khi cưới, cô Đàng phải thích nghi với kiểu sống “lang bạt kỳ hồ” của đời nghệ
sĩ: ăn cơm quán, ngủ nhà mướn. Sáng ngủ, trưa ăn sáng, chiều ăn trưa, tối đi
hát, khuya ăn chiều. Thời gian này, Châu Kỳ vừa viết nhạc, vừa làm ca sĩ, rồi
viết kịch kiêm luôn diễn viên. Rất nhiều nơi mời ông đến hát, nhất là các rạp
chiếu bóng (dạo đó, trước khi chiếu phim, người ta thường tổ chức chương trình
phụ diễn văn nghệ: hát vài bài tân nhạc hoặc diễn một vở kịch ngắn). Rồi Châu Kỳ
thành lập đoàn Cổ kim hòa điệu Tiếng Thùy Dương. Có thể nói trên sân khấu Sài
Gòn, Châu Kỳ là người đầu tiên đem các nhạc cụ cổ truyền như đàn tranh, đàn bầu,
đàn cò, đàn nguyệt hòa tấu cùng guitar, piano, violon... Người giới thiệu
chương trình (bây giờ gọi là MC) cho Tiếng Thùy Dương chính là Kha Thị Đàng, cô
luôn xuất hiện trong trang phục toàn trắng: bộ áo dài lụa trắng, tay mang găng
trắng, đi giày trắng... hết sức duyên dáng.
Khi Châu Kỳ bước vào thời kỳ đỉnh cao cũng là lúc ông lao vào những cuộc rượu
thâu đêm suốt sáng với bạn bè và những người đẹp. Lúc đó, bà Kha Thị Đàng như sống
ẩn mình, không thường xuất hiện bên ông nữa, cũng “không thèm” ghen với những
bóng hồng luôn vây quanh ông. Để không bị mang tiếng là sống nhờ vào danh tiếng,
tiền bạc của chồng, bà xin vào làm kế toán trong nhà máy giấy Tân Mai (Cogivina
- Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Đồng Nai)... Nhạc sĩ Châu Kỳ tuy đang “hư” như vậy
nhưng vẫn có những điểm dễ thương: mỗi đêm dù về khuya đến mấy ông cũng vẫn
mang về một món ngon cho vợ con. 6 giờ sáng ông chở vợ ra trạm đợi xe đến rước
bà đi làm, 4 giờ rưỡi chiều lại có mặt tại trạm đón bà về hoặc chở vợ ra xa lộ
hóng mát...
Những xa hoa, phù phiếm cũng tan sau ngày 30.4.1975, bà Kha Thị Đàng lại phải vừa
nuôi 4 đứa con (3 trai, 1 gái) vừa “chăm sóc” chồng. Khi những khó khăn của cuộc
sống qua đi thì ông bà cũng đã ở vào ngưỡng xế chiều, người viết vui mừng khi
thấy họ luôn tay trong tay một cách hạnh phúc. Ông vẫn minh mẫn sáng tác cho đến
cuối đời... Ông nằm liệt giường gần 2 tháng, khi người viết cùng ông Nguyễn Tiến
Toàn (chủ doanh nghiệp xe lăn tay Kiến Tường) đến thăm, ông còn bảo bà mua bia
về đãi khách... 6 giờ sáng ngày 6.1.2008, người viết đang leo đến lưng chừng
núi Bà Rá (khi đi ghi nhận giải việt dã Chinh phục đỉnh cao Bà Rá) thì nhận được
điện thoại của bà Kha Thị Đàng: “Nguyên ơi, anh Kỳ đã ra đi lúc 4 giờ sáng nay
rồi!”. Tôi ngồi sụp xuống, không thể leo núi được nữa...
Hà Đình Nguyên
Thêm lời của người chuyển :
Tôi được biết, vào cuối thập niên 60 (68-69), Bà Mộc Lan lấy
Trung Tá Đẩu. Tr/Tá Đẩu là chánh văn phòng của Tướng Dưong Văn
Minh (TT 1 ngày, cuối cùng của VNCH), sau 75 Tr/Tá Đẩu bị đi hoc tập....không
biết cuộc sống của Bà Mộc Lan ra sao, cho đến khi tôi đọc bài này. H.Đ.Nguyen
Chế Linh và nhạc sĩ Châu Kỳ tại Sài Gòn
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2015 lúc 5:30pm
9/01/2015 19:34 GMT+7Tiếng chim đã ngừng hót trong bụi mận gai - Nữ nhà văn Colleen McCullough,
tác giả của tiểu thuyết kinh điển 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' vừa dừng
bước trần ai ở tuổi 78.
Nhà văn Colleen McCullough.
Colleen McCullough đã qua đời ở
tuổi 78 tại bệnh viện ở Norfolk Island, một hòn đảo nhỏ thuộc Thái Bình Dương
vào chiều ngày 29/1 sau khi gặp hàng loạt vấn đề về sức khỏe cũng như thị lực.
Thông tin này đã được nhà xuất bản HarperCollins tại Úc xác nhận.
http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2015/01/29/19/20150129193035-1-20-.jpg">
| Colleen khởi nghiệp với chiếc máy chữ bà mua từ tiền mẹ cho |
"Thế giới sẽ trở nên thiếu màu
sắc nếu thiếu Col.”, HarperCollins viết trong một thông báo vừa được phát đi.
Những năm cuối đời, dù gặp vấn đề nghiêm trọng về thị lực nhưng Colleen
McCullough vẫn ham sáng tác và xuất bản sách bằng cách đọc chính tả. Năm 2013,
bà vẫn xuất bản cuốn Bittersweet.
Sinh năm 1937, trước khi trở
thành một tiểu thuyết gia, Colleen McCulolough từng làm tại một bệnh viện ở
Sydney. Bà cũng từng có 10 năm làm nghiên cứu sinh tại trường Y Yale của Mỹ.
http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2015/01/29/19/20150129193035-2-17-.jpg">
| Colleen sinh năm 1937 tại Wellington, New South Wales, Australia |
Tiểu thuyết đầu tay, Tim ra mắt năm 1974 khi Colleen McCulolough 37 tuổi.
3 năm sau đó, ở tuổi 40, bà nổi tiếng toàn cầu với cuốn tiểu thuyết vô cùng ăn
khách, 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' cùng 30 triệu bản bán ra trên toàn cầu.
'Tiếng chim hót trong bụi mận gai'
được coi là tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Colleen
McCulolough, đưa bà trở thành một trong những tác gia người Úc đầu tiên thành
công trên văn đàn thế giới. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài gần 40 năm,
Colleen McCulolough đã xuất bản 25 tiểu thuyết.
Hai diễn viên Rachel Ward và Richard Chamberlain trong bộ phim The Thorn Birds (1983). |
|
'Tiếng chim hót trong bụi mận gai'
nổi tiếng đến nỗi nó đã được chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách
cùng tên năm 1983 và nhanh chóng trở thành một trong những bộ phim ăn khách nhất
mọi thời đại cùng 4 giải Quả cầu vàng cho series phim truyền hình hay nhất (trong
tổng số 8 đề cử năm 1984). Đây cũng là bộ phim truyền hình
được khán giả Việt Nam rất yêu thích khi được công chiếu vào đầu thập niên 1990
với sự tham gia diễn xuất của Richard Chamberlain (vai Cha Ralph) và Rachel Ward
(Meggie).
Linh Anh - Theo The Guardian,
ABC
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=6&cad=rja&uact=8&ved=0CDcQFjAF&url=http%3A%2F%2Fvietnamnet.vn%2Fvn%2Fvan-hoa%2F219350%2Ftieng-chim-da-ngung-hot-trong-bui-man-gai.html&ei=4LHKVMnHGMH98QWIsoLQAQ&usg=AFQjCNEcsz0hRQlf3kFwXhwS9sRjqSPvLw&sig2=a31a_rwEz-D-3VGLTaM8KQ&bvm=bv.84607526,d.dGc - Tiếng chim đã ngừng hót trong bụi mận gai - VietNamNet
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0CBsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fgiaitri.vnexpress.net%2Ftin-tuc%2Fsach%2Flang-van%2Ftac-gia-tieng-chim-hot-trong-bui-man-gai-qua-doi-3140941.html&ei=4LHKVMnHGMH98QWIsoLQAQ&usg=AFQjCNH9T_NOJMRCivGF9GjWKwQiW5dAGQ&sig2=g4LqqySpxvt7d7wtz54ynA&bvm=bv.84607526,d.dGc - Tác giả 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' qua đời - Giải trí ...
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Feb/2015 lúc 6:12pm
Giã biệt
nhạc sĩ bài hát Em Tôi –
Lê Trạch Lựu
https://www.youtube.com/watch?v=bB1iUsDDwG4&index=1&list=RDbB1iUsDDwG4 - https://www.youtube.com/watch?v=bB1iUsDDwG4&index=1&list=RDbB1iUsDDwG4 - Em tôi - Nhạc và Lời: Lê Trạch Lựu - Ca Sĩ: Duy Trác - Thực hiện PPS: Doanh Doanh
https://www.youtube.com/watch?v=bB1iUsDDwG4&list=RDbB1iUsDDwG4 -
*** ******
EM TÔI và Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - Biên sọan: Phan Anh Dũng |
|
|
|
Được tin buồn từ Nhạc sĩ Trần Quang Hải: Nhạc sĩ LÊ TRẠCH LỰU
đã qua đời tại Paris ngày 6 tháng 2, 2015, hưởng thọ 84 tuổi. Tang lễ
được cử hành trong vòng thân mật gia đình với sự hiện diện của một số
thân hữu và văn nghệ sĩ tại Paris ngày 11 tháng 2, 2015.
Nhạc
sĩ Lê Trạch Lựu sáng tác bản nhạc nổi tiếng EM TÔI, cảm hứng có thật từ
một cuộc tình lãng mạn với một thiếu nữ tên Kim Phượng năm 1946. Cuộc
tình không thành khi Ông rời quê hương đi du học ở Paris năm 1951, cùng
lớp với thi sĩ Nguyên Sa Trần Bích Lan và thi sĩ, đạo diễn Hoàng Anh
Tuấn ... Bản nhạc "Em Tôi" Ông sáng tác ở Pháp rồi chép tay gởi về Việt
Nam, được Nhà Xuất Bản Tinh Hoa chọn và ấn hành năm 1955 (bản nhạc Tinh
Hoa số 445). Tôi hân hạnh
được nói chuyện điện thoại nhiều lần với Ông, sau khi Ông gặp một số anh
chị em Cỏ Thơm trong buổi họp mặt "Thu Tao Ngộ" ở Paris năm 2009. Ông
mong ước được sự hỗ trợ để phổ biến một số nhạc phẩm của Ông. Nhờ vậy mà
tôi được biết thêm: NHỚ, TÌM, KHI EM YÊU, CÀNH MAI TÓC NGẮN ... và thực
hiện một trang về Ông ở website Cỏ Thơm cuối năm 2009: http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=809&Itemid=47 - http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=809&Itemid=47
Tuy
bị nhiều thứ bệnh trong vòng 10 năm nay nhưng giọng nói Ông rõ ràng,
vui vẻ và có chút "tếu" trong đó. Ông vẫn thích học hỏi, tìm hiểu về kỹ
thuật hòa âm, dùng keyboard v v Mỗi lần nói chuyện, Ông luôn nhắc khéo
về mong ước phát hành một CD. Rất tiếc chuyện ấy chưa thành thì Ông đã
ra đi. Ông cũng hay nhắc vài kỷ niệm đẹp thời niên thiếu và thời Ông làm
phóng viên cho một hãng thông tấn của Pháp: chụp hình, quay phim nhiều
nơi trên thế giới. Nhạc Sĩ Trần Quang Hải đến thăm Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu (10/2009)
Xin
được dâng một đóa hoa hồng để tưởng niệm Nhạc sĩ "Em Tôi" nhân ngày Lễ
Valentine ở Hoa Kỳ. Kính mong Ông được an bình vĩnh cữu trên Thiên Đàng.
Cảm ơn Ông đã dâng cho tân nhạc Việt những tuyệt tác phẩm để đời.
Mời quý vị thưởng thức: EM TÔI: http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-TN.mp3">http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-TN.mp3 - Tuấn Ngọc hát
NHỚ: https://www.youtube.com/watch?v=B_uAdsRF-3o">https://www.youtube.com/watch?v=B_uAdsRF-3o - Tâm Hảo hát http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LeTrachLuu-TamHao.mp3">http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LeTrachLuu-TamHao.mp3
Phan Anh Dũng (Richmond, Virginia USA) *** Ghi chú: Trang này được hoàn tất cuối năm 2009 và bổ túc 14/2/2015 ***
Lê Trạch Lựu - Nguyễn Đình Toàn Khi " http://cothommagazine.com/nhac1/TiengHatLenhDenh-TuPhac-LuongNgocChau-AnhNgoc.mp3 - Tiếng Hát Lênh Đênh " của Lương Ngọc Châu và Tử Phác được hát ở Hà Nội, thì cùng một lúc, ở đấy, người ta cũng được nghe " http://cothommagazine.com/nhac1/KhucNhacChieuMo-NgocBich-MaiHuong.mp3 - Khúc Nhạc Chiều Mơ " của Ngọc Bích, " http://cothommagazine.com/nhac1/TrachNguoiDi-DanTruong-SiPhu.mp3 - Trách Người Đi " của Đan Trường, " http://cothommagazine.com/nhac1/TiecThu-%20HoangDuong-KhanhLy.mp3 - Tiếc Thu " của Hoàng Dương, "Em Tôi" của Lê Trạch Lựu. Lương
Ngọc Châu và Lê Trạch Lựu có một điểm giống nhau, họ đều học nhạc và
bắt đầu sáng tác tại Việt Nam, sau đó đi Pháp, rồi không thấy đâu nữa. Thực
ra, sau Em Tôi, Lê Trạch Lựu còn một sáng tác nữa đã được các ca sĩ đem
hát trên các đài phát thanh, cũng rất hay, nhưng hình như nó đã bị cái
bóng của Em Tôi che khuất, nên ít người biết, và cũng chưa thấy một ca
sĩ nào tìm hát lại, đó là bài: Nhớ Rừng thu ấp hơi sương Say ru lòng người nhớ tới quê hương Đàn vương bao nhớ thương Sầu dâng mắt ai bóng hình thôn vắng. Đời say gió muôn phương, Tôi mơ thời gian Chiều tắm ánh nắng tàn Dần khuất bóng xóm làng Diều khoan thai sáo ngàn, Cùng than van ân tình cô lái xinh Nhớ ngày xưa ngày tôi ra đi Nước mắt em tôi thắm thiết trên mi chia ly. Nhớ nhung còn lắm đôi khi còn thắm câu thơ năm xưa Xa vắng bao ngày tháng Mùa thu lướt êm êm Tôi nghe hồn người thức giấc cô miên Tìm đâu thấy bóng em? Đàn tôi nhớ nhung một thời trinh trắng Đừng mong đóa hoa tan Nơi đây trầm tư Thầm nhớ tới dáng người Đời đã vắng tiếng cười Làn môi hương phai rồi Buồn nhớ tới dáng người yêu áo xanh
Tình ca được viết nhiều nhất vào giai đoạn được gọi chung là “nhạc tiền chiến” của chúng ta. Nhưng đây không phải là thời người ta hạnh phúc. Trái lại nữa là đằng khác. Chiến tranh đã lấy đi mọi thứ. Tình
ca không còn chỉ là những lời tỏ tình, mà cùng một lúc, người ta còn
bầy tỏ cả lòng yêu đời, tiếc đời, phản ứng trước những tang thương, đe
dọa, người ta không làm gì được. Còn có thể coi là những lời minh oan vô
tội trước trời đất nữa. Nguyễn Đình Toàn (trích Bông Hồng Tạ Ơn. Tập I) Ghi
chú: Tiếng Hát Lênh Đênh: Anh Ngọc hát- Trách Người Đi: Sĩ Phú hát -
Khúc Nhạc Chiều Mơ: Mai Hương hát - Tiếc Thu: Khánh Ly hát
Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - 1953 Bấm vào đây để nghe: http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-TN.mp3 - - Tuấn Ngọc hát "Em Tôi" http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-ThanhTranggioithieu-CKVN_Aug_22_09.mp3 - - Nhạc Sĩ Thanh Trang nói về "Em Tôi" - trích trong chương trình Ca Khúc Việt Nam (VOA -22 tháng 8, 2009) Lê Trạch Lựu viết về "Em Tôi" 05/1946
– Năm 1946 là năm tôi đi trại hè Sầm Sơn, đi với đoàn Hướng Đạo, cùng
nhiều đoàn khác, tập trung tại sân ga Hà nội. Tôi thoáng thấy một cô gái
xinh xinh, dáng người phong nhã, có đôi mắt đẹp tuyệt vời. Không hiểu
sao tôi thấy tôi như choáng váng, má tôi nóng bừng như lên cơn sốt; lần
đầu tiên tôi thấy tôi có cái cảm giác lạ lùng này. Nhà đoàn tôi « đóng
trại » to lớn, rộng rãi, đó là những biệt thự nghỉ mát của bọn Pháp
thuộc điạ bỏ lại, trước nhà là bãi biển mênh mông, sau nhà có một cái
giếng. Trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy, đội nón, dưới nắng trang trang
rũ áo, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn cô ta. Thỉnh thoảng cô nàng ngửng đầu
lên, vành nón che đôi mắt, nhưng tôi biết là cô ta đang nhìn tôi. Thú
thật, tim tôi đập thình thình. Chao ơi, yêu đương là như vậy hay sao?
Đây là một rung động đầu tiên, nào đâu tôi có biết cảm giác này từ thuở
ra đời. Về Hà nội tôi tìm nhà cô ta, vì có duyên nên tìm được ngay,
cô ta ở gần nhà tôi. Bây giờ ta phải tìm biết tên cô ta nữa! Chiều nào
tôi cũng đi qua nhà cô ta, để nhìn vào nhà, tìm lại đôi mắt đẹp. Tôi
thấy có nhiều cậu trai cỡ bằng tuổi tôi đi qua đi lại trước cửa nhà, như
tôi. Lúc đó tôi cũng thấy hơi hơi lo… sợ mất ! Nhưng may cho tôi,
hồi ấy có một chú bé đi theo tôi hoài, hỏi ra là chú Mỹ, em cô Phượng.
Trời ơi là trời, đất ơi là đất! Chúng tôi đi chơi với nhau. Một hôm, tôi
viết một lá thư và mạnh dạn tôi hăng hái ra đi, nhưng chiều hôm đó tôi
không thấy cô ta ra đứng ngoài cửa hóng mát. Rồi chiều hôm sau, chiều
sau nữa. Thế rồi một chiều nào đó, tôi lại thấy cô ta đứng rũ tóc bên
thềm. Tìm đủ nghị lực, tôi sán gần cô ta, tay đưa lá thư, miệng lắp
bắp một câu: « Phượng… Phượng cầm… cầm lấy cho… cho… tôi… tôi… lá thư
này… » Rồi xong, tôi cắm đầu đi mất, không dám quay lại, sợ nhìn thấy
hoặc cô ta xé lá thư, hoặc quẳng xuống lề đường… tôi sẽ mắc cỡ … Để
đỡ cho cái nặng nề đó, tôi tìm cách nói khéo với chú Mỹ, chú bằng lòng
ngay. Thế là chú thành con chim xanh của tôi. Chiều nào chú cũng để một
lá thư lên bàn. Bẩy tháng trời tôi viết đều đều, gần bẩy chục lá thư mà
vẫn không thấy trả lời. Tôi đau khổ quá không biết cô ta có yêu tôi
không, tại sao cô ta không trả lời tôi, dù thuận dù không… Lúc bấy giờ
tôi mới biết là tình yêu, thế nào là đợi chờ, là có nhiều đau khổ. Héo
hon con người. Thế rồi một hôm chú Mỹ tất tưởi chạy đến nhà tôi, đưa
cho tôi một lá thư, hôm đó là một tuần trước ngày kháng chiến toàn
quốc, tôi bồi hồi cầm lá thư, ở một góc có đề : Xin TRẠCH LỰU đừng giận
KIM PHƯỢNG mà xé lá thư này…, tôi mở ra, đọc từng hàng chữ đều đều, tròn
tròn, vuông vắn. Phượng nói yêu tôi từ ngay lúc đầu… nhưng muốn thử
lòng tôi để xem tôi có phải là người đứng đắn rồi nói rằng ngày mai
Phượng đi tản cư… ở Hà Ðông, cách làng tôi mấy làng… Tôi bàng hoàng như
tỉnh một giấc mơ lâu dài chờ đợi từ bao nhiêu giờ, bao nhiêu phút. Thế
là hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà nội qua làng tôi tới làng tạm trú của
gia đình nàng, chúng tôi đi chơi dọc dòng sông Nhuệ cùng chú Mỹ, mẹ của
Phượng, bà cụ nhìn chúng tôi âu yếm từ đằng xa … đi chơi cùng nhau hết
cả buổi chiều, tôi không dám cầm tay Phượng, tôi ân hận tới bây giờ. Tôi
trở về thành, thế rồi chiến tranh, ba năm sau tôi sang Pháp. Không rõ
Phượng ở đâu, tôi vẫn nhớ Phượng hoài. Một hôm trong trường cái nhớ nó
làm tôi điên đầu… trong giờ Etude cuối lớp có anh chàng TRẦN BÍCH LAN
NGUYÊN SA đang đọc Socrate hay sao, bên phải gần cửa sổ HOÀNG ANH TUẤN…
không biết hắn làm gì, chắc đang làm thơ, tôi cầm cây đàn bấm bấm… hai
ngày sau thành bài EM TÔI… cả nhạc lẫn lời. Chủ nhật ra Paris, đường
Volontaires, sau bữa cơm trưa, quây quần với nhau, trong đó có Anh Tuấn,
Thi Liên, Thoa em gái Nguyên Sa về sau lấy Trần đình Hòa, Bội Liên đã
nhận được bài tôi gửi tới trường, hồi đó cô ta có yêu tôi, nhưng tôi
tránh vì cô ta con nhà giầu… , Bội Liên dạo nhac trên mấy phím ngà… Nhạc
EM TÔI vang lên khắp cả căn phòng, tôi tê tái nghe nhạc tôi, tôi thấy
là lạ, chưa quen… vì mỗi lần tôi đã nghe trong tôi hay nghe cây đàn bên
tôi nói với tôi, bây giờ những ngón tay ngà chạy qua phím đàn đến với
tôi, tôi như ngỡ ngàng đi vào cơn mê… Thế rồi tôi chép lại nhạc và lời trên trang giấy học trò, trên những giòng như đã kẻ nhạc, tôi gửi tới nhà xuất bản TINH HOA… Những tháng năm qua… ** Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu nói chuyện ở buổi họp mặt Thu Tao Ngộ - Paris 2009 **
KHI
«EM TÔI» ĐƯỢC NỔI TIẾNG , TÔI KHÔNG ĐƯỢC SỐNG CÙNG VỚI THỜI ĐẠI ĐÓ VÌ
TÔI Ở XA , TÔI KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN RÕ RÀNG THẾ NÀO LÀ MỘT BẢN HÁT ĐƯỢC
NGƯỜI ĐỜI YÊU CHUỘNG… TRAI HAY GÁI, AI AI CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH CÓ MỘT
NGƯỜI YÊU , HAY MÌNH ĐƯỢC YÊU , HAY MÌNH TƯỞNG TƯỢNG CHÍNH MÌNH LÀ CÔ
GÁI ẤY , CÒN CẬU TRAI ĐƯỢC YÊU CÔ GÁI DỊU DÀNG, THƠ NGÂY, ÂU YẾM , MƠ
MÀNG CHO NÊN AI AI CŨNG HÁT… CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH… CŨNG CẦM LẤY CÂY ĐÀN… Rồi một hôm tôi tìm ra điạ chỉ của Phượng tôi viết về cho chú Mỹ, Mỹ trả lời tôi: «
Em nhận được thư anh, thế là anh vẫn mạnh, chị Phượng đợi anh trong một
năm dài, thấy anh không về, tưởng anh chết, rồi ba năm sau chị Phượng
để tang anh. Nhiều người đến hỏi chị, chị chỉ lắc đầu. Chị vẫn đợi anh,
nhưng hôm qua chị Phượng đi lấy chồng, chị đã 26 tuổi rồi, ngày ngày
thầy me thúc dục. » Thế là tôi cắt đứt, để Phượng đi lấy chồng cho
êm thấm, có bổn phận với chồng với con. Tôi không muốn ám ảnh Phượng nữa
để cho nàng yên phận. Sáu chục năm rồi vẫn nhớ em, Nhớ ai rũ tóc đứng bên thềm, Nhớ người giặt áo bên bờ giếng, Nhớ nhiều, nhớ mãi, mãi không quên… Sáu
chục năm sau, tôi được biết tin một người bạn cùng trường năm xưa, anh
Nguyễn Thiệu Giang viết cùng một tờ báo với tôi hồi đó cùng Thanh Nam,
tôi có nhờ anh ta đến căn nhà cũ, anh nói Phượng không còn ở đấy nữa.
Nhưng có cho tôi số phone, tôi gọi Phượng, đầu giây Phượng trả lời, tôi
nói là tôi, cô ta nhắc đi, nhắc lại ba lần, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, anh LÊ
TRẠCH LỰU hả, như không tin là có thật, khi tôi bảo là tôi thì cô ta òa
ra khóc. Nói chuyện cùng nhau hơn nửa tiếng, sau những lúc ân cần
hỏi han. Phượng có nói, anh ấy có theo đuổi Phượng trong bốn năm trời,
Phượng bảo Phượng có người, anh ta cứ đeo đẳng, Phượng có nói với anh ấy
chuyện Phượng và anh. Anh ta chịu là trong lòng Phượng có một người.
Tôi xin thành thật cảm ơn Phượng, tình yêu Phượng cho tôi. những năm đợi
chờ, đau khổ. Một lúc sau tôi hỏi Phượng: «Thế Phượng còn giữ mấy lá
thư ấy không? » Tôi muốn tìm hiểu văn thời 16 tôi viết ra sao chắc là
văn lủng củng lắm. Phượng trả lời tôi: « Em để vào trong một cái
hộp, nó đi theo em tất cả mọi nơi, trong đó có cả tập ảnh chụp hồi đó,
nhưng chồng em thấy lúc nào em cũng buồn, nói với em nên giấu nó đi một
chỗ, khi nào vui thì hãy mở ra. Thế là ông ta bỏ vào đâu không rõ, mấy
năm sau ông ta mất, tìm kiếm khắp nhà không ra. Em chỉ nhớ anh viết dài
lắm… viết dài lắm… Hôm nọ em muốn tìm cái hình anh hồi đó, mà không thấy
đâu. Tủi thân, em lại ngồi khóc, may rằng con, cháu em bữa đó tụi nó
không có nhà…
Thu Tao Ngộ Tháng mười năm 2009 LÊ TRẠCH LỰU
**
Thu Tao Ngộ Paris 2009 trong hội trường và du ngoạn sông Seine với một
số văn nghệ sĩ: Thi sĩ Đỗ Bình, Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Nguyễn
Thị Ngọc Dung ... **
> http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi.pps - - > http://www.youtube.com/watch?v=PJpgIEMHCvk - - Em Tôi (youtube - Đàm Trung Phán thực hiên với pps của Doanh Doanh) qua tiếng hát Duy Trác và Hồng Vân diễn ngâm bài thơ "Một Mùa Đông" của Lưu Trọng Lư Mời quý vị nghe một số nhạc phẩm của Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - bấm vào tên người trình bày: Em Tôi - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-QT.mp3 - - Quang Tuấn http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-NgocBao.mp3 - - Ngọc Bảo http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-MaiHuong.mp3 - - Mai Hương (với phụ họa của Ban Tiếng Tơ Đồng) Em Tôi - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmToi-LTL-VT.mp3 - - Vĩnh Tâm (guitar, nhạc không lời) Nhớ - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LTL-NL.mp3 - - Ngọc Lan http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LTL-NhatTruong.mp3 - - - Nhật Trường http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LeTrachLuu-TamHao.mp3 - - Tâm Hảo Tìm - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Tim-LTL-NL.mp3 - - Ngọc Lan Khi Em Yêu - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/KhiEmYeu-LTL-HL.mp3 - - Hải Lý Bấm vào tên người trình bày để nghe: Em Lễ Chùa Này - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/EmLeChuaNay-LTL-TT.mp3 - - Thiên Trang Cành Mai Tóc Ngắn Ngày xuân sáng xanh như lúa non đang lên đòng tôi thấy tôi ngập ngừng lên xứ mơ Màu mây sáng tươi, vui nắng vui,vui như chiều quen biết nhau một lần ghi trăm năm Cành mai năm ấy xuân xanh mười lăm Màu yêu thơm ngát tóc em cài hoa Cành mai hoa trắng áo em lả mây Theo em, theo em khi tan trường về Nhiều đêm thanh vắng có nhắn ,có xin ánh sao sa Em ơi, em ơi cho nhau ngọt ngào, Nhìn mây bay qua sông Ngân xa quá, xa hơn trời xa Anh yêu sao mai thêu hoa cành gầy Từ khi xa cách có mấy mùa hoa uơm tình thơ ngây Ngồi chân biên giới hướng nắng bên phía kia sông Dòng đời xanh tươi buông trôi như mây trong tranh mơ hồ câu yêu đêm trăng chiều nào Ngày xuân sáng xanh đưa gió hanh qua đô thành tôi thấy tôi ngập ngừng lên xứ mơ Màu mây sáng trong như giấc hoa thơm ngọt ngào khi thấy nhau bận đầu trên sân ga Cành mai hoa trắng áo em vờn mây Mùa xuân năm ấy mắt em hồ thu Mùa yêu thơm ngát tóc em cài hoa Theo em, theo em, theo em chiều chiều ...
Bấm vào tên người trình bày để nghe: Cành Mai Tóc Ngắn - http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/CanhMaiTocNgan-LTL-LH.mp3 - - Lưu Hồng
Em tôi: Lê Trạch Lựu và mối tình theo mãi một đời > Bấm vào đây để nghe: " http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/music_em_toi_11jan11_voa.mp3 - - Chương Trình Phát Thanh " - Lan Phương - VOA thực hiện "Em
tôi" ra đời đầu năm 1953 đến nay vẫn tiếp tục đem đến cho người nghe
những xúc cảm như gần, như xa của một thời tưởng như đã thuộc về dĩ vãng
nhưng vẫn tiếp tục làm rung động trái tim những thính giả trẻ tuổi ở
thế hệ bây giờ. Đằng sau ca khúc lãng mạn này là một cuộc tình mang theo
từ thuở vừa biết yêu cho đến tuổi xế chiều khi nhạc sỹ sáng tác "gặp"
lại người xưa qua đường dây điện thoại viễn liên. Hôm nay nhạc sỹ Lê
Trạch Lựu nói về câu chuyện tình đã đưa chúng ta đến với "Em Tôi", mời
quí vị cùng theo dõi với Lan Phương sau đây. Lan Phương - VOA (Thứ Ba, 11 tháng 1 2011)
Lê
Trạch Lựu rời Việt Nam thời loạn ly năm 1951, bỏ lại sau lưng một mối
tình, không hiểu người yêu của mình ở phương nao khi mà khói lửa, chiến
tranh, tản cư, ly tán đã đẩy mọi người vào tình huống chẳng biết những
người thân của mình còn sống hay đã chết. Ở Pháp,
theo học nốt bậc trung học rồi vào ngành điện ảnh và làm truyền thông,
ông vẫn nhớ hình bóng cũ, cô thiếu nữ tên Phượng mà ông đã gặp lần đầu
trong một chuyến đi cắm trại của đoàn hướng đạo ở Sầm Sơn. Chiều nào,
qua khung cửa sổ, ông cũng nhìn thấy cô gái ngồi giặt áo bên bờ giếng,
người cao, trắng trẻo, đôi mắt thật đẹp đến nỗi chàng thanh niên mới lớn
thấy ngây ngất như lên cơn sốt rồi mới chợt nhận ra: "chao ơi tình yêu
là thế hay sao?" Trở về Hà Nội, ông may mắn tìm
biết được địa chỉ của người mà ông say đắm. Liên tiếp trong 3 tháng trời
ông viết cho cô Phượng gần 70 lá thư mà không được trả lời. Cậu em trai
của cô Phượng, chú Mỹ đóng vai chim xanh đưa thư cho ông. Cho đến một
ngày ông được người trong mộng hồi âm, rằng cô rất yêu ông nhưng muốn
thử lòng xem ông có phải là người nghiêm túc hay không, và lúc đó là 1
tuần lễ trước ngày toàn quốc kháng chiến. Sau đó thì gia đình cô Phượng
tản cư về Hà Đông. Từ Hà Nội ông tìm đến thăm cô Phượng. Thân mẫu của
hai người cũng là chỗ quen biết và hai người đã cùng nhau đi chơi suốt
buổi chiều bên ven sông, dưới sự... giám sát của cậu em cô Phượng! Hạnh
phúc, đến nỗi hai người nói chuyện gì ông không thể nhớ, chỉ nhớ rằng
hạnh phúc như chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy, duy có một điều ân
hận, là ông chưa hề nắm lấy bàn tay của người yêu, dù chỉ một lần. Rồi chiến tranh, gia đình Phượng tản cư, mất liên lạc, ông sang Pháp. Tháng
ngày qua, ở Pháp, cũng là thời gian mà nỗi nhớ quay quắt đã là nguồn
suối trào dâng để một ngày, bên những bạn bè như Nguyên Sa, Hoàng Anh
Tuấn, ông bấm lên phím đàn, đưa "Em Tôi" vào đời. Ông
cho biết: "Mối tình đối với cô theo tôi suốt đời, vì rằng đó là mối
tình đầu, mà mình không biết nhau ở đâu, không biết người ta sống hay
chết, tôi nhớ đến cô và tôi đã làm bài 'Em Tôi'." Bẵng
đi một thời gian dài, một hôm tình cờ tìm lại được địa chỉ ở Hà Nội của
Phượng, ông viết thư về cho cậu em thử hỏi thăm, thì được hồi âm rằng
chị của cậu chờ đợi mãi, bao nhiêu đám hỏi mà không nhận lời, sau này
ngỡ ông đã chết cô lập bàn thờ, để tang ông 2 năm, nhưng sau vì gia đình
thúc giục và đã 26 tuổi, phải có con, cô đành đi lấy chồng. Từ đó ông
im lặng, cắt đứt để cho người cũ yên ấm bên chồng con. Về
phần cô Phượng, người chồng cô cũng chấp nhận là cô có một mối tình
trước, hết sức cảm thông. Nhưng đôi khi thấy vợ buồn, ông khuyên vợ để
ông cất những lá thư và hình cảnh cũ, đến bao giờ vui hãy mở ra xem. Thế
rồi ông mất, những lá thư xưa không tìm lại được nữa. Mãi
đến cuối năm 2009, 60 năm sau, ông liên lạc được một người bạn cũ từ
bao năm ở lại Hà Nội, và chính người bạn này đã giúp nhạc sỹ họ Lê tìm
ra số điện thoại của người xưa. Qua đường dây điện thoại ông đã gọi về
thăm hỏi bà. Bà không thể tin là ông còn sống, nhắc đi nhắc lại 3 lần
như ngỡ trong mơ "anh Lê Trạch Lựu đấy ư?". Ông tâm sự tiếp: "Bây
giờ chúng tôi nói chuyện với nhau. Tình ngày xưa xa lắc xa lơ. Cô đã đi
lấy chồng, mà tôi đã lấy vợ, bây giờ chỉ coi nhau như bạn già thôi. Quí
nhau, kính trọng nhau, chứ không nghĩ đến tình yêu ngày xưa nữa. Không
thể nào lập lại thời đó được. Nhưng hai người vẫn rất quí nhau, tôi vẫn
thường gọi cho cô, hay cô có gọi tôi, nhưng mà ăn nói như hai người bạn
thân thôi." Từ ngày rời Hà Nội năm 1951, nhạc sỹ
họ Lê chưa một lần trở lại quê hương. Ông lập gia đình với một người vợ
Pháp, gốc Ba Lan, mà theo lời ông thì bà là người rất đẹp, đoan trang,
miệng cười tươi như hoa, và ông nhận là số ông may mắn, từ người yêu đến
người vợ ai cũng đoan chính. Thời còn trẻ cũng có
người bạn rủ ông về miền nam làm việc, và hãng thông tấn Pháp cũng muốn
ông về để lập một cột trụ ở bên đó, nhưng nhạc sỹ họ Lê tâm sự: "Tôi
nghĩ rằng hồi đó tôi có đứa con nhỏ nhất mới 3 tuổi, nếu tôi về Việt
Nam tôi sẽ mê một cô Việt nam, tôi sẽ lấy cô Việt Nam, sống với cô Việt
Nam thì tôi sẽ không trở lại Pháp nữa. Tôi tự nghĩ: mình sinh ra con,
mình không nuôi con, mình bỏ nó, sung sướng với cuộc sống của mình, rồi
sau này con mình nó nhìn mình bằng cách gì mình không thể sống được. Vì
thế tôi không đi. Mà nếu tôi đi, thì cũng không thể trở về được, nghề
của tôi là ra chiến trường quay phim. Tôi vui thích với nghề đó lắm, mà
có thể chết được, nên về thì không thể nào trở lại được nữa." Trong
buổi nói chuyện với nhạc sỹ Lê Trạch Lựu, năm nay đã trong lứa tuổi bát
tuần, ông có cho biết về những sáng tác khác của ông, những ca khúc đã
bị cái bóng của "Em Tôi" che mờ: "Nhạc của tôi
người ta không biết nhiều, người ta chỉ biết đến 'Em Tôi' thôi. Ở Hà
Nội, ông Thẩm Oánh có ra một bài của tôi là bài 'Thôn Chiều', ông ấy quí
bài đó lắm. Sang Pháp, nhớ quê hương, tôi làm bài 'Nhớ' được trình bày
trên đài phát thanh Hà Nội, và Sài Gòn sau này. Bài thứ ba là bài 'Em
tôi'. Bài 'Em Tôi' được người ta quí trọng nó quá nên thên hạ quên mất
'Nhớ' và 'Thôn Chiều'." Khoảng 20 năm sau khi "Em Tôi" ra đời, vẫn nỗi nhớ người xưa, nhạc sỹ họ Lê đã sáng tác "Cành Mai Tóc Ngắn". Cũng
trong buổi nói chuyện, nhạc sỹ Lê Trạch Lựu có lời nhắc những ai yêu
mến ông xin để ý cho 3 chỗ trong lời nhạc của bài "Em Tôi" mỗi khi hát: 1. Cho anh gót thắm đem dệt nhớ nhung lời thơ
(không phải "rót thắm" hay "góp thắm"); Ông giải thích: người đàn bà
xưa ăn mặc kín đáo, quần chùng áo dài, gót sen của nàng là nguồn xúc
cảm, gợi trí tưởng tượng, chứ không lộ liễu như bây giờ. 2. Đèn trăng phô sắc huy hoàng sáng hơn màu nắng (không phải là "đàn trăng"). 3. Này trăng, này sao chia nhé em (không phải là "này trăng, này sao kia nhé em"). Xin cảm ơn nhạc sỹ Lê Trạch Lựu, cảm ơn "Em tôi", cảm ơn cả người xưa đã là nguồn cảm xúc để nhạc phẩm trữ tình này hiện hữu. Quí
vị vừa nghe Anh Ngọc, Sỹ Phú, Mai Hương trình bày nhạc phẩm Em Tôi. Xin
cảm ơn quí vị đã theo dõi buổi nói chuyện hôm nay với nhạc sỹ Lê Trạch
Lựu. Quí vị có thể vào cothommagazine.com để nghe 1 số nhạc phẩm khác của nhạc sỹ Lê Trạch Lựu.
Tham Khảo: Tài liệu từ Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu; http://khanhly.net/phoxua/ - http://khanhly.net/phoxua/ ; http://tranquanghai.info/ - http://tranquanghai.info/ ; Chương Trình Ca Khúc Việt Nam của NS Thanh Trang; Chương Trình Văn học nghệ thuật của Đài VOA do Lan Phương thực hiện ... Vui lòng gởi ý kiến xây dựng và tài liệu về Phan Anh Dũng:
mailto:dathphan1@gmail.com - dathphan1@gmail.com
=====================================================================================================================================================================================================================================================
Nguồn :
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&uact=8&ved=0CCEQFjAB&url=http%3A%2F%2Fcothommagazine.com%2Findex.php%3Foption%3Dcom_content%26task%3Dview%26id%3D809%26Itemid%3D47&ei=56nvVJSjBqTEmwWwzoHwBQ&usg=AFQjCNFRi3ThXHc2BYx9kDPpGMvFf6ibPA&sig2=RsI9SgXKYlDypLZMiz2xMw&bvm=bv.86956481,d.dGY - EM TÔI và Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - Biên sọan: Phan Anh ... cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task...
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Mar/2015 lúc 1:44am
30 NHẠC SĨ VỚI
30 BẢN NHẠC ĐỂ ĐỜI
30 bản nhạc của 30 nhạc sĩ, được chọn lọc là
hay nhất, nhưng tuyệt vời với người này mà chưa hẳn hay với người kia. Chúng ta
hãy thưởng thức những tình khúc nổi tiếng này nhé!
Bản nhạc MƠ HOA rất hay! Có 2 người hát, link
đầu là 1 ông.... cụ hát, có lẽ tuổi cỡ 80, xem ra còn phong độ lắm!
Một Nhạc-Sĩ / Một Bài Hát
Un Musicien Compositeur Vietnamien / Une Chanson
One Vietnamese Musician Composer / One Song
Nhạc-sĩ VN có những người làm cả trăm bài , thậm-chí nhiều
trăm bài , nhưng cũng có những người chỉ một vài chục bài hoặc
vài bài , nhưng "ít nhất" thì không ai có-thể "qua mặt"
được Lê-Hoàng-Long !
Nhạc-sĩ Lê-Hoàng-Long chỉ sáng-tác duy-nhất 1 Bài ,
Ông đúng là "Only-One-Song Composer" , đã cảm-tác
"đột-xuất" 1 bản nhạc "để đời" trong hoàn-cảnh đau-khổ khi
người yêu đi lấy chồng ! Với chỉ 1 nhạc-phẩm Gợi
Giấc Mơ Xưa nhưng cũng quá đủ để đưa tên tuổi Ông vào
"hàng-ngũ" những Nhạc-sĩ "Đại-gia" trong Âm-nhạc VN
!
Nhạc-sĩ Nguyễn-Văn-Khánh với số Bài "đếm trên đầu ngón
tay" , nhưng bài Nỗi Lòng của
Ông đã được Đài Phát Thanh Dalat-Tuyên Đức dùng làm nhạc nền trong suốt mấy
năm liền 1965-1966-1967 ... khi mở Đài ra , trước tiên ta nghe nhạc-bản Nỗi
Lòng không lời ... và được trổi lên 1 lần nữa khi cô Xướng-ngôn-viên nói lời
giã-từ ...
Những ai ở Dalat vào khoảng thời-gian này chắc-chắn không thể
nào quên (nếu là người yêu nhạc) ?
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Ho%C3%A0ng_Long - http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Ho%C3%A0ng_Long
Tôi hân-hạnh được biết và gặp nhạc-sĩ LHL nhiều lần , Ông là
bạn thân của ông Chú Ruột trên 60 năm từ những ngày trước 1954 còn ở đất
Bắc. Nhạc-sĩ LHL đã ngoài 80 nhưng còn tráng-kiện , rất to-con , nước da hơi
ngăm ... nhìn Ông có-vẻ "Võ-sĩ" hơn "Nhạc-sĩ" . Về
"Physically" , ngoài việc đi hơi "cà-nhắc" vì bị vấp-té
trên bãi-biển Nha-trang , NS LHT nói chung còn khoẻ-mạnh , nhưng
"Mentally" thì cũng đã hơi ... "lẩn-thẩn" (?) . Một
ngày cuối tháng 9/2013 tình-cờ tôi đang ở nhà Chú thì NS LHL ghé thăm ,
nhằm lúc Chú đang trong "Toilet" , Ông càu-nhàu :
- Tại-sao lại có sự trùng-hợp vô-lý đến như-thế , Ngài
đi cầu đúng ngay lúc Ta tới thăm? Rồi Ông quay ra gọi
người xe-ôm vừa chở tới, chở về luôn (cũng may chưa rồ máy đi mất) . Khi
ông Chú hay tin , liền nói: "Thế là Cụ giận rồi !" ,
và lật-đật bảo tôi chở tới nhà NS LHL ngay , cũng khá gần (Chú ở Ngã-3 Ông-Tạ ,
LHL ở Ngã-Tư 7-Hiền) . NS LHL về tới nhà có-lẽ chưa quá 5 phút , mặt còn
"hầm hầm" ngồi ở quán Café Cóc ngay cạnh nhà . Chú tôi
cười chã-lã :
- Mình "đi đồng" thiệt chớ
nào phải "đi trốn" đâu , Bác không tin thì
tôi biết lấy gì làm "tang- chứng
vật-chứng" ? ... thế là vui-vẻ trở-lại , cả 2
cùng cười hồn-nhiên "hớn-hở" ... LHL mời uống Café , nhưng tới
phiên ô. Chú nhất-định từ-chối và về ngay , không quá 3 phút .
Trên đường về Chú nói "Xong việc rồi ! Ngại lắm nhưng phải
đi. Bữa nay mình mà ko đến là Cụ giận dai lắm đấy
!" ...
Tôi có cảm-tưởng 1 mối "bang-giao" thân-tình giữa 2
"nhi-đồng lớn tuổi"! Bạn-bè "cao-niên" có-lẽ phần
nhiều là dzui dzui như-rứa?
NS LHL an-hưởng tuổi già khá ung-dung nhờ có mấy Người Con ở
nước ngoài cấp-dưỡng , còn bảo-lãnh thì Cụ nhất-định "ko
thèm" đi !
NS LHL thật may-mắn , nhưng thực-tế có rất
nhiều Nhạc-sĩ khác ko được như-vậy ... họ sống cuối đời hẩm-hiu đạm-bạc và ra
đi trong nghèo-khó "xanh-xao" ! Thật là bất-công và
"ngậm-ngùi" cho những Người đã đóng-góp cho nền Âm-nhạc Nước-nhà
những bài hát "để đời", những tình-khúc "vượt
thời-gian" !
Chắc còn lâu lắm VN mới thực-sự biết thế-nào
là "Tôn-trọng Tác-quyền" ? Ở trong cũng như ngoài nước !
Lê Hoàng Long -
Gợi giấc mơ xưa
http://www.youtube.com/watch?v=eTbfLnkLgI4 -
http://www.youtube.com/watch?v=9g0r8QYIHxc - http://www.youtube.com/watch?v=9g0r8QYIHxc (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=9QA8NSaaGDs - http://www.youtube.com/watch?v=9QA8NSaaGDs (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=CpNS4BZxavY - http://www.youtube.com/watch?v=CpNS4BZxavY (Xem trước)
Dương Thiệu Tước - Bóng Chiều Xưa
http://www.youtube.com/watch?v=eGJ77xO_o2U - http://www.youtube.com/watch?v=eGJ77xO_o2U (Xem trước)
Nguyễn Văn Đông - Về Mái Nhà Xưa
http://www.youtube.com/watch?v=6f5oJhhOlME - http://www.youtube.com/watch?v=6f5oJhhOlME (Xem trước)
Hoàng Trọng -
Cánh hoa xưa
http://www.youtube.com/watch?v=TDaTMSzZWJU -
Trịnh Công Sơn - Diễm
Xưa
http://www.youtube.com/watch?v=zBFrLYJ5KOY - http://www.youtube.com/watch?v=zBFrLYJ5KOY (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=tQszDqxLnq4 - http://www.youtube.com/watch?v=tQszDqxLnq4 (Xem trước) (in
Japan)
http://www.youtube.com/watch?v=mgFIUa8KvVI - http://www.youtube.com/watch?v=mgFIUa8KvVI (Xem trước)
Hoàng Thi Thơ - Đường
Xưa Lối Cũ
http://www.youtube.com/watch?v=GZgv7w1c3Tw - http://www.youtube.com/watch?v=GZgv7w1c3Tw (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=dWwO73p-0H4 -
http://www.youtube.com/watch?v=W6wci5U0Dtw - http://www.youtube.com/watch?v=W6wci5U0Dtw (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=nYn1NHrwQHM&feature=related -
http://www.youtube.com/watch?v=mJVqT1CxAzM&feature=related -
Y Vũ - Tôi đưa
em sang sông
http://www.youtube.com/watch?v=5iQ_lkhEFLw - http://www.youtube.com/watch?v=5iQ_lkhEFLw (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=429x9eYYH_o - http://www.youtube.com/watch?v=429x9eYYH_o (Xem trước)
Ngô Thụy Miên - Mùa Thu Cho
Em
http://www.youtube.com/watch?v=o-02KDAZfZ0 -
Phạm Trọng Cầu - Mùa
Thu Không Trở Lại
http://www.youtube.com/watch?v=SUv2kXOwe0I - http://www.youtube.com/watch?v=SUv2kXOwe0I (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=LMA6-vVEEE8&feature=related -
Lê Trọng Nguyễn - Nắng
chiều
http://www.youtube.com/watch?v=qKkxqLur61w - http://www.youtube.com/watch?v=qKkxqLur61w (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=Tftqu_SumZI - http://www.youtube.com/watch?v=Tftqu_SumZI (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=JusUu-zqMss -
Vũ Đức Nghiêm - Gọi Người
Yêu Dấu
http://www.youtube.com/watch?v=n7G1eQgsyCA - http://www.youtube.com/watch?v=n7G1eQgsyCA (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=2u3y6s0rN_8&feature=endscreen - http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=2u3y6s0rN_8&feature=endscreen
http://www.youtube.com/watch?v=1kU6Yd4RBxI - http://www.youtube.com/watch?v=1kU6Yd4RBxI (Xem trước)
Nguyễn Văn Khánh -
Nỗi Lòng
http://www.youtube.com/watch?v=7k7NzH_1Plg - http://www.youtube.com/watch?v=7k7NzH_1Plg (Xem trước)
Huỳnh Anh - Nếu Anh về bên Em
http://www.youtube.com/watch?v=X3aM5EBoqL0 - http://www.youtube.com/watch?v=X3aM5EBoqL0 (Xem trước)
Từ Công Phụng - Tuổi Xa Người
http://www.dailymotion.com/video/x9fpq8_lien-khuc-tu%E1%BB%95i-xa-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-khanh-ly-t%E1%BB%AB_music - http://www.dailymotion.com/video/x9fpq8_lien-khuc-tu%E1%BB%95i-xa-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-khanh-ly-t%E1%BB%AB_music
ĐoànChuẩn TừLinh -
Tình nghệ sĩ
http://www.youtube.com/watch?v=VvpMs9vMYVg - http://www.youtube.com/watch?v=VvpMs9vMYVg (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=b57hp82OIEY - http://www.youtube.com/watch?v=b57hp82OIEY (Xem trước)
Lam Phương - Bài Tango cho em
http://www.youtube.com/watch?v=UXk2th1j8-M -
Tô Hải - Nụ Cười Sơn Cước
http://www.youtube.com/watch?v=xSpDF8r-ukU -
Tuấn Khanh - Chiếc Lá Cuối Cùng
http://www.youtube.com/watch?v=Ez_QDVFtRDQ - http://www.youtube.com/watch?v=Ez_QDVFtRDQ (Xem trước)
Minh Kỳ - Đà Lạt Hoàng Hôn
http://www.youtube.com/watch?v=xGFgIUx1lOA -
Trường Sa -
Xin Còn Gọi Tên Nhau
http://www.youtube.com/watch?v=h75ZLdw43Z4 - http://www.youtube.com/watch?v=h75ZLdw43Z4 (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=An7wq5ZB_a0 - http://www.youtube.com/watch?v=An7wq5ZB_a0 (Xem trước)
Phạm Duy -
Áo anh sứt chỉ đường tà
http://www.youtube.com/watch?v=DglMstaYtr0 - http://www.youtube.com/watch?v=DglMstaYtr0 (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=h-LG73bdDss -
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Mar/2015 lúc 5:06am
https://www.youtube.com/watch?v=pCtONhovxBg - - Ca khúc "Gửi người em gái miền Nam" của Đoàn Chuẩn - Những thông tin thú vị
-
-
bởi - Vu Le nguyen
https://www.youtube.com/watch?v=pCtONhovxBg - - Ca khúc "Gửi người em gái miền Nam" của Đoàn Chuẩn - Những thông tin thú vị
-
-
bởi - Vu Le nguyen
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/May/2015 lúc 8:44pm
La Cumparsita -
Bản Tango nổi tiếng nhất.
La
Cumparsita Tango - Gerard Matos Rodriguez
https://www.youtube.com/watch?v=NY0MLG-IrSU -
Julio
Iglesias - LIVE - La cumparsita - Francia 1997
https://www.youtube.com/watch?v=YNMcHaLhwlg -
Nhạc
sĩ Phạm Duy đã đặt lời tiếng Việt dưới tựa đề "Vũ nữ thân gầy".
https://www.youtube.com/watch?v=svDA24ygynM -
Đàn đã khơi rồi, trong lúc đêm tàn rơi
Đàn khóc ai hoài, cho héo hon lòng tôi
Đàn nhớ nhung người, như sắc hương tàn phai
Đàn cố nuôi lời, cho giấc mơ còn lơi
Ôi ! Nghe tiếng đàn réo mà thương người
Nghe tiếng cười reo xót xa đời
Nhớ nhung đau thương mà thôi
Người vũ nữ, người xưa mến thương ơi
Nhớ tới hương đêm kinh đô chưa qua đời
Nhớ tới đôi môi nụ cười
Nhớ tới xa xôi, nay đã xa rồi.
Người vũ nữ ngồi bên cốc lên men
Bát ngát hương môi cho anh say mềm
Nhịp nhàng gieo trên sàn êm
Rộn ràng nghe bao lời điên
Của khách giang hồ say triền miên.
Ta ghì cho
tan vỡ trái tim này
Cho người ăn chơi nhíu đôi lông mày
Ta cười cho xanh ngát kiếp lưu đầy
Cho người vũ nữ khóc tấm thân gầy.
Chưa nói yêu nhau mà lòng đã đau
Chưa nói mê say mà tình đã bay
Chưa biết môi em mà hồn đã quên
Đã qua một đêm...
"La cumparsita"
|
Bìa của "La cumparsita"
|
"La cumparsita"
(tiếng Tây Ban Nha dịch ra tiếng Việt: "Cuộc diễu hành nhỏ") là một bản
nhạc tango không lời được nhạc sĩ người
Uruguay Gerardo Matos Rodríguez sáng tác vào năm 1916. Thực tế, Roberto Firpo (giám đốc kiêm nghệ sĩ vĩ cầm của
dàn nhạc biểu diễn ra mắt bản nhạc này) đã bổ sung những đoạn trong các bản
tango "La Gaucha Manuela" và "Curda Completa" của ông vào bản
hành khúc dành cho carnaval của Matos ("La Cumparsita"), từ đó tạo
nên bản "La cumparsita" như được biết đến hiện nay.
Bản nhạc vốn dĩ không có
lời, về sau Pascual
Contursi và Enrique Pedro Maroni đặt lời, biến nó thành bài hát.
"La cumparsita" được coi là một trong những khúc tango nổi tiếng nhất
và dễ nhận ra nhất.
Lịch
sử
Bài hát vốn là một bản
hành khúc dành cho carnaval của Uruguay, phần giai điệu được anh sinh viên
ngành kiến trúc 18 tuổi tên Gerardo Hernán "Becho" Matos Rodríguez soạn
vào đầu năm 1916 ở Montevideo. Ngày 8 tháng 2 năm 1916, Matos Rodríguez nhờ người
bạn Manuel Barca đưa bản nhạc cho Roberto Firpo xem, tại quán cà phê La Giralda. Firpo nhanh chóng nhận ra rằng
ông có thể biến nó thành một bản nhạc tango. Bản nhạc khi ấy gồm hai đoạn, và Firpo bổ sung một đoạn nữa
trích từ những bản tango của ông nhưng ít người biết là "La gaucha
Manuela" and "Curda completa". Ông cũng dùng một phần của bài
hát "Miserere" (của Giuseppe Verdi) lấy từ opera. Nhiều năm sau đó,
Firpo thuật lại khoảnh khắc đáng nhớ ấy như sau:
“
|
Vào năm 1916,
tôi đang chơi nhạc tại quán cà phê La Giralda ở Montevideo, một ngày nọ có một
người đàn ông đi với khoảng chừng 15 cậu trai - tất cả đều là học sinh sinh
viên - đến nói rằng anh ta mang theo một bản hành khúc carnaval và muốn tôi
phê bình nó vì họ nghĩ là nó có thể thành một bản tango. Họ nhờ tôi soát lại
và tinh chỉnh bản nhạc ngay đêm ấy vì một cậu bé tên là Matos Rodríguez cần
nó. Trong bản nhạc nhịp 2/4 này, phần giai điệu của nửa phần đầu có vẻ ít [hữu
dụng] còn nửa phần sau thì chẳng có gì. Tôi có chiếc dương cầm và nhớ đến hai
bản tango tôi sáng tác hồi 1906 nhưng không thành công: "La gaucha
Manuela" và "Curda completa". Và thế là tôi trích một phần từ
mỗi bài để đưa vào bản nhạc. Đêm đó tôi biểu diễn bản nhạc cùng với
"Bachicha" Deambroggio và "Tito" Roccatagliatta, nhận được
tán dương nhiệt liệt. Matos Rodríguez cứ đi qua đi lại như một nhà vô địch...Tuy
nhiên bản tango bị quên lãng, về sau mới bắt đầu thành công trở lại khi
Enrique Maroni và Pascual Contursi soạn lời ca cho nó.
|
”
|
Firpo thu âm bản nhạc vào
tháng 11 năm 1916 cho hãng Odeon Records - đĩa số 483. Ông thu tại phòng thu của
Max Glücksmann ở Buenos Aires, Argentina và thuê hai nghệ sĩ vĩ cầm, một nghệ
sĩ bandoneón (Juan Bautista
"Bachicha" Deambrogio) và một nghệ sĩ flute còn ông làm trưởng dàn nhạc
và chơi dương cầm. Bản nhạc ra mắt trên mặt B của đĩa hát 78 vòng, thu được
thành công ít ỏi và chìm vào quên lãng sau vài năm.
Năm 1924, nghệ sĩ người
Argentina Pascual
Contursi đặt lời
cho bản nhạc, khiến nó nhanh chóng biến thành một bản hit. Phiên bản này hiện
được coi là bài hát tango nổi tiếng nhất trên thế giới, đứng ngay phía trước bản
"El Choclo".Contursi thu âm bài hát dưới
nhan đề "Si Supieras" (nghĩa là "Nếu bạn biết"). Thời gian
đó Matos Rodríguez đang sống tại Paris, Pháp. Anh phát hiện tác phẩm đã trở nên
nổi tiếng lúc nói chuyện với nghệ sĩ vĩ cầm kiêm trưởng dàn nhạc tango người
Uruguay Francisco
Canaro khi ông
đang biểu diễn bài hát dưới tựa đề "Si Supieras". Canaro cho anh biết
rằng bài hát được "tất cả các dàn nhạc cuồng mê". Matos Rodríguez
dành hai thập niên tiếp theo để đấu tranh pháp lý đòi tiền tác quyền và cuối
cùng cũng thành công khi đảm bảo rằng bài hát từ giờ sẽ lấy lại nhan đề cũ là
"La cumparsita". Tuy nhiên, phần lời hát của Contursi đã gắn chặt với
bài hát.
Năm 1948, Canaro dàn xếp
một thỏa thuận giúp chấm dứt các vụ kiện tụng. Ông xác định 20% tiền tác quyền
sẽ thuộc về Contursi và đối tác kinh doanh của Contursi là Enrique P. Maroni.
80% còn lại sẽ thuộc về Matos Rodríguez. Canaro cũng định ra rằng các tờ nhạc
in trong tương lai sẽ in phần lời của Contursi kèm với các phần lời ít nổi tiếng
do Matos Rodríguez viết, ngoài ra không in bất cứ phần lời nào khác.
Sự
phổ biến
Năm 1997, Quốc hội Uruguay thông qua Luật số 16.905 quy định
phần nhạc của "La cumparsita" là bản nhạc văn hóa và đại chúng của quốc
gia.
Bài hát xuất hiện trong
nhiều phim như Anchors Aweigh (1945), Sunset Boulevard (1950), Some
Like It Hot (1959), Take the Lead (2006). Trong tập "Down Beat
Bear" của phim hoạt hình Tom and Jerry cũng chèn bài hát. Bài hát nằm trong đoạn mở đầu của vở kịch truyền
thanh khét tiếng The
War of the Worlds - vở kịch có nội dung khiến nhiều thính giả tin rằng "người
sao Hỏa" đã đến Trái Đất.
Trong Thế vận hội Mùa hè
Sydney 2000, đội tuyển Argentina đã diễu hành bằng bản nhạc này khiến Chính phủ
Uruguay phải lên tiếng phản đối. Nhiều vận động viên thể dục dụng cụ cũng dùng
các biến thể của bài này khi biểu diễn như Vanessa Atler (1998–99), Jamie
Dantzscher (2000), Oana Petrovschi (2001–02), Elvire Teza (1998), Elise Ray
(1997–98), Natalia Ziganchina (2000), Maria Kharenkova (2013) và Mykayla
Skinner (2011–12).
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Jun/2015 lúc 7:55pm
Tháng Năm, nghe Phượng hoàng gãy cánh
Có một tượng đài phượng hoàng gãy cánh tại Sài Gòn, đặc biệt trong
lòng người yêu nhạc trẻ miền Nam. Tượng đài nằm im lặng trong trái tim mỗi
người, nhưng luôn ngân vang với những câu hát trở thành lịch sử âm nhạc hiện
đại của Việt Nam – vốn từng mở màn cho một giai đoạn cách tân âm nhạc độc nhất
vô nhị.
Thật khó biết là nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời vào lúc nào. Theo báo
cáo pháp y, người ta chỉ tìm thấy ông vào ngày 11 tháng 5, 2003, nhưng dự đoán
thời gian qua đời có thể từ 5 ngày trước. Lê Hựu Hà là một người cô đơn. Và
những ngày cuối đời của ông lại càng cô đơn hơn khi đi về chỉ một mình, đóng
cửa lặng lẽ đọc sách, nghe nhạc, mở ti vi cho có tiếng người chung quanh mình.
Chính vì ti vi vẫn mở suốt nhiều ngày liền, nên chung quanh hàng xóm không ai
ngờ rằng ông đã qua đời. Chỉ đến khi vài người bạn đến tìm, gọi chuông không
được thì sau đó mọi người mới phát hiện rằng ông đã đi rất xa rồi.
Những ngày bạn bè đến thăm nhạc sĩ Lê Hựu Hà lần cuối, Lúc ấy,
trời lất phất mưa, mây trĩu xám. Đám tang vừa phải và khiêm tốn, không khác gì
tính cách của ông lúc sinh thời. Nhạc sĩ Minh Châu tay cắp giỏ, ánh mắt bàng
hoàng “lẽ nào vậy sao?”. Minh Châu vốn là một người yêu say đắm dòng nhạc
Phượng Hoàng với những bài hát mà nhạc sĩ Lê Hựu Hà khai sinh. Anh ghé qua thắp
nén nhang với chiếc áo sơ-mi bó, quần ống hơi loe, không khác gì thập niên 60,
thì thầm “chừng nào chúng ta lại có một Lê Hựu Hà hay Nguyễn Trung Cang?”.
Câu hỏi đó thật khó trả lời. Phượng Hoàng sinh ra từ lửa và hóa
kiếp trong lửa, tuần hoàn vô lượng. Nhưng để nhận biết là điều bất khả. Thật
khó hình dung nền nhạc trẻ Việt Nam thập niên 60-70 nếu không Lê Hựu Hà, Nguyễn
Trung Cang, Elvis Phương... thì hôm nay sẽ là gì? Ban nhạc Phượng Hoàng của Lê
Hựu Hà thành lập năm 1963, với chủ trương dứt khoát của Lê Hựu Hà là “người
Việt phải chơi nhạc Việt”, nhằm tạo một khuynh hướng khác biệt với hàng loạt
các nhóm nhạc trẻ lúc đó, phần lớn đang cover lại các bài hát ngoại quốc, và
lấy tên tiếng nước ngoài như The Enterprise, CBC, The Dreammers, Les
Vampires... nhạc trẻ thuần Việt được coi như khai sinh từ đó. Nếu lịch sử âm
nhạc Anh Quốc có cột mốc vĩ đại từ cuộc nói chuyện vô tình trên tàu điện giữa
Paul McCartney và John Lennon, thì ở Việt Nam cũng có chương lịch sử âm nhạc kỳ
thú từ sự kết nối giữa Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang.
Là một ban nhạc rất trẻ, nhưng các sáng tác của Lê Hựu Hà và
Nguyễn Trung Cang làm không ít người sửng sốt về tính triết lý sâu đậm trong ca
từ. Nếu Nguyễn Trung Cang vung vẩy tung tóe màu sắc hiện sinh với Mặt Trời Đen,
Sống Cho Qua Hôm Nay... thì Lê Hựu Hà dàn trãi từ khuynh hướng yêu tha nhân vô
kiện của Kant cho đến tâm trạng hippy phản chiến, kêu gọi yêu thương. Trong các
phẩm của Lê Hựu Hà, là niềm yêu tha nhân dù khổ đau vẫn phải gìn giữ như một
định mệnh “Hãy cứ yêu thương người – dù người không yêu ta”. Từ cảm giác đó, Lê
Hựu Hà bước theo lộ trình nhận thức thế giới không khác gì John Lennon từ việc
viết về tình yêu cho đến hát về người nghèo khó, về một cuộc sống đầy súng đạn
và hận thù. Hãy Nhìn Xuống Chân hay Lời Người Điên... là một dòng phát triển
rất đặc biệt của nhạc sĩ Lê Hựu Hà bên cạnh những bài tình ca nhạc trẻ độc đáo
của ông. Chỉ tiếc là sau 1975, chế độ kiểm duyệt của Nhà nước Cộng sản đã bóp
chết không ít niểm cảm hứng và sự phát triển của nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có
nhạc sĩ Lê Hựu Hà.
Nhạc sĩ Phạm Duy, lúc sinh thời không phải là người dễ tính, cũng
đã phải thốt lên rằng âm nhạc của Phượng Hoàng đầy chất tâm hoặc (psychedelic
culture) và phản ánh một tâm thức của thế hệ trẻ không lối thoát trong một xã
hội chiến tranh, bất an không hồi kết. Sau tháng 4/1975, khi bị buộc phải đi
học tập cải tạo tư duy với các cán bộ cách mạng, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cũng phải
viết tự kiểm, nhận định rằng âm nhạc của ông là thứ suy đồi và tiểu tư sản thối
nát. Nhưng Lịch sử âm nhạc Việt Nam đã may mắn biết mấy khi có được dòng nhạc
“thối nát” đó làm nền tảng cho mọi phát triển hiện đại sau này. Lê Hựu Hà cũng
như nhiều nhạc sĩ miền Nam tự do khác, cũng được khuyến cáo viết những tác phẩm
cho nền “văn hóa mới” – một nền văn hóa mà không ít người vẫn tự hỏi nó sinh ra
từ đâu, để làm gì?
Có một điều không may cho nhạc sĩ Lê Hựu Hà là sau 1975, có một
trung tâm sản xuất băng nhạc chống Cộng lấy tên Phượng Hoàng, cho ra chương
trình và gửi vào trong nước. Trong thời buổi còn chưa đủ sức phân biệt được
trắng đen, công an đã coi nhạc sĩ Lê Hựu Hà như là một trong những thành phần
sản xuất chương trình đó. Đã vậy, có lúc ông còn bị Sở VHTT Cộng sản những ngày
đầu kiểm soát miền Nam nhầm lẫn tên ban nhạc của Lê Hựu Hà và hệ thống tình báo
Phượng Hoàng của VNCH. Hai điều đó hoàn toàn không liên quan. Ủy ban tình báo
Phượng Hoàng, vốn là tên gọi khác của Intelligence and Operations Coordinating
Centre, do giám đốc CIA thời đó là William Colby dựng nên, hoạt động từ 1967 và
chấm dứt vào 1973. Vốn đã bất đắc chí vì thời cuộc, việc bị truy vấn bởi công
an mật vụ liên tục trong thời gian đó đã khiến nhạc sĩ Lê Hựu Hà trở nên trầm
uất, và luôn lo sợ. Thậm chí, khi đi đường, nghe tiếng còi của cảnh sát giao
thông cũng làm ông kinh hoảng, dừng xe, dù đó không phải là chuyện của ông. Đã
vậy, sau năm 1968, bị gọi nhập ngũ, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đến học tại trường Bộ
Binh Thủ Đức, rồi làm việc ở Cục Quân Nhu, và dù không cầm súng bắn phát nào,
nhưng do mang lý lịch là “ngụy quân” nên sự nghiệp của ông không bao giờ có thể
nối tiếp trọn vẹn được nữa.
Những khó khăn từ vật chất cho đến đời sống tinh thần vẫn đeo đuổi
đến tận ngày nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời, dù tài năng của ông vẫn chinh phục mọi
giới. Những tác phẩm mới sáng tác sau 1975 như Vào Hạ, Ngỡ Đâu Tình Đã Quên
Mình, Vị Ngọt Đôi Môi... luôn gây nên những cơn sốt trong thính giả. Nhưng cũng
ít ai biết rằng các bài hát như Hãy Yêu Như Chưa Yêu Lần Nào là bài hát viết
cho phim Vết Chân Hoang (chuyển thể từ tiểu thuyết Tuổi Choai Choai của Trường
Kỳ), được sửa lời và chút ít giai điệu. Bài Lời Trái Tim Muốn Nói cũng là một
ca khúc viết lại một văn bản cũ, trong đó ông lặng lẽ để vào chút tâm tư của
mình,qua những câu chữ như “những tháng năm không có ngày vui”.
Năm 1999, khi đang là thành viên trong ban nhạc Phiêu Bồng của
nhạc sĩ, tôi cầm lấy những bài hát của ông và đi đến nhiều hãng băng đĩa, đề
nghị làm album tác giả, nhưng mọi nơi đều lắc đầu, nói khéo. Chân thật nhất là
một biên tập viên của Xí nghiệp băng đĩa nhạc Sài Gòn Audio, Hãng phim Bông
Sen, đã nói thẳng thừng “Lê Hựu Hà là một người nhân thân có vấn đề”. Sau này,
khi nhạc sĩ Lê Hựu Hà căn vặn hỏi mãi, tôi đành phải kể lại. Ông mỉm cười nhã
nhặn và buồn. Sau đó, ngay khi tập bài cho các buổi diễn, tôi đề nghị chơi lại
những bài hát nhẹ nhàng, không bị soi mói về quan điểm chính trị như Tôi Muốn,
Yêu Em... ông chỉ lắc đầu, cười nhẹ. Khó biết được đằng sau cặp kính của người
nhạc sĩ hết sức uyên bác đó là những suy nghĩ gì về cuộc sống khốn khó này. Về
sau, nhạc sĩ Bảo Thu “luồn lách” bằng cách nào đó, cũng in ra được một băng
c***ette pha trộn các tác phẩm của Lê Hựu Hà cùng các bài hát dịch lời Việt của
ông, nhưng cũng không dám quảng cáo hay tổ chức ra mắt công khai như các ca sĩ,
nhạc sĩ bây giờ.
Giờ đây khi tìm kiếm trên internet, thấy những tấm ảnh sau 1975
của ông, lòng tôi chợt chùng lại. Để mừng một ngày sinh nhật của nhạc sĩ Lê Hựu
Hà, tôi “dỗ” ông cho chụp vài tấm ảnh, tự mình design bìa CD cho ông, gom những
bài hát làm thành một đĩa master rồi đi tìm Tuấn – biệt danh là Tuấn Chó (do có
logo thương hiệu bầy chó đốm), một trong những ông trùm sản xuất CD lậu thời đó
ở Sài Gòn, nhờ chép ra phát hành giùm. Thật buồn cười và mỉa mai, khi người
nhạc sĩ cầm lấy những bài hát của mình được lén lút phát hành bất hợp pháp ngay
trong đất nước của mình, và cười như một hạnh phúc. Tôi vẫn còn nhớ.
Có lần, trong một buổi tập ở nhà, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cao hứng đàn
và hát cho tôi nghe vài bản nhạc chưa ra mắt công chúng của ông. Những bài hát
mang đầy niềm cảm hứng mãnh liệt của một thời Phượng Hoàng trai trẻ nhưng đầy
sự buồn chán muốn rời xa cõi nhân thế quá trớ trêu. Hát xong,ông quay qua nhìn
tôi, cười trầm “Đừng hỏi, anh biết tỏng em muốn hỏi gì. Anh không muốn đưa
những bài hát này ra nữa đâu. Không còn để làm gì”. Im lặng. Tôi vẫn tự hỏi là
có bao nhiêu con người tài năng trên đất nước này đã chối từ đại lộ và nói với
bạn bè,con cháu mình khi quay về ngõ nhỏ, rằng “không còn để làm gì”.
Cuộc sống của nhạc sĩ Lê Hựu Hà sau năm 1975 hết sức khó khăn, đã
vậy ông còn mang nhiều mặc cảm khi người vợ của mình, ca sĩ Nhã Phương, phải đi
hát, đi làm tất bật để trang trãi cho cả gia đình. Ông chọn quay lại sân khấu
một phần vì yêu âm nhạc, một phần khác vì đó là cách kiếm sống duy nhất của
ông. Lê Hựu Hà đã thử làm nhiều thứ như hùn mở quán cà phê, cho thuê băng
video... nhưng rồi không có gì tồn tại lâu. Tài sản lớn nhất, và có lẽ vĩ đại
nhất đất nước, là bộ sưu tập đĩa nhựa âm nhạc của ông. Tất cả những đĩa quý
nhất của thế giới, những ấn bản hạn chế của Rolling Stones, Beatles... ông đều
có đủ và luôn làm bạn bè kinh ngạc ngưỡng mộ. Thế nhưng một ngày mùa hè cách
mạng, các nhân viên Sở Văn hóa Thông tin đã ập đến lục soát và tịch thu, theo
“tố giác của quần chúng nhân dân”. Nhìn từng chiếc xe ba gác chồng chất các bản
đĩa mà ông nâng niu, chở ra đi, là một trong những điều suy sụp lớn của đời
ông. Nhạc sĩ Bảo Chấn kể rằng đời ông chưa bao giờ hoảng sợ bằng nhìn thấy hình
ảnh nhạc sĩ Lê Hựu Hà ngồi gọi rượu đế ra uống một mình, trầm ngâm và khóc. Đó
là lần uống rượu duy nhất trong đời của người nhạc sĩ chơi rock,Phật tử và
không biết thuốc lá, rượu bia.
Trong một lần đi diễn ở Đông Âu và Nga, sau khi hệ thống Cộng sản
ở đây sụp đổ. Lê Hựu Hà mang về những viên đá, lấy ra từ những mảnh vỡ của bức
tường ô nhục Berlin, để tặng cho bạn bè. Đêm đó, ngồi hát ở một quán bar nhỏ
Old Friends với Phước, tay cao bồi già yêu nhạc rock, nhà thơ hippy Đỗ Trung
Quân, Lê Hựu Hà đưa cho mọi người, ông cười, thì thầm với tôi “đây là tự do”.
Sau cặp mắt kính cận ấy, là ánh mắt thông minh, ẩn chứa biết bao nỗi niềm và
dường như không còn niềm vui nữa, dù miệng vẫn cười.
Lê Hựu Hà đến Nga, ứa nước mắt khi nhìn thấy tự do trở lại trên
đất nước tuyết trắng, nghĩ đến phận mình. Ông ra phố Arbat ở Moscow, nơi lừng
danh của giới nghệ sĩ. Khi đang đi dạo thì Lê Hựu Hà nhìn thấy một người ngồi
bệt dưới đất, đánh đàn và hát tiếng Anh ở phố, dưới chân có hộp đàn mở ra cho
khách qua lại bỏ tiền vào. Nhìn thấy cây đàn đẹp và quý, ông dè dặt hỏi xem đàn
có bán không. Người nghệ sĩ Nga lạnh lùng nhìn và nói “Anh không mua nổi đâu,
vì trên đàn đã có dấu tay của tôi”. Sau này ông được giới thiệu cho biết đó là
một nghệ sĩ rất nổi tiếng ở Nga về tài năng cũng như độ kiêu hãnh. Ghé vào một
cửa hàng gần đó, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đổi một ít tiền lẻ và đến ngồi kế bên. Những
bài hát tiếng Anh thời thập niên 60 – 70 mà người nghệ sĩ Nga ấy hát, đã là thứ
thuộc nằm lòng của Lê Hựu Hà nên ông vừa nghe, vừa hát bè theo. Cứ mỗi bài hát
kết thúc, ông lại bỏ vào hộp đàn một chút tiền lẻ. Người nghệ sĩ Nga từ thái độ
lạ lùng, tò mò, dần dần chuyển sang cảm mến. Cho đến khi hết tiền bỏ vào, Lê
Hựu Hà đứng lên chào và đi. Người nghệ sĩ Nga bất chợt gọi lại “Anh là ai?”. Lê
Hựu Hà cười “Tôi là một người thích nhạc”. “Nếu anh quá thích cây đàn, tôi có
thể bán cho anh, vì anh rất thú vị”, người nghệ sĩ Nga nói. “Cám ơn, tôi đã có
thứ tôi muốn rồi”, Lê Hựu Hà nói, “hát với anh, tôi đã có lại tất cả những kỷ
niệm đẹp nhất mà tôi đã mất”.
Trong đánh giá của giới phê bình âm nhạc, vẫn hay có hiện tượng
bất công về overrated và underrated. Tức có những nhạc sĩ mà công lao hay khả
năng chỉ vừa phải thôi, nhưng vì lý do gì đó luôn được tung hô. Ngược lại, có
những người vô cùng quan trọng với lịch sử âm nhạc nhưng lại bị coi nhẹ hay
lãng quên. Nhạc Nguyễn Trung Cang hay sĩ Lê Hựu Hà là một trong những trường
hợp underrated của Việt Nam, khi giá trị tiền phong của họ xuất hiện ở mọi nẻo
của âm nhạc hiện đại, nhưng lại bị phủ lấp bởi truyền thông, quan điểm chính
trị hay sự cố tình chôn lấp quá khứ văn hóa vàng son của một niềm Nam VNCH.
Tháng Năm, nghe vua nhạc Blues B.B.King qua đời. Tháng Năm nhớ
Chuck Brown, tay guitar có biệt danh là "Godfather of Go-Go”. Tháng Năm
rồi cũng góp vào ký ức nhân loại một tượng đài Phượng hoàng Việt Nam gãy cánh,
với đường bay chưa trọn. Tượng đài của Lê Hựu Hà, một người tài hoa, khiêm tốn
và nhã nhặn, chưa bao giờ dám mong ai dựng tượng mình, nhưng lại đứng trên quê
hương mình, trong trái tim của những người yêu âm nhạc, của một nền văn hóa
vàng son của miền Nam mãi lấp lánh trong ký ức con người.
------------- mk
|
|