Nghe Nhạc Pạm Duy
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Âm nhạc
Forum Discription: Bàn luận về âm nhạc, gồm Ca Nhạc Sỹ hay các lời bài hát.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1352
Ngày in: 16/Nov/2024 lúc 2:23pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Nghe Nhạc Pạm Duy
Người gởi: thonglo2003
Chủ đề: Nghe Nhạc Pạm Duy
Ngày gởi: 19/Dec/2008 lúc 4:22pm
Nghe Online Và Muốn Dowload, Right click at:
", http://saigonline.com/hkn/queviet/resources/nhacviet/phamduy/nhackhangchien2/phamduy_ganhlua_thaithanh.mp3 - click here to play " Select save tảget as...
http://saigonline.com/hkn/queviet/resources/nhacviet/phamduy/ - http://saigonline.com/hkn/queviet/resources/nhacviet/phamduy/
Chúc quý vị mùa Noel Vui Vẻ
|
Trả lời:
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 27/Jan/2013 lúc 11:48am
Nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần lúc 2 giờ 30 trưa nay, Chủ Nhật 27/1/2013, tại bệnh viện 115, Sàigòn.
Hưởng thương thọ 93 tuổi.
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 27/Jan/2013 lúc 11:09pm
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
Ở tuổi 93, nhạc sĩ Phạm Duy ra đi
14h30 chiều 27/1, nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, TP HCM sau 3 ngày nhập viện cấp cứu. Hiện người nhà ông đang làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc sĩ tài hoa về nhà lo an táng. Chăm sóc ông những ngày cuối đời có con trai Duy Cường luôn túc trực cùng với một vài người thân.
Nhạc sĩ nổi danh qua đời chỉ hơn một tháng sau khi con trai cả Duy Quang của ông http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ca-si-duy-quang-qua-doi-tai-my-2404092.html - mất ở tuổi 62 . Trước đó người nhà giấu tin Duy Quang mất vì sợ Phạm Duy buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng khi biết tin, Phạm Duy không quá đau buồn. Ông tâm sự với nữ danh ca Ánh Tuyết, ông biết con trai bệnh và sẽ không qua khỏi nên đã chuẩn bị sẵn tâm thế để đón nhận.
Từ sau năm 1975, ông sang Mỹ sống và định cư. Năm 2005, ông về Việt Nam sống an hưởng tuổi già. Tang lễ nhạc sĩ Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, TP HCM. Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1, lễ động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2013 lúc 8:29pm
Thành Kính Tưởng Niệm NS PHẠM DUY,
một Cây-Đại-Thụ, một Tài-Hoa của nền âm nhạc Việt Nam đã nghìn trùng xa cách
!
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&ved=0CDIQFjAB&url=http%3A%2F%2Famnhac.fm%2Findex.php%2Fnhac%2FP%2F33-pham-duy%2F260-ngan-canh-nhac-1%2F3006-ta-on-doi-tuan-ngoc&ei=TkAHUYScN6-QiQfJv4HADg&usg=AFQjCNFSJ4Hqg9D-nNYBZj8UOYS8WNV98A&bvm=bv.41524429,d.aGc - - - Tuấn Ngọc - Phạm Duy
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=5&cad=rja&ved=0CEsQFjAE&url=http%3A%2F%2Fnhacso.net%2Fnghe-nhac%2Fta-on-doi.X1pRVEJbaw%3D%3D.html&ei=TkAHUYScN6-QiQfJv4HADg&usg=AFQjCNH0WMDdqP1o5QQDJmgIRXWq5pDq4g&bvm=bv.41524429,d.aGc - - - Tuấn Ngọc |
X1pRVEJbaw==, Upload: Tiếng ... - http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=5&cad=rja&ved=0CEsQFjAE&url=http%3A%2F%2Fnhacso.net%2Fnghe-nhac%2Fta-on-doi.X1pRVEJbaw%3D%3D.html&ei=TkAHUYScN6-QiQfJv4HADg&usg=AFQjCNH0WMDdqP1o5QQDJmgIRXWq5pDq4g&bvm=bv.41524429,d.aGc - - Số
3/ Tình
ca Phạm Duy ( PBN 19 )
http://www.youtube.com/watch?v=yzH6VYfItog -
MyKieu
__________________
___________________
http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/532160/ngam-ngui-tien-nguoi-tinh-gia.html -
http://tuoitre.vn/tim-kiem/?by=H%E1%BB%92NG%20H%E1%BA%A0NH - HỒNG HẠNH | 28/01/2013 20:42 (GMT + 7)
TTO - Vẫn là căn phòng ấy, nơi có bức tranh thư
pháp ghi mấy câu thơ của nhà thơ Lưu Trọng Văn: “Về thôi, người tình
già/ Về thôi/ Làm gì có trăm năm mà đợi/Làm gì có kiếp sau mà chờ…”.
>> http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/532101/ca-si-duc-tuan--nhac-ong-khong-he-gia-khong-he-cu.html - Ca sĩ Đức Tuấn: "Nhạc ông không hề già, không hề cũ" >> http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/532013/lang-dong-voi%C2%A0nam-bai-hat-vang-bong-pham-duy.html - Lắng đọng với năm bài hát vang bóng Phạm Duy >> http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/532100/trai-tim-nghe-si-luon-luu-luyen-cuoc-doi%C2%A0.html - Trái tim nghệ sĩ luôn lưu luyến cuộc đời http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/532100/trai-tim-nghe-si-luon-luu-luyen-cuoc-doi%C2%A0.html -
Nhưng giờ đây, người tình già đã về nơi xứ khác, để lại
sau lưng nỗi tiếc thương của gia đình, bè bạn, người yêu thích những ca
khúc của ông.
Hai hôm nay, chỉ có hai người con trai đang ở Việt Nam
là Duy Cường và Duy Đức chạy tới chạy lui lo hậu sự cho bố, những người
anh chị em còn lại sẽ về vào thứ tư.
“Về để đưa bố đi” - Duy Cường nói vậy, trong sự điềm
tĩnh cố hữu nhưng đôi mắt ánh lên nỗi buồn vô hạn. Và khi tiếng loa nhạc
phát lên giọng hát của Duy Quang, anh đã quay mặt đi nơi khác một vài
giây, nói: “Nhớ anh Quang quá” rồi quay lại, tiếp tục câu chuyện với
khách.
Con hẻm nhỏ lặng lẽ đón khách đến viếng. Nhiều vòng hoa
của bạn bè, người hâm mộ, của các ca sĩ, nhạc sĩ, đạo diễn. Có những
người có danh phận, tên tuổi, cũng có những người hâm mộ tự nhận mình
là “vô danh”, họ không ghi tên mình vào danh sách người đến viếng để sau
này gia đình cảm ơn mà chỉ xin phép được cúi đầu rồi đi ngay.
Có người đeo kính ra dáng trí thức, cũng có người chân đất lam lũ, trong túi còn lấp ló xấp vé số…
ội Nhạc sĩ Minh Châu, vừa từ Hà Nvào, đã đến viếng bố
của người bạn quá cố của mình. Anh ngậm ngùi: “Mỗi khi đi ngang cư xá
Chu Mạnh Trinh, tôi vẫn hình dung cảnh anh Duy Quang, chị Thái Hiền và
những người chị em khác đứng trước nhà, nhoẻn miệng cười”.
Như một loại nhạc thần
“Tôi
và Phạm Duy gặp nhau ở tinh thần dân tộc. Phạm Duy trải tinh thần dân
tộc vào các nhạc phẩm của mình, còn tôi khi Việt hóa kinh Phật cũng là ý
ấy. Và tôi nể nhất Phạm Duy ở tinh thần nhạc của ông. Phạm Duy suy nghĩ
về nhạc ngay cả lúc nói chuyện với người khác, và ông có rất nhiều ý
nhạc lạ…”
(Nhà thơ Phạm Thiên Thư)
L.Điền ghi | Nhạc
sĩ Bảo Chấn và nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân góp chuyện bằng giọng nói
nhỏ nhẹ, kể những kỷ niệm của mình với âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy,
hồi nhớ về tâm tình của người đã ra đi…
Bác sĩ Phạm Văn Căn, đại diện dòng họ Phạm ở Việt Nam,
là người đầu tiên ghi trong sổ tang những dòng thương tiếc người con ưu
tú của dòng họ mình. Những người bạn cũ chỉ ghi vỏn vẹn hai dòng: “Bạn
bè thương tiếc anh. Từ nay, mãi mãi”.
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 viết những dòng xót xa nghẹn đắng: “Năm em 20 tuổi, anh đã tin tưởng giao cho em đệm đàn bài Con đường cái quan. Em một đời ghi nhớ sự tin tưởng và tình thương của anh với em”.
Có một vị khách đặc biệt đến viếng nhạc sĩ: Kyo York -
một ca sĩ nghiệp dư người Mỹ hát tiếng Việt: “Kyo là một người nước
ngoài. Những tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy đã lay động lòng tôi. Lần đầu
tiên tôi nghe bài Cây đàn bỏ quên, tôi đã rất rung động. Tôi đã hiểu nhiều điều về văn hóa và con người Việt Nam qua các ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy”.
Còn nhà thơ Phạm Thiên Thư, tác giả phần lời của nhiều ca khúc mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thơ, để lại dòng lục bát: “Anh Phạm Duy ơi/ Buồn buồn tôi hỏi cái tôi/Cái vừa đến, cái đi rồi, lạ nhau”…
Thì thôi, đã có đến ắt có đi, người đã về trên con đường cái quan và người ở lại ngậm ngùi tiễn đưa!
Xin được tạ từ mãi mãi…
Trang Thơ Nhạc tưởng nhớ Nhạc sĩ Phạm Duy
Hôm nay ngày 18 tháng
Chạp
BBC:
Nhạc sĩ Phạm Duy qua
đời
Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc
Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP ************ ở tuổi 93, các nguồn thân
thiết với gia đình ông cho biết.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay
ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông
ra đi trong bệnh viện.
Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim
và từng qua hai lần giải phẫu tim.
Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi
nghẹn ngào: "Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông [Phạm Duy] qua
đời".
"Ông là một trong những nhạc sỹ
đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam."
Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã
kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong
cách hiện đại.
Ông từng nói trong một cuộc phỏng
vấn với BBC: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi
là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản
dị".
"Tôi phải khởi sự sáng tác của
tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam
nữa."
Mới tháng trước, con trai lớn của
nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ.
Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà
qua đời năm 1999.
Tài
năng lớn
Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày
5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn.
Không chỉ là tác giả của một khối
lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình
khảo cứu về âm nhạc có giá trị.
Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc
trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau di cư
vào Nam.
Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt
biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài.
Việc ông trở về Việt Nam định cư năm
2005 đã gây ra nhiều tranh cãi.
Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới
bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10
số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước.
Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ
kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai
đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước.
"Lẽ tất nhiên bổn phận của
chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải
dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến."
"Ngoài những bản nhạc về tình
ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên
truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên
truyền hay không tuyên truyền."
Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa
dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn "vui
buồn" và "trôi nổi" theo vận nước.
(BBC: 27 Jan 2013)
Mới đây Bác có viết mail sau cùng
thăm hỏi và cậy nhờ NNS làm pps "Trường Ca Con Đường Cái Quan" từng
đoạn có lời thuyết minh của Bác. Giờ pps đã xong, thì chợt nghe tin Bác đã ra
đi.
NNS và Thân hữu xin thắp cho Bác một
nén Tâm nhang. Mong Bác siêu thoát nơi cõi Vĩnh Hằng.
Một vài lá thư của Bạn bè NNS gởi đến Bác:
- Được tin Nhạc Sỹ Phạm Duy vừa qua đời tại VN hồi 2.30 H
ngày 27-1-2013,theo thiển ý những chuyện thị phi quanh cuộc đời của Ông
chỉ là chuyện nhỏ, nhưng công của Ông trong việc tạo dựng nền Tân
nhạc Việt Nam và đã cống hiến một gia tài Âm nhạc đồ
sộ để lại cho hậu thế là một công ơn to lớn đối với người Việt bất
kể là trong hoặc ngoài nước. Nhân tin Ông mất tôi xin tỏ một chút
lòng nhớ ơn Nhạc sỹ tài hoa Phạm Duy, một Đại thụ nền tân nhạc VN,
xin vinh danh Ông:
Dẫu gì,
Xin Tạ Ơn Người
Quẳng đi hèn mọn kiếp người
Quẳng đi lời trách tiếng cười thế
gian
Thị phi một thuở tiêu tàn
Ngàn năm còn lại điệu đàn lời ca
Ơn tằm rút ruột tài hoa
Phun châu nhã ngọc chan hòa nước non
Tiếng lòng réo rắc thon von
Chín mươi dư vẫn chưa mòn hiến dâng
Nhạc hùng trổi khúc bao lần
Giục người vì nước nhẹ phần tử sinh
Quê nghèo đau đáu bên mình
Chiến chinh khói lửa điêu linh xót
lòng
Vút vi Tục,Đạo tơ đồng
Ngông nghênh một cõi đục trong mặc
đời
Phạm Duy_ Xin tạ ơn Người
Bóng râm cổ thụ vợi vời giai âm
(Hà Nguyên Lãng)
Kính
nhờ chuyển đến Gia Đình NS Phạm Duy và Tang Quyến.
Nghìn
trùng xa cách, người đã đi rồi
Còn
gì đâu nữa mà khóc với cười
PD
KHÚC PHẠM DUY
Tưởng
nhớ Người Nhạc Sĩ đã đóng góp
cho
nền Âm Nhạc VN
***
Trăm
năm trong cõi đi về
Trần
gian cõi tạm bến mê cuộc đời
Ta
về từ bỏ cuộc chơi
Ôm
trăng đánh giấc bên đồi dạ lan*
Ta
đi từ Ải Nam Quan
Làm
người lữ khách xuôi ngàn ra khơi
Lạng
Sơn mây phủ lưng đồi
Núi
Nàng Tô Thị ngậm ngùi đứng trông
Mẹ
Ta tấm áo nâu sồng
Bên
Cầu Biên Giới đợi mong con về
Ngưa
hồng thả vó đường quê
Bên
Kia Sông Đuống Người Về Đầu Non
Chắp
Tay Hoa tiếng vọng buồn
Đường
Chiều Lá Rụng, Phố Buồn, Tìm Nhau
Mẹ
Quê tóc trắng bạc mầu
Lời
ru của mẹ như câu kinh chiều
Tình
Ca trong tiếng mẹ yêu
Quê
Nghèo vọng tiếng sáo diều ngân vang
Đưa
Em Tìm Động Hoa Vàng*
Cỏ
Hồng lấm gót, Cây Đàn Bỏ Quên
Ngày
Xưa Hoàng Thị là em
Rồi
Đây Anh Sẽ Đưa Em Về nhà
Yêu
là chết ở lòng ta
Giọt
Mưa Trên Lá, Thu Ca Điệu Buồn
Mùa
Thu Chết nắng hoàng hôn
Thiên
Thai Tiếng Sáo gọi hồn Trương Chi
Cô
Hái Mơ mộng xuân thì
Hẹn
Hò, Bên Nớ Bên Ni luống cà
Áo
Anh Sứt Chỉ Đường Tà
Vợ
anh chửa có mẹ già chưa khâu**
Em
Thà Như Giọt Mưa ngâu
Tóc
mai nghìn sợi yêu nhau mấy trùng
Sông
Lô Tiếng Hát Sông Hồng
Nghìn
Trùng Xa Cách cho lòng vấn vương
Tiễn
Em, tóc Dạ Lai Hương
Giọt
Sương Cam Lộ, Con Đường Cái Quan
Trường
Ca Khúc Mẹ Việt Nam
Bầy
Chim Bỏ Xứ chiều vàng trên sông
Kinh
buồn Mộ Khúc biển Đông
Con
Thuyền Viễn Xứ ngược dòng ra khơi
Mênh
mông góc bể chân trời
Tình
Hoài Hương thẫm hồn người ly hương
Mộng
Du, Ngày Tháng Hạ buồn
Thương
Tình Ca gọi quê hương vào lòng
Hương
Ca mơ khúc tương phùng
Đạo
Ca vể với cội lòng cưu mang
Trăm Năm
Bến Cũ xuân tràn
Người
vế ngắm mảnh trăng tan cuối trời.
Mẹ
Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!
(Xuân
Mai)
*
Thơ Phạm Thiên Thư (Phạm Duy phổ nhạc)
**
Thơ Hữu Loan ( Phạm Duy phổ nhạc)
Những
chữ viết hoa trong bài là tên những sáng tác của NS Phạm Duy
- Rất thương tiếc đại nhạc sĩ Phạm
Duy.
Trại
tị nạn năm 1975, gia đình nhạc sĩ Phạm Duy và Khánh Ly có đến Indiantown Gap
trình diễn văn nghệ giúp vui cho người tị nạn. Khi nghe bài "Tình
hoài hương" của nhạc sĩ Phạm Duy, N đã không cầm được nước mắt. Lần
đầu tiên, N đã khóc nức nở vì thương nhớ quê hương. Nếu không nghe được
một bản nhạc tuyệt vời như thế thì làm sao tình yêu quê hương được khơi mở nơi
N., 1 cô bé mới lớn, chỉ sống quanh quẩn ở Sàigòn. N đã cảm thấy được
giải tỏa, không còn ấm ức, N đã khóc ngon lành. Tình yêu quê hương ngọt
ngào, những bài trường ca Mẹ Việt Nam, Mẹ Trùng Dương. Ôi tuyệt vời
quá! Với N, nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những người tài giỏi
nhất! Hãy gác lại những tị hiềm , bỏ đi hết những chê bai, ganh ghét, bỏ
đi hết chính chị, chính em đi. Nhạc sĩ Phạm Duy đã ra đi và
nhạc của ông sẽ sống mãi trong lòng của rất nhiều người Viêt.
N
đã lớn lên trong nhạc của Phạm Duy, nào là Ngày xưa Hoàng thị, nào là Tóc mai
sợi ngắn sợi dài, Phượng Yêu, Ngày trở về, Nghìn trùng xa cách.... N đã cảm
thấy yêu thương quê hương hơn nhờ những bản nhạc của nhạc sĩ Phạm
Duy.
*Thành
thật cảm ơn và biết ơn bác Phạm Duy. Cầu chúc nhạc sĩ Phạm Duy mãi mãi
bình an trong cõi vĩnh hằng. Bác ra đi để lại nhiều tiếc
thương cho rất nhiều người ngưỡng mộ, kính phục và ưu ái Bác, một thiên
tài của đất nước Việt Nam.
Như Nguyệt
Nhạc
sĩ Phạm Duy qua đời. Ông là một trong những nhạc sĩ "cổ thụ"
trong làng âm nhạc Việt Nam. Giờ nầy ông đã ra đi vĩnh viễn. Cá nhân huynh có
mấy dòng thơ tiễn ông - bởi huynh trân trọng thiên tài về Âm nhạc của ông ấy.
Nếu chú cùng cảm nhận như huynh thì quan tâm. Huynh chúc chú sức khỏe! Đón một
mùa xuân!
Huynh
(Trang
Y Hạ)
Bến Thế Gian
Mấy
dòng thơ - tiễn đưa NS Phạm Duy
Tin
ông về đất - than ôi.
gia
tài để lại: nghìn lời... chứa chan
vẫn
còn ai đó thở than
hòa
theo hơi gió: lên ngàn, lên mây
vẫn
còn ai đó so dây
trách
chi - khi một cái thây lạnh rồi!
khen
che chuyện thế gian thôi
ngụy
chân là tự lòng người mà ra
hương
thơm nhân cách bay xa?
chữ
tài, chữ đức - biết là ngang nhau...
cỏ
cây mãi mãi xanh màu
sóng
xô lớp lớp trước sau rì rào
một
vì sao gác cao cao
rong
chơi lạc bước rơi vào đêm hoang
tiếc
tài viết vội mấy hàng
tiễn
hồn rời bến thế gian lên trời.
Đài khí tượng nói đúng: Tuần Lễ này
trời mưa. Nhiều năm như hề chưa tháng Giêng nào buồn vậy!
Mưa từ tối Thứ Bảy. Sáng Chúa Nhật
lê thê. Thêm cái tin Phạm Duy vừa từ trần trong nước…(*)
Mưa lê thê lướt thướt. Mưa buồn như
nhạc mưa…Mưa buồn như bài thơ tôi mở đầu nghèn nghẹn!
Ông Trời không hề hẹn tuần cuối tháng sẽ mưa. Chỉ con người hẹn đò – chuyến đò
đi bến cuối!
Buồn không chân mà đuổi được mưa gió
lê thê! Tiếc…trên đường-trở-về chỉ một người lủi thủi!
Phạm Duy ngừng tiếng nói nhưng nhạc
ông mở ra. Buồn. Nỗi buồn xót xa…Bà-Mẹ-Quê nức nỡ!
Người trở về gậy gõ…lác đác nhịp
quân hành. Lũy tre nửa còn xanh, nửa thì bom đạn xém…
Nhà tôi trong ngõ hẻm. Hẻm buồn…mưa
đang mưa…
Trần Vấn Lệ
(*) Nhạc Sĩ Phạm Duy, vĩnh viễn ở
tuổi 93, vĩnh biệt những người yêu / ghét mình kể từ 2 giờ 30 chiều Chúa Nhật
27 tháng Giêng năm 2013 tại Sài Gòn, Việt Nam.
1945
Nếu tiếng mẹ và lời ru đã ở bên tôi “từ thuở nằm nôi” thì nhạc Phạm Duy cũng đã
gắn liền với đời tôi từ tấm bé. Tôi sinh năm 1937 thì bài hát đầu tiên của Phạm
Duy, “Cô hái mơ,” phổ nhạc thơ Nguyễn Bính, đã có mặt từ 1942. Ký-ức sớm nhất
của tôi về tân-nhạc gắn liền với nhạc sinh-hoạt của tuổi trẻ đầu thập niên 40
của thế-kỷ trước (“Lam-sơn giáng sinh anh-hùng / Tài cao tâm trí lớn lao…” nhạc
Tây lời ta hát theo điệu “Auprès de ma blonde,” rồi “Ngoài kia mưa rơi tí tách
/ Kêu trong đây chúng mình cùng ca / Và ca cho lên cho tươi / Cười mặc cho ông
Trời càng mưa” hay nhạc Hoàng Quý như “Tiếng chim gọi đàn”) nhưng một hơi mới
đã đến với chúng tôi qua những nhạc-bản của Hùng Lân (“Việt Nam minh-châu trời
Đông”), Văn Cao (“Chiến-sĩ Việt Nam,” “Hải-quân Việt Nam” và “Không-quân Việt
Nam” dù như lúc đó ta chưa hề có hai binh-chủng này, và vâng, cả “Tiến-quân-ca”
nữa), Nguyễn Đình Thi (“Diệt Phát-xít”) v.v.
1945, tôi, 8 tuổi, được bố đưa về chữa răng ở thủ-đô, ngẫu-nhiên được
chứng-kiến cuộc “tổng-khởi-nghĩa” và “cách mạng mùa Thu” ở Hà-nội. Tuy còn nhỏ,
tôi nhớ rất rõ là “lực-lượng cách mạng” của Việt-minh lúc bấy giờ không quá mấy
chục ngoe, chia ra làm dăm ba toán lính cầm súng cầm cờ, đi trên mấy cái xe
cam-nhông nhà binh màu cứt ngựa mới tịch-thu được của Nhật, cho xe lượn qua
lượn lại trên các đường phố hô khẩu-hiệu, vẫy cờ để mong cho người ta nhận ra
mình là ai.
Nhưng vì lực-lượng của các đảng phái
Quốc gia, lúc bấy giờ đông hơn nhiều ở Hà-nội, lại án binh bất động nên phần
chủ-động lại về tay Việt-minh – và cuộc cách mạng mấy ngoe kia chẳng mấy lúc
cướp được trí tưởng của người dân. Lúc đầu còn sợ sệt nhưng rồi một đồn mười,
mười đồn trăm, lời đồn đại lan như lửa rừng rằng Việt Nam đã ĐỘC-LẬP, rằng “ta”
đã có chính-quyền, rằng chính-quyền đó ghê gớm lắm, đi ở trong rừng ra, do một
người rất bí-mật cầm đầu, thậm chí đến cái tên của ông ta người dân cũng chưa
nghe thấy bao giờ – ************.(1)
Trong cái say sưa, mà có người gọi
là cái “say men chiến-thắng” (tưởng tượng) của lúc bấy giờ, không lạ là một
không-khí mới, một khí-thế mới phát sinh ra, và trong văn nghệ tự-nhiên như có
một sự bùng nổ tài-năng.(2) Hoàng Cầm trong thơ, Phạm Duy trong nhạc tìm ra
hướng đi thực-sự là vào thời-gian này. Vì ta nên nhớ, Phạm Duy cho đến 45 chủ-yếu
còn là một ca-sĩ đi đó đi đây với ban nhạc của Charlie Miều. Cũng vì ông ưa
hành-động và lang bạt, ông cũng như Nguyễn Bính đã lựa chọn đi vào Nam một đất
nước vô cùng xa lạ với người Bắc thời bấy giờ – trong phong trào gọi là
“Nam-tiến” để tranh đấu trực-diện với quân thù (=Pháp). Nhưng cũng nhờ sự lựa
chọn này mà Phạm Duy đã sớm ý-thức được nhu-cầu có nhạc đấu tranh, nhạc
kháng-chiến, và cũng bởi ông đã đi đây đó trên khắp các miền đất nước (lại một
kinh-nghiệm khá hiếm vào thời-điểm ấy) ông làm quen được với nhiều điệu dân-ca,
dân-nhạc. Hai yếu-tố này (nhạc đấu tranh + làn điệu dân-ca) được Phạm Duy đan
lại để thành “nhạc kháng-chiến” mà có lúc ông gọi là “tân-dân-ca.”
Do tìm ra được hướng đi đúng, hợp
với tâm-khảm của lòng dân vào lúc đó nên dễ hiểu là nhạc kháng-chiến của Phạm
Duy – khác với nhạc “cách mạng” của Văn Cao hay Nguyễn Đình Thi – chẳng mấy lúc
đã lên ngôi để trở thành tiếng nói của dân-tộc trong một thời-đoạn ít nhất cũng
kéo dài 3-4 năm (1945-48). Những bài như “Xuất Quân” (Bà-rịa, 1945), “Chiến Sĩ
Vô Danh” (chiến-khu Nam-bộ, 1945), “Nợ xương máu” (Huế, 1946), “Nhạc Tuổi Xanh”
(1946), “Về Đồng Hoang” (Phú-thọ, 1947), “Đường Về Quê” (Bắc-giang, 1947),
“Khởi Hành” (Tuyên-quang, 1947), “Đường Lạng-sơn” (1947)… trong nháy mắt trở
thành những bài hát ở trên môi cửa miệng của mọi người (kể cả không ít những
người ở trong các thành phố lúc bấy giờ do Pháp chiếm vì chính những bài hát
này lại do những người “dinh tê” mang vào). Bên cạnh những bài nhạc hùng loại
này, Phạm Duy lại còn viết một số tân-dân-ca mềm mại, thiết tha hơn, những bài
ru, bài thương nhớ có nhiều nữ-tính hơn nhưng lại bị những ông cai văn nghệ
(kiểu Tố Hữu) cho là ủy mị, tiểu-tư-sản (“tạch tạch sè”), đó là những bài như
“Nhớ Người Thương Binh” (Vĩnh-yên, 1947), “Dặn Dò” (Bắc-giang, 1947), “Ru Con,”
“Mùa Đông Chiến Sĩ,” “Nhớ Người Ra Đi” (ba bài sau này làm tại Thái-nguyên,
1947), “Tiếng Hát Trên Sông Lô” (Tuyên-quang, 1947), “Nương Chiều” (Lạng-sơn,
1947), rồi đến loạt bài làm trong chiến-dịch Bình-Trị-Thiên (“Bao giờ anh lấy được
đồn Tây” mà sau vào vùng Quốc gia đổi thành “Quê Nghèo,” “Bà mẹ Gio Linh,” “Về
Miền Trung” và “Gánh Lúa” tất cả làm trong năm 1948).
Song cũng vì Phạm Duy là một Phạm
Duy lãng mạn, “nòi tình” dùng theo chữ của Trần Văn Ấn, nên trong cùng
thời-gian ông cũng không bao giờ quên làm nhạc tình, từ “Cây Đàn Bỏ Quên” (Bờ
biển Phan-rang trong Kháng-chiến Nam-bộ, 1945), “Khối tình Trương Chi” (Huế,
1945), “Tình Kỹ Nữ” (Hà-nội, 1946), đến “Bên Cầu Biên Giới” (Lào-cai, 1947),
“Tiếng Đàn Tôi” (Cống-thần, 1947), “Đêm Xuân” (Thanh-hóa, 1948), “Chú Cuội”
(Chợ Neo, 1948), “Cành Hoa Trắng” (Chợ Neo, Thanh-hóa, 1950).
Chỉ cần ngần ấy bài, Phạm Duy cũng
đủ để thành bất tử trong âm-nhạc Việt Nam rồi. Vô vọng, vô vọng thay, những con
người muốn xóa nhòa thành-tích và biểu-tượng số 1 của nhạc kháng-chiến chống
Pháp của Việt Nam! Ta hãy giở những tập nhạc kháng-chiến của Hà-nội in ra sau
này, tự-nhiên ta thấy mất hẳn khúc đầu xuống đến phần tim phổi, chỉ còn có từ
rốn trở xuống, nghĩa là từ khoảng 1948 trở đi với những “Trường Ca Sông Lô” của
Văn Cao hay “Hồng Hà” của Đỗ Nhuận, những bài còn hay, để rồi dần dà suy đồi
xuống thành những bài hát lai căng, hoặc ảnh-hưởng nhạc Tầu Trung-Cộng (tỷ-dụ,
bài “Hò Kéo Pháo,” 1953) hoặc khá thì cũng ảnh-hưởng nhạc Thái (như bài “Giải
Phóng Điện Biên,” 1954).
1965
Biết nhạc Phạm Duy thì từ 45-46 nhưng tôi phải đợi 20 năm mới được gặp ông mặt
đối mặt. Thế không có nghĩa là tôi đã không sống bằng nhạc của ông trong 20 năm
đó. Tôi xin miễn bàn ở đây giai-đoạn cực-kỳ phong phú của âm-nhạc Việt Nam với
ban hợp-ca Thăng Long (gồm Thái Hằng, Thái Thanh, Hoài Trung và Hoài Bắc, một
thời-gian còn có thêm Khánh Ngọc) trong những năm 50 của thế-kỷ 20. Ban Hợp-ca
Thăng Long, mà lúc đầu có tên là Gió Nam, đã chinh-phục Hà-nội như một cơn bão
vì có hai bộ óc sáng-tác lớn ở đằng sau nó, Phạm Duy sau khi đã đi học hòa-âm ở
Pháp về và Phạm Đình Chương (tức Hoài Bắc), chưa kể giọng thiên-phú của Thái
Thanh. Lối hát như Hợp-ca Thăng Long (mà chữ ở trong nước bây giờ gọi là “tốp
ca” nghe chẳng giống ai) cho đến giờ vẫn chưa có ai qua mặt, cũng tựa như lối
trình bầy của The Beatles mà hơn 30 năm sau vẫn chưa có ban nào ăn đứt trong
âm-nhạc pop của Anh-Mỹ.(3) Tôi cũng sẽ không nói gì về những bài tình-tự
dân-tộc như bài “Tình Hoài Hương,” “Bà Mẹ Quê,” “Vợ Chồng Quê” và “Em Bé Quê,”
và nhất là bài “Tình Ca” (“Tôi yêu tiếng nước tôi / Từ khi mới ra đời…”), “Đố
Ai?”, “Hẹn Hò,” “Dân Ca Người Về” (“Me có hay chăng con về?”) hay “Người Trở
Về” mà ông gọi là Dân-ca phát triển, hoặc những tình-ca bất hủ mà ông làm ra
trong cùng thời-gian (thập niên 50) hoặc do ông phổ nhạc Cung Trầm Tưởng. Tôi
cũng sẽ không nhắc đến hai trường-ca chủ-lực của ông – và của âm-nhạc VN thế-kỷ
20 – là “Trường Ca Con Đường Cái Quan” và “Trường Ca Mẹ Việt Nam,” có thể là
gợi hứng từ “Trường Ca Sông Lô” của Văn Cao nhưng qui-mô lớn hơn nhiều.
Dịp tôi gặp ông là dịp ông được Mỹ
mời qua đi một vòng trình diễn ở các đại-học và cộng-đồng lớn ở Mỹ. Trước đó,
tên tuổi của ông tuy chưa được người ta biết đến nhiều ở Hoa-kỳ song những
người để ý đến âm-nhạc Á-đông cũng đã có dịp nghe đến tên ông qua những cuộc đi
nói chuyện về âm-nhạc Việt Nam của G.S. Trần Văn Khê, qua một số bài báo và qua
một hai đĩa hát như hãng Folkways Records cũng đã thu thanh một đôi bài của
ông. Steve Addiss, một nhạc-sĩ dân-ca Mỹ và giờ đây là một giáo-sư về mỹ-thuật
Nhật-bản, cũng đã sang Việt Nam mặc bà ba đen đi một vòng thu thập dân-nhạc
Việt Nam với ông.(4) Rồi ban đồng-ca lớn trên TV, trong chương-trình “Sing
Along With Mitch Miller,” cũng có dịp trình bầy bài “Rain on the Leaves,” tức
“Giọt Mưa Trên Lá,” cho cả hàng triệu người nghe.
Ông đến New York, tôi lúc bấy giờ
còn là một sinh-viên loại “ABD”(5) nên có khá nhiều thời giờ đi lang thang với
ông. Đi cùng với ông lần đó cũng có Steve Addiss, để giới-thiệu và để giúp ông
giải-thích nhạc hay lời của ông khi ông vấp váp. Chứ phần lớn thì sau khi Steve
giới-thiệu, Phạm Duy tìm cách nói thẳng ngay bằng tiếng Anh. Tuy-nhiên, vì
tiếng Anh của ông lúc bấy giờ chưa được như bây giờ nên thỉnh thoảng, như ở New
York University, cũng có màn cười vỡ bụng được vì “ắc-xăng” Tây của ông hay ông
hiểu lầm cách phát âm của một vài từ ngữ tiếng Anh.
Nhưng cười thì cười chứ một khi ông
biểu-diễn, ta lại thấy ngay một Phạm Duy trong đầy đủ cái đam mê, cái tự-chủ,
cái khống-chế sân khấu của ông. Mọi mắt, mọi tai đều dồn về ông dù là ông hát
dân-ca hay nhạc mới nhất của ông lúc bấy giờ: những bài “tâm-ca” về thân-phận
của người Việt Nam trong chiến-tranh, từ những “Để lại cho em này nước non mình
/ Để lại cho em một nước đẹp xinh / Một miền oai linh hiển hách…” (Tâm Ca số 5)
vậy mà bây giờ rách nát, hoang tàn,
“Nhưng em thương anh, thương anh
“Cho súng phải thở dài
“Nhưng em thương anh, thương anh
“Cho tình lên sức sống
“Nhưng em thương anh, thương anh
“Cho lựu đạn im tiếng
“Nhưng em thương anh, thương anh
“Cho đường vũ khí qua tim.”
đến những “Giọt Mưa Trên Lá” (Tâm Ca
số 4) và “Tôi Sẽ Hát To” (Tâm Ca số 2):
“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ
ruộng già
“Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo…
“Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
“Lời tôi xây cho vững tay cầy
“Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy
“Lời ca êm ru giấc ngủ say.
“Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ, vơi dòng lệ nhòa
“Một miền quê, một miền quê tim héo và khô.
“Lời tôi ca khâu vá tình thương…
“Lời hôm qua chắp nối con đường
“Lời hôm nay vương tiếng mẹ buồn
“Lời mai đây cao ngút Trường Sơn.”
Tâm Ca số 7, “Kẻ Thù Ta,” khẳng-định:
“Kẻ thù ta đâu có phải là người
“Giết người đi thì ta ở với ai?”
Mười bài tâm-ca của Phạm Duy là
những bài có thể nói được là “chống chiến-tranh” đầu tiên của Việt Nam, có
trước cả Những Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn. Ông chống trước hết là vì bị
ảnh-hưởng của Phật-giáo, một đạo hòa-bình từ giáo-lý trở đi, song ông cũng
chống vì ông linh-cảm là, với sự tham-gia ồ ạt của người Mỹ, chiến-tranh sẽ còn
leo thang, mở rộng ra không biết đến đâu nữa. Ông đã quá biết người Cộng-sản
(châm-ngôn thời Việt-minh: “Thà giết lầm 9 người còn hơn bỏ sót 1 người!”), giờ
đây lại gặp cái thuyết “body count” (“tính xác chết”) của McNamara thì
chiến-tranh sẽ còn đưa đất nước ta đến chỗ điêu linh bằng chừng nào nữa!
Mặc dầu vậy, đến khi ông về tới Việt
Nam, lập-tức một phong trào nổi lên – do CS giựt dây – cho ông là tay sai của
Mỹ, là bàn tay nối dài của CIA, cho những người như ông và Thích Nhất Hạnh là
“ngụy-hòa.” Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của thầy Nhất
Hạnh bị báo chí miền Bắc gọi là “rắn độc” vì một bài thơ trong đó được Phạm Duy
phổ thành Tâm Ca số 1, “Tôi ước mơ”: “Sáng nay vừa thức dậy / Nghe tin em gục
ngã nơi chiến trường! / Nhưng trong vườn tôi / Vô tình khóm tường vi / Vẫn nở
thêm một đóa… / Tôi vẫn sống! / Tôi vẫn ăn! / Và tôi vẫn thở… Nhưng biết bao
giờ / Tôi mới được nói thẳng / Những điều tôi ước mơ?” Sau này, Nguyễn Trọng
Văn còn gom những loại suy nghĩ độc ác đó thành một cuốn sách, Phạm Duy đã chết
như thế nào? (Sài Gòn, Văn Mới, 1971) Dù như Tạ Tỵ, bạn ông, đã có cuốn sách
rất hay vì công bằng hơn gấp bội, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Phạm Duy cũng không
khỏi nổi sùng và quay ra làm Tục Ca và Vỉa Hè Ca để có dịp chửi thề và xả hơi
một chút (“Sức mấy mà buồn! Buồn ơi! Bỏ đi Tám!”).
1973
Cuối năm 1971, vợ chồng tôi về nước lập ra Viện Đại-học Cửu Long, với ước mơ là
sẽ tạo được ra một lớp trẻ VN tự tin, biết làm việc với nhau (qua các môn học
theo ngành quản-lý) và biết làm truyền-thông đại-chúng (qua các môn học về
truyền-thông). Thời-gian này, tôi có nhiều dịp gặp các nghệ-sĩ của Miền Nam như
Trịnh Công Sơn, Phan Nhật Nam, Cao Tiêu, và nhất là nối lại sự quen biết với
Phạm Duy.
Khoảng cuối năm 72 hay đầu năm 73,
tôi không còn nhớ rõ, nhạc-sĩ dân-ca James Durst được Phòng Thông tin Mỹ bảo
trợ sang Việt Nam trong chương-trình trao đổi nghệ-sĩ với VNCH. Chỉ nhớ là
khoảng ấy, tôi cũng vừa tiếp tay Phạm Duy xong trong việc dịch tập Hoan Ca
(“Songs of Joy”) của ông, dịch lấy ý thôi chứ không nhắm làm thành những lời
hát được (English singing versions). Tập đó, in đầu năm 1973 ở Sài Gòn, gồm 10
bài “Bình Ca” (nói về hòa-bình giả hay hòa-bình mong manh sau Hiệp-định Paris),
4 bài “Nữ Ca” tuyệt diệu (“Tuổi Mộng Mơ,” “Tuổi Ngọc,” “Tuổi Hồng” và “Tuổi
Thần Tiên”) và 2 bài “Đồng Dao” xuất sắc (“Chú bé bắt được con công” và “Ông
trăng xuống chơi”). James Durst dựa vào những bản dịch ý của tôi để biến một số
bài thành những bài hát được, rất tự-nhiên trong tiếng Anh. Những bài này sau
đó được đưa vào một tập nhạc chung, nửa của James Durst, lời Việt do Phạm Duy,
và nửa của Phạm Duy, lời Anh do James Durst, do Hội Việt-Mỹ in ra ở Sài Gòn.
Trong số này, có mấy bài mà giờ đây ta có thể coi được là những bài hát của
Việt Nam mà hát được trong tiếng Anh, qua những lời Anh tuyệt diệu (như bài
“Trả Lại Em Yêu” hay “Em Bé Bắt Dế”).
Cũng khoảng này, tôi viết một số bài
giới-thiệu nhạc Phạm Duy trong bản tin tiếng Anh hàng tháng của Hiệp-hội
Bang-giao Quốc-tế của Việt Nam. Bài ưng ý nhất của tôi có lẽ là bài tôi viết để
giới-thiệu tập Đạo Ca của Phạm Duy phổ nhạc thơ Phật của Phạm Thiên Thư, bài
“The Holeless Flute” (dịch ý câu “Sáo thần không cần lỗ / Vi vu trong lòng
người”).
Cũng thời-gian này, qua sự vận-động
của Phạm Duy, chính-phủ miền Nam bằng lòng để cho G.S. Trần Văn Khê về thăm
Việt Nam và diễn-thuyết một số buổi ở Viện Quốc Gia Ấm Nhạc, ở Hội Việt-Mỹ v.v.
Ông Khê, dù như có tiếng là thân Cộng, vẫn thu hút được một số khán-thính-giả
đáng kể nhờ sự hiểu biết chuyên-môn thượng thừa của ông. (Thật đáng tiếc là
ngay trong chiến-tranh, ông Khê về Sài Gòn được đón tiếp rất nồng nàn vì người
ta quý một tài-năng của VN, trong khi đó mười mấy năm sau, ông sang Montréal
thì lại có người dọa đốt tiệm ăn nơi ông được mời đến nói chuyện.) Nhân dịp
này, tôi được mời đến nhà ông Phạm Duy ở Phú-nhuận, và đây là lần đầu tiên tôi
được gặp bà Phạm Duy (ca-sĩ Thái Hằng, lúc đó đã giải nghệ) và các con ông, tuy
chỉ là thoáng qua.
1975
Những ngày tháng Tư (mà về sau Phạm Duy gọi là “Tháng Tư Đen”), người Mỹ vì lo
cho số phận của những văn-nghệ-sĩ hàng đầu của miền Nam đã tìm cách thu xếp để
đưa một số người ra khỏi VN, để tránh những giờ phút mà Sài Gòn có thể ngập bom
đạn. Vì Phạm Duy được xem là nằm trong “diện” này nên người ta nhờ tôi đến thu
xếp với ông để có thể đưa gia-đình ông đi. Ông nhận lời nhưng đến lúc người ta
đến “bốc” bốn người con trai của ông bị kẹt lại trong trại lính vì lúc bấy giờ
có lệnh giới-nghiêm 100%. Ông đã không định đi nhưng rồi bị người ta hối thúc,
với lời hứa là sẽ cho người đi tìm mấy người con trai rồi đưa đi sau. Thành
thử, cuối cùng, ông bà chỉ đi được với mấy người con gái, lúc đó còn nhỏ, mà
thôi.
Đến Guam, ông sục sạo đi tìm con,
cho réo tên trên radio, cho đăng mục tìm người trên báo Chân Trời Mới, báo của
trại Orote Point, nhưng vô vọng. Chúng tôi gặp lại ông ở trại Eglin Air Force
Base, Florida, ông nói, ông như một người điên, quay ra trách móc ngay người
bạn Mỹ đã bốc gia-đình ông – làm như họ đã dụng tâm chia rẽ ông bà và các con
trai của họ. Trong sâu thẳm của tuyệt vọng đó, Phạm Duy nghĩ, ông vẫn phải sống
vì chỉ có thế ông mới còn hy-vọng, dù mong manh, tìm lại được con.
Từ vực thẳm của những ngày xa xứ đó,
ông đứng dậy. Ông xua đuổi ý-tưởng tìm cách trở về để được đoàn-tụ với các con,
dù phải sống với Cộng-sản. Ông nhận ra trại với một người bạn Mỹ đứng tên
xì-pông-xo cho gia-đình ông. Và ông nhất quyết dựng lại cuộc đời ở tuổi 50 hơn.
Ông nhìn lại: từ một gia-đình quây quần hạnh phúc, trai gái đầy đủ, ông chỉ còn
lại có Thái Hằng và mấy người con gái còn ở tuổi choai choai. Mặc dầu vậy, ngay
từ đầu ông không muốn phải dựa lâu vào người xì-pông-xo Mỹ, ngay từ những ngày
sớm sủa đó ông đã nhất quyết tự-lập – bằng mọi giá. Ông đứng dậy bằng con đường
cầm ca, cái nghiệp của ông, với sự tiếp tay của Thái Hằng, người vợ hiền từ dù
như đã giải nghệ từ lâu, và của cô con gái lớn trong gia-đình, Thái Hiền, lúc
bấy giờ mới chừng 15-16 tuổi, còn đang học trung-học. Phải mấy năm sau, ban
nhạc “Gia Đình Phạm Duy” mới có thêm Thái Thảo.
Thế là từ một Phạm Duy sáng-tác, ông
trở lại một Phạm Duy ca-sĩ – một nghề ông đã bỏ từ lâu. Thái Hằng cũng vậy.
Người ta có thể tưởng về một đôi ca-sĩ về già, kiểu La Strada, tiếng hát tiếng
đàn rệu rạo, lạc điệu. Nhưng không! Phạm Duy đứng thẳng dậy, với sự yểm-trợ
tinh-thần của người vợ thân quý(6) và sự cộng-tác hết mình của con gái, một
bông hoa mới nở nhụy, Thái Hiền mà giọng hát trẻ, khỏe chả mấy lúc được báo chí
Mỹ so sánh với giọng Karen Carpenter.
Phải mất ba năm, người ta mới thấy
Phạm Duy sáng-tác trở lại, lúc đầu còn dùng một tên giả, Đỗ Quyên. Năm 1977-78,
tôi và một số bạn ở Virginia có thuê nguyên một cái trường tiểu-học ở Arlington
dùng làm Trung-tâm Cộng-đồng. Nhân dịp này, chúng tôi có mời “Gia Đình Phạm
Duy” về hát cho đồng-bào nghe – một hình ảnh mà ta sẽ còn thấy được nhân lên cả
chục, cả trăm lần trong những năm sau đó, ở Hoa-kỳ đã đành nhưng còn ở khắp
thế-giới, nơi nào có đông người Việt Nam tề tựu. Ông và gia-đình ông không chỉ
đem tiếng hát đến cho mọi người, ông còn đem lại cả niềm tin nữa.
Đó là những năm “thuyền-nhân” ồ ạt
ra đi, rời bỏ Việt Nam, rời bỏ “thiên-đường CS, thiên-đường xã-hội-chủ-nghĩa”
ra đi hàng hàng lớp lớp (“Một là chết nuôi cá, hai là sống nuôi má, ba là má
nuôi con” nếu con phải bị bắt bỏ tù trên đường vượt biên). Lúc đầu còn nhỏ,
phong trào này chẳng mấy lúc lên đến hàng vạn, hàng trăm nghìn người ra đi
trong một năm làm cho cả thế-giới sửng sốt.(7)
1985
Vì sự thôi thúc của thời-cuộc cũng có, của nhu-cầu phải có những bài hát mới
trên đường rong ca tỵ nạn, phản ánh một tâm-thức mới, nên Phạm Duy đã lấy lại
được niềm tin và sản-phẩm là tập Thấm Thoắt Mười Năm mà Hội Văn-hóa Việt-nam
tại Bắc-Mỹ, Tủ sách Cành Nam, và Tạp chí Xác Định có hân hạnh in ra năm 1985 –
cuốn sách mà Phạm Duy vung lên khi ra mắt ở Virginia và tuyên-bố: “Cuốn sách
nhạc đẹp nhất trong đời tôi!” (tính đến lúc bấy giờ, hiển-nhiên rồi). (Hội
Văn-hóa là do tôi phụ-trách, Cành Nam là của nhà thơ Trương Anh Thụy, và nhóm
Xác Định là của anh Đặng Đình Khiết, về sau nhập lại thành Tổ Hợp Xuất Bản Miền
Đông Hoa Kỳ.)
Trước đó, cuối năm 1982, Phạm Duy đã
có dịp phổ nhạc thơ Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu in ra một tập 10 bài
“Ngục Ca” rồi đến Hội Văn-hóa VN tại Bắc-Mỹ của tôi in ra thành tập 20 bài
“Ngục Ca” với lời Anh hát được theo nhạc của Phạm Duy, xong Quê Mẹ của Võ Văn
Ái ở Pháp in ra thành một tập ba thứ tiếng (Việt-Pháp-Anh) với bản dịch nghĩa
sang tiếng Anh của Ỷ Lan Penelope Faulkner. Cuốn “Ngục Ca” của tôi in ra, về
sau tới năm 1996 khi tôi có dịp sang Úc đi một vòng với nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện, tôi mới hay là ở Úc trước đó đã có bản in lậu lại tập của Hội Văn-hóa.
Cũng năm 96, vì bản in lậu kia cũng đã tuyệt bản nên các anh em sinh-viên VN ở
Victoria (tức Melbourne) đã xin phép tôi in lại một edition chớp nhoáng nữa (dù
vẫn rất xinh). Đủ tỏ sự thành công dai dẳng của tập nhạc này.
Tôi hơi tiếc là “tập nhạc đẹp nhất
trong đời” Phạm Duy, tuy bán hết sau một thời-gian, đã không được người ta biết
đến nhiều như một số nhạc-phẩm khác của ông. Có thể là vì hoàn-cảnh đất nước và
lòng người đổi thay nhanh chóng nên dù tập nhạc, theo tôi, có không ít những
bài sâu sắc nhất trong toàn-bộ sự-nghiệp sáng-tác của Phạm Duy, những bài mà
chắc chắn rồi đây sẽ được coi là những đỉnh cao của âm-nhạc VN một thời, nó vẫn
không được người ta biết đến một cách đầy đủ. Trong sa-mạc sáng-tác âm-nhạc VN
của những năm ấy (giai-đoạn 1975-85), 20 bài Ngục Ca và gần 50 bài của tập Thấm
Thoắt Mười Năm phải kể là những hòn ngọc báu trân quý của tâm-thức VN thời bấy
giờ. Rồi đây, ai có thể viết nổi lịch-sử âm-nhạc VN của 10 năm ấy – cả trong
lẫn ngoài nước – mà không nhắc đến những bài như “1954 Cha Bỏ Quê – 1975 Con Bỏ
Nước,” “Hát Trên Đường Tạm Dung,” “Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh,”
“Người Con Gái Việt Rời Xa Tổ Quốc,” hay “Nguyên Vẹn Hình Hài” – Không nhắc đến
những bài tranh đấu cho nhân-quyền lừng danh một thời như “Tháng Tư Đen” hay
“Người Việt Cao Quý” – Không nhắc đến những bài hát tâm-khảm như “Thư Em Đến”
hay “Mai Mốt Ông Về” (phổ nhạc thơ Cao Tần) – Không nhắc đến những bài phổ nhạc
thơ Hoàng Cầm như “Qua Vườn Ồi,” “Cỗ Bài Tam Cúc,” “Hoàng Cầm Ca” và nhất là
bài “Lá Diêu Bông” – Tất cả, tất cả đều nằm trong Thấm Thoắt Mười Năm.
Nhưng rồi, vật đổi sao dời. 1985,
Gorbachev đưa ra chính-sách Glasnost và Perestroika ở Nga, dẫn đến sự sụp đổ
của Đông-Ấu Cộng-sản, rồi đến ngay cả sự đổ vỡ của Liên-bang Xô-viết. Người CS
Việt Nam xem đó là “tội” không thể tha thứ được của Gorbi nhưng thực ra, đó
chẳng qua là một tiến-trình không thể kìm hãm được của thế-giới CS và Gorbi đã
có công trông ra để làm cho sự chuyển đổi căn-bản của cả một xã-hội, hơn thế
nữa, của cả một thế-giới xã-hội-chủ-nghĩa không xảy ra trong chiến-tranh tan
hoang, đổ vỡ, tắm máu. 1986, cực chẳng đã, VNCS theo chân với chính-sách Đổi
Mới. 1989, Hà-nội rút quân khỏi Cao-miên, dẫn đến sự làm hòa với các nước ASEAN
và Trung-Cộng. 1994, Mỹ bãi bỏ cấm vận, 1995 Mỹ nối lại bang-giao và Hà-nội vào
ASEAN. Một sự chuyển mình căn-bản không kém ở Liên-Xô nên ngày nay, người ta
nói không sai, không còn gì và ai là Cộng-sản ở VN nữa mà chỉ còn những tên
mafia đỏ.
2000
Từ đó, từ 1985, bao nhiêu nước qua cầu. Cũng từ đó, với bốn người con trai rời
bỏ được VN để sang Mỹ đoàn-tụ với ông và Thái Hằng, Phạm Duy đã sang hẳn được
một giai-đoạn bộc-phá mới về sáng-tác của ông. Sau Hoàng Cầm Ca (cũng do Hội
Văn-hóa VN tại Bắc-Mỹ in ra), ông đã chuyển sang nhạc lịch sử (với “Tổ khúc Bầy
Chim Bỏ Xứ” tiếp nối câu chuyện bắt đầu với “Con Đường Cái Quan” và “Mẹ Việt
Nam”), sang nhạc tâm-linh (với “Thiền Ca” và nhất là “Trường Ca Hàn Mặc Tử”),
sang “rong ca” hát cho thế-kỷ 21 và thiên-niên-kỷ thứ III của nhân-loại, sang
“Minh Họa Kiều” (mà ông đã hoàn-tất phần 1 và 2, còn thiếu 3 và 4). Nghĩa là
ông đã đi nguyên một vòng để trở về với tâm-khảm Việt Nam như được kết tinh
trong Truyện Kiều, đại-tác-phẩm của Việt Nam. Trong hơn 20 năm qua, ông lại còn
được sự tiếp tay rất điệu nghệ và chuyên-nghiệp của Duy Cường, người con mà ông
cho là có nhiều khả-năng tiếp nối ông hơn cả.
Trong mỗi bước đường đi của ông
trong 27 năm qua, tôi hãnh-diện là một người nghe, người thụ hưởng, người đã
tiếp tay – trong phần nhỏ bé của mình – đem tiếng nhạc lời ca của ông đến với
một số đồng-bào ở miền Đông Hoa-kỳ và, qua những tác-phẩm in, đưa được thông-điệp
của một nhạc-sĩ thiên-tài đến khắp năm châu và với thế-giới (qua những bản
dịch, bài giới-thiệu và nhất là những bài hát được bằng lời tiếng Anh –
“English singing versions”). Phạm Duy chưa được xem là một nhạc-sĩ lớn của
thế-giới chỉ vì ông hãy còn thiếu người trình diễn nhạc của ông trong các
tiếng, nhất là tiếng Anh. Tuy-nhiên, chỉ với một số ít nhạc-bản của ông đã được
những tiếng hát như Steve Addiss trình bầy ở Mỹ, James Durst và Ferne Bork sang
cả tận bên Nga để trình diễn, không kể ban đồng-ca lớn Mitch Miller, và nhạc
của ông ngày càng nhiều nhà nhạc-học trên thế-giới nghiên cứu, tôi đoán là một
ngày sẽ không xa khi nhạc và tài-năng của ông cũng sẽ được công-nhận rộng rãi.
Tạ Tỵ đã có lần viết: “Phạm Duy, hai chữ đó là tên gọi, kỳ lạ thay, cũng là
huyền thoại ngay trong thời gian có Duy góp mặt.”
Anh Phạm Duy, chào anh ở tuổi 80, em
rất vui đã được học, hát, đi và chia xẻ với một huyền-thoại sống là anh!
Nguyễn Ngọc Bích
Springfield, VA
Chú thích:
1. Trong cái hồ hởi của giờ phút ấy,
người ta quên khuấy đi mất là Nhật đã đầu hàng nên đâu còn lòng dạ nào mà đi
dẹp phường múa rối kia, rằng chính vua Bảo Đại đã tuyên-bố độc-lập sáu tháng
trước đó, và rằng chính-phủ Trần Trọng Kim là chính-phủ đầu tiên của một nước
Việt Nam độc-lập với một thành-phần nội-các gồm nhiều trí-thức có đầu óc và nắm
vững chuyên-môn. Ông Hoàng Xuân Hãn, chẳng hạn, là bộ-trưởng Giáo-dục đầu tiên
của Việt Nam và chương-trình cải cách giáo-dục của ông đưa ra là khi ông còn
trong nội-các Trần Trọng Kim.
2. Trong lúc nhạc-bản còn thiếu,
người ta chuyển ngay những cái sẵn có trong tay thành nhạc mới: đó là
trường-hợp bài “Appel aux étudiants” của Lưu Hữu Phước, lời Pháp dùng để hát
cho tất cả các sinh-viên của ba nước Đông-dương Việt-Miên-Lào, đã gần như trong
nháy mắt được các sinh-viên ở Đại-học-xá Hà-nội đổi lời để biến thành bài
“Tiếng gọi Thanh-niên” rồi về sau, bài này năm 1948 lại được sửa lời một lần
nữa thành bài “Tiếng gọi Công-dân” và biến thành quốc-ca của Quốc-gia Việt Nam
rồi của miền Nam sau năm 54.
3. Điều này làm tôi suy nghĩ, một
người nào đó sẽ có công lớn lắm nếu bây giờ có thể thu thập được lại toàn-bộ
những bài do ban Hợp-ca Thăng Long trình bầy, vì đó là một điểm cao vòi vọi của
nghệ-thuật trình bầy âm-nhạc Việt Nam. Nhóm AVT nguyên-thủy cũng vậy.
4. Chuyến đi này có được ghi lại
trong một cuốn phim tài-liệu mang tên “Rain on the Leaves,” phim đen trắng, 17
phút, 1966, có được giới-thiệu trong Emb***y of Viet-Nam 1970-71 Film List,
Washington DC, 1971, trang 28. Steve Addiss, nếu tôi không nhầm, sẽ là người
đầu tiên chuyển một số bài hát của Phạm Duy thành những lời hát được trong
tiếng Anh, đôi khi rất thành công như bài “Gánh Lúa” hay bài “Giọt Mưa Trên
Lá.” Mấy bài này về sau được đưa vào tuyển-tập nhạc thế-giới của sinh-viên Mỹ ở
UCLA. Ông cũng còn làm chung với Phạm Duy một cuốn sách nhỏ, cuốn Dân Ca, in ra
ở Sài Gòn năm 1968, trong đó ông hoặc làm lời Anh hoặc dịch ý những bài hát
trong sách.
5. Nghĩa là sinh-viên cao-học đã học
xong hết các tín-chỉ ban Tiến-sĩ ở Columbia University, đã thi xong “prelims”
tức “preliminary examinations,” thi viết, và “oral exams,” thi vấn đáp trước
một ban giám-khảo sáu người, đã được học-bổng sang Nhật gần 2 năm tìm tài-liệu
viết luận-án, và chỉ còn chờ hoàn-tất luận-án, “all but the dissertation.”
6. Đặng Trần Vận, người nghệ-sĩ đa
tài, người đã dựng ra Phòng trà Thiên Thai ở Hà-nội năm 45-46, trước khi chết
đã nói với tôi ở Paris một câu chí lý: “Thằng PD được con vợ, chị ta biết hết
nhưng để cho anh ta tự do, nhờ vậy dân-tộc có được một nhạc-sĩ lớn!” Một bài học
rất lớn cho những chế-độ nào còn thua cả một người như Thái Hằng, tìm cách “cầm
chân” hay nói đúng hơn là “cầm tù” các văn-nghệ-sĩ của dân-tộc và đất nước.
7. Số người “nuôi cá” không trong
những năm này cũng lên đến gần nửa triệu, theo sự ước-tính của Cao-ủy Tỵ nạn
Liên-hiệp-quốc.
1. Nhạc:
Tạ
Ơn Đời
Nhạc: Phạm Duy
Tiếng hát: Tuấn Ngọc
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2013 lúc 11:04pm
5 nhạc phẩm bất hủ của nhạc sỹ Phạm Duy
Thứ hai 28/01/2013 06:11 (GDVN)
- Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời đã để lại lượng ca khúc đồ sộ với nhiều tác
phẩm nổi tiếng, trong đó có 5 nhạc phẩm nổi tiếng không thể nào quên. http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/Nhac/Nhac-si-Pham-Duy-qua-doi-o-tuoi-92/272114.gd - Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời ở tuổi 92
- http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/Nhac/Nhung-ca-khuc-bat-hu-cua-nhac-si-Hoang-Hiep-P2/267381.gd - Những ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Hoàng Hiệp
(P2)
- http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/Nhac/Nhac-si-Nho-ve-Ha-Noi-qua-doi/267083.gd - Nhạc sĩ
'Nhớ về Hà Nội' qua đời
Nói
về cố nhạc sỹ tài
hoa Phạm Duy, ca sỹ Cẩm Vân đã chia sẻ: “Chỉ cần nhìn vào gia tài hàng
nghìn sáng tác của ông, mà phần lớn đều hay, đều đi vào lòng người nhờ
vào sự hòa quyện giữa nét hiện đại và truyền thống, mới thấy được sức
làm việc đáng nể cũng như sự đóng góp rất lớn của ông cho âm nhạc Việt.”
1. Tình ca
“Tình
ca” là ca khúc được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1952. Bài hát mang
đậm nét dân ca từng được các giọng ca Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương
thể hiện thành
công. Nhạc phẩm "Tình ca” nói lên tình quê hương đất nước của một người
con đất Việt. Bài hát được yêu thích vì ca từ giản dị chân thành, tha
thiết: "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru
những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời".
2. Bà mẹ Gio Linh Bà
mẹ Gio Linh được Phạm Duy sáng tác năm 1948. Bà mẹ Gio Linh trong bài
hát
của ông nói về những người mẹ có thật ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện
Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Theo hồi ký của Phạm Duy, trong một lần công
tác về vùng đó, ông được nghe kể chuyện bà mẹ có người con trai đi lính,
bị giặc bắt chém đầu bêu ra ở chợ, không ai dám lại gần duy chỉ có
người mẹ mang thúng tới lấy đầu con đem về mai táng. Nghe xong câu
chuyện, ông ghi lại thành ca khúc.
3. Áo anh sứt chỉ đường tà Ca
khúc “Áo anh sứt chỉ đường tà” được Phạm Duy phổ
nhạc từ bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan. Với
tiết tấu mang đầy chất kĩ thuật, rất uyển chuyển phong phú...bài hát đã
phác thảo lại một cách sống động bức tranh Việt chân thực về tình yêu
người chiến sĩ, tình cảm người hậu phương trong cuộc kháng chiến chống
thực dân xâm lược.
4. Đưa em tìm động hoa vàng “Đưa
em tìm động hoa vàng” là bài hát được nhạc sỹ
Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ “Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư. Bài
hát nói lên tình yêu không nhuốm chút tục lụy nào mà đầy vẻ thanh khiết,
và “tâm linh”. “Nhớ xưa em rũ tóc thề/Nhìn trăng sao nỡ để lời thề
bay/Đợi nhau tàn cuộc hoa này/Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ”…
5. Nghìn trùng xa cách“Nghìn
trùng xa cách” là một trong những tình khúc hay nhất của nhạc sĩ Phạm
Duy. Tác giả từng chia sẻ về ca khúc “Mình viết bài này là để tặng cho
một người tình trước khi cô ấy lên xe hoa, cô trẻ hơn mình đến hơn
10 tuổi, lúc mình 28 tuổi cô ấy mới 16 tuổi”. Trong bài hát còn nhắc
tới những kỷ vật mà nàng đã tặng ông: “Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt
màu, có lũ kỷ niệm trước sau: Vài cánh xương hoa, nằm ép trong thư, rồi
cũng tan như bụi mờ. Vạt tóc nâu khô, còn chút thơm tho, thả gió bay đi
mịt mù…”. http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/5-nhac-pham-bat-hu-cua-nhac-sy-Pham-Duy/272158.gd#comments - BẤM XEM TẤT
CẢ BÌNH LUẬN HAY Thùy Linh
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Feb/2013 lúc 10:21pm
Phạm Duy, những cuộc hạnh ngộ
http://chauxuannguyenblog.files.wordpress.com/2013/02/personalities_bright_phe1baa1m-duy.jpg">
Nhạc sỹ Phạm Duy
1921 – 2013
Một trong những ghi chép cuối đời của cố nhạc sỹ Phạm Duy là về một số cuộc gặp gỡ đáng kể trên đường đời của ông.
Ghi chép mang tên ‘Những Cuộc Hạnh Ngộ’ được một người bạn thân của nhạc sỹ chia sẻ với BBC và đây là bản đã được rút ngắn.
Ảnh trong bài do chính nhạc sỹ sưu tầm trong khi một số tựa đề phụ do BBC đặt.
Bài viết có hai phần gồm phần
một dưới đây và quý vị có thể nhắp chuột vào tựa đề ‘Gặp cựu TT Võ Văn
Kiệt và những người khác’ ở phía bên tay phải của phần một để đọc phần
hai.
Phạm Duy qua đời tại Bệnh viện
115 ở thành phố ************ hôm 27/1, hưởng thọ 92 tuổi và được an táng
tại nghĩa trang Công viên Bình Dương hôm 3/2/2013.
Gặp Vua Bảo Đại và các cuộc gặp trước năm 75
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203015427_vuabaodaiedit.jpg"> Phạm Duy gặp Vua Bảo Đại khi mới ngoài 20
Khi đi hát ở Phan Rang vào năm
1944, có một hôm bỗng có xe hơi của ông tỉnh trưởng Phan Rang là Nguyễn
Duy Quang tới rạp hát để đón tôi vào Dinh, giữa sự ngạc nhiên của nhân
viên đoàn hát.
Vào trong dinh tôi mới biết là
có ông Bảo Đại đang ngồi ở đó. Ông thường trị vì tại Đà Lạt và đi bắn ở
trong rừng nhiều hơn là ngồi trên ngai vàng tại Huế.
Hôm nay ông từ một vùng săn bắn nào đó xuống chơi thành phố Phan Rang và nghỉ ngơi trong Dinh Tỉnh Trưởng.
Tôi đã biết tới sự yêu nhạc của
ông vua khi thấy ông đem người con trai của Thượng Thư Phạm Quỳnh là
Phạm Bích vào làm bí thư riêng chỉ vì anh này đánh đàn guitare rất giỏi.
Đã không còn coi đối tượng là
quan trọng nữa, đã chủ trương khi cất lên tiếng hát là hát cho mình
nhiều hơn là hát cho người, nên tôi chẳng có một mặc cảm nào khi ngồi ôm
đàn hát cho ông vua nghe.
Ông Bảo Đại, rất lịch sự, rất
nhã nhặn, sau khi nghe hát xong, ngồi mời tôi ăn bánh ngọt và nói chuyện
với tôi bằng tiếng Pháp. Hỏi tôi học nhạc ở đâu ? Từ bao giờ ? Hơi ngạc
nhiên khi thấy tôi trả lời là chẳng học ai cả !
Hỏi thăm về ông Khiêm, về gia
đình tôi. Một ông vua yêu nghệ thuật như vậy chắc chắn là đằng sau cặp
kính đen mà ông thường đeo, có ẩn nấp một đôi mắt nhân từ.
Ừ, đúng như vậy, trải qua bao
nhiêu biến thiên của lịch sử, có nhiều kẻ quai mồm ra phê bình Bảo Đại
là thế này thế nọ, nhưng tôi chưa thấy ai dám nói ông ta đã bỏ tù hay đã
giết một người Việt Nam.
Trong khi qua vài ba cuộc Cách
Mạng trên thế giới, có biết bao nhiêu người đã bị thủ tiêu hay bị cầm tù
bởi những nhà lãnh đạo mệnh danh là yêu nước thương nòi…
Xong buổi hát ”vo” (theo tiếng
nhà nghề là : hát không lấy tiền) khi tôi ra về, tỉnh trưởng Nguyễn Duy
Quang tiễn tôi ra cửa, rất tế nhị, tay cầm sẵn một gói quà là 5 thước
vải phin rất tốt để tặng anh ca sĩ trẻ tuổi.
Với số vải này, tôi may được hai
cái áo sơ-mi, một cái mặc cho tới khi rách, một cái sẽ tặng anh bạn thi
sĩ Nguyễn Bính khi gặp anh ở Saigon một vài tháng sau để anh bán lấy
tiền vào nằm tiệm hút.
Về tới rạp và khoe là vừa hát cho vua nghe, cả gánh hát lắc đầu lè lưỡi thán phục…
Với một nghệ sĩ hát rong mới 20 tuổi, được gặp một vị hoàng đế, thật là một hạnh ngộ.
Các chính trị gia Việt Nam Cộng hòa
Tôi được gặp ông Diệm và chỉ nói
chuyện gia đình vì anh Khiêm của tôi lúc đó là Bộ Trưởng, sau đó là Đại
Sứ trong chính phủ của ông,
Tới khi có chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu vì tôi là Phó Giám Đốc Đài Truyền Hình nên thỉnh thoảng tôi có
tiếp đón ông mỗi khi ông tới thu hình.
Riêng Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ thì luôn luôn gặp tôi tại tư gia tướng Lansdale để sinh hoạt văn nghệ tiêu khiển.
Các văn nghệ sỹ Mỹ
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203020427_johnsteinbeckedit.jpg"> John Steinbeck đến Sài Gòn để gặp con trai và nhờ vậy Phạm Duy được gặp mặt
Cũng tại tư gia tướng Lansdale,
tôi được gặp văn hào John Steinbeck khi ông qua VN để thăm người con
đang là đệ tử của ông Đạo Dừa.
John Ernst Steinbeck III (1902–
1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã
miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh
đất của mình để sinh tồn.
Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang
của John Steinbeck là cuốn Of Mice and Men (1937), dựng nên một câu
chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất
cho riêng mình để canh tác.
Tác phẩm được đánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath
(1939; đoạt giải Pulitzer năm1940), dựng nên câu chuyện của gia đình
Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bangOklahoma, phải
chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên
1930.
Quyển tiểu thuyết gây nhiều
tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực
mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm
kinh điển trong nền văn học Mỹ.
Là một trong những “tượng đài”
văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm
lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức.
Dù những nhân vật của ông thường
bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những
con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục.
John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962.
Trong những đêm họp mặt để “hát với nhau” như thế, Đại Sứ Cabot Lodge cũng cởi áo veste ra để hát.
Tôi cũng có dịp gặp các nghệ sĩ nổi danh như Pete Seeger, ông vua dân ca Hoa Kỳ :
Peter Seeger (sinh ngày 3 tháng 5
năm 1919), còn được biết đến với tên Pete Seeger, là một nhạc sĩ, ca sĩ
nhạc đồng quê và là nhà hoạt động chính trị.
Ông cũng là thành viên của the
Weavers, tuy nhiên cũng đã sáng tác nhiều bài hát, trong đó có một bản
thu âm “Goodnight Irene” đã đứng đầu bảng xếp hạng trong vòng 13 tuần
vào năm 1950.
Ông cũng là cựu thành viên của
Đảng Cộng sản Mỹ và là người có công lao đóng góp chính cho nền âm nhạc
dân gian và là người tiên phong trong phong trào âm nhạc phản chiến
trong những năm của thập kỷ 50 và 60. Ông là tác giả bài hát phản chiến
nổi tiếng Where Have All the Flowers Gone?
Ông cũng là tác giả bài hát Teacher Uncle Ho (Bác Hồ – Thày giáo).
Hội ngộ với nghệ sĩ Việt Nam
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203021657_phamduyluutrongluedit.png"> Phạm Duy nói chưa gặp ai “nên thơ” như Lưu Trọng Lư
1944, tôi đang là anh nghệ sĩ Tân Nhạc của gánh Đức Huy. Gánh hát tới Tourane (Đà Nẵng).
Đà Nẵng là một thành phố tuyệt
đẹp bên sông Hàn, bên bờ biển Đông với những nét quyến rũ chưa từng có ở
các đô thị biển khác… Tôi đi thămBảo tàng Chămđể chiêm ngưỡng một nền
văn hoá Chăm rực rỡ, những pho tượng cổ, những linh vật thờ, những biểu
trưng của một dân tộc phồn thịnh giờ chỉ còn trong quá vãng.
Đây là bảo tàng duy nhất về nền văn hoá Chăm trên thế giới và giá trị của nó đã vượt ra khỏi biên giới nước Việt Nam.
Thú vị nhất là tôi gặp chàng thi sĩ mà mình yêu qúy vô cùng là Lưu Trọng Lư.
Lúc đó anh Lư đang dạy học tại
trường Phan Bội Châu (hay Phan Chu Trinh?), sau khi nghe tôi trình diễn
tại rạp hát, ngày hôm sau anh đã nằng nặc lôi tôi lên xe kéo, đưa tôi
tới trường học để hát cho học trò của anh nghe. Từ trước tới giờ, tôi
chưa gặp ai nên thơ như con người Lưu Trọng Lư.
Chưa gặp anh đã nghe nói anh là
người rất lơ đãng. Gặp anh rồi thì nhìn bề ngoài của anh cũng đã thấy
anh là một con nai vàng ngơ ngác.
Đã có ai kể cho tôi nghe chuyện
anh cầm tiền đi chợ mua đồ cúng nhân ngày giỗ vợ nhưng anh ghé vào tiệm
hút rồi quên phứt chuyện đó!
Theo lời kể của Hoài Thanh, đã có lần Lưu Trọng Lư nằm đọc tập thơ TIẾNG THU của mình rồi ngồi dậy cười to :
– A ha ! thế mà mấy bữa ni cứ
tưởng (…) hai câu : ”Giật mình ta thấy mồ hôi lạnh, mộng đẹp bên chăn đã
biến rồi…” là của Thế Lữ… Hai câu thơ ấy là của Lưu Trọng Lư.
Sau khi tôi hát cho lũ học trò
xanh xao và gầy gò nghe bài Buồn Tàn Thu rồi thì nhà giáo Lưu Trọng Lư
đầu bù tóc rối, quần áo lôi thôi lếch thếch và nát nhầu, móc ở trong túi
ra những mẩu thơ để tặng tôi ngay trong lớp học. Tôi nhớ rất kỹ đó là
những đoạn thơ của bài Giang Hồ mà khi in ra thì anh Lư đề tặng Nguyễn
Tuân và Vũ Hoàng Chương :
Mời anh cạn hết chén này
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Tiếng gà đã rộn trong thôn
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay…
Tôi sẽ có nhiều lần phổ nhạc những bài thơ tuyệt vời của anh Lư để trả ơn sự hạnh ngộ nửa đường phiêu lãng này. Từ bài Tiếng Thu qua Vần Thơ Sầu Rụng tới Thú Đau Thương và Còn Chi Nữa (bài này tôi mạn phép đổi tên là Hoa Rụng Ven Sông).
Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203022248_levanthuongedit.jpg"> Lê Thương (phải) ‘làm thơ bay bướm nhưng sống giản dị
Vào năm 1951, khi tôi vào sinh sống tại Saigon, tôi có ba người bạn là Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh.
Lê Thương rời Bến Tre, anh về
Saigon làm nghề thầy giáo. Căn nhà nhỏ của anh đường Võ Tánh là nơi tôi
đến chơi hàng ngày, hoặc rủ anh đi mua báo Pháp như PARIS MATCH, CANARD ENCHAINÉ
ở hiệu sách PORTAIL đường Catinat… hoặc rủ anh đi ăn, đi chơi. Lê
Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản
dị.
Trước đây, tôi chỉ biết Lê Thương qua những bài hát tình yêu rất hay như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu, Một Ngày Xanh, Nàng Hà Tiên… và Phần I của truyện ca bất hủ Hòn Vọng Phu. Bây giờ, tôi được biết thêm những bài Bà
Tư Bán Hàng, Bài Hoà Bình 48, Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Thành, Đốt
Hay Không Đốt Téléphone, Cái Đồng Hồ, Chuyến Xe Lửa Mùng Năm…
*
Trần Văn Trạch là một ca sĩ
chanteur de charme, hát những bài ca “mùi mẫn”, chưa có những tiết mục
bắn súng, phi cơ bay và dội bom bằng mồm, hoặc những bài ca hài hước như
sau này. Tại dancing Théophile, Trạch thường hát nhiều bài Tây và một
vài bài ta.
*
Đức Quỳnh, có giọng hát ồ ồ, có
mái tóc bồng bềnh và hàm răng thô. Nhưng lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt,
lúc nào cũng mặc veston, đeo nơ… dù trời Saigon rất là nóng bức.
Đức Quỳnh có soạn ra một bài hát nhan đề Ba Giờ Khuya mà Trạch hát tại Dancing Théophile. Rồi còn viết ra Thoi Tơ (thơ Nguyễn Bính) Người Kỹ Nữ Với Cung Đàn, Hỏi Em, Hò Khoan, Trả Lại Anh… Anh còn soạn hai bài hát cho tuổi thơ là Chim Chích Chòe và Rước Đèn Tháng Tám.
*
Rồi tôi tới Saigon thì hạnh ngộ là được gặp hai nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Trương…
Tại đàm trường Viễn Kiến, Nguyễn Đức Quỳnh dạy tôi làm người hiền. Trong tiệm hút, Lê Văn Trương dạy tôi làm người hùng.
Mời quý vị bấm vào ‘Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác’ ở phía bên phải trên đầu trang để đọc phần 2.
Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203071052_vovankietedit.jpg"> Phạm Duy nói ông Võ Văn Kiệt là một trong những người ông gặp nhiều nhất
Còn hạnh ngộ nào lớn lao hơn là sự gặp gỡ giữa tôi và hai thi sĩ Hữu Loan, Hoàng Cầm khi trở lại Việt Nam.
Để tôi sáng tác được những bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Tình Cầm…
*
Biết bao nhiêu hạnh ngộ khi tôi gặp Bùi Công Kỳ, Cung Trầm Tưởng.
Gặp Bùi Công Kỳ thì tôi học được lối sống bất cần đời của anh. Gặp Cung Trầm Tưởng thì tôi phổ thơ của anh thành những tình ca Mùa Thu Paris, Tiễn Em, Bên Ni Bên Nớ v.v…
*
Quen biết các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Hoàng Thi Thơ là những hạnh ngộ chắc chắn.
*
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203022807_nguyenvantyedit.jpg"> Nguyễn Văn Tý là tác giả Dáng đứng Bến Tre
Bây giờ là người bạn chí thân nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.
Quen nhau từ 1947, tới khi tôi trở về VN vào năm 2005, chúng tôi lại được bắt tay nhau trên sân khấu hay ngoài đời.
Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1935
– ) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng
tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ… Nguyễn Văn Tý là một nhạc sĩ thành công với chất liệu dân ca.
Những sáng tác của ông được chắt
chiu và nghiền ngẫm qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài,
nhiều sáng tác đã sử dụng khéo léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền
(Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con…).
Một đề tài quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa… Nguyễn Văn Tý cũng là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác “ngành ca”: Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển cả, Chim hót trên cánh đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn.
*
Cũng như với Nguyễn Văn Tý, tôi quen nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từ 1944. Thật là hạnh phúc cho tôi khi gặp lại Nguyễn Văn Thương.
Nguyễn Văn Thương là một nhạc sĩ
Việt Nam nổi tiếng, thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam. Anh là
tác giả của những ca khúc tiền chiến bất hủ như Đêm đông, Trên sông Hương và những ca khúc kháng chiến như Bình Trị Thiên khói lửa. Anh còn có nhiều tác phẩm khí nhạc khác.
*
Tôi gặp Ái Vân tại Paris khi nàng
vừa vượt biên qua Đức. Rồi nàng qua sống tại San Jose. Chúng tôi có rất
nhiều hoạt động âm nhạc trên sân khấu cũng như trên địa hạt DVD.
Ái Vân được nhiều hãng phát hành DVD như Thúy Nga Paris, Thế Giới Nghệ Thuật… những nhạc cảnh của tôi như Người Ðẹp Trong Tranh, Thị Mầu Lên Chùa, Trên Ðồi Xuân, Chum Vàng, Mài Dao Dạy Vợ, Mối Tình Sơn Nữ…
*
Tôi và Nguyễn Đình Thi quen nhau từ ngày Cách Mạng Tháng 8. Anh là người có nhiều tài và là một cán bộ cao cấp của Nhà Nước.
Anh sinh năm 1924 ở Luông Phabăng
(Lào). Cha là viên chức Sở bưu điện Đông Dương có sang làm việc ở Lào.
Anh thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
Anh viết sách khảo luận triết
học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Anh
được nhà nước phong tặng Giải thưởng ************ về văn học nghệ thuật
đợt I năm 1996.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn
Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Từ năm 1958 đến năm 1989
làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, Anh là Chủ tịch Ủy
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật. Anh mất năm 2003 tại
Hà Nội.
*
Lại có thêm một hội ngộ tốt đẹp. Vừa trở về VN, tôi được mời tới gặp ông Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Ông Phạm Thế Duyệt (sinh ngày10 tháng 8 năm1936) là một nhà chính trị Việt Nam.
Ông từng là ủy viên Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VII và VIII,
từng là Bí thư thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là
Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) khóa V, chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Namkhóa V, đại biểu Quốc hội từ khóa đến khóa XI.
*
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203023454_tohuuedit.jpg"> Phạm Duy biết ông Tố Hữu từ những ngày Cách mạng tháng Tám
Tôi quen anh Tố Hữu từ ngày Cách
Mạng thành công và có nhiều dịp công tác với anh tại Huế và tại Việt Bắc
trong ngày Đại Hội Văn Hóa.
Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ…
Chúng tôi không đả động gì tới
chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói
chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc
nữa lại tạnh”.
Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn…
Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời.
Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn.
Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn
Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng
Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc.
Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới.
Vận dụng biến hoá cách nói, cách
cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần
điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
*
http://quechoainfo.files.wordpress.com/2013/02/130203112232_tran_bach_dang_nguyen_ngoc_ha_edit.png"> Ông Trần Bạch Đằng (ngồi giữa) từng bảo Phạm Duy ‘hãy tự sát’ hồi năm 1989
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà mà tôi quen
từ ngày gặp nhau tại Paris năm 1973 lúc đó đang là trưởng Ban Việt Kiều
TP HCM, đưa tôi tới thăm ông Trần Bạch Đằng.
Tuy trước đây ông tuyên bố :
“Phạm Duy hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”,
nhưng tôi đã về VN mà chưa chết.
Vậy thì tôi phải tới thăm ông ta chứ !
Ông Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926—16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam.
Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
Ông cũng là tác giả của quyển
tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến
tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên
Lý.
*
Có lẽ người mà tôi gặp gỡ nhiều nhất là cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt và chúng tôi đã có nhiều điều để nói với nhau.
Tiếc thay, ông đã nghỉ hưu và đã qua đời trước khi công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam được hoàn toàn thực hiện.
Ông Võ Văn Kiệt (23 tháng 11
năm1922 –11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân,
là mộtnhà chính trị Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và sau
đó là Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8
năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh
giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt
Nam kể từ năm 1986, là “tổng công trình sư” nhiều dự án táo bạo của thời
kỳ Đổi mới.
*
Thế là trong suốt một đời người,
tôi vô tình được quen biết khá nhiều người. Vào lúc tuổi già, sau khi
hoàn tất MINH HỌA TRUYỆN KIỀU giữa năm 2009, tôi không còn hứng thú sáng
tác nữa nhưng có thời giờ để ngồi viết bút ký, tùy bút và bài NHỮNG
CUỘC HẠNH NGỘ này là một tùy bút có tính chất hồi tưởng.
Tôi không có ý định làm công việc
khoe khoang, “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà chỉ tâm sự với độc
giả rằng : quen biết những nhân vật có nhiều chính kiến khác nhau như
thế, nhưng tôi vẫn là một nghệ sĩ độc lập, không bao giờ lợi dụng phục
vụ ai cả.
Nghĩ mà thương cho cậu em Đỗ Ngọc
Yến ở khu Bolsa, chỉ vì với tư cách của một chủ báo, chót chụp ảnh
chung với ông Nguyễn Tấn Dũng ở San Francico mà bị ..... đào
mả và nguyền rủa.
Tôi rất hân hạnh là người quen
của các nhân vật chính trị, văn nghệ sĩ thế giới và không hề có một chút
mặc cảm nào cả. Chỉ vì tôi là một nghệ sĩ rất muốn là bạn của tất cả
mọi người, là vua quan hay là người dân bình thường.
http://proxyweb.com.es/browse.php?u=http%3A%2F%2Fwww.bbc.co.uk%2Fvietnamese%2Fvietnam%2F2013%2F02%2F130202_pham_duy_hanh_ngo.shtml&b=12 - Theo BBC http://proxyweb.com.es/browse.php?u=http%3A%2F%2Fwww.bbc.co.uk%2Fvietnamese%2Fvietnam%2F2013%2F02%2F130202_pham_duy_hanh_ngo.shtml&b=12 -
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Feb/2013 lúc 4:23pm
Những người bạn thân ngậm ngùi bên linh cữu nhạc sĩ Phạm Duy |
|
Thứ Hai, 28/01/2013 --- cập nhật 02:05 PM, GMT+7 |
Docbao.vn
Ca
sĩ Ánh Tuyết nghẹn ngào: "Sự ra đi của ông khiến trái tim tôi rỉ
máu...", nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, nhà thơ Phạm Thiên Thư đều túc trực bên
linh cữu nhạc sĩ Phạm Duy và hồi tưởng những ký ức về người bạn nhạc sĩ
tài hoa.
>> http://docbao.vn/News.aspx?cid=31&id=166941&d=28012013 - Tượng
đài của làng nhạc Việt đã không đợi được đến mùa xuân cuối cùng của
cuộc đời khi bất ngờ ra đi, sau hơn một tháng con trai ông, ca sĩ Duy
Quang qua đời tại Mỹ.
14h30 chiều 27/1,
nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, TP.HCM sau 3 ngày
nhập viện cấp cứu. Người nhà đã làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc
sĩ về nhà lo an táng ngay trong chiều hôm qua. Con trai Duy Cường luôn
bên cạnh túc trực và chăm sóc cho ông trong những ngày cuối đời. Phút
lâm chung, ông cũng ra đi trong vòng tay người thân, gia đình và bạn bè.
Một
người thân của gia đình ông cho hay, sự ra đi của con trai là ca sĩ Duy
Quang cách đây chưa lâu (tháng 12/2012) đã ảnh hưởng khá nhiều đến tinh
thần của ông. Đó cũng được cho là một trong những nguyên nhân khiến sức
khoẻ của ông giảm sút nặng nề. Trước đó, do sợ ông buồn và ảnh hưởng
đến sức khỏe vốn dĩ không tốt của ông trong thời gian qua, người nhà đã
giấu tin con trai Duy Quang mất. Nhưng ở tuổi 92, vị nhạc sĩ tài hoa vẫn
rất minh mẫn. Ông ý thức được bệnh tình của nam ca sĩ Duy Quang sẽ khó
qua khỏi nên chuẩn bị tâm thế đón nhận.
|
|
Các con của nhạc sĩ Phạm Duy bên linh cữu cha. |
Tuổi
cao sức yếu, thời gian qua Phạm Duy vài lần vào viện cấp cứu rồi lại ra
viện khi sức khỏe có dấu hiệu phục hồi. Khoảng 2 tuần trước khi qua
đời, ông còn có thể đi dạo được. Những người gần gũi ông giai đoạn cuối
đời đều nhận xét, ông luôn thể hiện sự lạc quan, yêu đời, yêu người, yêu
cuộc sống như chính âm nhạc của mình. Khoảng một tuần trước khi mất,
ông còn trao đổi thư từ qua email với ca sĩ
Ánh Tuyết để góp ý cho chị về việc thực hiện những album nhạc của ông mà nữ danh ca đã ấp ủ kế hoạch từ lâu.
Sáng nay 28/1 lễ tang của
nhạc sĩ Phạm Duy được cử hành tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, TP.HCM. Ca sĩ
Ánh Tuyết, nhà thơ Phạm Thiên Thư, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, ca
sĩ Kyo York… đã đến từ rất sớm để chia buồn và hỗ trợ gia đình tổ chức
tang lễ.
Nữ ca sĩ
Ánh Tuyết là người có cơ hội gần gũi với ông nhất trong
những ngày cuối đời. Cô cho biết, một tuần trước khi mất, ông vẫn còn
viết thư cho cô để góp ý về việc thực hiện album nhạc của ông mà nữ danh
đã ấp ủ bấy lâu. Cũng theo cô,
nhạc sĩ Phạm Duy là những sống lạc quan kể cả khi sức khỏe có dấu hiện suy sụp.
|
|
Ánh Tuyết, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 - những người bạn thân trong âm nhạc đến rất sớm để chia buồn cùng gia đình ông. |
Vẫn biết nhạc sĩ bị bệnh, do tuổi già sức yếu, cứ vào viện, ra viện liên tục, nhưng sự ra đi của ông vẫn khiến Ánh Tuyết sốc
và bàng hoàng. Nữ ca sĩ chia sẻ nỗi đau mất mát: “Một nhạc sĩ như Phạm
Duy, tôi không biết phải bao nhiêu đời nữa, bao nhiêu thế hệ nữa mới có
một vị nhạc sĩ vĩ đại như thế. Ông rất hoàn hảo trong âm nhạc. Đối với
những người yêu nhạc, ông để lại cho đời một tài sản đồ sộ, rất quý giá.
Những ca khúc của ông, những giai điệu, làn điệu mà ông khai phá từ dân
ca đã hun đúc trong thế hệ trẻ chúng tôi, là những người kế tiếp, đi
sau và học hỏi hình thành lên hình ảnh quê hương, đất nước Việt Nam. Tôi
có thể nói rằng mình yêu quê hương Việt Nam nhiều hơn qua bài hát Tình hoài thương, Tình ca, Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê... cùng những làn điệu dân ca mà
nhạc sĩ Phạm Duy đã khai phá”.
Chị
chia sẻ thêm: “Tôi không biết sẽ có ai tiếp nối ông nữa hay không, dù
biết rằng ông đã lớn tuổi, biết rằng ông bị bệnh nhiều nhưng sự ra đi
của ông lúc này khiến trái tim tôi bị rỉ máu. Để nói về ông, có những
người còn hiểu nhiều hơn tôi. Tôi chỉ hiểu đến chừng đó và nếu có hiểu
nhiều cũng chỉ để trong lòng và không biết diễn tả thế nào. Đến giờ phút
này tôi cảm thấy mình hiểu con người
nhạc sĩ Phạm Duy nhiều hơn, ông rất kiên cường, đầy nghị
lực và ham làm việc. Ở độ tuổi 92, ông vẫn muốn được làm việc, đó là
điều chúng ta cần phải thừa nhận và học hỏi ở ông. Ông là người đầy tố
chất để những người đi sau như chúng tôi cảm nhận được tình yêu quê
hương rõ ràng đến thế. Hãy cho tôi một khoảng riêng để tôi giữ lại hình
ảnh của người nhạc sĩ mà tôi đã đến gặp ông trong những ngày cuối đời”.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư – người gắn bó với cuộc đời
nhạc sĩ Phạm Duy xót xa trước sự ra đi này. Ông nói: “Tôi
quý trọng tài sản kếch xù mà nhạc sĩ để lại. Tôi yêu những lời ca của
ông. Tôi nghĩ, trong làng nhạc Việt Nam, Phạm Duy là số một và chưa có
ai vượt qua được pho tượng này”.
|
Nhà thơ Phạm Thiên Thư. |
Nhạc
sĩ Nguyễn Ánh 9 cũng có những phút trầm tư về người nghệ sĩ tài hoa vừa
qua đời: "Cũng như tất cả những người khác, sự ra đi của Phạm Duy là
mất mát quá lớn với làng nhạc. Kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời tôi và
ông, đó là khi tôi 20 tuổi chập chững bước vào nghề thì âm nhạc của Phạm
Duy ảnh hưởng đến tôi rất nhiều. Ông tạo điều kiện cho tôi được hát. Dù
tôi có nhiều thiếu xót nhưng ông vẫn bỏ qua, động viên tôi cố gắng. Nhờ
những sự động viên và dạy dỗ đó, tôi có ngày hôm nay. Lúc nào trong
lòng tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn nhạc sĩ đã luôn giúp đỡ tôi".
Kyo
York, nam ca sĩ đến từ New York từng được khán giả Việt Nam yêu mến khi
thể hiện thành công những ca khúc của Trịnh Công Sơn, anh đã đến chia
buồn cùng gia đình cố
nhạc sĩ Phạm Duy. Anh nói: “Tôi cảm thấy buồn và muốn đến đây để chia buồn cùng gia đình
nhạc sĩ Phạm Duy. Những tác phẩm của ông đã đi vào lòng
người dân Việt Nam. Tôi cũng hát một vài ca khúc của ông và nhận thấy
rằng các sáng tác của ông rất sâu sắc, nói nhiều về văn hóa Việt Nam
ngày xưa và ngày nay.
Mỗi
người qua đời là một sự khó khăn cho những người xung quanh, đặc biệt
đối với gia đình của Phạm Duy. Tôi xin được gửi lời chia buồn chân thành
nhất tới họ”.
Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1, lễ động quan lúc 6h ngày 3/2.
Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.
Một vài hình ảnh trong đám tang tại tư gia của nhạc sĩ Phạm Duy sáng nay:
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ca sĩ Kyo. |
|
Sự ra đi của Phạm Duy khiến nữ ca sĩ Ánh Tuyết bị sốc. |
|
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9. |
Theo Zing.vn/Infonet
|
|
|
Hàng ngàn người tiễn đưa cố nhạc sĩ Phạm Duy 03/02/2013
http://nguoiphattu.com/index.php - NPT
- Giữa dòng người đông đúc tới tiễn đưa nhạc sĩ Phạm Duy về cõi thiên
thu vừa diễn ra sáng nay, hình ảnh ca sĩ Tuấn Ngọc với gương mặt hốc
hác, lặng lẽ theo sau quan tài vẫn khiến người ta không khỏi chạnh lòng
Sáng
nay 3.2, tại tư gia trên đường Lê Đại Hành, phường 3, quận 11, TP.HCM,
lễ an táng nhạc sĩ Phạm Duy đã được diễn ra với sự có mặt của những
người thân trong gia đình và đông đảo bạn bè thân thiết cùng người hâm
mộ.nguoiphattu.com Khoảng hơn 6h sáng, lễ cầu siêu cho linh cửu nhạc sĩ Phạm Duy được bắt đầu Chiều qua, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên cũng người yêu và ca sĩ Đoan Trang, Hồng Nhung đã đến viếng đám tang nhạc sĩ Phạm Duy.nguoiphattu.com Thế nên tại lễ di quang sáng nay chỉ có ca sĩ Đức Tuấn và một vài gương mặt nghệ sĩ có mặt để trực tiếp tiễn đưa lần cuối. Nam ca sĩ Quang Dũng đã diện trang phục màu đen khi đến tư gia nhạc sĩ khá sớm. Nghệ sĩ Kim Cương cũng tranh thủ có mặt trong giây phút tiễn đưa nhạc sĩ họ Phạm Giáo sư Trần Văn Khê, dù tuổi cao và sức khỏe đã yếu nhưng vẫn đích thân đến tiễn đưa nhạc sĩ Phạm Duy http://nguoiphattu.com/nguoiphattu.com"> Sau khi làm lễ cầu siêu lần cuối, nghi thức bắt đầu lễ di quang được bắt đầu Bạn bè cùng thắp nén nhang lần cuối cho nhạc sĩ Phạm Duy Khoảng 7 giờ sáng, lễ di quan được chính thức bắt đầu Linh cữu nhạc sĩ được đưa ra khỏi tư gia trên đường Lê Đại Hành. Lễ tang nhạc sĩ Phạm Duy thu hút sự quan tâm của báo chí và truyền thông Trước đó, vào chiều 27.1 khán giả cả nước bàng hoàng và nuối tiếc vị nhạc sĩ tài hoa ra đi ở tuổi 92 tại bệnh viện 115, TP.HCM. Sự ra đi của nhạc sĩ họ Phạm để lại rất nhiều nuối tiếc cho bạn bè, đồng nghiệp và người hâm mộ Nỗi buồn của những người thân trong gia đình hiện rõ trên nét mặt. Dòng người lặng lẽ đi sau linh cữu của vị nhạc sĩ tài hoa Linh cữu nhạc sĩ được đưa lên xe tang Người thân trong gia đình không ngừng được những dòng nước mắt thương nhớ. Trong số những người thân lặng lẽ theo sau, có lẽ hình ảnh nam ca sĩ Tuấn Ngọc được nhiều người chú ý nhất. Sáng nay, Tuấn Ngọc mang theo chiếc ba lô trên vai trong lúc đang đội khăn và mặc áo tang tiễn bố vợ Phạm Duy. Đối với Tuấn Ngọc, nhạc sĩ Phạm Duy không chỉ là cha vợ mà còn là người thầy, người nhạc sĩ tài hoa mà ông hằng ngưỡng mộ Gia
đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật, ngoài
người cha và anh trai là Phạm Duy Khiêm là những nhà văn có tiếng, anh
thứ Phạm Duy Nhượng cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà áo Văn Quân. Vợ
ông là ca sĩ Thái Hằng, em vợ là danh ca Thái Thanh, các con ông được
ông hướng dẫn theo nghiệp ca hát, đều có thành công trong lĩnh vực của
mình: con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường,
con gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo. Ngoài ra có thể kể đến các ca
sĩ Tuấn Ngọc chồng của Thái Thảo, con rể Phạm Duy, cô cháu gái Ý Lan.nguoiphattu.com Nữ
ca sĩ Ý Lan đã về Mỹ, nên trong lễ trang sáng nay công chúng chỉ được
thấy hình ảnh nam ca sĩ Tuấn Ngọc là nghệ sĩ quen thuộc trong gia đình
nhạc sĩ họ Phạm. Gương mặt Tuấn Ngọc hốc hác vì đau buồn và thương tiếc Ông lặng lẽ theo sau linh cữu của nhạc sĩ Phạm Duy, thành kính và trầm tư Ca sĩ Quang Dũng tiễn đưa vị nhạc sĩ tài hoa lần cuối Sau khi đi bộ một đoạn, đoàn tang lễ mới bắt đầu lên xe để tiếp tục hành trình đưa linh cữu nhạc sĩ về cõi thiên thu. Gia
đình chấp tay cảm tạ dòng người đưa tiễn trước khi lên xe tang đưa nhạc
sĩ Phạm Duy về nơi yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương. Hà Nhuận Nam - Theo: (Xzone/TTTĐ)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Feb/2013 lúc 6:22pm
Saturday, 2 February 2013
Trần Văn Khê viết về Phạm Duy
Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau...
Trần Văn Khê
( http://kienthucngaynay.info/ - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)
*
Viết về Phạm Duy, bao người đã viết, lời đẹp
vô cùng, tình đầy bất tận... Nói về Phạm Duy, giờ sẽ nói gì? Nói gì đây cho
mình không đi quẩn quanh trong các lối đường xưa cũ tràn ngập hỷ, nộ, ái, ố...
mà Duy từng thấy, từng nghe?
Hai thế kỷ cho một kiếp người, quá đủ thăng trầm, quá nhiều rộn ràng,
biết bao nghi ngại... Vậy mà kẻ lữ hành trên nhạc lộ Phạm Duy vẫn cứ thong dong
đi hết miền trần thăm thẳm của riêng mình, yêu đời này, sống trọn vẹn đời này.
Nhìn Duy mãi là Duy, dẫu cho Duy là Duy của ngày cũ, Duy của ngày nay hay Duy
của ngày sau xa xôi đi nữa, tình thương đối với Duy ngày càng sâu đậm trong
tôi, tình bạn của hai anh em vĩnh viễn bền chặt trong nhau.
Đã quá 90 năm rồi, Phạm Duy và Trần Văn Khê vẫn cứ thân thiết đi cùng
nhau trên chuyến xe đời, vẫn ôm nhau khóc cười bao trận giữa nhân sinh. Để rồi
với những hạnh phúc, khổ đau từng nếm đó, tôi tìm ra trong cuộc đời hai anh em
những tương đồng kỳ lạ mà ít tình bạn thâm giao nào có thể có được. Hy hữu
chăng? Hay do ông Trời sắp xếp? Thôi thì để các bạn tự mình ngẫm nghĩ vậy...
1. Thời thơ ấu hồn nhiên
Chúng tôi chào đời trên dải đất
Việt Nam cùng trong năm Tân Dậu (1921) và cách nhau 3 tháng. Tôi sanh tại Tiền
Giang (miền Nam nước Việt) trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ truyền thống, còn
Phạm Duy thì sanh tại Hà Nội (miền Bắc nước Việt) trong một gia đình văn nhân,
nghệ sĩ (có cha là cụ Phạm Duy Tốn - một nhà văn). Tôi tự hỏi không rõ số phận
đã sắp đặt như thế nào để hai anh em chúng tôi, tuy cách xa nhau về địa lý mà
lại có nhiều sự gần gũi trong cuộc sống đến như thế?
Thuở nhỏ, tôi đã được cậu Năm tôi
là ông Nguyễn Tri Khương đặc biệt thai giáo từ lúc còn trong bào thai. Đều đặn
mỗi ngày, cậu Năm đến thổi sáo cho thai nhi nghe. Lúc chào đời, tôi vừa được
nghe tiếng sáo của cậu Năm vừa được nghe thêm tiếng tỳ bà của ông nội. Cả một
thời thơ ấu của tôi được tắm nhuần trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, giữa
một vùng đất đậm chất đờn ca tài tử. Chẳng biết Duy đã được thai giáo như thế
nào, nhưng nhìn thấy tánh cách của Duy, từ phong thái, tính tình đến lối sống,
tôi cảm thấy Duy đã được sống trong một không gian thật tự do, chan chứa niềm
mê say với thế giới tuổi thơ đầy thơ mộng của mình.
Môi trường sống nơi “thôn ổ”
(theo cách Duy nói) đã tạo cho bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời khi còn
là một đứa trẻ. Duy là đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, mà cũng có những lúc tinh
nghịch, hiếu kỳ đối với muôn chuyện lý thú xung quanh. Nhãn quan trẻ con của
Duy lúc bấy giờ có nhận thức khá rõ rệt về những gì xảy ra trong đời sống của
mình. Duy lại có trí nhớ rất tốt để ghi lại bao nhiêu câu chuyện ngày xưa, mà
khi tôi đọc lại hồi ký của bạn, có thể tưởng tượng thấy những hình ảnh ấy hiện
rõ mồn một trước mắt, như mình đang đi vào trong ký ức của Duy để viếng thăm
một thời đã qua của bạn, với những dòng chữ do tự tay Duy phác thảo và đánh
máy. Trí nhớ về tất cả quãng đời mà bạn đi qua đã ghi lại rất nhiều điều độc
đáo về chân dung của những con người bạn đã gặp, những thăng trầm của một xã
hội, những biến thiên của một giai đoạn lịch sử... Tuy không được thai giáo như
tôi, nhưng Duy đã được sống giữa phong khí văn chương, âm nhạc. Cha mẹ không
phải là nhạc sĩ, nhưng Duy có người dì chuyên hát ca trù và bản thân Duy đã sớm
tiếp cận với môn nghệ thuật tế nhị, sâu sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Duy cũng có dịp nghe và thích ca nhạc Huế ngang qua tiếng đàn tranh của bà thầy
dạy hai người chị. Nhờ sống nơi làng quê, gặp gỡ với người nông dân nên Duy
cũng quen thuộc với dân ca từ nhỏ... Có gì thích thú cho bằng đứa trẻ được sống
thật vui tươi, nồng nàn tuổi xanh giữa thiên nhiên tự tại, ngấm vào máu xương
nét đẹp văn hóa dân tộc tự lúc nào mà không hay!
Tôi mồ côi cả cha và mẹ, nhưng có
người cô đã thay mặt cha mẹ dạy dỗ tôi từ bé, và tập cho tôi biết sống tự lực
cánh sinh. Tôi được nên người như hôm nay cũng do phần lớn ở công lao săn sóc,
dưỡng dục của cô Ba tôi – một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Sống trong cảnh
nghèo, người cô vẫn sớm hôm tảo tần nuôi dạy cho anh em tôi ăn học.
Phạm Duy tuy mồ côi cha nhưng còn
có mẹ. Mẹ của Duy cũng giống như hầu hết các bà mẹ Việt Nam trong xã hội Hà Nội
trí thức tiểu tư sản, đã khéo xoay xở để nuôi anh em Phạm Duy khôn lớn.
Trong gia đình tôi không có ai
theo đạo Phật, nhưng cạnh nhà tôi có ông thầy cúng. Mỗi lần ông dạy học trò là
tôi đứng ngoài học lóm. Chính vì vậy mà tôi thích tụng niệm kinh Phật. 5 tuổi
mà tôi đã đọc Chú Vãng Sanh rất làu. Đến nỗi cả xóm mỗi khi ai có phận sự cắt
cổ gà để đãi khách thì đều phải nhờ cậu bé Khê đến đọc Chú Vãng Sanh để cho con
gà được đầu thai. Tôi cũng thuộc kinh A Di Đà và sau thì thuộc tới Bát Nhã Ba
La Mật Đa tâm kinh. Ngoài ra, tôi còn bắt chước thầy cúng tán “ly bà ly bà đế...” mà không hiểu lời
chi cả.
Thật là một sự trùng hợp hy hữu!
Duy lại được mẹ dạy tụng những câu kinh Phật như: ”…Lư hương xạ nhiệt, pháp giới mông vân, chư Phật hải hội...”.
Duy cũng thuộc kinh rất nhiều. Duy thuộc cả kinh Dược Sư, đọc vanh vách cũng
như tôi đọc “ly bà ly bà đế...”, mà
không hiểu chữ nào! Duy chỉ đọc thuộc theo bản tánh tự nhiên của con trẻ do có
được sự ảnh hưởng Phật giáo ngay lúc nhỏ từ người mẹ của mình. Trong hồi ký,
Duy đã kể lại, tuy không giàu có để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần
áo mới cho các con, nhưng mẹ Duy đã biểu lộ tình yêu thương bằng cách luôn cho
Duy đi theo mẹ trong bất cứ một cuộc lễ xa gần nào. Nhờ đi lễ ở nhiều đền chùa
nổi danh miền Bắc, nhìn thấy cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm cho Duy muốn
trở thành một con người hiếu đạo.
Tôi và Duy đều là những đứa trẻ
có sự ham thích âm nhạc, văn chương một cách đặc biệt. Vốn sanh ra trong một
gia đình âm nhạc tài tử truyền thống, tôi đã có được một năng khiếu về nhạc
ngay từ nhỏ. Nghe người lớn đờn mà tôi có thể tự mò trên cây đờn kìm nhiều bản
dễ như Lưu Thủy, Bình Bán, Kim Tiền... Tôi không được học chánh thức với một
người thầy nào hết, nhưng may mắn được nhiều người chỉ giáo. Chỉ riêng cậu Năm
Khương đã dạy tôi đờn bài Ngũ Đối Hạ trên cây đờn cò lúc 8 tuổi và cô Ba tôi
dạy tôi bản đờn tranh Nam Xuân nhịp tư lúc tôi lên 12. Anh Ba Thuận - con cậu
Năm là người gần gũi tôi nhứt và hay hòa đờn với tôi. Chính anh là người đầu
tiên dạy tôi đờn bản Vọng cổ nhịp 8 trên cây đờn kìm.
Riêng Duy, do được sanh ra trong
một gia đình có bố là văn sĩ, các anh em ruột cũng như anh em họ đều có máu văn
chương, đến khi bố mất lại được các bạn văn chương của bố chăm sóc việc học
tập, cho nên ngay từ nhỏ, Duy đã có một sự nhạy bén với văn chương và thi ca.
Tôi không ngờ rằng Duy lại có một người anh họ rất nổi tiếng là Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc, tác giả 2 cuốn “Tục ngữ phong dao” và “Cổ học tinh hoa” là cuốn sách gối đầu giường của tôi hồi học
tiểu học.
Ngay khi còn nhỏ, Duy đã bộc lộ
tánh cách rất “bạt mạng” và ưa phiêu lưu đây đó, như đám mây “Mộng Vân” thuở
nhỏ mẹ Duy nằm mơ thấy. Phạm Duy đã từng bỏ nhà theo một anh làm trò “quỷ
thuật” sau khi bị mê hoặc bởi cuốn tiểu thuyết Vô gia đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Cũng thật
trùng hợp với tuổi thơ “bỏ nhà đi giang hồ” của Duy, tôi cũng có lần
“quên về nhà” vì đi coi những trò ảo thuật của gánh hát Mai Thành Cát, đặc biệt
rất say mê tiếng ngâm sa mạc của một người nghệ sĩ trẻ tuổi tên Sáu. Tôi vốn
sanh trong gia đình âm nhạc, lại ưa nghệ thuật, nên khi nghe anh Sáu ngâm thì
cảm thấy rất xúc động. Vãn hát đêm đó, tôi không về nhà mà ở lại ghe hát gặp
anh Sáu. Hai anh em trò chuyện với nhau tới sáng, không muốn rời nhau. Ông Mai
Thành Cát nhân thấy sự thân thiết của chúng tôi nên muốn xin cô tôi cho tôi đi
theo gánh hát của ông để ông truyền nghề. Cô tôi không đồng ý, lại còn rầy tôi
về tội đi coi hát mà không nhớ giờ về nhà.
Cuộc sống tuổi thơ của Duy gắn
liền mật thiết với Hồ Gươm đầy thi vị. Trong tâm tưởng của Phạm Duy, Hồ Gươm là
một nơi thơ mộng, như “con mắt buồn bã của người tình”, như một “hồn ma người
đẹp” trong truyện Liêu Trai với mỗi buổi chiều mùa lạnh sương mù tỏa xuống mặt
hồ. Duy thấy được những hoàn cảnh thực tế của nước hồ xanh đục lặng lẽ, những
xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống nước hồ... qua đôi mắt
trẻ con lúc nào cũng hừng hực nỗi... hiếu kỳ! Và Duy cũng đã chứng kiến những
môi hôn ngọt từ các cặp tình nhân trên cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn.
Ngay cả con sông Hồng, nơi mà Duy hay chạy chơi trên bãi cát rộng vào mùa nước
cạn, hoặc đứng coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước đề
phòng lũ lụt vào mùa nước lũ, đã gắn bó không biết bao nhiêu cái tình thơ dại
của Duy với cảnh vật nơi đây.
Tôi không có được Hồ Gươm đầy thi
vị và sông Hồng rộn ràng khi nước cạn, lúc nước lũ như Duy, nhưng tôi được sống
trong nông trại của cậu Năm tôi, mắt luôn nhìn những thửa ruộng xanh cò bay
thẳng cánh, vào mùa cấy thì được nghe những câu hò điệu lý của những đoàn công
cấy. Tôi cũng rất thương con sông Sầm Giang chảy qua trước nhà tôi tại Chợ
Giữa, thích chèo đò ngang và tắm lội trong dòng sông Sầm Giang “rì rào dừa nước hai bên” (trong một câu
thơ mà Xuân Diệu viết tặng tôi nhân dịp nghe đờn ca tài tử trên sông). Đêm đêm,
vang tiếng hò đối đáp trên sông! Nơi này đã gắn liền với tôi rất nhiều kỷ niệm
thân yêu, mộc mạc. Sầm Giang là con sông nối liền hai làng Vĩnh Kim Đông và
Vĩnh Kim Tây, mà Chợ Giữa thuộc Vĩnh Kim Đông, cho nên những người ở Vĩnh Kim
Tây mỗi sáng đều đi đò ngang sang Vĩnh Kim Đông để họp chợ. Vì thế mà tôi rất
thích thay anh lái đò để chèo những chuyến đò ngang chở người lại qua. Trên
những chuyến đò đó, tôi từng nhiều lần được thấy hình ảnh người mẹ đi chợ về,
trên bờ đứa con ngồi chờ mẹ, rồi khi người mẹ đưa chiếc bánh phồng cho đứa con
thì đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ thật chặt, trong ánh mắt hiện lên niềm quấn quýt
thương yêu rất xúc động và đậm đà tình mẫu tử. Qua những chuyến đò ngang ngày
ấy, tôi đã làm một sợi dây nối kết đưa người mẹ về với con, và có lần tôi có
dịp cứu 2 đứa trẻ sắp chết đuối.
Tôi cũng đã có dịp ghi lại những
cảm xúc đó trong bài thơ “Vịnh cây chèo”, một bài tập trong lớp dạy văn và chữ
Hán cho cấp tiểu học ở Trường Tam Bình (Vĩnh Long) của thầy Thượng Tân Thị -
một thi nhân đã sáng tác 10 bài “Khuê phụ thán”, lúc tôi 13 tuổi:
“Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng
Quyết chí đưa người qua bể khổ
Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân”
Duy cũng biết làm thơ từ lúc nhỏ,
lại được những nhà văn lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh chăm lo từ bé,
nên chất văn chương bén rễ dần trong Duy là lẽ tự nhiên. Bài thơ đầu tiên của
Duy phóng khoáng, nghịch ngợm mang đầy dấu ấn của tuổi thơ:
“Nhà tôi ở phố hàng Dầu
Số nhà 54, đứng đầu du côn”
Từ nhỏ đã có phong cách phóng
túng, không chịu gò bó, thơ văn tự do nghịch ngợm, nhưng chất thơ trong người
Duy rất dồi dào, về sau trong những bài hát do Duy sáng tác luôn luôn đầy thi
vị.
Trong gia đình bên ngoại Phạm Duy
có người họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc, bị Pháp gọi là “giặc”. Trong hồi ký,
Duy viết: “Thế ra trong tôi có dòng máu
nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh
Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng”... Duy đã sớm nhận ra được những nỗi thống khổ
của dân mình do thực dân Pháp gây nên, và tự nhận thức được những gì mà
ông Duy làm không phải là việc làm của một kẻ “nổi loạn” chống lại luật pháp
của kẻ mang quân đi đánh chiếm quê hương mình. Cái “nổi loạn” của người ông bên
ngoại Duy là nổi loạn để làm cách mạng, để thoát khỏi cái ách gông xiềng, thuộc
địa. Và cũng thật ngẫu nhiên, Duy cũng tình cờ được tiếp xúc với những nhà cách
mạng yêu nước qua những bài hát tuyên truyền thời đó. Duy cảm thấy thích những
bài hát này và những hành động cách mạng của các vị tiền bối đã khiến Duy xúc
động, vì Duy tận mắt mục kích được hành động của những người anh hùng bằng
xương bằng thịt ngay chính trên đất nước này chớ không phải nơi nào xa vời.
Và thật lạ, tôi cũng có cơ hội
sớm tiếp xúc với những nhà cách mạng bằng xương bằng thịt ngay trên quê hương
như Duy, nhưng không phải do tình cờ mà do họ là những người cùng tổ chức với
mẹ tôi. Mẹ tôi là một người sớm gia nhập “Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội”,
tiền thân của Đảng Cộng sản và trong lúc tôi còn nhỏ đã giới thiệu với tôi
những người bạn đồng hành, toàn là những người xả thân vì nước.
Tôi được những người cách mạng cùng
tổ chức với mẹ cho nghe những bài hát như “Ơi hỡi đồng bào”, mà lạ thay Phạm Duy cũng tình cờ biết được
bản đó. Tôi cũng được tiếp cận với một số bài do những nhà cách mạng
phỏng theo làn điệu dân ca Pháp mà đặt lời Việt để nhắc nhở dân tộc Việt Nam là
một dân tộc bị mất nước, bị trị. Thuở đó, tôi thường hát đi hát lại:
“Ơi hỡi đồng bào, ơi hỡi đồng bào!
Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy!
Nước mất! Nước đã mất rồi!
Dân lầm than! Dân lầm than!”
Bài ca lời Việt phỏng theo bài
dân ca Pháp “Frère Jacques” (Thầy dòng
tên Jacques) thì tại Hà Nội, Phạm Duy cũng đã nghe bài ấy:
“Hỡi hỡi đồng bào! Hỡi hỡi đồng bào!
Tỉnh dậy mau! Tỉnh dậy mau!
Nước ta đã mất rồi
Mau tỉnh mau, mau tỉnh mau!”
Ngày còn thơ ấu, tôi học trường
tiểu học tại Tam Bình - Vĩnh Long. Tôi rất thích môn Récitation (trả bài học
thuộc lòng bằng tiếng Pháp) và được thầy dạy cho cách đọc ngụ ngôn của La
Fontaine (Le Loup et L’agneau), vừa đọc vừa ra bộ, diễn xuất làm con chó sói và
con trừu (cừu). Cách học đó thật thích hợp với tánh ưa biểu diễn của tôi.
Còn Duy học trường tiểu học tại
Hàng Vôi - Hà Nội. Duy cũng rất thích Récitation, được thầy dạy đọc, dạy diễn
xuất người sĩ quan và người lính bị thương trong bài “Après la bataille” (Sau
trận đánh) của Victor Hugo.
Trong thời kỳ tiểu học, tôi rất
thích những bài học về sử ký hay luân lý mà hát lên theo điệu đờn ca tài tử, có
khi bằng cả tiếng Pháp: “Mes chers enfants” theo điệu Hành Vân. Phạm Duy cũng
thích y một bài đó bằng tiếng Pháp.
Cùng một bài Bình Bán Vắn mà tôi
học 2 bài tiếng Việt:
“Liu tồn liu xáng u
Xáng trên đầu ba bốn cục u…”
Và tiếng Pháp:
“Il était une fois…
Une jeune fille appelée Jeanne d’Arc
Son père était Jacques d’Arc
Sa mère Isabelle Rosner”
(Ngày xửa, ngày xưa,
Có người thiếu nữ tên là Jeanne d’Arc
Cha tên là Jacques d’Arc
Mẹ là Isabelle Rosner)
Cũng giai điệu bài Bình Bán, Phạm
Duy học lời ca khác:
“Tôi chờ cô tối qua
Đến bây giờ chẳng thấy cô qua…”
Mặc dầu không được học hết trung
học vì bị người anh bắt chuyển sang học nghề, nhưng Duy vẫn rất ham học hỏi,
rất thích tiếng Pháp và đặc biệt rất thích đọc sách. Nhờ trong nhà có người anh
là Phạm Duy Khiêm rất giỏi về Pháp văn (ông là Thạc sĩ văn chương Pháp), lại có
một tủ sách nên Duy thường hay lén đọc và đã làm quen với những nhân vật trong
nhiều bộ tiểu thuyết bằng tiếng Pháp của các tác gia nổi tiếng.
Ở trong Nam, tại làng tôi có một
người tự học tiếng Pháp và có một tủ sách riêng, tên là Trần Năng Thận, tôi hay
gọi là bác Sáu Thận. Bác không cho ai mượn sách cả vì sợ bị người khác làm hư.
Nhưng khi thấy tôi cẩn thận lúc đọc sách nên bác cho tôi thong thả muốn đọc bao
nhiêu cũng được. Do đó, tôi cũng đã biết đến nhiều nhân vật trong các cuốn tiểu
thuyết của những tác gia lớn giống như Phạm Duy. Đọc sách rồi, tôi thuật lại
cho cô và mấy em tôi nghe nội dung sách bằng tiếng Việt. Cô tôi không đọc được
tiếng Pháp mà vẫn biết rõ cốt truyện của tiểu thuyết Notre Dame de Paris của
Victor Hugo, trong đó, anh chàng gù lưng Quasimodo yêu nàng vũ nữ Esmeralda...
Ngoài ra, anh em chúng tôi còn ưa
thích cái việc đóng tuồng theo những nhân vật anh hùng hiệp sĩ, kiếm khách. Duy
thì ưa đóng tuồng theo phong cách kiếm hiệp, còn tôi thì thích đóng tuồng cải
lương. Tôi đã có thời kỳ mê đóng vai Tarzan - người hùng của rừng xanh, từng
cởi trần đánh đu trên cây da, hú lên những tiếng hú vang dội như Tarzan ở rừng
sâu. Còn Duy thì lại trở thành hiệp sĩ Zorro đeo mặt nạ, mang gươm đòi công lý.
Tôi thích xem bóng đá và cũng
từng tổ chức nhiều cuộc đấu bóng đá cho Hội Thể thao Trường Pétrus Ký, ra Hà
Nội luôn ủng hộ đội bóng đá của trường đại học bằng những hành khúc của Lưu Hữu
Phước. Chúng tôi hát bản “Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc) mỗi khi quả bóng lọt vào lưới đối phương.
Duy cũng mê đá bóng kinh khủng,
luôn luôn theo dõi thành tích của Hội ÉCLAIR (Tia Sáng) vốn là hội bóng nhà,
trụ sở ở ngay phố Hàng Tre. Mê đến độ nhớ tên các cầu thủ theo thứ tự ra quân,
như nhớ một bài thơ không có vận:
Ty, (thủ môn) Tâm, Biềng (hậu vệ)
Mao, Tâm, Thịnh (trung phong)
Phao, Mai, Hựu, Trọng, Tín (tiền đạo)
Hồi còn nhỏ, tôi rất ưa xem
xi-nê, thích nhất là cô đào Danielle Darieux. Duy cũng ưa xem xi-nê, mà thích
nhất là cô đào Anabella. Té ra hai em chúng tôi cũng có sở thích giống nhau: cả
hai nàng diễn viên mà hai anh em thích đều có đôi mắt xanh và mái tóc vàng.
Thật là mơ mộng!
Trong những trò giải trí của con
nít thời bấy giờ, tôi thích xem hát xiệc nhưng đồng thời cũng thích luôn trò ảo
thuật, thôi miên và rất mê gánh hát của Mai Thành Cát. Duy cũng ưa hát xiệc,
nhưng thích nhất những trò điều khiển thú dữ và mê gánh hát của Tạ Duy Hiển.
Và thêm nữa, hai tâm hồn lãng mạn
cũng từng thả hồn vào những con sóng xanh ngoài đại dương. Chúng tôi rất yêu
biển!
Hai anh em Duy và Khê đều mang
thân phận trẻ mồ côi. Người thì mồ côi cha, kẻ thì mồ côi mẹ, và sau này là mồ
côi luôn cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, có cái may là hai đứa nhỏ vẫn được người
thân chăm sóc, dạy dỗ đàng hoàng, cho nên không có mặc cảm của một đứa trẻ mồ
côi, không bị hoàn cảnh hẩm hiu làm cho cảm thấy nhiều đau khổ, mà cả hai đều
tự tạo cho mình một cuộc đời của riêng mình, không chờ đợi sự che chở, dạy dỗ
của cha mẹ một cách tuyệt đối giống như bao bạn bè cùng trang lứa.
2. Bước chân thanh niên vào đời
Thuở đó, ca sĩ Tino Rossi được
người Việt tôn sùng. Những người nào thích ca sĩ này thì vào nhóm mang tên là
“Ái Tino”, nếu ai không thích thì vào nhóm “Ố Tino”. Trong Nam, tôi đứng về
những người “Ái Tino”, chẳng những thích nghe Tino Rossi biểu diễn mà chính tôi
cũng học thuộc và biểu diễn những bài do Tino giới thiệu qua dĩa hát, còn bắt
chước sắm luôn những trang phục y hệt như thần tượng. Tại Hà Nội, cũng có sự
kiện 2 phe như thế, Phạm Duy cũng ở trong nhóm Ái Tino nhưng Phạm Duy không chỉ
ưa Tino Rossi mà còn thích Albert Préjean và ca sĩ trào phúng Georges Milton.
Khi tôi chỉ huy dàn nhạc Schola
Club, bài đầu tiên dàn nhạc giới thiệu là bài “C’est à Capri” (Tại thành phố
Capri, nơi tôi đã gặp nàng). Trong
những bài Phạm Duy thích, Duy vẫn còn nhắc lại bài đó.
Lúc ở Pháp, tôi rất thích nữ ca
sĩ Juliette Greco, chuyên hát những bài theo chủ nghĩa hiện sinh với chất giọng
khàn khàn rất đẹp. Đồng thời, cũng có một nữ ca sĩ rất trẻ tên Nicole Louvier
mới xuất hiện, phong cách của Nicole là tự hát và tự đệm guitar. Cô lại biết
sáng tác những bài hát có giai điệu ngọt ngào, mang hơi hướng âm nhạc phương
Đông. Tôi hết sức thích phong cách của cô này, nên đã từng đề nghị sử dụng đờn
tranh để đệm đờn cho cô hát. Louvier rất thích nên đã có mời đài phát thanh
(Radio France) tới ghi âm lại những bài cô hát mà tôi đàn tranh để làm kỷ niệm,
nhưng cô nổi tiếng không bao lâu rồi giây phút huy hoàng ấy cũng thoáng qua.
Tôi không ngờ rằng Phạm Duy cũng
đã gặp ca sĩ đó và sáng tác lời Việt Nam cho những bài ca của cô. Lúc Phạm Duy
sang Pháp, Duy cũng thích 2 người ca sĩ đó nhứt: Juliette và Nicole. Nhưng Phạm
Duy có lẽ tiếp xúc với họ gần gũi hơn tôi, nên nhớ đến một điều rất thực là “cô
bé Nicole dễ thương mà hôi nách”! Phạm Duy lại còn đặt lời Việt cho bản “Qui me délivra” (Duy để tựa là “Ai sẽ giải thoát tôi?”) mà Nicole
tự sáng tác và hát.
Trong lãnh vực điện ảnh cũng vậy,
chúng tôi đều làm những việc giống nhau: viết phụ đề phim, lồng tiếng phim (từ
tiếng Pháp, Anh sang tiếng Việt) và cả việc đóng phim. Nhưng rồi sau khi có
được tiền thù lao rất hậu, tôi lại trở về soạn Luận án Tiến sĩ tại Đại học
Sorbonne. Mỗi ngày, tôi vẫn xếp hàng để ăn cơm tại quán ăn sinh viên cho đỡ
tốn. Đối với tôi, tham gia vào điện ảnh là để có một số tiền sanh sống mà làm
luận án Tiến sĩ, mặc dầu được nhiều hãng phim bên Anh mời sang đóng nhiều phim
khác, nhưng tôi từ chối. Phong cách đó cũng rất tài tử.
Ngược lại, Phạm Duy khi bước chân
vào điện ảnh cũng làm tất cả những công việc như tôi đã làm, nhưng với tư cách
là một nhân viên chuyên nghiệp của Trung tâm Điện ảnh Việt Nam. Phạm Duy đã có
lần làm cả đạo diễn cho nhiều phim. Trong thời gian 10 năm làm việc ở Trung tâm
Điện ảnh, với khởi đầu là việc viết truyện phim cho tới khi trở thành phó giám
đốc trung tâm, Phạm Duy đã thực hiện nhiều bộ phim giá trị về âm nhạc, kịch
nghệ Việt Nam, như phim về hát bội, các điệu hò và một thiên nghiên cứu về nhạc
Chăm.
Duy đã trải qua cuộc sống tại
nông thôn rất lâu, sống chan hòa với những người nông dân và cảnh vật miền quê,
lại hưởng được những mối tình thôn dã. Chính cuộc sống như thế đã giúp cho Duy
có thêm kinh nghiệm ở đời, vừa làm giàu thêm chất liệu cho sự sáng tác của Phạm
Duy sau này.
Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội từ năm
1941, sống cuộc đời sinh viên trường thuốc, không có cơ hội vui sống cảnh thiên
nhiên thôn dã, gặp gỡ những người nông dân như Phạm Duy. Những người tôi gặp gỡ
hầu hết là sinh viên trường đại học, nữ sinh Trường Đồng Khánh thuộc giới tiểu
tư sản, lại bắt đầu sống giữa những người thanh niên lúc đó đang theo một phong
trào mang tên là “vui vẻ, trẻ trung”, chỉ biết ăn mặc đẹp, tán gái thị thành,
khiêu vũ những đêm cuối tuần trong các vũ trường. Tôi cũng đã gặp nhiều thiếu
nữ Hà thành, nhiều cô rất đẹp và giỏi. Các cô đó quyết định rằng “phi đại học
bất thành phu phụ”, phải là người lên tới đại học thì các cô mới ưng. Nhưng tôi
không bao giờ bị các cô cám dỗ mà quên đi nhiệm vụ chính là học hành.
Cuối
năm 1944 - đầu 1945, sinh viên Hà Nội đã chứng kiến được những nạn nhân chết
đói bên lề đường nên khi trở về Nam sau phong trào xếp bút nghiên, tôi lập ra
một nhóm diễn hài kịch của Huỳnh Văn Tiểng và hát những bài tân nhạc của Lưu
Hữu Phước, đi khắp Hậu Giang tổ chức những đêm văn nghệ bán vé lấy tiền mua gạo
cứu đói. Chúng tôi rất được trí thức ở các tỉnh ủng hộ bằng cách bán vé, có
người lại mua vé cho các trường để học sinh đi xe miễn phí, cùng đi khắp nơi và
khi trở về Sài Gòn, chúng tôi có dịp diễn tại rạp hát Aristo, lúc đó nổi tiếng
là một rạp hát giới thiệu tân nhạc nhiều nhứt.
Cùng trong lúc đó, Phạm Duy không
còn tham gia gánh Đức Huy đang hát cho đài Pháp Á những bản tân nhạc 3 lần
trong một tuần. Nhưng khi biết được có nạn đói do người Pháp và người Nhựt
tranh chấp nhau, không cho chở gạo thừa thãi miền Nam ra miền Bắc đang thiếu
thốn nên gây ra một nạn đói rất khủng khiếp, Phạm Duy cũng lấy tiếng hát của
mình tham gia một nhóm thanh niên giới thiệu tân nhạc, có lần biểu diễn tại rạp
Aristo để lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi không gặp nhau mà cùng có những
cách làm giống nhau ở chỗ đem tài nghệ của mình để phục vụ đồng bào trong lúc
khó khăn.
Năm 1947, tôi bị bắt nhốt vào
khám Catinat vì bị nghi là Việt Minh tại thành. Nhưng sau 3 tuần lễ, nhờ sự can
thiệp của một vài người quen, đồng thời Ban kháng chiến tại thành đã lo lót cho
một số mật thám, nên tôi được thả ra.
Trong khám, tôi được 3 phe ủng
hộ: phe kháng chiến cùng tôi chia sẻ những viên đường từ bên ngoài tiếp tế vào;
phe nhóm những người Quảng Đông (bị nhốt vì làm giấy thông hành giả cho Việt
Minh) thích tôi vì đã thuật lại những chuyện vui cho nhóm này nghe, và phía du
côn chiếm cả khu cầu tiêu là khu rộng rãi nhất do mùi hôi thúi cho nên không ai
chịu nằm gần đó. Trong số những người tù nhân du côn đó, có một anh trước kia
giúp việc cho người bà con của tôi, mà là “sếp sòng” đám này, gọi tôi bằng “cậu
Hai” nên không ai dám làm gì tôi hết. Tại đó, các anh em tù nhân lại đục một
ống nước để cho nước nhỏ giọt, lấy nước đó rửa mặt hoặc hứng vào lon để dành
xối vào người khi nóng bức.
Năm 1951, Phạm Duy cũng bị bắt và
nhốt vào khám Catinat cùng một lúc với Lê Thương và Trần Văn Trạch, nhưng bốn
tháng sau mới được thả ra. Trong khám, Duy gặp một người từng có tiền sự vào tù
ra khám, hiện đang bị nhốt vào Catinat để chờ ngày bị đưa ra Côn Đảo nên được
tù nhân gọi là “ngục vương”. Ông này có cảm tình với Duy nên cho Duy dựa lưng
vào một bức tường gần cầu tiêu để ngủ. Ở tù mà hai anh em chúng tôi cũng được
người ta thương mến, thật là khó có trường hợp nào giống nhau đến vậy!
Tôi thích làm văn nghệ hơn làm
chánh trị. Với tánh cách của tôi, tôi thấy trong chánh trị phần nhiều phải nói
tiếng nói của lý trí. Một khi tiếng nói của lý trí đã lấn át rồi thì tiêu diệt
cả tình cảm. Còn lý trí của tôi thì phải có đường cho tình cảm thoát ra, lý trí
chỉ được sử dụng như một phương tiện để kiểm tra tình cảm đừng đi quá đà mà
thôi.
Đời tôi không muốn cầm súng bắn
ai, mà cũng không muốn ai cầm súng bắn mình, cho nên khi trình bày với cấp lãnh
đạo kháng chiến, tôi đã xin phép để được làm những công việc hậu phương như làm
công việc cứu thương trong bệnh viện, hay làm trong dàn nhạc... Khi nghe những
lời trình bày của tôi, những người có trách nhiệm trong Ủy ban kháng chiến với
một tinh thần cởi mở đã chấp nhận quan điểm của tôi, bổ nhiệm tôi làm Nhạc
trưởng quân đội Nam bộ, với cấp Đại đội trưởng, được quyền lưu thông khắp Nam
bộ và sung công những nhạc cụ, nhạc khí, kể cả nhạc sĩ nào cần thiết. Tôi đi
kháng chiến với lý tưởng của một người thanh niên yêu nước và làm việc theo khả
năng có thể của mình để giúp cho đất nước.
Phạm Duy cũng vậy, càng đi sâu,
càng biết nhiều chuyện trong chánh trường, Duy càng thấy những mâu thuẫn giữa
các đảng phái, đến nỗi Duy cho rằng đó không là những gì lạ lẫm nữa. Bản thân
Duy cũng cảm thấy rằng mình không phù hợp với việc làm chánh trị. Nói như vậy,
nhưng không phải lúc đất nước lâm cảnh khốn cùng mà Duy bỏ mặc làm ngơ. Duy
cũng đi kháng chiến cứu nước, dấn thân không kém những người chiến sĩ khác.
Trên con đường dấn thân kháng chiến đó, Duy đã nhiều lần nhìn thấy những cảnh
thực xảy ra trước mắt mình chứ không phải chỉ là những điều do chính Duy tưởng
tượng. Duy đã trải nghiệm, đã kinh qua những xúc cảm theo thời cuộc trên con
đường chiến đấu vì lòng yêu nước của mình. Trong những bài hát của mình, Duy đã
đem những hình ảnh thực tế đó vào mà bày tỏ tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và
đặc biệt là tinh thần hòa giải. Duy chẳng những thông cảm với người chiến sĩ vì
nước xả thân trên mặt trận mà còn ca ngợi những chiến công của họ trên chiến
trường, chẳng những hát về những người lính ngoài tiền tuyến, ca ngợi tính
chiến đấu mà vẫn không quên những người nơi hậu phương đã âm thầm giúp đỡ tinh
thần, vật chất cho người chiến sĩ yên tâm cầm súng ra trận, không quên những
nỗi đau khổ, nhớ thương của người vợ ngày ngày ngóng tin chồng, người con đợi
cha về, người mẹ lo lắng cho đứa con đang đi đánh giặc ngoài xa...
Cũng như tôi, Duy là người yêu
văn nghệ. Duy sống cho con đường nghệ thuật của mình hoàn toàn, đặt cả tâm
huyết ở đó. Cả đời này, vì nghệ thuật mà Duy đã cống hiến trọn vẹn cả tình cảm
lẫn tài hoa.
3) Phạm Duy trong mắt tôi
Đối với tôi, Phạm Duy là một
người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ
“nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất
kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ
thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó
không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu
“chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và
phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong
nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của
Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn,
mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm
nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống
mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc
đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải
là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi
theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết
tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm
cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con
tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của
giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề
dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị
âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh
phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.
Duy không chỉ sáng tác được nét
nhạc hay bằng khả năng cảm nhạc thiên bẩm, mà còn có thể tự mình đặt lời nhạc
rất đẹp, rất thi vị, mang đậm tâm hồn, tư tưởng của người Việt Nam. Đó không
phải là khả năng tự có một sớm một chiều, mà do sự quan sát, học hỏi, rèn luyện
của Duy, cộng thêm cái khiếu cảm nhận tinh tế trong đời sống hằng ngày, trong
những cuộc “phiêu lưu” đó đây, rong ruổi khắp bốn phương trời từ Đông sang Tây,
để góp nhặt từng câu chuyện từ chính mình, góp nhặt những câu chuyện của quê
hương, dân tộc, phận người... mà dệt nên những lời tình tự xứng đáng được lưu
vào trang nhạc sử Việt.
Bên cạnh một con người Phạm Duy -
nhạc sĩ sáng tác, bản thân Duy còn là sự hóa thân của rất nhiều những con người
khác mang những khía cạnh khác mà không phải ai cũng có thể nhìn nhận thấy rõ
ràng, đầy đủ. Thuở còn trai trẻ, cậu thanh niên Phạm Duy (hay ta phải gọi bằng
cái tên Mộng Vân - áng mây mộng ước - do chính cậu tự đặt ra cho mình?) đã từng
là một kẻ du ca rong chơi năm tháng trên nhạc lộ thênh thang cùng với sức trẻ
yêu đời, lao vào đời bằng quả tim rực cháy tuổi thanh xuân. Và dẫu cho có bao
nhiêu năm qua đi nữa, Duy vẫn là một người ca sĩ tài hoa thực thụ, một ca sĩ chuyên
nghiệp rất danh tiếng thuở trước tại Đài Pháp Á, một ca sĩ tiên phong trong
phong trào đưa nhạc mới lên hát giữa các màn chuyển cảnh trên sân khấu gánh hát
cải lương Đức Huy - Charlot Miều... Trong những chương trình âm nhạc, những
buổi biểu diễn văn nghệ trong nước hay tại nước ngoài, “ca sĩ” Phạm Duy luôn
làm cho người khác thấy được cái tài biểu diễn ca hát thiên bẩm, khi tự mình
hát lên những sáng tác của mình một cách sống động nhứt. Một người nhạc sĩ có
đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng
truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó và cho tới
ngày nay, Duy vẫn là kẻ du ca hát lên những lời ca đẹp và thơ, được nhiều thế
hệ thuộc lòng mỗi khi Duy đem tác phẩm âm nhạc của mình giới thiệu trên sân
khấu cả nước.
Ngoài tài sáng tác không thể phủ
nhận, tài ca hát thu hút, Duy khiến cho người khác không khỏi say mê lạc bước
vào giọng nói trầm ấm, duyên dáng, thi vị của chất giọng Hà Nội thanh lịch khi
Duy dẫn dắt câu chuyện âm nhạc của chính mình. Trời phú cho Duy sự đa năng
trong nghề nghiệp, trong dòng máu nghệ sĩ vốn đã tài tình. Nếu nép sau tấm màn
sân khấu là người nhạc sĩ, đứng trên sân khấu biểu diễn với phong cách một ca
sĩ, thì Duy cũng đầy phong thái duyên dáng khi thực hiện vai trò người dẫn
chương trình. Thật là một kỳ tài! Duyên ăn nói của Duy không thua kém những nhà
văn thuyết trình trước công chúng, đôi khi lại có phần hấp dẫn hơn vì trong
chất văn chương còn thấm nhuần hơi nhạc. Nghe Duy kể từng kỷ niệm, trải từng
cung bậc cảm xúc trong lúc giới thiệu âm nhạc có khi còn thích thú hơn là đọc
một tập khảo cứu về những nhạc phẩm này.
Trước khi sang Pháp để tiếp cận
với Âm nhạc học (học tại lớp dạy Âm nhạc học của thầy Jacques Chailley năm
1954) thì Phạm Duy đã là một nhà “Dân tộc Âm nhạc học” hẳn hòi rồi! Ở Việt Nam,
Duy đã tự mình ghi âm, ghi hình, sắp loại các bài Dân ca và các bài Lý, những
câu Hò ở nông thôn Việt Nam... và tự ký âm các bài nhạc đó. Duy đã có cách nhìn
rất khoa học trong việc phân loại, sắp xếp và ghi chép những vấn đề liên quan
trong khi tìm hiểu về Dân ca, Dân nhạc Việt Nam. Việc làm của Phạm Duy lúc đó
cho ta thấy rằng Phạm Duy có phong cách của một người nghiên cứu Dân tộc Nhạc
học, có đầu óc tìm tòi và làm việc chuyên nghiệp không thua kém gì những nhà
nghiên cứu thực thụ.
Ngoài việc sưu tầm và nghiên cứu
Dân ca lúc đầu, sau này trong những chuyến đi xuyên Việt, Phạm Duy lại có dịp
tiếp cận với nhiều bộ môn âm nhạc khác như: Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử, các điệu Hát
Lý, điệu Hò của Trung, Nam bộ, và đặc biệt hơn nữa là thể loại Âm nhạc Dân tộc
thiểu số ít ai chú ý tới... Mỗi lần tiếp cận là mỗi lần Duy ghi chép rất kỹ
lưỡng, sâu sắc để sau này có dịp cho ra đời cuốn “Đặc khảo về Dân ca Việt
Nam” mà khi được đọc, tôi đã rất
ngạc nhiên; đồng thời, cũng thán phục tinh thần nghiên cứu của bạn mình.
Duy theo dõi nhiều và đi sát phong trào nhạc mới từ lúc khởi thủy cho đến những
giai đoạn phát triển ra nhiều trào lưu. Duy cũng có được những điều kiện thuận
lợi khi quen biết với những bạn bè, các bậc tiền bối văn nghệ sĩ, nhất là giới
nhạc sĩ và từng nhiều lần trao đổi, trò chuyện với họ, biết được từng thời điểm
ai làm gì, sáng tác như thế nào... Đó là một lợi thế của người nhạc sĩ có óc
nghiên cứu và phân tách tài tình từ trong máu như Duy. Từ những lợi thế như
vậy, mỗi nhạc phẩm của Duy đưa ra đều mang tánh cách thời sự, gắn liền với từng
sự kiện xảy ra trong đất nước: thời bình, thời chiến, thắng trận, thất bại, thế
thời đổi thay... và không thiếu những hình ảnh rất chân thật, sống động ở những
nơi mà dấu chân Duy đã đi qua, in lại trong ký ức một cách sâu sắc rồi trở
thành những hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc. Tôi cho rằng trong
con người Duy, không những có sức khám phá của một nhà khoa học mà còn hội đủ
các yếu tố cần có nơi một nhà nghiên cứu, một sử gia, một nhà xã hội học, một
văn nhân biết ghi lại quá trình làm việc và suy tư của mình.
Bên cạnh những Phạm Duy nghệ sĩ
và Phạm Duy tài tình trong nghiên cứu, cũng ít ai để ý tới một Phạm Duy - nhà
kinh doanh, nhà sản xuất âm nhạc cực kỳ nhạy bén, mát tay. Duy tự mở studio
riêng cho mình, đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho
công việc sáng tạo nghệ thuật. Xem có vẻ như Duy luôn muốn thử thách mình ở mọi
lãnh vực, hệt như cái bản tánh hiếu kỳ ưa thích tìm hiểu mà ông Trời ban cho.
Mà thật lạ, lãnh vực nào Duy cũng làm rất tốt và thành công. Óc khám phá không
bao giờ để Duy ngồi yên. Duy tự tay thâu âm băng dĩa nhạc, sử dụng tài tình máy
vi tính, tự thiết kế và phát hành sản phẩm âm nhạc của mình, theo rất sát công
nghệ hiện đại không thua kém chi việc theo sát phong trào âm nhạc khắp nơi.
Đồng thời, có thể coi Duy giống như người làm quảng cáo tài năng khi chính bản
thân Duy tự đi giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng... Với bấy nhiêu
công việc làm đó cũng đủ thấy Duy là một người đa tài, bản lãnh.
Duy mặc dầu Trời sanh có tánh
ngang tàng, nhưng cũng là người hiểu tôn ti trật tự khi vẫn biết nghe lời người
anh của mình là Phạm Duy Khiêm. Trong lúc đang ưa thích học về văn hóa và học
rất giỏi mà phải bỏ để vào một trường học nghề (bá nghệ) theo sự quyết định của
người anh, dầu có đắn đo hay không thỏa mãn, nhưng Duy vẫn nghe theo lời anh
của mình. Suốt cuộc đời, đứa con Phạm Duy lúc nào cũng nghe theo lời của mẹ,
vâng theo sự chỉ dạy, săn sóc, đảm nhiệm trông coi việc học tập từ những người
bạn của cha mình (các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh). Duy cũng là người
con thương cha thương mẹ, thương anh em trong gia đình (nhắc về người anh Phạm
Duy Nhượng); nói rộng ra, trong xã hội thì Phạm Duy có cả tinh thần yêu thương
đất nước một cách sâu sắc đậm đà và không lay chuyển. Cho nên, trong mỗi trường
hợp, nhiều khi có những hành động mà người thường khó hiểu, cho rằng Phạm Duy
là người ham danh ham lợi, nhưng riêng tôi thì lại thấy rằng không có lúc nào
mà Phạm Duy không yêu nước Việt Nam. Phải thực sự yêu quê, yêu nước mới có thể
sáng tác ra những bài ca tuyệt đẹp cả nhạc lẫn lời và những bài hát đi sâu vào
tim của mỗi người Việt Nam ở các tầng lớp và mọi thế hệ trong xã hội.
Về cuộc sống của Duy, trong mắt
tôi, Duy là một người trọng gia đình, luôn nhớ đến vợ con của mình, luôn muốn
vợ chồng, con cái đều cùng chung sống dưới một mái nhà, dẫu cho trong đời Duy
đã từng là một kẻ “giang hồ phiêu bạt”. Khi tôi đến thăm vợ chồng Phạm Duy, thì
luôn thấy cảnh sum họp gia đình rất đầm ấm. Điều đó khiến cho tôi thêm phần quý
trọng người bạn thân của mình, và cho rằng nhờ cách ứng xử khéo léo trong,
ngoài của Duy mà có thể giữ được nếp nhà một cách thuần tuý Việt Nam như vậy.
Với các con, mặc dầu mỗi người đều có cá tánh riêng, đều ưa thích tự do phóng
túng như Duy, nhưng người cha chưa hề bó buộc con cái. Đối với bố, các cháu đều
có sự kính phục yêu thương.
Tại Mỹ, Duy còn lập phòng thu
riêng tại nhà và tự mình sản xuất băng đĩa, mọi việc đều do các con của Duy
đứng ra giúp bố thực hiện. Kể cả việc mua nhà cũng vậy. Khi tính đến việc mua
nhà thì cũng ít khi nghĩ phải ở xa nhau. Ít có gia đình nào tại Mỹ lại có cha
mẹ, con cái sống chung như gia đình Duy. Các con thì mỗi tháng mời cha mẹ và
anh em cùng ăn cơm chung với nhau tại những nhà hàng có thức ăn ngon, do mỗi
người đãi một lần. Dẫu Duy là người phóng túng nhưng vẫn giữ những nề nếp
truyền thống của người Việt Nam, giữ lại được những nét sinh hoạt của người
miền Bắc trên xứ sở tự do này. Duy khéo léo sắp xếp, ứng xử để gia đình có cuộc
sống như cuộc sống của những gia đình truyền thống Việt Nam. Ở nước Mỹ - nơi mà
người ta coi trọng quyền lợi và cuộc sống cá nhân, gia đình Phạm Duy là một gia
đình khó kiếm.
Có những lúc thăng trầm, Duy nhận
tiếng khen cũng nhiều mà lời lẽ chê bai cũng không phải ít. Nhưng Duy là người
biết phục thiện, biết nghe lời khen lẫn những tiếng chê, không bao giờ để trong
bụng sự hận thù. Tinh thần ấy thể hiện trong nhạc phẩm Mẹ Việt Nam:
“Mẹ Việt Nam không đòi xương máu
Mẹ Việt Nam kêu gọi thương nhau”
Vì những lẽ kể trên mà tôi đã gọi
Duy là một người nhạc sĩ toàn diện với tất cả ý nghĩa của danh từ đó. Suốt
chiều dài thời gian của dân tộc, Duy đã “khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi”. Từng sự kiện xảy ra với quê hương, Duy đều
đi sát bên, đều cảm nhận bằng thứ tình cảm của một người con của dân
tộc, người cháu, người anh, người em của thế hệ mình.
Phạm Duy là con người muốn sống
tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên
đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về
phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại,
phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống
của mình.
Một số người cho rằng Duy không
có lập trường chánh trị, nhưng họ chưa, hoặc không chịu nhìn vào cái tình yêu
nước thương nòi luôn sôi sục trong con người Duy. Duy là một người con có hiếu
với cha mẹ và có một lòng yêu nước theo quan điểm của mình. Từ trong những tác
phẩm âm nhạc, người ta đã thấy rõ tình yêu Việt Nam mà Duy hằng gieo vào lòng
bao người yêu nhạc qua những “tiếng nước
tôi”, qua những hình ảnh gần gũi quen thuộc gợi lên bao nhiêu kỷ niệm về
dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ hiện diện trên từng bản nhạc, lời ca,
phải có tình yêu thực sự bắt nguồn từ chính con tim nồng nàn yêu thương thực sự
mới khiến cho tình yêu đó vĩnh hằng cùng năm tháng. Duy luôn luôn yêu quê hương
mình, đó là sự thực, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Đối với Duy, lúc nào và ở
đâu cũng một lòng quý trọng tự do của đất nước, không bao giờ chấp nhận sự đô
hộ của ngoại bang. Nhưng Duy luôn tôn trọng lập trường của những người khác như
có lần Duy đã nói với tôi. Và mục đích cuộc đời của Duy chỉ là làm cách nào để
cho đất nước giàu mạnh hơn trong mọi mặt. Chính Duy đã hết lòng tham gia vào
văn hóa văn nghệ để làm giàu thêm cho lãnh vực này của dân tộc.
Trong cách ứng xử ở đời, Duy luôn
có một thái độ hòa giải và luôn mong rằng dân tộc Việt, dầu ở miền nào, đều coi
nhau như anh em ruột thịt “nhìn Trung Nam
Bắc xếp hàng mến nhau” (Tình ca) với tấm lòng rộng rãi bao la, yêu
thương và tha thứ (Mẹ Việt Nam - trong chương “Biển Mẹ”), chẳng bao giờ
muốn “đòi xương máu” mà chỉ “kêu gọi thương nhau” (Mẹ Việt Nam -
đoạn chót).
Thỉnh thoảng, trong những trường
hợp bất khả kháng về chánh trị, hoặc là những sự hấp dẫn nhứt thời về đời sống
vật chất, Duy có những sáng tác không phù hợp với bản chất của chính mình,
nhưng đó chỉ là vài trường hợp rất ít trong những giai đoạn rất ngắn so với
cuộc đời và gia tài sáng tác đồ sộ của Duy. Theo tôi, tuy Duy không phải là một
con người toàn thiện toàn mỹ, nhưng là một người đối với mình trước sau như
một, và phải nhìn nhận rằng, bạn của tôi là một người yêu quê hương đất nước!
Ước mong rằng Duy luôn có được
cuộc sống an nhiên tự tại, an bình với đời, với người và với mình, làm được
những việc Duy yêu thích mà thấy rằng cuộc đời vẫn đẹp, để “... khi đêm chết chưa về” thì “nắng
chiều hồng tươi hơn nắng trưa”.
Duy thương mến!
Khê vẫn còn nhớ lần đầu tiên nghe
Duy trình bày CD-ROM “Con đường cái quan”
do chính tay Duy tự làm trên đất Mỹ, không những với lời và nhạc đầy cảm xúc mà
còn nhìn thấy được những phong cảnh đẹp của quê hương Việt Nam, Khê đã ôm Duy
và khóc. Chúng ta có chung những tình cảm, những đồng điệu mà không phải ai
cũng có thể hiểu được tất cả. Duy ơi, chúng ta đã đến, đã đi và đã về, đã làm
và đã sống, đã yêu và đã mơ, đã thăng và đã trầm, đã cười và đã khóc... suốt
hai thế kỷ này. Mong rằng tình thân của chúng ta mãi vĩnh hằng, mãi đẹp như
những lời Khê từng chúc Duy, cũng như chúc cho anh em mình khi tròn cửu thập:
“Biết nhau quá tuổi đôi mươi
Hôm nay mừng bạn chín mươi tuổi rồi
Mặc cho vật đổi sao dời
Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau
Đến khi trăm tuổi đẹp lời chúc nhau”
Sẽ “còn ngồi bên nhau”, phải
không Duy?
Bình
Thạnh, Sài Gòn,
mùa Đông Nhâm Thìn 2012
Trần Văn
Khê
(Theo Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số báo 808 & 809 -
http://kienthucngaynay.info/ - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Feb/2013 lúc 6:28pm
Saturday, 2 February 2013
Trần Văn Khê viết về Phạm Duy
Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau...
Trần Văn Khê
( http://kienthucngaynay.info/ - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)
*
Viết về Phạm Duy, bao người đã viết, lời đẹp
vô cùng, tình đầy bất tận... Nói về Phạm Duy, giờ sẽ nói gì? Nói gì đây cho
mình không đi quẩn quanh trong các lối đường xưa cũ tràn ngập hỷ, nộ, ái, ố...
mà Duy từng thấy, từng nghe?
Hai thế kỷ cho một kiếp người, quá đủ thăng trầm, quá nhiều rộn ràng,
biết bao nghi ngại... Vậy mà kẻ lữ hành trên nhạc lộ Phạm Duy vẫn cứ thong dong
đi hết miền trần thăm thẳm của riêng mình, yêu đời này, sống trọn vẹn đời này.
Nhìn Duy mãi là Duy, dẫu cho Duy là Duy của ngày cũ, Duy của ngày nay hay Duy
của ngày sau xa xôi đi nữa, tình thương đối với Duy ngày càng sâu đậm trong
tôi, tình bạn của hai anh em vĩnh viễn bền chặt trong nhau.
Đã quá 90 năm rồi, Phạm Duy và Trần Văn Khê vẫn cứ thân thiết đi cùng
nhau trên chuyến xe đời, vẫn ôm nhau khóc cười bao trận giữa nhân sinh. Để rồi
với những hạnh phúc, khổ đau từng nếm đó, tôi tìm ra trong cuộc đời hai anh em
những tương đồng kỳ lạ mà ít tình bạn thâm giao nào có thể có được. Hy hữu
chăng? Hay do ông Trời sắp xếp? Thôi thì để các bạn tự mình ngẫm nghĩ vậy...
1. Thời thơ ấu hồn nhiên
Chúng tôi chào đời trên dải đất
Việt Nam cùng trong năm Tân Dậu (1921) và cách nhau 3 tháng. Tôi sanh tại Tiền
Giang (miền Nam nước Việt) trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ truyền thống, còn
Phạm Duy thì sanh tại Hà Nội (miền Bắc nước Việt) trong một gia đình văn nhân,
nghệ sĩ (có cha là cụ Phạm Duy Tốn - một nhà văn). Tôi tự hỏi không rõ số phận
đã sắp đặt như thế nào để hai anh em chúng tôi, tuy cách xa nhau về địa lý mà
lại có nhiều sự gần gũi trong cuộc sống đến như thế?
Thuở nhỏ, tôi đã được cậu Năm tôi
là ông Nguyễn Tri Khương đặc biệt thai giáo từ lúc còn trong bào thai. Đều đặn
mỗi ngày, cậu Năm đến thổi sáo cho thai nhi nghe. Lúc chào đời, tôi vừa được
nghe tiếng sáo của cậu Năm vừa được nghe thêm tiếng tỳ bà của ông nội. Cả một
thời thơ ấu của tôi được tắm nhuần trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, giữa
một vùng đất đậm chất đờn ca tài tử. Chẳng biết Duy đã được thai giáo như thế
nào, nhưng nhìn thấy tánh cách của Duy, từ phong thái, tính tình đến lối sống,
tôi cảm thấy Duy đã được sống trong một không gian thật tự do, chan chứa niềm
mê say với thế giới tuổi thơ đầy thơ mộng của mình.
Môi trường sống nơi “thôn ổ”
(theo cách Duy nói) đã tạo cho bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời khi còn
là một đứa trẻ. Duy là đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, mà cũng có những lúc tinh
nghịch, hiếu kỳ đối với muôn chuyện lý thú xung quanh. Nhãn quan trẻ con của
Duy lúc bấy giờ có nhận thức khá rõ rệt về những gì xảy ra trong đời sống của
mình. Duy lại có trí nhớ rất tốt để ghi lại bao nhiêu câu chuyện ngày xưa, mà
khi tôi đọc lại hồi ký của bạn, có thể tưởng tượng thấy những hình ảnh ấy hiện
rõ mồn một trước mắt, như mình đang đi vào trong ký ức của Duy để viếng thăm
một thời đã qua của bạn, với những dòng chữ do tự tay Duy phác thảo và đánh
máy. Trí nhớ về tất cả quãng đời mà bạn đi qua đã ghi lại rất nhiều điều độc
đáo về chân dung của những con người bạn đã gặp, những thăng trầm của một xã
hội, những biến thiên của một giai đoạn lịch sử... Tuy không được thai giáo như
tôi, nhưng Duy đã được sống giữa phong khí văn chương, âm nhạc. Cha mẹ không
phải là nhạc sĩ, nhưng Duy có người dì chuyên hát ca trù và bản thân Duy đã sớm
tiếp cận với môn nghệ thuật tế nhị, sâu sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Duy cũng có dịp nghe và thích ca nhạc Huế ngang qua tiếng đàn tranh của bà thầy
dạy hai người chị. Nhờ sống nơi làng quê, gặp gỡ với người nông dân nên Duy
cũng quen thuộc với dân ca từ nhỏ... Có gì thích thú cho bằng đứa trẻ được sống
thật vui tươi, nồng nàn tuổi xanh giữa thiên nhiên tự tại, ngấm vào máu xương
nét đẹp văn hóa dân tộc tự lúc nào mà không hay!
Tôi mồ côi cả cha và mẹ, nhưng có
người cô đã thay mặt cha mẹ dạy dỗ tôi từ bé, và tập cho tôi biết sống tự lực
cánh sinh. Tôi được nên người như hôm nay cũng do phần lớn ở công lao săn sóc,
dưỡng dục của cô Ba tôi – một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Sống trong cảnh
nghèo, người cô vẫn sớm hôm tảo tần nuôi dạy cho anh em tôi ăn học.
Phạm Duy tuy mồ côi cha nhưng còn
có mẹ. Mẹ của Duy cũng giống như hầu hết các bà mẹ Việt Nam trong xã hội Hà Nội
trí thức tiểu tư sản, đã khéo xoay xở để nuôi anh em Phạm Duy khôn lớn.
Trong gia đình tôi không có ai
theo đạo Phật, nhưng cạnh nhà tôi có ông thầy cúng. Mỗi lần ông dạy học trò là
tôi đứng ngoài học lóm. Chính vì vậy mà tôi thích tụng niệm kinh Phật. 5 tuổi
mà tôi đã đọc Chú Vãng Sanh rất làu. Đến nỗi cả xóm mỗi khi ai có phận sự cắt
cổ gà để đãi khách thì đều phải nhờ cậu bé Khê đến đọc Chú Vãng Sanh để cho con
gà được đầu thai. Tôi cũng thuộc kinh A Di Đà và sau thì thuộc tới Bát Nhã Ba
La Mật Đa tâm kinh. Ngoài ra, tôi còn bắt chước thầy cúng tán “ly bà ly bà đế...” mà không hiểu lời
chi cả.
Thật là một sự trùng hợp hy hữu!
Duy lại được mẹ dạy tụng những câu kinh Phật như: ”…Lư hương xạ nhiệt, pháp giới mông vân, chư Phật hải hội...”.
Duy cũng thuộc kinh rất nhiều. Duy thuộc cả kinh Dược Sư, đọc vanh vách cũng
như tôi đọc “ly bà ly bà đế...”, mà
không hiểu chữ nào! Duy chỉ đọc thuộc theo bản tánh tự nhiên của con trẻ do có
được sự ảnh hưởng Phật giáo ngay lúc nhỏ từ người mẹ của mình. Trong hồi ký,
Duy đã kể lại, tuy không giàu có để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần
áo mới cho các con, nhưng mẹ Duy đã biểu lộ tình yêu thương bằng cách luôn cho
Duy đi theo mẹ trong bất cứ một cuộc lễ xa gần nào. Nhờ đi lễ ở nhiều đền chùa
nổi danh miền Bắc, nhìn thấy cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm cho Duy muốn
trở thành một con người hiếu đạo.
Tôi và Duy đều là những đứa trẻ
có sự ham thích âm nhạc, văn chương một cách đặc biệt. Vốn sanh ra trong một
gia đình âm nhạc tài tử truyền thống, tôi đã có được một năng khiếu về nhạc
ngay từ nhỏ. Nghe người lớn đờn mà tôi có thể tự mò trên cây đờn kìm nhiều bản
dễ như Lưu Thủy, Bình Bán, Kim Tiền... Tôi không được học chánh thức với một
người thầy nào hết, nhưng may mắn được nhiều người chỉ giáo. Chỉ riêng cậu Năm
Khương đã dạy tôi đờn bài Ngũ Đối Hạ trên cây đờn cò lúc 8 tuổi và cô Ba tôi
dạy tôi bản đờn tranh Nam Xuân nhịp tư lúc tôi lên 12. Anh Ba Thuận - con cậu
Năm là người gần gũi tôi nhứt và hay hòa đờn với tôi. Chính anh là người đầu
tiên dạy tôi đờn bản Vọng cổ nhịp 8 trên cây đờn kìm.
Riêng Duy, do được sanh ra trong
một gia đình có bố là văn sĩ, các anh em ruột cũng như anh em họ đều có máu văn
chương, đến khi bố mất lại được các bạn văn chương của bố chăm sóc việc học
tập, cho nên ngay từ nhỏ, Duy đã có một sự nhạy bén với văn chương và thi ca.
Tôi không ngờ rằng Duy lại có một người anh họ rất nổi tiếng là Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc, tác giả 2 cuốn “Tục ngữ phong dao” và “Cổ học tinh hoa” là cuốn sách gối đầu giường của tôi hồi học
tiểu học.
Ngay khi còn nhỏ, Duy đã bộc lộ
tánh cách rất “bạt mạng” và ưa phiêu lưu đây đó, như đám mây “Mộng Vân” thuở
nhỏ mẹ Duy nằm mơ thấy. Phạm Duy đã từng bỏ nhà theo một anh làm trò “quỷ
thuật” sau khi bị mê hoặc bởi cuốn tiểu thuyết Vô gia đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Cũng thật
trùng hợp với tuổi thơ “bỏ nhà đi giang hồ” của Duy, tôi cũng có lần
“quên về nhà” vì đi coi những trò ảo thuật của gánh hát Mai Thành Cát, đặc biệt
rất say mê tiếng ngâm sa mạc của một người nghệ sĩ trẻ tuổi tên Sáu. Tôi vốn
sanh trong gia đình âm nhạc, lại ưa nghệ thuật, nên khi nghe anh Sáu ngâm thì
cảm thấy rất xúc động. Vãn hát đêm đó, tôi không về nhà mà ở lại ghe hát gặp
anh Sáu. Hai anh em trò chuyện với nhau tới sáng, không muốn rời nhau. Ông Mai
Thành Cát nhân thấy sự thân thiết của chúng tôi nên muốn xin cô tôi cho tôi đi
theo gánh hát của ông để ông truyền nghề. Cô tôi không đồng ý, lại còn rầy tôi
về tội đi coi hát mà không nhớ giờ về nhà.
Cuộc sống tuổi thơ của Duy gắn
liền mật thiết với Hồ Gươm đầy thi vị. Trong tâm tưởng của Phạm Duy, Hồ Gươm là
một nơi thơ mộng, như “con mắt buồn bã của người tình”, như một “hồn ma người
đẹp” trong truyện Liêu Trai với mỗi buổi chiều mùa lạnh sương mù tỏa xuống mặt
hồ. Duy thấy được những hoàn cảnh thực tế của nước hồ xanh đục lặng lẽ, những
xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống nước hồ... qua đôi mắt
trẻ con lúc nào cũng hừng hực nỗi... hiếu kỳ! Và Duy cũng đã chứng kiến những
môi hôn ngọt từ các cặp tình nhân trên cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn.
Ngay cả con sông Hồng, nơi mà Duy hay chạy chơi trên bãi cát rộng vào mùa nước
cạn, hoặc đứng coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước đề
phòng lũ lụt vào mùa nước lũ, đã gắn bó không biết bao nhiêu cái tình thơ dại
của Duy với cảnh vật nơi đây.
Tôi không có được Hồ Gươm đầy thi
vị và sông Hồng rộn ràng khi nước cạn, lúc nước lũ như Duy, nhưng tôi được sống
trong nông trại của cậu Năm tôi, mắt luôn nhìn những thửa ruộng xanh cò bay
thẳng cánh, vào mùa cấy thì được nghe những câu hò điệu lý của những đoàn công
cấy. Tôi cũng rất thương con sông Sầm Giang chảy qua trước nhà tôi tại Chợ
Giữa, thích chèo đò ngang và tắm lội trong dòng sông Sầm Giang “rì rào dừa nước hai bên” (trong một câu
thơ mà Xuân Diệu viết tặng tôi nhân dịp nghe đờn ca tài tử trên sông). Đêm đêm,
vang tiếng hò đối đáp trên sông! Nơi này đã gắn liền với tôi rất nhiều kỷ niệm
thân yêu, mộc mạc. Sầm Giang là con sông nối liền hai làng Vĩnh Kim Đông và
Vĩnh Kim Tây, mà Chợ Giữa thuộc Vĩnh Kim Đông, cho nên những người ở Vĩnh Kim
Tây mỗi sáng đều đi đò ngang sang Vĩnh Kim Đông để họp chợ. Vì thế mà tôi rất
thích thay anh lái đò để chèo những chuyến đò ngang chở người lại qua. Trên
những chuyến đò đó, tôi từng nhiều lần được thấy hình ảnh người mẹ đi chợ về,
trên bờ đứa con ngồi chờ mẹ, rồi khi người mẹ đưa chiếc bánh phồng cho đứa con
thì đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ thật chặt, trong ánh mắt hiện lên niềm quấn quýt
thương yêu rất xúc động và đậm đà tình mẫu tử. Qua những chuyến đò ngang ngày
ấy, tôi đã làm một sợi dây nối kết đưa người mẹ về với con, và có lần tôi có
dịp cứu 2 đứa trẻ sắp chết đuối.
Tôi cũng đã có dịp ghi lại những
cảm xúc đó trong bài thơ “Vịnh cây chèo”, một bài tập trong lớp dạy văn và chữ
Hán cho cấp tiểu học ở Trường Tam Bình (Vĩnh Long) của thầy Thượng Tân Thị -
một thi nhân đã sáng tác 10 bài “Khuê phụ thán”, lúc tôi 13 tuổi:
“Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng
Quyết chí đưa người qua bể khổ
Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân”
Duy cũng biết làm thơ từ lúc nhỏ,
lại được những nhà văn lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh chăm lo từ bé,
nên chất văn chương bén rễ dần trong Duy là lẽ tự nhiên. Bài thơ đầu tiên của
Duy phóng khoáng, nghịch ngợm mang đầy dấu ấn của tuổi thơ:
“Nhà tôi ở phố hàng Dầu
Số nhà 54, đứng đầu du côn”
Từ nhỏ đã có phong cách phóng
túng, không chịu gò bó, thơ văn tự do nghịch ngợm, nhưng chất thơ trong người
Duy rất dồi dào, về sau trong những bài hát do Duy sáng tác luôn luôn đầy thi
vị.
Trong gia đình bên ngoại Phạm Duy
có người họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc, bị Pháp gọi là “giặc”. Trong hồi ký,
Duy viết: “Thế ra trong tôi có dòng máu
nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh
Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng”... Duy đã sớm nhận ra được những nỗi thống khổ
của dân mình do thực dân Pháp gây nên, và tự nhận thức được những gì mà
ông Duy làm không phải là việc làm của một kẻ “nổi loạn” chống lại luật pháp
của kẻ mang quân đi đánh chiếm quê hương mình. Cái “nổi loạn” của người ông bên
ngoại Duy là nổi loạn để làm cách mạng, để thoát khỏi cái ách gông xiềng, thuộc
địa. Và cũng thật ngẫu nhiên, Duy cũng tình cờ được tiếp xúc với những nhà cách
mạng yêu nước qua những bài hát tuyên truyền thời đó. Duy cảm thấy thích những
bài hát này và những hành động cách mạng của các vị tiền bối đã khiến Duy xúc
động, vì Duy tận mắt mục kích được hành động của những người anh hùng bằng
xương bằng thịt ngay chính trên đất nước này chớ không phải nơi nào xa vời.
Và thật lạ, tôi cũng có cơ hội
sớm tiếp xúc với những nhà cách mạng bằng xương bằng thịt ngay trên quê hương
như Duy, nhưng không phải do tình cờ mà do họ là những người cùng tổ chức với
mẹ tôi. Mẹ tôi là một người sớm gia nhập “Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội”,
tiền thân của Đảng Cộng sản và trong lúc tôi còn nhỏ đã giới thiệu với tôi
những người bạn đồng hành, toàn là những người xả thân vì nước.
Tôi được những người cách mạng cùng
tổ chức với mẹ cho nghe những bài hát như “Ơi hỡi đồng bào”, mà lạ thay Phạm Duy cũng tình cờ biết được
bản đó. Tôi cũng được tiếp cận với một số bài do những nhà cách mạng
phỏng theo làn điệu dân ca Pháp mà đặt lời Việt để nhắc nhở dân tộc Việt Nam là
một dân tộc bị mất nước, bị trị. Thuở đó, tôi thường hát đi hát lại:
“Ơi hỡi đồng bào, ơi hỡi đồng bào!
Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy!
Nước mất! Nước đã mất rồi!
Dân lầm than! Dân lầm than!”
Bài ca lời Việt phỏng theo bài
dân ca Pháp “Frère Jacques” (Thầy dòng
tên Jacques) thì tại Hà Nội, Phạm Duy cũng đã nghe bài ấy:
“Hỡi hỡi đồng bào! Hỡi hỡi đồng bào!
Tỉnh dậy mau! Tỉnh dậy mau!
Nước ta đã mất rồi
Mau tỉnh mau, mau tỉnh mau!”
Ngày còn thơ ấu, tôi học trường
tiểu học tại Tam Bình - Vĩnh Long. Tôi rất thích môn Récitation (trả bài học
thuộc lòng bằng tiếng Pháp) và được thầy dạy cho cách đọc ngụ ngôn của La
Fontaine (Le Loup et L’agneau), vừa đọc vừa ra bộ, diễn xuất làm con chó sói và
con trừu (cừu). Cách học đó thật thích hợp với tánh ưa biểu diễn của tôi.
Còn Duy học trường tiểu học tại
Hàng Vôi - Hà Nội. Duy cũng rất thích Récitation, được thầy dạy đọc, dạy diễn
xuất người sĩ quan và người lính bị thương trong bài “Après la bataille” (Sau
trận đánh) của Victor Hugo.
Trong thời kỳ tiểu học, tôi rất
thích những bài học về sử ký hay luân lý mà hát lên theo điệu đờn ca tài tử, có
khi bằng cả tiếng Pháp: “Mes chers enfants” theo điệu Hành Vân. Phạm Duy cũng
thích y một bài đó bằng tiếng Pháp.
Cùng một bài Bình Bán Vắn mà tôi
học 2 bài tiếng Việt:
“Liu tồn liu xáng u
Xáng trên đầu ba bốn cục u…”
Và tiếng Pháp:
“Il était une fois…
Une jeune fille appelée Jeanne d’Arc
Son père était Jacques d’Arc
Sa mère Isabelle Rosner”
(Ngày xửa, ngày xưa,
Có người thiếu nữ tên là Jeanne d’Arc
Cha tên là Jacques d’Arc
Mẹ là Isabelle Rosner)
Cũng giai điệu bài Bình Bán, Phạm
Duy học lời ca khác:
“Tôi chờ cô tối qua
Đến bây giờ chẳng thấy cô qua…”
Mặc dầu không được học hết trung
học vì bị người anh bắt chuyển sang học nghề, nhưng Duy vẫn rất ham học hỏi,
rất thích tiếng Pháp và đặc biệt rất thích đọc sách. Nhờ trong nhà có người anh
là Phạm Duy Khiêm rất giỏi về Pháp văn (ông là Thạc sĩ văn chương Pháp), lại có
một tủ sách nên Duy thường hay lén đọc và đã làm quen với những nhân vật trong
nhiều bộ tiểu thuyết bằng tiếng Pháp của các tác gia nổi tiếng.
Ở trong Nam, tại làng tôi có một
người tự học tiếng Pháp và có một tủ sách riêng, tên là Trần Năng Thận, tôi hay
gọi là bác Sáu Thận. Bác không cho ai mượn sách cả vì sợ bị người khác làm hư.
Nhưng khi thấy tôi cẩn thận lúc đọc sách nên bác cho tôi thong thả muốn đọc bao
nhiêu cũng được. Do đó, tôi cũng đã biết đến nhiều nhân vật trong các cuốn tiểu
thuyết của những tác gia lớn giống như Phạm Duy. Đọc sách rồi, tôi thuật lại
cho cô và mấy em tôi nghe nội dung sách bằng tiếng Việt. Cô tôi không đọc được
tiếng Pháp mà vẫn biết rõ cốt truyện của tiểu thuyết Notre Dame de Paris của
Victor Hugo, trong đó, anh chàng gù lưng Quasimodo yêu nàng vũ nữ Esmeralda...
Ngoài ra, anh em chúng tôi còn ưa
thích cái việc đóng tuồng theo những nhân vật anh hùng hiệp sĩ, kiếm khách. Duy
thì ưa đóng tuồng theo phong cách kiếm hiệp, còn tôi thì thích đóng tuồng cải
lương. Tôi đã có thời kỳ mê đóng vai Tarzan - người hùng của rừng xanh, từng
cởi trần đánh đu trên cây da, hú lên những tiếng hú vang dội như Tarzan ở rừng
sâu. Còn Duy thì lại trở thành hiệp sĩ Zorro đeo mặt nạ, mang gươm đòi công lý.
Tôi thích xem bóng đá và cũng
từng tổ chức nhiều cuộc đấu bóng đá cho Hội Thể thao Trường Pétrus Ký, ra Hà
Nội luôn ủng hộ đội bóng đá của trường đại học bằng những hành khúc của Lưu Hữu
Phước. Chúng tôi hát bản “Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc) mỗi khi quả bóng lọt vào lưới đối phương.
Duy cũng mê đá bóng kinh khủng,
luôn luôn theo dõi thành tích của Hội ÉCLAIR (Tia Sáng) vốn là hội bóng nhà,
trụ sở ở ngay phố Hàng Tre. Mê đến độ nhớ tên các cầu thủ theo thứ tự ra quân,
như nhớ một bài thơ không có vận:
Ty, (thủ môn) Tâm, Biềng (hậu vệ)
Mao, Tâm, Thịnh (trung phong)
Phao, Mai, Hựu, Trọng, Tín (tiền đạo)
Hồi còn nhỏ, tôi rất ưa xem
xi-nê, thích nhất là cô đào Danielle Darieux. Duy cũng ưa xem xi-nê, mà thích
nhất là cô đào Anabella. Té ra hai em chúng tôi cũng có sở thích giống nhau: cả
hai nàng diễn viên mà hai anh em thích đều có đôi mắt xanh và mái tóc vàng.
Thật là mơ mộng!
Trong những trò giải trí của con
nít thời bấy giờ, tôi thích xem hát xiệc nhưng đồng thời cũng thích luôn trò ảo
thuật, thôi miên và rất mê gánh hát của Mai Thành Cát. Duy cũng ưa hát xiệc,
nhưng thích nhất những trò điều khiển thú dữ và mê gánh hát của Tạ Duy Hiển.
Và thêm nữa, hai tâm hồn lãng mạn
cũng từng thả hồn vào những con sóng xanh ngoài đại dương. Chúng tôi rất yêu
biển!
Hai anh em Duy và Khê đều mang
thân phận trẻ mồ côi. Người thì mồ côi cha, kẻ thì mồ côi mẹ, và sau này là mồ
côi luôn cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, có cái may là hai đứa nhỏ vẫn được người
thân chăm sóc, dạy dỗ đàng hoàng, cho nên không có mặc cảm của một đứa trẻ mồ
côi, không bị hoàn cảnh hẩm hiu làm cho cảm thấy nhiều đau khổ, mà cả hai đều
tự tạo cho mình một cuộc đời của riêng mình, không chờ đợi sự che chở, dạy dỗ
của cha mẹ một cách tuyệt đối giống như bao bạn bè cùng trang lứa.
2. Bước chân thanh niên vào đời
Thuở đó, ca sĩ Tino Rossi được
người Việt tôn sùng. Những người nào thích ca sĩ này thì vào nhóm mang tên là
“Ái Tino”, nếu ai không thích thì vào nhóm “Ố Tino”. Trong Nam, tôi đứng về
những người “Ái Tino”, chẳng những thích nghe Tino Rossi biểu diễn mà chính tôi
cũng học thuộc và biểu diễn những bài do Tino giới thiệu qua dĩa hát, còn bắt
chước sắm luôn những trang phục y hệt như thần tượng. Tại Hà Nội, cũng có sự
kiện 2 phe như thế, Phạm Duy cũng ở trong nhóm Ái Tino nhưng Phạm Duy không chỉ
ưa Tino Rossi mà còn thích Albert Préjean và ca sĩ trào phúng Georges Milton.
Khi tôi chỉ huy dàn nhạc Schola
Club, bài đầu tiên dàn nhạc giới thiệu là bài “C’est à Capri” (Tại thành phố
Capri, nơi tôi đã gặp nàng). Trong
những bài Phạm Duy thích, Duy vẫn còn nhắc lại bài đó.
Lúc ở Pháp, tôi rất thích nữ ca
sĩ Juliette Greco, chuyên hát những bài theo chủ nghĩa hiện sinh với chất giọng
khàn khàn rất đẹp. Đồng thời, cũng có một nữ ca sĩ rất trẻ tên Nicole Louvier
mới xuất hiện, phong cách của Nicole là tự hát và tự đệm guitar. Cô lại biết
sáng tác những bài hát có giai điệu ngọt ngào, mang hơi hướng âm nhạc phương
Đông. Tôi hết sức thích phong cách của cô này, nên đã từng đề nghị sử dụng đờn
tranh để đệm đờn cho cô hát. Louvier rất thích nên đã có mời đài phát thanh
(Radio France) tới ghi âm lại những bài cô hát mà tôi đàn tranh để làm kỷ niệm,
nhưng cô nổi tiếng không bao lâu rồi giây phút huy hoàng ấy cũng thoáng qua.
Tôi không ngờ rằng Phạm Duy cũng
đã gặp ca sĩ đó và sáng tác lời Việt Nam cho những bài ca của cô. Lúc Phạm Duy
sang Pháp, Duy cũng thích 2 người ca sĩ đó nhứt: Juliette và Nicole. Nhưng Phạm
Duy có lẽ tiếp xúc với họ gần gũi hơn tôi, nên nhớ đến một điều rất thực là “cô
bé Nicole dễ thương mà hôi nách”! Phạm Duy lại còn đặt lời Việt cho bản “Qui me délivra” (Duy để tựa là “Ai sẽ giải thoát tôi?”) mà Nicole
tự sáng tác và hát.
Trong lãnh vực điện ảnh cũng vậy,
chúng tôi đều làm những việc giống nhau: viết phụ đề phim, lồng tiếng phim (từ
tiếng Pháp, Anh sang tiếng Việt) và cả việc đóng phim. Nhưng rồi sau khi có
được tiền thù lao rất hậu, tôi lại trở về soạn Luận án Tiến sĩ tại Đại học
Sorbonne. Mỗi ngày, tôi vẫn xếp hàng để ăn cơm tại quán ăn sinh viên cho đỡ
tốn. Đối với tôi, tham gia vào điện ảnh là để có một số tiền sanh sống mà làm
luận án Tiến sĩ, mặc dầu được nhiều hãng phim bên Anh mời sang đóng nhiều phim
khác, nhưng tôi từ chối. Phong cách đó cũng rất tài tử.
Ngược lại, Phạm Duy khi bước chân
vào điện ảnh cũng làm tất cả những công việc như tôi đã làm, nhưng với tư cách
là một nhân viên chuyên nghiệp của Trung tâm Điện ảnh Việt Nam. Phạm Duy đã có
lần làm cả đạo diễn cho nhiều phim. Trong thời gian 10 năm làm việc ở Trung tâm
Điện ảnh, với khởi đầu là việc viết truyện phim cho tới khi trở thành phó giám
đốc trung tâm, Phạm Duy đã thực hiện nhiều bộ phim giá trị về âm nhạc, kịch
nghệ Việt Nam, như phim về hát bội, các điệu hò và một thiên nghiên cứu về nhạc
Chăm.
Duy đã trải qua cuộc sống tại
nông thôn rất lâu, sống chan hòa với những người nông dân và cảnh vật miền quê,
lại hưởng được những mối tình thôn dã. Chính cuộc sống như thế đã giúp cho Duy
có thêm kinh nghiệm ở đời, vừa làm giàu thêm chất liệu cho sự sáng tác của Phạm
Duy sau này.
Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội từ năm
1941, sống cuộc đời sinh viên trường thuốc, không có cơ hội vui sống cảnh thiên
nhiên thôn dã, gặp gỡ những người nông dân như Phạm Duy. Những người tôi gặp gỡ
hầu hết là sinh viên trường đại học, nữ sinh Trường Đồng Khánh thuộc giới tiểu
tư sản, lại bắt đầu sống giữa những người thanh niên lúc đó đang theo một phong
trào mang tên là “vui vẻ, trẻ trung”, chỉ biết ăn mặc đẹp, tán gái thị thành,
khiêu vũ những đêm cuối tuần trong các vũ trường. Tôi cũng đã gặp nhiều thiếu
nữ Hà thành, nhiều cô rất đẹp và giỏi. Các cô đó quyết định rằng “phi đại học
bất thành phu phụ”, phải là người lên tới đại học thì các cô mới ưng. Nhưng tôi
không bao giờ bị các cô cám dỗ mà quên đi nhiệm vụ chính là học hành.
Cuối
năm 1944 - đầu 1945, sinh viên Hà Nội đã chứng kiến được những nạn nhân chết
đói bên lề đường nên khi trở về Nam sau phong trào xếp bút nghiên, tôi lập ra
một nhóm diễn hài kịch của Huỳnh Văn Tiểng và hát những bài tân nhạc của Lưu
Hữu Phước, đi khắp Hậu Giang tổ chức những đêm văn nghệ bán vé lấy tiền mua gạo
cứu đói. Chúng tôi rất được trí thức ở các tỉnh ủng hộ bằng cách bán vé, có
người lại mua vé cho các trường để học sinh đi xe miễn phí, cùng đi khắp nơi và
khi trở về Sài Gòn, chúng tôi có dịp diễn tại rạp hát Aristo, lúc đó nổi tiếng
là một rạp hát giới thiệu tân nhạc nhiều nhứt.
Cùng trong lúc đó, Phạm Duy không
còn tham gia gánh Đức Huy đang hát cho đài Pháp Á những bản tân nhạc 3 lần
trong một tuần. Nhưng khi biết được có nạn đói do người Pháp và người Nhựt
tranh chấp nhau, không cho chở gạo thừa thãi miền Nam ra miền Bắc đang thiếu
thốn nên gây ra một nạn đói rất khủng khiếp, Phạm Duy cũng lấy tiếng hát của
mình tham gia một nhóm thanh niên giới thiệu tân nhạc, có lần biểu diễn tại rạp
Aristo để lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi không gặp nhau mà cùng có những
cách làm giống nhau ở chỗ đem tài nghệ của mình để phục vụ đồng bào trong lúc
khó khăn.
Năm 1947, tôi bị bắt nhốt vào
khám Catinat vì bị nghi là Việt Minh tại thành. Nhưng sau 3 tuần lễ, nhờ sự can
thiệp của một vài người quen, đồng thời Ban kháng chiến tại thành đã lo lót cho
một số mật thám, nên tôi được thả ra.
Trong khám, tôi được 3 phe ủng
hộ: phe kháng chiến cùng tôi chia sẻ những viên đường từ bên ngoài tiếp tế vào;
phe nhóm những người Quảng Đông (bị nhốt vì làm giấy thông hành giả cho Việt
Minh) thích tôi vì đã thuật lại những chuyện vui cho nhóm này nghe, và phía du
côn chiếm cả khu cầu tiêu là khu rộng rãi nhất do mùi hôi thúi cho nên không ai
chịu nằm gần đó. Trong số những người tù nhân du côn đó, có một anh trước kia
giúp việc cho người bà con của tôi, mà là “sếp sòng” đám này, gọi tôi bằng “cậu
Hai” nên không ai dám làm gì tôi hết. Tại đó, các anh em tù nhân lại đục một
ống nước để cho nước nhỏ giọt, lấy nước đó rửa mặt hoặc hứng vào lon để dành
xối vào người khi nóng bức.
Năm 1951, Phạm Duy cũng bị bắt và
nhốt vào khám Catinat cùng một lúc với Lê Thương và Trần Văn Trạch, nhưng bốn
tháng sau mới được thả ra. Trong khám, Duy gặp một người từng có tiền sự vào tù
ra khám, hiện đang bị nhốt vào Catinat để chờ ngày bị đưa ra Côn Đảo nên được
tù nhân gọi là “ngục vương”. Ông này có cảm tình với Duy nên cho Duy dựa lưng
vào một bức tường gần cầu tiêu để ngủ. Ở tù mà hai anh em chúng tôi cũng được
người ta thương mến, thật là khó có trường hợp nào giống nhau đến vậy!
Tôi thích làm văn nghệ hơn làm
chánh trị. Với tánh cách của tôi, tôi thấy trong chánh trị phần nhiều phải nói
tiếng nói của lý trí. Một khi tiếng nói của lý trí đã lấn át rồi thì tiêu diệt
cả tình cảm. Còn lý trí của tôi thì phải có đường cho tình cảm thoát ra, lý trí
chỉ được sử dụng như một phương tiện để kiểm tra tình cảm đừng đi quá đà mà
thôi.
Đời tôi không muốn cầm súng bắn
ai, mà cũng không muốn ai cầm súng bắn mình, cho nên khi trình bày với cấp lãnh
đạo kháng chiến, tôi đã xin phép để được làm những công việc hậu phương như làm
công việc cứu thương trong bệnh viện, hay làm trong dàn nhạc... Khi nghe những
lời trình bày của tôi, những người có trách nhiệm trong Ủy ban kháng chiến với
một tinh thần cởi mở đã chấp nhận quan điểm của tôi, bổ nhiệm tôi làm Nhạc
trưởng quân đội Nam bộ, với cấp Đại đội trưởng, được quyền lưu thông khắp Nam
bộ và sung công những nhạc cụ, nhạc khí, kể cả nhạc sĩ nào cần thiết. Tôi đi
kháng chiến với lý tưởng của một người thanh niên yêu nước và làm việc theo khả
năng có thể của mình để giúp cho đất nước.
Phạm Duy cũng vậy, càng đi sâu,
càng biết nhiều chuyện trong chánh trường, Duy càng thấy những mâu thuẫn giữa
các đảng phái, đến nỗi Duy cho rằng đó không là những gì lạ lẫm nữa. Bản thân
Duy cũng cảm thấy rằng mình không phù hợp với việc làm chánh trị. Nói như vậy,
nhưng không phải lúc đất nước lâm cảnh khốn cùng mà Duy bỏ mặc làm ngơ. Duy
cũng đi kháng chiến cứu nước, dấn thân không kém những người chiến sĩ khác.
Trên con đường dấn thân kháng chiến đó, Duy đã nhiều lần nhìn thấy những cảnh
thực xảy ra trước mắt mình chứ không phải chỉ là những điều do chính Duy tưởng
tượng. Duy đã trải nghiệm, đã kinh qua những xúc cảm theo thời cuộc trên con
đường chiến đấu vì lòng yêu nước của mình. Trong những bài hát của mình, Duy đã
đem những hình ảnh thực tế đó vào mà bày tỏ tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và
đặc biệt là tinh thần hòa giải. Duy chẳng những thông cảm với người chiến sĩ vì
nước xả thân trên mặt trận mà còn ca ngợi những chiến công của họ trên chiến
trường, chẳng những hát về những người lính ngoài tiền tuyến, ca ngợi tính
chiến đấu mà vẫn không quên những người nơi hậu phương đã âm thầm giúp đỡ tinh
thần, vật chất cho người chiến sĩ yên tâm cầm súng ra trận, không quên những
nỗi đau khổ, nhớ thương của người vợ ngày ngày ngóng tin chồng, người con đợi
cha về, người mẹ lo lắng cho đứa con đang đi đánh giặc ngoài xa...
Cũng như tôi, Duy là người yêu
văn nghệ. Duy sống cho con đường nghệ thuật của mình hoàn toàn, đặt cả tâm
huyết ở đó. Cả đời này, vì nghệ thuật mà Duy đã cống hiến trọn vẹn cả tình cảm
lẫn tài hoa.
3) Phạm Duy trong mắt tôi
Đối với tôi, Phạm Duy là một
người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ
“nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất
kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ
thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó
không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu
“chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và
phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong
nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của
Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn,
mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm
nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống
mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc
đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải
là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi
theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết
tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm
cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con
tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của
giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề
dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị
âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh
phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.
Duy không chỉ sáng tác được nét
nhạc hay bằng khả năng cảm nhạc thiên bẩm, mà còn có thể tự mình đặt lời nhạc
rất đẹp, rất thi vị, mang đậm tâm hồn, tư tưởng của người Việt Nam. Đó không
phải là khả năng tự có một sớm một chiều, mà do sự quan sát, học hỏi, rèn luyện
của Duy, cộng thêm cái khiếu cảm nhận tinh tế trong đời sống hằng ngày, trong
những cuộc “phiêu lưu” đó đây, rong ruổi khắp bốn phương trời từ Đông sang Tây,
để góp nhặt từng câu chuyện từ chính mình, góp nhặt những câu chuyện của quê
hương, dân tộc, phận người... mà dệt nên những lời tình tự xứng đáng được lưu
vào trang nhạc sử Việt.
Bên cạnh một con người Phạm Duy -
nhạc sĩ sáng tác, bản thân Duy còn là sự hóa thân của rất nhiều những con người
khác mang những khía cạnh khác mà không phải ai cũng có thể nhìn nhận thấy rõ
ràng, đầy đủ. Thuở còn trai trẻ, cậu thanh niên Phạm Duy (hay ta phải gọi bằng
cái tên Mộng Vân - áng mây mộng ước - do chính cậu tự đặt ra cho mình?) đã từng
là một kẻ du ca rong chơi năm tháng trên nhạc lộ thênh thang cùng với sức trẻ
yêu đời, lao vào đời bằng quả tim rực cháy tuổi thanh xuân. Và dẫu cho có bao
nhiêu năm qua đi nữa, Duy vẫn là một người ca sĩ tài hoa thực thụ, một ca sĩ chuyên
nghiệp rất danh tiếng thuở trước tại Đài Pháp Á, một ca sĩ tiên phong trong
phong trào đưa nhạc mới lên hát giữa các màn chuyển cảnh trên sân khấu gánh hát
cải lương Đức Huy - Charlot Miều... Trong những chương trình âm nhạc, những
buổi biểu diễn văn nghệ trong nước hay tại nước ngoài, “ca sĩ” Phạm Duy luôn
làm cho người khác thấy được cái tài biểu diễn ca hát thiên bẩm, khi tự mình
hát lên những sáng tác của mình một cách sống động nhứt. Một người nhạc sĩ có
đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng
truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó và cho tới
ngày nay, Duy vẫn là kẻ du ca hát lên những lời ca đẹp và thơ, được nhiều thế
hệ thuộc lòng mỗi khi Duy đem tác phẩm âm nhạc của mình giới thiệu trên sân
khấu cả nước.
Ngoài tài sáng tác không thể phủ
nhận, tài ca hát thu hút, Duy khiến cho người khác không khỏi say mê lạc bước
vào giọng nói trầm ấm, duyên dáng, thi vị của chất giọng Hà Nội thanh lịch khi
Duy dẫn dắt câu chuyện âm nhạc của chính mình. Trời phú cho Duy sự đa năng
trong nghề nghiệp, trong dòng máu nghệ sĩ vốn đã tài tình. Nếu nép sau tấm màn
sân khấu là người nhạc sĩ, đứng trên sân khấu biểu diễn với phong cách một ca
sĩ, thì Duy cũng đầy phong thái duyên dáng khi thực hiện vai trò người dẫn
chương trình. Thật là một kỳ tài! Duyên ăn nói của Duy không thua kém những nhà
văn thuyết trình trước công chúng, đôi khi lại có phần hấp dẫn hơn vì trong
chất văn chương còn thấm nhuần hơi nhạc. Nghe Duy kể từng kỷ niệm, trải từng
cung bậc cảm xúc trong lúc giới thiệu âm nhạc có khi còn thích thú hơn là đọc
một tập khảo cứu về những nhạc phẩm này.
Trước khi sang Pháp để tiếp cận
với Âm nhạc học (học tại lớp dạy Âm nhạc học của thầy Jacques Chailley năm
1954) thì Phạm Duy đã là một nhà “Dân tộc Âm nhạc học” hẳn hòi rồi! Ở Việt Nam,
Duy đã tự mình ghi âm, ghi hình, sắp loại các bài Dân ca và các bài Lý, những
câu Hò ở nông thôn Việt Nam... và tự ký âm các bài nhạc đó. Duy đã có cách nhìn
rất khoa học trong việc phân loại, sắp xếp và ghi chép những vấn đề liên quan
trong khi tìm hiểu về Dân ca, Dân nhạc Việt Nam. Việc làm của Phạm Duy lúc đó
cho ta thấy rằng Phạm Duy có phong cách của một người nghiên cứu Dân tộc Nhạc
học, có đầu óc tìm tòi và làm việc chuyên nghiệp không thua kém gì những nhà
nghiên cứu thực thụ.
Ngoài việc sưu tầm và nghiên cứu
Dân ca lúc đầu, sau này trong những chuyến đi xuyên Việt, Phạm Duy lại có dịp
tiếp cận với nhiều bộ môn âm nhạc khác như: Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử, các điệu Hát
Lý, điệu Hò của Trung, Nam bộ, và đặc biệt hơn nữa là thể loại Âm nhạc Dân tộc
thiểu số ít ai chú ý tới... Mỗi lần tiếp cận là mỗi lần Duy ghi chép rất kỹ
lưỡng, sâu sắc để sau này có dịp cho ra đời cuốn “Đặc khảo về Dân ca Việt
Nam” mà khi được đọc, tôi đã rất
ngạc nhiên; đồng thời, cũng thán phục tinh thần nghiên cứu của bạn mình.
Duy theo dõi nhiều và đi sát phong trào nhạc mới từ lúc khởi thủy cho đến những
giai đoạn phát triển ra nhiều trào lưu. Duy cũng có được những điều kiện thuận
lợi khi quen biết với những bạn bè, các bậc tiền bối văn nghệ sĩ, nhất là giới
nhạc sĩ và từng nhiều lần trao đổi, trò chuyện với họ, biết được từng thời điểm
ai làm gì, sáng tác như thế nào... Đó là một lợi thế của người nhạc sĩ có óc
nghiên cứu và phân tách tài tình từ trong máu như Duy. Từ những lợi thế như
vậy, mỗi nhạc phẩm của Duy đưa ra đều mang tánh cách thời sự, gắn liền với từng
sự kiện xảy ra trong đất nước: thời bình, thời chiến, thắng trận, thất bại, thế
thời đổi thay... và không thiếu những hình ảnh rất chân thật, sống động ở những
nơi mà dấu chân Duy đã đi qua, in lại trong ký ức một cách sâu sắc rồi trở
thành những hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc. Tôi cho rằng trong
con người Duy, không những có sức khám phá của một nhà khoa học mà còn hội đủ
các yếu tố cần có nơi một nhà nghiên cứu, một sử gia, một nhà xã hội học, một
văn nhân biết ghi lại quá trình làm việc và suy tư của mình.
Bên cạnh những Phạm Duy nghệ sĩ
và Phạm Duy tài tình trong nghiên cứu, cũng ít ai để ý tới một Phạm Duy - nhà
kinh doanh, nhà sản xuất âm nhạc cực kỳ nhạy bén, mát tay. Duy tự mở studio
riêng cho mình, đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho
công việc sáng tạo nghệ thuật. Xem có vẻ như Duy luôn muốn thử thách mình ở mọi
lãnh vực, hệt như cái bản tánh hiếu kỳ ưa thích tìm hiểu mà ông Trời ban cho.
Mà thật lạ, lãnh vực nào Duy cũng làm rất tốt và thành công. Óc khám phá không
bao giờ để Duy ngồi yên. Duy tự tay thâu âm băng dĩa nhạc, sử dụng tài tình máy
vi tính, tự thiết kế và phát hành sản phẩm âm nhạc của mình, theo rất sát công
nghệ hiện đại không thua kém chi việc theo sát phong trào âm nhạc khắp nơi.
Đồng thời, có thể coi Duy giống như người làm quảng cáo tài năng khi chính bản
thân Duy tự đi giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng... Với bấy nhiêu
công việc làm đó cũng đủ thấy Duy là một người đa tài, bản lãnh.
Duy mặc dầu Trời sanh có tánh
ngang tàng, nhưng cũng là người hiểu tôn ti trật tự khi vẫn biết nghe lời người
anh của mình là Phạm Duy Khiêm. Trong lúc đang ưa thích học về văn hóa và học
rất giỏi mà phải bỏ để vào một trường học nghề (bá nghệ) theo sự quyết định của
người anh, dầu có đắn đo hay không thỏa mãn, nhưng Duy vẫn nghe theo lời anh
của mình. Suốt cuộc đời, đứa con Phạm Duy lúc nào cũng nghe theo lời của mẹ,
vâng theo sự chỉ dạy, săn sóc, đảm nhiệm trông coi việc học tập từ những người
bạn của cha mình (các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh). Duy cũng là người
con thương cha thương mẹ, thương anh em trong gia đình (nhắc về người anh Phạm
Duy Nhượng); nói rộng ra, trong xã hội thì Phạm Duy có cả tinh thần yêu thương
đất nước một cách sâu sắc đậm đà và không lay chuyển. Cho nên, trong mỗi trường
hợp, nhiều khi có những hành động mà người thường khó hiểu, cho rằng Phạm Duy
là người ham danh ham lợi, nhưng riêng tôi thì lại thấy rằng không có lúc nào
mà Phạm Duy không yêu nước Việt Nam. Phải thực sự yêu quê, yêu nước mới có thể
sáng tác ra những bài ca tuyệt đẹp cả nhạc lẫn lời và những bài hát đi sâu vào
tim của mỗi người Việt Nam ở các tầng lớp và mọi thế hệ trong xã hội.
Về cuộc sống của Duy, trong mắt
tôi, Duy là một người trọng gia đình, luôn nhớ đến vợ con của mình, luôn muốn
vợ chồng, con cái đều cùng chung sống dưới một mái nhà, dẫu cho trong đời Duy
đã từng là một kẻ “giang hồ phiêu bạt”. Khi tôi đến thăm vợ chồng Phạm Duy, thì
luôn thấy cảnh sum họp gia đình rất đầm ấm. Điều đó khiến cho tôi thêm phần quý
trọng người bạn thân của mình, và cho rằng nhờ cách ứng xử khéo léo trong,
ngoài của Duy mà có thể giữ được nếp nhà một cách thuần tuý Việt Nam như vậy.
Với các con, mặc dầu mỗi người đều có cá tánh riêng, đều ưa thích tự do phóng
túng như Duy, nhưng người cha chưa hề bó buộc con cái. Đối với bố, các cháu đều
có sự kính phục yêu thương.
Tại Mỹ, Duy còn lập phòng thu
riêng tại nhà và tự mình sản xuất băng đĩa, mọi việc đều do các con của Duy
đứng ra giúp bố thực hiện. Kể cả việc mua nhà cũng vậy. Khi tính đến việc mua
nhà thì cũng ít khi nghĩ phải ở xa nhau. Ít có gia đình nào tại Mỹ lại có cha
mẹ, con cái sống chung như gia đình Duy. Các con thì mỗi tháng mời cha mẹ và
anh em cùng ăn cơm chung với nhau tại những nhà hàng có thức ăn ngon, do mỗi
người đãi một lần. Dẫu Duy là người phóng túng nhưng vẫn giữ những nề nếp
truyền thống của người Việt Nam, giữ lại được những nét sinh hoạt của người
miền Bắc trên xứ sở tự do này. Duy khéo léo sắp xếp, ứng xử để gia đình có cuộc
sống như cuộc sống của những gia đình truyền thống Việt Nam. Ở nước Mỹ - nơi mà
người ta coi trọng quyền lợi và cuộc sống cá nhân, gia đình Phạm Duy là một gia
đình khó kiếm.
Có những lúc thăng trầm, Duy nhận
tiếng khen cũng nhiều mà lời lẽ chê bai cũng không phải ít. Nhưng Duy là người
biết phục thiện, biết nghe lời khen lẫn những tiếng chê, không bao giờ để trong
bụng sự hận thù. Tinh thần ấy thể hiện trong nhạc phẩm Mẹ Việt Nam:
“Mẹ Việt Nam không đòi xương máu
Mẹ Việt Nam kêu gọi thương nhau”
Vì những lẽ kể trên mà tôi đã gọi
Duy là một người nhạc sĩ toàn diện với tất cả ý nghĩa của danh từ đó. Suốt
chiều dài thời gian của dân tộc, Duy đã “khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi”. Từng sự kiện xảy ra với quê hương, Duy đều
đi sát bên, đều cảm nhận bằng thứ tình cảm của một người con của dân
tộc, người cháu, người anh, người em của thế hệ mình.
Phạm Duy là con người muốn sống
tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên
đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về
phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại,
phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống
của mình.
Một số người cho rằng Duy không
có lập trường chánh trị, nhưng họ chưa, hoặc không chịu nhìn vào cái tình yêu
nước thương nòi luôn sôi sục trong con người Duy. Duy là một người con có hiếu
với cha mẹ và có một lòng yêu nước theo quan điểm của mình. Từ trong những tác
phẩm âm nhạc, người ta đã thấy rõ tình yêu Việt Nam mà Duy hằng gieo vào lòng
bao người yêu nhạc qua những “tiếng nước
tôi”, qua những hình ảnh gần gũi quen thuộc gợi lên bao nhiêu kỷ niệm về
dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ hiện diện trên từng bản nhạc, lời ca,
phải có tình yêu thực sự bắt nguồn từ chính con tim nồng nàn yêu thương thực sự
mới khiến cho tình yêu đó vĩnh hằng cùng năm tháng. Duy luôn luôn yêu quê hương
mình, đó là sự thực, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Đối với Duy, lúc nào và ở
đâu cũng một lòng quý trọng tự do của đất nước, không bao giờ chấp nhận sự đô
hộ của ngoại bang. Nhưng Duy luôn tôn trọng lập trường của những người khác như
có lần Duy đã nói với tôi. Và mục đích cuộc đời của Duy chỉ là làm cách nào để
cho đất nước giàu mạnh hơn trong mọi mặt. Chính Duy đã hết lòng tham gia vào
văn hóa văn nghệ để làm giàu thêm cho lãnh vực này của dân tộc.
Trong cách ứng xử ở đời, Duy luôn
có một thái độ hòa giải và luôn mong rằng dân tộc Việt, dầu ở miền nào, đều coi
nhau như anh em ruột thịt “nhìn Trung Nam
Bắc xếp hàng mến nhau” (Tình ca) với tấm lòng rộng rãi bao la, yêu
thương và tha thứ (Mẹ Việt Nam - trong chương “Biển Mẹ”), chẳng bao giờ
muốn “đòi xương máu” mà chỉ “kêu gọi thương nhau” (Mẹ Việt Nam -
đoạn chót).
Thỉnh thoảng, trong những trường
hợp bất khả kháng về chánh trị, hoặc là những sự hấp dẫn nhứt thời về đời sống
vật chất, Duy có những sáng tác không phù hợp với bản chất của chính mình,
nhưng đó chỉ là vài trường hợp rất ít trong những giai đoạn rất ngắn so với
cuộc đời và gia tài sáng tác đồ sộ của Duy. Theo tôi, tuy Duy không phải là một
con người toàn thiện toàn mỹ, nhưng là một người đối với mình trước sau như
một, và phải nhìn nhận rằng, bạn của tôi là một người yêu quê hương đất nước!
Ước mong rằng Duy luôn có được
cuộc sống an nhiên tự tại, an bình với đời, với người và với mình, làm được
những việc Duy yêu thích mà thấy rằng cuộc đời vẫn đẹp, để “... khi đêm chết chưa về” thì “nắng
chiều hồng tươi hơn nắng trưa”.
Duy thương mến!
Khê vẫn còn nhớ lần đầu tiên nghe
Duy trình bày CD-ROM “Con đường cái quan”
do chính tay Duy tự làm trên đất Mỹ, không những với lời và nhạc đầy cảm xúc mà
còn nhìn thấy được những phong cảnh đẹp của quê hương Việt Nam, Khê đã ôm Duy
và khóc. Chúng ta có chung những tình cảm, những đồng điệu mà không phải ai
cũng có thể hiểu được tất cả. Duy ơi, chúng ta đã đến, đã đi và đã về, đã làm
và đã sống, đã yêu và đã mơ, đã thăng và đã trầm, đã cười và đã khóc... suốt
hai thế kỷ này. Mong rằng tình thân của chúng ta mãi vĩnh hằng, mãi đẹp như
những lời Khê từng chúc Duy, cũng như chúc cho anh em mình khi tròn cửu thập:
“Biết nhau quá tuổi đôi mươi
Hôm nay mừng bạn chín mươi tuổi rồi
Mặc cho vật đổi sao dời
Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau
Đến khi trăm tuổi đẹp lời chúc nhau”
Sẽ “còn ngồi bên nhau”, phải
không Duy?
Bình
Thạnh, Sài Gòn,
mùa Đông Nhâm Thìn 2012
Trần Văn
Khê
(Theo Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số báo 808 & 809 -
http://kienthucngaynay.info/ - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Feb/2013 lúc 9:06pm
Chuyện Phạm Duy và chuyện Tết ở Việt Nam-
- Created on Friday, 08 February 2013 01:10
- Category: http://www.thoibao.com/index.php/en/chuyen-muc/viet-tu-sai-gon -
- Văn Quang
Viết thì thừa, không viết
thì thiếu. Đó là chuyện nhạc sĩ Phạm Duy vừa ra đi và chuyện Tết nhất ở
Việt Nam. Bởi cả hai thứ chuyện này đã có nhiều người tường thuật rồi.
Bài nào cũng dài thoòng. Đọc trên net và được bạn bè “năm châu
bốn biển” gửi cho, mệt nghỉ. Ấy thế nhưng mấy ông viết chuyện hằng ngày
hằng tuần, cộng tác thường xuyên với các báo đều... tự ý thức được phải
“mùa nào thức nấy”. Những chuyện “đại sự” không thể bỏ qua. Thế nên tôi
cũng có bổn phận phải hầu chuyện với bạn đọc về hai cái thứ chuyện “đại
sự” này, chưa nói đến việc các ông chủ bút mấy tờ báo nhắc khéo: “Chắc
kỳ sau anh viết bài về Tết Việt Nam nhỉ? Có ông còn hỏi khéo hơn: “Ông
Phạm Duy từ trần ở Việt Nam, trong tòa soạn, anh là người gần nhất, chắc
anh biết nhiều”. Ông nào cũng đúng cả.
Tôi phân vân vì kỳ trước
tôi đã hứa với độc giả sau bài “văn hóa hòa cả làng” sẽ bàn tiếp về các
thứ văn hóa khác đang khiến dư luận nổi sóng. Nhưng có đến hai ông chủ
bút nhắc khéo tôi về đề tài Tết và Phạm Duy, nên tôi đành tạm ngưng
chuyện văn hóa lại, ra giêng ngày rộng tháng dài tha hồ bàn chuyện văn
hóa linh tinh. Xin nói “chuyện xưa” về anh Phạm Duy trước.
Phạm Duy – Thái Hằng hàng xóm của tôi
Thưa bạn đọc, đó là tiêu đề
trong một bài tôi viết trong tờ đặc san “Văn” xuất bản tại Cali vào năm
2002. Năm đó, anh Nguyễn Xuân Hoàng phụ trách tờ báo này. Anh ra số đặc
biệt về Phạm Duy, hồi đó nhạc sĩ Phạm Duy còn ở Mỹ, chưa về “định cư”
tại Việt Nam. Anh Nguyễn Xuân Hoàng gửi mail giục tôi viết bài về Phạm
Duy. Lần thứ nhất, tôi trả lời là: “Có gì để viết về ông ấy đâu, nhiều
người viết quá rồi, tôi không chen chân vào lãnh vực âm nhạc. Cái gì
biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Nhưng hai lần sau, anh
Hoàng nói là viết về bất cứ mặt nào cũng được, anh Hoàng “gáy” tôi: anh
là hàng xóm của anh Phạm Duy mà. Tôi tóm được cái ý chính, một anh hàng
xóm viết về anh hàng xóm, cũng được đấy chứ. Tôi bèn viết rất sơ lược về
anh Phạm Duy, dồn tâm ý viết về chị Thái Hằng (chắc độc giả thừa biết
đó là phu nhân Phạm Duy). Gia đình chúng tôi ở rất gần nhau trong cái cư
xá gọi là Chu Mạnh Trinh, gần ngã tư Phú Nhuận. Thật ra, cái ngõ đó
không có tên, nó nằm ở số 215 đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu). Bởi
ngõ nằm ngay sau trường học Chu Mạnh Trinh nên lâu ngày nó thành tên
chứ có ai đặt tên cho cái ngõ đó đâu. Và một sự thật nữa là cái cư xá đó
do ngân hàng xây dựng nên thoạt tiên người ta gọi là “Cư xá nhà băng”,
mãi sau này nhiều gia đình thuộc giới văn nghệ Sài Gòn đến mua nhà ở,
nên người ta mới thay tên là Cư xá Chu Mạnh Trinh cho khỏi lẫn với mấy
cư xá nhà băng khác trong thành phố.
Sơ lược tôi còn nhớ những
gia đình đã từng ở đó, sau này có thể đã dọn đi nơi khác. Từ ngoài đường
lớn vào là nhà các ông Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Dương Thiệu Tước -
Minh Trang - Quỳnh Giao, Phạm Duy, Đỗ Tiến Đức, Hoàng Anh Tuấn, Anh
Ngọc, Mộc Lan, Hoàng Nguyên, Hồ Anh, Duyên Anh, Thẩm Thúy Hằng, Trịnh
Viết Thành, Linh Lan...
Nhà tôi ở ngay mặt đường
ngõ vào, cách nhà anh Phạm Duy không quá 50 mét. Nhưng rất ít khi sang
nhà nhau. Lý do giản dị, tôi và Thanh Nam, Mai Thảo là bạn khá thân của
anh Phạm Đình Chương. Sau “vụ Khánh Ngọc”, chúng tôi rất ít tiếp xúc với
anh Phạm Duy. Suốt thời gian tôi làm ở Đài Phát Thanh Quân Đội, anh
Phạm Duy có một chương trình nhạc trong Đài này, hằng tuần gặp nhau ở
Đài, chúng tôi không có thì giờ nói chuyện nhiều. Ở đây tôi nhắc lại một
đoạn trong bài tôi đã viết 10 năm trước:
Lần duy nhất sang nhà Phạm Duy
“Tôi chỉ sang nhà anh duy
nhất một lần vào cuối năm 1974, anh mua được mảnh đất khá rộng, bán căn
nhà cũ cho ông Nguyễn Mạnh Côn. Anh dọn vào ở cuối ngõ, xây căn nhà mới
khá lớn. Chị Thái Hằng đi qua nhà tôi, nhắc: “Anh rủ bạn bè qua nhà tôi
chơi. Nhà tôi đang làm một chỗ cho các anh chơi ở ngoài vườn, thơ mộng
lắm”. Tôi sang nhà anh Phạm Duy khi khu vườn vừa được trang trí rầt hữu
tình. Những hòn giả sơn, những hàng cây, bể nước lớn, những hòn đá tảng
rải rác đây đó... Đúng là nơi dưỡng già thật tuyệt. Nhưng “cảnh quan” đó
chưa hoàn chỉnh thì ngày 30-4-75 tới, anh phải rời xa. (Xin chú thích
thêm là sau này khi anh về Việt Nam sống cũng không “đòi” lại được. Một
lần tôi hỏi, anh chỉ nói “quên chuyện đó đi, ông ơi”. Coi như huề cả
làng).
Tính cách của nữ danh ca Thái Hằng
“Tôi có nhận xét rất thành
thật là nếu ở con người anh Phạm Duy luôn luôn hiện diện hai chữ nghệ sĩ
lớn như cây đại thụ thì ở chị Thái Hằng trong xóm tôi, chị là người rất
bình dị. Chưa bao giờ chị chứng tỏ mình là “một cái gì”, ít ra cũng là
vợ một nhạc sĩ có tên tuổi. Nói khác đi, chị không phải là bà Phạm Duy
nổi tiếng và cũng chẳng phải là một nữ danh ca thượng thặng trong ban
hợp ca Thăng Long. Gia đình chị là một gia đình nghệ sĩ danh tiếng với
Phạm Đình Chương, Thái Thanh, Hoài Trung và những anh em như Phạm Đình
Sĩ, Kiều Hạnh, Mai Hương...
Chị sống chan hòa như một
người chị mẫu mực, hiền hậu. Đối với mọi người trong xóm, chị hết sức
bình dị, không se sua, không làm dáng. Mỗi buổi sáng, quần ta, áo cánh
xách giỏ đi chợ như mọi bà nội trợ bình thường khác. Chị thân thiện chân
thành chứ không phải sự “nhún mình” để che giấu một thứ hào quang sau
gáy.
Suốt hơn 10 năm, sống gần
gia đình chị, từ khi Duy Quang, Duy Cường, Duy Minh còn rất nhỏ cho tới
khi các cháu lớn lên, tôi chưa hề thấy chị to tiếng với bất cứ cháu nào
và chị cũng chưa từng làm mất lòng ai trong xóm. Sự khoan hòa dung dị
của chị có thể là một tấm gương lớn cho nữ giới.
Trong những ngày sau này,
có vụ tai tiếng ở nước Mỹ giữa ông Clinton và cô thư ký nhà trắng, thái
độ khôn ngoan của bà Hillary Rodham Clinton khiến nhiếu người nể phục.
Khi có chuyện tình lỉnh kỉnh của anh Phạm Duy, các báo ở Sài Gòn khai
thác tối đa. Thái độ điềm đạm của chị Thái Hằng còn đáng khâm phục hơn.
Các phóng viên cố khai thác ở chị một vài chi tiết nhưng chị chỉ có một
câu trả lời: “Tôi rất tin tưởng ở chồng tôi”. Thế là hết, chẳng anh nào
khai thác được gì ở chị, nhờ vậy dư luận cũng xẹp dần. Sau này chị cũng
không xuất hiện cùng chồng con ở những cuộc vui, những đại hội.
Cái bóng cực kỳ thầm lặng
đó làm nên tính cách lớn của chị Thái Hằng. Từ trong đáy sâu tâm tư tôi,
chị mãi mãi là một nữ nghệ sĩ rất xứng đáng được kính trọng”.
Phạm Duy trên đường đến đoàn tụ cùng Thái Hằng
Thưa bạn đọc, đó là những
gì tôi đã viết 10 năm trước. Và bây giờ, năm 2013, anh Phạm Duy từ trần,
tôi cũng được một ông chủ báo nhắc: “Viết bài về Phạm Duy đi ông”. Tôi
cũng trả lời như 10 năm trước: “Chẳng có gì để viết về ông ấy cả. Nhiều
người viết quá rồi. Tôi chỉ xin nhắc đến chị Thái Hằng. Tôi nghĩ đó là
một lẽ công bằng và ít người viết”.
Sau một ngày anh mất, sáng
28-1-2013 tôi và anh Nguyễn Quốc Thái cùng Quốc Anh, phóng viên báo Tuổi
Trẻ, mang một trong những vòng hoa đầu tiên đến tiễn đưa anh. Một mái
che như cái rạp dựng ngay trên ngõ trước cửa ngôi nhà nhỏ của anh. Lúc
đó tôi chỉ thấy vài người quen mặt như ông Nguyễn Ánh Chín, Phạm Thiên
Thư, Lưu Trọng Văn, Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Khắc Nhân, vợ chồng nữ ca sĩ
Ánh Tuyết...
Sau lễ nhập quan vào 9g
sáng, chúng tôi chia buồn cùng tang quyến, đứng trước bàn thờ thắp nén
nhang vĩnh biệt anh. Riêng tôi, chỉ cầu xin anh trên đường đi gặp chị
Thái Hằng mang tấm lòng kính trọng của người cùng xóm đến với chị, anh
chị mãi mãi bên nhau như những ngày còn ở cư xá Chu Mạnh Trinh.
Những ngày cận Tết
Sang đến chuyện Tết đang
đến gần, trong những ngày này, bất cứ một gia đình nào ở Việt Nam cũng
nói đến cái Tết đang gần kề, từ ông nhà giàu đến anh rách tả tơi cũng
nói chuyện Tết. Mỗi anh nói theo cách của mình. Anh nghèo càng nghèo,
càng lo chạy tiền ăn Tết, thậm chí sợ Tết. Anh giàu lại vẫn đi tậu những
“đặc sản” tô điểm cho cái vẻ “đại gia” của mình. Tuy thế năm may nhiều
đại gia vỡ mặt vì suy thoái, nhưng dù “vỡ mặt cũng còn cái mũi”, vẫn
phải làm ra vẻ “đẳng cấp” để che cái túi rỗng. Ngoại trừ những ông “sụm
bà chè” không đứng dậy nổi nữa vì bị con nợ đến tận nhà bao vây, có ông
trốn luôn ngay từ đầu tháng Chạp.
Nhưng
nổi bật nhất là rất nhiều công nhân bị nợ lương từ 1 tháng đến vài
tháng, suốt ngày long đong đi kiếm chủ công ty. Họ khổ hơn là những anh
chị làm ở ngân hàng, ở những công ty xí nghiệp to đùng không được thưởng
Tết hoặc không có lương tháng 13. Những khoản tiền này không có trong
hợp đồng lao động và cũng không có trong luật, nên các ông chủ toàn
quyền quyết định. Cho nên có những công ty thưởng Tết “không giống ai”.
Như công ty sản xuất hương, tặng công nhân mỗi người vài bó hương
(nhang) với lý luận nhà nào chẳng cần hương ngày Tết. Một công ty may ở
Hà Nội tặng nhân viên mỗi người 70 cái quần đùi (quần lót đàn ông) là
thứ hàng bán ế. Thậm chí có công ty còn thưởng Tết cho nhân viên bằng...
gạch xây dựng... Đúng là kiểu thưởng chỉ có ở Việt Nam.
Những cảnh chờ tàu xe từ “muôn năm cũ” vẫn tái diễn
Vế quê ăn Tết luôn là mối
lo của những anh chị công nhân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam làm
ăn. Dường như chẳng có mối bận tâm nào của người miền Nam ra Bắc kiếm
ăn, con số này quá ít, hầu như chỉ có vài ông công chức, vài ông giám
đốc gặp thời đang phất mới ra Bắc “lãnh nhiệm vụ” mà thôi. Còn hầu hết
là những ông công chức bự từ miền Bắc vào miền Nam lãnh nhiệm vụ quan
trọng. Những ông này ở đây lâu năm, có nhà cửa vợ con xe pháo đề huề nên
đôi khi cũng chẳng cần “về quê ăn Tết” nữa. Mà có về thì máy bay đi cái
vèo là tới. Lo gì cái vặt.
Với người lao động, tình
trạng vẫn như cũ bao năm rồi. Nhà tàu nói “cải tiến”, khách kêu “cải
lùi”! Trong khi hai bên liên quan chính năm nào cũng như dàn trận đấu
với nhau, “cò vé” ở giữa hưởng lợi lớn từ nguồn vô biên là túi tiền của
khách.
Vài năm nay công nghệ thông
tin lên ngôi nên vé tàu được đặt qua mạng internet. Nhưng khách chờ dài
người từ chập tối đến đêm, có người chờ 3 ngày liền mạch vẫn nghẽn đến
“sập mạng”, không thể chen vào ghi tên được. Cái nền văn minh ấy coi như
tắc tịt. Lại nhào đến nhà ga mua vé. Lại ngày đêm nằm vạ nằm vật chờ
đợi mua được tấm vé. Nhưng ra chợ đen thì bao nhiêu cũng có, đi Đà Nẵng
hay Hà Nội đều đầy đủ.
Có hàng ngàn lời kêu ca gửi đến các báo. Bạn chỉ cần đọc vài ý kiến của người đi mua vé tàu cũng đủ biết họ bị hành như thế nào:
- Bạn Thế: http://us.mc1650.mail.yahoo.com/mc/compose?to=thepearltb@gmail.com - muốn gào lên:
“Tức muốn chết! Ngồi đặt
vé cả sáng không được, chạy ra ga Sài Gòn đã thấy 1 đám người kêu ơi
ới: “Em ơi, vé về Tết không”. Sau đó là tiến hành giao dịch: 200k 1 vé
hẹn vài hôm sẽ có vé. Và tổng thiệt hại cho 1 vé là 1 triệu + 200k nữa
@@. Chả hiểu bao giờ mới được như các hãng hàng không nữa? Chung quy vẫn
khổ dân!”
- Bạn Mai Thùy Giang có địa chỉ http://us.mc1650.mail.yahoo.com/mc/compose?to=giangthuy@gmail.com - viết:
“Không thể chấp nhận
được cách làm việc của ngành Đường Sắt Việt Nam (ĐSVN). Đừng đổ lỗi cho
nghẽn mạng mà hãy xem lại nội bộ ngành đường sắt như thế nào. Tôi nghĩ,
mỗi một mùa Tết chắc mỗi nhân viên liên quan cũng kiếm được chiếc xe hơi
nhờ ôm vé đẩy ra chợ đen và các đại lý... Vậy thì lấy đâu ra vé cho
người dân mua nữa?... Thật buồn!”
- Bạn Hùng: http://us.mc1650.mail.yahoo.com/mc/compose?to=vu.dinh.hung.234@gmail.com - than thở:
“Vậy mà năm nào các ông
nhà tàu cũng kêu ầm lên: Chúng tôi đã cải thiện tốc độ đường truyền, mọi
người có thể yên tâm... Năm nào cũng cải thiện, năm nào cũng nghẽn, vậy
mà chả rút được tí kinh nghiệm nào thì chả hiểu các ông lập kế hoạch,
vạch hướng đi thế nào nữa? Mà năm nào cũng tái diễn, sao không thấy mấy
ông quản lý cấp trên nữa nói gì nhỉ? Hay cũng lại nói đã vạch kế hoạch
rồi và phải làm từng bước một?”
Quá
nhiều lời thở than với bao giọt nước mắt ngắn dài, những giọt mồ hôi
cay xé mắt... ẩn chứa trong đó. Vậy mà hình như chưa bao giờ động được
tới con tim, khối óc của những ai có khả năng và cả trách nhiệm phải
thay đổi tình thế?
Những người nông dân cần cù lo đói ngày Tết
Những năm gần đây, nền kinh
tế suy thoái, đồng tiền trở nên mất giá, đồ ăn thức uống cái gì cũng
cao nên việc bỏ tiền ra thuê người dọn nhà hay giúp việc những ngày cuối
năm cũng không còn nhiều như trước. Nhiều khi người ta tự tay làm, chỉ
những việc quá khó nhọc hay cần thiết phải thuê thì người ta mới thuê.
Gần Tết là lúc công việc
đồng áng cũng khép lại, lao động tự do từ các huyện kéo lên thành phố
càng đông, người thì đông mà việc thì ít, kéo theo mức giá trả cho nhân
công cũng bèo bọt. Mỗi ngày chỉ khoảng 70-80.000đ VN, may mắn lắm cũng
chỉ 100.000đ/ngày.
Nếu như những năm trước,
gần Tết là dịp để người lao động tự do kiếm được “đồng ra đồng vào” hơn,
công việc cũng nhiều hơn thì năm nay việc cũng ít mà giá trả cũng thấp,
thành ra “nghề đứng đường đợi Tết” những ngày cuối năm lại càng trở nên
ảm đạm. Trên những góc đường không khó để bắt gặp từng nhóm “cửu vạn”
vật vờ, co ro chờ việc.
Anh Hải, một người lao động
bốc vác tâm sự: “Vào thời điểm này các năm về trước, ngày nào tôi cũng
có vài mối, không đi dọn nhà thì cũng bốc vác gì đó. Từ năm ngoái đến
nay thì ít hẳn, chẳng có việc. Giờ đây kinh tế suy thoái, giá cả leo
thang nên có sửa sang nhỏ hay dọn dẹp gì thì họ toàn làm lấy, cái gì vất
vả lắm thì họ mới thuê. Ban ngày tôi cứ ra đây ngồi chán chê, rồi lại
lang thang ra các ngã tư tìm việc mà cũng chẳng ai thuê, Tết nhất đến
nơi rồi, ngồi không thế này như ngồi trên đống lửa. Cuối năm mà công
việc còn không có thì ra giêng chỉ có mà đói”.
Chứng kiến những cảnh vật
vờ, co ro trong giá lạnh của những người nông dân cần cù vào những ngày
tháng cuối năm mới thấu hiểu phần nào sự khốn khổ của họ. Tết đang tới
gần và cũng như hết thảy những người “tìm Tết” nơi đô thị vẫn đứng co ro
tìm cái Tết đạm bạc nhất cũng không xong!
Dân nhà giàu vẫn chơi sang
Thế nhưng có một thành phần
ngược hẳn. Thời kỳ bão giá có thể khiến bạn nghĩ rằng các đại gia sẽ
“ngại” mở ví tiền sắm những món đồ chơi Tết đắt đỏ. Tuy nhiên, đến làng
đào Nhật Tân, chợ hoa Quảng Bá của Hà Nội những ngày này, chứng kiến
nhịp mua bán đào, lan giá “khủng” vô cùng sôi động, chắc chắn bạn sẽ hết
hồn.
Vườn đào của ông Lê Hàm có
khoảng 60-70 gốc đào Thất Thốn. Năm nay, mặc dù kinh tế khó khăn, nhưng
giá đào Thất Thốn dường như vẫn chẳng hề bị ảnh hưởng. Những cây Thất
Thốn nhỏ nhất cũng có giá trên dưới chục triệu đồng. Cây đào Thất Thốn
đẹp nhất trong vườn nhà ông Lê Hàm đã được khách đặt giá 70 triệu đồng,
chờ đến ngày Táo Quân tới chở về.
Theo chân một vài đại gia
đi sắm đào ở Nhật Tân, có thể thấy giá của những gốc đào bích đẹp có thể
được “hét” từ 18-30 triệu đồng một cây. Giá thuê và mua chỉ chênh nhau
khoảng 3 triệu đồng. Trong khi đó, giá của cành đào rừng “quý” nhất chợ
Quảng Bá đang được ghi nhận ở mức 20 triệu đồng.
Bên cạnh đó, lan hồ điệp
cũng rất bền, có thể chơi lâu tới hơn 2 tháng. Giá các loại lan hồ điệp
từ 600 đến 800 ngàn đồng một cành, cao nhất có thể cán mốc 1,5 triệu
đồng/cành.
Các cửa hàng hoa, siêu thị
hoa ở Quảng An bày bán không ít những chậu lan hồ điệp có giá lên tới 20
triệu đồng, 28 triệu đồng, 35 triệu đồng, thậm chí là 65 triệu đồng!
Giá đắt như vậy nhưng có
khách mua không? Một người bán lan ở chợ Quảng An cho biết đắt mấy cũng
có khách mua, giá càng đắt, dân chơi càng chứng tỏ mình là loại người
nào nên thị trường hoa Tết sẽ càng sôi động trong một vài ngày tới. Bên
cạnh lan hồ điệp, rất nhiều đại gia Hà Nội đã liên lạc tới hỏi và đặt
cọc tiền mua các loại địa lan cao cấp như giống vàng Nhật, xanh
Newzealand... Giá cả của mỗi chậu lan này cũng không thể dưới chục triệu
đồng.
Thú chơi sang như Mỹ
Lì xì, mừng tuổi đã trở
thành việc “không thể thiếu” vào dịp Tết. Cho nên không nhiều thì ít, cứ
Tết đến, hầu hết các ông các bà lại nhờ một số người quen “đổi” ít tiền
mới để lì xì. Gần đây ở Việt Nam nhiều người, kể cả dân tiểu thương, có
cái thú chơi tiền lì xì là 2 đô-la Mỹ. Ông Tứ, nhân viên của trang web
liên quan đến đổi tiền, cho biết tờ 1-2 USD được người dân dùng nhiều để
lì xì trong dịp Tết nên có mức phí khá cao. Thậm chí để có được tờ tiền
loại 2 USD in năm 1976, khách hàng phải mua với giá 160.000 đồng/tờ,
hay phải mua với giá trên 450.000 đồng cho tờ in năm 1953. Tờ 2 USD in
năm 1917 có giá 2 triệu đồng. Khách hàng mua số lượng nhiều mới có giá
đó, còn mua ít giá còn cao hơn nữa.
Đợi cái hài kịch ông Táo để xả hơi
Ở đây tôi chỉ nêu vài hoàn
cảnh trái ngược để bạn đọc có thể hình dung thấy những cảnh đời trái
ngược tại Việt Nam hiện nay ra sao. Khoảng cách giữa giàu nghèo ngày
càng lớn càng sâu, không thể nào san lấp được. Và tại sao lại có những
người giàu khủng khiếp nhanh chóng đến thế và tầng lớp lao động, nông
dân lại khốn khổ đến như vậy? Câu hỏi tưởng như rất khó trả lời mà thật
ra rất dễ. Tại tham nhũng, quan liêu, xa xỉ công quỹ, pháp luật chưa
nghiêm minh.
Khi tôi viết bài này, sắp
đến ngày 23 tháng Chạp, theo tập tục Việt Nam là ngày ông Táo lên chầu
trời để báo cáo về công việc dưới trần thế. Báo chí Việt Nam đang quảng
bá rầm rộ cho vở “đại hài kịch táo quân” với những “danh hài” sẽ ra mắt
khán giả, nhưng đối với tôi, chẳng có gì lạ, bởi đây chỉ là dịp quả bóng
được xì hơi. Dù sao, cười được một tí cũng đỡ buồn!
Viết từ Sài Gòn, 01/2/2013
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Feb/2013 lúc 8:06pm
CON
NGƯỜI
THẬT
CỦA
PHẠM
DUY Bác sĩ Nguyễn Văn
Bảo
Lời nói
đầu
Nghĩa tử là nghĩa
tận. Trước một “nhân vật của quần chúng” (a person of the
public) vừa nằm xuống, giữ im lặng là thái độ nghiêm chỉnh nhất.
Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều người khen
qúa độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng
mức mà không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài
BBC cũng tường thuật rất tỉ mỉ về đám tang của
ông.
Pham Duy & ca sĩ Ánh Tuyết
Hãy thử tìm con
người đích thực của PD qua tác phẫm, hành động và lời nói của
ông để biêt nguyên do của cái dư luận ồn ào sau tin ông qua
đời.
A / NHỮNG LÝ DO KHIẾN PD ĐƯỢC NHIỀU
NGƯỜI NHẮC TỚI
1/ Ông là một nhạc sĩ được ngưỡng mộ
bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ gìa, từ giới
bình dân tới giới trí thức, từ thời chiến tới thời bình, từ chủ
nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự Do, từ chính quyền độc tài tới
chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.
2/ Cảm tình của quần chúng đối với ông
rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người chê. Nhiều người vừa
khen vừa chê. Nhiều người trước khen nay chê. Nhiều người trước
chê nay khen.
Phe Việt Cộng, sau nửa thế kỷ căm thù
ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài “Hòa Giải Dân
Tộc”.
Phe Tự Do, qua nửa thế kỷ qúy mến ông,
nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua chuộc.
Những biểu lộ ấy (khen-chê, yêu-ghét,
mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ không ngẫu nhiên (
mà có lý do thầm kín) gán
ghép cho ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về
và nếp sống buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong
sự phán xét của họ.
3/ Những tác phẩm của ông, từ dân ca,
tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v. v.. đều có gía trị độc đáo:
mang âm giai ngủ cung hài hòa của dân tộc và lời ca truyền cảm
của ca dao.
4/ Nhạc phổ thơ của ông là một tuyệt
kỹ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù thủy” của loại
nhạc này. Dù phổ nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi của Huy
Cận..) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế
Lữ..) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía trị.
5/ Đời tư của ông có một vài tì vết.
Ông sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất chấp hậu qủa (vụ
Khánh Ngọc và Julie Quang) khiến những người đạo đức khinh bỉ và
những người đối lập khai thác.
6/ Lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước
trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một người có tình
yêu gỉa tạo không thể nào làm được những bài Tình Ca, Tình Hoài
Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người
Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về, Con Đường Cái
Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…
B/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI
KHEN
Hầu hết những người khen đều công nhận
rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc Việt và là một nhạc
sĩ có thiên tài, có lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước chân thành.
Có người đã tặng ông những đức tính mà thực sự ông không có (như
khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người còn vinh danh ông là
chiến sĩ chống
Cộng hoặc nhà tư tưởng thâm thúy. Những
nhận xét như vậy chỉ đúng nửa vời:
1/ Qủa thực ông là một đại thụ của nền tân nhạc
Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ vết: ông đã 2 lần vi phạm luân ký
Việt ( vụ Khánh Ngọc và Julie Quang).
2/ Ông không khiêm nhượng mà còn
háo danh. Một thí
dụ: Trong cuốn video Paris By Night 19, ông trả
lời ký gỉa Lê Văn của đài BBC: “ Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi
như một người Việt Nam”. Khiêm
nhượng thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói:
“ Tôi sẽ làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca
cho Phật giáo thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới
công bằng”. Thế ra ông là người ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo
này! Nét háo danh đã lộ liễu trong lời nói vụng về
ấy.
3/ Ông không phải là một chiến sĩ chống Cộng mà chỉ
là một nhạc sĩ muốn được sinh hoạt văn nghệ mà không bị chỉ đạo
bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng Chiến về Thành không phải vì muốn
xả thân cho lý tưởng chống Cộng mà vì muốn gia đình
được sống thoải mái trong chính thể
Dân Chủ và bản thân được tự do sắng tác theo tiếng nói của con
tim.
Ông đã hưởng trọn vẹn ân huệ của những
người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do cho gia đình ông
sống yên vui. Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ bằng vài
trăm bài ca bất hủ xưng tụng những thứ cao đẹp mà họ trân qúy.
Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do nhưng ông
đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm
đáng khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng
(chiến sĩ chống Cộng).
4/ Ông không phải là một nhân vật thâm
thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào xứng đáng cho danh
hiệu ấy. Một bài nhạc của ông có câu: “Đừng cho không gian đụng thời
gian”. Ông mượn ý đó trong thuyết Tương Đối của
Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có không gian, không có
thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường không
gian; thí dụ: hai thiên hà cách xa nhau một tỷ năm ánh
sáng). Có người đã xin ông giải thích câu đó nhưng ông chỉ trả
lời loanh quanh, vô nghĩa, chứng tỏ ông đã không hiểu ông muốn
nói gì.
Thật là khôi hài khi một anh chàng văn
sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông: “ Nhạc PD còn thì tiếng ta còn, tiếng
ta còn thì nước ta còn ”. Hắn nhái câu thậm xưng của
Phạm Quỳnh trong thập niên 1930: “ Chuyện Kiều còn thì tiếng ta
còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
(Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây để
nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca ngợi ông mà chụp
cái mũ “thân Cộng” cho ông).
C/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI
CHÊ
Những lời chê ông nở rộ trong 2 thời
kỳ:
1/ Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới
2005:
Khi ông bỏ Kháng Chiến về Thành, VC đã
chê ông là phản
động.
Ông đã không phản động mà chỉ phản Cộng.
Phản Cộng vì Cộng không thể cung cấp
những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia đình ông và không
cho phép ông phục vụ văn nghệ theo sở trường mà còn buộc ông
phải khai tử một bài hát vô tội (innocent): bài Bên Cầu Biên
Giới. Giản dị thế
thôi.
2/ Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới
nay:
Khi ông quyết định trở về VN để sống
nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê ông là
phản bội những anh hùng
chống Cộng.
Công bằng mà xét thì ông không phản
bội ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản dị như lý do
ông về Thành thuở xưa.
Ở Hoa Kỳ, các con của ông không có
nghề ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì không cung ứng
đủ những nhu cầu vật chất cho chúng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt
không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc sĩ Việt. Những người lớn
tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi đại nhạc
hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì. Giới trẻ trung thì thích
nhạc Mỹ vì nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp
nhĩ hơn. Bản quyền sáng tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc
được sao chép và bán rẻ rúng công khai trong mọi tiệm nhạc. Sống
nhờ trợ cấp xã hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận 2000$ để
phổ nhạc vài bài thơ “con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh
Hải thì tủi thân cho một nhạc sĩ tài danh như ông.
Giữa lúc nghèo túng thì cơ hội chợt
tới: một khế ước trị gía 400 ngàn đô-la trong 4 năm để sưu tầm,
hòa âm, trình diễn tất cả những bài ca do ông sáng tác tại VN từ
1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc ông phải hòa âm những bản
nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC. Thính gỉa của
ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy
bất kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau
khế ước đó: sách lược“Hòa
Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong thời gian
này. Một người có “khí tiết” ắt không chấp thuận.
Nhưng Phạm Duy không phải hạng người có khí tiết. Ông không
thích sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả, sung
túc như thường tình.
Thế là ông đưa gia đình về quê hương
sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần. Ông rất thích
câu của ai đó nói rằng: “ Về đi thôi! Kiếp sau biết có hay
không?”. Tính tình của ông khác đời ở chỗ: rất thích thú khi được khen và rất ít
phiền hà khi bị chửi.
Trong 8 năm ấy ông đã gặp đủ hạng
người, trong mọi lứa tuổi: ca nhạc sĩ đã quen hoặc chưa quen,
thính gỉa yêu nhạc của ông dù đã biết hoặc chưa hề biết tên ông,
lãnh tụ CS kể cả những người đã từng cấm hát nhạc của ông như Võ
Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên bố một câu vô
liêm sỉ năm 1989: “
PD hãy tự sát đi,
chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông
ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp
mặt những lãnh tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng
phàn nàn nếu ông muốn gặp một vài lãnh tụ CS đã chơi thân với
ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất dễ tính và vô tư
trong việc gặp bạn cũ, chuyện làm qùa chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ
niệm xưa, không bàn về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những
cuộc gặp gỡ lấy lệ hoặc xã giao như vậy.
Có một điểm son đáng ghi
nhận: ông không hề bợ đỡ một lãnh tụ CS nào
và cũng không hề nói súc phạm tới bất cứ ai của chính thể VNCH
trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ
đã phạm lỗi này).
Tôi muốn tóm tắt thái độ của Phạm Duy
trong một câu sơ sài: Khi
sáng tác thì tận tình, khi vui chơi thì tận hưởng, khi nói năng
thì thì tận tục. Duyên Anh đã thuật lại rằng PD,
trong lúc đùa rỡn với bạn bè, đã nói trong hơi men: “ Ai ngu mới thích nghe nhạc của tôi.
Chúng đã được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm
những bài Tục Ca trong cầu tiêu.
D/ KẾT LUẬN:
Nhạc sĩ tài danh Phạm Duy là một người
đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ. Cuộc đời của ông
trôi nổi qua nhiều vinh nhục, thăng trầm. Ông thích sống buông
thả và chỉ có một tham vọng tích cực (productive): sáng tác những bản nhạc có gía trị.
Lối phát ngôn của ông thuộc loại Tú
Xương (“Một thày, một cô một
chó cái” hoặc “Cao lâu thường ăn quịt, gái đĩ lại
chơi lường”). Từ 50 năm nay, chả có ai coi ông như
một “qúy nhân”. Họ mến ông vì ông đã cống hiến cho họ nhiều bài
ca bất hủ, và đi chung với họ trên một đoạn đường dài nhất của
cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.
Ông chưa bao giờ là công cụ của CS.
Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa hề làm một
khúc ca xưng tụng một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng những anh
hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới khi cáo hồ ló đuôi thì ông bỏ
chúng về Thành.
Ông cũng chưa bao giờ là công cụ của
chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong chính thể Quốc gia,
ông chưa hề làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào. Những
bài hát “xây dựng nông thôn” là những
bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi một nhạc sĩ
chuyên nghiệp; chúng đã không thọ lâu.
Khoảng 100 bài ca bất hủ của ông đã đi
sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ ngách của thành thị
rồi “di tản” ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn của vài triệu
người sống lưu vong.
Cuộc “trở về quê” của ông chỉ tổn
thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh hưởng đáng
kể tới tinh thần chống cộng của quần chúng. Chả có ai “hòa giải
dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy đã hồi hương. Sự hòa giải ấy sẽ
không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa giải khi nào
chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng
của quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy
thì chả nên qúa quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc”
của chúng. Nó đã chết ngay sau khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt
bớt nỗi căm thù VC rồi xối vào những ca nhạc sĩ như Phạm Duy, Từ
Công Phụng, Khánh ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v... Có một cái gì “bất
đắc dĩ” trong viêc trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ
không đem đô-la về nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số
thương gia và những kẻ ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của
chúng (lãnh thù lao bằng đô-la). Hãy thông cảm cho họ (thông cảm
không có nghĩa là cổ võ cho người khác trở về) miễn là họ chỉ
thân thiện với dân, chỉ hát cho dân nghe những bài ca mà chúng
ta chấp nhận và không nói lảm nhảm, súc phạm tới tinh thần chống
Cộng.
Riêng đối với Phạm Duy, hãy để cho ông
yên nghỉ, gọi là đáp lễ những bài ca bất hủ mà ông đã cống hiến
trong suốt cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Có cả ngàn người
(phần lớn là thường dân) đã tiễn đưa ông tới nơi an nghỉ cuối
cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc vừa đồng ca trước mồ
ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một bài chưa
được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Vè Cõi Chết).
Từ vạn dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một
chút ngậm ngùi, một chút vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào
cũng tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó có tự do chọn lựa lối
sống) hơn bất cứ điều gì trên đời.
Ngày 6-2-2013
Con Cò http://mautam.net/forum/viewtopic.php?t=157779&sid=fba33457a012fb9b47c96cd07d957523
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Feb/2013 lúc 7:21pm
CÁI CHẾT TRONG CA KHÚC PHẠM DUY
at http://www.diendantheky.net/2013/01/pham-xuan-ai-cai-chet-trong-ca-khuc.html - 1/ http://www.diendantheky.net/2013/01/pham-xuan-ai-cai-chet-trong-ca-khuc.html - 29/2013
12:03:00 AM
*PHẠM XUÂN ÐÀI
Trong buổi lễ tưởng niệm Ðỗ
Ngọc Yến vào tối ngày 23 tháng Tám 2006 tại phòng sinh
hoạt Lê Ðình Ðiểu của báo Người Việt, Bích
Liên với giọng cao vút trong phong cách opéra, đã hát
những lời này:
1.
Hồn xuân vừa tàn hơi
Hay nắng ấm lung linh qua
đời
Hay gió tuyết mưa sa bay ngang
trời
Người yêu dù xa xôi
Xin nhớ tới quê hương u
hoài
Trong giá rét đêm đông đang
trông vời
Một lần người
đưa tiễn nhau
Như vẫn cầu lời
hứa năm nào
Ðằm thắm cho vui lòng nhau
Một lần người xa cách
nhau
Trái tim sầu còn vẫn
tươi mầu
Vì đó... không ai quên đâu...
2.
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang
đầu
Người đi vào không gian
Nghe nhớ tiếc đau
thương vô vàn
Nghe tiếng hát êm êm ru linh hồn
Người về dần trong cõi
mồ
Như lúc nào vừa mới ra
đời
Chào đón xuân tươi ngày
mới
Cuộc đời từ trong
chiếc nôi
Ðã quay về cùng với gió bụi
Về chốn không tên, xa xôi...
Bài hát nói về cái chết, Phạm Duy dựa
vào điệu nhạc Chanson de Solvejg viết lời lâu
rồi, đã trên nửa thế kỷ, ít người
biết, nhưng chạm sâu xa đến một vùng mà không
mấy người có khả năng nói tới. Phạm Duy
là một nhạc sĩ hiếm hoi nhiều lần nói
về cái chết, và Khúc Ca Ly Biệt trên đây là bài hát hoàn
toàn về sự biệt ly của chết chóc, một cách
toàn diện, trong không gian, trong thời gian, trong thân phận
kẻ lìa trần cũng như trong lòng người ở
lại.
http://2.bp.blogspot.com/-wnpv4J8F_6M/UQeCSOfta9I/AAAAAAAAT7Y/-DAH9--9uFs/s1600/img_8997bwbb+%281%29.jpg">
Phạm Duy là một nhạc sĩ sáng tác mãnh
liệt về khắp các mặt của cuộc
đời, nhưng lại luôn luôn nhắc đến cái
chết, tuồng như ông thấy chết cũng là
một hình thái biểu hiện sự sống. Ngay từ
khi còn rất trẻ, trong khi say sưa viết lên cái khí
thế bừng bừng đánh quân ngoại xâm giữa
thời điểm 1945, ông cũng đã mường
tượng đến sự chết rồi. Ông vừa
viết xong bài Xuất Quân lẫm liệt Ngày bao hùng binh
tiến lên thì đã nghĩ ngay đến hình ảnh ma quái
của những Chiến Sĩ Vô Danh
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến
đấu và đã ra người thiên cổ, ông dùng ngay
hình ảnh ấy để lay động lòng người
đang đứng trước cuộc chiến giữ
nước
Ra biên khu trong một chiều
sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú
với gió
Là hồn người
Nam nhớ
thù.
Một thanh niên đang ở độ tuổi
ngoài hai mươi, mang bầu máu nóng phụng sự cho
đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình
ảnh của “cõi bên kia” như thế thì cũng
là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng
lạ hơn nữa, vừa hiện thực vừa siêu
thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết
Ai nghe không sa trường lên
tiếng hú?
Tiếng lầm than, những
tiếng người đời quên.
Ði lang thang tiếng cười vang
tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
Nghe phảng phất như Văn tế thập
loại chúng sinh của Nguyễn Du! Phải chăng linh
cảm mẫn nhuệ của một nghệ sĩ lớn
đã khiến Phạm Duy nhìn thấy trước cảnh
chiến tranh tàn phá kinh hoàng trên đất đước
Việt Nam suốt ba mươi năm sắp tới, dù
thời điểm viết Nợ Xương Máu là vào
năm 1946, trước khi toàn quốc kháng chiến với
Pháp. Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển
của thi ca thời đó để vẽ nên sự
chết chóc, nhưng bản chất của tấn thảm
kịch chiến tranh thì thời nào cũng thế
Lá rụng tơi bời
Ðoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt
ngang,
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Ðoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa
trường...
Tiếng ầm rung chết chóc đó còn vang mãi
trong lòng người không biết bao nhiêu thế hệ
nữa khi họ có dịp ôn lại những trang sử
xưa, không phải những trang chính sử ghi lại
một cách vô cảm các biến cố, mà là những trang
sử như của Phạm Duy viết khi “đoàn quân
tiến qua làng” với những chiếc áo rách
mướp, những thanh kiếm gãy ngang, những cánh tay
không còn nguyên vẹn... và nói rõ họ đang “tiến
về trời.” Lịch sử một dân tộc không
thể không ghi những trang như thế, cũng như
mấy năm về sau khi sáng tác ông đã đóng vai
một ký giả chiến tranh tả thực cái cảnh dã
man rùng rợn “quân thù đã bắt được con
đem ra giữa chợ cắt đầu” từ
một thảm cảnh của làng Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị. Hoặc một cách gián tiếp, chỉ dùng một
số hình ảnh ước lệ, nhưng hiệu
quả gợi cảm thương về sự chết
chóc vẫn lớn:
Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều
trận vong.
(Ðường Ra Biên Ải)
Một số năm về sau ông rời
khỏi các ám ảnh chiến tranh, đề tài sáng tác càng
phong phú, nhưng cái chết vẫn không rời ông. Ông đã
viết về việc sáng tác của ông vào khoảng
đầu thập niên 1960: “Ðối với tôi chỉ
có ba điều quan trọng: Tình Yêu, Sự Ðau Khổ và Cái
Chết.” Nhưng cái chết vào thời điểm này
đã được trừu tượng hóa thành một
loại tư tưởng, không còn cụ thể có khi
đầy ghê rợn như trong thời kháng chiến Pháp.
Như về bài Ðường Chiều Lá Rụng, tác giả
đã tâm sự như thế này: “Lúc này tôi đang yêu
đời lắm, nhưng tôi vẫn nói tới cái
chết, chẳng hạn, qua những kiếp lá trong
đường chiều. Lá đang như những
chiếc thuyền rung rinh trong ngọn gió, bỗng nghe đất
gọi về, lá rơi xuống đất để
trở thành những ngôi mộ úa trên con đường
chiều, nơi đó có tôi và người yêu đang đi
trong cuộc tình.”
Lá vàng bay! Lá vàng bay!
Như dĩ vãng gầy, tóc buông
dài, bước ra khỏi tình phai
Lá vàng rơi! Lá vàng rơi!
Như chút hơi người giã
ơn đời trên nẻo đường hấp hối!
Khi một người lên tiếng Tạ Ơn
Ðời thì tâm hồn hẳn đầy sung sướng vì
những gì đời đã cho mình. Quả thế, tác
giả ca ngợi “bao nhiêu là thương mến, bao
nhiêu là quyến luyến,” rồi “tay hái biết
bao niềm yêu,” và “đời vẫn cho ta ngọt
bùi”... nhưng cuối cùng vẫn không quên cái chết
đang chờ ở cuối đường
Mang ơn đời nâng đỡ
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn
thương nhớ
Còn vấn vương trong
chiều tà.
Bài Một Bàn Tay là một bài hát triết lý, qua
hình ảnh bàn tay mà thấy ra toàn diện cuộc
đời, từ bàn tay bà mụ “đưa anh ra
khỏi lòng người” đến bàn tay làm lụng,
bàn tay yêu đương..., nhưng cuối cùng, cũng
sẽ bàn tay ấy làm động tác giúp kết thúc một
đời người
Một mai đưa anh thăm
thẳm lìa đời
Mùa đông khăn tang mây bỏ
đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi
gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi.
Suốt cuộc đời sáng tác của mình,
kể cả khi còn rất trẻ, Phạm Duy không bao
giờ quên cái chết, và ông diễn tả nó một cách tài
tình, khiến ta khi hát lên cảm thấy như vừa
chạm vào cái cõi bi thương đáng sợ ấy.
Thật ra ông không đi sâu vào chính cái chết như Tolstoi
tả phút hấp hối của André trong Chiến Tranh và
Hòa Bình, ông chỉ nói về tình huống bề ngoài,
nhưng cách nói nghệ thuật của ông khơi dậy
gần như đầy đủ “kinh nghiệm chết”
hình như vẫn luôn luôn có sẵn trong mỗi chúng ta. Ðó có
thể là kinh nghiệm tử biệt sinh ly về cái
chết của bao người khác ta hằng chứng
kiến, nhưng cũng rất có thể là của chính ta,
lưu trữ bằng một cách nào đó sâu trong tâm
thức sau hàng vô số kiếp luẩn quẩn trong vòng
tử sinh. Ðôi khi ta vẫn có cảm tưởng
“nhớ” lại một cái gì đó không hề
được kinh nghiệm trong đời này.
Tương truyền bản nhạc Sombre
Dimanche (Chủ nhật buồn) là một bản nhạc
gây chết chóc, vì không hiểu sao nhiều người nghe
nó đã tự tử. Quả là thỉnh thoảng vẫn
có những tác phẩm mang cái ma lực kỳ dị như
vậy. Bản nhạc ấy vào tay Phạm Duy đã mang
lời Việt Nam
như sau:
Chủ nhật nào tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai
Bước chân người
nhớ thương tôi
Ðến với tôi thì muộn
rồi
Trước quan tài khói hương
mờ bốc lên như vạn nghìn lời
Dẫu qua đời mắt tôi
cười vẫn đăm đăm nhìn về
người
Hồn lìa rồi nhưng em ơi
tình còn nồng đôi con ngươi
Nhắc cho ai biết cuối
đời có một người yêu không thôi
Ơi hỡi... ơi...
người!...
(Chủ Nhật Buồn)
Ðó là luyến tiếc, vướng víu, là không
siêu thoát, phải không?
Khi chúng ta còn nhỏ, sự chết đối
với chúng ta là chuyện... của người lớn. Khi
vào đời ở tuổi thanh niên thì đó là chuyện
của... người già. Chính mình thì chối hết.
Nhưng khi bắt đầu vào tuổi già thì như
một khả năng tự nhiên, càng ngày ta càng cảm
nhận được trong thân tâm mình cái “khả
năng chết” một rõ hơn, mãi đến một
lúc, hết chối nữa, đành nhận nó là của mình.
Nó dần dà, tự nhiên biến thành một phần của
sự sống. Phạm Duy là một người hiếm
hoi “biết” cái chết, “sống” với
cái chết ngay từ tuổi thanh niên. Tại sao? Ðể làm
gì? Trong nhân loại, thỉnh thoảng nẩy ra một
người có khả năng trình bày hộ cho mọi
người khác ý nghĩa toàn bộ cuộc nhân sinh mà thông
thường người phàm mắt thịt chỉ
thấy rất ngắn, toàn là chuyện eo sèo trước
mắt. Chứ sao, phải nói về cái chết chứ, làm
sao có sự sống nếu không có sự chết? Cái
chết chờ bên đầu kia cuộc đời mỗi
người, nào có xa xôi gì, trong chớp mắt của
thời gian đã tới nơi, để bắt
đầu một chuyển hóa mới, một cuộc du
hành mới
Người là ai? Từ đâu
tới?
và người ơi, người
sẽ bước chân về nơi nao?
Người vì sao mà chớm nở?
rồi sớm tối cánh hoa
tươi tơi bời theo với những lá úa?
Người là chi? là cơn gió? là
giọt mưa?
là cát trắng hay bụi xanh lơ?
Người từ xưa,
thuyền theo lái về bến cũ?
Người lên xe đi từ
hư vô qua hư vô?
(Xuân Hành)
Một loạt câu hỏi từ muôn đời
của loài người nhưng không bao giờ cũ, vì ngày
nào con người không còn biết đặt ra những câu
hỏi như thế về thân phận mình thì cũng có
nghĩa là đã dừng lại trên con đường hoàn
thiện chính mình.
*
Chết là cái mà không ai có kinh nghiệm, nhưng
không phải vì thế mà người ta hoàn toàn không thể
viết gì về cái chết. Ðang sống mà “chuyển
sang từ trần” là một sự bí nhiệm, từ
ngàn xưa con người vẫn suy nghiệm, vẫn
cảm xúc đau đớn và vẫn... thờ
phượng cái chết. Ðặc biệt các tôn giáo và các tín
ngưỡng lo săn sóc đến cái chết một cách
kỹ lưỡng nhất, vì biết rõ đó không phải
là một cái gì có thể đối xử một cách bình
thường theo cung cách cuộc sống trần thế.
Trước sự chết, con người bàng hoàng và
sợ hãi, phải tìm mọi cách trấn an nỗi sợ.
Ðông hay Tây đều đặt ra sự tự kỷ cho
mình về một cõi sau khi chết: sinh ký tử quy,
sống gửi thác về, về với ông bà, về ngôi
nhà Cha, về miền Cực lạc... cố dẫn dụ
mình rằng cuộc sống trần thế này tuy ai cũng
tưởng là quan trọng cần hết sức bám víu
lấy, nhưng thực chất chỉ là cái rất
phụ, chỉ là một sân khấu tạm bợ
để múa may trong một thời gian thoáng qua, rồi sau
đó thì “về” với cái đích thực.
Lời hứa hẹn và giải thích thì rất nhiều,
người ta nghe theo lời này hay lời kia, hoặc chẳng
nghe lời nào cả, là tùy khuynh hướng và căn cơ
của mỗi người, nhưng nhìn chung mọi tín
ngưỡng đều nhằm khuyên làm tốt khi sống
để được an ổn khi chết, làm như
cả cuộc đời chỉ là một chuỗi dài
chuẩn bị cho cái giây phút không còn cuộc đời
nữa. Thế mới biết cái chết nó ám ảnh con
người đến thế nào. Ám ảnh đến
gần như biến thành một mục tiêu của sự
sống.
Riêng Phạm Duy chấp nhận hết trong sáng
tác của mình: Tình Yêu, Khổ Ðau và Cái Chết. Ðó là thái
độ của một nghệ sĩ lớn, sống
tận cùng từng phút giây của cuộc nhân sinh. Và, nghe
như có vẻ mâu thuẫn, cũng “sống”
tận cùng với phút giây không còn sự sống nữa, là
lúc Cõi Chết bắt đầu.
(2006)
http://www.diendantheky.net/2013/01/pham-xuan-ai-cai-chet-trong-ca-khuc.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Feb/2013 lúc 8:11pm
http://www.youtube.com/watch?v=Bo7xItKZ7ZM&list=PLC37853AF33519949 - http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&sqi=2&ved=0CCwQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3D7ap2XeS3RO4&ei=DnUhUaKgBMvwmAX8gIGYCg&usg=AFQjCNE7XsthhgHDrzPpVCcBg39SfqBkeg&sig2=Kl55j7knpL3MgJihKUoSSg&bvm=bv.42553238,d.dGY - Phạm Duy, Người Tình Già (Pham Duy - The Old Lover) - YouTube
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&sqi=2&ved=0CDIQFjAB&url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DlLRIpe_BirE&ei=DnUhUaKgBMvwmAX8gIGYCg&usg=AFQjCNFW4S4u8Vdq8ffh7txBkrPXaMFM5g&sig2=2yYKm187QQzFZqvMZ0Wqxg&bvm=bv.42553238,d.dGY - NGƯỜI TÌNH GIÀ TRÊN ĐẦU NON - PHẠM DUY - YouTube
http://www.youtube.com/watch?v=M82edNlqj40 - http://www.youtube.com/watch?v=M82edNlqj40 - http://www.youtube.com/watch?v=3vJLJSTMshI - - - ếu v http://www.youtube.com/watch?v=ErskroaQEZo - - ơ ti - ệt http://www.youtube.com/watch?v=3vJLJSTMshI - http://www.youtube.com/watch?v=3vJLJSTMshI - - - http://www.youtube.com/watch?v=yfB0O-W9H3c - http://www.youtube.com/watch?v=3vJLJSTMshI - - - http://www.youtube.com/watch?v=yfB0O-W9H3c - - TANG LỂ NHẠC SĨ PHẠM DUY NHÀ THƠ - ẠM THI - Ư http://www.youtube.com/watch?v=EvwV5XF_1lE - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - ẾT http://www.youtube.com/watch?v=EvwV5XF_1lE - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - -
http://www.youtube.com/watch?v=EvwV5XF_1lE - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc - - - - http://www.youtube.com/watch?v=ZSC-nrpOmdc -
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Feb/2013 lúc 9:51pm
Phạm Duy Trong Mắt Tôi
Posted on http://hoanglanchi.com/?p=2394 - - by http://hoanglanchi.com/?author=1 - http://hoanglanchi.com/?p=2394 LGT:
đây chỉ là một bài viết nói lên một vài suy nghĩ cá nhân về một nhạc sĩ
lớn của VN. Suy nghĩ cá nhân thì có thể đúng, có thể sai. Tôi không
muốn tranh luận. Tôi khẳng định, tôi không thích con đường trở về của
Phạm Duy, càng không thích bài phỏng vấn cuối cùng mà ông dành cho BBC.
Bài ấy, theo tôi lẽ ra ông nên từ chối. Nhưng cũng có thể ông phải làm.
Bài viết này, công bố một số emails qua lại giữa tôi và NS Phạm Duy vào
năm 2003,
liên quan đến một số vấn đề, chỉ có mục đích soi rọi thêm vài điều
với suy nghĩ rằng, có thể có ích chút nào đó cho mai sau khi viết lại
lịch sử. Bởi vì đó là những tâm sự của PD khi ông
chưa về với cộng sản. Tôi xin nhắc lại, mọi bài viết công kích PD, tôi
đã đọc hết và tôi cũng không đồng ý việc lựa chọn của ông. Vì thế mọi tranh luận ở đây với tôi là vô nghĩa. Nếu không thích xin cứ lướt qua không đọc bài này. Tôi
yêu nhạc Phạm Duy từ bé nhất là những bài tình ca quê hương. Tôi quen
ông năm 2003 khi tôi còn ở trong nước. Nguyên do quen thì không từ tôi
mà từ ông. Lang thang net lúc bấy giờ là thú vui của PD. Đọc được một
bài cảm
nhận
của tôi về nhạc mình, PD gửi mail làm quen. Phạm Duy, con người kiêu căng tự phụ Nhiều người kết án PD là người kiêu căng tự phụ. Tôi tự hỏi trên thế gian này, có nhân tài nào không kiêu căng? Họ, chỉ là nhiều hay ít, ngầm hay không mà thôi. Có
nhạc sĩ thừa nhận với tôi rằng có lẽ PD cũng “chọn mặt mà cư xử”. Với
tôi, PD không bao giờ kiêu căng tự phụ. Từ khi quen cho đến khi ông về
VN năm 2005, với tôi, lúc nào PD cũng là một người đàn ông
lịch sự, lễ độ, lịch thiệp và có chút phong cách của một người hấp thụ
văn hóa Pháp. Chưa bao giờ ông cợt nhã hay có thái độ kẻ cả với tôi. So
với ông, tôi chỉ đáng tuổi con gái và không là gì để ông phải “lấy
lòng” cả. Thế thì vì lý do gì mà ông phải kiên nhẫn e mail, kiên nhẫn
giải thích khi tôi “vặn vẹo” về tình ái, về tục ca? Để biết PD có kiêu căng với những người ”tử tế” không, xin xem phụ lục về mail ông viết cho tôi ngày 3/11 và 21/11/2013 tại đây [1] Phạm Duy với Tục Ca Tôi
không bao giờ biết Tục Ca. Tôi chỉ nghe Tình Ca và vài bài Thiền Ca.
Nhưng bạn hữu tôi chỉ trích Tục Ca. Tôi mail hỏi Phạm Duy về lý do viết
Tục Ca. Ông cũng kiên nhẫn trả lời tôi. Ông nói rằng chưa bao giờ ông
in Tục Ca hay thu âm cả. Nếu có chỉ là ông tự hát. Ông cũng nói rằng có
thể ông đã lầm và tự phá mình khi viết Tục Ca. Tuy vậy, ông cũng lý luận
với tôi rằng nếu Quỳnh Couteau (bút hiệu của tôi viết thuở sinh viên) đã dám chỉ trích Bộ Kế Hoạch về những sai trái thì sao lại không cho ông chửi rủa những cái xấu của xã hội bằng âm nhạc.
Đây là những suy nghĩ của PD viết cho tôi về “Tục Ca” [2] Phạm Duy với chuyện tình ái PD bị người đời kết án về chuyện tình ái nhiều hơn hết thẩy các nghệ sĩ khác. Tôi hỏi vài người về chuyện Julie, không ai dám khẳng định mà chỉ “nghe nói”. Còn chuyện Khánh Ngọc, có bằng cớ và hiển nhiên là PD rất có lỗi.
Nhiều văn nghệ sĩ
khác cũng có một đời sống “phóng túng” như thế hoặc hơn thế. Họ có con
riêng và bỏ rơi đứa con tàn tật; họ quyến rũ người con gái và bỏ rơi cả
mẹ lẫn con; họ thay vợ như thay áo; thế nhưng có vẻ không ai bị “kết án”
và “chửi bới” nhiều như PD. Tại sao thế nhỉ? Trong khi đó dường như
tôi chưa hề thấy một phụ nữ nào lên án PD về tình phụ kể cả Khánh Ngọc.
Theo lời ông kể, sau khi để tang vợ ba năm, ông có gặp lại Khánh Ngọc.
Đương nhiên mối “ngoại tình” này của PD là vết nhơ trong đời ông vì
Khánh Ngọc là vợ Phạm Đình Chương. Trở lại chuyện PD không bị người tình
nào buộc tội mà chỉ thấy người đời nhất là giới đàn ông thì vài người
cho rằng
“thuyền to thì sóng lớn” và có thể là sự đố kị ghen tị nữa. Ông được
thượng đế ưu đãi nhiều quá. Sáng tác nhạc tài danh, vợ đẹp, con cái đề
huề và nhiều phụ nữ đẹp tự nguyện dâng hiến… Tôi
là nữ sinh Gia Long, thêm gốc nhà giáo nên phải nói rằng có phần cổ
xưa. Tôi cố gắng viết một cách lịch sự những gì tôi suy nghĩ về một nếp
gia đình, về bổn phận của một người chồng, người cha khi tranh luận với
Phạm Duy vì dù sao ông cũng đáng tuổi cha tôi. Thoạt tiên, về “phóng túng”, PD viết cho tôi:
Tôi chưa biết quan niệm của Lan Chi về “phong túng hay không phóng
túng”, sau khi tôi đã viết về vấn đề này cho một người dù mới quen
nhưng có thể coi như đã hơi thân thân mật. Xin nhớ, tôi chưa hề “thanh
minh thanh nga” với bất cứ kẻ nào mang thành kiến về tôi, về chuyện
người nghệ sĩ cần phải có đạo đức. Họ có là gì đối với tôi đâu mà tôi
phải nói vào mặt họ rằng : tôi mới là người có nhiều đạo đức nhất. Những
bạn thân thường rất bất bình vì những thành kiến về tôi, gây nên – có
thể — bởi một lực lượng chính trị nào đó. Họ bảo những người mù quáng đó
không nhìn thấy đời sống gia đình của tôi vững chắc và êm đẹp hơn của
nhiều người, bởi vì không có một người bố Việt Nam
nào, trong thời đại vô cùng ly lọan như thế này, mà có thể sống chung
với các con từ khi các bé mới sinh ra cho tới ngày các ông con, người đã
hơn 50 tuổi, kẻ đã tới gần 40 tuổi. Hiện
nay, tất cả các con trai (từ Quang, Minh, Hùng, Cuờng tới Đức) đều sống
với tôi trong một căn nhà 9 phòng, hai bathroom. Ba người con gái phải ở
nhà chồng nhưng mỗi tuần đều mua đô ăn đắtt tiền mang về cho bố. Vì
vậy, tôi đâu cần phải tái hôn với một bà nào để có người trông nom săn
sóc? Ai trông thấy cảnh gia đình đầm ấm như vậy cũng đều khen tôi rất
khéo trong “đạo làm người”. Đạo làm người VN (đạo đức đấy!), thứ nhất là
trong một căn nhà nhỏ
mà tạo được sự tam tứ đại đồng đường. Thứ hai là tôi liên miên bị gieo
tiếng xấu nhưng trong cả một đời, tôi không nói xấu một ai cả. Thứ ba
(tôi nhắc lại) tôi sống rất trong lành, hơn các nghệ sĩ VN thường mắc
phải tệ đoan cờ bạc rượu chè, đĩ điếm… Những đàn bà mà tôi yêu đều là
những người tôi rất kính trọng, còn có người tôi không hề đụng tới da
thịt vì yêu nhau bằng tâm hồn là đủ rồi.
Tôi nghĩ Lan Chi phải bênh vực tôi, nếu thấy là đúng. Lan Chi nói
tới việc “tránh nói tới đời tư” thì với thư này Lan Chi đã thấy đời tư
Lã Bố rồi : hãy đọc lại ba điều vừa trên, tôi “phóng túng” à ? Còn chỉ
vì thấy tôi
làm Tục Ca nên e ngại thì tôi hỏi Lan Chi một câu: có ai dám chửi vào
cái xã hội thối nát lúc đó không. Xã hội bây giờ đáng khen hay đáng chê ?
Trả lời MOA ngay.
Hì hì hì… Cười một chút cho Lan Chi thấy rằng: tôi luôn luôn là
người rất lạc quan. Bỗng nhớ tới bài hát xa xưa : Tôi Còn Yêu Tôi Cứ
Yêu, sọan tại Saigon trong năm 1964. (Thư ngày 13/11/2003) Quả
thật với xã hội Mỹ thì hiện tượng các con lớn vẫn sống chung với bố
đúng là hơi hiếm. Dù sao có thể giải thích là vì PD như một đầu tầu
trong việc kiếm sống bằng âm nhạc nên các con-là toa tầu-phải theo.
Nhưng tôi ngẫm nghĩ về điều PD nói: phải, những người khác thì đam mê
rượu, á
phiện còn ông không hề vướng những thứ ấy. Ông chỉ có khoản tình ái. Một
người có nhiều điều kiện để nhiều phụ nữ, già hay trẻ, yêu đắm đuối,
sẵn sàng dâng hiến và ông không thể từ chối, thì thế nào nhỉ? Quả là
điều này làm tôi bối rối vì tôi đã chứng kiến nhiều đàn ông khác, họ
chả được tài ba như PD nhưng khi mỡ dâng miệng mèo thì họ cũng không thể
bỏ qua cho dù họ đang ở một vị trí mà đạo đức xã hội không cho phép họ
xơi miếng mỡ ấy. Trả lời tiếp cho những suy nghĩ khá cổ của tôi, PD vẫn kiên nhẫn: Nhân có bức hồi thư
vừa rồi
của Lan Chi, tôi mạn phép có vài ba ý kiến rất thân tình: Từ
ngày còn trẻ, Lan Chi đã đựơc Bà và Cha “nhồi nặn”, chắc chắn là với
một thứ đạo lý Khổng, Mạnh cho nên đã cho rằng: là phụ nữ Việt Nam thì
không nên “phóng túng” (có chồng là zero bồ). Cứ cho là đúng đối với cái
xã hội hậu-bán-thế kỷ 20. Thế nhưng trong xã hội vào thời đại 2000,
trước sự ngọai tình vô tội vạ của phái Nam, chúng ta có thể duy trì sự
khắt khe đối với phái Nữ không? Phụ nữ ở Âu Tây đòi bình quyền, ngoài
quyền ăn nói, làm việc, còn có cả quyền tư do luyến ái. Xin nói ngay,
tôi không phải là người vô địch trong việc xuống đường để đòi cho phụ nữ
(có quyền tự do luyến ái) đâu nhé ! Tôi chỉ
muốn là người
hơn tuổn khuyên Lan Chi nhìn vào thực tế, cái gì và lúc nào là đúng,
cái gì và lúc nào là không đúng nữa rồi. Thế thôi ! Việc
tái hôn chắc chắn là điều cần thiết ở xứ Mỹ, đối với những người góa
bụa và tuổi đã cao, vì con cháu ở xa hay quá bận đi làm… Đối với người
mang tên Người Tình Già thì nếu hôm qua và ngày mai, ở Sơn Tây, Phú
Nhuận hay New York, Paris, tôi gặp bà nào mà có sự tâm hợp thì lấy liền
tay, chính các con tôi đã muốn zdậy ! Ê bồ tèo, có bà nào đáng để cho
moa “nâng mùi xoa, xử ví” thì vui lòng làm mối cho già (mà ham) này đi!
(Thư ngày 14/11/2003)
Sau đó tôi gửi
cho ông một số tài liệu mà tôi nhặt được ở net nói về ông. PD đã, vẫn
kiên nhẫn, trình bầy cho tôi về thế nào là “phóng túng”. Đồng thời ông
chia sẻ thêm về gia đình ông. Ông xưng tụng vợ ông, ca sĩ Thái Hằng là Á
Thánh vì bà biết hết việc ông làm nhưng bà tha thứ cho ông. Tôi, sau
khi đọc tâm sự nói rằng cuộc đời một nghệ sĩ tài danh như ông, chỉ vững
như kiềng ba chân với Nghệ Thuật, Người Tình, Gia Đình, tôi bỗng thấy bâng khuâng. Phải chăng “chân lý bên này Pyrenes khác với bên kia?” Tôi xúc động khi thấy ông viết như sau: “Nhưng
tôi rất vui vì Lan Chi đã có một bài viết rất hay về một bài hát của
tôi… nhất là vì Lan Chi khéo dạy Quỳnh Chi, kéo Quỳnh Chi
trở về với những giá trị
nghệ thuật đích thực. Hiện nay nghệ thuật ở VN (trong hay ngòai nứơc)
đang lâm vào tình trạng suy thoái, ai là người thực sự yêu nước yêu dân,
yêu tuổi trẻ thì cùng nhau đi tìm lối thóat ở những giá trị còn đang bị
lấp liếm bởi lũ đạo đức giả, lũ chính trị gia lạc hậu.” Xem thêm mails
PD tại đây [3] Phạm Duy với Bông Giấy Khi
bài viết của Bông Giấy phổ biến (bây giờ vẫn có
người tiếp tục phổ biến) thì tôi còn ở trong nước. Tôi đọc được ở net
sau khi quen PD. Tôi hỏi, PD gửi cho tôi cái mà ông gọi là “Gió Tanh Mưa Máu”, trong đó có các bài phản bác của nhiều người như Văn Thanh, Lại Mạnh Cường, Đoàn Xuân Kiên…Đồng thời ông khẳng định
“Giết PD thì dùng ngay LHMuc, Bgiấy để bôi nhọ PD. Tôi nghĩ : chỉ có
những kẻ ngây thơ hay ngu si thì mới tin lời LHM hay BG. Muốn bạch hóa,
chỉ cần một câu hỏi : PD “tuyên bố” câu đó ở đâu, có thu thanh được
tiếng nói của ông ta về chuyện đó không ? Có đọc được những lời “tuyên
bố” đó đăng ở sách nào, báo nào không?” ( trích thư ngày 21 tháng 11,
2003) thì tôi có bất bình. Lúc đó, tức là năm 2003, tôi nghĩ rằng PD
vốn có tài nên ngông và phát biểu đôi
lúc theo kiểu “bất cần”. Điều xui xẻo xảy ra cho PD là sau đó Bông Giấy
viết bài. Lý do nào bà BG làm thế, chắc chỉ có bà biết. Lý do nào nhiều
người hùa vào chửi rủa, chắc chỉ có họ hiểu. Tôi không có ý kiến gì về bài của Bông Giấy. Tôi chỉ nghĩ như thế này: có những điều người ta nói trong lúc “trà dư tửu hậu” thì không nên coi đó là những tuyên bố chính thức. Thấy tôi hỏi, PD gửi cho tôi ít tài liệu và đây là những mails mà PD nói chuyện với tôi về bài của Bông Giấy. [4] Phạm Duy với Tác Phẩm Như Phạm Duy từng nhận xét rằng “Lan Chi dậy con gái Quỳnh Chi là yêu cây đàn chứ không yêu người đàn “ , thì tôi cũng yêu nhạc phẩm chứ không chú ý người. Cũng trong năm 2003, khoảng
thời gian quen PD, tôi tiếp tục viết một số bài cảm nhận
về nhạc PD đăng ở web ĐT. Mỗi khi có ý kiến của độc giả về bài tôi hay
thắc mắc gì đó đến nhạc phẩm, tôi có fw cho PD coi. Với nhạc phẩm “Người Về”,
một độc giả cho rằng PD đã đứng ở vị trí khác khi viết và chưa đủ để
diễn tả ý quê nghèo, PD đã cố gắng trả lời cho tôi như mail dưới đây.
Trong những lúc này, PD lộ ra một con người khác. Con người đó rất thiết tha với tác phẩm của mình, rất cẩn trọng tinh tế trong sáng tác. Tôi đã bật cười khi đọc mail ông trong đó Anh Pháp Việt đề huề như sau: “Toa, Lan Chi hiểu rất rõ chữ la đà, moa thank you very much.” Đây là mail PD viết khi tôi chuyển
ý kiến độc giả: Dear Lan Chi Lan
Chi có câu trả lời “cái con người” (đã cho rằng: PD “tưởng tượng mà
viết” NGƯỜI VỀ…) là rất đúng. Người sáng tác phải thai nghén tác phẩm
của mình trong thời gian nào đó rồi bỗng có lúc viết ra (tôi bỏ 15 năm
thai nghén BAY CHIM BO XU, rồi viết cái mini-opera này trong có một tuần
lễ). “Cái
con người” này là giáo sư Việt Văn hay là thầy giáo làng
mà có lời bàn là : Hẳn là miền quê những năm vừa qua. Chữ miền quê
chưa diễn tả đủ ý tang tóc chiến tranh, binh lữa, làm cho mẹ yêu đã
già…” Tại sao Lan Chi mất thì giờ bàn tán với một người không hiểu nổi
rằng sau câu trước (những năm vừa qua…) còn có câu sau (chiếc bóng in
trên vách nhà, một ngày một đêm tóc sương phai mờ). Ý của toi đâu có
phải tả cảnh chiến tranh mà nói tới sự chóng già của người mẹ. Còn nữa:
(một ngày một đêm) tôi đã chứng kiến việc một người bạn vì một hcuyên
đau khổ mà tóc đang xanh bỗng bạc trắng. (Người
bạn Lan Chi bảo rằng “ Tóc sương phai mờ, không nói thêm được gì). Mẹ
yêu đã già, là đủ rồi”, trời đất quỷ thần ơi thế thì cya
nói chuyện suông chứ cần gì
soạn lời ca, lời kiếc làm gì nữa.. (chuông
chùa nào la đà) La đà còn có nghĩa là lả lướt, như vậy ngoài “thanh”,
tôi còn cho người nghe thấy cả “họa” nữa. Toa, Lan Chi hiểu rất rõ chữ
la đà, moa thank you toa very much. (rong
rêu cuoc tinh) hay vô cùng, mà tai trâu chê thi tôi không biết nói sao
bây giờ? Rong rêu lúc nào cũng cho ta cảm tưởng cũ kỹ, dĩ vãng, xa xưa.
TCS làm đẹp ngôn ngữ VN. Ông đi tìm những cái mới, rất là đáng khen.
(số nghèo) đúng như Lan
Chi nghĩ. Ai nói tới chuyện tiền bạc trong NGUOI VE. Chúng ta lúc nào mà chẳng thương những duyên số không may. (Có
một điểm đáng quan tâm: chỗ đứng và cách nhìn của tác giả lúc đó, là
một sự ngoái đầu nhìn lại) Đúng là giọng lưỡi của người chạy theo chính
trị, chính trị nào thì toa biết roi. Mẹ kiếp, nếu tôi không để ngày và
nơi soạn Người Về thì lấy đấu để biết chỗ đứng của tôi? Hơn nữa đứng ở
đâu, ở chốn sang hay nơi nghèo, lúc mình đủ hay hay thiếu ăn thì lòng
người nghệ sĩ (cách nhìn) là phải biết rung động trước tha nhân. Thằng
cha này, có lẽ là “cán bộ huyện” qúa, toa ơi.
Lan
Chi, Viết chơi chơi, gọi là đáp lại tấm lòng tốt của Lan Chi. Xin tiểu
thư giã từ vai trò avocat du diable đi nhé… Xin im lặng, âm thầm, làm
công việc đi tìm cái đẹp để trao cho tuổi trẻ.” (trích thư ngày
22/11/2003) Lời cuối Tôi đọc những giòng dưới đây từ giangkq@yahoo.com ở net: Những
kỷ niệm trong đời của chúng ta có nhạc PD thấp thoáng đâu đây, có nhiều
lắm chứ. Đã bao lần chúng ta hẹn hò với người yêu ở 1 quán bên đường để
” uống ly chanh đường , uống môi em ngọt …” . Đã có những lúc chúng ta
,lặng người cầm Sự vụ lệnh để nhận 1 nhiệm sở trên 1 thành phố nơi cao
chỉ mơ hồ nghe nói đến, bên tai như nghe văng vẳng : ” Anh sẽ ra đi về
miền mênh mông , cơn gió Cao nguyên, nhiều đêm lạnh lùng …”. Chúng ta đã
từng, tay ôm súng bước quân hành mà trong lòng còn thổn thức vương vấn
cuộc đời học sinh sinh viên, miệng hát bài hát Xuất Quân của ai nhỉ?
Thời gian tù ngục bởi CS , nhạc
PD cũng đã được cất lên lén lút bằng những giọng hát chỉ được nuôi
dưỡng bằng củ sắn và bo bo. Khi ra đi vượt biển trên chiếc tầu nhỏ, lúc
phải tăng tốc độ tàu để vượt khỏi cơn bão đang đuổi tới sau lưng, mọi
người dưới khoang đang bình yên say ngủ , làm sao quên được bài hát với
người bạn thân ” Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần đi dạt bến lau thưa …
” . Và bây giờ, đã về hưu, với những cái chết của bạn bè đã hiện diện ,
với cái chết của mình đang rình chờ trước mặt, mấy ai nghe: “Lá vàng
rơi ! Lá vàng rơi!Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối
…” mà không cảm thấy xót xa cho cuộc sống ngắn hạn? Tôi đồng ý với giangkq@yahoo.com. Tôi nghĩ rằng PD đã đóng góp nhiều cho âm nhạc Việt Nam, điều mà không ai phủ nhận. Có vẻ như không còn ai viết “Tình Ca” với “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời” hay hơn PD nữa. Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam và PD đã đóng góp tiếp tục cho âm nhạc hải ngoại với “Một ngày 54 cha bỏ quê..”. Rồi PD đã từ bỏ chính nghĩa cờ vàng, trở về Việt Nam. Chỉ mình ông biết được lý do chính xác. Mọi nhận
định khác chỉ là suy đoán.
Tất nhiên có người thông cảm những lý do của ông và có người không. Phạm Duy không thể trở về lặng lẽ như Tạ Tỵ. Tác phẩm chống cộng của ông trải dài từ 1954 đến sau 1975 là bản án tử hình cho ông. PD còn muốn nhạc phẩm mình được vang lên trong nước, các con mình được tự do kinh doanh phòng trà sinh sống. Vì thế PD phải “uyển chuyển”. Thật đáng tiếc.
Duy có một điều,
một nhạc sĩ và tôi nhận ra rằng chưa bao giờ Phạm Duy viết một bản nhạc
ca tụng cộng sản kể từ khi ông trở về năm 2005 cho đến khi ông lìa đời
2013. Lịch sử mai sau chép về âm nhạc PD sẽ toàn tình ca quê hương, tình
ca đôi lứa, thiền ca, nhạc chiêu hồi, nhạc lưu vong và Hương Ca. Không hề vẩn đục bởi một chút nhạc đỏ nào. Châu Đình An,
một người từng là “con nuôi” của Phạm Duy đã viết, để coi như một nén
hương cho ông nhưng cũng là một lời nhắn nhủ cho những kẻ khác: sự thỏa
hiệp với vc luôn thua thiệt về mình. [5] Và tôi, Hoàng Lan Chi, một người từng là bạn
“vong niên” của PD, từng yêu tình ca quê hương của ông, từng ”tranh
luận” với ông về đạo đức, về tục ca, về những tuyên bố “ngông nghênh”,
viết bài này, với dẫn chứng là các e mails, cũng chỉ là một thương tiếc, ngậm ngùi cho một nhân tài đã chọn sai con đường. Bài học
còn đó, những người khác có dẫm vào vết xe đổ đó hay không?
Duy Cường-Phạm Duy-Lưu Trọng Văn-Lan Chi - Sài Gòn 2003
Lan Chi-Duy Quang-Phạm Duy-Sài Gòn 2003 PhạmDuy-Nguyễn Văn Tý-Lan Chi - Nhà Lưu Trọng Văn 2003
Phạm Duy-Lan Chi -Duy Đức-Nhà PD 2004 Hoàng Lan Chi – 2013 Phạm Duy viết về Hoàng Lan Chi : https://dl.dropbox.com/u/89792831/PhamDuy/4lanchi.html - [1] Lan Chi, tôi
thì khác
nhiều người, luôn
luôn kính trọng sự đồng thanh tương ứng hay sự phản đối chê bai của mọi
người. Dù trong những phản ứng đó (hình như) có bàn tay của Nhà Nước
(hì hì hì). Nhưng không bao giờ tôi sợ mất khán giả hay thính giả khi
(vào năm 70) tôi thấy nhu cầu phải viết ra một lọai nhạc phê bình xã hội
như TỤC CA (chẳng hạn). Hay (cũng vào khỏang 72) khi tôi viết lọai ĐẠO
CA vì thấy phải tạm gác lọai nhạc hiện thực để tìm về nhạc siêu linh.
Hai lọai nhạc khác hẳn nhau trong một thời gian… Và hịện nay, có nhiều
người hiểu được THIỀN CA của tôi đâu ! Nhất là những người tự cho mình
là thiền sư. Tội nghiệp, sau 75 (theo Lan Chi) ông TCS không sọan nhạc
nhiều như trước à ? Về phần tôi, xin cải chính ý kiến của Lan Chi, cho
rằng PD không soạn nhạc nhiều…
Thưa Cô Bé, chẳng lẽ tôi gửi danh sách bài bản cho cô xem, cứ tạm kê
khai từng lọai thôi, thì tôi đã có tối thiểu khỏang 50 bài TỊ NẠN CA, 20
bài NGỤC CA, 6 bài HÒANG CẦM CA, 10 bài RONG CA, 21 bài trong BẦY CHIM
BỎ XỨ, chưa kể những bài trong KIỀU 1 và KIỀU 2. Ngòai ra, tôi sọan lời
Việt cho khỏang 100 bản nhạc ngọai quốc etc…Trong dĩ vãng, Nhà Nước đã
thành công trong việc ngăn không cho cô bé và những người yêu nhạc ở
trong nước biết về nhạc PD, nhưng với INTERNET, họ không hòan tòan thành
công dù đã xây bức tường lửa. (Trích thư Phạm Duy ngày 3 tháng 11 năm
2003). [2] Vào
lúc tôi sọan tục ca, tôi có ý nghĩ rằng tất cả những con dân đang làm
một chuyện rất đáng xấu hổ : nhìn l… mẹ mình. Sách, báo, phim, ảnh ngọai
quốc tràn vào sau khi cụ Diệm chết, thanh niên, trung niên, lão niên ùa
chạy theo văn minh vật chất, người ta coi đạo đúc, luân lý như pha.
(khôi hài nhất là những vị phi-đạo đức này phê bình nguời khác thiếu đạo
đức !). Có thể tôi lầm khi tự phá mình (phá thần tượng) (1) để làm mười
bài tục ca nhưng xin mọi người hiểu rõ lý do của bài hát NHÌN L… ! Cô Quỳnh Couteau
đã chửi Bộ Kế Hoach, thế mà vẫn còn sợ nghe tiếng chửi rủa xã hội
của người khác. Thương Sinh, Chu Tử cũng là những văn nhân giỏi lắm,
nhưng một trong những lý do chửi bới của các vị đó cũng có thể vì họ
muốn bán báo chạy hơn. Tôi làm tục ca, không thu vào c***ette hay tape
thương mại, không in ra bản nhạc, còn không muốn phổ biến nhiều. Je les
avait chantées pour mon plaisir. Thế là khóai rồi !!! ( trích thư ngày
14 tháng 11, 2003) [3] Lan Chi, cám
ơn Lan Chi đã gửi cho tôi khá nhiều tài liệu (từ nay, ta sẽ dùng chữ
data, kẻo người ta lại kết án chúng mình là trao đổi tài liệu văn hóa –
mà văn hóa đối với họ là rất quan trọng)…Nói
chung thì phản ứng của tôi là qua những data này, tôi thấy những diễn
đàn về âm nhạc trên NET cho ta thấy một số người yêu nhạc ở trong nước
hay ở ngoài nước đều là những nhà đạo đức, những chính trị gia…Người
yêu nhạc mặc áo ĐẠO ĐỨC (thực hay giả? je ne sais pas!) phê bình tôi
làm tôi nhớ lại câu nói của người bỏ quên cây đàn, khi thấy có bó hoa
trên cây đàn bỏ quên, thì
ngay từ khi bước vào đời nhạc sĩ, đã băn khoăn tự hỏi : “người vô danh
(1) tặng hoa này, yêu đàn hay yêu người đánh đàn”. Lấy ngay chuyện nghệ
sĩ ngoan như bụt hay phóng túng như Epicure ra để bàn luận. Tôi
đã được nhiều người (Lan Chi khuyên bé Quỳnh Chi: nghe nhạc, đừng tìm
hiểu cá nhân, hiểu theo nghĩa là chỉ nên “yêu đàn” mà thôi đấy nhé… )
cho rằng tôi có một đời sống rất là “phóng túng”, hiểu theo nghĩa “bê
bối”. Lạy Chúa và Mô Phật, tôi thách đố ai dám tuyên bố tôi là kẻ nghiện
rượu, nghiện thuốc lá, nghiện sì ke hay nghiện thuốc phiện (nguyên cái
vụ này, tôi đã đạo đức hơn nhiều ông nghệ sĩ) … Còn nghiện đàn bà thì
khỏi cần nói vì tôi đã nói
rồi, nhưng tôi xin thưa rằng với những bạn muốn hiểu tôi rằng: tôi chưa
hề phụ tình ai, tôi chưa hề có một bà nào hắt hủi rồi nguyền rủa tôi
khi xa tôi… Everything is OK, xa nhau, rồi gặp lại nhau “bốn mắt đều có
đuôi”… Tôi
xin nói ngay tôi rằng trong đời tôi, có ba điều tôi tôn thờ : nghệ
thuật, vợ con và người tình, đời tôi phải vững như cái kiềng ba chân.
Không vì nghệ thuật mà bỏ vơ con, bỏ người tình… không vì vợ con mà bỏ
người tình và nghệ thuật… không vì người tình mà bỏ nghệ thuật và vơ
con. Do
đó có bao giờ vợ con tôi kết án tôi đâu? Tôi kính yêu một triệu lần vợ
tôi
(ngày bà còn sống và sau khi bà qua đời), khi các con kể lại rằng bà á
thánh này đã có lần bảo các con: tao biết hết chuyện bố mày nhưng để cho
bố mày có hứng làm nghệ thuật. Vả lại vì lối sống “phóng dật” (dùng
danh từ phóng túng là sai) của tôi mà người ta cho rằng tôi nhiều “đào”
lắm ! Sai, tôi chỉ vài ba người đàn bà “vô danh” (vì không nên nói tên
ra) tuyệt vời đã tạo cho tôi cảm hứng để sọan nhạc. Người
yêu nhạc khoác áo CHÍNH TRỊ để phê bình là người đã bị ảnh hưởng bởi
một guồng máy tuyên truyền. Khi tôi rời kháng chiến vào thành thì có
người bảo tôi là kẻ phản bội ! Ủa, tôi đâu có là đảng viên hay công chức
của một chính quyền nào đâu mà
bảo tôi phản lại Đảng hay phản lại Chính Quyền. Tôi là con chuồn chuồn,
khi vui nó đậu khi buồn nó bay Lan
Chi đã đọc CHƯƠNG 33 – HK 2 thì đã biết lý do tôi bỏ kháng chiến về
thành. Giản dị thôi ! Tôi không thể vì sự nghiệp, vì được cho vào Đảng,
vì được đi Đông Âu… mà để cho vợ đang có mang có thể bị lẻ loi, bị nguy
khổ ở chốn rừng thiêng nước độc, là “u tì quốc”. Tôi cũng mong Lan Chi
không đặt nặng vấn đề này, không nên phổ biến Hồi Ký làm nhức nhối nhiều
người (vì chót nói xấu tôi quá nhiều). Tôi vẫn chưa được bạch hóa hòan
tòan cho nên nếu Lan Chi có ý kiến gì về HỒI KÝ thì chỉ nên gửi cho tôi
coi mà thôi. Tôi chấp nhận tất cả sự phê
phán của các độc giả. Nhưng có thể tôi sẽ không trả lời những gì người
ta viết về tôi, về sự nghiệp của tôi. Bởi vì, cũng giản dị thôi, tôi đã
về hưu rồi, đã treo đàn, gác bút, lột áo tuồng, chùi mặt, tắt đèn, rời
sân khấu rồi…Nhưng
tôi rất vui vì Lan Chi đã có một bài viết rất hay về một bài hát của
tôi… nhất là vì Lan Chi khéo dạy Quỳnh Chi, kéo Quỳnh Chi trở về với
những giá trị nghệ thuật đích thực. Hiện nay nghệ thuật ở VN (trong hay
ngòai nứơc) đang lâm vào tình trạng suy thóai, ai là người thực sự yêu
nước yêu dân, yêu tuổi trẻ thì cùng nhau đi tìm lối thóat ở những giá
trị còn đang bị lấp liếm bởi lũ đạo đức giả, lũ chính trị gia lạc hậu.
Nói
với Quỳnh Chi cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng CD với đa số ca khúc
nghe bằng MP3 qua đường Bưu Điện. (trích thư ngày 12 tháng 11 năm 2003.) [4] Lan Chi, vì Lan Chi hỏi và khi tôi gửi những sự kiện về Bông Giấy/LHMục cho Lan Chi, tôi chỉ muốn một mình Lan Chi hiểu
về việc gắp lửa bỏ tay người, vu oan giá họa của LHM và việc chuyên
môn hạ bệ những người nổi danh của BG. Rồi tùy Lan Chi muốn bạch hóa thi
nhân danh cá nhân Lan Chi giải thích cho lớp
trẻTôi không bao giờ có y định tự tôi cải chính hay đối chất hay đính chính. Để cho những người khác làm công việc đó,
ví dụ lúc trước đã có Văn Thanh, Lại Mạnh Cường, Đòan Xuân Kiên, Luật
su Hà (Canada)…Và bây giờ là Lan Chi. Nếu thấy không tiện thì xin Lan
Chi đóng hồ sơ lại, không cần điểm mặt chỉ tên chúng nó làm gì lại gây
nên những polemique mà tôi không thich. Nếu quả rằng có những thanh thiếu niên tin vào những lờ i “gió tanh mưa máu” đó…. thi tôi cần gì những thanh thiếu niên đó hát nhạc toi, biết nhạc tôi, học hỏi về tôi. Xin
nhớ, tôi đã nói câu này rất nhiều lần : vui một mình tôi di. Có thể có
vài ba bạn đồng hành, không cần phải là đại chúng hay tiểu chúng. Tóm tắt nếu Lan Chi thấy chưa tiện tự mình bạch hóa những chuyện vu cáo hay bôi nhọ thì bỏ qua. Đối với tôi không sao đâu. Năm mươi năm qua người ta đá tôi rất nhiều mà tôi chưa chết thì bây giờ quá muộn để triệt hạ tôi. Thân ái, PD (trích thư ngày 22 tháng 11, 2003) Lan Chi, tôi đã gửi cho Lan Chi
đầy đủ tập HỒI KÝ 3. Tôi đang làm công việc editing HỒI KÝ 4. Rồi sẽ gửi cho Lan Chi sau. Trong
e-mail vừa rồi, Lan Chi nói rằng đã đọc được những controversy trong
mục Forum (website THƯ VIỆN) và Lan Chi hơi thắc mắc rằng tại sao tôi
không bạch hóa những chuyện “gắp lửa bỏ tay người” của LHMục và chuyện
“phỉ báng” của Bông Giấy. Trước hết, qua một số e-mail mà tôi gửi cho Lan Chi để phần nào biện luận về
“những điều ong tiếng ve”, tôi quên là chưa tặng Lan Chi một bài hát
soạn ra từ rất, rất lâu, trong đó tôi nói lên lối say mê của mình, (nói
thật, nói thẳng, nói to, nói nhiều về cuộc đời… nhưng không nói xấu ai,
thù ai hay giết hại ai…) có thể không giống lối
sống của người khác — là kẻ có quyền, là ai
thì LC biết rồi — cứ muốn tôi phải là con cừu hay con vẹt… và điệp
khúc: nếu người khác thương tôi thì cứ để tôi sống say mê, không thương
thì xin giết tôi đi! Giết PD thì dùng ngay LHMuc, Bgiấy để bôi nhọ PD.
Tôi nghĩ: chỉ có những kẻ ngây thơ hay ngu si thì mới tin lời LHM hay
BG. Muốn bạch hóa, chỉ cần một câu hỏi : PD “tuyên bố” câu đó ở đâu, có
thu thanh được tiếng nói của ông ta về chuyện đó không? Có đọc được
những lời “tuyên bố” đó đăng ở sách nào, báo nào không? Cuối cùng, tôi
xin hỏi câu này: Lan Chi đã đọc đầy đủ cả BA cuốn HỒI KÝ của tôi, có
đọan nào thấy tôi nói tới chuyện sáng tác trong WC không? Có
những đọan nào tôi tỏ vẻ tự kiêu, tự mãn không? Về chuyện kiêu ngạo
khiến “Lan Chi phải van chú đừng phát biểu kiêu ngạo… thì Lan Chi có thể
tin được rằng, tôi không dại gì mà phát biểu trên sân khấu (hay trước
đám đông) nhất là “kỳ ở Úc vừa qua rằng nhạc PD là nhất”. Tôi điên mà
phát biểu như vậy à ? Kết luận, nếu Lan Chi gan to bằng trời thì bạch hóa dùm tôi. Nếu thấy chẳng cần parce que…, thì bỏ đi Tám, sức mấy mà buồn. (trích thư ngày 21, tháng 11, 2003.)
Tài liệu
“Gió Tanh Mưa Máu”, Phạm Duy gửi cho Lan Chi: https://dl.dropbox.com/u/89792831/PhamDuy/2giotanhmuamau.html -
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Feb/2013 lúc 11:16pm
http://chaudinhan.net/2013/01/28/pham-duy-con-gi-dau-trong-cuoc-duoc-thua/ - Phạm Duy: Còn gì đâu trong cuộc được thua
Posted on http://chaudinhan.net/2013/01/28/pham-duy-con-gi-dau-trong-cuoc-duoc-thua/ - - January 28, 2013 by http://chaudinhan.net/author/chaudinhan/ - chaudinhan
http://chaudinhan.files.wordpress.com/2013/01/phamduy.jpg"> Nhạc sĩ Phạm Duy và Châu Đình An (1998)
Châu Đình An
Tháng 4 năm 1981 tôi bước chân xuống phi trường Los Angeles,
California trong bỡ ngỡ của một “dân giả quê mùa” lần đầu tiên đặt chân
đến thành phố sầm uất nổi tiếng của Hoa Kỳ. Đang long ngóng thì có tiếng
reo “A! đây rồi…”. Một người đàn ông ăn bận giản dị, chân đi dép và mái
tóc hoa râm đến bên tôi “Phải An không?”.
Tôi nhận ra nhạc sĩ Phạm Duy, ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ
đời 1977 màu cam nhạt, cất hành lý vào khoang xe và trực chỉ về nhà ông ở
Midway City, Quận Cam Cali.
Trên đường đi từ Los Angeles đến Midway City vào khoảng gần 1 tiếng
lái xe, ông hỏi thăm tôi về cuộc sống mới đến Mỹ ra sao, và một vài chi
tiết thân thế long đong của tôi. Quen biết ông qua sự giới thiệu của cựu
dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ
ông giúp thực hiện một băng nhạc C***ettes. Những bài nhạc tôi viết từ
trại tỵ nạn Hồng Kông cho đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa
Kỳ vào tháng 10 năm 1980. Trong đó có những bài như Đêm Chôn Dầu Vượt
Biển, Tâm Động Ca, Như Những Lời Ca Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai
Này, Như Một Lời Thề Nguyền…
Khi nhận được 10 bài nhạc, ông đã nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ
và một cuộc nói chuyện với ông dẫn tôi đến Los Angeles, mà tôi đâu biết
đã bắt đầu đưa tôi bước chân vào giới nghệ thuật. Qua thư trao đổi, ông
khen nhạc tôi có nét lạ của một người vừa vượt thoát từ Việt Nam sau 5
năm dưới chế độ cộng sản, và ông nhận lời đứng ra làm Producer, nghĩa là
nhà thực hiện và sản xuất cho băng nhạc đầu tay trong đời sáng tác của
tôi.
Bước chân vào căn nhà xinh xắn ở Midway City, tôi được chào đón bởi
bà Thái Hằng, phu nhân của ông với một nụ cười hiền hậu, bà vui vẻ, dễ
thương ân cần hỏi han và chỉ tay trên vách phòng ăn một bức hình tôi ở
đấy. Ngạc nhiên thì bà bảo là “bác trai dán hình cháu để nhận diện đi
đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ thì thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi
hay sao mà bố lo lắng ân cần quá!” Mà cũng dễ nghi lắm, vì khuôn mặt tôi
và Duy Minh có phần giống nhau. Tôi cười và cảm thấy gần gũi ngay với
không khí gia đình ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy Quang đi làm về, lịch
thiệp trong quần Jean và áo sơ mi trắng, nụ cười hiền hậu, Duy Quang
thiện cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi đã ăn uống gì
chưa rồi không đợi tôi trả lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê
và thăm phố Bolsa cho biết cộng đồng mình. Mặc cho bà Thái Hằng căn dặn
là chiều về ăn cơm cả nhà.
Đó là những kỷ niệm đầu tiên của tôi với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy mà
tôi còn nhớ. Đến chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu tiên tôi dự bữa cơm
gia đình gồm có ông bà Phạm Duy và các con Quang, Minh, Hùng, Cường,
Hiền, Thảo, Đức, Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng mới nữa là tôi. Bữa
cơm rất ngon vì vui, và từ lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đình,
thân mật, ấm cúng.
Là một gia đình nghệ sĩ, các con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện
thoải mái, đùa cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có sự kính phục. Đây là một gia
đình Bắc Kỳ chính hiệu có truyền thống và nề nếp. Cho dù 4 chàng con
trai (Quang, Minh, Hùng, Cường) và 2 cô con gái (Hiền, Thảo) đã trưởng
thành, nhưng vẫn ở chung với bố mẹ. Nhà nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều
phòng, có phòng thì hai người, chỉ riêng Duy Quang có riêng một phòng
lớn là cái gara để xe trưng dụng thành phòng ngủ, và Duy Cường có một
phòng riêng vì bận làm hoà âm cho nhạc. Ngoài công việc đi làm thường
ngày, nhạc sĩ Phạm Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và
mỗi cuối tuần chơi nhạc tối thứ sáu, thứ bảy tại vũ trường ở Quận Cam
thời bấy giờ.
Tôi ngụ lại nhà nhạc sĩ Phạm Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện
thu âm cho dĩa nhạc, phải nói là ông rất chu đáo về tổ chức, ngày nào
thu thanh ai hát, xem lại bài nhạc, xem lại hoà âm, và cuối cùng, trong
tay chúng tôi có dĩa master nhạc Châu Đình An, và thời bấy giờ Master
băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa nặng tay.
Nhạc sĩ Phạm Duy liên lạc với hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc vẽ cho tôi cái bìa
băng C***ettes, chở tôi đến nhà in An Nam của ông Lê Ngọc Ngoạn để xem
giá cả và ấn loát, những buổi đi làm việc như thế chỉ có ông và tôi trên
chiếc xe cũ của ông băng qua những con đường trong sương mù buổi sáng,
và trong xe thì luôn phát ra các ca khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng
tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế nào bên một nhạc sĩ lừng
lẫy nghe nhạc của tôi mới ra lò.
Ông còn thủ bút viết cho tôi những lời sau:
“Nhạc Châu Đình An vì có nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ là
người đại diện cho những ai vừa vượt thoát từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày
trở về dựng cờ Quốc Gia trên đất nước thân yêu”. Ký tên Phạm Duy
Ông không ngần ngại khen ngợi nhạc tôi viết hay, và ca khúc của tôi
nhan đề Tâm Động Ca do Thái Hiền trình bày đã làm ông xúc động rưng rưng
khoé mắt, lời bài hát tôi viết sau 5 năm tả tơi trong chế độ mới từ
1975 đến 1980:
“Khóc cho người ở lại Việt Nam
Một tiếng khóc thương cho đồng loại
Một tiếng khóc thương em khờ dại
Một tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có tổ quốc, mà không có quê hương
Có đồng bào mà sao xa lạ
Có Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có giòng sông mà con nước khô cạn
Có tình yêu mà không có bè bạn
Đứng bên này bờ biển đại dương
Nhìn chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời tổ quốc trong tim dạt dào
Và nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt
Tổ quốc thương yêu…
Của tôi”
(CDA 1980)
Ông xúc động và chắt lưỡi thốt lên “hay lắm!” không những vì giòng
nhạc tôi mà còn vì giọng con gái ông là Thái Hiền cao vút kết thúc câu
tạm biệt tổ quốc thương yêu của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ một
hình ảnh của nhạc sĩ Phạm Duy ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung động
thiết tha với quê hương đang đau khổ. Cứ thế, hằng ngày, những câu
chuyện ông kể, từ đời sống âm nhạc của ông, lộ trình vượt thoát đến Mỹ,
và đến nỗi đau đớn dày vò suốt bao năm tháng dài khi 4 người con trai
còn kẹt lại quê hương. Ông cũng kể là cả hai ông bà in roneo, loại giấy
copy để đóng thành tập nhạc dạy đàn guitar do Phạm Duy biên soạn để bán
kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo cho cộng đồng người Việt
phôi thai hình thành. Ban nhạc gia đình với Phạm Duy, Thái Hằng, Thái
Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là mình không lúc nào quên được cách
để kiếm tiền, hầu có phương tiện tìm cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng,
Cường còn lại quê nhà. Bà Thái Hằng còn cho tôi biết, những ngày bận rộn
sinh kế thì thôi, còn khi về đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra thừ
người, đau đớn, ray rứt với 4 người con trai mà ông đang suy tính tìm đủ
cách để đoàn tụ.
Ở đây tôi muốn nói đến tình yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm Duy, cả
nhà 10 miệng ăn, và từ khi còn ở Việt Nam qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn
tay của ông làm ra, từ viết nhạc, viết bài và làm những việc liên quan
đến âm nhạc để nuôi sống gia đình. Các con của ông dựa vào ông, chỉ vì
yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá, do vậy đã dẫn đến tình trạng sau
này, là ông đánh đổi tất cả sự nghiệp âm nhạc tiếng tăm, để chọn một lối
thoát kinh tế cho các con khi về sinh hoạt trong một nước Việt Nam do
cộng sản cai trị.
Đây là một sự thực mà ít ai hiểu được.
Trong email với nhà báo Hoàng Lan Chi, khi chị đề cập về thái độ và
lời nói của ông trong các cuộc phỏng vấn của báo chí “lề phải” trong
nước, đã dấy lên sự phản ứng bất bình của cộng đồng hải ngoại, về những
bức ảnh ông cầm tấm thẻ “chứng minh nhân nhân”, “chứng minh hộ khẩu”,
tôi đã trình bày cho chị về những điều tôi biết với nhà báo Hoàng Lan
Chi, một người quen biết với gia đình ông.
Chế độ Việt Cộng và nhạc sĩ Phạm Duy chơi “game” với nhau, cả hai lợi
dụng nhau, và cả hai đều có đường tính toán khác nhau. Chắc chắn một
điều là Phạm Duy không thể nào theo cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, và
ông đã nhận ra chế độ hiện nay ở Việt Nam, không còn thứ cộng sản của
thời ************, Lê Duẩn, mà là cái vỏ bọc cộng sản che chắn cho cái
thực chất là chế độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị và cái ruột chính vẫn là
mô hình tư bản kinh tế, hay rõ hơn là tham nhũng, bán tài sản quốc gia
làm giàu cho các lãnh tụ và phe cánh. Ông Phạm Duy chọn một lối đi như
tôi đã nói ở phần trên là, lối đi kinh tế cho các con của ông sau này,
mà nhìn phiến diện đó là sự thoả hiệp dễ nhạy cảm phát sinh ra sự chê
trách, chống đối từ phía cộng đồng người Việt quốc gia, cái nôi đã cho
ông hít thở, phát triển gần như toàn diện sự nghiệp âm nhạc của ông. Do
vậy, người ta giận dữ cũng chỉ vì tiếc cho ông, một tài năng, một biểu
tượng văn hoá còn sót lại của Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi đoan chắc là chỉ vì quá yêu thương các con, ông đã chọn về Việt Nam trong chế độ độc tài hiện hữu để có ba việc:
Thứ nhất: Cái chết của vợ là bà Thái Hằng đã làm ông
hụt hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về cuộc đời tình ái phiêu lưu thêu
dệt của người nhạc sĩ, nhưng, có lần ông cho tôi nghe ca khúc “Nắng
Chiều Rực Rỡ” mà ông bảo là viết riêng cho bà, vì cả ngàn ca khúc của
ông chưa có bài nào viết cho bà. Trong đó có câu “thế kỷ này, đang trong nắng ban chiều. Cho lòng mình bâng khuâng nhớ nhau”. Ông bắt đầu cô độc thực sự sau ngày bà ra đi.
Thứ hai: Người già cô độc, và đơn chiếc, dễ tủi thân
mủi lòng, nếu ông mất sớm vào khoảng 70 tuổi thì thôi không có chuyện
nói đến, và bây giờ Phạm Duy vẫn là thần tượng, nhưng ông sống đến trên
80 tuổi mà quê hương với ngày về thực sự vẫn xa vời vợi, chế độ cộng sản
chưa sụp đổ như bao người trông chờ, không biết đến bao giờ quay trở
lại cố hương. Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn về một lần rồi nhắm mắt
xuôi tay ở cái quê hương khốn khổ đã cho ông nếm trải nhục vinh rồi ra
sao thì ra.
Thứ ba: Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết
rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố định, chẳng ai có
bằng cấp gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ,
tạo dựng. Và môi trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để các con sinh
sống, làm thầy thì không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi dụng
chính sách gọi là “nghị quyết 36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường
máu tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của ông và các con”, bất chấp sự phản
đối, bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất vọng vì sự sụp đổ hình ảnh
thần tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.
Người nghệ sĩ Việt Nam đứng giữa hai lằn đạn của hai chiến tuyến khác
nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến tranh hay hoà bình hiện nay. Và người
nghệ sĩ trong một giây khắc xúc cảm rất dễ trở nên yếu đuối. Vì tâm hồn
không yếu đuối, không thể là nghệ sĩ.
Cái còn lại, tôi nghĩ xa hơn, một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần
có nơi nương tựa, cần có nơi chở che. Cộng đồng hải ngoại là nơi để
nương tựa, nơi để thở than và mong nhận che chở. Dù sao thì, cộng đồng
chúng ta ở hải ngoại khi thương thì hết lòng, khi ghét thì hết tình.
Ngay như bản thân tôi về ở Orlando, Florida hơn 20 năm qua, chuyên làm
kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn, mà vẫn không yên, tôi hiểu con người ta,
chỉ có một thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp mũ và thiếu sự cảm
thông. Do vậy, không riêng gì ông Phạm Duy, mà còn nhiều nữa, cộng đồng
nói chung, đôi khi vì quá nhiệt tình, quá sôi nổi, quá bức xúc vì chế độ
cộng sản Việt Nam, do vậy vô tình đã thiếu sự khoan dung, thiếu trái
tim bao dung che chở, để làm nơi nương tựa cho những nhà văn hoá, chính
trị, tôn giáo. Cuối cùng, vô tình, lãng quên, và người ta sống theo cách
sống của họ là bất chấp, …và họ trở thành ích kỷ.
Ông Phạm Duy đã nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con
người sống thở trên cõi đời này. Chắc chắn là các báo lề phải trong nước
sẽ có nhiều bài “vinh danh” ông, ca ngợi sự nghiệp âm nhạc và con người
ông. Chế độ cộng sản hiện nay luôn nhận vơ cho mình những khuôn mặt lớn
của văn học nghệ thuật, từ Văn Cao, Trịnh Công Sơn và bây giờ là Phạm
Duy là người của họ, là những kẻ thành danh do bởi chế độ, hoặc là tài
sản chung của đất nước. Bởi vì có mất mát gì đâu, khi một cái “Game” mà
chế độ lúc nào cũng là kẻ thắng bởi vì cầm quyền ban phát “xin và cho”.
Đây là một bài học cho giới làm nghệ thuật một khi thoả hiệp trong
một trận đấu “Game”. Cuối cùng cái triết lý cùn là “sống dễ, dễ sống.
Sống khó, khó sống”.
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê!
Châu Đình An http://chaudinhan.net/2013/01/28/pham-duy-con-gi-dau-trong-cuoc-duoc-thua/
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Feb/2013 lúc 9:06pm
Tình ca -
- Created on Tuesday, 19 February 2013 00:30
-
San Hà
TB - 23 tháng Chạp Tết Quý Tỵ là ngày ông Táo chầu trời. Đó cũng là ngày nhạc sĩ Phạm Duy về với đất.
Ông mất năm nay 92 tuổi. Ngoài
90 là tuổi hạc hiếm. Cuộc đời và các tác phẩm của ông đã kéo dài gần
trăm năm. Trong một thế kỷ đó, ông trải qua tất cả những biến cố thăng
trầm của nước nhà. Ông đi từ Bắc vào Nam, ra hải ngoại. Cuối cùng, quay
về Việt Nam. Con đường thật dài cả về thời gian lẫn không gian.
Chỗ dừng chân cuối cùng ông chọn lựa không phải
miền Bắc nơi sinh ra và lớn lên, không phải hải ngoại khó khăn mới đến
được để sống nhiều năm tự do, mà là miền Nam, là Saigon nơi một thời
Quốc gia, sự nghiệp thăng hoa nhất.
Khi bước chân lưu
lạc đã trôi đi tới những nẻo đường quá xa, đối với nhiều người lớn tuổi,
quay về không dễ dàng, một khi cuộc sống hằng ngày phụ thuộc đầy vướng
mắc ràng buộc với con cháu, với vô số thủ tục, thói quen..., cho dù lòng
hoài hương không thôi ray rứt.
Vì thế, trở về quê hương sống nốt quãng đời còn
lại là một quyết định không dễ dàng. Riêng ông, dĩ nhiên đối mặt với khó
khăn nhiều hơn.
Nhưng ông vẫn về, đã trở về... Với
những người yêu mến nhạc của ông, ông về với họ thì họ đến với ông. Đêm
trước ngày di quan là một buổi ca hát. Những bài tình ca trỗi lên không
ngưng. Họ hàng thân hữu, hàng xóm chung quanh... không mệt mỏi, cùng
thức suốt đêm dài với những bài ca, lời hát...
Trời còn mờ tối, dãy hoa tang xếp hàng dài che
kín hẻm. Đông nghẹt người đứng từ trước cửa nhà đến ngoài đường lớn, và
càng lúc cáng đông hơn.
Ngôi nhà đi ra đi vào, giờ quay đầu chào một lần
để đến nơi ở mới. Vĩnh viễn chẳng còn xê dịch, đổi thay, không vui
không buồn nữa. Con đường cái quan đi mãi cũng đến chỗ dừng, cũng đến
lúc mỏi chân nghỉ giấc nghìn thu.
Từ nhà đến nghĩa trang vẫn đông người lưu luyến
trên những chiếc xe khách lớn, trên dòng xe gắn máy chạy sau, đi cùng
ông nốt chặng đường qua nhà cửa phố xá, qua hối hả nhân sinh...
Đến nơi rồi. Xe chậm dừng lại. Cuối năm cận Tết, nắng hanh vàng trải rộng rãi trên lối vào hai hàng Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Khi bài kinh Đại Bi chấm dứt, huyệt sâu đã chờ
dưới, nhưng ông vẫn còn nấn ná đôi chút. Còn một thời gian ngắn nữa mới
đến giờ hạ quan.
Cuộc đời ông dành cho âm nhạc, là âm nhạc, nên trong giờ phút cuối, tiếng hát lại cất lên thay lời ai điếu. Thoạt tiên là Việt Nam - Việt Nam,
trước kia từng được đề nghị thay thế Quốc ca. Ở ngôi trường tiểu học
ngày đó, cứ mỗi thứ Hai đầu tuần, học sinh đều hát kế ngay sau Quốc ca
chào cờ.
Bài hát này vốn thường được đồng ca nên mọi
người đồng thanh hát. Trong khung cảnh trang nghiêm, giữa những con
người được kéo lại gần, gắn kết với nhau bởi âm nhạc đó, bài hát cất lên
làm bừng lên, như sống lại bầu không khí quen thuộc thân thương ngày
nào.
Tiếp theo là Tình ca bất hủ. Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời.
Mẹ hiền ru những câu xa vời. À ơi! Tiếng ru muôn đời. Tiếng nước tôi!
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi...
Như vọng lên dạt dào sóng vỗ biển Đông, như Trường Sơn mênh mông rì rào
ấp ủ. Nếu không phải tình yêu quê hương, dân tộc mạnh mẽ được đặt vào
một thiên tài âm nhạc tài hoa, sao có thể có bài ca chứa chan đến vậy.
Từng nốt nhạc, từng lời, từng chữ như từ sông núi tỏa ra, từ tâm tình
của con dân nghìn năm đất Việt kết lại.
Rồi Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười. Vài
cánh xương hoa nằm ép trong thơ. Rồi sẽ tan đi mịt mù. Vạt tóc nâu khô
còn chút thơm tho. Thả gió bay đi mịt mù. Trả hết cho người, cho người
đi. Trả hết cho ai ngày tháng êm trôi. Đường em đi trời đất yên vui.
Rừng vắng ban mai, đường phố trăng soi. Trả hết cho người. Trả hết cho
ai cả những chua cay. Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời. Đường
dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.
Âm điệu vỗ về, an ủi là tâm sự gửi cho người ở lại, trao cho người ra đi. Chia ly là đây. Mất và còn là đây. Bài
hát từng nghe tự độ nào, vẫn nghe đây đó, quen lắm, gắn bó như một phần
đời của mỗi người thấp thoáng ẩn hiện. Âm thanh vọng lên nhắc nhở đến
những Cây đàn bỏ quên, Bà mẹ quê, Trả lại em yêu, Giọt mưa trên lá... làm sao kể xiết. Sau này, khá nhiều cô gái mang tên Thạch Thảo chỉ vì cha mẹ ngày đó đã quá rung động với bài Mùa thu chết.
Nước non ngàn dặm ra đi. Dù đường thiên lý xa vời, dù tình cô lý chơi vơi. Cũng không dài bằng lòng thương mến nhau...
Lời của Huyền Trân rải tình nước non theo từng bước chân đi cũng là tự tình của người dân nước Việt. Những
bài hát tạ từ trìu mến. Một ngày mà bây giờ đã gọi là ngày xưa, khi ông
viết nên những nốt nhạc, những ca từ đó, có khi nào nghĩ sẽ là lời ngậm
ngùi chia tay cho chính mình.
Những bài hát không có đàn đệm, không do giọng
ca điêu luyện của các ca sĩ chuyên nghiệp mà ai nấy cùng cất giọng.
Giọng của người già, người trẻ, giọng nam, giọng nữ. Lời ca vẫn thuộc
bấy nay, dìu dặt vang lên như tiếng kinh cầu gửi gắm. Những bài kinh đặc
biệt với ca từ và giai điệu đẹp đẽ rung lên từng sợi tơ cảm xúc, chạm
đến sâu thẳm đáy lòng.
Quả có điều gì lay động tận trái tim. Một ông già râu tóc bạc phơ bỗng ôm mặt khóc và vài người khác không ngăn nổi giọt lệ.
Giọt nước mắt không bi ai, áo não mà dường như
chất chứa hạnh phúc và biết ơn người nhạc sĩ đã tặng cho đời những bài
ca lấp lánh. Nỗi buồn thương tiếc trộn vào lời hát ngân nga không phải
từ ai, từ người ngoài, mà xuất phát từ chính tình cảm, rung động của mỗi
người.
Bởi vì hơn bao giờ hết, ở thời khắc vĩnh biệt
này, âm nhạc khi cất lên đã vượt khỏi mọi toan tính đời thường, đã khiến
mọi cánh cửa hận thù đóng lại, tỵ hiềm lùi xa. Tràn ngập nơi đây là
tình ca lan rộng, thấm đẫm tình yêu ngọt ngào.
Những bài tình ca về đất nước, về dân tộc, về
đôi lứa... mà người ta tin rằng trong tương lai, sẽ khó xuất hiện một
nhạc sĩ thứ hai như vậy.
Và rồi đến lúc chia lìa, từng tờ giấy vàng, từng
cánh hoa tươi, nắm đất ném như mưa xuống phủ đầy trên mặt quan. Một lần
nữa, bài Việt Nam – Việt Nam lại đồng thanh cất lên, hào hùng, bi tráng như lá cờ phủ lần cuối. Việt
Nam Việt Nam nghe từ vào đời. Việt Nam hai câu nói bên vành nôi. Việt
Nam nước tôi. Việt Nam Việt Nam tên gọi là người. Việt Nam hai câu nói
sau cùng khi lìa đời...
Giữa
buổi sáng cuối năm yên lành, khi tiếng hợp ca cất lên, lời hát vọng
xuống lòng huyệt sâu, lan ra chung quanh cây cỏ rất xanh, bay lên mây
trắng bồng bềnh trên bầu trời thênh thang. Trong khung cảnh đó, ai nấy
bỗng dưng cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, thanh thản xiết bao.
Bởi vì âm nhạc đã thi hành sứ mệnh cao cả của mình. Thái
độ, tuyên ngôn... của người nghệ sĩ trước cuộc sống được thể hiện bởi
chính tác phẩm của mình. Với ông, là các bài hát về đủ loại dân ca, du
ca, bình ca, ngục ca... Ông đã chứng kiến, trải nghiệm rồi bằng xúc cảm
và tài năng của mình, kể lại từng giai đoạn lịch sử của nước nhà qua số
lượng sáng tác đồ sộ. Lịch sử không viết bằng văn xuôi mà được thuật
bằng âm nhạc.
Tác
phẩm chính là biểu hiện cho tình cảm, tâm hồn của người nghệ sĩ. Những
bài ca không thể phong phú hơn, không thể thiết tha da diết hơn, đã nức
nở đi sâu vào lòng người.
Còn gì để trách móc? Mọi
oán thù, thị phi rồi sẽ tan biến. Còn chăng, một mai sẽ lắng đọng, chìm
xuống thành những câu chuyện bên lề. Tồn tại vĩnh viễn và tráng lệ là
một kho tàng âm nhạc hiếm có, đi vào bất tử trong nền âm nhạc nước nhà.
Trời cao xanh ngắt, hai con hạc trắng bay về nơi nao. Nấm
đất vun cao phủ đầy hoa tươi bịn rịn. Hạc đã vỗ cánh khuất về Thiên
Thai nhưng âm nhạc thì ở lại. Những bài tình ca cuối cùng nơi mộ địa đã
êm đềm tiễn đưa ông, và nơi người ở lại, đã dậy lên tình cảm yêu thương
đầm ấm chân thành nhất.
Người nhạc sĩ tài hoa không mất đi. Ông chỉ thoát khỏi xác trần để hiện hữu từ một hình thức này sang một hình thức khác.
Từ đây Phạm Duy sống an nhiên trong các nhạc phẩm của mình, trong lòng mẹ Việt Nam muôn thủa.
San Hà .
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Feb/2013 lúc 6:44pm
Bản nhạc cuối cùng của Nhạc Sĩ Phạm Duy . Ca sĩ Duy Quang hát
http://xa.yimg.com/kq/groups/16131890/40409823/name/774-NNS-NguoiTinhGiaTrenDauNon_2012%2Epps - 774-NNS-NguoiTinhGiaTrenDauNon_2012.pps
http://groups.yahoo.com/group/Thunhan1-2/post;_ylc=X3oDMTJyNmVmaGo1BF9TAzk3MzU5NzE0BGdycElkAzE2MTMxODkwBGdycHNwSWQDMTcwNTA4Mzc2NARtc2dJZAMzMjc5NgRzZWMDZnRyBHNsawNycGx5BHN0aW1lAzEzNjE3NzY5MjU-?act=reply&messageNum=32796 - Repl
------------- mk
|
Người gởi: Gò Công Đôn
Ngày gởi: 31/Mar/2013 lúc 4:28pm
<Flash> src="https://www.facebook.com/video/embed?video_id=600319556645655" width="960" height="720" frameborder="0"></Flash>>
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 04/Jan/2014 lúc 7:43pm
Mời nghe bài HOA XUÂN do HÀ THANH trình diên:
http://www.youtube.com/watch?v=BcMoWqHhfW0
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
|