Những câu chuyện thiền
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Chuyện Linh Tinh
Forum Discription: Nói chuyện linh tinh về đủ mọi điều ...
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2412
Ngày in: 18/Nov/2024 lúc 5:22am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Những câu chuyện thiền
Người gởi: mykieu
Chủ đề: Những câu chuyện thiền
Ngày gởi: 17/Mar/2010 lúc 9:33pm
Những câu chuyện thiền
Con sóng nhận thức
Nhìn thấy một con sóng cao lớn bên cạnh, con sóng nhỏ tỏ ra bực mình: - Bực ghê. Sóng kia lớn quá, sao ta bé tí. Chúng mạnh mẽ xiết bao sao ta yếu đuối thế này. Con sóng to cười đáp: - Đó là vì không nhận ra gốc gác của mình mà bạn buồn bực thế. - Tôi không là sóng thế là gì? - Sóng chỉ là hình thức tạm thời trong bản chất của bạn. Kỳ thực bạn là nước. Một khi nhận ra bản chất của chính mình là nước, bạn sẽ không còn ấm ức với cái vỏ sóng này và không còn buồn bực gì nữa. Con sóng nhỏ hiểu ra, cười vui vẻ: - À, bây giờ thì tôi hiểu. Bạn và tôi tuy hai mà một. Lời bình Con người cho rằng "ngã" là ta nên xảy ra phân biệt ta và người mà buồn khổ. Thực ra loài người được cấu tạo cùng một bản chất trong thiên nhiên bao la.
Thiên đường địa ngục
Một vị tướng quân đến gặp thiền sư Ekaku hỏi: - Bạch thầy, thiên đường hay địa ngục có thật hay không? - Thế ngài là ai? - Tôi là tướng quân. Bất ngờ, thiền sư cười lớn: - A ha! Thằng ngốc nào cho ông làm tướng vậy,trông ông giống anh hàng thịt. Tướng quân nổi giận, rút gươm: - Tao băm xác mi ra !!! Thiền sư vẫn điềm tĩnh: - Này là mở cửa địa ngục. Chợt giác ngộ, vị tướng sụp xuống lạy: - Xin... xin thầy tha lỗi cho cử chỉ thô bạo vừa rồi của tôi. - Này là mở cửa thiên đường - thiền sư Ekaku mỉm cười.
Lời bình Thiên đường, địa ngục không phải là chỗ con người tới sau khi chết mà nó ở đây và bây giờ! Lành, dữ đều do tư tưởng. Cửa thiên đường địa ngục mở ra bất cứ lúc nào.
Thiên đàng địa ngục đều do tâm tạo
Có một bà lão biệt danh "mụ già hay khóc". Trời mưa, mụ cũng khóc, trời không mưa mụ cũng khóc. Có người hỏi bà: - Bà lão ơi, sao bà lại khóc? - Tôi có hai con gái, cô chị bán giày vải, cô em bán dù. Khi trời nắng ráo, lão nghĩ tới con em bán dù không được. Khi trời mưa, lão lại lo cho con chị, mưa gió không có khách nào chịu mua giày. - Lão nên nghĩ rằng khi trời đẹp đứa lớn sẽ bán được, khi trời mưa đứa nhỏ bán dù rất chạy. - À, ông có lý. Từ đó, "mụ già hay khóc" thôi khóc. Bà lão cười suốt ngày dù trời mưa hay nắng.
Lời bình Một điều lợi hay bất lợi sẽ tuỳ thuộc vào cách nhìn, cách suy nghĩ của bạn.
Sống trong hiện tại
Phật hỏi đệ tử: - Cuộc sống người ta được bao nhiêu? Các đệ tử thay nhau trả lời: - 80 năm. - Sai. - 70 năm. - Còn sai. - 60 năm. - Sai. - Vậy người ta sống bao lâu? Phật mỉm cười đáp - Đời người chỉ thuộc trong vòng hơi thở.
Lời bình Đừng ỷ vào quá khứ và cái sắp tới, hãy sống với thực tại.
Phật tại gia
Yangpu về tỉnh Sichuan định tâm tìm kiếm Bồ Tát. Trên đường đi, Yangpu gặp một nhà sư. Nhà sư hỏi: - Cậu đi đâu đấy? - Tôi đi cầu Bồ Tát. - Bồ Tát ở xa, chi bằng đi tìm Phật có hơn không? - Tìm Phật ở đâu bây giờ? - Khi cậu về nhà, thấy người đón cậu trên mình khoác cái mền, chân xỏ dép trái, đó chính là Phật. Theo lời, cậu về nhà thì trời đã khuya. Mẹ cậu nghe con gọi cửa mừng quá vội khoác mền lên người, xỏ dép trái. Bà chạy ào ra mở cửa và khi Yangpu thấy mẹ mình như vậy thì đứng chết lặng.
Lời bình Người ta tìm chân lý nhưng điều cần là thực thi ngay trong lòng, không thì khó mà gặp được.
Ngón tay chỉ mặt trăng
Sư Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng: - Con đọc kinh Đại Bát Niết Bàn bao năm rồi mà vẫn chưa hiểu. Xin tổ sư soi sáng cho. Lục Tổ Huệ Năng cầm quyển kinh đưa cho ni sư, nói: - Ta không đọc được chữ, con hãy đọc, ta sẽ giúp con hiểu. - Tổ không đọc chữ sao ngài hiểu thông nghĩa được? - Jincang rất ngạc nhiên. Lục Tổ Huệ Năng thủng thỉnh đáp: - Chân lý không dựa vào chữ nghĩa. Nó giống như trăng soi trên trời. Trong trường hợp này, chữ nghĩa giống như ngón tay trỏ vậy. Ngón tay chỉ trăng mà nó không phải là trăng. Xem trăng có cần ngón chỉ không?
Lời bình Ngôn ngữ văn tự đều là biểu tượng diễn chân lý. Đừng lầm chữ nghĩa với chân lý như đã lầm ngón tay với mặt trăng.
Định mệnh nằm trong bàn tay
Thời xưa, có vị tướng quyết tấn công địch dẫu quân địch mạnh hơn gấp nhiều lần. Trên đường tiến quân, ông dừng chân ở một đền thờ cầu nguyện, xin giúp đỡ. Sau đó, ông rút ra một đồng xu và nói lớn với quân sĩ: - Bây giờ, ta sẽ lấy đồng xu để xin keo.Nếu là sấp, quân ta sẽ thắng còn ngửa thì quân ta sẽ bại. Chúng ta phó mặc mạng sống cho định mệnh. Đồng xu bay lên, xoay mấy vòng và rơi xuống đất. - Sấp rồi ! Chúng ta sẽ thắng ! Hãy xông lên chà nát quân thù ! - Ba quân reo hò phấn khởi. Sau trận chiến, toàn bộ quân địch hùng hậu đông đảo bị đánh bại hoàn toàn. Vị phó tướng vui vẻ nói với tướng quân: - Không ai có thể thay đổi được bàn tay định mệnh. Tướng quân chỉ mỉm cười không đáp. Ông xoè tay đưa đồng tiền ra. Cả hai mặt đồng xu đều là mặt sấp.
Lời bình Thiên đàng rất công bằng đối với tất cả mọi người, không thiên vị dành riêng cho ai. Sự giúp đỡ duy nhất mà bạn có được là chính bản thân bạn !!!.
Ai đó
Kitagaki, thống đốc bang Kyoto, đến viếng đền Tofuku để thăm Keichu - vị sư trưởng đền này. Đệ tử của Keichu vào báo: - Kitagaki, thống đốc Kyoto muốn diện kiến thầy. - Ta không biết thống đốc nào cả - Sư trưởng trả lời. Đệ tử chạy ra nói với Kitagaki: - Thầy tôi yêu cầu ngài lui gót vì không quen thống đốc nào cả. Kitagaki hiểu ra: - Nếu vậy, hãy báo với thầy anh có Kitagaki muốn diện kiến. - Để tôi thử lần nữa. Lần này, sư trưởng ra đón tận nơi: - Ồ, Kitagaki đấy à. Mời vào nhà.
Lời bình Danh vọng, địa vị, sự thành công và sự giàu có thường có khuynh hướng gia tăng cái tôi của người ta. Vì vậy, người ta sẽ lạc lối, giống như người lạc đường không thể về nhà được.
Càng vội càng chậm
Một thanh niên nọ lên núi tìm kiếm sĩ lừng danh để học kiếm thuật. Anh ta hỏi vị sư phụ: - Thưa thầy, nếu con luyện tập chuyên cần thì phải bao lâu mới thành kiếm sư? - Có lẽ 10 năm. - Cha con đã già rồi và con phải chăm sóc ông. Nếu con luyện tập chuyên cần hơn nữa thì mất bao lâu? Lặng yên suy tư một lúc, vị sư phụ đáp: - Trường hợp này có lẽ phải 30 năm. Anh thanh niên không giấu được vẻ nôn nóng: - Trước thầy bảo 10 năm, bây giờ 30 năm. Con sẽ vượt qua mọi trở lực để nắm vững kiếm thuật với thời gian ngắn nhất. - Thế thì anh cần phải ở lại đây 70 năm - Vị sư phụ mỉm cười.
Lời bình Những người quá nóng nảy muốn đạt đến kết quả thì hiếm khi thành công
Đèn đã tắt
Một anh mù đến từ giã bạn mình. Người bạn cho anh một cây đèn lồng. Anh mù cười hỏi: - Tôi đâu cần đèn lồng. Với tôi, sáng hay tối có gì khác. - Tôi biết. Nhưng nếu không mang nó theo, trong bóng tối người khác có thể đụng vào anh. - Ồ, vậy thì được. Đi được một đoạn, bất ngờ anh mù bị một người đâm sầm vào. Bực mình, anh ta quát: - Bộ không thấy đèn hả? - Đèn của ông đã tắt từ lâu rồi mà.
Lời bình Người nào dùng lời kẻ khác để dạy người có thể giống anh mù này. Đèn đã tắt từ lâu, tuy nhiên anh ta không biết điều đó
Thịt nào dở nhất
Punshan Baoji sống vào đời nhà Đường- thấy nhiều người đang mua thịt lợn rừng trên đường. - Cho tôi một cân thịt nào ! Chỗ nào ngon ngon đấy nhé ! - Bà chị ơi, thế phần nào ở đây là thịt dở nào? Nghe những lời của ông hàng thịt, Punshan bừng tỉnh, lòng khoan khoái.
Lời bình Bất cứ phút giây nào cũng là giây phút tốt nhất, bất cứ nơi nào cũng là nơi tốt nhất. Phải chi bạn nhận thức được điều này một cách toàn tâm toàn ý.
Bình thường tâm
- Bạch thầy, sống theo Đạo một cách siêng năng là thế nào? - Khi đói hãy ăn, khi mệt hãy ngủ. - Đó là những điều mà mọi người thường làm mà? -Không, không ! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Khi ăn, mọi người đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan.
Lời bình Có bao nhiêu người mà mỗi sáng thức dậy mà đầu óc không bận bịu những chuyện quá khứ? Con người phải vứt bỏ những điều ngụy đã gây ra bão tố nội tâm và sống theo bản chất nguyên thuỷ của họ vì Đạo nằm ngay trong đời sống hằng ngày.
Thiền trong chén trà
Vị giáo sư đại học đến gặp thiền sư Nan In để tìm hiểu Thiền. Nan In mời ông uống trà. Nan In rót đầy chén trà rồi mà cứ thế rót thêm. Giáo sư nhắc: - Kìa thầy, chung trà đầy tràn rồi, xin đừng rót nữa. Nan In cười đáp: - Như chung trà này, ông cũng đầy ắp những quan niệm của ông. Nếu trước tiên, ông không cạn chén thì sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được.
Lời bình Ai chứa đầy kiến thức thì điếc trước lời phải trái. Khi hai người tranh luận, một người thường đưa cái biết của mình vào. Cho nên rút lại chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.
Con quỷ bên trong
Nhà sư nọ mỗi khi bắt đầu nhập định đều thấy một con nhện khổng lồ làm ông bối rối. Nhà sư liền vấn ý sư Tổ: - Mỗi khi con bắt đầu nhập định thì luôn có một con nhện khổng lồ xuất hiện, dẫu có đuổi thế nào nó cũng không đi. - Lần tới, nếu thấy con nhện xuất hiện, con hãy vẽ một vòng tròn to làm dấu xem nó từ đâu đến. Nhà sư làm đúng như vậy. Khi ông vẽ vòng tròn to vào bụng con nhện, con nhện chạy đi, ông lại có thể tiếp tục thiền định. Sau buổi thiền định, nhà sư rất bối rối khi thấy vòng tròn nằm ngay trên bụng mình.
Lời bình Trong cuộc sống, con người gặp phải nhiều xáo trộn và âu lo, phiền nhiễu. Nhưng âu lo tệ nhất thường là từ chính bản thân mình mà ra.
Đích tới có một đường đi không cùng
Một tăng đồ hỏi Thiền sư Baling Haojian: - Nghĩa lý của sư tổ và ý nghĩa của giáo lý có gì giống và có gì khác nhau? - Khi vịt lạnh, chúng lội xuống nước. Khi gà lạnh chúng đậu trên cây.
Lời bình Lạnh vẫn lạnh nhưng phương thức tránh lạnh lại khác nhau. Cùng một mục tiêu nhưng mỗi loài lại có cách riêng của chúng. Để đạt mục tiêu không chỉ có một con đường, không phải ai cũng đi theo một con đường. Hãy khéo chọn...
Sau khi chết người ta đi về đâu
Hoàng đế Goyozer đang học thiền với thiền sư Gudo Toshoku. - Bạch thầy, sau khi chết, người ta đi đâu? - Tôi không biết. - Tại sao thầy không biết? - Vì tôi chưa chết. - ???
Lời bình Khi sống, con người nên thưởng thức những vẻ đẹp và bí ẩn của cuộc sống theo cái nhiều người sống. Không cần quan tâm đến thế giới sau khi chết. Hãy sống trọn hôm nay, đừng lo ngày mai vì chuyện ngày mai thì mai mới xảy ra.
(Sưu tầm)
|
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Apr/2010 lúc 8:25pm
Cách xử thế của người xưa |
Xưa, có một chú học trò được dịp lên phố chơi. Nhằm ngày chợ phiên, một vụ mất cắp xảy ra tại quán trọ, chú học trò liền bị quan huyện bắt nhốt vì người ta ngờ chú là thủ phạm.
Sau khi trải qua những thủ tục tra hỏi phiền phức, quan huyện tìm ra thủ phạm chính, chú học trò được trắng án ra về.
Khi về làng, gặp lại vị thầy dạy học, chú nhỏ tức tưởi kể lại tự sự, bộc bạch nỗi hàm oan của mình.
Ông thầy im lặng nghe xong câu chuyện, nghiêm nghị ra lệnh đánh đệ tử mười roi phạt. Đương sự rất ngạc nhiên, nhưng không dám cải lời thầy, riu ríu leo lên bộ phản nằm chờ trận đòn mà lòng hoang mang vô kể.
Các bạn chú thấy thế, ngạc nhiên thưa:
- Thưa thầy, trò này vô tội sao lại bị đòn?
Ông thầy từ tốn giải thích: |
|
- Đành rằng nó vô tội, nhưng tại sao giữa phố chợ đông đảo chỉ mình nó bị tình nghi là kẻ cắp?
Ta đánh đây là phạt cái tội nó có bộ vó của thằng ăn cắp để cho người ta nghi ngờ.
Nếu nó không chỉnh đốn tư cách lại,
ta e rằng nó sẽ bị hàm oan nhiều lần nữa.
(nguồn : dzung nguyen ST) |
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/May/2010 lúc 6:33pm
THIỀN SƯ VÀ CÔ LÁI ĐÒ.
Cô lái đò đưa khách qua sông.
Đò cập bến cô lái thu tiền từng ngườì,
*Sau hết đến nhà sư. -Cô lái đò đòi tiền "gấp đôi." -Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao? Cô lái mỉm cười: - Vì Thầy nhìn em… Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
*Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền "gấp ba." -Nhà sư hỏi vì sao? Cô lái cười bảo: - Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước. Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
*Lần khác nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định. Đò cập bến cô lái đò thu tiền "gấp năm" lần. -Nhà sư hỏi vì sao? Cô lái đáp: - Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em. Nhà sư trả tiền và lên bờ.
*Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò… Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần nầy phải trả bao nhiêu? Cô lái đáp: - Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền. Thiền sư hỏi: - Vì sao vậy? Cô lái cười đáp: - Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa… Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi... Nói một cách khác - (mọi sự từ TÂM mà ra) Sống ở đời chỉ có chữ TÂM là đáng quý! ________________________________________
Một phút suy tư: Chữ TÂM
Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người:
- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên. - Tâm gian dối thì cuộc sống bất an. - Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.. - Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui. - Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …
Cho nên , ta không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn:
- Đặt trên tay để giúp đỡ người khác. - Đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân. - Đặt trên trán để mau mắn chạy đến với người cùng khổ. - Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh. - Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác. - Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.
Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người.
Câu chuyện về Thiền thật hay và sâu sắc! Đúng như câu nói của một thiền sư xưa rằng : " Đối cảnh vô tâm mặc vấn thiền "
Cô gái đưa đò cũng đã là thiền nữ bậc thầy vậy !
Cùng xem và suy ngẫm việc đời...!
Sưu tầm |
http://mocay.org/forum/viewtopic.php?f=61&t=3405&p=8349#p8349 - http://mocay.org/forum/viewtopic.php?f=61&t=3405&p=8349#p8349
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/May/2010 lúc 4:27am
TRÀ ĐẠO
Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đón theo nghi phong trà đạo Nhật Bản. Khách thì lại cứ rót trà uống tự nhiên không theo luật lệ nào cả.
Thấy vậy, chủ nhân khéo léo thuyết minh về trà đạo, về cách pha trà và phong thái uống trà v.v…
Nghe xong, khách nói:
- À, thì ra trà đạo là vậy! Tôi cứ tưởng trà đạo là cứ khát thì uống thôi chứ!
Rồi khách xuất khẩu ngâm:
Xưa nay trà là đạo
Khát chỉ việc uống thôi
Nghĩ thêm trà với đạo
Đầu thượng trước đầu rồi!
Lời góp ý:
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, đạo Phật bắt đầu được vận dụng cho thích nghi với trình độ căn cơ của quần chúng. Những nguyên lý giải thoát trong thời Nguyên thủy được cụ thể hóa cho phù hợp với sinh hoạt xã hội. Đó là những phương tiện thiện xảo tiếp độ quần sinh.
Nhưng khi đã vận dụng thành phương pháp cụ thể kèm theo những hình thức nghi lễ, luật tắc thì không tránh khỏi hiệu ứng hai chiều. Chiều thuận là chuyển hóa quần chúng dần dần vào Đạo. Chiều nghịch là làm khô chết nguyên lý sinh động ban đầu, khiến cho người ta chỉ còn lệ thuộc hình thức, chẳng thấy nội dung, chấp chặt phương tiện bỏ quên cứu cánh. Sự chân thành, trang nhã, tinh khiết, giản dị, trong sáng, bình lặng lúc đầu mà phương tiện trà đạo muốn cống hiến, dần dần chỉ còn là cách pha trà, cách nâng chén… như một thứ nghi lễ trình diễn bên ngoài.
Nếu chỉ giữ nguyên lý (thiên) thì quá xa đối với quần chúng. Nếu vận dụng thành phương tiện (địa) thì đã rơi vào hình thức. Chỉ có người thức ngộ mới có thể thể hiện nguyên lý mà không lệ thuộc vào hình thức, sử dụng hình thức mà không xa rời nguyên lý trong mỗi nhịp sống hài hoà (nhân). Đối với họ, không có cái gì không phải là Đạo. Không có hành động nào không trong sáng, hồn nhiên và lặng lẽ.
Ngày kia có người hỏi: “Cái gì là Đạo?”.
Thiền sư trả lời: “Thế ngươi nói cái gì không phải là Đạo?”.
*****************************
SỬA ĐỔI THIÊN NHIÊN
Ngồi dưới gốc cây bồ đề, một chú tiểu nhận xét:
- Thiên nhiên có những điều bất cân xứng cần phải sửa chữa lại.
Chú tiểu khác hỏi:
- Thí dụ cái gì bất cân xứng?
- Thì chú thấy đó, bên kia, cây dưa hấu nhỏ như vậy mà trái thật to, còn cây bồ đề to tướng thế này mà trái nhỏ xíu!
Ngay khi đó gió thổi rụng những trái bồ đề trên đầu họ. Chú tiểu kia nói:
- May mà chú chưa kịp sửa chữa thiên nhiên, chứ không thì bể đầu cả đám!
Lời góp ý
Người mê tự sinh ra cho mình cái bản ngã, thề rồi từ khi lên ngôi, bản ngã bắt đầu ra tay. Trước hết, bắt những người xung quanh phải tuân theo “mệnh lệnh của tôi”, sau được đà, bắt luôn mọi sự mọi vật phải thay đổi cho đúng với “ý muốn của tôi”. Thế là một cuộc đảo chính quy luật tự nhiên cứ thế mà tiến hành!
Chân con vịt ngắn hãy mau dài ra! Cổ con cò cao hãy mau ngắn lại! Phải khổ luyện sao để bay được như chim! Phải tu trì sao cho lặn được như cá!...
Con nguời cảm thấy mình đã tiến bộ rất xa: bản ngã bành trướng, quốc gia bành trướng, chinh phục hành tinh, điều hành vũ trụ… Hoặc là khí công thượng thừa, yoga tuyệt đỉnh, định lực phi phàm v.v…
Vâng, cứ sửa đổi nữa đi cho ra muôn hình vạn trạng, thỏa chí bình sinh. Nhưng bản ngã ơi, ngươi có khi nào thấy rằng cái gốc của ngươi thì vẫn chưa thay đổi được chút nào hay không?
(nguồn : Vi Tiếu- HT Viên Minh )
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/May/2010 lúc 8:53pm
TRẢ ĐŨA
Lão hành khất vào ngồi trong hiên chùa, bắt đầu bữa ăn xin được trong ngày: ít vắt cơm, muối và... một con cá rô cây.
Người gác chùa quan sát bữa ăn, thấy con cá rô cây được đẽo gọt khá cẩn thận, dọn ra giống y con cá thật đã được nấu nướng đàng hoàng. Ông hỏi người hành khất với giọng châm biếm:
- Này ông lão, ông làm gì với con cá gỗ ấy, hay cuối cùng cũng chỉ cơm với muối?
Lão hành khất đưa tay chỉ tượng Phật bằng đá trên tòa sen giữa Chánh điện, trả đũa:
- Này ông bạn, còn bạn làm gì với tượng Phật đá kia, hay cuối cùng cũng chỉ vô minh với ái dục?
Lời góp ý
Thờ cúng chỉ mang tính cách tượng trưng, thế rồi những tôn giáo cổ xưa đã biến thành những nghi lễ huyền bí và những buổi hiến tế phức tạp… tưởng qua đó họ có thể được cứu rỗi. Nhưng Đức Phật xem đó chỉ là giới cấm thủ (mê tín, dị đoan, hình thức ràng buộc), và Ngài dạy rằng chỉ có sống đúng Pháp (Dhammànudhammà patipanno vihàrati) mới là tôn kính, cúng dường, lễ bái Như Lai một cách cao thượng.
Xưa có một người xuất gia theo Phật chỉ mong hàng ngày được lễ bái và chiêm ngưỡng 32 tướng tốt của Ngài. Đức Phật trách: “Dẫu cho hàng ngày con có nắm chéo y Như Lai và bước theo từng dấu chân của Như Lai thì cũng vẫn xa Như Lai vời vợi. Người nào sống đúng Pháp mới gọi là gẫn gũi, cung kính, lễ bái, chiêm ngưỡng Như Lai một cách chân chính.”
Hàng ngày sống bên Đức Phật, lễ bái, chiêm ngưỡng và đặt trọn niềm tin ở Ngài vẫn còn bị Ngài khiển trách, huống nữa chỉ biết lễ lạy, tụng đọc trước tượng Phật bằng đá để cầu xin cứu độ thì muôn đời cũng không bao giờ nếm đựơc chút hương vị giác ngộ giải thoát.
Tin tưởng, lễ bái, cung kính, chân thành, tri ân, tinh khiết… là những nhân tố của phương tiện thờ cúng, nhờ đó đem lại hạnh phúc, hân hoan, thái hòa, an lạc… cho những kẻ sơ cơ. Nhưng cho đến một lúc nào đó phải biết thoát ra khỏi phương tiện, vì dù tin tưởng Phật dưới bất cứ hình thức nào cũng đều phải tự mình sống đúng chân lý, nếu không thì muôn đời vẫn như lão ăn xin với con cá rô cây vô vị.
(nguồn , Vi Tiếu- HT Viên Minh )
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Jul/2010 lúc 9:31pm
CHIẾT TỰ
(Toại Khanh)
Một anh Phật tử sau một tai nạn dập nát thân thể đã được ghép lại chiếc chân mới lấy từ di hài của một người hiến xác.
Không bị tàn tật, anh mừng lắm, nhưng đêm đêm nhìn lại cái chân ngoại lai kia, anh cứ rùng mình và nghĩ đến người nằm dưới mộ.
Một ngày, nhắm chịu không thấu, anh chạy lên chùa thăm sư phụ là một thiền sư và kể lại nỗi sợ của mình.
Vị hoà thượng nhìn anh rồi mỉm cười:
- Con thấy sợ cái chân đó vì cho rằng nó không phải là của con, nhưng thử hỏi, cái-chân-xưa-giờ-theo-con-từ-bé có đúng là của con không ?
Truyện kể rằng anh Phật tử từ đó ngủ ngon, hết sợ.
Và tôi từ lúc biết được câu chuyện này cũng thấy mình ít nhiều an lạc hơn xưa.
Tôi đã hiểu chữ CỦA một cách chu đáo hơn, thấm thía hơn. Rồi cũng từ đó, tôi nghiệm ra một điều rằng ở đời nhiều lúc chỉ một chữ thôi cũng là một trời suy tư.
Chiều nay, một người Phật tử gửi tôi cái link để đọc bài viết của một người trẻ chẳng biết trong hay ngoài nước.
Họ nói thích bài đó, khen hay và giới thiệu cho tôi. Tựa đề bài viết đó là Tình Lỡ. Thiệt lạ, đọc hết bài, nhưng tôi không hiểu gì hết. Lòng tôi đã bị cái tựa đề Tình Lỡ kia níu kéo ngay từ phút đầu. Nói chính xác, tôi đã bàng hoàng, ngẩn ngơ chỉ vì một chữ LỠ kia thôi. Nào phải chỉ có tình mới lỡ.
Có gì trên đời này lại không bị lỡ chứ.
Nhìn quanh ta, rồi thì cả thế giới, hình như chẳng gì là trọn vẹn hết. Này nhé, có ai trên đời này dám nhận đời mình là viên mãn đâu. Cả một quốc gia cũng thế.
Nhiều kẻ giàu mà không sang, bởi họ chỉ phú mà không quý.
Tiền bạc rủng rỉnh mà kiểu xài tiền thì ngửi không vô, đó là giàu mà không sang, phú nhưng chưa quý.
Nhìn xa một chút, nước Tàu bây giờ có biết bao tỷ phú, nhưng ở một xã hội nghèo nàn nhân văn sau mấy chục năm Cộng Sản thì khó mà kiếm ra một người thật sự phú quý.
Dám bỏ cả triệu Mỹ kim mua một con chó ngao Tây Tạng về cung phụng như đấng sinh thành, nhưng đố họ dám bỏ ra một phần trăm số tiền đó để làm từ thiện.
Ðáng ngại là ở Việt Nam bây giờ cũng có rất nhiều kẻ chỉ phú mà không quý như thế.
Tôi muốn gọi đó là một trường hợp Lỡ: Lỡ làng, dở dang…
Rồi đến chữ An Lạc.
Biết bao người trên đời này ngó ngon lành vậy, nhưng thiệt ra họ chỉ được An (yên) mà chắc gì được Lạc.
Nhà cửa ổn định, thu nhập ổn định, sức khỏe ổn định, kể cả gia đạo cũng ổn định, nhưng liệu lòng họ có được vui không.
Tôi từng nói rồi, nhiều khi có chuyện để lo toan còn dễ sống hơn là những ngày tháng nhàn cư vô vị, không đắng không ngọt.
Viết đến đây tôi chợt nhớ đến mấy bài báo online gần đây nói về làn sóng thực phẩm độc hại của Trung Quốc và Việt Nam đang được xuất khẩu tứ tung thì càng thấm thía chữ Lỡ này.
Nhiều món trong đó là thứ khoái khẩu của người mình, nhưng ngon mà chẳng lành.
Không phải món nào ngon thì cũng lành.
Cũng như nhiều người tuy dễ thương mà cũng đáng sợ vậy.
Hai chữ ngon lành từ đó không phải dễ dùng.
Ngay đến một chữ rất phổ biến như Phúc Ðức cũng khó mà tìm được chỗ dùng.
Nhiều kẻ đời nay chỉ có phúc mà không có đức.
Người học A-Tỳ-Ðàm thường thích nói chặt chẽ nên khó chấp nhận điều tôi đang viết.
Một cách nôm na, tôi hiểu Ðức ở đây là những đức tánh hàm dưỡng nhân cách của mình.
Một người tiện tay làm một hai chuyện giúp đỡ kẻ khác không sánh được một người thường ngày làm gì cũng biết nghĩ về kẻ khác.
Phúc thì ai cũng làm được, nhưng Ðức thì phải là kẻ có tâm cơ.
Tôi không nhớ là Lão Tử hay Trang Tử đã có câu nói này: Người thời nay quyền cao tước trọng đến mấy cũng chỉ là hàng quý nhân chứ không phải bậc đại nhân như thời trước.
***
Cứ theo kiểu chẻ chữ (chiết tự) đó mà nói thì ta có bao điều thú vị để mà suy gẫm.
Như thánh nhân chỉ có Ðau mà không Khổ, phàm phu nhiều khi Thông nhưng chưa chắc đã Minh, Giải nhưng chưa chắc đã Thoát, Tình không hẳn là đi với Yêu, tôi còn muốn nói là Sung chưa chắc đã Sướng, nhưng thôi !
Chẻ chừng đó cũng đủ mỏi tay mòn búa rồi, chỉ mong người đời nhớ được bài học Chính Danh của thầy Khổng để mà sống trọn vẹn ngoài đời, trong đạo. Thế còn gì hơn được nữa.
Mong thay !
| |
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Jul/2010 lúc 11:05pm
Ván Cờ Sinh Tử
(Minh Đức - Triều Tâm Ảnh)
Lời vào truyện:
Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị thiền sư dạy Đạo cho môn sinh như thế này chưa:
- Này chư tử! Thưở còn trai trẻ, làm kiếm khách Áo Trắng, ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm vương.
Này chư tử! Thưở còn trai trẻ, làm giang hồ kì thủ, ta ít khi chơi cờ. Khi đã chơi, một quân cờ đặt xuống - trọng lượng như một quả núi - sẽ kết thành định mệnh. Định mệnh không lập lại hai lần. Dòng sông đã chảy, vậy thì những quân cờ kế tục đi đến chung quyết. Không do dự. Không ngập ngừng. Người đời gọi ta là kì vương.
Này chư tử! Kiếm vương ta cũng bỏ, kỳ thủ ta cung lìa, khoác tay nải, dép cỏ, nón mê lang thang học Đạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần mới thấy được cửa vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở chướng đã trừ. Mê lầm đã tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi. Kiếm vương kia thành Kiếm đạo. Kỳ vương kia thành Kỳ đạo. Tại sao như thế?
Này chư tử! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chạm đá, như kiếm xuyên mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Đốt cháy kiến hoặc, dội tắt nghi tình, vào chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.
Hãy nghe đây! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác thành nghiệp báo . Vậy hãy như tay Kiếm vương kia, chớ khinh suất mà ra chiêu, đừng cho ý tưởng tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực. Lúc buông lúc xả nghỉ ngơi. Hãy xuất niệm như xuất kiếm. Đã xuất là phải đạt .
Này chư tử! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh tư duy. Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động. Phải như tên kỳ thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi . Dòng sông không chảy hai lần . Đừng do dự . Đừng ngập ngừng . Quân cờ đặt xuống là tác thành định mệnh, tác thành nhân quả, nghiệp báo .
Này chư tử! Hãy xuất cờ ! Hãy xuất niệm! Hãy xuất kiếm! Bước tới ! Không ngoảnh đầu! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ! Không có sau trước giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung!
Bài giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm xuyên qua mấy đỉnh mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị . Người ta tỉnh giấc, bàng hoàng . Ngàn năm Phật giáo kinh điển, từ chương, thụ động, tiêu cực, đắm say bùa chú, hương khói vật vờ; chợt đứng dậy, vươn cao, nắm định mệnh mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng hô to, cánh sát cánh, vai sát vai ... ánh lửa Trí Tuệ bùng lên, thổi sinh khí, đem lại Cái Đẹp, Sức Mạnh và Tự Do Tối Thượng cho con người .
Phật giáo thời Khâm minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế kỷ XV, sống lại, mang cơ thể, mới tinh thần mới, dẫn Nhật bản đi vào thời đại phú cường . Công lao ấy có ai ngờ rằng khởi từ Trí Tuệ của một người : thiền sư Dai-so-kim! Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam Tây hải đảo .
Truyện ngắn sau đây thuật lại một trường hợp dạy Đạo của Người .
Thanh niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu viện trưởng:
- Thưa ngài! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của đời nên mong muốn giải thoát khỏi những đau khổ . Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một thứ gì lâu dài . Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong một thiền định, học tập, giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vây. Con sẽ thối chí và rơi trở vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng được . Quyên sinh là biện pháp hay nhất, có lẽ . Thưa ngài! Vậy thì còn con đường nào ngắn nhất, dễ dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không?
- Có chứ!
Tu viện trưởng một thoáng lạ lùng nhìn người thanh niên rồi trả lời:
- Nếu con trung thực! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học những thứ gì ? Sở trí ra sao? Có thể có những khả năng như thế nào ? Thảng hoặc, con thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì ?
Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt :
- Ôi! Thực sự thì không có thứ gì! Con chưa nghĩ là mình phải nên như thế này hoặc nên như thế nọ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa đến hư vô và phù phiếm ! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là giấc mộng đầu hôm . Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần phải làm việc . Riêng về sở thích thì ... tuyệt, con thích đánh cờ nhất! Cả đời, dường như tâm trí con chỉ tập trung vào đó thôi . Trong vài cuộc tranh giải gồm những kỳ thủ già dặn bốn phương , thỉnh thoảng con cũng giật được một phần thưởng ưu hạng .
- Rất tốt!
Tu viện trưởng gật đầu:
- Chưa đếng nỗi phải bỏ đi . Nhưng mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ ?
- Con đã chọn lựa .
- Thế nào ?
- Ngài là Kiếm vương!
Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn:
- Lại là Kỳ vương nữa . Ngài đã dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi tu viện này những con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc hãnh nhất . Khong cần phải nói rằng người ta tính phục ngài như thế nào, ngài Tu viện trưởng ạ!
- Hỡi con, này Ka-jo-ju! Ta muốn hiểu cường độ tín phục ấy ở riêng nơi con thôi.
Nghe gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất giác, thanh niên đưa mắt nhìn Tu viện trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ lạ không cưỡng được .
Ka-jo-ju gật:
- Tín phục . Con hoàn toàn tín phục .
Tu viện trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:
- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.
Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước, dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu .
-Mu-ju con!
-Bạch thầy, con nghe.
-Bao nhiêu năm con theo thầy học đạo . Con mời cơm, ta ăn . Ta gọi, con dạ . Ta giẫy cỏ , con cuốc đất ... Tình thầy trò giữa chúng ta thật không có gì đáng phải phàn nàn cả chứ ?
- Dạ, quả thế thật .
- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa . Từ trước đến nay, con khong hề mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ ?
- Phải nói ngược lại, bạch thầy - giọng tu sĩ trẻ chợt như viên đá nặng ngàn cân- phải nói là con tuân phục thầy một cách tuyệt đối .
- Rất tốt! Vậy này Mu-ju! Ngây bay giờ ta yêu cầu con sự tuân phục "Kim cương bất hoại" đó .
- Xin vâng.
Tu viện trưởng - chính là thiền sư Dai-so-kim- chợt đứng dậy, bước tới bức tường phía đông. Ở đó có treo 1 thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc khảm xà cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy 1 lớp bụi đục . Gần nửa thế kỉ nay, ngài không đụng đến thanh kiếm ấy . Cái thời Kiếm vương trai tráng oanh liệt dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ vang lên. Kiếm đã ra khỏi vỏ . Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc .
Thiền sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cõi tùng gân guốc .
- Này Mu-ju ! Ngài nói chậm rãi - Con hãy chơi cờ với chàng thanh niên này . Và nghe đây ! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con. Nhưng ta hứa là con sẽ được tái sanh vào một cõi lạc phúc . Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu chàng thanh niên . Suốt đời anh ta mê mải ham thích trò chơi đó, nếu để thua thì chém đầu y chẳng oan tí nào .
Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu viện trưởng, và trong thoáng giây đó, họ hiểu rằng ngài nói thật .
Thanh niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo hơi gió buốt lạnh câu nói xa xưa của Kiếm vương: "Ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém!" Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi lấm tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi như tí gợn trên mặt hồ rồi mất . Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức Thầy, nên việc giao phó định mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu .
Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua liếp cửa . Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay nắm chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí đọng lại, trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người .
Cả hai hoàn toàn bị khiếp phục .
Họ bắt đầu bước vào ván cờ sinh tử .
Ván cờ không còn là trò chơi nữa . Là cái gì nghiêm trọng nhất trên đời này . Ván cờ chính là cuộc đời . Ván cờ chính là sinh tử . Và cả hai hoàn toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng .
Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu mình đang đối đương với một địch thủ kỳ tài và già dặn . Tu sĩ trẻ lại un đúc trầm tĩnh của thiền môn. Đó là những yếu tố đáng ngại . Mồ hôi từ trán chàng thanh niên chảy dài xuống ngực . Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi . Và như là một lão ngựa tự tin, sung sức - chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ khoảng cách đầu ngựa .
Chiến thắng chỉ còn là thời gian .
Ka-jo-ju quên ngoại cảnh, quên bản thân, quên cả việc sống chết . Ngay giây phút này - tình yêu, công danh, sự nghiệp, ưu hận - là những đám mây đen bị xua tan một cách nhanh chóng . Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái đam mê duy nhất của đời mình . Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ dàng trở lại với chàng . Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một . Tuy nhiên, tu sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm , vững chãi, từng bước vây hãm thành trì, không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân bình .
Đột nhiên, thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ cả thành trì, huy sinh quân mã, tung những đòn chớp giật . Lớp chết, lớp khác xông lên với khí thế quyết tử . Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng sự hi sinh quá đột ngột, liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới thấy lần đầu . Đến lượt tu sĩ trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ xuống bàn cờ . Ka-jo-ju chỉ chờ có thế . Chỉ cần một thoáng bối rối lưỡng lự của đối thủ là y chém đông chém tây những thế táo bạo - nhưng chỉ là hư chiêu - rồi rút về an toàn, bình chân như vại .
- Đệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái thế bảo toàn - Ka-jo-ju thở phào nói - Thật ra , nếu đệ tử không thất vọng tình đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy . Vì từ bi, vì trung hậu và chơn chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu hơn quan nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.
Lợi dụng khi quân mã tu sĩ đang tản mạn đó đây, thanh niên kéo đôi pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa ngăn ở ven sông. Một xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên binh vạn mã .
Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế . Tự tin một thoáng lay động là phía tả tiền bị viên hổ tướng của địch phá vỡ . Lão ngựa già của đối phương đươc hai chốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng nhảy đến thí mạng . Thế là đôi pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị loại khỏi vòng chiến .
Mu-ju đã rơi vào thế thủ . Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn đầy trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng . Vào phút bất ngờ nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị . Hai pháo giữ nhà đồng loạt vọt qua sông, tung đòn tối hậu .
Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.
Thanh niên len lén đưa mắt nhìn vị sư . Đấy là một khuôn mặt trong sáng đầy trí tuệ do bao năm tinh cần giới luật . Ôi! Một dung dấp thật đẹp ở trong một tinh thần cao khiết . Thanh niên nghĩ . Vị tu sĩ này từ hoà và đôn hậu hết mực, mang linh hồn trong sáng như viên ngọc không tì vết nhiễm . Ôi! Đâu có có hắc ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát cuộc đời như ta ? Ôi! Một nhân cách như vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay! Ta là gì ? Một kẻ du thủ du thực, vô tích sự, ăn bám mẹ cha va xã hội; nếp sống dơ dáy, hư hỏng, nội tâm đầy rẫy những ham muốn bất chánh và hèn hạ . Giá trị đời ta chỉ có thế thôi . Rơm rác còn có ích hơn ta.
Thanh niên nhè nhẹ thở dài . Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng xâm chiếm lòng chàng . Ôi! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hi sinh cho cuộc đời có giá trị .
Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ hở kín đáo, chỉ những kì thủ trứ danh mới biết được . Một thế, hai thế . Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại thế quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn công .
Thanh niên Ka-jo-hu biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng chàng không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy . Một an tĩnh mênh mông, thân thiết vây phủ tâm hồn chàng . Chưa bao giờ mà chàng chời đợi cái thua - nghĩa là chờ đợi cái chết - một cách dịu dàng, trong sáng, bình lặng và thanh khiết như vậy .
Tu sĩ trẻ ngần ngại . Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh, vội rút lui. Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ .
Bàn cờ bất động giữa hai người .
Đối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng, Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hi sinh, bèn thò tay xuống ...
Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền sư Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ chụp xuống đầu chàng thanh niên . Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu ...
Thiền đường lặng ngắt như tờ . Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra . Mắt y chợt tròn vo, kinh ngạc . Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã bị cạo nhẵn thín . Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:
- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi ! Ấy là sự tập trung tâm ý hoàn toàn và lòng từ bi . Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác ngộ . Thế mà hôm nay con học được cả hai . Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ . Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hi sinh mạng sống cua mình . Thôi, hãy ở lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó . Giải thoát sẽ là kết quá đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm trúng .
Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay sờ lên đầu mình, chàng mỉm cười .
Chôn cô đơn trong bóng tối cô liêu Đôi mắt sói đốt cháy bừng đêm vắng
http://vietnamcayda.com/diendan/showthread.php?t=7193 - http://vietnamcayda.com/diendan/showthread.php?t=7193
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Aug/2010 lúc 8:25pm
Không Phải Ðể Bực Mình
Chú Trí rất bực mình về việc chú Thân và chú Tâm thường hay bất hòa không chịu nổi, chú đến bạch Sư:
- Hai chú ấy gây gỗ nhau hoài sao Thầy không khuyên răn hòa giải?
Sư chỉ cười. Trí càng bực mình:
- Sao Thầy lại cười?
- Còn con, sao con lại bực mình?
Trí nói:
- Hai chú ấy gây gỗ nhau hoài mà con không bực mình sao được.
Sư nói:
- Còn ta cười vì thấy hai chú ấy đâu có gây gổ cốt để con bực mình.
Dễ Quá Mà!
Ða Trí đang ngồi lẩm bẩm:
- Khó thật, khó thật!
Vô Văn đi qua hỏi:
- Gì mà khó giữ vậy?
Ða Trí liền nói:
- Này Ðệ, làm sao biết được gà sinh trước hay trứng sinh trước?
- À, chuyện đó thì dễ quá mà.
Ða Trí ngạc nhiên:
- Thật vậy sao?
Vô Văn bật cười:
- Có gì đâu, ý Huynh sinh ra trước đấy.
Ða Văn Bác Học.
Ða Văn hỏi:
- Làm sao để trở thành người nghe nhiều học rộng?
Sư đáp:
- Không bị bọn đa ngôn lường gạt.
Cầu Ðắc Với Vô Ðắc
Từ khi Ðạo Sĩ Cầu Ðắc đến nhập viện đã trở thành bạn thân với chú tiểu Vô Ðắc. Một già, một trẻ quấn quít bên nhau. Vô Ðắc rất thích Ðạo sĩ biểu diễn thần thông. Có lần Vô Ðắc xin học pháp thuật. Ðạo Sĩ nói:
- Cháu đổi tên với ta đi đã.
Cũng Tiên Ðoán.
Một nhà tiên tri nói rằng thế giới sau này sẽ là một bình minh tươi sáng trong đó con người được sống tự do không có luật lệ ai muốn ở đâu thì ở, làm gì thì làm, đi đâu cũng được không ai ràng buộc.
Nghe vậy, Vô Ðắc thưa:
- Cháu cũng tiên tri về một thế giới tương lai khác.
- Thế giới nào?
- Thưa, thế giới đó sau thế giới mà bác vừa tiên đoán. Nhà tiên tri ngạc nhiên hỏi:
- Thế giới đó ra sao?
- Thưa, bây giờ người ta lại thích sống khuôn khổ, luật lệ sau khi đã mệt mỏi rong chơi, chán chường phóng túng.
Thế Là Thế Nào?
Thị giả của Phật Tổ xuống trần xem thời mạt pháp. Ði qua một nơi chuyên phát hành Kinh sách, Ngài thấy vô số cuốn nói về Thiền định, giải thoát về tâm vương, tâm sở, các tướng Niết bàn, về Phật tính, Pháp thân, Chân như, Tịnh độ...
Cuối cùng, Ngài chú ý đến một cuốn nhan đề "Ðức Phật". Lật ra xem thấy giới thiệu tác giả là một vị Luận sư nổi tiếng, tinh thông Tam Tạng. Ngài liền vận dụng thần thông xem một mạch hết cuốn sách dày cả ngàn trang, trong đó mô tả hình tướng, cách lập hạnh, giới luật, thiền định, thần thông, trí huệ, sở đắc, sở chứng, giác ngộ, giải thoát... của Phật - Tổ Thích Ca.
Ðọc xong vị thị giả của Phật Tổ đứng ngơ ngác một hồi lâu rồi cau mày than thở:
- Vị luận sư này nói gì sao ta không hiểu kìa, hay là còn có vị Phật Thích Ca nào khác?
Cha Và Con
Ông lão hàng xóm kể cho Vô Văn nghe câu chuyện.
Tôi có bốn đứa con. Ðứa thứ nhất bảo: "Mọi việc đều đã được an bài" và nó sống buông theo định mệnh.
Ðứa thứ hai bảo: "Anh cứ ngồi đó mà định với mệnh, còn tôi, tôi sẽ tạo lấy tương lai". Và suốt ngày nó toan với tính.
Ðứa thứ ba bảo: "Chẳng cần biết quá khứ đã an bài hay tương lai đầy tính toán, tôi chỉ biết có hiện tại mà thôi". Và nó sống tận hưởng cái gọi là hiện tại của nó.
Thằng thứ tư ít nói, ít cười, không màng mọi sự. Hỏi ra nó mới nói: "Quá khứ đã qua rồi, tương lai ai biết được, hiện tại chỉ vô thường, chẳng có gì được cả". Và nó sống chẳng khác nào một nhà Ẩn sĩ thâm sơn.
Thấy chúng bất hòa, ai theo ý nấy, không ai nhường nhịn, tôi gọi chúng la rầy.
Chúng hỏi:
- Thế còn Ba chủ trương làm sao?
Tôi nói:
- Tao hả? Tao là cha tụi bay chứ làm sao!
Ngã Mạn.
Sư không ăn chay.
Một tín đồ tỏ vẻ không phục không chịu đảnh lễ.
Sư nói:
- Chỉ mới được một bụng rau cải mà đã ngã mạn như thế, huống nữa được "Làm Phật" thì ngã mạn biết chừng nào.
(Sưu tầm)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Sep/2010 lúc 8:58pm
|
|
NỒI CƠM CỦA KHỔNG TỬ (Cập nhật: 27/07/2010 11:32:59) |
|
Đức Khổng Tử |
file:///C:\Users\HNguyen\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_colorschememapping.xml -
- - - Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là 2 học trò yêu của Khổng Tử. - - Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thấy đến cùng. - - May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc thổi cơm. - - Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất. - - Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. - - Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm lên miệng. - - Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài… ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!” - - Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ. - - Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên: tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm. - - Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước. - - Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?” - - Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!” Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?” - - Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.” - - Khổng Tử hỏi: “Tại sao?” - - Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra định vất đi nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình chung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em. - - Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!” - - Nghe Nhan Hồi nói xong. Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ! - - Muốn hiểu biết tường tận một vấn đề gì, cần phải là người trong cuộc. - - sưu tầm | | | http://truyenthongconggiao.org/Default.aspx?tabid=106&ctl=ViewNewsDetail&mid=474&NewsPK=3009 - http://truyenthongconggiao.org/Default.aspx?tabid=106&ctl=ViewNewsDetail&mid=474&NewsPK=3009
|
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Nov/2010 lúc 5:38pm
Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.” Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.” Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”
Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.” Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!” Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai. “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói. “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”
(Nguồn : DZung ,Sưu tầm)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Nov/2010 lúc 7:18pm
Vu Vơ !
Không phải là câu chuyện thiền , nhưng mk xin gửi vào đây vì bài viết cũng xứng đáng cho chúng tay suy gẩm lắm.
Dùng hai chữ "Vu Vơ" làm đề tựa, vì nội dung bài này mk đã được đọc từ lâu, và đã đọc nhiều lần.
Nhưng sáng nay, nhận được trên một forum khác, đọc lại , không hiếu sao lòng bỗng...."Vu Vơ" !
"Vu Vơ" nhớ lại quyển truyện "Cuốn Theo Chiều Gió" , (Gone With the Wind) là http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u_thuy%E1%BA%BFt - tiểu thuyết rất nổi tiếng của tác giả http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9 - Mỹ http://vi.wikipedia.org/wiki/Margaret_Mitchell - Margaret Mitchell , xuất bản năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1936 - 1936 và được http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i_Pulitzer - giải Pulitzer năm http://vi.wikipedia.org/wiki/1937 - 193 7, đưa lên màn ảnh năm 1939 .
Bối cảnh truyện là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 1860 .
"Vu Vơ" nhớ lại từng nhân vật (chính) trong truyện , cuộc đời họ bị cuốn theo cơn gió lốc của cuộc chiến : trong thời chiến và cả thời hậu chiến.
"Vu Vơ" thương cảm Quê Hương mình : thời Bắc thuộc , Pháp thuộc, nội chiến (!?) , hậu chiến ....
"Vu Vơ" so sánh và .... Vu Vơ buồn !
mk
Chiến tranh nam bắc kiểu Mỹ
(Nguyễn Thanh Hiển)
Submitted by TongBienTap on Mon, 10/25/2010 - 22:36
Chiến tranh nam bắc của Mỹ diễn ra vào năm 1861, kéo dài bốn năm và kết thúc năm 1865. Trong chiến tranh này đã có hơn 600,000 binh lính bị tử trận, chưa kể tới thường dân.
Để biết mức độ khốc liệt của chiến tranh này chúng ta có thể so sánh nó với chiến tranh Việt Nam khi chúng ta có khoảng 2 triệu người chết trong cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm (1954-1975).
Cuộc nội chiến của Mỹ bắt đầu khi phe miền bắc, cầm đầu là tổng thống Lincohn, chủ trương xóa bỏ buôn bán nô lệ người da đen. Chủ trương này có lẽ được bắt đầu khi hững cuốn truyện như Uncle Tom Cabin (túp lều của chú Tom) miêu tả những cảnh tượng xót xa đau lòng của các cha mẹ da đen khi thấy con mình bị còng đi bán cho các chủ đồn điền ở những miền xa. Người ta bán cả những em bé còn nhỏ tuổi.
Ngoài cuốn truyện Uncle Tom Cabin ra, nhiều người Mỹ theo đạo Thiên chúa cũng tin là mọi sinh vật ở đời là do chúa tạo ra và phải được sống tự do để phụng sự Chúa. Thêm một lý do nữa dẫn đến cuộc nội chiến là ông tổ của hiến pháp nước Mỹ, Thomas Jefferson, đã đề trong hiến pháp là "all men are created equal" (mọi người sinh ra đều bình đẳng) cho nên lúc bấy giờ phe miền bắc có rất nhiều lý do chính đáng cho niềm tin của họ.
Chiến tranh nam bắc của Mỹ thường được nhắc tới qua những trận chiến đẫm máu giữa hai vị tướng Robert E. Lee của miền nam và Ulysses S. Grant của miền Bắc.
Tuy tướng Lee đã nhiều lần tấn công và gây tổn thất khá nặng cho quân đội miền Bắc, cuối cùng ông đã bị thua khi các đường tiếp vận đều bị cắt đứt và binh lính chết chóc quá nhiều.
Trận chiến ở thôn Appomattox là trận chiến cuối cùng của hai người.
Khi biết không thể cầm cự nổi, tướng Lee bắn tin cho tướng Grant là ông chuẩn bị đầu hàng.
Tướng Grant bắn tin lại cho phép tướng Lee có thể chọn địa điểm thương thuyết mà ông muốn.
Đến ngày gặp nhau tướng Lee bận một bộ đồ nhà binh mới tinh khôi ngồi chờ tướng Grant, tướng Grant xuất hiện trong bộ đồ lính còn dính sình trong lúc đi lại.
Tướng Lee lớn hơn tướng Grant 15 tuổi và cũng cao lớn hơn nhiều. Đáng lẽ là gặp nhau bàn chuyện đầu hàng nhưng tướng Grant biết là tướng Lee đang buồn thua trận nên ông không nỡ nhắc tới, cứ ngồi nói đến các chuyện chiến tranh với người Mễ của một thời nào khác.
Cuối cùng tướng Lee phải nhắc là ông tới để đầu hàng và xin được một số điều kiện.
Bấy giờ tướng Grant mới lấy giấy ra viết và ông chép tay khoảng non trang giấy rồi giao lại cho tướng Lee. Tóm tắt như vầy: 1. những binh lính miền nam sẽ không bị coi là quân đội phản quốc (treason) 2. những binh lính miền nam sẽ không bị đi ở tù (imprisonment) 3. chính phủ không được đụng tới hoặc làm họ phiền hà nếu họ chắp hành tốt luật lệ nơi cư ngụ 4. kỵ binh được quyền mang ngựa và lừa về để giúp gia đình họ cày cấy vào mùa xuân 5. binh lính được quyền giữ khí giới cá nhân để giúp họ bảo vệ gia đình họ (nên nhớ là trong hiến pháp Mỹ, mọi người dân được quyền mang khí giới để tự vệ).
Khi tướng Lee ra về thì tướng Grant và mọi tướng lãnh khác đều đứng nghiêm trang chào cái chào nhà binh tới tướng Lee và các sĩ quan của ông.
Sau đó tướng Grant cho người đưa thức ăn cấp tốc đến cho các binh sĩ của tướng Lee đã bị vây đói lâu ngày.
Một điều đáng nói nữa là sau khi chiến thắng, khi các binh sĩ miền bắc muốn ăn mừng chiến thắng, tướng Grant đã ra lệnh cho mọi người không được ăn mừng (no cellebration), ông nói "họ bây giờ đã là người dân của mình" ("they are our countrymen now").
Ý ông nói một khi họ đã đầu hàng thì họ đã trở thành người dân của mình, mình phải có bổn phận bảo vệ và không làm nhục họ.
Cũng vì vậy mà cho đến ngày hôm nay nước Mỹ cũng không có ngày nào gọi là ngày kỷ niện ăn mừng chiến thắng miền nam cả. Lá cờ của phe miền nam vẫn được treo ở các toà đô chính ở tiểu bang miền nam.
Sau trận chiến này, tướng Lee trở thành một thầy giáo dạy học.
Tướng Grant sau này làm đắc cử tống thống thứ 18 của Mỹ.
Sau khi giã từ chính trường, ông làm ăn thua lỗ liên tục cuối cùng ngèo khổ, uống rượu nhiều và chết vì bịnh ung thư.
Xong nhờ vào tấm lòng độ lượng to lớn của ông mà những người lính miền Nam biết ơn, đứng đầu là tướng Lee.
Do vậy sau chiến tranh tướng Lee đã không ngừng đi cổ võ cho việc hàn gắn đất nước và ông không cho bất kỳ một người nào nói xấu tướng Grant trong khi ông có mặt.
------------- mk
|
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 04/Nov/2010 lúc 7:50pm
Không bắt bỏ tù, không làm nhục thì làm sao đất nước tàn mạt được.!!
Phải làm cho đất nước tàn mạt mới anh hùng.
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: loiquan
Ngày gởi: 05/Nov/2010 lúc 9:51am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu
Vu Vơ !
Không phải là câu chuyện thiền , nhưng mk xin gửi vào đây vì bài viết cũng xứng đáng cho chúng tay suy gẩm lắm.
...
Do vậy sau chiến tranh tướng Lee đã không ngừng đi cổ võ cho việc hàn gắn đất nước và ông không cho bất kỳ một người nào nói xấu tướng Grant trong khi ông có mặt.
|
.
VUA GIA LONG TRẢ THÙ VUA QUANG TRUNG
Vua Gia Long Vua Quang Trung
Từ: Ánh Dương
Nguyễn Phúc Ánh (thường gọi là Nguyễn Ánh) tức vua Gia Long, là người đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn ánh phải trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của dòng tộc.
Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Cơ đốc. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
Nói tới Nguyễn ánh, không thể không nhắc đến vụ trả thù tàn khốc mà ông đã làm đối với gia đình vua Quang Trung và những người theo Tây Sơn.
Giữa năm 1802, Nguyễn ánh tiến ra chiếm được Thăng Long, Quang Toản (con trai vua Quang Trung-Nguyễn Huệ) không chống nổi, bỏ chạy và sau đó bị bắt. Nguyễn ánh đã xử gia đình Quang Toản và những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo:
"Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì”.
"Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục”.
"Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn nên xin được Nguyễn ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết...”.
Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối.
Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết). Nay có thể bị xử “Giết người man rợ”
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn Ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông.
Cuộc báo thù này có hai mục đích: Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy; Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới.
Có lẽ vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân".
Xét dưới góc độ luật pháp ngày nay, việc trả thù riêng Nguyễn ánh sẽ bị xử lý nghiêm khắc. ông đã ra lệnh giết toàn bộ người thân của gia đình Quang Toản với những hình thức tàn khốc nhất như lăng trì, voi xé xác...
Thời đó ý vua là ý trời nhưng ngày nay, muốn kết tội một con người, nhất là khi dành cho người đó những hình phạt cao nhất như tội chết thì phải có một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Trong bản án đó phải nêu rõ hành vi, tội trạng của người đó. Gia đình Quang Toản và những người đã theo Tây Sơn thực chất không phải là tội phạm mà chỉ là "kẻ thù" không đội trời chung của Nguyễn Ánh (trước đó người thân của Nguyễn Ánh đã bị anh em nhà Tây Sơn giết chết).
Trong vụ trả thù tàn khốc này, ngày nay, Nguyễn Ánh phải chịu trách nhiệm về tội giết người với những tình tiết tăng nặng như: Giết nhiều người; Thực hiện tội phạm một cách man rợ; Vì động cơ đê hèn. Ngoài ra, với hành vi khai quật lăng mộ của vua Quang Trung và những người liên quan, Nguyễn Ánh còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Xâm phạm mồ mả .
Ánh Dương ***
Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802)
Nguyễn Phúc Ánh trở về Phú Xuân, đem các tướng nhà Tây Sơn ra báo thù.
Tất cả các võ tướng đều bị tử hình, Trần Quang Diệu bị lột da, các tướng khác bị voi chà, người trảm quyết.
Từ vị đại tướng đến viên tùy tướng, thảy thảy đều giữ bản sắc anh hùng, không một nét sợ hãi, không một lời cầu nhiêu, hiên ngang, khẳng khái.
Riêng đối với Bùi Thị Xuân, Nguyễn Phúc Ánh dùng hình phạt khốc liệt nhất quán cổ kim!
Vốn nghe danh nữ kiệt, Nguyễn Phúc Ánh truyền đem đến xem mặt, Nguyễn Phúc Ánh tự đắc hỏi:
- Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?
Nữ kiệt ung dung đáp:
- Nói về tài ba thì Tiên Ðế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ đồ.Còn nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém rõ ràng như ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên Ðế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Ðức, tôi nhà ngươi. Còn nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người tức là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém cũng rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên Ðế ta đừng thừa long sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này.
Nguyễn Phúc Ánh hỏi gằn:
- Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh ?
Nữ kiệt đáp:
- Nếu có thêm một nhi nữ như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không dễ gì mà lạnh. Cửa Nhật Lệ không để lạnh, thì nhà ngươi cũng khó mà đặt chân lên đất Bắc Hà.
Nguyễn Phúc Ánh hỏi có muốn xin ân xá không?
Nữ kiệt đáp:
- Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế?
Nguyễn Phúc Ánh căm gan, dằn từng tiếng.
- Không chịu nhục? Ta sẽ làm cho mi biết nhục.
Liền truyền lệnh: Ðem Bùi Thị Xuân về Bình Ðịnh, cởi bỏ hết quần áo, cột đứng trên tù xa đẩy đi khắp các nơi thị tứ.
Nhân dân Bình Ðịnh nghe tin, không ai bảo ai, mà mỗi lần xe nữ kiệt đi qua, thì nhà hai bên đường đều đóng kín cửa, người đi đường, người nhóm chợ, đều ngoảnh mặt bỏ tránh xa.
Xe đến vùng Ðập Ðá là nơi dệt lụa, thì những tấm lụa tinh khôi bay tung vào xe. Lớp bị bọn tướng sĩ hộ tống vung gươm chém đứt, theo gió bay lên không trung, lớp rơi vào xe phủ kín châu thân nữ kiệt.
Nữ kiệt lại bị giải về Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh hỏi:
- Ðã biết nhục chưa?
- Nhục nào có vương vào thân ta, mà chính đổ lên đầu nhà ngươi, con người tánh độc hơn sài lang, lòng nhớp hơn cẩu trệ.
Nguyễn Phúc Ánh tức giận, truyền bắt mấy người con của nữ kiệt đem ra giết trước mặt nữ kiệt: Mấy người con nhỏ thì sai lực sĩ bỏ vào bao vải, đánh nát thây. Còn người con gái lớn thì cho voi xé xác. Thấy voi đến, người con gái hoảng sợ kêu lên:
- Mẹ ơi! Cứu con với!
Nữ kiệt hét lớn:
- Con nhà tướng không được khiếp nhược.
Người con gái liền nhắm mắt thọ hình, không một tiếng rên rĩ. Ðến lượt nữ kiệt.
Chúng trói nữ kiệt để nằm ngửa trên cỏ. Ba hồi trống dứt, một con voi to lớn hung hăng chạy đến, giơ chân toan chà. Nữ kiệt trợn mắt hét một tiếng như sấm nổ. Con voi thất kinh thối lui. Bị nài giục, voi bước tới một lần nữa, nhưng vừa bước tới liền dừng bước ngay, thúc mấy cũng không dám tiến. Lính lấy giáo đâm, voi thét lên một tiếng rồi bỏ chạy.
Nguyễn Phúc Ánh tức mình, sai dùng hình phạt điểm thiên đăng.
Chúng lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp mình nữ kiệt, rồi đem cột nữ kiệt nơi trụ sắt dựng giữa trời. Ðoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt bình tĩnh, nét mặt không chút thay đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới lên trên, sáng chói thấu mây. Ai nấy đều xúc động.
Riêng Nguyễn Phúc Ánh tỏ vẻ hân hoan!
Lửa cháy hồi lâu. Bốn bề im phăng phắc. Bỗng một tiếng nổ.
Sọ nữ kiệt vỡ. Một lằn thanh quang bay vút lên tầng xanh!
Xử tướng võ xong, xử đến các quan văn.
Phần nhiều đều được tha về cho làm ăn.
Riêng Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích thì bị giải về Thăng Long và đánh đòn tại Văn Miếu.
Phan Huy Ích còn sống trở về nhà.
Ngô Thời Nhậm bị Ðặng Trần Thường đánh chết.
Ðặng Trần Thường là một danh sĩ Bắc Hà. Lúc Ngô Thời Nhậm được Vua Quang Trung trọng dụng, thì Ðặng Trần Thường đến xin Ngô tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô thét bảo Thường:
- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh giúp Vua cai trị nước. còn muốn vào lòn ra cúi thì đi nơi khác.
Ðặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh.
Nay đắc thế liền trả th xưa.
Ðó là đối với bề tôi nhà Tây Sơn. Còn đối với nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng, cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong hoàng cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã.
Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
Các danh tướng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp, phần lớn đã qua đời, như:
- Nguyễn Văn Tuyết đã cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.
- Võ Văn Nhậm bị Nguyễn Huệ giết chết.
Ðặng Xuân Bảo hy sinh trong trận Nguyễn Phúc Ánh đánh lấy Thanh Hóa.
- Ngô Văn Sở bị dìm xuống sông vì nạn Bùi Ðắc Tuyên.
- Lê Văn Hưng bị Cảnh Thịnh nghe lời Bùi Ðắc Tuyên giết chết.
- Võ Ðình Tú bị trúng tên chết lúc Nguyễn Phúc Ánh đem đại binh đánh Quy Nhơn.
- Lê Văn Trung bị Cảnh Thịnh giết.
Còn sống ở ngoài tầm nanh vuốt của Gia Long chỉ được ít người: Võ Văn Dũng, Ðặng Văn Long, Ðặng Xuân Phong, Phan Văn Lân, Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Lộc.
Sau khi thoát nạn, Võ trở về Phú Phong, rồi lên An Khê, chiêu mộ được một số người Thượng, chuẩn bị việc phục thù. Lấy hòn Hợi Sơn ở Trinh Tường (Bình Khê) làm căn cứ quân sự. Do đó mà Hợi Sơn còn có tên là hòn Ông Dũng.
Nghe tin Ðặng Văn Long ẩn náu ở Vân Hội (Tuy Viễn) bèn tìm đến bàn đại sự.
Ðặng Văn Long, sau trận Ðống Ða thì đã có ý lui gót. Nhưng vì mấy kẻ bề tôi của Lê Chiêu Thống không nghĩ đến tội cõng rắn của mình, cứ nổi lên chống lại nhà Tây Sơn, nên Ðặng phải nán lại để đánh dẹp. Ðến khi thấy Cảnh Thịnh để cho quần thần lộng hành, mối nước sanh rối, Ðặng bèn từ chức, trở về An Nhơn mở trường dạy võ. Nhưng rồi thấy kẻ học võ lúc này không có chí lớn, ai nấy cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng, Ðặng liền đóng cửa trường, lên núi làm rẫy.
Võ Văn Dũng đến, Ðặng mừng được gặp lại cố tri. Nhưng khi nghe Võ bàn đến chuyện phục hưng thì lắc đầu, đáp:
- Tôi ra giúp nhà Tây Sơn đâu phải vì nhà Tây Sơn mà chính vì Tổ quốc. Nếu giặc Thanh không mang quân sang xâm lấn nước ta, thì tôi mãi làm con hạc nội, máu đâu dính đến tay. Còn về nhà Tây Sơn, chính Cảnh Thịnh đã làm mất. Song nếu Vũ Hoàng không bỏ đích lập thứ thì đâu đến nỗi nước này?! Nay đất đã mất mà lòng người cũng mất, hỏi còn mong làm được việc gì nữa? Mà dù có làm được nữa thì làm để làm gì, nếu không phải để tranh chiếm ngôi báu? Tranh cho ai? Cho nhà Tây Sơn hay cho chính mình? Thôi, trên ba mươi năm trời đánh nhau, nhân dân đã điêu đứng rồi, không nên gieo rắc thêm tang tóc.
Võ ra về, Ðặng lên ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không ai biết Ðặng ở ngọn núi nào trong dãy Nam Sơn.
Ý kiến của Ðặng Văn Long không lay chuyển ý chí của Võ Văn Dũng nổi.
Về Bình Khê, Võ Văn Dũng tiếp tục xây dựng lực lượng chiến đấu. Toàn vùng An Khê và những vùng ở hai bên bờ sông Côn, như Tiên Thuận, Vĩnh Thạnh, Ðồng Phó, Hà Nhung, Trinh Tường, Phú Lạc, Phú Phong, Kiên Mỹ... đều nằm trong phạm vi hoạt động của Võ công. Nhưng được ít lâu, người Thượng Xà Ðàng bị nhà Nguyễn mua chuộc, rục rịch làm phản. Công phải bỏ hết cơ sở, đem ba chú cháu Văn Ðức, Văn Lương, Văn Ðẩu lên ẩn náu tận trên Núi Xanh.
Ca dao địa phương có câu:
Củ lang đồng Phó, đỗ phộng Hà Nhung Chàng bòn thiếp mót để chung một gùi Chẳng qua duyên nợ sụt sùi Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi...
Chim kêu dưới suối Từ Bi Nghĩa nhân còn bỏ huống chi cái gùi Ðó là mượn thể tỷ để nói về việc bất hòa giữa Võ công và người Thượng.
Võ công lên Núi Xanh ở cùng ba chú cháu Văn Ðức cho đến khi ba chú cháu bị sa vào lưới Vua Minh Mạng. Còn trơ trọi một mình, công vẫn sống một cách tự tại ngót mười năm nữa. Công mất dưới triều Thiệu Trị, không rõ năm nào, sống trên chín mươi tuổi. Mãi đến khoảng Ðồng Khánh, Thành Thái (1885-1907), con cháu mới lấy cốt đem về chôn ở Phú Phong.
Cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có bài Vịnh Võ Ðô Ðốc:
Tạo vật khốn hào kiệt Y tương sử hữu vi Công danh vị túc ngôn Hoặc tác xuất thể ty (tư) Võ công dũng quán quân Bách chiến khởi Tây thùy Thiên phương yểu trung nguyên Ðãi phi nhất mộc chi Thoát thân tứ thập niên Thế nhân thức công thùy Ðản kinh sơn thạch gian Hữu thử hùng báo ty (tư) Ngã diệc chí phương ngoại Bạch đầu vị phùng sư Niên niên hạnh thế phóng Thảng toại dữ thế từ Tùng công du Ngũ Nhạc Khể thủ thôn linh chi Kim cốt hoán lục tủy Khiêm nhiên tùng sao phi Nghĩa là:
Tạo hóa làm khốn đốn kẻ hào kiệt Ý muốn cho họ làm một việc gì.
Công danh không đủ nói, Hoặc giả bày ra cơ hội để họ thoát đời.
Cái dũng của Võ công thật quán quân, Từ biên giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng Nhưng trời muốn dứt nửa chừng Thì một cây không chống nổi.
Thoát mình khỏi nạn ngót bốn mươi năm Người đời ai biết ông?
Sống lâu ngày trong nơi núi vây đá chất Ông có tư thế mạnh như gấu như hùm Tôi cũng có ý muốn xuất thế, Nhưng đã bạc đầu mà chưa gặp được thầy.
Làm quan may được đuổi về Năm năm rảnh rang Muốn thoát khỏi cuộc đời Theo ông đi dạo chơi khắp năm ngọn núi Tiên Cúi đầu ăn cỏ linh chi, Xương vàng đổi tủy xanh Nhẹ nhàng bay theo sóng tùng.
Ngoài Võ Văn Dũng, còn một số lương tướng nữa thoát luật ác nghiệt của Gia Long, như:
+ Ðặng Xuân Phong năm Cảnh Thịnh thứ ba, được thăng chức Thái Phó, ban tước Huyện Công Tuy Viễn. Ðến khi Nguyễn Bảo bị giết, bà họ Trần đem con cháu lên An Khê lánh nạn, thì Ðặng công từ quan lui về Dõng Hòa dưỡng lão. Ðược năm năm, nghe tin Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Thành, Công mở tiệc mời thân bằng cố hữu đến, nói:
- Kẻ hào kiệt ra phò nhà Tây Sơn, phần nhiều đều là bậc trung nghĩa. Nhưng hầu hết đều dày công dày sức trong lúc xây dựng, mà không một ai đủ khả năng chống đỡ trong lúc ngã nghiêng! Nay mai mà Nguyễn Phúc Ánh thu trọn cả Bắc Nam, thì đất bằng nổi sóng, đám cựu thần nhà Tây Sơn, không còn chỗ đặt tay chân. Nếu đợi nước đến trôn, thì không còn nhảy kịp nữa.
Mấy hôm sau, có người đến thăm, thì thấy nhà không vườn trống. Ðặng công đưa gia quyến đi lúc nào và đi về đâu, không một ai hay biết.
+ Phan Văn Lân, lo việc biên phòng, nghe tin Cảnh Thịnh đoạt sự nghiệp của Thái Ðức, than dài một tiếng:
- Luân thường đã đứt, sự nghiệp không thể nào vững được lâu! Rồi giao công việc trong quân cho vị phó tướng, về An Thái thăm thầy. Thầy đã mất rồi, phò mã Trương Văn Ða cũng đã mất. Nơi xưa không còn ai là người cũ. Công bèn hỏi thăm phần mộ, ra thắp hương lạy thầy, ra đi... Như đám mây trôi trên ngàn thẳm.
+ Phạm Công Chánh trấn thủ Quảng Nam, Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa, nghe tin Bắc Thành thất thủ, liền mở kho phân phát hết quân lương quân trang cho binh sĩ, cho mọi người về quê quán làm ăn, còn mình thì một thương một ngựa ra đi. Phạm Công Chánh về ẩn núi Phương Phi tại Phù Cát, sau ra Cao Bằng. Lê Sĩ Hoàng về Quảng Nam, lên ẩn nơi Ngũ Hành Sơn.
+ Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc ở Quy Nhơn, cũng như Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, sau khi được tin Vua Cảnh Thịnh bị bắt, thì giải tán quân đội. Ông Lộc về Kỳ Sơn, dùng Hầm Rùa làm nơi trú ẩn. Ông Huy lên Dương An nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê hương, và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc.
Trừ Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy cũng như Nguyễn Văn Lộc và hầu hết các tướng còn sống sót, không một ai nuôi chí phục thù.
Một hôm ông Lộc hỏi ông Huy:
- Cựu thần nhà Tây Sơn, văn cũng như võ, còn khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại để lo việc phục hưng? Như thế chẳng ra là không tận trung với cựu chúa hay sao ?
Ông Huy đáp:
- Những anh hùng nghĩa sĩ, ra giúp nhà Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều lo tròn bổn phận cho đến giờ chót, như thế là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đã không còn nữa thì chúng ta còn trung với ai? Bầy tôi của Vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ lòng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác, đã chẳng lợi gì cho nhà Lê mà còn làm khổ dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến nước trước. Không có thể làm lợi cho dân cho nước thì nằm yên chớ không nên gây thêm rối. Trung với một người, một nhà mà làm hại cho dân cho nước, thì trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung ấy không phải là trung.
Nguyễn Phúc Ánh dò biết tung tích của một số cựu tướng nhà Tây Sơn, tìm đủ cách để tận diệt. Nhưng núi non đã hiểm trở lại thêm người địa phương che chở, nên mọi người đều sống yên. Không bắt giết được, Nguyễn Phúc Ánh bèn dụ hàng, nhưng không người nào đáp ứng.
Báo quốc nhất thân đô thị đảm Giao tình thiên tải chỉ luân tâm[100] Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Quan quân nhà Nguyễn chú ý nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn.
Trước hết là mộ ông Nguyễn Phi Phúc.
Truyền rằng mộ nằm trên dãy Hoành Sơn, thôn Trinh Tường.
Tìm khắp nơi, thì thấy sát chân núi phía đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum lum, trong khoảng này dáng núi hơi cong cong. Ðứng phía trước trông vào thì phảng phất giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay tựa vào núi, còn mặt ghế là trảng đất. Trên trảng đất, nằm song song hai tảng đá xanh to lớn, hình chữ nhật. Người ta bảo đó là mộ của vợ chồng Nguyễn Phi Phúc. Bọn đào mồ mừng rỡ, ra sức cạy hai tảng đá lên. Hài cốt không thấy đâu mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong đương cháy[101].
Ai cũng biết bốn chum dầu đó là của nhà Tây Sơn chôn, song mục đích để làm gì, thật không ai biết. Biết rằng không phải mộ ông Phúc, quân nhà Nguyễn tìm khắp nơi, song không thấy dấu tích.
Những mả vôi to lớn ở trong vùng Bình Khê đều bị quật.
Có ba khóm lớn nhất, một ở bờ sông Côn phía Trinh Tường, một ở thôn Phú Lạc, một ở thôn Kiên Mỹ, trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!
Những ngôi mộ này là mộ của các vị đại thần phò Vua Thái Ðức.
Ở thôn Trường Ðịnh cũng có ba ngôi mộ rộng lớn và rất kiên cố của đại thần nhà Tây Sơn. Nhưng khi nghe tin Quy Nhơn bị Phúc Ánh chiếm thì gia đình người khuất liền đục bỏ bia cũ, thay vào tấm bia mới mang tên đàn bà. Nhờ vậy mà khỏi bị quật[102].
Nhà Tây Sơn dẫy cỏ không sạch nên nhà Nguyễn mọc trở lại. Ðể nhà Tây Sơn khỏi mọc lại, Nguyễn Phúc Ánh cho dẫy tận gốc. Nhưng than ôi, đến cả gốc cỏ đã khô gần mục mà cũng bị dẫy! Quả là độc thủ!
Ðể tránh nạn tru di, con cháu những người có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn náu ngoài xứ lạ nơi xa.
Chính sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia Long làm lụy chẳng những người mà còn đến cả vật, nhất là vùng Tây Sơn.
Sách vở, giấy tờ đều bị tiêu hủy. Ðiển hình là những tập gia phả của họ Võ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Hòa, họ Ðặng ở Dõng Hòa, họ Trần ở Trường Ðịnh... Cho đến những bộ sử, những tập thơ văn... sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông Sử Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư (1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Võ Xuân Hoài tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh... Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xã ở Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...
Những môn võ thời Tây Sơn thường dùng, một số bị cấm. Thời Tây Sơn võ nghệ rất thịnh. Có bốn môn nổi tiếng là Côn, Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc binh thì quyền thay thế bằng kỳ.
Côn, quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ Bình Ðịnh mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.
Kỳ là cờ - lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ phía kết vào cán cờ, ba phía kia đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ huy vừa dùng để giết giặc.
Phải là người có sức mạnh và có võ giỏi, mới sử dụng được.
Cổ là trống. Trống lớn như trống chầu. Khi tập luyện thì đứng trên hai khối gỗ tròn lớn gấp đôi quả bưởi. Ðôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách lanh lẹ. Còn cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống, theo từng bài luyện võ. Khi thì dùng hai trống, khi thì dùng bốn, khi thì dùng tám, khi thì dùng mười ai, tùy trình độ và sức vóc của võ sĩ. Trống treo ở trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu người. Mỗi người hai trống. Không phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi chỗ lẫn nhau.
Khi ra trận thì dùng hai trống, đặt trên xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống không phải chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn dùng làm khí giới giết địch.
Gia Long cấm kỳ, kiếm, cổ.
Kỳ không bị cấm cũng không ai dùng nổi và cũng không ai học làm gì trong lúc không chiến tranh.
Kiếm chẳng những cấm dạy cấm học, mà trong nhà có kiếm cũng bị tội.
Cấm kiếm lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.
Cho nên nghề kiếm và đao ở Bình Ðịnh bị mất hẳn.
Còn cổ thì cũng thất truyền. Và môn võ biến thành môn nhạc. Võ thì đánh trống chầu và đánh trống treo. Nhạc thì đánh trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện võ vẫn được đem dùng vào việc đánh nhạc.
Nói tóm lại là tất cả những tinh ba của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long tìm đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không còn gì làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.
Tên vùng đất phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra An Tây.
Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ!
Nhưng chỉ bên ngoài thôi.
Lòng người Việt Nam yêu nước, nhất là người Bình Ðịnh, đâu có quên nhà Tây Sơn.
----------------- [100] Thơ của Nguyễn Bá Thuận đề sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì. Thơ 8 câu, đây là cặp luận. Câu thơ đại ý nói: Ðền ơn nước, một tấm thân đầy cả mật (can đảm đầy mình). Nghìn năm giao tình với nhau, chỉ lấy tấm lòng mà luận thị phi.
[101] Chắc có lỗ thông hơi trong đá nên đèn không tắt.. Khoảng 1929-1930, Tản Ðà tiên sinh có đến viếng mộ. Lúc ấy hai tảng đá vẫn còn. Cuộc viếng mộ có đăng trên báo. Nay không còn thấy.
[102] Những vôi đá của ba ngôi mộ bị quật vẫn còn sót ít nhiều. Ba ngôi mộ không bị phá vẫn còn, nhưng nắng mưa làm hư nhiều lắm. Một ngôi ở trong vườn họ Từ, một ngôi nằm ở trước ngõ họ Phan, một ngôi nằm ở nơi gò Vườn Xoài, cạnh con đường liên hương từ Kiên Mỹ đi xuống. Không ai dám nhận những ngôi mộ này là của gia đình, vì hình phạt của nhà Nguyễn rất tàn khốc. ( Theo Nhungxu- www.vanhoaphuongdong.com, http://vanhoaphuongdong.com/modules....0&high - http://vanhoaphuongdong.com/modules....0&high light= không rõ nguồn gốc) __________________
------------- Cù lao Lợi Quan thương nhớ
|
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 07/Nov/2010 lúc 11:48am
Mùa Xuân năn Kỷ Dậu, Đại Đế Quang Trung vào thành Thăng Long, dẹp tan giặc nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín. tranh qua cầu phao... Chệt chết vô số kể.. Lúc bấy giờ có rất nhiều người đến bẩm báo với Quang Trung .
Rằng người nầy làm tay sai cho Chệt, rằng người kia theo giặc giết dân mình...
Quiang Trung mĩm cười khoan dung độ lượng:
Nước ta thế yều, chiến thắng chỉ nhất thời thôi... bây giờ thống nhất đất nước, bỏ hết mọi tỵ hiềm .. cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước, tích trử lương thực, tạo quân đội hùng mạnh ..Mọi người đều là dân Việt.. Bỏ hết thù hằn
Ôi cao quý thay.Tấm lòng của một vì thiên tử !!
Tướng Trần Quang Diệu dẫn quân vây chặc thành Quy Nhơn. Tướng giữ thành là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu cố tử thủ... Thế yếu hai ngài biết có kéo dài thì chỉ tàn hại sinh linh.. nên ra lệnh hàng. Trước khi hàng Ngô Tùng Châu có trao cho tướng tây Sơn 1 lá thư đại ý .. Tội lỗi là ở người chủ tướng, binh sĩ dưới quyền chỉ là người thừa hành lệnh , xin tướng quân hãy khoan hồng mà đối xữ tốt với họ.
Trần Quang Diệu vào thành .. Tha tất cả binh sĩ cho về làm dân.. cấp cả tiền lộ phí.. Với quan thủ thành , Ông cho khâm liệm thi hài theo lễ nghi quân cách .. Tỏ lòng khâm phục trước khí tiết của người làm tướng
.
Cao quý thay trước tấm lòng của một tướng quân đầy uy dũng
Ngày thơ ấu còn đi học, môn đức dục và công dân giáo dục, sách giáo khoa đầy dẫy những bài học dạy làm người . Con người khác con vật ở chỡ biết suy nghĩ, học làm theo cái tốt .. lánh xa cái xấu... Bởi vậy lịch sử vẫn ghi lại đầy đủ gương trung thấn hiếu nghĩa.. Trần Ích Tắc, lê Chiêu Thống .. ngàn thu xú danh...
Mình là còn người nên phải khác loài vật.. Minh cũng không nên trách nhiều người vì thất học vì gia đình không giáo dục nên học theo thói xấu của người xưa.. Ôi hạng bồi tàu, thiến heo. chùi đường rầy xe lữa.. Chỉ là những con thú mang lốt người !!! Thương thay , tội nghiệp thay ...
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Nov/2010 lúc 5:42pm
Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn http://aa.rd.yahoo.com/vn/news/partners/logo/SIG=115lbsmlv/**http%3A%2F%2Fwww.tuoitre.com.vn%2F -
Tuổi Trẻ Online - Thứ Tư, 17/11
http://vn.news.yahoo.com/tto/20101116/tpl-lay-nhan-nghia-thang-hung-tan-ef16c59.html?printer=1 -
TT- – TT - Ký sự pháp đình “Lòng độ lượng” (Tuổi Trẻ ngày 12-11) viết về chuyện ông Nguyễn Trí tha thứ cho hung thủ đã giết chết con của ông, đồng thời ông và vợ kiên trì xin tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị Thùy Trang. Bài viết sau đó đã nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi của bạn đọc, tất cả đều nói lên sự cảm phục về lòng vị tha của vợ chồng ông Trí.
>> Xem trích đăng trên TTO
Bạn đọc hungnguyen viết rằng ông Trí đã gửi đến mọi người bài học vị tha, “một bài học mà tôi tin rằng không một hung thủ nào hoặc sát thủ nào lại không thấm thía, và ông cũng đã giải cho những người có lòng căm thù như tôi một bài học quá khó”.
Bạn đọc Nguyễn Thị Trâm Anh thì mong: “Giá cuộc sống có nhiều hơn nữa những người “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn” như bác Trí thì có lẽ sẽ không còn nhiều những cái chết đau thương”.
Xin giới thiệu chia sẻ của bạn đọc Thanh Vân như một ý kiến đúc kết:
Câu chuyện “Lòng độ lượng” của ông Nguyễn Trí hết sức đặc biệt, hiếm hoi trong xã hội ngày nay. Khi mà lắm người chỉ muốn tranh giành, hơn thua, thậm chí đâm chém nhau chỉ vì một xích mích, va chạm nhỏ.
Tuy rất đau lòng với cái chết của con mình nhưng ông đã bình tâm suy xét, đặt mình vào tâm trạng, hoàn cảnh của người khác... Và với cái nhìn sâu xa, nhân hậu, ông nhận ra dẫu sao hung thủ cũng chỉ là nạn nhân của sự thiếu chăm nom, giáo dục để rút ra một điều: hung thủ cần được giáo dục hơn là trừng trị.
Câu chuyện của ông làm tôi nhớ lại lần đi dự phiên tòa cách đây gần 40 năm. Bị cáo là một thanh niên 18 tuổi dùng búa đập đầu một nhà sư, cướp chiếc Vespa rồi bỏ đi vì nghĩ nhà sư đã chết. Tại tòa, nhà sư lên tiếng xin tha bổng vì hung thủ tuổi đời còn trẻ, chẳng qua nghiện ngập xì ke, ma túy phải làm liều. Ông khẳng định bị cáo chỉ là nạn nhân của một xã hội đầy rẫy tệ nạn...
Tất nhiên cả ông Nguyễn Trí và vị sư kia không thể xin tha tội cho bị cáo được hoàn toàn, vì luật pháp vẫn phải thi hành. Nhưng việc lên tiếng “xin tha” của hai người vẫn có giá trị lớn lao của nó.
Như tên cướp sau khi mãn hạn tù đã tìm gặp nhà sư nói lời cảm ơn, xin quy y tam bảo, trở thành một công dân tốt. Còn bị cáo Thùy Trang hôm nay tôi tin sẽ nhớ mãi những lời nói, hành động cao cả của vợ chồng ông Nguyễn Trí, đó cũng là bài học quý giá nhất trong những tháng ngày thụ án, là yếu tố then chốt, thuyết phục nhằm thay đổi, giáo dục một con người.
Đạo lý “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn” vẫn rất cần trong cuộc sống, trong bất cứ thời đại nào...
THANH VÂN (Trà Vinh)
http://vn.news.yahoo.com/tto/20101116/tpl-lay-nhan-nghia-thang-hung-tan-ef16c59.html - http://vn.news.yahoo.com/tto/20101116/tpl-lay-nhan-nghia-thang-hung-tan-ef16c59.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Nov/2010 lúc 7:16pm
Tô mì của người lạ Bích Ngọc phỏng dịch
"Câu chuyện này tôi nhận được từ một người bạn ở Malaysia gửi qua email. Chuyện cũng bình thường thôi nhưng tôi chợt xúc động vì đã có lúc tôi cư xử giống như cô bé trong truyện. Tôi cũng mong câu chuyện rất thường này được đăng để may ra cô con gái lớn của tôi, người hay bỏ nhà đi sau khi bị tôi mắng, có thể đọc được".
Tối hôm đó, Sue cãi nhau với mẹ rồi không mang gì theo, cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang lang thang trên đường phố, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà. Cùng lúc đó, cô đi qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô chợt cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền! Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quầy hàng bèn hỏi: "Này cô bé, cô có muốn ăn một tô không?" "Nhưng... nhưng cháu không mang theo tiền..." - cô thẹn thùng trả lời. "Được rồi, tôi sẽ đãi cô - người bán hàng nói - Vào đây, tôi nấu cho cô một tô mì". Mấy phút sau, ông chủ quán bưng tới cho cô một tô mì bốc khói. Ngồi ăn được mấy miếng, Sue lại bật khóc. "Có chuyện gì vậy?" - ông ta hỏi. "Không có gì. Tại cháu cảm động quá!" - Sue vừa nói vừa lấy tay quẹt nước mắt- "Thậm chí một người không quen ngoài đường còn cho cháu một tô mì, còn mẹ cháu, sau khi cháu cự cãi đã đuổi cháu ra khỏi nhà. Chú là người lạ mà còn tỏ ra quan tâm đến cháu, còn mẹ cháu... bả ác độc quá!" - cô bé nói với người bán mì... Nghe Sue nói, ông chủ quán thở dài: "Này cô bé, sao lại nghĩ như vậy? Hãy suy nghĩ lại đi, tôi mới chỉ đãi cô có một tô mì mà cô đã cảm động như vậy, còn mẹ cô đã nuôi cô từ khi cô còn nhỏ xíu, sao cô lại không biết ơn mà lại còn dám cãi lời mẹ nữa?" Sue giật mình ngạc nhiên khi nghe điều đó. "Tại sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Một tô mì của người lạ mà mình cảm thấy mang ơn, còn mẹ mình đã nuôi mình hàng bao năm qua mà thậm chí mình chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến mẹ dù chỉ một chút. Mà chỉ vì một chuyện nhỏ mình lại cự cãi với mẹ". Trên đường về, cô thầm nghĩ trong đầu những điều cô sẽ nói với mẹ: "Mẹ ơi, con xin lỗi. Con biết đó là lỗi của con, xin mẹ tha thứ cho con..." Khi bước lên thềm cửa, cô thấy mẹ đang mệt mỏi và lo lắng vì đã tìm kiếm cô khắp nơi. Nhìn thấy Sue, mẹ cô nói: "Sue, vào nhà đi con. Chắc con đói bụng lắm rồi phải không? Cơm nước mẹ nấu xong nãy giờ rồi, vào mà ăn ngay cho nóng..." Không thể kềm giữ được nữa, Sue òa khóc trong tay mẹ.
"Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta dễ cảm kích những hành động nhỏ mà một số người chung quanh làm cho chúng ta nhưng đối với những người thân thuộc, nhất là cha mẹ, chúng ta lại xem sự hy sinh của họ là sự đương nhiên..." Tình yêu và sự quan tâm lo lắng của cha mẹ là món quà quý giá nhất mà chúng ta được tặng từ khi mới chào đời. Cha mẹ không bao giờ mong đợi chúng ta trả công nuôi dưỡng, nhưng ... Liệu có bao giờ chúng ta biết quý trọng sự hy sinh vô điều kiện này của cha mẹ chúng ta không?
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 9:42am
Ðường Vào Nội Tâm Thích nữ Trí Hải
KHÔNG RƯỢU MÀ SAY
(Thuật theo chuyện kể của Hòa thượng Trí Nghiêm)
Vào một buồi chiều tịnh mịch ở Kỳ viên tinh xá, sau khi giảng pháp cho chư tăng và cư sĩ khắp nơi tụ về, Ðức Thế tôn vào Hương thất an nghỉ. Vừa đặt lưng xuống, Ngài bỗng nghe tiếng đập cửa thình thịch và tiếng khè khè của một gã say rượu thừa lúc cổng mở, đã lẻn vào tinh xá. Hắn vừa đập cửa vừa gọi:
- Ông Phật đi, ông Phật! Cho tui làm Phật với! Tui cũng muốn ... làm Phật! Khà khà! Bộ chỉ mình ông làm Phật được mà thôi à? Há?
Ðức Thế tôn ngồi dậy ra mở chốt. Thấy gã say dơ dáy, y phục tả tơi, Ngài động lòng trắc ẩn gọi thị giả A Nan:
- Này, A Nan, ông tắm rửa, cạo tóc và cho nó một cái y sạch. Rồi tìm chỗ cho nó nằm nghỉ.
A Nan vâng lệnh. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, cạo tóc đắp y, gã say được đưa đến một gốc cây im mát trong tinh xá. Gã đánh một giấc ngon lành cho đến sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, hắn bỡ ngỡ nhìn quanh thấy toàn thầy tu mặc áo vàng đi bách bộ, dòm lại mình cũng đang đắp y, sờ đầu nghe trụi lũi, hắn kinh hoàng không biết mình là ai, vội vàng bỏ chạy một mạch ra phía cổng. Các tỳ kheo đuổi theo bắt lại. Nhưng một số khác biết chuyện, ngăn bạn:
- Này, chư hiền, để cho hắn chạy. Hắn chỉ là một gã say, hôm qua Thế tôn bảo tôn giả A Nan tắm rửa cạo tóc đắp y vào cho hắn đấy.
- Thật Thế sao? Tại sao đức Thế tôn làm chuyện lạ nhỉ? Biết hắn say mà vẫn độ cho hắn xuất gia?
- Hãy để hắn đi cho khuất, rồi chúng ta sẽ đến thỉnh giáo đức Thế tôn về việc này.
Thế là họ kéo nhau đến Hương thất đức Phật, bạch hỏi:
- Bạch đức Thế tôn, chúng con không hiểu vì nguyên nhân gì Ngài lại độ cho một gã say như thế? Xin Ðấng Thiện Thế giải rõ cho chúng con.
- Này các tỳ kheo, các ông dường như trách ta vì đã độ cho một gã say. Nhưng ta hỏi các ông, trong lúc hắn say, tại sao không cầu chuyện gì khác, mà lại cầu làm Phật? Như thế là hắn đã gieo một cái nhân tốt đẹp, ta phải giúp duyên cho hắn, vì ta không hẹp gì mà không cho hắn làm Phật. Vả lại, có bao nhiêu người "tỉnh" biết cầu làm Phật như hắn? Vậy thì ai tỉnh, ai say? Huống chi, hắn có nhậu rượu vào mà say, thì bất quá chỉ say vài tiếng đồng hồ rồi tỉnh lại. Cho nên, bệnh say của hắn, ta không cho là trầm trọng.
Trái lại, biết bao kẻ trên thế gian này, dù không uống rượu mà vẫn say, không phải say vài tiếng đồng hồ như hắn, mà say muôn kiếp ngàn đời chưa tỉnh.
Cái bệnh say đó, say trong vô minh ái dục, Ta mới gọi là một chứng bệnh trầm kha!
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Dec/2010 lúc 9:32pm
Thiền Kitô Giáo
http://tgpsaigon.net/category/t%C3%A1c-gi%E1%BA%A3/%C4%91%E1%BB%97-tr%C3%A2n-duy - 27/11/2009
Sơ Lược Lịch Sử Thiền
Người Việt biết thiền qua các dòng tu Phật Đại Thừa và Thiền Tông trung Hoa. Vì vậy Kitô hữu Việt thường ái ngại khi nói đến thiền vì tin rằng đó là một sản phẩm Phật giáo. Thực ra thiền bắt nguồn từ nền minh triết Ấn Độ và đã có trước khi Phật Thích Ca ra đời. Vào thế kỷ III thiền được phổ biến qua Seria và Jordan. Thế kỷ X thiền truyền qua Nhật bản, Âu Châu và đại lục Sôviết. Đến thế kỷ XVIII hầu hết các nước trên thế giới đều biết đến thiền. Qua những giao thoa văn hóa, thiền biến thái thành nhiều môn phái. Ngay Thiền Tông Trung Hoa, mà người Việt quen thuộc, cũng chia ra nhiều phái, nào Nam Tông, Bắc Tông, Tào Động, Lâm Tế…Vì vậy không thể đưa ra một dạng cụ thể nào làm mẫu mực khi nói về thiền.
“Thiền” theo nguyên ngữ Phạn (Sanskrit) là “dhyana”. Phật Thích Ca đọc theo âm Pali của ngài là “jhana”. Chữ jhana chuyển qua Tạng ngữ là “dzogchen” và qua Hoa ngữ là “ch’an”. Từ ch’an chuyển qua Nhật ngữ là “zen” và chuyển qua Việt ngữ là “thiền”. Zen được người Tây phương giữ nguyên chữ zen hoặc dịch là meditation. Chữ meditation (chiêm niệm) đã có từ rất lâu trong ngôn ngữ Thiên Chúa giáo phương Tây. Vì vậy để mặc cho nó một nghĩa mới, nhiều nơi người ta dùng chữ Christian meditation (thiền Kitô). Tóm lại từ “dhyana” trở thành “thiền” là một phiên âm sai lạc qua nhiều chặng đường. Thiền tự chính nó không có bóng dáng một tôn giáo nào.
Chiêm niệm bắt đầu từ thời sơ khai của giáo hội và chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Sử có ghi vào thế kỷ III nhiều tu sĩ vào sa mạc để sống đời chiêm niệm. Theo khái niệm chiêm niệm thời cổ, chúng ta hiểu là có gắn bó với thiền. Ngay danh xưng monk (tu sĩ) và monastery (tu viện) đã nói lên thâm ý của các tổ phụ chiêm niệm. Monk và monastery cùng có gốc Hy Lạp “monos” nghĩa là đơn độc. Theo truyền thuyết, đã có nhiều tổ thiền nổi danh như Moses, Poemen, Joseph… Câu nói đầy thiền tính của tổ phụ Moses là: “Hãy về tĩnh tọa trong phòng. Căn phòng sẽ dạy ta mọi sự.” Tuy nhiên những vị tổ này đều sống ẩn tu nên người đời sau không biết nhiều về họ. Một tôn sư được lịch sử nhắc tới là thánh Pantaenus với một cuộc đời đầy huyền thoại. Sử cho biết ngài đã sống ở Ấn Độ và được truyền thụ dhyana. Thánh Pantaenus sau đó truyền dhyana cho đệ tử là thánh Clement. Clement truyền lại cho Origen. Năm 300 thánh Paul lập tu viện ở núi Thebes bên Ai Cập. Thánh Paul là vị ẩn danh nên không để lại vết tích nào. Năm 310 thánh Anthony (250-356) thành lập tu viện trên núi Cairô qui tụ hằng ngàn tu sĩ sống đời chiêm niệm và tu thiền. Atanasius, Giám Mục Alexandria, viết về thánh Anthony như sau: “Ngài đơn độc vào sa mạc ẩn trú trong hốc đá. Cứ 6 tháng ngài đi lấy lương thực một lần. Ngài ở đơn độc như vậy trong nhiều năm để tu luyện cách từ bỏ mình.”
.Vào thời trung cổ thiền được giới thiệu cho Kitô hữu bởi giáo sĩ Richard (?-1173). Hiện thời, thiền được phổ biến rộng rãi nhờ công của các linh mục dòng Bênêđíc. Hai tổ thiền nổi tiếng là Thomas Merton (1915-1968) và John Main (1926-1982). Cha Merton, nhà thần học lớn của Công Giáo, có công đào sâu ý niệm về thiền. Cha Main có công dậy về luyện thiền. Trước khi đi tu, John Main đã học thiền với một đạo sư Ấn Độ. Sau khi thụ phong linh mục, Main lập ra 2 đại thiền viện một ở Luân Đôn và một ở Gia Nã Đại. Hiện tại vị kế nghiệp cha Main là cha Laurence Freeman (1951-?). Gần đây Kitô hữu Việt hải ngoại cũng biết tới thiền qua sự giới thiệu của cha Chu Công (1918-2004), Tu Viện Trưởng dòng Tra-pít. Cha Chu Công thụ huấn thiền với thiền sư Nhật Bản Joshu Sasaki Roshi. Ngoài ra những đoản văn ghi những vấn đáp thiền được phiên dịch và phổ biết rộng rãi trong giới Công Giáo. Có lẽ để tránh sự nhạy cảm lạc hướng, danh xưng “thiền sư” hay “guru” được dịch là “minh sư” cho có tính trung hòa. Sự đón nhận thiền của các linh mục đã đánh tan mối dè dặt của Kitô hữu về một kỹ thuật tĩnh tâm rất sống động.
Khái Niệm Thiền
Bất cứ đời sống tâm linh nào cũng phải đi đến giai đoạn tĩnh tâm thiền định. Đó là nhu cầu tâm hồn hòa nhập vào Đ.ại Ngã. Cha Shannon gọi là trở về sống trong vườn địa đàng, nơi ta không còn cái tiểu ngã là gốc phát sinh những phân chia nhị nguyên giả tạo. Thiền không phải là một hệ thống tư tưởng, hay cảm giác, hoặc một nhận thức tâm lý… Vì vậy ta đừng rơi vào cạm bẫy tìm hiểu thiền qua những giảng giải đầy chữ nghĩa. Thiền là một chứng nghiệm sống không thể giảng giải. Khi ta bị đau vì đứt tay. “Đau” là một thực tại sống, không phải là khái niệm. Nếu phân tích “đau là gì?”, ta phải đóng khung nó vào một khái niệm. Đau trở thành một khách thể để suy tư. Nhưng ta không thể kinh nghiệm đau qua suy tư giảng giải. Sự thật đau là đau. Ta và đau là một. Chủ và khách không có. Trong thiền có câu “Dù nói mãi về đồ ăn cũng không làm ta no bụng”.
Tuy nhiên người ta thường không thể chấp nhận một điều gì đó mà không có tối thiểu một vài khái niệm về nó. Vì vậy người ta đành phải có luận bàn về thiền. Triết gia Descartes nói một câu thâm sâu: “Tôi suy tưởng, vì vậy tôi hiện hữu.” Câu này rất đúng với trí thức, nhưng đối với thiền nó lại hoàn toàn sai. Trong thiền, ta càng suy nghĩ bao nhiêu, ta càng xa chân thân bấy nhiêu. Nếu ta lệ thuộc vào “cái tôi suy tưởng” ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự thức tỉnh. Khi ta nói, “tôi hiện hữu” ta bắt buộc phải đẩy Chúa ra ngoài thành một đối tượng. Nhưng bản thể của Chúa là “Ta Là” (I Am) trong trạng thái “đang là” ở mọi nơi và trong hiện tại.
Tại sao trí thức không thể giúp ta ý thức? Ta hãy nhận diện sự diễn tiến của trí thức. Trí thức xác định mỗi vật phải có một vị trí riêng trong không gian và thời gian. Nhờ có khoảng không gian biệt lập này, mà con người có chỗ đứng để nhìn ngắm và suy tưởng về vạn vật. Khi ta nhìn ngắm bông hoa, ta phải đứng ở vị trí của ta và bông hoa phải đứng ở vị trí đối lập với ta. Ta là ta. Bông hoa là bông hoa. Như vậy luôn luôn có hai thế đứng: chủ và khách. Sự biện biệt này là cách đánh lừa rất sâu sắc của trí thức. Nó sẽ dẫn ta tới những lối bí khó gỡ. Trong đời sống tâm linh, để có thể gọi là “ý thức”, ta với đối tượng phải hòa làm một. Muốn “chứng nghiệm” tâm phải thanh tịnh để không có một ý nào của tri thức lọt vào. Nếu ta phải nương vào khái niệm để biết, ta sẽ luẩn quẩn lạc lối trong khái niệm mà không bao giờ có kinh nghiệm về thực tại. Một cách cụ thể khi thiền ta hãy ngồi im lặng coi như thân xác đã chết dù tâm trí vẫn tỉnh. Ta bỏ lại đàng sau tất cả những gì liên quan đến đời sống trần thế, kể cả thân xác chính ta. Có như vậy ta mới tái sinh vào một thế giới cao đẳng hơn. Khi đó ta đạt thức tỉnh sự hiện hữu “đang là” của Thiên Chúa.
.Theo Đạo học Đông Phương, tâm là một bản thể tĩnh lặng. Tâm như bầu trời là một khoảng trống mênh mông, không màu sắc, không tiếng động, không quá khứ, không tương lai. Trong khi đó tư tưởng như những đám mây vần vũ, luôn luôn di chuyển, thay hình đổi dạng, và che khuất bầu trời. Người chứa đầy tư tưởng trong trí óc cũng như bầu trời bị mây phủ dầy đặc. Như vậy tâm vốn an tịnh, mọi rắc rối đều bởi trí óc mà ra. Chúng là tiến trình của những chuỗi tư tưởng đến rồi đi. Do đó tư tưởng chỉ là cái nhất thời. Chúng không phải là ta, nhưng là những kẻ bên ngoài tới rồi đi như những vị khách. Ta đón nhận chúng, khách tốt lẫn khách xấu, nhưng không thay đổi vị thế chủ nhà của mình. Có nghĩa là trí biến dịch nhưng ta vẫn tồn tại ở đây với tâm thanh khiết và đơn thuần. Vén mây để nhìn vào bầu trời, đặc ngữ thiền gọi là “quán tâm” (nhìn vào nội tâm). Nhìn ra sự thanh khiết của bầu trời (tâm) gọi là “ngộ” (trực giác biết không qua trí thức). Muốn nhìn vào bên trong tâm, đơn giản chỉ là ngồi im lặng gạt bỏ mọi tạp niệm, tức ngồi thiền. Thiền là đẩy những đám mây mù đặc để bầu trời (tâm) yên tĩnh hiện ra.
Một số nhà tư tưởng Công Giáo giải thích thiền là dạng cầu nguyện tập trung (centering prayer). Cầu nguyện tập trung là đặt tất cả ý thức sự hiện hữu của mình an trú trong thời điểm hiện tại với Chúa. Cha Chu Công nói: “Ta không tìm bình an, không tìm giác ngộ, không tìm gì cho mình… Chúa là tất cả của giờ cầu nguyện.” Cha Merton cho rằng: cầu nguyện không phải chỉ là đứng trước Thiên Chúa để nói một điều gì, nhưng còn là để “kinh nghiệm niềm vui cuộc sống trong sự hiện diện của Ngài”.
Thiền là ngồi “cầu nguyện” nhưng không đọc kinh, không suy ngẫm, không chiêm niệm, và không tư tưởng. Ta không có ý cầu nguyện bất cứ điều gì, dù là cầu nguyện với Thiên Chúa. Ta cũng không hy vọng bất cứ điều gì xảy ra, dù là hy vọng vào Thiên Chúa. Ta đóng lại mọi giác quan, mọi xúc cảm, mọi suy nghĩ, mọi lo lắng, mọi ràng buộc, để chìm vào cõi im lặng của hư vô. Khi Thiên Chúa sinh ra con người, Thiên Chúa thở hơi vào xác phàm của con người. Xác phàm trở thành mạng sống vì hơi thở của Thiên Chúa là Thần Khí ban sự sống. Vậy trong thiền, ta chỉ nên ngồi im lặng mà hít thở. Ta hòa tan hữu thể với Thần Khí ban sự sống. Thiền không phải là việc làm của trí thông minh, nhưng là thời gian của đức tin và lòng khiêm nhường. Tất cả mọi ý thức của ta tập trung hoàn toàn trong ý thức “đang im lặng trong niềm tin”. Các thần học gia gọi phương thế giữ mình trong im lặng là sự an trú trong tình yêu của Thiên Chúa.
Yếu quyết của thiền là giải phóng mọi ràng buộc để mình là chính mình. Giải phóng là buông xả mọi xiềng xích. Nếu ta không buông xả, ta vẫn còn vướng mắc trong một khuôn mẫu chật hẹp nào đó. Mọi khuôn mẫu đều bị giới hạn trong vòng kiểm soát của trí óc. Chưa buông xả, ta chưa đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Hãy hủy bỏ mọi tư tưởng. Hãy hoàn toàn tĩnh lặng để tâm hồn chìm sâu vào hư vô, nơi Thiên Chúa hiện diện.
Thiền Kitô
.Nói cụ thể thiền Kitô chính là dạng thiền của Đông Phương phối hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Kitô giáo trong thế kỷ III. Linh hồn Kitô hữu phải gặp Chúa của mình. Nhưng “Ai là người sẽ đứng trước mặt Chúa. Ấy là người tay không nhúng tội và trái tim trong sạch” (TV 24:3-4). Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và trong sạch. Chính Chúa đã phán: “Hãy im lặng để biết Ta là Thiên Chúa” (TV 46:10). Thiền là chiêm niệm trong im lặng, là cách cầu nguyện với kinh vô thanh. Merton đưa ra khái niệm về thiền như sau. Vì Thiên Chúa là ánh sáng quá chói chang khiến trí óc và mắt con người chỉ thấy tối tăm. Vì vậy để gặp Người ta phải đi vào bóng tối. Vì Thiên Chúa không thể hiểu qua âm thanh, nên để gặp Người ta phải đi vào cõi im lặng. Vì Thiên Chúa không thể mường tượng trong trí óc, nên muốn gặp Người chúng ta phải đi vào cõi trống không. Tuy nhiên ta vẫn thức tỉnh để trực giác “biết” rằng ta đang hòa vào Thiên Chúa trong hiện tại vĩnh hằng. Đó là bí quyết thiền.
Yếu tính của tĩnh lặng là gì? Tĩnh lặng nằm bên ngoài thế giới vật lý và những định luật của vũ trụ. Nó hoàn toàn chỉ là sự trống vắng rất đơn sơ giản dị. Giản dị đến mức không có gì để nói. Thiền là sống với tín lý “tinh thần nghèo khó” vì khi đó chúng ta không bám víu vào bất cứ giá trị nào của trần thế. Chúng ta thoát khỏi mọi hình thức vị kỷ. Trong tĩnh lặng, lời nói mất hiệu lực, ý niệm không còn ý nghĩa. Ta không còn sợ hãi. Ta không còn khả năng “động”. Ta hoàn toàn an tĩnh. Trong trạng thái tuyệt đối tĩnh lặng vượt khỏi biên giới ngôn ngữ, tư tưởng, và ý niệm, ta hoàn toàn khuất phục Thánh Linh. Ta lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa trong sự phó mặc. Rồi “bản thể đích thực” của ta sẽ tự sống dậy. Ta sẽ thấy bản thể thật của mình cũng là bản thể của Thiên Chúa. Lúc ấy tâm linh ta sống trong sự hiện hữu vĩnh hằng của Thiên Chúa. Đó chính là sự cầu nguyện tuyệt hảo vì khi đó ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Ta thức tỉnh để kinh nghiệm sự hiện hữu của Thiên Chúa và ta hòa nhập trong Người.
Chủ yếu của thiền là chứng nghiệm cá nhân. Tuy nhiên khi thiền ta đừng mong muốn hay cầu nguyện điều gì. Quyền lực của thiền không phải ở lý luận trí thức nhưng ở sự hoàn toàn qui thuận Thiên Chúa. Thomas Merton nhắn nhủ ta rằng: Không phải chúng ta là người lựa chọn sự thức tỉnh cho mình, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng lựa chọn đánh thức chúng ta.”
Kỹ Thuật Thiền
.Như trên đã nói thiền có rất nhiều dạng, nên không thể lấy một dạng nào làm tiêu chuẩn mẫu. Ở đây, để có thể đàm luận một cách cụ thể, tôi xin mượn phép thiền của cha John Main. Bí quyết của thiền là ngồi im lặng, nhưng người ta nghiệm ra, không dễ gì mà giữ im lặng trong trạng thái hoàn toàn có ý thức. Trí óc con người rất giao động. Nó luôn luôn tuôn ra những hình ảnh và tư tưởng lộn xộn. Đàng khác nó cũng rất bén nhạy với tư tưởng và hình ảnh quyến dụ từ bên ngoài. Nó như chiếc lông chim nhẹ, chỉ cần một làn gió thoảng đủ khiến nó bay đi. Vì vậy, cái cốt yếu phải biết trong thiền là kỹ thuật giữ thinh lặng. Các tổ phụ Kitô thiền dậy rằng để giữ thinh lặng, chúng ta phải ngồi giữ lưng thẳng, hơi thở điều hòa, mắt nhắm lim dim, miệng tụng mantra (một câu kinh ngắn), rồi chìm vào hư vô. Cần nói rõ mantra không phải là lời cầu nguyện. Nó chỉ là câu niệm âm thanh để giúp trí óc không chạy vẩn vơ. John Main đã dùng nhóm từ “maranathan” làm câu niệm cho phép thiền của ngài. Sau một thời gian công phu luyên tập, ta đạt tới trang thái hoàn toàn tĩnh lặng, đặc ngữ thiền gọi là nhập định, khi ấy ta không cần tới mantra nữa. Tuy nhiên không ai biết khi nào ta đạt trình độ này. Nó tự nhiên đến mà không báo trước. Nếu ta mong nó đến, ta đã đi sai đường. Tất cả những gì ta cần phải làm là “Ngồi xuống, giữ thẳng lưng, tụng mantra.” Ngoài ra không kỳ vọng bất cứ một điều gì.
Thêm nữa không phải lúc nào thiền cũng được. Thiền chỉ nên có mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng từ 20 đến 30 phút vào những giờ giấc nhất định. Vì vấn đề kỹ thuật được nhấn mạnh, nên người ta có khuynh hướng tục hóa nghi thức này. Cuối cùng nó có thể trở thành một loại công phu “Yoga” luyện tập thể chất. Điều này không phải là sai, vì lối “ngồi im lặng” hóa giải được sự căng thẳng của thể xác và làm thư giãn tinh thần. Nhưng nếu ta không ý thức đó là dạng cầu nguyện, nó chẳng mang lại một tiến bộ tâm linh nào cho ta cả.
.Vào mỗi buổi sáng và buổi tối, ta hãy tìm một chỗ thanh vắng để thiền. Ta hãy ngồi với tư thế thanh thản, điều quan trọng là phải giữ sống lưng thẳng đứng. Có rất nhiều cách ngồi. Ngồi theo thế tòa sen (kiết già) hai bàn chân bắt chéo đạt lên đùi. Ngồi theo thế bán kiết già, xếp chân nhưng không bắt chéo đặt trên đùi. Ngồi trên ghế. Nếu ngồi trên ghế, tốt hơn đừng dựa lưng vào thành ghế. Tóm lại ngồi cách nào cũng được miễn ta thấy thoải mái. Thế ngồi thẳng lưng đứng tạo sinh lực giúp ta vượt giới hạn của thân và trí để có trạng thái buông xả.
Trước khi thiền ta nên để tâm hồn hoàn toàn buông xả. Kế đó ta tụng câu “Ma-ra-na-tha”. Bốn âm thanh này phát ra đều đặn trong suốt buổi thiền. Ma-ra-na-tha có nghĩa là “lạy Chúa xin hãy đến”. Đây là tiếng Aramiac, ngôn ngữ của Đức Giêsu dùng khi xưa. Cha Main luôn luôn nhắc nhở “Hãy chỉ tụng lời, đừng nghỉ đến nghĩa”. Tụng đơn sơ và thanh khiết như con trẻ.
John main tìm ra phương pháp này qua phương pháp tĩnh tâm của thánh John C***ian (360-435) ở thế kỷ IV. Thánh C***ian cùng bạn là thánh Germanus đi vào sa mạc Ai Cập học đạo với tổ phụ Isaac. Ngài Isaac tiết lộ rằng tất cả những gì ông biết đếu bắt nguồn từ tụng một câu kinh ngắn. Sau đó Isaac dạy cho C***ian lời nguyện với bí quyết: khi tụng kinh hãy buông mình theo hướng Chúa dẫn mình đi. Đừng trói buộc Chúa vào bất cứ một tư tưởng nào.
John Main tâm sự, “Câu mantra của tôi là maranatha. Câu này là lời kinh tối cổ của giáo hội Kitô. Thánh Phaolô kết thư gửi cho tín hữu Côrintô bằng câu ấy. Thánh Gioan kết thúc sách Khải Huyền cũng bằng câu ấy. Maranatha đầy đủ ý nghĩa lại không phải là ngôn ngữ của chúng ta. Vì vậy khi đọc, câu này không gợi ra một hình ảnh hay một tư tưởng nào khuyết khích trí ta suy nghĩ. Tất cả chỉ có âm thanh đều đặn theo nhịp điệu hòa hợp với hơi thở.”
.
Mục đích của thiền là giúp chúng ta cởi bỏ những gì thuộc thế giới ảo ảnh, vén tấm màn che dấu để năng lực sống của Thiên Chúa truyền vào chúng ta. Hữu thể của ta đã nối kết với Thượng Đế ở một nơi ngoài tầm của ngôn ngữ, của lý trí và của những thực thể. Thiền không phải là làm một việc gì. Không phải là tu luyện để trở thành một nhân vật khác. Thiền là trở thành chính mình: sinh ra bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian “tu thân” chúng ta mới hiểu ích lợi của thiền. Như kho tàng dấu trong ruộng, bản tính đạo đức ẩn khuất từ từ khai triển và mở ra. Chẳng hạn ta tự nhiên có lòng bác ái, điều mà ta đã cố gắng lập đức từ lâu mà không sao thể hiện được. Sự diễn biến xảy ra rất tự nhiên trong khi ta không biết tại sao. Chính Thiên Chúa đã thanh lọc tâm hồn ta trong những lần ta đến an trú trong Người. Vào mỗi buổi sáng, sau khi chìm trong thiền định, sự thanh tịnh tồn tại bao phủ tâm hồn ta suốt cả ngày. Mọi việc tầm thường ta làm trong ngày đều có ý nghĩa hơn, vì ta có cảm nhận Thiên Chúa đứng đàng sau mọi việc.
http://vietwellness.net/blog/?p=69 - http://vietwellness.net/blog/?p=69
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 10/Dec/2010 lúc 6:04pm
Nắng Đọng Sân Chùa |
DIỆU TRÂN
Lúc sau này, tôi hay bị những câu thơ ngắn quyến rũ, khi thì bốn câu, khi thì chỉ hai câu thôi cũng đủ khiến tôi ngơ ngẩn, nghĩ suy; hoặc có lúc chẳng nghĩ, chẳng suy gì nhưng âm hưởng lời thơ cứ lặng thầm cuốn hút, như chiếc lá đã rơi xuống giòng sông, không thể cưỡng lại để không trôi theo con nước.
Chiều nay, bốn câu thơ mãi quẩn quanh trong tôi mà tôi lại không biết tác giả! Thế mới tội lỗi chứ. Tôi cũng không nhớ đã đọc ở đâu, lúc nào, nhưng tất nhiên tôi đã từng đọc nên thơ mới ngủ yên nơi tàng thức để bây giờ thong thả ra chơi ! Tại sao lại bây giờ ? Chỉ có trời biết và thơ biết chứ tôi làm sao biết được !
Thôi đành. Thơ đã thức thì tôi chơi với thơ xem. Chỉ xin tác giả ở đâu đó, hãy lượng thứ cho sự lú lẫn này.
Bốn câu thơ như sau:
Nhìn nắng đọng sân chùa,
Khách có biết mấy lần dâu bể?
Lắng chuông ngân đầu cỏ
Người không hay một thoáng vô vi?
Chỉ thế thôi. Có quý vị nào cảm thấy bồi hồi như tôi không? Nếu có, xin chia xẻ với tôi nhé!
Chỉ một câu “Nhìn nắng đọng sân chùa” tôi đã cảm thấy thương quá là thương ! Thật ra câu này cũng có tả gì đặc biệt đâu, tia nắng chiếu xuống sân chùa thì trong thơ văn đã từng gặp biết bao. Nhưng câu này không chỉ muốn dẫn người đọc tới vệt nắng đang lung linh mà chữ “nhìn” còn ẩn dụ bóng dáng ai đó, lặng lẽ cùng với nắng mơ màng. Ai đó, nhìn nắng rồi bâng khuâng nói với những người chưa quen biết:
Khách có biết mấy lần dâu bể?
Chưa biết nhau mà “ai đó” lại ân cần thế? Ai đó, hẳn phải có tấm lòng độ lượng, coi những người chưa biết như đã biết, những người chưa thân như đã thân mới nhắc nhở như vậy. Ai đó, đứng giữa sân chùa, nhìn tia nắng lung linh trên phiến gạch và biết rằng không bao lâu, tia nắng đọng nơi sân chùa này sẽ men lên bờ tường, sẽ leo qua hàng giậu, xuyên qua bụi chuối và rồi sẽ tắt ở cuối vườn rau. Chắc chắn như thế. Tia nắng đang có đây, có thật, nhưng tia nắng sẽ tàn, sẽ mất, như không thật, như cơn mơ. Ai đó đã mượn hình ảnh này để nhắc nhở khách du rằng, cuộc đời ta tưởng là có thật cũng qua nhanh, cũng đổi thay thoáng chốc thế thôi. Bao lần dâu bể là bấy nhiêu luân hồi, đến rồi đi như giấc mộng.
Nhắc khách du như thế sợ chưa đủ, ai đó còn từ bi khẽ bảo “Bạn ơi, thử dừng lại tâm giao động, nghe tiếng chuông ngân trên đầu cỏ, bạn có thấy lòng thanh thoát, tịch tĩnh hay không?”
Tiếng chuông này có cần thực sự phải là tiếng chuông không? Hay chuông đây là chuông tỉnh thức trong tâm thức mỗi người. Tiếng chuông đó bị bao âm thanh hỗn loạn của cuộc sống đua chen thường xuyên át đi. Chỉ khi nào dừng được tham sân si thì tâm kia mới có thể bước qua những phân biệt ngã chấp để tiến tới chân ngã. Nơi đây thân đã an, tâm đã lặng, ý đã trong, khách du có thể rời thuyền, lên bờ. Trước khi hoan lạc bước vào cõi thong dong, ngoảnh nhìn bờ bên kia bụi mù gió lốc, khách du có thương cảm cho những ai chưa biết dừng vô minh hay không?
Vua Trần Nhân Tông, vị vua khai sáng giòng thiền Trúc-Lâm để cho hậu thế kinh nghiệm bản thân đắt giá của ngài bằng hai câu thơ:
Mặc ai tranh bá đồ vương
Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này.
Một vị vua có sẵn ngai vàng, quyền lực trong tay, không cần phải tranh giành với ai mà còn buông bỏ hết khi nhận ra lẽ vô thường của đời này. Tấm gương lớn trước mắt như vậy nhưng người sau vẫn không thấy, vẫn tận lực xả thân nắm bắt bóng nước, nắng chiều, khi ngày tháng lạnh lùng qua đi không chờ, không đợi.
Trong văn học Hồi-giáo có một nhân vật rất lạ lùng. Ông ta tên là Nasrudin. Đã là người thuộc giới văn học, tất nhiên không đến nỗi ngu si, nhưng ông thường có những hành động bất bình thường, khi thì rất trí tuệ, lúc lại vô cùng khờ khạo. Chẳng hạn, có lần bằng hữu của ông thấy ông ngồi trước một đĩa ớt đầy ắp. Ông say sưa bốc hết trái này tới trái kia, nhai, nuốt, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng vì cay, miệng xuýt xoa vừa khóc, vừa mếu. Một người thương tình bèn quát lên:
Ớt cay xé lưỡi, cớ sao cứ ăn rồi khóc vậy?”
Ông Nasrudin vẫn vừa ăn, vừa phân trần rằng:
Thì tôi nghĩ, thế nào cũng phải có một trái ngọt chứ!”.
Cuộc tranh đua mà chúng ta đang hàng ngày tiêu pha đời mình có khác chi thái độ kỳ dị của ông Nasrudin kia không? Mới nghe câu chuyện, đa số chúng ta đều kết tội ông này không khùng chắc cũng điên.
Nhưng Nasrudin có điên không, hay ông chỉ mượn hành động “điên” đó để nhắc nhở những người “tỉnh” như chúng ta rằng, chúng ta đang tiêu phí từng phút từng giây đời mình cho sự tranh đua trăm cay nghìn đắng để tìm một chút ngọt ngào hư ảo ! Chúng ta không chỉ điên rồ ngốn một đĩa ớt vì hy vọng sẽ có trái thơm ngon mà suốt chặng ta-bà, chúng ta đã khổ lụy biết bao vì liên tục tự nguyện nếm từng thùng, từng vựa ớt!
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy một câu rằng:
Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng, do vi an lạc,
Bất tri túc giả, tuy xứ thiên đường, diệc bất xứng ý.
Câu này tạm hiểu là: Người biết thế nào là đủ thì tuy nằm dưới đất, người đó cũng được an vui. Trái lại, người không biết đủ, luôn chật vật chạy theo ước vọng thì dù ở thiên đường cũng chẳng bao giờ toại ý.
Thế nào là đủ?
Mỗi chúng ta, nếu quyết tâm đi theo đường Phật dạy, sẽ tự tìm thấy câu trả lời cho mình vì mọi sự, mọi việc, dù vi tế đến đâu cũng có sẵn một cánh cửa vô hình. Cánh cửa đó, khéo nương theo sẽ mở ra không gian bát ngát Chân Như.
Diệu Trân
(Như-Thị-Am, tháng tám 2006) |
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=119&nid=93933 - http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=119&nid=93933
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Dec/2010 lúc 9:26pm
13 December 2010
Sự cám dỗ của Phật Giáo tại Pháp
"Trong giáo lý người ta dạy tôi tình yêu đối với người đồng loại. Vào năm 1939 khi tôi thấy các Giám Mục làm lễ ban phép lành cho các khẩu đại bác, tôi chẳng hiểu ra làm sao ! ".
Sự cám dỗ của Phật Giáo tại Pháp
|
|
|
Nguyên tác Pháp ngữ : Alain Renon / Le Monde Diplomatique
Chuyển ngữ :Khánh Hải Triều Quang
Với khoảng 2 triệu rưỡi tín đồ tại Âu Châu và ít nhất là 5 triệu tại Hoa Kỳ, Phật Giáo đã thật sự bén rễ ở Tây Phương. Sự phát triển của Phật Giáo rất rõ rệt, đặc biệt là ở lục địa Âu Châu, nơi mà 30 năm trước đây chỉ được xem như là một tôn giáo ngoại nhập hay chỉ là một thứ triết học dành cho các nhà thông thái nghiên cứu. Thời đó đã qua rồi, thí dụ như là trường hợp nước Pháp.Thất vọng trên lảnh vực chánh trị hay là nạn nhân của sự bất ổn tinh thần càng ngày càng tăng, nhiều người đã đến với Phật Giáo với hy vọng tìm thấy một giải đáp cho cuộc sống.
Tại Âu Châu, nước Pháp là nơi Phật Giáo phát triển ngoạn mục và đa dạng nhất. Trong vòng 20 năm có gần 200 tự viện và trung tâm Phật Giáo được thành lập.(1). Số lượng tín đồ cũng tăng theo cùng một nhịp độ: số Phật tử gấp đôi trong vòng 10 năm: năm 1976 với 200,00 tín đồ, đến năm 1986 tăng lên 400,000. Đến năm 1997 con số này lên tới 600,000. Bộ Nội Vụ và Sở Thống Kê đều đồng ý với con số này. Phần lớn tín đồ của Liên Hiệp Phật Giáo tại Pháp, quy tụ chừng 80% các hiệp hội Phật Giáo. Phật Giáo hiện là tôn giáo lớn thứ 5 tại Pháp (2). Về phương diện tâm linh, Phật Giáo là tôn giáo được người Pháp ưa chuộng vào hàng thứ ba. (3)
Bắt đầu từ thập niên 1960, 'sự thành công của Phật Giáo trước nhất là nhờ công của các Thiền Sư Nhật Bản và Tây Tạng. Phật Giáo may mắn có mấy 'mạnh thường quân' theo Phật Giáo, như nhà tỷ phú gốc Anh, Bernard Benson, khi đến lập nghiệp tại Dordogne (Pháp) từ đầu thập niên 1970, đã mới các nhà sư Tây Tạng đang tỵ nạn đến giảng pháp'. Một nhà xã hội học, Frederic Lenoir, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Liên Ngành Về Tôn Giáo, Tại Trường Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội đã xác nhận như thế. Sau đó cuộc di dân vĩ đại của sắc dân Á Châu, nhất là Việt Nam và Cam Bốt đã làm con số thống kê tín đồ Phật Giáo tăng nhanh. Hai phần ba tín đồ Phật Giáo tại Pháp là người Á Châu. Tuy nhiên số lượng tăng trưởng nhanh chóng này không che khuất được sự kiện quan trọng: số lượng người Pháp chính gốc theo đạo Phật cũng tăng gia nhanh chóng, dù chỉ chừng vài mươi ngàn.
Số người theo đạo Phật thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ người bị mất việc đến các chuyên viên cao cấp của các đại xí nghiệp. Tuy nhiên thành phần chính theo đạo Phật là thành phần thị dân trung lưu. Hiện tượng này phản ảnh rõ ràng trong 2 cuộc nghiên cứu sâu rộng của Bruno Etienne và Raphael Liogier (4). Hai ông ghi nhận là các người theo Phật Giáo nổi bật nhất là thành phần Bác Sĩ, các nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, các người trong ngành truyền thông (nhà giáo, ký giả) và chuyên viên xí nghiệp. F Lenoir nghiên cứu rộng rãi hơn cho biết là phần lớn những người theo đạo Phật có trình độ Đại Học và một số đông đảo trong nghề Y Khoa và các nghề liên hệ. Số lượng nữ giới chiếm 60% và họ cho biết hai lý do chính yếu khiến họ đến với Đạo Phật là bất bạo động và tránh tranh chấp.
Động lực khiến Đức Phật đi tìm một con đường giác ngộ là vì muốn làm giảm bớt đau khổ của con người. Đặc tính này của Đạo Phật đã làm cảm hóa được những người hành các nghề y khoa. Chính họ cũng là những người đối diện thường xuyên với những nỗi đớn đau của con người. Triết lý buông xả của Đạo Phật cũng giúp họ giải tỏa những phiền não của cuộc tồn sinh và giảm những khủng hoảng thầm kín riêng tư như mất việc, mất địa vị trong xã hội...Như các tín đồ của Soka Gakkai 'phần lớn chừng 55 , 56 ngàn người đều ở trong tình trạng bấp bênh, khủng hoảng chức vị....Sinh hoạt nội bộ khiến họ tiết lộ những kinh nghiệm riêng tư, thường được thể hiện như phương cách thích ứng, nếu không muớn nói là một thứ tâm lý trị liệu bổ túc', như Louis Hourmant, thuộc nhóm Xã Hội Học Tôn Giáo ở Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học, một chuyên viên nghiên cứu về giáo phái này nhấn mạnh.
Một điểm khác nữa là, việc không thỏa mãn về tình huống chính trị cũng là bước đầu để người Pháp đến với đạp Phật. B Etiene và R Lioger viết:'Tư tưởng của Phật Giáo được những người muốn thoát khỏi những bế tắc của sụ đối nghịch giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, xem đó như là một ước vọng giải thoát để đem lại hạnh phúc cho loài người'. Lenoir nhận xét là:'Tất cả những Phật Tử Pháp đầu tiên trong các thập niên 60-70 tiếp nhận Đạo Phật như là một đối lực với văn hoá đương hành. Nhiều người đã đoạn tuyệt với văn hóa cũ bằng cách trở thành một Phật Tử. Một số về ẩn cư trong các tự viện. Họ đi sâu vào các hệ thống triết lý Tây Phương và cả những lễ nghi tinh tế của truyền thống mà họ đã chọn'. Như trường hợp của Matthew RICARD, nhà nghiên cứu sinh học bào tử danh tiếng, đột ngột từ bỏ con đường công danh quy y Phật Giáo Tây Tạng và đã trở thành một người thuần thành. Ông là thông dịch viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma và là một phật tử Pháp tiên phong.
Một Dẫn Lực Kết Hợp Xã Hội
Các tu sĩ bản xứ, Tây Tạng hay Thiền Tông lần lược đóng vai trò truyền bá chánh pháp cho thế hệ Phật Tử thứ hai, đông đảo hơn nhưng có lẽ ít dấn thân hơn. F Lenoir phát biểu tiếp:'Từ đó ít có Phật Tử nào đi vào đạo Phật như thế hệ trước. Họ không muốn ra khỏi thế giới của họ và yêu cầu một lối thực hành đơn giản, thích hợp với lối sống quen thuộc của họ', Việc dịch thuật các kinh luận nền tảng và sự uyển chuyển văn hoá của đạo Phật có thể đủ thỏa mãn đòi hỏi của họ. Thêm vào đó các thực hành linh động của đạo Phật rất hữu ích trong việc hình thành mô thức cho Phật Giáo Pháp. Sự ra đời của Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Pháp được chanh phủ thừa nhận ngay vào năm 1986, cùng với thái độ cởi mở của Phật Giáo với các tôn giáo khác, đã xóa được nhãn hiệu 'giáo phái phương Đông' (6). Sự thành công của Phật Giáo còn cho thấy sự khủng hoảng của Ky Tô Giáo. Jack MARTIN, chủ tịch UBF ghi nhận:'Gần 90% Phật Tử người Pháp trước đây theo Ky Tô Giáo, đa số là Thiên Chúa Giáo. Sau khi thất vọng não nề về các tôn giáo truyền thống, người Phật Tử Pháp tìm thấy nơi Phật Giáo như con đường tâm linh'. Các Giáo Hội Ky Tô bị phê phán là không có đối thoại (tất cả đều chỉ thị từ trên xuống dưới). Michel BOVAY chủ tịch Hội Thiền Học Quốc Tế nói:'Tôi luôn luôn có cảm tưởng là có cái gì không lành mạnh trong xã hội này, ở trường học cũng như trong gia đình, người ta không nói cho tôi sự thật. Tôi đặt câu hỏi về sự chết và khi tôi hỏi các giáo sĩ giải thích cho tôi về chúa Ky Tô hay Thiên Đàng, tôi không được ai trả lời'. Tư cách của các tăng sĩ Phật Giáo làm giảm giá trị của các giáo sĩ phục vụ chúa. Thầy Trí Tín ( người Pháp) tu tại Tu Viện Linh Sơn (Phật Giáo Việt Nam) ở Joinville Le Pont vùng ngoại ô Paris nhớ rõ những kinh nghiệm của mình 'Trong giáo lý người ta dạy tôi tình yêu đối với người đồng loại. Vào năm 1939 khi tôi thấy các Giám Mục làm lễ ban phép lành cho các khẩu đại bác, tôi chẳng hiểu ra làm sao !".Khi đó Thầy mới 12 tuổi, bậy giờ Thầy đã 70 tuổi. Thầy trầm tĩnh dạy giáo lý của Đức Phật cho những người Pháp nào muốn khám phá một "tôn giáo duy nhất không hề đòi hỏi tín đồ gây chiến tranh để vinh danh".
Sự bất lực càng ngày càng lớn của các tôn giáo truyền thống lâu đời trong lỉnh vực tâm linh khiến nhiều người càng đến gần Đức Phật:' Ông Patrick, 53 tuổi, cựu chuyên viên của hảng IBM đang sinh hoạt tại Trung Tâm Phật Giáo Tây Tạng Rigpa ở Paris nói:'Trước kia tôi theo Tin Lành và gia đình của tôi là một gia đình Tin Lành thuần thành. nhưng tôi đã không tìm thấy ý nghĩa về đức tin của tôi.Tôi đã sống trong tinh thần tư bản chủ nghĩa, trong thế giới Tư Bản Chủ Nghĩa (Ông muốn nói đến luận đề của Max Weber cho là Tin Lành là nền tảng của tư bản chủ nghĩa) nhưng không còn bận tâm về những điều mà tôn giáo tôi đã giảng dạy. Chính nhờ Phật Giáo mà tôi đã thực sự bước vào mối quan hệ với chính tôi'. Cũng trong chiều hướng này B, Etienne và R. Liogier phát biểu:' Phật Giáo chứng tỏ là thế kỷ thứ 21 không phải là thế kỷ của tôn giáo truyền thống như Andre Malraux nói mà là sự trở về con đường tâm linh. Tâm linh không biến mất trong hoá trình hiện đại hóa, nhưng chỉ biến dạng và có thể đưa ra những giải đáp khả tín cho những lo âu xã hội phát sinh từ xã hội hiện đại'.
Trên bình diện thứ yếu hơn, Phật Giáo cho thấy giới hạn của chánh sách hội nhập tại Pháp.Thí dụ như những người trẻ gốc Á Châu thất vọng với những kiểu mẫu xã hội phương Tây, quay lại gắn bó với những sinh hoạt cộng đồng của bậc cha mẹ. Ước mơ tiêu thụ và làm giàu bị cơn khủng hoảng kinh tế làm tiêu tan, đẩy họ lại với cội nguồn. L. Harmant xác nhận :'Sự bất an về ý nghĩa tồn sinh thấy rõ ràng trong giáo phái Soko Gakkai. Ở đây người ta gặp các người trẻ đến từ những vùng xa xôi của nước Pháp, những thiếu nữ Hồi Giáo, nhất là từ Algeria, họ tìm thấy nơi Đạo Phật một phương cách giải thoát họ khỏi những sự kềm kẹp gia đình mà không phải bị cái cảm giác phản bội văn hoá truyền thống của họ vì không ai bắt họ cải đạo khi sinh hoạt với Phật Giáo'.
Phật Giáo do đó thể hiện như là một dẫn lực kết hợp xã hội như F. Lenoir nhận xét: 'Phật Giáo tạo điều kiện cho những cá nhân vụn vỡ đơn độc (vì mất nền tảng gia đình, trao truyền những kinh nghiệm riêng tư để cùng nhau học hỏi, Truyền thống được thực hành nhiều nhất là Đại Thừa nhấn mạnh đến lòng từ bi phổ quát không phân biệt, được diễn dịch như áp dụng một lý tưởng bao dung vào đời sống của mỗi cá nhân. Qua đó chúng ta thấy lòng quảng đại trở thành giá trị then chốt của xã hội'. Nói một cách khác, không những rủ bỏ hình ảnh tiêu cực lẫn trốn thực tại mà trước đây người ta hay gán ép, Phật Giáo góp phần tích cực vào trong việc tái phối tri xã hội. Jean-Pierre, 52 tuổi, trước đây theo Cộng Sản kiểu Mao, hiện là giáo sư Vật Lý tại Đại Học Toulon, phát biểu:' Tôi vẫn tiếp tục dính líu đến chính trị. Nhưng tôi tin tưởng vào những mối liên hệ gần gũi hơn là các buổi họp, những đoàn đại biểu, những hoạt động này nọ'. Và do đó không còn phải bận tâm về việc làm tan biến cá thể của mình trong khối đông những người cùng phe phái. Theo vị Giáo Sư khả kính này, việc làm cụ thể và có ích là ngăn chặn trào lưu chủ nghĩa quá khích đang khuấy động tại Pháp và Tây Âu chính là 'việc giảng dạy vật lý học không phải là thực tại, mà là một cách nhìn về thực tại. Nói một cách khác, là dạy cách phân biệt những hình ảnh người ta đưa ra về thực tại với chính thực tại'.
Là 'tôn giáo theo yêu cầu' Phật Giáo đang phục vụ những nhu cầu tâm linh của thời đại. Người ta cũng thấy sự kiện này nơi các tôn giáo độc thần mới (7) Nhưng trong Phật Giáo còn một hiện tượng phụ khác. B. Etinne và R. Liogier viết:'Chúng tôi giả thiết rằng khối lượng sách báo công trình nghiên cứu của Tây Phương cho những vấn đề của chính mình, cũng phù hợp với yêu cầu của Phật Giáo'. Và hai ông thấy là các nhà xã hội học đang nghiên cứu về hiện tượng này.
Khánh Hải Triều Quang chuyển ngữ từ bài viết của Alain Renon trên tờ Le Monde Diplomatique, tháng 12, 1997 . Paris 1.98
Chú thích:
* Ở đây chúng tôi dịch sát nghĩa chữ 'de' vì tiếng Pháp phân biệt 3 loại Phật Giáo, như tiến trình : từ Bouddhisme en France (Phật Giáo Tại Pháp- có thể là Phật Giáo Tây Tạng đang sinh hoạt tại Pháp) thành Bouddhisme de France (Phật Giáo của Pháp do dân Pháp mở ra và quản lý theo luật của nước Pháp) và có lẽ không bao lâu nữa, sẽ thành Bouddhisme Francais (Phật Giáo Pháp- có sắc thái văn hóa Pháp).
(1)Trong đó Tây Tạng có 84 trung tâm, Thiền Nhật Bản có hơn 90
(2) Sau Thiên Chúa Giáo , Hồi Giáo (4 triệu rưỡi), Tin Lành (950,00) và gần bằng Do Thái Giáo
(3) Theo thống kê thăm dò dư luận cũa hãng Sofret: Khi được hỏi tôn giáo nào được ông bà ưa thích nhất, 5% trên 2 triệu người Pháp trên 18 tuổi trả lời là Phật Giáo.
(4) Trong quyển Être Bouddhiste en France, nxb Hachette, Paris, 1997 nhiều tác giả, chủ trì bởi Bruna Etienne, Giám Đốc Cơ Quan Quan Sát Các Vấn Đề Tôn Giáo thuộc Viện Nghiên Cứu Chính Trị Đại Học Aix-en-Provence
(5) Luận Án trên đề tài Phật Giáo tại Pháp và tại Âu Châu, sẽ phát hành vào năm 1998.
(6) Ngoài Sokko Gakkai bị xem là một giáo phái từ năm 1984, trong báo cáo đầu tiên trình quốc hội Pháp.
(7) Trong bài 'Vers une Religiosité Sans Dieu' (Tiến tới một tôn giáo tính không Thượng Đế) trên báo Le Monde Diplomatique tháng 9 1997 của Florence BEAUGÉ.
http://toandanlentieng.blogspot.com/2010/12/su-cam-do-cua-phat-giao-tai-phap.html - http://toandanlentieng.blogspot.com/2010/12/su-cam-do-cua-phat-giao-tai-phap.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Dec/2010 lúc 4:05pm
http://www.enghenhac.com/doctruyen/truyen-hay/9904.html - - Ngọn Nến Không Cháy
Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.
Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gái bé bỏng của mình.
Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: " Tại sao nến của con lại không cháy?". Bé gái đã đáp rằng: " Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con".
Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con ông.
Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười.
ST
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Jan/2011 lúc 4:19am
Trong cuộc sống, có những 'sự kiện' chúng ta thấy xảy ra , không thể giải thích theo khoa học , hoàn toàn thuộc về tâm linh .
Tin hay không xin .... tùy nghi !
mk
ÔNG LÃO TRONG AN DƯỠNG ĐỊA
(Thích Tịnh Từ )
ÔNG LÃO TRONG AN DƯỠNG ĐỊA Thích Tịnh Từ
An Dưỡng Địa là một khu nhà mồ ở Phú Lâm, gần bến xe đi về lục tỉnh. Trong khu An Dưỡng Địa có chùa Huệ Nghiêm, có tháp Phổ Đồng. Tiền thân cuả chùa Huệ Nghiêm là Viện Phật Học Phổ Thông được thành lập đầu năm 1964, rồi chuyển qua Viện Phật Học Chuyên Khoa đầu năm 1971. Tôi và ba thầy Liêm Chính, Toàn Châu, Thiện Tường được Viện Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Liễu Quán ở Huế gửi vào đây học thêm bốn năm. Sau ba năm tu học theo chương trình cuả Viện, tôi đi thêm đoạn đường dài là đến tu học, hoằng hoá tại Hoa Kỳ.
Ở An Dưỡng Địa nổi tiếng có nhiều ma. Đêm đêm ra các nhà mồ ngồi ngắm trăng hay tham thiền một mình thì có thể gặp các cô gái tóc dài, đội nón lá xuất hiện ngồi khóc nỉ non trên các nấm mộ. Vì sự đồn đại có vẻ "dễ sợ" này mà trên 40 thầy giảng sư của Viện Cao Đẳng thường "cấm túc" khi bóng đêm buông xuống. Riêng tôi thì rất lỳ, không hề sợ chuyện ma quái. Chuyện các cô gái bận áo trắng, xoã tóc dài, đội nón lá khóc nỉ non trên các nấm mộ là chuyện rất lôi cuốn cái tâm hiếu kỳ cuả tôi.
Để coi việc ma là có thật hay hoang đường, một hôm vào mùa Đông tối trời vào khoảng 11 giờ đêm, tôi bận áo ấm, đầu trùm mũ len, mình khoác áo mưa, trong từng bước một chậm rãi và thầm niệm bài chú Đại Bi, đi đến các nấm mồ ở An Dưỡng Điạ để quan sát hư thật. Khi đến nhà mồ thì tinh thần tôi bị rối loạn, răng đánh bò cạp, đôi chân bị cứng lại và không di chuyển được. Tôi có ý nghĩ là mình nên ngồi xuống với tư thế "kiết già phu tọa, bắt ấn hàng ma". Nhưng không thể nào làm được, con người tôi lúc bấy giờ như một cây khô trồng giữa các nhà mồ sang trọng và giữa các nấm mộ nghèo, phủ đầy cỏ dại. Chuyện gì xảy ra?
Trước mắt tôi, không phải là các thiếu nữ bận áo trắng phủ tóc dài và ngồi khóc nỉ non, mà trước mắt tôi là một đám trẻ tàn tật, trần mình, đang bò lết chung quanh các nấm mộ, các nhà mồ sang trọng để tìm kiếm thức ăn: nào là trái cây, bánh chuối, xôi chè và đôi khi có cả đầu heo quay, gà quay, vịt quay nữa. "Các trẻ con ấy là những người chết không siêu hoá, nên làm thân cô hồn, là các vong linh không nơi nương tựa, đói khổ. Và chúng cứ đợi khi mặt trời lặn, bóng đêm xuống thì kéo nhau đi kiếm ăn từ nhà mồ, cho tới nhà cầu, bếp núc, thùng rác, máng heo...có nhiều thức ăn dơ bẩn, sót lại". Tôi nghĩ như vậy khi chứng kiến đám trẻ con mò mẫm tìm kiếm, tranh giành miếng ăn trên các nấm mộ. Vì vậy mà tâm tôi bị xúc động và thân tôi hoá thành gỗ đá, đứng trơ trơ như trời trồng. Ngay lúc đó, dưới ánh trăng non vằng vặc, tôi thấy một ông lão đầu trắng xoá, râu dài, tay chống gậy xăm xăm đi tới nơi các trẻ con ra hiệu cho chúng ngồi xuống. Có khoảng mười mấy đứa con nít tàn tật đều răm rắp tuân theo "lệnh" cuả ông lão, ngồi xuống chung quanh các nấm mộ. Bây giờ ông lão lên tiếng dạy bảo chúng những lời rành mạch đầy trìu mến: "Này các cháu! Trước khi ăn thức ăn nầy các cháu phải biết đọc lời cầu nguyện để bày tỏ lòng hiếu kính và biết ơn. Các cháu nên cùng nhau chắp tay đọc lời cầu nguyện với ta. Dạy xong, ông lão cất tiếng đọc và lũ con nít đọc theo:
"Kẻ chết oan không nơi nương tựa Quanh quẩn chung quanh các nấm mồ Lắng nghe câu niệm Phật siêu độ: Nam Mô Cứu Khổ Quán Thế Âm Nam Mô A Di Đà Kim Sắc Nam Mô Cứu Khổ Quán Thế Âm Nam Mô A Di Đà Kim Sắc..."
Tiếng niệm đều đặn, liên tục, trầm hùng danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, danh hiệu Đức Phật A Di Đà đầy màu nhiệm dưới ánh trăng. Nghe tiếng cầu nguyện cuả ông lão và các em bé, khiến tôi ấm lòng, trầm tỉnh và buột miệng tôi cũng niệm theo câu niệm Phật rất chí thành. Bỗng một cơn gió mạnh thổi ngang qua, với từng tiếng rít dài, toàn thân tôi nghe lành lạnh, rồi phút chốc các hình ảnh trước mắt tôi tan biến. Tôi bàng hoàng và cảm được sự có mặt cuả sự sống trong cõi vô hình. Cũng từ đó, hằng đêm tôi thường đến các nấm mồ để nói pháp cho các vong thức, âm linh, cô hồn nghe. Có khi kiếm được tiền, tôi đã mua rất nhiều thức ăn, trái cây, bắp nổ, bông hoa và các loại kẹo bánh đem ban phát cho các cháu qua đời chưa siêu, còn vãng lai đêm đêm trên các nhà mồ nơi khu An Dưỡng Địa.
Trước khi đi Mỹ, tôi có ra nhà mồ An Dưỡng Địa để nói pháp và bố thí thức ăn cho các âm linh cô hồn lần cuối. Trong mắt tôi, chẳng thấy bóng dáng ông lão và các cháu nhỏ tàn tật nào cả. Nghĩa là tôi chỉ thấy một lần đêm đó mà thôi. Tôi ước ao được gặp họ lần nầy để từ giã, vì ngày mai khoảng 25 tiếng đồng hồ máy bay cất cánh là tôi có mặt tại Hoa Kỳ, không còn trên quê hương và không còn có cơ hội sinh hoạt đời sống tâm linh với những người quá cố tại An Dưỡng Địa nữa. Tôi ước ao và ngồi niệm Phật chờ đợi; chờ đến 1 giờ khuya mà chẳng thấy em thơ nào cả. Tôi nghĩ là tất cả các cháu đã được đi đầu thai và siêu hoá? Trên đường từ khu nhà mồ trở về phòng, tôi gặp ông lão. Ông bảo là ông gặp tôi lần này là để chúc tôi lên đường đi Mỹ. Ông xác chứng là các cháu nhỏ và nhiều âm linh, cô hồn, đã nhờ nghe giáo pháp của tôi vài lần mà tỉnh ngộ và được vãng sanh về cõi Tây Phương. Trước khi ẩn hình, ông lão có dặn dò tôi mấy điều:
"Ngày mai đi xa là tốt Quyết đi ngay chớ chờ đợi Năm 42 tuổi lên núi Ngược bến thuyền qua đến bờ"
Tôi vừa nhẩm đọc lại bốn câu trên hai lần để nhớ, ông lão trầm ngâm một hồi rồi nói tiếp:
Nhớ mang diệu ngữ trao truyền Nhớ nuôi nhân sự nối liền tông môn Nhớ thắp đèn buổi hoàng hôn Nhớ xây tu viện bảo tồn chánh nhân".
Tôi định hỏi vài điều về tương lai, nhưng ông lão biến mất. Cho đến bây giờ tôi vẫn hình dung một cách rõ ràng hình ảnh và lời dặn dò tâm huyết, dẫn đạo cho công phu tu tập, hoằng hoá cuả tôi trên xứ người. Với tôi, ông lão chắc chắn là hoá thân cuả Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đúng như lời ông lão nói, năm 42 tuổi là năm 1983, tôi có cơ duyên lên núi Madona khẩn đất lập Tu Viện Kim Sơn.
THÍCH TỊNH TỪ
|
(Trụ Trì Tu viện Kim Sơn, California)
|
http://vnthuquan.net/diendan/%28S%28xs0r1l55esvljbugq0pnrw45%29%29/tm.aspx?m=653108&AspxAutoDetectCookieSupport=1 - http://vnthuquan.net/diendan/(S(xs0r1l55esvljbugq0pnrw45))/tm.aspx?m=653108&AspxAutoDetectCookieSupport=1 |
|
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Jan/2011 lúc 12:24am
Ngày nay
Paris Hilton
Paris Hilton!
Một Đóa Sen Tịnh Độ vừa nở giữa cõi Ta Bà.
Mà nước trở nên rất thanh tịnh.
Khi mặt trời hiện ra,
Sau làn khói Vô Minh.
Sẽ không còn những động tác uốn éo.
Sẽ không còn những phim gợi dục.
Sẽ không còn những bài hát nỉ non.
Sẽ không còn những màn trình diễn quần nọ áo kia, váy, xú-chiêng, lụa là đắt giá.
Sẽ không còn những màn kịch.
Giống như cô vũ nữ lừng danh dưới thời Đức Phật.
Hốt nhiên khai ngộ!
Paris Hilton…một vì sao.
Nhưng không phải của Celebrity và Hollywood.
Một vì sao chiếu rọi ở Phương Đông và đang hướng về Hy Mã
Bỏ lại sau lưng tiền rừng bạc biển,
Danh vọng triệu triệu người thèm khát.
Tất cả đều là ảo ảnh.
Tất cả đều trống rỗng quay cuồng.
Cuộc hành trình về Phương Đông.
Cuộc hành trình an tĩnh.
Parish Hilton…một can đảm phi thường.
Paris Hilton!
Từ một cuộc đời náo động.
Trong một sát-na
Bỗng thanh tịnh lạ thường.
Paris Hilton!
Sẽ là sự dịu dàng,
Sẽ là sự đoan nghiêm,
Sẽ là trí tuệ,
Sẽ là từ bi,
Và sẽ không có gì ràng buộc.
Như đích thực của tự do.
Đào Văn Bình
(California ngày 11-01-2011)
Cước chú: Theo tạp chí The Pok, siêu mẫu Paris Hilton đã từ giã cuộc sống ồn ào, náo nhiệt, sa hoa và tuyên bố rằng “thế giới này là giả tạm và không thật – chẳng có gì ngoài sự ảo tưởng và trống rỗng. Đó là lý do tại sao tôi phát nguyện trở thành một nữ tu Phật giáo.” Paris Hilton nói với các nhà báo trong buổi phỏng vấn cuối cùng là cô sẽ tham gia chương trình 10 năm tu tập yên lặng, tụng niệm và khổ hạnh tại Tu viện Tscehen Damchos Ling, Karnataka, Ấn Độ.
Siêu mẫu nổi tiếng thế giới Paris Hilton xuất gia đầu Phật
Giác Ngộ -
Báo The Poke của Anh hôm nay (11-1) đưa tin siêu mẫu nổi tiếng thế giới Paris Hilton (ảnh) đã xuất gia, trở thành nữ tu sĩ Phật giáo và đã phát nguyện dấn thân vào một khóa tu trì yên lặng và khổ hạnh trong 10 năm tại tu viện Tscehen Damchos Ling, bang Karnataka, Ấn Độ. Paris Hilton có thể nổi tiếng vì đang sống trong thế giới giả tạm, hư ảo, nhưng cô đã làm chấn động nghành công nghệ giải trí ngày nay bằng lời tuyên bố rằng “thế giới là giả tạm, là hư ảo, là không có gì ngoài ảo tưởng và sự trống rỗng. Đó là lý do vì sao tôi phát nguyện cắt ái từ thân, xuất gia theo Phật, trở thành nữ tu sĩ Phật giáo.
http://www.giacngo.vn/UserImages/2011/01/11/5/wwwsm.jpg">
“Đây chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày ở thành phố Los Angeles (California, Mỹ),” Paris Hilton - nay đã cạo tóc xuất gia – tuyên bố với cánh nhà báo trong cuộc phỏng vấn cuối cùng trước khi phát nguyện dấn thân vào một khóa tu trì yên lặng và khổ hạnh trong 10 năm tại tu viện Tscehen Damchos Ling, bang Karnataka, Ấn Độ. “Tôi đã làm rơi chiếc iphone của tôi và tôi giận mình quá vụng về khi người bốc xếp hành lý nhặt nó lên cho tôi chỉ nhún vai nói không ai là người hoàn hảo. Câu nói này đã xúc chạm tâm can tôi như mũi tên bắn. Không ai hoàn hảo 100% là một phát hiện trong tôi, bởi vì cho đến thời điểm đó tôi vẫn nghĩ tôi là người hoàn hảo. Tôi xúc động trào nước mắt – giọt nước mắt của cái tôi đã xúc động, đã bắt đầu tan vỡ ra từng mảnh vụn. May mắn thay, tôi đã gặp Đức Dalai Lama trên skype, vì vậy khá nhanh chóng tôi đã là OMG (Oh my god: Ồ, chúa của tôi) – đã hiểu giáo lý Tứ Diệu đế. Tứ Diệu đế là giáo lý hoàn toàn tuyệt vời!”
Quần Anh (theo The Poke)
http://www.diendanphatphaponline.com/diendan/showthread.php?14540-Si%C3%AAu-m%E1%BA%ABu-n%E1%BB%95i-ti%E1%BA%BFng-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-Paris-Hilton-xu%E1%BA%A5t-gia-%C4%91%E1%BA%A7u-Ph%E1%BA%ADt&p=57889#post57889 - http://www.diendanphatphaponline.com/diendan/showthread.php?14540-Si%C3%AAu-m%E1%BA%ABu-n%E1%BB%95i-ti%E1%BA%BFng-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-Paris-Hilton-xu%E1%BA%A5t-gia-%C4%91%E1%BA%A7u-Ph%E1%BA%ADt&p=57889#post57889
Ngày xưa
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 19/Jan/2011 lúc 6:51pm
Ông chủ và chú lừa |
10:35' AM - Thứ ba, 18/01/2011 |
Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại không may bị sảy chân rơi xuống một cái giếng sâu, con lừa kêu la thảm thiết. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì. Cuối cùng ông quyết định: Con lừa đã già, dù sao cái giếng cũng cần được lấp lại và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả.
Ông chủ nhờ vài người hàng xóm sang giúp mình, họ xúc đất đổ vào giếng. Ngay từ đầu, con lừa đã hiểu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la như cầu cứu mọi người cứu giúp nó.
Nhưng sau đó con lừa trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và vô cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng con vật, lừa lắc mình cho đất rơi xuống và bước chân lên trên. Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước lên cao hơn. Chỉ một lúc sau mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài.
Cuộc sống sẽ đổ rất nhiều thứ khó chịu lên người bạn. Hãy xem mỗi vấn đề bạn gặp phải là một hòn đất đá để bạn bước lên cao hơn. Chúng ta có thể thoát khỏi cái giếng sâu nhất chỉ đơn giản bằng cách đừng bao giờ đầu hàng số phận. |
http://www.baomoi.com/Info/Ong-chu-va-chu-lua/58/5571332.epi - http://www.baomoi.com/Info/Ong-chu-va-chu-lua/58/5571332.epi
|
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Feb/2011 lúc 5:35pm
Phụ nữ xấu như tách trà.
Ngày xưa có người hỏi Aristotle “Tại sao có nhiều người đàn bà đẹp lại lấy đàn ông chẳng ra gì?”. Nhà hiền triết trả lời “Bởi vì đàn ông thông minh chẳng dại gì lại lấy đàn bà đẹp”. Một câu trả lời thông minh, dí dỏm và ý nghĩa làm sao. Thật vậy, chúng ta có thể kể ra hàng ngàn tác hại của việc lấy vợ đẹp, hàng ngàn thiên tài đã lấy vợ “xấu xí hơn người”. Gia Cát Lượng là một trong số những thiên tài đó. Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, một thiên tài quân sự mà nhắc đến tên ông thì bất cứ một tên “phó thường dân” nào cũng biết. Ông là một trong những nhân vật đã viết lên những trang sử hào hùng của lịch sử Trung Hoa. Tài cán ông là vậy, còn về ngoại hình? Là một con người cực kỳ khôi ngô, tuấn tú “mình dài tám thước, mặt đẹp như ngọc”, đẹp trai phải nói là “chim sa cá lặn” . Ấy vậy mà ông lại đi kết duyên với một cô gái “xấu hơn một người xấu bình thường”. Điều đáng nói ở đây là ông cưới vợ không phải vì lý trí mà là vì “yêu bằng cả trái tim mình”. Tình yêu của ông đã vượt qua cái gọi là “cân sắc cân tài”.
Chuyện tình của Gia Cát Lượng
Lại nói chuyện Gia Cát Lượng “đàm thê luận ái”, tự cho là “Trong mắt kẻ si tình hiện Tây Thi” là có ý tôn trọng vợ. Thực tế ra sao? Bùi Tùng trong “Tam Quốc chí – Gia Cát Lượng truyện” có chú giải: “Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ, chỉ lấy được con gái xấu của A Thừa”. A Thừa, chỉ danh sĩ đất Kinh Châu Hoàng Thừa Ngạn. A Nữu là con gái Hoàng Thừa Ngạn, tuy xấu xí nhưng là tài nữ. A Nữu thích sáng tác, cũng có viết về quản lý học. Đọc những áng văn ưu nhã của A Nữu, nhiều vị trong giới công thương đem lòng hâm mộ không dứt, cứ nghĩ A Nữu là một học giả xinh đẹp.
Song gặp mặt cô, tất cả đều “chạy mất dép”, nói: “Nhìn một cái, hối ba ngày”. Điều làm A Nữu có phần bất ngờ là có một chàng tên Gia Cát Lượng đem lòng yêu cô, cả hai sánh bước vào quãng đời lãng mạn. Người ta thường thấy hai người dắt tay tản bộ trên bãi cỏ mượt ở khu công nghiệp Ngọa Long. Nên biết, Gia Cát Lượng là một chàng đẹp trai có tiếng, “thân cao tám thước, dung mạo tuyệt vời”. Rất nhiều cô gái đẹp thầm yêu Gia Cát Lượng, vì sao chàng lại thân mật với A Nữu như vậy? Những kẻ hiếu sự tìm ra nguyên nhân rất nhanh: Thứ nhất, bố A Nữu chính là thầy Gia Cát Lượng, và A Nữu với Gia Cát Lượng nhanh chóng trở thành tình yêu “con thầy” điển hình; thứ hai, Gia Cát Lượng vừa lấy A Nữu và họ đang trong tuần trăng mật. Người ta nghi ngờ và lẩm bẩm: Làm sao chàng trai đẹp lại lấy cô gái xấu như vậy, thật là cuộc hôn nhân kỳ quái! Các cô xóm giềng hỏi A Nữu, A Nữu đáp: - Các chị đừng đoán mò làm gì! Để em nói luôn, không phải Gia Cát Lượng không thấy tóc em nhuộm vàng, mặt có nốt ruồi, cũng không phải thẩm mỹ của chàng có vấn đề, mà chính vì chàng biết vượt qua hình thức để thưởng thức vẻ đẹp nội tâm.Cũng vì điều đó em mới lấy chàng. Em tìm thấy một tình yêu siêu phàm, thoát tục từ Gia Cát Lượng. Các cô hàng xóm càng ngạc nhiên: - Cô làm thế nào để bỏ bùa Gia Cát Lượng? A Nữu cười chúm chím: - Các chị cứ hỏi chàng đi! Các cô lại đi hỏi Gia Cát Lượng, Gia Cát Lượng trả lời: - Thật sự, trong mắt trong tim tôi, A Nữu còn đáng yêu hơn nhiều cô gái đẹp khác. - Sao có thể thế nhỉ? Các cô hàng xóm quyết tâm muốn hiểu rõ ngọn ngành. - Các chị muốn đáp án phải không? Gia Cát Lượng lấy từ trong thư phòng ra cuốn tạp chí “Bạn gái Tam quốc”, nói: - Câu trả lời ở trong này. Các cô hàng xóm tra mục lục tạp chí, thấy có bài tản văn của Gia Cát Lượng, đầu đề là “Phụ nữ xấu như tách trà”. Giở vào trong, bài tản văn điển nhã và tình tứ của Gia Cát Lượng viết rằng:
Phụ nữ xấu như tách trà
Phụ nữ xấu như tách trà. Ngồi trong sân vắng vẻ, tách trà như tâm tình của cô gái. Xuân qua thu lại, thế sự như mây. Người đời hay nói: rượu, thuốc lá, trà là ba báu vật của đàn ông. Tài nữ như thuốc lá, mỹ nữ như rượu nồng, còn phụ nữ xấu chỉ lặng lẽ như trà tỏa hương. So với hương trà man mác, vô luận khói thuốc đắng cay hay men rượu nồng nàn, đều thành dung tục. Song người đời lại say mê sự kích thích của rượu và thuốc lá, ít ai thư thái để tận hưởng vị thanh khiết của trà. Đúng vậy, phụ nữ xấu không lồ lộ vẻ đẹp trời ban, song tâm hồn họ thanh tao như hương trà. Xa lánh thế gian huyên náo mới có thể giữ được sự thuần khiết của tâm hồn, mới có thể hiểu nhã thú của đời người. Phụ nữ xấu, bất kể đi làm hay ở nhà, việc gì họ làm cũng chỉn chu. Phụ nữ xấu lương thiện, biết hy sinh, không cầubáo đáp, không tranh giành, hệt như hương trà u mặc thời ẩn thời hiện. Song, trong khi người đời tán dương tài nữ, xum xoe mỹ nữ thì họ lại đối xử với phụ nữ xấu thật bất công. Phụ nữ xấu chan chứa thương yêu mà không một ai nhớ họ, nhưng họ cũng không để ý mà chỉ rút vào im lặng. Trong khi những người đẹp làm bao chuyện ầm ĩ, phụ nữ xấu vẫn thản nhiên giữ gìn mỹ đức. Có một điều an ủi, nhiều người đẹp khi trút lớp phấn son ra, họ xấu hổ không còn đứng trước phụ nữ xấu. Phụ nữ xấu yêu ai, người đó sẽ là người tình trong mộng. Họ khiêm nhường, như tách trà. Một làn gió nhẹ thổi qua, mặt tách trà gợn sóng, chờ đợi người tới thưởng thức. Mà người thưởng trà sẽ có được một đời hạnh phúc. Các cô hàng xóm xem xong, xuýt xoa: - Gia Cát Lượng ôi là Gia Cát Lượng, cậu đúng là biết nịnh vợ. Bọn tôi thật hồ đồ, không biết cô ta lấy cậu là có phúc hay cậu lấy cô ta là có phúc đây? Gia Cát Lượng và A Nữu lặng lẽ nhìn nhau, cùng mỉm cười.
http://vn.360plus.yahoo.com/jw!PcKUN6iRHygbS0Qvg6fPpAU2VGc.lRzp5g--/article?mid=1466 - http://vn.360plus.yahoo.com/jw!PcKUN6iRHygbS0Qvg6fPpAU2VGc.lRzp5g--/article?mid=1466
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Feb/2011 lúc 11:01pm
Tha Thứ
Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để rũ bỏ được oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp:“Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ”.
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã tha thứ cho họ sư phụ ạ. Nhẹ cả người! Coi như xong”.
Sư phụ đáp:“Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra và thương yêu họ”.Người đệ tử gải đầu"Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương họ thì...Thôi được con sẽ làm"
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình. Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy”.
Lần sau người đệ tử trở lại, lần này tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Người đệ tử hớm hở thưa rằng mình đã ghi ơn hết mọi người vì nhờ họ mà anh đã học được sự tha thứ!
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ?”.
(ST)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Mar/2011 lúc 5:56pm
Sự bình yên
Một vị vua treo giải thuởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều hoạ sĩ đã cố công . Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên lá bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm nhìn bức tranh điều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi , nhưng những ngọc núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp . Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xoá. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ một khe nức của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình...Bình yên thật sự. "Ta chấm bức tranh này !- Nhà vua công bố - Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên."
(ST)
------------- mk
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 07/Mar/2011 lúc 9:52pm
.
Ý Nghĩa Lá Cờ Phật Giáo
I. NGUỒN GỐC: Người phát họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey, Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Độ.
Ông nguyên là Đại Tá Hải Quân của Quân Đội Hoa Kỳ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), để viết bài về trường hợp bà nầy có những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New-York, hai người đã gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo.
Bà H.P. Blavatsky, ông H.S. Olcott, ông W. Q. Judge là những người đã thành lập Hội Thông Thiên Học Mỹ Quốc ngày 17-11-1875, nay trở thành Hội Thông Thiên Học Quốc Tế, có 60 nước hội viên và trụ sở đặt tại Adgar, Ấn Độ.
Ông có công lớn nhất trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo Tích Lan, từ đó nhà Phật học uyên thâm Anaragika Dharmapala người Tích Lan, môn đệ của Olcott, đã khôi phục nền Phật Giáo Ấn Độ ngày 21-1-1891, và cũng từ đó dần dần Phật Giáo truyền bá sang phương Tây, rồi lan tràn khắp thế giới.
Ông và bà Blavatsky thọ trì tam quy, ngũ giới với Thượng Tọa Bulatgama tại chùa Wijayananda có sự hiện diện của hàng ngàn chư Tăng, Ni, Phật Tử và gây xúc động mạnh mẻ cho những Phật Tử đã chứng kiến, vì đây là lần đầu tiên Giáo Hội Tăng Già Tích Lan làm lễ quy y cho hai người Phật Tử Âu Mỹ.
Sự nghiệp truyền bá và chấn hưng Phật Giáo của ông không thể nói hết trong khuôn khổ bài nầy. Ông đã tổ chức những trường học Phật Giáo khắp xứ sở Tích Lan, từ thành thị tới thôn quê hẻo lánh.
Số trường học lúc ban đầu chỉ có 46 trường (năm 1897) và 6 năm sau (1903), số trường học đã lên đến 174 trường, và đến năm 1940 đã có 429 trường, trong đó có 12 Trường Trung học được chính phủ tài trợ . Không chỉ riêng ở Tích Lan, ông còn vận động để mở các trường học Phật Giáo ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ.
Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Susmangala, Tích Lan, phỏng theo sáu mầu hào quang của Đức Phật (xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam và mầu tổng hợp của năm mầu này), đã phác họa ra mẫu cờ Phật Giáo.
Về ý nghĩa, ông phát biểu như sau : "Nó có thể được các quốc gia Phật Giáo chấp nhận như một biểu tượng quốc tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối với tín đồ Thiên chúa giáo ."
Lá cờ này được Tích Lan công nhận và treo tại các chùa ở xứ này trong ngày lễ Phật Đản từ năm 1889, và 61 năm sau, tại Đại hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên, tổ chức tại Colombo, thủ đô Tích Lan, từ ngày 25-5-1950 đến 8-6-1950 có 26 nước tham dự (1), phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Thượng Tọa Tố Liên, Trụ trì chùa Quán Sứ Hà Nội làm đại biểu (2), Hội nghị đã thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists), và chọn lá cờ Phật Giáo Tích Lan làm cờ Phật Giáo Thế Giới.
Đến ngày 6-5-1951, tại chùa Từ Đàm, cố đô Huế, một Đại Hội Phật Giáo ba miền Bắc Trung Nam, gồm 51 đại biểu Tăng già và cư sĩ, sau 4 ngày họp, đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Trong dịp nầy, Thượng Tọa Tố Liên đã tặng Đại Hội lá cờ Phật Giáo Thế Giới, và đại hội đã chấp nhận lá cờ nầy cũng là cờ Phật Giáo Việt Nam.
Bằng một tâm hồn thiết tha với Đạo Pháp, ròng rã suốt 38 năm, Phật tử Henry Steel Olcott đã dùng quãng đời quí báu của mình, để phục vụ tha nhân và ông mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, quê hương Đức Phật. Lúc đó ông 75 tuổi.
II. Ý NGHĨA CỦA LÀ CỜ PHẬT GIÁO
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của PhậtTử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình của mọi người con Phật .
Ngoài ra, cờ Phật Giáo còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới địa phương, gia tăng niềm hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Đạo Pháp và dân tộc.
Năm sắc theo chiều dọc : Xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam, tượng trưng cho hào quang chư Phật.
Năm sắc theo chiều ngang ( chiếm diện tích 1/6 lá cờ ) là mầu tổng hợp tượng trưng cho ánh sáng hào quang chư Phật. Ý nghĩa của màu sắc phân biệt là :
1.- Xanh đậm : Tượng trưng cho Định căn. Màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn, sáng suốt .
2.- Vàng lợt : Tượng trưng cho Niệm căn, vì có Chánh Niệm mới sanh Định và phát Huệ.
3.- Đỏ : Tượng trưng cho Tinh Tấn căn. Có tinh tấn mới khắc phục được mọi trở ngại, nghịch cảnh .
4.- Trắng : Tượng trưng cho Tín căn, niềm tin không lay chuyển, và có tín căn là có Nhân Duyên với chư Phật và nguồn gốc sanh ra muôn hạnh lành.
5.- Da cam : Tượng trưng cho Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Định đầy đủ thì Tuệ sẽ phát sanh.
6.- Màu tổng hợp : Tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên toàn thế giới.
II. KẾT LUẬN:
Là Phật Tử, chúng ta luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật Giáo, vì trên hết, nó tượng trưng cho Phật Giáo, và cho tinh thần đoàn kết, bất phân biệt của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới .
Ghi chú :
(1) 26 nước tham dự Đại Hội và trở nên Hội viên sáng lập Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới là : Anh, Ấn Độ, Bhutan, Đức, Hawai, Hong Kong, Kampuchea, Lào, Mã Lai, Miến Điện, Mỹ, Na Uy, Nam Dương, Nhật Bản, Nepal, Pháp, Phi Luật Tân, Sikkim, Tân Gia Ba, Tây Tạng, Thái Lan, Thụy Điển, Tích Lan, Triều Tiên, Trung Hoa và Việt Nam.
(2) Phái đoàn Việt Nam chỉ có 2 người: Thượng Tọa Tố Liên -- đại biểu chánh thức, và ông Phạm Chữ -- công chức Bộ Ngoại Giao Quốc Gia Việt Nam, tháp tùng theo làm Thông dịch viên.
Minh Đức
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Mar/2011 lúc 5:59am
Đây là một câu chuyện mà mẹ Teresa kể lại trước khi mẹ đi vào thế giới vĩnh hằng.
Khi tôi dám nhận một người từ hè phố, họ đói, tôi cho họ bánh mì. Nhưng một người đang cảm thấy chán nản, cô đơn, mặc cảm, lại là người muốn bước ra hè phố. Đó là một người thiếu nghị lực. Nghèo về tinh thần là điều khó khăn hơn để vượt qua những ngịch cảnh của cuộc đời.
Có thể những người nghèo không của cải, nhưng họ lại thấy cuộc đời đầy thú vị và ấm áp biết bao.
Một buổi tối nọ, tôi ra ngoài và đón nhận bốn người ăn xin, một trong số họ đang trong tình trạng nguy kịch. Tôi báo với người cùng đi là hãy chăm sóc ba người kia, còn tôi sẽ mang người đó về nhà, đặt lên giường, nhưng mắt người đó đã nhắm nghiền, tuy vậy nụ cười vẫn trên môi, nắm lấy bàn tay tôi và cô ta thốt lên “cảm ơn” , sau đó nhắm mắt và ra đi vĩnh viễn. Tôi không thể làm gì hơn nhưng tự hỏi lòng mình: “Tôi sẽ nói gì nếu như tôi trong tình trạng giống như cô ta?”. Và tôi cũng tự trả lời rất đơn giản: “Tôi sẽ phải cố gắng làm mọi cách để mọi người chú ý đến mình và cho tôi ăn, tôi sẽ nói tôi lạnh, đau đớn…”. Nhưng cô ta đã cho tôi thấy nhiều hơn nữa, đó là tình yêu, sự cảm kích của mình. Cô ta chết với một nụ cười sung sướng.
Sau đó, có lần tôi đón nhận một người đàn ông từ một ống cống, nửa người của anh ta đã bị ruồi nhặng phá hoại. Sau khi mang anh ta về nhà, anh ta chỉ nói: “Tôi đã sống như một con thú và tôi sắp chết như một thiên thần, đã được yêu mến và chăm sóc”, sau đó anh chết vẫn với nụ cười trên môi.
Điều đó quả thật tuyệt vời, anh ta đã không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho bất cứ ai hay so sánh với điều gì. Như một thiên thần - giàu có về lòng thương, tình nhân ái ngay cả khi nghèo khổ về của cải.
• Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.
• Cuộc sống rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.
• Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.
• Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.
• Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.
• Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.
• Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.
• Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó.
• Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.
• Cuộc sống như một bí ẩn, hãy khám phá nó.
• Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó.
• Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.
• Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.
• Và cuộc sống vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá huỷ nó.
Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm. Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thuạ. Động lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng.
Sau khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? Mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi.
Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh nhỏ bé không thể bay đi được.
Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để vượt ra khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
*** Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.
Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con bướm kiạ Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự, chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.
Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng ta phải đấu tranh.
Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng ta phải giải quyết.
Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến chúng ta phải vượt quạ
Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng ta giúp đỡ.
Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt khiến chúng ta phải vận dụng.
Các bạn có thấy đúng không?
(sưu tầm)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Mar/2011 lúc 5:53pm
Hãy kiên nhẫn
Đây là câu chuyện có thật xảy ra tại nước Mỹ.
Một người đàn ông ra khỏi nhà để ngắm nghía chiếc xe tải mới của mình…Trước sự sửng sốt của ông là hình ảnh cậu con trai ba tuổi đang hăm hở dùng búa nện vào lớp sơn bóng lộn của chiếc xe.
Ông chạy thẳng đến chổ thằng bé, kéo nó ra, dùng búa đập vào tay nó đến dập nát để trừng phạt.
Khi người cha lấy lại bình tĩnh, ông lập tức đưa con đến bệnh viện. Mặc dù bác sỹ đã dùng đủ mọi cách để giữ lại những khúc xương bị dập nát, nhưng cuối cùng thì bác sĩ buộc lòng phải cắt cụt các ngón trên cả hai bàn tay của đứa bé.
Khi đứa bé tỉnh lại sau cuộc phẫu thuật và nhìn đôi tay băng kín của mình, nó ngây thơ nói: “Cha ơi! Con xin lỗi về chuyện chiếc xe tải của cha.” Rồi nó hỏi: “Nhưng khi nào thì những ngón tay của con sẽ mọc ra lại vậy cha?”
Người cha trở về nhà và tự kết liễu đời mình.
Hãy suy ngẫm về câu chuyện này nếu sau này có ai đó giẫm phải chân của bạn, lúc đó liệu bạn có muốn trả thù không.
Hãy suy nghĩ trước khi bạn đánh mất sự kiên nhẫn với người mà bạn yêu thương.
Chiếc xe tải hỏng có thể được sữa chữa lại, nhưng những khúc xương bị dập nát và tình cảm bị thương tổn thì thường không thể bù đắp được.
Thông thường chúng ta không thể nhận ra sự khác biệt giữa con người và hành vi. Chúng ta quên rằng lòng vị tha thì vĩ đại hơn là sự phục thù.
Con người thì có sai phạm. Chúng ta được phép phạm sai lầm. Nhưng những hành động chúng ta gây ra trong cơn cuồng nộ sẽ ám ảnh chúng ta suốt đời.
Hãy bình tâm và suy ngẫm.
Hãy suy nghĩ trước khi hành động.
Hãy kiên nhẫn
Hãy lượng thứ và biết bỏ qua.
Hãy yêu thương tất cả mọi người. | (From : 9NM-tnic)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Apr/2011 lúc 2:28am
15 ĐIỀU ĐÁNG ĐỂ CHÚNG TA SUY GẪM
Danh vọng, địa vị, sự thành công và sự giàu có thường có khuynh hướng gia tăng cái tôi của người ta. Vì vậy, người ta sẽ lạc lối, giống như người lạc đường không thể về nhà được. Ai chứa đầy kiến thức thì điếc trước lời phải trái. Khi hai người tranh luận, một người thường đưa cái biết của mình vào. Cho nên rút lại chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.
1. Sống trong hiện tại
Phật hỏi đệ tử: - Cuộc sống người ta được bao nhiêu? Các đệ tử thay nhau trả lời: - 80 năm. - Sai. - 70 năm. - Còn sai. - 60 năm. - Sai. - Vậy người ta sống bao lâu? Phật mỉm cười đáp: - Đời người chỉ thuộc trong vòng hơi thở. Lời bình : Đừng ỷ vào quá khứ và cái sắp tới, hãy sống với thực tại.
2. Sau khi chết người ta đi về đâu?
Hoàng đế Goyozer đang học thiền với thiền sư Gudo Toshoku. - Bạch thầy, sau khi chết, người ta đi đâu? - Tôi không biết. - Tại sao Thầy không biết? - Vì tôi chưa chết. - ??? Lời bình: Khi sống, con người nên thưởng thức những vẻ đẹp và bí ẩn của cuộc sống theo cái nhiều người sống. Không cần quan tâm đến thế giới sau khi chết. Hãy sống trọn hôm nay, đừng lo ngày mai vì chuyện ngày mai thì mai mới xảy ra.
3. Định mệnh nằm trong bàn tay
Thời xưa, có vị tướng quyết tấn công địch dẫu quân địch mạnh hơn gấp nhiều lần. Trên đường tiến quân, ông dừng chân ở một đền thờ cầu nguyện, xin giúp đỡ. Sau đó, ông rút ra một đồng xu và nói lớn với quân sĩ: - Bây giờ, ta sẽ lấy đồng xu để xin keo.Nếu là sấp, quân ta sẽ thắng còn ngửa thì quân ta sẽ bại. Chúng ta phó mặc mạng sống cho định mệnh. Đồng xu bay lên, xoay mấy vòng và rơi xuống đất. - Sấp rồi ! Chúng ta sẽ thắng ! Hãy xông lên chà nát quân thù ! – Ba quân reo hò phấn khởi. Sau trận chiến, toàn bộ quân địch hùng hậu đông đảo bị đánh bại hoàn toàn. Vị phó tướng vui vẻ nói với tướng quân: - Không ai có thể thay đổi được bàn tay định mệnh. Tướng quân chỉ mỉm cười không đáp. Ông xoè tay đưa đồng tiền ra. Cả hai mặt đồng xu đều là mặt sấp. Lời bình: Thiên đàng rất công bằng đối với tất cả mọi người, không thiên vị dành riêng cho ai. Sự giúp đỡ duy nhất mà bạn có được là chính bản thân bạn !!!
4. Con sóng nhận thức
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/waves-300x224.jpg -
Nhìn thấy một con sóng cao lớn bên cạnh, con sóng nhỏ tỏ ra bực mình: - Bực ghê. Sóng http://hoalinhthoai.com/forum/showthread.php?t=4223# - kia lớn quá, sao ta bé tí. Chúng mạnh mẽ xiết bao sao ta yếu đuối thế này. Con sóng to cười đáp: – Đó là vì không nhận ra gốc gác của mình mà bạn buồn bực thế. - Tôi không là sóng thế là gì? - Sóng chỉ là hình thức tạm thời trong bản chất của bạn. Kỳ thực bạn là nước. Một khi nhận ra bản chất của chính mình là nước, bạn sẽ không còn ấm ức với cái vỏ sóng này và không còn buồn bực gì nữa. Con sóng nhỏ hiểu ra, cười vui vẻ: - À, bây giờ thì tôi hiểu. Bạn và tôi tuy hai mà một. Lời bình: Con người cho rằng “ngã” là ta nên xảy ra phân biệt ta và người mà buồn khổ. Thực ra loài người được cấu tạo cùng một bản chất trong thiên nhiên bao la.
5. Thiên đường địa ngục
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/heaven-300x225.jpg -
Một vị tướng quân đến gặp thiền sư Ekaku hỏi: - Bạch thầy, thiên đường hay địa ngục có thật hay không? - Thế ngài là ai? - Tôi là tướng quân. Bất ngờ, thiền sư cười lớn: - A ha! Thằng ngốc nào cho ông làm tướng vậy, trông ông giống anh hàng thịt. Tướng quân nổi giận, rút gươm: - Tao băm xác mi ra !!! Thiền sư vẫn điềm tĩnh: - Này là mở cửa địa ngục. Chợt giác ngộ, vị tướng sụp xuống lạy: - Xin… xin thầy tha lỗi cho cử chỉ thô bạo vừa rồi của tôi. - Này là mở cửa thiên đường – thiền sư Ekaku mỉm cười. Lời bình: Thiên đường, địa ngục không phải là chỗ con người tới sau khi chết mà nó ở đây và bây giờ! Lành, dữ đều do tư tưởng. Cửa thiên đường địa ngục mở ra bất cứ lúc nào.
6. Thiên đàng địa ngục đều do tâm tạo
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/earth-300x272.jpg -
Có một bà lão biệt danh “mụ già hay khóc”. Trời mưa, mụ cũng khóc, trời không mưa mụ cũng khóc. Có người hỏi bà:
- Bà lão ơi, sao bà lại khóc? - Tôi có hai con gái, cô chị bán giày vải, cô em bán dù. Khi trời nắng ráo, lão nghĩ tới con em bán dù không được. Khi trời mưa, lão lại lo cho con chị, mưa gió không có khách nào chịu mua giày. - Lão nên nghĩ rằng khi trời đẹp đứa lớn sẽ bán được, khi trời mưa đứa nhỏ bán dù rất chạy. - À, ông có lý. Từ đó, “mụ già hay khóc” thôi khóc. Bà lão cười suốt ngày dù trời mưa hay nắng. Lời bình: Một điều lợi hay bất lợi sẽ tuỳ thuộc vào cách nhìn, cách suy nghĩ của bạn.
7. Phật tại gia
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/botat-152x300.jpg -
Yangpu về tỉnh Sichuan định tâm tìm kiếm Bồ Tát. Trên đường đi, Yangpu gặp một nhà sư. Nhà sư hỏi: - Cậu đi đâu đấy? - Tôi đi cầu Bồ Tát. - Bồ Tát ở xa, chi bằng đi tìm Phật có hơn không? - Tìm Phật ở đâu bây giờ? - Khi cậu về nhà, thấy người đón cậu trên mình khoác cái mền, chân xỏ dép trái, đó chính là Phật. Theo lời, cậu về nhà thì trời đã khuya. Mẹ cậu nghe con gọi cửa mừng quá vội khoác mền lên người, xỏ dép trái. Bà chạy ào ra mở cửa và khi Yangpu thấy mẹ mình như vậy thì đứng chết lặng. Lời bình: Người ta tìm chân lý nhưng điều cần là thực thi ngay trong lòng, không thì khó mà gặp được.
8. Ngón tay chỉ mặt trăng
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/moon-206x300.jpg -
Sư Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng: - Con đọc kinh Đại Bát Niết Bàn bao năm rồi mà vẫn chưa hiểu. Xin tổ sư soi sáng cho. Lục Tổ Huệ Năng cầm quyển kinh đưa cho ni sư, nói: - Ta không đọc được chữ, con hãy đọc, ta sẽ giúp con hiểu. - Tổ không đọc chữ sao ngài hiểu thông nghĩa được? – Jincang rất ngạc nhiên. Lục Tổ Huệ Năng thủng thỉnh đáp: - Chân lý không dựa vào chữ nghĩa. Nó giống như trăng soi trên trời. Trong trường hợp này, chữ nghĩa giống như ngón tay trỏ vậy. Ngón tay chỉ trăng mà nó không phải là trăng. Xem trăng có cần ngón chỉ không? Lời bình: Ngôn ngữ văn tự đều là biểu tượng diễn chân lý. Đừng lầm chữ nghĩa với chân lý như đã lầm ngón tay với mặt trăng.
9. Ai đó
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/you.gif -
Kitagaki, thống đốc bang Kyoto, đến viếng đền Tofuku để thăm Keichu – vị sư trưởng đền này. Đệ tử của Keichu vào báo: - Kitagaki, thống đốc Kyoto muốn diện kiến thầy. - Ta không biết thống đốc nào cả – Sư trưởng trả lời. Đệ tử chạy ra nói với Kitagaki: - Thầy tôi yêu cầu ngài lui gót vì không quen thống đốc nào cả. Kitagaki hiểu ra: - Nếu vậy, hãy báo với thầy anh có Kitagaki muốn diện kiến. - Để tôi thử lần nữa. Lần này, sư trưởng ra đón tận nơi: - Ồ, Kitagaki đấy à. Mời vào nhà. Lời bình: Danh vọng, địa vị, sự thành công và sự giàu có thường có khuynh hướng gia tăng cái tôi của người ta. Vì vậy, người ta sẽ lạc lối, giống như người lạc đường không thể về nhà được.
10. Càng vội càng chậm
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/slow-223x300.jpg -
Một thanh niên nọ lên núi tìm kiếm sĩ lừng danh để học kiếm thuật. Anh ta hỏi vị sư phụ: - Thưa thầy, nếu con luyện tập chuyên cần thì phải bao lâu mới thành kiếm sư? - Có lẽ 10 năm. - Cha con đã già rồi và con phải chăm sóc ông. Nếu con luyện tập chuyên cần hơn nữa thì mất bao lâu? Lặng yên suy tư một lúc, vị sư phụ đáp: - Trường hợp này có lẽ phải 30 năm. Anh thanh niên không giấu được vẻ nôn nóng: - Trước thầy bảo 10 năm, bây giờ 30 năm. Con sẽ vượt qua mọi trở lực để nắm vững kiếm thuật với thời gian ngắn nhất. - Thế thì anh cần phải ở lại đây 70 năm – Vị sư phụ mỉm cười. Lời bình: Những người quá nóng nảy muốn đạt đến kết quả thì hiếm khi thành công.
11. Đèn đã tắt
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/candle-light-300x240.jpg -
Một anh mù đến từ giã bạn mình. Người bạn cho anh một cây đèn lồng. Anh mù cười hỏi: - Tôi đâu cần đèn lồng. Với tôi, sáng hay tối có gì khác. - Tôi biết. Nhưng nếu không mang nó theo, trong bóng tối người khác có thể đụng vào anh. - Ồ, vậy thì được. Đi được một đoạn, bất ngờ anh mù bị một người đâm sầm vào. Bực mình, anh ta quát: - Bộ không thấy đèn hả? - Đèn của ông đã tắt từ lâu rồi mà. Lời bình: Người nào dùng lời kẻ khác để dạy người có thể giống anh mù này. Đèn đã tắt từ lâu, tuy nhiên anh ta không biết điều đó.
12. Bình thường tâm
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/peacemind-286x300.jpg -
- Bạch thầy, sống theo Đạo một cách siêng năng là thế nào? - Khi đói hãy ăn, khi mệt hãy ngủ. - Đó là những điều mà mọi người thường làm mà? -Không, không ! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Khi ăn, mọi người đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan. Lời bình: Có bao nhiêu người mà mỗi sáng thức dậy mà đầu óc không bận bịu những chuyện quá khứ? Con người phải vứt bỏ những điều nguy đã gây ra bão tố nội tâm và sống theo bản chất nguyên thuỷ của họ vì Đạo nằm ngay trong đời sống hằng ngày.
13. Thiền trong chén trà
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/tea_cup-300x225.jpg -
Vị giáo sư đại học đến gặp thiền sư Nan In để tìm hiểu Thiền. Nan In mời ông uống trà. Nan In rót đầy chén trà rồi mà cứ thế rót thêm. Giáo sư nhắc: - Kìa thầy, chung trà đầy tràn rồi, xin đừng rót nữa. Nan In cười đáp: - Như chung trà này, ông cũng đầy ắp những quan niệm của ông. Nếu trước tiên, ông không cạn chén thì sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được. Lời bình: Ai chứa đầy kiến thức thì điếc trước lời phải trái. Khi hai người tranh luận, một người thường đưa cái biết của mình vào. Cho nên rút lại chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.
14. Con quỷ bên trong
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/spider-300x217.jpg -
Nhà Sư nọ mỗi khi bắt đầu nhập định đều thấy một con nhện khổng lồ làm ông bối rối. Nhà sư liền vấn ý sư Tổ: - Mỗi khi con bắt đầu nhập định thì luôn có một con nhện khổng lồ xuất hiện, dẫu có đuổi thế nào nó cũng không đi. -Lần tới, nếu thấy con nhện xuất hiện, con hãy vẽ một vòng tròn to làm dấu xem nó từ đâu đến. Nhà sư làm đúng như vậy. Khi ông vẽ vòng tròn to vào bụng con nhện, con nhện chạy đi, ông lại có thể tiếp tục thiền định. Sau buổi thiền định, nhà sư rất bối rối khi thấy vòng tròn nằm ngay trên bụng mình. Lời bình: Trong cuộc sống, con người gặp phải nhiều xáo trộn và âu lo, phiền nhiễu. Nhưng âu lo tệ nhất thường là từ chính bản thân mình mà ra.
15. Đích tới có một đường đi không cùng
http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/04/stair_way_to_heaven-300x225.jpg -
Một tăng đồ hỏi Thiền sư Baling Haojian: - Nghĩa lý của sư tổ và ý nghĩa của giáo lý có gì giống và có gì khác nhau? - Khi vịt lạnh, chúng lội xuống nước. Khi gà lạnh chúng đậu trên cây. Lời bình: Lạnh vẫn lạnh nhưng phương thức tránh lạnh lại khác nhau. Cùng một mục tiêu nhưng mỗi loài lại có cách riêng của chúng. Để đạt mục tiêu không chỉ có một con đường, không phải ai cũng đi theo một con đường.Hảy khéo chọn .
Minh Lam sưu tầm
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Apr/2011 lúc 5:40pm
Biết chết và biết sống
Không ở đâu có sự an toàn tuyệt đối, cho dù con người đã có thể tính toán sự an toàn ở mọi cấp độ. Dự cảm, hay nhận thức đúng về vô thường thì con người sẽ biết sống để giảm thiểu thiệt hại của thiên tai và không tạo thêm ra những nhân họa.
Chết không phải là hết
Nhật Bản sắp bước vào mùa lễ hội hoa anh đào trong thương đau của thảm họa động đất sóng thần. Anh đào được người Nhật tôn làm quốc hoa và gửi gắm vào đó nhiều triết lý sống tinh tế. Năm nay sẽ là một năm đặc biệt để người Nhật trải nghiệm sâu sắc về lẽ vô thường, hư ảo của cuộc sống qua từng cánh hoa rơi.
Nữ sĩ Komachi (825-900) cảm nhận:
"Anh đào ơi/
nhan sắc phai rồi/
hư ảo mà thôi/
tôi nhìn thăm thẳm/
mưa trên đầu tôi."
Triết lý Thiền tông càng tô đậm thêm cho người Nhật cảm thức bi ai và hoà điệu đó: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (Mọi vật có hình tướng thì đều là vô thường). Cảm thức ấy cùng với thiên nhiên thay đổi rõ nét trong bốn mùa đã trở thành người thầy vĩ đại giáo dục người Nhật nhận thức hơn ai hết về sự sống hư ảo mong manh: Như sương mai đầu ngọn cỏ, như gió thổi mây bay, như điện chớp, như bọt bóng, ánh nắng...
Người Nhật luôn tìm thấy sự tương đồng giữa thân phận bé nhỏ của con người với từng biểu hiện thay đổi của thiên nhiên. Hoa ấy, người ấy cùng tôn vinh vẻ đẹp của vô thường, vẻ đẹp của sự vắng mặt trong một khoảng thời gian vật lý, trước khi sự tái sinh ở nhiều dạng thức sống khác nhau. Chết không phải là hết. Không hề là bi quan, tinh thần Thiền tông nói nhiều đến vô thường để sống ung dung tự tại, để đón nhận một giấc mộng nhân sinh ngắn ngủi bằng tinh thần lạc quan, không thất vọng, không sợ hãi.
Ngày 11.3.2011, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi chứng kiến cảnh động đất sóng thần tàn phá miền Đông bắc nước Nhật Bản với hàng chục ngàn người thiệt mạng và hàng chục ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn người mất nhà cửa...
Nhưng từ bàng hoàng xúc động, người dân trên thế giới chuyển sang thái độ khâm phục, ngả mũ trước những hành xử tuyệt vời của người Nhật trước thảm họa. Từ lâu, Nhật Bản vẫn thường được nói đến như một dân tộc thần kỳ, luôn biết vươn lên từ thảm họa và nghịch cảnh.
Thế giới nói nhiều đến lý thuyết "sức mạnh mềm", và người Nhật đã thể hiện được sức mạnh ấy ngay trong thời điểm thiên tai khủng khiếp tàn phá đất nước của mình. Rồi đây, người dân thế giới còn sẽ nhắc nhiều đến hình ảnh của một nước Nhật trật tự, kỷ luật và rất mực yêu sự sống. Vì vậy tình người trong thảm họa động đất, sóng thần luôn là tâm điểm của truyền thông thế giới.
Cái chết của bất kỳ người dân Nhật Bản nào trong thiên tai cũng được ứng xử như những cái chết đã được chuẩn bị chu đáo cho một cuộc hành trình mới của sự sống. Biết chết thì sẽ biết sống, đó là quan niệm sâu sắc từ rất lâu của người Nhật.
Hoa anh đào Nhật Bản. Ảnh: Tamtay.vn
Nhìn vào những hành xử nhân văn ấy, chợt nhớ đến những câu thơ ngả mũ tiễn biệt xe tang qua phố của nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Và người ta không thể không nhớ đến bộ phim Khởi hành (tên tiếng Anh: Departures, có người dịch là Người đưa tiễn) của đạo diễn Yojiro Tokita, giải Oscar cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất năm 2009. Khởi hành đã phác họa sự tinh tế trong ứng xử của người Nhật. Rõ ràng, người Nhật không chỉ tinh tế trong thiền đạo, hoa đạo, trà đạo..., mà con tinh tế cả trong nghề khâm liệm, trong thái độ và cách thức mà họ ứng xử với người quá cố.
Nội dung của bộ phim, nói về đời sống mưu sinh của một nhạc công chơi cello bị thất nghiệp, anh ta đã tình cờ đến với nghề khâm liệm người chết, một nghề đòi hỏi sự thận trọng, tinh tế và tình yêu thương, cảm thông không phân biệt. Anh ta đã giấu vợ để làm công việc này. Thời gian đầu, anh bị ám ảnh bởi những xác chết, nhưng sau đó anh càng nhận ra sự cần thiết của công việc khi đem lại cho người còn sống sự an ủi với hình ảnh trang nghiêm nhất, đẹp nhất trước lúc đưa tiễn người quá cố.
Áp lực xảy ra khi vợ anh phát hiện ra sự thật mà bấy lâu anh che giấu, và sự lựa chọn khó khăn đã đến, một là anh phải từ bỏ nghề này, hai là anh không thể tiếp tục sống cùng vợ. Anh cũng đã có ý định bỏ nghề, nhưng mỗi khi chiếc điện thoại reo lên, có một sự thôi thúc ẩn sâu buộc anh phải đến với họ.
Tình cờ trong một đám tang người thân, vợ anh đã hiểu ra công việc đầy lòng vị tha đó của chồng. Sau này, cô chính là người động viên anh khâm liệm cho cha của anh, một người cha đã bỏ anh đi từ khi anh còn nhỏ. Anh luôn mang trong mình hình ảnh người cha qua ký ức về một viên đá cuội. Khi khâm liệm cho cha, mở bàn tay đang nắm chặt, anh xúc động bởi trước khi chết, cha anh chỉ mang theo mình duy nhất viên đá cuội đó. Kết thúc bộ phim anh đã cầm viên đá cuội áp vào bụng vợ, khi vợ anh đang mang thai,... và một sự sống đang bắt đầu.
Một sự khởi hành lại bắt đầu
Thiên tại ập đến Nhật Bản bằng một thông điệp, với vô thường không ở đâu có sự an toàn tuyệt đối, cho dù con người đã có thể tính toán sự an toàn ở mọi cấp độ. Dự cảm, hay nhận thức đúng về vô thường thì con người sẽ biết sống để giảm thiểu thiệt hại của thiên tai và không tạo thêm ra những nhân họa.
Động đất, sóng thần, rò rỉ phóng xạ hạt nhân đã trở thành một tương quan nhân quả thống nhất, không thể tách biệt, không thể đổ lỗi, và tất cả những giả định "nếu... thì...", đều trở nên vô nghĩa trước hiện thực đã diễn ra. Thành ngữ có câu: "Cứ nói nếu thì rều rệu cũng hoá mun lim". Trước khi tìm đến sự "an toàn" của một công trình, người ta phải biết cách tạo ra niềm tin về sự an toàn trong từng hành vi ứng xử của cộng đồng, có như vậy mọi người mới có thể chung sức, chung lòng trước mọi thảm họa.
Nhưng nhiều người Nhật hối hả rời bỏ Tokyo để tránh ô nhiễm phóng xạ lại cho ra một hình ảnh khác, rằng họ sẵn sàng đón nhận mọi thiên tai, nhưng không mặn mà với những "bí mật" (được "bật mí") của nhân họa, một thứ họa có thể di hại đến nhiều đời.
Bất cứ sự thất tín bội hứa nào với con người, với môi trường sống đều cho ra những hình ảnh bất cập. Tất cả mọi sáng tạo, thành tựu cũng phải đón chờ những thách thức thực sự của thảm họa, khi ấy người ta mới có thể trải nghiệm được những giới hạn của con người mà trân trọng những thời khắc tồn tại mong manh của chính con người.
Tin chắc, người ta sẽ còn nhớ đến phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan ngày 18.3 trên truyền hình: "Trong lịch sử của chúng ta, quốc đảo bé nhỏ này đã tạo ra sự phát triển kinh tế thần kỳ nhờ nỗ lực của tất cả công dân Nhật Bản. Chúng ta sẽ xây dựng lại đất nước từ đầu...".
Trong niềm bi ai, một sự khởi hành lại bắt đầu đến với dân tộc Nhật Bản. Người Nhật đã có đầy đủ niềm tin và lạc quan để nói với thế giới về một tinh thần "Công dân Nhật Bản", mà không sợ ai đó nói rằng mình ảo tưởng vĩ cuồng.
THÁI NAM THẮNG (Tuần Việt Nam)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Apr/2011 lúc 7:51am
Một trí giả thích ngụy biện đến gặp một bậc Hiền của xứ cổ Hy Lạp – Ông Socrate – và đặt nhiều câu hỏi khó khăn với mục đích làm cho ngài bối rối. Nhưng nhà hiền triết xứ Milet có thừa khả năng để trả lời.
Sau đây là các câu hỏi:
1.- Trong các vật hiện hữu, cái gì xưa nhứt ?
- Thượng Đế, vì ở thời đại nào, Ngài cũng hiện hữu.
2. – Trong các vật, vật nào đẹp nhứt ?
- Vũ trụ, vì vũ trụ là công trình của Thượng Đế.
3. – Trong các vật, vật nào lớn nhứt ?
- Không gian, vì nó chứa tất cả những gì sáng tạo.
4. – Trong các vật, vật gì vững bền nhứt ?
- Hy vọng, vì khi con người mất hết, nó vẫn còn.
5. – Trong các vật, vật nào tốt nhứt ?
- Đức hạnh, vì thiếu nó không có một việc gì tốt đẹp.
6. – Trong các vật, vật chi di chuyển mau nhứt ?
- Tư tưởng, vì trong một giây nó có thể đến tận bên kia vũ trụ.
7. – Trong các vật, vật chi mạnh nhứt ?
- Nhu cầu, vì nó giúp ta san bằng các khó khăn to lớn nhứt.
8. – Trong các việc, việc chi dễ làm nhứt ?
- Khuyên bảo.
Nhưng đến câu hỏi thứ chín, vị Hiền triết có một câu trả lời lạ tai mà người đối thoại của ông, vì chỉ biết việc trần nên chẳng hiểu tí gì. Phần đông người đời nếu hiểu thì cũng hiểu một cách cạn hẹp.
Câu hỏi như sau:
9 – Trong các việc, việc nào khó nhứt ?
Và nhà Hiền triết thành Milet trả lời:
- Tự biết mình.
Đó là thông điệp mà các vị Hiền Triết thời xưa chuyển đến cho nhân loại vô minh, và nay, chúng ta phải cố gắng trong công việc tìm hiểu nầy . . .
(Nguồn: tnic)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Apr/2011 lúc 11:20am
Câu chuyện tương tự
Anh A sau lần đổ vỡ của đời sống vợ chồng sau hơn mười năm chung sống, anh ta đi tìm sự giúp đỡ của khoa tâm lý trị liệu ở một bệnh viện gần nhà. Sự mong mỏi duy nhất của anh, anh nói với bác sĩ của mình trong ngày đầu gặp mặt, là làm sao để thoát khỏi cái cảm xúc mà anh đang mang trong lòng. Anh ta cầu khẩn vị bác sĩ của mình làm sao để giúp anh cất đi được nỗi đau, giúp anh loại trừ được cái cảm xúc mà anh không hề muốn.
Nhưng vị bác sĩ của anh là một thiền gia, cô ta cũng mới vừa rời khỏi một thiền viện Zen, nơi mà cô đã sống trong ba năm trời. Khi người bạn của tôi mang một nỗi đau đến gặp cô, cô ta khuyên anh nên tiếp xúc và có mặt với cảm xúc ấy, cho dù nó có khó chịu đến đâu chăng nữa. Cô ta không cố gắng khuyên giải và cũng chẳng hề giúp anh thay đổi những gì anh đang cảm nhận. Cô ta chỉ khen tặng anh vì đã biết tiếp xúc với những cảm xúc vô cùng khó khăn ấy. Mỗi khi anh than thở về những bất an hoặc nỗi cô đơn của mình, thì cô ta lại khuyến khích anh hãy cảm nhận những cảm xúc ấy cho sâu sắc hơn và mỗi khi anh muốn tránh né thì cô ta lại tiếp tục nhắc nhở và bắt anh phải quay lại đối diện với chúng.
Mặc dù anh A không cảm thấy chút gì khá hơn, nhưng anh lại rất thắc mắc về đường lối trị liệu của cô ta, và từ đó anh bắt đầu tập thiền. Anh ta kể lại cái giây phút chính yếu trong kinh nghiệm thiền tập của mình, khi chứng bệnh trầm cảm (depression) của anh bắt đầu tan biến. Trong khi ngồi thiền anh cảm thấy rất khó chịu với những cảm giác ngứa ngáy, đau đớn, nhức nhối trong thân, mà anh không tài nào có mặt với chúng được. Anh nhớ lại, cuối cùng, có một lúc anh đã có thể quan sát và thấy được một cái ngứa bắt đầu khởi lên, tăng cường độ và rồi tự nhiên biến mất, mà anh không cần phải gãi hay làm gì hết. Từ kinh nghiệm ấy, anh đột nhiên hiểu được lý do vì sao cô bác sĩ trị liệu đã khuyến khích anh chỉ cần đơn giản có mặt với những trạng thái cảm xúc của mình. Và từ lúc đó chứng bệnh trầm cảm của anh cũng tự nhiên tan biến.
Cảm xúc của anh chỉ thay đổi khi anh ta thôi không mong muốn nó thay đổi nữa!
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/May/2011 lúc 10:58pm
Cuộc sống có những điều thật nghịch lý, trái ngược khiến chúng ta không thể chấp nhận được.
Chẳng hạn như có người chi tiền cả triệu, rất rộng rãi và hào phóng cho những dịp liên hoan, yến tiệc, nhưng lại xua đuổi những kẻ nghèo hèn ăn xin, so đo không muốn cho họ dù chỉ vài đồng.
Có người ăn nhiều, uống nhiều, mặc áo quần sang trọng nhưng lại ít tiếng cười.
Có người thích nói nhanh, kết luận vội vả, nhưng lại thật chậm chạp trong sự nhận lỗi, phục thiện.
Lương của càn bộ nhà nước ấy không đủ sống ..nhưng ông ta lại có 3 căn nhà ; ở thì chỉ một ..dư tới 2 .
Có người mong muốn sống lâu nhưng sống cẩu thả, không vận động, không mục đích.
Có người biết rõ đường đi đến mặt trăng và các vì tinh tú xa xôi, nhưng lại không biết con đường dẫn đến nhà người thân, bạn hàng xóm.
Có những người mẹ có thể nuôi đàn con đông đúc, nhưng đàn con đông đúc của các người mẹ ấy lại không nuôi nổi mẹ già của mình.
Bà mẹ ấy ngày ngày bàn từng bó rau , để dành tiền nuôi đứa con bị tâm thần . cuối tuần bà lặn lội lên Biên hòa , bà còn 5 người con khác ( cuộc sống khắm khá hơn ) nhưng không hề giúp bà , giúp em ruột mình ... bà cô độc một hành trình ????
Không phải điều nghịch lý nào cũng xấu, trái lại có những sự trái ngược đem lại lợi ích cho chúng ta. Chính vì phải đương đầu với những nghịch lý với sự khó khăn và phiền muộn mà chúng ta cần phải có óc phán đoán và lòng bao dung để vừa sống khôn ngoan, vừa sống rộng lượng. Nhờ vậy cuộc đời sẽ thoải mái, vui vẻ, dễ chịu và thỏa lòng với mọi hoàn cảnh.
(ST)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Jun/2011 lúc 8:22pm
ÂM THANH CỦA MỘT BÀN TAY
Thiền sư của chùa Kennin là Mokurai, Tiếng Sấm Yên Lặng. Ông có một đệ tử bảo trợ nhỏ tên là Toyo chỉ mới mười hai tuổi. Toyo thấy các môn đồ lớn tuổi hơn đến thăm phòng thầy vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối để được chỉ dạy về thiền định an tâm theo đó họ được trao cho những công án để ngăn chặn cho tâm khỏi chao động. Toyo cũng mong ước được ngồi tham thiền. "Hãy chờ đợi thêm ít lâu," Mokurai bảo. "Con hãy còn nhỏ lắm." Nhưng cậu bé nài nỉ, nên cuối cùng ông thầy ưng thuận. Vào buổi tối cậu bé Toyo đến bên ngoài ngưỡng cửa phòng thiền của Mokurai vào một thời điểm thích hợp. Cậu đánh chiêng báo hiệu mình hiện diện, cúi chào cung kính ba lần phía ngoài cửa, rồi đến ngồi trước mặt thầy yên lặng kính cẩn. "Con có thể nghe thấy âm thanh của hai bàn tay khi chúng vỗ vào nhau," Mokurai nói. "Bây giờ hãy cho ta biết về âm thanh của một bàn tay." Toyo cúi chào và lui về phòng mình mà nghiên cứu vấn đề này. Từ cửa sổ phòng mình cậu có thể nghe thấy âm nhạc của các cô đào hát. "A! Ta thấy được rồi!" cậu reo lên. Đêm hôm sau, khi thầy của cậu bảo cậu diễn tả âm thanh của một bàn tay, Toyo bắt đầu chơi âm nhạc của các cô đào hát. "Không, không," Mokurai nói. "Chẳng bao giờ như vậy đâu. Cái đó không phải là âm thanh của một bàn tay. Con chưa thâu thái được gì hết." Cho rằng âm nhạc như thế có thể làm gián đoạn, Toyo di chuyển chỗ ở của cậu đến một nơi yên tĩnh. Cậu ta lại tham thiền. "Âm thanh của một bàn tay có thể là gì?" Cậu chợt nghe tiếng nước nhỏ giọt. "Ta thấy rồi," Toyo tưởng tượng. Lần sau khi cậu đến trước mặt thầy của cậu, Toyo bắt chước tiếng nước nhỏ giọt. "Đó là cái gì vậy?" Mokurai hỏi. "Đó là tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là âm thanh của một bàn tay. Cố nữa đi." Toyo trầm tư để nghe âm thanh của một bàn tay nhưng chẳng ăn thua gì. Cậu nghe thấy tiếng thở dài của gió. Nhưng âm thanh bị bác bỏ. Cậu nghe thấy tiếng kêu của một con cú. Tiếng đó cũng bị từ chối. Âm thanh của một bàn tay không phải là những con châu chấu. Cả đến hơn mười lần Toyo đến viếng thăm Mokurai với các âm thanh khác nhau. Tất cả đều sai. Gần suốt một năm cậu cứ nghĩ ngợi xem âm thanh của một bàn tay là thế nào. Sau cùng cậu bé Toyo nhập vào thiền định thật sự và vượt qua tất cả các âm thanh. "Ta không còn thâu thập được thêm gì nữa," cậu giải thích về sau này, "bởi vậy ta đã đạt tới âm thanh không âm thanh." Toyo đã ngộ được âm thanh của một bàn tay.
http://www.oldcottage.net/vuonthien/truyenthien/amthanhcuamotbantay.html - http://www.oldcottage.net/vuonthien/truyenthien/amthanhcuamotbantay.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Jun/2011 lúc 6:07pm
P H Ỏ N G V Ấ N T H Ư Ợ N G ĐẾ
Có một lần, tôi mơ thấy được phỏng vấn Thượng đế.
- Con muốn phỏng vấn ta à? Thượng đế hỏi . - Nếu Ngài có thời gian.
Người mỉm cười :
- Thời gian của ta là Vĩnh cửu... . Con muốn hỏi ta điều gì? - Điều gì ở Con Người khiến Ngài ngạc nhiên nhất?
Thượng đế trả lời:
- Con người nhàm chán tuổi thơ, vội vã lớn lên, rồi lại mơ ước được trở lại làm trẻ nhỏ. - Họ tiêu phí sức lực để kiếm tiền, rồi lại tiêu tiền để phục hồi sức khỏe. - Họ nghĩ nhiều tới tương lai mà quên đi hiện tại, để rồi chẳng sống ở hiện tại mà cũng chẳng ở tương lai. - Họ sống như sẽ chẳng bao giờ chết, và chết dần như chưa từng được sống.
Rồi Người nắm tay tôi, im lặng...
Tôi lại hỏi:
- Thượng đế tạo ra muôn loài, Ngài muốn chúng sinh ghi nhớ những bài học nào trong cuộc sống?
Thượng đế trầm ngâm:
- Hãy nhớ rằng không bao giờ có thể bắt ai đó phải yêu mình. Chỉ có thể tự làm cho mình trở nên đáng yêu thôi. - So kè mình với người khác là điều không tốt. - Hãy học cách tha thứ, và tập tha thứ. - Hãy nhớ rằng để làm tổn thương ai đó chỉ cần có vài giây ngắn ngủi, nhưng để chữa lành vết thương đó phải cần tới hàng năm dài dằng dặc. - Hãy hiểu rằng người giàu không phải là người có tất cả mọi thứ, họ chỉ là người ít thiếu thốn hơn thôi. - Cần biết rằng, có nhiều người yêu mến mình, nhưng họ chưa biết cách bộc lộ ra. - Khi cả hai người cùng nhìn vào một sự việc, sự nhận biết có thể sẽ không giống nhau. - tha thứ lẫn nhau chưa đủ, mà còn cần phải tự tha thứ cho chính mình nữa.
" Cám ơn Ngài đã bớt chút thời gian!"- Và tôi rụt rè: - Ngài còn điều gì muốn gửi tới chúng sinh không ạ?
Thượng đế cười đáp:
- Hãy nói với họ rằng Thượng đế ở đây vì họ...mãi mãi! (Internet)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Jun/2011 lúc 10:59am
BÀI HỌC ĐẦU TIÊN
Không phải bài học đầu tiên của cô giáo dạy tôi khi tôi bước chân vào lớp một, cũng chẳng phải bài học đầu tiên khi tôi bắt đầu bước chân vào giảng đường đại học, mà đơn giản chỉ là bài học Phật Pháp đầu tiên tôi được học khi bước chân vào Chùa
Quê tôi ngày xưa nghèo lắm, hẻo lánh lắm. Quanh năm tôi chỉ làm bạn với cỏ cây, với những chú chim ngày ngày bay về hót líu lo mà tôi chẳng biết chúng nói gì?
Nhà tôi trồng nhãn, trồng nhiều lắm. Mà ở cái xứ khỉ ho cò gáy này thì ngoài cây lúa ra chỉ có cây nhãn là mang lại thêm kinh tế cho gia đình tôi.
Tôi lớn lên như bao chàng trai khác, vẫn hỷ nộ ái ố cuộc đời; biết yêu, biết ghét, biết giận, nhưng chưa bao giờ tôi biết tha thứ cho lỗi lầm của ai và … tôi nhìn cuộc đời, nhìn mọi người bằng lăng kính của riêng mình! Tôi có cái nhình rất tinh tế nên tôi dễ nhận ra những điểm không tốt của người đối diện mình và cũng chính vì thế khiến tôi không có bạn nhiều.
Tôi quý mến tất cả, nhưng tôi không tha thứ cho ai dù vô tình hay cố ý chơi không đẹp với mình, và tôi sẽ tìm cách đối xử lại như chính họ đã làm với tôi …. Có thể như thế mà tôi trở thành người khó tánh nhất xóm.
Và một ngày…. Mọi suy nghĩ của tôi thay đổi hết khi một vị Sư về trú tại chùa
Xóm tôi có một ngôi chùa nhỏ nằm chơi vơi giữa đồng. Ngôi chùa nền đất vách lá ngày ngày chỉ có một vị sư già trông coi. Ngoài việc làm đồng áng, trông coi mãnh vườn và sau những giờ học tôi rất thích đến ngôi chùa này. Giữa không gian yên tỉnh, tiếng chuông, tiếng mõ hòa cùng tiếng tụng kinh của Sư âm vọng giữa không gian tỉnh mịch, khiến lòng tôi yên bình lắm.
Một hôm có một vị sư trẻ về trú tại chùa. Vị sư trẻ có một đôi mắt sáng, sáng đến nỗi bạn có thể soi đường trong bóng đêm và thầy có một nụ cười rất hiền, nụ cười chứa đựng niềm hạnh phúc vô biên.
Tôi thích nói chuyện với thầy, vì ở Thầy tôi không tìm thấy được điểm xấu nào. Như hiểu được mọi suy nghĩ trong đầu tôi, một hôm sao buổi tan trường tôi không về nhà mà chạy thẳng vào chùa để được tụng kinh cùng Thầy khi thầy cúng chiều. Tôi yên lặng lắng nghe từng lời Thầy tụng vì thầy có một giọng tụng rất hay như cuốn hút lòng người vào từng lời kinh, lời chú nguyện của thầy khi thầy cúng thí thực.
Sau thời kinh, khi mà thầy đã yên vị tọa cụ, Thầy nắm tay tôi dẫn ra sau vườn ngồi vào chiếc bàn gỗ. Thầy rót cho tôi một tách trà nhạt, rồi Thầy hỏi tôi:
Con có nhiều bạn không, sao trẻ em trong xóm thì nhiều mà chỉ mình con vào chùa, mấy em đó đâu sao không đi cùng con?
Dạ không, con không có bạn nhiều vì họ ai cũng xấu
Sao con nghĩ vậy – Thầy hỏi với vẻ ngạc nhiên
Vì họ chửi thề, họ hổn hào, họ lười học, họ lười suy nghĩ.
Thầy xoa đầu tôi cười rồi nói: Để Thầy chỉ cho con điều này
Rồi thầy lấy ra một tờ giấy trắng, giấy trắng học trò, Thầy dùng bút lông nhỏ lên tờ giấy một chấm đen thật đen; Thầy giơ tờ giấy lên và hỏi:
Con có thấy gì không?
Tôi nhanh miệng đáp mà không cần suy nghĩ:
Dạ bạch Thầy một chấm đen ạ.
Thầy cười hỏi lại: Con nhìn rõ chưa nè?
Dạ con nhìn thật rõ rồi, bạch Thầy – Tôi khẳng định lại
Thầy cười tươi, nụ cười hiền hòa như chứa đựng cả tam thiên niềm an lạc vô biên:
Sao con chỉ nhìn thấy chấm đen nhỏ trên tờ giấy trắng mà không nhìn thấy tờ giấy lớn trắng tinh thầy đang cầm?
Tôi lặng im không nói được lời nào.
Thầy tiếp: Con người cũng vậy, không ai là hoàn thiện, cho nên Đức Phật mới thị hiện cõi đời này để giúp chúng sanh hoàn thiện tâm mình, giúp chúng sanh thánh thiện hơn, đạt được phật tánh ( ngộ nhập Phật tri kiến) vì thể tánh chúng sanh và Phật không khác, chúng sanh cũng sẽ là những vị Phật của tương lai ( ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành). Nếu con chỉ chầm chầm nhìn vào cái xấu của họ con sẽ bỏ lỡ nhiều điểm tốt của họ, cũng như con chỉ nhìn thấy chấm đen trên tờ giấy trắng mà không nhìn thấy được tờ giấy trắng có chứa chấm đen nhỏ!
Nếu con nhìn thấy điển tốt của họ, con sẽ thấy ai cũng đánh yêu, ai cũng đáng kính cả, đó là tâm Phật trong mỗi con người luôn hiện hữu. Niềm an lạc, sự yêu mến không phải người khác ban phát cho con mà chính con phải tạo ra nó,
Một năm sau tôi rời mái trường cấp 3 thân yêu bước lên chốn thị thành để thực hiện ước mơ của mình; bước chân vào giảng đường đại học. Lời dạy của Thầy cũng theo tôi trong cuộc hành trình tôi đi.
(Nguồn : Da-List)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Oct/2011 lúc 4:28pm
Triều Tâm Ảnh
Ván cờ sinh tử
Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị thiền sư dạy Ðạo cho môn sinh như thế này chưa:
"-
Này chư tử ! Thuở còn trai trẻ, làm kiếm khách Áo Trắng, ta ít khi rút
kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm Vương.
- Này chư tử ! Thuở còn trai trẻ, làm giang hồ kỳ thủ, ta ít khi
chơi cờ. Khi đã chơi, một quân cờ đặt xuống - trọng lượng một quả núi -
sẽ kết thành định mệnh. Ðịnh mệnh không lặp lại hai lần. Dòng sông đã
chảy, vậy thì những quân cờ kế tục đi đến chung quyết. Không do dự,
không ngập ngừng. Người đời gọi ta là Kỳ Vương.
- Này chư tử ! Kiếm Vương ta cũng bỏ, Kỳ Vương ta cũng lìa, khoác
tay nải, dép cỏ, nón mê lang thang học Ðạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần
mới thấy được cửa vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở
chướng đã trừ, mê lầm đã tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi.
Kiếm Vương kia thành Kiếm Ðạo. Kỳ Vương kia thành Kỳ Ðạo. Tại sao như
thế ?
- Này chư tử ! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chạm đá, như
kiếm xuyên mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Ðốt cháy kiến hoặc, dội
tắt nghi tình, vào chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.
- Hãy nghe
đây ! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác thành nghiệp báo. Vậy
hãy như tay Kiếm Vương kia, chớ khinh suất mà ra chiêu, đừng cho ý tưởng
tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực, lúc buông xả nghỉ ngơi. Hãy
xuất niệm như xuất kiếm. Ðã xuất là phải đạt.
- Này chư tử ! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh
tư duy. Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động.
Phải như tên kỳ thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi.
Dòng sông không chảy hai lần. Ðừng do dự, đừng ngập ngừng. Quân cờ đặt
xuống là tác thành định mệnh, tác thành nhân quả, nghiệp báo.
- Này chư tử ! Hãy xuất cờ ! Hãy xuất niệm ! Hãy xuất kiếm ! Bước
tới ! Không ngoảnh đầu ! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ !
Không có sau trước giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung !"
Bài
giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm xuyên qua mấy đỉnh
mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị. Người ta
tỉnh giấc, bàng hoàng. Ngàn năm Phật Giáo kinh điển, từ chương, thụ
động, tiêu cực, đắm say, bùa chú, hương khói vật vờ; chợt đứng dậy, vươn
cao, nắm định mệnh mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng hô to,
cánh sát cánh, vai sát vai ... ánh lửa Trí Tuệ bùng lên, thổi sinh khí,
đem lại Cái Ðẹp, Sức Mạnh và Tự Do Tối Thượng cho con người.
Phật Giáo từ thời Khâm Minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế kỷ XV,
sống lại, mang cơ thể mới, tinh thần mới, dẫn Nhật Bản đi vào thời kỳ
đại phú cường. Công lao
ấy có ai ngờ rằng khởi từ trí tuệ của một người: thiền sư Dai-so-kim !
Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam Tây Hải Ðạo.
Truyện ngắn sau đây thuật lại một trường hợp dạy Ðạo của Người.
Thanh
niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp
bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu Viện Trưởng:
- Thưa ngài ! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của đời nên mong muốn giải
thoát khỏi những đau khổ. Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một
thứ gì lâu dài. Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong thiền
định, học tập, giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vậy. Con sẽ
thối chí và rơi trở vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng
được. Quyên sinh là biện pháp hay nhất, có lẽ. Thưa Ngài ! Vậy thì con
đường nào ngắn nhất, dễ dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không ?
- Có chứ ! Tu Viện Trưởng, một thoáng lạ lùng nhìn người thanh niên
rồi trả lời - Nếu con trung thực ! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học
những thứ gì ? Sở tri ra sao ? Có thể có những khả năng như thế nào ?
Thảng hoặc, con thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì ?
Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt:
- Ôi
! Thực sự thì không có thứ gì ! Con chưa nghĩ là mình phải nên như thế
này hoặc nên như thế nọ ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa đến
hư vô và phù phiếm ! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là
giấc mộng đầu hôm. Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần
phải làm việc. Riêng về sở thích thì ... tuyệt, con thích đánh cờ nhất !
Cả đời, dường như tâm trí con chỉ tập trung vào đó thôi. Trong vài cuộc
tranh giải gồm những kỳ thủ già dặn bốn phương, thỉnh thoảng con cũng
giật được phần thưởng ưu hạng.
- Rất tốt ! Tu Viện Trưởng gật đầu - Chưa đến nỗi phải bỏ đi. Nhưng
mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ
?
- Con đã chọn lựa.
- Thế nào ?
- Ngài là Kiếm
Vương - Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn - lại là Kỳ Vương nữa. Ngài đã
dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi tu viện này những
con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc hãnh nhất.
Không cần phải nói rằng người ta tín phục ngài như thế nào, ngài Tu Viện
Trưởng ạ !
- Hỡi con, này Ka-jo-ju ! Ta muốn hiểu cường độ tín phục ấy ở nơi riêng con thôi.
Nghe
gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất giác, thanh
niên đưa mắt nhìn Tu Viện Trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ lạ
không cưỡng được.
Ka-jo-ju gật:
- Tín phục. Con hoàn toàn tín phục.
Tu Viện Trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:
- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.
Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước, dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu.
- Mu-ju con !
- Bạch thầy, con nghe.
- Bao nhiêu năm
con theo thầy học đạo. Con mời cơm, ta ăn. Ta gọi, con dạ. Ta giẫy cỏ,
con cuốc đất ... Tình thầy trò giữa chúng ta thật không có gì đáng phải
phàn nàn cả chứ ?
- Dạ, quả thế thật.
- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa. Từ trước đến nay, con không hề mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ ?
- Phải nói ngược lại, bạch thầy - giọng tu sĩ trẻ chợt như viên đá ngàn cân - phải nói là con tuân phục thầy một cách tuyệt đối.
- Rất tốt ! Vậy này Mu-ju ! Ngay bây giờ ta yêu cầu ở nơi con sự tuân phục "Kim Cương Bất Hoại" đó.
- Xin vâng.
Tu
Viện Trưởng - chính là thiền sư Dai-so-kim - chợt đứng dậy, bước tới
bức tường phía đông. Ở đó có treo một thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc khảm xà
cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy một lớp bụi đục. Gần nửa thế kỷ nay,
ngài không đụng đến thanh kiếm ấy. Cái thời Kiếm Vương trai tráng oanh
liệt dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ
vang lên. Kiếm đã ra khỏi vỏ. Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc.
Thiền sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cội tùng gân guốc.
-
Này Mu-ju ! Ngài nói chậm rãi - Con hãy chơi cờ với chàng thanh niên
này. Và nghe đây ! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con. Nhưng ta hứa là con
sẽ được tái sanh vào một cõi lạc phúc. Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu
chàng thanh niên. Suốt đời anh ta mải mê ham thích trò chơi đó, nếu để
thua thì chém đầu y chẳng oan tí nào.
Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu Viện Trưởng, và trong thoáng giây đó, họ hiểu rằng ngài nói thật.
Thanh
niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo hơi gió buốt lạnh
câu nói xa xưa của Kiếm Vương: "Ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra
là phải chém !". Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi lấm
tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi nhu tí gợn trên
mặt hồ rồi mất. Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức thầy, nên
việc giao phó định mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu.
Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua liếp
cửa. Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay
nắm chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí
đọng lại, trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người.
Cả hai hoàn toàn bị khiếp phục.
Họ bắt đầu bước vào ván cờ sinh tử.
Ván
cờ không còn là trò chơi nữa. Là cái gì nghiêm trọng nhất trên cõi đời
này. Ván cờ chính là cuộc đời. Ván cờ chính là sinh tử. Và cả hai hoàn
toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng.
Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu là mình đang đối đương
với một địch thủ kỳ tài và già dặn. Tu sĩ trẻ lại hun đúc được đức trầm
tĩnh của thiền môn. Ðó là những yếu tố đáng ngại. Mồ hôi từ trán chàng
thanh niên chảy dài xuống ngực. Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi. Và
như là một lão ngựa tự tin, sung sức - chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ
khoảng cách đầu ngựa.
Chiến thắng chỉ còn là thời gian.
Ka-jo-ju quên ngoại cảnh,
quên bản thân, quên cả việc sống chết. Ngay giây phút này - tình yêu,
công danh, sự nghiệp, ưu hận - là những đám mây đen bị xua tan một cách
nhanh chóng. Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái đam mê duy nhất
của đời mình. Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ dàng trở
lại với chàng. Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một. Tuy nhiên, tu
sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm, vững chãi, từng bước vây hãm thành
trì, không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân
bình.
Ðột nhiên, chàng thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ thành trì, hy sinh
quân Mã, tung những đòn chớp giật. Lớp chết, lớp khác xông lên với khí
thế quyết tử. Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng tự hy
sinh quá đột ngột, liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới
thấy lần đầu. Ðến lượt tu sĩ trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ
xuống bàn cờ. Ka-jo-ju chỉ chờ có thế. Chỉ cần một thoáng bối rối lưỡng
lự của đối thủ là y chém đông chém tây những thế táo bạo - nhưng chỉ là
hư chiêu - rồi rút về an toàn, bình chân như vại.
- Ðệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái thế bảo
toàn - Ka-jo-ju thở phào nói - Thật ra, nếu đệ tử không thất vọng tình
đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy. Vì từ bi, vì trung hậu
chân chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu
hơn quân nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.
Lợi dụng khi quân Mã của tu sĩ đang tản mạn đó đây, thanh niên kéo
đôi Pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa ngăn ở ven sông. Một
Xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên
binh vạn mã.
Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế. Tự tin một thoáng lay động là
phía tả tiền bị viên hổ tướng của địch phá vỡ. Lão ngựa già của đối
phương được hai Tốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng
nhảy đến thí mạng. Thế là đôi Pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị
loại khỏi vòng chiến.
Mu-ju đã rơi vào thế thủ. Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn đầy
trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng. Vào phút bất
ngờ nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị. Hai Pháo giữ nhà đồng
loạt vọt qua sông, tung đòn tối hậu.
Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.
Thanh niên len lén đưa
mắt nhìn vị sư. Ðấy là một khuôn mặt trong sáng đầy trí tuệ do bao năm
tinh cần giới luật. Ôi ! Một dung dấp thật đẹp ở trong một tinh thần cao
khiết. Thanh niên nghĩ. Vị tu sĩ này từ hòa và đôn hậu hết mực, mang
linh hồn trong sáng như viên bạch ngọc không tỳ vết nhiễm ô; đâu có hắc
ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát như ta ! Ôi ! Một nhân cách
như vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay ! Ta là gì ? Một kẻ
du thủ du thực, vô tích sự, ăn bám mẹ cha và xã hội; nếp sống dơ dáy, hư
hỏng, nội tâm đầy rẫy những ham muốn bất chánh và hèn hạ. Giá trị đời
ta chỉ có thế thôi. Rơm rác còn có ích hơn ta.
Thanh niên nhè nhẹ thở dài. Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng xâm
chiếm lòng chàng. Ôi ! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hy sinh cho cuộc
đời có giá trị.
Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ
hở kín đáo, chỉ những kỳ thủ trứ danh mới biết được. Một thế, hai thế.
Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn
công.
Thanh niên Ka-jo-ju biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng chàng
không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy. Một an tĩnh mênh mông,
thân thiết vây phủ tâm hồn chàng. Chưa bao giờ mà chàng chờ đợi cái
thua - nghĩa là chờ đợi cái chết - một cách dịu dàng trong sáng, bình
lặng và thanh khiết như vậy.
Tu sĩ trẻ ngần ngại. Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh, vội rút lui. Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ.
Bàn cờ bất động giữa hai người.
Ðối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng, Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hy sinh, bèn thò tay xuống ...
Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền sư
Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ
chụp xuống đầu chàng thanh niên. Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu
...
Thiền đường lặng ngắt như tờ. Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra. Mắt y chợt
tròn vo, kinh ngạc. Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã
bị cạo nhẵn thín. Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:
- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi ! Ấy là sự tập trung tâm ý hoàn
toàn và lòng từ bi. Hai yếu tố quan trọng của Ðạo Giác Ngộ. Thế mà hôm
nay con học được cả hai. Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ.
Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hy sinh mạng sống mình. Thôi, hãy ở
lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó. Giải thoát sẽ
là kết quả đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm đúng.
Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay sờ lên đầu mình, chàng mỉm cười
(nguồn : Viện Nam Thư Quán)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Oct/2011 lúc 5:43pm
Khoa học và Đạo học
gặp nhau:
David Bohm và Krishnamurti
Các nước Phương Đông
như Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam đều biên chữ từ trên xuống dưới theo
chiều dọc, đó là chiều của thời gian (thuộc Thiên, chủ Đạo học), còn Tây Phương
biên theo chiều ngang, đó là chiều của không gian (thuộc Địa, chủ khoa học).
Khoa học tây phương
lấy thế giới bên ngoài làm đối tượng nghiên cứu, phát triển để đi tìm chân lý;
ngược lại với Đạo học đông phương, lấy thế giới nội tâm làm đối tượng nghiên
cứu để đi tìm chân lý vĩnh cửu.
Tinh thần khoa học
không thấy được toàn phần của cuộc sống, nhưng tinh thần đạo học thấy được toàn
phần cuộc sống.
Theo nhà vật lý học
Fritjof Capra trong cuốn sách nổi tiếng “Đạo của Vật Lý” (The Tao Of Physics)
thì trong những nghiên cứu gần đây có một thuyết mới mẻ nhất của nhà vật lý người
Mỹ là David Bohm (sau sống ở bên Anh), có lẽ đã đi xa hơn bất kỳ các nhà bác
học khác về việc nghiên cứu mối liên hệ giữa ý thức và vật chất, giữa không
gian và thời gian.
Được hỏi lý do nào
khiến ông gập Krishnamurti?
David Bohm: “Là nhà vật lý nhưng tôi rất quan
tâm tới triết lý…Trong lúc ở Thư viện, vợ tôi (bà Sarel) thấy cuốn: ‘Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng’ (The First and Last Freedom), giở đại một trang ra coi,
thấy có câu: ‘người quan sát với đối tượng quan
sát’ (The observer and the observed) có
thể có liên quan tới lý thuyết về Lượng Tử (Quantum theory) nên chỉ cho tôi.
Khi tôi đọc cuốn sách đó, tôi thấy rất thích thú và nó đã ảnh hưởng tôi rất xâu
xa…Tới năm 1958 hay 1959 mới có người quen giới thiệu để gập Krishnamurti.” (86K.p159)
Đúng là “Hữu duyên
thiên lý năng tương ngộ”.
David Bohm đã tìm tới
Krishnamurti cả thẩy 15 lần để nghe Krishnamurti thuyết giảng; nói đúng ra là
cuộc đối thoại giữa hai bộ óc siêu việt – một Khoa học Tây Phương, một Đạo học
Đông Phương để tìm ra chân lý cho nhân loại. Nhờ có những cuộc đàm đạo với
Krishnamurti mà ông đã đưa ra thuyết mới mẻ nhất hiện nay và đầy hứa hẹn trong
tương lai, đó là thuyết Vận Động Toàn Thể (Holomovement).
Theo thuyết lượng tử
thì thế giới vật chất với những đặc tính riêng của nó không hề tồn tại độc lập
mà chỉ xuất hiện khi ta nhận thức nó, khi ta quan sát nó- tức là vật quan sát
và người quan sát có liên quan mật thiết với nhau. Theo Bohm thì cái toàn thể
nằm trong từng cái riêng lẻ, tức là thực tại là hình ảnh của toàn vũ trụ được
chứa ẩn tàng trong từng đơn vị nhỏ nhất của bản thân nó.
Davis Bohm có so sánh
Krishnamurti với Hegel, nhưng theo Davis Bohm tư tưởng của ông sâu sắc hơn
nhiều.
Davis Bohm: “Vũ trụ vật chất ví như cơ thể của
tâm thức tuyệt đối. (The material universe is like the body of the absolute
mind.)”
Sau khi ngồi
thiền như mọi ngày, lần đầu tiên Krishnamurti có được một kinh nghiệm thật lạ
lùng, đặc biệt; ông diễn tả như sau:
“Có một người đang làm
đường; người đó chính là tôi; cái cuốc anh ta đang cầm trên tay cũng là tôi;
cục đá anh ta vừa đập bể cũng là một phần của tôi; ngọn cỏ và cái cây bên đường
cũng chính là tôi. Tôi có thể cảm và nghĩ như người làm đường đó và cả con
kiến, con chim, hạt bụi, tiếng động, tất cả là một phần của tôi. Vừa lúc ấy có
một chiếc xe hơi chạy qua, tôi là người lái xe, tôi cũng là cái máy xe hơi và
cả những bánh xe; khi cái xe đi xa hơn, tôi đã rời khỏi tôi. Tôi đã là tất cả
hay tất cả đã là tôi…”Krishnamurti tự diễn tả mình như trong cơn say mê Thượng Đế.
(God intoxicated.
Người xưa cũng nói:
Vạn vật dữ ngã vi nhất. (Nam Hoa Kinh), là muôn vật với ta là một.
Hay: “vạn vật đồng
nhất thể”.
Còn giải thích theo
khoa học ngày nay thì cái TA của ông đã thu nhỏ lại bằng một nguyên tử (atom),
là phần tử nhỏ nhất của mọi vật chất. Việc này chỉ có thể xẩy ra trong hiện tại
phi thời gian, chỗ giao điểm của không gian (chiều ngang) và thời gian (chiều
dọc), chỗ muôn vật phải trụ vào đó để sống.
Tức là Krishnamurti bỏ
cái tiểu ngã (Atman) để hòa mình với cái Đại ngã (Brahman).
(From :N.V.Phương st)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Oct/2011 lúc 6:22am
Mười Thương Chú Tiểu
Một thương chú tiểu dễ thương
Hai thương chú tiểu chọn đường đi tu
Ba thương sớm tối công phu
Bốn thương chú học và tu đàng hoàng
Năm thương chú tiểu nhẹ nhàng
Sáu thương chú tiểu đoan trang nụ cười
Bảy thương đi đứng thảnh thơi
Tám thương chú tiểu dùng lời thanh tao
Chín thương chú tiểu tương chao
Mười thương chú tiểu ngọt ngào lời kinh.
http://www.daophatngaynay.com/vn/author/hienhuyhoahiep2/ - Hiền Huy Hòa Hiệp http://www.daophatngaynay.com/vn/author/hienhuyhoahiep2/ - ghi chép lại TẠI PHỔ HIỀN NI TỰ
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Oct/2011 lúc 6:03pm
Chúng Ta Sẽ Nhận Được Gì?
Posted by http://henrylongnguyen.com/author/admin - | On 17 - August - 2011 | http://henrylongnguyen.com/suy-ngam-chung-ta-se-nhan-duoc-gi.html#disqus_thread -
Có
một sự thật rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết mình sẽ nhận được cái
gì nếu sống và cống hiến hết mình với cuộc đời này. Tuy nhiên, thái độ
sống của chúng ta là thường giữ cho mình phần nhiều hơn và luôn đòi hỏi
sự may mắn cũng như ân huệ của cuộc đời hơn là muốn cống hiến. Hôm nay,
tôi muốn kể một câu chuyện mà tôi có chăm chút ý nghĩa nhiều hơn trong
bản dịch của mình.
http://henrylongnguyen.com/wp-content/uploads/2011/08/chung-ta-se-nhan-duoc-gi.jpg">
Từ
nhiều thế kỷ trước, tại một vương quốc rộng lớn và thịnh vượng có một
ngôi làng nằm xa kinh thành và rất hẻo lánh. Những người dân trong làng
đa phần đều sống trong cảnh kham khổ. Một ngày kia có người nói rằng nhà
vua sắp đến thăm làng, dân trong làng ai nấy đều vui mừng vì họ ngỡ
rằng ngôi làng đã bị lãng quên. Khắp nơi đều huyên náo với thông tin đó.
Ngài được tôn kính bởi
những gì đã làm cho đất nước và nhất là với những người dân còn sống
trong cảnh nghèo khổ.Sở dĩ
họ vui mừng đến vậy vì nhà vua rất anh minh và thương dân, là một vị vua
hiếm có về tài năng, sự công bằng và đức độ.Có một
người ăn xin trong làng là có vẻ “kích động” hơn cả, thế là sau đó ngày
nào ông ta cũng ngồi ven con đường chính với hy vọng nhà vua sẽ thấy
mình mà bố thí cho nhiều vàng. Quả nhiên vài ngày sau, đoàn xe của nhà
vua đến làng thật. Thế là người ăn mày lao ra van nài lính canh cho phép
mình được diện kiến đức vua. Tiếng ồn ào làm nhà vua chú ý, và ngài cho
phép ông ta đến gần cổ xe của mình để nghe điều mà người ăn mày muốn
nói.
Ông ta
bắt đầu tán dương công đức và sự rộng rãi của ngài rồi sau đó là van xin
sự bố thí. Nhà vua nhìn ông ta và suy nghĩ một hồi rồi hỏi kẻ ăn mày:
- Ngươi
có thể giữ lại những gì là của riêng ngươi, nhưng nếu có thể cho đi
những thứ đáng giá nhất của ngươi thì ngươi có thể cho ta được những gì…
kẻ đáng thương kia? Chẳng hạn như bây giờ ta yêu cầu ngươi đưa cho ta
những gì đựng trong chiếc túi ngươi đang đeo ở thắt lưng…
Đó là
chiếc túi đựng gạo của người ăn mày…, ông ta thật không tin những gì mình
đang nghe để có thể phản ứng lại. Ông ta không nghĩ trường hợp này lại
xảy ra, đó là tất cả số gạo còn lại trong ngày của ông ấy, ông ta định
sẽ nói không nhưng rồi suy nghĩ lại… không thể nào từ chối đề nghị của
nhà vua.
Thấy sự phân vân đó nhà vua liền độ lượng hỏi lại: Ngươi có thể cho ta bao nhiêu phần trong chiếc túi đó?
Thế là
ông ta trút một phần rất nhỏ gạo trong túi ra và dâng lên nhà vua. Ngài
nhận nắm gạo nhỏ bé đó mỉm cười và nói: “Sau khi ta xong việc ở đây,
ngươi sẽ nhận được những gì đáng có”. Nhà vua cùng người của mình tiến
vào làng và giúp đỡ người dân xây dựng 1 số công trình và chỉ họ các
phương pháp gieo trồng mới cũng như dạy thêm 1 số nghề thủ công cho phụ
nữ.
Vài ngày sau, đoàn xe của đức vua quay về kinh thành và ngài không quên gởi 1 túi vàng nhỏ cho kẻ ăn mày cùng một lời nhắn:
“Mỗi hạt gạo mà ngươi đổi cho ta bằng với số đồng vàng trong túi này!“
Tất
nhiên, nhà vua chẳng bao giờ quay lại nơi đó. Và kẻ ăn mày thì cứ mãi
hối tiếc và tự hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu ta đưa hết túi gạo cho nhà
vua?
Một
lúc nào đó, khi ngồi ngẫm lại… chúng ta sẽ thấy mình giống hình ảnh của
người ăn mày kia và nhà vua chính là cuộc đời này. Chúng ta có xu
hướng, đòi hỏi sự đền đáp, kêu gọi sự may mắn và luôn muốn nhận được
nhiều hơn những gì phải bỏ ra.
Dĩ
nhiên là chẳng bao giờ chúng ta biết được mình sẽ nhận được cái gì khi
cho đi. Nhưng hãy giữ niềm tin rằng cuộc sống vốn công bằng và sẽ luôn
đáp trả một cách xứng đáng. Đừng nắm giữ tất cả một cách ích kỷ cho
riêng mình bởi biết đâu bạn sẽ bỏ lỡ cả túi vàng mà cuộc sống trả lại
cho bạn.
http://henrylongnguyen.com/author/admin -
http://henrylongnguyen.com/suy-ngam-chung-ta-se-nhan-duoc-gi.html#disqus_thread
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Oct/2011 lúc 6:18pm
Chuyện hai đứa bé quét ánh sáng vào nhà
Có
hai anh em chừng bốn, năm. Do cửa sổ đóng kín nên sống trong căn nhà âm
u. Nhìn thấy bên ngoài ánh sáng chan hòa, chúng thích lắm, bèn bảo
nhau: "Anh em mình đi lấy ánh sáng ngoài đấy vào nhà đi!". Thế là chúng
thay nhau dùng chổi quét ánh sáng vào nhà. Quét hoài, quét hoài mà ánh
sáng vẫn không chịu vào. Người mẹ đang nấu ăn dưới bếp ngạc nhiên hỏi.
Hai anh em thật thà trả lời. Người mẹ cười: "Nếu muốn có ánh sáng thì
các con phải mở hết các cửa sổ ra".
Bài học: Hãy mở hết những cánh cửa của trái tim thì ánh sáng thành công sẽ tràn vào.
*** Chuyện hai chiếc giày
Một
ông cụ ngồi xe lửa, không may làm rơi mất một chiếc giày mới mua qua
cửa sổ. Xe lửa đang chạy, không ai dừng lại để ông nhặt nó nên ông ném
luôn chiếc giày còn lại. Nhiều người ngạc nhiên hỏi tại sao, ông cụ từ
tốn trả lời: "Cho dù đôi giày có mắc đến đâu thì nếu chỉ còn một chiếc
cũng không thể dùng. Thôi thì ta ném luôn chiếc thứ hai, để ai đó nhặt
được chiếc kia còn cón thể tìm thấy chiếc này".
Bài học: Người thành công phải biết hy sinh thì mới tìm thấy giá trị của sự thành công.
*** Chuyện cô bé và hai cửa sổ
Ngôi
nhà có hai cửa sổ, mở ra hai hướng khác nhau. Cô bé trèo lên cửa sổ thứ
nhất nhìn ra ngoài, thấy người ta đang chôn chú chó cưng của mình. Cô
bé thương lắm, khóc lớn. Ông nội thấy vậy liền dụ bé đến cửa sổ thứ hai.
Mở ra, trước mặt cô bé là một vườn hoa tràn ngập ánh nắng. Cô bé rạng
rỡ hẳn, nụ cười nở lại trên môi.
Bài học: Khi bạn mở cửa sổ bên cạnh cửa sổ thất bại, có thể bạn sẽ tìm thấy niềm hy vọng.
***
Chuyện Quan Âm quỳ lạy Quan Âm
Một người đàn ông đang trú mưa dưới mái hiên, trông thấy Phật bà Quan Âm
cầm dù đi ngang qua, bèn nói: "Quan Âm bồ tát, xin hãy phổ độ chúng
sanh, giúp con đi một đoạn đường được không?". Quan Âm trả lời: "Người
đang dưới mái hiên, ta đang đứng dưới mưa, người cũng cần ta độ sao?".
Người đó liền chạy ra ngoài: "Bây giờ con đã đứng dưới mưa, xin Quan Âm
phổ độ cho!". Quan Âm nói: "Chúng ta cùng đứng dưới mưa nhưng ta không
bị ướt vì có chiếc dù. Còn người bị ướt vì không có chiếc dù, bởi vậy
không phải ta độ cho mình mà là chiếc dù độ cho ta. Nếu người muốn không
bị ướt thì không cần ta độ, hãy tự đi tìm một chiếc dù". Dứt lời, Quan
Âm bước đi.
Hôm
khác, người đàn ông trú mưa hôm nọ gặp nhiều chuyện phiền bực, khó khăn
nên vào miếu Quan Âm cầu nguyện. Anh ta thấy một người phụ nữ đang quỳ
trước tượng Quan Âm, có hình dáng rất giống Quan Âm, tiến lại gần hỏi:
"Xin hỏi có phải Quan Âm không?". Người phụ nữ trả lời: "Đúng, ta là
Quan Âm". Người đàn ông kinh ngạc: "Ô, tại sao Quan Âm lại bái lạy Quan
Âm?". Quan Âm cười đáp: "Ta cũng gặp những chuyện khó khăn nhưng ta
hiểu, đi cầu sự giúp đỡ của người ta chi bằng tự mình giúp đỡ mình".
Bài học: Phải biết tự mình cứu lấy mình.
(internet)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Oct/2011 lúc 9:07am
Sáu mươi sáu câu Phật học làm chấn động thiền ngữ thế giới.
( Sưu tầm )
1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
2.
Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng
không cách nào gây phiền não cho anh. Vì chính tâm anh không buông xuống
nỗi.
3. Anh hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.
4.
Anh phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù
họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương anh, anh phải buông bỏ,
mới có được niềm vui đích thực.
5. Khi anh vui, phải nghĩ
rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi anh đau khổ, anh hãy nghĩ
rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.
6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.
7. Anh có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.
8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định anh sẽ ân hận.
9. Khi nào anh thật sự buông xuống thì lúc ấy anh sẽ hết phiền não.
10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.
11.
Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận
thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi
người khác.
12. Anh đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, anh
phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc
khổ cho chính anh.
13. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.
14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.
15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin anh “ đa khẩu hạ lưu tình”.
16.
Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa anh là ai? Giả sử
anh bị chó điên cắn anh một phát, chẳng lẽ anh cũng phải chạy đến cắn
lại một phát?
17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người anh không hề yêu thích.
18.
Mong anh đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức
và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.
19.
Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao anh lại chứa độc dược? Cùng
một mảnh tâm tại sao anh phải chứa đầy những não phiền như vậy?
20.
Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính
vì anh hiểu nó quá ít, anh không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi
một ngày nào đó khi anh hiểu sâu sắc, anh sẽ phát hiện nó vốn không đẹp
như trong tưởng tượng của anh.
21. Sống một ngày là có diễm phúc
của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang
thì tôi lại phát hiện có người không có chân.
22. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, anh hiểu chứ?
23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình.
24.
Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được
điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được
mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.
25. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp anh mới được tự tại.
26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.
27. Khi anh thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối anh.
28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.
29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.
30.
Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu anh không phán
đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ
thường tình.
31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến
và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có
thật lòng không.
32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.
33.
Người không tắm sửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng
và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.
34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của anh đi.
35. Anh cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế anh sẽ rất đau khổ.
36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.
37. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?
38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.
39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào.
40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất của sự phỉ báng.
41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.
42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.
43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên anh cần phải “ tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.
44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính anh.
45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, anh mới vượt qua hiện thực.
46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, anh dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.
47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.
48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?
49.
Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của anh, cũng
đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.
50. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có.
51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.
52.
Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài
cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành
bạn.
53. Thành thật đối diện với mâu thuẩn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.
54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.
55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.
56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối anh nhất thời, nhưng nó lại gạt anh suốt đời.
57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.
58.
Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh
chỉ có mỗi thứ này, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn
lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình,
không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào
đó mà thôi.
59. Nếu anh có thể sống qua những ngày bình an, thì
đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không
thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã
trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết
bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.
60. Anh
có nhân sinh quan của anh, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính
dáng gì tới anh. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được anh. Nếu không
thể thì tôi đành cam chịu.
61. Anh hi vọng nắm được sự vĩnh hằng thì anh cần phải khống chế hiện tại.
62.
Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta
có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng
bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh.
63.
Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng
ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán
hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh
và một tâm hồn thanh tịnh.
64. Nếu một người chưa từng cảm nhận
sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Anh muốn học
tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.
65.
Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần
vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng
không thuộc về ta.
66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế
giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với
tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.
Nguồn : http://www.daovien.net/t4964-topic
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Nov/2011 lúc 4:06pm
Tuy gần mà xa ,tuy xa mà gần ...
Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng: “Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau ?” Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời: “Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ!” Vị
hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo: “Nhưng tại sao phải
hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một
âm thanh vừa phải đủ nghe ?” Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng.
Sau
cùng ông bảo: “Khi hai người đang giận nhau thì trái tim của họ đã
không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa họ và người
kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ phải
dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng
cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm
khoảng cách ấy.” Ngưng một
chút, ngài lại hỏi: “Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ
không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của
họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…”
Rồi ngài lại tiếp
tục: “Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ
chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng
ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau,
thế thôi! Vì qua ánh mắt đó
họ đã
biết đối tác nghĩ gì, muốn gì ..”
Ngài kết luân: “Khi các con
bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào
cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách
nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng
xa thì các con sẽ không còn tìm ra được
(ST)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Nov/2011 lúc 5:21pm
Người
Bạn
Dan Clark
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán Chó
Con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các
khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đo,ù có một cậu bé xuất hiện. "Chú bán
mấy con chó này với giá bao nhiêu vậy?" cậu bé hỏi.
Ông chủ trả lời "Khoảng từ $30 cho tới $50."
Cậu bé móc trong túi ra một ít tiền lẻ. "Cháu có $2.37," cậu nói,
"cháu có thể coi chúng được không?"
Người chủ tiệm mỉm cười và huýt sáo. Từ trong cũi chạy ra chó mẹ
Lady cùng với năm cái nắm lông be bé xinh xinh chạy theo. Một con
chó con chạy cà nhắc lết theo sau. Ngay lập tức, cậu bé chỉ vào con
chó nhỏ bị liệt chân đó "Con chó con này bị làm sao vậy?"
Người chủ giải thích rằng bác sĩ thú y đã coi và nói rằng con chó
con bị tật ở phần hông. Nó sẽ bị đi khập khiễng mãi mãi. Nó sẽ bị
què mãi mãi. Đứa bé rất xúc động. "Cháu muốn mua con chó con đó."
Người chủ nói rằng "Chắc là cháu không muốn mua con chó đó đâu, còn
nếu cháu muốn nó thì chú sẽ cho cháu luôn."
Cậu bé nổi giận. Cậu nhìn thẳng vào mắt của người chủ, và nói rằng
"Cháu không muốn chú cho cháu con chó con đó. Nó xứng đáng như bất
kỳ con nào khác và cháu sẽ trả cho chú đủ giá tiền cho nó. Thật ra,
cháu sẽ đưa cho chú $2.37 bây giờ và 50cent mỗi tháng cho đến khi
cháu trả đủ số tiền."
Người chủ phản đối "Cháu đâu có muốn mua con chó đó. Nó sẽ chẳng bao
giờ có thể chạy được và chơi với cháu như những con chó con khác."
Nghe vậy, cậu bé cúi xuống và kéo ống quần lên để lộ ra một chân bị
vặn vẹo, teo quắt và phải có hệ thống thanh giằng chống đỡ. Cậu nhìn
lên người chủ và nói rất khẽ "Vâng, cháu cũng không có chạy được, và
con chó nhỏ đó cần một người có thể hiểu được nó!"
Dan Clark
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Nov/2011 lúc 7:05pm
GÁNH XIẾC
mardi 14 octobre 2008 09:57:22
http://my.opera.com/vongtrondo/blog/index.dml/tag/Kinh%20nghi%E1%BB%87m%20s%E1%BB%91ng -
Có lần khi tôi còn là một thiếu niên, cha tôi và tôi
đứng xếp hàng để mua vé vào xem xiếc. Cuối cùng chỉ còn một gia đình
đứng sắp hàng giữa chúng tôi và quầy bán vé. Gia đình này đã gây cho
tôimột ấn tượng sâu sắc. Gia đình đó có 8 đứa con, tất cả có lẽ đều dưới
12 tuổi. ta có thể nói là họ không có nhiều tiền. Quần áo của họ không
phải thuộc loại đắt tiền, nhưng sạch sẽ. Bọn trẻ ngoan ngoãn, tất cả đều
đứng xếp hàng phía sau bố mẹ chúng, từng hai đứa một, nắm tay nhau.
Chúng nói một cách liếng thoắng về các chú hề, những con voi và
những tiết mục khác mà chúng sẽ xem đêm đó. Người ta có thể có cảm giác
là trước đó chúng chưa được đi xem xiếc bao giờ. Việc được đi xem xiếc
có vẻ như là một nét nổi bật nhất trong cuộc đời trẻ thơ của chúng.
Người cha và người mẹ đứng ở đằng đầu lũ trẻ này trông hết sức hãnh
diện. Người mẹ nắm tay chồng mình, ngước nhìn ông như muốn nói:"Anh là
hiệp sĩ của em trong bộ áo giáp sáng loáng". Ông ấy mỉm cười và ấm lòng với niềm tự hào, ông nhìn bà như muốn trả lời:"Em đã nói đúng". Cô
bán vé hỏi người cha muốn mua bao nhiêu vé. Ông hãnh diện trả lời:"Làm
ơn bán cho tôi 8 vé trẻ em và 2 vé người lớn để tôi có thể đem cả gia
đìnhvào xem xiếc". Cô bán vé nói giá tiền. Bà vợ rút bàn tay của mình ra
khỏi bàn tay ông, đầu bà cuối xuống, môi người đàn ông này bắt đầu run
run. Người cha nghiêng người hơi sát hơn vào quầy bán vé một chút và
hỏi:"Cô nói bao nhiêu tiền?". Cô bán vé nhắc lại giá tiền. Người đàn
ông này không có đủ tiền. Ông phải quay lại để nói với 8 đứa con ông
rằng ông không có đủ tiền để đưa chúng vào xem xiếc chăng? Nhìn thấy
việc đang diễn ra, cha tôiđút tay vào túi quần của ông rút ra một tờ 20
đôla và đánh rơi tờ giấy bạc xuống đất. (Chúng tôi thật sự chẳng giàu có
gì!) Cha tôi cúi xuống, nhặt tờ giấy bạc lên, vỗ vào vai người đàn ông
và nói: - Xin lỗi ông, tờ giấy bạc này ở túi ông rơi ra. Người đàn
ông hiểu việc gì đang xảy ra. Ông ấy không xin của bố thí nhưng chắc
chắn là trân trọng sự giúp đỡ này trong một tình huống tuyệt vọng, đau
lòng và bối rối. Ông ấy nhìn thẳng vào mắt cha tôi, nắm lấy tay cha tôi
trong cả hai bàn tay của ông ấy, siết chặt vào tờ 20 đola và môi ông run
run cùng với lệ tuôn trào trên má, ông ấy nói: "Cảm ơn, cảm ơn ông. Số
tiền này thực sự rất có ý nghĩa đối với tôi và gia đình tôi".Cha tôi
cùng với tôi trở ra xe và lái xe về nhà. Đêm đó chúng tôi không vào xem
xiếc, nhưng không phải chúng tôi không vào xem vì không có tiền.
(vongtrondo Sưu tầm)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Nov/2011 lúc 8:33pm
THE LAST WISHES OF ALEXANDER THE GREAT
Những
ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài
Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền
đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng:
1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.
2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ... 3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của
ngài, rất
đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế.
Ngài Alexander đã giải thích như sau:
1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu chữa.
2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời).
3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.
Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất trên cuộc đời này là TÌNH YÊU THƯƠNG
(Nguồn :Bạn gửi)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Nov/2011 lúc 6:39pm
LỜI VÀNG Hãy thận trọng trong suy nghĩ vì chúng sẽ trở thành lời nói, Hãy thận trọng lời nói vì nó sẽ trở thành hành động, Hãy thận trọng trong hành động vì chúng sẽ trở thành thói quen, Hãy thận trọng về các thói quen vì chúng sẽ trở thành cá tính, Hãy thận trọng xem xét cá tính của mình vì chúng sẽ trở thành số phận. Đức Đạt Lai Lạt Ma
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Dec/2011 lúc 6:42am
Khỏe, không phải là nhấc lên Mạnh, mà là để
xuống Nhẹ Kính, không phải là đối
với Trên, mà là xử với Dưới Ðẹp, không phải là hút Người Vào, mà là giữ
người Ở Lại Xấu, không phải
tại Gương Mặt, mà ở tại Cách Sống Khéo, không phải tạo điều To, mà là làm điều
Nhỏ Hay, không phải là Ngạc
Nhiên, mà là sự Thú Vị Buồn,
không phải vì Bên Ngoài, mà ẩn ở Bên Trong
(Bạn gửi)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Dec/2011 lúc 4:48am
ẢO TƯỞNG LỚN
“Sự
ra đời của một người cũng là ra đời nỗi khổ của y.Càng già,con người
càng ngớ ngẩn,vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh càng thêm mãnh liệt
.Thật cay đắng làm sao !Y sống để đuổi theo những cái luôn luôn ở ngoài
tầm tay .Lòng khao khát sống còn trong tương lai làm cho y không thể
sống trong hiện tại. TRANG TỬ
Sau
khi thầy tôi chết,tôi được gần gũi thầy Dudjom Rinpoche,một trong những
thiền sư,hành giả Mật giáo và Yoga vĩ đại nhất của thời cận đại.Một
ngày nọ,khi thầy đang lái xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy để
ngắm cảnh miền quê,họ đi ngang qua một khu nghĩa trang dài vừa mới được
sơn quét và trang trí hoa tươi.Bà vợ thầy nói:
“Rinpoche,ngài
hãy xem mọi thứ ở phương Tây thật ngăn nắp,sạch sẽ làm sao!Ngay tại
những nơi người ta để thây chết cũng thật sạch sẽ”.
Thầy Dudjom Rinpoche nói:
“Ồ,đúng
thế,đây quả thật là một xứ văn minh.Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế
cho những xác chết.Nhưng bà không để ý sao? Họ cũng có những ngôi nhà
tuyệt diệu cho những xác sống nữa chứ”.
Mỗi
khi nhớ lại câu chuyện ấy,tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thật trống
rỗng,vô vị làm sao,khi nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường
cửu và tương tục.Khi sống kiểu ấy,chúng ta vô tình tự biến mình thành
những cái xác sống,như thầy Dudjom Rinpoche đã nói.
Nhưng
đây là kiểu sống của phần đông chúng ta,chúng ta sống theo một kế hoạch
đã định.Nhỏ thì được giáo dục,lớn lên kiếm việc làm,rồi gặp một người
nào đó,kết hôn và có con.Chúng ta mua một cái nhà,ráng làm ăn phát
đạt,rồi mơ ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm một chiếc xe hơi đời
mới nhất .Vào dịp nghỉ thì đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự
định kế hoạch cho lúc về hưu .Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài
người trong chúng ta từng gặp chẳng phải chỉ là: không biết nên đi chơi
đâu vào kỳ nghỉ hè tới hoặc mời ai vào dịp lễ Giáng Sinh.Cuộc đời của ta
thật đơn điệu,tầm
thường,lặp đi lặp lại.Ta phí một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen
bởi vì dường như ta không biết có cái gì hơn thế .
Nhịp
địêu đời sống của chúng ta rộn ràng tới nỗi ta không có thời giờ để
nghĩ đến cái chết.Ta ém nhẹm những nỗi sợ hãi thầm kín của ta về Vô
thường bằng cách bao vây quanh mình thêm nhiều đồ đạc,của cải,tiện nghi
chỉ để tự biến mình thành nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của
ta đều kiệt quệ chỉ vì phải bảo trì những thứ ấy .Chẳng bao lâu,mục đích
duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho
mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt.Khi có biến chuyển
gì xảy đến, ta tìm cách đối phó mau lẹ nhất,một giải pháp hữu hiệu tạm
thời.
Cứ thế, đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn bệnh hay một tai
nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.
Cũng không hẳn là ta dành nhiều thời gian suy nghĩ cho cuộc đời này. Hãy
nghĩ đến những người đã làm việc bao nhiêu năm rồi phải về hưu , để
thấy không biết mình phải làm gì cả vì họ càng ngày càng già và tiến gần
đến cái chết.Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế ,thực tế ở phương
Tây có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập
trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi,chính là
một ảo tưởng lớn,nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế
giới ngày nay.Không ai bàn tới sự chết và đời sau vì người ta có thói
tin rằng chuyện ấy
chỉ làm đình trệ cái gọi là sự “tiến bộ” của ta trên đời này.
Nhưng
nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống thì
tại sao chúng ta lại quả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ ?
Ít nhất ta cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ
! Nếu quả thật chúng ta có óc thực nghiệm như ta từng tuyên bố thì tại
sao ta không tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm túc:Tương lai thực
sự của ta nằm ở đâu?Chung quy,chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi và
sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài,không được giải
thích .
Trích từ quyển Tạng thư Sống chết (The Tibetain book of Living and Dying) của Soyal Rinpoche do Ni Sư Thích Trí Hải dịch.
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Dec/2011 lúc 8:37am
SỰ BUÔNG BỎ VÀ SỰ TU
HÀNH Vào
năm 2008, khi tôi và bạn tôi đang ngồi ăn tối thì thấy một người đàn
ông đứng một mình ngoài đại sảnh
của khách sạn. Chúng tôi nghĩ ông ấy đến một mình nên quyết định mời
ông cùng ăn tối. “Tôi không ăn tối đâu”, người đàn ông từ chối. “Tôi
đang trên đường đến phòng tập thể dục”. Buổi sáng hôm sau, tôi lại gặp người đàn ông ấy ở đại sảnh khách sạn và để ý là ông ta cũng mặc bộ quần áo cũ. “Xin
lỗi ông”, ông lịch sự nói và quay sang nhìn nhà sư trẻ tuổi đang ngồi
cạnh tôi, nói một cách trìu mến: “Con trai, đã đến giờ chúng ta về rồi”.
Người con trai vâng lời, xách túi vải nhỏ lên rồi đi theo cha. Trước đó, vì tò mò khi thấy sự hiện diện
của một nhà sư tại khách sạn Uma, thành phố Paro, nên tôi đã đến trò chuyện với sư ấy. “Hôm
qua là sinh nhật
lần thứ 70 của cha tôi và ông muốn cùng tôi đến một nơi thật đặc biệt”,
nhà sư cho tôi biết. Sư độ chừng ba mươi tuổi, tóc cạo ngắn, mặc y áo
và mang dép. “Đất nước của bạn thật là đẹp”, sư buột miệng. Nhà sư và
cha mình đã bay đến thành phố Paro bằng máy bay riêng của họ. Vậy những người này là ai? Người đàn ông lớn tuổi chính là Ananda
Krishnan và nhà sư chính là con trai duy nhất của ông. Krishnan
là nhà tỷ phú bậc nhất nhì ở Malaysia . Theo bình chọn của tạp chí
Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô-la. Ông còn là người
chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị. Cả ông và
con trai đều là Phật tử. Vài
năm trước đây, vị tỷ phú này bị mất con trai. Ông bắt đầu đi tìm con và
cuối cùng dừng lại ở một ngôi chùa tại Thái Lan. Ngạc nhiên khi thấy
con mình khoác áo tu sĩ, đầu cạo nhẵn, đang đi khất thực, ông muốn mời
con ăn cơm. “Con
xin lỗi, con không thể vâng lời cha được. Cũng
như các sư khác, con phải đi khất thực”. Câu trả lời của ông Krishman
bỗng trở thành tiêu đề cho nhiều tờ báo: “Với tất cả sản nghiệp của
mình, thế mà tôi vẫn không thể mời con tôi ăn một bữa cơm”. Nhà sư vẫn sống trong một tu viện trong rừng ở Thái Lan, và cũng như các sư khác, sống nhờ vào sự cúng dường của Phật tử. Nghe những câu chuyện như vậy, liệu ta có thể từ bỏ được
tất cả những thứ mình đang có, để đạt được những điều mà thật ra lúc này
mình chưa cần không? Câu chuyện này cho chúng ta thấy rằng, nếu muốn đạt được
hạnh phúc và thỏa mãn thực sự, chúng ta phải vượt qua khỏi những khái
niệm về vật chất, tinh thần và
cảm xúc. Con trai của nhà tỷ phú Krishnan cho chúng ta thấy chính sự buông bỏ mới là một tài sản lớn hơn, và sự tu hành là tài sản lớn nhất trong cuộc đời chúng ta. Thủy Ngọc dịch và tổng
hợp
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Feb/2012 lúc 5:55pm
CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT:
ĐỪNG VỘI XÉT ĐOÁN
"Một người bạn của tôi trên chuyến trở về Nam Phi sau một thời gian
sống ở Âu Châu, đã phải chờ khá lâu ở phi trường Heathrow của London. Sau khi
mua một ly cà phê và một gói bánh quy, cô kéo lê hành lý lỉnh kỉnh tới một cái
bàn trống để đọc báo và ăn bánh trong khi chờ máy bay.
Khi đang
đọc tờ báo buổi sáng, cô nhận ra có người làm gì đó sột soạt ở bàn
mình. Liếc nhìn qua tờ báo, cô sửng sốt thấy một anh chàng ăn mặc lịch sự
đang với tay lấy bánh của cô, bỏ vào miệng. Không muốn làm ầm ĩ, cô chỉ nghiêng
mình để lấy một cái cho mình.
Một phút sau, cô lại nghe tiếng sột soạt. Anh chàng kia lại lấy thêm bánh
để ăn.
Cho đến lúc cả hai đã ăn đến cái bánh cuối cùng trong gói, cô đã
tức giận hết cỡ nhưng vẫn không nói được câu nào. Rồi chàng trai bỗng bẻ cái
bánh làm hai, đẩy một nửa về phía cô và ăn nửa còn lại, rồi bỏ đi.
Lát
sau, khi loa phóng thanh gọi tên cô, và yêu cầu cô xuất trình vé, cô vẫn còn
bừng bừng cơn giận. Tuy nhiên, các bạn hãy thử tưởng tượng sự xấu hổ của cô khi
cô mở túi xách ra và khám phá ra rằng gói bánh của mình vẫn còn nằm nguyên trong
đó. Thì ra từ nãy tới giờ cô đã ăn bánh của người ta. Chàng kia đã chia sẻ với
cô đến miếng bánh cuối cùng. Thật là một con người tốt bụng"
Suy nghĩ: Câu chuyện cho thấy cái nhìn của
chúng ta về người khác không luôn luôn chính xác, thậm chí nhiều khi còn nhầm
lẫn nữa. Vì thế đừng vội xét đoán, kết án. Và cũng phải sẵn sàng thay đổi cái
nhìn của mình khi chúng không còn đúng với sự thật nữa. Quan trọng hơn nữa, nếu
chúng ta muốn có những thay đổi lớn trong cuộc đời mình thì trước hết phải thay
đổi cách nhìn về người khác. Hãy đeo cặp kính khác rồi mọi sự sẽ thay đổi theo
ta.
(Reader's
Digest)
CÂU CHUYỆN THỨ HAI :
ĐỪNG XÉT ĐOÁN
Vừa nhận được điện thoại, nam bác sĩ vội vã tới bệnh viện.
Ông khoác vội trang phục phẫu thuật và tiến ngay tới phòng mổ. Lúc đó, người cha
của cậu bé sắp sửa phẫu thuật đang ngồi đợi tại cửa phòng. Vừa nhìn thấy bóng
bác sĩ, người cha nói ngay : “Tại sao giờ này ông mới đến? Ông không hay biết
con trai tôi rất nguy kịch sao? Thực lòng ông có trách nhiệm nghề nghiệp không
vậy?” Bác sĩ điềm tĩnh trả lời : “Thật xin lỗi, lúc này không phải ca tôi
trực nên tôi không có mặt tại bệnh viện. Thế nhưng vừa nhận được điện báo tôi
đến ngay đây… Và lúc này tôi muốn tịnh tâm một chút để chuẩn bị phẫu
thuật”. Người cha giận dữ : “Tịnh tâm à?! Giả như con của ông đang nằm trong
phòng cấp cứu thì ông có tịnh tâm được không? Nếu như con trai ông sắp chết, ông
sẽ làm gì?” Vị bác sĩ lại mỉm cười trả lời : “Tôi sẽ nói điều mà ông Gióp đã
nói trong Kinh Thánh: ‘Thân trần truồng sinh từ bụi đất, tôi sẽ trở về bụi đất
thân trần truồng. Chúa đã sinh ra, Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng Chúa’.
Những bác sĩ không có khả năng giữ lại mạng sống. Ông hãy đi và cầu nguyện cho
con trai ông. Chúng ta sẽ nỗ lực hết mình và cậy trông vào ân sủng Thiên
Chúa”. “Khuyên lơn người khác khi mà bản thân mình chẳng dính dáng gì xem ra
quá dễ dàng”. Người cha phàn nàn. Cửa phòng phẫu thuật đóng lại. Vị bác sĩ
miệt mài vài giờ liền trong phòng mổ. Và ông rời khỏi phòng phẫu thuật trong
niềm hạnh phúc: “Cảm tạ Chúa. Con trai ông đã được cứu. Nếu muốn biết thêm chi
tiết, hãy hỏi cô ý tá vừa giúp tôi”. Không chờ câu trả lời của người cha, vị bác
sĩ tiến thẳng và rời khỏi bệnh viện. Ngay khi nhìn thấy dáng dấp cô y tá xuất
hiện, người cha nói ngay : “Loại người gì mà lại cao ngạo đến như thế kia
chứ! Thậm chí ông ta không thèm dành vài giây trả lời cho tôi biết hiện trạng
con trai tôi”. Cô y tá cúi xuống, tuôn trào nước mắt, trong xúc động, cô chậm
rãi trả lời: “Con trai duy nhất của bác ấy mới qua đời hôm qua do một tai
nạn. Hôm nay bác ấy đang lo tang sự cho cậu. Thế nhưng vừa nhận được điện báo
bác ấy tới ngay để cứu con trai ông. Bây giờ thì bác ấy trở về tiếp tục lo
hậu sự cho đứa con yêu quý của mình”.
Đừng kết án ai. Vì bạn không biết cuộc sống của họ thế nào
cũng như điều gì đang diễn ra trong tâm hồn họ và những gì họ đang phải nỗ lực
vượt qua.
Jac. Thế Hanh,
OP
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Mar/2012 lúc 8:35pm
Câu chuyện không mới, nhưng thật thú vị vì có ... hình minh họa Kính chúc cả nhà một cuối tuần an lạc . mk
Truyện Ngắn Phật Giáo Tâm Không - Vĩnh Hữu ___ _____
Động cửa thiền
Đầu xuân, chùa làng nghi ngút hương trầm, thiện nam tín nữ chen chúc nhau vào chánh điện dâng hương bái Phật.
Hình minh họa
Người ra kẻ vào ngược
xuôi như bất tận, mặt ai nấy đều vui tươi phấn chấn, y rằng cuộc đời này
không hề có đau khổ lo toan. Nhưng rồi, mọi người phải cau mày nhíu mặt
khi trông thấy một cô gái lạ lùng đang lảng vảng ngoài sân chùa, hệt hư
người từ hành tinh xa lạ mới xuống thăm trái đất.
Hình minh họa
Cô
gái lạ lùng vì nổi bật giữa đám đông do có một sắc đẹp mê hồn, phải
công nhận là tuyệt thế giai nhân. Dáng cao hơn một thước bảy. Tóc đen
óng ả phủ dài xuống lưng. Những vòng đo lý tưởng. Đầy đặn và trắng trẻo.
Gương mặt khả ái, sáng sủa. Nếu không là hoa hậu hoa khôi, thì cũng là
người mẫu tầm cỡ ngôi sao. Không ai có thể nhăn mặt bực mình trước cái
Đẹp bao giờ. Có điều, chỉ vì cô gái đã tự chọn cho mình bộ trang phục
quá độc đáo, quá quái gở. Chiếc váy ngắn cũn cỡn, tưởng như không còn
kiểu nào ngắn hơn, khoe cặp giò dài khêu gợi. Chiếc áo thun bó sát ôm
lấy thân trên bốc lửa, thân áo trước và thân áo sau được liền lạc với
nhau chỉ bằng hai sợi dây mỏng mảnh vắt qua hai bên bờ vai tròn trịa và
đầy đặn. Đẹp không chê vào đâu được, nhưng nếu cô ta đang đứng trên sàn
diễn, hoặc đi trên phố cờ hoa rực rỡ ngoài kia. Đằng này, cô ta lại xuất
hiện ngay chốn già lam tôn nghiêm thanh tịnh mới gây nên những nỗi bất
bình từ những người chung quanh. Sự phẩn nộ, ghê sợ hiện rõ trên gương
mặt những ai nhìn thấy cô gái, nhưng chưa ai lên tiếng thẳng thắn góp
ý với con người lạ lùng, chỉ mới nghe những lời chê trách đàm tiếu nho
nhỏ phía sau lưng người đẹp.
Hình minh họa
Một
anh huynh trưởng gia đình Phật tử bước lại bên cô gái bằng sự nổ lực
phi thường, can đảm tột bực, đưa cho cô ta một chiếc áo tràng màu lam,
giọng nhã nhặn: - Chào chị, chị vui lòng mặc chiếc áo này vào, nếu
cần thì chị có thể mặc luôn về nhà, tôi rất lấy làm hân hạnh khi được
tặng chị nhân ngày đầu năm mới! Cô gái tròn xoe đôi mắt, nhìn anh huynh trưởng, rồi nhìn chiếc áo tràng với vẻ kinh ngạc, thản nhiên lắc đầu. Anh huynh trưởng bực bội, giứ chiếc áo tràng tới, nói: - Chị làm ơn mặc vào giùm cho. Đừng để mọi người khó chịu, và đừng để chư tăng nhìn thấy được mà tổn đức đó! Cô gái nhíu cặp chân mày lá liễu, hỏi cộc lốc: - Vì sao? Anh huynh trưởng không còn tự chủ được, cáu gắt: -
Chị còn chưa hiểu vì sao ư? Nơi đây là chốn tôn nghiêm, không phải chỗ
chợ búa hay sân khấu kịch trường, cho nên trang phục trên người chị
không phù hợp chút nào, rất chướng mắt mọi người. Chị thật tình không
biết, hay giả bộ không biết? Cô gái phì cười, một nụ cười tươi tắn tuyệt đẹp, lắc đầu: -
Biết làm gì để vướng? Ai thấy chướng thì đừng nhìn. Mấy người đi chùa
lễ Phật bái tăng, hay là đến đây để nhìn ngắm nhau? Ai tu nấy chứng, hãy
để cho tôi yên! Anh huynh trưởng cứng họng, không biết phải xử sao,
trong lúc nhất thời đành đứng đực ra đó với chiếc áo tràng trên tay.
Thời may, có một vị sư trẻ bước lại đứng trước cô gái, xá dài một cái,
cất giọng từ tốn: -A Di Đà Phật! Cửa Từ Bi luôn rộng mở để phổ độ
chúng sanh, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, trẻ già nữ nam… Nhưng,
đừng vì vậy mà xem thường chốn thanh tịnh, tạo nên phiền toái. Đi với
Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, chị ăn mặc như vậy mà vào chùa,
có khác nào báng bổ đạo giáo, xúc phạm Tam Bảo? Mong chị hoan hỷ mặc áo
tràng vào cho…
Hình minh họa
Cô gái cười duyên dáng, hỏi: - Thầy thấy tôi ăn mặc thế nào? Vị tăng trẻ lúng túng: - Ờ… thì… rất hở hang … không nghiêm túc kín đáo…và… Cô gái đưa tay vuốt mái tóc, ưỡn bộ ngực đầy sức sống, thản nhiên nói: -
Thầy tu hành mà còn chấp quá! Tâm của thầy còn động lắm. Lục căn của
thầy chưa được tinh tấn, vẫn còn vướng điều phàm tục. Tốt hơn hết, thầy
nên đóng cửa nhập thất để khỏi nhìn thấy những điều bất thanh bất tịnh ở
phụ nữ đàn bà! Vị tăng trẻ xanh mặt, cúi đầu, mắt nhìn chăm chăm
xuống đất, bước đi lẫn vào đám đông Phật tử ngược xuôi ngoài sân… Cô gái
cười nửa miệng, quay sang hỏi anh huynh trưởng: - Anh có vui lòng chỉ cho tôi tịnh thất của sư trụ trì không? Tôi đang rất muốn được vào vấn an ngài, và thỉnh giáo đôi điều… Anh huynh trưởng nhíu mày nghĩ ngợi, tặt lưỡi: -
Dẫn chị vào tịnh thất của thầy trụ trì thì thật là không nên chút nào.
Nhưng, có lẽ phải làm điều dại dột này, vì chắc tình huống oái oăm khó
xử như bây giờ, chỉ có thầy mới đủ đạo lực khai tâm điểm đạo cho chị
thấy được phải trái! Nói rồi, anh ta mời cô gái đi theo mình, băng
qua đám đông, vào phía dãy nhà sau chánh điện. Anh ta dừng lại trước cửa
một căn phòng, quay sang nói với cô gái: - Chị vui lòng đứng chờ ở
đây một lát, để tôi vào cáo bạch với thầy trước, khi nào thầy đồng ý
tiếp khách, tôi sẽ ra mời chị vào. Được chứ? - Ô-kê! Anh huynh
trưởng nhún vai ngán ngẫm, đưa tay gõ cửa ba cái. Bên trong có tiếng
vọng ra: "Ai? Cần gì?". Anh huynh trưởng cao giọng: - Bạch thầy, con là Tâm Tịnh, huynh trưởng gia đình Phật tử, có việc rất hệ trọng cần cáo bạch với thầy ạ!
Hình minh họa
Bên trong phòng vang lên giọng sang sảng: -Tâm Tịnh đó ư? Vào đi, cửa không khoá! Anh
huynh trưởng mở cửa, bước nhanh vào trong và đóng lẹ cánh cửa lại. Cô
gái đứng tủm tỉm cười, chờ đợi với vẻ háo hức. Chừng mười phút sau, cửa
mở, anh huynh trưởng bước ra, nói: - Chị được phép vào. Nhớ giữ ý giữ tứ một chút nhé! Cô
gái cười khẩy, bước vào phòng. Một vị tăng tuổi độ lục tuần đang ngồi
trên chiếc phản mun đen bóng trong tư thế kiết già, ánh mắt sáng rực rọi
chiếu thẳng vào mặt vị khách mới vào. Cô gái chấp tay xá ba cái, thưa: - Bạch thầy, con có thắc mắc xin thầy điểm giáo… - Cứ hỏi. Đây nghe. -
Bạch thầy, con ăn mặc như thế này, vào chùa lễ Phật bái tăng, lại bị
mọi người chê trách chỉ trích, bị tăng phê bình bắt lỗi, xin hỏi thầy ai
đúng ai sai? - Ai cũng đúng. Ai cũng sai. - Bạch thầy, người phàm
cố chấp đã đành, nhưng người đã xuất gia tu hành mà vướng mắc những
chuyện lễ nghi giáo điều để đi bắt bẻ con, xin hỏi thầy là đúng hay sai? - Vừa sai, vừa đúng! - Sao là sai? Sao là đúng? -
Sai, vì tu hành mà chấp nhặt những điều nhỏ nhặt. Đúng, vì giữ gìn
thanh tịnh cho chốn già lam tôn nghiêm, đó là bổn phận, là nhiệm vụ
phụng sự Tam Bảo, hoằng dương Chánh Pháp! - Con từng nghe rằng, ngọn
cờ phấp phới bay, thật ra cờ không bay mà gió bay, nhưng thật ra gió
chẳng động mà do Tâm của con người đang động. Phải vậy chăng? - Thật hay! Thật hay! - Vậy, theo thầy thì con ăn mặc ra sao? - Bình thường. - Đáng trách hay đáng khen ạ? -
Hợp thời trang. Hiện đại. Gọn gàng. Tiết kiệm. Nếu người mặc không hề
thấy ngượng nghịu, không chút gượng gạo, không phải âu lo, thong dong
khứ đáo xuất nhập như rồng đạp mây, thì thật là đáng khen ngợi. Nếu mặc
vào mà luôn thấy bị gò bó, thấy như bị mang của nợ, mang xích xiềng,
không thoải mái đi đứng nằm ngồi thì thật là đáng thương, tội nghiệp,
chứ không đáng trách! Cô gái cười khanh khách ra điều thích thú. Sư
trụ trì bật cười ha hả, tiếng cười tự tại vang động như đã rung chuyển
cả giàn ngói rong rêu của tịnh thất. Rồi im lặng như tờ. Cô gái cất
tiếng: - Thầy thật cao thâm, vững như bàn thạch! - Có phải đó là mục đích chính của cô khi ghé thăm bổn tự? - Im lặng, tức đã thú nhận.
- Cô mang một chút am hiểu giáo lý nhà
Phật, một chút kiến thức cơ bản về sự Tĩnh Động, cố tâm cố ý vào chùa để
thử thách cái Tâm Đạo của tăng ni giáo đồ. Sự cố ý làm cho người khác
chao đảo tâm ý chính là ác tâm, chính là động rồi đó! - Bạch thầy, quả đúng là con động. Nhưng đâu phải thấy người động mà mình phải động theo, phải vậy không thầy? - Phải nhớ quanh cô đều là những chúng sanh đang tu, còn tu, chứ chưa có ai đắc đạo, chưa ai giải thoát được mình! - Chỉ có thầy là tĩnh thôi sao? - Vì đây là tịnh thất. Tâm người phải tĩnh, phải tịnh. - Thầy không trách con về chuyện ăn mặc này thật sao? -
Không trách, mà còn khen. Áo quần chỉ là ngoại vật. Chúng vô tri vô
giác, không tội tình gì. Chúng là vật ngoại thân, không là một bộ phận
của thân thể con người… - Và thân thể con người cũng chỉ là giả tạm… - Chỉ là đất, nước, gió, lửa hội tụ tạo nên. Thân xác này còn là thứ bên ngoài, huống chi là quần với áo, xiêm với y?
Hình minh họa
- Chỉ cái Tâm bên trong mới là quan trọng? -
Tính động đều từ nơi ấy. Cho nên, nếu cô đã có gan ăn mặc hở hang thiếu
thốn vải vóc để vào cửa thiền, thì hãy phát huy thêm bản lĩnh mà trút
bỏ hết xiêm y giả tạm ra khỏi tấm thân giả tạm ngay nơi đây đi! - … - Trút bỏ hết đi! Sư trụ trì quát lên. Cô gái giật bắn mình, vội quỳ mọp xuống, đầu dập đất mấy cái. Sư lại quát: - Trút hết. Rồi đi ra ngoài, dạo một vòng vãn cảnh mau đi! - Bạch thầy… con không dám. Con không dám .Con xin dập đầu tạ tội. Đội ơn thầy đã khai tâm điểm đạo!
Hình minh họa
… Anh huynh trưởng đứng chờ ngoài hành
lang với ruột nóng gan sôi, cứ như đang đứng trên tổ kiến bồ nhọt. Và
rồi, cánh cửa tịnh thất đã mở toang. Cô gái lạ lùng đã bước ra ngoài với
vẻ mặt rạng rỡ tươi vui. Lạ lùng hơn, trên người cô ta đang mặc một
chiếc áo nhật bình của tăng chúng. Cô gái cười chào anh huynh trưởng,
bước thoăn thoắt hướng về phía chánh điện. Anh huynh trưởng lè lưỡi,
bước nhón chân lại khép cánh cửa tịnh thất thật nhẹ nhàng. Rồi anh chấp
tay xa ba cái về phía bên trong cánh cửa vô tri, nói: - Quả đúng là chỉ có thầy mới trị được quỷ sứ ma vương!
Hình minh họa
Anh ta thở phào nhẹ nhõm. Đầu năm vui thật. Thật là vui.
BM
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 19/Mar/2012 lúc 6:28pm
Trần Gian Một Khúc
Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử?
Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được.
Cây
cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá
héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ
trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái
chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.
Ðời
người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật
đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa
oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp.Thoắt
một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm
chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên
thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..
Ðời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế
mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa
vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa.
Cũng
ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa. Ðến
khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới
giật mình, rồi buồn phiền, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền
của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia
vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng
cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu
gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng
ngãng, mắt đã kèm nhèm.
Người
VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc
thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì
nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..
Suốt
đời cặm cụi, nhịn ăn nhịn mặc, để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai
khi chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi.
Một năm được mấy tháng xuân
Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa
Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi
Bo bo giữ lấy của trời làm chi
Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi
Con
người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài
lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô
thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và
nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần.
Ông Cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo
Ông bếp ngồi cạnh đống tro
Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm
Ðời người sống mấy gang tay
Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm
Ăn con cáy, đêm ngáy o..o
Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.
Người
xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi.
Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực
là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).
Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn.
Những
phát minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh
hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi,
bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít.
Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy
vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho
thân tâm được an lạc.
Tâm
thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận
những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi
người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra
tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp
cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ
gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm
nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè.
Già
thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách
phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy,
thương cảm cho những người xung quanh.
Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh.
Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc).
Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của Thượng Đế.
Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được : Ðời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc sống .
Source : Thế giới Người Việt (posted by Việt Dương Nhân)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Mar/2012 lúc 6:02pm
Câu chuyện về hai vị thiền sư
http://a367.yahoofs.com/lifestory/9GsN9vyWERhGapvwFiAkKAoylnI-_2/blog/20100324041355278.jpg?lb_____DMBNaGLcj"> Có
một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi
thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm đang chiếu cố túp lều tranh
của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài
đang mặc trên người và đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm
kinh động tên trộm. Tên trộm vừa quay ra
thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng vị thiền sư liền nói:
“Anh bạn! đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng
để anh về tay không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này mà về cho đỡ
lạnh. Nói xong ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm. Tên trộm xấu
hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại. Thiền
sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng
thương cảm nói: “ rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng
để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi. Vài hôm sau, khi
thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy
chiếc áo mà ngài khoác lên thân tên trộm mấy hôm trước đó được xếp rất
ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẻ nói : “ Cuối cùng thì ta cũng
đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi”. http://a367.yahoofs.com/lifestory/9GsN9vyWERhGapvwFiAkKAoylnI-_2/blog/20100324041428884.jpg?lb_____Dn3iPw7vz"> Lại
có câu chuyện khác cũng tương tự. Trong thiền viện của thiền sư Tiên
Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nổi cái cảnh
vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Vào những buổi tối vị tăng sinh
này thường ra vách tường sau chùa, đặt một cái ghế để leo qua tường ra
bên ngoài chơi. Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với
ai. Một lần, vị tăng sinh này trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía
sau và đem chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chỗ đó đợi vị học tăng
trở về. Đêm khuya vắng vẻ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã
bị di chuyển nên vẫn leo qua vách tường và thò chân xuống ghế như mọi
khi để vào chùa, nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế
dưới chân mình sao mềm mại là lạ, cúi xuống nhìn thì hoá ra mình đang
đứng trên vai vị thiền sư thầy mình. Lập tức vị học tăng hồn bay phách
tán quỳ xuống nói không ra lời. Thiền sư liền đỡ vị học tăng đứng lên và
nhẹ nhàng nói : “Đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh hãy nhanh
vào phòng nghỉ ngơi." Sau khi về phòng vị tăng sinh cứ phập
phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt
mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày
trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết. Vị
tăng trẻ tự trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng, từ đó về sau không
dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học, cuối cùng trở thành một vị
tăng nổi tiếng đương thời.
XXX
Nếu bạn là thiền sư bạn sẽ xử lý thế
nào với hai sự việc như thế? Tôi nghĩ, trong câu chuyện thứ nhất. Những
người bình thường thì sẽ cùng tên trộm vật lộn hoặc sẽ la lớn lên
“Trộm, trộm…”. Câu chuyện thứ hai, đối những với người bình thường thì
sẽ đem lỗi của vị học tăng nói trước mặt mọi người, sau đó sẽ có hình
thức trách mắng quở phạt riêng cho vị ấy. Nếu làm như vậy kết
quả sẽ như thế nào nhỉ? Tôi nghĩ có thể xảy ra hậu quả thế này, câu
chuyện thứ nhất: Tên trộm sẽ đánh bị thương hoặc giết chết vị thiền sư
hoặc có thể vị thiền sư đánh tên trộm bị thương và tên trộm sẽ trở lại
trả thù thiền sư vào một ngày gần đó. Câu chuyện thứ hai, sau khi vị học
tăng bị quở phạt trước mọi người sẽ cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè,
trong lòng buồn phiền thối chí tu học cuối cùng trở thành con người bình
thường, và có thể từ bỏ lối sống thiền môn. Hai vị thiền sư
này xử sự không giống những người bình thường như chúng ta, mà lấy sự
khoan dung đại trí, đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh
tăng. Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai
trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng
khoan dung. Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc đây là phương pháp giáo
dục tốt nhất. Khoan dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoan hồng tha
thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm
nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoan dung còn hơn cả vàng,
khoan dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng
ta. http://a367.yahoofs.com/lifestory/9GsN9vyWERhGapvwFiAkKAoylnI-_2/blog/20100316021353373.jpg?lb_____DIR0VkBPD">
Tác giả Văn Đan, Như Nguyện dịch http://tneu.blogspot.com/2012/03/cau-chuyen-ve-hai-vi-thien-su.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Apr/2012 lúc 9:39am
Making tea - Pha trà
Life is like making tea ! Boil your ego. Evaporate your worries. Dilute your sorrows. Filter your mistakes and, Get taste of happiness.
Sống như chuyện pha trà Nấu sôi "cái tôi" Bốc hơi điều lo lắng Pha loãng những muộn phiền Thanh lọc những lỗi lầm và Nếm hương vị của hạnh phúc.
_______________
MÙ
+
Tính ích kỷ làm ta mù, không thấy nhu cầu của tha nhân.
+ Tính vô cảm làm ta mù, không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
+ Tính tự phụ làm ta mù, không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
+ Tính kiêu căng làm ta mù, không thấy khuyết điểm của mình.
+ Sự hối hả làm ta mù, không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
+
Sự hời hợt làm ta mù, không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên
án.
+
Những thành kiến, cực đoan làm ta mù, không thấy lẽ thật.
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Apr/2012 lúc 7:43pm
* Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được : + Thời gian -+ Lời nói + Cơ hội .
* Ba điều trong đời không được đánh mất : + Sự thanh thản + Hy vọng + Lòng trung thực .
* Ba thứ có giá trị nhất trong đời : + Tình yêu + Lòng tự tin + Bạn bè .
* Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được : + Giấc mơ + Tài sản + Thành công .
* Ba điều làm nên giá trị một con người : + Siêng năng + Chân thành + Thành đạt .
* Ba điều trong đời làm hỏng một con người : + Rượu + Lòng tự cao + Sự giận dữ.
----------------------------------------------------
Hạnh phúc ?
+ Chó con hỏi chó mẹ, mẹ ơi hạnh phúc là gì ?
Chó mẹ bảo hạnh phúc là cái đuôi con đấy ! Và thế là chó con quay lại tóm cái đuôi của mình, nhưng không tài nào tóm được, chú ngồi xuống oà khóc, và lại hỏi mẹ:
- Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ ?
Chó mẹ mỉm cười và nói rằng: "Con
trai, tại sao con không tiến về phía trước và hạnh phúc sẽ theo sau
con". Vậy chúng ta tại sao cứ phải đi tìm cho mình hạnh phúc nhỉ khi mà
hạnh phúc luôn đi theo mình, hãy sống, hãy cảm nhận hạnh phúc mà cha mẹ
đã cho ta. Hạnh phúc vì được sống bên những người bạn mà mình yêu ...
+ Ngày xưa, có lần “tập đoàn” yêu tinh họp nhau lại để lên kế hoạch làm hại con người
Một yêu tinh nói: “Chúng ta nên giấu một thứ gì đó quý giá của con người đi, nhưng giấu cái gì bây giờ?”.
Sau khi suy nghĩ, một yêu tinh đáp: “Biết
rồi, hãy lấy đi hạnh phúc của họ, họ sẽ ngày đem phải khổ sở u uất.
Nhưng vấn đề là giấu nó ở đâu bây giờ? Phải giấu ở nơi nào mà họ không
tìm được ấy!”.
Một yêu tinh khác cho ý kiến: “Thử quẳng nó lên đỉnh ngọn núi cao nhất của thế giới xem”.
Nhưng ý kiến đó bị phản đối ngay: “Không được. Con người rất khoẻ mạnh, chuyện leo núi có nhằm nhò gì đâu”.
Một yêu tinh khác lại có ý tưởng: “Vậy ta giấu nó xuống vực biển sâu nhất nhé?”.
Nhưng các yêu tinh lại đồng loạt phản đối:
“Không, con người rất tò mò. Họ sẽ tạo ra những chiếc tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người cũng sẽ biết”.
Một yêu tinh nhỏ tuổi đứng lên: “Hay để nó ở một hành tinh khác đi!”.
Tuy nhiên, một yêu tinh lớn tuổi đáp: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh đấy thôi”.
Bầy yêu tinh lại im lặng suy nghĩ. Chợt một yêu tinh già lụ khụ đứng lên đưa ra ý kiến:
“Tôi
biết ta nên giấu hạnh phúc ở đâu rồi! Hãy giấu nó ở chính bên trong con
người. Đa số mọi người đều luôn cố gắng lùng sục hạnh phúc ở khắp nơi
khắp chốn và bao giờ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân
họ thì chẳng bao giờ họ quan tâm. Giấu ở đó thì con người chẳng bao giờ
tìm thấy đâu!”.
Tất
cả yêu tinh đều nhất trí với giải pháp này và kể từ đó, rất nhiều người
mải mê đi kiếm hạnh phúc mà không biết nó đã được giấu ngay trong tâm
hồn mình!
_____________
Hạnh
phúc đơn giản là ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người ...hạnh
phúc chính là điều giản dị quanh ta mà chẳng phải mất công tìm kiếm...
Hãy trân trọng nó ....!!!
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 9:26pm
Kẻ chiến bại
Sau chiến bại, khi người ta đã
mất hết, thì sự thật sâu xa nhất về chính mình hiển
lộ ra. Khi ấy, người bại trận chỉ còn hai chọn lựa :
hoặc trả thù, hoặc tái sinh.
http://1.bp.blogspot.com/-4PNfYwlpnJs/T57TA7prG3I/AAAAAAAAJiU/_9VurSrjIbo/s1600/4c75da30_7d391e8d_40323_147529028596829_100000191985324_461578_941730_n.jpg">
Trả thù là cố giữ lại con
người cũ của mình, như thể không gì có thể làm cho nó
thay đổi được. Để rồi người ta làm mọi cách để
cho đối phương phải trả một giá thật đắt cho những
mất mát mà mình đã phải chịu đựng. Trả thù cũng là
kéo dài cuộc chiến dưới những hình thức khác, trong
điều kiện khác, nhưng chủ yếu vẫn là : duy trì
chiến tuyến, giữ vững lằn ranh bạn thù.
Tái sinh là sống lại một cuộc
sống khác, chấp nhận cho « cái tôi » được
nhào nặn trong một khuôn khổ mới. Trong cuộc sống mới
này, nhiều điểm tựa có thể thay đổi, thí dụ như
người ta có thể chấp nhận một quê hương mới, chấp
nhận thuộc về một thành phần xã hội mới, hình thành
những liên hệ bạn bè mới, trong khi những mối thù xưa
dần dần nhạt bóng. Cuộc chiến của thời xưa cũng dần
dần thay đổi bản chất để chuyển sang một cuộc đấu
tranh sinh tồn trong môi trường mới.
Thật ra, đó chỉ là lý thuyết.
Trong đời thực, những người bại trận đều sống hỗn
hợp hai thái độ vừa nêu, trong những chừng mực khác
nhau, tùy « thảo trình » tâm lý của mỗi cá
nhân.
Điều quan trọng cho các thế hệ
tương lai là : hãy trân trọng học bài học của
những người bại trận, mà đừng phê phán cá nhân họ.
Dù cho họ có chọn lựa thái độ nào đi chăng nữa, thì
họ cũng là những con người đã mang một kinh nghiệm
sống quý giá. Chính từ kinh nghiệm ấy mà một tương
lai tốt đẹp sẽ được thêm cơ hội đâm chồi nẩy
mộc, để trở thành cây trái tốt tươi. Một điều
không thể nào có được trên những phiến đá cẩm thạch
của các đài tưởng niệm chiến thắng. Trên đó, chỉ
có lạnh lẽo và quạnh hiu...
Kẻ chiến thắng luôn tự gán
cho mình tất cả vinh dự, quyền hành, lợi lộc. Họ luôn
tìm cách bán sự thành công của họ với cái giá đắt
nhất mà họ có thể bán được. Nhiều thế hệ sẽ còn
tiếp tục phải trả « món nợ » vô cùng to lớn
ấy.
Trong khi đó, người chiến bại
chỉ có một gia tài đầy khổ đau, sẵn sàng cống hiến
cho những ai biết dùng đến. Kinh nghiệm sống của họ
là một món quà, tặng không cho những thế hệ tương
lai. Kể cả, trong nhiều trường hợp, vì sự chiến bại
của mình, họ đã bị loại khỏi cộng đồng dân tộc.
Vũ khí vẫn còn trong tay kẻ
chiến thắng, để bảo vệ tư thế và những lợi lộc
đã mà họ đã đoạt được.
Trong khi đó, người chiến bại
đã buộc phải giã từ vũ khí. Và, khi vũ khí đã rời
khỏi bàn tay, thì chỉ còn bàn tay, sẵn sàng nắm lấy
những bàn tay khác...
Nguyễn Hoài Vân
29 tháng 4 năm 2012
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/May/2012 lúc 7:21pm
Câu chuyện ven đường.
Một số người thoảng qua cuộc đời ta,
Một số khác ở lại đôi chút và ghi dấu trong tim ta,
Và từ dạo đó, ta dường như không còn như xưa nữa.
Khuyết danh.
Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp lại và tấp vào lề đường.
Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe.
Bước
ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh
đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó – chắc chắn nó là tác giả của vết trầy
trên chiếc xe.
Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ. “không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?”.
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe…
Cậu
bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! nhưng em… em… không biết làm cách nào
khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng xe… Nãy giờ
em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng”.
Nói
đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên
kia đường. “Có một người… anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng
ngã. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì
anh ấy nặng quá”.
Giọng
ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh có thể giúp
em đưa anh ấy trở lại chiếc xe lăn được không ạ? Anh ấy ngã chắc là đau
và đang bị chảy máu”.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào.
Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì bất ngờ và xúc động.
Anh đến đỡ người bị ngã trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Người bị ngã cảm ơn anh rồi chiếc xe bắt đầu lăn đi về phía đường ngược lại, cậu bé phụ đẩy phía sau.
Anh dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất hẳn.
Anh
bước thật chậm về phía chiếc xe của mình, cảm giác giận dữ trong anh
không còn nữa và những bước chân ngập ngừng cũng không thể diễn tả hết
tâm trạng của anh lúc này.
Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe.
Anh
muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà
trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để ý đến.
Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé kia, anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có một ai đó ném một viên đá mới làm anh dừng lại.
(Sưu tầm)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/May/2012 lúc 7:48pm
TIỀN & HẠNH
PHÚC
Thy Anh st
Tôi đã từng là thành viên của câu lạc bộ “NHỮNG NGƯỜI TÌM KIẾM HẠNH PHÚC” với chủ trương "Tôi sẽ chỉ hạnh phúc khi . . . " . Lúc đó, tôi cho rằng mình sẽ hạnh phúc khi tìm được người bạn đời hoàn hảo, một công việc hoàn hảo và có nhiều …tiền.
Theo thời gian, tôi bắt đầu đạt được các mục tiêu đề ra ban đầu và tôi lại đặt ra các mục tiêu khác, lớn lao hơn. Tôi quan niệm thành công như một điều kiện cơ bản để xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Tôi tham gia
các lớp thảo luận về sự thành công. Tôi vạch cho mình những kế hoạch cụ thể và đọc đi đọc lại mỗi ngày. Tôi tự hỏi tại sao nhiều nhà tâm lý học lại khuyên người ta không nên lập nhiều kế hoạch cùng một lúc. Tôi không thích lời khuyên như thế vì tôi muốn mình tham gia vào câu lạc bộ “TÔI MUỐN NHIỀU HƠN NỮA”.
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, tiền bạc trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều người. Không ít người cho rằng thành công về tiền của là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá sự thành công. Nó trở thành tiền đề để họ xây dựng một cuộc sống hạnh phúc.
Tiền bạc có thể mang đến cho con người cơ hội để làm những việc họ thích như thoải mái mua sắm, đi du lịch, làm từ thiện hay đầu tư . . . Nhưng có lẽ bạn cũng đã từng nghe rất nhiều câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của những triệu phú. Rõ ràng sự giầu có chẳng thể mang lại cho họ hạnh phúc. Thông thường, những bất hạnh mà co người phải gánh chịu trong cuộc sống đều ít nhiều liên quan đến việc có quá nhiều hoặc quá ít tiền.
Tiền sẽ phục tùng bạn và bạn sẽ luôn có đủ điều kiện chăm lo cuộc sống của mình một khi biết đầu tư thích hợp cho nó. Tiền cũng giống như con người, sẽ đền đáp khi bạn biết đối sử với nó như một người bạn đáng mến. Có lúc nó quan trọng hơn bạn nghĩ nhưng cũng có lúc nó nhỏ bé vô cùng. Và cũng có lúc nó lại cần sự bảo vệ chăm sóc đặc biệt của bạn. Khi để tiền làm chủ cuộc sống của mình, bạn sẽ phải trả giá cho nó. Bạn sẽ không thể có được tự do và hạnh phúc nếu không biết bằng lòng với những gì mình đang có. Bạn cũng sẽ được nhiều hơn khi nhận ra rằng mình hoàn toàn có thể trở nên giàu có, bởi chính bạn mới có giá trị hơn tiền bạc, hơn công việc bạn đang làm, hơn chiếc xe bạn đang lái hay bộ quần áo bạn đang mặc. Đừng bao giờ mang sức mạnh và giá trị riêng của bản thân ra định giá. Tự do thật sự không thể mua hay bán bằng bất kỳ giá nào. Tự do thật sự là nhửng gì sẽ tồn tại vĩnh viễn, không bao giờ mất.
Cách đây một năm, Lyne Twist có dịp tiếp xúc với nhiều phụ nữ có vị trí chức vụ cao trong tập đoàn Microsoft. Trong cuốn The Soul of Money, cô cho biết những phụ nữ này có tuổi đời trung bình khoảng 36, và tài sản mà họ đạt được khoảng 10 triệu đô la. Cuộc sống của họ lúc nào cũng gắn chặt vào chiếc máy vi tính và chĩ dành rất ít thời gian cho gia đình hay
nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi. Họ cho biết ít khi cảm thất hạnh phúc cũng như không thỏa mãn với số tiền mà họ đang có. Thany vì dành thời gian cho những việc như chăm sóc con cái, dọn dẹp nhà cửa, họ cố làm việc nhiều hơn với hy vọng thành công hơn sẽ mang đến cho họ tự do và hạnh phúc. Nhưng rồi, chính họ cũng phải thừa nhận rằng, nếu cứ tiếp tục sống như thế, họ sẽ chẳng bao giờ đạt được điều mong muốn.
Rõ ràng, tiền bạc không phải là tấm vé tự động có thễ đưa con người bước vào cách cửa tự do và hạnh phúc. Một thồng kê gần đây cho thây1/3 gia
đình ở Mỹ giàu hơn 95% dân số thế giời. Nhưng trong một chuyến thăm của mình, Mẹ Teresa lại nói rằng nước Mỹ là một quốc gia nghèo nhất thế giời bởi họ phải gánh chịu nhiều nỗi cô đơn nhất.
Trong cuốn A Big New Free Happy
Unusual Life, tác giả Nina Wise viết:" Khát vọng tự do của con người không thể được thỏa mãn bằng những chiếc xe hơi sang trọng, nhà cao cửa rộng, vàng bạc châu báu hay tất cả những tiện nghi vật chất khác. Con người chỉ tìm được tự do khi và chỉ khi chúng ta biết hài lòng với cuộc sống của mình, rằng những gì chúng ta đang có đã là đủ và biết giữ mình nằm ngoài mọi sự đua chen, giành giựt của cuộc đời. Đó là khi sức mạnh của tâm hồn bạn lên tiếng".
Chúa Jesus đã kể một câu chuyện cho các tông đồ của mình như sau:
Có một ông chủ rất giàu có, có rất nhiều ruộng đất và vườn nho. Lương thực và trái cây ông sản xuất ra mỗi năm đều chất đầy kho. Ông sống trong một ngôi nhà lộng lẫy vô số kẻ hầu người hạ.
Có một năm, thời tiết rất tốt, mưa thuận gió hòa, trong vườn nho lắm nơi kết thành chùm. Đại mạch, tiểu mạch trên đồng cũng sinh trưởng rất tốt, tốt hơn năm trước rất nhiều. Có thể nói năm nay ông ta đã
đạt được mùa thu hoạch kỷ lục.
Mỗi ngày ông ta đều đi thăm đồng ruộng và các vườn nho, miệng tươi cười, ánh mắt sáng ngời, trong lòng tự nhủ:"Ôi! thật là quá tốt, tài sản của ta mỗi năm một nhiều, không chừng ta sẽ sớm trở thành người giàu nhất thế gian." Nghĩ đến vụ mùa bội thu là lòng ông lại vui phơi phới. Ông đến vườn nho, rồi kho lương thực và tài sản. Ông đột nhiên dừng lại: "Những cái nhà kho này thật sự quá nhỏ, chúng sẽ không đủ chỗ chứa lương thực nông sản của ta năm nay. Vậy phải làm sao đây?" Ông tự hỏi rồi tự trả lời: " Làm như thế này vậy, mình dỡ bỏ những nhà kho cũ để xây cái mới to hơn!". Nghĩ đến đây, ông vội vàng về nhà. Rồi ông hí hửng đi vào ngôi nhà lộng lẫy như hoàng cung của mình. Ông tiếp tục nghỉ:" Ta không phải nỗ lực làm việc cũng sẽ an nhàn hưởng thụ, của cải ta rất nhiều, dư dùng cả một đời ..."
Nhưng tối hôm đó, ông ta đột ngột qua đời, hoàn toàn ngoài dự liệu của ông. Ông ta nằm trên chiếc giường lớn, mặt mày trắng bệch, tay chân lạnh ngắt. Ông chĩ còn là một xác chết. Bên ngoài, gió thổi nhẹ qua những bông lúa đang chín của ông. Nhưng ông đã ra đi và sẽ có người khác thu hoạch, sẽ hưởng vụ mùa bội thu và của cải của ông. Cơn gió nhẹ cũng thồi qua vườn nho, khắp nới đều là những chùm nho trĩu quả, nhưng ông ta cũng không có phúc để hưởng thụ vì đã chết. Ông ta không mang theo được thứ gì. Tài sản của ông cũng chẳng ích gì đối với bản thân ông nữa. .. Một chút cũng không có. Sau khi ông chết, người khác đến thu hoạch lương thực của ông. Ông bị chôn dưới đất, tối tăm lạnh lẽo. Không bao lâu sau, mọi người đã quên ông. Sẽ chẳng còn ai tưởng nhớ đến ông.
"người đam mê của cải sẽ chẳng biết thế nào là đủ. Đấy rồi cũng chỉ là hư không. Bạn càng giàu có thì người theo bạn càng nhiều. Thu nhập của bạn chẳng qua cũng sẽ thoảng qua như mây khói. Người biết lao động không màng của cải bất kể được ăn no hay không cũng
sẽ luôn ngủ ngon, nhưng người có nhiều của cải vật chất lại không thể."(trích kinh
thánh) n
Thy Anh st
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Aug/2013 lúc 10:25pm
Bồ Tát chỉ ngồi để thấy...
Thiền sư Viên Minh
Một
người nọ nhìn thấy cái kén của con bướm. Sau đó,anh thấy một cái lổ nhỏ
xuất hiện. Anh ngồi chăm chú theo dõi con bướm trong vài giờ đồng hồ và
thấy nó cố gắng vùng vẫy tìm cách chui ra ngoài qua cái lỗ nhỏ đó. Rồi
dường như nó không có thêm một tiến triển nào nữa. Trông cứ như thể nó
đã làm hết mức có thể rồi và không thể xoay xở gì thêm được.
Thấy
tội nghiệp nên người đàn ông quyết định giúp con bướm. Anh lấy một cái
kéo và cắt cái kén. Con bướm dễ dàng thoát ra. Nhưng nó có một cái thân
căng phồng và đôi cánh nhỏ bé, teo quắt. Thế là, con bướm đó sẽ phải bỏ
ra suốt cả cuộc đời nó chỉ để bò trườn với cơ thề sưng phồng và đôi cánh
co lại. Nó không bao giờ bay được...
Cho nên Quy tắc thứ ba của người Ấn độ : "Trong mỗi khoảnh khắc mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm".
Người
đàn ông tốt bụng đã không hiểu rằng chiếc kén chật hẹp và sự vùng vẫy
của con bướm để chui qua được cái lỗ nhỏ ấy chính là cái cách mà Tạo Hóa
buộc chất lỏng trong thân con bướm chảy vào cánh để sẵn sàng cho nó có
đủ sức mạnh để cất cánh bay...
Vì vậy, đừng bao giờ tin vào quan niệm Bồ Tát độ mình cả, nếu Bồ Tát
đến độ mình tức là Bồ Tát can thiệp vào việc mình cần phải làm là để
thoát ra khỏi cái kén (thoát khỏi vô minh) chính mình là người cần phải
mở ra mọi cái mà mình đã trói buộc vào, không có Bồ Tát nào làm thay cho
mình...
Quan niệm Bồ Tát cứu độ bị hiểu sai kiểu như người mẹ giúp con " thôi con đừng đánh vần để mẹ đánh vần cho... Con đừng làm toán để mẹ làm toán cho...vân vân...và vân vân..."
Bồ
Tát chỉ ngồi để thấy, để xem mình đau khổ như thế nào và thoát khỏi đau
khổ như thế nào... mà Tâm Ngài vẫn hoàn toàn bất động, đó mới chính là
Bồ Tát chân chính nhất.
Qua câu chuyện trên, con nhộng chỉ cần đợi thêm một chút nữa, nó có
thể tự vùng vẫy thoát ra khỏi cái kén, thì nó mới đủ sức mạnh cất cánh
bay cao... cũng như con người ta cần phải chịu đựng đau khổ thêm một
chút nữa thì mới có được bài học Giác Ngộ cho chính mình... Thế cho nên,
Bồ Tát chỉ khai thị mà không có cứu độ.... khai thị cho mọi người thấy
ra mọi cái đã có sẳn nơi mỗi người, và để mọi người biết tự trở về với
chính mình...
Trong Phật Giáo không có quan niệm có người khác cứu độ... đừng xin xỏ mong cầu mà trở thành mê tín...
Đức Phật dạy, Pháp hộ trì người sống đúng Pháp, thuận Pháp... Những người sống thuận Pháp, khi gặp chuyện
thì tự động có Chư Thiên hộ Pháp hộ trì... Cũng như một người sống đúng
tốt thì được nhiều người tin tưởng giúp đỡ... Chân lý chính là Thực Tế
chứ không phải ảo tưởng ...
Thiền sư Viên Minh
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Sep/2013 lúc 4:34am
Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể thực hiện bố thí
Một người nghèo hỏi Đức Phật : “Tại sao con nghèo như thế?” Phật nói : “Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác.” Người ấy nói : “Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí.” Đức Phật dạy : “Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 điều này : ... 1. Nhan thí - Bố thí nụ cười, 2. Ngôn thí - Bố thí ái ngữ, nói lời hay. 3. Tâm thí - Bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. 4. Nhãn thí - Bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ. 5. Thân thí - Bố thí hành động nhân ái. 6. Tọa thí - Bố thí nhường chỗ cho người cần. 7. Phòng thí - Bố thí lòng bao dung (ST)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Dec/2013 lúc 9:32pm
http://1.bp.blogspot.com/-XFTPxW8t_Gk/Uj5svvQ2YvI/AAAAAAAABkU/3nq9vrCvDhg/s1600/60dcc0d001_Mo-mat-nham-mat.jpg">
Mở mắt, nhắm mắt Thích Tánh Tuệ ***
Có khi mở tròn xoe
mắt Mà trong Tâm tối mịt mùng. Có khi ngồi yên nhắm mắt Mà đèn tâm vụt
sáng trưng.
Nhiều khi đôi mi khép lại Còn Tâm đi chợ ngoài tê. Mở to mắt nhìn thực tại Đẹp thay, chiếc lá Bồ Đề!
- Đôi khi ta cần nhắm mắt Trước bao cám dỗ cuộc đời. Sau lưng đóa
hồng tươi thắm Một bầy gai nhọn người ơi!...
- Đôi khi cần nên mở mắt Rỡ ràng nhịp bước bàn chân. ''Cửa sổ tâm hồn'' trải rộng Rồi thương nỗi khổ tha nhân…
Mỗi ngày ta nên nhắm mắt Nhìn lại một ngày đã qua. Mình thở nhịp đời sâu sắc Hay là sống vội, qua loa...
Từng ngày ta nên ''mở mắt'' Nhìn cho rõ mặt người thương. Mẹ ơi, tóc chiều đã bạc Biết đâu… mai nhỡ vô
thường…
Đêm sâu vào miền tĩnh lặng Nhắm mắt làm cuộc hội thần. Để mai xuôi đời cơm áo Hiểu rằng mọi thứ... phù vân... Lắm khi hằng nên mở mắt Để thấm thía đời bể dâu. Đằng sau còn gì để lại Hay là... ''sỏi đá… cần nhau...''?
''Mở mắt'' để rồi ''nhắm mắt'' Có gì thực ''của Ta'' đâu! Kìa, bóng chiều rơi khuất núi Nghìn thu… bụi cũng qua cầu...
Bodhgaya rằm thượng nguyên 2013
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2015 lúc 5:12pm
Quy luật tình yêu ... !
Ba
hành khách cùng đi trên một chuyến tàu tới ga Tình yêu: Sòng phẳng, Ích
kỷ và Vị tha. Cả ba đều mang theo mình hai gói đồ: Nhận và Cho, nhưng
độ nặng nhẹ khác nhau:Sòng phẳng: Cho = Nhận Ích kỷ: Cho < Nhận Vị tha: Cho > Nhận Trong lúc rỗi rãi ba người tán gẫu về hành lý của mình. Sòng phẳng lên tiếng: - Tôi thấy hành lý của các anh lệch lạc, thật khó mang theo. Còn tôi luôn cân đối Cho và Nhận nên mang đi dễ dàng. - Anh làm thế nào cho cân được? Ích kỷ hỏi. -
Thì tôi phải tính chớ. Tôi chỉ cho đi khi tôi chắc có thể nhận về một
lượng tương đương. Cho không hay nhận không của ai cái gì, tôi đều không
thích. Tính tôi là vậy, không muốn mắc nợ hay mang ơn. Ích kỷ: -
Anh nói nghe như thể đi mua hàng vậy: Tiền nhiều mua được nhiều, tiền
ít mua được ít, không tiền không mua. Nhưng tình cảm đâu thể đong đếm
theo cách đó. Sòng phẳng cười phá lên, rung cả hai vai. Ích kỷ ngạc nhiên: - Tôi nói vậy không đúng à? -
Quá đúng là khác. Tôi chỉ buồn cười là trông 2 gói hành lý của anh bên
Cho thì nhẹ bên Nhận thì nặng, vậy mà anh cũng nói được câu đó. Ích kỷ nhìn lại 2 gói đồ của mình, gật đầu. Sòng phẳng thoáng bâng khuâng: -
Không phải lúc nào tôi cũng sòng phẳng cả đâu. Có những người cho tôi
nhiều mà tôi không cho lại được là mấy. Ví như tình yêu cha mẹ cho tôi
gần như vô hạn, chẳng kể tôi có đáp lại hay không. Vậy là tôi Nhận nhiều
hơn Cho. Với con cái thì tôi Cho chúng nhiều hơn Nhận về. Cũng nhờ có
sự bù trừ như vậy mà 2 gánh hành lý của tôi thường cân nhau. Ích kỷ tán thành: -
Tôi thấy kiểu hành lý của anh giờ đang thịnh hành. Nhiều người thích
sòng phẳng cả trong tình yêu theo kiểu: “Ông rút chân giò, bà thò chai
rượu”. Sòng phẳng trầm ngâm: -
Đôi khi tôi cũng không thích sống thế này đâu. Luôn phải tính toán
nhiều - ít, luôn phải dừng gánh để sẻ từ bên này sang bên kia. Tôi thấy
mệt mỏi và nhiều lúc trống rỗng, vô cảm. Ích kỷ: -
Tôi cũng giống anh, luôn phải so đo tính toán. Nhưng tôi phải tính sao
cho Nhận về mình nhiều hơn. Tôi chỉ thích nghĩ cho mình thôi mà. - Nhận nhiều như thế anh có hài lòng không? Sòng phẳng hỏi. - Chả mấy khi tôi vừa lòng. Tôi luôn canh cánh trong lòng: Mình có bị mất mát gì không? Cho như thế có nhiều quá không? - Anh có người yêu không? -
Có chứ. Tôi rất yêu người yêu tôi là đằng khác. Nhưng tôi luôn lo sợ.
Tôi sợ mình cho nhiều quá lỡ tình yêu bỏ tôi đi thì tôi chẳng được gì.
Tôi không muốn nhận về tay trắng. Đó là nỗi ám ảnh của tôi. Tàu
qua cầu vượt sông Âu Io. Tiếng xình xịch của đầu máy át lời tâm sự của
Ích kỷ. Qua khỏi cầu, tiếng ồn dịu lại, Ích kỷ và Sòng phẳng lúc này mới
nhớ tới người bạn đồng hành thứ ba. Vị tha nãy giờ vẫn yên lặng lắng
nghe. Khi thấy hai bạn hướng mắt về mình mới khẽ khàng cất lời: -
Hai anh đều có lý lẽ của mình. Lập luận của anh Sòng phẳng thuần túy là
của bộ óc, không có mấy liên hệ đến trái tim. Chính vì vậy anh luôn
thấy căng thẳng, mỏi mệt và đôi khi trống rỗng. Còn anh Ích kỷ yêu ghét
rõ ràng, nhưng tình yêu của anh là “vì mình, cho mình”. Bởi yêu mình quá
mà anh thường trực lo sợ. Tôi nói vậy có phải không hai anh? Ích kỷ và Sòng phẳng đang mải nghĩ ngợi nên không trả lời. Vị tha nói thêm: - Anh Sòng phẳng nói đúng: Hành lý của tôi không cân - Cho nhiều hơn Nhận. Ấy là vì tình cảm xuất phát tự đáy lòng thì rất chân thành và giản dị. Nó thấy rằng Cho là lẽ tự nhiên, không gì vui bằng làm cho người mình thương yêu được hạnh phúc. Niềm vui khi dâng tặng làm vơi gánh nặng của tôi, cho tôi sự thanh thản, đủ đầy. - Đủ đầy? Sòng phẳng và Ích kỷ cũng thốt lên. Cho là mất chứ, cho nhiều thì phải còn ít đi mới phải. Vị tha mỉm cười: -
Đấy là về mặt vật chất, là quy luật trong Toán học thôi. Quy luật của
tình yêu thì khác. Lát nữa đến nơi, tôi sẽ chỉ cho các anh. Ích
kỷ và Sòng phẳng nhìn gánh hành lý của Vị tha, lại nhìn hành lý của
mình, lòng chưa hết băn khoăn. Cũng vừa lúc tàu đến ga Tình yêu. Tàu
chạy chậm dần, chậm dần rồi dừng hẳn. Ngước
nhìn vào sân ga, Sòng phẳng và Ích kỷ đều trông thấy dòng chữ có nội
dung Vị tha vừa nhắc đến. Hai người rất đỗi ngạc nhiên vì họ đi trên
chuyến tàu nhiều lần, đến ga Tình yêu đã nhiều mà chưa bao giờ thấy hàng
chữ đó. Thực ra quy luật của Tình yêu luôn có ở đó, nhưng chỉ những ai
có trái tim nhạy cảm mới thấy và thấu hiểu. Bạn
thân mến, tôi sẽ không nói hàng chữ trên sân ga Tình yêu nói gì vì tôi
chắc bạn cũng đoán ra được. Để kết thúc câu chuyện, tôi chỉ xin tiết lộ
về những người sẽ đón 3 hành khách của chúng ta cùng hành lý Cho và Nhận
của mỗi người : Đón Sòng phẳng là Khô khan Ích kỷ sánh đôi cùng Bất an và người đón đợi Vị tha chính là ... Hạnh phúc.
(ST)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 10/Jun/2015 lúc 8:28pm
Hòn
đá bên cây tùng
Sinh ra lớn lên tại
khu ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn, John không có
cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ cấp hàng tháng cho
gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu, thuốc.
John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy,
nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua
những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi
trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.
Do mẹ anh không còn tiền mua thực
phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã hội tài trợ cho học sinh
nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn
khó. Đến đây ăn đã nhiều năm nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện,
bởi mỗi ngày có những nhóm khác nhau tham gia phục vụ.
Cội tùng cheo leo bên vực thẳm trong vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ -
Ảnh: H.L
Người duy nhất John nhớ đến là ông
già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông cười tươi,
chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc các món thức ăn vào khay,
tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người
ăn ngon miệng như thể đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang trọng
nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng
người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một mình, ông pha ly nước cam đem đến.
John thường không giấu ông điều gì,
ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị cảnh sát bắt. Ông
ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ.
Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn cười rất tươi khuyên John:
- Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm
chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng thành sẽ không tốt cho
cháu.
John bản tính ương ngạnh, máu giang
hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:
- Cháu mạnh, chắc như đá tảng. Không
ai làm gì được cháu đâu!
Không giống như những người khác đến
dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày, năm này qua năm kia
nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen này. John trở nên
thân thiết gắn bó với ông già, gọi ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông
già Cool (cool: vui vẻ, điềm tĩnh).
Bẵng đi một thời gian dài John đột
nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng không
biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao
bức thư:
“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi,
đang ngồi tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ
được thả nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu
không người bảo lãnh sẽ không ai muớn cháu, dù có tiền thuê nhà không ai sẽ cho
cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với giới giang hồ để tiếp tục con đường
cũ. Cháu muốn làm người tốt, ông ơi!”.
*
Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù,
nét mặt John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn trọc. Cảm giác được tự
do không đủ làm anh vui khi đối diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất
thểu bước đến trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù không biết
phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ cười tươi mát ấy, khuôn
vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến
ôm choàng, siết chặt:
- Ông Cool!
Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng chắc
thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện nguyện tại nhà
ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi cư trú trong 6 tháng. Ông
sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận phòng. John bàng hoàng
như không tin vào chính tai mình. Mới vài phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc
lõng tận cùng. Thế giới như không có anh, loài người như không biết đến sự hiện
hữu của anh. Cảm giác được yêu thương, được chấp nhận làm John xúc động mạnh.
Mắt anh hoen ướt đầu tiên trong đời.
Ông Cool sống một mình trong căn nhà
nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn gỗ khá rộng thoáng. Nơi
đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của Nhật (tọa cụ), có chiếc
bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật đẹp mà John không biết là ai
và có ý nghĩa gì.
Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John
trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời sống
trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông khuyên John đi tắm
để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi tắm xong, John bước
ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh chợt giật mình khi thấy ông Cool phong
thái rất an nhiên, ngồi thẳng lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng
bức tượng trên bàn.
Đột nhiên ông nói khẽ:
- Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta,
trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.
John nghe lời, ngồi xuống như dáng
ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng đọng, anh nghe được
cả hơi thở chính mình.
Ông Cool hỏi John:
- Cháu kể về đời sống trong tù, thế
cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?
- Cháu không biết bắt đầu ra sao
ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban thiện nguyện
giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải làm gì.
Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười, dáng an
nhiên bất động, ông lên tiếng:
- Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi
đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình phải làm
người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt đẹp hôm nay. Nếu cháu
tiếp tục con đường làm người tốt thì điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.
- Nhưng cháu tiếp tục như thế nào
hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không có kinh nghiệm gì. Ai sẽ
mướn một người từng ở tù như cháu?
Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:
- Cháu hãy cố gắng kiếm việc làm
hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy cháu nên làm gì để mọi người có cơ
hội biết cháu là người tốt?
Suy nghĩ một lúc lâu, John lên
tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:
- Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện
nguyện, cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.
Ông Cool đôi mắt sáng biểu lộ niềm
vui:
- Thật tuyệt vời! Cháu thấy không?
Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.
Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói
tiếp:
- Làm người tốt bao gồm làm người
chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình,
thở nhẹ nhàng, tập cười như bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng
như bức tượng nhé. Làm được như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy
đời sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông
đều ngồi tập cười như thế.
John trầm trồ:
- Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào
cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý mến ông. Làm thế
nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha (Phật) phải không ông? Phật
là vị thánh như thế nào?
- Ông sẽ cho cháu một tượng như thế.
Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh. Cháu có thể nghĩ đơn
giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool. Sau này cháu muốn tìm hiểu
thêm, ông sẽ nói thêm.
*
Ngày đầu tiên John trở lại dùng cơm
tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt
vặt tại đây, các nhân viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu tư trong lòng:
không biết tính khí giang hồ trước đây của anh có làm công việc khó khăn nặng nề
thêm? Thế nhưng chỉ sau vài ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn
rảng ngang ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.
John không hề câu nệ bất cứ việc gì,
từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm niệm lời ông Cool dạy, lúc nào
cũng niềm nở cười tươi. Gặp những người già, anh tận tình đem đồ ăn thức uống
đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân
viên tình nguyện của các tổ chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai
tháng, biết John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà hàng sang
trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện đã ngỏ lời mướn anh.
Ông ta nói với John:
- Anh làm việc không lương mà vẫn
vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ làm tốt hơn thế nữa.
John như không tin vào tai mình, vui
mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được mướn đi làm.
Anh đến vội nhà ông Cool báo tin.
Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:
- Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có
được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông dạy đơn giản như thế lại
thành sự thật. Lãnh lương đầu tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.
Ông Cool hân hoan, giọng điềm đạm từ
tốn:
- Ông thật vui cho cháu, nhưng phải
nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình
bỏ lơ đi một ngày thì sẽ từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc
nào. Điều mầu nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta sống
trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.
Khung cảnh giờ ăn tại nhà thiện nguyện (ảnh minh họa) - Ảnh: H.L
John hỏi:
- Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho
cháu đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?
Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ nhẹ
vào vai anh:
- Được chứ, ông rất vui khi cháu
đến!
Cuộc sống John kể từ đó thuận buồm
xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng, từ
người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh được thuyên chuyển qua
tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng. Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi
tuần và hàng ngày thực hành lời ông dạy.
Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ,
anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài câu xã giao thăm
hỏi, giọng người lạ báo tin:
- Tôi là cháu Thiền sư Sota từ tiểu
bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã qua đời anh ạ. Ông ra
đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di chúc, trong đó có nhờ anh tí
việc.
*
Một ngày mùa xuân, người đàn ông tên
John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông lão dạy thiền nơi
miền Tây bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm đến Vườn quốc gia
Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận ấy, một mình lái xe, John
thả hồn trong cảm xúc nhớ thương ông lão vô biên...
Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ
trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản lý giúp nhận định địa điểm tên
một đỉnh núi trong hơn mấy chục đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên
đỉnh núi cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất
4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi thốt
lên mừng rỡ:
- Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!
Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên
bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm thẳm cả ngàn
mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm tưởng có thể hất văng anh
xuống vực bất cứ lúc nào.
John mở ba-lô lấy hộp đựng tro, anh
quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ cây tùng
mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi hộp mở lá thơ ông Cool để lại,
không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến đây mới được đọc.
John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:
“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta
lang thang đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy xuống vách
núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi - cây tùng bỗng nhiên hiện diện vững vàng
ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu
bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh,
vẫn tươi mát chở che soi bóng cho hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng,
giúp ta bài học nhiệm mầu. Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.
Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm
từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước đức được ông Cool
bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc sống. Còn ông Cool khởi đầu
chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn
đá khác.
Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to
bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không gian lộng gió:
Núi sừng sững cao
Vực thăm thẳm sâu
Gió cuồng điên bạt!
Sấm gầm động vang!
Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng
Soi bóng đời che chở đá cô liêu.
Huyền Lam (Hoa Kỳ)
------------- mk
|
|