KINH DỊCH : ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ.
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1532
Ngày in: 15/Nov/2024 lúc 10:06pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: KINH DỊCH : ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ.
Người gởi: Hoa Hạ
Chủ đề: KINH DỊCH : ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ.
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:14pm
Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ (1912-1984)
Nguyễn
Hiến Lê tự là Lộc Đỉnh, sinh ngày 8 - 1 - 1912, quê làng Phương Khê,
phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình) Xuất thân
trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thuở nhỏ học tại trường Yên Phụ,
Trường Bưởi, Trường Cao đ8ảng Công chánh Hà Nôi. Năm 1934 tốt nghiệp
làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ nên có điều kiện hiểu biết về đất
nước và con người ở các địa phương thuộc khu vực nạy Sau cách mạng
Tháng Tám, ông bỏ đời sống công chức , đi dạy học ở Long Xuyện Năm 1952
thôi dạy, lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và sống bằng ngòi bút. Những
năm trước 1975 tại Sài gòn, Nguyễn Hiến Lê là một trong vài người cầm
bút được giới trí thức quí mến về tài học, nhân cách đối với xã hội
cũng như trong học thuât. trong đời cầm bút của mình trước khi mất, ông
đã xuất bản được đúng 100 bộ sách, về nhiều lĩnh vực: Văn học, Ngôn ngữ
học, Triết học, Tiểu luận phê bình, Giáo dục, Gương danh nhân, Du kí,
dịch tiểu thuyết...Do thành quả lao động nghiêm cẩn của mình, ông được
nhiều người trân trong. Những năm 60,70 chính quyền Sài gòn đã tăng ông
"Giải thưởng văn chương toàn quốc", "Giải tuyên dương sự nghiệp văn
học", với một ngân phiếu lớn (tương đương mấy chục lượng vàng). Ông đã
công khai từ chối với lý do "dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh"
và bản thân tác giả không hề dự giải . Tác phẩm của ông là những
đóng góp lớn cho văn hóa Việt Nam. Năm 1980 ông về ẩn cư ở Long Xuyên,
rồi bệnh mất ngày 22-12-1984 tại Sài Gòn, hỏa thiêu ở Thủ Đức, hưởng
thọ 72 tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Lịch sử thế giới,
Đông Kinh nghĩa thục, Bán đảo Ả Rập, Văn minh Ả rập, Sử Trung Quốc,
Lịch sử văn minh Trung quốc, Nguồn gốc văn minh... Đại cương văn học sử
Trung Quốc, Văn học hiện đại Trung Quốc, Cổ văn Trung Quốc, Hương sắc
trong vườn văn, Luyện văn, Sử kí Tư Mã Thiên, Chiến Quốc sách, Tô Đông
Pha, Đại cương Triết học Trung quốc, Mạnh Tử, Liệt Tử và Dương Tử, Nhà
giáo họ Khộng Để hiểu văn phạm, khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Gương
danh nhân, Gương hy sinh, Gương kiên nhẫn, Ý chí sắt đá, Gương phụ nữ,
Những cuộc đời ngọai hạng, Tìm hiểu con chúng ta, Thế hệ ngày mai... Kể từ năm 1975 đến năm mất (1984) ông viết thêm được trên 20 tác phẩm dài hơi (phần lớn về Trung Quốc học) như: Mặc
học, Hàn Phi Tử , Trang Tử, Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, Hồi
Ký...Tuân Tử, Golgol, Chekhos, và một tác phẩm lớn về Sử Trung Quốc. (Theo từ điển nhân vật lịchsử Việt Nam - NXBKHXH)
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Trả lời:
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:16pm
Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê
Tôi
viết tập này chủ ý để hướng dẫn các bạn muốn tìm hiểu triết lý trong
Kinh Dịch, tức vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách sử thế trong
Kinh Dịch mà tôi gọi là Đạo Dịch, đạo của bậc chính nhân quân tử thời
xưa . Vì vậy tôi bỏ bớt phần bói tóan, huyền bí và rán trình bày một cách có hệ thống, sáng sủa tư tưởng của cố nhân. Mặc dầu vậy, sách vẫn khó đọc, và để cho các bạn đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn dưới đây. Việc đầu tiên là đọc Bảng Mục Lục để biết qua ba nội dung của sách . Sách gồm 2 phần: - Phần 1: Giới thiệu, có 6 chương, từ I đến VI. - Phần II: Kinh và truyện: Kinh thì tôi dịch tròn 64 quẻ, Truyện thì chỉ dịch Hệ từ truyện. Phần I - Chương I và II quan trọng, bạn nên đọc kỹ: - Chương III đọc để nhớ và hiểu được ý nghĩ Kinh Dịch. - Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kỹ, chỗ nào không hiểu thì đánh đấu ở ngòai lề để sau coi lại. Đọc xong Chương IV rồi, nên hãy tạm nhảy chương V và VI mà đọc tiếp ngay bản dịch 64 quẻ trong phần II. Mỗi ngày chỉ đọc 2,3 quẻ thôi, đọc kỹ cho hiểu . Đọc được độ mươi quẻ thì những quẻ sau sẽ thấy dễ hiểu. Chương
IV giúp bạn hiểu 64 quẻ, mà 64 quẻ cũng giúp bạn hiểu thêm chương IV,
vì vậy trong khi đọc 64 quẻ bạn nên thường tra lại chương IV, lúc đó
bạn sẽ hiểu những chỗ đã đánh dấu ở ngoài lề mà lần đầu tiên bạn chưa
hiểu . Công việc đó xong rồi, bạn đọc kỹ Chương V và VI Phần I và
lúc này bạn hiểu được ý nghĩa trong hai chương quan trọng đó, nhất là
Chương VI. Đọc lần đầu dù kỹ tới đâu cũng chưa gọi là hiểu hết, nhất là
chưa nhớ được gì nhiều . Nghĩ một thời gian, bạn nên đọc lại lần thứ nhì, lần nầy mau hơn lần trước. Rồi lâu lâu bạn nên coi lại những chỗ bạn cho là quan trọng cần nhớ . Muốn hiểu thêm Kinh Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn sách nầy. Cách tìm một quẻ. Mỗi quẻ có số thứ tự của nó trong kinh, thành phần và tên. Ví
dụ: Quẻ (hình quẻ hai âm, hai dương, hai âm) số thứ tự là 62, thành
phần là Lôi (hai âm, một dương) ở trên, Sơn (một dương hai âm) ở dưới,
tên là Tiểu Quá.
hết: Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:19pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 1
NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH
NGUỒN GỐC: Một sách bói mà thành sách triết. Khắp thế giới có lẽ không có bộ sách nào kỳ dị như bộ Kinh Dịch. Nó
là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung hoa, sau Kinh Thi và Kinh
Thư, nhưng nguồn gốc của nó - tức bát quái - thì có thể sớm hơn vào
cuối đời Ân, 1.200 năm trước Tây Lịch. Nó không do một người viết
mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi
đến đầu đời Tây Hán nó mới có hình thức gần như hình thức ngày nay
chúng ta được biết từ Tây Hán đến nay, trên 2.000 năm nữa, thời nào
cũng có người tìm hiểu nó thêm, đem ý riêng của mình và tư tưởng của
thời đại giọi vào nó, khiến cho ý nghĩa và công dụng của nó mỗi ngày
một nhiều và một xa nguồn gốc. Do đó, không thể gọi nó là tác phẩm
của một nhà nào cả, không phải của Khổng gia cũng không phải của Lão
gia, và Vũ Đồng, tác giả bộ Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ
ấn thư quán) gọi nó là tác phẩm chung của một phái, phái Dịch học, mà
những người trong phái nầy gồm nhiều triết gia xu hướng khác nhau. Mới
đầu nó chỉ là sách bói, tới cuối đời Chu thành một sách triết lý tổng
hợp những tư tưởng về vũ trụ quan, nhân sinh quan của dân tộc Trung Hoa
thời Tiên Tần; qua đời Hán nó bắt đầu có màu sắc tượng số học, muốn
giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục, tới đời Ngũ Đại nó được
dùng trong môn lý số đời Tống nó thành lý học; ngày nay một số nhà bác
học phương Tây như C.G Jung tâm lý gia nổi danh của Đức và Raymond de
Becker (Pháp) muốn dùng nó để phân tích tiềm thức con người, coi nó là
một phương pháp phân tâm học. Điều kỳ dị nhất là môn "dịch học" nó
chỉ dựng trên thuyết âm dương , trên một vạch liền ________ tượng trưng
cho dương, một vạch đứt ___ ___ tượng trưng cho âm, hai vạch đó chồng
lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi
tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình
mới:Lục thập tứ quái . Dùng sáu mươi bốn hình này, người Trung Hoa
diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, từ những hiện
tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên tới những đồ dùng,
những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi,
ăn uống , xử thế... Các ông "Thánh" Trung Hoa đó quả thực có một
sáng kiến mới mẻ, một sức tưởng tượng, suy luận lạ lùng, khiến người
phương Tây ngạc nhiên và có người Âu (J.Lavier) đã dùng một vài quẻ để
giải thích một vài hiện tượng khoa học, sự tiến triển của khoa học. Sự
kiện dùng hai vạch để giảng vũ trụ, xã hội đó thật ít ai quan niệm nổi,
cho nên ngay người Trung Hoa đã tạo ra nhiều truyền thuyết để giải
thích nguồn gốc Kinh Dịch. Truyền thuyết về Kinh Dịch. Những
truyền thuyết đó nhiều khi mâu thuẫn, vô lý, như huyền thoại, nhưng vì
có nhiều người tin chắc hoặc “đành phải chấp nhận vì không có thuyết
nào hơn cho nên chúng ta cần biết qua, chứ đi sâu thì theo tôi, chỉ mất
thì giờ vô ích. 1. Truyền thuyết vua Phục Hy tạo ra bát quái: Theo
Từ Hải thì Phục Hy còn có tên là Bào Hy, Thái Hạo v.v. . . là một trong
ba ông vua thời Thái cổ, hai ông kia là Tọai Nhân, Thần Nông. Phục Hy
dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật, tạo ra bát quái và thư khế (văn
tự, khế ước). Không hiểu Phục Hy ở thế kỷ nào, có sách nói là thế
kỷ 43, có sách nói là thế kỷ 34 trước Tây Lịch ông làm vua 115 năm,
truyền được 15 đời, rồi tới Tọai Nhân dạy dân dùi cây hay cọ hai miếng
gỗ với nhau mà lấy lửa. Thần Nông dạy làm ruộng. Như vậy thì Phục
Hy không phải là tên một người (cũng như Sào Thị, Tọai Nhân Thị, Thần
Nông Thị), chỉ là một tên người đời sau đặt ra để tượng trưng một thời
đại, thời đại dân tộc Trung Hoa còn ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn,
hái lượm, chưa thể có văn tự được muốn ghi chép việc gì thì dùng cách
buộc nút (kết thằng) hoặc lấy đá nhọn gạch những vạch lên một khúc cây
như một số dân tộc lạc hậu hiện nay còn sống thưa thớt ở giữa Phi Châu,
Úc Châu, Nam Mỹ Châu. Nói bát quái thì có từ thời đó, cách thời
chúng ta năm, sáu ngàn năm thì nó chỉ có thể là những vạch để đánh dấu
cho dễ nhớ, như những con số thôi, chứ không có gì khác (chúng tôi sẽ
trở lại điểm này ở đoạn sau) a) Thiên Hệ từ thượng truyện – Chương 11: - Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra trang chữ, thánh nhân phỏng theo” (Hà Xuất Đồ, Lạc Xuất Thư, Thánh Nhân Tắc Chi) Tuy
đọan đó không nói rõ, nhưng đặt nó vào toàn thiên thì phải hiểu rằng
Phục Hy phỏng theo bức đồ hiện ra ở sông Hà, trang chữ hiện ra ở Sông
Lạc để vạch ra bát quái. b) Thiên Hệ tử hạ truyện, Chương 2 chép rõ hơn: *
Ngày xưa họ Bào Hi (tức Phục Hi) cai trị thiên hạ , ngửng lên thì xem
các hình tượng trên trời, cúi xuống thì xem các phép tắc ở dưới đất,
xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi với trời đất (của
từng miền), gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi làm ra bát
quái, để thông suốt các đức thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật
(Cổ giả Bào – có người đọc là Bao Hi thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng
tắc quan tượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn
dữ thiên địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, ư thị thủy
tác bát quái dĩ thông thần minh chí đức, dĩ loại vạn vật chí tình). Như
vậy là ngay trong Kinh Dịch đã có hai thuyết mâu thuẫn nhau rồi, Âu
dương Tu, một văn hào đời Bắc Tống đã vạch ra chỗ mâu thuẫn đó trong
tập: Dịch đồng Tử Vấn. Đại ý ông bảo: Đọan trên (chương 11 thượng
truyện) nói rằng bát quái là do trời sai long mã ở sông Hà đội lên mà
giao cho Phục Hi, không phải do người làm ra (phi nhân chi sở vi, thị
thiên chi sở giáng đã), đọan dưới (chương 2 hạ truyện) lại bảo bát quái
là do người làm (Phục Hi xem các hiện tượng trên trời dưới đất mà vạch
ra), bức đồ hiện trên sông Hà không dự gì tới (thị nhân chi sở vi, hà
đồ bất dự yên), vậy thì biết tin thuyết nào? Câu “ “Hà xuất đồ,
Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi” dẫn trên lại mù mờ nữa, vì chữ thánh
nhân đó không chỉ rõ ai, một ông thánh hay nhiều ông thánh ? Có người hiểu là 2 ông thánh. Phục Hy và vua Vũ nhà Hạ (2-205-2.197) Do đó phát sinh ra tới 4 thuyết: - Phục Hy xem xét các hiện tượng trên trời mà vạch ra bát quái (người đời sau gọi là Tiên thiên Bát Quái) - Phục Hy phỏng theo Hà Đồ (bức đồ hiện ở sông Hà) mà vạch ra bát quái. -
Phục Hy phỏng theo cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư ( trang chữ xuất hiện ở sông
Lạc) mà vạch ra bát quái, Hà Đồ và Lạc Thư vậy là cùng xuất hiện trong
đời Phục Hi (thuyết này của Du Diễm đời Tống). Lạc Thư không xuất
hiện ở đời Phục Hy mà xuất hiện trong đời vua Vũ nhà Hạ, nghĩa là
khoảng một hai ngàn năm sau, và vua Vũ phỏng theo nó để vạch ra bát
quái (người đời sau gọi là Hậu thiên bát quái). Bát quái này cũng y hệt
bát quái trên, chỉ có vị trí các hình là khác thôi (tôi sẽ xét trong
một đọan sau) và để đặt ra Cửu trù hồng phạm, tức chín lọai về qui phạm
lớn của trời đất, nói cho dễ hiểu là chín phương pháp để cai trị thiên
hạ. Nhưng Cửu trù hồng phạm chẳng liên quan gì tới Kinh Dịch cả. Về
Hà Đồ, truyền thuyết bảo rằng đời Phục Hy có một con Long mã (lòai ngựa
thần, hình thù như con rồng mình xanh lục có vằn đỏ, xuất hiện trên
sông Hòang Hà, đội một bản dồ, bản đồ đó là sách mệnh trời ban cho Phục
Hi để trị thiên hạ. Những đời sau mỗi khi có thánh vương xuất hiện như
đời vua Nghêu, vua Thuấn . . .đều được trời ban cho Hà Đồ. Còn về
Lạc Thư thì trong khi vua Vũ trị thủy, thấy một con rùa thần cũng do
trời sai xuống hiện lên ở sông Lạc – một chi nhánh của sông Hòang Hà –
trên lưng có những nét đếm từ 1 đến 9. Thuyết Hà Đồ chắc khá phổ
biến ở đời Chu, chính Khổng tử cũng tin. Luận ngữ, Thiên tử Hản, bài 8,
ông than thở với môn đồ: “chim Phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên
sông (Hòang) Hà, ta hết hy vọng rồi” (Phượng điểu bất chí, Hà bất xuất
đồ, ngô dĩ hỉ phù!” Chim Phụng và Hà đồ mà xuất hiện là điềm thánh
vương ra đời, Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương
không ra đời, đạo của ông không sao thi hành được. Có thể ông cũng tin
rằng đời Phục Hi có Hà Đồ xuất hiện, còn như ông có cho rằng Phục Hi
phỏng theo Hà đồ mà vạch ra bát quái hay không thì không có gì làm chắc
(trong một chương sau, chúng tôi sẽ chỉ rõ Hệ từ truyện thượng và hạ
không phải của ông viết). Hình Hà đồ và Lạc Thư hồi mới xuất hiện
ra sao, không ai biết. Người ta bảo nó mất từ thế kỷ thứ VII trước TL.
(nghĩa là trước thời Khổng tử hơn 100 năm), mãi tới thời Hán Vũ Đế
(149-86) tức năm thế kỷ sau, một người cháu đời thứ mười hai của Khổng
Tử, là Khổng An Quốc, một học giả, đại thần của Vũ Để không hiểu căn cứ
vào đâu để lập 2 hình đó, truyền lại đời sau, rồi lại mãi đến đời Tống
Huy Tôn (1101-1125) khoảng mười hai thế kỷ sau Khổng An Quốc, hai hình
đó mới được in trên sách như chúng ta đã thấy dưới đây: Hà Đồ Lạc Thư Cả
trên hai hình đó (gọi chung và tắt là đồ thư) những vòng tròn trắng đều
là số dương (lẻ), những vòng tròn đen đều là số âm (chẳn) - Trên hình Hà Đồ, hàng a và b, mỗi hàng có 5 vòng đen, cộng với nhau thành 10, 10 là số âm. - Chúng ta nhận thấy có những số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9 cộng lại là 25, và những số chẳn: 2. 4. 6. 8. 10 cộng cả lại là 30. - Cộng 25 (lẻ) với 30 (chẳn) được 55. -
Trên hình Lạc Thư, có những số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, cộng cả lại là 25, y
như trên Hà Đồ, còn số chẳng chỉ có 2, 4, 6, 8, cộng là 20. - Cộng 25 (lẻ) với 20 (chẳn) được 45. Những
vòng tròn (có người gọi là nét) trên Lạc Thư được bố trí trên mình con
rúa thần như sau: đầu đội chín, đuôi một, hai vai (hay hai chân trước)
2 và 4, hai chân sau 6 và 8, giữa lưng 5. Chúng tôi xin độc giả để
ý: long mã là một con vật trong huyền thọai, con rùa thần mà mang trên
lưng những vòng tròn đen trắng như vậy cũng là một huyền thọai nữa! Sao
2 hình đó giống nhau thế: Số dương (lẻ) đều là 25, ở giữa đều có số 5,
những vòng tròn y hệt nhau mà sao hình bên phải không gọi là đồ như
hình bên trái, lại gọi là thư, nhất là so sánh những hình đó với hình
bát quái thì dù giàu tưởng tới mấy cũng không thể bảo rằng bát quái
phỏng theo hai hình đó được. Điều này cũng rất đáng để ý nữa. Trên hình Lạc Thư, đến từ trái qua phải ta thấy: - Hàng trên có những số: 4 (vòng đen), 9 (vòng trắng), 2 (vòng đen). - Hàng giữa có những số: 3 (vòng trắng), 5 (vòng trắng) 7 (vòng trắng). - Hàng dưới có những số: 8 (vòng đen), 1 (vòng trắng), 6 (vòng đen). - Ta thử sắp xếp những con số đó thành một hình vuông như dưới đây (gọi là hình ma phương) 4 9 2 3 5 7 8 1 6 Rồi cộng những số theo hàng ngang: Hàng trên: 4 + 9 + 2 = 15 Hàng giữa: 3 + 5 + 7 = 15 Hàng dưới: 8 + 1 + 6 = 15 Cộng theo hàng dọc: Hàng bên trái: 4 + 3 + 8 = 15 Hàng giữa : 9 + 5 + 1 = 15 Hàng bên phải: 2 + 7 + 6 = 15 Cộng theo hai đường chéo của hình vuông cũng được 4 + 5 + 6 = 15 và 2 + 5 + 8 = 15 Hình vuông kỳ dị đó, người phương Tây cũng đã tìm thấy từ thời cổ, dùng nó làm bùa, cho nên gọi nó là Carré magique: ma phương. Trong thiên nhiên đâu có hình như vậy, phải là do óc sáng tạo của lòai người. Rõ
ràng là Khổng An Quốc hay một người nào khác đã bịa ra để cố giảng vũ
trụ bằng những con số, tạo nên môn tượng số học cực kỳ huyền bí. Do
đó mà đời sau có người lớn tiếng mắng Khổng An Quốc là kẻ có tội nặng
nhất với thánh nhân (ám chỉ Khổng tử, cụ tổ 12 đời của Khổng An quốc) ,
đã làm cho kinh Dịch mất ý nghĩa triết lý sâu xa đi mà biến nó thành
một tác phẩm vô nghĩa lý. Thực ra người đầu tiên có tôi là kẻ viết
Chương 9 Hệ từ thượng truyền kia (coi phần dịch ở sau). Khổng An Quốc
đã căn cứ vào đó chứ không hòan tòan phịa ra hết. Nhưng bị người
nầy mắng thì lại được người khác khen là có công với Dịch học, làm cho
ý nghĩa Kinh Dịch thêm phong phú và Kinh Dịch nhờ đó một phần đã thành
một kỳ thư. Ý KIẾN MỘT SỐ HỌC GIẢ NGÀY NAY Thuyết Phục
Hi phỏng theo Hà Đồ, Lạc Thư mà vạch bát quái nhất định là không thể
tin được, mà thuyết ông xem xét các hình tượng trên trời, các phép tắc
dưới đất, các văn vẻ của chim muông thì cũng rất khó chấp nhận. Từ
đầu thế kỷ đến nay, người ta đã đào được ở An Dương (tỉnh Hà Nam ngày
nay) hằng vạn hằng ức giáp cốt (mai, yếm rùa và xương vai, xương chậu
của trâu, bò, ngựa . . .) đời Thương (1766-1401), trên thấy khắc nhiều
quẻ bói. Đây là một quẻ trích trong cuốn East Asia – The Great
tradition (Modern Asia éditions – Tokyo 1962) Ba chữ bên trái là ba chữ giữa là hai chữ bên phải là hai chữ ở dưới cùng là Ý nghĩa là: Ngày Tân mão hỏi qủy thần (bói): ngày hôm nay, ngày Tân, có mưa hay không mưa? Chúng ta thấy, chữ thời nay còn phảng phất như chữ thời đó, nhất là những chữ : Nhưng
trên nhữnggiáp cốt đó và cả trên những đồ đồng đời Thương, tuyệt nhiên
không thấy hình bát quái. Sự thực là từ đời Thương về trước chưa có bát
quái. Người đời Thương chỉ mới biết lối bói bằng yếm rùa gọi là bốc 卜.
người ta lấy yếm chữ không phải mai con rùa (vì yếm mềm hơn, dễ nứt hơn
mai), dùng mủi nhọn đâm vào những chỗ lỏm, rồi hơ trên lửa những chỗ
lõm đó nứt ra, rồi tùy vết nứt có hình ra sao mà đóan quẻ tốt hay xấu. Cuối
đời Ân hay qua đời Chu người ta mới tìm được cách bói bằng cỏ thi
(tiếng khoa học gọi là Achillea sbirica), một thứ cây nhỏ cao khỏang
một thước như cây cúc, có hoa trắng hoặc hồng nhạt. Cách bói đó gọi là
phệ 筮 và dùng bát quái mà đóan, giản dị hơn cách bói
bằng yếm rùa. Vì hình nét nứt trên yếm rùa đã không có hạn lại khó biện
giải, còn những quẻ và hào trong phép bói bằng cỏ thi đã có hạn, lại
dưới mỗi quẻ, mỗi hào có lời đóan sẵn, nhất định, khi bói gặp quẻ nào,
hào nào, cứ theo lời đóan sẳn đó mà suy luận, công việc dễ dàng hơn
nhiều. Vì vậy mà phép bói đo mới đầu gọi là dị 易: dễ dàng. Chữ dị này với chữ dịch là một. Về sau, không biết từ thời nào mới gọi là dịch. Theo
thuyết đó của Dư Vĩnh Lương trong tập san Nghiên cứu Lịch sử ngôn ngữ
của Trung Ương nghiên cứu viện (Phùng Hữu Lan dẫn trongTrung quốc Triết
học sử - Chương 15), thì bát quái chỉ có thể xuất hiện trong đời Ân, từ
cuối đời thương đến đầu đời Chu, và bát quái tạo ra chỉ để bói. Lại
còn một thuyết mới nữa của Trần Thực am trong tập Tiểu Học thức tự Giáo
bản do Nghiêm Linh Phong dẫn trong tập Dịch Học Tân Luận (Chính trung
thư cục ấn hành – Đài Bắc 1971) Trần thực Am cho rằng bát quái chỉ là
những con số thời xưa Trung hoa chưa dùng thập tiến pháp (numération
décimale), chưa đến mười chỉ 7 số thôi, tức chỉ dùng thất tiến pháp. 1, 2, 3 , 4, 5 , 6, 7 Số
7 ngược lại với số 1 và địa vị của nó như địa vị số 10 trong thập tiến
pháp, còn quẻ (đòai) ngược lại với quẻ (cấn) số 2, là số mấy thì tôi
không biết. Họ Trần còn bảo vì dùng thất tiến pháp cho nên thời đó
gọi bảy ngày là một tuần, cúng người chết thì 7 tuần tức 49 ngày gọi là
mãn thất; từ đời Ân, đời Chu trở đi mới dùng thập tiến pháp, và truy
niệm người chết khi được 10 tuần (mỗi tuần 10 ngày) tức 100 ngày. Đời
sau, người Trung Hoa truy niệm theo cả hai cách đó. Thuyết này mới
quá, ngược lại với thuyết trên vì – vì nếu vậy thì bát quái phải có từ
đời Thương, trở về trước, sao không thấy trên các giáp cốt ? Vả lại nếu
hình trên giáp cốt chúng tôi đã sao lại ở trang trên đúng là ở đời
Thương thì đời đó, người Trung đã biết kết hợp thập can (giáp, ất,
bính, đinh . . .quí) với thập nhị chi (ti, sửu, dẫn, mão .. .hợi) để
chỉ ngày, tháng và năm thì lẽ nào lại không biết thập tiến pháp ? Vì
những lẽ đó mà chúng tôi chưa dám tin Trần Thực Am. Do Lưỡng nghi thành Tứ tượng rồi thành Bát quái. Tóm lại, bát quái do ai tạo ra, từ thời nào, tới nay vẫn còn là một bí mật, sau này cũng không chắc gì tìm ra được manh mối. Bây
giờ chúng ta cứ hãy tạm cho rằng nó có trước đời Văn Vương nhà Chu (thế
kỷ XII tr. T.L) và do một hay nhiều bộ óc siêu quần vô danh nào đó dùng
hai vạch liền và đứt chồng lên nhau, thay đổi lẫn nhau mà tạo nên. Trong
Đại Cương Triết Học Trung Quốc Thượng – tr.451, chúng tôi đã chỉ một
cách chồng các vạch trích trong Kinh thế chỉ yếu của Sái Trầm. Dưới đây là một cách nữa. Mới đầu chỉ có lưỡng nghi là dương (vạch liền) và âm (vạch đứt) , Chúng ta lấy dương chồng lên dương , rồi lấy âm chồng lên dương, được hai hình tượng , Bên đây cũng vậy, chúng ta lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, được hai hình tượng nữa: , (vạch dương, vạch dương)1 (vạch âm, Vạch dương)2 (vạch âm, vạch âm)3 (Vạch dương, Vạch âm)4 Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng. Tứ tượng có tên là thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm. Chúng
tôi theo Vũ Đồng gọi hình 1 là thái dương, hình 2 là thiếu dương, hình
3 là thái âm , hình 4 là thiếu âm. Do lẽ chúng tôi đã dẫn trong Đại
Cương Triết học Trung Quốc – Thượng, tr 171, nhiều sách cho hình 4 là
thiếu dương, hình 2 là thiếu âm Tứ tượng tượng trưng cho nhật, nguyệt, tinh thần (mặt trời, mặt trăng, định tinh và hành tinh .) Vì trong tập này chúng tôi chỉ chú trọng đến bát quái, đến phần triết học, nên không xét về tứ tượng thuộc về thiên văn học. Sau cùng chúng ta lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, theo thứ tự 1, 2, 3, 4 Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó theo thứ tự 3, 4, 1, 2 được: Càn 乾 (I), ly 離 (II), Cấn 艮 (III), Tốn 巽 (IV) , Khôn 坤 (V) , Khảm 坎 (VI), Ðoài 兌 (VII) , Chấn 震 (VIII) Như
vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái, tám quẻ. Mỗi quẻ có 3 vạch
gọi là 3 hào xuất hiện lần lần từ dưới lên, cho nên khi gọi tên cũng
khi đóan quẻ, phải đếm, xét từ dưới lên, hào dưới cũng là hào 1, rồi
lên hào 2, hào 3. : Càn (hay kiền) vi thiên là trời có đức cứng mạnh, là đàn ông. : khôn vi địa là đất, có đức nhu thuận, là đàn bà. : li vi hỏa là lửa, sáng. : Khảm vi thủy là nước, hiểm trở. : cấn vi sơn là núi, yên tĩnh. : đoái (hay đoài) vi trạch là chầm(đầm), vui vẻ. : tốn vi phong là gió, vào. : chấn vi lôi là sấm, động Tám
quẻ còn nhiều ý nghĩa nữa, như ý nghĩa về các người trong nhà, về
phương hướng, màu sắc, lọai vật . . . , nhưng chúng ta hãy biết bấy
nhiêu thôi. Điều cần nhất là các bạn trẻ phải thuộc rõ 8 hình
trên, hễ trông thấy hình nào, chẳng hạn hình (Tốn) thì phải gọi được
tên của nó, “vì tốn vi phong”, ngược lại hể nghe thấy nói quẻ tốn, hay
chỉ nghe thấy nói phong, là phải vẽ ngay được hình nó. Ngày xưa, nhà Nho dùng một thuật để nhớ, là học thuộc lòng 8 câu dưới đây: Càn tam liền (ba vạch liền) Khôn lục đọan (sáu vạch đứt) Chấn ngưởng vu (bát để ngửa) Cấn Phúc uyển (chén để úp) Khảm trung mãn (đầy ở trong) Li trung hư (rông ở trong) Đòai thượng khuyết (hở trên) Tốn hạ đoạn (đứt dưới) Những bạn nào không biết chữ Hán có thể theo cách này của tôi: Trước
hết chúng ta bỏ quẻ Càn và quẻ Khôn đi vì ai cũng cũng nhớ ngay rồi,
còn lại 6 quẻ mà có 1 hào âm (một vạch đứt), tức quẻ Li , quẻ đòai , quẻ tốn , 3 quẻ còn lại khảm , cấn , chấn đều có một hào dương một vạch liền. Chúng ta chỉ cần nhớ vị trí ba vạch đứt trong 3 quẻ có 1 hào âm thôi. Quẻ Li là lửa thì vạch đứt ở giữa, như hình miệng lò. Quẻ Đòai là chầm (đầm) thì vạch đứt ở trên cùng, như chỗ trũng trên mặt đất . Quẻ tốn là gió thì vạch đứt tất phải ở dưới cùng . Vạch đứt, âm đó tượng trưng sự mềm mại, dịu dàng của gió. Nhớ như vậy rồi thì vẽ được ba quẻ đó vì hai hào kia của mỗi quẻ là vạch liền (dương). Vẽ được 3 quẻ đó rồi thì vẽ được ba quẻ trái với chúng về ý nghĩa cũng như về các vạch: Khảm (nước) trái với (li (lửa), thì gồm một vạch liền ở giữa còn lại hai vạch kia đứt Cấn (núi) trái với Đòai (chằm) núi thì nổi lên trên mặt đất, chằm thì trũng xuống – vạch liền ở trên cùng. Chấn (sấm): trái với Tốn (gió) – Sấm động mạnh, gió thổi nhẹ - vạch liền ở dưới cùng Tiên thiên và hậu thiên bát quái: Tương truyền là tám quẻ mới đầu Phục Hi sắp theo vòng tròn hình I bên trái, rồi sau Văn vương sắp lại theo hình II Hình I : Tiên thiên bát quái Hình II: Hậu thiên bát qúai Thuyết
đó chưa tin được : không có gì chứng rằng bát quái trước thời Văn Vương
có phải sắp như hình I không, mà trong phần kinh của Chu dịch cũng
không có chỗ nào nói tới việc Văn Vương sắp lại bát quái. Chỉ
trong phần truyện (Thuyết quái truyện, Chương III) chúng ta thấy câu
này: “Trời và đất vị trí định rồi, cái khí (khí lực) của núi và chằm
thông với nhau, sấm gió nổi lên với nhau, nước và lửa chẳng diệt nhau,
tám quẻ cùng giao với nhau (Thiên địa định vi, sơn trạch thông khí, lôi
phong tương bạc thủy bất tương xạ, bát quái tương thác). Trong
đọan đó tác giả sắp bát quái thành từng cặp trái nhau như trong hình I:
càn với khôn, cấn với đòai, chấn với tốn, li với khảm. Nhưng trong
Chương V cũng thuyết quái truyện lại có câu “đế xuất hồ chấn”: Vị chủ
tể trên trời xuất hiện ở phương chấn, thì lại hợp với hình II vì hình
này đặt chấn ở phương đông (phương mặt trời mọc) còn hình I đặt chấn ở
đông bắc (chúng ta nên nhớ trên các bản đồ thời cổ của Trung Hoa, bốn
phương đặt ngược với bản đồ ngày nay nghĩa là họ đặt bắc ở dưới, nam ở
trên, đông ở bên trái, tây ở bên mặt). Hình I gọi là tiên thiên
bát quái, hình II là hậu thiên bát quái. Hai tên đó không có trong Kinh
Dịch, hiển nhiên là do người đời sau, hoặc một đời Hán, hoặc Thiệu
Khang Tiết đặt ra. Tiên Thiên bát quái có nghĩa là bát quái tượng
trưng vũ trụ (thiên) hồi đầu, hậu thiên bát quái tượng trưng vũ trụ hồi
sau. Hồi đầu là hồi nào? Hồi sau là hồi nào? Không ai biết chắc. Có
người giảng hồi đầu là hồi vũ trụ còn vô hình, hồi sau là hồi vũ trụ đã
thành hình. Vô lý: khi vũ trụ còn vô hình thì sao đã có núi, có chằm? Có
người lại giảng tiên thiên bát quái là những hiện tượng xảy ra trên các
thiên thể (nghĩa là khi vũ trụ đã thành hình), còn hậu thiên là những
hiện tượng ở trên mặt đất (Bửu Cầm: Tìm hiểu Kinh Dịch – Sài gòn –
1957) . Vậy là trên các thiên thể cũng có trời, có đất, có núi, chằm .
. . như trên trái đất ? Có người đem thiên văn học của phương Tây
mà giảng tiên thiên bát quái, chẳng hạn bảo Càn gồm ba hào dương, tòan
là dương khí, sáng rực rỡ chính là một biển lửa, một định tinh, khôn có
ba hào âm, tòan khí âm, đen lạnh, “có thể ví các sao đen tối của nhà
thiên văn học Emile Belot” v.v. (Bùi Thị Bích Trâm – Thiên Văn – Huế
1942 – do Nguyễn Duy Cần dẫn trong dịch học tinh hoa_Saigon 1973) Từ
khi mộy số học giả đời Hán dùng Kinh Dịch để giảng về thiên văn, nguồn
gốc vũ trụ, nhất là từ khi có hai hình tiên thiên và hậu thiên bát
quái, chắc đã có nhiều người căn cứ vào hai hình ấy, rồi vào hai hình
Hà Đồ, Lạc Thư mà lập ra những thuyết mới sau này khoa học thiên văn
của phương Tây có một phát kiến nào mới thì tất sẽ có những người giảng
lại, tiền thiên và hậu thiên cho hợp với những phát kiến mới. Chỉ có
tám hình hai mươi bốn vạch liền và đứt, cho nên sẽ rất dễ gây sự tưởng
tượng của con người. So sánh hai hình I và II, chúng tôi thấy vị
trí của các quẻ thay đổi hết: hình I, Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, L ở Đông,
Khảm ở Tây… Hình II, Càn ở Tây Bắc,Khôn ở Tây Nam, Li ở nam, khảm ở
bắc… Nếu quả là do văn Vương sắp lại bát quái thi tại sao ông lại
thay đổi như vậy? Ông để Li ở phương Nam, có lý, mà để Khảm ở phương
Bắc, kể như cũng có lý. Vì Khảm trái với Li, nước trái với lửa, Bắc
trái với Nam. Nhưng tại sao ông không cho Càn đối với Khôn, như trong
hình I? mà cho nó đố với Tốn? và khôn đối với Cấn… Chúng tôi thú
thật không hiểu nổi. Kinh Dịch không giảng gì cho ta về những điểm đó
cả. Trong Kinh Dịch còn có nhiều điều khó hiểu nữa, chúng ta đành phải
chấp nhận thôi(1). Trùng quái: Chúng ta biết lưỡng nghi chồng lên nhau một lần thành tứ tượng, chồng lên một lần nữa là bát quái. Chỉ
có 8 quẻ với 24 hào thì không thể diễn được nhiều hiện tượng, sự việc,
nên lại phải chồng lên thêm một lần nữa. lần này không lấy 1 vạch âm
hay dương như lần thứ nhì, mà lấy trọn một quẻ chồng lên tất cả 8 quẻ;
chẳng hạn thấy quẻ Càn chồng lên càn và 7 quẻ kia, lấy quẻ Li chồng lên
Li và cả 7 quẻ kia, như vậy mỗi quẻ thành ra 8 quẻ mới ,tám quẻ thành
64 quẻ mới, mỗi quẻ mới gồm 6 hào, cộng là 64 x 6 : 384 hào, tạm đủ để
diễn được khá nhiều hiện tượng ,sự việc rồi. Tới đây ngừng, vì nếu
chồng thêm nữa thì nhiều quá , sẽ rối như bòng bong. Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biết với tám quẻ nguyên thủy gọi là đơn quái (quẻ đơn). Ai làm công việc trùng quái đó? Có bốn thuyế: Vương Bật (đời Ngụy) cho rằng Phục Hi tạo ra bát quái rồi tự mình trùng quái. Trịnh Huyền (đời Hán) cho rằng Thần Nông trùng quái. Tôn Thịnh (không rõ đời nào) cho là vua Vũ nhà Hạ. Tư Mã Thiên (đời Hán) cho là Văn Vương. Hai thuyết cuối trái với Hệ từ, vì theo Hệ từ hạ truyện, chương II thì: Bào
Hi mất rồi, Thần Nông lên thay (….) lấy hình tượng ở quẻ Phệ hạp (tức
một trong 64 quẻ trùng) mà nảy ra ý cho dân họp chợ, trao đổi sản vật.
Vậy là đời Thần nông đã có trùng quái rồi, đời Hạ và đời Chu sau Thần
Nông cả mấy ngàn năm, không lẽ còn làm việc trùng quái nữa. Mà
thuyết thứ nhì cũng khó tin. Thần Nông làm công việc trùng quái rồi lại
do hình tượng và tên một quẻ ông đã tạo ra (quẻ Phệ Hạp) mà nẩy ra ý
họp chợ? (coi phần II – Hệ từ hạ, cuối Chương II) Rốt cuộc, nếu
tin ở Hệ từ thì phải chấp nhận thuyết thứ nhất: Chính phục Hi tạo ra 8
đơn quái rồi thấy nó không đủ để thông thần minh chi đức, lọai vạn vật
chi tình (Hệ từ hạ - Chương II), nên tự trùng, tức tự chồng các quẻ lên
nhau thành 64 trùng quái. Nhưng Phục Hi ( và cả Thần Nông nữa) đều
là những nhân vật huyền thọai và như trên chúng ta đã nói, bát quái
không thể có từ đời Thương trở về trước được. Vậy thì chỉ có thể do một
người nào đó trong đời Ân tạo ra bát quái rồi có lẽ Văn Vương đời Chu
làm công việc trùng quái. Thuyết này trái với Hệ từ truyện thật nhưng
Hệ từ truyện đáng tin hay không? Đa số các nhà Dịch học đời sau
chấp nhận thuyết 1 và thuyết 4, cho nên chúng ta thấy họ dùng cả tiên
thiên bát quái (họ cho là của Phục HI) và hậu thiên bát quái của Văn
Vương, do đó có hai cách trùng quái, một cách theo tiên thiên bát quái,
một cách theo hậu thiên bát quái. Theo Tiên thiên bát quái, có thể
bắt đầu từ quẻ Càn hay quẻ khôn. Dù bắt đầu từ quẻ nào thì cách chồng
quẻ cũng như nhau: mỗi đầu theo chiều ngược kim đồng hồ, gặp quẻ Càn
(nếu bắt đầu từ quẻ khôn) hoặc gặp quẻ Khôn (nếu bắt đầu từ quẻ Càn)
thì ngừng lại, rồi quay trở lại bắt tiếp từ quẻ bên cạnh Càn hay Khôn
mà theo chiều thuận kim đồng hồ, chồng nốt cho hết tám quẻ. Đồ
“Phương vị 64 quẻ của Phục HI – coi các trang ở sau – bắt đầu từ quẻ
khôn (quẻ ở đầu hàng trên hình vuông ở giữa đó), cho nên dưới đây tôi
cũng chồng theo cách đó. KHÔN : chồng lên khôn thành quẻ thuần
khôn (quẻ số O trên đồ “Phương Vị” – Số 0 này do tôi đánh, theo
Leibniz, coi các trang ở sau độc giả sẽ hiểu tại sao). CẤN: chồng lên khôn thành quẻ số 1 trên đồ. KHẢM : -nt- 2 -nt- TỐN : -nt- 3 -nt- Tới đây bỏ chiều ngược kim đồng hồ, bắt từ quẻ Chấn (ở bên cạnh Khôn) mà theo chiều thuận kim đồng hồ để chồng tiếp: CHẤN: chồng lên khôn thàn quẻ số 4. LI : -nt- 5. ĐÒAI: -nt- 6. CÀN : -nt- 7, tức quẻ Thiên Địa Bĩ. (Càn
là thiên, Khôn là địa, cho nên gọi là Thiên Địa, còn Bĩ là tên quẻ cho
ý nghĩa của quẻ: bế tắc, như bĩ trong “bỉ cực thái lai” Thế là hết
một vòng bắt đầu là Khôn, cuối cùng là Càn. Một quẻ Khôn đẻ ra tám quẻ
đứng hàng đầu trên hình ở giữa đồ Phương vị, từ số 0 đến số 7. Qua
vòng thứ nhì, cũng bắt đầu từ quẻ Khôn mà chồng theo hai chiều: chiều
ngược: Khôn chồng lên Cấn , Cấn lên Cấn, Khản lên Cấn, Tốn lên Cấn; rồi
theo chiều thuận: chấn lên Cấn, Li lên Cấn, Đóai lên Cấn, càn lên Cấn.
Đựơc 8 quẻ nữa từ số 8 đến số 15 trên hàng nhì ở giữa hình. Như vậy chồng 8 vòng, được 8 hàng, 64 quẻ, quẻ cuối cùng số 63 là quẻ Thuần Càn. Trùng quái theo cách thứ nhì, dùng hậu thiên bát quái thì bắt đầu từ quẻ Càn rồi tuần tự theo chiều thuận kim đồng hồ, chồng: Quẻ Càn lên càn, được quẻ Thuần Càn. Quẻ Khảm lên càn, được quẻ Sơn Thiên Đại Súc, v.v. . tới quẻ cuối cùng là qủe Đòai, được quẻ Trạch Thiên Quải. Như vậy là hết một vòng, được một nhóm 8 trùng quái. Qua vòng thứ nhì, bắt đầu từ quẻ Khảm, lại chồng: Quẻ Càn lên, được quẻ Thiên Thủy Tụng. Quẻ Khảm lên (vẫn theo chiều thuận) được quẻ Thuần khảm. Quẻ Cấn lên, được quẻ Sơn Thủy Mông v.v. . tới quẻ Đòai, được quẻ Trạch Thủy Khốn. Như vậy là hết vòng thứ nhì, được một nhóm 8 trùng quái nữa. Chồng hết 8 vòng ,được 64 trùng quái. Cách
chồng này giản dị hơn cách trên, được nhiều sách dẫn, mặc dầu không nói
rõ là của Văn Vương, như vì dùng thứ tự các quẻ trong hậu thiên bát
quái của Văn Vương, nên chúng tôi gọi là sách của Văn Vương. Cuối sách này có một bảng đủ 64 quẻ chồng theo sách đó (coi Phụ Lục – Đồ biểu 64 quẻ). Chồng
theo cách nào thì kết quả cũng như nhau, và cũng có 8 quẻ thuần, gọi là
bát thuần (thuần nghĩa là Càn lại chồng lên Càn, Khảm lại chồng lên
Khảm, Cấn lại chồng lên Cấn .) Ngòai ra , các sách bói và lý số còn có một cách sắp quẻ theo từng nhóm nữa như: Nhóm
Trùng càn gồm Thuần Càn, Thiên Phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bĩ,
Phong Địa Quan, Sơn Địa Bác, Hỏa Địa Tấn, Hỏa Thiên Đại hữu. 1 Thuần càn ䷀ 2 Thiên PhongCấu ䷫ 3 Thiên Sơn Độn ䷠ 4 Thiên Địa Bỉ ䷋ 5 Phong Đại Quán ䷓ 6 Sơn Địa Bác ䷖ 7 Hỏa Địa Tấn ䷢ 8 Hỏa Thiên Đại Hữu ䷍ Chúng
ta nhận xét sự biến đổi của các hào dương thành âm theo thứ tự: từ dưới
lên, lên đến hào 5 (ở quẻ Sơn Địa Bác) thì biến ngược trở xuống, âm
thành dương. - Nhóm Trùng Khảm gồm Thuần Khảm, Thủy Trạch Tiết,
Thủy Lôi Truân, Thủy Hỏa Kí Tế, Trạch Hỏa Cách, Lôi Phong Hằng, Địa Hỏa
Minh Di, Địa Thủy sư v.v. . . - Trong mỗi nhóm như vậy, quẻ Thuần
là quẻ cái, còn 7 quẻ kia là quẻ con. Cách này chắc xuất hiện trễ, từ
đời Ngũ Đại hay đời Tống và chỉ dùng vào việc bói tóan hay đóan số, nên
chúng ta biết qua vậy thôi, không cần nhớ. Nội Quái và Ngọai Quái: Mỗi
quẻ trùng gồm hai quẻ đơn, quẻ đơn, ở dưới gọi là nội quái, quẻ ở trên
gọi là ngọai quái. Ví dụ quẻ Thiên Phong Cấu thì Thiên, tức Càn là
ngọai quái, Phong tức tốn là nội quái. Mỗi quẻ trùng gồm sáu hào,
đánh số từ dưới lên: hào 1 gọi là Sơ, hào 2 gọi là nhị, hào 3 gọi
làtam, hào 4 gọi là tứ, hào 5 gọi là ngũ, hào trên cũng không gọi là
lục mà gọi là thượng (đọc một đọan sau độc giả sẽ hiểu tại sao) Ví dụ: Quẻ Địa Thiên Thái: Hào thượng Hào 5 Quẻ trên là Khôn :địa (Ngọai quái) Hào 4 Hào 3 Quẻ dưới là Càn: Thiên (Nội quái) Hào 2 Hào Sơ Gọi
là nội quái, ngọai quái vì sắp theo vòng tròn thì quẻ Càn ở trong (nội)
gần trung tâm, còn quẻ Khôn chồng lên nó, ở ngòai (ngọai), xa trung tâm
(coi đồ Phương vị 64 quẻ của Phục HI , tr.37, quẻ 56 trên vòng tròn) Vì
có việc chồng hào và chồng quẻ như vậy nên khi tìm hiểu ý nghĩa, khi
đóan quẻ, phải xét từ dưới lên, từ hào sơ lần lần lên tới hào thượng. Nhưng
khi gọi tên quẻ thì theo thứ tự từ trên xuống, cho nên gọi là địa
thiên; còn chữ Thái ở sau trỏ nghĩa của quẻ: Thái là yên ổn (như thái
bình thông thuận). Một thí dụ nữa: quẻ thủy hỏa kí tế. Đọc tên quẻ
đó bạn phải hiểu ngay: ngọai quái (ở trên) là Khảm (thủy), nội quái (ở
dưới) là Li (hỏa) , và vẽ ngay được hình dưới đây: Khảm (thủy) Li (hỏa) Hào
sơ, hào tam, hào ngũ là dương, hào nhị, hào tứ, hào thượng là âm. Còn
Kí tế là nghĩa của quẻ: đã thành đã xong ,đã qua sông .
NỘI DUNG PHẦN KINH Ba lọai Dịch. Tác
phẩm đầu tiên nói về kinh Dịch là cuốn Chu Lễ. Theo từ điển Từ Hải, tác
phẩm này mới đầu có tên là Chu Quan, chép về quan chấp chế độ quan lại
tược lộc) đời Chu, xuất hiện sau đời Khổng tử và Mạnh tử, khá phổ biến
thời Chiến Quốc, Lưu Hâm (con Lưu Hướng) dưới thời Hán Ai Đế và Vương
Mãng, mới đổi tên là Chu Lể. Sách đó chép đời Chu có ba lọai bói, có quan thái bốc giữ ba lọai dịch: Liên sơn Dịch, Qui Tàng Dịch và Chu Dịch. Về
nguồn gốc của Liên Sơn Dịch và qui Tàng Dịch, có ba bốn thuyết, đều
không tin được. Người thì bảo Liên Sơn là của Phục Hi, Qui Tàng của
Hòang đế, người lại bảo Liên Sơn của Thần Nông, Qui Tàng của Hòang đế,
người lại bảo Liên Sơn là dịch của Nhà Hạ, lấy quẻ Cấn làm đầu (có lẻ
vì Cấn là núi, mà Sơn cũng là núi); còn Qui Tàng là dịch của Nhà
Thương, lấy quẻ Khôn làm đầu (có lẽ vì Khôn là đất mà Qui Tàng có nghĩa
là muôn vật đều từ đất sinh ra rồi lại trở về đất). Nhưng hai lọai dịch
đó đếu mất (mà theo các nhà Khảo Cổ học thì từ đời Thương trở về trước,
chưa hề có hình bát quái) ngày nay chỉ còn có Chu Dịch. Có điều
này chắc chắn là cách bói bằng cỏ thi khá thịnh hành từ trước thời
khổng tử. Trong bộ Xuân Thu Tả truyện (của Tả khâu Minh) có chép nhiều
chuyện bói cỏ thi của các vua Chúa. Khổng Tử tuy không cầu đảo,
không bói, mà trong Thiên Tử Lộ, bài 22 cũng nhắc tới tục hay bói thời
đó, và dẫn lời hào từ hào 3 quẻ Hằng trong Chu dịch. Vì không có thuyết nào khác, chúng ta có thể chấp nhận rằng Văn vương (nhà Chu) là người đầu tiên có công với Chu Dịch. Văn
Vương tên là Cơ Xương, là một chư hầu của nhà Ân, được vua Trụ phong
làm Tây Bá, tức là Chư hầu lớn nhất ở phương Tây, vào khỏang tỉnh Sơn
Tây ngày nay. Ông có tài, có đức, được lòng dân và nhiều chư hầu theo
ông, muốn giúp ông diệt vua Trụ tàn bạo, dâm lọan. Ông không nghe họ,
vẫn trung với vua Trụ, vì vậy mà Khổng tử trong Thiên vi Chính, bài 20,
khen ông là “được hai phần ba thiên hạ theo mình mà vẫn thuần phục nhà
Ân (không cướp ngôi nhà Ân); đức của nhà Chu (trỏ Văn Vương) như vậy có
thể nói là cực cao” Nhưng vua Trụ thấy thiên hạ theo ông quá, đâm
nghi ngờ ông bắt giam ông vào ngục Dữu Ly năm 1141, 2 năm sau (có sách
nói là 7 năm) mới tha, giao cho ông cầm quân chinh phạt các dân tộc nổi
lọan. Nhờ được Lã Thượng (La Vọng) giúp sức ông hòan thành nhiệm vụ rồi
mất năm – 1135. Trong khi bị giam ở ngục Dữu Lý, có thể ông đã làm
việc trùng quái, và chắc chắn là ông đã đặt tên và tìm nghĩa cho 64
qủe, rồi viết Thóan từ cũng lọi là quái từ cho mỗi quẻ. Nhờ ông mà ý
nghĩa mỗi quẻ mới tinh diệu, lời đóan mới tương đối minh bạch, mà công
việc đóan cũng nhất trí hơn trước, không còn có cảnh mỗi quan thái bốc
đóan theo ý riêng của mình nữa. Nhưng lời đóan của ông rất ngắn mỗi quẻ chỉ được một câu, chẳng hạn: Quẻ Càn là “nguyên, hanh, lợi trinh”, nghĩa là quẻ đó có những đức: “đầu tiên lớn; thuận, thông, tiện phải bền chặt” Quẻ Thái là “Tiểu vãng, đại lai, cát, hanh” nghĩa là : âm qua dương lại tốt lành hanh thông. Quẻ
Ký Tế là hanh, tiểu, lợi trinh, cơ cát, chung lọan” nghĩa là: Việc nhỏ
thì hanh thông, lợi nhưng phải vững chí. Mới đầu tốt lành, cuối cùng
lọan. Khi ông mất rồi, con ông là Cơ Phát lên nối ngôi Tây Bá, năm
– 1122 đem quân diệt Trụ, chấm dứt nhà Ân và sáng lập nhà Chu, xưng là
Võ Vương và phong cha là Văn Vương. Võ Vương tổ chức chính quyền,
vỗ về dân chúng; nhưng làm cho nhà Chu vững, thịnh lên, cho văn minh
Trung Quốc tiến mạnh là công của Chu Công, em ruột của ông, tên là Đán,
mà Khổng Tử rất phục, suốt đời chỉ việc ước ao lập được sự nghiệp như
Chu Công. Võ Vương chết năm – 1115, con là Thành Vương, còn nhỏ
tuổi, lên nối ngôi, Chu Công làm phụ chính, hết lòng giữ ngôi cho cháu,
dẹp bọn phản động trong họ, tổ chức chế độ phong kiến, sửa đổi lễ nhạc,
mà vẫn có thì giờ tiếp tục công việc cha, nghiên cứu Dịch. Văn
Vương mới chỉ đặt ra Thóan Từ để giải nghĩa tòan quẻ. Chu Công đặt thêm
Hào Từ cho mỗi hào của mỗi quẻ, cộng là 384 hào, để giải nghĩa từng hào
một. Chẳng hạn quẻ Càn, dưới hào sơ (hào 1), Chu Công viết: “Tiềm long vật dụng”, nghĩa là: rồng, còn ẩn náu, không dùng được. Dưới
hào 2, ông viết: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”, nghĩa là :
rồng đã hiện lên cánh đồng, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Dưới hào
3:”quân tử chung nậht càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu” nghĩa là:
người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng
như lo sợ. Nguy hiểm , Không tội lỗi v.v. . Tới đây Chu Dịch mới
thành một cuốn sách có văn từ, nghĩa lý, đời sau gọi là Kinh và chia
làm 2 thiên: thượng cho 30 quẻ đầu, hạ cho 34 quẻ sau. Nhưng lời Thóan
và lời Hào vẫn quá đơn giản , ít ai hiểu nên đời sau phải chú thích làm
thêm bản Thập dực. Thập là mười, dực là cánh con chịm , có ý bảo Thóan
từ của Văn Vương, Hào từ của Chu Công đặt ở dưới mỗi quẻ, mỗi hào, là
đủ hình con chim rồi, bây giờ thêm Thập Dực, là thêm lông cho con chim.
Thập Dực được gọi là Thập truyện. Chữ truyện thời xưa có nghĩa khác
ngày nay: những lời để giải thích kinh thì gọi là truyện: chẳng hạn
sách Xuân Thu của Khổng Tử gọi là Kinh, sau được ba người giải htích,
tức Tả Khâu Minh, Công DươngCao, Cốc Lương Xích, và phần giải thích của
ba nhà đó gọi là Tả truyện, Công Dương truyện, Cốc lương truyện. Có
truyền thuyết cho rằng, Khổng tử viết thập dực. Trong chương sau tóm
tắt nội dung Thập dực chúng tôi sẽ xét xem thuyết đó đáng tin tới mức
nào. Dịch nghĩa là gì? Chu Dịch nghĩa là gì? Chúng ta đã biết sách Chu Lễ Bảo đời chu có ba lọai Dịch: Liên Sơn Dịch, Qui Tàng Dịch và Chu Dịch. Nhưng tên Dịchđó do ai đặt ra, có từ hồi nào thì không ai biết. Ngay đến ý nghĩa của nó cũng có hai thuyết. a) Thuyết được hầu hết mọi người ngày nay chấp nhập là : biến đổi. Về
ngữ nguyên, chữ dịch là biến đổi lại có hai thuyết nữa. Một thuyết bảo
chữ đó, hồi xưa khác như vầy [ kỳ ] , tượng hình một lòai rắn tựa như
lòai kì nhông ở nước ta, rất dễ thay đổi màu da, chẳng hạn ở trên cây
thì biến thành màu vỏ cây hay là cây, xuống dưới đất thì biến thành màu
đất : [ ] là cái đầu nó, mà [ ] là mình và đuôi nó. Mới đầu hình đó trỏ
lòai kì nhông sau có nghĩa là dễ biến đổi như kỳ nhông, sau cùng chỉ có
nghĩa là biến đổi, mà mất nghĩa kỳ nhông đi. Một thuyết nữa bảo dịch [易
] gồm chữ [ nhật ] nhật là mặt trời ở trên và chữ [ nguyệt ] nguyệt là
mặt trăng ở dưới. Dịch là thay đổi cho nhau như mặt trăng và mặt trời
(mặt trời lặn thì trăng mọc), là di chuyển hòai ở trên trời. Dù
theo ngữ nguyên nào thì dịch cũng có nghĩa là biến dịch thay đổi. Vạn
vật sinh ra, lớn lên, rồi già, chết. Trong quẻ Càn, Vạch dương ở hào sơ
có một nghĩa, lên hào 2, hào 3 . . .lại có những nghĩa khác. Đó là biến
dịch. Dịch còn có nghĩa là giao dịch. Giống đực giống cái giao cảm
với nhau rồi mới sinh sinh hóa hóa. Trong 8 quẻ đơn hào âm, hào dương
thay đổi nhau; trong 64 quẻ trùng, các quẻ đơn thay đổi hco nhau. Đó là
giao dịch. Nhưng trong sự biến dịch , vẫn còn những luật bất dịch
như luật thịnh đến tột bực rồi phải suy, chẳng hạn lòai người về thể
chất khỏan 50 tuổi bắt đầu suy, mặt trăng, trònrồi bắt đầu khuyết. Quẻ
càn, vạch dương lên đến hào 5 là thịnh cực, tới hào thượng là suy. Một
luật bất dịch nữa là luật phản phục: không có gì mà không trở lại (vô
vàng bất phục: quẻ Thái) , như hết bốn mùa rồi trở lại Xuân, nước ròng
sát rồi lại dâng lên . . . Coi Chương VI ở sau, độc giả sẽ hiểu rõ những nghĩa biến dịch, giao dịch, bất dịch trong kinh dịch. b) Thuyết đó được mọi người chấp nhận. Nhưng vẫn không khỏi có người thắc mắc: “Giải
nghĩa chữ [ dịch ] như vậy rất đúng, nhưng kinh dịch chỉ có nghĩa đó từ
khi nó thành một tác phẩm triết lý cuối thời Xuân Thu trong thời Chiến
Quốc; còn hồi đầu đời Chu nó chỉ là một sách bói, chỉ cho người Trung
Hoa một cách bói mới bằng cỏ thi để thay cách bói bằng yếm rùa, thì nó
chưa có nghĩa đó, mà chỉ có nghĩa là giản dị, và chữ [dịch ] phải đọc
là dị, nghĩa là dễ dàng. Dưới mỗi quẻ, có kèm theo một lời đóan nhất
định, dưới mỗi hào cũng vậy; Viên Thái bốc bói được quẻ nào, hào nào
thì cứ theo lời đóan kèm theo đó mà suy luận, so với lối bói bằng yếm
rùa, giản dị hơn nhiều, nên cách bói mới có tên là Chu Dị; cách bói
giản dị của nhà Chu. Thuyết này không phải là vô lý, và được vài nhà chủ trương, chẳng hạn dư Vĩnh Lương, Phùng Hữu Lan như trang trên tôi đã nói. Về nghĩa chữ chu [ ] trong Chu Dịch có hai thuyết. a)
Một thuyết, đại biểu là Trịnh huyền (đời Hán), bảo Chu đó không có
nghĩa là nhà Chu, mà có nghĩa là hết một vòng rồi trở về (chu nhi phục
thủy), là chu lưu trong vũ trụ, là phổ cập. chu Dịch có nghĩa là : đạo
dịch, phổ biến khắp vũ trụ; là hết một vòng rồi trở về. Trịnh Huyền lấy
lẽ rằng ba sách Dịch đời Chu: Liên Sơn, Qui Tàng, Chu Dịch tên hai sách
trên không chỉ thời đại, thì tên cuốn cuối cùng cũng không chỉ thời
đại. (để khỏi rườm, chúng tôi chỉ tóm tắt như vậy thôi). b) Một
thuyết nữa, đại biểu là Khổng Dĩnh Đạt (đời đường) bác lẽ đó, bảo người
ta gọi hai sách trên là Liên Sơn, Qui Tàng, không thêm chữ dịch ở sau,
mà Chu dịch là có chữ dịch tức là chữ dịch này không thể tách khỏi chữ
chu được mà như vậy Chu dịch phải có nghĩa là dịch của đời Chu. Lý
luận của Trịnh và Khổng đều không vững, và chúng ta chỉ cần biết rằng
ngày nay mọi người đều hiểu chu là đời Chu, mà tên Chu dịch xuất hiện
sau Khổng tử, Mạnh tử vì trong Luận ngữ, Mạnh Tử, chỉ thấy dùng tên
Dịch thôi, không dùng tên Chu dịch. Một cuốn sách rất quan trọng
mà từ nguồn gốc đến người viết, thời đại xuất hiện, ý nghĩa của tên
sách đều gây nhiều thắc mắc, mấy nghìn năm sau chưa giải quyết được, đó
cũng là một lẻ khiến cho Chu dịch thành một kỳ thư.
hết: Chương 1
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:24pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 2
NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN
Ai viết thập dực?
Có
lời đoán cho mỗi quẻ (Thoán từ tức Quái từ), và lời đoán cho mỗi hào
(hào từ) rồi, thế là sách Chu Dịch hoàn thành. Người đời sau chỉ thêm
những lời chú giải. Không có cuốn nào được nhiều người chú giải như
cúon đó. Tới đầu 9dời Thanh đã có trên một trăm bảy chục bản chú giải
còn giữa được, nếu kể cả những bản đã thất lạc, chỉ còn lại cái tên thì
con số phải gấp hai, gấp ba. Tiếp tục cho tới nay vẫn còn có người chú
giải lại, có cả người Nhật, người Âu (Đức, Anh, Pháp . . . ) người Việt
mình nửa. Và chắc chắn sau này sẽ còn thêm nhiều. ai cũng muốn xen ý
kiến riêng của mình, của thời đại mình vô bộ Kinh đó. Quan trọng nhất vẫn là chú giải đầu tiên, tức Thập Dực, cũng gọi là Thập Truyện. Đại
đa số các học giả Trung Hoa thời xưa cho rằng: Thập Dực là công trình
của Khổng tử. Sách Hán thư – phần Nghệ văn chí, bảo “Dịch đạo thâm hỉ
nhân canh tam thánh, thế lịch tam cổ”. Nghĩa là: Đạo Dịch rất thâm
thúy, là công của ba vị thánh, trải ba đời mới xong. Ba vị thánh đó là
Phục Hi, Văn Vương, Khổng tử; ba đời là đời thượng cổ (Phục Hi), đời
trung cổ (Văn Vương) đời Hạ cổ (Khổng tử). (Hán thư cho công việc viết
quái từ và hào từ đều là của Văn vương; nhưng thuyết Chu Công viết hào
từ được nhiều người chấp nhận hơn; và các thầy bói ngày nay khi bói đều
khấn cả bốn vị Thánh: Phục HI, Văn Vương, Chu Công, Khổng tử) Nhưng Khổng tử có thực là người viếtThập Dực không? Điều đó còn đáng ngờ. Trong
tập Khổng tử, tôi đã dẫn nhiều chứng cớ rằng muốn biết đời và tư tưởng
Khổng tử thì chỉ nên căn cứ vào Luận ngữ, những sách khác đều không
đáng tin. Trong Luận ngữ chỉ có hai bài nhắc tới Kinh Dịch: bài Tử
Lộ -22, Khổng tử dẫn một hào từ trong quẻ Hằng; và bài Thuật nhi – 16,
Khổng tử nói:”Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá
hi” (Cho ta sống thêm ít năm nữa, tới 50 tuổi để nghiên cứu kinh Dịch,
thì có thể không lầm lỗi lớn). Bài sau, có người cho là chép sai, hai chữ “ngủ thập” [ 五十] chính là chữ “tốt” [ 捽 ] , chữ dịch [ 易] chính là chữ diệc [ 亦].
Và phải chấm câu như sau: “Gia ngả số niên tốt dĩ học, diệc khả dĩ vô
đại quá hi”, dịch là:”Cho ta sống thêm ít năm nữa để học thì cũng có
thể lầm lỗi lớn”. Dù chép đúng chăng nữa, thì bài đó cũng như bài
trên chỉ đủ chứng tỏ rằng Khổng Tử có đọc Kinh Dịch, chứ không có gì
chắc chắn rằng ông đã viết về Kinh Dịch. Huống hồ trong Luận ngữ,
ông không hề giảng kinh Dịch cho môn sinh, như giảng về thi, thư, lễ
nhạc. Mạnh Tử, Tuân tử cũng không hề nói ông viết Thập Dực, chỉ nói ông
viết Kinh Xuân thu thôi. Mà danh từ Thập Dực này không hề xuất hiện
trong thời Tiền Tấn, mãi tới đời Hán mới thấy. Ba lẽ nữa: 1/ Tư tưởng trong Thập Dực rất tạp, có tư tưởng của Lão tử, có câu giống trong Trung, Đại HỌc. 2/
Trong Văn ngôn và Hệ từ ( 2 truyện dực – trong thập dực) có chép: “Tử
viết (nghĩa là thầy dạy, hay Khổng tử dạy), như vậy không phải là của
Khổng tử viết rồi. 3/ Giọng văn cũng nhiều chỗ khác nhau, ý nghĩa
có chỗ thâm thúy, có chỗ rất tầm thường, không thể do một người viết
được, mà do nhiều người trong nhiều thời viết rồi người sau gom cả lại.
Do những lẽ đó, từ đời Tống, Âu Dương Tu, Diệp Thích đã ngờ thuyết
Khổng tử viết Thập Dực (coi cuốn: Dịch, đồng tử vấn của Âu Dương tu) ,
và gần đây, từ Khang Hữu vi tới Phùng Hữu Lan đều nhận là Âu Dương Tu
có lý. Nhiều lắm thì ta chỉ có thể nói rằng Khổng tử đã nghiên cứu
Kinh dịch, nhưng về già chỉ giảng cho một số rất ít môn sinh, và Thập
Dực do một phái dịch học đời Chiến quốc – gồm cả Khổng gia lẫn Lão gia,
viết kẻ trước người sau, do đó mà hoàn thành rất trễ, có thể là cuối
thời Chiến quốc đầu đời Hán không thể nào ngay sau đời Khổng tử được. NỘI DUNG THẬP DỰC Sự thực chỉ có Thất Dực truyện, nhưng gồm 10 Thiên nên gọi là Thập Dực : I. Thoán truyện : 2 thiên. II. Tượng truyện – 2 thiên. III. Hệ từ truyện cũng gọi là Đại truyện – 2 thiên. IV. Văn ngôn truyện – 1 thiên. V. Thất quái truyện – 1 thiên. VI. Tự quái truyện – 1 thiên. VII. Tạp quái truyện – 1 thiên. Ngay
cái điều gọi mỗi thiên là một truyện cũng vô lý rồi; mà đọc những trang
sau, độc giả sẽ thấy sự chia ba truyện đầu mỗi truyện thành hai thiên
cũng không theo một qui tắc chung nào cả. Vì vậy mà sự chia thiên
như trên không được mọi sách theo. Chẳng hạn bản cụ Phan Bội Châu cho
Thoán truyện chỉ có 1 thiên, chỉ là truyện; mà lại cho Tự quái truyện
gồm hai thiên, thành 2 truyện. Một bản khác, James Legge dùng để
dịch, lại cho Văn ngôn truyện có 2 thiên (một cho 30 quẻ đầu, một cho
34 quẻ sau) như vậy là ngoài Thuyết quái truyện và Tạp quái truyện, mỗi
truyện chỉ có 1 thiên, kể là 1 truyện, còn 5 truyện kia, mỗi truyện có
2 thiên, kể làm hai truyện; cộng cả lại là 12 truyện chớ không phải 10
truyện. Cách chia thiên và gọi thiên là truyện, như vậy vừa vô lý
vừa lộn xộn, cho nên chúng tôi nghĩ phần truyện trong Kinh Dịch chỉ nên
coi là có 7 truyện thôi. Dưới đây, tôi tóm tắt nội dung bảy truyện đó. I. THoáN TRUYỆN Ở
trên tôi đã nói Văn Vương viết Thoán từ, tức lời đoán cho mỗi quẻ: ông
chỉ cho biết vắn tắt mỗi quẻ tốt xấu ra sao, đôi khi cũng cho biết ý
nghĩa ra sao, chứ không giảng tại sao. Người viết Thoán Truyện (theo Vũ Đồng,sống sau Khổng tử, trước hoặc sau Mạnh tử) giảng giải thêm. Thí dụ: Quẻ Càn, Thoán từ chỉ có 5 chữ: Càn, Nguyên Hanh, Lợi Trinh (coi trang 14). Thoán Truyện giải thích: “Đại
tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên; vận hành vũ thí, phẩm
vật lưu hình. Đại minh chung thủy, lục vị thời thành, thời thựa lục
long dĩ ngự thiên. Càn đạo biến hoá, các chính tính mệnh, bảo hợp thái
hoà, nãi lợi trinh, thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh”. Nghĩa
là: đức “nguyên” của càn lớn thay, vạn vật đều nhờ nó mà bắt đầu nảy
nở, nó thống quát thiên đạo (đó là giảng về đức nguyên) Càn làm ra mây,
khiến cho mây biến hoá, làm ra mưa, khiến cho mưa thấm nhuần khắp, mà
vạn vật thành hình thành sắc, sinh trưởng đến vô cùng (đó là giảng về
đức hanh). Bậc thánh nhân (đại minh: cực sáng suốt) thấy được cả
trước sau, cả sáu hào của quẻ Càn, mỗi hào có một vị (ngôi) nên thuận
thời mà hành đạo, như cưởi 6 con rồng (ám chỉ sáu hào dương của quẻ
càn) mà thống ngự cả vùng trời (khuyên chúng ta nên tùy thời mà hành
động, lúc nào nên ẩn thì ẩn, nên hiện thì hiện, nên tĩnh thì tĩnh, nên
động thì động). tóm lại là đạo Càn biến hoá, khiến cho vật gì cũng giữ
được tính mệnh trời phú, giữ được cái nguyên khí cho thái hoà (thái là
rất). Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật (theo đạo Càn) thì vạn nước đều
bình an vô sự (đó là giảng về hai đức lợi , trình) Chúng ta thấy
tác giả Thoán truyện (sống ở đời Chiến Quốc, sau Văn Vương có thể bảy
tám trăm năm) đã cho Kinh Dịch có một ý nghĩa triết lý, chứ không phải
chỉ để bói nữa. Thoán truyện chia làm hai thiên: thiên thượng giải
thích thoán từ của 30 quẻ đầu, thiên hạ giải thích thoán từ của 34 quẻ
sau. Như vậy là theo đúng sự chia thiên trong phần kinh. Theo
Nghiêm Linh Phong, tác giả Dịch học Tân luận (chính trung Thư cục Hương
Cảng 1971). Thoán truyện có nhiều chỗ thoát văn, hoặc chưa giải thích,
tư tưởng có nhiều chỗ giống Nho gia, như đoạn Thoán truyện quẻ Càn dẫn
trên, ý nghĩa rất giống. - Câu này trong Luận Ngữ thiên Dương Hoá:
“Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn
tai!” (Trời nói gì đâu! Bốn mùa vận hành mà vạn vật sinh ra, trời nói
gì đâu!) - Và câu này trong Trung Dung: “Trí trung hoà, thiên địa
vị yên, vạn vật dục yên” (Cực Trung hoà thì trời đất đều ở đúngvị trí
mà vạn vật mới sinh.) II. TƯỢNG TRUYỆN: Giải thích cái
“tượng của mỗi quẻ”. Cũng chia làm hai thiên: thiên thượng cho 30 quẻ
đầu, thiên hạ cho 34 quẻ sau. Mỗi quẻ đều thích nghĩa cái tượng của cả
quẻ (gọi là Đại lượng) rồi lại thích nghĩa cái tượng của mỗi hào (gọi
là Tiểu tượng). Vũ Đồng cho là Tượng truyện viết sau Thoán truyện
có học giả lại cho là viết trong khi nhà Tần đốt sách, cấm Thi, Thư,
Lễ, Nhạc, Xuân Thu và các học thuyết khác thời Tiên Tần, trừ Chu Dịch –
vì là sách bói cho nên các học giả trong phái Nho gia mới nhân chỗ hở
đó, đem tư tưởng trong Đại học, Trung dung, Luận ngữ vô Chu Dịch, để
“Tá thi hoàn hồn” (mượn cái thây cho hồn nhập vào mà sống lại) mà làm
công tác tuyên truyền. Cho nên trong Tượng Truyện có nhiều chỗ lời rất
giống ba bộ sách đó (Dịch kinh Tân Luận – tr.178) Có thể kể mấy chục thí dụ, tôi chỉ xin dẫn ba thôi: Luận ngữ nói: “Quá tắc vật dạn cải” (có lỗi thì không sợ sữa). Quẻ Ích, đại tượng truyện cũng nói: “Hữu quá tắc cải” (có lỗi thì sửa). Trung dung nói: “Ẩn ác nhi dương thiện” (giấu cái ác mà nêu cái thiện của con người). Đại học nói: “(Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ” (người xưa muốn làm sáng cái dức sáng trong thiên hạ . . .) Quẻ Tấn Đại tượng cũng nói: “Quân tử dĩ tự chiêu minh đức” (người quân tử coi đó mà tự làm sáng cái đức sáng của mình). Rồi
những danh từ quân tử, tiên vương, đại nhận . . trong Đại tượng truyện
có thể nói là mượn trong luận ngữ, Đại học, Trung dung để đưa những tư
tưởng chính giáo của nhà Nho vào, chứ rất ít liên quan tới môn bói. Tượng: có hai nghĩa: -
Hình thái, như trong câu: “Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình”
(trên trời thành tượng, dưới đất thành hình ) trong Hệ từ thượng
truyện. - Biểu tượng, như chữ tượngthứ nhìtrong câu này: “Thiên
thùy tượng, kiết cát hung, thánh nhân tượng chi” (Trời rủ tượng – rủ là
từ trên hiện ra? – thấy điềm lành điềm dữ. Đấng thánh nhân phỏngtheo đó
mà lập nên biểu tượng (Hệ từ thượng truyện). Chữ “tượng” trên
trong “Thiên thùy tượng” có nghĩa là hình thái; chữ tượng dưới trong
“thánh nhân tượng chi”, có nghĩa là biểu tượng. Biểu tượng lại phân biệt làm hai thứ: - Vật tượng, biểu tượng một vật (như quẻ ly ☲ biểu tượng lò lửa). - Ý tượng, biểu tượng một ý (như quẻ Càn biểu tượng sự cương cường; quẻ Khôn biểu tượng sự nhu thuận). -
Trong Tượngtruyện, ý tượng đượcdùng nhiều hơn cả, nhất là trong Tiểu
Tượng. Tiểu Tượng truyện cốt giải ý của mỗi hào, một hào khó có thể có
một hình thái, khó là một vật tượng được, nên thường diễn được một ý
tượng, Richard Wilhem trong cuốn I Ching (bản dịch ra tiếng Anh của nhà
Routledge và Kegan Paul – London – 1951) trang 257, đã nhận thấy vậy
cho nên bảo những lời giảithích mỗi hào trong Tiểu Tượng truyện không
liên quan gì tới hình tượng cả (do not deal in any way with images) và
ông ngỡ rằng vì lầm lẫn mà sắp những lời đó vào tượng truyện. Đoạn trên chúng tađã biết Thoán truyện giải nghĩa lời đoán trong Thoán Từ của mỗi quẻ. Đại Tượng truyện lại giải thích thêm về ý tượng của mỗi quẻ nữa. Như quẻ Càn, Đại tượng truyện chép: Thiên
hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức : Sự vận chuyển của trời đất rất
mạnh (không lúc nào nghỉ), người quân tử cũng theo trời mà tự cường
không nghỉ. Đó là về toàn quẻ. Về riêng mỗi hào Chu Côngđã đặt ra
Hào từ để giải thích mỗi hào; đời sau lại viết thêm Tiểu Tượng truyện
để giải thích . . .(lời Chu Công), nhưng lời Tiểu Tượng Truyện lại
ngắn, nhiều khi chỉ lặp lại thôi. - Chẳng hạn quẻ Càn, hào sơ, hào từ của Chu Côngbảo: Tiềm
long vật dụng (rồng còn ẩn náu, khôngdùng được), Tiểu Tượng Truyện lặp
lại, chỉ thêm bốn chữ: “dương tại hạ dã” : (chữ Hán) . . . nghĩa là
rồng còn ẩn náu, không đùng dược, vì hào dương ở dưới cùng. - Hào hai, Hào từ là : Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân (coi nghĩa trang trước) Tiêu Tượng “giảng” là: Hiện long tại điền, đức thi phổ dã. Nghĩa là: rồng đã hiện lên cánh 9dồng, đứcđã ban bố khắp nơi. - Hào ba, Hào từ là : Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu (coi trang trước) tiểu Tượng “giảng” Chung nhật càn càn, phản phục đạo dã. Nghĩa là suốt ngày hăng hái tự cường, trở đi trở lại, cốt cho đúng đạo lý ( có nghĩa là chưa tiến được). Ba hào sau cũng vậy. Cả
Đại Tượng Truyện lẫn tiểu TượngTruyện đều có tính cách gượng ép, vì quá
thiên về luân lý, về đạo trị nước, xử thế của người quân tử, nên hiều
khi bỏ ý nghĩa của Thoán Từ, Hào Từ. Ví dụ quẻ Lữ (số 56) Thoán từ
nói về cách xử thế của người tha hương ở đậu phải mềm mỏng, vừa tự
trọng, giữ được phẩm cách của mình; vậy mà Đại tượng truyện lại đem áp
dụng vào việc hình pháp, khuyên nhà chức trách phải xử đoán sáng suốt,
thận trọng, đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục. Hào 2 quẻ Tiệm
(số 53) nói về hoàn cảnh một người bắt đầu tiến được một cách dễ dàng,
như con chim hồng đã rời bờ nước mà tiến lên một phiến đá lớn, vui vẻ,
ung dung, ăn uống thảnh thơi. Tiểu tượng truyện khuyên: được người ta
giúp đỡ thì phải làm gì đáp lại, chứ đừng ăn không. Đúng là cái giọng của "Dịch Kinh Tân Luận" đã nói. Tóm lại, Tương Truyện tuy cũng giúp ta hiểu thêm được Thoán từ và Hào từ, nhưng ít thôi. Thoán
truyện và Đại truyện đều để giải thích cả quẻ tùy theo nguyên tắc,
Thoán truyện giải thích lời đoán (Thoán từ) của Văn Vương, đại tượng
truyệngiải thích "ý tượng" của mỗi quẻ, nhưng sự phân biệt đó, nhiều
khi rất tế nhị, chung qui đều là giải thích ý nghĩa của quẻ; chỉ khác
Thoán truyện theo sát Thoán từ mà đại tượng truyện thì thường bàn ra
ngoài đưa thêm tư tưởng đạo lý vào. Còn tiểu tượng truyện tuy để
giải thích "ý tượng" của mỗi hào, nhưng đa số chỉ lập lại lời hào từ
của Chu Công ,rồi giảng thêm về đạo lý có khi lạc để, gượng ép. III. HỆ TỪ TRUYỆN: Cũng
gồm hai thiên thượng và hạ nhưng có lẽ cỉ vì dài nhất ( cho nên còn có
tên là Đại truyện) mà chia hai, chứ cả hai thiên đều chứa những nhận
xét linh tinh, những chú giải chung về Chu Dịch, sắp đặt lộn xôn, không
theo một thứ tự nào cả. Theo Chu Hi thì hệ từ vốn là của Văn Vương
và Chu Công làm ra rồi buộc (hệ: buộc) ở dưới mỗi quẻ, mỗi hào thành
lời kinh văn ngày nay. Còn Hệ từ truyện là lời Khổng Tử giải thích Hệ
từ và đồng thời bàn về cả đại thể của kinh. Lời của Chu Hi rất lờ
mờ. Nếu Hệ từ là những lời của Văn Vương và Chu Công viết ra để giảng
thêm và buộc vào dưới mỗi quẻ mỗi hào, thì tất phải phân biệt được lời
nào thuộc quẻ nào, lời nào thuộc hào nào, chứ sao lại hấu hết là những
lời bàn về đại thể của kinh, như chúng ta thấy ngày nay. Xét nội
dung Hệ từ truyện chúng ta không thấy phần nào là Hệ từ, phần nào là Hệ
từ truyện để giải thích Hệ từ, chỉ thấy toàn là những truyện, bàn về: Lẽ càn khôn (thiên thượng -Chương 1) Việc thánh nhân làm dịch, (thiên thượng - Chương 2). Sự to lớn của đạo dịch, (thiên thượng - Chương 4, Chương 7). Lẽ âm dương (thiên thượng - Chương 5,6) Các con số đại diễn trong dịch và phép bói (thiên thượng - Chương 9.) Công dụng của đạo dịch (thiên thượng - Chương 10). Việc bói (thiên thượng - Chương 11,12) Sự tốt xấu trong quẻ và hào (thiên hạ - Chương 1) Cổ nhân lấy tượng ở các quẻ mà tạo đồ dùng (thiên hạ - Chương 2). Luật tuần hoàn và luận lý trong dịch (thiên hạ - Chương 5) Hào nhị và hào tứ khác nhau ra sao, hào tam và ngũ khác nhau ra sao (thiên hạ - Chương 9). Xét chung về dịch (thiên hạ - Chương 12) v.v.. Như
vậy lời của Chu Hi sai, chúng ta chắc chắn rằng Văn Vương và Chu Công
không hề viết Hệ từ. Mà Khổng Tử cùng không hề viết Hệ từ truyện vì có
nhiều đoạn bắt đầu bằng chữ "Tử viết" (Thầy nói), chẳng hạn đoạn ở đầu
chương 7 thiên thượng, đoạn cuối chương 8 thiên thượng, đoạn cuối
Chương 9 thiên hạ v.v.. (coi phần dịch ở cuối sách). Chỉ có thể
bảo rằng Hệ từ truyện do môn sinh xa của Khổng Tử chép lại thôi, mà
cũng không phải của một môn sinh, tất phải là cả một nhóm môn sinh
chép. Vũ Đồng bảo truyện này xuất hiện châm hơn hai truyện Thoán truyện
và Tượng truyện. Tôi ngờ rằng có một số Chương như chương 9 thiên
thượng viết về các con số, xuất hiện vào cuối Chiến Quốc hoặc đầu Hán. Chúng
ta nhận thấy rằng cả trong Thoán từ, Hào từ, Thoán truyện, Tượng
truyện, không hề thấy chữ dịch , trong hệ từ thượng truyện, chương 4,
mới xuất hiện chữ đó: Dịch dữ thiên địa chuẩn...(đạo dịch làm chuẩn
đích với trời đất). Hai chữ âm dương cũng chỉ xuất hiện ở Hệ từ thượng
truyện, chương 5:- Nhất âm nhất dương chi vị đạo.(Một âm, một dương gọi
là đạo) Cũng trong truyện III này chúng ta thấy nói đến Bào Hi
(PHục Hi), Hà đồ, Lạc thư. Nội dung của truyện vừa nhiều vẻ, vừa phong
phú, cho nên chúng tôi sẽ dịch trong một phần sau. IV,VĂN NGÔN TRUYỆN: Văn
ngôn truyện (giảng về "loời văn" tức lời kinh) tuy ngắn nhưng cũng quan
trọng, cũng có những ý sâu sắc, cũng do Khổng phái viết - theo Vũ Đồng
thì vào đời Tần. Truyện này chia làm hai thiên: Thiên thượng bàn
về quẻ Thuần Càn, thiên hạ bàn thêm về Thuần khôn (nhưng nhiều sách chỉ
kể là một thiên), nói về ý nghĩa của hai quẻ đó đối với Li, Cấn, Đoài,
Chấn, Tốn) không được bàn thêm như vậy, có lẻ vì không có ý nghĩa gì
liên quan chặt chẽ với con người như hai quẻ Càn , Khôn. Lời văn
trong truyện thứ tư này có chỗ giống Trung Dung , Đại Học, có chỗ giống
văn Mạnh Tử. Nhưng có khuyết điểm là không đều. Có nhiều đoạn ý sâu
sắc, lời cô đọng, đăng đối, như đoạn dưới đây giảng về hào 3 quẻ Càn:
"Tử viết: "Quân tử tiến đức tu nghiệp, Trung Tín sở dĩ tíên đức dã; tu
từ lập kỳ thành, sở dĩ cư nghiệp dã; tri chí chí chi, khả dữ cơ dã, tri
chung chung chi, khả dữ tồn nghĩa dã, Thị6 cố cư thượng vị nhi bất
kiêu, tại hạ vi nhi bất ưu." "Thầy nói: Người quân tử tiến đức tu
nghiệp (sự nghiệp). Giữ trung tín để tiến đức, sửa lời nói (lập ngôn)
vững lòng lòng thành để lập sự nghiệp; biết được như thế mới là biết
đến nơi, biết được đến nơi thì làm cho đến nơi, do đó có thể thấy được
đạo lý vi diệu; biết được chỗ cuối cùng của sự việc thì làm cho tới chỗ
cuối cùng, do đó mà giữ được điều nghĩa. Cho nên người quân tử ở địa vị
cao mà không kiêu, ở địa vị thấp mà không lo..? Rõ ràng tác giả
đoạn đó chịu ảnh hưởng của Đại học, Trung dung. Trái lại có những câu
ngắn không diễn một ý gì mới, chỉ như lập lại lời trong Tiểu tượng
truyện, như câu: Tiềm long vật dụng, hạ dã rồi câu: tiềm long vật dụng, dương khí tiềm tàng. Hai câu đó đều ở trong Văn ngôn truyện (quẻ Càn) so với câu trongTiểu tượng truyện: Tiềm long vật dụng, dương tại hạ dã có khác gì đâu. Thật rườm. Vì
vậy chúng tôi sẽ không dịch trọn Văn ngôn truyện, chỉ lựa ít đoạn bổ
túc cho Thoán truyện, Tượng truyện, mà cho xen vào lời giảng hai quẻ
Thuần Càn, Thuần Khôn, ở phần sau thôi. V. THUYẾT QUÁI TRUYỆN. Giảng về tám quẻ đơn căn bản. Truyện
này chỉ có một thiên gồm 11 chương ngắn, bàn nhiều về bói, chủ ý để
dùng vào việc bói, và nhiều chỗ nghĩa rất tối, không ai hiểu được, như
ở các chương 5,6,10,11; nội dung cũng không đều, vài đoạn có thể so
sánh với Hệ từ truyện được, còn đa số lời rất thô thiển, có chỗ thoát
văn. Ý nghĩa các quẻ có từ thời cổ, trước Khổng tử xa, rồi sau môn sinh của Khổng Tử (Vũ Đồng cho là ở đời Hán ) giảng thêm. Chúng tôi sẽ không dịch truyện này, chỉ giới thiệu vài đoạn. Đầu truyện, tác giả viết: “Thánh
nhân đời xưa làm Kinh dịch để giúp việc thần minh một cách sâu kín mà
đặt ra cách bói cỏ thi” (Tích giả thánh nhân chi tác dịch dã, u tán u
thần minh nhi sinh thi) . Vậy mục đích Kinh Dịch là để bói. Nhưng qua chương 2, tác giả cũng bảo đạo làm người phải thuận với đạo trời, đạo đất: “Thánh
nhân đời xưa làm Kinh Dịch, là để thuận cái lẽ về tính mệnh, cho nên
dựng cái đạo trời là âm với dương, dựng cái đạo đất là cứng với mềm,
dựng cái đạo người là nhân nghĩa, gồm tam tài (là ba ngôi vị trời, đất,
người) mà gấp đôi lên cho nên ở Kinh Dịch vạch sáu nét mà thành quẻ
chia ra âm dương mềm cứng thay đổi nhau . . “ Cho hiểu mục đích
Kinh Dịch rồi, tác giả giảng ý nghĩa của mỗi quẻ đơn: “Càn là mạnh,
Khôn là thuận, Chấn là động, Tốn là vào, Khảm là hãm, ly là sáng, Cấn
là ngăn lại, Đoài là vui” (càn kiện dã, khôn thuận dã, chấn động dã,
tốn nhập dã, khảm hãm dã, ly lệ dã, cấn súc dã, đoái duyệt dã) – Chương
7. Sau cùng từ Chương 8 đến Chương 11, tác giả cho biết mỗi quẻ tượng trưng cho những vật gì: “
Càn là con ngựa, khôn là con bò, chấn là con rồng, tốn là con gà, khảm
là con lợn, ly là con trĩ, cấn là con chó, đoái là con dê” – Chương 8. “Càn
là trời, là hình tròn, là ông vua, là người cha, là ngọc, là vàng là
băng, là sắc đỏ thẳm, là con ngựa tốt, là con ngựa già, là con ngựa
gầy, là con ngựa dằn, là trái cây” – Chương 11. Ly là lửa, . . là áo giáp mũ sắt . . .là bụng lớn . . là con ba ba, con cua, con tò vò . . “ – Chương 11. Trích
bấy nhiêu chúng tôi thấy đã đủ để độc giả nhận được giá trị truyện này
ra sao rồi. So với Kinh thì nhiều chỗ không đúng, có thể là của một bọn
thầy bói đặt ra, người sau chẳng phán đoán gì cả, cứ tom góp cho thật
nhiều thôi. VI. TỰ QUÁI TRUYỆN Có mục đích
giải thích về thứ tự các quẻ. Trong bản Chu Dịch ngày nay 64 quẻ không
sắp theo thứ tự của Trùng quái của Phục Hi (dùng tiên thiên bát quái),
cũng không theo thứ tự của Văn Vương (dùng hậu thiên bát quái) – mà
theo một thứ tự riêng: 1, thuần càn, 2 thuần khôn, 3. Thủy lôi truân,
4. Sơn thủy mông, 5. Thủy thiên nhu . . .Sự sắp đặt này không rõ có từ
thời nào, do ai. Tác giả Tự quái truyện, chắc chắn không phải là
Khổng Tử (Vũ Đồng ngờ là một người đời Hán) giảng cho ta tại sao lại
sắp theo thứ tự như vậy. Truyện tuy ngắn mà cũng chia làm hai thiên:
thiên thượng về thứ tự 30 quẻ đầu, thiên hạ về 34 quẻ sau. Theo tác giả
thì sở dĩ chia như vậy là vì thiên thượng mở đầu bằng hai quẻ Càn và
Khôn, nói về vũ trụ, có những luật trong vũ trụ thiên hạ mở đầu bằng
hai quẻ Hàm và Hằng, nói về nhận sự và những gì xảy ra trong xã hội. có
trời đất (Càn, Khôn, tức vũ trụ), rồi sau mới có vạn vật, nam nữ (Hàm),
vợ chồng (Hằng), cha con, vua tôi , lể nghĩa v.v. đó là sự diễn biến tự
nhiên trong vũ trụ. Nhưng sự thực, trong thiên thượng có rất nhiều
quẻ nói về nhân sự, như Tụng, Sư, đồng Nhân, Cổ, Di, Phệ hạp . . .; mà
trong thiên hạ cũng có nhiều quẻ nói về luật vũ trụ như Tiêm, Tốn, Ích,
Vị tế . . .Vậy thứ tự của các quẻ không luôn luôn có ý nghĩa rành rẽ
như tác giả muốn. Lại thêm nhiều khi ông cố gò cho có sự liên lạc về ý nghĩa giữa quẻ trước và quẻ sau, chẳng hạn bảo: “có
trời đất – tức Càn và Khôn – rồi vạn vật mới sinh ra. Đầy trong khoảng
trời đất là vạn vật, cho nên tiếp tới quẻ Truân: truân là đây, truân là
lúc vạn vật mới sinh ra; vạn vật mới sinh thì còn non trẻ, mù mờ, cho
nên tiếp tới quẻ Mông; mông là mù mở, non trẻ, vật còn non trẻ thì phải
nuôi, cho nên tiếp tới quẻ nhu: nhu là đạo ăn uống; ăn uống tất có kiện
cáo, nên tiếp theo là quẻ tụng; kiện cáo thì tất cả có nhiều người đứng
dạy, nên tiếp theo là quẻ Sư: sư là quần chúng đông người v.v. Chúng
tôi không biết chữ truân thời xưa có ngĩa là đầy, là lúc vạn vật mới
sinh ra không, chữ các bộ Từ Hải, Từ Nguyên ngày nay không có nghĩa đó,
chỉ có nghĩa là gian nan. Có thể tác giả hiểu rằng khi mới sinh ra thì
gian nan, cũng có lý một phần; còn nghĩa “đầy” mà thành ra nghĩa gian
nan thì có lẽ tại đã đầy rồi, khó giữ cho đầy hoài, cũng còn có thể
hiểu được. Nhưng tại sao “ăn uống tất có kiện cáo?” mà kiện cáo
đâu có nghĩa đông người bằng chiến tranh, đình đám chẳng hạn? Sự giải
thích của tác giả không khỏi có chỗ khiên cưỡng. Lời giải thích về
quẻ cấu cũng rất gượng ép. Quẻ trên nó là quẻ Quải. “Quải có nghĩa là
quyết, phán quyết; phát quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất
có người mà gặp gở (!), cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấu, Cấu là gặp
gỡ”. Lại thêm, để giải thích, tự quái truyện có khi dùng một nghĩa
khác với nghĩa trong thoán từ và Hào từ. Như quẻ Nhu, Tự quái truyện
dùng nghĩa là cần thiết, thức ăn, để cho có sự liên lạc về ý ngĩa với
quẻ Mông (nhỏ thơ) ở trên nó: trẻ thơ cần được nuôi bằng thức ăn cần
thiết; nhưng trong Thoán từ và Hào từ thì Nhu có nghĩa là chờ đợi. Quẻ
Tiểu súc cũng vậy: Tự quái truyện dùng theo nghĩa súc là nuôi, mà Thoán
từ và Hào từ thì cho súc là ngăn cản. Quẻ Đại súc, Hào từ cũng cho súc
là ngăn cản (nhưng Thoán từ lại cho là súc tích). Mặc dầu gượng ép như vậy, trong phần dịch các quẻ, chúng tôi cũng sẽ trích trong Tự quái truyện mà đặt lên đầu từng quẻ. VII. TẠP QUÁI TRUYỆN Sau cùng là Tự quái truyện giải thích linh tinh (tạp) về một số quẻ. Truyện
chỉ có một thiên gồm nhiều câu ngắn. Mỗi câu thường gom hai hoặc bốn,
sáu quẻ mà giải nghĩa rất vắn tắt, chẳng cho ta biết thêm được gì cả,
nhưng có vẫn hoặc lời đối nhau, như: Câu đầu : “Càn cương, khôn
nhu, tị lạc sư ưu, lâm, quan chi nghĩa hoặc dữ hoặc cầu” (Quẻ càn thì
cứng, quẻ khôn thì mềm, quẻ tị thì vui, quẻ sư thì lo, còn nghĩa quẻ
lâm và quẻ quan là cùng nhau đi với nhau hay là tìm đến nhau. Có câu rất tối nghĩa như: “Phệ hạp thực dã, bí vô sắc dã” (Phệ hạp là ăn, bí là không có màu sắc): Bí là không có màu sắc, thật khó hiểu. Chu Hi giải thích là: “Sắc trắng thì chịu được màu đẹp”, cũng chẳng giúp ta hiểu thêm được gì. Legge (sách đã dẫn) cho truyện này chỉ là “jeu d’esprit” (trò chơi dùng trí) Tác giả có thể là một người đời Hán. Tóm lại trong phần truyện:
-
Hai truyện đầu Thoán truyện và Tượng truyện để giải thích Quái từ tức
Thoán từ của Văn vương và Hào từ của Chu Công, cần phải đọc. - Hai truyện kể: Hệ từ truyện và Văn ngôn truyện có giá trị, nhiều ý nghĩa hơn cả. - Còn ba truyện cuối: Thuyết quái truyện, Tự quái truyện, Tạp quái truyện rất tầm thường, tệ nhất là Tạp quái truyện. -
Bảy truyện đó - cổ nhân gọi là mười vì Thoán truyện, Tượng truyện, Hệ
từ truyện, mỗi truyện kể là hai (thượng và hạ) – hiển nhiên là do nhiều
người trong nhiều thời đại viết (có thể một số diễn lại tư tưởng của
Khổng tử, chứ ông không hề viết) cho nên giá trị đã không đều, tư tưởng
không nhất trí, lại thêm có nhiều chỗ thoát văn, tối nghĩa (ngay cả
trong Hệ từ truyện nữa: như đoạn 2 chương 8 Hạ truyện: “Kì xuất nhập dĩ
độ, ngoại nội sử tri cụ” (chẳng ai hiểu là gì) cho nên trong phần sau,
chúng tôi chỉ dịch riêng Hệ từ truyện, còn những truyện khác thì trích
ít nhiều đoạn cho vào chỗ giải thích mỗi quẻ, mỗi hào. - Sự trình bày Kinh Dịch xưa và nay: Thời
mới đầu, Chu dịch sắp riêng phần kinh (Thoán từ và Hào từ) rồi mới tới
phần truyện. Rồi sau, bắt đầu có lẽ là Phí Trực và Trịnh Huyền đời Hán,
kế tiếp là Vương Bật đời Ngụy mới sắp lại, cho Thoán truyện, Tượng
truyện và Văn Ngôn truyện (tức những truyện giải thích các quẻ, các
hào) xen vào phần kinh, sau mỗi quẻ, mỗi hào. Như vậy chỉ còn Hệ từ
truyện, Thuyết quái truyện, tự quái truyện, Tạp quái truyện là in riêng
ở cuối phần kinh. Các bản Chu Dịch chữ Hán ngày nay đều trình bày như
vậy. - Chúng tôi thấy cách đó tiện cho người đọc, và chúng tôi
theo cụ Phan Bội Châu, trích thêm tự quái truyện cho vào đầu mỗi quẻ
(như đã nói). Còn Thuyết quái truyện và Tạp quái truyện, chúng tôi nghĩ
giới thiệu như trên đủ rồi, không dịch hoặc trính dẫn nữa.
hết: Chương 2
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:26pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 3
CÁC PHÁI DỊCH HỌC TỪ HÁN TỚI NAY
Vì
dịch học chỉ xây dựng trên 64 quẻ do hai vạch âm, dương chồng lên nhau,
đổi chỗ cho nhau ba bốn lần mà thành, cho nên nó có một sức hấp dẫn lạ
lùng, ai cũng tò mò muốn biết, mà những người có óc tưởng tượng dồi dào
có thể dễ dàng cho mỗi quẻ một ý nghĩa mới, giảng mỗi quẻ theo vũ trụ
quan, nhân sinh quan của mình, ý nghĩa đó càng huyền bí thì lại càng có
vẻ thâm thúy,; do đó mà không một danh nho nào từ đời Hán đền đời Thanh
không tìm hiểu Kinh dịch, hiệu đính, chú thích và một số đã tạo cho nó
một nội dung mới khác xa nội dung thời Văn Vương, Chu Công. Nó gần
thành một thứ khoa học biến hoá theo thời đại. Số sách viết về
Kinh Dịch trong hơn 2.000 năm nay rất nhiều, không ai đọc hết được;
nhưng tài liệu chúng tôi có về các phái Dịch học thì rất ít, chỉ vài
chục trang, cho nên chúng tôi chỉ có thể phác dưới đây vài nét chính về
lịch sử Dịch học trong mỗi thời đại thôi. HÁN: Ở trên
tôi đã nói Tần thủy Hoàng ra lệnh đốt hết các sách và triết học, văn
học, sử học . . .chỉ cho giữ những sách dạy nghề, mà môn bói thời đó là
một nghề được trọng, cho nên Kinh Dịch không bị hủy; một số học giả
nhân cơ hội đó nghiên cứu Kinh Dịch lén gài vô các “Truyện” một số tư
tưởng của Nho, Lão hoặc của chính họ để giải thích Kinh Dịch. Nhờ vậy
mà qua đời Hán, Dịch học rất thịnh. Đại khái có thể chia làm hai phái . -
Phái thứ nhất gồm: Phí Trực, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Tiêu Diên Thọ,
theo truyền thống của Nho giáo, vẫn coi Dịch là sách bói và luân lý mà
phát triển thêm. - Phái thứ nhì chỉ có Kinh Phòng là trứ danh, lập ra môn học “Tượng số” Phí
Trực sắp đặt lại Kinh Dịch, (như cuối chương trên tôi đã nói) giải
thích Dịch theo tư tưởng của Nho gia. Ông truyền cho Mã Dung, Mã Dung
lại truyền cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc để
giảng Kinh Dịch, cho nên rất chú trọng về học vấn, ông chú giải thích
tinh vi, dẫn chứng kỹ lưỡng. Ông còn coi mười hai hào của quẻ Càn và
quẻ Khôn là 12 thần 辰 tức
12 ngôi sao vào hàng thứ (hành tinh?) , muốn dùng Dịch để lập một
thuyết về thiên văn học, nhưng sáng kiến đó không có giá trị, ít người
theo. Tuân Sảng đưa ra thuyết “Thăng, giáng” Bảo “hào 2 của quẻ
Càn nên thăng lên hào 5 của quẻ Khôn v.v. . Hào dương của quẻ Càn mà
thăng lên ở quẻ Không thì gọi là “Vân hành” (mây bay); hào âm của Khôn
gián xuống ở quẻ Càn thì gọi là “Vũ thi” (mưa rơi) Thuyết đó hẹp hòi, cũng không ai theo. Tiêu
Diên Thọ có sáng kiến cho mỗi quẻ (trùng quái) biến thành 64 quẻ, như
vậy 64 x 64 được 4.096 quẻ. Tôi không hiểu cách “biến” đó ra sao (lại
lấy 64 quẻ chồng lên nhau?) Cách đó cũng không ai theo, vì số quẻ nhiều
quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được? Ông còn lấy mỗi hào làm
chủ cho một ngày: 64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 hay 366, còn
lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết. Chỉ có môn học tượng số của Kinh Phòng là có ảnh hưởng đến đời sau. Môn
học đó nhằm giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục. Quan niện
“Tượng” chúng tôi đã giảng trongChương trên (trang 48-49); Còn về số
thì trong Hệ từ truyện, Thiên thượng, Chương 9 đã nói tới rồi” Số của
Trời là một, của đất là hai, của Trời là ba, của đất là bốn, của trời
là năm, của đất là sáu, của trời là bảy, của đất là tám, của trời là
chín, của đất là mười. Như vậy những số lẻ từ một đến chín là số
dương, số của trời; những số chẳn từ hai tới mười là số âm, số của đất.
Số của trời có năm con: 1, 3, 5, 7, 9, cộng lại là 25. Số của đất cũng
có năm con 2, 4, 6, 8, 10 cộng lại là 30. Tác giả chương đó có thể
sống vào đầu đời Hán, và Kinh Phòng có thể dựa vào chương đó để lập ra
môn tượngsố, đại khái chủ trương rằng:”hết thảy sự vật trongvũ trụ và
hết thảy biến hoá của các sự vật đều có thể biểu thị bằng những biểu
tượng, và hết thảy sự vật trong vũ trụ đều cấu thành và biến hoá mỗi
loại theo qui luật của một số mục. Tôi không rõ thuyết của Kinh
Phòng ra sao, nhưng người đời sau cho là lôi thôi, phiền toái, làm mất
tính cách triết học rất nhiều, và phải đợi tới đời Tống, Thiệu Khang
Tiết mới phát huy môn tượng số cho có thêm màu triết học. Từ Tam Quốc tới Ngũ Đại: Đời
Tam Quốc có Ngu Phiên nhấn mạnh về thuyết tiêu tực (tăng, giảm, thịnh,
suy), Dương mà động thì tiến từ 7 lên 9, âm mà động thì lùi, từ 8 về 6;
thuyết này có từ xưa, nhưng ông là người đầu tiên dùng nó để giải Kinh
Dịch. Ông lấy hai quẻ Càn, Khôn là cơ bản cho Dịch học, đời sau khen
ông là có công với Dịch học. Xét chung, đời Tam Quốc, các nhà Dịch
học như Lưu Biểu, Quản Lộ chú trọng đến bói, đặt ra nhiều thuật, các
sách bói đời sau đem ra dùng. Qua đời Ngụy, chúng ta mới thấy một
nhà Dịch học, Vương Bật, có hùng tâm quét sạch cái học tượng số và bói
toán, chuyên nghiên cứu về nghĩa lý, mở đường cho lý học đời Tống. Ông
sắp đặt lại Kinh Dịch, đem Thoán tượng, Tượng truyện và Văn ngôn truyện
xen vào phần kinh cho người đọc dễ thấy ý nghĩa của mỗi quẻ. Cách sắp
đặt đó hiện nay còn được dùng. Ông chú giải Dịch học của Phí Trực đời
Hán, viện dẫn nhiều lời của Lão tử. Ông thường tự bảo:”Được ý rồi thì
quên tượng, được tượng rồi thì quên lời”, nghĩa là đọc Dịch, chỉ cần
chú trọng tới ý nghĩa của quẻ mà thôi, không câu nệ vào tượng và lời. Ảnh hưởng của ông rất lớn. Thời Nam Bắc triều, ông được độc tôn ở phương Nam, cũng như Trịnh Huyền được độc tôn ở phương Bắc. Đời
Đường, Phật giáo thịnh muốn lấn Nho học, ít nhà nghiên cứu Dịch học,
đáng kể chỉ có Khổng Dĩnh Đạt, theo chủ trương của Vương Bật; và Lý
Đỉnh Tộ, học rộng, sưu tập các sách viết về Dịch của trên 30 nhà, hiệu
đính được nhiều chỗ, tìm được nhiều điều thâm thúy. Đời Ngũ Đại và
Tống sơ, một đạo sĩ tên là Trần Đoàn, hiệu là Hi Di, sáng tác “dịch đồ”
cho rằng bát quái gốc ở Hà Đồ (trang ở trên), đưa dịch học vào một nẻo
mới, nẻo thuật số (tức thuật đoán số mạng). Ông đặt ra môn Bát tự Hà
Lạc, chuyển can chi của ngày tháng, năm sinh thành những con số rồi
chuyển số thành quẻ, để đoán vận mạng con người. Trần Đoàn cũng
sáng lập ra môn Tử vi đẩu số nữa, có uy tín rất lớn trong giới thuật
sĩ. Học thuyết của ông sau truyền cho Thiệu Ung đời Tống. Từ Tống đến Minh: Qua đời Tống, dịch học phát triển mạnh. Có hai phái chính: - Phái Đồ Thư (Hà Đồ, Lạc Thư), tức phái Tượng số học. - Phái lý học, chú trọng về nghĩa lý, về thiên lý, nhân đạo. Phái
Đồ Thư chịu ảnh hưởngcủa Lão học. Hai nhà nổi danh nhất, môn sinh rất
đông ,uy tín rất lớn là Chu Đôn di (Chu Liêm Khê) và Thiệu Ung (Thiệu
khang Tiết). Chu Đôn Di sáng tác Thái Cực đồ sau sửa thành Vô cực
đồ và Dịch Thông thư, nhưng Thái cực đồ thuyết chỉ là một phép luyện
khí củađạo gia, ít liên can tới Kinh Dịch. Câu “Vô cực nhi thái cực”
(có thể hiểu là vô cực với thái cực là một, hoặc vô cực chuyển qua thái
cực) chỉ là diễn cái ý hữu sinh ư vô” (hữu từ vô mà sinh ra) của Lão
tử. Còn Dịch Thông thư thì là tư tưởng trong đạo đức kinh trộn với tư
tưởng trong Hệ từ truyện; Chu chủ trương vô vi, hoàn toàn tĩnh thì mới
biết được cái điềm (cái mầm thiện ác); như vậy là thiên về Lão, Trang,
không hợp với tư tưởng của Khổng phái “quân tử tự cường bất tức” trong
quẻ Càn. Thiệu Ưng chịu ảnh hưởng của Trần đoàn, vẽ ra đồ Tiên
thiên và Hậu thiên bát quái (có lẽ đây là lần đầu tiên hình Tiên thiên
và Hậu thiên bát quái được in trên sách và phổ biến) có tính cách đạo
thuật. Ông phát huy thêm môn tượng số của Kinh Phòng đời Hán. Ông
chia các số ra thể số, dụng số, biến số, hoá số, động số, thực số v.v.
. .như “thể số” của thái dương là 160, của thái âm là 192, “biến số”
của nhật nguyệt, tinh, thần là 17024 . . Thật bí hiểm. Tuy nhiên,
Thiệu Ưng không lấy tượng số làm cứu cánh; cứu cánh chính vẫn là đạo,
là lý, căn bản của tượng số. Ông bảo:”có ý thì mới có lời, có lời thì
tất có tượng, có tượng thì tất có số. Số và tượng làm cho lời và ý sáng
tỏ. Tượng và số ví như cái đó, cái lưới, lời và ý ví như cá, như thỏ.
Được cá, được thỏ mà quên đó, quên lưới thì được, chứ bỏ đó bỏ lưới
không dùng mà muốn được cả được thỏ thì chưa thấy được cá, được thỏ bao
giờ”. Vậy đạo lý là gốc, quan trọng nhất. Tượng và Số chỉ là những
công cụ giúp cho ngôn ngữ để biểu thị ý tưởng được thêm rõ ràng mà dễ
nắm được đạo lý. Quan nệim của ông về tượng, có chỗ khác với Dịch,
chẳng ông cho “thái nhu “ (cực nhu) là nước “Thái cương” (cực cương) là
lửa; còn Dịch cho Thái Nhu là đất (Khôn), thái cương là núi (cấn). - Trong phái Lý học, phải kể Trình Di, Trương Tái và chu Hi. Trình
Di trở lại cái học của Vương Bật, bỏ những cái huyền bí, tìm đạo lý
trong Kinh Dịch để giữ cái học trọng nhân đức của Khổng tử. Ông chú
giải Kinh dịch theo chủ trương đó, nhưng không phát huy thêm được gì. Trương
Tái có sáng kiến hơn, tìm thêm ý nghĩa mới cho các quẻ, chẳng hạn bảo:
ý nghĩa của quẻ Phục là “vì thiên địa mà lập tâm”; của quẻ Đại Súc là
“vì dân sinh mà lập mệnh”; của quẻ Độn là “vì thánh nhân để kế tục cái
học đã mất”; của quẻ Thái là “vì vạn thế mở hội thái bình” Ông muốn đem
đạo tu thân để trị quốc, bình thiên hạ vào Kinh Dịch. Chu Hi chiết
trung cả hai phái (mặc dầu thiên về lý học), soạn Chu Dịch bản nghĩa để
tiếp bộ Dịch truyện (giảng về Kinh Dịch) của Trình Di, lại soạn Dịchsố
Khải Mông để phát minh cái nghĩa trong Tiên thiên bát quái đồ của Thiệu
Ung. Ông chê Vương Bật là sắp đặt lại Kinh Dịch, làm cho đời sau không
phân biệt đâu là Kinh, đâu là Truyện; và đã để mất hết cách thức chú
giải kinh điểm của Hán Nho. Chu Hi cũng dùng Kinh Dịch để bói, có thể
bảo ông tập đại thành những tư tưởng Dịch học của đời Tống, chứ không
phát minh được gì. Bản Chu Dịch đại toàn hiện thời là bản Dịch có
lời chú giải của Trình Di và Chu Hi. Nhà Mai Lĩnh, trước thế chiến xuất
bản bộ Kinh Dịch do Ngô Tất Tố dịch, cũng gồm những lời chú giải của
Trình, Chu. Ngoài ra, hầu hết các danh nho đời Tống như Tư Mã
Quang, Âu dương tu, Lí Cấu, Phạm Trọng Yên, Vương An Thạch, Tô Tuân, Lữ
Đại phòng, Trình Hạo v.v. . .đều có nghiên cứu Kinh Dịch, đưa ra ít
nhiều ý kiến riêng, như Âu Dương Tu trong tập “Dịch: Đồng Tử Vấn” mà
chúng tôi đã nhắc tới trong Chương I. Các nhà Dịch học trong hai thời Nguyên và Minh không lưu lại công trình gì đáng kể. Xét chung họ đều theo cái học đời Tống. THANH Qua
đời Thanh, dân tộc Trung Hoa cực khổ trăm chiều, mới đầu bị người Mãn
ức hiếp, sau lại người Âu coi như con thịt, tha hồ cắt xé, chia xẻ, cho
nên các triết gia của họ không thể tỉnh toạ suy luận về Thái cực, thái
hư, tâm tính được nữa, mà bắt buộc phải nghĩ đến thực tế. Do đó
triết học đời Thanh có những biến chuyển lớn: đạo học suy tàn, Nho vẫn
giữ địa vị cũ, nhưng thiên về thực dụng, khảo cứu, rồi canh tân cho hợp
thời. Dịch học cũngtheo trào lưu tư tưởng mới, lần lần quét sạch những thuyết huyền bí khó tin. Hồi
đầu đời Thanh, Hoàng Tôn Hi viết cuốn Dịch học tượngsố luận rất có giá
trị, Hoàng(có sácchhép là Hồ) Tôn Viêm viết cuốn Dịch Đồ thư biện hoặc,
rồi Mao Kỳ Linh viết cuốn Hà Đồ Lạc thư nguyên suyễn, không còn tin Hà
Đồ với dịch có quan hệ gì với nhau nữa. tới khi Hồ Vị cho ra cuốn Dịch
đồ minh biện, đem lai lịch của Hà Đồ và Dịch phân tích minh bạch, bảo
đồ là đồ, dịch là dịch, không liên can gì với nhau, mà quét bỏ được
những giải thích lầm lẫn của Tống Nho. Giữa đời thanh, Huệ Đồng và
Trương Huệ Ngôn chuyên nghiên cứu Dịch học đời Hán, dùng phương pháp
qui nạp, hơi có tính cách khoa học. Nhưng người nghiên cứu Chu
Dịch một cách thâm thúy, phát minh được ít nhiều là Tiêu Tuần. Ông căn
cứ vào quái, hào, giải thích từng chữ để làm sáng tỏ phép hào biến, nói
được những điều chưa ai nói. Nên kể thêm Lý Quang Địa đời Khang hi dùng toán học phương Tây để giải thích Dịch, dùng Lý Hoá để tính phương vị của Quái, Hào. Theo Tào Thăng, đó là một phát minh lớn. *** HIỆN NAY
Trong
mấy chục năm gần đây, các nhà xuất bản ở Hương Cảng và Đài Bắc vẫn
thường in sách viết về Dịch, nhưng chúng tôi không thể theo dõi được,
mới thấy được ba cuốn đáng chú ý: - Chu Dịch Tân Giải của Tào Thăng mà chúng tôi đã nhắc tới ở trên. - Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chú của Cao Hanh do nhà Khai Minh thư điếm ấn hành. Hai
nhà trên đều theo chủ trương khảo chứng, "dùng Chu Dịch để chứng minh
Chu Dịch", dùng các quẻ để giải thích các hào của hai quẻ Càn, Khôn. - Dịch HỌc Tân Luận của Nghiệm linh phong (do nhà Chính Trung Thư Cục ấn hành 1973) chú trọng về việc hiệu đính. Chúng
tôi thấy có nhiều giải thích các quẻ, hào, mỗi nhà có một kiến giải
riêng, mà chúng tôi không có thì giờ phương tiện nghiên cứu môn học đó,
nên không thể đưa ý kiến về những thuyết mới đó được. Dịch học quả
là một khu rừng mênh mông, ai muốn theo đường nào thì theo. Cổ kim chưa
hề có tác phẩm nào gây ra nhiều suy luận như vậy cho đời sau.
** * Ở VIỆT NAM
Ở
nước ta chưa có ai có thể gọi là nhà Dịch học được. Ngoài bốn bản dịch
Kinh dịch của Ngô Tất Tố (Mai Lĩnh xuất bản), của Nguyễn Mạnh Bảo (dịch
giả tự xuất bản) của Nguyễn Duy Tinh (Trung Tâm Học liệu xuất bản năm
1968) và của cụ Phan Bội Châu (Khai Trí xuất bản năm 1969) - bản này có
giá trị nhất - mới chỉ có ít tập nhận xét hay tìm hiểu Kinh Dịch của: Nguyễn Uyển Diễm: Một nhận xét về Kinh Dịch - Võ Đất - Hà Nội 1953. Bữu Cầm: Tìm hiểu Kinh Dịch - Nguyễn Đỗ xuất bản 1957. Nguyễn Hữu Lương: Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông Phương - Nha Tuyên Úy phật giáo ấn hành - 1971. Nguyễn Duy Cần : Dịch Học Tinh HOa - Tủ sách Thu Giang 1973. Lê Chí Thiệp: Kinh Dịch Nguyên Thủy - Khai Trí - 1973. PHỤ LỤC DỊCH HỌC Ở PHƯƠNG TÂY Alfred
Douglas trong cuốn The Oracle of Change (1972) đã kê và giới thiệu vắn
tắt tất cả các bản Kinh Dịch ra ngôn ngữ phương Tây từ trước tới nay,
theo chỗ ông biết. Mới chỉ có bảy bản, so với số các bản dịch Đạo đức
Kinh thì kém xa. 1. Regis, P, Y.King - Antiquissimus Sinarum Liber Paris, 1834. Đây là bản dịch đầu tiên ra ngôn ngữ phương Tây của các nhà truyền giáo giòng Tên (Jesuites). 2.
Meclatchie, Rev. Canon, A translation of the Confucian Yi King, or the
Cl***ic of Changes, có chú thích và phụ lục. Thượng Hải, 1876. Bản
này lạ lùng ở điểm người dịch muốn đem khoa Thần thoại học tỉ giảo
(Mythologie comparée) để tìm hiểu những bí mật của Kinh Dịch) 3. De Harley, C., Le Yih-King, Texte primitif rétabli, traduit et commenté. Bruselles, 1889. Một bản dịch đáng chú ý, nhưng theo các tiêu chuẩn ngày nay thì không đáng tin. 4. Legge J., The textx of Confucianism, Pt II, the Yi King - Oxford 1899. Một
bản dịch sát và kỹ lưỡng bản Kinh dịch in năm 1715 đời Khang Hi. Nhưng
Legge không coi Kinh Dịch là một sách bói, không tin môn bói Dịch, và
những chú thích của ông cũng sơ sài quá. Ông không nói gì về cách bói
cả. 5. Wilhem, R., I Ging: das Buch der Wandlungen - Jena 1924. Wilhem
dịch ra tiếng Đức, rồi C.F Bayness lại dịch tiếng Đức ra tiếng Anh,
nhan đề là The I Ching or Book of Changes, London - 1950. Bản dịch
của Wilhem đầy đủ nhất, được nhiều người thích nhất, có lời giới thiệu
rất hay và lời mở đầu sâu sắc của Tiến sĩ C.G.Jung. Nhưng cách sắp xếp
rắc rối quá, tốn công cho người đọc. 6. Blofeld J., The Book of Change - London 1965. Một
bản dịch mới của một học giả Anh, đáng đọc. Nói kỹ về cách bói. Nhưng
không dịch những lời chú thích của Khổng tử (A. Douglas muốn nói phần
Truyện). 7. Siu, R.G.H. The man of many qualities; Alegacy of the I Ching Cambridge. M***, 1968. Một
bản dịch mới riêng về phần kinh của Văn Vương và Chu Công. Dịch giả
trích dẫn trên 700 chỗ trong văn học thế giới để giải thích phần kinh
đó. Ông lại luận về cách bói, ý tưởng mới mẻ, hấp dẫn. Tôi được biếtthêm hai bản dịch, sơ sài nhưng chú trọng đến việc bói: - Alfred Douglas, The oracle of Change - Penguin Books - 1972. Phần I - giớ ithiệu qua loa nguồn gốc Kinh Dịch, tư tưởng trong Kinh Dịch, rồi chỉ cách bói. Phần II - Dịch Thoán Từ, Hào Từ, với ít lời giải thích theo quan niệm của Nho gia. - J. Lavier, Le Livre de la Terre et du Ciel - Édition Tchou, Paris 1969. Tác
giả là giáo sư dạy khoa châm cứu ở Đài Loan. Ông cho rằng Kinh Dịch là
công trình của Phục Hi, Văn Vương, Chu Công, Khổng tử, nhưng lại bảo nó
là "cuốn sách thiêng của Đạo Lão truyền thống". Phần đầu ông tìm ý
nghĩa cổ nhất của một số danh từ như: Thái Ất, đạo, âm dương, dịch,
quái, càn, khôn, khảm, li, cấn, đoái, tốn, chấn...Chẳng hạn ông cho
(dịch) [ 易] là con kì nhông thay đổi màu sắc dễ dàng, li [ 離] gồm con yack (một giống trâu rất mạnh) ở bên trái, với con chim [ 禽]
ở bên phải, do đó li có ngĩa là mạnh và đẹp (như chim), sau đó ông
giảng qua loa về 2 cách sắp đặt các quẻ đếm trên vòng tròn của Phục HI
và của Văn Vương (ông cho cách của Phục HI có lý, của Văn Vương vô lý).
Phần sau ông dịch Thoán Từ và Hào Từ một cách rất vắn tắt, có lẽ
theo quan niệm của Đạo gia; chẳng hạn quẻ Càn, về ý nghĩa của quẻ, ông
viết: "Nguồn gốc của mọi vật , tiến lần tới hoàn hảo, về ý nghĩa của
mỗi hào , ông viết. : Hào 1 : Ở trong hang, con rồng không hoạt động. Hào 2: Con rồng hiện lên, người ta thấy nó (!) Hào 3: Bậc đại nhân không được ngưng hoạt động. Hào 4: Con rồng vẫy vùng. Hào 5: Con rồng bay. Hào 6: (Hào thượng) Dương không được tuyệt đối, đôi khi phải nhường chỗ cho âm, nếu không thì không sinh sản được gì. Phần
cuối ông tìm ý nghĩa của vài quẻ để áp dụng vào việc đời nay mà thời
xưa không có. Như quẻ Thủy Lôi Truân, ông giảng rằng nó diễn tâm thần
do dự hoang mang của thanh niên; quẻ Thủy Thiên Nhu diễn tốc độ nguy
hiểm của một chiếc xe, quẻ Thuần Khảm chính là cái ý tượng của khoa học
hiện đại (khoa học phát triển quá thì nguy cho nhân loại)... Ông
ta cũng bói thử cho một thiếu nữ hỏi về hôn nhân, được quẻ Lôi trạch
Quy muội biến ra quẻ Địa trạch Lân, khuyên thiếu nữ đó đợi một cơ hội
khác, vì theo quẻ thì mới đầu tốt, rồi sau bíến thành xấu. Tóm lại cuốn của J. Lavier có nhiều ý mới, đúng hay không, tôi không dám quyết; còn việc giảng ý nghĩa các quẻ thì sơ lược quá. Đặc
biệt nhất là cuốn The Symbols of Yi King của Z.D Sung - Paragon
(Paragon có phải là tên nhà xuất bản không? Ở đâu? In năm nào, không
biết, chỉ biết bài tựa của tác giả viết năm 1934). Không phải là
một bản dịch Kinh Dịch; tác giả chỉ ghi lại những sự ngẫu nhiên trùng
hợp giữa một số quẻ với vài môn học như : Đại số học, Vật lý, Thiên
văn, Luận lý mà ông đã rất tốn công tìm ra được. Tôi chỉ xin dẫn một thí dụ ở đầu sách. Ông cho hào dương (vạch liền) là A, hào âm (vạch đứt (là B. Rồi ông đổi tám quẻ đơn ra: Càn thành AAA : A(tam thừa); Khôn thành BBB : B(tam thừa). Ba quẻ có 2 hào dương, một hào âm: Đoái thành B A A: A(bình phương)B; Ly thành ABA : A(bình phương)B; Cộng ba quẻ đó thành 3 A(bình phương)B. Ba quẻ có 1 hào dương, hai hào âm: Chấn thành BBA; AB(bình phương); Khảm thành BAB : AB(bình phương) Cấn thành ABB: AB(bình phương) Cộng ba quẻ đó thành 3 AB2 Cộng cả tám quẻ thành một công thức đại số: A3 + 3A(bình phương)B + 3AB(bình phương) + B(bình phương) : (A + B)(tam thừa) Kể ra cũng tài tình. *** Nhưng theo tôi dưới đây mới là hai phát kiến nổi danh nhất của học giả phương Tây về Kinh Dịch. Phát kiến của Leibniz: Leibniz,
triết gia kiếm toán học gia Đức (1946-1716), là người đầu tiên nghĩ ra
phép nhị tiến về số học, thay cho phép thập tiến, nghĩa là cỉ dùng hai
síp (chiffre) 1 và 0 chứ không dùng mười síp từ 0 đến 9. Theo phép nhị tiến thì cứ thêm con 0 tức là nhân với 2 chứ không phải với 10 như trong phép thập tiến. Ví dụ: 10 con số đầu trong phép thập tiến đổi ra phép nhị tiến như sau: 1: 1; 2:10; 3:11; 4:100; 5:101; 6:110; 7:111; 8:1000; 9:1.001; 10: 1.010 (4+2): 100 + 10 = 110 (4+3): 100 + 11 = 111 (8+2): 1.000 + 10 = 1010. Ngày
nay các máy điện tử dùng nguyên tắc đó của Leibniz: hể luồng điện vô,
đèn bật thì là 1: tắt điện thì là 0. Bật tắc, bậc tắt, chỉ có 2 “thế”
đó thôi. Leibnis đăng sáng kiến của ông trên một tờ báo năm 1679.
Trong khoảng từ 1679 đến 1702, ông thư từ với một nhà truyền giáo Giòng
Tên ở Trung Hoa, và nhờ nhà truyền giáo này mà ông biết được 64 quẻ
Kinh Dịch, thấy người Trung Hoa chỉ dùng hai vạch dương và âm mà vạch
được các quẻ, cũng như ông chỉ dùng số 1 và số 0 mà viết được mọi số.
Ông xin vị truyền giáo đó 1 bản Phương vị 64 quẻ của Phục Hi (coi trang
sau): suy nghĩ, tìm tòi và thấy rằng nếu ông thay con O vào vạch âm,
con 1 vào vạch dương thì 64 quẻ đúng là 64 con số từ 0 đến 63 trong
phép nhị tiến của ông. Chẳng hạn quẻ Bác ䷖ (ở
bên mặt quẻ Khôn, ở giữa hình; và ở bên trái quẻ Khôn ở trên vòng tròn,
khi ta nhìn từ trong ra ngoài) đúng là số 1 trong phép nhị tiến của
ông, nếu không kể năm con 0 đứng trước số 1. Rồi quẻ Tỉ ䷇ ở bên quẻ Bác đổi ra thành 000010, đúng là con số 2 trong phép nhị tiến. Cứ như vậy, chúng ta được những số: 0,1,2,3,4,5,6,7 trên hàng đầu ở giữa hình. 8,9,10,11,12,13,14,15 trên hàng nhì ở giữa hình v.v. tới quẻ Càn ở cuối hàng 8 (tức hàng cuối) là số 63. Bạn
có thể kiểm soát lại, đổi con số 63 ra phép nhị tiến thì thấy. Muốn đổi
như vậy, bạn chia 63 cho 2 được 31, cón 1, bạn ghi 1, và vạch một nét
dương; rồi chia thương số 31 cho 2, được 15, còn 1, lại ghi 1 và vạch
một nét dương nữa; chia 15 cho 2 được 7, còn 1, lại ghi 1 và vạch một
nét dương nữa; chia 7 cho 2 được 3, còn 1, được thêm một nét dương nữa;
chia 3 cho 2, được 1, thêm một nét dương nữa, còn lại 1, lại thêm một
nét dương nữa; (cứ còn lẻ 1 là thêm 1 nét dương) Rốt cuộc được hết thảy
6 nét dương, đúng là quẻ Càn.
PHƯƠNG VỊ 64 QUẺ CỦA PHỤC HI
Với phép nhị tiến (nume1ration binaire ) của Leibnibz Thứ
tự các quẻ trùng sắp theo tiên thiên bát quái của Phục Hi. Trên vòng
tròn: khởi từ quẻ Khôn, kể là , (đánh số theo Leibniz), tiến ngược
chiều kim đồng hồ, đến quẻ 31, rồi lại bắt từ quẻ 32 ở bên cạnh quẻ
Khôn, tiến thuận chiều kim đồng hồ, đến quẻ cuối cùng là quẻ Càn, số
63. Ở giữa hình, các quẻ sắp theo hàng ngang từ trái qua phải,
hàng đầu từ quẻ 0 (quẻ Khôn) đến 7, hàng nhì từ 8 đến 15 v.v.. hàng
cuối từ 56 đến 63 (quẻ Càn). độc giả nhận thấy các quẻ 7, 15, 23.. trên
vòng tròn cũng là những quẻ mang các số đó trên khung vuông ở giữa. Một thí dụ nữa, muốn biết quẻ thứ 50 trên hình ở giữa là quẻ gì, bạn cũng chia như trên: 50 : 2 = 25, không còn lại, tức là 0, bạn vạch nét Âm. 25 : 2 = 12, còn lại 1, tức là 1, bạn vạch nét dương. 12 : 2 = 6, không còn lại,tức là 0, bạn vạch nét Âm. 6 : 2 = 3;không còn lại , tức là 0, bạn vạch nét Âm. 3 : 2 = 1 , còn lại 1 , tức là 1, bạn vạch nét Dương. và còn lại 1 bạn vạch nét Dương. Bạn được quẻ Thủy trạch Tiết, đúng là quẻ thứ 50, tức là quẻ thứ 3 trên hàng thứ 7 ở giữa hình. Người
ta bảo Thiệu Ung đời Tống đã vẽ đồ đó; nếu đúng vậy thì ông đã tìm ra
được phép nhị tiến trên sáu thế kỷ trước Leibniz chăng? Thật là một sự
ngẫu hợp lạ lùng. Vì sự sắp đặt các quẻ Tiên Thiên và cách thức trùng
quái không có chút liên quan gì với phép nhị tiến của Laibniz cả. Chúng
ta để ý: trên vòng tròn của đồ, thứ tự khôngtheo một chiều mà theo hai
chiều như cách sắp trùng quái tương truyền của Phục HI nhưng quẻ cuối
cùng, số 63 cũng vẫn là quẻ Thuần Càn. Vậy bạn theo ngược chiều
kim đồng hồ, đánh số từ quẻ Thuần Khôn là 0, tới 1, 2,3.. đến 31 là quẻ
Sơn Phong Cổ, bên cạnh quẻ thuần càn; rồi bạn bắt từ quẻ Địa Lôi phục ở
bên cạnh quẻ thuần khôn, đánh số quẻ Phục là 32, theo chiều kim đồng hồ
tiếp tục đánh số : 33, 34, 35...đến quẻ 62 là Trạch Thiên Quải cuối
cùng là quẻ Thuần càn số 63.
Phát kiến - đúng hơn một ý kiến - của nhà tâm lý học C.G. Jung.
Jung
gốc Thụy Sĩ, sinh năm 1875, cùng với Freud là một trong những thủy tổ
của Khoa phân tâm học (psychanalyse), nghiên cứu về tiềm thức của loài
người. Ông là bạn của Richard Wilhem, người dịch Kinh Dịch ra tiếng
Đức, và ông nhờ Wilhem mà hiểu được Kinh dịch. Trong lời mở đầu
bản tiếng Anh của Wilhem xuất bản ở London, ông kể chuyện năm 1949 ông
thành tâm bói hai lần theo cách gieo ba đồng tiền: - Lần thứ nhất để biết bản tiếng Anh sắp in có được độc giả phương Tây hiểu hơn bản tiếng Đức không. Ông được quẻ Đỉnh ䷱ biến ra quẻ Tấn ䷢ (động hào 2,3). Lời đoán là bản tiếng Anh lần này có ích hơn bản tiếng Đức lần trước. Ông
muốn viết Lời nói đầu cho bản dịch tiếng Anh, lại bói một quẻ nữa để
biết việc nên làm không, vì ông còn do dự :Ông là một nhà khoa học, tự
cho có trách nhiệm với khoa học, mà lại đi giới thiệu một tác phẩm có
tính cách huyền bí thời cổ ư? Nhất là ông có thể ngỡ bản Kinh Dịch
Wilhem dùng để dịch, trải qua bao nhiêu thời đại chắc gì đã đúng, mà
bản dịch của Wilhem chắc gì đã tin cậy được.
Lần này ông được quẻ Khảm ䷜ biến ra quẻ Tỉnh ䷯
, động hào 3; lời đoán là nên viết lời giới thiệu vì Kinh dịch như một
cái giếng cổ, hư hỏng bùn lấp cả rồi, nhưng có thể sửa sang lại mà dùng
được. Ông thấy như vậy, hai lần bói đều có ý nghĩa cả, bảo: “Nếu
một người trần mắt tục nào đó mà trả lời tôi hai lần như vậy , thì tôi,
một nhà chuyên về thần kinh học, cũng phải nhận rằng người đó có tinh
thần lành mạnh”. Không những vậy, ông còn phục người đó sao mà thấu
được nỗi do dự, nghi ngờ thầm kín của ông nữa, nghĩa là đi sâu được vào
tiềm thức của ông. Do đó Jung tin bói Dịch, cho môn đó là một phương tiện rất mới để dò xét cõi tiềm thức của con người. Raymond
de Becker trong lời giới thiệu bản dịch Kinh Dịch củaCharles de Harley
(lần tái bản năm 1970) cũng nghĩ như Jung. Nếu người xin quẻ thật tĩnh
tâm, tập trung tư tưởng vào điều mình muốn hỏi, thì quẻ cho biết được
sự diễn biến của tính thế từ trước tới sau có thể sẽ ra sao, và tự mình
lựa lấy một thái độ trong mỗi tình thế, tùy thái độ đó mà có thể thay
đổi một phần nào sự diễn biến của tình thế được. Đó là cái ích lợi của
bói Dịch về sự tìm hiểu tâm lý bề sâu (psychologie des profonders), tức
tìm hiểu cõi tiềm thức. Ông cho rằng bói Dịch không bao giờ bảo
việc nhất định sẽ xẩy ra như thế này, hay thế khác, mình không sao thay
đổi được (1). Nếu 2 lần bói về một việc thì hai quẻ tất sẽ khác vì lần
sau tâm trạng của người bói và tình thế ở ngoài đều thay đổi rồi. * * * Tóm lại, theo chỗ chúng tôi thấy thì tới nay ở phương Tây có ba xu hướng trong việc nghiên cứu Kinh Dịch: - Xu hướng tìm hiểu đạo lý Trung Hoa, như J. Legge, R.Wilhem. - Xu hướng tìm những cái ngẫu hợp giữa Kinh Dịch và các khoa học ngày nay, như Leibniz, Z.D Sung. -
Xu hướng chỉ coi Kinh Dịch là một sách bói, Một hạng người như Alfred
Douglas, J.Lavier theo đúng cách bói và đoán của Trung Hoa mà không
phát kiến được gì; một hạng nữa như C.Jung, R. de Becker coi bói dịch
là một cách đi sâu vào tiềm thức con người. Chính hạng học giả sau cùng
này có công phát huy Kinh Dịch nhất, hoặc cho Kinh dịch một bộ áo mới
mẽ nhất. Họ chỉ mới vạch cái hướng đi, chưa nghiên cứu gì được nhiều.
Nhưng chúng ta nên theo dõi công trình của họ, có thể trong dăm ba chục
năm nữa, chúng ta sẽ được biết thêm nhiều điều rất mới.
hết: Chương 3
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:32pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 4
THUẬT NGỮ VÀ QUI TẮC CẦN NHỚ
THUẬT NGỮ: Dịch là một môn học có một số thuật ngữ và qui tắc mà chúng ta phải nhớ cũng như nhớ các định nghĩa, định đề của môn hình học. Trong mấy chương trên, độc giả đã gặp vài ba chục thuật ngữ mà tôi xin kể lại dưới đây: Lưỡng Nghi Tứ tượng Bát quái: Càn Khôn Ly Khảm Cấn Đóai Chấn Tốn Tiên thiên bát quái Hậu thiên bát quái Đơn quái Trùng quái Thuần quái Hỗ quái Nội quái Ngọai quái Cách vạch và xét trùng quái: từ dưới lên. Cạch gọi tên thành phần trùng quái: từ trên xuống. Hào: Dương (cũng gọi là hào thực) Âm (cũng gọi là hao hư) Lẻ (tiếng Hán gọi là cơ) Chẳn (tiếng Hán gọi là ngẫu) Sơ. Thượng Bạn lại nên nhớ thế nào là : Hà đồ Lạc Thư Thóan (sóan) Tượng Từ (như thóan từ) Truyện (như đại tượng, tiểu tượng truyện) Có tất cả mấy truyện, tên và nội dung mỗi truyện. Tôi
đã để trắng cả hàng, sau mỗi thuật ngữ, để nếu bạn quên nghĩa thì tìm
lại ở những trang trên rồi hoặc ghi số trang hoặc tóm tắt định nghĩa
vào chỗ để trắng, cho dễ tìm, dễ nhớ. * Trong chương này tôi sẽ giảng thêm một số thuật ngữ và ít qui tắc chính của môn Dịch học. Hào cửu – Hào lục. Trong một trùng quái, hào dương (vạch liền) còn lại là hào cửu. Hào âm (vạch đứt) còn gọi là hào lục. Ví vụ: quẻ Thủy hỏa Kí tế và quẻ Hỏa thủy vị tế: Thủy hỏa Kí tế __ __ Thượng lục. _____ Cửu ngũ __ __ Lục tứ _____ Cửu tam __ __ Lục nhị _____ Sơ cửu Hỏa thủy vị tế: _____ Thượng cửu __ __ Lục ngũ _____ Cửu tứ __ __ Lục tam _____ Cửu nhị __ __ Sơ lục Những chữ cửu và lục hai quẻ trong đó không có nghĩa là 9, 6 mà chỉ có nghĩa dương, âm. Hào
dưới cũng là quẻ Kí Tế và quẻ Vị Tế (cũng như mọi quẻ khác) gọi là hào
sơ (tức hào đầu tiên), nhưng bên Kí Tế, nó là hào dương, nên gọi là Sơ
cửu (nghĩa là hào sơ mà là dương); còn bên Vị Tế, nó là hào âm, nên gọi
là sơ lục (nghĩa là hào sơ mà là âm). Hào thứ nhì từ dưới lên, gọi là
hào nhị, bên Kí Tế nó là âm cho nên gọi là Lục Nhị; còn bên Vị Tế nó là
hào dương, nên gọi là Cửu nhi. Hào trên cùng, gọi là hào thượng,
bên Kí Tế nó là hào âm, nên gọi là thượng lục; còn bên Vị Tế, nó là hào
dương, nên gọi là thượng cửu. Các hào khác cũng vậy, cứ gặp chữ cửu thì bạn đổi ngay là ra dương, gặp chữ lục thì đổi ngay ra là âm. Do
lẽ chữ lục trong các hào đã có nghĩa là âm rồi, nên hào trên cùng, tức
hào thứ sáu không gọi là lục (sáu) nữa, mà gọi là thượng cho khỏi lầm. Sự
gọi tên hào như vậy rắc rối cho những người mới đọc Kinh Dịch, cho nên
trong phần sau (dịch các quẻ) chúng tôi không dùng, mà gọi là hào 1,
hào 2, 3, 4, 5, 6 cho dễ hiểu. tuy nhiên, độc giả có thể đọc các sách
khác về Kinh Dịch , nên không thể không biết nghĩa hai thuật ngữ cửu,
lục đó được. Nhưng tại sao hào dương lại gọi là cửu, hào âm lại gọi là lục? Có 3 thuyết, tôi chỉ xin dẫn thuyết thông dụng nhất. Hệ
từ thượng truyện, Chương 9 bảo dương (trời) có năm số: 1, 3,5, 5, 9
(đều lẻ cả), âm (đất) có năm số: 2, 4, 6, 8, 10 (đều chẵn cả). Dương thì kể thuận: ba số sanh là 1, 3, 5 hai số thành là 7, 9. Âm thì kể nghịch (từ số 10 lên ngược lên tới số 2): ba số thành là 10, 8, 6, hai số sanh là 4, 2. Vậy
số thành cuối cùng của dương (lão dương) là 9, mà số thành cuối cùng
của âm (lão âm) là 6; do đó gọi dương là cửu, gọi âm là lục, chứ không
phải cửu là hào thứ 9, lục là hào thứ 6. Thuyết đó đúng hay không, tôi không biết; mà nhớ hay quên, tôi cho là cũng không quan trọng. Dụng cửu – Dụng lục: Riêng
quẻ Thuần càn, ngòai sáu hào, còn có hào (?) dụng cửu; và riêng quẻ
Thuần khôn, ngòai sáu hào, còn có hào (?) dụng lục. Chúng tôi ghi lại
đây, và để qua phần sau, khi dịch hai quẻ đó sẽ xét mới dễ hiểu được. Tứ Đức:
Đọc các quẻ trong phần sau, chúng ta sẽ gặp những chữ này: nguyên,
hanh, lợi, trình, mà Chu Dịch gọi là tứ đức, có thể hiểu là bốn đặc
tính của các quẻ. Nói là của các quẻ, nhưng theo Tiền Cơ Bác trong
cuốn Chu Dịch giải đề cấp kỉ độc pháp (Thương vụ ấn thư quán) thì chỉ
có 7 quẻ có đủ tứ đức, còn những quẻ khác thì chỉ được 3 đức hoặc 2 đức
hoặc 1 đức, có khi không đựoc đức nào. Mà trong y quẻ có đủ tứ đức chi
duy có quẻ càn là bốn đức được hòan tòan, còn sáu quẻ kia tuy cùng có
tứ đức mà bị hạn chế ít nhiều, nghĩa là phải có điều kiện nào đó, gặp
hòan cảnh nào đó mới có được đức nào đó. a) Ý nghĩa thông thường của tứ đức đó như sau: Nguyên là đầu tiên, lớn, trùm mọi điều thiện. Hanh là hanh thông, thuận tiện, tập hợp các điều hay. Lợi là nên, thỏa thích, hòa hợp các điều phải. Trinh là chính, bền chặt, gốc của mọi việc. b) Dưới đây tôi ghi thêm một số ý nghĩa khác. Xét theo đạo người thì nguyên thuộc về đức nhân, hạnh thuộc về đức lễ, lợi thuộc về đức nghĩa, trinh thuộc về đức trí. Đó là quan niệm của nhà Nho. c) Riêng về quẻ Càn
(Trời) thì có nhà cho rằng nguyên thuộc về mùa xuân (phát sinh vạn
vật), hanh thuộc về mùa hạ (vạn vật nảy nở), lợi thuộc về mùa thu (vạn
vật thành thục), trinh thuộc về mùa đông (vạn vật đạt tới kết thúc tốt
đẹp) Phùng Hữu Lan trong Tâm Lý họcđã phát huy thêm quan niệm đó
mà cho Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là bốn trình tự trong sự diễn tiến của
Càn, hay là cái động lực vận hành tạo nên sinh mệnh: “Nguyên là đầu, trỏ cái khởi đọan phát động của sinh mệnh, nghĩa là cái trạng thái của vật khi bắt đầu vào cuộc sống. Hanh
là hanh thông, là thông đồng, Khi sinh mệnh của vật đã hiển nhiên trong
thực tế, tương thông với ngọai giới thì trạng thái của nó lúc đó gọi là
hanh. Lợi là thuận lợi, là trạng thái của sinh vật khi tương thông với ngọai giới, nó đã thích ứng được với hòan cảnh. Trinh
là thành tựu hẳn hòi, tức là trạng thái của sinh vật vì thích ứng được
với hoàn cảnh một cách thuận lợi mà đã hình thành một cách tốt đẹp (Đại
cương triết học Trung Quốc – Thượng – trang 170 – Cảo thơm) d) Tào
Thăng trong Chu Dịch Tân Giải (sách đã dẫn) cũng giải nghĩa đại khái
như vậy, nhưng cho nguyên hanh lợi trinh chẳng phải chỉ là trình tự
hình thành của sinh mệnh, mà của cả vũ trụ kia. Ông bảo: “Nguyên là hồi càn và khôn mới giao nhau chứ chưa biến hóa. Hanh là lúc càn, khôn đã giao với nhau rồi mà thôngvới nhau. Lợi là lúc càn, khôn điều hòa nhau mà biến hóa. Trinh là giai đọan càn không đã biến hóa xong rồi và định vị” Theo
Cao Hạnh trong Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chú thì tất cả những cách giải
thích kể trên đều là của người sau cả, chứ mới đầu, Kinh Dịch chỉ dùng
để bói thì ý nghĩa nguyên hanh lợi trình khác hẳn: đ) Nguyên là lớn, Hanh 亨 tức là chữ hưởng 享 . Người xưa khi cử hành một cuộc cúng tế lớn (đại hưởng chi tế), bốc sư gặp quẻ Càn thì chép là nguyên hưởng (hưởng lớn). Lợi, trinh [ 貞] tức là lợi chiếm [ 占] . Bốc sư gặp quẻ càn thì cho là làm việc tất có lợi, cho nên chép là lợi trinh. Trong phần Dịch, chúng tôi theo cách giải thích thông thường nhất. Cát (một quẻ cát) nghĩa là tốt lành. Hung ngược lại với cát, xấu nhất Hối là lỗi, ăn ăn. Lận là lỗi nhỏ, tiếc. Vô cữu là không có lỗi hoặc lỗi không về ai cả. QUI TẮC Ý nghĩa và tương quan của nội, ngọai quái: Mỗi
trùng quái tuy gồm hai đơn quái chồng lên nhau, nhưng chỉ diễn tả một
tình trạng, một sự việc, một biến cố hay một hiện tượng; vậy nội quái
và ngọai quái có tương quan mật thiết với nhau. Tương quan đó ra sao? Có hai thuyết -
Thuyết thứ nhất được nhiều người chấp nhận nhất, thường thấy nhất trong
Kinh Dịch, là sự diễn tiến tuần tự về thời gian: hào sơ là bứơc đầu hào
thượng là bước cuối, các hào ở giữa là các giai đoạn trung gian. Điều
đó ta thấy rất rõ trong quẻ Thuần Càn. Dù hiểu Càn là đạo trời hay đạo
của người , thì chúng ta cũng thấy cái luật diễn tiến lần lần từ lúc
mới sinh ra vạn vật rồi tới lúc vạn vật biến hóa, thành thục, hòa hợp,
thịnh cực rồi suy (đó là đạo trời), hoặc diễn tiến từ lúc người quân tử
còn ẩn dật, tu đức để chờ thời, tới lúc bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn
phải tiếp tục tu dưỡng, giữ vững chí mình, xem xét thời cơ mà hành động
chớ không nên vội vàng, sau mới làm được sự nghiệp lớn, và khi xong sự
nghiệp rồi thì nên lui về, nhường cho người khác. Không nói chỉ
quẻ Thuần Càn, nội quái và ngọai quái như nhau: Những quẻ Hàm, Cấn, sư
Đỉnh, Tiệm, Thái, Ly, Phệ, Hạp, Bí, Bác...mà nội quái khác ngọai quái,
thì cũng vậy: những hào ở ngọai quái diễn tiếp những trình tự trong nội
quái. Chẳng hạn quẻ Hàm: hào 1 là ngón chân, hào 2 là bắp chân,
hào 3 là đùi, hào 4 là tim, hào 5 là lưng, hào 6 là mép, lưỡi , sự cảm
nhau tiến lần lần như từ ngón chân lên đến mép, lưỡi. Quẻ Cấn cũng vậy: sự ngăn cản từ hào 1, ngón chân rồi tiến lần lần lên bắp chân, lưng quần, giữa thân mình, mép (hào 5) Quẻ
Tiệm là tiến lần lần: hào 1, con chim hồng tiến tới bờ nước, hào 2 nó
lên phiến đá ở bờ, hào 3 nó lên tới 9dất bằng, hão nó nhảy lên cành
cây, hào 5 nó lên tới gò cao và hào cuối cùng, nó bay bổng lên trời. - Thuyết thứ nhì của Ch u Chai và Winberg Chai trong phần giới thiệu cuốn 1 Chinh (bản dịch của J.Legge). Mỗi
đơn quái có ba hào thì hào 1 có ý nghĩa nên dè dặt vì là bước đầu, hào
3 có ý nghĩa phải đề phòng vì là lúc cùng cực, chỉ hào 2 là có ý nghĩa
nên họat động. Mỗi trùng quái cũng vậy: Cặp 1 và 6: bất biến, vì là bước đầu và bước cuối. Cặp 3 và 4L thay đổi, bấp bênh vì càn ở nội quái chưa lên ngọai quái, (hào 3) hoặc mới lên ngọai quái (hào 4) Chỉ cặp 2 và 5 có nhiều tác động. -
Thuyết thứ ba, ít người áp dụng, tôi mới thấy J. Lavier trình bày trong
cuốn Le Livre de la terre et du ciel, cho rằng tương quan giữa nội quái
và ngọai quái là tương quan nhân quả. Nội quái diễn cái nhân: Hào 1 là thực thể (substance) của nhân. Hào 2 là biểu thể (manifestation) của nhân. Hào 3 là đặc tính (essence) của nhân. Ngọai quái diễn cái quả: Hào 4 là thực thể của quả. Hào 5 là biểu thị của quả Hào 6 là đặc tính của quả. Như vậy hào 4 là cái quả của hào 1, hào 5 là cái quả của hào 2, hào 6 là cái quả của hào 3. Tôi không biết thuyết đó có phải của Đạo gia hay không, chắc chắn không phải của Dịch học phái thời Chiến quốc, Hán sơ. Tôi
còn thấy có sách nói quẻ đơn sở dĩ có ba hào vì người đầu tiên vạch ra
muốn có đủ tam tài (ba ngôi): trời, đất, người, Hào dưới cũng là đất,
hào trên cũng là trời, hào giữa là người. Do đó quẻ trùng có 6 hào thì hai hào ở dưới cùng cũng là đất, hai hào trên cùng là trời, hai hào ở giữa là người. Thuyết này cũng rất ít khi thấy áp dụng. Ý NGHĨA CÁC HÀO Trung - Chính: Dưới
đây là một số qui tắc rất quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất
trong Dịch, trong nhân sinh quan của Trung hoa, chúng ta nên nhớ kỹ. Trước hết chúng ta phải phân biệt bản thể, tính cách của hào , và vị trí của hào. Hào chỉ có hai lọai: dương và âm. Đó là bản thể của hào. Tính cách của dương là: đàn ông cương cường, thiện, đại, chính, thành thực, quân tử, phú quí. Tính cách của âm là: đàn bà, nhu thuận, ác (xấu, trái với thiện), tà ngụy (trái với thành thực) tiểu nhân, bần tiện... Như
vậy, dương tốt đẹp, âm xấu xa. Nhưng đó chỉ là xét chung. còn phải xét
vị trí của Hào nữa, mới định được là tốt hay xấu. Dù là hào dương mà vị
trí không trung, chính thì cũng xấu; dù là hào âm mà vị trí trung chính
thì cũng tốt. Thế nào là trung? Nội quái có ba hào: 1 là sơ, 2 là trung ,3 là mạt. Ngọai
quái cũng có ba hào: 4 là sơ, 5 là trung, 6 là mạt. Vậy trung là những
hào ở giữa nội quái và ngọai quái, tức hào 2 và hào 5, dù bản thể của
hào là dương hay âm thì cũng vậy. Thế nào là chính? Trong 6 hào, những hào số lẻ 1, 3, 5 có vị trí dương; những hào số chẵn 2, 4, 6 vị trí âm. Một hào bản thế là dương (nghĩa là một vạch liền) ở vào một vị trí dương thì là chính, ở vào một vị trí âm thì là bất chính. Một
hào bản thế là âm (nghĩa là một vạch đứt) phải ở vào một vị trí âm thì
mới gọi là chính, nếu ở vào vị trí dương thì là bất chính. Ví dụ
quẻ Thuần Càn:sáu hào đều là hào dương cả (về bản thể), hào 2 và 5 đều
là trung, nhưng hào 2 không chính, chỉ hào 5 mới được cả trung lẫn
chính, vì hào 2 là dương ở vị trí âm (hào chẵn) mà hào 5 là hào dương ở
vị trí dương (hào lẻ). Bốn hào kia thì hào 1 vả 3 đắc chính mà không đắc trung;hào 4, 6 không đắc chính cũng không đắc trung. Do
đó hào 5 quẻ Càn là hào tốt nhất trong quẻ, mà danh từ "cửu ngũ" (cửu
là dương, ngũ là thứ 5, cửu ngũ là hào thứ 5, dương) trỏ ngôi vua, ngôi
chí tôn. 6 ______ không chính cũng không trung 5 ______ vừa trung vừa chính 4 ______ không chính cũng không trung 3 ______ chính mà không trung 2 ______ trung mà không chính 1 ______ chính mà không trung Một thí dụ nữa, quẻ Thủy hỏa Kí tế: 6 ___ ___ chính mà không trung 5 ___ ___ vừa trung vừa chính 4 ___ ___ chính mà không trung 3 ___ ___ chính mà không trung 2 ___ ___ vừa trung vừa chính 1 ___ ___ chính mà không trung. Trong
64 quẻ, không có quẻ nào mà hào nào cũng tốt ít nhiều có được một đức
hoặc trung, hoặc chính, có hào (5) được cả hai, như quẻ này, cho nên
mới có nghĩa là Kí tế: đã nên việc, đã xong, đã qua sông. Quẻ này
cũng có hào "cửu ngũ" nhưng ở đây, nó không trỏ ngôi vua, vì ở trong
quẻ Càn, quẻ quí nhất (tượng trưng cho trời) đứng đầu 64 quẻ nó mới
thực có giá trị lớn. Ở quẻ Kí tế trỏ việc đời nó chỉ tương đối có giá
trị thôi. Quan niệm trung chính là quan niệm căn bản của Dịch, cho
nên Trương Kì Quân bảo: "Dịch là gì? chỉ là trung, chính mà thôi. Đạo
lý trong thiên hạ chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung,
việc không chính trở về chỗ chính" Thời - Vị trí của mỗi hào còn
cho ta biết thời của mỗi hào nữa, vì như trên chúng ta đã biết, hào 1
là sơ thời, hào 3 là mạt thời của nội quái, hão là sơ thời, hào 6 là
mạt thời của ngọai quái, cũng là mạt thời của trùng quái. Xét về phương diện tĩnh thì là vị trí chính hay không chính, xét về phương diện động thì là cập thời hay không cập thời. Lên hào 2, mới nên xuất hiện (nhưng chưa nên làm gì), như vậy là cập thời, hợp thời. Lên
hào 5, vừa trung vừa chính, tài đức đã trau giồi lâu rồi, là lúc làm
nên sự nghiệp, làm là cập thời, không làm là bỏ lỡ thời cơ. Tới hào 6, hào cuối cùng, thịnh cực rồi tất phải suy, không biết kịp thời rút lui, thì sẽ bị họa. Vì vậy quan niệm thời còn quan trọng hơn quan niệm trung chính nữa, và Tiết Tuyên nói rất đúng: "Sáu
mươi bốn quẻ chỉ là một lẻ, một chẳn (một dương một âm); mà vì ở vào
những thời khác nhau, cái "vị" (trí) không giống nhau, cho nên mới có
vô số sự biến. Cũng như con người, chỉ có động với tĩnh, mà vì "thời"
và (địa) "vị" không giống nhau, cho nên có cái đạo lý vô cùng; vì thế
mới gọi là dịch (biến dịch)" Về những quan niệm chính trung, thời , tôi sẽ xét kỹ hơn trong Chương VI. TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC HÀO Những hào ứng nhau: Xét về vị trí, mỗi hào trong nội quái ứng với một hào trong ngọai quái: Hào 1 ứng với hào 4 : hào lẻ ứng với hào chẳn. Hào 2 ứng với hào 5: hào chẳn ứng với hào lẻ. Hào 3 ứng với hào 6: hào lẻ ứng với hào chẳn. Vậy dương vị ứng với âm vị, và ngược lại (1). Đó chỉ mới là một điều kiện. Còn
phải một điều kiện nữa thì mới gọi là tốt: hai hào phải khác nhau về
bản thể, một là dương, một là âm thì mới “ có tình” với nhau, mới
“tương cầu”, tương trợ nhau như hào 1 và 4 quẻ Tụng. Nếu hai hào vị tuy
khác nhau (một chẳn một lẻ) mà thể giống nhau (cùng dương cả, hoặc cùng
âm cả) thì có khi kỵ nhau chứ không giúp nhau được gì như hào 2 và 5
quẻ Tụng. Nhưng cũng có khi ứng mà vô tình cũng tốt, như “hào 1 và 4
quẻ Phong, tương thành chứ không tương dịch (xin coi thêm Chương VI). Trong ba cặp tương ứng 1-4, 2,5,3,6 thì: - Cặp 2-5 quan trọng nhất, hai hào đều đắc trung cả mà hào 5 lại ở vào địa vị cao nhất. Nếu
hào 5 là âm (nhu), hào 2 là dương (cương) thì tốt, vì hào 5 là người
trên (vua, cha, chồng) mà nhu, biết khiêm tốn, khuất kỉ, tín nhiệm
người dưới (như Tề Hòan Công chịu nghe lời Quản Trọng); còn hào 2 là
người dưới (bề tôi, con, vợ) cương trực nhưng lễ độ, biết giúp đỡ,
khuyên răn người trên. Đó là trường hợp các quẻ 4, 7, 11, 14, 18 . . (coi phần dịch ở sau) Nếu
ngược lại hào 5 là dương (cương), hào 2 là âm (nhu) thì kém tốt, vì
người trên tự tín quá, mà người dưới nhu thuận quá, không dám khuyên
can người trên. Đó là trường hợp quẻ 39 (Thủy Sơn Kiển), quẻ 63 (Thủy hỏa kí tế). Xét chung thì như vậy, nhưng tốt hay xấu còn phải tùy ý nghĩa của tòan quẻ mà đóan: -
Cặp 1-4 không quan trọng mấy, nhưng vẫn thường được xét. Nếu hào 4 là
âm, hào 1 là dương thì ý nghĩa khá tốt: lý do cũng như trường hợp hào 5
là âm, hào 2 là dương. Ngược lại, nếu 4 là dương, 1 là âm thì kém: cả hai đều bất chính. -
Cặp 3-6 rất ít khi được xét tới. Vì lẽ hào 6 đã tới thời suy, cần phải
rút lui, không cần người dưới giúp nữa; mà ngưới – hào 3 - ở vào một
địa vị mập mờ, không chính đáng (cuối quả mà chưa lên được quẻ ngọai),
muốn giúp hào 6 thì phải qua mặt hào 5 – đương cầm quyền trong quẻ -
như vậy sợ bị tội. Trong một quẻ nào có một hào làm chủ cả quẻ
(coi phía dưới trang này) thì không xét những cặp ứng nhau theo những
qui tắc kể tr6n, mà chỉ theo ý nghĩa tòan quẻ thôi. Những hào liền nhau: Sự
tương quan giữa hai hào liền nhau không quan trọng bằng sự tương quan
giữa những hào ứng nhau, cho nên dưới đây chúng tôi chỉ xét qua thôi. Nguyên tắc là hai hào liền nhau thì một dương (xét về thể) một âm mới tốt. Có tất cả năm cặp : 1-2, 2-3,3-4,4-5,5-6. - Quan trọng nhất là cặp 4-5 vì hào 5 là vua, hào 4 là vị đại thần ở bên cạnh vua. Hào
4 mà nhu (âm), hào 5 mà cương (dương) thì thường tốt, vì cả hai hào đều
chính vị, mà vị đại thần ở bên cạnh vua cần phải tôn trọng vua; không
như hào 2 ở xa vua, chưa có chức phận gì, chỉ có tài đức, tiếng tăm
thôi, không nhất thiết phải nghe theo mọi lời của vua. - Ngược lại
nếu 4 mà cương, 5 là nhu thì thường xấu: đại thần có thể lấn quyền vua.
Tôi nói thường, vì có khi tốt, như trường hợp quẻ Lôi địa Dự ở trang
sau. Còn phải tùy theo ý nghĩa của quẻ nữa. - Cặp 5-6 cũng nên
xét. Nếu 5 là âm, 6 là dương thì thường tốt vì vua tự đặt mình dưới một
hiền nhân (hào 6), nghe lời hiền nhân thì mọi sự sẽ tôt. Ngược
lại, nếu 5 là dương, 6 là âm, thì xấu vì hào 6 không giúp gì được cho
hào 5 cả. Chúng ta thấy trong trường hợp trên, hai hào 5 và 6 đều không
chính mà ý nghĩa lại tốt; trong trường hợp dưới, hai hào đó đều chính
cả (dương ở dương vị, âm ở âm vị) mà ý nghĩa lại xấu. Một lần nữa, trong Dịch, không có qui tắc gì luôn luôn đúng, có rất nhiều lệ ngọai, phải tùy thời mà xét. -
Cặp 3-4 có một điểm giống nhau: cả hai đều ở khỏang nội quái bước qua
ngọai quái, còn hoang mang không biết nên tiến hay thóai, cho nên còn
có tên là “tế” 際 (ở giữa, ở trên bờ), là “nghi” (nghi ngờ). Còn hai cặp 1-2, 2-3 không có gì đặc biệt, nên không xét. Hào làm chủ: Có một qui tắc nữa nên nhớ: “chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn” Nghĩa là cái gì nhiều thì bỏ đi mà lấy cái ít. Theo qui tắc đó, quẻ nào nhiều dương thì lấy âm làm chủ; ngược lại thì lấy dương làm chủ. Như
trong tám quẻ đơn, không kể hai quẻ càn, khôn ba hao đều dương hoặc đều
âm, còn lại 6 quẻ kia thì ba quẻ:Chấn, Khảm, Cấn mỗi quẻ đều có 2 âm 1
dương, cho nên lấy dương làm chủ, mà coi những quẻ đó là dương; ba qủe
; tốn, đóai, mỗi quẻ đều có hai dương, một âm, cho nên lấy âm làm chủ,
mà coi những quẻ đó là âm. Chúng ta nhận thấy những quẻ dương số nét
đều lẻ, những quẻ âm số nét đều chẳn. (Một vạch đứt __ __ âm, kẻ làm
hai nét). Trong những quẻ trùng, cũng vậy. Thí dụ quẻ Lôi Địa Dự ䷏
có năm hào âm, một hào dương (hào thứ tư) thì lấy hào dương đó làm chủ
cả quẻ, hào chủ động trong quẻ, ý nghĩa tòan quẻ tùy thuộc nó cả. Hào
đó là vị cận thần có tài đức, cương cường (dương) ở bên cạnh ông vua
nhu nhược (hào ngũ là âm), hào 4 không chế được các hào âm (kẻ tiểu
nhân, kém đức) ở dưới, giúp được vua, khiến cho xa hội được vui vẻ (dự
có ngĩa là vui vẻ sung sướng). Một thí dụ nữa: quẻ Trạch thiên Quải ䷪
có năm hào dương, một hào âm thì lấy hào âm (hào 6) làm chủ, nghĩa là
khi xét ý nghĩa của tòan quẻ thì nhắm vào hào âm đó: năm hào dương là
một bầy quân tử cùng nhau cương quyết trừ khử một hào âm – kẻ tiểu nhân
-; cho nên quẻ có ý nghĩa là cương quyết (quải là cương quyết, quyết
liệt). Và gặp hào đó tì đóan là sau cùng (kẻ tiểu nhân) tất phải chết
(chung hữu hung). Tóm lại một hào tốt (hào 4 trong quẻ Lôi địa Dự)
làm chủ cả quả mà một hào xấu (hào 6 trong quẻ Trạch thiên Quải) cũng
có thể làm chủ cả quẻ. Làm chủ vì nó là số ít trong một đám số nhiều,
chứ không phải vì tốt hay xấu. Vậy thì qui tắc “chúng dĩ quả vi
chủ” trong Dịch không có nghĩa là đa số phải phục tùng thiều số, trái
với chế độ dân chủ; mà cỉ có ngĩa là khi xét ý nghĩa của quẻ thì tìm
cái nét đặc biệt của quẻ, nét độc đặc đó là một hào dương giữa năm hào
âm, hoặc một hào âm giữa năm hào dương, không cần để ý tới hào đó có
cao qúi hay không, tốt hay xấu. Nhưng ta cũng nhận thấy rằng nếu
hào đặc biệt là hào thứ năm, đã trung mà lại chính thì hầu hết là tốt;
nếu lại hợp thời nữa thì chắc chắn là tốt. Chúng ta nên để ý: qui
tắc: “chúng dĩ quả vi chủ” có nhiều lệ ngọai, như quẻ Cấu, hào 1 là hào
âm duy nhất mà không phải là hào quan trọng nhất, quyết định ý nghĩa
của quẻ. So sánh các hào: Hệ từ hạ truyện Chương 9 nói: - “Hào sơ khó biết, hào thượng dễ biết (kì sơ nan tri, kì thượng dị tri). Điều
đó dễ hiệu, hào sơ trỏ lúc mới vào cuộc, chưa có thành tích, chưa biết
sựviệc sẽ biến chuyển ra sao, cho nên khó biết được giá trị, công dụng
của nó. Còn hào thượng trỏ lúc mãn cuộc, có thành tích, tài năng gì hay
không, đã biết rồi, việc đã làm ra sao, tương lai ra sao đã rõ cả rồi. Trong khi đóan quẻ, ít khi người ta quan tâm tới tác động của hai hào ấy mà chú trọng tới bón hào trung gian hơn. - So sánh hào 2 và hào 4 cùng chương 9 bảo : “.
. .cùng công mà khác bậc, cái hay cũng khác nhau. Hào 2 được nhiều
tiếng khen, hào 4 thị bị nhiều lo sợ” (nhị dữ tứ đồng công nhi dị vị,
kỳ thiện bất đồng. Nhị đa dự, tứ đa cụ) . Hai hào đó ở vị trí ngẫu
(chẳn) giống nhau ở đó: nhưng hào 2 đắc trung, hào 4 không, lại thêm
hào 2 ở xa hào 5 (xa vua) bậc thấp và được hào 5 ứngviện, cho nên dễ
làm được việc và dễ được khen; còn hào 4 không đắc trung mà lại ở gần
hào 5 (vua ở bậc cao) nên phải lo sợ, nhất là hào ứng là hào 1, còn non
nớt qua, không giúp nó được gì, trong khi nó mới ở nội quái bước lên
ngọai quái, còn hoang mang bỡ ngỡ. - Cũng theo chương 9: -
“Hào 3 và hào 5 cùng công mà khác bậc, hào 3 nhiều cái xấu, hào 5 nhiều
công” (tam dữ ngũ đồng công nhi dị vị, tam đa hung, ngũ đa công). Hai
hào đó giống nhau ở điểm cùng ở vị trí cơ (lẻ) cả đồng công, nhưng bậc
khác nhau (hào 5 ở bậc cực cao, hào 3 ở thấp). Hào 5 đắc trung có ứng
là hào 2 mà lại ở bậc cao, cho nên làm được những việc lớn, có nhiều
công; còn hào 3 ở trên cùng nội quái, ở đầu cấp dưới, địa vị còn thấp,
trông vào người giúp mình thì chỉ có hào 6 ở trên cùng đã đến thời suy,
hết quyền hành rồi, không viện trợ được gì; lại nữa hào 3 bất đắc
trung, nếu là hào âm thì thêm bất chính, do đó mà Hệ từ cho là “đa
hung” Động và biến: Đọan này liên quan tới việc bói, chúng tôi không có ý khảo về môn bói, nên chỉ giảng qua thôi. Thời
xưa người Trung Hoa bói bằng cỏ thi. Hệ từ thượng chương 9 đã ghi sơ
lược về phép bói. Độc giả nào muốn hiểu rõ, có thể đọc những trang 189
. . 192 , cuốn Kinh dịch với Vũ Trụ quan Đông Phương của ông Nguyễn Hữu
Lương (sách đã dẫn, hoặc Chương 4 cuốn The cracle of Change củ Alfred
Dougleas. Ngày nay không ai dùng cách bói đó nữa, mà dùng cách gieo quẻ ba đồng tiền vào lòng một cái bát. Nếu một đồng sấp 9(1) thì là dương, vạch một nét dương. Nếu một đồng ngửa (2) thì là âm, vạch một nét âm. Trong hai trường hợp đó, hào đều gọi là tĩnh cả. Nếu ba đồng cùng sấp thì cũng là dương, bạn vẽ một vòng tròn O. Nếu ba đồng đều ngửa thì cũng là âm, bạn vẽ một chữ X. Nhưng trong hai trường hợp này, hào đều gọi là động cả. Lần
đầu gieo như vậy, được nét nào (dương hay âm) hay hình nào (vòng tròn
hay chữ X), bạn vạch nét đó hay vẽ hình đó ở dưới thấp nhất, thể là
được hào 1. Gieo lần thứ nhì, cũng như trên, rồi tùy kết quả, cũng vạch nét hay vẽ hình lên trên hào 1, thế là được hào 2. Làm như vậy 6 lần, được sáu hào, cứ lần sau đặt lên trên lần trước, lần thứ 6 ở trên cùng. Ví
dụ gieo lần đầu, bạn được một hào âm tĩnh (một đồng ngửa) lần thứ nhì
được một hào dương tĩnh (một đồng sấp) lần thứ ba được một hào âm tĩnh,
lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu đều được những hào dương tĩnh, thì khi
vạch xong các nét, bạn được quẻ Thiên Thủy Tụng dưới đây: ䷅ Quẻ đó là một quẻ tĩnh,vì không có hào nào động cả. Nếu lần gieo thứ năm, bạn được ba đồng sấp, tức hào dương động thì bạn vạch như sau: Cũng
vẫn là quẻ Thiên thủy Tụng nhưng có hào 5 động quẻ Tụng này động. Động
thì biến. Dương động thì biến thành âm, ngược lại nếu âm động thì biến
thành dương. Đây là dương động, vậy hào 5 biến thành âm, và bạn được quẻ biến như sau: ䷿ Quẻ đó là quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Như vậy là quẻ Thiên Thủy Tụng biến ra quẻ Hỏa Thủy vị Tế. Nếu gieo lần thứ nhứt, bạn đựơc ba đồng ngửa, tức hào âm động thì bạn vạch như sau: ䷌ (Hình này hai nét, nên gọi là âm) Cũngvẫn là quẻ Thiên Thủy Tụng, nhưng có hào 1 động. Hào 1 là âm, động thì biến thành dương, thành quẻ biến như sau: ䷉ Qủe đó là quẻ Thiên Trạch Lí. Như vậy là quẻ Thiên Thủy Tụng biến ra quẻ Thiên Trạch Lí. Khi bói người ta xét cả hai quẻ chưa biến và biến rồi để biết sự việc lúc mới đầu ra sao, khi biến sẽ ra sao. Tóm
lại, độc giả chỉ cần nhớ: hể ba đồng tiền cùng ngửa hết hay cùng sấp
hết thì gọi là động. Đông thì dương biến thành âm, âm biến thành dương,
mà một quẻ thành hai quẻ. Có trường hợp hai, ba hào cùng biến trong một
quẻ, phải đổi hết hai ba hào đó một lượt và cũng chỉ được một quẻ biến
thôi. Nếu không có lần nào động thì quẻ hòan tòan tĩnh và không biến
thành quẻ khác. PHÉP ĐÓAN QUẺ Từ xưa tới nay có
nhiều phép đóan quẻ. Tôi không biết rõ phép đóan thời Tiên Tần ra sao.
Có thể C.G Jung theo phép đó. Phần trước tôi đã nói khi dự định in bản
dịch Kinh Dịch ra tiếng Anh, ông bói 2 quẻ mà quẻ thứ nhì ông hỏi về
việc có nên đề tựa cho bản dịch đó không. Ông được quẻ Khảm động hào 3,
biến ra quẻ tỉnh. Khảm có nghĩa là hiểm, xấu, nhưng biến ra Tỉnh thì
theo Thóan từ (coi pầhn dịch 64 quẻ ở sau) lại có nghĩa tốt. Ông đóan
rằng quẻ muốn bảo Kinh Dịch như cái giếng nước trong mà không ai múc.
Nếu được dùng thì sẽ giúp ích cho mọi người được nhờ. Vậy là công việc
Jung định làm sẽ có ích. Còn cái ý hiểm trong quẻ Khảm thì không liên
quan gì đến việc viết tựa, có thể bỏ. Nhưng Jung cơ hồ không theo
sát ý nghĩa hào 3 khi chưa biến và khi đã biến, chỉ dùng cái ý hào 3
quẻ Tỉnh rồi kết hợp với ý hào 1 cũng quẻ đó là cái giếng cũ, bùn lầy,
không ai dùng nữa (coi phần Dịch 64 quẻ) và đóan rằng nên viết lời Giới
thiệu vì Kinh Dịch “như một cái giếng cổ, bùn lầy lấp cả rồi, nhưng có
thể sửa sang mà dùng lại được”. đòan như vậy không thật đúng phép (vì
hào 1 Tỉnh, đáng lẽ không được dùng để đóan) nhưng có thể tạm chấp nhận
được vì vẫn là dùng lời trong quẻ Tỉnh, không lạc đề hẳn. Đại khái
cách đóan của cổ nhân như vậy, cách đóan ngày nay khác hẳn, rắc rối hơn
nhiều, không thể trình bày dù là sơ lược trong năm mười trang được, cho
nên tôi chỉ nêu vài qui tắc dưới đây thôi. Tùy từng quẻ người ta
cho mỗi hào một ý nghĩa: hoặc là mình (thế: tức người xin quẻ), người
kia (Ứng: tức kẻ làm ăn với mình hay muốn xin mình, giúp mình, hại mình
. . .) ; hoặc là ý nghĩa cha mẹ, anh em, con cái, quan chức, tiền của,
bệnh tật . . . - Lại cũng tùy từng quẻ người ta cho mỗi hào thuộc
vào một hành nào trong ngũ hành (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ), ngày tháng xin
quẻ cũng vậy; - Rồi cứ theo luật ngũ hành tương sinh tương khắc
(mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh
mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khác hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc
mộc, xem hào nào sinh hay khắc hào nào, hào nào tốt, hào nào xấu. Điều
mình xin có được như ý không, bao giờ việc sẽ xảy ra . . Đôi khi
người ta cũng dùng ý nghĩa của quẻ (như được quẻ Thái, quẻ Tấn thì cho
là tốt, quẻ Bĩ, quẻ Kiển thì cho là xấu), nhưng đó chỉ là phụ; không
khi nào người ta dùng ý nghĩa của hào (hào từ) mà rất chú trọng đến
luật ngũ hành tương sinh, tương khắc kể trên. Vậy Kinh Dịch ngày nay đã mất tính cách sách bói, mà mang tính cách thuần triết, mặc dầu 64 quẻ vẫn được dùng để bói.
MÔN ĐÓAN SỐ BẰNG 64 QUẺ DỊCH Hơn
nữa từ đời Tống, Trần Đòan đã tìm được cách dùng 64 quẻ để đóan số mạng
con người, lập ra môn Bát tự Hà Lạc. Hà là Hà đồ, Lạc là Lạc thự; còn
bát tự là bốn chữ can của năm, tháng, ngày, giờ sinh của mỗi người, với
bốn chữ chi cũng của năm, tháng, ngày giờ, đó. Ông chuyển bát tự 8 chữ
đó ra con số Hà Lạc, rồi lại chuyển số Hà Lạc ra quẻ Dịch; sau cùng chỉ
cho ta cách coi những quẻ Dịch đó mà đóan vận mạng của ta, thời nào,
năm nào, tốt hay xấu, nếu xấu thì nên có thái độ ra sao, hành động ra
sao . . (Coi cuốn Bát tự Hà Lạc của Học Năng –cơ sở xuất bản Phạm Quang
Khai – Sài Gòn 1974). Lạ lùng nhất là cách đóan số đó cũng có
nhiều khi đúng, không kém số tử vi cũng của Trần Đòan tìm ra. Thi sĩ
Tản Đà về già tin nó lắm.
CÁCH GIẢI THÍCH TÊN QUẺ Tám
quẻ nguyên thủy: Càn, Khôn, Ly, Khảm, Cấn, Đóai, Chấn, Tốn đã có tên từ
trước Văn Vương, đức và biểu tượng của mỗi quẻ đã được truyền lại từ
lâu, nên Thóan truyện không cần phải giải thích tên quẻ. Còn các quẻ
khác, Thóan truyện đều giải thích tên. Cách giải thích bất nhất, không
theo nguyên tắc nào cả. Theo Lí Kính Trì trong Dịch truyện thám nguyên
(Nghiêm Linh Phong dẫn trong Dịch học tân luận) thì có ba phương pháp
dưới đây: 1. Lấy thứ vị của một hào mà giải thích, như: - Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc ䷈
, Thóan truyện giảng là “nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi, viết tiểu
súc, nghĩa là cả quẻ chỉ có một hào âm (nhu), hào đó ở vị trí âm (chính
vị), lại ở ngọai quái, có địa vị cao, ngăn cản cả năm hào dương, bắt
phải nghe theo mình, do đó đặt tên quẻ là Tiểu súc (nhỏ: âm mà ngăn
được lớn: dương: súc đây có nghĩa là ngăn). Tên quẻ Thiên Trạch Lí, quẻ Thiên HỎa Đồng Nhân cũng được giải thích theo cách đó. 2. Lấy “tượng mà giải thích như: - Quẻ Sơn Thủy Mông ䷅
trên là núi, dưới là nước, mà nước có ý nghĩa là hiểm, cho nên giải
thích là : “Sơn hạ hữu hiểm, hiểm nhi chi, mông” . Dưới núi có vũng
nước hiểm tối tăm, ngừng lại không bước xuống, do đó có tên là “mông”
(mù mờ). Hai quẻ Thiên Thủy Tụng, Địa hỏa Minh di cũng dùng tượng để giải thích. 3. Giải thích nghĩa của tên quẻ, như: - Quẻ sư, Thóan Truyện giải thích: “Sư, chúng dã”: Sư là đông người (một đạo quân) - Quẻ Hàm, Thóan truyện giải thích: “Hàm, cảm dã”:Hàm (hợp nhau) nghĩa là cảm nhau. 4.
Chúng tôi còn thấy một cách đặc biệt nữa là coi hình của tòan quẻ giống
vật gì thì lấy vật đó mà đặt tên cho quẻ rôi giải thích quẻ. Như quẻ Hỏa Phong Đỉnh ䷱
vạch đứt ở dưới cùng như cái chân vạc, ba vạch liền ở trên như cái thân
vạc trong chứa thức ăn, vạch đứt ở trên nữa như hai tai vạc, vạch liền
ở trên cùng là cái đòn để khiêng vạc, vì vậy gọi là quẻ Đỉnh (Vạc) và
cả 6 hào đều giải nghĩa theo cái vạc. Quẻ Thủy Phong Tỉnh ䷯
cũng hơi giống cái giếng, hào 1 mạch nước, hào 2,3 là lớp đất ở đáy
giếng, hào 4 là lòng giếng, hào 5 là nắp giếng, hào 6 là miệng giếng,
vì vậy gọi là quẻ Tỉnh (Giếng). Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp ䷔
gợi cho ta hình cái miệng hả rộng ra, với một cái que cản ngang miệng:
hào 1, 6 là hàm dưới và hàm trên, hão là cái que, còn các hào kia là
những vạch đứt, như miệng há ra. Hai hàm răng cắn cái que (vật ngăn
cách) cho nó gẩy đi để hợp với nhau được, ngậm miệng lại được, do đó mà
đặt tên quẻ là phệ Hạp (cắn để hợp lại) . Rõ ràng nhất là quẻ Sơn Lôi Di ䷚ y như cái miệng mở rộng để nuốt thức ăn (hai nét liền ở trên và dưới là hai hàm răng) cho nên đặt tên là quẻ Di: nuôi nấng. Trường hợp này tựa như trường hợp 3 chỉ khác việc đặt tên quẻ thôi.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:52pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 5
ĐẠO TRỜI
Chu Dịch vốn là sách bói. Nếu chỉ xét phần Kinh – Thóan Từ (tức quái
từ) và Hào Từ thì không thấy có tư tưởng gì quan trọng về đạo lý cả.
Phần đó là tác phẩm cuối đời Ân, đầu đời Chu. Phải
đợi sáu, bảy trăm năm sau từ cuối đời Xuân Thu trở đi suốt thời Chiến
quốc, mới có những triết gia, học giả lần lượt viết nên phần Truyện để
giải thích phần Kinh và qua đời Hán thì phần Truyện mới có hình thức
như ngày nay. Những tác giả phần Truyện có đem tư tưởng của Nho, Lão
gài, “cột" vào phần Kinh, làm cho Chu Dịch thành một tác phẩm triết lý
có đủ vũ trụ quan, nhân sinh quan và có thể coi là một tổng hợp các tư
tưởng phổ biến của Trung Hoa thời Tiên Tần. Trong chương này chúng
tôi xét về vũ trụ quan, để nhân sinh quan lại chương sau. Chúng tôi sẽ
căn cứ vào Hệ Từ Truyện, Thóan truyện, Tượng Truyện, Văn Ngôn Truyện,
bốn truyện mà chúng tôi cho là quan trọng nhất.
NGUỒN GỐC VŨ TRỤ: TỪ NHỊ NGUYÊN TIẾN TỚI NHẤT NGUYÊN.
Chu
dịch hòan tòan xây dựng trên quan niệm âm dương, sáu mươi bốn quẻ chỉ
do hai vạch âm và dương (đứt và liền) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau
mà thành. Quan niệm âm dương là quan niệm đặc biệt của dân tộc
Trung Hoa. Nó rất quan trọng, làm căn bản cho Triết học., khoa học
Trung Hoa, có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống dân tộc Trung Hoa trong
mấy ngàn năm nay. Chúng ta không biết nó xuất hiện từ thời nào, trễ lắm là đời Ân, vì nó phải có từ trước khi có hình bát quái. Theo một số nhà ngữ nguyên học Trung Hoa thì mới đầu hai chữ dương, âm có hình thức như :
Chữ
dương (ngày nay: ) gồm hai phần: bên trái là sườn núi hoặc bức tường;
bên trái là mặt trời [ ] lên khỏi chân trời, dưới là những tia sáng mặt
trời chiếu xuống. do đó, dương trỏ phía có ánh sáng, phía sáng. Chữ âm
(ngày nay : ) , bên trái cũng là sườn núi, bên phải, trên có nóc nhà [
] , dưới có đám mây. Do đó, âm trỏ phía mặt trời bị che khuất, không có
ánh nắng, phía tối. Phía có ánh nắng thì ấm áp, cây cối tươi tốt,
phía không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây cối không phát triển, do đó âm
dương từ cái nghĩa tối sáng chuyển qua nghĩa lạnh nóng, đêm ngày, mùa
đông mùa hè, mặt trăng, mặt trời, chết , sống, yếu, mạnh, cứng, giống
cái, giống đực, suy, thịnh , xấu, tốt, hư, thực, tiểu nhân, quân tử,
đóng mở, đục trong . . . Sau khi có Dịch Kinh và trước khi có Dịch Truyện, âm dương đó chỉ hai cái khí trong vũ trụ rồi Sách Quốc Ngữ chép: “ Bá dương Phủ nói rằng: . . . Khí dương nén không thóat ra được, khí âm bị nén không bốc ra được, thế là sinh ra động đất. Bá
Dương Phủ đời Tây Chủ giải thích vụ động đất xảy ra năm thứ ba đời Chu
Vương ( 779) như vậy và cho âm dương là hai cái “khí” hai động lực
thiên nhiên. Trước Bá Dương Phủ, có thể là từ đầu thời Tây Chu,
khi Văn Vương rồi Chu Công viết Thóan Từ và Hào từ, người Trung Hoa đã
cho âm dương là hai nguyên lý của vũ trụ. Chúng ta đã biết hai nét âm
dương (lưỡng nghi) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau mà thành tứ tượng
, rồi thành bát quái. Có thể Văn Vương hoặc Chu Công đã cho bát quái ý
nghĩa: Càn: trời, Khôn: đất, Đóai: chằm, Cấn: múi, Tốn: gió, Chấn: sấm
sét, ly: lửa, Khảm: nước, nghĩa là đã dùng hai nét âm dương để tượng
trưng, để diễn hai cái lớn nhất trong vũ trụ: trời đất, hai cái khiến
người ta chú ý nhất ở trên đất : núi, chằm; hai cái khiến người ta chú
ý nhất ở trên trời: gió, sấm sét, và hai cái cần thiết nhất cho đời
sống là nước, lửa; tám cái mà người thời đó cho là tám yếu tố, hiện
tượng căn bản trong vũ trụ. Điều chắc chắn là sách Tả Truyện và
Quốc Ngữ chép rằng thời Xuân Thu đã có nhiều người chấp nhận ý nghĩa đó
của bát quái rồi (Phùng Hữu Lan đẫn trong Trung Quốc triết học sử
chương 15 – Tiết 2): và tới thời Chiến Quốc, trước hoặc sau Mạnh tử,
tác giả Thóan Truyện đã cho Càn và Khôn, tức dương và âm là nguồn gốc
của vũ trụ: “Lớn thay đức đầu tiên của Càn, muôn vật nhờ đó mà bắt
đầu, đức đầu tiên của Càn thống ngự phần trời. Mây đi mưa tới, sắp đặt
các vật, lưu chuyển các hình” (Đại tai Can nguyên, vạn vật tư thủy, nãi
thông thiên. Vận hành vũ thí phẩm vật lưu hình) “Rất mực thay, đức đầu
tiên của Khôn, muôn vật nhờ đó mà sinh; đức đầu tiên của Không thuận
theo trời. Sức dày của Khôn chở được mọi vật, đức của Không đúng là
không giới hạn. Nó bao dung, rộng rãi, sáng láng, lớn lao. Các phẩm vật
đều nhờ nó mà hanh thông” ( Chi tai Không nguyên, vạn vật tư sinh, nãi
thuận thừa thiên. Khôn hậu tải vật, đức hợp vô cương. Hàm hoằng quang
đại, phẩm vật hàm hanh) . Xét hai đọan đó thì tác giả Thóan Truyện
cho Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí, nhưng phải nhờ Khôn,
vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Không cũng lớn
như công của Càn, chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc
cho Càn. Chúng ta thấy quan niệm đó giống với quan niệm của Lão tử trong Đạo Đức Kinh, Chương 51: “Đạo
sinh ra vạn vật, đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục (…)
che chở mỗi vật” (Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, đình
chi (…) phúc chi” Tác giả Thóan Truyện đã chịu ảnh hưởng của Lão
tử chăng?. Mà Càn của Dịch tức là Đạo của Đạo đức kinh, Khôn của Dịch
tức là Đức của Đạo Đức Kinh chăng? Không hẳn vậy, vì theo Lão tử
thì những biểu hiện của Đức đều tùy theo Đạo (Khổng Đức chi dung, duy
đạo thị tòng – Chương 21 – Đạo đức kinh), nghĩa là Đức là một phần của
Đạo: khi chưa hiển hiện trong mọi vật thì là Đạo, khi đã hiện rồi thì
phần hiển hiện đó trong mỗi vật là đức. Mỗi vật đều có Đức mà Đức của
bất kỳ vật nào cũng từ Đạo mà ra, cho nên nó nuôi lớn mỗi vật mà tùy
theo Đạo. Âm đối với dương thì khác hẳn: hai cái độc lập, trái
ngược nhau mặc dầu vẫn bổ túc nhau; mà Càn với Khôn cũng độc lập, không
thể nói Khôn là một phần của Càn, như Đức là một phần của Đạo được. Hệ
từ hạ truyện, chương 6 nói rõ như vậy: “Càn đại biểu những vật
thuộc về dương, Khôn đại biểu những vật thuộc về âm. Đức của âm dương
hợp với nhau mà hào cương và hào như mới có thực thể” . . (Càn dương
vật dã, Khôn âm vật dã, âm dương hợp đức như cương nhu hữu thể). Hệ
từ thượng truyện – Ch.1 cũng có nói: “Can làm chủ, tác động ,lúc mới
đầu, Khôn làm ngưng kết và thành vật. (Càn trí thái thủy, Khôn tác
thành vật – Chữ Tri ở đây nghĩa là làm chủ). Hệ từ Hạ truyện Ch. 6 lại bảo: “Càn và Khôn là cửa của Dịch, tức sự biến hóa chăng ? (Càn, Khôn Kỳ Dịch chi môn dả?) Càn và Khôn trong những câu đó đều có nghĩa là dương và âm. Lấy
Càn và Khôn, tức Dương và Âm làm bản căn của vũ trụ vạn vật, tác giả
Thóan Truyện và Hệ từ truyện chủ trương một vũ trụ nhị nguyên chăng? Nhưng
Hệ từ thượng truyện Chương 11, đưa thêm một quan điểm mới mẻ mà trong
phần Kinh cũng như trong Thóan Truyện, Tượng Truyện không có, tức quan
niệm Thái Cực: “ Dịch có Thái Cực, sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sinh ra tứ tượng, Tứ tượng sinh ra Bát Quái” (dịch Hữu Thái Cực, thị
sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái). Chữ
Dịch ở đây có nghĩa là lịch trình biến hóa trong vũ trụ. Lịch trình đó
có khởi điểm là Thái Cực. Từ Thái Cực mới sinh ra Lưỡng Nghi (Âm
Dương), rồi Tứ Tượng, rồi Bát Quái, tám yếu tố, hiện tượng căn bản
trong vũ trụ, như trên đã nói. Vậy thì nguồn gốc vũ trụ là Thái
Cực chứ không phải âm dương. Suốt dịch Truyện chúng ta chỉ gặp chữ Thái
Cực mỗi một lần đó, Dịch Học phái không cho biết gì thêm. Thái cực có
nghĩa là lớn hơn hết, cao hơn hết, hoặc trước hết cả. Và đa số các học
giả đời sau cho nó là cái khí tiên thiên, một thứ linh căn bất sinh bất
diệt, huyền diệu trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính
chất, Âm và Dương. Quan niệm đó thật tiến bộ so với quan niệm Thượng Để
làm chủ vũ trụ của các đời trước. Âm Dương được thống nhất thành
Thái Cực rồi, vũ trụ luận của Dịch mới thành nhất nguyên, và Dịch học
phải xích gần lại Lão tử thêm nữa: Thái cực torng hệ Từ truyện có thể
so sánh với Đạo trong đạo Đức kinh. Thái Cực cũng như Đạo, là
nguồn gốc của vạn vật. Nó sinh ra Lưỡng Nghi rồi Tứ Tượng, Bát quái tức
vũ trụ; thì “đạo cũng sinh ra một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh
vạn vật” (chương 42 – Đạo Đức Kinh); chỉ khác nhau ở chỗ: Thái cực sinh
ra hai (âm dương) ngay, còn Đạo sinh ra một rồi mới sinh ra hai (cũng
là âm, dương) Cái một đó là gì? Không ai biết rõ. Có người đóan
rằng một đó là có, mà Đạo của Lão tử là không. Nếu đúng vậy thì Lão tử
chủ trường từ không sinh ra có rồi tứ có mới sinh ra âm dương, sau cùng
là vạn vật; còn Dịch học phái không chấp nhận cái không mà bắt đầu ngay
từ có, từ Thái cực. Mãi khỏang 1.300 năm sau, Chu Đôn Di đời Tống,
sửa lại quan niệm của Dịch học phái, cho rằng trước Thái cực còn có Vô
Cực, nghĩa là khởi thủy không có gì cả, rồi mới có Thái Cực, có âm
dương, tứ tượng bát quái (coi Vô Cực Đồ dưới đây) Cho Thái Cực bắt
nguồn từ Vô Cực, tức Lão cho hữu bắt nguồn từ vô. Thế là đời Tống, đạo
Nho đã hoàn tòan chấp nhận vũ trụ luận của đạo Lão. Tới đây ta có thể kết luận: Quan
niệm âm dương đã có từ trước khi có Kinh Dịch: và quan niệm Trời Đất là
cha mẹ của vạn vật là một quan niệm phổ biến của lòai người thời Thượng
cổ trước khi có quan niệm âm dương – vì lòai người nhận thấy rằng nhờ
có đất mới có cây cỏ, muông thú, lòai người mới có thức ăn; nhờ có trời
mới có lửa, ánh sáng, mây mưa, vạn vật mới sinh trưởng được. Dịch
học phái mới đầu chỉ có sáng kiến phối hợp hai quan niệm đó (âm dương
phối hợp với Càn, Khôn – Trời Đất); rồi sau phối hợp thêm với quan niệm
Đạo của Lão tử mà lập nên một thuyết về vũ trụ, rất giống với thuyết
của Lão, nhưng thực tế hơn, chú trọng đến xã hội hơn vì nhấn mạnh về âm
dương, về giống đực giống cái, trai gái, về sự sinh sinh hóa hóa hơn. Từ Xuân Thu trở về trước, còn là quan niệm nhị nguyên: lưỡng nghi (âm dương) , tứ tượng, bát quái (hai hình trên cùng). Qua
chiến Quốc hoặc Hán thêm Thái Cực (hình thứ ba) thành nhất nguyên. Thái
Cực gồm âm và dương, cho nên có người gọi là nhất nguyên lưỡng cực (một
gốc, một nguyên lý mà hai cái đối lập : âm dương) Tới đời Tống,
thêm vô cực nữa (hình cuối cùng) thành vô cực đồ. Như vậy , khởi thủy
là vô cực rồi mới có Thái Cực, có Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái: hòan
tòan thành nhất nguyên. Đạo âm dương. Hệ từ Truyện có nhiều chỗ nhắc đến đạo âm dương. Hệ Từ Thượng Chương I: “Có càn (dương) nên thành giống đực, có Khôn (âm) nên thành giống cái” Hệ từ hạ Chương 6: “
Đức (tín cách) của âm dương hợp với nhau: mà hào cương và nhu mới có
thực thể, nhân đó mà suy trắc được công việc của Trời Đất và thông cảm
được đức của thần minh. Nhất là Chương 5 cũng trong Hệ Từ hạ: “Giống đực giống cái kết hợp tinh khí mà vạn vật sinh nở, biến hóa” (Nam nữ cấu tính, vạn vật hóa sinh) Chẳng
riêng lòai người mà vạn vật, ngay trời đất cũng vậy, vì trời đất là cha
mẹ của muôn lòai cũng chỉ là âm dương, tất phải giao cảm với nhau rồi
mới có muôn lòai được (thiên địa nhân luân, vạn vật hóa thuần) Câu này nữa trong Hệ từ Thượng Chương 11. “Đóng cửa gọi là Không (khí âm), mở cửa gọi là Càn (khí dương)”. (Hạp hộ vị chi Không, tích Hộ vị chi Càn). Tòan là căn cứ vào hoặt động sinh thực của nam nữ, của giống đực giống cái mà giảng về nguồn gốc vũ trụ, vạn vật. Trong Thóan Truyện ta cũng thấy nói tới sự giao hợp giữa trời và đất: Như quẻ Thái: “Trời đất có giao nhau rồi vạn vật mới thông” (Thiên địa giao nhi vạn vật tông dã). Quẻ Hàm: “Trời đất cảm nhau mà vạn vật mới hóa sinh” (Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sinh). Quẻ Cấn: “Trời đất hội nhau thì vạn vật mới sinh trưởng, phát đạt rõ ràng: (Thiên địa tương ngộ, phẩm vật hàm chương dã). Quẻ Qui Muội: “Trời đất không hội nhau thì vạn vật không hưng thịnh lên được” (Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng). Rõ
ràng là Dịch coi đạo âm dương, đạo nam nữ là quan trọng nhất: Vì có nam
nữ rồi mới thành vợ chồng, có cha con, vua tôi, có lễ nghĩa. Nam nữ là
gốc của gia đình, xã hội, gốc của đạo lý, mà đạo nam nữ cũng lớn như
đạo Càn Khôn: cho nên đầu Kinh Thượng là hai quẻ Càn, Khôn mà đầu Kinh
Hạ là hai quẻ Hàm, Hằng (Nam nữ cảm nhau rồi thành vợ chồng). Chương V Hệ từ Thượng truyện bảo: “Một
âm, một dương gọi là Đạo: Cái đạo ấy khi phát ra thì tốt lành; khi nó
cụ thể hóa ở người thì gọi là tính” (Nhất âm nhất dương chi vị đạo; kế
chi giả thiện đã thành chi giả, tính dã) Câu “Nhất âm nhất dương ci vịđạp” có thể hiểu rất nhiều cách, chẳng hạn: - Có âm và có dương là đạo. - Một thời âm, một thời dương, thế là đạo. - Một mặt âm, một mặt dương, thế là đạo. - Cái khiến cho khi thì âm xuất hiện, khi thì dương xuất hiện, cái đó gọi là đạo. Hoặc: - Âm dương phối hợp rồi sau mới có đạo. Chúng
tôi thấy câu đầu tiên trong Chương V Hệ từ thượng có cái giọng trong
Mạnh Tử, Trung Dung và nghĩ rằng nếu có hiểu như sau thì cũng có thể
được: “Âm Dương (nam nữ) đủ đôi thì là đạo, đạo đó phát ra một
cách tự nhiên thì tốt lành, thực hành nó là hợp với tính của con
người.” Dù sao tôi cũng phải nhận đề cao đạo âm dương, nam nữ như
vậy, Dịch học phái đã chịu ảnh hưởng của đạo Nho, vì trong lúc các
triết thuyết thời Tiên Tần, chỉ có Nho là nhấn mạnh vào nhân luân, xã
hội hơn cả. Như vậy, vũ trụ quan trọng Dịch gồm một ít tư tưởng của dân tộc Trung Hoa thời trứơc với một số tư tưởng của Lão và Khổng.
DỊCH LÀ GIAO DỊCH Trong âm có dương, trong dương có âm. Âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy. Quan
niệm âm dương là một quan niệm đặc biệt của Trung Hoa, không thấy trong
tư tưởng các dân tộc khác. Quan niệm positif négatif của Âu chỉ là một
phần nhỏ của quan niệm âm dương thôi. Vì âm dương bao trùm cả
không gian (như phía bắc, phía nam) thời gian (như đêm ngày), thời tiết
(như đông, hè, nắng, mưa), không vật gì hữu hình hay vô hình trong vũ
trụ mà không có âm dương: giống đực giống cái, rỗng , đặc, thịnh suy,
thăng giáng, thu tán, thiện ác, tốt xấu, quân tử, tiểu nhân . . đều là
âm dương cả. Âm dương không phải chỉ là hai cái khí, hay hai
nguyên (không rỏ) không phải là những năng lực, những khía cạnh, những
tính . . .mà là tất cả những cái đó; cho nên không thể dịch từ ngữ âm
dương được, và người Âu đành phải phiên âm là Yin và Yang. Kinh
Dịch tượng trưng âm dương bằng hai vạch liền (dương)____ và đứt (âm)__
__ Liền thì gọi là thực (đặc), đứt gọi là hư (rỗng). Từ khi có
quan niệm Thái cực, người Trung Hoa tượng trưng âm dương bằng hình đen
và hình trắng vì mới đầu, âm có nghĩa là phía không có ánh mặt trời, ở
trong bóng tối, dương có nghĩa là phía có ánh mặt trời, sáng sủa. Chúng
ta nhận thấy vòng tròn Thái cực gồm hai hình âm dương đó, và hai hình
này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau, mà lại ôm lấy nhau, xoắn lấy
nhau. Lại thêm chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, chỗ hình
trắng phồng ra có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng
thót lại, ngược lại chỗ hình trắng phồng ra là chỗ hình đen thót lại.
Như vậy để diễn cái ý – âm thịnh lần thì dương suy lần, ngược lại dương
thịnh lần thì âm cũng suy lần; và khi âm cực thịnh đã có một mầm dương
(điểm trắng) xuất hiện rồi, khi dương cực thịnh đã có một mầm đen (điểm
đen) xuất hiện rồi. Vậy chẳng những âm dương xoắn lấy nhau mà trong âm còn có dương, trong dương còn có âm nữa. Cuối
chương V Hệ Từ Truyện thượng, có một câu tối nghĩa: “âm dương bất trắc
chi vị thần” (Âm dương không lường được như vậy gọi là thần). Tối nghĩa
vì thế nào là âm dương không lường được? Đa số học giả cho rằng âm
dương biến hóa, ở trong âm mà vẫn có dương, ở trong dương mà vẫn có âm,
“âm dương không nhất định về phương hướng nào” (Phan Bội Châu), cũng
như trong phúc có họa, trong họa có phúc, không sao đóan trước được.
Cách giảng đó dễ chấp nhận hơn cả. Lẽ trong âm có dương, trong dương có âm đó, chúng ta thấy trong quẻ Phục ䷗ và quẻ Cấu ䷫
. Điểm trắng trong nửa âm trên Thái Cực đồ tức là vạch liền trong quẻ
Phục; điểm đen trong nửa dương trên Thái Cực đồ tức là vạch đứt trong
quẻ Cấu. Dịch cho quẻ Thuần Khôn là tháng mười, lạnh lẽo, thuần
âm: gồm sáu hào âm. Âm tới tháng đó là thịnh cực; dương bắt đầu sinh,
mỗi ngày lớn lần lần lên, hết ba mươi ngày, hết tháng 10, thì thành quẻ
phục tháng 11 (coi trang sau): có một hào dương thay hào 1 âm trong quẻ
Khôn. Hào dương lúc đó (đầu tháng 11) mới xuất hiện, nhưng đã phôi thai
trong tháng 10, có bao giờ không có dương đâu. Cái thai của dương đó là
cái điểm trắng trên nửa đen trong hình Thái cực. Cứ như vậy dương
tăng lần, mỗi tháng lại bớt đi một hào âm, tăng thêm một hào dương khi
đủ 6 hào dương không còn hào âm nào thì thành quẻ Càn (Tháng Tư). Lúc
này dương cực thịnh, mà âm lại bắt đầu sinh, cũng mỗi ngày một chút,
hết 30 ngày, hết tháng 4, thì thành quẻ Cấu (tháng 5): có một hào âm
thay 1 hào dương trong quẻ Càn. Hào âm đó lúc đó mới xuất hiện nhưng
trong tháng 4 có ngày nào không có âm đâu, nó chưa xuất hiện nên ta
không thấy đấy thôi. Cái thai của âm đó là cái điểm đen trên nửa trắng
trong hình thái Cực. Rồi cứ tiếp tục như vậy, âm tăng hòai, mỗi
tháng thêm một hào âm, bớt đi một hào dương, khi có đủ 6 hào âm (không
còn hào dương nào nữa) thì thành quẻ Khôn, trở về tháng 10, hết vòng
một năm .
Thành rồi hủy - Quẻ 12 tháng
Luật
trong dương có âm, trong âm có dương có nghĩa là hiện tượng nào cũng
chứa sẵn mầm tự hủy của nó. Trong sự thịnh có mầm của sự suy, trong sự
trị có mầm của sự loạn, trong sự sống có mầm của sự chết. Cho nên có
người bảo một đứa trẻ sinh ra là bắt đầu tiến tới sự chết, mà chết là
bắt đầu sống lại một cuộc sống khác, là tái sinh dưới hình thức này hay
hình thức khác. Không thể có dương mà không có âm, có sống mà không có
chết, có thịnh mà không có suy, có trị mà không có loạn. Phải có đủ cả
hai thì mới thành một hiện tượng được, mới thành vũ trụ được, cũng như
bất kỳ vật nào cũng có mặt phải và mặt trái, xã hội nào cũng có thiện
và ác. Mọi sự biến trong vũ trụ chỉ là một tiến trình thành rồi
hủy, hủy rồi thành. Dịch đã cho ta thấy rõ sự tiến trình đó trong những
quẻ 12 tháng : Tháng tư : Quẻ Càn ䷀ Tháng Năm : quẻ Cấu ䷫ Tháng sáu : Quẻ Độn ䷠ Tháng bảy : Quẻ Bí ䷋ Tháng Tám : Quẻ Quán ䷓ Tháng Chín : Quẻ Bác ䷖ Tháng mười : Quẻ Khôn ䷁ Tháng mười một: Quẻ Phục ䷗ Tháng mười hai : Quẻ Lâm ䷒ Tháng giêng : Quẻ Thái : ䷊ Tháng hai : Quẻ Đại Tráng ䷡ Tháng ba : Quẻ Quải ䷪ Càn
là lúc đã thành rồi, có 6 hào dương. Rồi bắt đầu hủy, quẻ Cấu: một hào
âm đẩy một hào dương đi, còn năm hào dương, như vậy là hủy mất một phần
sáu. Qua quẻ Độn, hủy thêm một phần sáu nữa, còn bốn hào dương, cứ tiếp
tục như vậy mỗi tháng hủy thêm một phần sáu nữa, tới tháng mười thì sáu
hào dương bị hủy hết mà thành sáu hào âm, quẻ Khôn. Nhưng tháng
mười một, quẻ Phục, lại bắt đầu dựng lại: Một hào dương đẩy một hào âm
đi, tháng chạp thêm một hào dương nữa là hai, cứ mỗi tháng thêm một hào
dương và tới tháng tư thì hoàn thành: 6 hào dương, quẻ Càn. Có lẻ theo
người xưa tháng tư là có tiết lập hạ là tháng nóng nhất trong năm nên
cả 6 hào đều là dương, tháng 10 có tiết lập đông là tháng lạnh nhất, 6
hào đều là âm. Như vậy sự thành của dương là sự hủy của âm và ngược lại, sự thành của âm là sự hủy của dương.
ÂM DƯƠNG TƯƠNG GIAO, TƯƠNG THÀNH
Âm
dương tuy tương phản, trái ngược nhau đấy, nhưng không tương khắc như
nước với lửa, mà tương giao, tương thôi, tương thế - gặp nhau, xô đẩy
nhau, thay thế nhau - như ánh sáng và bóng tôi, như nóng và lạnh. Hệ Từ
Hạ, Chương 5 bảo ((Tỉ như) mặt trời qua thì mặt trăng lại, mặt trăng
qua thì mặt trời lại, mặt trời mặt trăng cảm ứng nhau mà ánh sáng phát
ra: mùa lạnh qua thì mùa nóng lại, mùa nóng qua thì mùa lạnh lại, lạnh
nóng (cảm ứng nhau) xô đẩy nhau mà thành ra năm tháng. Cái đã qua co
rút lại, cái sắp tới duỗi dài ra, co rút (khuất), duỗi dài (thân), hai
cái đó cảm ứng nhau mà ích lợi mới nảy ra." (Nhật vãng tắc nguyệt
lai, nguyệt vãng tắc nhật lại, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh
yên: hàn vãng tắc thử lai, thử vãng tắc hàn lai, hàn thử tương thôi nhi
thế thành yên; vãng giã khất dã, lai giả thân dã, khuất thân tương cảm
nhi lợi sinh yên). Vậy chúng ta nên nói là âm dương tương giao,
tương thôi (hơn là tương phản); và thay phiên nhau, theo một nhiệp điệu
nào đó, dài ngắn tùy hiện tượng, tùy thời, nhưng cứ cái này lên thì cái
kia xuống, cái này xuống thì cái kia lên, mỗi cái làm chủ trong một
thời rồi lại nhường chỗ cho cái kia. Không những vậy, âm dương còn
tương thành nữa. Chúng tương thành vì chúng bổ túc nhau: ngày sáng để
vạn vật sinh họat, đêm tối để vạn vật nghỉ ngơi, hè nóng để vạn vật
phát triển, đông lạnh để vạn vật gom lại sức. Tương thành còn vì một lẽ
nữa: nếu cái nọ diệt cái kia thì không cái nào còn cả. Không còn âm thì
cũng không còn dương, không còn dương thì làm sao có âm, mà vũ trụ, vạn
vật cũng không có. Quan niệm tương phản mà tương thành đó là quan niệm
phổ biến của Trung Hoa thời xưa, như Trương Kĩ Quân nói: Các bậc
thánh triết Trung Quốc thời xưa cho rằng bất kỳ sự vật gì cũng là một
thể mà hai mặt; chỉ là biến hóa tương đối chứ không phân lập tuyệt đối;
tương phảm mà tương thành chứ không mâu thuẫn đấu tranh" (Trung Quốc cổ
đại thánh triết dĩ vi nhiệm hà sự vật quân thuộc nhất thế chi lưỡng
diện, thị tương đối địch biến hóa, phi tuyệt đối đích phân lập, tương
phản tương thành, bất thị mâu thuẫn đấu tranh đích liễu). Tương
phản mà tương thành nghĩa cũng như câu "đồng qui nhi thù đồ" trong Hệ
từ hạ Chương 5: tuy đường lối khác nhau nhưng đều đưa tới một nơi, một
mục đích cả. Nắng mưa trái nhau, nhưng đều giúp cho cây cỏ tươi tốt,
nóng lạnh trái nhau nhưng phải có có hạ mới đủ bốn mùa. Tương Kì
Quân cho rằng thuyết tương phản mà tương thành của Dịch mới xét tựa như
biện chứng pháp của Hegel nhưng thực ra nghịch hẳn nhau vì một bên phản
mà để tương thành, một bên phản để chống đối nhau (phản giả dĩ tương
(bội)) Tôi cho nói như vầy có phần đúng hơn: một bên phản để tương
thành, một bên phản để tương diệt, tự diệt, vì theo Hegel : thèse
(chính) antithèse (phản) phản nhau để sau cùng hòa thành Synthèse (hợp)
- như vậy chính (these) không còn, phản cũng không còn; còn theo Dịch
thì âm dương tuy phản nhau mà giao với nhau, xô đẩy nhau, thay thế nhau
để rốt cuộc cũng vẫn trở lại trạng thái cũ, chỉ thay phiên nhau tác
động trong một thời gian để vũ trụ được điều hòa, vạn vật sinh trưởng
thôi. Triết Đông và Triết Tây khác nhau từ căn bản, đem so sánh với nhau thì thế nào cũng miễn cưỡng.
ÂM DƯƠNG TƯƠNG CẦU, TƯƠNG ỨNG
Âm dương còn một tính cách nữa là tương cầu, tương ứng. có tương cầu, tương ứng thì mới gặp nhau, giao nhau mà sinh ra vạn vật (Nhị khí giao cảm hóa sinh vạn vật - Chu Liêm Khê) Trong
vũ trụ không lọai nào không theo luật đó. Kinh Dịch diễn luật đó bằng
sự tương quan giữa các cặp hào 1-4, 2-5. 3-6 mà chúng tôi đã trình bày
trong chương IV - trang 83. Khi âm dương tương ứng thì dương xướng
mà âm hòa, hợp tác với nhau như quẻ Càn và quẻ Khôn. Càn cương kiện,
Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc về phần khí, nhưng
phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của
Khôn cũng lớn như công của Càn, chỉ khác Khôn có đức thuận, tùy theo
Càn, bổ túc cho Càn mà tiếp tục công việc của Càn, còn khởi xướng thì
phải là Càn. Đó là quan niệm chung của các dân tộc ở thời đại nông
nghiệp, theo chế độ phu quyền.
*
Tóm
lại âm dương tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu
(tìm nhau), tương giao (gặp nhau) có tương giao mới tương thôi (xô đẩy
nhau), tương ma (cọ xát nhau), tương thể (thay thế, bổ túc nhau) để
tương thành (giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có
cái này thì cái kia mới làm tròn được nhiệm vụ của nó trong vũ trụ). Quan
trọng nhất là sự tương giao: giống đực giống cái, cả trời đất nữa (vì
trời đất cũng chỉ là âm dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật,
vạn vật mới sinh nở biến hóa được. Càn Khôn (tức âm dương) là cái
cửa của Dịch (hệ từ hạ Ch. 6 ) Dịch là Đạo âm dương, mà luật âm dương
là tương giao, cho nên nghĩa thứ nhất của Dịch là giao dịch như cuối
chương 1 chúng tôi đã nói.
DỊCH LÀ BIẾN DỊCH
Âm dương đều động. Muốn giao nhau thì cả dương lẫn âm đều phải động. Hệ Từ Thượng truyện mở đầu bằng câu: “(Vì
thấy) trời cao đất thấp (mà thánh nhân) vạch ra quẻ Càn và quẻ Khôn;
(…) động và tĩnh đã có luật nhất định do đó mà phân biệt cương và nhu”
(Thiên tôn địa ti, Càn Khôn định hĩ; ( . . . ) động tĩnh hữu thường,
cương nhu đóan hĩ). Câu đó cho trời là Càn, động, cương; đất là khôn, tĩnh, nhu; trời đại biểu dương tính, đất đại biểu âm tính. Như
vậy chỉ có Càn (tức dương) mới động, còn Khôn (tức âm) thì tĩnh, động
tỉnh cách biệt hẳn nhau, đôí lập nhau chăng ? Không phải vậy, trong
dương đã có âm, trong âm đã có dương thì trong động cũng có tĩnh, chỉ
khác bản tính của dương hiếu động hơn tĩnh, bản tính của âm hiếu tĩnh
hơn động. Xét câu này trong Chương 6 Hệ Từ Thượng Truyện thì rõ. “Đạo
Càn lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động thì tiến thẳng, cho nên sức sinh
ra của nó lớn. Đạo khôn lúc tĩnh thì thu lại, lúc động thì mở ra, cho
nên sức sinh ra của nó rộng” (Phù Càn, Kỳ tĩnh đã chuyên, kỳ động đã
trực , thị dĩ đại sinh yên. Phủ Khôn, Kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịch
thị dĩ quảng sinh yên.” Lại thêm Văn Ngôn Truyện cũng bảo: “đạo Khôn rât nhu (mềm) mà khi động thì cũng cương (cứng mạnh)” Hiển nhiên Dịch cho âm dương đều có thể động, có thể tĩnh. Quan
niệm động đó trong Dịch hợp với Đạo Đức Kinh, vì Lão tử cũng nói: “Phản
giả, Đạo chi động” : Sự động (vận hành) của Đạo là quay trở về (ch. 40)
Chương 5: “Thiên địa chi gian, kỳ do thác thược ồ? Hư nhi bất
khuất, động nhi dũ xuất”: Khỏang giữa trời đất như ống bễ chăng? Hư
không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra”. Hình ảnh
ống bể đó với hình ảnh cái hang, gọi là mẹ nhiệm mầu, giá của trời đất
ở chương 6 Đạo Đức Kinh (huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn) khiến
ta liên tưởng đến hình ảnh “Kỳ động dã trực”, “Kì động dã tịch” trong
Chương 6 Hệ Từ Thượng dẫn trên. Cho trời là cha, đất là mẹ của vạn vật,
Càn Khôn như nam và nữ, là tư tưởng phổ biến của Trung Hoa, có thể đã
có trong dân gian từ đời Ân hay đời Thương. . . Rồi biến hóa. Âm
dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hóa hóa. Vậy
Dịch cũng như Trung dung (Chương 26) cho rằng độngthì biến, biến thì
óa. Hệ Từ Thượng Truyện Chương 12 bảo: “Càn Không là cái sâu kín hoặc
chứa đựng cái nguyên nhân của đạo dịch chăng? Càn Không thành hàng rồi
mà đạo Dịch lập nên ở trong. Càn Không bị phá thì còn gì để thấy đạo
Dịch nữa? Dịch không thấy được thì cơ hồ Càn Khôn không thi hành được”
(Càn Khôn kỳ Dịch chi uẩn dả Càn Khôn thành ☲ệt nhi Dịch lập hồ kì
trung hĩ. Càn Khôn hủy tắc vô dĩ kiến Dịch. Dịch bất khả kiến, tắcCàn
Khôn hoặc cơ hồ tức hĩ) . Chữ dịch ở 9dây là biến dịch, tức đạo
biến hóa trongvũ trụ. Mọi sự biến hóa đều từ Càn Khôn mà ra; không còn
Càn Khôn tức âm dương thì không còn sự biến hóa. Mà nếu không có sự
biến hóa, nghĩa là nếu âm dương không tác động lẫn nhau, không gặp
nhau, thì “cô dương” không thể sinh, “độc âm” không thể thành; trong
trường hợp đó âm dương sẽ bị tiêu diệt. Mà sở dĩ có biến hóa là do
âm dương cọ xát nhau, (…) sinh ra sấm sét, gió mưa, mặt trời mặt trăng
xuay vần, cứ lạnh rồi tới nóng (Hệ tự thượng – Ch.I) Từ sự biến hóa đó sinh ra vạn vật (sinh sinh chi vị dịch). Trật tự trong sự biến hóa. Sự biến hóa trong vũ trụ theo một trật tự nhất định: - Theo luật tôn ti: “Thiên tôn địa ti” Trời cao đất thấp, trời tôn mà đất tiện. - Thuận lẽ tự nhiên: “Trời
đất động mà thuận theo lẽ tự nhiên, cho nên mặt trời mặt trăng, phần
đêm phần ngày chẳng bao giờ sai lầm, mà khí hậu bốn mùa chẳng bao giờ
sai suyễn” (Thiên địa dĩ thuận động, cố nhật nguyệt bất quá nhi tứ thời
bất thắc – Thóan truyện – Quẻ Dự). - Có chừng mực: “Trời đất có chừng mực nên mới thành bốn mùa” (Thiên địa tiết nhi tứ thời thành – Thóan truyện – Quẻ Tiết). Khí
vận của trời đất, mùa nắng mùa mưa, mùa nóng mùa lạnh đều có chừng mực,
xuân không xuân hòai, thu không thu mãi, hạ không kéo dài quá, đông
không ngắn quá, có vậy mới thành bốn mùa được. - Hằng cửu (lâu dài hòai) mà không thôi, nghĩa là theo một luật nào đó thì theo hòai chứ không lúc thế này lúc thế khác. “Đạo của trời đất hằng cửu mà không thôi “(Thiên địa chi đạo hằng cửu nhi bất dĩ dã – Thóan truyện – Quẻ Hằng). - Biến theo trình tự mới đầu thì từ từ, từng bước (tiệm biến) rồi cuối cùng biến mạnh (đột biến), lúc đó gọi là hóa. Hào
1 quẻ Khôn nói: “đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến” (Lí sương,
kiên băng chí) Bắt đầu mùa lạnh, khí lạnh mới kết lại thành sưong, rồi
lần lần lạnh hơn, sương dày hơn, như vậy trong một hai tháng (tiệm
biến) sau cùng khi lạnh tới một độ nào đó thì chỉ trong một đêm, nước
đông lại, đột biến mà hóa thành băng. Xét quẻ của 12 tháng ở trên,
chúng ta thấy từ quẻ Càn đến quẻ Bác cò sự tiệm tiến của khí âm (mỗi
tháng thêm một hào âm), rồi từ quẻ Bác qua quẻ Khôn có sự đột biến
thành một quẻ Thuần âm, trái ngược với quẻ thuần dương là Càn lúc đầu.
Từ quẻ Khôn đến quẻ Quải cũng vậy, nhưng ngược lại: khí dương tiệm tiến
(mỗi tháng thêm một hào dương), sau cùng quẻ Quải đột biến thành quẻ
Càn thuần dương, trái ngược với quẻ Khôn lúc đầu. Văn Ngôn truyện đưa một thí dụ thuộc về nhân sự. “Nhà
nào tích lũy điều lành thì có thừa phúc (để đến đời sau). Nhà nào tích
lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc
bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở torng một buổi sơm
buổi chiều, tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ
sớm vậy”. (Tích thiên chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia
tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân, tử thí kì phụ, phi nhất triều nhất
tịch chi cố, kì sở do lai giả tiệm hĩ. Do biên chi bất tảo biện dã)
“Dần dà có từ lâu” (Kì sở do lại giả tiệm hĩ) là tiệm biến; mà sự bề
tôi giết vua, con giết cha (Thần thí kỳ quân , tử thí kỳ phụ ) là đột
biến, là hóa. – Trong Kinh Dịch có nhiều quẻ nói về sự tiệm biến,
như quẻ Phệ hạp khuyên nhà cầm quyền phảirăn đe dân từ khi dân mới mắc
phải tội nhỏ (hào 1), nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cự tích lũy mà
mắc tội lớn (hào 6). Rõ ràng nhất là quẻ Tiệm (tiến lần lần), từ hào 1
đến hào 6, con chim hồng tiến lần lần từ mặt nước lên đến bờ, lên phiến
đá, đất bằng, cành cây, gò cao rồi sau cùng vụt một cái bay bổng lên
trời. Về sự đột biến thì có quẻ Cách, Hào từ khuyên phải hành động ra sao khi muốn cuộc cải cách lớn ,một cuộc cách mạng chẳng hạn. Tóm
lại Dịch có nghĩa thứ hao là biến dịch. Có biến thì mới hóa mà thông
được (qua lại không cùng thì gọi là thông: vãng lai bất cùng vị chi
thông – Hệ Từ Thượng 11), nếu không thì tới một lúc nào đó phải ngưng
trệ phải hết, không thông được, vũ trụ không trường tồn được. Nhưng
biến phải theo một trật tự nào đó, phải có qui luật, mà nói đến qui
luật là nói đến cái gì bất biến rồi. Do đó Dịch còn có nghĩa thứ ba là
bất biến bất dịch nữa, mà tôi sẽ xét trong đọan dưới.
DỊCH LÀ BẤT DỊCH
Luật mãn chiêu tổn, Khiêm thụ ích. Sự biến hóa trong vũ trụ diễn tiến theo một qui luật bất di bất dịch. Qui luậtđó, Trung Hoa gọi là thường. Triết gia đầu tiên dùng chữ thường theo nghĩa đó có lẽ là Lão tử. Đầu Đạo Đức Kinh ông bảo: “Đạo Khả đạo phi thường đạo” Cái Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là Đạo vĩnh cữu bất biến. Ông
lại nói: “Biết rõ qui luật” thương “là sáng suốt; không biết qui luật”
thường “ mà làm bừa làm bậy thì gặp điều không lành” (Tri thường viết
minh; bất tri thường, vọng tác, hung Ch.16). Hệ Từ Thượng truyện
(Ch.1) Cũng nói đến qui luật “thường”: “động tỉnh hữ thường” và quan
niệm rằng: Thiên hạ rất động nhưng vì có qui luật thường nên động đấy
mà không thể rối lọan được . . .(thiên hạ chi chí động nhi bất khả lọan
dã – Hệ Từ thượng – Ch.8), và chính là theo qui luật thường đó mà vũ
trụ vạn vật chuyển động biến hóa: (Thiên hạ chi động trinh phù nhất giả
dã – Hệtừ hạ - Ch.1) Qui luật thường đó là gì? Là âm dương thay
lẫn nhau, cứ một cái tiến thì một cái lùi, một cái lùi thì một cái
tiến. Biến hóa chỉ là sự tiến lui của âm dương thôi. “Biến hóa giả,
tiến thóai chi tương dã, cương nhu giả, trú dạ chi tương dã”: Biến hóa
là hình tượng của sự tiến thóai; cương (tức dương) như (tức âm) là hình
tượng của ngày đêm, nghĩa là của sự thay phiên nhau (Hệ từ thượng –
Ch.2) Hệ từ hạ Ch.1 cũng diễn ý đó: “Cát và hung luôn luôn
thắng lẫn nhau theo một luật nhất định” (Cát hung giả, trinh thắng giả
dã). Việc đời không cát thời hung, hết cát lại hung, hết hung lại cát.
Cát hung đó nên hiểu là dương và âm, là trời và đất, là mặt trời mặt
trăng, là ngày đêm v.v. . .; cho nên tiếp theo câu trên là câu:”Thiên
địa chi đạo trinh quan giả dã, nhật nguyệt chi đạo trinh minh giả dã
(Đạo trời đất chỉ bảo cho ta luật đó, đạo mặt trời mặt trăng sáng tỏ
theo luật đó. Coi lại quẻ của 12 tháng ở trên ta thấy từ quẻ Cấu
hào âm lân lần thay thế hào dương, âm tiến tới đâu dương lui tới đó,
cuối cùng cả 6 hào dương nhường cho 6 hào âm thành quẻ Khôn; rồi lại
tới phiên hào dương lần lần thay thế hào âm, dương tiến tới đâu, âm lui
tới đó, cuối cùng cả 6 hào âm nhường chỗ cho 6 hào dương mà thành quẻ
Càn. Nhờ vậy mới biến hóa vô cùng được; nếu không thì sẽ chỉ có “cô
dương” hay “độc âm” mà không có năm tháng, không có bốn mùa, không có
vũ trụ. Dương thịnh cực thì suy lần, để cho âm thịnh lên; khi âm
thịnh cực thì cũng suy lần để cho dương thịnh lên. Khắp vũ trụ, không
đâu và không thời nào không có luật đó. Từ sự vận hành của mặt trời mặt
trăng, sự qua lại của bốn mùa, sự lên xuống của thủy triều, sự thịnh
suy của một dân tộc, một quốc gia, một họ, sức lực, trí tuệ của cá nhân
v.v. . .không cái gì không theo luật thịnh suy: “Mãn chiêu tổn, khiêm
thụ ích” (đầy thì sẽ vơi, thiếu thì sẽ được thêm). Hào 3 quẻ Tốn
bảo: “Ba người cùng đi thì bớt đi một người, một người đi (một mình)
thì được thêm bạn” (Tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc
đắc kỉ hữu) là nghĩa đó. Cho nên quẻ Ích (Tăng lên) vốn là tốt mà
hào cuối lại xấu: tràn thì cuối cùng phải đổ; mà quẻ tổn (giảm đi) vốn
xấu mà cuối cùng lại tốt: vơi thì được thêm. Xấu như quẻ Cổ (đổ nát) mà
Thóan Từ khen là tốt chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân; mà canh
tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc
cùng mà không bắt đầu trở lại. Quẻ Khốn (Khốn đốn) là thời khó
khăn đến cực điểm, năm hào dưới đều xấu, mà hào trên cùng, hào Từ cho
là sẽ tốt nếu biết thận trọng, ăn năn. Vậy thì trong họa vẫn nấp
phúc, như quẻ Khuê (Chia lìa) hào 6; mà trong phúc vẫn núp họa như quẻ
Phong (Thịnh lớn), hào 6; hoặc như quẻ Dự (vui) vốn tốt mà chỉ có hai
hào ( 2 vã) là tốt, còn 4 hào kia đều xấu nhiều hay ít cả. Câu “Họa hề phúc chi sở ý, phúc hề họa chi sở phục” (Họa
là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của họa), và câu “sinh ư ưu họan,
nhi tử ư an lạc” của Mạnh tử đều diễn cái luật thịnh suy đó cả. Tác
giả Tự quái truyện đã có ý muốn ta chú ý tới luật đó nên sau mỗi quẻ
thường đặt một quẻ ý nghĩa ngược lại, như sau quẻ Thái tới quẻ Bỉ, sau
quẻ Bác tới quẻ Phục, sau quẻ Tốn tới quẻ Ích, sau quẻ Kí Tế với quẻ Vị
Tế v. .v . .
Luật phản phục, tuần hòan.
Âm
dương thay thế nhau được do một luật bất biến, một luật “thường” là
tịnh cực tắc suy, vật cùng tắc biến, mà biến là phản phục. Quẻ Càn
(Dương) khi suy tới cùng, 6 hào dương bị hào âm chíêm ngôn hết thì
thành quẻ Khôn; nhưng tiếp theo quẻ Khôn là quẻ Phục, một hào dương lại
sinh. Khôn là âm tịnh cực, từ đó lại suy lần, khi suy tới cùng, 6 hào
âm bị 6 hào dương chiếm ngôi hết thì lại trở thành quẻ Càn, rồi tiếp
theo quẻ Càn là quẻ Cấu, một hào âm lại sinh. Luật phản phục, tuần hòan cũng là một luật “thường”, bất dịch của Dịch. Luật
phản, phục là luật diễn biến trong vũ trụ mà dân tộc Trung Hoa đã nhận
tháy từ khi chưa có Kinh Dịch. Xem sự vận hành của mặt trời mặt trăng,
của bốn mùa v.v. . . họ thấy sự vật diễn biến theo một phưong hướng nào
đó, khi tới mức cùng tốt không thể tiến triển được nữa thì chuyển biến
mà quay trở lại theo chiều nghịch với phương hướng cũ, cứ như thế mãi,
không bao giờ thôi. Từ cực thịnh qua suy vi tới diệt vong – như từ quẻ
Càn tới quẻ Cấu, quẻ Độn, quẻ Bĩ . . tới quẻ Khôn gọi là phản. Từ qủe
diệt vong lại phát sinh để tiến triển đến chỗ cực thịnh – như từ quẻ
Khôn tới quẻ Phục, quẻ Lâm, quẻ Thái . . tới quẻ Càn – gọi là phục. Sự
phản phục đó là phản phục của khí dương .Sự phản phục của khí âm ngược
lại: thời phản của dương là thời phục của âm, thời phục của dương là
thời phản của âm. Cứ một lần phản, một lần phục, phục rồi lại phản, như
vậy thành luật tuần hòan. Tôi sở dĩ đóan rằng quan niệm phản phục xuất hiện trước khi có Kinh Dịch, vì Kinh Dịch là sách đầu tiên nói tới luật đó. Hào Từ quẻ Thái nói: “Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại” (Vô hình bất pha – vỗ vãng bất phục – Hào 3). Thoán Từ quẻ Phục nói rõ hơn: “đạo (Vận) trời tráo đi trở lại, cứ bảy ngày thì trở lại” (Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục). Chữ
ngày (nhật) ở đây thay cho chữ hào mỗi ngày là một hào, một lần biến;
cứ bảy ngày thì trở lại, vì từ quẻ Cấu một hào âm sinh ở dưới cùng, tới
quẻ Độn, quẻ Bĩ, quẻ Quán, quẻ Bác, quẻ Khôn, quẻ Phục, như vậy là bảy
quẻ (tính cả quẻ Cấu theo lối Trung Hoa). Có lẽ do câu đó mà y học
Trung Hoa cho rằng khí huyết người ta bảy ngày thì thay đổi. Về khí tiết trong một năm thì là bảy tháng, từ tháng năm (quẻ Cấn) tới tháng mười một (Quẻ Phục). Sau,
dịch Kinh (Thóan từ của Văn Vương, Hào Từ của chu Công) sách nói nhiều
nhất đến phản phục là Đạo Đức Kinh của Lão tử: “Vật cực tắc phản – Ch.
36; “Phản giả đạo chi động” – Ch.40 – nhất là: “Phù vật vân vân,
các qui kì căn”: Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng –
Ch. 16; và Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản”: Đạo lớn là đi,
đi là đi xa, đi xa là quay trở lại”. Ch.25. Sau Đạo đức kinh là Dịch truyện: - Qủe Thái: “Võ vãng bất phục”: Không có gì đi mà không trở lại. - Quẻ Cổ: “Chung tắc hữu thủy, thiên hành dã” : Hết rồi thì bắt đầu lại, đó là sự vận hành của trời. - Quẻ Phong: “Nhật trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực” Mặt trời tới đỉnh đầu rồi thì xế, mặt trăng đầy rồi thì khuyết. Nhờ
luật phản phục đó mà sự vật trong vũ trụ không bị tắc, bị cùng, mới
thông được, mới sinh sinh hóa hóa hòai được; vì vậy “xét quẻ (hay đạo)
Phục (trở lại) mà biết được lòng hiếu sinh của trờ iđất” (Phục kì kiến
thiên địa chi tâm – Quẻ Phục – Thóan truyện.) Tác giả Tự Quái truyện cũng cố làm nổi bật cái luật “vật cực tắc phản” khi viết: “Quẻ
lí thì an thích (hay thông thuận) mà sau được yên ổn, cho nên sau quẻ
Lí tiếp tới quẻ Thái; Thái là thông, vật không thể thông thuận hoài,
cho nên tiếp theo là quẻ Bĩ, vật không thể bĩ hòai, cho nên tiếp theo
là quẻ Đồng nhân . . “ và để diễn cái ý vũ trụ biến dịch vô cùng, không
lúc nào hết, không lúc nào cùng, cho nên sau quẻ Kí Tế (việc đã xong
rồi) tiếp tới quẻ Vị Tế (chưa xong), như vậy đúng với câu “chung tắc
hữu thủy” trong Thóang truyện quẻ Cổ. Tóm lại luật âm dương (vũ
trụ) lúc nào cũng động, mà động sinh ra biến, biến tới cùng thì quay
trở lại (phản phục) để cho được thông, có thông thì mới vĩnh cữu, tồn
tại hòai được. Luật “Dịch cùng tắc biến, bíến tắc thông, thông tắc cử”
(Hệ từ hạ 2), Luật tuần hòan đó là một luật “thường”, bất dịch khiến
cho Dịch có ý nghĩa thứ 3 là bất dịch, sau hai ý nghĩa giao dịch, biến
dịch. Phản phục là phản tiến bộ? Các triết gia Trung
Hoa tin luật tuần hòan, cho rằng vũ trụ , xã hội vận hành trên một vòng
tròn. Văn Vương, Chu Công, Khổng tử, Dịch học phái gọi luật đó là “phản
phục”, quay về lúcđầu, mà lúcđầu theo các nhàđó là dương và âm; còn Lão
từ thì gọi là “qui căn” trở về gốc, gốc tức là vô (tử vô sinh hữ). Vì
vậy mà có người bảo người Trung Hoa không có ý thức về sự phát triển,
không như người phương Tây cho rằng vũ trụ, xã hội phát triển theo vòng
trôn ốc, mỗi ngày vòng mỗi mở rộng ra, có tiến bộ. Không có ý thức
về sự phát triển nên người Trung Hoa có tinh thần thủ cựu, hiếu cổ.
Nho, Mặc muốn trở về thời Nghiêu Thuấn, Lão còn muốn trở về thời xã hội
nguyên thủy. Trang muốn trở lại trước thời nguyên thủy đó thời chưa có
tổ chức xã hội nữa. Ngay các pháp gia như Hàn Phi tuy không muốn trở
lại thời trứơc, (họ cho mỗi thời một khác, thời nào có chính trị của
thờ iấy) mà cũng nhận Nghiêu Thuấn là những thánh Vương thời cổ. Hòang
kim thời đại của dân tộc Trung Hoa ở sau lưng họ, thời Nghiêu Thuấn,
chứ không ở trước mặt họ. Đó là lý do khiến họ không tiến được. Lời
chế đó có lý một phần. Nhưng tâm lý con người ở nơi nào, thời nào mà
chẳng tiếc dĩ vãng, cho hiện tại kém xa dĩ vãng. Hòang Kim thời đại của
phương Tây, thời chúa Ki Tô chẳng hạn còn lùi xa hơn Hòang kim thời đại
của Khổng Lão, lùi về tận thời ông Adam và bà Eva mới sinh kia. Và ngay
bây giờ đây, mỗi người phương Tây có tới một trăm tên nô lệ (tức máy
móc) phục vụ, có Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ, bay cả được lên cung
trăng, hơn trong truyện Phong Thần nữa, mà có biết bao người Âu, Mỹ, từ
triết gia, khoa học tới thanh niên ước ao trở lại cuộc đời giản dị,
sống gần thiên nhiên như thời kỳ nông nghiệp. Khổng tử và Lão tử
không phải là không biết tiến bộ kỹ thuật. Khổng còn dùng cả những tiến
bộ đó nữa nên ông ngồi xe nhà Ân kiên cố hơn xe Nghiêu thuấn, đội mũ
miện nhà Chu, đẹp hơn mũ thời Nghiêu thuấn. (Luận ngữ XV.10) Lão cực
đoan hơn, muốn bỏ hết những tiến bộ kỹ thuật đi: có khí cụ gấp chục gấp
trăm sức người mà không dùng, có thuyền xe mà không ngồi, bỏ cả văn tự,
dùng lại lối thắt dây thời thương cổ (đạo đức kinh, Chương 80). Hai nhà
đó chỉ buồn rằng thời họ nhân tâm hư hỏng, đạo lý suy vi, xã hội lọan
lạc mà con người khổ sở hơn thời trước. Có thể họ hơi quá bi quan,
nhưng ngay thời đại chúng ta cũng cho rằng kỹ thuật không chắc đã tạo
thêm hạnh phúc cho con người. Năm 1972 hai nhà bác học Anh, Edward
Goldsmith và Rober Allen, sau Erza Mishan, đã đề nghị chẳng những ngưng
sự phát triển kỹ thuật mà còn nên thụt lùi lại một thế kỷ nữa, và đề
nghị của họ được 33 bác học Anh nổi tíếng về khoa sinh vật học, kinh tế
học,sinh thái học . . vui vẽ đỡ đầu. Họ cho chỉ có cách đó là cứu vãn
được nhân lọai, giảm những sự tranh giành, tàn sát nhau, giảm sự bất
quân, bất công mà tăng hạnh phúc trên thế giới. Người ta gọi họ là bọn
Zérist, một từ mới được tạo ra để trỏ những người muốn chặn đứng sự
phát triển kỹ thuật. Có gì mới mẻ đâu? Lão tử đã là ông tổ của họ từ
non 2.500 năm trước rồi. Vậy bảo rằng người Trung Hoa không có ý
thức về sự phát triển, có lẽ không đúng lắm; họ chỉ chú trọng đạo lý
nhất thôi, họ cho rằng chỉ có sự cải thiện con người, tăng hạnh phúc
cho con người mới đáng gọi là tiến bộ, mà quan niệm đó là quan niệm
chung của các triết gia Đông, Tây thời cổ, không chắc đã là hậu quả của
thuyết phản phục, tuần hòan.
ĐỊNH MỆNH
Chúng
tôi sẽ không xét thuyết Tượng số trong Dịch truyện (Hệ từ truyện ) vì
không hiểu thuyết đó, không thấy nó có ích lợi cho nhân sinh. Để kết thúc chương này, chúng tôi xin xét qua về quan niệm định mệnh trong Dịch. Trước
Văn Vương, Chu Công, người nào đặt ra phép bói Dịch tất tin rằng có một
sự an bài, một định mệnh nghĩa là sự việc biến chuyển ra sao, xấu hay
tốt đã định rồi. Bậc “Thánh nhâ” đã “thần minh để biết trước việc sẽ
tới, lại sáng suốt để chứa những kinh nghiệm vũ (Hệ từ thượng – Ch.
11). Hệ Từ hạ, Chương 6, lại nói: “dịch làm rõ cái đã qua mà xét
cái sắp tới, kàm sáng tỏ cái kín đáo, mở cái bí mật” (dịch chương vãng
nhi sát lại, nhi vi hiển triển u). Cho nên “người quân tử sắp làm
hay tiến hành việc gì thì dùng lời (Khấn ) mà hỏi Dịch. Dịch nhận được
lời hỏi và trả lời nhanh như tiếng vang. Không kể xa gần, sâu tối, Dịch
cũng biết đựoc cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh
vi trong thiên hạ thì đâu làm được như vậy? (quân tử tương hữu vi dã,
tương hữu hành dã, vấn yên nhi di ngôn. Kỳ thụ mệnh dã như hưởng. Vỗ
hữu viễn cận, u thâm, tọai tri lai vật. Phi thiên hạ chi chí tinh, Ki
thục năng dự ư thử? – Hệ Từ thượng Ch.5). “Dịch không nghĩ ngợi gì
cả, không làm gì cả, yên lặng không động, nó chỉ cảm mà thấu được các
biến cố trong thiên hạ. Nếu nó không phải là cái thần diệu tột bực
trong thiên hạ thì đâu làm được như vậy? (Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch
nhiên bất động, cảm nhi tọai thông thiên hạ chi cố. Phi thiên hạ chi
chí thần, kì thực năng dự ư thử - Như trên) . Chữ Dịch trong đọan
đó nên hiểu là những người tìm ra được phép bói Dịch. Phép bói đó có
thật là “thần” không, chúng tôi không dám bàn tới. Có những người rất
thông minh tin nó như nhà bác học nổi danh khắp thế giới Jung, mà có
nhiều người cũng rất thông minh không tin nó. Văn Vương, Chu Công
và các tác giảDịch truyện tin nó và rán đem nhưng những luật âm dương
ai cũng nhận thấy trong vũ trụ để giảng cho nó bớt tính cách huyền bí
đi; rồi sửa lại thuyết định mệnh trong Dịch, coi nó là một luật tự
nhiên, nó chỉ co ta biết cái hướng theo đó sự việc sẽ xảy ra; (Hệ Từ
thượng – Ch.3- đọan 5) và nếu ta nhiều khi không thể sửa cái hướng đó
được thì cũng có thể tránh nó hoặc tìm một thái độ thích hợp để thêm
tốt lên hoặc xấu đi, để “xu cát tị hung” Chẳng hạn: - Quẻ Thái
hào 3, ở vào thời thịnh cực rồi, sắp suy, Hào từ của Chu Công khuyên:
“Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong
cảnh gian nan mà giữ được chính nghĩa thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ
tin ở điều chính (điều phải) thì được hưởng phúc” - Quẻ Thăng hào
6 khuyên: “Hào này hôn ám, ở cuối thời Thăng là đã lên đến cùng cực rồi
mà còn muốn lên nữa, nếu đổi lòng ham đó thành lòng tự cường, sửa đực
cho hợp đạo không bao giờ nghỉ thì có lợi, lại tốt”. - Qủe Tủy hào
4: “Thu họach được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể hung
được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó
thì không có lỗi”. - Quẻ Cách hào 6: “Công việc cải cách đến đây đã xong, nên ngừng lại, tiến nữa thì xâu, cứ giữ vững chính đạo thì tốt” Vậy tốt hay xâu, họa hay phúc tuy do cái thời nó sẽ tới như vậy, nhưng phần lớn cũng do cách mình ứng phó nữa. Người
sáng suốt áp dụng Dịch thì phải nhận cái tư nhiên nó sắp thay đổi mà
tài chế nó, như vậy là biết “biến” (Hóa nhi tài chi vị chi biến –Hệ Từ
Thượng – Ch.12) Cát hung tùy ở mình hơn ở thời cuộc, hòan cảnh,
lòng mà thiện thì cát, ác thì hung, đó là ý nghĩa câu : “Cát dung dĩ
tình thiên” trong Hệ từ hạ - Ch.12. Có tinh thần đó thì “khi muốn hành
động, xem sự biến hóa mà ngẫm nghĩ lời đóan của quẻ (tìm cách đối phó
với hòan cảnh) mà gặp tốt không có gì chẳng lợi, được trời giúp cho”
(động tắc quan kì biến nhi ngọan kì chiêm, thị dĩ tự thiên hữu chi, cát
vô bất lợi – Hệ Từ thượng –Ch.2) Hiểu cái lẻ “âm dương tương thôi”
thịnh suy thay nhau lên xuống, thì “khi yên ổn không quên rằng sẽ có
thể nguy, khi vững không quên rằng sẽ có thể mất, khi trị không quên
rằng sẽ có thể lọan. Nhờ vậy mà thân yên, nước vững” (an nhi bất vong
nguy, tồn nhi bất vong vong, trị nhi bất vong lọan; thị dĩ thân an nhi
quốc khả bảo dã – Hệ từ hạ - Ch.5). Tóm lại Dịch cho rằng có số mạng nhưng con người vẫn sửa đổi số mạng được phần nào.
hết: Chương 5,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 10:58pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chương 6
VIỆC NGƯỜI
Các
học giả phương Tây đều nhận thấy triết học Trung Quốc có đặc điểm này:
cho vũ trụ vạn vật cũng một thể. Tư tưởng đó là tư tưởng căn bản của
dân tộc Trung Hoa mà triết gia nào: Nho, Lão, hay Mặc cũng chấp nhận
(1). Đại biểu vũ trụ là trời, đất; đại biểu vạn vật là người.
Trời, đất, người cùng một thể, cho nên người được sắp ngang hàng với
trời đất, thành một bộ “tam tài” (ba ngôi). Trời (đất) với người quan
hệ mật thiết với nhau (thiên nhân tương dữ); phép tắc của trời đất làm
mô phạm cho hành vi của người, thiên đạo tức là nhân đạo; hơn nữa, trời
với người còn tương cảm tương ứngvới nhau, cho nên người Trung Hoa thời
xưa rất coi trọng phép bói, mà quan “Chúc” coi về thiên sự (cầu nguyện
trời ban phúc lành cho dân, xem tương trời, làm lịch để ứng dụng vào
nhân sự, coi việc bốc phệ để đoán việc cát hung) luôn luôn làm cố vấn
cho các vua chúa, chức ngang với quan “Sử” coi về nhân sự. Thuyết
“Thiên nhân tương dữ” đó chắc đã có từ đời thương hay trước nữa, và tôi
đoán rằng nó với thuyết âm dương phải có liên quan với nhau. Cả vũ trụ
chỉ là âm dương, trời là dương, đất là âm, trai là dương, gái là âm,
như vậy là “nhất thể” rồi; mà loài người bị luật âm dương chi phối, tức
luật tự nhiên của trời đất chi phối, thì thiên đạo tức là nhân đạo. Hệ
Từ hạ, Ch. 10 bảo trong Dịch “gồm cả đạo trời, đạo người, đạo đất, thế
là đủ tam tài; rồi nhân hai lên thành sáu hào (dịch . . hữu thiên đạo
yên, hữu nhân đạo yên, hữu địa đạo yên; kiên tam tài nhi lưỡng chi, cố
viết lục). Ý muốn nói mỗi quẻ gồm sáu hào thì hào 1,2 là đất; 3,4 là
người; 5,6 là trời. Thuyết quái truyện Ch.2 nói rõ thêm, cho Dịch
lập đạo trời là âm dương đạo đất là cứng mềm, đạo người là nhân nghĩa”
(lập thiên chi đạo viết nhâm dữ dương, lập địa chi đạo viết cương dữ
nhu, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa) . . Những lời đó đúng
hay sai, chúng ta chưa cần bàn, chỉ biết rằng Dịch cũng chủ trương
thiên đạo với nhân đạo là một, do luật âm dương chi phối.
HÌNH ẢNH MỘT XÃ HỘI TRUNG CHÍNH TRONG 64 QUẺ
Phùng
Hữu Lan bảo Dịch là “hình ảnh thu nhỏ của toàn thể vũ trụ” Trong vũ trụ
đó có xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc, cả các nước thời sau nữa vì xã
hội Trung Hoa thay đổi rất ít cho tới đầu thế kỷ chúng ta; và nếu ta
đừng câu nệ từng chữ, thì có thể là có xã hội lọai người thời nay nữ. Chương trên chúng ta đã được biết vài nét chính về hình ảnh trời đất; Chương này chúng ta sẽ biết thêm về hình ảnh xã hội. Việc hàng ngày: - Việc đầu tiên là việc ăn uống. có quẻ Di, quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh. Nuôi
thân thể, quẻ Di khuyên phải tiết ẩm thực (vì bệnh tòng khẩu nhập) đừng
vì miếng ăn mà mang nhục. Nhưng nuôi thân thể không quan trọng bằng
nuôi tinh thần: ba hào cuối quẻ Di có nghĩa là nuôi tinh thần, đều được
cho là “cát”. Bậc hiền nhân nuôi tinh thần dân chúng có công lớn nhất,
ngang với công trời đất nuôi vạn vật. Cho nên xem cách một người tự
nuôi mình và nuôi người mà biết được tốt hay xấu (Quan Di, tự cầu khẩu
thực – Thoán từ quẻ Di) . - Về việc nuôi tinh thần, có rất nhiều quẻ và chúng tôi sẽ xét trong mục Tu thân, đây chỉ xin kể ít quẻ. Quẻ
Ly dạy ta cách ở đời: Dịch cho rằng mới ra đời, con người có tính chất
phác, trong trắng (gần giống thuyết “tính thiện” của Mạnh tử), nên giữ
vững tính đó, giữ đường chính, đừng tự phụ, phải thận trọng, như vậy
cho tới suốt đời. Phải biết trau giồi tài đức (quẻ Đại Súc), biết
sửa lỗi (quẻ Phục), nhưng đừng ham tiến mau quá, mà nên tiến lần lần
thôi, như con chiêm hồng trong quẻ Tiệm. Tới tột bực thì thành một hạng
xuất thế, khí tiết thanh cao, khác phàm, dù không trực tiếp giúp đời ,
nhưng tư cách có thể làm gương cho đời, nhờ mình mà xã hội văn minh,
cũng như cái lông con hồng trang điểm cho đời sống (kì vũ khả dụng vi
nghị - hào 6). Ví một bậc cao khiết với con hồng, hình ảnh đó thật đẹp
và nên thơ. - Muốn nuôi tinh thần thì phải nhóm bạn tìm thầy: quẻ
Tỉ. Trong việc nhóm bạn, phải cẩn thận từ lúc đầu, thành tín, vì đạo
chứ không vì lợi, nhất là phải trọng sự tự do của nhau: ai muốn tới với
mình thì niềm nở đón, ai chống mình thì cứ rút lui, không ép ai cả (hào
5) - Nuôi tinh thần để giúp đời như nước giếng trong quẻ Tỉnh,
thức ăn trong quẻ Đỉnh; để biết cách tiếp xúc với tiểu nhân: quẻ Lâm,
để giúp quân tử thắng tiểu nhân: quẻ Cấu, quẻ Quải.. . . - Một
trong những vấn đề Dịch quan tâm tới nhất là vấn đề nam nữ, vợ chồng.
Vì nó là cái “thiên địa chi đại nghĩa”. Có âm dương, nam nữ thì mới có
vợ chồng, gia đình và xã hội. Dịch khuyên: “Khi trai gái cảm nhau phải cho chính đáng, biết tự chủ, giữ lễ; quẻ Hàm. “Khi con gái về nhà chồng thì phải khiêm tốn; quẻ Qui muội, hào 5; “Vợ
chồng ăn ở với nhau theo luật tự nhiên của Càn, Khôn mà phu xướng phụ
tùy: quẻ Hằng. Ở dưới chế độ phụ hệ, như vậy là hợp lý. Có gia đình rồi thì phải tề gia, cho nên có quẻ Gia nhân. Tuy
phu xướng phụ tùy nhưng phải phân công, đàn bà lo việc trong nhà, đàn
ông lo việc ở ngoài, và nam nữ đều có bổn phận, trách nhiệm ngang nhau,
đều phải có tư cách đạo đức làm gương cho con cháu (nữ chính vị hồ nội,
nam chính vị hồ ngọai; nam nữ chính, thiên địa chi đại nghĩa dã). Trong
các triết thuyết thời Tiên Tần chỉ có Khổng giáo chú trọng tới gia đình
hơn cả, và Dịch học phải theo chủ trương đó. - Trong việc dạy trẻ,
quẻ Mông khuyên phải ngăn ngừa trứơc lỗi của trẻ, phải nghiêm, đừng quá
dùng hình phạt mà sẽ ân hận (hào 1); nhưng thà quá nghiêm còn hơn là
quá dễ dãi để tới nổi trẻ luông tuồng mà nhà sẽ suy, lọan (gia nhân –
hào 3). Cũng lại là luật tuần hoàn: cương quá thì trở lại nhu, nhu
quá thì trở lại cương, giữ mực trung là hơn cả, nhưng ít ai học được
bài học đó. Nên đọc thêm quẻ Quán: người trên nêu gương cho người dưới. Cha
mẹ có bổn phận dạy dỗ, nêu gương cho con; ngược lại con cũng có bổn
phận can ngăn cha mẹ để cha mẹ khỏi làm một điều trái đạo lý. Nhiều
người hiểu lầm rằng đạo hiếu của Khổng giáo rất khắt khe, bắt con cái
phải nhất nhất tuân lệnh cha me, cũng như bề tôi nhất nhất phải tuân
lệnh vua, vua có bắt chết cũng phải chết. tư tưởng đó của Hán nho, Tống
Nho, không phải của Khổng tử. Quan niệm của Khổng tử rất hợp tình hợp
lý, hiểu trước hết là giữ được danh dự cho gia đình, làm vẻ vang cho tổ
tiên. Luận ngữ, thiên Lý Nhân – bài 17, Khổng tử bảo: “Thờ cha
mẹ nên nhỏ nhẹ khuyên can; nếu cha mẹ không nghe theo ý mình thì vẫn
cung kính mà không xúc phạm cha mẹ, như vậy tuy khó nhọc, lo buồn,
nhưng không được oán hận”(Sự phụ mẫu ki gián, kiến chí bất tòng, hữu
kính bất vi, lao nhi bất oán). Con phải khuyên can cha mẹ vì nếu
không, cha mẹ sẽ mắc lỗi trái đạo lý mà cha mẹ mang tiếng xấu, xấu lây
với tổ tiên, cả dòng họ; như vậy cha mẹ mang tội bất hiếu với ông bà,
tổ tiên, mà mình cũng mang tội bất hiếu với cha mẹ. Khổng tử chỉ nói vắn tắt thôi. Dịch, quẻ Cố diễn rõ hơn: - Hao 1: Sửa lỗi cho cha, nhờ con mà cha không có lỗi, nhưng phải thận trọng thì mới tốt. - Hào 2: Sửa lỗi cho mẹ, không nên cố chấp mà phải mềm dẻo. - Hào 3: Nếu sửa lỗi cho cha mà nói thẳng quá thì đáng ăn năn, nhưng không có lỗi lớn vì giữ được đạo lý cho cha. - Hào 4: Nếu do dự, không dám can cha, để cha mắc lỗi thì sẽ hối tiếc. - Hào 5: Can cha để cha sửa lỗi thì được tiếng khen. Chúng
ta thấy 5 hào (không kể hào 5 nói chung về các hiền nhân sửa lỗi cho
thiên hạ) thì có 4 hào sửa lỗi cha, chỉ có 1 hào sửa lỗi mẹ: rất hợp
tâm lý vì đàn bà vốn nhu thuận, dễ nghe lời khuyên hơn. Khi sửa lỗi
cha, vì đàn ông vốn cương nghị nên hào từ khuyên con phải rất thận
trọng. Thận trọng nhưng vẫn cương quyết (hào 4) nếu vì quá trực ngôn mà
làm phật ý cha thì tuy đáng ân hận đấy, nhưng không mắc lỗi lớn; mà khi
thành công còn được tiếng khen nữa. Như vậy Dịch còn cương quyết
hơn Luận ngữ. Kính trọng cha mẹ thì phải trọng đạo lý, tiếng tốt của
cha mẹ. Quan niệm đó đâu có hẹp hòi, tôi cho là hợp tình, hợp lý. Còn nhiều quẻ nó về các việc hàng ngày nữa, tôi dành lại cho một tiết sau: Đạo làm người. Ở đây tôi chỉ xin giới thiệu thêm quẻ Tụng nói về việc kiện cáo và quẻ Lữ nói về cảnh lưu lạc quê người. -
Quẻ Tụng gồm Càn ở trên, Khảm ở dưới. Từ cái hình tượng trời ở trên
nứơc mà suy diễn ra thành việc kiện tụng, thật là điều làm cho ta ngạc
nhiên. Đọc lời giảng của Thoán truyện (trong quẻ 6 phần II) chúng ta
thấy sự suy diễn đó có lý. Có hai cách giảng: - Tách ngọai
quái và nội quái ra mà giảng, coi ngọai quái Càn là người trên cương
quá, áp chế người dưới; nội quái Khảm là kẻ âm hiểm, hai kẻ đó đụng
chạm nhau tất sinh ra kiện cáo. - Gồm cả ngọai quái và nội quái,
coi trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là
Khảm) , mà ngoài thì cương (ngọai quái là Càn), tất hay gây sự, sinh ra
kiện cáo. Rồi tới sáu hào: - Hào 1: Đã xảy ra vụ kiện thì dù
có chỗ dựa, mình cũng không nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; nên
nhường nhịn có thua thiệt một chút thì cũng thôi, sau sẽ được biện
minh. - Hào 2: Nếu thế mình yếu, thì rút lui, tránh đi (trứng không chọi nổi với đá), như vậy mới không bị tội lỗi. -
Hào 3: Nếu bề trên của mình muốn lôi kéo mình vào một vụ kiện, một vụ
tranh chấp, mình không thể từ chối được thì mình cứ giữa đạo chính,
phải giúp bề trên thì giúp lấy lệ thôi, đừng khoe tài, ham lập công. - Hào 4: Bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở yên thì tốt. - Hào 5: Người xử kiện nên có đức có tài ; người đi kiện hay bị kiện mà gặp được người xử kiện như vậy thì không gì tốt bằng. - Hào 6: Kẻ nào ham kiện quá thì dù có may ra được kiện, rốt cuộc cũng bất lợi. Ý
các hào rất nhất trí, hào nào cũng nói về kiện tụng, không lạc ra
ngoài: lại sáng sủa mà xét đủ các hoàn cảnh tốt xấu trong các vụ kiện;
nhất là lời khuyên răn thật sáng suốt; nên tránh sự kiện cáo. Hào 3
không kiện với ai: tốt; hào 2 và 4 muốn kiện mà sau thôi, cũng tốt, hào
1 bị kiện thì nên nhường nhịn một chút, rốt cuộc rồi sẽ tốt; duy có hào
6 hăng kiện tới cùng thì xấu. Hào 5 tỏ ý ước mong có một toà án công
minh. Chỉ dùng luật tương ứng của âm dương, dùng cái thế và vị của
các vạch liền và đứt, không gượng ép chút nào mà suy diễn ra được những
điều hợp lý để răn đời như vậy, tôi cho là tài tình rất mực. Có thể áp
dụng quẻ đó vào các vụ tranh chấp trên thế giới thời nay. - Quẻ Lữ
gồm Ly ở trên, Cấn ở dưới, là lửa ở trên núi ䷷ . Chỗ ở của lửa là bếp,
lò, nay lại xuất hiện trên núi thì là mất chỗ ở, là di cư, ở đậu (Lữ). Thời
nào cũng có cảnh ở đậu đất khách: Người lớn thì vì nghèo phải bỏ quẻ,
đi làm ăn ở nơi khác; trẻ con thì vì mồ côi hay vì cha mẹ không nuôi
nổi mà phải ở nhờ ông chú bà bác. Nhưng trong những thời lọan lạc như
thời Chiến Quốc ở Trung Hoa hay thời chúng ta trên khắp thế giới thì
cảnh “Lữ” mới gần như không tránh một ai và non triệu đồng bào chúng ta
ở ngọai quốc lúc này không khỏi bùi ngùi khi đọc quẻ Lữ. Cảnh ở
đậu là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi,
cho nên trong sáu hào, không có hào nào được coi là rất tốt; ngay đến
hai hào tốt nhất, đắc trung đắc chính là hào 2 và hào 5 cũng chỉ được
khen là tốt lành (hào 3) là có phúc, lộc (hào 5). Còn bốn hào kia thì
xấu nhiều hay ít cả: ít thì như hào 4; không được ai giúp đỡ, trong
lòng không vui; nhiều như hào 3, hào 1 và hào 6: hào 3 vì quá cương,
không biết mềm mỏng nên dù mình có ngay thẳng thì cũng nguy; hào 1 vì
tư cách hèn hạ, tham lam nên bị người ta ghét mà rước họa vào mình; hào
6 vì thân đi ở trọ là mại muốn lấn chủ nhà, nên bị người ta đuổi đi. Tóm
lại, theo Dịch, cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng tham lam, đừng làm để
người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác cũng phải sáng suốt, giữ tư cách để
người ta khỏi khinh. Lời khuyên đó rất đúng.
VIỆC TRỊ DÂN
-
Về nhiệm vụ dưỡng dân, giáo dân của nhà cầm quyền, chúng ta có thể suy
từ những quẻ Di, Mông, Đại Súc chúng tôi đã giới thiệu ở tiết trên,
khỏi phải nhắc lại, chỉ xin nói thêm về chính sách kinh tế trong quẻ
Tiết và quẻ Khiêm. Thoán truyện quẻ Tiết bảo nhà cầm quyền nên
theo luật tiết chế của trời đất “bốn mùa nắng, mưa, nóng lạnh đều có
chừng mực”, mà trị dân: hạn chế lòng ham muốn, tính xa xỉ của con
người, bắt dân làm việc vừa sức thôi, như vậy không tốn của cải, không
hại dân (Tiết dĩ chế độ, bất thương tài, bất hại dân). Đại Tượng
truyện hiểu xa hơn, khuyên người trị dân hạn định một chừng mục nào đó
trong sự làm việc và hưởng thụ của dân, tùy đạo đức, tài nghệ của mỗi
người (Quân tử dĩ chế số độ, nghị đức hạnh). Như vậy là cho chữ Tiết
một tác dụng rất lớn: tiết chế có nghĩa gần như kế họach hoá ngày nay
và có mục đích thi hành sự công bằng trong xã hội, như lời Đại tượng
truyện quẻ Khiêm: “xứng vật bình ti” thì phải “biều đa ích quả”: bớt
chốn nhiều bù chốn ít. Đó là đạo của trời: “Khuy doanh nhi ích khiêm”
đầy thì làm cho vơi đi, kém thì bù đắp vào. Khổng, Lão đều đã nghĩ
như vậy. Luận ngữ, thiến Quí Thị, bài một, Khổng tử bảo Nhiễm Cầu;
trong nước hể phân phối quân bình thì dân không nghèo (quân vô bần); và
Lão tử trong Đạo đức kinh Chương 77 bảo: “đạo trời bớt chỗ dư bù chỗ
thiếu. Đạo người thì không vậy: bớt chỗ thiếu mà thêm chỗ dư. Ai là
người có dư mà cung cấp cho người thiếu thốn trong thiên hạ đây? (Thiên
chi đạo tổn hữu du bổ bất túc. Nhân chi đạo tức bất nhiên, tổn bất túc
dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu du dĩ phụ thiên hạ?) Về việc kinh
pháp có quẻ Phệ hạp, đại ý khuyên người xử hình phải sáng suốt trước
hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ
tâm, và luôn luôn giữ đạo chính, thận trọng như hai hào 4,5. Nếu
không trung chính, dùng hình ngục mà không được người phục, có phần bị
oán nữa thì tuy đáng ân hận đấy mà không có lỗi lớn vì mình muốn giữ
trật tự trong xã hội. Tôi cho như vậy không hợp với chủ trương trọng lễ
hơn hình pháp, chủ trương trung hậu của đạo Nho (tội mà còn nghi ngờ
thì nên phạt nhẹ - tội nghi duy khinh), và tôi ngỡ rằng Dịch truyện đã
chịu chút ít ảnh hưởng của thời Chiến quốc, của phái pháp gia. Nhưng
quẻ Phệ hạp cũng khuyên nên răn đe từ khi dân mới mắc tội nhỏ, nếu
không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn. Lời đó rất
đúng. Thời Xuân Thu và Chiến Quốc , người ta thường coi quẻ trước
khi ra quân. quẻ Sư bàn về việc ra quân, ý nghĩa hay, đủ, lời gọn mà
không gượng. quẻ một hào dương (hào 2) với 5 hào âm: nhất dương thống
lĩnh quân âm, như một ống tướng điều khiển đoàn quân. Đại ý của quẻ: - Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa. - Dùng tướng phải lựa người xứng đáng (như hào 2, dương cương mà đắc trung), đừng để cho kẻ bất tài (hào 3) tham gia. - Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo léo để khỏi mất lòng dân, quân. - Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh, không sao. -
Điều này đáng để ý nhất: khi thành công rồi, luận công ban thưởng thì
kẻ tiểu nhân (ít tài, ít đức, chỉ giỏi giết giặc thôi) có công, chỉ nên
thưởng họ tiền bạc, đừng giao cho họ trọng trách (như cai trị một vùng,
cầm đầu một bộ, một viện . . .); trọng trách phải về những người có tài
đức, như vậy mới thịnh được. Từ xưa tới nay, biết bao nhà cầm quyền mắc
lỗi đó khiến cho “thắng trong chiến tranh mà lại bại trong hoà bình”.
Bất đắc dĩ mới ra quân, ra quân phải có chính nghĩa, đó là chủ trương
chung của các phái Khổng, Lão, Mặc . Họ trọng văn hơn võ. Dịch cho Càn
là chính, Khôn phụ thuộc Càn, nhưng cũng nhận âm có các ý văn vẻ, khiêm
nhu, là đức của người văn minh, cho nên cho hào 6 quẻ Khôn là rất tốt,
và tương trưng bằng cái xiêm vàng, xiêm thì đẹp đẻ mà màu vàng vừa đẹp
vừa sáng, quí, chỉ vua chúa mới được dùng. Dân tộc Trung Hoa thời Xuân
Thu hiếu hoà cũng như mọi dân tộc nông nghiệp, nên trên hai ngàn năm
mấy lần điêu đứng vì các dân tộc du mục hiếu chiến ở phía Bắc và Tây,
hết rợ Hồ, tới rợ Kim, rợ Mông, rợ Mãn. - Cách đối với dân, có các quẻ đồng nhân, Tỉ, Hoán. Điều
quan trọng nhất là đoàn kết được nhân dân, khiến cho trên dưới hoà
đồng. Muốn vậy thì phải bỏ tinh thần đảng phái, tôn trọng quyền của mỗi
người, phân biệt nhiều hạng người, cho mỗi người được phát triển sở
năng, thỏa mãn sở nguyện (Đại tượng truyện quẻ Đồng Nhân). Công việc
hoà đồng nào mới đầu cũng bị nhiều kẻ ngăn cản, không dễ gì thực hiện
ngay được, dù là hợp với công lý, với hạnh phúc số đông (hào 5 quẻ đồng
Nhân) Cũng nên nhớ thêm hào 5 quẻ Tỉ: để cho người ta tự do, ai
phục tòng mình thì tới, không thì cứ rút lui, mà mình thì phải trung,
chính; nếu mình có tà tâm, mưu cầu tư lợi, dùng thủ đọan để ép buộc
người ta thì người ta miễn cưỡng theo rồi cũng chống lại mình. Có khi để đoàn kết toàn dân, mình phải biết giải tán bè phái của mình, như lời khuyên trong các hào 3,4 quẻ Hoán. - Hào 3 bảo: đánh tan lòng riêng tư của mình đi thì không hối hận. -
Hào 4 : giải tán bè phái của mình đi, rất tốt , vì như vậy là giải tán
cái nhỏ để tập hợp thành cái lớn (như tập hợp cả quốc dân mà cùng lo
cứu nước). - Ngược lại với quẻ Hoán là quẻTụy nói về sự lập đảng hay liên minh. Thoán
truyện quẻ đó khuyên người lập đảng hoặc vị minh chủ phải là bậc đại
nhân, tài đức hơn người, được mọi người tín, trọng, phải giữ vững đạo
chính có đường lối chính đáng, nhất là phải có lòng chí thành như khi
vua vô nhà Thái Miếu dâng lễ. Đại tượng truyện khuyên thêm: khi nhóm họp, nên có tinh thần hoà thuận. -
Cách dùng người : không có một quẻ riêng nói về cách dùng người, nhưng
xét các hào 5, 4, 2 trong cácq thì chúng ta gặp rất nhiều trường hợp
dùng người. hào 5 thường là vị nguyên thủ, người cầm đầu, có quyền
nhất;hào 4 thường là vị cận thần tay chân của vị nguyên thủ; còn hào 2
thường là một chức quan lớn hay nhỏ ở xa nguyên thủ; hoặc một kẻ sĩ
chưa ra làm quan. hào 5 và hào 2 tương ứng với nhau nhưng ở xa nhau;hào
5 và hào 4 không tương ứng nhưng ở gần nhau. Trường hợp tốt nhất
là vị nguyên thủ có tài đức mà gặp được một kẻ sĩ cũng có tài đức,
người trên biết tin dùng người dưới, người dưới cùng chí hướng với
người trên thì dễ làm nên việc lớn như hào 5 và hào 2 quẻ Càn. Người
trên ít tài nhưng sáng suốt, biết dùng người có tài thì cũng tốt, như
hào 5 với hào 2 quẻ Lâm, hoặc như hào 5 và hào 2 quẻ Sư: vua trao toàn
quyền cầm quân cho một vị tướng lão thành. Ông vua có tài, có đức
mà cận thần biết phục đức sáng của vua, đem tài đức ra giúp đời thì
cũng tốt, như hào 5 và hào 4 quẻ Quán. Nếu hào 5 và 4 đều là dương
cương cả, vua và cận thần đều có tài, đều cương cường cả thì dễ lập
được sự nghiệp, nhưng ần thần công lao lớn quá mà lại được lòng dân nữa
thì khi công thành rồi, sẽ bị vua ghen ghén mà nguy cho mình, như
trường hợp Nguyễn Trãi. Nếu hào 5 và 4 đều khiêm nhu như trong quẻ Khiêm thì tốt cho 4 những không tốt mấy cho 5, vì 5 thiếu uy. Theo
luật âm dương thì như vậy, nhưng D phải có tính cách biến thông, cho
nên tốt xấu còn tùy ý nghĩa của cả quẻ, tức của thời (coi tiết Thời ở
sau), chứ không phải chỉ tùy ý nghĩa của mỗi hào. Nguyên tắc chung
trong sự dùng người là người trên phải chí thành mới cảm hoá được người
dưới, nhưng cũng phải có uy mới sai khiến được họ; mà người dưới cũng
phải có lòng chí thành với người trên: như hào 5 và 2 quẻTrung phu (có
đức tin trong lòng, tức có lòng chí thành) - Hào 2 : ở ngôi chí tôn, có đức trung chính, thành tín, buộc được lòng thiên hạ. - Hào 2: Ứng với hào 5, cũng có đức dương cương, có lòng thành thực như 5, nên tương đắc nhau, như hạc mẹ gáy, hạc con họa lại. -
Hai hào đó họp thành một cặp rất tốt, cũng như hai hào 5 và 2 quẻ Càn.
Trái lại, hào 5 quẻ Đại Hữu tuy cũng có đức chí thành nhưng ở vị chí
tôn mà là âm, nhu nhược, nênTừ khuyên phải có chút uy. Hào 5 quẻ Khiêm
cũng vậy, tuy đắc trung thu phục được nhiều người, nhưng vì là âm, nhu
quá, không làm trọn sứ mạng trời trao cho, để lập một triều đại mới,
như vua Thang đuổi Kiệt mà cách mạng nhà Hạ, vua Võ diệt Trụ mà cách
mạng nhà Thương. Thoán truyện của Vũ Vương - chỉ nói “thay cũ đổi
mới là một việc phải lâu ngày người ta mới tin được”, vì người ta có
thói quen thủ cựu”, lại phải hợp thời, hợp chính đạo thì người ta mới
phục” Thoán truyện giảng thêm: phải sáng sốt, hoà duyệt (hợp lòng
dân) thì mới thành công. Mà như vậy là hợp đạo trời: trời đất thay đổi
bốn nùa, mà vạn vật mới sinh trưởng được MạnhTử của Chu Công bàn kỹ hơn
về điều kiện, tư cách người làm cách mạng, sự chuẩn bị và kết quả. Điều
kiện là phải hợp thời. tư cách là phải có địa vị, có tài (hào 1) tức
như Mạnh tử sau này nói, phải là một bực “thiên lại” có thể “thế thiên
hành đạo” được. Phải chuẩn bị kỹ, tạo những hoàn cảnh thuận tiện
để người trên kẻ dưới tin mình ( hào 2); nếu nóng nảy làm liều thì hỏng
việc, nên thận trọng tính toán kế họach ba lần ( hào 3), nên có lòng
chí thành, và biết uyển chuyển vừa cương vừa nhu ( hào 4) . Được
như vậy thì dân chúng hết lòng tin và sẽ thành công mĩ mãn, làm cho “xã
hội thay đổi, tốt đẹp, mới mẻ lên, như con hổ thay lông” hào 5). Tuy
nhiên, ta nên nhớ bản tính con người vốn ghét sự thay đổi thói quen.,
lối sống, cho nên chỉ có bậc quân tử mới thực tâm hiểu và theo sự cải
cách, còn hạng tiểu nhân thì chỉ miễn cưỡng theo ngoài mặt. Như vậy
cũng tốt đẹp rồi; và nên ngưng lại đừng cải cách hoài mà gây lòng oán
của dân ( hào 6) . Tóm lại, bất đắc dĩ mới phải làm cách mạng. Lời
khuyên đó thật sáng suốt, thấu tâm lý con người; phải là người đã làm
cách mạng như Chu Công mới nghĩ tới. quẻ Cách này là tài liệu duy nhất tôi được thấy về thuật làm cách mạng thời Tiên Tần. Trong
một cuộc cách mạng dù hợp thời, hợp lòng dân tới mấy, thế nào cũng có
một số người vì trung thành với triều đại cũ, vì tư lợi, chống đối mình
, gây rối lọan, mình phải dẹp để giải nạn. Đó là ý nghĩa quẻ Giải. Thoán
Từ và Thoán Truyện quẻ này khuyên: Khi giải nạn xong, thì dân chỉ mong
an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị,
đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng
phải trừ nhưng tệ đã gây ra những họan nạn trước kia, cũng phải sửa đổi
cho sự bình định được lâu dài, công việc đó làm cho mau xong (vẫn là ý
đừng đa sụ) thì tốt. Đại Tượng truyện bảo nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, nếu không thể tha được thì cũng nên giảm án nhẹ đi. những lời khuyên đó đều xác đáng. *
Chúng
tôi nhận thấy trong 64 quẻ, không quẻ nào nói riêng về việc tế lễ, một
việc thời xưa từ nhà cầm quyền tới dân đều cho là rất quan trọng; nhưng
rải rác trong nhiều quẻ , và nhiều hào hễ ngẫu nhiên nói về tế lễ thì
bao giờ cũng khuyên trước hết phải chí thành. Như quẻ tụy nói về
việc nhóm họp, phải chí thành, Thoán Từ bắt đầu bằng 4 chữ “vương cách
thái miếu” (Như vua đến tế lễ ở nhà thái miếu). quẻ Hoán, trái
lại, nói về việc lìa tan, cũng khuyên phải có lòng chí thành và Thoán
Từ cũng mở đầu bằng 4 chữ “vương cách thái miếu” Vậy người Trung
Hoa cho công việc tế lễ cần có lòng chí thành nhất, và hễ nói đến lòng
chí thành thì lấy việc tế lễ làm thí dụ. Có lòng chí thành là đủ, lễ
vật nhiều ít là điều phụ. Như quẻTụy, Thoán Từ bảo: “lễ vật hậu hĩ
thì tốt” (dụng đại sinh , cát) nhưng hào 2 cùng quẻ đó lại bảo “chí
thành thì như trong việc tế lễ, dùng lễ mọn cũng tốt. quẻ Ký tế,
hào 5 lại nói: “Hàng xóm bên đông ( hào 5) mổ bò (làm tế lễ lớn) mà
thực tế không được hưởng phúc bằng hàng xóm bên tây ( hào 2) chỉ tế lễ
sơ sài”. Cả hai đều có lòng chí thành ngang nhau, nhưng gặp thời hơn
nên may mắn hơn, được hưởng phúc hơn. Độc giả có thể coi thêm Thoán Từ quẻ Quán, các hào từ hào 2 quẻ Tốn, hào 2 quẻ Thăng, hào 5 quẻ Khốn.
hết: Chương 6
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Mar/2009 lúc 11:01pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
chương 7
TU THÂN, ĐẠO LÀM NGƯỜI
Thoán
từ và Hào từ thường khuyên ta nên có thái độ ra sao, giữ những đức nào,
nhưng vẫn nhằm mục đích xu cát tị hung, nghĩa là vẫn chú trọng vào việc
bói toán Thoáng truyện còn dựa vào Thoán truyện mà bàn rộng thêm về đạo
làm người; đến Tượng truyện thì coi thường việc bói mà chỉ xét về đạo
làm người, đem nhiều tư tưởng của Nho giáo vô Kinh dịch , tới nỗi có
người trách tác giả Tượng Truyện là “làm công tác tuyên truyền” cho đạo
Nho, như trong chương II chúng tôi đã nói. Chúng tôi lấy thí dụ quẻ Đại Súc để độc giả nhận thấy rõ điều đó. Thoán
Từ chỉ nói: Chúa lớn: chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. không phải
ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt (Đại súc: lợi trinh, Bất
gia thực, cát) Thoán truyện giảng: chứa lớn là chứa đức cương kiện
của quẻ Càn, đức thành thực, rực rỡ của quẻ Cấn (vì quẻ Đại Súc gồm quẻ
Càn ở dưới, quẻ Cấn ở trên), mỗi ngày phải sửa đức cho mới hòai (nhật
tân kì đức). Giảng như vậy tuy có rộng thật, nhưng còn dựa vào lời
Thoán truyện . Tới Đại Tượng Truyện thì bảo người quân tử phải tìm
tòi nghiên cứu, những lời xưa vết cũ của Thánh hiền, mà biết cho đến
nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn để nuôi chứa đức của mình (Quân
tử dĩ đã thức tiền ngôn vãng hành dĩ súc kì đức). Rõ ràng là một bài
luân lý không còn liên quan gì tới việc bói toán nữa. CHÍN ĐỨC ĐỂ TU THÂN Hệ Từ hạ chỉ ra chín quẻ mà người quân tử phải nghiền ngẩm để sửa đức, tức các quẻ : - Lý cái nền của đức, vì Lý là lễ, cung kính, thận trọng. - Khiêm, cái cán của đức, khiêm là khiêm tốn , tự hạ. - Phục, cái gốc của đức, vì phục là trở lại, khôi phục lại thiên lý. - Hằng, là cái bền vững của đức, vì hằng là giữ lòng cho bền, không thay đổi. - Tốn, là sự trau giồi đức, trau giồi bằng cách bớt lòng dục, bớt lòng giận. - Ích, là sự nảy nở đầy đủ của đức, ích có nghĩa là tăng tiến cái đức. -
Khôn là để nghiệm xem đức mình cao hay thấp, vì có gặp thời khốn, gặp
nghịch cảnh mới biết mình giữ đựơc đạo, được tư cách không. -
Tỉnh, là sự dày dặn của đức, tỉnh là giếng là nơi nước không cạn mà
cũng không tràn, giúp ích cho đời, công dựng đầy khắp dày dặn. - Tốn, là sự chế ngự đức, để được thuần thục, linh hoạt, biết quyền biến. Chín
đức đó quan trọng thật đấy, nhất là đức Khiêm mà Thoán truyện quẻ Khiêm
rất đề cao, coi nó là đạo của trời đất: “đạo trời giao tế xuống dưới
thấp, đó là đức Khiêm của trời, vì thế mà phát dục được vạn vật, công
tạo hoá càng ngày càng rực rỡ, đạo đất chịu ở dưới tháp hết thảy vạn
vật, đó là đức khiêm của đất, vì thế mà khí âm bốc lên giao tế với khí
dương, như vậy là trời đất cùng khiêm cả (Thiên đạo hạ tế nhi quang
minh, địa đạo tí nhi thượng hành). “Đạo trời làm vơi chỗ đầy mà thêm
vào chỗ thiếu (khiêm) đạo đất biến đổi (làm sụp) chỗ đầy mà đổ vào chỗ
thiếu; quỉ thần làm hại chỗ đầy là làm phúc cho chỗ thiếu; đạo người
ghét chỗ đầy yêu chỗ thiếu. Khiêm thì cao qúi mà sáng, thấp (tự hạ) mà
không ai có thể vượt qua, đó là mức cuối cùng của người quân tử” (Thiên
đạo khuy doanh nhi ích khiêm, địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm; quỉ
thần hại doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Khiêm
tôn nhi quang, tí nhi bất khả du, quân tử chi chung dã) Câu cuối:
“Khiêm tôn nhi quang, tí nhi bất khả du “sao mà có giọng Đạo đức kinh
thế: “Thánh nhân hậu kì thân nhi thân tiên” Chương 7, “Thánh nhân dục
thượng dân bất dĩ ngôn hạ chi, dục tiến dân tất dĩ thân hậu chi” chương
66. Tiểu Tượng truyện hào I quẻ Khiêm cũng khuyên như Lão tử: Người quân tử Khiêm rồi lại khiêm, tự ti để nuôi đức mình” (Khiêm khiêm quân tử, ti di tự mục dã) “Người
quân tử khiêm rồi lại khiêm, dùng đức đó mà qua được sông lớn (qua được
tai nạn)” (Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên). Hào 3: “Bậc quân tử cần mẫn, khó nhọc mà khiêm thì vạn dân đều theo” (Lao khiêm quân tử , vạn dân phục dã). Đạo khiêm còn được nhắc trong nhiều chỗ khác nữa, như trong: - quẻ Đại Hữu, hào 4: Tuy giàu có mà đừng làm ra vẻ thịnh vượng, phải khiêm tốn thì không có lỗi. -
Quẻ qui Muội, hào 5 : Em gái vua Đế Ất mà gả cho người bình dân. Và khi
về nhà chồng, y phục lại không đẹp bằng y phục cô phù dâu, như vậy là
rất khiêm tốn, tốt. - Quẻ Minh di, Thoán truyện khuyên nên giấu
bớt sự sáng suốt của mình đi, mà vẫn giữ được chí hướng, không khoe tài
khoe giỏi, cũng là khiêm tốn nữa. Nên so sánh với câu “Tri, bất tri,
thượng” (Biết mà làm ra bộ không biết , như vậy là sáng suốt nhất)
Chương 71 trong Đạo Đức Kinh. THÊM VÀI ĐỨC NỮA Nhưng nào chỉ
có 9 đức nêu trong Hệ từ hạ đó mà thôi, còn nhiều đức khác cũng quan
trọng, như đức cường, tự cường trong quẻ Càn. Càn gồm 6 hào đều là dương cả, tượng trưng cho trời. “Sự
vận chuyển của trời mạnh người quân tử (nên theo đạo của trời) mà tự
cường mãi, không nghỉ” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức –
quẻ Càn – Đại Tượng truyện) Hào từ hào 3 quẻ Càn cũng nói: “Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường” (Quân tử chung nhật càn càn) Còn nhiều quẻ khác nữa cùng thường nhắc tới đạo cường như: -
Quẻ Mông, Đại Tượng truyện giảng: quẻ này ngoại quái là Cấn, núi, nội
quái là Khảm, nước suối, vậy là dưới núi có suối phun ra, thế nước
mạnh; người quân tử nên mạnh mẽ như giòng suối đó, quả cảm hành động để
nuôi cái đức. (Sơn hạ xuất tuyền, mông; quân tử dĩ quá hành dục đức). -
Quẻ Hằng, Đại Tượng truyện giảng: quẻ này ngoại quái là Chấn, sâm, nội
quái là Tốn; gió; (trời đất có lúc biến động như sấm, gió, nhưng đạo
trời thì vạn cổ y nhiên), người quân tử nên bắt chước thế mà tự lập
không bao giờ thay đổi ý chí (lôi phong hằng, quân tử dĩ lập, bất dịch
phương) . - Quẻ Nhu, Thoáng truyện bảo: Cương kiện mà không hãm
(nghĩa là thông đạt) thì không khốn cùng: (Cương kiện nhi bất hảm, kỳ
nghĩa bất khốn cùng hĩ) - Quẻ Đại Hữu, Thoáng truyện giảng: Nội
quái là Càn, tức ở trong có đức cương kiện, ngoại quái là Ly là ở ngòai
có đức văn minh; như vậy đức của quẻ Đại Hữu là cương kiện mà văn minh,
ứng với trời mà tùy thời thi hành thì rất tốt (kỳ đức cương kiện nhi
văn mình, ứng hồ thiên nhi thời hành, thị dĩ nguyên hanh). - Quẻ
đại Súc, Thoáng truyện bảo: cứng mạnh, thành thực, rực rỡ mỗi ngày phải
sửa đức cho mới hòai, ở ngôi tôn, nghiêm nghị mà chuộng người hiền,
ngăn được sự mạnh, như vậy là bậc đại chính (Cương kiện, đốc thực, huy
quang, nhật tân kỳ đức, cương thượng nhi thượng hiền, năng chỉ kiện,
đại chính dã). - Còn nhiều chỗ khác, không thể dẫn hết được. Dịch
học phái cho hào dương tượng trưng người quân tử, mà dương thì cương
kiện vậy đức đầu tiên của người quân tử phải là tự cường bất tức. Nhật tân, cương quyết tự trau giồi đạo đức không nghỉ, mỗi ngày thêm một điều mới . Nhưng
Dịch có dương thì có âm, có Càn thì có khôn, cho nên đức nhu cũng được
trọng, mà như vậy không phải là mâu thuẫn vì Dịch học chủ trương phải
tùy thời, phải biết biến đổi, không cố chấp; đàm ông trọng cương, đàn
bà trọng nhu, người trên nên cương, người dưới nên nhu, lại có lúc
người trên cũng nên nhu mà người dưới cũng nên cương. Cương là ý nghĩa
của quẻ Càn, nhu là ý nghĩa quẻ Khôn. Sau Càn tiếp ngay tới Khôn. Dịch
cho Khôn có đức nhu thuận, nhờ vậy mà tiếp tục công việc của Càn để
nuôi vạn vật, chở được vạn vật. Cho nên bài học của Càn là “quân tử tự
cường bất tức”, thì bài học của Khôn là “Quân tử dĩ hậu đức tải vật”
(Người quân tử nhờ đức đầy mà dung chở được vạn vật. đại Tượng truyện
quẻ Khôn). Thoán Truyện bảo: “An tĩnh giữ đức trinh (bền vững), hợp với đạo vô cùng của đất” (An trinh chi cát, ứng địa vô cương) -
Quẻ Hằng cũng trọng đức nhu: “Hằng nghĩa là lâu dài: cứng ở trên mà mềm
ở dưới, sấm gió cùng hiện với nhau (vì quẻ Hằng gồm quẻ Chấn ở trên là
sấm, quẻ Tốn ở dưới là gió, sấm thì cương, gió thì nhu), nhún nhường mà
động, cứng mềm đều ứng nhau” (Hằng , cữu dã, . . Cương thượng nhi nhu
hạ, lôi phong tương dữ, tốn nhi động, cương nhu giai ứng Thoán truyện) -
quẻ Tùy cũng khuyên phải cương mà cũng phải nhu: “Quẻ tùy: cái cứng đến
mà ở dưới cái mềm (vì gồm quẻ Chấn là sấm, cứng, ở dưới quẻ đoái là
chằm, mềm), động mà đẹp lòng (đoái còn có nghĩa là đẹp lòng)” – (Tùy:
cương lai nhi hạ nhu, động nhi duyệt –Thoán truyện). Tự cường bất
tức, cương kiện là chủ trương của Nho. Chúng ta nhớ cách Khổng tử dạy
học, bắt môn sinh phải tận lực tiến hòai, mỗi ngày mỗi tháng biết thêm
được điều mới mà không quên điều cũ, luôn luôn ôn cố tri tân, “học thì
như sợ không kịp, học được điều gì rồi thì sợ quên mất” (Học như bất
cập, do củng thất chi – Luận ngữ Thái Bá – bài 17) , khiến môn sinh ưu
tú nhất của ông là Nhan Hồi phải than thở: “Thầy – tức Khổng tử -
dùng thư tịch màm ở rộng tri thức ta, dùng lễ tiết ước thúc hành vi của
ta, dù ta muốn thôi cũng không được. Ta tận dụng năng lực mà cơ hồ vẫn
thấy có cái gì cao lớn sừng sửng ở phía trước, ta muốn leo lên tới cùng
mà không sao theo cho nổi” (Luận ngữ - Tử Hãn bài 10). Nhu, trái lại là chủ trương của Lão. Đạo
đức kinh Chương 35, Lão bảo” Nhu nhược thắng cương cường, chương 78,
ông chứng minh : “Trong thiên hạ không có gì nhu nhược hơn nước, mà phá
được cái cương cường thì không gì hơn nó: như nước chảy hòai mà đá phải
mòn. Chương 76 ông lại nói: “Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi
chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết thì khô
cứng. Cho nên cứng mạnh là cùng lòai với chết, mềm yếu là cùng lòai với
sống” (Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỹ tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả,
tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ) Hai chủ trương ngược nhau: Khổng hữu vi nên trọng cương cường, Lão vô vi nên thích nhu nhược. Lão
biết rằng “vật cùng tắc phản”, thịnh cực thì suy, đầy rồi thì vơi, cho
nên không muốn lên tới cùng, không muốn thịnh, không muốn đầy, không
muốn ở trên cao, không muốn mạnh. Không muốn cương mà muốn yếu, muốn
nhu. Ở thời loạn thì thái độ đó khôn, yên thân. Dịch học phái cũng
nghĩ rằng “vật cùng tắc phản”, cho nên cũng trọng đức nhu; những cũng
trọng đức cương, cho rằng phải có cả cương lẫn nhu như trong hai quẻ
Hằng và Tùy tôi mới dẫn ở trên. Hơn nữa, dịch còn cho rằng kẻ dưới
phải thuận tòng người trên, nhưng phải lựa bậc đại nhân có tài đức mà
tin, mà thuận tòng (Thoán truyện quẻ tốn) chứ không phải thuận tòng bất
kỳ kẻ trên nào, lại nên thuận tòng vừa phải thôi, nếu quá mức thì đáng
xấu hổ (như hảo quẻ Tốn), nếu thuận lòng tới mực ti hạ, siểm nịnh, mất
tư cách con người thì chẳng những xấu mà còn bị hoạ nữa. (như hào 6 quẻ
Tốn) Vậy Dịch học phái đã dung hòa được Khổng và Lão. *
Dưới đây chúng tôi dẫn thêm hai quẻ nữa để chứng minh thêm tính cách dung hòa đó: Quẻ Cấn và quẻ Bí. Khổng
hữu vi, tất nhiên chủ trương động, ông (và cả Mặc tử nữa) suốt đời bôn
ba lo việc thiên hạ, ít ai động hơn ông, nhưng ông không đặt ra vấn đề
động tĩnh, có lẽ vì cho nó là tự nhiên quá khỏi phải bàn. “thệ giả như
tư phù, bất xả trú dạ” (Luận ngữ - Tử Hãn, 16) đạo trời như vậy thì đạo
người cũng vậy. Lão , trái lại, từ đời sống đến tư tưởng đều chủ
tĩnh. Ông cho “tĩnh là chủ của náo động” (tĩnh vi táo quân) – Đạo Đức
kinh Ch.26) Chương 37, ông bảo: “không ham muốn để được điềm tĩnh
thì thiên hạ sẽ tự yên” (Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định). Càng
động, càng muốn cựu đời thì thiên hạ càng loan, cứ yên tĩnh, không ham
muốn gì cả thì thiên hạ sẽ trị” Hoạt động, cứu đời mà làm gì? Mọi
vật trùng trùng (theo luật tự nhiên) sẽ trở về cỗi rể của nó. Mà trở về
cỗi rễ, là tĩnh” (Phù vật vân vân, các phục qui kỳ căn. Qui cân viết
tĩnh – Chương 16) Chương 45, ông nhắc lại: “thanh tĩnh mới chính được
thiên hạ” (Thanh tỉnh vi thiên hạ chính). Dịch dĩ nhiên cũng chủ
trương động như Khổng; âm dương có động thì mới giao nhau, thay thế
nhau, mới có biến. Trong năm quẻ căn bản, quẻ Chấn, quẻ Tốn, có nghĩa
động. Nhưng quẻ Cấn quẻ đoái thì tĩnh. Tĩnh nhất là quẻ Cấn; ta vẫn nói
trơ trơ như núi Cấn có nghĩa là núi, là rừng, là tĩnh, là trọng hậu
nữa. Thoáng Truyện quẻ Cấn giảng : Hễ tĩnh thì con người không bị
tình dục chi phối, không làm điều ác, không nghĩ tới mình (bất hoạch kỳ
thân) mà cũng quên cả người khác, tức là không phân biệt mình và người,
như vậy thì không có lỗi. Ý đó giống ý của Lão. Nhưng Thoán truyện
lại nói thêm: “Lúc đáng ngừng thì ngừng, đáng đi thì đi, động tĩnh đều
hợp thời, thì đạo đó (đạo ngưng) mới sáng sủa” (thời chỉ tắc chỉ, thời
hành tắc hành, động tĩnh bất thất kỳ thời, kỳ đạo quang mình). Đại tượng truyện khuyên người quân tử chỉ nên ngừng ở chỗ làm trọn bổn phận của mình. Vậy là dịch chủ trương động mà cũng trọng tĩnh, nhưng không quá đề cao tĩnh như Lão. Một
vấn đề nữa: Lão chủ trương “qui căn” , trở về gốc, về sự chất phác thời
nguyên thủy. Muốn vậy thì phải “tuyệt thánh khí tri”, “tuyệt xảo khí
lợi”, (dứt thánh, bỏ tri, dứt trí xảo, bỏ lợi), mà “kiến tố bảo
phác”,(ngòai thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác) –
Chương 19. Cái gì người ta gọi là văn minh thì phải bỏ hết. Chương 28,
ông nhắc lại: “Phục qui ư phác” trở về chất phác, mộc mạc như gỗ chưa
đẽo). Khổng tử không cực đoan như vậy, trọng văn minh mà cũng
trọng chất phác: “Chấc phác thắng văn nhã thì là người quê mùa, văn nhã
thắng chấc phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư); vấn và chất
đều nhau mới là người quân tử” (Chất thắng văn tắc dã; văn thắng chất
tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử: Luận ngữ - Ung dã – 16) Dịch
có vẽ hơi trọng chất (phác) hơn văn (vẻ). Thoán Từ quẻ Bí bảo: “Làm
việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi chỉ bé nhỏ thôi” (Bí; hanh, tiểu
lợi). Thoán truyện: bàn thêm: cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) thì tốt, còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế. Đại Tượng truyện cũng khuyên: việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được, còn việc quan trọng (. . .) thì đừng tô điểm thêm. Hào
5 dặn thêm: trang sức mà tằn tiện thì bị chê cười, nhưng như vậy còn
hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên rốt cuộc
vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân. (Tiểu Tượng truyện) Hào 6, ý nghĩa còn rõ hơn: Lấy sự tố phác như màu trắng (không màu mè gì cả ) làm trang sức thì không có lỗi (Bạch bí, vô cữu). Vậy,
Dịch tuy cũng cho có trang sức mới là văn minh như Khổng, nhưng vẫn
trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng; tóm lại hơi
chịu ảnh hưởng của Lão. Tổng hợp lại chỉ có hai chữ Trong
64 quẻ gần như không quẻ nào không khuyên ta một đức này hay đức khác
(những quẻ Trung phu, Di, Gia nhân, Tỉ, Tụy, Đại hữu . . .trong các
mục. Việc hằng ngay, Việc trị dân ở trên đều chứa ít nhiều lời khuyên
về đạo làm người cả), liệt kê ra thì cực phiền toái, mà tổng hợp thì
rất đơn giản, chỉ gồm trong 2 chữ Trung Chính như Trương Kĩ Quân đã
nói: “Đạo lý trong thiên hà (theo Dịch) chỉ là khiến cho việc không
trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính”. Trung chính
là quan niệm căn bản của Dịch: muốn đoán tính cách cát hung của một
hào, Dịch xét trước hết xem hào đó có chính, trung không, có được ứng
viện không và hào ứng viện nó có chính trung hay không. Chính. Chính không phải chỉ có nghĩa là ngay thẳng, mà còn có nghĩa là hợp chính nghĩa, hợp đạo. Phần
Kinh ít dùng chữ chính mà thường dùng chữ trinh, Trinh là chính và bền,
như trong Thoán Từ các quẻ Càn, Khôn, Đại Tráng, Hằng . . hoặc trong
các hào 1, 3, 5 quẻ Hằng; các hào 2, 3,4 quẻ Đại Tráng. Nhưng
trong phần Truyện (Thoáng Truyện, Tượng Truyện) thường dùng chữ chính
để thay chữ trinh. Như Thoán Truyện quẻ Đại Tráng bảo chính đạo là tĩnh
của trời đất (Chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến dã). Quẻ Lí khuyên ta ở đời phải giữ tính trong trắng và đường chính (hào 1 và 2). Quẻ
Phục bảo phải trở về đạo (phản phục kỳ đạo), tức trở về điều thiên (hào
5), nếu không thì sẽ bị tai vạ (hào 6). Như vậy là sửa đổi để trở về
đường chính. Quẻ Vô Vọng có nghĩa là không càn bậy hợp với chính
đạo; cứ thấy việc chính thì làm, không tính toán cái lợi trứơc rồi mới
làm (hào 2); và nếu chẳng may có gặp tai nạn thì cứ thản nhiên, rồi tai
nạn sẽ qua khỏi ( hào 5) . Tôi chỉ dẫn mấy thí dụ trên (còn rất
nhiều nữa) để độc giả thấy quan niệm về chính trong Dịch. Có thể coi nó
là đạo của người quân tử. Người Trung Hoa có từ ngữ “chính nhân quân
tử” là nghĩa vậy. Trung Nhưng Dịch cho rằng chính không
quí bằng Trung, vì hễ trung thì cũng là chính, mà chính chưa chắc đã là
trung (trung là không thiên lệch). Như hào 2 quẻ Đại tráng. Nó là
hào dương ở vị âm (chẵn: 2) tức bất chính (dương ở vị dương, âm ở vị âm
mới là chính ), nhưng nó ở giữa nội quái, thế là đắc trung, mà trung
thì không bao giờ bất chính, cho nên Hào từ khen là tốt. Hào 2 quẻ Hằng cũng vậy: cũng là dương ở vị âm, chỉ nhờ đắc trung mà không phải hối hận. Nên coi thêm hào 2 (dương) quẻ Tốn, và hào 2 (dương) quẻ Vị tế. Phan
Bội Châu (Chu Dịch I – trang 233) cho rằng người Trung Hoa đặt chữ
chính trước chữ trung vì quí trung hơn chính, trung bao gồm được chính,
chứ chính không bao gồm được trung. Theo phùng Hữu Lan thì Huệ
Đống đếm trong Thoán Truyện được 35 quẻ và trong Tượng Truyện được 36
quẻ nói về đức Trung, nghĩa là số quẻ chiếm già nửa Kinh Dịch. Khi thì
gọi là trung chính hay chính trung, đại trung, khi thì gọi là trung
đạo, trung hành, hành trung, cương trung, nhu trung . . . Trung là tư tưởng của Khổng phái, Lão không hề nói tới. Luận ngữ đầu thiên Nghiêu viết chép: “*(Khi
nhường ngôi cho ông Thuấn) vùa Nghiêu bảo: “Hởi ông Thuấn, mệnh trời
tuần hòan, nay ngôi vua về ông: ông nên thành thực giữ đạo trung –
(dõan chấp kỳ trung) – Nếu dân trong bốn bể khốn cùng thì lộc trời (ban
cho ông) sẽ mất hẳn đấy”. Về sau, vua Thuấn lại truyền những lời đó cho
ông Vũ” . không biết đoạn đó có thực là lời của Khổng tử , và có đúng
không. Nếu đúng thì “Trung” là tư tưởng truyền lại từ Nghiêu, Thuấn. Điều chắc chắn là Khổng tử rất trong đức trung. Thiên Ung dã, bài 27 ông bảo: “Trung dung là đức cực đẹp”.(Trung dung chi vi đức, kì chí hĩ hồ!). Ông
chê sự thái quá và sự bất cập, như trong bài 15 thiên Tiên tiến, ông
cho Tử Trương là thái quá. Tử Hạ là bất cập, mà thái quá cũng như bất
cập (quá do bất cập dã), đều xấu cả. Trong bài 21 thiên Tử lộ, ông
lại bảo: “không được hạng người trung chính để truyền đạo cho (hoặc để
giao thiệp) thì tìm hạng người cuồng phóng hoặc cẩn hậu giữ tiết tháo
vậy. người cuồng phóng có tinh thần tiến thủ, người cẩn hậu giữ tiết
tháo thì không chịu làm điều xấu”. (Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất
dã cuồng quyền hồ! Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã). Cuồng là hạng thái quá, quyến là hạng bất cập. Theo
Tử Tư, cháu nội ông, thì ông còn nói: “Người quân tử giữ đạo trung
dung, kẻ tiểu nhân làm trái đạo trung dung. Cái trung dung của người
quân tử là đã có đức của người quân tử mà còn biết tùy thời cho hợp lẽ
trung”. (quân tử chi trung dung dã, quân tử nhi thời trung) – Trung
dung chường 2). Tử Tư trong cuốn TrungTrung Dung đem tư tưởng đó
của Khổng, diễn rộng cho có tính cách siêu hình, cho trung là cái gốc
lớn của thiên hạ, hòa là cái đường đi thông suốt trong thiên hạ, hể
trung hòa rất mực thì trời đất được yên vị, muôn vật được phát triển,
sung sướng. Quan niệm “trung” trong Dịch gần với quan niệm Trung
dung hơn là với quan niệm trong luận ngữ chỉ đúng về phương diện tu
thân, học đạo, về phương diện thị phi mà coi trọng đức trung, cho thái
quá và bất cập đều xấu như nhau. Dịch theo luật âm dương trong
thiên nhiên, thấy cái gì thái quá thì gây phản ứng, nên khuyên phải
trung, phải quân bình để tránh phản ứng, tránh hoạ. Trung tức là
có chừng mực :”Trời đất có chừng mực nên mới thành bốn mùa” (Thoán
truyện quẻ Tiết) mà vạn vật mới phát triển được. Chừng mực cũng là luật
quân bình, nắng không nắng qúa, mưa không mưa quá, nắng mưa, ấm lạnh
phải thay nhau để điều hòa khí hậu. Cái gì thịnh quá thì phải suy, suy
quá thì sẽ thịnh, Khổng,Lão, Dịch học phái đều thấy như vậy. Nhưng Lão
cực đoan, không muốn thịnh, không muốn tiến, chỉ muốn ở dưới thấp, muốn
yếu “thu thư” (giữa phận con mái), thủ nhục (chịu nhục, kém người); còn
dịch và Khổng muốn tiến, muốn thịnh, muốn mạnh, nhưng tới một mức nào
thôi. Lão trọng âm, vô vị: Dịch trong dương, hữu vi. Nhưng tới một mức
nào thôi. Lão trong âm, vô vị; Dịch trong dương , hữu vi nhưng hữu vi
vừa phải, tránh cực đoan. Cho nên hầu hết các quẻ tốt trong Dịch, hào cuối cùng đều xấu: lúc đó đã thịnh cực rồi, bắt đầu suy. Như
quẻ Càn mà Dịch cho là quẻ rất tốt, có đủ các đức nguyên hanh lợi
trinh, mà hào 6 có điều ăn năn, vì “rồng lên cao quá”, không xuống được
nữa’ và gặp hào đó thì không nên hoạt động gì nữa mà sớm rút lui đi để
khỏi phải hồi hận. Hào 6 1 Thái cũng vậy. Tới cuối thời thông
thuận rồi, sắp qua thời Bĩ, bế tắc nên hào từ khuyên: đừng hành động
nữa mà sẽ thất bại xấu hổ. Nhưng quẻ Bĩ thì hào cuối lại tốt:
“trước còn bĩ, sau thì mừng” vì bỉ cực thì thái lai. (Những quẻ xấu
khác cũng vậy, đa số hào cuối đều như các quẻ Bác, Độn, Khuê, Kiến,
Hoán . . ) Quẻ Thăng cũng là một quẻ tốt, vì là thời tiến lên, hào
cuối cùng, Hào từ cho là xấu, vì quá tham, cứ muốn tiến hòai, và khuyên
phải sửa đức cho hợp đạo chính thì mới có lợi. Như trên tôi đã
nói, Dịch cho cương cường là một đức tốt, Nhưng quá cương thì xấu.
Chẳng hạn quẻ Đại quá có tới 4 hào dương ở giữa và chỉ có 2 hào âm trên
và dưới. đại quá có nghĩa là lớn quá. Hào từ ghét những hào quá cương
(hào 3 và 6); còn hào quá nhu như hào 6 (thể và vị đều nhu) thì tuy
không có lỗi Nhưng cũng cho là xấu. Hào 1 thể nhu mà vị cương ; hào 2
và 4 thể cương mà vị nhu, nghĩa là vừa cương vừa nhu thì tốt hoặc không
có lỗi. Vậy là Hào từ trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.
Ngay như đức biết tiết chế, một đức hợp với đạo trời, mà quẻ Tiết, hào
5 cũng bị chê là hung vì tiết chế tới mức quá đáng, khiến người ta cực
khổ, không ai chịu được lâu mà sẽ oán. Lòng thành tín vẫn là tốt,
cần thiết trong sự giao thiệp với mọi người, trong việc trị dân, Nhưng
cũng phải đừng thái quá tới nổi không biết biến thông, như hào 5 quẻ
Trung phu; mà nên có đức trung như hào 2. Hào này là dương, có đức tin,
mà ở giữa nội quái, là đắc trung, lại ứng với hạo ở trên cũng dương
cương, cũng đắc trung; hai hào cảm ứng, tương đắc với nhau như hạc mẹ
gáy, hạc con hoạ lại, rất tốt. Cả trong quẻ Sư nói về việc xuất quan mà cũng có hai hào khuyên phải giữ đức trung; -
Hào 2, ở trong quân, (vị tướng chỉ huy) có đức trung thì tốt, không tội
lỗi. Hào này dương cương mà đắc trung, ở giữa nội quái. - Hào 5,
âm, ở vị chí tôn, tương ông vua ôn nhu không gây chiến mà thuận đạo
trung (vì ở giữa ngoại quái), chỉ vì quân địch lấn cõi mà phải đánh
đuổi đi, nên không có lỗi. Đạo trời “Khuy doanh nhi ích khiêm”,
cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém thì bù đắp cho (Thoán
Truyện quẻ Khiêm), cũng chỉ là để cho vạn vật được cân xứng, quân bình,
nghĩa là đắc trung. Tuy nhiên trung không có nghĩa là lưng chừng như nhiều người hiểu lầm. Nếu
là lưng chừng thì đã không có hào 5 quẻ Càn. Quẻ này kể những bước
đường đời của bậc đại nhân có tài đức muốn lập sự nghiệp lớn để giúp
đời. Mới đầu như con rồng còn ẩn ( hào 1), rồi tài đức mỗi ngày mỗi
cao, đã có người biết tới ( hào 2), Nhưng vẫn chưa gặp thời còn phải
thận trọng (hào 3), rồi tới lúc có thể tiến được ( hào 4) , sau cũng
thành công ở hào 5. Như vậy đâu phải là lưng chừng, mà trái lại thận
trọng tiến tùy thời mà hành động cho tới khi đạt được mục đích. Nếu
lưng chừng thì đã ngưng ở hào 3 hay 4 rồi mà thất bại. Trung cũng
như nghĩa là nhu nhược, nếu nhu nhược thì ông vua trong hào 5 quẻ sư đã
không dám đánh đuổi quân địch lấn cõi mình, đã không giao quyền cho vị
tướng lão thành trong hào 2. Trung trong quẻ Càn chỉ có nghĩa là
lên cao tới cùng thì ngưng lại, trong quẻ Sư chỉ có nghĩa là không hiếu
chiến mà biết tự vệ. Trung, như Văn ngôn truyện nói, là biết lúc
nào nên tiến, lúc nào nên lui, biết vận trời (hòan cảnh) lúc nào còn
lúc nào mất mà xử sự cho hợp thời nhưng vẫn giữ được chính đạo (Tri
tiến thoái tồn vong, như bất thất kì chính), nghĩa là biết tùy trời cho
hợp đạo. Như vậy là trúng tiết độ; trúng tiết, sách Trung Dung gọi là
hòa. Theo Mạnh tử và Tử Tư thì Khổng tử chấp trung mà biết tùy
thời. Mạnh tử tôn Khổng là : “Thánh chi thời” (bậc thánh về đức tùy
thời hành động”; còn Tử Tư thì cho câu “quân tử nhi thời trung” là của
Khổng. . Nếu vậy thì Dịch học phái đã chịu ảnh hưởng của Khổng phái mà tiếp tục phát huy thuyết “thời trung” Chính, Trung lại gồm trong chữ Thời. Dịch
là biến dịch, có biến hoá mới thích hợp (duy biến sở thích – Hệ từ hạ,
Ch.8), cho nên trọng cái thời. vì biến đến cực thì trở lại, cho nên
trọng đức trung. Trung với thời, do đó mà liên quan mật thiết với nhau.
Thời gồm trung, vì phải hợp thời mới gọi là trung. Ở cảnh giàu sang
mà sống bủn xỉn, ở cảnh nghèo hèn mà sống xa hoa, thì không hợp thời,
không phải là trung . Thời gồm chính nữa vì chính mà không hợp
thời thì cũng xấu. Cương cường là đạo người quân tử mà ở cuối quẻ Càn,
không hợp thời, cho nên có hối hận. Vậy Dịch là chính trung, mà thực ra chỉ là hợp thời. “Cái nghĩa tùy thời lớn thật” (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai! – Quẻ Tùy). Thoán Truyện: - Quẻ Đại hữu bảo: “Ứng với trời và làm theo thời, nhờ vậy mà được tốt hơn cả” (Ứng hồ thiên nhi thời hành, thị dĩ nguyên hanh). - Quẻ Tốn: “Bớt, thêm, đầy, rỗng, cùng với mà lưu hành”, (Tốn, ích, doanh, hư, dữ thời giai hành). - Quẻ Cấn: “Lúc
đáng ngừng thì ngừng, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không thất thời,
đạo đó sáng sủa” (Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành. Động tĩnh bất
thất kì thời, kì đạo quang minh). Văn ngôn truyện cùng một chủ trương đó: “Bậc quân tử tiến đức tu nghiệp là muốn cho kịp thời” (Quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thời dã). Muốn kịp thời thì phải biến cách, phải thay đổi. Thoán Truyện quẻ Cách bảo: “Thay
đổi mà được lòng người tin . . thì rất tốt và chính đáng. Thay đổi mà
đáng thì ăn năn phải mất. Trời đất thay đổi mà có bốn mùa: Vua Thang,
vua Vũ đổi mạng (diệt Kiệt, Trụ mà lên làm vua) – thuận với trời mà ứng
với người. Cái thời của quẻ Cách lớn thay” (Cách nhi tín chi . . . đại
hanh dĩ chính. Cách nhi đáng, kì hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tử
thời hành; thang, Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách
chi thời đại hĩ tai!) *
Mỗi quẻ là một thời Cũng theo Huệ Đống, trong Thoán Truyện ó 24 quẻ , trong Tượng Truyện có 6 quẻ nói tới chữ Thời. Phan
Bội Châu bảo trong Thoán Truyện có 11 quẻ đề cao chữ thời: quẻ Di, quẻ
đại Quá, quẻ Giải, quẻ Cách chí nói tới Thời thôi; quẻ Dự, quẻ Độn, quẻ
Cấn, quẻ Lữ nói tới Thời mà kiêm với Nghĩa; quẻ Khảm, quẻ Khuê, quẻ
Kiển nói tới Thời mà kiêm với Dụng (Chu Dịch – trang 354) Hai nhà
đó chỉ kể những quẻ mà lời Thoán Truyện và Tượng Truyện khuyên đạo tùy
thời; chứ theo Dịch học phái thì 64 quẻ , quẻ nào cũng nói đến thời vì
mỗi quẻ là một thời. Chữ thời này có nghĩa rộng. Thái, Bĩ, Kí Tế
(đã xong rồi), Vị Tế (chưa xong), Khốn, Dự (vui vẽ), Nhu (đợi chờ) v.v.
. đều là thời cả; mà ngay đến Càn, Khôn, Khảm, Cấn . . cũng là thời nữa
: Càn là thời của một đại nhân, có tài đức, thời hành động; khôn là
thời của người dưới, thời nhu thuận, thời văn minh; Khảm là thời gian
nguy; Cấn là thời nên tĩnh, nên thận trọng, đề phòng . . . *
Hệ
từ hạ, Chương VII, mở đầu bằng một lời cảm thán: “Đạo Dịch hưng thịnh
lên ở thời Trung cổ chăng? (Trung cổ so với thời tác giả Hệ từ, tức
thời Văn Vương. Người làm Dịch (tức Văn Vương) có điều ưu tư, lo lắng
đấy chăng ? (Dịch chi hưng dã, kì ư trung cổ hồ? Tác giả Dịch, kì hữu ư
hoạn hồ?) Đoạn đó ám chỉ việc Văn Vương bị Trụ giam ở ngục Dữu Lí mà đặt raThoán Từ cho mỗi quẻ. Đọc
64 quẻ , chúng ta cảm thấy buồn rầu, ưu tư thật. Xã hội Trung Hoa trong
Dịch sao mà đen tối! cảnh nghịch nhiều hơn cảnh thuận, cảnh suy nhiều
hơn cảnh thịnh. Cảnh vui, thịnh, tôi chỉ thấy có bảy quẻ: - Dự (vui) - Thái (thông thuận, trái với bĩ) - Đại tráng (thời cường thịnh) - Phong (thời thịnh lớn) - Đại hữu (thời giàu có) - Thăng (thời đương lên) - Tấn (thời nên tiến) Trong
7 quẻ đó, không có quẻ nào thật tốt, không cảnh nào tác gia Kinh Dịch
không tô lên một vệt xám, không nhắc nhở ta: Coi chừng đấy, trong phúc
nấp hoạ đấy ( quẻ Dự, quẻ đại Tráng) phải đề phòng trước đi ( quẻ Đại
Tráng). Thái cực thì bĩ theo sau đấy (Thái); trong cảnh giàu có (đại
hữu) mà Dịch lại khuyên ta nên sống gian nan, đừng khoe của; đương lúc
vận lên (thăng), nên tiến (tấn), Dịch cảnh cáo ta: tham lam thì chết
đấy, tiến vừa vừa thôi, còn trong quẻ Phong là thời thịnh lớn, rất tốt
mà không có một hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe: phải cẩn
thận, phải thế này thế nọ thì mới tốt. Và khi công việc vừa mới
xong cũng như vừa mới qua sông (Kí Tế) thì đã tiếp ngay một quẻ bảo
rằng việc chưa xong đâu (Vị Tế) đừng mong gì được nghỉ ngơi. Thế thì có
chán không chứ! Còn cảnh lo buồn, cảnh nghịch, cảnh suy thì sao mà
nhiều thế. Bên kia chỉ có một quẻ Thái, thì bên đây có quẻ: - Bĩ. Rồi còn tiếp thêm một chuỗi nữa: - Khảm (nguy) - Truân (Gian truân) - Kiền (Gian nan, hiểm trở) - Rồi tới Khốn (Khốn đốn) - Đối với Dư (vui vẻ) thì có. - Chấn (lo sợ) - Minh Di (giấu tài đức đi, nép đi, không cho ai biết mình) - Tiểu súc (bị bọn tiểu nhân ngăn cản). - Bác (phải chống đối với bọn tiểu nhân đương tiến) Lại còn những cảnh: - Bị chia lìa : khuê - Phải trốn tránh: Độn. - Sau cùng la phải lưu lạc quê người : Lữ. Xã
hội hắc ám đó là xã hội thời Văn Vương (tác giả phần Kinh) thời Trụ,
thời suy của nhà Ân, mà cũng là xã hội thời Xuân Thu và Chiến Quốc,
thời suy của nhà Chu, thời của các tác giả phần Truyện. Vì chính các tác giả này trong khi giải thích phần kinh đã gởi vào đó tâm sự của mình, nhân sinh quan của mình. Ví
dụ quẻ Bĩ, thoán Từ của Văn Vương chỉ nói: “Bĩ không phải là đạo người
, vì nó không lợi với đạo chính của quân tử “ : chính Đại Tượng Truyện
mới khuyên: bĩ là bế tắc tới cùng cực rồi, hành động chỉ vô ích, nên ở
ẩn, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi. Quẻ Đại Hữu, Thoán từ
khen là rất hanh thông, mà Đại Tượng Truyện thì căn dặn: “người quân tử
trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu
dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời” Những
lời giảng thêm của người sau đó hầu hết bi quan hơn lời trong kinh, vì
thời Xuân thu, Chiến quốc của họ loạn hơn thời cuối Ân. Mỗi hào là một thời trong quẻ Mỗi
quẻ là một thời, mà mỗi hào trong quẻ lại là một thời nhỏ trong cái
thời chung của quẻ . Để khỏi lẫn lộn , tôi gọi mỗi thời nhỏ của hào là
một giai đoạn một hòan cảnh trong thời của quẻ . Như quẻ Càn, hào
1 là giai đoạn ở ẩn (tiềm long) trong thời Càn; hào 2 là giai đoạn bắt
đầu xuất hiện (hiện long); hào 3 là giai đoạn thận trọng chờ thời; hào
4 là giai đoạn có thể bay nhảy được; hào 5 là giai đoạn thành công, lên
tới tột bực, hào 5 là giai đoạn rút lui. Sáu giai đoạn trong quẻ
Tiệm cũng rất rõ ràng: con chim hồng từ mặt nước mà lên tới bờ, tới
phiến đá, tới đất bằng, tới cành cây, tới gò cao, rồi sau cùng lên tới
mây, 6 hào là 6 giai đoạn trong thời Tiệm tiến. Có thể kể thêm quẻ
Nhu (tiến từ xa chỗ hiểm tới gần chỗ hiểm), quẻ Bác (tiêu mòn lần lần
từ chân giường lên tới then giường, mặt giường), nhưng trước sau chỉ có
độ mươi quẻ như vậy; còn các quẻ kia thì các giai đoạn không theo một
thứ tự nào cả như quẻ Lữ, mỗi hào là một hòan cảnh áp dụng cho một hạng
người tư cách, tính tình khác nhau, không có ý nghĩa trứơc sau về thời
gian. Mỗi hào tuy có một ý nghĩa riêng Nhưng ý nghĩa đó luôn luôn
tùy ý nghĩa của quẻ , tức tùy cái thời chung của sáu hào , có vậy mới
nhất trí, thành một quẻ được. - Cùng là thể dương ở vị dương, ngôi
chí tôn, mà hào 5 quẻ Càn rất tốt, lập sự nghiệp lớn, còn hào 5 quẻ
Truân chỉ hơi tốt thôi, chỉnh đốn việc nhỏ thì được, việc lớn thì xấu,
vì hai hào đó ở thời khác nhau, một ở thời Càn, thời của bậc đại nhân,
một ở thời Truân, thời gian nan, khó khăn, cho nên tài như nhau mà sự
nghiệp khác nhau xa. - Hào 2 và hào 5 quẻ Càn đều là dương cương
cả lại tương ứng, Hào từ khuyên nên tìm nhau mà làm việc; còn hào 2 và
hào 5 quẻ Lí, cũng đều là dương và tương ứng mà Hào từ không khuyên như
vậy, bảo 2 nên cô độc giữ vững đường chính, chỉ vì quẻ Càn là thời của
một đại nhân (hào 5), có chí lớn giúp đời, mà muốn giúp đời thì cần có
người đồng đức, đồng chí (hào 2), còn quẻ Lí nói về cách cư xử trong
đời của một người thường như chúng ta thì có đại nhân nào kiếm mình
(hào 2) mà mình cũng kiếm đại nhân để làm gì, cứ lo giữ vững đường
chính là hợp nhất. - So sánh hào 1 quẻ Kí Tế và hào 1 quẻ Vị Tế ta
càng thấy rõ hơn nữa. Cả hai đều có ba chữ “nhu kì vĩ”: (con chồn qua
sông để ướt cái đuôi; vậy mà trong quẻ Kí Tế thì cho là vô cứu), không
có lỗi, còn trong quẻ Vị Tế thì cho là “lận”, đáng ân hận; vì thời của
hai quẻ khác nhau; thời Kí Tế là thời đã qua sông rồi, đã xong việc,
thời Vị Tế là thời chưa qua sông, chưa xong việc. - Hào 4 quẻ Tùy
là dương mà ở vị âm, như thế là bất chính , đáng lẽ xấu, nhưng ở thời
Tùy (theo) thì làm nên sự nghiệp (gặp ông vua biết dùng tài của mình),
và nếu cứ giữ lòng chí thành, sáng suốt, theo đạo lý, thì không có lỗi.
- Quẻ Khốn, hào 2 và hào 5 đều là dương, đắc trung, đáng lẽ tốt mà lại xấu, chỉ vì ở thời khốn đốn. -
Xin độc giả so sánh thêm cặp 1- 4 quẻ Phong với cặp 2-5 quẻ Tụng. Ở quẻ
Phong, 1 và 4 ứng nhau, đều dương cương cả (đồng đức) họp thành một cặp
bạn tốt. Ở quẻ Tụng, 2 và 5 cũng ứng nhau, cũng đều là dương cả, lại
thêm đều đắc trung, đáng lẽ cũng thành một cặp bạn rất tương đắc, Nhưng
Hào từ lại bảo 2 muốn kiện 5, và khuyên nên bỏ ý đó đi, sẽ như trứng
hcọi với đá thôi. Vì phong là thời thịnh, hanh thông; còn Tụng là thời
kiện tụng, 2 và 5 không phải là đồng đức mà là ngang ngạnh như nhau;
phải coi là đối địch nhau. Dịch chỉ là thời. Đọc
Dịch chúng ta so sánh, suy nghĩ như vậy sẽ nhận được rất nhiều bài học
tùy thời, sẽ thấy cả bộ Dịch chỉ tóm lại trong chữ Thời (Chu Dịch nhật
bộ thư, khả nhất ngôn nhi tế chi, Viết: Thời). tùy thời mà vẫn giữ được
trung chính, đó lại là một luật bất biến nữa trong đạo biến Dịch. Năm
được luật đó thì ta có thể ứng được với vạn cái biến trong đời (dĩ bất
biến ứng vạn biến). Chúng ta sẽ biết lúc nào nên cương, lúc nào
nên nhu, lúc nào nên tiến, lúc nào nên thoái, lúc nào nên động, lúc nào
nên tĩnh, lúc nào nên nhường nhịn, lúc nào nên tấn công, “ích” (tăng)
không phải là luôn luôn tốt, cần phải biết khi nào nên ích, ích cái gì,
ích cho ai, tổn không phải là luôn luôn xâu, tổn giảm được các tật của
mình thì lại là tốt, tổn của người giàu để ích người nghèo là tốt; cải
cách phải hợp thời mới tốt; mà đức thành tín cũng phải biết biến thông
mới tốt. Biết tùy thời là điều rất khó, phải bình tĩnh vô tư, sáng suốt, phải có trí. Dịch trọng cả đức lẫn trí, giống Khổng, khác Lão. Dịch là đạo của người quân tử Mới
đầu chỉ là một phép bói dựng trên thuyết âm dương và những lịch duyệt
của mọi người, rồi từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc hay
đầu thời Hán, trong ba bốn trăm năm, một số học giả, hiền nhân khuyết
danh lần lần thu thập thêm những tư tưởng của Khổng, Lão – Khổng nhiều
hơn Lão – thêm bớt, sửa đổi, dung hòa thành một triết lý gồm một vũ trụ
quan giống Lão mà không phải Lão, và một nhân sinh quan rất giống Khổng
mà khổng hẳn là Khổng. Nhân sinh quan đó là nhân sinh quan Trung
Hoa vào đầu Hán, suốt hai ngàn năm sau không thay đổi gì nhiều, nó giúp
cho Khổng và Lão, như dương với âm, xích lại gần nhau, bổ túc nhau, nhờ
đó mà dân tộc Trung Hoa có một tinh thần quân bình, lành mạnh, một thái
độ yêu đời, tự tin mà nhiều triết gia phương Tây nhận là hiền (sage). Tôi gọi nhân sinh quan đó là đạo Dịch. -Nó rất thực tiễn, thiết thực. Thuyết
âm dương làm cơ sở cho nó không có gì thần bí (1) cũng không quá huyền
vi như đạo của Lão, mà chỉ là những luật thiên nhiên mọi người có thể
nhận thấy hằng ngày. - Nó không bàn tới những gì cao xa, siêu hình
như linh hồn, kiếp trước, kiếp sau . .. mà chỉ xét những việc trong đời
sống hằng ngày, và xét rất đủ. Độc giả có thấy một tác phẩm luân lý hay
một cuốn viết về nghệ thuật sống nào là chỉ cho ta từ việc ăn uống, tu
thân, tới việc kiện cáo, xuất quan, trang sức, tế gia, về nhà chồng,
lập đảng, diệt kẻ tiểu nhân, can ngăn cha mẹ, cách sử sự trong mọi hoàn
cảnh; lúc giàu, thịnh, lúc gian truân, lúc chờ thời, cả lúc phải bỏ
nhà, bỏ nước mà lưu lạc quê người, ăn nhờ ở đậu . . . không ? Sáu mươi
bốn quẻ là sáu mươi bốn thời, và ba trăm tám mươi bốn hào là ba trăm
tám mươi bốn hòan cảnh. Bấy nhiêu mà khéo suy ra thì có thể áp dụng vào
mọi việc trong đời được: từ việc can ngăn cha mẹ, suy ra việc can ngăn
bề trên hay bạn bè, cách diệt tiểu nhân cũng là cách diệt cái ác, đức
thận trọng, lo xa cần cho một cá nhân ra sao thì cũng cần cho một quốc
gia như vậy trong suốt thời đương thịnh . . . - Nó cho ta bài học
tự cường bất tức (càn) kiên nhẫn, không lúc nào quên việc tu thân,
luyện tài đức cho uẩn súc (Đại súc) mỗi ngày thêm một chút (tiệm), tiến
hòai để gặp thời thì giúp nước, không bao giờ từ bỏ trách nhiệm, mà
không cầu danh lợi. - Nó biết rằng có dương thì có âm, có thịnh
thì có suy, việc đời thành rồi bại, bại rồi thành, không bao giờ hết,
lúc xong việc là lúc việc mới bắt đầu, sinh là bắt đầu tử, tử là bắt
đầu sinh, nó biết vậy, Nhưng nó không chán nãn, thấy việc phải thì cứ
làm, theo đạo trung chính . Một cuộc sống như vậy nghiêm túc biết bao. Nhưng
nó không như Khổng tử “Tri kì bất khả vị nhi vi chi” nó hữu vi có mực
độ, giữ mức trung, thấy thời còn có thể làm được thì làm, không thì hãy
tạm ẩn nhẫn chờ thời, chờ thời mà không buông xuôi, không bỏ chí hướng.
Nó biết giá trị của hạng cao sĩ, vì một lẽ gì đó không dự được vào việc
đời thì làm như con chim hồng bay bổng trên chín tầng mây. Một cuộc đời
như vậy đẹp biết bao ! mà ai bảo được là vô ích? - Nhất là nó rất lạc quan. Nó
thực tế nên nhận thấy trong xã hội nhiều cảnh nghịch hơn cảnh thuận, và
mới xét, chúng ta tưởng như vậy là bi quan. Không phải nó an ủi ta rằng
trong hoạ nấp phúc, suy rồi sẽ thịnh, cho nên những quẻ ý nghĩa xấu
nhất thì hào cuối lại thường tốt nhất, như mục trên tôi đã nói. Trong
hoạ nấp phúc thì trong phúc cũng nấp hoạ, cho nên nó khuyên ta gặp thời
thịnh nên thận trọng đề phòng, để tránh hoạ sau này, chứ nó không bảo
ta đừng nên hưởng phúc. Tinh thần lạc quan đó hiện rõ cả trong cách quân tử chiến đấu với tiểu nhân. Dịch
không ghét tiểu nhân, vì có tiểu nhân mới có quân tử, có âm mới có
dương, có thiện thì có ác không sao diệt hết được ác, cuộc chiến đấu
với ác, với tiểu nhân không bao giờ chấm dứt. Nó khuyên ta thời bình
thường phải khoan dung đôn hậu với tiểu nhân ( quẻ Lâm) ; mà vẫn sáng
suốt để ý, thấy chúng ló dã tâm thì chế ngự ngay ( quẻ Cấu) Nhưng
khi tiểu nhân mạnh, đắc thời thì phải biết tùy hòan cảnh mà đối phó một
cách thận trọng: bước đầu, tình thế chưa khó khăn, có cơ cứu vãn được
phần nào thì hành động ( quẻ Truân); Khi đã nguy rồi ( quẻ Kiển và quẻ
Khốn) thì nên chờ thời mà vẫn giữ đức trung chính; tuy nhiên nếu có
người nào quyết tâm hy sinh, chống chỏi một cách tuyệt vọng để cứu dân
cứu nước (hào 2 quẻ Kiển) thì vẫn quí, phục. Tới lúc tiểu nhân bắt
đầu suy thì đòan kết nhau lại mà tấn công (quẻ Tụy) chế ngự chúng (quẻ
Đại súc) và sau cùng diệt chúng (quẻ Quải). Dịch lại nhắc ta rằng
trong đám tiểu nhân vẫn có những người lỡ lầm nhưng biết phục thiện,
khéo dẫn dụ thì họ sẽ trở về đường chính ( quẻ Phục); mà trong việc
chiến đấu với tiểu nhân, có những tiểu nhân bỏ đảng của chúng mà về với
phe quân tử ( hào 3, hào 5 quẻ Bác); còn trong phe quân tử mới đầu cũng
có người thân cận với tiểu nhân rồi sau cái quá (hào 3 1 Quái), cương
quyết bỏ chúng để theo chính nghĩa. Cuối cùng phe quân tử thắng mà
không bao giờ hết người quân tử ( hào 6 quẻ Bác). Có người cho
rằng Dịch sắp đặt cho đạt được một kết quả tốt đẹp như vậy là thiên vị
với phe quân tử, và quá lạc quan. Có thể là thiên vị với quân tử và
chắc chắn là lạc quan. Lạc quan là tinh thần của dân tộc Trung Hoa:
truyện tàu nào cũng “có hậu’ (Hòang thiên bất phụ hảo tâm nhân mà !)
nhưng ta cũng phải nhận rằng những việc kể trong mấy quẻ dẫn trên đây
xảy ra bất thường, không phải là tưởng tưởng: trong cuộc kháng Pháp rồi
kháng Mỹ vừa rồi không thiếu gì địch bỏ hàng ngũ mà theo mình, mà cũng
không thiếu gì người mình mới đầu theo địch rồi sau trở về với tổ quốc
và rốt cuộc chính nghĩa thắng. Cuộc chiến đấu giữa quân tử với tiểu nhân là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Lão
cho rằng trong thiên nhiên không có gì thiện, không có gì ác, trời đất
thản nhiên, coi vạn vật như chó rơm: Dịch trái lại cho trời đất, có
công sinh thành nuôi nấng vạn vật; nhưng mới đầu cũng chỉ phân biệt cái
hung, không phân biệt thiện ác, không cho dương là thiện, âm là ác. Về
sau, Văn Vương và Chu Công mới cho dương là quân tử , âm là tiểu nhân.
Nhưng quân tử và tiểu nhân thời đó chỉ là người cầm quyền và dân
thường: tôi thấy tác giả Thoán Truyện và Tượng Truyện mới có nghĩa là
người thiện, người ác; như vậy là bỏ cái thái độ, cái vị trí hòan tòan
theo thiên nhiên mà trở về với loại người, với thực tế. Thiện
thắng ác thì có lúc ác cũng thắng thiện, đọc Dịch ai cũng hiểu điều đó,
Nhưng Dịch nhấn vào trường hợp thiện ác, chỉ vì Dịch muốn cho ta bài
học tự cường, trọng chính nghĩa và lạc quan. Ai theo được bài học đó
thì thành người quân tử . Dịch muốn đào tạo hạng người quân tử khuyến
khích tiểu nhân cải tà qui chánh ( quẻ Bác) “Dịch vị quân tử mưu” là
nghĩa vậy. Cho nên tôi cho đạo Dịch là đạo của người quân tử . Một
sách bói có những lời tiên đoán linh nghiệm mà được cả một dân tộc coi
là một cuốn kinh, quả là xứng đáng. Hiện tượng đó độc nhất trong lịch
sử triết học nhân loại. Hết phần 1 Mùa xuân Kỉ mùi (1979)
hết: chương 7
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:23pm
PHẦN II - KINH VÀ TRUYỆN
64 QUẺ
DỊCH VÀ GIẢNG
Số của mỗi quẻ trong phần dịch này không phải là số trong phương vị 64 quẻ của Phục Hi.
KINH THƯỢNG (Gồm 30 quẻ đầu)
Trong
phần II này tôi sẽ chép chữ Hán, phiên âm và dịch trọn phần Kinh gồm
Thóan từ tức lời đóan mỗi quẻ của Văn Vương; và Hào từ, tức lời đón mỗi
hào của Chu Công. Thóan Từ và Hào Từ rất gọn, chỉ ghi lại ít chữ,
như một thứ “aide memoitre” cho người đọc dễ nhớ thôi (chẳng hạn Thóan
Từ quẻ Trung phu số 61 (1). Hào từ hào 4 quẻ Bí số 22 (2); vì vậy rất
tối nghĩa, phải có lời giảng mới hiểu được, và dưới mỗi lời dịch, tôi
sẽ thêm lời giảng. Để giảng Thóan từ, dĩ nhiên tôi phải căn cứ
trước hết vào Thóan truyện và Đại tượng truyện; để giảng Hào từ, tôi
căn cứ trước hết vào Tiểu tượng truyện; Tôi sẽ không dịch trọn Thóan
truyện và Tượng truyện (đại và Tiểu) mà chỉ tóm tắt ý nghĩa và trích
dẫn một số câu quan trọng cho xen vào lời giảng. Riêng về hai quẻ
Càn và Khôn, tôi trích dẫn thêm Văn ngôn truyện, và trong một số quẻ
khác, tôi cũng lác đác dùng lời bình luận trong Hệ từ truyện mà tôi sẽ
dịch trọn và đặt sau phần kinh. Tôi lại tham khảo thêm những chú giải
của Chu Hi, lời giảng của Phan Bội Châu, đôi khi của James Legge, của
Richard Wilhem, của Cao Hanh, Nghiêm Linh Phong và vài nhà khác nữa. Dầu
mỗi quẻ tôi dẫn một câu trong Tự quái truyện cho biết vì lý do gì cố
nhân sắp quẻ đó tiếp theo quẻ trước, nói cách khác, là cho biết sự liên
lạc giữa ý của quẻ đó và quẻ trước. Tóm lại, như vậy là trong bảy
truyện: Thóan truyện, Tượng truyện, Hệ từ truyện, Văn ngôn truyện, Tự
quái truyện, Thuyết quái truyện, Tạp quái truyện, tôi dùng năm truyện
đầu để giảng phần kinh, cho xen vào phần kinh, nhưng chỉ dịch trọn Hệ
từ truyện thôi; còn hai truyện Thuyết quái và Tạp quái thì không dùng
tới. Chủ trương của tôi giống chủ trương của cụ Phan Bội Châu, chú
trọng về ý nghĩa triết lý, nhất là về nhân sinh quan, mà coi nhẹ phần
bói tóan, phần huyền bí. Như vậy là phiến diện, không hợp với bản ý của
những người đầu tiên đặt ra kinh dịch, nhưng hợp với tư tưởng của Dịch
học phái, tức của một số học giả chịu ảnh hưởng của Nho. Lão ở thời
Chiến Quốc và đã sọan Thóan truyện, tượng truyện, Văn ngôn truyện một
phần Hệ từ truyện làm cho Kinh Dịch thành một tác phẩm triết lý quan
trọng ngang với các kinh khác thời Tiên Tần; vì nếu nó chỉ là một sách
bói như hồi đầu , thì dân tộc Trung Hoa tất không gọi nó là một kinh và
coi nó là một môn học trong các kỳ thi cho mãi tới cuối thế kỷ trước. Tôi
không có tham vọng nghiên cứu Kinh dịch , chỉ tìm hiểu được tới đâu rán
chép lại tới đấy một cách gọn và sáng để giúp các bạn không biết chữ
Hán mà muốn đọc Kinh Dịch. Bản tôi tham khảo nhiều nhất là bản của
cụ Phan Bội Châu (Khai Trí – 1969) mà tôi cho là bản giảng kỹ nhất từ
trước đến nay. Chỉ tiếc cụ có lối giảng của một thầy đồ trứơc một nhóm
môn sinh có vốn Hán học kha khá rồi, cho nên hơi rườm rà và nhiều bạn
trẻ ngày nay không hiểu được hết, nhất là bản của nhà Khai Trí để sót
nhiều lỗi in quá, mà không đính chính nên càng khó hiểu. Phần dịch này
của tôi có thể nói là chỉ diễn lại phần giảng của cụ cho gọn hơn dễ
hiểu, dễ nhớ, và thêm vài ý kiến của các nhà khác, thế thôi.
hết: PHẦN II - KINH VÀ TRUYỆN,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:26pm
Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
I. Quẻ Thuần Càn
Nội quái, ngoại quái đều là Càn.
䷀
乾: 元, 亨, 利, 貞.
Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền. Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Về
sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không
chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương
cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời. Trời có đức “
nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa
để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến
hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái
hòa (cực hòa) . Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. Tác
giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo
đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức. Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời. Trí,
là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc
cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của
trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa,
trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho
gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi. Trở
lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài
cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan,
Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi. Hào từ : Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.初 九: 潛 龍 勿 用 Sơ cửu: Tiềm long vật dụng. Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng:
Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc
hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ
thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở
dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa
thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu
tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra
về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên
tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn,
không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của
mình. 九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 . Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Giảng:
hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài
đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là
dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví
với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài
đức gặp thời, nên kiến đại nhân). Văn ngôn: khuyên người có tài
đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành,
tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là
giữ được đức trung chính của hào 2. 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu. Dịch:
hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn
thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi. Giảng: Hào 3
là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung.
Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là
ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng
nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào
cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội
lỗi. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức;
sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà
thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở
địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần
I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2
九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi. (Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi). Giảng:
Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó
lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên
ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải
thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy)
nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng
chữ “hoặc”: không nhất định. Tuy bất chính, bất trung như nó có
chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc
quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi. Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được. Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Giảng
: Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở
giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính
trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện,
đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con
rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua). Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi. Văn
ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ
khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn
vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long,
phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).
上 九 . 亢 龍 有 悔. Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận. Giảng:
hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con
rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì
sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được
lâu, (doanh bất khả cửu). Văn ngôn : giảng thêm: Hào 5 địa vị rất
quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân
(vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp
đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3
và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động
thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ
truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9). Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 . Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt. Chú
thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra
âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng
bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J.
Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan
Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một
hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat
động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết
thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu. Nhưng
cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ
cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời
kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi. - Cao Hanh hiểu khác, bảo
“bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che,
nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời,
tốt”. Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì
đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách
ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một
hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy
thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến
ra âm, như Chu Hi giảng không ? - Tào Thăng giải nghĩa khác nữa:
“Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu
mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà
thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó
hợp thời thì tốt. Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn. -
Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã
– đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào
thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không
có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý
nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được. - Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa. Thuyết
của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô
thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng
cửu” Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến
đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v.
. . Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật,
không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ
bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp
đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số
không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì
đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
*
PHỤ LỤC
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh. - Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn) “rồng
có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào
dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới
vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng
tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha,
còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên
chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.” - Tào Thăng (sách đã dẫn). “người
thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại
biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng
thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục,
chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .) Dùng cái phép của hào
mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể
động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên,
dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo
là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp). - Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành. Chúng
tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào
mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa,
mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.
hết: I. Quẻ Thuần Càn
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:27pm
2. Quẻ Thuần Khôn
Nội quái, ngoại quái đều là Khôn.
䷁ 坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 . Khôn:
Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu
đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát. Dịch: Khôn
có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của
con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người
khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật.
đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng
giữ đức bên vững, tốt. Giảng : Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ
Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng” (1) trời thì không “tượng” đất. Càn
cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần
khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên
công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác Khôn phải ở sau Càn,
tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên, hanh, lợi, Khôn
có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác:
tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để
“tượng” Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa
đực. Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn,
Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị
khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng
để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc,
như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém
đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường bất tức” là bài học rút ra từ
quẻ Càn. Chu công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên
bát quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam)
thì được bạn (hoặc được tiền bạc, vì chữ “bằng” cò thể hiểu là bằng
hữu, cũng có thể hiểu là bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền,
1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất
bạn (hoặc tiền bạc). Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ đức bền vững thì tốt. Câu
“Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu là: “Người quân tử
có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại như vậy.
Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì
tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh Dịch thường dùng như chữ “sở” Tác giả Văn Ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng. Hào từ: 1) 初 六: 履 霜, 堅 冰 至 Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí. Giảng:
Đây là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với
sương lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ
đông lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu.
Tiểu tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta: “Nhà
nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào
tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như
việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi
sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ
sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu dư khách, tích bất thiện chi gia
tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triều nhất
tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất tảo biện dã).” Chúng
ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ
thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu, nếu không
sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm . 2) 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利 Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi. Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì là không lợi. Giảng:
Hào này rất tốt: thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn), thế là đắc
chính, cho nên bảo là có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội
quái) cho nên bảo là vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có
qui mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp
đạo lý. Văn ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà
ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp
vật) thì phải có đức nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô
lập (?). Nguyên văn: “bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho
rằng: Kính thì “trực”, nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là
“đại”. Chúng tôi hiểu theo câu: Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức
thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình (bạn đây là
hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không. 3) 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終 Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung. Dịch:
Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi
theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau
cùng sẽ có kết quả. Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương (lẻ),
như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ Khôn,
thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ biến
hóa của Dịch). Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức
phận, cho nên bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên
nhũn, nhu thuận (đức của Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy
sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả. Văn ngôn bàn thêm: Ngậm
chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành
công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần
đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên. 4) 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽. Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự. Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự. Giảng:
hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ tòan âm, mà không đắc trung như
hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương cường
nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà
địa vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu
không có danh dự gì. Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này,
nhưng là dương, có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc
dược), khác nhau ở chỗ đó. Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm
cự tuyệt dương” (vì không có chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như
vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời đất không giao nhau (thiên địa
bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn), rất thận trọng thì không
bị tai họa. 5) 六 五: 黄 裳, 元 吉. Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát. Dịch : hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt). Giảng
Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc trung. Tuy nó không đắc chính vì
là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ Khôn,như vậy lại tốt vì có chút
cương, không thuần âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn
là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương
kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là hào này rất tốt, và “tượng” bằng
cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất, của trung ương (hàm ý không
thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên người Trung Hoa thời xưa
rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng trong y phục. xiêm là một
bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái nghĩa khiêm hạ, không tự
tôn. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở
trong mà thông suốt đạo lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể
dưới (như cái xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề
ngòai, làm nên sự nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực. Như vậy
Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn), nhưng có lúc coi
trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần
đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công cho
là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn
hào 5 quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch,
là có nghĩa vậy. 6) 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄. Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng. Giảng:
hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản
thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy
( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo
đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ
Càn. Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương . Cao
Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc
như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng,
nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên. 7) 用 六: 利 永 貞. Dụng lục: Lợi vĩnh trinh. Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài, chính và bền. Giảng:
Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối
nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba
thuyết: • Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương,
tức Thuần khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra
một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và
bền. • Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi. •
Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo Càn cho nên gọi là lợi; Không
động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên bảo chính và bền, ý muốn
nói: đạo Khôn đơn giản mà tác tác thành vạn vật. Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.
hết: 2. Quẻ Thuần Khôn,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:31pm
3. QUẺ THỦY LÔI TRUÂN
Ngọai
quái (ở trên) là Khảm, nội quái (ở dưới) là Chấn. Khảm là thủy (mà cũng
là vân: mây), chấn là lội (sấm) cho nên quẻ này gọi là Thủy lôi (hoặc
Vân Lôi), có nghĩa là Truân
䷂ Theo
Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có
trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó
là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn 屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯 . Truân: Nguyên, hanh, lợi , trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu. Dịch:
Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững
điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp
mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu). Giảng: Thóan truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau: Tượng
quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở
trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) (1) cho nên có
nghĩa là truân. Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai
hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt
đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân. Trong
lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều
chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp
mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước
hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ
yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì
được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh
luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân. Hào Từ: 初 九: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯 . Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu. Dịch:
Hào 1, dương : còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên
tước hầu (nghĩa là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.
Giảng: Như trên tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài,
lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên giữ được điều chính và có
lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào âm trong nội quái, có cái
tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người quân tử mới đầu tuy còn do
dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời. 六 二: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字 . Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự. Dịch
: hào 2, âm : Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn
quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với
mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn
(với hào 5). Giảng: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại
ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm
cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1 níu kéo, cho
nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng ngại, hào 1 có
tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình, chỉ muốn cưới
mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí, mươi
năm nữa sẽ kết hôn với hào 5. Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự. 六 三: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝 . Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận. Dịch:
Hào 3 âm: đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong
rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn
hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận. Giảng: Hào 3 là âm, ở
dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời
truân; hào 6 ở trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà
cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp
(chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ
chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn. 六 四: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利 . Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi. Dịch: Hào 4, âm: cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt. Giảng:
Hào này âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời
Truân không tự mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với
5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người
cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với
hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì
là không lợi. Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc
chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2;
cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy
là xứng đôi. Đó là luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì phải xứng nhau,
đồng tâm, đồng đạo. 九 五: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶 . Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung Dịch:
Hào 5, dương: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao)
không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu. Giảng:
Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt;
nhưng vì ở trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là
Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu ,
không giúp được nhiều; lại thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng
dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch của 5 không ban bố khắp nơi
được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các việc nhỏ đã, đừng vội làm
việc lớn mà hỏng. Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa. 上六: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如 . Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như. Dịch: Hào trên cùng âm. Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa. Giảng:
Hào này ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương
(có tài trí) thì gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là
hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn
dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt (Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm
nhu, chẳng giúp được gì.) Đọc
xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã thấy: thể của hào chỉ cò: âm và
dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ đến hào thượng; nhưng ý nghĩa mỗi
hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ Càn
không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào 5 dương quẻ Truân cũng không
giống hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ Khốn không giống hào đó quẻ
Truân, hào 6 âm quẻ Truân cũng không giống hào đó qủe khôn. ý nghĩa của
quẻ quyết định ý nghĩa của hào, nói cách khác: quẻ là cái thời chung
của các hào, mà hào là mỗi việc, mỗi hoàn cảnh trong thời chung đó.
hết: 3. QUẺ THỦY LÔI TRUÂN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:33pm
4. Quẻ SƠN THỦY MÔNG
Trên là Cấn (núi) dưới là Khảm (nước)
䷃ Quẻ
số 3 là Truân, lúc vạn vật mới sinh. Lúc đó vạn vật còn non yếu, mù mờ,
cho nên quẻ 4 này là Mông. Mông có hai nghĩa: non yếu và mù mờ Thoán từ :蒙: 亨, 匪我 求 童 蒙, 童 蒙 求 我 . 初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 . Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh. Dịch:
trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta.
Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì
không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công). Giảng : Theo
nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì
hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù
mờ, cho nên gọi là Mông. Xét theo hình tượng thì ở trên có núi
(Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông).
Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng
người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên
gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu). Đặc biệt quẻ này
chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm
chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang
cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc
trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành
tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông. Tư cách của
thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải
cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là
nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì
lợi thành công. Hào từ :1. 初 六: 發 蒙, 利 用 刑 人, 用 說 桎 梏, 以 往 吝. Sơ lục: phát mông, lợi dụng hình nhân, Dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận. Dịch:
Hào 1, âm: mở mang cái tối tăm (cho hạng người hôn ám) thì nên dùng
hình phạt cốt cho họ thoát khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá mức sẽ hối
tiếc. Giảng: Hào âm này vị ở thấp nhất trong quẻ
Mông là tượng kẻ hôn ám nhất, phải dùng hình phạt trừng trị mới cởi cái
gông cùm (vĩ vật dục) cho họ được; khi có kết quả rồi thì thôi, đừng
quá dùng hình phạt mà sẽ ân hận. Chữ : "dụng hình nhân", dịch sát là dùng người coi về hình, tức dùng hình phạt. 2. 九 二 . 包 蒙 吉 . 納 婦 吉 . 子 克 家 . Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia. Dịch:
Hào, dương: Bao dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám như đàn bà,
tốt; (ở ngôi dưới mà gánh vác việc trên) như người con cai quản được
việc nhà. Giảng: Hào 2 dương, cương cường, nhưng
đắc trung cho nên bảo là có đức bao dung; nó làm chủ nội quái, thống
trị cả bốn hào âm, cho nên bảo nó dung nạp được các hào âm, tức hạng
người nhu ám như đàn bà, nó ở dưới thấp mà lại là hào quan trọng nhất
trong quẻ, nên ví nó như người con cai quản được việc nhà. Tóm lại hào
này tốt. Phan Bội Châu giảng ba chữ “tử khắc gia”cách khác: Cụ cho
hào 5 ở địa vị tôn trong quẻ trên (ngoại quái) tức như cha trong nhà,
hào 2 ở dưới, tức như con. Cha nhu nhược (vì là âm), con cương cường
sáng suốt (vì là dương), cảm hóa được cha mà cha hết hôn ám, như vậy là
con chỉnh lý được việc nhà. Cao Hanh chỉ đứng về phương diện bói,
mà không đứng về phương diện đạo lý, không cho Kinh Dịch có ý nghĩa
triết lý, xử thế, cho nên hiểu khác hẳn: giảng “nạp phụ” là cưới vợ cho
con “tử khắc gia” là con thành gia thất, đó là cái việc tốt của người
làm bếp mắt không có đồng tử (bao mông, theo ông là : bào mông, bào là
người làm bếp, mông là mắt không có đồng tử). Đại khái cách hiểu của
Cao Hanh như vậy, xin đơn cử làm thí dụ. 3. 六 三: 勿 用 取 女 見 金 夫 . 不 有 躬, 无 攸 利. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu. Bất hữu cung, vô du lợi. Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả. Giảng:
Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho
nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu
nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan
Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng
dùng, không đáng giáo hóa nữa. 4. 六 四 : 困, 蒙, 吝 . Lục tứ : Khốn, mông, lận. Dịch: Hào 4, âm: Bị khốn trong vòng hôn ám, hối tiếc. Giảng:
Quẻ Mông chỉ có hào 2 và 6 là dương cương, có thể cởi mở sự hôn ám
được, còn hào 4 kia đều là âm hết. Hào 4 này cũng hôn ám như hào 3,
nhưng còn tệ hơn hào 3 vì ở xa hào 2 dương (hào 3 còn được ở gần hào 2
dương ), mà chung quanh đều là âm hết (hào 3 và hào 5), như bị nhốt
trong vòng hôn ám, tất bị khốn sẽ phải hối tiếc, xấu hổ. Tiểu
tượng truyện giảng: nó phải hối tiếc, xấu hổ vì chỉ một mình nó trong
số bốn hào âm là ở xa các hào “thực” tức các hào dương. Hào dương là
nét liền, không khuyết ở giữa, nên gọi là “thực” (đặc, đầy) hào âm là
vạch đứt, khuyết ở giữa nên gọi là “hư” ; “thực” tượng trưng người có
lương tâm “hư” tượng người không có lương tâm. 5. 六 五: 童 蒙 吉 . Lục ngũ: Đồng mông cát. Dịch: Hào 5, âm: Bé con, chưa biết gì (nhưng dễ dạy), tốt. Giảng:
hào 5 này là hào âm tốt nhất như chúng tôi đã nói khi giảng Thóan từ
của Văn Vương, vì nó có đức nhu (âm) trung (ở giữa ngọai quái), lại ứng
với hào 2 cương ở dưới, có thể ví nó với đứa trẻ dễ dạy, biết nghe lời
thầy (hào 2). Phan Bội Châu coi hào này như ông vua (vì ở ngôi cao quí nhất trong quẻ) biết tín nhiệm hiền thần (hào 2). 6. 上 九: 擊 蒙 不 利 為 寇 , 利 禦 寇. Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu. Dịch :
Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ
mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn
ngừa giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi. Giảng:
Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là
dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối
nhưng quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất
tuân giáo hóa, có thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa:
giặc, có hại), nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì
hơn; mà “cả thầy lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu
tượng truyện). Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).
hết: 4. Quẻ SƠN THỦY MÔNG,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:35pm
5. QUẺ THỦY THIÊN NHU
Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)
䷄ Quẻ
trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên
quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”,
những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy. Nhưng
Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi,
và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi. * Thoán từ :需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 . Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên. Dịch:
Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững
điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công. Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi. Hào
làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu
là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có
cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ
đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công. Đại tượng
truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là
Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu
trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui
di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ. Hào từ: 1. 初 九: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 .
Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu. Dịch:
Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức
xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước),
đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi.
Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn
tiến. 2. 九 二: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 . Cửu nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát. Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt. Giảng:
Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới
nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết
khôn khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng
nho nhỏ, rốt cuộc cũng vẫn tốt. 3. 九 三 : 需 于 泥 . 致 寇 至. Cửu tam: Nhu vu nê, trí khấu chí. Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến. Giảng:
Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn
lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại
không đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như
tự nó vời giặc đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận
trọng thì chưa đến nỗi nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái)
(theo tiểu tượng truyện). 4. 六 四 : 需 于 血, 出 自 穴 . Lục tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt. Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được. Giảng:
hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại),
nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được
họa. 5. 九 五 : 需 于 酒 食, 貞 吉 . Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát. Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt. Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính. 6.上 六:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 . Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát. Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành. Giảng:
Hào này ở trên cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm. Nó
có hào 3 ở dưới ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2
cũng là dương, cho nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới
ngay được vì họ ở xa hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới. Hào
6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết trong và nghe theo ba vị khách đó,
cho nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành. Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng không đến nỗi thất bại lớn. Chu
Hi hiểu chữ “vị” đó , là ngôi chẵn (âm vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng”
chứ sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo là :”chưa hiểu rõ” (vị tường). Phan
Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là
ngôi cao nhất, mà là âm nhu, bất tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải . + Quẻ
này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt
nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở
giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì
hào đó cương mà trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng
suốt, chính đáng.
hết: 5. QUẺ THỦY THIÊN NHU
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:36pm
6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG
Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ 5.
䷅ Tự
quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn
uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu
là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo) Thoán từ: 訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川. Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên. Dịch:
Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch).
Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện
cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo
thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có
lợi. Giảng: Theo tượng quẻ này có thể giảng:
người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới (
quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ
là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì
cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo. Thoán
từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một
người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người
xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như
hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu
cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu. Quẻ
khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với
hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có
lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn. Đại
tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi
lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược
nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và
Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ
lúc đầu để tránh kiện cáo. Hào từ: 1. 初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 . Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát. Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài (vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt. Giảng:
Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4 cương kiện ở trên ứng viện, tức là có
chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một
chút thì cũng thôi, kết quả được biện minh, thế là tốt. 2. 九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无 眚. Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô. Kì ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh. Dịch:
Hào 2, dương : không nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba
trăm nóc nhà thôi (ý nói địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì
không bị họa. Giảng: Trong phần I, chương IV,
chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với 4, 2 với 5, 3 với 6) phải
một dương một âm thì mới có “tình” với nhau, mới đứng vào một phe, viện
trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ này; nếu cả hai cùng là
dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có thể kị nhau, cũng như
hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương cả, cho nên coi là
địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện cáo). Hào 2 ở
dưới, trung chứ không chính, ở giữa nội quái là Khảm (hiểm) lại bị hai
hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu, muốn kiện hào 5 (vì 2 có tính dương
cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5 trung , chính lại ở ngôi cao.
Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá, không nên, thà rút lui về, tránh
đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi. Tiểu tượng truyện còn dặn
thêm: nếu dưới mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy: hoạn
chí xuyết (cũng đọc là chuyết, là đoát) dã: Phan Bội Châu giảng
hào này, dẫn việc Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh
Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân”, có ý khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý
nghĩa ba chữ “qui nhi bô” trong hào này. 3. 六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成.
Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành. Dịch:
Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu
là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết
quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở
người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công. Giảng:
Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh
trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo
(vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu
hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn. Hào 3 có hào 5 ở
trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi
cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận
thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng
ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập
công). 4. 九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 . Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát. Dịch: Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt. Giảng:
Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện
cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn,
không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì
2 vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu
kiện; còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ
phải, ở yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt. 5. 九 五 : 訟, 元 吉 . Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát. Dịch: Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt. Giảng :
Hào 5 này ở ngôi chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người
xử kiện thì là bậc có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện
thì gặp đựơc quan tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng. 6. 上 九 : 或 錫 之 鞶 帶 , 終 朝, 三 褫 之. Thượng cửu: hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi. Dịch: hào trên cùng, dương : (kiện ) may mà được cái đai lớn (của quan chức) thì trong một buổi sáng sẽ bị cướp ba lần. Giảng:
Hào dương này ở trên cùng quẻ Tụng là kẻ rất thích kiện, kiện tới cùng.
Nó ở ngôi 6 là bất chính, cho nên dù có may ra được kiện, thì chẳng bao
lâu cũng sẽ mất hết, rốt cuộc vẫn không lợi. * Quẻ tụng này ý nghĩa các hào rất nhất trí, sáng sủa. Trước
sau chỉ là răn người ta đừng ham tranh nhau kiện cáo: hào 3 không kiện
với ai, tốt; hào 2 muốn kiện mà sau thôi không kiện, cũng tốt; hào 1 bị
kiện thì nên nhường nhịn một chút, rốt cuộc sẽ tốt, duy có hào 6 bằng
kiện tới cùng thì dù có thắng, cũng hóa xấu. Còn hào 5 diễn cái ý: có một Tòa án công minh thì phục cho dân biết bao.
hết: 6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:38pm
7.QUẺ ĐỊA THỦY SƯ
䷆
Kiện
tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho
nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân
đội. Thoán từ: 師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎 . Sư : Trinh, trượng nhân cát, vô cữu. Dịch: quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi. (Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức) Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng: - Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông. -
Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi
binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ
bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong
cái thuận (việc nông). - Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là
dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm
mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia). Thoán
truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng
nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân
sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ
tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi. Hào từ: 1. 初 六 : 師, 出 以 律 , 否 臧, 凶 . Sơ lục: sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung Dịch: Hào 1, âm: Ra quân thì phải có kỷ luật, không khéo (chữ phủ tàng nghĩa là bất thiện ) thi xấu. Giảng: Đây là bước đầu ra quân, phải cẩn thận, có kỷ luật nghiêm nhưng khéo để khỏi mất lòng dân, quân. 2. 九 二 : 在 師, 中, 吉, 无 咎 , 王 三 錫 命 . Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô cữu, vương tam tích mệnh. Dịch: Hào 2 dương: Trong quân, có đức trung thì tốt, không tội lỗi, được vua ba lần ban thưởng. Giảng:
Hào này là hào dương độc nhất trong quẻ, thống lĩnh quần âm. Nó đắc
cương , đắc trung, lại được hào 5, âm ở trên ứng thuận với nó, như một
vị nguyên thủ giao toàn quyền cho một vị tướng. Nhờ nó đắc trung; nên
tốt, không bị tội lỗi, mà được nhiều lần ban thưởng (có người giảng là
được nhiều lần vua trao lệnh cho). 3. 六 三 : 師, 或 輿 尸 , 凶 . Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung. Dịch: Hào 3, âm: bất chính (vì hào âm ở ngôi dương) lại bất trung ,xấu, thất trận, có thể phải chở xác chết về . . 4. 六 四 : 師, 左 次 , 无 咎 . Lục tứ: Sư, tả thứ, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Ra quân rồi mà lui về đóng (thứ) ở phía sau (tả) không có lỗi. Giảng:
hào này tuy bất trung nhưng đắc chính, không có tài (hào âm) nhưng biết
liệu sức mình, hãy tạm lui, không tiến để khỏi hao quân, đó là phép
thường hễ gặp địch mạnh thì tránh đi, cho nên không bị lỗi. 5. 六 五 : 田 有 禽 . 利 執 言 . 无 咎 . 長 子 帥 師 . 弟 子 輿 尸 . 貞 凶 . Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu. Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung. Dịch: Hào 5 âm: Như đồng cỏ muông thú (về phá), bắt chúng (chữ ngôn [言] ở đây,dùng như chữ chi [之], thay chữ cầm [禽]) thì lợi. (dùng)
người lão thành làm tướng súy để cầm quân, nếu dùng bọn trẻ (tài kém)
thì phải chở thây mà về, và dù danh nghĩa chính đáng (trinh) kết quả
vẫn xấu. Giảng: Hào 5 này, âm, ở vị chí tôn,
tượng ông vua ôn nhu và thuận đạo trung, không gây chiến, vì quân địch
lấn cõi (như muông thú ở rừng về phá đồng) nên phải đánh đuổi đi, bắt
chúng mà không có lỗi. Ông vua ấy giao quyền cầm quân cho vị lão
thành (hào 2 ởdưới) là người xứng đáng , nếu giao cho bạn trẻ bất tài
(như hào 3) hoặc để chúng tham gia vào thì sẽ thất bại, dù chiến tranh
có chính nghĩa, cũng phải chở xác về , mang nhục. 6. 上 六 : 大 君 有 命 . 開 國 承 家 , 小 人 勿 用 . Thượng lục: đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng. Dịch
Hào trên cùng, âm: (Sau khi khải hòan) vua ra lệnh gì quan hệ đến việc
mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ tiểu nhân (dù họ có công chiến đấu). Giảng:
Hào này ở trên cùng, trỏ lúc thành công, vua luận công mà khen thưởng.
Kẻ tiểu nhân tuy có tài chiến đấu, lập được công thì cũng chỉ thưởng
tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, giao cho địa vị
trọng yếu trong nước, vì công việc kiến thiết quốc gia phải người có
tài, đức mới gánh nổi. * - Quẻ sư này rất hay, lời gọn, ý đủ và đúng. Chúng ta nên nhớ: - Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa. - Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia. - Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng dân quân. - Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh, không sao. -
Khi thành công rồi, luận công ban thưởng thì kẻ tiểu nhân có công chỉ
nên thưởng họ tiền bạc, đừng giao cho họ trọng trách; trọng trách phải
về những người tài đức như vậy nước mới thịnh được. Chỉ dùng hai nét liền, đứt mà suy diễn được như vậy, tài thật.
hết: 7.QUẺ ĐỊA THỦY SƯ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:40pm
8. QUẺ THỦY ĐỊA TỈ
Trên là Khảm (nước), dưới là Khôn (đất)
䷇ Sư
là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau,
cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc). Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới. Thoán từ: 比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 . 不 寧 方 來 , 後 夫 凶 . Tỉ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung. Dịch: Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi. Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu. Giảng: Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau. Lại
thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm,
có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người
dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là “tỉ”. Nhưng hào 5 đó ở địa
vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà
thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi. “Bất
ninh phương lai”, Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là
muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ
“hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là
hào trên cùng chăng? Hào từ. 1. 初 六 : 有 孚 比 之 , 无 咎 . 有 孚 盈 缶 , 終 來 有 他 吉 . Sơ lục: Hữu phu, tỉ chi, vô cữu. Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát. Dịch:
Hào 1, âm : (Mới đầu) có lòng thành tín mà gần gũi nhau thì không có
lỗi. Nếu lòng thành tín nhiều như đầy một cái ảng thì có thêm điều tốt
khác nữa. 2. 六 二 : 比 之 自 內 , 貞 吉 . Lục nhị: tỉ chi tự nội, trinh cát. Dịch: Hào 2, âm: Tự trong mà gần gũi với ngòai, chính đáng thì tốt. Giảng:
hào này âm nhu, đắc trung và chính, ở nội quái, ứng hợp với hào 5 dương
cương cũng đắc trung và chính ở ngoại quái, cho nên nói là tự trong mà
gần gũi với ngoài. Hai bên thân nhau vì đạo đồng chí hợp (cùng trung,
chính cả), chứ không phải vì 2 làm thân với bề trên để cầu phú quí, như
vậy là chính đáng, không thất thân, nên tốt. 3.六 三 : 比 之 匪 人 . Lục tam: Tỉ chi phỉ nhân Dịch: Hào 3 âm: Gần gũi người không xứng đáng. Giảng: Hào này âm nhu, không trung không chính, chung quanh lại toàn là âm nhu, cho nên ví với người xấu, không xứng đáng. 4. 六 四 : 外 比 之 , 貞 吉 . Lục tứ: Ngoại tỉ chi, trinh cát. Dịch: Hào 4, âm: Gần gũi với bên ngoài (hào 5) giữ đạo chính thì tốt. Giảng:
hào âm ở ngôi 4 đắc chính ,tốt hơn hào 3; lại ở gần hào 5, như vậy là
thân với người hiền ( 5 trung và chính ) và phục tòng bề trên, cho nên
tốt. 5.九 五 : 顯 比, 王 用 三 驅
Cửu ngũ: Hiển tỉ, vương dụng tam khu Giảng:
hào này ở ngôi chí tôn, dương cương mà trung chính, cho nên cả 5 hào âm
(cả thiên hạ) đều phục tòng; đạo gần gũi như vậy, là rất quang minh. Ai
tòng phục vua thì cứ tới, không tùng phục mà chống lại thì cứ rút lui,
không ép ai cả; để cho mọi người tự do tới lui, cũng như đi săn, không
bao vây cả bốn mặt mà chừa một mặt cho cầm thú thoát ra. Do đó người
chung quanh được cảm hóa, không phải răn đe mà họ cũng giữ được đào
trung chính như vua. 6. 上 六 : 比 之 无 首 , 凶 . Thượng lục: tỉ chi vô thủ, hung. Dịch: Hào trên cùng, âm: không có đầu mối để gần gũi, xấu. Giảng:
Hào âm này ở trên cùng bất trung, không sao gần gũi với những hào âm
dưới được, thế là không có đầu mối, là vô thủy (thủ ở đây có nghĩa là
thủy) mà vô thủy thì vô chung, cho nên xấu. * Quẻ này nói về
phép nhóm bạn tìm thầy. Phải cẩn thận từ lúc đầu, thành tín, trung
chính, vì đạo chứ không vì lợi. Và phải để cho tự do, không nên ép
buộc.
hết: 8. QUẺ THỦY ĐỊA TỈ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:42pm
9. QUẺ PHONG THIÊN TIỂU SÚC
Trên là Tốn (gió) dưới là Càn (trời)
䷈
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ] Chữ
súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như
chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế. Thoán từ 小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 . Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. Dịch:
Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại,
gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta. Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ: - Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn. - Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc. -
Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong
quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải
nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn). Ngăn
được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng
vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám
mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội
Châu, chữ “ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây.
Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam. Chu Hi cho rằng
chữ “ngã” đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở
trong ngục Dữu Lý, mà “cõi tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây
của Văn Vương. Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn
cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức)
chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị. Hào từ 1. 初 九 : 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 . Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát. Dịch: Hào 1, dương : trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu? Tốt. Giảng:
hào này là dương cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến
lên, nhưng vì ở trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản.
Nó đành phải quay trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như
vậy không có lỗi gì cả. 2. 九 二 : 牽 復 , 吉 . Cửu nhị: khiên phục, cát. Dịch: Hào 2, dương . Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt. Giảng:
hào này với hào 5 là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc
trung, cùng muốn tiến cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt
nhau trở lại cái đạo trung , không để mất cái đức của mình. 3. 九 三 : 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 . Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục. Dịch: Hào 3, dương : Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau. Giảng:
Hào 3 quá cương (vì thể vị đều là dương ) mà bất trung, hăng tiến lên
lắm, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe
rớt mất trục. Hào này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng
của hào 4, như một cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không
biết tùy thời, không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ. 4. 六 四 : 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 . Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi. Giảng:
hào này là âm, nhu thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được
xung đột, có thể lưu huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm),
ở gần hào 5 là thân với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1
ứng hợp với nó, hào 2 cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ,
không có lỗi. Tiểu tượng truyện giảng: hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó. 5. 九 五 : 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 . Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân. Dịch: Hào 5, dương. Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng. Giảng:
hào này ở ngôi chí tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó
trung chính, tức có lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo no, mà
giúp đở hào âm 4 ở cạnh nó, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến
cho 4 làm được nhiệm vụ ở thời Tiểu súc. Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến. 6. 上 九 : 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 . Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Dịch:
Hào trên cùng, dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy
(ngăn được đàn ông rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì
nguy (lệ) đấy. Trăng sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không
thận trọng, phòng bị) vội tiến hành thì xấu. Giảng:
Đây đã tới bước cuối cùng của quẻ tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ
Tiểu súc. Hào 4 đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với
nó cả rồi, như đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên
ngưng đi, cứ một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các
hào dương (quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm
cực thịnh (trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân. * Đọc
quẻ Tiểu súc này chúng tôi nhớ tới Võ Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu
đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở
gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che chở, lại lấy được lòng người
dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần lần “thống lĩnh quần dương “,
cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại
thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn
như trong quẻ, nhưng cũng không khác mấy. Ở các thời đó, chắc nhiều nhà Nho Trung Hoa đọc lại quẻ này.
hết: 9. QUẺ PHONG THIÊN TIỂU SÚC,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2009 lúc 7:44pm
KINH THƯỢNG (Gồm 30 quẻ đầu)
10. QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ
Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)
䷉ Đầu quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích) Tự
quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp nhau thì phải có
trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ.
Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra ngoài
(chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo
đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ
Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có phần nào gượng ép. Thoán từ: 履 虎 尾 , 不 咥 人 , 亨 . Lí hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh. Dịch: Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông. Giảng:
Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm,
vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có
tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình
dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi
cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi
cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng
phó với sự cương cường. Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang minh. Đại tượng truyện:
bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở dưới) như vậy
lòng dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự tranh giành. Hào từ: 1. 初 九 : 素 履, 往 , 无 咎 . Sơ cửu: tố lý, vãng, vô cữu. Dịch: hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi. Giảng:
hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ được bản chất trong trắng (ý
nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử, có chí
nguyện, cứ giữ chí nguyện mình thì không có lỗi. 2. 九 二 : 履 道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉 . Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát. Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt. Giảng: Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt. Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt. Tuy
có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một
dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là
cô độc. Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương
cả, mà Hào từ bảo 2 và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lý này thì
không , như vậy là phải tùy theo ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng. 3. 六 三 : 眇, 能 視 ; 跛, 能 履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 . Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý. Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân. Dịch:Hào
3, âm: chột (mà tự phụ là) thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như
vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi
làm việc của một ông vua lớn. Giảng: Hào này âm
nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới đều là hào
dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các hào dương,
không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà đòi làm
một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn. 4. 九 四 : 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 .
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát. Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt. Giảng:
Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở
sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung,
hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí
hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi,
thận trọng. 5. 九 五 : 夬 履 貞 厲 . Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ. Dịch: Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể nguy. Giảng:
Hào 5 đắc chính, đắc trung ,rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ
Lý (nói về cách ở đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế,
mà hóa nguy. 6. 上 九: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 . Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát. Dịch:
Hào trên cùng, dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ
diễn ý nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối.
Cũng là một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc. Quẻ này tên
là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở
trong suốt đời người : mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong
trắng, rồi sau giữ vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ
(hào 3) để tránh nguy, biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở
địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được
như vậy cho tới cuối đời thì tốt không gì bằng. Chúng ta để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.
hết: 10. QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:10am
11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI
Trên là Khôn (đất), dưới là Càn (trời)
䷊ Lý
là lễ, có trật tự trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lý cũng có
nghĩa là dẫm, là giày (dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lý,
tiếp tới quẻ Thái. Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận. Thoán từ 泰: 小 往 大 來 , 吉, 亨 . Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh. Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi, cái lớn (dương ) lại, tốt, hanh thông. Giảng: Trong quẻ Lí, Càn là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt. Trong
quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời
ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí
dương, Khôn là khí âm “khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp
với âm, khí âm ở trên có tính cách giao tiếp với khí dương”, hai khí
giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa thích. Một cách giảng nữa. Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn) thì: Nguyên
Thuần âm là quẻ Khôn, là âm thịnh chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó
một nét dương thay vào dưới, hào 1 của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là
một dương mới sinh. Dương sinh đến hào thứ hai thì thành quẻ Lâm [
臨 ] , thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương sinh đến hào thứ 3
thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn. Khôn là âm nhu, là
tiểu nhân; Càn là quân tử . Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu
mòn, đạo quân tử dương lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là
Thái. Thoán từ bàn thêm: “Thái là lúc cái nhỏ đi,
cái lớn trở lại ( . . . ) là trời đất giao cảm mà muôn vật thông, trên
dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương, ngoài
(ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài
tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần. Hào từ: 1. 初 九 : 拔 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 . Sơ cửu: bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, chinh cát. Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên thì tốt. Giảng:
Hào nay là người có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào hai trên, như
có nhóm đồng chí dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ, cho nên
việc làm dễ có kết quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám. 2. 九 二 : 包 荒 , 用 馮 河 , 不 遐 遺 .朋 亡 , 得 尚 于 中 行 . Cửu nhị : Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, Bằng vong, đắc thượng vu trung hành. Dịch:
Bao dung sự hoang phế (những tệ hại cũ), dùng cách cương quyết mạo hiểm
như lội qua sông, không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở xa, không
nghĩ đến bè đảng, mà phải hợp với đạo trung. Giảng:
Hào dương, đắc trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng hợp với hào
5 âm, cũng đắc trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo mình,
vậy là có tài lớn mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức
này nữa: - Có độ lượng, bao dung một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu. - Có đức cương quyết mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như luận hgữ nói: bạo hổ bằng hà. - Tính trước những việc xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa). - Đừng có tinh thần đảng phái mà có hại cho đại nghĩa. Cần nhất là giữ đạo trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo hiểm quá đều là hại cả. 3. 九 三 : 无 平 不 陂 , 无 往 不 復 . 艱 貞 无 咎 , 勿 恤, 其 孚 , 于 食 有 福 . Cửu tam: Vô hình bất bí, vô vãng bất phục. Gian trinh vô cửu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc. Dịch:
Hào 3, dương: không có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà
không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính đáng thì không
lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính thì được hưởng phúc. 4. 六 四 : 翩 翩 , 不 富, 以 其 鄰 , 不 戒 以 孚 . Lục tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu. Dịch: Hào 4, âm : Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau. Giảng:
đây đã qua nửa quẻ Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức bọn tiểu
nhân kết hợp với nhau, tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có
nghĩa là hư, trái với thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng
cũng thành một xóm đông, đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin
nhau, vì cùng sẵn lòng gian tà cả. 5. 六 五 : 帝 乙 歸 妹 . 以 祉, 元 吉 . Lục ngũ: Đế Ất qui muội, dĩ chỉ, nguyên cát. Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có phúc, rất tốt. Giảng:
Hào âm này đắc trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại ứng hợp
với hào 2, dương ở dưới, như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người
hiền trong giới bình dân, sẽ được hưởng phúc. 6. 上 六 : 城 復 于 隍 , 勿 用 師 , 自 邑 告 命, 貞 吝 . Thượng lục: Thành phục vụ hoàng, vật dụng sư, Tự ấp cáo mệnh, trinh lận. Dịch:
Hào trên cùng, âm: thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống đất. Đừng dùng
quân nữa, bất quá mệnh lệnh chỉ ban ra đựơc trong ấp mình thôi. Dù hành
động của mình chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ. Giảng:
Đây tới lúc cuối cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái thành sụp
xuống. Vì là hào âm lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân ) nữa,
không cứu vãn được đâu, có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi. Hai
chữ “trinh lận”, R. Wilhem giaeng là : dù có kiên nhẫn (chống đỡ) cũng
thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào cuối này âm nhu thái quá, không
có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu Hi. * Dưới đây chúng
tôi chép thêm lời bàn của Phan Bội Châu (tr. 285 – 286) “Chúng ta đọc
Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luận:
nào Mông mà giáo dục; nào Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào sư mà sắp đặt
việc binh, việc hình; nào Súc, nào Lý mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc
lễ chế; hao tổn biết bao tâm huyết, chứa trữ biết bao thì giờ. Kể về
phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6 lần: 1. Truân, Khảm thượng 2. Mông . khảm hạ 3. Nhu , Khảm thượng 4. Tụng, Khảm hạ. 5. Sư, Khảm hạ 6. Ti, Khảm thượng. Thoát
khỏi 6 lần nguy hiểm rồi. Vậy sau, trong có chốn nuôi trữ là Tiểu súc,
ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ vào) là Lý. Bây giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng, tức khắc ra Bĩ (coi quẻ sau ). Ghê gớm thật
! Làm nên tốn vô số công phu mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết
bao nền tảng mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt. Không chắc đó đã là thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết lâu, suy rất chóng.
hết: 11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:12am
12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ
Trên là Càn (trời) dưới là Khôn (đất) ䷋
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ. Thoán tử. 否之匪人, 不利君子貞, 大往小來. Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai. Dịch:
Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không
lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà
cái nhỏ (âm) lại. Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới
thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên,
âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế
tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi
với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử
tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên. Đại tượng
truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình
lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai
nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất
khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn. Gặp thời Truân, thời khó
khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn
thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ
cái đức và cái thân mình thôi. Hào từ. 1. 初六: 拔茅茹, 以其彙, 貞吉亨. Sơ lục: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, trinh cát hanh. Dịch: Hào 1 âm: Nhổ rễ cỏ mao mà được cả đám, hễ chính thì tốt mà hanh thông. Giảng:
Hào này rất giống hào 1 quẻ Thái: cũng “bạt mao dĩ kỳ vị” vì quẻ Thái
hào 1 cặp với hai hào trên, quẻ này cũng vậy, cũng có đồng chí, làm
việc dễ có kết quả; chỉ khác quẻ thái hào 1 là dương, quân tử, quẻ này
hào 1 là âm, tiểu nhân; cho nên quẻ Thái khuyên cứ tiến lên (chính) sẽ
tốt; còn quẻ này thì khuyên phải “trinh” chính đáng (trinh – khác nhau
ở hai chữ chính [正] và trinh [貞] thì sẽ tốt và hanh thông. Hào 1
quẻ Bĩ là tiểu nhân nhưng mới bước đầu, cái ác chưa hiện rõ, lại ứng
hợp với hào 4 ở trên là quân tử, cho nên còn có hy vọng cải hóa được.
Ðại tượng truyện bảo: nếu để tâm giúp nước (chí tại quân – quân là vua,
là quốc gia) như hào 4 thì sẽ tốt. Như vậy là có ý khuyên tiểu nhân nên
đứng vào phe quân tử . 2. 六二: 包承, 小人吉;大人否, 亨. Lục nhị: Bào thừa, tiểu nhân cát; đại nhân bĩ, hanh. Dịch:
Hào 2, âm: Tiểu nhân chịu đựng và vâng thuận người quân tử thì tốt: đại
nhân (có đức lớn) nên giữ tư cách trong cảnh bế tắc (khốn cùng) thì
hanh thông. Giảng: Hào này tuy là tiểu nhân, nhưng đắc trung đắc
chính, chung quanh là tiểu nhân cả, mà ứng hợp với hào 5 quân tử ở
trên, cho nên hào từ khuyên nó nên vâng thuận quân tử thì tốt. Còn kẻ
đại nhân được bọn tiểu nhân vâng thuận – vì chúng muốn mua danh – thì
cũng đừng theo chúng, cứ giữ khí tiết của mình trong thời khốn cùng,
như vậy sẽ hanh thông. 3. 六三: 包羞. Lục tam: Bao tu . Dịch: Hào 3, âm: Chứa chất sự gian tà, xấu hổ. Giảng:
Hào này, không trung, không chính, là kẻ đứng đầu bọn tiểu nhân (vì ở
trên cùng nội quái khôn), cho nên rất xấu, đáng ghét. 4. 九四:有命, 无咎.疇離祉. Cửu tứ: Hữu mệnh, vô cữu. Trù li chỉ. Dịch : Hào 4 dương : có mệnh trời (tức như thời vận đã tới) thì không lỗi mà bạn của mình cũng nhờ cậy mình mà được hưởng phúc. Giảng:
Hào này ở quá nửa quẻ Bĩ, có mòi sắp hết bĩ rồi, cho nên nói là thời
vận đã tới; nó là dương ở trong ngọai quái Càn, chính là người quân tử
thực hiện được chí của mình. Bạn của nó, tức hai hào 5, 6 cùng là dương
cả - cũng sẽ được hưởng phúc. 5. 九五: 休否, 大 人吉.其亡, 其亡, 繫于苞桑. Cửu ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát. Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang. Dịch:
Hào 5, dương : làm cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy
nhiên, phải biết lo). Có thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững
như buộc vào một cụm dâu (dây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó
nhổ). Giảng: Hào này có đức dương cương trung
chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết, cho nên lời đoán
là tôt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót. Theo Hệ từ hạ
chương V thì Khổng tử đọc tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử
khi yên ổn thì không nên quên rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không
quên rằng có thể mất, khi trị thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ
vậy mà thân an nước nhà giữ vững được.” 6. 上九: 傾否, 先否, 後喜. Thượng cửu: Khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu hĩ. Dịch: Hào trên cùng, dương: đánh đổ được cái bĩ, trước còn bĩ, sau thì mừng. Giảng:
Đây là thời cuối cùng của Bĩ mà bĩ cực thì thái lai; người quân tử có
tài sẽ dắt cả bạn bè (trỏ hào 4 và 5) mà đánh đổ dược bĩ. Nhưng mới đầu
còn phải lo lắng (tiên bĩ) sau mới mừng là bước lên được cảnh Thái rồi.
Chúng ta để ý: Quẻ Thái, mới đến hào 3, còn thịnh cực mà Dịch đã
khuyên phải giữ được chính đáng trong cảnh gian nan (gian trinh); còn
quẻ Bĩ, khi mới tới hào 4, mới có mòi sắp hết bĩ mà Dịch đã khuyên là
thời đã tới, người quân tử nên thực hiện chí của mình đi. Nghĩa là luôn
luôn phải sẵn sàng để nắm ngay lấy cơ hội.
hết: 12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:13am
13. QUẺ THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Trên là Càn (trời), dưới là Li (lửa) ䷌
Không thể bế tắc, cách tuyệt nhau mãi được, tất phải có lúc giao thông hòa hợp với nhau; cho nên sau quẻ Bĩ tới quẻ Đồng Nhân. Đồng nhân là cùng chung với người, đồng tâm với người. Thoán từ: 同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞. Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh. Dịch:
Cùng với người ở cánh đồng (mênh mông) thì hanh thông. (gian hiểm như)
Lội qua sông lớn, cũng lợi. Quẻ này lợi cho người quân tử trung chính. Giảng:
li ở dưới là lửa, sáng, văn mình, Càn ở trên là Trời. Quẻ này có tượng
lửa bốc lên cao tới trời, cũng soi khắp thế giới (cánh đồng mênh mông
có nghĩa đó). Cho nên tốt. dù có hiểm trở gì, cũng vượt được (Phan Bội
Châu bảo đó “chính là cảnh tương đại đồng rất vui vẻ”) Muốn vậy phải có
được trung chính của người quân tử . Thoán truyện cùng hào 2 ở nội quái ly, hào âm độc nhất, quan trọng nhất trong 6 hào mà giảng thêm: Hào
đó âm nhu đắc vị (tức là chính) đắc trung, lại ứng hợp với hào 5 dương
cương cũng đắc vị đắc trung trong ngọai quái Càn, thế là có hiện tượng
nội ngọai tương đồng, nên gọi là đồng nhân. Văn minh (Ly) ở phía trong,
cương kiện (Càn) tức dụng ở ngoài, mà được cả trung lẫn chính, ứng hợp
với nhau, đó là tượng người quân tử thông suốt được tâm tri của thiên
hạ. Đại tượng truyện bàn thêm: Người ta muốn thực hiện được cảnh
tượng mọi vật cùng sống chung với nhau thì phải phân biệt từng loại của
các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật (quân tử dĩ loại tộc, biện vật); hễ
cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở
năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được. Hào từ: 1. 初九: 同人于門, 无咎. Sơ cửu: Đồng nhân vu môn, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : Ra khỏi cửa để cùng chung với người thì không có lỗi. Giảng:
Hào dương này, như người quân tử mới bắt đầu ra đời, đã muốn “đồng”
(cùng chung) với người khác thì có lỗi, có gì đáng trách đâu? 2. 六二: 同人于宗, 吝. Lục nhị: Đồng nhân vu tôn, lận. Dịch: Hào 2, âm: (chỉ) chung hợp với người trong họ, trong đảng phái, xấu hổ. Giảng:
Hào này tuy đắc trung đắc chính, nhưng ở vào thời Đồng nhân, nên cùng
chung với mọi người mà lại chỉ ứng hợp riêng với hào 5 ở trên, như chỉ
cùng chung với người trong họ, trong đảng phái của mình thôi, thế là
hẹp hòi, đáng xấu hổ. 3. 九三: 伏戎于莽, 升其高陵, 三歲不興. Cửu tam: Phục nhung vu mãng, Thăng kì cao lăng, tam tuế bất hưng. Dịch: Hào 3, dương : núp quân ở rừng rậm (mà thập thò) lên gò cao, ba năm chẳng hưng vượng được. Giảng:
Hào này muốn hợp với hào 2 (âm) ở dưới, nhưng nó quá cương (dương ở
dương vị), lại bất đắc trung, như một kẻ cường bạo; mà 2 đã ứng hợp với
5 ở trên, 3 sợ 5 mạnh nên không dám công kích 2, chỉ núp trong rừng,
rình trộm, rồi thập thò lên đồi cao mà ngó (3 ở trên cùng nội quái, nên
nói vậy); như vậy ba năm cũng không tiến (hưng lên) được. 4. 九四: 乘其墉, 弗, 克攻, 吉. Cửu tứ: thừa kỳ dung, phất, khắc công, cát. Dịch: Hào 4, dương : cưỡi lên tường đất rồi mà không dám đánh thế là tốt. Giảng:
hào này cũng là dương cương, bất trung, bất chính, cũng muốn hợp với 2,
lăng áp 3 mà cướp 2 (hào 3 ở giữa 2 và 4 cũng như bức tường ngăn cách 2
và 4, 4 ở trên 3 như đã cưỡi lên bức tường đó); nhưng tuy cương mà ở vị
âm, còn có chút nhu, nên nghĩ lại, không thể lấn áp 3 được, như vậy
không nên, cho nên Hào từ bảo “thế thì tốt” . Tiểu tượng truyện khen là biết phản tắc (反則) tức biết trở lại phép tắc. 5. 九五: 同人, 先號咷而. 後笑, 大師克相遇. Cửu ngũ: Đồng nhân, tiên hào đào nhi Hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ. Dịch: Hào 5, dương: Cùng với người, trước thì kêu rêu, sau thì cười, phải dùng đại quân đánh rồi mới gặp nhau. Giảng:
hào này dương cương trung chính, ứng hợp với hào 2, thật là đồng tâm
đồng đức, tốt. Nhưng giữa 5 và 2, còn có hai hào 3 và 4 ngăn cản, dèm
pha, phá rối, nên mới đầu phải kêu rêu, phải dùng đại quân dẹp 3 và 4
rồi 2 và 5 mới gặp nhau mà vui cười. Công việc hòa đồng nào mới đầu
cũng bị nhiều kẻ ngăn cản như vậy, không dễ dàng thực hiện ngay được,
dù là hợp với công lý, với hạnh phúc số đông. 6. 上九: 同人于郊, 无悔. Thượng cửu: Đồng nhân vu giao, vô hối. Dịch: Hào trên cùng, dương : cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành, không hối hận. Giảng:
“Giao” là cánh đồng ngòai đô thành, không rộng bằng “dã” (đồng nội nơi
nhà quê). Hào này tuy ở cuối quẻ Đồng nhân, không có hào nào ứng hợp
với nó, cho nên chí chưa được thì hành như mình muốn, mới chỉ như cùng
với người ở cánh đồng ngoài đô thành thôi, chưa ở giữa quãng đồng nội
được. * Đọc quẻ này, chúng ta rút ra được hai lời khuyên: -
Muốn hòa đồng thì đừng có tinh thần đảng phái; phải tôn trọng đặc tính
của mỗi hạng người, khả năng cùng nhu cầu của mỗi người. - Công việc hòa động mọi người tuy rất chính đáng, mang hạnh phúc cho dân chúng nhưng cũng gian nan, bị nhiều kẻ phá.
hết: 13. QUẺ THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:14am
14. QUẺ HỎA THIÊN ĐẠI HỮU
Trên là Ly (Lửa), dưới là Càn (trời ䷍
Đã
cộng đồng với mọi người thì mọi người về với mình, mà sở hữu của mình
cũng lớn, cho nên sau quẻ Đồng nhân, tới quẻ Đại hữu (có lớn). Thoán từ: 大有: 元亨. Đại hữu: Nguyên hanh. Dịch: Có lớn thì rất hanh thông. Giảng:
☲ ở trên Càn là lửa ở trên trời, chiếu sáng mọi vật như vậy là “có lớn”
Ly lại có nghĩa là văn minh, Càn là cương kiện, gồm cả văn minh và
cương kiện cho nên rất hanh thông. Theo Thoán truyện: Còn một cách
giảng nữa: quẻ này chỉ có một hào âm, nó thống lĩnh quần dương, 5 hào
dương đều theo nó, có nghĩa là mọi người về với nó, mà nó được “có
lớn”. Sở dĩ nó thống lĩnh được vì nó ở ngôi tôn mà lại đắc trung. Nó
ứng hợp với hào 2, dương ở giữa quẻ Càn, như vậy nó vừa văn minh vừa
cương kiện, ứng với trời (Càn) mà hành động đúng với thời. Đại
tượng truyện khuyên: người quân tử trong quẻ này phải ngăn đón ngay
điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ
để thuận mệnh tốt của trời (át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh:
chữ hưu ở đây là tốt). Hào từ: 1. 初九: 无交害, 匪咎; 艱則无咎. Sơ cửu: Vô giao hại, phỉ cữu; nan tắc vô cửu. Dịch : Hào 1. dương : chưa làm việc gì tai hại, chưa có lỗi; nhưng phải (cẩn thận) cư xử như gặp lúc gian nan thì mới khỏi lỗi. Giảng:
Đại hữu là có lớn. Hào 1 như con một nhà giàu sang, còn trẻ, chưa làm
gì tai hại thì chưa có tội, nhưng vì là con nhà giàu, ít người ưa, nếu
lại kiêu căng xa xỉ thì sẽ gây oán ghét, cho nên Hào từ khuyên sống
trong cảnh gian nan thì mới khỏi tội. 2. 九二: 大車以載, 有攸往, 无咎. Cửu nhị: đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cửu. Dịch: Hào 2, dương : xe lớn chở nặng, đi chốn nào (ý nói làm gì) cũng được, không có lỗi. Giảng:
Hào này tốt nhất trong quẻ : dương cương mà đắc trung, vừa có tài vừa
khiêm tốn, được hào 5, âm ở trên ứng hợp, như được vua hết sức tin dùng
sẽ thành công, cho nên ví với cỗ xe lớn chở nặng đi đường xa, đâu cũng
tới được. 3. 九三: 公用亨于天子, 小人弗克. Cửu tam: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc. Dịch: Hào 3, dương : như bậc công (hầu) mở tiệc mời thiên tử hạng tiểu nhân không đương nổi việc đó. Giảng:
Thời xưa chữ [ 亨 ] đọc là hanh (nghĩa là hanh thông) mà cũng đọc là
hưởng) nghĩa là hưởng dụng, dâng, yến tiệc, lễ lớn) Chu Hi hiểu là
triều hiến. R.Wilhem hiểu là đem đất đai của cải dâng thiên tử, hoặc
cho dân chúng. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. Hào
3 này dương cương đắc chính, đứng trên cùng nội quái, cho nên ví với
một bậc công; ở vào thời Đại hữu tất có nhiều đất đai, nhân dân; nên
bậc thiên tử cũng nể, tới dự tiệc do vị công đó đãi. Những phải là
người quân tử, có đức hạnh, không kiêu, mới làm như vậy được; còn hàng
tiểu nhân, thấy thiên tử tới nhà mình càng kiêu căng, xa xỉ thì không
đương nổi danh dự đó, mà chỉ hại thôi (tiểu nhân hại dã – lời Tiểu
tượng truyện) 4. 九四: 匪其彭, 无咎. Cửu tứ: phỉ kỳ bành, vô cữu. Dịch: Hão, dương: đừng làm ra vẻ thịnh vượng (khoe của, sống sang quá) thì không có lỗi. Giảng:
Chữ bành [ 彭 ] ở đây, Trình tử hiểu là thịnh vượng; Phan Bội Châu dẫn
câu “Hành nhân bành bành” trong Kinh Thi mà hiểu là rầm rộ. Chúng tôi
châm chước hai nghĩa đó mà dịch như trên. Hào này ở địa vị cao,
gần hào 5, mà bất trung , bất chính, e có họa tới nơi, nên Hào từ
khuyên phải khiêm tốn, tiết kiệm. Tiểu tượng truyện cũng khuyên phải
phân biệt thị phi họa phúc cho rành thì mới khỏi lỗi. 5. 六五: 厥孚交如, 威如, 吉. Lục ngũ: quyết phu giao như, uy như, cát. Dịch: Hào 5, âm: Lấy đức tin, chí hành mà giao thiệp, và phải có uy thì tốt. Giảng:
Hào này ở vị chí tôn, đượccả 5 hào dương theo, nên phải đem đức tin,
lòng chí thành mà đối đãi với người dưới. Nhưng vì là âm, nên ngại rằng
quá nhu, nên Hào từ khuyên phải có chút uy mới được. Tiểu tượng
truyện cơ hồ hiểu khác, bảo phải dùng uy vũ, đừng khinh dị mà phải
phòng bị đạo tắc (uy như chi cát, dị nhi vô bị dã) . 6. 上九: 自天祐之, 吉, 无不利. Thượng cửu: tự thiên hựu chi, cát, vô bất lợi. Dịch: hào trên cùng, dương : tự trời giúp cho, tốt, không có gì mà chẳng lợi. Giảng:
Ở thời Đại hữu, thịnh trị, hào dương cương này ở trên cùng mà chịu hạ
mình theo hào 5, chỉ vì 5 có đức thành tín; như vậy là không kiêu, tuy
thịnh mà không đầy tràn, nên được trời giúp cho, hóa tốt, chứ lẽ thường
hào cuối cùng, Đại hữu đã đến màn cuối, khó mà tốt được. Khổng tử
đọc tới hào này bảo: “Trời sở dĩ giúp cho là vì thuận với đạo trời;
người sở dĩ giúp cho là vì có lòng thành tín” . Ông muốn nói hào 5 được
các hào khác giúp là vì có lòng thành tín; còn hào trên cùng được trời
giúp vì thuận với đạo trời: trọng người hiền (hào 5) không kiêu. Quẻ này khuyên chúng ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm: giao thiệp với người , nên chí thành. Phan
Bội Châu nhận xét rằng trong 64 quẻ , không quẻ nào tốt đều như quẻ
này: hào 1, 2, 3 đều không có lỗi, hào 4 được hanh thông, hào 5 tốt,
hào 6 đã tốt hơn nữa, “không có gì mà chẳng lợi”. Ngay đến quẻ Càn, quẻ
Thái hào cuối cùng cũng xấu, kém quẻ này. Đại hữu chính là thời thịnh
trị sau thời đại đồng.
hết: 14. QUẺ HỎA THIÊN ĐẠI HỮU,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:15am
15. QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM
Trên là Khôn (đất), dưới là Cấn (núi) ䷎
Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm. Thoán từ 謙: 亨, 君子有終. Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung. Dịch: Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối. Giảng:
Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái
tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông. Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ. Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người . Trời
có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm
vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi,
cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích
khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy,
tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi
hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp
mà chẳng ai vượt mình được. Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử
nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình
(Biều đa ích quả, xứng vật bình thí). Hào từ 初六: 謙謙君子, 用涉大川, 吉. Sơ lục: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát. Dịch : Hào 1, âm – Nhún nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn thì tốt. Giảng: Hào này âm như mà lại ở dưới cùng, thật là khiêm hạ, dầu gặp hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng vượt được. Tiểu tượng truyện khuyên người quân tử trau giồi tư cách mình bằng đức khiêm hạ, (Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục) 2 六二: 鳴謙, 貞吉. Lục nhị: Minh khiêm, trinh cát. Dịch:Hào 2, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, nếu chính đáng thì tốt. Giảng:
hào này nhu thuận, đắc trung, đắc chính, rất tốt, cho nên bảo là tiếng
tăm lừng lẫy về đức Khiêm. Nhưng ngại tiếng tăm lừng lẫy thì dễ ham
danh, mà hóa ra quá khiêm đến mức giả nhún nhường hoặc nịnh bợ), nên
Hào từ khuyên phải giữ đức trung, chính (trinh) của hào 2 thì mới tốt. 3. 九三: 勞謙, 君子 有終, 吉. Cửu tam: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát. Dịch: Hào 3, dương : Khó nhọc (có công lao) mà nhún nhường, người quân tử giữ được trọn vẹn, tốt. Giảng:
hào này có đức dương cương, làm chủ cả quẻ, năm hào âm đều trông cậy
vào, như người có địa vị (ở trên cùng nội quái), có tài năng (hào dương
) mà khiêm tốn (vì ở trong quẻ Khiêm), không khoe công, nên càng được
mọi người phục, mà giữ được địa vị, đức độ tới cùng. Theo Hệ từ
thượng truyện chương VIII, Khổng tử đọc hào này, giảng thêm: “Khó nhọc
mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như
vậy là cực dày”. 4. 六四: 无不利, 撝謙. Lục tứ: vô bất lợi, huy khiêm. Dịch: Hào 4, âm: Phát huy sự nhún nhường thì không gì là không lợi. Giảng:
Hào này nhu thuận mà đắc chính, tốt đấy, nhưng vì ở trên hào 3 là người
có công lao, mà lại ở gần hào 5, là vua, nên càng phải phát huy thêm
đức khiêm, mới tránh được mọi khó khăn mà không gì là không lợi. 5. 六五: 不富以其鄰, 利用侵伐, 无不利. Lục ngũ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi. Dịch:
Hào 5, âm: chẳng cần giàu (có thế lực) mà thâu phục đựơc láng giềng
(được nhiều người theo); nhưng phải có chút uy, chinh phạt kẻ nào chưa
phục mình thì mới không gì là không lợi. Giảng: Hào này âm nhu,
đắc trung, ở địa vị chí tôn, nên tự nhiên thâu phục được nhiều người,
nhưng nếu nhu quá, thiếu uy thì không phải là tư cách một ông vua, nên
Hào từ khuyên nên dùng uy võ đối với kẻ nào chưa phục mình. Hào này có
thể dùng uy được vì ở vị dương (lẻ). 6. 上六: 鳴謙, 利用行師, 征邑國. Thượng lục: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chính ấp quốc. Dịch:
Hào trên cùng, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm, được nhiều người
theo có thể lợi dụng điều đó mà ra quân, nhưng cũng chỉ trị được những
kẻ trong ấp của mình không phục mình thôi. Giảng: hào này thể nhu,
vị nhu, ở vào thời cuối cùng quẻ Khiêm, cho nên khiêm nhu cùng vực,
tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người theo đấy; nhân đó mà có thể ra quân
chinh phạt những kẻ không theo mình, nhưng vì tài kém, nên chỉ trị được
những kẻ trong ấp mình thôi, chưa thỏa chí được. * Quẻ này hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại hữu bao nhiêu. Đa
số các triết gia Trung Hoa rất đề cao đức Khiêm, nhất là Khổng tử và
Lão tử, vì họ cho rằng luật trời hễ đầy quá thì vơi, trong khi đầy phải
nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ. Không thể dẫn hết
những châm ngôn của Trung Hoa về đức khiêm được; trong quẻ này chúng ta
đã thấy được mấy câu như Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố
doanh nhi hiếu khiêm, khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục. Trong Đạo đức
kinh, cũng rất nhiều câu, như: Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Qúi dĩ tiện
vi bản, cao dĩ hạ vi cơ; Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi: Bất cảm vi
thiên hạ tiên . . Nhưng khiêm nhu của Lão tử có vẻ triệt để, tuyệt
nhiên không tranh hơn với ai, mà khiêm nhu trong Dịch thì không thái
quá, vẫn trọng đức trung (hào 2).
hết: 15. QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:19am
16 QUẺ LÔI ĐỊA DỰ
Trên là Chấn (sấm sét,) dưới là Khôn (đất) ䷏
Đã Đại hữu mà lại Khiêm thì tất nhiên là vui vẻ, sung sướng, cho nên sau quẻ Khiêm, tới quẻ Dự (vui, sướng). Thoán từ : 豫: 利建侯, 行師. Dự: Lợi kiến hầu, hành sư. Dịch: vui vẻ: Dựng tước hầu (để trị dân), ra quân thì tốt. Giảng: Có ba cách giảng ý nghĩa quẻ này. - Chấn ở trên, Khôn ở dưới, có nghĩa là ở trên thì động, hành động; ở dưới thuận theo, như vậy tất vui vẻ. - Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ. -
Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ
trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành
công, sẽ vui vẻ, an ổn. - Thuận với lẽ tự nhiên thì dù trời đất cũng nghe theo, huống hồ là việc dựng tước hầu, ra quân, dân há lại không theo. -
Thoán truyện bàn rộng thêm: Cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo
trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm,
không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân
thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục
tòng. Hào từ: 1. 初六: 鳴豫, 凶. Sơ lục: Minh dự, hung. Dịch: Hào 1, âm: Khoe mình vui sướng một cách ồn ào, xấu. Giảng:
Chữ Dự, tên quẻ có nghĩa là trên dưới thuận nhu hành động mà cùng vui
vẻ; còn chữ dự trong các hào thì có nghĩa là cá nhân vui vẻ. Như
hào âm nhu ở dưới cùng này, bất trung, bất chính, là một tiểu nhân, ỷ
có hào 4 cương kiện và có địa vị ở trên ứng viện, lấy làm đắc ý, bộc lộ
nỗi sung sướng của mình một cách ồn ào, thế là kiêu mạn, xấu. 2. 六二: 介于石, 不終日, 貞吉. Lục nhị: giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát. Dịch: Hào 2, âm: Chí vững như đá, chẳng đợi hết ngày (mà ứng phó ngay), chính đính, bền, tốt. Khổng
tử, theo Hệ từ hạ truyện, Chương V, cho rằng người quân tử biết trước
được triệu chứng từ khi mới có dấu hiệu, cho nên ứng phó mau, giao tiếp
với kẻ trên thì không nịnh, với kẻ dưới thì không nhờn, biết lúc nào
nên nhu, lúc nào nên cương. 3. 六三: 盱豫, 悔遲, 有悔. Lục tam: Hu dự, hối trì, hữu hối . Dịch:
Hào 3, âm: Ngửa mặt lên trên (mong được phú quí) mà vui mừng, như vậy
thế nào cũng ăn năn, mà sửa đổi chậm, lại càng ăn năn hơn. Giảng:
Hào này cũng bất trung, bất chính, như kẻ tiểu nhân ngó lên trên là hào
4 dương cương, mong được phú quí mà vui mừng; không sớm rút chân ra
khỏi cái bẩy quyền thế thì sẽ ân hận lớn. 4. 九四: 由豫, 大有得; 勿疑, 朋盍簪. Cửu tứ: Do dự, đại hữu đắc; vật nghi, bằng hạp trâm. Dịch:
Hào 4, dương : người khác nhờ mình mà vui, mình có thể thành công lớn
được; cứ hết lòng chí thành, đừng nghi ngờ thì các bạn thanh khí sẽ lại
giúp mình đông mà chóng. Giảng: Hào này làm chủ trong quẻ , có
tài, có địa vị cao, lại được hào 5 (vua) hết lòng tin, nên tạo hạnh
phúc được cho người , thành công lớn được. Nhưng là hào dương độc
nhất trong quẻ một mình đảm đương gánh nặng, có lúc chán nản, nghi ngờ,
nên Hào từ khuyên cứ chí thành, thì sẽ có nhiều bạn tới giúp. 5. 六五: 貞疾, 恆, 不死. Lục ngũ: Trinh tật, hằng, bất tử. Dịch: hào 5, âm : Bệnh hoài, dai dẳng nhưng không chết. Giảng:
Hào 5, ở địa vị chí tôn, nhưng âm nhu, và có hào 4 được lòng dân, gánh
hết việc thiên hạ, chuyên quyền; 5 chẳng phải làm gì cả, chỉ chìm đắm
trong cảnh hoan lạc (vì ở thời Dự), nên ví với một người bị bệnh hoài.
Nhưng may là có 5 đắc trung mà 4 cũng không áp bức, nên vẫn giữ được hư
vị, cũng như bị bệnh dai dẳng mà không chết. Phan Bội Châu cho hào 5 này đúng là trường hợp các vua Lê nhu nhược bị chúa Trịnh chuyên quyền, nhưng vẫn giữ được hư vị. 6. 上六: 冥豫,成有渝, 无咎. Thượng lục: Minh dự, thành hữu du, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, âm: mê tối vì hoan lạc, nhưng nếu biết sửa đổi nết xấu thì không lỗi. Giảng:
hào này âm nhu, bất trung bất chính, lại ở thời cuối quẻ Dự, cho nên ví
với người mê tối vì hoan lạc. Nhưng cũng may, hào này ở trong ngoại
quái Chấn, Chấn có nghĩa là động, có hy vọng nhúc nhích tự cường được,
như vậy sẽ không xấu. * Chúng ta nhận thấy tên quẻ là Vui, mà
sáu hào chỉ có hai hào (2 và 4) là tốt, còn 4 hào kia xấu nhiều hay ít
cả, xấu nhất là hào 1 vì kiêu mạn, khoe khoang ồn ào cái vui bất chính
của mình; mà tốt nhất là hào 2, vì không ham vui mà giữ vững chí mình. Phan
Bội Châu dẫn câu “Sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc” của Mạnh tử để kết,
là tóm tắt được triết lý của quẻ này. Quốc gia cũng như cá nhân, hễ
sống trong cảnh vui sướng, vui vẻ quá thì sẽ mau chết.
hết: 16 QUẺ LÔI ĐỊA DỰ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:21am
17. QUẺ TRẠCH LÔI TÙY
Trên là Đoài (chằm), dưới là Chấn (động, sấm sét) ䷐
Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo. Thoán từ 隨: 元, 亨, 利, 貞, 无咎. Tùy: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu. Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi. Giảng: Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy. Lời
thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ “vô
cữu” (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như
trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là “đức” (tính cách)
của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không
có lỗi. Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh
đều là điều kiện để “Tùy” có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải
theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông
thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì
phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi. Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa. Thoán
truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới
được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã
hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời
Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán
truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ
tai!) Hào từ; 1. 初九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功. Sơ cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công. Dịch: Hào 1, dương : chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công. Giảng:
chữ “quan” ở đây có nghĩa là chủ, chữ “du” có nghĩa là thay đổi . Chu
Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình
thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng
ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng). Hiểu
theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh
cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải ,
thì thành công. 2. 六二: 係小子, 失丈夫. Lục nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu. Dịch: Hào 2, âm: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu. Giảng:
Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với
hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với
nó. Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng
chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc
mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo. 3. 六三: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞. Lục tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử; Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh. Dịch:
Hào 3, âm: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu
xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi. Giảng:
Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với
hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1
(tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ
khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt. 4. 九四: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎. Cửu tứ: Tùy hữu hoạch, trinh, hung. Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà cữu. Dịch:
Hào 4, dương : Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà
cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức
sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi. Giảng: Hào này như một vị
cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là
thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được
lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp
hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn
Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt
ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi. 5. 九五: 孚于嘉, 吉. Cửu ngũ: phu vu gia, cát. Dịch: Hào 5, dương. Tín thành với điều thiện thì tốt. Giảng:
Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2,
cũng trung chính, cho nên rất tốt. “Gia” , điều thiện, ở đây là đức
trung chính. 6. 上六: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山. Thượng lục: câu hệ chi, mãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn. Dịch:
Hào trên cùng, âm. Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà
Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây
sơn (tức Kỳ sơn). Giảng: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm
theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu,
lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người
ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: “Vương dụng hanh vu Tây sơn” như vậy. Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là : vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn. J.
Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác
nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà
Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn. * Quẻ này khuyên chúng ta
chỉ nên theo chính nghĩa (chứ đừng vì tư tình, vì lợi) và biết tùy
thời, như vậy thì tốt tới cùng được (hào cuối, đạt đến cực điểm mà vẫn
không xấu.)
hết: 17. QUẺ TRẠCH LÔI TÙY,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:22am
18. QUẺ SƠN PHONG CỔ
Trên là Cấn (núi), dưới là Tốn (gió) ䷑
Vui theo thì tất có công việc làm, cho nên sau quẻ Tùy, tới quẻ Cổ. Cổ
có hai nghĩa: đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa sang lại, thế
là có công việc. Thoán từ: 蠱: 元亨, 利涉大川.先甲三日, 後甲三日. Cổ: Nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật. Dịch:
Đổ nát mà làm lại mới thì rất tốt, vượt qua sông lớn thì lợi. Ba ngày
trước ngày giáp (nghĩa là phải tìm nguyên nhân từ trước), ba ngày sau
ngày giáp (phải nghĩ đến tương lai nên thể nào). Giảng: Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi, quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc. Cũng
có thể giảng như sau: tốn ở dưới là thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ;
người dưới thì thuận mà người trên cứ ngồi im; hoặc người dưới một mực
nhu, người trên một mực cương (Tốn thuộc âm, mà hào 1 cùng là âm, còn
Cấn thuộc dương, mà hào cuối cùng thuộc dương ), để nén người dưới, như
vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm lại. Đổ nát mà làm lại thì rất nên, rất tốt; phải xông pha nguy hiểm, nhưng rồi sẽ có lợi. Tuy
nhiên phải suy nghĩ, có kế hoạch trước sau. Ví dụ bắt tay vào việc là
ngày giáp, thì phải nghĩ tới ba ngày trước ngày giáp, tức ngày tân [辛],
tìm xem vì lẽ gì mà có sự đổ nát, và muốn đổi cũ sang mới (mới cũng là
tân, nhưng chữ tân này [新], người Trung Hoa thường có cách mượn một chữ
đồng âm để diễn một ý khác) thì phải làm sao. Rồi lại nghĩ đến ba ngày
sau, tức ngày đinh [ 丁] , mà đinh ninh (chữ [丁 寧] này) phòng bị cho
tương lai. Làm lại mới mà được như vậy thì rất tốt. Thoán truyện và Đại tượng truyện không giảng gì khác. Hào từ: 1. 初六: 幹父之蠱, 有子, 考无咎, 厲, 終吉. Sơ lục: Cán phụ chi cổ, hữu tử, khảo vô cữu , lệ, chung cát. Dịch:
Hào 1, âm: Sửa sang sự đổ nát của cha; nhờ con mà cha không lỗi; nhưng
cũng có thể nguy đấy, phải biết răn sợ, sau mới tốt. Quẻ Cổ này lấy việc trong nhà làm thí dụ, nên nói đến cha, con. 2. 九二: 幹母之蠱, 不可貞. Cửu nhị: Cán mẫu chi cổ, bất khả trinh. Dịch: Hào 2, dương : Sửa sang sự đổ nát của mẹ, không nên cố chấp (trinh) Giảng:
Hào này dương cương, đắc trung, trên ứng với hào 5 âm nhu, nên ví như
con (2) với mẹ (5). Hào 2 có tài, sửa sang được, nhưng tính cương
cường, có thể xung đột với 5, cho nên Hào từ khuyên đừng cố chấp mà
phải mềm dẻo. 3. 九三: 幹父之蠱, 小有悔, 无大咎. Cửu tam: Cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu. Dịch: Hào 3, dương: sửa sang sự đổ nát của cha, có chút hối hận những không có lỗi lớn. Giảng:
Hào này là dương lại ở vị dương, là quá cương, nóng nảy, không hợp đạo
trung cho nên làm vài việc đáng ăn năn; nhưng làm nổi việc, đắc chính,
nên không đến nỗi có lỗi lớn. Ví như người con trung ngôn, trực gián mà giữ được đạo lý cho cha. 4. 六四: 裕父之蠱, 往見吝. Lục tứ: Dụ phụ chi Cổ, vãng kiến lận. Dịch: Hào 4, âm: (Vì dùng dằng mà chỉ) kéo dài sự đổ nát của cha, nếu cứ như vậy hoài thì sẽ hối tiếc. Giảng:
Hào âm, nhu lại ở vị âm, là người thiếu nghị lực, nhút nhát, không dám
cương quyết sửa sự đổ nát của cha, để cho nó kéo dài hoài thì xấu cho
cả gia đình mà phải hối hận. 5. 六五: 幹 父之蠱, 用譽. Lục ngũ: Cán phụ chi cổ, dụng dự Dịch: Hào 5, âm: sửa sự đổ nát cho cha, mà được tiếng khen. Giảng:
Âm nhu ở ngôi chí tôn, không đủ tài sáng nghiệp, nhưng nhờ có đức trung
mà ở dưới ứng với hào 2, dương cương là người có tài, sửa sự đổ nát
được, rốt cuộc thành công, cả hai được tiếng khen. 6. 上九: 不事王侯, 高尚 其事. Thượng cửu: Bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự. Dịch: Hào trên cùng, dương : Không xu phụ bậc vương hầu, mà nêu cao tư cách (đức của mình.) Giảng:
Hào này dương cương ở trên hào 5, như một vị hiền nhân quân tử cao
khiết, ở ngoài mọi việc, không màng phú quí, không xu phụ vương hầu,
giữ chí hướng của mình làm phép tắc trong thiên hạ. *
Người
Trung Hoa rất trọng đức hiếu, mà có hiếu trước hết là giữ được danh dự
cho gia đình, làm vẻ vang cho tổ tiên, cho nên nếu cha mẹ làm điều gì
trái đạo lý thì con có bổn phận can ngăn (cha có con như vậy là nhà có
phúc), nếu còn nhu nhược quá, dùng dằng không dám can thì có lỗi lớn;
nếu cương cường quá mà xung đột với cha mẹ thì có lỗi, nhưng nhẹ, tốt
nhất là giữ đạo trung, mềm mỏng mà kiên trì, ngoài nhu mà trong cương. Quẻ
này kết một cách bất ngờ: hào trên cùng không nói gì về việc sửa sang
sự đổ nát cả, mà chỉ khen bậc hiền nhân treo gương danh tiết cho thiên
hạ soi. Nên để ý: Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán từ khen là tốt,
chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là điều rất tốt.
Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu
trở lại.
hết: 18. QUẺ SƠN PHONG CỔ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:23am
19. QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM
Trên là Khôn (đất), dưới là Ðoài (chằm). ䷒
Tự quái truyện giảng: Cổ là công việc, có công việc rồi mới làm lớn được; cho nên sau quẻ Cổ tới quẻ Lâm. Lâm có nghĩa là lớn. Nhưng Lâm còn có nghĩa nữa là tới (như lâm chung là tới lúc cuối cùng, tới lúc chết; hoặc lâm hạ: người trên tới người dưới). Thoán từ: 臨: 元亨, 利貞.至于八月有凶. Lâm: Nguyên hanh, lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung. Dịch: (dương) lớn lên và tới, rất hanh thông, chính đính thì lợi. Đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ xấu. Giảng:
Mới đầu là quẻ Khôn, 5 hào âm. Một hào dương tới thay hào 1 âm ở dưới,
rồi một hào dương nữa tới thay hào 2 âm, thành ra quẻ Lâm . Thế là
dương cung lớn dần, tới ngày thịnh lớn, nên gọi là Lâm. Một cách giảng nữa: trên chằm (đoài) có đất, tức là đất tới sát nước, nên gọi là Lâm (tới gần). Theo cách giảng thứ nhất, dương cương lớn lần mà âm nhu tiêu lần, thế là đạo gần tới lúc thông, cho nên bảo là rất hanh thông. Xét theo hào thì hào 2 cương trung, ứng với hào 5, nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa (Thoán truyện) . Trong
cảnh hanh thông, đừng nên phóng túng mà nên giữ vững chính đạo, (lợi
trinh): nếu không thì đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ hung. Có
nhiều thuyết giảng hai chữ “bát nguyệt” ở đây chúng tôi không biết tin
thuyết nào chỉ xin hiểu đại ý là “sau này sẽ hung”; mà không chép những
thuyết đó. Đại tượng truyện bàn thêm: đất tới sát chằm, có cái
tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao dung, giữ
gìn dân không có giới hạn (vô cương) . Hào từ 1. 初九: 咸臨, 貞吉. Sơ cửu: Hàm lâm, trinh cát. Dịch: Hào 1, dương : Cùng tới, giữ chính đạo thì tốt. Giảng:
Trong quẻ này chỉ có hai hào dương tới lấn bốn hào âm, cho nên hai hào
dương phải hợp lực nhau cùng tới, mới chiến thắng được. Hào 1 đắc chính
(vì là dương mà ở vị dương lẻ) cho nên khuyên nên giữ chính đạo của
mình. Chu Hi, theo Trình Di cho chữ “hàm” ở đây có nghĩa là cảm,
hào 1 dương ứng hợp với hào 4 âm, như vậy là vì cảm ứng với hào 4 mà
tới. 2. 九二: 咸臨, 吉, 无不利. Cửu nhị: Hàm lâm, cát, vô bất lợi. Dịch: Hào 2, dương : cùng tới, tốt, không gì là không lợi. Giảng:
Nghĩa cũng như hào 1. Hào 2, dương cương đắc trung, gặp lúc dương đương
lên, cho nên hiện tại tốt lành mà tương lai cũng thuận lợi. Tiểu
tượng truyện thêm 4 chữ: vị thuận mệnh dã (chưa thuận mệnh vậy). Trình
Di giảng là hào 2, dương trung, cảm ứng với hào 5 âm trung , hai hào đó
cảm ứng với nhau không phải vì theo mệnh của người trên, cho nên tốt,
không gì là không lợi. Chu Hi không chấp nhận lời giảng đó, bảo: “chưa
rõ ý nghĩa ra sao” Phan Bội Châu giảng: hào 1 và 2 phải cùng tới
thì mới tốt, phải lấy sức người giúp mệnh trời, chứ không ngồi yên mà
chờ mệnh trời. 3. 六三: 甘臨, 无攸利; 既憂之, 无咎. Lục tam: Cam lâm, vô du lợi; Kí ưu chi, cô cửu. Dịch: Hào 3 âm: Ngọt ngào (a dua) mà tới (để dụ dỗ hào 2) thì không có lợi đâu; nhưng đã biết lo sửa tính thì không có lỗi nữa. Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính nên ví với bọn tiểu nhân, dùng lời ngọt ngào mà dụ dỗ hào 2. 4. 六四: 至臨, 无咎. Lục tứ: Chi lâm, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Hết lòng thành thực tới với hào 1, không có lỗi. Giảng:
Hào này cũng là âm nhu, nhưng đắc chính (âm ở vị âm), có lòng thành
thực, lại ứng với hào 1 là người có tài, chính đáng (hào 1 cũng đắc
chính), nên không có lỗi gì cả. 5. 六五: 知臨, 大君之宜, 吉. Lục ngũ: Trí lâm, đại quân chi nghi, cát. Dịch: Hào 5, âm: Dùng đức sáng suốt mà tới, đúng là tư cách một vị nguyên thủ, tốt. Giảng:
hào âm này ở vị chí tôn, có đức trung, ứng hợp với hào 2, dương , có
thể ví với một vị nguyên thủ tuy ít tài (âm) nhưng sáng suốt, biết
người nào có tài (hào 2), tín nhiệm, ủy thác việc nước cho người đó,
như vậy kết quả chắc tốt. 6. 上六: 敦臨, 吉, 无咎. Thượng lục: Đôn lâm, cát, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, âm: Lấy lòng đôn hậu mà tới (với đời), tốt, không có lỗi. Giảng:
Hào này là âm, ở cuối cùng ngoại quái Khôn, là có đức rất nhu thuận, ở
thời Lâm, tức thời của dương, của quân tử đương tiến, nó hướng về hai
hào dương ở dưới cùng (mặc dầu không hào nào trong 2 hào đó ứng với nó)
mà dắt mấy hào âm kia theo hai hào dương đó, cho nên khen nó là đôn
hậu, tốt, không có lỗi.
hết: 19. QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 9:25am
20. QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN
Trên là Tốn (gió) dưới là Khôn (đất) ䷓
Lâm
là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho
nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho
người ta thấy, Quan là xem xét Thoán từ: 觀: 盥而不薦, 有孚顒若. Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược. Dịch:
Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp
tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần
phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người
khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình. Giảng: Theo tượng
quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự
cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo. Đó là giải nghĩa tên quẻ. Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu. Muốn
biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí
thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều
quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng
được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng
tốt. Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người
đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy
lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục. Hào từ: 1 初六: 童觀, 小人无咎, 君子吝. Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận. Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc. Giảng:
Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị, làm gương cho
người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem xét tư
cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ,
tượng trưng cho người trên, ông vua. Hào nào cũng nhìn lên hào 5
cả, hào 1 ở xa quá, như con nít tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả,
nhưng vì là con nít, không đáng trách; người quân tử mà như vậy mới
đáng trách. 2. 六二: 闚觀, 利女貞. Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh. Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của đàn bà thôi. Giảng:
Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết trinh, ngó lên hào
5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được. Người trượng
phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.) 3. 六三: 觀我生, 進退. Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái. Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2. Giảng:
Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng nội quái, có thể
tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét bản thân,
hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không
thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối. 4. 六四: 觀國之光, 利用 賓于王. Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương. Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua. Giảng:
Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị thân cận với vua
(quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của vua (vua
hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng
của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời. 5. 九五: 觀我生君子, 无咎. Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu. Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với đạo quân tử , như vậy là không có lỗi. Cũng
có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu; và dịch là
người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào 5)
mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào. Tiểu
tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã” nghĩa là muốn xem
đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”, vì vua mà
hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu. 6. 上九: 觀其生君子, 无咎. Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu. Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi. Cũng
có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu; và dịch là :
người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của hào
cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào từ: hào này y
như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ
là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5 là vua, nói với hào 4 là cận
thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói về hào trên cùng,
cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới. Hào trên cùng này
cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử , tuy không phải ở ngôi chí
tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các hào âm trông vào.
Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi. * Quẻ
Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương
người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi
gương.
hết: 20. QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:24am
Kính chúc nữ sĩ Hoa Hạ càng tinh tấn trì thủ
và tiếp tục gởi thêm 54 Quẻ cùng với Hệ từ truyện
để diễn đàn thêm một công trình quý.
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:31pm
21. QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP
Trên là ly (lửa), dưới là Chấn (sấm) ䷔
Tự
quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được;
nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên
sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp
là hợp. Thoán từ: 噬嗑: 亨, 利用獄. Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục. Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi . Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục. Hào
sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở
giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái
quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó
đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được. Trong xã hội, kẻ gián cách
đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không
thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để
trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt. Lại
xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc
trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn
nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc,
hiếu sát mất. Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên
vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn
bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng
có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật) Hào từ . 1. 初九: 屨校滅趾, 无咎. Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón chân cái, không có lỗi lớn. Giảng:
Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không có chức vị, bị chịu
hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp. Hào 1 ở
dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội nhẹ (cùm chân, chặt
ngón chân cái) thì sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác nữa, cho
nên không có lỗi lớn. 2. 六二: 噬膚, 滅鼻, 无咎. Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có lỗi. Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để trỏ người dùng hình pháp. Hào
2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là người được vua ủy
cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công việc dễ
như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức
như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp
kẻ ương ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá
đau, như bị cắn vào mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung
chính, không có lỗi. 3. 六三: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎. Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc, đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi. Giảng:
Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không được người phục,
có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc; những
ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên
việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn. 4. 九四: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉. Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ) đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát. Dịch:
Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi khô, được mũi tên
đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt. Giảng:
Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là người cương trực, có
trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan, cho nên dù gặp
kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền xương
(cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên
bằng đồng. Nhưng vì hào này cương, mà cương quyết thì e gặp khó
khăn, nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu
(hào thứ 4, chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó
thì mới tốt. 5. 六五: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎. Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu. Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi. Có
sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật quí, tượng trưng
ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương (đen là
màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của
phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5. 6. 上九: 何校滅耳, 凶. Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung. Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt tai, xấu. Giảng:
Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào 1, vì dương cương
lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông, cắt tai. Theo
hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “. . .không tích
lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào này). Kẻ
tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì
vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể
tha thứ được”. * Quẻ này xét về việc
hình ngục, đại ý khuyên: Người xử hình phải sáng suốt trước hết, cương
quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm, và luôn
luôn phải giữ đạo chính, thận trọng (hào 5). Hào 4 cũng tốt, vì vừa cương vừa nhu, có tài và có địa vị. - Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn.
hết: 21. QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:33pm
22. QUẺ SƠN HỎA BÍ
Trên là Cấn (núi), dưới là Ly (lửa) ䷕
Đám
đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên
tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức.
Thoán từ: 賁: 亨, 小利, 有攸往. Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng. Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi. Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi. Còn
một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn
ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly,
như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn
Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ
đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn. Nói cách khác, vắn tắt mà không sai
mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại
quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ
Bí: trang sức. Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm
văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà
thành công thì lợi ít thôi. Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và
dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên
cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của
trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở
trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ,
nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu. Đại tượng truyện còn
khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng
như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm. Hào từ. 1. 初九: 賁其趾, 舍車而徒. Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ. Dịch:
Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ
cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc). Giảng:
Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng
suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong
địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an
bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe. 2. 六二: 賁其須. Lục nhị: Bí kì tu. Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu. Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚 Hào
này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là
cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái
cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác
động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới
thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản
chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau. 3. 九三: 賁如濡如, 永貞吉. Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát. Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt. Giảng:
Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái
nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở
trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu
như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi
chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt,
không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện). 4. 六四: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾. Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu. Dịch:
hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng
toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt
cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp
(người xấu). Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả
hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị
hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy
trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3
cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải
là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được. 5. 六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉. Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát. Dịch
: Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn
xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành. Giảng: Hào
5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn
tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng
tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn
hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng
vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng
truyện.) 6. 上九: 白賁, 无咎. Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi. Giảng:
Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực
rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không
có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá
mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời
xưa. * Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ,
có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy
chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá.
hết: 22. QUẺ SƠN HỎA BÍ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:34pm
23. QUẺ SƠN ĐỊA BÁC
Trên là Cấn (núi) dưới là Khôn (đất) ䷖
Bí
là trang sức, trau giồi; trau giồi tới cực điểm thì mòn hết. Cho nên
sau quẻ Bí tới quẻ Bác. Bác là mòn, là bóc, lột bỏ cho tiêu mòn lần đi.
Thoán từ 剝: 不利有攸往. Bác: Bất lợi hữu du vãng. Dịch: Tiêu mòn: Hễ tiến tới (hành động) thì không lợi. Giảng:
Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm chỗ của dương, âm tới lúc cực thịnh,
dương chỉ còn có một hào, sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ thịnh,
dương, chỉ còn một hào sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ Bác. Ở
thời tiểu nhân đắc chí hoành hành, quân tử (hào dương ở trên cùng) chỉ
nên chờ thời, không nên hành động. Chờ thời vì theo luật tự nhiên, âm
thịnh cực rồi sẽ suy, mà dương suy cực rồi sẽ thịnh . (Lão Tử khuyên:
“đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng)
“nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái khéo, cái dũng của mình để được
yên thân đợi chờ cơ hội). Thoán truyện: giảng thêm: nên thuận đạo
trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận,
ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng; mà đạo trời là hết hao mòn (tiêu)
thì sẽ phát sinh (tức) – nói về các chào dương; mà hết đầy (doanh) thì
sẽ trống không (hư) – nói về các hào âm trong quẻ này. Đại tượng
truyện: chỉ xét tượng của quẻ mà đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là
núi, nội quái là đất; núi ở trên đất, đất là nền móng của núi; đất có
dày thì núi mới vững; vậy người trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an
cư lạc nghiệp thì địa vị của người trên mới vững. Ý đó thêm vào, không
có trong thoán từ. Hào từ: 1. 初六: 剝床以足, 蔑貞, 凶. Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung. Dịch: Hào 1, âm: như cắt (phá hoại) chân giường, dần dần sẽ làm tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu. Giảng: âm (tiểu nhân) bắt đầu tiêu diệt dương (quân tử ), cũng như bắt đầu phá cái giường từ dưới chân trở lên. 2. 六二: 剝床以辨, 蔑貞, 凶. Lục nhị: bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung. Dịch:
Hào 2, âm: như phá tới then giường (có người dịch là thành giường, hay
sườn giường), tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu. Giảng: Nghĩa hào này cũng như hào 1: bọn tiểu nhân đã tiến thêm một bước nữa, phá tới then giường rồi, chưa tới mặt giường. 3. 六三: 剝之, 无咎. Lục tam: Bác chi, vô cữu. Dịch: Hào 3 âm: Phá bỏ bè đảng của mình, không có lỗi. Giảng:
Hào này cũng là âm nhu, tiểu nhân, nhưng vì ứng với hào dương, quân tử,
ở trên cùng, cho nên theo hào đó mà bỏ các hào âm ở trên và dưới nó
(tức các hào 1, 2, 4) chịu mất lòng với các hào âm này (lời Tiểu tượng
truyện) mà theo đạo chính, cho nên không có lỗi. 4. 六四: 剝床以膚, 凶. Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung. Dịch: hào 4, âm: phá giường mà xẻo tới da thịt người nằm trên giường nữa, xấu. Giảng:
Hào âm này đã lên tới ngoại quái, thế là tiểu nhân đã hoành hành, quân
tử bị hại quá đau, tai họa bức thiết quá rồi; xấu. 5. 六五: 貫魚, 以宮人寵, 无不利. Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi. Dịch:
Hào 5, âm: Dắt bầy cung nhân như một xâu cá (ám chỉ bầy tiểu nhân), để
lên hầu vua (tức theo người quân tử, hào dương ở trên cùng), như vậy là
tiểu nhân biết thuận tòng quân tử, không có gì là không lợi. Giảng:
Hào này làm thủ lãnh bầy âm. Theo nghĩa mấy hào trên, chúng ta tưởng
hào này càng phá mạnh hạng quân tử hơn nữa; nhưng ngược lại. Hào từ lấy
lẽ rằng hào 5, ở sát hào dương ở trên cùng thân cận với 6, chịu ảnh
hưởng tốt của 6, nên dắt cả bầy âm (ví như một xâu cá – cá thuộc loài
âm) để theo hào 6 quân tử cũng như bà hậu dắt bầy cung phi lên hầu vua.
Thế là theo đạo chính, cho nên không gì là không lợi. Theo Phan
Bội Châu, sở dĩ cổ nhân tới hào này bỏ cái nghĩa âm tiêu diệt dương, mà
cho cái nghĩa âm thuận theo dương, là để khuyến khích tiểu nhân cải tà
qui chánh, mà giúp đỡ quân tử. Kinh dịch "Vị quân tử mưu” (lo tính cho
quân tử) là nghĩa đó. Có thể như vậy. Lý do chính thì coi hào sau ta sẽ
thấy. 6. 上九: 碩果不食, 君子得輿, 小人剝廬. Thượng cửu: thạc quả bất thực, Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư. Dịch:
Hào trên cùng, dương: Còn một trái lớn trên cây, không hái xuống ăn (ý
nói dương tức quân tử không bao giờ hết). Quân tử ở hào này được quần
chúng (dư) theo; còn tiểu nhân thì biết rằng nếu diệt hết quân tử tức
lá phá đổ nhà chúng ở (chúng cũng không còn). Giảng: Cả quẻ chỉ có
mỗi hào này là dương cho nên ví với trái cây lớn còn lại trên cây,
không hái xuống ăn thì có ngày nó sẽ rụng mà mọc mầm, như vậy là đạo
quân tử không bao giờ hết. Hào 3 và 5 kéo các hào âm khác theo hào
dương này, cho nên bảo là quân tử được dân chúng theo. Hào dương này ở
trên cùng, cũng như cái nhà che cho tất cả các hào âm ở dưới. Nếu bọn
tiểu nhân phá nhà đó cho sập – nghĩa bóng là không còn quân tử thì quốc
gia suy vong, chủng tộc tiêu diệt- thì chúng cũng không sống được,
không có chốn dung thân. Vậy ta thấy sở dĩ Chu Công, người viết
Hào từ, cho hào 5 theo hào trên cùng (âm theo dương) là vì lẽ có thế xã
hội mới tồn tại được, không khi nào người tốt bị diệt hết. Quẻ này
nói về thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân
tuy rất đông, nhưng vẫn có một số (hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng
về phe quân tử, và khi xã hội lâm nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân
tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc
thịnh trở lại. Đó là luật âm dương trong vũ trụ; vũ trụ luôn luôn
có đủ cả âm, dương ; khi âm cực thịnh, vẫn còn dương, khi dương cực
thịnh cũng vẫn còn âm, âm dương cứ thay nhau lên xuống, thế thôi.
hết: 23. QUẺ SƠN ĐỊA BÁC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:36pm
24. QUẺ ĐỊA LÔI PHỤC
Trên là Khôn (đất), dưới là Chấn (sấm) ䷗
Vật
không bao giờ tới cùng tận; quẻ Bác, hào dương ở trên cùng thì lại quay
trở xuống ở dưới cùng (cùng thượng phản hạ); cho nên sau quẻ Bác tới
quẻ Phục. Phục là trở lại (phát sinh ở dưới). Như vậy là đạo tiểu nhân
thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Thoán từ. 復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎. 反復其道, 七日來復, 利有攸往 Phục: Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu. Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng. Dịch:
Trở lại: Hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới,
không lầm lỗi nữa. Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày
thì trở lại, hành động việc gì cũng có lợi. Giảng: Khí dương bây
giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do,
không bị tai nạn; rồi sẽ có các hào dương khác kéo nhau tới, cũng như
bạn bè tới, không còn lầm lỗi nữa (ý muốn nói; sau quẻ này sẽ tới quẻ
Lâm, có hai hào dương ở dưới, rồi tới quẻ Thái, có ba hào dương ở dưới,
tới quẻ Đại tráng (4 hào dương) quẻ Quải, (5 hào dương) quẻ Càn (cả 6
hào đều dương), thế là sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục
của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại. Chữ nhật (ngày) ở đây thay cho
chữ hào; bảy ngày mới trở lại vì sau quẻ Càn, tới quẻ Cấu, một hào âm
sinh ở dưới 5 hào dương, ngược lại với quẻ Phục (một hào dương ở dưới 5
hào âm), lúc đó mới hết một vòng (1). Thoán truyện giảng thêm: Sở
dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng
của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà
thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì
động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem
quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng
yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm). Đại
tượng truyện bảo các vua đời xưa tới ngày đông chí, ngày mà dương bắt
đầu sinh (tượng của quẻ Phục: sấm nấp ở dưới đất) thì đóng các cửa ải,
không cho khách đi đường và con buôn qua lại mà vua cũng không đi xem
xét các địa phương, là có ý muốn yên lặng để nuôi cái khí dương mới
sinh. Hào từ. 1. 初九: 不遠復, 无祇悔, 元吉. Sơ cửu: Bất viễn phục, vô kì hối, nguyên cát. Dịch:
Hào 1, dương. Tuy lầm lỗi nhưng thời gian chẳng xa, trở lại tốt lành
ngay, thì không đến nỗi ăn năn lớn; rất tốt (chữ Kì ở đây có nghĩa là
lớn). Giảng: Hào 1, dương cương, ở đầu quẻ Phục, có nghĩa là người đầu tiên trở lại đạo, biết tu thân, nên rất tốt. Theo
Hệ từ hạ truyện chương V, thì Khổng tử cho rằng Nhan Hồi có đức của hào
1 này, vì Nhan có lỗi lầm gì thì biết ngay mà biết rồi thì sửa liền
không mắc lần thứ nhì nữa. 2. 六二: 休復, 吉. Lục nhị: Hưu phục, cát. Dịch: Hào 2, âm: Trở lại đẹp đẽ (hữu), tốt. Giảng:
Hào này âm nhu đắc trung, chính, vốn tốt rồi, mà lại ở gần hào 1 là
người quân tử, tức là người biết khắc kỉ, trở lại đạo nhân nghĩa; cho
nên tuy là âm mà tốt lành. 3. 六三: 頻復, 厲, 无咎. Lục tam: Tần phục, lệ, vô cửu. Dịch: hào 3, âm (Mắc lỗi nhưng) sửa lại nhiều lần, tuy đáng nguy, mà kết quả không có lỗi. Giảng:
Hào này bất trung, bất chính, lại ở thời cuối cùng của nội quái Chấn
(có nghĩa là động), ví như người không bền chí, theo điều thiện không
được lâu, sửa lỗi rồi lại mắc lỗi trở lại, như thế là đáng nguy (lệ),
nhưng lại biết phục thiện sửa đi sửa lại nhiều lần, nên rốt cuộc không
có lỗi. 4. 六四: 中行, 獨復. Lục tứ: Trung hành, độc phục. Dịch: Hào 4, âm: ở giữa các tiểu nhân (các hào âm: 2,3 và 5,6 ) mà một mình trở lại theo quân tử (hào 1), tức theo đạo. Giảng:
hào này âm nhu, đắc chính ở giữa các hào âm, nhưng chỉ một mình nó ứng
với hào 1 là dương, quân tử, cho nên Hào từ khen là một mình nó biết
theo người thiện. 5. 六五: 敦復, 无悔. Lục ngũ: Đôn phục, vô hối. Dịch: Hào 5, âm: Có đức dày trở lại điều thiện, không có gì hối hận. Giảng:
Hào này nhu thuận, đắc trung lại ở vị tôn quí, như một người có đức dày
phục thiện (trở lại điều thiện), biết tự sửa mình, cho nên không hối
hận. 6. 上六: 迷復, 凶.有災眚. 用行師, 終有大敗, 以其國君凶, 至于十年, 不克征. Thượng lục: Mê phục, hung, hữu tai sảnh, Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kì quốc quân hung, chí vu thập niên, bất khắc chính. Dịch:
Hào trên cùng, âm: Mê muội, không trở lại, sẽ bị tai vạ từ ngoài đưa
đến (tai) và tự mình gây nên (sảnh); đã vậy lại cậy võ lực mà dùng quân
đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, làm cho quốc quân cũng bị khốn nạn
(hung), tới mười năm (tới chung cục) cũng không khá được. Giảng:
hào này ở trên cùng, như kẻ tiểu nhân hôn mê đến cùng cực, không biết
trở lại, cho nên bị đủ thứ tai vạ. Nó có thế lực nhất trong các hào âm
(đám tiểu nhân ) vì ở trên cùng, muốn dùng võ lực đàn áp người, rốt
cuộc sẽ đại bại, gây vạ lây cho nước nó, không bao giờ khá được. Chữ
thập (số 10) là số cuối cùng (số 1 là số đầu) cho nên thập niên ở đây
có nghĩa là tới cùng, chớ không nhất định là 10 năm. Tiểu tượng
truyện bảo hào trên cùng này sở dĩ hung là vì làm trái đạo vua (phản
quân đạo), tức đạo của hào 1. Hào 1 này là hào dương duy nhất trong
quẻ, làm chủ cả quẻ cho nên gọi là vua. * Quẻ
này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự
nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần
người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có
đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo;
hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì
cũng không lỗi. Xấu nhất là hạng mê muội không biết trở lại đường chính. Ý nghĩa không có gì đặc biệt.
hết: 24. QUẺ ĐỊA LÔI PHỤC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:38pm
25. QUẺ THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Trên là Càn (trời), dưới là Chấn (sấm) ䷘
Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa, cho nên sau quẻ Phục, tới quẻ Vô vọng. Vọng có nghĩa là càn, bậy. Thoán từ. 无妄: 元亨, 利貞. 其匪正有眚, 不利有攸往. Vô vọng: Nguyên hanh, lợi trinh. Kì phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. Dịch:
không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì
không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi, hành động thì không có lợi.
Giảng: Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (nghĩa là động, hành động);
ngoại quái là Càn (trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn
bậy, không càn bậy thì hanh thông, có lợi. Thoán truyện giảng rõ thêm: Nội
quái nguyên là quẻ Khôn, mà hào 1, âm biến thành dương, thành quẻ Chấn.
Thế là dương ở ngoài tới làm chủ nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô
vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên
như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy. Xét về các hào thì hào 5 dương cương, trung chính ứng, ứng với hào 2 cũng trung chính, thế là hợp với thiên lý, rất hanh thông. Ở
thời Vô vọng (không càn bậy) mình không giữ chính đạo mà đi thì đi đâu
được? Chữ đi (vãng) ở đây nghĩa rộng là hành động (nguyên văn: Vô vọng
chi vãng, hà chi hĩ? Nên hiểu là : vô vọng: phỉ chính chi vãng, hà chi
hĩ; chữ chi thứ nhì này có nghĩa là đi). Trái lẽ trời thì trời không
giúp, làm sao đi được ? Đại tượng truyện bàn thêm về cái đạo của
trời (đất) là nuôi nấng, và thánh nhân cũng theo đạo đó mà nuôi nấng
vạn dân. Chúng tôi cho là ra ngoài đề. Hào từ: 1. 初九: 无妄, 往吉. Sơ cửu: vô vọng, vãng cát. Dịch: Hào 1, dương: không còn bậy, mà tiến đi thì tốt. Giảng: Hào này dương cương, làm chủ nội quái, là người có đức, cho nên khen như vậy. 2. 六二: 不耕穫, 不菑畬, 則利有攸往. Lục nhị: Bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng. Dịch:
Khi cày thì không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá (tri) thì không
nghĩ đến ruộng đã thuộc (dự), như vậy mà tiến tới thì có lợi. Giảng: Lời hào này quá vắn tắt, hơn điện tín ngày nay nữa, nên tối nghĩa, có nhiều sách cứ dịch từng chữ; không thông. Chu
công muốn bảo: Khi cày mà không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá mà
không nghĩ tới khi ruộng đã thuộc, có nghĩa là thấy việc chính đáng
phải làm thì làm mà không nghĩ đến cái lợi rồi mới làm, không chỉ trông
mong vào kết quả, như vậy mới tốt. Hào 2, âm, vừa trung vừa chính,
ứng với hào 5 cũng trung chính; nó vốn là âm có đức thuận ở trong nội
quái Chấn là động, như một người tốt hành động hợp với trung, chính,
cho nên Hào từ bảo như vậy mà tiến thì có lợi. Có lẽ chính vì ý nghĩa hào này mà Sử ký của Tư Mã Thiên chép tên quẻ là 无 望 (vô vọng :không mong) với nghĩa làm điều phải mà “không mong” có lợi, có kết quả. Hiểu như vậy cũng được. 3. 六三: 无妄之災, 或繫之牛, 行人之得, 邑人之災. Lục tam: vô vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu, Hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. Dịch:
Hào 3, âm: không còn bậy mà bị tai vạ tự nhiên đến như có kẻ cột con bò
ở bên đường (rồi bỏ đi chỗ khác), một người đi qua (thấy bò không có ai
coi), dắt trộm đi, được bò, mà người trong ấp bị nghi oan là lấy trộm
bò, mà mắc họa. Giảng: cả 6 hào trong quẻ này đều là không càn
bậy, nhưng hào này khác một chút là bất trung, bất chính, nên bị tai
vạ; tai vạ đó chỉ là vô cớ mà mắc. 4. 九四: 可貞,无咎. Cửu tứ: khả trinh, vô cữu. Dịch : Hào 4, dương: nên giữ vững tư cách thì không có lỗi (hoặc: có thể giữ vững được tư cách, cho nên không có lỗi). Giảng
: chữ “Trinh” có hai nghĩa: chính đáng và bền. Ở đây nên hiểu là bền.
Hào 4 này dương, không ứng hợp với hào nào cả. (vì hào 1 cũng là dương
cương như nó), không nên họat động, nhưng nó cương kiện, có thể giữ
vững được tư cách. 5. 九五: 无妄之疾, 勿藥, 有喜. Cửu ngũ: vô vọng chi tật, vật dược, hữu hỉ. Dịch: Hào 5, dương: Không càn bậy mà vô cớ bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc, sẽ hết bệnh. Giảng:
Hào này ở địa vị cao, trung chính lại ứng với hào 2 cũng trung chính,
vậy là rất tốt, chẳng may có bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc
(nghĩa bóng là đừng chạy chọt gì cả, cứ thản nhiên như Khổng tử khi bị
giam ở đất Khuông) rồi sẽ tai qua nạn khỏi (như Khổng tử sau được thả
ra, vì người Khuông nhận là rằng họ lầm ông với Dương Hổ, một người mà
họ ghét.) 6. 上九: 无妄, 行有眚, 无攸利. Thượng cửu: Vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi. Dịch: Hào trên cùng, dương. Không càn bậy, nhưng đi (hành động) thì bị họa, không lợi gì. Giảng:
Hào từ khuyên không nên hành động, mặc dầu vẫn là “vô vọng”, chỉ vì hào
này tới cuối cùng của quẻ rồi, chỉ nên yên lặng chờ thời. * Quẻ
này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả 6 hào đều là “vô vọng” cả, không
càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại
nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như hào 5, có lúc không nên hành động
như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa) và như hào trên cùng.
hết: 25. QUẺ THIÊN LÔI VÔ VỌNG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:40pm
26. QUẺ SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
Trên là Cấn (núi), dưới là Càn (trời) ䷙
Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều
tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong
quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa:
Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc
tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại. Thoán từ: 大畜: 利貞, 不家食,吉; 利涉大川. Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên. Dịch:
Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà
(tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó
khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi. Giảng: Trên là núi, dưới là
trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi
là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu
luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải
rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải
mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi
đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng
truyện). Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi,
và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng
với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời). Hào từ: 1. 初九.有厲.利已. Sơ cửu: Hữu lệ, lợi dĩ. Dịch: Hào 1, dương : có nguy, ngưng lại thì lợi. Giảng:
Hào này cương kiện, muốn tiến lên nhưng bị hào 4, âm ở trên chặn lại
(trong các hào, súc có nghĩa là ngăn chứ không có nghĩa là chứa), nếu
cố tiến thì nguy, ngưng lại thì tốt. 2. 九二: 輿說輹. Cửu nhị: Dư thoát phúc. Dịch: Hào 2, dương, như chiếc xe đã tháo cái trục. Giảng:
Hào này cũng bị hào 5, âm, ngăn lại như hào 1, nhưng vì đắc trung (ở
giữa nội quái), nên biết tự ngăn mình (như tự tháo cái trục xe ra) để
thôi không đi. Như vậy không có lỗi. 3. 九三: 良馬逐; 利艱貞.日閑輿衛, 利有攸往. Cửu tam: Lương mã trục; lợi gian trinh, Nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng. Dịch:
Hào 3, dương : như hai con ngựa tốt chạy đua nhau; phải chịu khó giữ
đạo chính thì có lợi, lại phải thường ngày luyện tập, dự bị các đồ hộ
thân thì tiến lên mới có lợi. Giảng: Chúng ta để ý: hai hào 1, 2
đều là dương cương mà đều bị hai hào âm nhu (4 và 5) ngăn cản, vì tuy
cương mà ở trong nội quái (quẻ dưới), cũng như các tướng tài năng phải
phục tùng Võ Hậu, Từ Hi Thái Hậu. Không phải thời nào dương cũng thắng
âm cả đâu. Tới hào 3 này, may được hào trên cùng cũng là dương, ứng với
mình như một đồng chí, cho nên cả hai hăng hái như hai con ngựa tốt đua
nhau chạy; nhưng hăng quá mà không nhớ rằng trên đường gặp nhiều gian
nan, không luyện tập đề phòng hàng ngày thì không tiến được xa, nên Hào
từ khuyên như trên. 4. 六四: 童牛之牿, 元吉. Lục tứ: đồng ngưu chi cốc, nguyên cát. Dịch: Hào 4, âm: như con bò mộng còn non, mới nhú sừng, đặt ngay mảnh gỗ chặn sừng nó, thì rất tốt. Giảng:
Trong quẻ Đại súc, hào âm này vẫn ngăn chặn được hào 1, dương, vì tuy
nó âm nhu, nhưng hào 1 ở đầu quẻ là dương còn non, như con bò mọng mới
nhú sừng, nếu kịp thời ngăn cản ngay, chặn sừng nó lại thì không tốn
công mà có kết quả rất tốt. đại ý là phải đề phòng ngay từ khi họa mới
có mòi phát. 5. 六五: 豶豕之牙, 吉. Lục ngũ: Phần thỉ chi nha, cát. Dịch: Hào 5, âm: Như thể ngăn cái nanh con heo đã thiến thì tốt. Giảng:
Hào 2 là dương đã già giặn, không non nớt như hào 1, cho nên dữ hơn 1,
ví như nanh con heo (rừng). Hào 5 muốn chặn nó, mà chỉ bẻ nanh con heo
thôi thì nó vẫn con hung; tốt hơn hết là thiến nó để cho nó hết dữ, lúc
đó dù nó còn nanh cũng không hay cắn nữa. Hào 5, chặn được hào 2 là nhờ
cách đó, trừ tận gốc, không tốn công mà kết quả tốt. 6. 上九: 何天之衢, 亨. Thượng cửu: hà thiên chi cù, hanh. Dịch : Hào trên cùng, dương. Sao mà thông suốt như dương trên trời vậy. Giảng:
tới hào này là thời gian cản đã cùng rồi, hết trở ngại, đường thật rộng
lớn, bát ngát như đường trên trời. Có nghĩa là đại lớn được thi hành. * Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách ngăn cản kẻ hung hãn. Hai
hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn ngăn thì phải ngăn từ khi mới manh
nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ gốc, tìm nguyên nhân chính mà trừ
thì mới không tốn công, kết quả chắc chắn.
hết: 26. QUẺ SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:42pm
27. QUẺ SƠN LÔI DI
Trên là Cấn (núi), dưới là Chấn (sấm) ䷚
Súc là chứa, có chứa nhóm vật lại rồi mới nuôi được, cho nên sau quẻ
Đại súc là quẻ Di. Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình
quẻ, chúng ta thấy như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới
như hai cái hàm, toàn bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi
cho ta sự ăn uống để nuôi sống. Thoán từ 頤: 貞吉. 觀頤, 自求口實. Di : Trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực. Dịch: Nuôi: hễ đúng chính đạo thì tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình. Giảng:
Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem
cách nuôi người và tự nuôi mình thì biết tốt hay xấu. Thoán truyện
suy rộng ra: Trời đất khéo nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về
mọi mặt; thánh nhân dùng những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân
chúng; cái đạo nuôi nấng lớn như vậy đó. Đại tượng truyện đưa thêm
một ý nữa: theo cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí
bắt đầu phát mà vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất
nuôi vật. Người quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để
nuôi cái đức, và tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể (Quân tử dĩ thận
ngôn ngữ, tiết ẩm thực). Là vì đời, “họa tòng khẩu xuât, bệnh tòng khẩu
nhập” Phải giữ gìn nhất cái miệng. Hào từ 初九: 舍爾靈龜, 觀我朵頤, 凶. Sơ cửu: Xã nhỉ linh qui, quan ngã đóa di, hung. Dịch: hào 1, dương: chú bỏ con rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quí báu) của chú đi mà cứ ngó ta, tới xệ mép xuống, xấu. Giảng: Chúng ta nên để ý: nội quái là Chấn, có nghĩa là động, cho nên cả ba hào đều diễn cái ý mình đi cầu cạnh người . Hào
1 này dương cương, khôn lanh, nhưng ứng với hào 4 âm, có thế lực ở trên
hăm hở theo âm đến nỗi bỏ thiên lí, thèm thuồng cầu ăn ở người khác
(hào 4) để nuôi xác thịt, mà quên phần tinh thần của mình (nó quí như
con rùa thiêng chỉ sống bằng khí trờii) như vậy rất xâu. Hai chữ “đóa
di”, thòng mép xuống, cực tả sự bỉ ổi của bọn người chỉ ham ăn, nói
rộng ra là bọn bị tư dục mê hoặc đến mất cả liêm sỉ. 2. 六二: 顛頤, 拂經, 于丘 頤, 征凶. Lục nhị: điên di, phất kinh, vu khâu di, chinh hung . Dịch: Hào 2, âm: Đảo lộn cách nuôi mình, trái với lẽ thường, cầu sự nuôi dưỡng ở gò cao, tiến lên thì xấu. Giảng:
Hào này âm nhu, không tự sức nuôi mình được, nên phải cầu ăn với hai
hào dương 1 và 6. nhưng hào 1 ở dưới mình, như vậy là người trên xin ăn
người dưới, đảo lộn rồi, trái lẽ thường (kinh) rồi; còn như cầu ăn ở
hào trên cùng (ví như cái gò cao), tì hào này không ứng với 2, 2 sẽ bị
từ chối, bị khinh mà mắc nhục. Nên để ý: theo thường lệ, hào 2 này
đắc trung, chính thì tốt mà đây lại xấu, vì ý nghĩa của quẻ nuôi dưỡng,
mà hào này lại không đủ sức tự dưỡng được. 3. 六三: 拂頤, 貞凶.十年勿用无攸利. Lục tam: Phật di, trinh hung. Thập niên vật dụng vô du lợi. Dịch: Hào 3 âm: Cách nuôi trái hẳn với chính đạo, xấu. Mười năm (có nghĩa là tới cùng) cũng không tốt được không làm nên gì. Giảng:
hào này âm nhu, bất trung, bất chính, lại hay động (vi ở trên cùng nội
quái Chấn) không chịu ngồi yên, thấy đâu có ăn là đâm đầu vào. Rất xấu
– Về hai chữ “thập niên” chúng ta đã giảng ở hào cuối cùng của quẻ
Phục. 4. 六四: 顛頤, 吉.虎視眈眈, 其欲逐逐, 无咎. Lục tứ: điên di, cát. Hổ thị đam đam, kì dục trục trục, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Đảo lộn cách nuôi mà tốt. Mắt hổ nhìn đăm đăm, lòng ham muốn day dứt không ngớt, không có lỗi. Giảng:
Hào này âm nhu đắc chính, ở vào địa vị cao, được hào 5 chí tôn tương
đắc với mình (cùng là âm cả) lại thêm có hào 1 dương ứng với mình, như
vậy là người trên biết trọng đạo nghĩa, biết hạ mình cầu người dưới
(hào 1) nuôi mình; tuy là điên đảo, trái lẽ thường đấy, nhưng vì là
người tốt (đắc chính), cầu 1 giúp mình để mình lập nên sự nghiệp san sẽ
giúp đỡ dân chúng, cho nên vẫn là tốt. Nhưng phải chuyên nhất,
không gián đoạn (như mắt hổ nhìn đăm đăm, ham muốn không ngớt), cứ tiếp
tục cầu 1 giúp hoài thì mới có kết quả, không có lỗi. Cầu nuôi ở hào này là cầu nuôi về tinh thần, chứ không phải về thể xác. 5. 六五: 拂經, 居貞, 吉.不可涉大川. Lục ngũ: Phật kinh, cư trinh, cát. Bất khả thiệp đại xuyên. Dịch: Hào 5, âm: Trái lẽ thường, bền chí giữ đạo chính thì tốt. Không thể vượt sông lớn được. Giảng:
Hào này như một vị nguyên thủ, có trách nhiệm nuôi người, nhưng vì âm
nhu, kém tài, nên phải nhờ người (tức hào trên cùng) nuôi mình (giúp đỡ
mình); tuy là trái lẽ thường, nhưng cứ bền chí, giữ đạo chính thì tốt;
vì nhờ người khác giúp đỡ để mình làm trọn nhiệm vụ nuôi dân. Tuy nhiên, vì tài kém (âm nhu), làm việc lớn gian hiểm không nổi, nên Hào từ khuyên: không thể qua sông lớn được. Cầu nuôi ở hào này cũng là cầu nuôi về tinh thần. 6. 上九: 由頤, 厲吉, 利涉大川. Thượng cửu: do di, lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên. Dịch:
Hào trên cùng, dương. Thiên hạ nhờ mình mà được nuôi, trách nhiệm mình
lớn như vậy, mình phải thường lo lắng, sợ hãi thì được tốt. Qua sông
lớn được. Giảng: Hào này dương cương mà ở trên cùng, như bậc làm
thầy cho vị nguyên thủ, vị nguyên thủ nhờ mình mà nuôi được thiên hạ,
thì cũng như chính mình nuôi thiên hạ. Trách nhiệm lớn như vậy nên mình
phải thường lo lắng, sợ hãi, rất thận trọng thì mới được tốt lành, mà
thiên hạ được phúc lớn (lời Tiểu tượng truyện). Hào này dương cương có tài, không như hào 5, cho nên làm được việc lớn gian hiểm. * Tóm
lại ba hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng
nên đều được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác
của mình, cho nên đều xấu .
hết: 27. QUẺ SƠN LÔI DI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:44pm
28. QUẺ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Trên là Đoài (chằm) dưới là Tốn (gió) ䷛
Tự
quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động
(bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn
quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá” Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ
“đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có
hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần
dương nhiều quá; - nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá. * Thoán từ 大過: 棟撓, 利有攸往, 亨. Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh. Dịch: (Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi, được hanh thông. Giảng:
Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột,
khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi.
Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn
trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có
nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là
tiến đi (hành động) thì được hanh thông. Đại tượng truyện bàn
rộng: Đoài là chằm ở trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá,
ngập cây. Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn
người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với
thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì
không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn). Hào từ: 1. 初六: 藉用白茅, 无咎. Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu. Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi. Theo
Hệ tự thượng truyện Chương VIII, Khổng tử bàn về quẻ này: “Nếu đặt vật
gì xuống đất cũng được rồi mà lại còn dùng cỏ mao trắng để lót thì còn
sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn thận”. 2. 九二: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利. Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi. Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi. Giảng:
Dương cương mà ở vị âm (hào 2), như vậy là cương mà có chút nhu, lại
đắc trung. Nó thân cận với hào 1 âm, thế là cương nhu tương tế, bớt
cứng đi, như cây khô mà đâm rễ mới, rồi cành là sẽ tươi tốt. Có thể ví
với một người già cưới được vợ trẻ. . . 3. 九三: 棟橈, 凶. Cửu tam: Đống nạo, hung. Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu. Giảng:
Hào 3 dương ở vị dương, thế là quá cương, định làm công việc lớn quá
(thời Đại quá), quá cương thì cong xuống, gẫy, việc sẽ hỏng. Chúng
ta để ý: Thoán từ nói về nghĩa toàn quẻ , nên dùng hai chữ “đống nạo”
mà vẫn khen là tốt (lí do đã giảng ở trên). Còn Hào từ xét riêng ý
nghĩa hào 3, chê là xấu, vì hào này quá cương, mặc dầu ứng với hào trên
cùng (âm nhu), cũng không chịu để hào đó giúp mình. 4. 九四: 棟隆, 吉.有它, 吝. Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận. Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc. Giảng:
cũng là hào dương nhưng ở vị âm (4), vừa cương vừa nhu, như cái cột lớn
vững đỡ nổi nhà. Ý nói làm được việc lớn, không lo thất bại. Nó
lại ứng hợp với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, như vậy e nó quá nhu chăng,
cho nên Hào từ khuyên: chớ quyến luyến quá với 1, có ý nghĩ khác, mà
đáng xấu đấy. 5. 九五: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽. Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự. Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen. Giảng:
Hào 5, dương cương, trung chính. Ở ngôi chí tôn, đáng lẽ làm được việc
rất lớn, nhưng ở thời đại quá, thì quá cương, quá cương mà ở gần hào
trên cùng, âm ở âm vị, là một người quá nhu, không giúp nhau được việc
gì, cũng như cây dương đã khô mà ra hoa cuối mùa, sắp tiều tụy đến nơi
rồi. Không khác gì bà già mà có chồng trai tráng, chẳng mong gì sinh đẻ
nữa. Hào này khác với hào 2 ở chỗ hào 2 vừa cương vừa nhu, nên
tốt, ví với cây dương khô đâm rễ mới; hào 5 thì quá cương, xấu, ví với
cây dương khô, không dâm rễ mà ra hoa, nhựa sắp kiệt rồi. 6. 上六: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎. Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu. Dịch : Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi. Giảng:
Bản chất âm nhu, tài hèn mà ở vào cuối thời Đại quá muốn làm việc lớn
thì rất nguy thân, như người lội chỗ nước sâu lút đầu. Nhưng làm công
việc nguy hiểm đó để cứu đời, cho nên không gọi là có lỗi được. Hào này
trỏ hạng người “sát thân di thành nhân” (tự hi sinh để làm nên điều
nhân), đáng phục chớ không chê được. Tên quẻ là Đại quá (lớn quá),
mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào
trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý
trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.
hết: 28. QUẺ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:45pm
29. QUẺ THUẦN KHẢM
Trên và dưới đều là Khảm (nước) ䷜
Lẽ
trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ
hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là
hiểm. * Thoán từ : 習坎: 有孚, 維心亨, 行有尚. Tập Khảm: Hữu phu, duy tâm hanh, hành hữu thượng. Dịch: Hai lớp khảm (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công. Giảng:
Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta
thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là
hãm, là hiểm. Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét
đứt), trái với quẻ Ly ☲ giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng lò; chỗ
rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa.
Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm
là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp
xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm. Xét theo ý nghĩa thì hào
dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin,
chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm
, có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà
còn có công nữa. Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà không
bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho nên
bảo là có đức tin. Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung. Trời
có tượng hiểm (vì không lên trời được) ; đất có tượng hiểm, tức núi
sông. Các bậc vương công theo tượng trời và đất mà đặt ra những cái
hiểm (tức đào hào, xây thành, đạt ra hình pháp) để giữ đất đai và sự
trật tự trong xã hội. Cái công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn. Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên. Hào từ: 初六: 習坎, 入于坎窞, 凶. Sơ lục: Tập khảm, nhập vu khảm năm ( có người đọc là đạm, hạm, lăm), hung. Dịch: Hào 1, âm: Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu, xấu. Giảng: hào 1 đã âm nhu, lại ở dưới cùng quẻ Thuần Khảm hai lần hiểm, nên rất xấu. 2. 九二: 坎有險, 求小得. Cửu nhị: khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc. Dịch: Hào 2, dương : ở chỗ nước (hiểm) lại có hiểm, mong làm được việc nhỏ thôi. Giảng:
Hào này dương cương, đắc trung, có tài trí, nhưng ở giữa thời trùng
hiểm, trên dưới bị hai hào âm nhu bao vây, chưa thóat được; cho nên chỉ
mong làm đựơc việc nhỏ thôi. Hào 4 quẻ Dư (số 6) cũng là dương ở
vị âm; cũng bị hai hào âm bao vây, còn kém hào 2 quẻ Khảm vì không đắc
trung,vậy mà Hào từ cho là “đại hữu đắc” (thành côn lớn); còn hào 2 quẻ
Khảm này chỉ cầu được “tiểu đắc” thôi; chỉ vì thời khác; thời quẻ Dự là
thời vui vẻ, hanh thông, thời quẻ Khảm là thời gian nan, nguy hiểm. 3. 六三: 來之坎坎, 險且枕, 入于坎窞, 勿用. Lục tam : Lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm năm, vật dụng. Dịch:
Hào 3, âm : tới lui (chử chi ở đây nghĩa là đi) đều bị hãm, trước mặt
là hiểm mà sau lưng lại kê (dựa) vào hiểm, chỉ càng sụp vào chỗ sâu hơn
thôi, chớ dùng (người ở hoàn cảnh hào 3 này, không được việc gì đâu). Giảng:
Hào này âm nhu, bất trung, bất chính, ở trên cùng quẻ nội khảm, mà tiến
lên thì gặp ngoại khảm, trước mặt là khảm, sau lưng là khảm, toàn là
hiểm cả, cho nên chỉ sụp vào chỗ sâu hơn thôi. 4. 六四: 樽酒簋, 貳 用缶, 納約自牖, 終无咎. Lục tứ: Tôn tửu quĩ, nhị dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu. Dịch:
Hào 4, âm: Như thể chỉ dâng một chén rượu, một quĩ thức ăn, thêm một
cái vò dựng vài thức khác nữa (không cần nhiều, hễ chí thành là được);
(có thể tùy cơ ứng biến) dứt khế ước qua cửa sổ (chứ không đưa qua cửa
chính), như vậy không có lỗi. Giảng: Lời hào này gọn quá, khó
hiểu. Phan Bội Châu giảng như sau: tôn là chén rượu, quĩ là đồ đựng
thức ăn; nhị là thứ nhì, phó (trái với chánh) là thêm sao, phẫu là cái
vò. Tôn tữu quí, nhị dụng phẫu nghĩa là rượu chỉ một chén, thức ăn chỉ
một quĩ, các thức khác thêm vào chỉ dùng một cái vò cũng đủ. Ý nói
không cần nhiều, miễn lòng chí thành là được. “Nạp ước tự dũ” Nghĩa là
khế ước (để làm tin) đáng lẽ phải nộp qua cửa lớn, nhưng lại dứt qua
cửa sổ (dũ), như vậy là không chính đại quang minh, nhưng gặp thờ
ihiểm, khó khăn, có thể “bất đắc dĩ nhi dụng quyền” (quyền này không
phải là quyền hành, mà là quyền biến: tùy cơ ứng biến), miễn là giữ
được lòng chí thành. Hào này như một vị đại thần, nhưng âm nhu, vô
tài, không cứu đời ra khỏi cảnh hiểm được; cũng may mà đắc chính, chí
thành, cứ giữ đức chí thành đó mà đối với vua, với việc nước, nếu lại
có chút cơ trí, biết tòng quyền , thì rốt cuộc không có lỗi. 5. 九五: 坎不盈, 祗既平, 无咎. Cửu ngũ: Khảm bất doanh, chỉ kì bình, vô cữu. Dịch : Hào 5, âm: Nước (hiểm) chưa đầy, nhưng đến lúc nước đầy rồi, lặng rồi, thì sẽ khỏi hiểm, không có lỗi. Giảng:
Hào này dương cương, có tài, đắc trung, đắc chính, ở ngôi chí tôn, mới
trải qua già nữa thời Khảm, hiểm chưa hết, nước còn dâng lên nữa, đến
khi nào nước đầy rồi mới bình lại, mà dắt dân ra khỏi hiểm được. Chữ Kì
ở đây nghĩa là bệnh, tức hiểm nạn, trỏ chữ khảm. 6. 上六: 係用黴纆, 寘于叢棘, 三歲不得, 凶. Thượng lục: Hệ dụng huy mặc, trí vu từng cức, tam tuế bất đắc, hung. Dịch: Hào trên cùng, âm: đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, ba năm không được ra , xấu. Giảng:
Hào này âm nhu, ở trên cùng quẻ Khảm, chỗ cực kì hiểm, đã không có tài
ra khỏi cảnh hiểm, lại không biết hối mà sửa mình, nên bị họa rất nặng.
* Quẻ này là cái tượng quân tử bị tiểu
nhân bao vây, chỉ có hai hào là tạm tốt (hào 2 và 5), còn các hào khác
đều xấu. Lời khuyên quan trọng nhất gặp thời hiểm, phải giữ lòng chí
thành, và biết tòng quyền.
hết: 29. QUẺ THUẦN KHẢM
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:47pm
30. QUẺ THUẦN LY
Trên dưới đều là Ly (lửa) ䷝
Khảm
là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly.
Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau
được, như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ]. Mà lệ có nghĩa là phụ
thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ, một nét âm ở
giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới. Ly còn nghĩa thứ nhì là
sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt
trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời. Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly. Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ. Ba
hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào giữa của Càn,
thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào hào
giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở
giữa trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly
và Khảm) cả. Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ
tí), Ly, ở giữa trưa (giờ ngọ). Khảm, ở giữa là nét dương, liền,
thực, cho nên đức của nó là trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng,
cho nên đức của nó là sáng, là văn minh. Thoán từ. 離: 利貞, 亨.畜牝牛, 吉. Ly: lợi trinh, hanh. Súc tẫn ngưu, cát. Dịch: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò cái thì tốt. Giảng:
Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa
vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức
thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt. Ly
còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng
suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái
sáng đi mà trau giồi đức thuận. Thoán truyện bảo phải có đức trung
chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc
trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ,
thành văn minh. Hào từ; 1. 初九: 履錯然, 敬之, 无咎. Sơ cửu: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu. Dịch: Hào 1, dương : Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không có lỗi. Giảng:
hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn non nớt, chưa có
kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu hiểu là sỏ
giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính chi).
2. 六二: 黃離, 元吉. Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát. Dịch: Hào 2, âm : Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt. Giảng:
hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng
với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn minh,
nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ
Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp. 3. 九三: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶. Cửu tam: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung. Dịch:
Hào 3, dương : mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người già, tính tình thất
thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn). Khi thì gõ cái
phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát, lúc lại
than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu). Giảng:
Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp lặn mà chưa lên
ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau). Câu: “bất
cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta”, Chu Hi hiểu là “chẳng yên phận mà
vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự xử.” 4. 九四: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如. Cửu tứ: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như. Dịch: Hào 4, dương: thình lình chạy tới, như muốn đốt người ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ. Giảng:
Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung, mới ở nội quái
lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình lình
tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy
làm sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu. 5. 六五: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉. Lục ngũ: xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát. Dịch: Hào 5, âm: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt. Giảng:
Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính, bị ép giữa hào hào
dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là “nước mắt ròng ròng”;
nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than thở,
tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt. 6. 上九: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎. Thượng cửu: Vương dụng xuất chinh, Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu. Dịch:
Hào trên cùng, dương: vua dùng (người có tài, tức hào này) để ra quân
chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu đi thì
thôi, như vậy thì không có lỗi. Giảng: Hào này dương cương lại ở
trên cùng quẻ Ly, thế là vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm,
vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà thì thành công lớn. Nhưng vì
cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp loạn thì chỉ nên
giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi. Như vậy
sẽ không có lỗi.
hết: 30. QUẺ THUẦN LY
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:49pm
31- QUẺ TRẠCH SƠN HÀM
Trên là Đoài (chằm), dưới là Cấn (núi) ䷞
Kinh
thượng bắt đầu bằng hai quẻ Càn Khôn: trời, đất. Có trời đất rồi mới có
vạn vật, có vạn vật rồi mới có nam, nữ; có nam nữ rồi mới thành vợ
chồng, có cha con, vua tôi, trên dưới, lễ nghĩa. Cho nên đầu kinh
thượng là Càn, Khôn, nói về vũ trụ; đầu kinh hạ là Hàm, Hằng, nói về
nhân sự. Hàm là trai gái cảm nhau. Hằng là vợ chồng ăn ở với nhau được
lâu dài. Thoán từ: 咸: 亨, 利貞, 取女吉. Hàm: Hanh, lợi trinh, thú nữ cát. Dịch: giao cảm thì hanh thông, giữ đạo chính thì lợi, lấy con gái thì tốt. Giảng:
đoài là thiếu nữ ở trên, Cấn là thiếu nam ở dưới (1). Cảm nhau thân
thiết không gì bằng thiếu nam, thiếu nữ. Cảm nhau thì tất hanh thông. Thiếu
nữ ở trên, thiếu nam phải hạ mình xuống cạnh thiếu nữ; hồi mới gặp nhau
thì phải vậy; chứ nếu thiếu nữ cầu cạnh thiếu nam thì là bất chính,
không tốt. Cho nên thoán từ bảo phải giữ đạo chính mới có lợi. Hai bên
giữ đạo chính cả thì cưới vợ chắc tốt lành. Hàm 咸 khác cảm 感 ở
điểm: Cảm có chữ Tâm 心 là lòng, hàm thì không. Hàm là tự nhiên hai bên
tương hợp, rồi cảm nhau, không có tư ý, không vì một lẽ nào khác, phải
hư tâm (trống rỗng trong lòng) . Đại tượng truyện khuyên: “dĩ hư tâm thụ nhân”. Như trên núi có chỗ trũng xuống (hư) để nước đọng lại mà thành cái chằm. Hư
tâm thì lòng được tĩnh, như cái núi (nội quái là Cấn), mà vui như tính
của cái chằm (ngoại quái là Đoài) (chỉ nhi duyệt; lời Thoán truyện);
muốn giữ được lòng tĩnh thì phải “khắc kỉ phục lễ” tự chủ được mình mà
giữ lễ. Tóm lại, Thoán từ cho rằng trai gái cảm nhau phải chân
thành, tự nhiên, vì nết, vì tài thì mới tốt; mà khi cảm nhau rồi phải
tự chủ, giữ lễ, đừng để đến nỗi hóa ra bất chánh. Coi đạo âm dương
giao cảm mà sinh hóa vạn vật, thánh nhân chí thành mà cảm được thiên
hạ, thì thấy được chân tình của thiên địa, vạn vật. Đạo cảm nhau quả là
quan trọng. Hào từ: 1 初六: 咸其拇. Sơ lục: Hàm kì mẫu. Dịch: Hào 1, âm: Như cảm ngón chân cái. Giảng:
Hào từ lấy thân người làm thí dụ. Hào 1 ở dưới cùng. Nó ứng với hào 4,
thấp mà cảm với trên cao, sức cảm còn nhỏ, chưa động được lòng người,
mới hơi động được ngón chân thôi. Không khen cũng không chê. 2. 六二: 咸其腓, 凶; 居吉. Lục nhị: Hàm kì phì, hung; cư cát. Dịch: Hào 2, âm: Cảm được bắp chân, xấu; ở yên thì tốt. Giảng:
Hào 2, cao hơn một chút, ví như bắp chân. Nó ứng với hào 5, nhưng nó là
âm, phận gái, mà còn ở dưới thấp, nếu nóng lòng cầu thân với 5 thì xấu.
Nó nên giữ nết trung chính (vì là hào 2 đắc trung, đắc chính) của nó
thì mới tốt, như vậy mới hợp đạo lý. Thoán truyện bảo: quẻ Hàm này, hễ tĩnh thì tốt; cho nên hào 2 này khuyên không nên động. 3. 九三: 咸其股, 執其隨, 往吝. Cửu tam: Hàm kì cổ, chấp kì tùy, vãng lận. Dịch: Hào 3, dương : cảm được tới đùi, chỉ muốn theo người, cứ như vậy mà tíến thì xấu. Giảng:
Hào này ở trên cùng nội quái, nên ví với bắp đùi. Nó là dương cương,
ham tiến, muốn theo hào 4 cũng dương cương ở trên nó; trong thời Hàm,
nên tĩnh mà nó động, lại động theo người nữa, đáng chê. 4. 九四: 貞吉悔亡; 憧憧往來, 朋從爾思. Cửu tứ: Trinh cát hối vong; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư. Dịch:
Hào 4, dương: hễ chính đáng thì tốt, mà mất hết những điều đáng ăn năn.
Nhược bằng nếu lăng xăng tính toán có qua có lại với nhau thì những
người qua lại với anh chỉ là những người anh nghĩ tới mà thôi (ý nói:
số bạn không đông, đoàn thể không lớn). Giảng: Hào này đã lên
ngoại quái, dương cương, lại ở quẻ đoài (vui vẻ), tức là có tình hoà
duyệt, nặng về cảm tính, cho nên ví với trái tim (tấm lòng). Tình cảm
phải chính đáng, chí công vô tư, như vậy mới tốt, không phải ăn năn.
Nếu có óc tính toán, tốt với người để mong người tốt lại với mình, có
đi có lại thì số bạn không được đông. Theo Hệ từ truyện, Chương V, Khổng tử giảng hào này rất kỷ, chúng tôi trích ra đoạn dưới đây: “
Đạo lý trong thiên hạ, cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán
bằng mẹo vặt, vì thiên hạ đường đi tuy khác nhau mà qui kết thì ý như
nhau: tính toán trăm lối mà cuối cùng chỉ tóm vào một lẽ (lẽ đó là có
cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm) cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng,
tính toán bằng mẹo vặt. . .” 5. 九五: 咸其脢, 无悔. Cửu ngũ: Cảm kì mỗi, vô hối. Dịch: Hào 5, dương : Cảm tới bắp thịt ở trên lưng, không hối hận. Giảng:
Bắp thịt ở trên lưng, cao hơn tim (hay lòng) mà trái với tim, không cảm
được vật. Không cảm được vật mà cũng không có tư tâm, tư ý, nên cũng
không có gì hối hận. Có lẽ vì hào 5 này dương cương, ở vị rất cao,
trung, chính, cách biệt dân chúng quá, cho nên Chu Hi bảo là “không cảm
được vật” chẳng? 6. 上六: 咸其輔, 頰, 舌. Thượng lục: Hàm kì phụ, giáp , thiệt. Dịch: Hào trên cùng, âm: Cảm người bằng mép, má, lưỡi. Giảng:
Hào này ở trên cùng Hàm, nên ví với mép, má, lưỡi. Nó là âm nhu ở trong
ngoại quái Đoài (vui vẻ), ham cảm người ta bằng miệng lưỡi, không thành
thực. Chẳng cần nói cũng biết là đáng chê rồi. * Đạo cảm người phải chí thành, tự nhiên, không dùng trí tính toán, nhưng cũng không nên có tư ý, tư tâm.
hết: 31- QUẺ TRẠCH SƠN HÀM
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:51pm
32. QUẺ LÔI PHONG HẰNG
Trên là Chấn (sấm), dưới là Tốn (gió) ䷟
Ở đầu quẻ Hàm, tôi đã nói tại sao sau quẻ Hàm (trai gái cảm nhau) tiếp
tới quẻ Hằng (đạo vợ chồng có tính cách lâu dài). Hàm: trên là Chấn
trưởng na, dưới là Tốn, trưởng nữ chồng trên, vợ dưới ,rất hợp đạo, thì
tất được lâu dài. Thoán từ : 恆: 亨, 无咎; 利貞, 利有攸往. Hằng: Hanh, vô cữu; lợi trinh, lợi hữu du vãng. Dịch: Lâu dài thì hanh thông, không có lỗi; giữ được chính đạo thì có lợi, tiến hành việc gì cũng thành công. Thoán
truyện giảng: Cương (Chấn) ở trên, nhu (Tốn) ở dưới, sấm gió giúp sức
nhau, Chấn động trước, Tốn theo sau, thế là thuận đạo. Lại thêm ba hào
âm đều ứng với ba hào dương, cũng là nghĩa thuận nữa, cả hai bên đều
giữ được đạo chính lâu dài. Hào từ: 1 初六: 浚恆, 貞凶, 无攸利. Sơ lục: tuấn hằng, trinh hung, vô du lợi. Dịch:
Hào 1, âm: Quá mong được thân mật lâu dài; cứ quyết (trinh) như vậy,
không chịu bỏ thì xấu, không làm gì được thuận lợi cả. Giảng: Hào
1 ứng với hào 4, nhưng địa vị mình quá thấp, địa vị 4 quá cao, mà 4 là
dương cương, chỉ trông lên không ngó xuống mình; lại thêm có 2 hào 2 và
3 ngăn cách vậy mà không biết phận cứ tiến sâu (tuấn là sâu), mong được
thân mật lâu dài, keo sơn với 4, thành ra ngu. Cứ kiên cố giữ cách ấy
thì xấu. 2. 九二: 悔亡. Cửu nhị: hối vong. Dịch: Hào 2, dương: hối hận tiêu hết. Giảng:
Hào này dương cương ở vị âm, đáng lẽ có hối hận, nhưng vì đắc trung lại
ứng với hào 5 cũng đắc trung, thế là giữ được đạo trung, nên không có
gì hối hận. 3. 九三: 不恆其德, 或承之羞, 貞吝. Cửu tam: Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu, trinh lận. Dịch: Hào 3, dương : không thường giữ được cái đức của mình, có khi bị xấu hổ, dù chính đáng cũng đáng tiếc. Giảng:
Hào dương ở vị dương là đắc chính, nếu thường giữ được đức “chính” đó
thì tốt; nhưng vì quá cương mà bất đắc trung, lại theo đòi với hào trên
cùng âm nhu, thế là bỏ cái đức chính của mình, muốn kết bạn với hào
trên cùng, chưa biết chừng bị xấu hổ đấy. Vậy 3 tuy “ chính “ đấy, chỉ
vì không thường giữ được đức đó, thì tuy chính mà vẫn đáng tiếc. 4. 九四: 田无禽. Cửu tứ: Điền vô cầm. Dịch: Hào 4, dương : như đi săn mà không được cầm thú. Giảng:
Hào dương mà ở vị âm, là không phải chỗ của mình mà cứ ở lâu chỗ đó, vì
trong quẻ Hằng thì chẳng nên việc gì, chỉ mất công thôi, như đi săn mà
không bắt được cầm thú. 5. 六五: 恆其德, 貞. 婦人吉, 夫子凶. Lục ngũ: Hằng kỳ đức, trinh. Phụ nhân cát, phu tử hung. Dịch : Hào 5, âm: giữ được thường (lâu) đức của mình, bền mà chính. Đàn bà thì tốt, đàn ông thì xấu. Giảng:
Hào 5, âm nhu, đắc trung, ứng với hào 2 dương cương cũng đắc trung, nếu
cứ thuận tòng từ trước tới sau thì là bền mà chính đáng. Nhưng đó chỉ
là đạo của đàn bà như hào 5, âm này thôi; không hợp với đàn ông, vì
theo quan niệm thời xưa, phu xướng phụ tùy. Tiểu tượng truyện giảng thêm, đàn ông phải tìm ra cái gì đáng làm thì làm (phu tử chế nghĩa), chứ cứ một mực theo vợ thì xấu. 6. 上六: 振恆, 凶. Thượng lục: chấn hằng, hung. Dịch: Hào trên cùng, âm: cử động hoài, không chịu yên thì xấu. Giảng:
Ở trên cùng quẻ Hằng và ngoại quái Chấn, cho nên nói là ham động quá,
lại âm nhu, không bền chí, ở yên không được sẽ thất bại. * Quẻ này quan trọng ở hào 5: đạo phu xướng phụ tùy của Trung Hoa thời xưa. Một lời khuyên là theo lý mà làm, đừng hành động càn.
hết: 32. QUẺ LÔI PHONG HẰNG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:55pm
33. QUẺ THIÊN SƠN ĐỘN
Trên là Càn (Trời), dưới là Cấn (núi) ䷠
Hể
ở lâu thì phải rút lui, lánh đi, hết ngày thì tới đêm, hết đông tới
xuân, ngồi lâu phải đứng dậy, già rồi nên về hưu . . , cho nên sau quẻ
Hằng (lâu) tới quẻ động (là trốn lánh đi). Thoán từ: 遯: 亨, 小利貞. Độn: Hanh, tiểu lợi trinh. Dịch: Trốn lánh đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi. Giảng:
Trên là trời, dưới là núi: ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng
càng lên càng thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt
tít vời, như trời trốn lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn. Quẻ
này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái tượng âm (tiểu
nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm. Độn
thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12. Ở thời Động, âm dương
tiến mạnh, dương nên rút lui đi là hợp thời, được hanh thông (có thể
hiểu là : đạo quân tử vẫn hanh thông). Tuy nhiên âm mới có 2, dương còn
tới 4, chưa phải là thời Bĩ (cả 3 âm đều tiến lên), nên chưa đến nỗi
nào, trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì còn có lợi, còn làm
được. Sở dĩ chưa đến nỗi nào, còn hanh thông vì trong quẻ có hào
5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó,
chưa nên trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ
ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ Độn này rất
quan trọng. Đại tượng truyện khuyên trong thời này quân tử nên xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá. Hào từ: 1 初六: 遯尾, 厲, 勿用有攸往. Sơ lục: độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng. Dịch: Hà 1, âm: Trốn sau cùng, như cái đuôi, nguy đấy, đừng làm gì cả. Giảng:
Hào ở dưới cùng, nên ví với cái đuôi ở lại sau cùng. Nó là âm, nhu
nhược, hôn ám, không trốn theo kịp người, còn rù rờ ở sau, nên bảo là
nguy. 2. 六二: 執之用黃牛之革, 莫之勝說. Lục nhị: chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thăng thoát. Dịch:
Hào 2, âm: Hai bên (hào 5 và hào 2) khăng khít (bền chặt) với nhau như
buộc vào nhau bằng da bò vàng, không thể nào cởi được. Giảng: hào
2 âm, đắc trung đắc chính, ứng với hào 5 dương cũng đắc trung đắc
chính, cho nên tương đắc, khắng khít với nhau, không thể rời nhau được,
2 không thể bỏ 5 mà trốn được. Màu vàng (da bò vàng) là màu trung, ám chỉ hai hào đó đều đắc trung. 3. 九三: 係遯, 有疾厲, 畜臣妾, 吉. Cửu tam: Hệ độn, hữu tật lệ, súc thần thiếp, cát. Dịch: Hào 3, dương, lúc phải trốn mà bịn rịn tư tình thì nguy; nhưng nuôi kẻ tôi tớ trai gái thì tốt. Giảng:
Hào dương này ở gần hào 2 âm, có vẻ bịn rịn tư tình với hào đó, không
thể trốn mau được, như bị bệnh mà nguy; có tư tình đó thì không làm
được việc lớn, chỉ nuôi bọn tôi tớ trai gái mình tốt với họ thì họ vui
lòng mà dễ sai khiến, được việc cho mình. Bốn chữ “súc thần thiếp,
cát” tôi hiểu theo Phan Bội Châu; Chu Hi giảng rất mù mờ, lúng túng; J.
Legge giảng là: nếu 3 đổi hào 2, như nuôi tôi tớ trai gái thì tốt. R.
Wilhem giảng là 3 vẫn giữ được sự tự quyết, đừng để cho hào 2 sai khiến
mình thì tốt. 4. 九四: 好遯, 君子吉, 小人否. Cửu tứ: Hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân phủ. Dịch: Hào 4 dương: Có hệ lụy với người, nhưng trốn được, quân tử thì tốt, tiểu nhân thì không. Giảng:
Hào này cũng tối nghĩa; chữ 好 có người đọc là hảo , chữ 否 có người đọc
là bĩ, vì vậy có nhiều cách hiểu, với hào 1 âm nhu, có tình thân thiết
(hệ lụy) với nhau; nhưng 4 là quân tử, 1 là tiểu nhân , 4 cắt được tư
tình mà trốn đi, theo lệ phải (chính nghĩa); chỉ hạng quân tử mới làm
vậy được, tiểu nhân thì không . 5. 九五: 嘉遯, 貞吉. Cửu ngũ: gia độn, trinh cát. Dịch: Hào 5, dương, trốn mà theo điều chính cho nên tốt. Giảng:
Hà 5, dương có đức trung chính, ứng với hào 2 cũng trung chính, ở thời
Độn, cả 2 hào trung chính dắt nhau trốn bọn tiểu nhân, giữ được điều
chính, cho nên tốt. 6. 上九: 肥遯, 无不利. Thượng cửu: Phi độn, vô bất lợi. Dịch: Hào trên cùng, dương: trốn mà ung dung, đàng hoàng, không có gì là không lợi. Giảng:
Vào lúc cuối thời Độn, càng trốn được xa càng được tự do. Hào này dương
cương quân tử, không bịn rịn với hào nào cả (vì hào 3 cũng là dương),
có thể ung dung, đàng hoàng trốn được, không nghi ngại gì cả. * Ý
nghĩa quẻ Độn: trốn phải hợp thời; trốn sau cùng là trễ, thì nguy (hào
1) trốn mà còn vương tư tình thì xấu (hảo 3); trốn một cách trung chính
thì tốt (hào 5); trốn mà không bịn rịn thì được ung dung (hào 6) . Lại
có trường hợp vì hoàn cảnh mà không được trốn đi (hào 2).
hết: 33. QUẺ THIÊN SƠN ĐỘN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:56pm
34. QUẺ LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
Trên là chấn (sấm), dưới là Càn (trời) ䷡
Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng (lớn mạnh). Thoán từ: 大壯: 利貞. Đại tráng, lợi trinh. Dịch: Lớn mạnh, theo điều chính thì lợi. Giảng:
Quẻ này có 4 nét dương ở dưới, hai nét âm ở trên; dương đã lớn mạnh mà
âm sắp bị diệt hết. Quẻ Càn ở trong, quẻ Chấn ở ngoài, thế là có đức
dương cương mà động. Lại có thể giảng là sấm vang động ở trên trời,
tiếng rất lớn, vang rất xa. Lớn mạnh thì dĩ nhiên là tốt rồi,
nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta kiêu căng, làm điều bất
chính, cho nên thoán từ phải dặn: giữ điều chính, lúc đắc ý nghĩ đến
lúc thất ý, thì mới có lợi. Đại tượng truyện bảo muốn giữ điều chính thì đừng làm cái gì phi lễ. (Quân tử phi lễ phất lí) Thoán
truyện bàn thêm: có chính thì mới có lớn (đại), chính đại là cái “tình”
của trời đất, tức cái công dụng hiện ra ngoài của trời đất, (chính đại
nhi thiên địa chi tình khả kiến hĩ). Chúng ta để ý: quẻ Phục mới có một
nét dương hiện ở dưới cùng, cho nên bảo chỉ thấy cái lòng của trời đất
(kiến thiên địa chi tâm), quẻ Đại tráng này, dương đã lớn, được 4 nét
rồi, thì thấy được cái tình của trời đất. Hào từ: 1. 初九: 壯于趾, 征凶, 有孚. Sơ cửu: Tráng vu chỉ, chinh hung, hữu phu. Dịch:
Hào 1, dương: mạnh ở ngón chân, đi lên thì xấu, có thể tin chắc như vậy
(hữu phu ở đây không có nghĩa là có đức tin như những nơi khác). Giảng: Hào này ở dưới cùng, dương cương, cho nên ví với ngón chân, ở địa vị thấp mà hăng hái muốn tiến, sẽ vấp, xấu. 2. 九二: 貞吉. Cửu nhị: Trinh cát. Dịch: Hào 2, dương : có đức chính ,tốt. Giảng:
Hào này dương cương, ở vị nhu, tuy không đắc chính, nhưng đắc trung, mà
trung thì không bao giờ bất chính, vậy cũng là tốt. 3. 九三: 小人用壯, 君子用罔.貞厲, 羝羊觸藩, 羸其角. Cửu tam: Tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng. Trinh lệ, đề dương xúc phiên, luy kì giác. Dịch:
Hào 3, dương: tiểu nhân dùng sức mạnh, quân tử không; dù giữ điều chính
cũng nguy, như con cừu đực húc vào cái dậu, bị thương cái sừng. Giảng:
Hào này dương cương, ở vào vị dương (lẻ) trong quẻ Đại tráng, lại ở
cuối nội quái Càn, thế là cực kì hung mạnh, dù giữ được chính đáng cũng
nguy; quân tử biết vậy mà không hành động, chỉ tiểu nhân mới hung hăng
như con cừu đực, húc vào cái dậu. Bốn chữ “quân tử dụng võng”, Chu
Hi, J. Legge,R. Wilhelm đều giảng như vậy. Duy Phan Bội Châu bảo “võng”
là gan liều, không sợ gì, và “quân tử dụng võng” là “quân tử hữu dũng
mà vô nghĩa thì làm loạn”. Chữ at ở đây không phải là người có đức (như
Chu Hi hiểu) mà là người trị dân. 4. 九四: 貞吉, 悔亡, 藩決不羸.壯于大輿之輹. Cửu tứ: Trinh cát, hối vong, phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc. Dịch:
Hào 4, dương : theo điều chính thì tốt, hối hận mất hết; dậu đã mở
không khốn nữa, mạnh mẽ tiến lên, như ngồi cỗ xe lớn mà trục xe vững
vàng. Giảng: Hào này dương cương, qua khỏi nội quái là Càn, mà lên
ngoại quái là Chấn, là tráng thịnh đến cực điểm; nó ở trên hết các hào
dương, làm lãnh tụ đám quân tử, sợ nó hăng quá mà lầm đường nên dặn kĩ:
giữ điều chính thì mới tốt, khỏi ân hận. Ở trên nó là hai hào âm,
âm đã đến lúc suy, dễ đánh đổ; như cái dậu ở trước mặt hào 4 đã mở,
không còn bị khốn nữa; nó có thể dắt ba hào dương ào ào tiến lên dễ
dàng, cơ hội thuận lợi như ngồi cỗ xe lớn mà trục xe vững vàng. 5. 六五: 喪羊于易, 无悔. Lục ngũ: táng dương vu dị, vô hối. Dịch: Hào 5, âm: làm mất sự hung hăng của bầy cừu bằng cách vui vẻ dễ dại, thì sẽ không ân hận. Giảng:
Hào này ở vị chí tôn, nhưng vốn âm nhu, không thể áp đảo được 4 hào
dương ở dưới, phải vui vẻ dễ dãi với họ thì họ sẽ hết hung hăng. Bốn
hào dương đó ví như bầy dê hung hăng. Sở dĩ phải có thái độ đó vì ngôi
của 5 quá cao đối với tư cách âm nhu của nó. 6. 上六: 羝羊觸 藩, 不能退, 不能遂, 无攸利, 艱則吉. Thượng lục: đề dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi, gian tắc cát. Dịch:
Hào trên cùng, âm: Cừu đực húc vào dậu, mắc kẹt, lui không được, tiến
cho toại ý cũng không được, không có lợi gì cả; chịu khó nhọc thì tốt. Giảng:
hào này ở trên cùng quẻ Đại tráng là hết thời lớn mạnh, mà cũng ở trên
cùng ngoại quái Chấn, là rất ham động mà bất lực (âm nhu); như con cừu
đực hung hăng húc vào dậu, mắc kẹt, lui không được, tiến lên cho toại ý
cũng không được, không lợi ở chỗ nào cả. Nếu bỏ tính hung hăng húc
quàng đi mà chịu khó nhọc thì tốt. * Quẻ
này là thời âm suy, dương lớn mạnh lên, đáng lẽ tốt; mà sáu hào không
có hào nào thật tốt, chỉ tốt với điều kiện là giữ đạo chính của quân
tử; cổ nhân khuyên muốn gặp vận hội tốt thì phải coi chừng hoạ nấp ở
đâu đó, nên đề phòng.
hết: 34. QUẺ LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/Mar/2009 lúc 11:58pm
35. QUẺ HỎA ĐỊA TẤN
Trên là Ly (lửa) dưới là Khôn (đất) ䷢
Đã tráng thịnh thì tất nhiên phải tiến lên, cho nên sau quẻ Đại tráng tới quẻ Tấn [晉], Tấn có nghĩa là tiến [進] lên. Thoán từ: 晉: 康侯用錫馬蕃庶, 晝日三接. Tấn: Khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp. Dịch: tiến lên, bậc hầu có tài trị nước được thưởng ngựa nhiều lần, ban ngày được tiếp tới ba lần. Giảng: Quẻ này có tượng mặt trời (ly) lên khỏi mặt đất (Khôn), càng lên cao càng sáng, tiến mạnh. Lại
có thể hiểu là người dưới có đức thuận (Khôn) dựa vào bậc trên có đức
rất sáng suốt (☲); cho nên ví với một vị hầu có tài trị dân (Khang hầu)
được vua tín nhiệm, thưởng (tích) ngựa nhiều lần, nội một ngày mà được
vua tiếp tới ba lần. Thoán truyện giảng thêm: quẻ này hào 5 có cái
tượng một hào âm nhu tiến lên địa vị vua chúa: nhu tiên nhi thượng
hành. Theo Chu Hi, như vậy là vì quẻ Tấn do quẻ Quán biến thành: hão
quẻ Quán là âm, nhảy lên trên, thành 5 quẻ Tấn. Phan Bội châu hiểu
khác: hào 5 vốn là hào dương giữa quẻ Càn, biến thành hào âm ở giữa
ngoại quái Ly của quẻ Tấn. Theo tôi, cách hiểu của Chu Hi dễ chấp nhận
hơn. Đại tượng truyện khuyên người quân tử xem tượng quẻ Tấn này
nên tự làm cho đức của mình càng ngày càng sáng như mặt trời hiện lên
khỏi mặt đất rồi tiến mãi lên. Hào từ: 1. 初六: 晉如, 摧如, 貞吉, 罔孚, 裕. 无咎. Sơ Lục: tấn như, tồi như, trinh cát, võng phu, dụ, vô cữu. Dịch:
Hào 1 âm: : muốn tiến lên mà bị chắn lại, giữ đạo chính thì tốt; nếu
người chẳng tin mình thì nên khoan thai, bình tĩnh, như vậy sẽ không có
lỗi. Giảng: Âm nhu ở dưới cùng, ứng với hào 4, mà 4 lại bất trung,
bất chính, nên chẳng giúp mình được gì, mình muốn tiến lên mà như thể
bị chặn lại. Trong hoàn cảnh đó, nếu có người không tin mình thì mình
chỉ nên khoan thai, bình tĩnh tu thân là sẽ không có lỗi. 2. 六二: 晉如, 愁如, 貞吉; 受茲介福于其王母. Lục nhị: Tấn như, sầu như, trinh cát; Thụ tư giới phúc vu kì vương mẫu. Dịch: Hào 2, âm: Tiến lên mà rầu rĩ, giữ đạo chính thì tốt; sẽ được nhờ phúc lớn của bà nội. Giảng:
Hào này có đức trung chính, đáng lẽ tiến lên được nhưng trên không có
người ứng viện (vì hào 5 cũng âm nhu như 2), phải tiến một mình, nên
rầu rĩ. Nhưng cứ giữ đạo chính thì chẳng bao lâu sẽ gặp cơ hội tốt: hào
5 ở trên, cũng là hào âm như mình, tuy không giúp được mình trong công
việc, nhưng cũng đắc trung như mình, sẽ ban phúc lớn cho mình, và mình
sẽ được nhờ hào 5 như được nhờ phúc của bà nội (vương mẫu tức như tổ
mẫu) mình vậy. Sở dĩ ví hào 5 với bà nội vì 5 là âm mà ở trên cao, cách 2 khá xa. 3. 六三: 眾允, 悔亡. Lục tam: chúng doãn, hối vong. Dịch: hào 3, âm: mọi người tin cẩn, thì mọi sự hối tiếc sẽ mất đi. Giảng:
hào âm này ở trên cùng nội quái Khôn, bất trung chính, đáng lẽ có điều
hối hận, nhưng có hai hào âm ở dưới đều muốn tiến lên với mình, đều tin
mình, mình được lòng họ, thì còn gì phải hối tiếc nữa đâu? 4. 九四: 晉如, 鼫鼠, 貞厲. Cửu tứ: Tấn như, thạch thử, trinh lệ. Dịch: hào 4, dương : tiến lên, tham lam như con chuột đồng, cứ giữ thói đó thì nguy. Giảng:
Hào này bất chính, bất trung, ở địa vị cao, tham lam muốn giữ ngôi mà
lại sợ một bầy âm ở dưới dương hăng hái dắt nhau tiến lên, nên ví với
con chuột đồng, vừa tham vừa sợ người . Nếu nó giữ thói đó (trinh
ở đây là bền vững chứ không phải là chính đáng, vì hào 4 vốn bất chính)
thì sẽ nguy, bị tai hoạ mà mất ngôi. 5. 六五: 悔亡, 失得勿恤, 往吉, 无不利. Lục ngũ: hối vong, thất đắc vật tuất, vãng cát, vô bất lợi. Dịch: Hào 5, âm: không có gì ân hận cả; nếu đừng lo được hay mất, mà cứ tiến thì tốt, không gì là không lợi. Giảng:
Hào này làm chủ quẻ Tấn, có đức sáng suốt (vì ở giữa ngoại quái Ly),
lại được ba hào âm ở dưới thuận giúp mình, nên không có gì phải ân hận.
Nhưng nó là âm nhu, e có lòng ham được, sợ mất, cho nên Hào từ
khuyên thành bại chẳng màng, cứ giữ đức sáng suốt thì sẽ thành công. 6. 上九: 晉其角, 維用伐邑, 厲吉, 无咎, 貞吝. Thượng cửu: Tấn kì giác, duy dụng phạt ấp, lệ cát, vô cữu, trinh lận. Dịch:
Hào trên cùng, dương: chỉ tiến cặp sừng thôi, lo trị cái ấp riêng của
mình thôi thì dù có nguy, kết quả cũng tốt, không tội lỗi, nhưng dù
được điều chỉnh thì cũng đáng thẹn. Giảng: Dương cương mà ở trên
cùng quẻ Tấn, có nghĩa là cứng đến cùng cực, mà ham tiến cũng cùng cực,
không khác con thú hung hăng chỉ húc bằng cặp sừng. Như vậy không làm
được việc lớn, chỉ giữ được cái vị của mình, như trị được cái ấp riêng
của mình thôi, dù có nguy thì cũng vẫn thành công đấy. Có điều là ở
thời đại Tiến lên mà chỉ làm được vậy, chứ không thành sự nghiệp lớn
thì cũng đáng thẹn đáng tiếc.
hết: 35. QUẺ HỎA ĐỊA TẤN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:27am
36. QUẺ ĐỊA HỎA MINH DI
Trên là Khôn (đất), dưới là ly (lửa) ䷣
Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di [夷] nghĩa là thương tổn. Thoán từ. 明夷: 利艱貞. Minh di: Lợi gian trinh. Dịch: Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính thì lợi. Giảng: Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di). Người
quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính
trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng
mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là
sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái. Vua Văn Vương
bị vua Trụ nghi ngờ, giam vào ngọc Dữu Lý, tỏ vẻ rất nhu thuận, không
chống đối Trụ, mà để hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ
trong Kinh Dịch, nhờ vậy Trụ không có cớ gì để giết, sau thả ông ra. Không
những ở ngoài phải tỏ vẻ nhu thuận, mà có khi còn nên giấu sự sáng suốt
của mình đi nữa mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ tử một hoàng
thân của Trụ. Trụ vô đạo, Cơ Tử can không được, giả điên, làm nô lệ, để
khỏi bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông
không chết với Trụ, cũng không bỏ nước ra đi. Võ vương – con Văn Vương
– diệt Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu;
sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử
giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà
Ân (Hối kì minh, nội nạn nhi năng chính kì chí – Thoán truyện). Đại
tượng truyện bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng
nên dùng cách kín đáo mà lại thấy được rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là
dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân , đừng rạch ròi, nghiêm khắc quá
mà sẽ bị hại, tóm lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ
mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác
giả Đại tượng truyện muốn dùng thuật của Hàn Phi. Hào từ. 1. 初九: 明夷, 于飛 垂其翼.君子于行, 三日不食, 有攸往, 主人有言. Sở cửu: Minh di, vu phi thùy kì dực. Quân tử vu hành, tam nhật bất thực, hữu du vãng, chủ nhân hữu ngôn. Dịch:
Hào 1, dương : ở thời u ám (ánh sáng bị tổn hại), hào này như con chim
muốn bay mà cánh rũ xuống. Người quân tử biết thời cơ thì bỏ đi ngay,
dù (không có tiền) phải nhịn đói ba ngày, mà đi tới đâu, gặp chủ cũ,
cũng bị chủ cũ chê trách. Giảng: Hào dương ở đầu thời Minh di, là
người quân tử gặp thời hắc ám, có thể bị hại như con chim rũ cánh
xuống. Cách xử thế là nên bỏ đi ngay, như Phạm Lãi bỏ nước Việt vì biết
vua Việt là Câu Tiễn sẽ nghi ngờ mà hại các công thần, nhờ vậy tránh
được cái hoạ bị giết như đại phu Chủng. 2. 六二: 明夷, 夷于左股, 用拯馬壯, 吉. Lục nhị: Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng mã tráng, cát. Dịch:
Hào 2, âm: Ở thời ánh sáng bị tổn hại, hào này như bị đau ở đùi bên
trái, nhưng cũng mau khỏi, sẽ như con ngựa mạnh mẽ tiến lên, tốt. Giảng:
Hào này làm chủ nội quái Ly (sáng suốt), đắc trung, đắc chính , là bậc
quân tử có tài, nhưng ở thời Minh di, hôn ám nên bị tiểu nhân làm hại
ít nhiều, như bị thương ở đùi bên trái, nhưng rồi sẽ mau khỏi (dụng
chửng), mà như con ngựa mạnh mẽ. Tốt vì hào 2 trung, chính, lại vẫn thuận theo (vì là hào âm) phép tắc. “dụng
chửng mã tráng” R. Wilhelm giảng là : sẽ dùng sức con ngựa mạnh mà giúp
đỡ người khác khỏi cơn nguy, J. Legge dịch là: tự cứu mình bằng sức một
con ngựa mạnh. Chúng tôi theo Chu Hi và Phan Bội Châu. 3. 九三: 明夷, 于南狩, 得其大首, 不可疾, 貞. Củu tam: Minh di, vu nam thú, đắc kì đại thủ, bất khả tật, trinh. Dịch:
Hào 3, dương: ở thời ánh sáng bị tổn hại, đi tuần về phương Nam, bắt
được kẻ đầu sỏ, nhưng đừng hành động gấp, phải bền chí. Giảng: Hào
này ở trên cùng nội quái Ly là cực sáng suốt; nó là dương cương , ở vị
dương, vậy là rất cương kiện, nó ứng với hào âm ở trên cùng quẻ Khôn
(ngoại quái), hào này cực hôn ám. Nó sẽ đánh đổ hào âm đó. Nó cứ đem
binh đi tuần về phương Nam (Nam thú: Phan Bội Châu giảng là đem quân
tiến lên phía trước để trừ loạn) sẽ bắt được tên đầu sỏ phản loạn.
Nhưng nó cương cường nóng nảy, nên phải khuyên: đừng gấp, phải bền chí
giữ đạo chính. 4. 六四: 入于左腹, 獲明夷之心, 于出門庭. Lục tứ: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình. Dịch: Hào 4, âm: như vô phía bên trái của bụng (ý nói chỗ u ám); tấm lòng ở thời u ám (minh di) là nên bỏ nhà mà ra đi. Giảng:
Hào này âm nhu, ở vào thời Minh di, mà lại vượt quẻ Ly, sang quẻ Khôn
rồi, tức bỏ chỗ sáng sủa, bước vào chỗ tối tăm, cho nên ví như vô phía
bên trái của bụng. Nhưng hào này đắc chính (âm ở vị âm) nên có thể rút
chân ra khỏi cảnh khốn nạn ấy được: cứ bỏ nhà ra đi, tức tránh cho xa
cảnh đó, mặc nó. Đó là hiểu theo Phan Bội Châu. Chu Hi nhận rằng không thấy được nghĩa hào này. 5. 六五: 箕子之明夷, 利貞. Lục ngũ: cơ tử chi Minh di, lợi trinh. Dịch: Hào 5, âm: như ông Cơ Tử ở thời u ám (Minh di), cứ bền giữ đạo chính thì lợi. Giảng:
Thường các quẻ khác, hào 5 là ngôi chí tôn, quẻ Minh di này hào trên
cùng mới là ngôi chí tôn, hào 5 là người thân cận với ngôi chí tôn. Hào
trên cùng là ông vua rất hôn ám như vua Trụ, hào 5 là người thân cận có
đức trung, như ông Cơ Tử; ông giả điên để khỏi bị Trụ hại mà sau giữ
được dòng dõi nhà Ân, như vậy là giữ vững đạo chính, ở ngoài làm ra vẻ
hôn mê, mà trong lòng vẫn sáng suốt. 6. 上六: 不明晦, 初登于天, 後入于地. Thượng lục: Bất minh di, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa. Dịch: Hào trên cùng, âm: không còn là ánh sáng bị tổn thương nữa, lên cao tới trời mà rồi sụp xuống đất. Giảng:
Hào trên cùng, âm; ở cuối cùng thời Minh di, lại ở trên cùng ngoại quái
Khôn, tức như người có địa vị tối cao mà lại hôn ám cùng cực; như vậy
là tối mù mù, chứ không phải chỉ là ánh sáng bị tổn hại (Minh di), nữa,
cho nên Hào từ bảo là “bất minh di”. Có cái tượng lên cao tới trời (địa
vị tối cao) mà rồi sụp xuống đất. * Quẻ
này khuyên người quân tử ở thời hắc ám quá thì có thể bỏ nhà, nước mà
đi; hoặc muốn ở lại thì giấu sự sáng suốt của mình mà giữ vững đạo
chính để chờ thời.
hết: 36. QUẺ ĐỊA HỎA MINH DI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:28am
37. QUẺ PHONG HỎA GIA NHÂN
Trên là Tốn (gió), dưới là Ly (lửa). ䷤
Di
là bị thương; hễ ra ngoài bị thương thì trở về nhà, cho nên sau quẻ
Minh di tới quẻ Gia nhân. Gia nhân là người trong một nhà. Thoán từ : 家人: 利女貞. Gia nhân : Lợi nữ trinh. Dịch: người trong nhà: hễ đàn bà mà chính đáng thì có lợi. Giảng:
Nội quái là Ly, sáng suốt; ngoại quái là Tốn thuận. Ở trong thì suốt,
xử trí không hồ đồ, ở ngoài thì thuận, như vậy việc tề gia sẽ tốt đẹp.
Nói rộng ra việc nước cũng vậy, vì người trong một nước lấy nước làm
nhà; mà việc thế giới cũng vậy, vì mỗi nước như một người, cả thế giới
như một nhà. Quẻ này, nội quái Ly là trung nữ, ngoại quái Tốn là
trưởng nữ (1); hào 2, âm làm chủ nội quái, hào 4, âm làm chủ ngoại
quái, hai hào đó đều đắc chính cả, cho nên nói đàn bà mà chính đáng thì
có lợi. Tuy chỉ nói “nữ” trinh thôi, nhưng phải hiểu nam cũng cần
chính đáng nữa, vì nếu nam không chính đáng thì nữ làm sao chính đáng
được. Cho nên Thoán truyện giải thích: Đàn bà chính đáng ở trong (ám
chỉ hào 2, âm ở vị âm trong nội quái), mà đàn ông chính đáng ở ngoài
(hào 5, dương, ở vị dương trong ngoại quái); đàn bà lo việc nhà, đàn
ông lo việc ở ngoài, cả hai đều giữ đạo chính, đó là hợp với nghĩa lớn
của trời đất (nữ chính vị hồ nội, nam chính vị hồ ngoại; nam nữ chính,
thiên địa chi đại nghĩa dã). Nam nữ là nói chung, gồm cả cha mẹ, con
cái, anh chị em, vợ chồng, ai nấy đều phải giữ đạo chính hết, chứ không
phải chỉ có người trên, chồng không phải giữ đạo. Cha mẹ cũng có đúng
đạo cha mẹ thì con mới đúng đạo con, anh em cũng vậy, chồng vợ cũng
vậy. Thời xưa chẳng riêng ở Trung Hoa mà ở khắp các nước theo chế độ
phụ quyền như phương Tây cũng vậy, không có bình đẳng giữa nam nữ;
nhưng về tư cách, đạo đức, thì nam nữ đều có bổn phận, trách nhiệm
ngang nhau. Đại tượng truyện khuyên: coi tượng quẻ này, gió từ
trong lửa phát ra (điều này khoa học đã giảng rồi), người quân tử hiểu
rằng trong thiên hạ, việc gì ở ngoài cũng phát từ ở trong; muốn trị
nước thì trước phải trị nhà, muốn trị nhà thì trước phải tu thân; mà
việc tu thân cốt ở hai điều: nói phải có thực lý; thực sự, không nói
suông, vu vơ; làm thì thái độ phải trước sao sau vậy, triệt để từ đầu
tới đuôi, đừng thay đổi hoài (quân tử dĩ ngôn hữu vật, như hạnh hữu
hằng). Hào từ: 1. 初九: 閑有家, 悔亡. Sơ cửu: nhàn hữu gia, hối vong. Dịch: Hào 1, dương: phòng ngừa ngay từ khi mới có nhà thì không hối hận gì cả. Giảng:
Hào này dương cương ở đầu quẻ Gia nhân, chính là lúc mới có nhà, nếu
biết đề phòng, ngăn ngừa ngay các tật như lười biếng, xa xỉ thì không
có gì phải ăn năn. Ý hào này cũng như tục ngữ của ta: Dạy con từ thuở
còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. 2. 六二: 无攸遂, 在中饋, 貞吉. Lục nhị: vô du loại, tại trung quĩ, trinh cát. Dịch:
Hào 2, âm: không việc gì mà tự chuyên lấy thành công (nắm hết trách
nhiệm), cứ ở trong nhà lo việc nấu nướng, giữ đạo chính thì tốt. Giảng:
Hào này âm nhu mà ở vị âm, đắc trung đắc chính là người dâu hay con gái
thuận tòng, nhún nhường, nhưng bất tài, ở địa vị thấp, nên không gánh
vác nổi việc trị gia, không lãnh trách nhiệm lớn được, chỉ nên lo việc
nấu nướng ở trong nhà thôi. 3. 九三: 家人嗃嗃, 悔厲, 吉.婦子嘻嘻, 終吝. Cửu tam: Gia nhân hác hác, hối lệ, cát; phụ tử hi hi, chung lận. Dịch:
Hào 3, dương: người chủ nhà nghiêm khắc, tuy hối hận, có nguy nhưng lại
tốt; (nếu quá khoan để cho) dâu con nhí nhảnh chơi đùa thì lại hối
tiếc. Giảng: Hào này là dương ở vị dương, đắc chính nhưng không
đắc trung, quá nghiêm khắc, tuy có lúc phải hối hận, gặp nguy, nhưng
kết quả lại tốt vì nhà có trật tự, trái lại nếu quá dễ dãi để cho dâu
con luông tuồng, thì nhà sẽ suy loạn mà phải hối tiếc. 4. 六四: 富家, 大吉. Lục tứ: phú gia, đại cát. Dịch: Hào 4, âm: Làm giàu thịnh cho nhà, rất rốt. Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính ở vào ngoại quái Tốn, ở địa vị cao, như bà mẹ có trách nhiệm làm cho nhà giàu thịnh lên. Theo
Phan Bội Châu, chữ “phú” ở đây không có nghĩa là làm giàu, mà có nghĩa
là gia đạo hưng thịnh lên, mọi người hoà hợp nhau, trên ra trên, dưới
ra dưới. 5. 九五: 王假有家, 勿恤, 吉. Cửu ngũ: Vương cách hữu gia, vật tuất, cát. Dịch: Hào 5 dương : vua (hoặc gia chủ) rất khéo về việc trị gia (cách là rất tốt không có gì phải lo, tốt. Giảng: Chữ vương ở đây có thể hiểu là vua trong nước hay gia chủ, nếu hiểu là vua thì “trị gia” phải hiểu là “trị quốc” Hào
này dương cương, đắc trung, đắc chính, lại có hào 2, âm ở dưới ứng với
mình, cũng trung, chính; như có người nội trợ hiền giúp đỡ mình, không
còn lo lắng gì nữa, tốt. 6. 上九: 有孚, 威如, 終吉. Thượng cửu: Hữu phu, uy như, chung cát. Dịch: Hào trên cùng, dương: (người trên) có lòng chí thành và thái độ uy nghiêm (không lờn) thì cuối cùng sẽ tốt. Giảng:
Hào này ở trên cùng quẻ Gia nhân, tức lúc gia đạo đã hoàn thành. Người
trên chỉ cần thành tín là người dưới tin, lại nghiêm trang thì đạo được
tốt đẹp lâu dài. * Quẻ này dạy cách tề gia, cần nhớ ba điều này: - Phải ngăn ngừa ngay từ lúc đầu. - Bất kỳ người nào trong nhà, nhất là những người trên, phải giữ chánh đạo, giữ bổn phận, trách nhiệm của mình. - Người chủ phải nghiêm, nếu nghiêm thì có điều hối hận đấy, nhưng còn hơn là quá dễ dãi. Chúng
ta để ý: sáu hào không có hào nào xấu; nhưng ba hào dưới thuộc về bước
đầu, có lời răn bảo (hào 1: phải phòng ngừa từ lúc đầu, hào 2: phải giữ
đạo chính ; hào 3: coi chừng nghiêm quá thì hối hận, nguy); tới hào 4
và 5; kết quả rất tốt, hào cuối chỉ cách giữ được sự tốt đẹp đó tới
cùng.
hết: 37. QUẺ PHONG HỎA GIA NHÂN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:29am
38.QUẺ HỎA TRẠCH KHUÊ
Trên là Ly (lửa), dưới là Đoài (chằm) ䷥
Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau,
cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia
lìa. Thoán từ 睽.小事吉. Khuê: Tiểu sự cát. Dịch: Chống đối: việc nhỏ thì tốt. Giảng:
đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc
lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau. Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt. Thoán
truyện giảng thêm: Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một
nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí
hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê. Tuy nhiên Ðoài có đức vui,
Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào
5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2,
dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt. Xét trong vũ
trụ, trời đất, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau, chia
lìa nhau, vậy mà công hoá dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái,
một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau. Vạn vật
tuy khác nhau mà việc sinh hào cùng theo một luật như nhau. Thế là
trong chỗ trái nhau vẫn có chỗ giống nhau, tìm ra được chỗ “đồng” đó
trong cái “dị”, là biết được cái diệu dụng (công dụng kỳ diệu) của quẻ
Khuê, của thời Khuê. Thoán truyện khuyên ta như vậy. Đại tượng
truyện ngược lại khuyên ta ở trong chỗ “đồng” có khi nên “dị”. Ví dụ
người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình
như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những
việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ
thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không
nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt. Hào từ” 1. 初九: 悔亡, 喪馬, 勿逐, 自復. 見惡人.无咎. Sơ cửu: Hối vong, táng mã, vật trục, tự phục kiến ác nhân, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương: hối hận tiêu hết; mất ngựa đừng tìm đuổi, tự nó sẽ về: gặp kẻ ác rồi mới tránh được lỗi. Giảng:
Hào này có tính cương , ở địa vị dưới, trong thời chống đối nhau, thì
tất ít kẻ hợp với mình, hành động thì sẽ bị hối hận; nhưng may ở trên
có hào 4 cũng dương cương , ứng với mình, tức như có bạn đồng chí, cứ
chờ đợi rồi sẽ gặp mà bao nhiêu khó khăn, ân hận sẽ tiêu hết. đối với
kẻ ác thì tuy không ưa cũng đừng nên tỏ ra, cứ làm bộ vui vẻ giao thiệp
họ, để họ khỏi thù oán. 2. 九二: 遇主于巷, 无咎. Cửu nhị: Ngộ chủ vu hạng, vô cữu. Dịch: Hào 2, dương: gặp chủ trong ngõ hẹp (do đường tắt) không có lỗi. Giảng:
Hào này dương cương đắc trung, ứng với hào 5, âm nhu đắc trung, nếu ở
trong quẻ Thái (thời thông thuận) thì rất tốt; nhưng ở trong quẻ Khuê
(thời chống đối nhau) thì kém vì hào 5 âm nhu có ý kiêng nể hào 2 dương
cương, do đó, 2 muốn gặp 5 thì phải dùng đường tắt, rình 5 trong ngõ
hẹp như tình cờ gặp nhau vậy. Không có lỗi gì cả, vì thái độ đó chỉ là
quyền biến thôi. 3. 六三: 見輿曳, 其牛掣; 其人天且劓.无初有終. Lục tam: Kiến dư duệ, kì ngưu xệ (hay xiệt); Kì nhân thiên thả nghị, vô sơ hữu chung. Dịch:
Hảo, âm: Thấy xe dắt tới, nhưng con bò bị (hào 4) cản, không tiến được;
như người bị xâm vào mặt, xẻo mũi, mới đầu cách trở, sau hòa hợp với
nhau. Giảng: Hào 3 bất chính (dương mà ở vị âm), ứng với hào trên
cùng cũng bất chính. Vì ứng với nhau nên cầu hợp với nhau, 3 muốn tiến
lên gặp hào ứng với nó, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, như cỗ xe đã
dắt tới rồi mà con bò bị cản, không tiến được. Lại thêm bị hào 2 ở dưới
níu kéo lại. Hào 3 phải chống lại 4 và 2, xô xát với chúng mà bị thương
ở mặt ở tai (chữ thiên [天 ] ở đây có nghĩa là bị tội xâm vào mặt, chữ
nghị [劓] có nghĩa là bị tội xẻo mũi). Nhưng rốt cuộc là (2 và 4) vẫn
không thắng được chính (3) và 3 vẫn hòa hợp được với hào trên cùng. 4. 九四: 睽孤, 遇元夫, 交孚, 厲无咎. Cửu tứ: Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu. Dịch:
Hào 4, dương: ở thời chia lìa chống đối mà cô lập; nếu gặp được người
trai tốt (nguyên phu), mà chí thành kết hợp với nhau (giao phu) thì dù
có gặp nguy, kết quả cũng không có lỗi. Giảng: hào 4 này cô lập vì là dương mà bị hai hào âm bao vây, người trai tốt đây là hào 1, cùng đức (dương) với 4. 5. 六五: 悔亡, 厥宗噬膚, 往, 何咎. Lục ngũ: hối vong, quyết tôn phệ phu, vãng, hà cữu. Dịch:
Hào 5 âm, hối hận tiêu hết; nếu người cùng phe với mình cắn vào da mình
(hết sức giúp đỡ mình) thì tiến đi, không có lỗi gì cả. Giảng: Hào
này không đắc chính (âm mà ở vị dương), ở vào thời chống đối, đáng lẽ
xấu, mà nhờ có đức trung, lại có hào 2 dương cương ứng với mình, nên
không xấu nữa, hối hận tiêu tan hết. Được vậy là nhờ hào 2 chịu đứng
vào một phe với mình, rất thân thiết với mình, như cắn chặt vào da
mình. 6. 上九: 睽孤, 見豕負塗, 載鬼一車.先張之弧, 後說之弧, 匪寇, 婚媾.往遇雨則吉. Thượng
cửu: Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ, hậu
thoát chi hồ, phỉ khấu, hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát. Dịch: Hào
trên cùng, dương: ở thời chia lìa mà cô độc (sinh nghi kỵ), thấy con
heo đội đầy bùn, thấy chở quỉ đầy một xe. Mới đầu giương cung để bắn,
sau buông cung xuống, xin lỗi rằng mình không muốn làm hại hào 3 mà
muốn cầu hôn. (Hai bên hòa hợp nhau, vui vẻ) như sau khi nắng lên, gặp
cơn mưa, tốt lành gì hơn? Giảng: Ở vào thời chia lìa, người ta hay
nghi kỵ nhau, hào cuối cùng này, dương cương ở địa vị tối cao, không
tin ai ở dưới cả, cho nên bị cô độc. Ngay hào 3 âm, chính ứng với mình
mà cũng bị mình nghi kỵ, vì 3 ở kẹt vào giữa 2 hào dương, cho rằng 3
theo phe 2 hào dương đó mà chống với mình. Vì nghi kỵ, nên thấy 3 như
con heo đội bùn, lại tưởng xe mình chở một bầy quỉ muốn hại mình. Do đó
mà đâm hoảng, giương cung muốn bắn 3, nhưng nhờ vẫn còn chút minh mẫn
(vì ở trên cùng ngoại quái Ly) nên sau nghĩ lại, buông cung xuống, xin
lỗi 3: “Tôi không phải là giặc (kẻ thù) muốn làm hại em đâu, mà trái
lại muốn cầu hôn với em” Hết nghị kỵ rồi, hai bên hòa hợp vui vẻ như
sau khi nắng lâu gặp trận mưa rào, và cùng giúp nhau cứu đời. Văn thật là bóng bẩy, tâm lý cũng đúng: Phan Bội Châu khen là “đạo lý rất tinh thâm mà văn tự cũng ly kỳ biến hoá”. * Quẻ
Khuê là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch nhưng kết quả lại không có gì xấu.
Sáu hào thì có ba hào “vô cửu”, một hào “hối vong” một hào “hữu chung”
(hòa hợp với nhau), nhất là hào cuối lại “cát nữa. Như vậy thì trong
cái hoạ vẫn có mầm phúc.
hết: 38.QUẺ HỎA TRẠCH KHUÊ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:30am
39. QUẺ THỦY SƠN KIỂN
Trên là Khảm (nước), dưới là Cấn (núi) ䷦
Ở thời chia lìa chống đối thì tất gặp nỗi gian nan, hiểm trở, cho nên sau quẻ Khuê tới quẻ Kiển (gian nan) Thoán từ; 蹇: 利西南, 不利東北, 利見大人, 貞吉. Kiển: Lợi Tây Nam, bất lợi đông Bắc, lợi kiến đại nhân, trinh cát. Dịch: Gian nan: đi về Tây nam thì lợi, về đông Bắc thì bật lợi. Gặp đại nhân giúp cho thì lợi; bền giữa đạo chính thì mới tốt. Giảng:
Trước mặt là sông (Khảm), sau lưng là núi(Cấn), tiến lui đều gian nan
hiểm trở nên gọi là quẻ Kiển. Phải bỏ đường hiểm trở mà kiếm đường bằng
phẳng dễ đi, ở hướng Tây Nam, hướng quẻ Khôn, đừng đi hướng đông Bắc,
hướng quẻ Cấn. Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu đúng từng chữ Tây Nam
và Đông Bắc, chỉ nên hiểu ý thôi. Ở thời gian nan này, phải nhờ có
người có tài, đức (đại nhân) giúp cho thì mới thoát nạn (lợi kiến đại
nhân), và phải bền giữ đạo chính. Đại tượng truyện khuyên phải tự xét mình mà luyện đức (phản thân tu đức). Hào từ: 1. 初六: 往蹇, 來譽. Sơ lục: vãng kiển, lai dự. Dịch: Hào 1, âm: tiến lên thì gặp nạn, lui lại (hoặc ngừng) thì được khen. Giảng: Vào đầu thời gian nan, hào 1 này âm nhu, không có tài, tiến lên hay hành động thì xấu, chỉ nên chờ thời. 2. 六二: 王臣蹇蹇, 匪躬之故. Lục nhị: Vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố. Dịch: Hào 2 âm: bậc bề tôi chịu gán hết gian nan này tới gian nan khác là vì vua, vì nước, chứ không phải vì mình. Giảng:
hào này cũng âm nhu, kém tài, nhưng đắc trung đắc chính, có đức, được
vua (hào 5, dương mà cũng trung chính) phó thác việc nước, nên phải
chống chỏi với mọi gian nan, không dám từ, mặc dầu tự biết không chắc
gì cứu nước, cứu dân được trong thời khó khăn này. Hoàn toàn không vì
mình, đáng khen. 3. 九三: 往蹇, 來反. Cửu tam: Vãng kiển, lai phản. Dịch: Hào 3, dương: Tiến tới thì mắc nạn, nên trở lại. Giảng:
hào này dương cương đắc chính, nhưng vẫn còn ở nội quái, tức chưa hết
nửa thời gian nan, lại thêm hào trên cũng âm nhu, ứng với nó mà không
giúp được gì, nên Hào từ khuyên đừng tiến, cứ quay lại với hào âm thì
vui vẻ hơn; bề gì cũng là bạn cũ rồi. 4. 六四: 往蹇, 來連. Lục tứ: Vãng kiển, lai liên. Dịch: Hào 4, âm: tiến tới thì mắc nạn, nên trở lại mà liên hiệp với các hào dưới. Giảng:
Hào này âm nhu, kém tài, đã tiến lên ngoại quái, quá nữa thời gian nan,
nhưng lại gặp hiểm trở (ngoại quái là Khảm) cũng không nên tiến lên, mà
nên lùi lại với hào 3, liên hợp với ba hào ở dưới, để thêm thế lực. 5. 九五: 大蹇, 朋來. Cửu ngũ: Đại kiển, bằng lai. Dịch: Hào 5, dương: cực kỳ gian nan, nhưng có bạn tới giúp. Giảng:
Ở giữa ngoại quái khảm (hiểm) cho nên cực kỳ gian nan. Hào này như ông
vua có tài, nhưng cũng khó thoát được hiểm. May có hào 2 đắc trung, đắc
chính ứng với mình, sẳn lòng dắt các bạn tức các hào 1, 3, 5 tới giúp
mình. Nhưng các hào ấy đều ít tài, trừ hào 3; như vậy là tay chân của 5
tầm thường cả, không làm nên việc lớn, nên Hào từ không khen là tốt.
Cũng không dùng chữ lai, không bảo nên lùi vì địa vị nguyên thủ của 5
không cho phép 5 lùi được, lùi thì trút trách nhiệm cho ai? 6. 上六: 往蹇, 來碩, 吉.利見大人. Thượng lục: Vãng kiển, lai thạc, cát, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào trên cùng ,âm; tiến tới thì gian nan, lùi lại thì làm được việc lớn, tốt; nên tìm gặp đại nhân thì có lợi. Giảng:
ở cuối thời gian nan, có cảnh tượng đáng mừng; hào này âm nhu, không
một mình mạo hiểm được nên quay lại giúp hào 5, bậc đại nhân (có tài
đức), thì lập được công lớn (thạc), tốt. * Gặp
thời gian nan, nên thận trọng đợi thời. Riêng vị nguyên thủ phải tìm
người tốt giúp mình, liên kết mọi tầng lớp để cùng mình chống đỡ.
hết: 39. QUẺ THỦY SƠN KIỂN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:32am
40. QUẺ LÔI THỦY GIẢI
Trên là Chấn (sấm), dưới là Khảm (nước) ䷧
Không thể bị nạn hoài được, thế nào cũng tới lúc giải nạn, vì vậy sau quẻ Kiển tới quẻ Giải. Giải là cởi, tan. Thoán từ 解: 利西南, 无所往, 其來復吉. 有攸往, 夙, 吉. Giải : Lợi Tây nam, vô sở vãng, kì lai phục, cát. Hữu du vãng, túc, cát. Dịch:
tan cởi: đi về Tây nam thì lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ thì
tốt. Nhưng cũng có điều đáng làm, làm cho chóng thì tốt. Giảng:
Tượng quẻ là âm dương giao hoà với nhau, sấm (Chấn) động và mưa (Khảm)
đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết, cho nên gọi là Giải. Cũng có thể
giảng: Hiểm (Khảm) sinh ra nạn, nhờ động (Chấn) mà thoát nạn nên gọi là
Giải. Khi mọi hoạn nạn đã tan rồi, thì dân chỉ mong an cư lạc
nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị (Tây Nam
thuộc Khôn là đường lối khoan đại, bình dị); đừng đa sự, cứ khôi phục
trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng phải trừ những tệ đã gây ra
những hoạn nạn trước kia, cũng phải sửa đổi cho sự bình trị được lâu
dài, công việc đó nên làm cho mau xong (vẫn là ý đừng đa sự) thì tốt. Đại
tượng truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm
lỗi trước, nếu không tha được thì cũng nên giảm án cho nhẹ đi (quân tử
dĩ xá quá, hựu tội). Hào từ. 1. 初六: 无咎. Sơ lục: Vô cữu. Dịch: Hào 1, âm: không lỗi. Giảng:
Mới bắt đầu vào thời cởi mở, hào này âm nhu, mà có dương cương (hào 4)
ở trên ứng, cứ lặng lẽ ở yên không sinh sự thì không có lỗi gì cả. 2. 九二: 田獲三狐, 得黃矢, 貞, 吉. Cửu nhị: Điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ, trinh, cát. Dịch: Hào 2, dương: Đi săn được ba con cáo, được mũi tên màu vàng, giữ đạo chính thì tốt. Giảng:
Không ai biết “ba con cáo” ám chỉ những hào nào, Chu Hi ngỡ là hào âm
1, 3 và trên cùng (trừ hào âm 5). Chỉ có thể đoán ý rằng: hào này dương
cương, ứng với hào 5 âm, vị nguyên thủ, cho nên thế khá mạnh, có trách
nhiệm với quốc gia trừ bọn tiểu nhân (ba con cáo), mà không mất mũi tên
màu vàng (tức đạo trung trực – vàng là màu của trung ương, mũi tên
tượng trưng cho việc ngay thẳng: trực). Hào từ khuyên phải giữ vững
(trinh) đạo trung đó thì mới tốt. 3. 六三: 負且乘, 致寇至.貞吝. Lục tam: Phụ thả thừa, trí khấu chí; trinh lận. Dịch:
Hào 3, âm: kẻ mang đội đồ vật mà lại ngồi xe là xui bọn cướp tới, nếu
cứ giữ cái thói đó (trinh ở đây nghĩa khác trinh ở hào trên ) thì phải
hối hận. Giảng: Hào này âm nhu, bất chính, bất trung mà ở trên
cùng nội quái, tức như kẻ tiểu nhân ở ngôi cao, không khác kẻ vừa mang
đội (người nghèo) mà lại ngất ngưởng ngồi xe (như một người sang
trọng), chỉ tổ xui cướp tới cướp đồ của mình thôi. Theo Hệ từ
thượng truyện, Chương VIII, Khổng tử bàn rộng ra như sau: ‘người thường
mà ngồi xe của người sang là xui kẻ cướp tới cướp đoạt của mình. Người
trên khinh nhờn kẻ dưới tàn bạo thì kẻ cướp (giặc) tìm cách đánh đuổi
ngay. Giấu cất không kín đáo là dạy cho bọn gian vào lấy của nhà mình;
trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn gian dâm tới hiếp mình”. 4. 九四: 解而拇, 朋至斯孚. Cửu tứ: Giải nhi mẫu, bằng chí tư phu. Dịch: Hào 4, dương: Bỏ ngón chân cái của anh đi (chữ nhi ở đây là đại danh từ) thì bạn (tốt) mới tới và tin cậy anh. Giảng:
Hào này là dương, tuy không chính (vì ở ngôi âm) nhưng ở gần hào 5, vị
nguyên thủ, là có địa vị cao. Nó ứng với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới,
nên bị nhiều người chê, nếu nó biết tuyệt giao với hào 1 (tượng trưng
bằng ngón chân cái, ở chỗ thấp nhất trong cơ thể) thì người tốt mới vui
tới mà tin cậy ở nó. 5. 六五: 君子維有解, 吉.有孚于小人. Lục ngũ: Quân tử duy hữu giải, cát; hữu phu vu tiểu nhân Dịch:
Hào 5, âm: người quân tử phải giải tán bọn tiểu nhân đi thì mới tốt; cứ
xem bọn tiểu nhân có lui đi không thì mới biết chắc được mình có quân
tử hay không. Giảng: hào này âm nhu, chưa chắc đã là quân tử,
nhưng ở địa vị chí tôn, làm chủ quẻ, cho nên Hào từ khuyên phải tuyệt
giao với bọn tiểu nhân (tức ba hào âm kia) thì mới tỏ rằng mình là quân
tử được. 6. 上六: 公用射隼于高墉之上.獲之, 无不利. Thượng lục: Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng. Hoạch chi, vô bất lợi. Dịch: Hào trên cùng, âm: Một vị công nhắm bắn con chim chuẩn ở trên bức tường cao. Bắn được, không gì là không lợi. Giảng:
đã tới lúc cuối cùng thời giải, nội loạn đã an rồi, nếu còn kẻ ở ngoài
dám gây loạn (tượng trưng là con chim chuẩn ở trên bức tường cao). Thì
cứ diệt đi, sẽ thành công. Vị “công” ở đây là hào trên cùng. Theo
Hệ từ hạ truyện, Khổng tử giải thích hào này như sau: “chuẩn là một
loài chim, cung tên là đồ dùng, kẻ bắn là người. Người quân tử chứa sẳn
đồ dùng (tài, đức) ở trong mình, đợi thời mà hoạt động thì có gì chẳng
lợi? * Ý nghĩa quẻ này ở trong Thoán
từ: dẹp loạn xong thì nên khoan hồng với kẻ lỡ lỗi lầm, đừng đa sự, chỉ
cần khôi phục trật tự cũ, và củng cố nó bằng một số công việc, nhưng
phải làm cho mau để khỏi phiền nhiễu dân. Hào 3 cũng có một lời
khuyên nên nhớ: giấu cất không kín đáo là dạy cho kẻ trộm vào lấy của
nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn tà dâm tới hiếp mình. (Mạn
tàng hối đạo, dã dung hối dâm).
hết: 40. QUẺ LÔI THỦY GIẢI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:49am
41. QUẺ SƠN TRẠCH TỔN
Trên là Cấn (núi), dưới là Đoài (chằm) ䷨
Khoan nới thì tất có điều sơ ý mà bị thiệt hại, cho nên sau quẻ Giải
tới quẻ Tổn. Tổn là thiệt hại mà cũng có nghĩa là giảm đi. Thoán từ: 損: 有孚, 元吉, 无咎, 可貞, 利有. 攸往.曷之用 ? 二簋可用享. Tổn: Hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu. Du vãng. Hạt chi dụng? Nhị quĩ khả dụng hưởng. Dịch:
Giảm đi: nếu chí thành thì rất tốt, không có lỗi, giữ vững được như vậy
thì làm việc gì cũng có lợi. Nên dùng cách nào? (ví dụ) dùng hai cái
bình (hay bát) đồ cúng thôi để dâng lên, cũng được. Giảng: Quẻ này
nguyên là quẻ Thái, bớt ở nội quái Càn hào dương thứ 3 đưa lên thêm vào
hào cuối cùng của quẻ Khôn ở trên, nên gọi là Tốn: bớt đi. Lại có
thể hiểu: khoét đất ở dưới (quẻ Đoài) đắp lên trên cao cho thành núi,
chằm càng sâu, núi càng cao, càng không vững phải đổ, nên gọi là Tổn
(thiệt hại). Giảm đi, không nhất định là tốt hay xấu. Còn tùy mình
có chí thành, không lầm lỡ thì mới tốt. Ví dụ việc cúng tế, cần lòng
chí thành trước hết, còn đồ cúng không quan trọng, dù đạm bạc mà tâm
thành thì cũng cảm được quỉ thần. Giảm đi như vậy để tiết kiệm, thì
không có lỗi. Thoán truyện giảng thêm: phải biết tùy thời; nếu
cương quá thì bớt cương đi nếu nhu quá thì bớt nhu đi, nếu vơi quá thì
nên làm cho bớt vơi đi, nếu văn sức quá thì bớt đi mà thêm phần chất
phác vào; chất phác quá thì thêm văn sức vào, dân nghèo mà bốc lột của
dân thêm vào cho vua quan là xấu; nhưng hạng dân giàu thì bắt họ đóng
góp thêm cho quốc gia là tốt; tóm lại phải tùy thời; hễ quá thì giảm đi
cho được vừa phải. Đại tượng truyện thường đứng về phương diện tu
thân, khuyên người quân tử nên giảm lòng giận và lòng dục đi ( quân tử
dĩ trừng phẫn, trất dục). Hào từ: 1. 初九: 已事遄往, 无咎, 酌損之. Sơ cửu: Dĩ sự thuyên vãng, vô cữu, chước tổn chi. Dịch:
Hào 1, dương: nghỉ việc của mình mà tiến lên gấp, giúp (cho hào 4) như
vậy thì không có lỗi, nhưng nên châm chước cái gì nên rút bớt của mình
để giúp cho 4 thì hãy rút. Giảng: hào 1 dương cương, ứng với hào 4
âm nhu ở trên, theo nghĩa thì nên giúp ích cho 4, nhưng cũng dừng nên
để thiệt hại cho mình quá; như vậy là cũng hợp chí với người trên ở
thời Tổn (rút bớt). 2. 九二: 利貞, 征凶, 弗損益之. Cửu nhị: lợi trinh, chính hung, phất tổn ích chi. Dịch:
Hào 2, dương: giữ đạo chính thì lợi, nếu vội tiến ngay (bỏ đức cương
trung của mình), để chiều bạn thì xấu; đừng làm tổn hại đức của mình
cũng là ích cho bạn đấy. Giảng : quẻ này có nghĩa tổn dương cương
(quẻ Càn ở dưới) để làm ích cho âm nhu (quẻ Khôn ở trên); cho nên hào
này là dương cương, nên giúp ích cho hào 5 âm nhu, cũng như hào 1 giúp
ích cho hào 4. Nhưng hào 5 bất chính (âm mà ở vị dương), hay đòi hỏi
những điều bất chính, nếu hào 2 bỏ đức cương và trung của mình đi mà
vội vàng chiều lòng 5 thì sẽ xấu; phải giữ đức cương trung đó mới lợi
(lợi trinh). Không làm tổn hại đức cương trung của mình, cũng là một
cách khuyên hào 5 phải bỏ tính bất chính đi, như vậy là giúp ích cho 5
đấy. 3. 六三: 三人行則損一人, 一人行則得其友. Lục tam: tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc đắc kì hữu. Dịch: Hào 3, âm: Ba người đi thì bớt một người, một người đi thì được thêm bạn. Giảng:
Theo tượng của quẻ, nội quái Càn có ba hào dương bớt đi một để đưa lên
trên; ngoại quái Khôn có ba hào âm, bớt đi một để đưa xuống dưới, thành
quẻ trùng tổn. Hào 3 dương đi lên, hào trên cùng âm xuống dưới, tương
đắc với nhau, thế là tuy tách ra, đi một mình mà hoá ra có bạn. Xét
trong vũ trụ thì một dương một âm là đủ, nếu thêm một âm hay một dương
nữa, thành ba thì thừa; mà nếu chỉ có một âm hay một dương thì thiếu,
phải thêm một dương hay một nữa mới đủ. Việc người cũng vậy, hai
người thành một cặp, thêm một người thì dễ sinh chuyện, mà nếu chỉ có
một người thôi thì lẻ loi quá, phải kiếm thêm bạn (coi Hệ từ hạ truyện,
Ch. V số 13). 4. 六四: 損其疾, 使遄, 有喜, 无咎. Lục tứ: tổn kì tật, sử thuyên, hữu hỉ, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: làm bớt cái tật (âm nhu) của mình cho mau hết, đáng mừng, không có lỗi. Giảng: Hào này có tật âm nhu, được hào 1 dương cương sửa tật đó cho mau hết, tốt. 5. 六五: 或益之十朋之龜, 弗克違, 元吉. Lục ngũ: Hoặc ích chi thập bằng chi quí, phất khắc vi, nguyên cát. Dịch: Hào 5, âm: thình lình có người làm ích cho mình, một con rùa lớn đáng giá mười “bằng”, không từ chối được, rất tốt. Giảng:
Hào này ở vị tối cao, nhu mà đắc trung, được hào 2 dương tận tình giúp
ích cho, như cho mình một con rùa rất lớn. Sở dĩ vậy là vì hào này, đắc
trung mà hiền (nhu) nên được lòng người, cũng như được trời giúp cho
vậy (tự thượng hữu chí – lời Tiểu tượng truyện). Chữ “bằng” mỗi
nhà hiểu một cách: có người cho hai con rùa là một bằng; có người cho
mười bằng là chu vị lớn tới 2.160 thước, có người bảo mỗi bằng là 10
“bối” [貝] (vỏ sò, ngao quí, hồi xưa dùng làm tiền, khi chưa có lụa,
đồng) 10 hằng tức là 100 bối. Không biết thuyết nào đúng. Chúng ta chỉ
nên hiểu con rùa 10 bằng là một vật rất quí thôi. 6. 上九: 弗損益之, 无咎.貞吉.利有攸往, 得臣无家. Thượng cửu: phất tổn ích chi, trinh cát. Lợi hữu du vãng, đắc thần vô gia . Dịch:
Hào trên cùng, dương: làm ích cho người mà chẳng tổn gì của mình, không
lỗi, chính đáng thì tốt, làm việc gì cũng vô lợi, vì được người qui
phu, chẳng phải chi nhà mình mới là nhà (ý nói đâu cũng là nhà mình, ai
cũng là người nhà mình) Giảng: Hào này tối nghĩa, mỗi sách giảng
một khác, chúng tôi châm chước theo Phan Bội Châu. Dương cương ở trên
cùng quẻ tổn, nên đem cái cương của mình giúp cho nhiều hào âm nhu,
chính đáng như vậy thì tốt, mà chẳng hại gì cho mình, vì mọi người sẽ
quí mến, qui phụ mình. Có người hiểu là đừng làm hại, mà làm ích cho
người thì tốt. Lẽ ấy dĩ nhiên rồi. * Đại
ý quẻ này là Tổn chưa chắc đã xấu, ích (tăng) chưa chắc đã tốt; còn tùy
việc tùy thời, hễ quá thì nên tổn để được vừa phải, thiếu thì nên ích,
và mình nên chịu thiệt hại cho mình mà giúp cho người .
hết: 41. QUẺ SƠN TRẠCH TỔN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:50am
42. QUẺ PHONG LÔI ÍCH
Trên là Tốn (gió), dưới là Chấn (sấm). ䷩
Tổn đến cùng rồi thì phải tăng lên, cho nên sau quẻ Tổn đến quẻ Ích. Ích là tăng lên, làm ích cho nhau. Thoán từ: 益: 利有攸往, 利涉大川. Ích: lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên. Dịch : Tăng lên: tiến lên thì lợi làm (làm việc ích) thì lợi, qua sông lớn thì lợi (có gian nan nguy hiểm gì cũng vượt được). Giảng:
Quẻ này trái với quẻ Tổn. Ngoại quái vốn là Càn, bớt một hào dương,
thành quẻ Tốn; nội quái vốn là quẻ Khôn, được một hào dương quẻ Càn
thêm vào, thành quẻ Chấn. Vậy là bớt ở trên thêm (ích) cho dưới; còn
quẻ Tốn là bớt ở dưới thêm cho trên. Xét về tượng quẻ thì sấm
(Chấn) với gió (Tốn) giúp ích cho nhau vì gió mạnh thì tiếng sấm đi xa,
mà sấm lớn thì gió mới dữ. Vì vậy gọi là quẻ Ích. Mình ở địa vị cao mà giúp cho người ở thấp, càng làm càng có lợi, khó khăn gì rồi kết quả cũng tốt. Thoán
truyện giải thích thêm: Xét hào 2 và hào 5, đều đắc trung đắc chính cả;
lấy đạo trung chính mà giúp ích cho dân, dân sẽ vui vẻ vô cùng mà đạo
càng sáng sủa. Nhưng quẻ này cũng như quẻ Tổn, tốt hay xấu còn tùy
cách thức làm và tùy thời nữa (ích chi đạo, dữ thời gia hành): dân đói
không có gạo ăn mà cưỡng bách giáo dục; dân rét không có áo bận mà cấp
cho xà bông thì việc giúp ích đó chỉ có hại. Đại tượng truyện đứng về phương diện tu thân, khuyên: Thấy điều thiện thì tập làm điều thiện. Thấy mình có lỗi thì sửa lỗi (kiến thiện tác thiện, hữu quá tắc cải). Hào từ: 1. 初九: 利用為大作, 元吉, 无咎. Sơ cửu: Lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu. Dịch:
Hào 1, dương: Lợi dụng (sự giúp đỡ của người) mà làm việc lớn; nhưng
phải khéo tính toán, hành động cho đúng, hoàn thiện (nguyên cát) thì
mới không có lỗi. Sở dĩ khuyên như vậy vì hào này ở địa vị thấp, không
nên lãnh việc nặng nề quá (hạ bất hậu sự dã, lời Tiểu Tượng truyện). 2. 六二: 或益之十朋之龜 弗克違, 永貞吉.王用享于帝, 吉. Lục nhị: Hoặc ích chi thập bằng chi qui, phất khắc vi, vĩnh trinh cát. Vương dụng hưởng vu đế, cát. Dịch:
Hào 2, âm: Thình lình có người giúp cho mình một con rùa lớn đáng giá
mười “bằng”, không từ chối được, rất tốt. Nếu là vua dùng đức để tế
Thượng Ðế, Thượng Đế cũng hưởng, mà được phúc, tốt. Giảng: Hào này
âm, nhu thuận, trung chính, nên được người trên giúp ích cho nhiều (như
cho mình một con rùa quí – coi hào 5 quẻ Tổn ở trên), không từ chối
được, cứ giữ vững đức trung chính thì tốt. Ví dụ: là nhà vua mà có được
đức trung chính để cầu Trời, thì Trời cũng giúp cho. 3. 六三: 益之用凶事, 无咎.有孚中行, 告公用圭. Lục tam: Ích chi dụng hung sự, vô cữu. Hữu phu trung hành, cáo công dụng khuê. Dịch:
Hào 3, âm: giúp ích cho bằng cách bắt chịu hoạn nạn (hay trừng phạt)
thì không có lỗi. Nếu chân thành sửa lỗi, giữ đạo trung (ví với ngọc
khuê) thì được người trên (ví với vị công) chấp nhận. Giảng: Hào
này âm nhu, bất trung, bất chính, đáng lẽ không được giúp ích, nhưng ở
vào thời ích thì cũng được giúp; có điều là giúp cho bằng cách bắt chịu
hoạn nạn (dụng hung sự) để mà mở mắt ra thành người tốt; cũng như trừng
trị để sửa lỗi cho vậy. Nhưng 3 phải thật chân thành sửa mình theo
đúng đạo trung thì rồi sự cải quá của nó sẽ được bề trên biết, sự chân
thành quá ấy như chiếc ngọc khuê (ngọc trắng mà trong) nó dâng lên bậc
“công” (vương công) sẽ được nhận. 4. 六四: 中行, 告公從.利用為依遷國. Lục tứ: Trung hành, cáo công tòng; lợi dụng vi y thiên quốc. Dịch:
Hào 4, âm: Rán theo đạo trung mà thưa với bậc “công” thì bậc “công” sẽ
theo; lợi dụng đạo trung đó làm chỗ tựa thì dù việc lớn như dời đô cũng
làm nỗi. Giảng: Hào này lên tới ngoại quái rồi, có địa vị cao,
trách nhiệm quan trọng, thân cận với vua, nhưng kém đức trung nên Hào
từ khuyên rán theo đạo trung mà cáo với bề trên (bậc vương công) thì bề
trên sẽ nghe mà có thể làm được việc như dời quốc đo. 5. 九五: 有孚, 惠心, 勿周, 元吉.有孚, 惠我德. Cửu ngũ: Hữu phu, huê tâm, vật vấn, nguyên cát. Hữu phu, huệ ngã đức. Dịch:
Hào 5, dương: có lòng chí thành làm ân đức, thì chẳng cần hỏi, cũng
biết là rất tốt rồi. Thiên hạ ai cũng tin vào đức ban ân huệ của 5. Giảng:
Hào này là ông vua có tài đức, vừa trung vừa chính, có lòng chí thành
ban ơn đức cho dân, cho nên rất tốt. Dân do đó rất tin vào đức của vua
(chữ ngã ở đây trỏ hào 5). 6. 上九: 莫益之或擊之.立心勿恆, 凶. Thượng cửu: Mạc ích chi hoặc kích chi. Lập tâm vật hằng, hung. Dịch:
Hào trên cùng, dương: Không ai làm ích cho mình mà có kẻ đả kích mình
nữa, là vì không giữ được hằng tâm (lòng luôn luôn tốt), xấu. Giảng:
Hào này dương cương, ở cuối quẻ ích, là có lòng cầu ích đến cùng cực,
tất bị nhiều người oán; như vậy chỉ vì không giữ được hằng tâm. Theo
Hệ từ hạ truyện, Chương V, Khổng tử áp dụng hào này vào phép xử thế,
khuyên người quân tử làm cho thân mình được yên ổn rồi sau mới hành
động; lòng mình được bình dị rồi sau mới thuyết phục người khác; làm
cho giao tình được bền rồi sau mới yêu cầu mà khỏi bị dân từ chối. Khổng tử hiểu “hằng tâm”: là như vậy chăng? * Quẻ
Tốn vốn xấu mà hào cuối lại tốt, được chữ “cát, lợi hữu du vãng” quẻ
Ích này vốn tốt mà hào cuối lại rất xấu, bị chê là “hung”. Cũng
chỉ là luật “mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích”, tràn thì cuối cùng sẽ đổ
(cuối quẻ Ích), vơi thì cuối cùng được thêm vào (cuối quẻ Tổn). Ðó là
luật thiên nhiên mà Nho, Lão, Dịch học phái đều coi là qui tắc xử thế.
hết: 42. QUẺ PHONG LÔI ÍCH,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:51am
43. QUẺ TRẠCH THIÊN QUẢI
Trên là Đoài (chằm), dưới là Càn (trời) ䷪
Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới
quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt. Thoán từ: 夬: 揚于王庭, 孚號. 有厲, 告自邑.不利即戎, 利有攸往. Quải: Dương vu vương đình, phu hiệu. Hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng. Dịch:
Quyết liệt: phải tuyên cáo tội ác của nó ở sân vua, lấy lòng chí thành
mà phát hiệu lệnh. Có điều như sợ đấy, phải tự răn phe mình đã, đừng
chuyên dùng võ lực, được như vậy thì sự nghiệp của mình càng tiến tới,
có lợi. Giảng: Chằm (Đoài) ở trên, trời (Càn) ở dưới, là nước chằm dân lên ngập trời, tất nhiên các đê ngăn nước phải nứt vỡ khắp nơi. Lại thêm 5 hào dương tiến lên, quyết tâm trừ một hào âm ở trên cùng. Vì hai lẽ đó mà quẻ này đặt tên là Quải. Quẻ
này thuộc về tháng 3, âm sắp tiêu hết, suy đến cực rồi. Tuy nhiên vẫn
phải đề phòng, phải tuyên bố tội ác của tội nhân trước công chúng, rồi
lấy lòng chí thành để ban lệnh. Mặc dầu vậy, vẫn có thể gặp nguy
được (cổ nhân thật dè dặt! ) cho nên phải răn phe mình đoàn kết, hành
động đàng hoàng, mà đừng nên chuyên dùng võ lực, vì ngoại quái là Đoài
có nghĩa là hoà thuận, vui vẻ. Bốn chữ “lợi hữu du vãng” có sách giảng
là “cứ như vậy – tức không dùng võ lực – mà tiến tới thì có lợi? Thoán
truyện giảng là: cứ tiến tới, đến khi trừ xong hào âm, chỉ còn toàn
quân tử, thì mới là hoàn thành (cương trưởng nãi chung dã). Đại tượng truyện khuyên nên ban phát lợi lộc cho dân, cũng do cái ý của ngoại quái là đoài: vui vẻ, thuận hoà. Hào từ: 初九: 壯于前趾, 往, 不勝為咎. Sơ cửu: Tráng vu tiên chỉ, vãng, bất thắng vi cữu. Dịch:
Hào 1, dương: mạnh (thăng ở ngón chân bước lên trước (tức hăng tiến lên
trước), tiến lên mà không chắc thắng được là có lỗi. Giảng: Hào
này dương cương, hăng lắm, ở địa vị thấp nhất, tài còn non mà muốn tiến
lên trước để diệt hào âm ở trên cùng, chưa chắc đã thắng mà cứ tiến lên
là có lỗi (vì không lượng sức mình, không chuẩn bị kỷ). 2. 九二: 惕, 號, 莫夜有戎, 勿恤. Cửu nhi: Dịch, hao, mạc dạ hữu nhung, vật tuất. Dịch: Hào 2, dương: lo lắng mà hô hào các bạn (đề phòng) như vậy dù đêm khuya giặc có tới cũng chẳng sợ. Giảng:
Hào này dương cương, quyết tâm diệt tiểu nhân, mà đắc trung là biết lo
lắng, đề phòng, cảnh cáo các bạn luôn luôn, khi vô sự mà như vậy thì
khi giặc tới thình lình nữa đêm, cũng chuẩn bị sẳn sàng rồi, nên không
sợ. 3. 九三: 壯于頄.有凶.君子夬夬.獨行遇雨, 若濡有慍, 无咎. Cửu tam: Tráng vu quì (cừu), hữu hung, quân tử quải quải, Độc hành ngộ vũ, nhược nhu hữu uẩn, vô cữu. Dịch:
Hào 3, dương: Cường bạo ở gò má (hiện trên mặt), có điều xấu. Người
quân tử cương quyết (bỏ tiểu nhân): trước kia đã lỡ đi riêng một đường
gặp mưa ướt và lấm, bị bạn bè giận, bây giờ cải quá, sẽ không có lỗi. Giảng:
Hào này là dương cương nhưng bất trung, lại ứng với hào âm (tiểu nhân),
thì kẻ tiểu nhân đó không ưa mà ngay các bạn quân tử của 3 cũng không
ưa, (vì cho là giả dối?), có điều xấu đấy – Câu đầu: “Tráng vu quì, hữu
hung” tối nghĩa, mỗi sách giảng một cách mà đều lúng túng. Hào từ
khuyên cứ thật cương quyết bỏ hào trên cùng đi, đánh đổ nó đi; trước
kia lỡ thân với nó mà xa các bạn, như một người đi riêng một đường, gặp
mưa, ướt và lấm (ý nói mắc tội lỗi), bị bạn bè giận, bây giờ hợp lực
với bạn, diệt xong hào âm đó rồi, sẽ rửa sạch được lỗi. 4. 九四: 臀无膚, 其行次且, 牽羊悔亡, 聞言不信. Cửu tứ: Đồn vô phu, kì hành tư thư, khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín. Dịch:
Hào 4, dương: Như bàn toạ mà không có da (có người cho là không hợp có
lớp thịt sau da), đi chập chững (khó khăn); chỉ nên đi sau người ta như
người lùa bầy cừu, thì hết ân hận; (nhưng e rằng) nghe (ta) nói mà
chẳng tin đâu. Giảng: Hào dương này bất trung bất chính, ở vào vị
âm, thấy mấy hào dương kia tiến nó không lẽ ngồi im, nhưng thiếu tài,
tiến chập chững (như người bàn toạ không có da), chỉ có cách tốt nhất
là nhường cho các hào dương kia tiến trước, nó đi sau cùng như người
lùa bầy cừu, như vậy không ân hận. Nhưng nó ở vị nhu, không sáng suốt, cho nên khuyên nó vậy mà không chắc nó đã nghe. 5. 九五: 莧陸, 夬夬, 中行, 无咎. Cửu ngũ: Nghiễn lục, quải quải, trung hành, vô cữu. Dịch:
Hào 5, dương (Hào trên cùng) như rau sam (được nhiều âm khí), nếu hào 5
cương quyết, đào tận gốc nó, cứ theo đạo trung mà đi thì không lỗi. Giảng:
Hào này ở gần hào trên cùng, gần tiểu nhân (âm, ví như rau sam), như
vậy không tốt; nhưng may nó là dương cương , đắc trung đắc chính, nên
không bịn rịn với hào trên cùng mà quyết tâm trừ đi. Hào từ khuyên phải
giữ đạo trung thì mới không có lỗi (vì 5 vốn có tư tình với hào trên) 6. 上六: 无號, 終 有凶. Thượng lục: vô hào, chung hữu hung. Dịch: Hào trên cùng, âm: Đừng kêu gào, không ai giúp đâu, cuối cùng sẽ bị hoạ. Giảng:
Hào âm ở trên cùng quẻ Quải, bị 5 hào dương tấn công, nguy cơ tới rồi,
không có hào nào giúp nó cả, cho nên khuyên nó đừng kêu gào vô ích,
cuối cùng sẽ chết thôi. * So sánh quẻ
Quải này với quẻ Phục chúng ta thấy dụng ý của cổ nhân. Quẻ Phục có 5
tiểu nhân kình với một quân tử trong số đó có một tiểu nhân (hào 4) làm
nội ứng cho quân tử cho nên được khen là một mình biết trở lại điều
phải. Quẻ Quải, trong số 5 quân tử đuổi một tiểu nhân, cũng có một quân
tử (hào 3) thân thiện với tiểu nhân, cho nên khuyên là phải cương quyết
tuyệt giao với tiểu nhân đi thì sẽ không có lỗi; còn hào 5 tuy không
chính ứng với tiểu nhân, nhưng vì là ngôi chí tôn, cầm đầu phe quân tử,
mà lại ở gần tiểu nhân (hào 6) cho nên cũng khuyên phải cương quyết
diệt tiểu nhân thì sẽ không có lỗi. “Dịch vị quân tử mưu” là vậy.
hết: 43. QUẺ TRẠCH THIÊN QUẢI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:53am
44. QUẺ THIÊN PHONG CẤU
Trên là Càn (trời), dưới là Tốn (gió) ䷫
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán
quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho
nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở). Thoán từ 姤: 女壯, 勿用取女. Cấu: Nữ tráng, vật dụng thú nữ. Dịch: Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó). Giảng: Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ). Quẻ
này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương
ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm
người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc
chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó. Thoán
truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử;
một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ
(gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ.
Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính , thế là đạo quân tử được
thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã).
Cho nên ý nghĩa chữ “Cấu” này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi
tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên
người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương,
như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời. Hào từ 1. 初六: 繫于金柅, 貞吉.有攸往見凶.羸豕孚蹢躅. Sơ lục: Hệ vu Kim nê, trinh cát; hữu du vãng kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục. Dịch:
Hào 1, âm: chặn nó lại bằng cái hãm xe bằng kim khí, thì đạo chính mới
tốt; nếu để cho nó (hào 1) tiến lên thì xấu. Con heo ấy tuy gầy yếu,
nhưng quyết chắc có ngày nó sẽ nhảy nhót lung tung. Giảng: Hào âm
(tiểu nhân) này mới xuất hiện, phải chặn ngay nó mới được, đừng cho nó
tiến lên thì đạo chính của người quân tử mới tốt; nếu để nó tiến lên
thì xấu. Vì bây giờ nó tuy còn non, yếu, nhưng một ngày kia nó sẽ mạnh,
nhảy nhót lung tung. Đừng nên coi thường nó. Đó là cách trừ kẻ tiểu nhân mà cũng là cách trừ những tật mới phát sinh. 2. 九二: 包有魚, 无咎.不利賓. Cửu nhị: Bao hữu ngư, vô cữu; bất lợi tân. Dịch: Hào 2, dương: nhốt con cá (hào 1) vào trong bọc, không có lỗi; nhưng đừng cho nó (hào 1) gặp khách. Giảng:
Hào 2 này tuy ở sát hào 1, nhưng có đức dương cương , lại đắc trung ,
cho nên chế ngự được 1, như nhốt lỏng nó trong cái bao (ví hào 2 với
con cá vì cá thuộc âm), như vậy không có tội lỗi. Nhưng 1 chính
ứng với hào 4; 4 muốn làm thân với 1 lắm, nó bất trung bất chính, không
có đức như 2, sẽ bị 1 mê hoặc mất, cho nên Hào từ khuyên hào 2 phải
ngăn không cho 1 gặp 4 (chữ tân là khách, trỏ hào 4). 3. 九三: 臀无膚, 其行次且, 厲, 无大咎. Cửu tam: Đồn vô phu, kì hành tư thư, lệ, vô đại cữu. Dịch:
Hào 3, dương: như bàn toạ không có da (ngồi không yên mà đứng dậy) đi
thì chập chững, có thể nguy đấy, nhưng không có lỗi lớn. Giảng:
Hào 3 này quá cương (dương ở vị dương) , bất trung, muốn có bạn là 1,
nhưng hào 2 đã là bạn của 1 rồi; ngó lên trên có hào trên cùng ứng với
3, nhưng cũng là dương như 3, thành thử có vẻ ngồi không an, mà đi thì
chập chững, có thể nguy đấy. Nhưng nó đắc chính (dương ở vị dương) nên
biết giữ đạo, không mắc lỗi lớn. 4. 九四: 包无魚, 起凶. Cửu tứ: Bao vô ngư, khởi hung. Dịch: Hào 4, dương: Trong bọc của mình không có cá, hoạ sẽ phát. Giảng:
Hào này ứng với 1, nhưng bị 2 ngăn không cho gặp (coi lại hào 2), 1 đã
như ở trong cái bọc của 2 rồi, cho nên cái bọc của 4 không có gì cả. Sở
dĩ vậy cũng do lỗi của 4, bất trung, bất chính, làm mất lòng 1. Người
trên mà mất lòng kẻ dưới, thì hoạ sẽ phát. 5. 九五: 以杞包瓜, 含章, 有隕自天. Cửu ngũ: Dĩ kỉ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên. Dịch: Hào 5, dương: dùng cây kỉ mà bao che cây dưa, ngậm chứa đức tốt, (sự tốt lành) từ trên trời rớt xuống. Giảng:
Hào này ở địa vị tối cao, dương cương , trung chính, có đức tốt mà
không khoe khoang (ngậm chứa đức tốt), bao bọc cho kẻ tiểu nhân ở dưới
(hào 1) như cây kỉ, cao, cành lá xum xuê che cây dưa (thuộc loài âm).
Như vậy là hợp đạo trời, sẽ được trời ban phúc cho. 6. 上九: 姤其角, 吝, 无咎. Thượng cửu: Cấu kì giác, lận, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: gặp bằng cái sừng, đáng hối tiếc, không đổ lỗi cho ai được. Giảng:
Hào này ở trên cùng, thời Cấu (gặp gỡ) cho nên ví với cặp sừng. Gặp
nhau mà bằng cặp sừng (đụng nhau bằng sừng) ý nói quá cương – đáng hối
tiếc. Mọi sách đều dịch “vô cữu” là không có lỗi mà không giảng tại sau
quá cương mà không có lỗi. Riêng Phan Bội Châu hiểu là: không đổ lỗi
cho ai được. * Quẻ Cấu này khuyên ta: - Phải chế ngự tiểu nhân (và tật của ta) từ khi nó mới xuất hiện hào 1). -
Muốn chế ngự tiểu nhân thì nên có độ lượng bao dụng có đức trung chính
như hào 2, hào 5); nếu quá cương (như hào 3) bất trung bất chính (như
hào 4) thì tiểu nhân sẽ không phục mình.
hết: 44. QUẺ THIÊN PHONG CẤU
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:54am
45. QUẺ TRẠCH ĐỊA TỤY
Trên là Đoài (chằm), dưới là Khôn (đất) ䷬
Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp) Thoán từ: 萃 : 亨, 王假有廟.利見大人.亨, 利貞.用大牲, 吉, 利有攸往. Tụy: hanh, vương cách hữu miếu. Lợi kiến đại nhân, Hanh, lợi trinh. Dụng đại sinh, cát, lợi hữu du vãng. Dịch:
Nhóm họp: hanh thông. Vua đến nhà Thái miếu, ra mắt kẻ đại nhân thì
lợi, hanh thông, giữ vững đạo chính thì lợi. Lễ vật (để cúng) lớn (hậu
hĩ) thì tốt, tiến đi (sự nghiệp) được lâu dài. Giảng: chằm (Đoài ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy. Nội
quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà
thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được
đông người, cho nên hanh thông, tốt. Nhóm họp cần long trọng và tỏ lòng chí thành, có thần linh chứng giám, cho nên vua tới nhà Thái miếu để dâng lễ, thề. Người
đứng ra nhóm họp một đảng phải là bậc đại nhân có tài, đức, được người
tin, trọng thì mới tốt; người đó phải giữ vững đạo chính, đường lối
chính đáng thì mới tốt (lợi trinh). Nhóm họp ở thái miếu thì tế lễ
phải long trọng, những con vật để cúng phải lớn, thì mới tốt. Nhóm họp
để cùng nhau mưu tính mọi việc cho sự nghiệp được lâu dài (lợi hữu du
vãng). Đại Tượng truyện khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà
thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự
biến bất ngờ xảy ra. Hào từ 1. 初六: 有孚, 不終, 乃亂乃萃.若號, 一握為笑勿恤, 往, 无咎. Sơ lục: hữu phu, bất chung, mãi loạn nãi tụy; Nhược hào, nhất ác vi tiếu vật tuất, vãng, vô cữu. Dịch:
Hào 1, âm: có người tin mình mà mình không thể đến cùng, rồi làm rối
loạn nhóm của mình; nên biết lầm mà kêu gọi người tin mình kia, dù có
bị một bầy (tiểu nhân) cười cũng mặc, cứ theo lên (vãng) với người tin
mình, thì không có lỗi. Giảng: Hào 1 này có chính là hào 4 dương
cương, tức là có bạn tin mình, nhưng 1 âm nhu, giữ đạo chính không được
vững (không theo 4 đến cùng) mà nhập bọn với 2, 3 đều là âm nhu tiểu
nhân, làm rối loạn nhóm của mình. Nếu có biết như là lầm mà kêu gọi 5,
theo 4, dù có bị 2, 3 cười cũng mặc, thì sẽ không có lỗi. 2. 六二: 引, 吉, 无咎, 孚, 乃利用禴 Lục nhị: Dẫn, cát, vô cữu, phu, nãi lợi dụng thược. Dịch
hào 2, âm: dẫn bên lên nhóm với hào 5 thì tốt, không có lỗi, phải chí
thành, chí thành thì như trong việc tế lễ, dùng lễ mọn cũng tốt. Giảng:
Hào này âm nhu nhưng trung chính, ứng với hào 5 dương cương trung chính
ở trên, là một nhóm rất tốt. Nhưng vì nó xen vài giữa hai hào âm 1 và
3, mà cách xa hào 5, nên Hào từ khuyên nó kéo hai hào âm đó lên nhóm
họp với 5, thì tốt, không có lỗi, và nhớ phải chí thành (phu) mới được,
chí thành thì như trong việc cúng tế, dùng lễ mọn (thược) cũng tốt) . 3. 六三: 萃如, 嗟如, 无攸利, 往, 无咎, 小吝. Lục tam: Tụy như, ta như, vô du lợi, vãng, vô cữu, tiểu lận. Dịch:
Hào 3, âm: Muốn họp mà không được nên than thở, chẳng có gì tốt cả;
tiến lên mà họp với hào thượng, tuy hơi bất mãn đấy, nhưng không có
lỗi. Giảng: Hào 3 này âm nhu, ứng với hào trên cùng, nhưng không
thích (vì hào này cũng âm nhu), muốn họp với 4 và 5 là dương kia, nhưng
4 có bạn là 1, 5 có bạn là 2 rồi, chê 3 là bất trung ,bất chính không
thèm; 3 nhìn xuống dưới, muốn họp với 2,1 cũng không được vì họ có bạn
là 5, 4 rồi; vì vậy 3 than thở, chẳng có gì tốt cả. Ðành phải tiến lên
mà họp với hào trên cùng vậy, bất như ý đấy, nhưng không có lỗi. 4. 九四: 大吉, 无咎. Cửu tứ: đại cát, vô cữu. Dịch: Hào 4, dương: nếu được rất tốt thì mới không có lỗi. Giảng:
Hào này dương cương, tốt, chỉ hiềm bất chính; nó thân với hào 5, dương
cương ở trên, mà lại gần với một bầy âm nhu ở dưới tình thế khó khăn,
phải làm sao thuyết phục được bầy âm theo 5, như vậy mới khỏi có lỗi. 5. 九五: 萃有位, 无咎, 匪孚元永貞, 悔亡. Cửu ngũ: tụy hữu vị, vô cữu, phi phu nguyên vĩnh trinh, hối vong. Dịch:
Hào 5, dương: Nhờ có vị cao mà nhóm họp được người, không có lỗi, nếu
người chưa tin mình thì phải giữ tư cách nguyên thủ, giữ người được
lâu, giữ đạo chính được bền, như vậy mới không hối hận. Giảng: Bốn
hào âm trong quẻ này đều muốn họp với hai hào dương, mà trong hai hào
dương này, hào 5 có địa vị cao nhất, đức lại thịnh hơn hào 4, đủ cả
trung, chính, cho nên các hào âm đều hướng vào (tụy hữu vị), tốt, không
có lỗi. Nhưng còn e có người vẫn chưa tin hẳn 5 (phỉ nhu); muốn cho mọi
người tin thì phải làm sao xứng đáng là vị nguyên thủ (nguyên), giữ
người được lâu (vĩnh) giữ đạo chính (trinh) được bền, như vậy sẽ không
hối hận. 6. 上六 : 齎咨, 涕洟, 无咎. Thượng lục: tế tư, thế di, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, âm: Than thở, sụt sùi, không trách lỗi ai được. Giảng:
Hào này âm nhu, kém tư cách, lại ở cuối thời nhóm họp (tụy) muốn họp
với ai cũng không được, tới nỗi than thở, sụt sùi, cứ an phận thì không
có lỗi. Phan Bội Châu hiểu “vô cữu” là không trách lỗi ai được, cũng
như hào trên cùng quẻ Cấu ở trên. *
Đại
ý quẻ này là muốn họp người, lập một đảng chẳng hạn thì phải là bậc đại
nhân: có địa vị cao, có tài, có đức, phải có lòng chí thành, một chủ
trương chính đáng.
hết: 45. QUẺ TRẠCH ĐỊA TỤY
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 2:58am
46. QUẺ ĐỊA PHONG THĂNG
Trên là Khôn (đất), dưới là tốn (gió) ䷭
Nhóm họp lại thì tất nhiên chồng chất mãi lên, cho nên sau quẻ tụy đến quẻ Thăng (lên). Thoán từ: 升: 元亨, 用見大人, 勿恤, 南征, 吉. Thăng: nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh, cát. Dịch: Lên: rất hanh thông, phải dùng người có tài đức (đại nhân), không có gì là lo ngại, cứ tiến về phía trước thì tốt. Giảng: Tốn là gió mà cũng là cây. Ở đây hiểu là cây. Cây mọc ở dưới đất, mỗi ngày mỗi đâm lên cao, cho nên gọi là quẻ Thăng. Cũng
có thể hiểu: Khốn vôn là âm nhu mà tiến lên ngoại quái là vì thời tiến
lên thì nên như vậy chứ bình thường thì dương mới thăng mà âm thì
giáng. Tốn có tính nhún, khôn có tính thuận; lại thêm hào 5 âm có đức
nhu và trung , ứng với hào 2 có đức dương cương, cho nên rất hanh
thông. Phải dùng người có tài đức (hào 2) thì mới không có gì lo ngại.
“Nam chinh” là tiến về phía trước mặt, chứ không có nghĩa là tiến về
phía Nam. Đại Tượng truyện khuyên xem quẻ này nên thuận đạo mà sửa đức, mỗi ngày một chút, lần lần sẽ rất cao (tích tiểu dĩ cao đại). Hào từ 1. 初六: 允升, 大吉 Sơ lục: Doãn thăng, đại cát. Dịch: Hào 1, âm : có lòng tin mà tiến lên, rất tốt. Giảng:
Hào này âm nhu, ở dưới cùng, làm chủ nội quái Tốn, là có đức khiêm tốn,
nhu thuận, theo sau hai hào dương (2 và 3) mà nhờ 2 hào đó dắt lên, rất
tốt. “Doãn” nghĩa là tin, 1 tin 2 và 3, mà 2 và 3 cũng tin 1. Tiểu
tượng truyện gọi như vậy là hợp chí nhau. 2. 九二: 孚, 乃利用禴, 无咎. Cửu nhị: Phu, nãi lợi dụng thược, vô cữu. Dịch: Hào 2, dương: tin nhau có lòng chí thành thì dùng lễ nhỏ cũng được, không có lỗi. Giảng:
Hào 2, này dương cương mà ở dưới, hào 5 âm nhu mà ở vị cao, hai bên
khác nhau như vậy mà ứng với nhau là rất tin nhau bằng lòng chí thành,
hợp tác với nhau làm nên sự nghiệp ở thời “Thăng”. Đã có lòng chí thành
thì lễ vật rất đơn sơ cũng được, không có lỗi. 3. 九三: 升, 虛邑. Cửu tam: Thăng, như ấp. Dịch: Hào 3, dương: lên dễ dàng như vào cái ấp không người . Giảng:
Hào này đắc chính, có tài, ở trên cùng nội quái là Tốn, có đức thuận
theo ba hào âm ở trên, được 3 hào dắt lên một một cách dễ dàng, như vào
một cái ấp không có ai ngăn cản, không có gì ngại cả. 4. 六四: 王用亨于岐山, 吉, 无咎. Lục tứ: Vương dụng hanh vu Kì sơn, cát, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: vua Văn Vương dùng đạo mà hanh thịnh ở núi Kì sơn, tốt, không có lỗi. Giảng:
Hào này nhu thuận, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, như vua một nước chư
hầu, giúp thiên tử, dắt các người hiền cùng tiến lên; đó là trường hợp
vua Văn Vương, một chư hầu dưới thời nhà Ân, lập nên sự nghiệp ở Kì
Sơn. 5. 六五, 貞吉, 升階. Lục ngũ: Trinh cát, thăng giai. Dịch: Hào 5, âm: giữ được đạo chính thì tốt, dễ dàng lên thềm. Giảng:
Hào này tuy âm nhu nhưng đắc trung, ở dưới có hào 2 là hiền thần giúp,
nên dễ dàng đắc chí, lên thềm cao một cách dễ dàng (lập được sự nghiệp)
6. 上六: 冥升, 利于不息之貞. Thượng lục: Minh thăng, lợi vu vật tức chi trinh. Dịch: Hào trên cùng, âm:Hôn ám cứ muốn lên hoài, nếu sửa đức cho hợp đạo chính, không bao giờ nghỉ thì có lợi. Giảng
: Hào này âm nhu, hôn ám, ở dưới thời “thăng”, đã lên đến cùng cực rồi
mà còn muốn lên nữa; nếu đổi lòng ham lên đó thành lòng tự cường , sửa
đức cho hợp đạo chính, không bao giờ nghỉ, thì lại tốt. *
Năm hào dưới đều tốt, chỉ có hào trên cùng là xấu vì quá tham, cứ muốn tiến lên hoài về danh lợi, địa vị.
hết: 46. QUẺ ĐỊA PHONG THĂNG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:32am
47. QUẺ TRẠCH THỦY KHỐN
Trên là Đoài (chằm), dưới là Khảm (nước) ䷮
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn. Thoán từ: 困: 亨, 貞, 大人吉, 无咎. 有言不信. Khốn: Hanh, Trinh, đại nhân cát, vô cữu. Hữu ngôn bất thân (chữ [nhân đứng kế ngôn 信] ở đây dùng như chữ [伸] Dịch
: Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không
lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình) Giảng:
Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử)
bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn. Lại thêm: nội
quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở
dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn. Một
cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong
chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng
Khốn. Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm
mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có
đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh
khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải
hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà
vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không
có lỗi. Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên
đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được
gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể “sát thân dĩ
thành nhân” thì lại khác. Hào từ: 1. 初六: 臀困于株木, 入于幽谷, 三歲不覿. Sơ lục: Đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch. Dịch: Hào 1, âm: Bàn toạ bị khốn ở gốc cây, lại sụp vào trong hang tối, ba năm không thấy ai. Giảng:
Hào này ở đầu quẻ Khốn, âm nhu, mê muội; hào 3 , dương ứng với nó, bất
trung bất chính không giúp gì được nó; như một người ngồi trên cây trụi
trồi gốc ra (ý nói ở hào đầu, thấp nhất), rồi lại sụp vào hang tối (hào
này âm, nhu mê muội) mà không thấy ai lại cứu (ai đây trỏ hào 4). 2. 九二: 困于酒食, 朱紱方來.利用享祀, 征凶, 无咎. Cửu nhị: Khốn vu tửu thực, chu phất lai. Lợi dụng hưởng tự, chinh hung, vô cữu. Dịch:
Hào này dương cương, đắc trung, đáng lẽ tốt, nhưng ở thời Khốn thì cũng
vẫn bị khốn vì ăn uống, do ơn vua lộc nước; được ở trên ứng hợp lại nhờ
giúp (ở đây tượng trưng bằng việc đem cái “phất” đỏ, một bộ phận lễ
phục để che đầu gối); nên đem lòng tinh thành để tế thần linh mà xử sự
trong thời khốn này; nếu cứ tiến hành thì không gặp thời xấu; giữ đạo
thì không có lỗi. 3. 六三: 困于石, 據于蒺蔾, 入于其宮, 不見其妻, 凶. Lục tam: Khốn vu thạch, cứ vu tật lê, nhập vu kì cung, bất kiến kì thê, hung. Dịch: Hào 3, âm: như người bị khốn vì đá, mà lại dựa vào cây tật lê, vô nhà thì không thấy vợ, xấu. Giảng:
Hào này bất trung ,bất chính, âm nhu ở vào thời khốn, ở trên cùng nội
quái là Khảm, tức ở cảnh cực hiểm, tấn thoái đều không được nên ví với
người bị đá dằn ở trên (tức hào 4) mà lại dựa vào một loại cây có gai
(tật lê – tức hào 2) , vô nhà lại không thấy vợ (tức hào trên cùng cũng
âm nhu, không giúp 3 được gì). Rất xấu. Theo Hệ từ truyện Chương v, Khổng tử thích nghĩa thêm như sau: “Không
phải chỗ đáng bị khốn mà mình bị khốn thì danh ắt bị nhục, không phải
chỗ đáng dựa mà mình dựa vào thì thân tất bị nguy; đã bị nhục lại bị
nguy thì sắp chết tơi nơi rồi, còn thấy sao được vợ nữa?” 4. 九四: 來徐徐, 困于金車, 吝, 有終. Cửu tứ: Lai từ từ, Khốn vu kim xa, lận, hữu chung. Dịch: Hào 4, dương : (Bạn mình) lại chậm vì bị cỗ xe bằng kim khí chặn (khốn) có điều ân hận, nhưng được trọn vẹn về sau. Giảng:
Hào này dương cương, nhưng bất trung, bất chính, ở vào Khốn, trong vào
hào 1 (ứng với nó) tới giúp; nhưng 1 không tới mau được vì bị hào 2
chặn ở giữa (hào 2 này ví với cỗ xe bằng kim khí, có lẽ vì 2 dương
cương, mà kim khí là chất cứng chăng cho nên có điều đáng ân hận, xấu
hổ; nhưng cuối cùng vẫn liên hợp được với I vì hai bên đều dốc lòng ứng
với nhau (4 là dương, 1 là âm) 5. 九五: 劓刖, 困于赤紱.乃徐有說, 利用祭祀. Cửu ngũ: tị nguyệt, khốn vu xích phất, Nãi từ hữu duyệt, lợi dụng tế tự. Dịch:
Hào 5, dương: Bị xẻo mũi, cắt chân, khốn vì cái “phất” đỏ; thủng thẳng
sẽ vui, nên dùng lòng chí thành lúc cúng tế (mà xử vào thời Khốn). Giảng:
Hào dương ở vị chí tôn, có tài đức, nhưng ở vào thời Khốn, người chung
quanh mình và ở dưới mìmh đều bị khốn cả, lại thêm hào trên cùng là âm
muốn dè ép quanh mình, hào 4 dương cương ở dưới tình làm hại mình, ngay
đến hào 2 đã đem cái “phất” đỏ cho nó, nhờ nó giúp, nó cũng chỉ làm cho
mình thêm khốn’ như vậy mình không khác gì kẻ bị thương ở mũi (xẻo
mũi), ở chân (cắt chân); nhưng 5 và 2 cùng có đức cương trung thì rồi
sẽ hợp với nhau, cứ chí thành thì sẽ hanh thông, vui. 6. 上六: 困于葛藟, 于臲卼.曰: 動悔, 有悔, 征吉. Thượng lục: Khốn vu cát lũy, vu niết ngột. Viết động hối, hữu hối, chinh cát. Dịch:
Hào trên cùng ,âm: Bị khốn vì dây sắn dây leo, khập khễnh, gập ghềnh;
tự hỏi rằng; hoạt động thì ân hận chăng? Biết suy nghĩ như vậy thì hành
động sẽ tốt. Giảng: Hào này ở cuối thời Khốn, như người bị buộc
chằng chịt trong đám dây sắn dây leo mà lại đi đứng trong chỗ khập
khễnh, gập ghềnh; nhưng khốn tới cùng cực rồi thì sẽ thông, cho nên nếu
thận trọng, biết ăn năn thì sẽ tốt. So sánh ba quẻ Truân, Kiển, Khốn. Quẻ
Truân là đầu thời khó khăn, còn có thể hành động chút ít để cứu vãn
thời thế được. Quẻ Kiển là giữa thời có khó khăn, nên chờ thời, không
làm gì hết, hoặc có vì bổn phận mà làm thì cũng khó có kết quả. Tới
Quẻ Khốn, thời khó khăn lên tới tột điểm, 5 hào xấu (Khốn, lận) chỉ có
hào cuối cùng mới tốt, đành phải chờ thời, giữ đức trung, chính, lòng
chí thành mới qua được cơn khốn.
hết: 47. QUẺ TRẠCH THỦY KHỐN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:39am
48. THỦY PHONG TỈNH
Trên là Khảm (nước), dưới là Tốn (gió) ䷯
Lên (Thăng) tới cùng thì bị khốn, mà té xuống dưới, cho nên sau quẻ Khốn tới quẻ Tỉnh (giếng, tức chỗ thấp hơn hết). Thoán từ: 井: 改邑不改井, 无喪无得, 往來井井.汔至, 亦未繘井, 羸其瓶, 凶. Tỉnh: Cải ấp bất cải tỉnh, vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh. Ngật chí, diệc vị duật tỉnh, luy kì bình, hung. Dịch:
giếng: đổi ấp chứ không đổi giếng, nước giếng không kiệt mà cũng không
thêm; người qua người lại để múc nước giếng. Gần đến nơi (đến giếng),
chưa kịp thòng dây gàu xuống mà bể cái bình đựng nước, thì xấu. Giảng:
Theo tượng quẻ, trên là nước (Khảm), dưới là gỗ (Tốn ở đây không hiểu
là gió mà hiểu là cây, là đồ bằng gỗ - trỏ cái gàu), có nghĩa là thòng
cái gàu xuống nước để múc lên. Theo hình của quẻ: dưới cùng là một
âm, như mạch nước, rồi tiến lên là hai hào dương, như lớp đất ở đáy
giếng; tiến lên nữa là hào âm, tức nước giếng, lòng giếng: trên nữa là
một vạch liền, tức cái nấp giếng, trên cùng là một vạch đứt, tức miệng
giếng. Đại tượng truyện giảng một cách khác: nước (Khảm) ở trên
cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây,
cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh. Bản
thể của cái giếng là ở đâu thì ở đấy, ấp còn có khi thay đổi, chứ giếng
thì cố định; có nước mạch chảy vô giếng hoài, nên nước giếng không
kiệt, nhưng nước giếng chỉ lên tới một mực nào đó, không khi nào tràn
ra. Công dụng của giếng là ai cũng lại giếng để lấy nước (tỉnh tỉnh:
chữ tỉnh trên là động từ, chữ tỉnh dưới là danh từ), kẻ qua người lại
thường, người nào cũng nhờ nó mà có nước, nó giúp đỡ mọi người mà như
vô tâm. Nói về nhân sự thì người đi lấy nước, đã gần tới rồi, chưa
kịp thòng dây gàu (duật) xuống, mà đánh vỡ cái bình đựng nước thì thật
uổng công; vậy làm việc gì cũng phải cẩn thận, đến nơi đến chốn để khỏi
thất bại nửa chừng. Thoán truyện bảo giếng ở đâu ở đấy, không thay đổi như ấp, vậy là có đức cương trung của hào 2 và hào 5. Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau. Hào từ: 1. 初六: 井泥不食.舊井无禽. Sơ lục: tỉnh nê, bất thực, cựu tỉnh vô cầm. Dịch: Hào 1, âm: Giếng lầy bùn, không ai lại lấy nước; không có con vật nào lại một giếng cũ. Giảng:
Hào 1 âm nhu, ở địa vị thấp nhất, hào 4 ở trên cũng không giúp gì nó,
chính là hạng người vô dụng, bất tài, nên ví như cái giếng không có
mạch, bị bùn, không ai lại lấy nước, chim muông cũng không tới. 2. 九二: 井谷, 射鮒, 甕敝漏. Cửu nhị: Tỉnh cốc, xạ phụ, ủng tệ lậu. Dịch:
Hào 2, dương: giếng ở trong hang (có người hiểu là giếng có cái hang),
nước chỉ lách tách ít giọt bắn vào con giếc, như cái chum nứt, nước dỉ
ra. Giảng: Hào này dương cương, có tài hơn hào 1, nhưng địa vị
cũng thấp, trên cũng không có người ứng viện cho, nên cũng không làm
nổi việc đời, ví như cái giếng nước tuy trong, nhưng nước mạch ít, chỉ
dỉ ra đủ nuôi con giếc, chứ không có người tới múc. Hào này khác hào 1
ở chỗ 1 vì bất tài mà vô dụng, hào này vì hoàn cảnh mà hoá vô dụng. 3. 九三: 井渫不食, 為我心惻.可用汲. 王明, 並受其福. Cửu tam: tỉnh tiết bất thực, vi ngã tâm trắc. Khả dụng cấp; vương minh, tịnh thụ kì phúc. Dịch:
Hào 3, dương: giếng trong mà chẳng ăn, để lòng ta thương xót, có thể
dùng mà múc lên được; gặp ông vua sáng suốt thì mọi người đều được
phúc. Giảng: Hào dương này đắc chính, là người có tài, muốn giúp
đời, nhưng địa vị còn ở thấp (nội quái), không được dùng, ví như cái
giếng nước trong mà không ai múc. Nếu được ông vua sáng suốt dùng, thì
người đó sẽ giúp cho mọi người được nhờ. 4. 六四: 井甃, 无咎. Lục tứ: Tỉnh trứu, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Giếng mà thành và đáy xếp đá, không có lỗi. Giảng:
Hào này âm nhu, tài tầm thường, nhưng đắc chính, ở gần hào 5 chí tôn,
nên nhờ 5 mà làm được việc nhỏ, không có lỗi, ví như cái giếng mạch
không nhiều, nhưng xếp đá ở thành và đáy, thì nước mạch thấm vào, lóng
lại, cũng tạm dùng được. 5. 九五: 井洌, 寒泉食. Cửu ngũ: Tỉnh liệt, hàn tuyền thực. Dịch: Hào 5, dương: Nước giếng trong, lạnh, múc lên ăn được. Giảng:
Hào nay dương cương, đắc trung, ở ngôi chí tôn, có ân trạch với dân
chúng, nên ví với nước giếng vừa trong, vừa mát, lại múc lên được. 6. 上六: 井收, 勿幕, 有孚, 元吉. Thượng lục: Tỉnh thu, vật mạc, hữu phu, nguyên cát. Dịch: Hào trên cùng, âm: Nước giếng múc lên rồi, đừng che đậy, cứ mãi mãi như vậy, không thay đổi thì rất tốt. Giảng:
Hào trên cùng này tuy là âm nhu, nhưng ở cuối cùng quẻ Tỉnh, nó có cái
tượng nước giếng đã múc lên rồi, nên để cho mọi người dùng, chứ đừng
che đậy, và cứ như vậy giúp đời mãi thì không gì tốt bằng. * Chúng ta để ý, quẻ Tỉnh này có điểm đặc biệt là các hào càng lên cao càng tốt, tốt nhất là hào trên cùng. Thường
các quẻ khác, hào trên cùng có nghĩa là cùng cực: hễ là quẻ tốt như quẻ
Càn, quẻ thái thì hào trên cùng xấu; nếu là quẻ xấu như quẻ Bĩ, quẻ
khốn thì hào trên cùng tốt, vì luật: cực thì phải biến, tốt biến ra
xấu, xấu biến thành tốt. quẻ Tỉnh này với quẻ Đỉnh (và một số quẻ nữa
như quẻ Tiêm . . .), hào trên cùng không có nghĩa cùng cực, mà có nghĩa
là lúc cuối (chung), lúc nước đã múc lên (Tỉnh) hoặc thức ăn đã chính
(đỉnh), tức là lúc thành công, cho nên đều tốt cả.
hết: 48. THỦY PHONG TỈNH
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:40am
49. QUẺ TRẠCH HỎA CÁCH
Trên là Đoài (chằm), dưới là Ly (lửa) ䷰
Nước
giếng tích trữ lâu ngày, bụi cát và các vật dơ mỗi ngày mỗi nhiều,
không còn trong sạch nữa, phải tát hết nước cũ để nước mạch mới chảy
vào thay, cho nên sau quẻ Tỉnh tới quẻ Cách. Cách nghĩa là thay đổi,
như trong từ ngữ cải cách, biến cách, cách mạng. Thoán từ. 革: 已日乃孚, 元亨 利貞.悔亡. Cách: Dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh. Hối vong. Dịch:
Thay đổi: Phải lâu ngày người ta mới tin được; phải rất hanh thông, hợp
chính đạo (thì người ta mới phục). Ðược vậy thì không phải ăn năn. Giảng:
Theo tượng quẻ, chằm (Đoài) ở trên, lửa (Ly) ở dưới; lửa đốt thì nước
cạn, nước xối vào thì lửa tắt; hai thứ đo tranh nhau thì có sự thay
đổi, cho nên gọi là quẻ Cách. Lại có thể giảng: Đoài là con gái
út, Ly là con gái giữa, họ có xu hướng khác nhau (con gái út nghĩ tới
cha mẹ, con gái giữa nghĩ tới chồng), phải có sự thay đổi, không thể
như vậy mà ở chung với nhau được. Thay cũ đổi mới là một việc khó,
ngược với thói quen thủ cựu của con người, cho nên mới đầu người ta
không tin, cho là đa sự. Muốn cho người ta tin thì phải một thời gian
lâu để người ta thấy kết quả. Mà muốn có kết quả, sự cải cách phải
hợp thời hợp chính đạo, phải sáng suốt, soi xét rạch ròi và có tính hoà
duyệt thoả thuận với lòng người (văn minh dĩ duyệt: lời thoán truyện),
có vậy mới đắc nhân tâm mà người ta không phản kháng. Sáng suốt là đức
của nội quái Ly, hoà duyệt là đức của ngoại quái Đoài. Có đủ những điều
kiện đó: hợp thời, hợp chính đạo (tức là thích đáng, chính đáng) sáng
suốt và hoà duyệt thì không phải ăn năn. Vua Thang diệt Kiệt, vua
Võ diệt Trụ, hai cuộc cách mạng đó đều thuận với đạo Trời (chính đạo)
và ứng với lòng người (hợp thời, hợp nguyện vọng nhân dân) cho nên
thành công. Trời đất phải thay đổi mới có mùa, mà vạn vật mới sinh sinh
hoá hoá, việc đời lâu lâu cũng phải cải cách, để trừ những tệ hại cũ mà
thích hợp với hoàn cảnh mới. Hào từ. 1. 初九: 鞏用黃牛之革. Sơ cửu: củng dụng hoàng ngưu chi cách. Dịch: Hào 1, dương: bó chặt bằng da con bò vàng. Giảng:
người nào muốn làm việc cải cách lớn thì phải có thời (hợp thời), có
địa vị có tài. Hào 1 này mới ở vào buổi đầu của thời Cách (thay đổi),
còn lỡ dở, thế là chưa có thời, địa vị lại thấp, tuy dương cương nhưng
bất trung thế là tài đức còn kém, trên không có người ứng viện (hào 4
cũng là dương); làm việc cải cách tất hỏng; chỉ nên giữ vững (bó chặt
bằng) đạo trung (tượng trưng bằng màu vàng); thuận (đức của loài bò),
thì mới khỏi bị lỗi. 2. 六二: 已日乃革之, 征吉, 无咎. Lục nhị: Dĩ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: chuẩn bị lâu ngày rồi cải cách, tiến đi thì tốt, không lỗi. Giảng:
Hào này nhu thuận, đắc trung đắc chính, ở giữa nội quái Ly là sáng
suốt, ở trên có hào 5 dương cương, trung chính, vị cao, ứng viện cho,
đủ tư các, hoàn cảnh thuận tiện để cải cách (vì vị 2 này là cơ hội cải
cách đã tới) cho nên cứ việc mà đi miễn là chuẩn bị cho kỹ, để cho
người trên kẻ dưới đều tin mình. 3. 九三: 征凶, 貞厲, 革言三就, 有孚. Cửu tam: chính hung, trinh lệ, cách ngôn tam tựu, hữu phu. Dịch:
hảo, dương: hăng hái tiến liều thì xấu, bền vững giữ đạo và thận trọng
lo lắng, tính toán sắp đặt kế hoạch tới 3 lần thì kết quả mới chắc
chắn. Giảng: Hào này dương cương , bất trung, có tính nóng nảy,
muốn làm liều, hăng hái tiến tới, hỏngviệc (chinh hung). Phải giữ vững
(trinh) đạo chính, thận trọng, lo lắng(lệ); phải sắp đặt, tính toán kế
hoạch đến 3 lần, chắc không có gì khuyết điểm, thì kết quả mới chắc
chắn (phu ở đây nghĩa là chắc chắn). 4. 九四: 悔亡, 有孚, 改命, 吉. Cửu tứ: Hối vong, hữu phu, cải mệnh, cát. Dịch: Hào 4, dương: Hối hận tiêu hết, có lòng chí thành, trên dưới đều tin theo, đổi mệnh (cải cách lớn) được, tốt. Giảng:
Hào này dương ở vị âm, đáng lẽ có điều ăn năn, nhưng ở vào thời cải
cách, không nên cương quá, cho nên tính cương mà vị nhu, vừa cương vừa
nhu là tốt, không phải ân hận. Nếu có đủ lòng chí thành khiến người
trên kẻ dưới đều tin mình, thì cứ việc tiến hành việc cách mệnh, tốt. 5. 九五: 大人, 虎變.未占有孚. Cửu ngũ: Đại nhân, hổ biến; vị chiêm hữu phu. Dịch: Hào 5 dương: Bậc đại nhân làm cho xã hội thay đổi như con hổ thay lông (mướt, đẹp hơn) chưa bói cũng đã tin như vậy rồi. Giảng:
Hào này có đủ cả thời (công cuộc cải cách đã được tám chín phần mười
rồi, vị ở ngôi chí tôn), tài đức (dương cương, trung chính, đúng là một
đại nhân) cho nên thành công mỹ mãn, làm cho xã hội thay đổi, tốt đẹp,
mới mẻ lên như con hổ thay lông, dân chúng sẳn lòng in như vậy từ khi
chưa bói. 6. 上六: 君子豹變, 小人革面. 征凶, 居貞, 吉. Thượng lục: Quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện. Chính hung, cư trinh, cát. Dịch:
Người quân tử (thực hiểu và theo sự cải cách như) con báo thay lông; kẻ
tiểu nhân miễn cưỡng theo ngoài mặt. Công việc cải cách đến đây đã
xong, nên ngừng lại, tiến nữa thì xấu, cứ giữ vững chính đạo thì tốt. Giảng:
Hào này ở cuối cùng thời cách, công việc cải cách đã xong. Kết quả là
hạng người từ bậc trung trở lên, sáng suốt (quân tử) thực tâm tự thay
cũ mà theo mới, còn người tư cách thấm kém (tiểu nhân) chỉ thay đổi bề
ngoài thôi. Như vậy là kết quả tốt đẹp rồi, đừng cải cách hoài nữa mà
sinh hậu hoạn, nên giữ chính đạo. Phan Bội Châu chê Nã phá Luân
khi lật nền quân chủ của Pháp, khai quốc hội, lập hiến pháp rồi, không
chịu ngừng lại, còn xưng đế, rồi muốn chinh phục Châu Âu nữa, kết quả
thân bị đày, danh bị hủy. * Sáu hào quẻ này diễn đúng những giai đoạn từ bước đầu khó khăn đến lúc cải cách thành công. Phải
có đủ những điều kiện: hợp thời, hợp đạo, có địa vị, có tài đức, sáng
suốt rất thận trọng (tính toán, sắp đặt kế hoạch kỹ lưỡng ba lần), có
lòng chí thành, tính hoà duyệt, được nhiều người tin thì làm công việc
cải cách lớn mới được. Cần nhất là được lòng tin, chí công vô tư.
hết: 49. QUẺ TRẠCH HỎA CÁCH
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:42am
50. QUẺ HỎA PHONG ĐỈNH
Trên là Ly (lửa), dưới là Tốn (gió) ䷱
Cách là biến đổi, có công dụng “cách vật” (biến đổi các vật ) dễ thấy
nhất là cái đỉnh (vạc) vì nó dùng để nấu ăn, biến đồ sống thành đồ
chín; cho nên sau quẻ Cách tới quẻ Ðỉnh. Thoán từ: 鼎: 元吉, 亨. Ðỉnh: Nguyên cát, hanh. Dịch: Vạc (nấu ăn): rất tốt, hanh thông. Giảng:
Nhìn hình của quẻ , ta thấy vạch đứt ở dưới cùng như cái chân vạc, ba
vạch liền ở trên như cái thân vạc trong chứa thức ăn, vạch đứt ở trên
nữa như hai tai vạc vạch liền ở trên cùng là cái đòn để khiêng vạc, vì
vậy gọi là quẻ đỉnh. Theo nghĩa thì nội quái Tốn là cây, gỗ (ở đây
không nên hiểu tốn là gió), ngoại quái Ly là lửa; đút cây vào lửa để
đốt mà nấu thức ăn. Ở trên đã xét quẻ Tỉnh, về việc uống; ở đây là
quẻ Đỉnh, về việc ăn. Cổ nhân trong việc nấu nướng, trước hết để tế
Thượng đế, rồi để nuôi bậc thánh hiền. Tế Thượng đế thì cốt thành tâm,
nuôi thánh hiền thì cốt trọng hậu. Đó là ý nghĩa câu trong Thoán
truyện. “thánh nhân phanh (chữ ở đây đọc là phanh như chữ dĩ hưởng
Thượng đế, nhi đại phanh (đại ở đây là trọng hậu dưỡng thánh hiền”. Vì
vậy quẻ Ðỉnh có cái nghĩa rất tốt. Quẻ Ly có đức thông minh, sáng
suốt; quẻ Tốn có đức vui thuận; hào 5, âm nhu mà được ngôi chí tôn, đắc
trung, ứng với hào 2 dương cương ở dưới ; vậy quẻ Đỉnh có đủ những đức
sáng suốt, vui thuận, đắc trung, cương (hào 2) nhu (hào 5) ứng viện
nhau để làm việc đời, thì có việc gì mà không hanh thông? Hào từ: 1. 初六: 鼎顛趾, 利出否, 得妾, 以其子, 无咎. Sơ lục: Đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ, đắc thiếp, dĩ kì tử, vô cữu Dịch:
Hào 1, âm :Vạc chống chân lên, trút những đồ dơ bụi bặm (bĩ) ra thì
lợi; (ngẫu nhiên gặp may) như gặp được người thiếp để sinh con cho
mình, không lỗi. Giảng: Hào này là cái chân vạc, âm nhu mà ứng với
hào 4 dương cương ở trên có cái tượng chống chân lên trên, tuy xấu,
nhưng vì vạc chưa đựng thức ăn, chưa đặt lên bếp thì nhân nó chống chân
lên mà trút hết các dơ bẩn ra, rốt cuộc hoá tốt; ngẫu nhiên gặp may như
người đàn ông có vợ rồi, gặp một người thiếp thấp hèn nhưng sinh con
cho mình, không có lỗi. 2. 九二: 鼎有實, 我仇有疾, 不我能即, 吉. Cửu nhị: Đỉnh hữu thực, ngã cửu hữu tật, bất ngã năng tức, cát. Dịch: Hào 2, dương: Vạc chứa thức ăn rồi; kẻ thù oán ta vì ghen tuông, nhưng không tới gần ta được. tốt. Giảng:
Hào này dương cương ở vị trung, hữu dụng rồi như cái vạc đã chứa thức
ăn. Vì nó thân với hào 5 ở trên, mà không để ý đến hào 1 âm ở sát nó,
nên nó bị 1 ghen tương mà oán nó. Nhưng nó quân tử, ứng với hào 5, nên
1 không tới gần mà hãm hại được nó. Nên cẩn thận thôi, vẫn là tốt. 3. 九三: 鼎耳革, 其行塞, 雉膏不食.方雨, 虧悔, 終吉. Cửu tam: Đỉnh nhĩ cách, kì hành tắc, trĩ cao bất thực; phương vũ, khuy hối, chung cát. Dịch:
Hào 3, dương: như cái tai vạc dương thay đổi, chưa cất vạc lên được,
thành thử mỡ chim trĩ (mỡ ngon) chưa đem ra cho người ta ăn; nhưng sắp
mưa rồi, không còn ăn năn nữa, kết quả sẽ tốt. Giảng: Hào này ở
giữa lòng vạc, dương cương, là hạng người tốt, có hào trên cùng ứng với
nó, nhưng bị hào 5 ngăn cách (cũng như cái tai vạc hào 5 còn dương sửa,
chưa cất vạc lên được) thành thử chưa đắc dụng, cũng như món ăn (hào 3)
chưa đem ra cho người ta ăn được. Nhưng 3 có tài, lại chính đáng (dương
ở vị dương) thì chẳng bao lâu 5 vả sẽ hợp nhau, âm(5) dương (3) giao
hào, tượng như trời sắp mưa, không còn gì ân hận nữa; lúc đó 3 sẽ đắc
dụng, kết quả sẽ tốt. 4. 九四: 鼎折足, 覆公餗其形渥, 凶. Cửu tứ: Đỉnh chiết túc, phúc công tốc (túc) kì hình ốc, hung. Dịch: Hào 4, dương: Chân vạc gẫy, đánh đổ thức ăn của nhà công hầu, mà bị hình phạt nặng, xấu. Giảng:
Hào này ở vị cao, gần ngôi chí tôn, vậy là có trách nhiệm lớn, nhưng
ứng hợp với 1, âm nhu ở dưới, nên không gánh nỗi trách nhiệm, như cái
vạc gẩy chân, đánh đổ thức ăn, mà bị tội. Theo Hệ từ hạ truyên
Chương v, Khổng tử cho rằng hào này cảnh cáo những kẻ đức mỏng mà ngôi
tôn, trí nhỏ mà mưu lớn, sức yếu mà gánh nặng. 5. 六五: 鼎黃耳, 金鉉, 利貞. Lục ngũ: Đỉnh hoàng nhĩ, kim huyễn, lợi trinh. Dịch: Hào 5, âm: Vạc có tai màu vàng, có đòn xâu bằng kim khí; giữ được đạo chính thì bền. Giảng:
Hào này là cái quai vạc, đắc trung cho nên tượng bằng màu vàng; ở trên
nó là hào dương cương, tượng bằng cái đòn xâu bằng kim khí (chất cứng),
vậy là người có tài, đức, chỉ cần giữ được đạo chính thôi. 6. 上九: 鼎玉鉉, 大吉, 无不利. Thượng cửu: Đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi. Dịch: Hào trên cùng dương: vạc có cái đòn xâu bằng ngọc rất tốt, không gì là không lợi. Giảng:
Hào trên cùng này là cái đòn để xâu vào tai vạc mà khiêng; nó dương
cương mà ở vị âm (chẳn), vừa cương vừa nhu, nên ví nó với chất ngọc vừa
cứng vừa ôn nhuận. Ở cuối thời Đỉnh, như vậy là rất tốt. * Quẻ này cũng như quẻ Tỉnh, hào trên cùng tốt nhất vì tới lúc thành công.
hết: 50. QUẺ HỎA PHONG ĐỈNH
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:58am
51. QUẺ THUẦN CHẤN
Trên dưới đều là Chấn (sấm, động). ䷲
Vạc là một đồ dùng quan trọng trong nhà, làm chủ giữ nó, không ai bằng
con trai trưởng, cho nên sau quẻ Ðỉnh tới quẻ Chấn. Chấn là sấm mà cũng
là trưởng nam. Thoán từ: 震, 亨.震來虩虩, 笑言啞啞.震驚百里, 不喪匕鬯. Chấn hanh. Chấn lai hích hích, tiểu ngôn ách ách. Chấn kính bách lý, bất táng chuỷ xướng. Dịch:
Sấm động thì hanh thông. Lúc sấm nổ ầm ầm mà nớp nớp lo sợ thì sau sẽ
cười nói ha ha. Sấm động trăm dặm mà không mất muỗng và rượu nghệ (đồ
tế thần) Giảng: Sấm phát động thì vạn vật mới nảy nở, cho nên bảo là hanh thông. Khi
có điều gì kinh động mà nớp nớp lo sợ, giữ gìn sửa mình thì không bị
tai hoạ mà sau sẽ được vui vẻ. Sấm vang động xa đến trăm dặm, mà tinh
thần vẫn vững, không đến nỗi đánh mất đồ tế thần (cái muỗng và rượu làm
bằng lúa mạch hoà với nghệ) thế là tốt, hanh thông. Nói đến việc tế
thần là để diễn cái ý: giữ được tôn miếu, xã tắc. Hào từ: 1. 初九: 震來虩虩, 後笑言啞啞, 吉. Sơ cửu: chấn lai hích hích, hậu tiếu ngôn ách ách, cát. Dịch: Hào này ở đầu thời sấm động. Hào từ y hệt Thoán từ, chỉ thêm hai chữ “hậu” (sau) và “cát” tốt. 2. 六二: 震來, 厲.億喪貝, 躋于九陵, 勿逐七日得. Lục nhị: Chấn lai, lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc. Dịch:
Hào 2, âm: Sấm nổ, có cơ nguy, e mất của chẳng (sợ hãi) chạy lên chín
từng gò để tránh; dù mất của những đừng đuổi theo, bảy ngày sẽ được. Giảng:
Hào này âm nhu lại cưỡi lên hào 1 dương cương, nhút nhát, sợ 1 áp bức,
e có cơ nguy, lại ngại mất của, nên phải tránh xa (lên chín tầng gò);
nhưng nó vốn trung, chính, khéo xử nên đừng quá lo mà khiếp sợ, cứ bình
tĩnh, dù có mất tiền, sau cũng lấy lại được. 3. 六三: 震蘇蘇, 震行无眚. Lục tam: Chấn tô tô, chấn hành vô sảnh. Dịch: Sấm động mà sinh thác loạn; cứ tránh đi, bỏ điều bất chính thì không bị hoạ. Giảng: Hào âm, ở vị dương, là hạng người bất chính, nên lo sợ tới thác loạn; nếu trở về đường chính thì không bị tai hoạ. 4. 九四: 震, 遂泥. Cửu tứ: chấn, toại nê. Dịch: Hào 4, dương: sấm động, bi say mê chìm đắm. Giảng:
Hào dương này, bất trung, bất chính, mà lại bị hãm vào giữa bốn hào âm,
hai ở trên, hai ở dưới, nên gặp việc chấn động, lo sợ, không tự thoát
được, chỉ chìm đắm thôi. 5. 六五: 震往來, 厲.意无喪, 有事. Lục ngũ: Chấn vãng lai, lệ; ức vô táng, hữu sự. Dịch: Hào 5, âm: Sấm tới hay lui cũng đều thấy nguy; cứ lo (ức) sao cho khỏi mất đức trung (vô táng), thì làm được công việc. Giảng:
Hào âm, hay lo sợ, chỉ thấy toàn là nguy, nhưng ở vị 5, có đức trung;
cứ giữ đức đó thì sấm tới hay lui (vãng lai cũng có thể hiểu là hào 5
này tới hay lui) cũng không sao mà còn làm được công việc nữa. 6. 上六: 震索索, 視矍矍, 征凶.震不于其躬, 于其鄰, 无咎, 婚媾有言. Thượng lục: Chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung. Chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu, hôn cấu hữu ngôn. Dịch:
Hào trên cùng: Sấm động mà kinh hoảng, mắt nhớn nhác, nếu đi tới (hành
động) thì xấu. Nếu đề phòng trước từ khi sự chấn động chưa tới bản thân
mình, mới tới hàng xóm, thì không lầm lỗi, mặc dầu bà con có kẻ chê
cười mình. Giảng: Hào này âm nhu, gặp hoàn cảnh cực kỳ chấn động
(vì ở trên cùng quẻ Chấn) cho nên có vẻ quá sợ sệt, mà không có tài nên
không nên hành động gì cả, chỉ nên đề phòng trước thôi. Bốn chữ: “hôn
cấu hữu ngôn” Chu Hi hiểu là nói về việc gả cưới, không khỏi có lời ngờ
vực; các sách khác đều hiểu là bị bà con (hôn cấu) chê cười. Tại sao
lại chê cười? Tại hào này nhút nhát: Tại không dám hành động chăng?
hết: 51. QUẺ THUẦN CHẤN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 3:59am
52. QUẺ THUẦN CẤN
Trên dưới đều là Cấn (núi) ䷳
Không
thể động hoài được, sẽ tới lúc phải ngưng, cho nên sau quẻ Chấn tới quẻ
Cấn. Cấn có nghĩa là núi, núi đứng yên một chỗ, cho nên cũng có nghĩa
là ngừng lại. Thoán từ. 艮其背, 不獲其身, 行其庭, 不見其人, 无咎. Cấn kì bối, bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cữu. Dịch: Ngừng ở cái lưng (tĩnh như cái lưng) không thấy được thân mình, đi ở trước sân, không thấy có người, không có lỗi. Giảng:
Quẻ này vốn là quẻ Khôn, lấy nét thứ ba, dương của quẻ Càn thay vào nét
thứ ba, âm của Khôn mà thành một nét dương ở trên, hai nét âm ở dưới;
nét dương ngưng lại ở trên, hai nét âm cũng bị chặn ở dưới, cho nên đặt
tên là quẻ Cấn (ngừng) Trong thân thể người ta, đầu, cổ tay chân thường động đậy, chỉ có lưng là thường tĩnh; đó là nghĩa ba chữ: “Cấn kỳ bối” Hễ
tĩnh thì không bị tình dục chi phối, không làm điều ác; tĩnh thì không
nghĩ tới mình (bất hoạch kỳ thân), mà cũng quên cả người khác (như đi ở
trước sân mà không thấy có người), tức là không phân biệt mình với
người, như vậy thì không có lỗi. Thoán truyện giảng thêm: Lúc đáng
ngừng thì ngừng, đáng đi thì đi (đi tức là biết tiến tới chỗ phải ngừng
lại), động tĩnh đều hợp thời. Lại phải biết ngừng ở chỗ đáng ngừng, ví
dụ cư xử với người cố đạt cho được đức nhân, đức tín, như vậy là biết
ngừng ở chỗ đáng ngừng. Không phân biệt mình với người, coi nhân ngã
chỉ là nhất thể (cũng như nội quái là Cấn, ngoại quái cũng là Cấn, cùng
một thể với nhau, theo cách giải của Thoán truyện), đó là nghĩa sâu sắc
của quẻ Cấn. Đại Tượng truyện khuyên người quân tử chỉ nên ngừng ở
chỗ làm trọn bổn phận của mình và đừng trật ra ngoài bổn phận của mình
(bất xuất kỳ vị) Hào từ. 1. 初六: 艮其趾, 无咎, 利永貞. sơ lục: Cấn kỳ chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh. Dịch: Hào 1, âm: Biết ngừng ở ngón chân thì không có lỗi, giữ bền được chính đạo thì có lợi. Giảng:
hào âm này ở dưới cùng quẻ Cấn ví như ngón chân; lúc mới bắt đầu động
mà biết cẩn thận, ngưng lại thì không có lỗi. Sở dĩ khuyên như vậy vì
hào 1 bất chính (âm ở vị dương. Mà phải kiên nhẫn giữ chính đạo thì mới
có lợi. 2. 六二: 艮其腓, 不拯其隨, 其心不快. Lục nhị: Cấn kỳ phì, bất chứng kỳ tùy, kỳ tâm bất khoái. Dịch: Hào 2, âm: Ngăn ở bắp chân, không cứu được bắp vế mà mình phải theo nó, lòng không vui. Giảng:
hào này ở trên hào 1, như bắp chân; nó đắc trung đắc chính, biết lúc
nào nên ngưng, nhưng nó tùy thuộc hào 3 ở trên nó, như bắp vế ở trên
bắp chân (vế cử động thì bắp chân cử động theo), mà 3 thì lầm lỗi không
sửa được, phải theo một kẻ lầm lỗi thì lòng không vui. 3. 九三: 艮其限, 列其夤, 厲薰心. Cửu tam: Cấn kỳ hạn, liệt kỳ di (cũng đọc là dần), lệ huân tâm. Dịch: Hào 3, dương: Ngăn ở lưng quần (ngang thận), như bị đứt ở giữa xương sống, nguy khốn, lo như cháy cả ruột. Giảng:
Hào này ở trên cùng nội quái, như ở chỗ lưng quần, nơi phân cách trên
và dưới. Nó là dương cương, bất trung, tiến lên thì người trên không
nghe, lui xuống cũng không được, như bị đứt ở giữa xương sống, rất nguy
khốn. 4. 六四: 艮其身, 无咎. Lục tứ: Cấn kỳ thân, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: Ngăn phần thân mình, không có lỗi. Giảng:
Hào này lên đến giữa thân mình, nó đắc chính (âm ở vị âm) biết lúc nên
ngừng thì ngừng, tuy không làm được việc gì, nhưng không có lỗi. 5. 六五: 艮其輔, 言有序, 悔亡. Lục ngũ: Cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong. Dịch: Hào 5, âm: Ngăn cái mép lại (có sách dịch là xương hàm), ăn nói có thứ tự, hối hận mất đi. Giảng: Hào này lên tới mép, đắc trung, biết thận trọng lời nói, lúc nào không đáng nói thì không nói, nên không có gì hối hận. 6. 上九: 敦艮, 吉. Thượng cửu: Đôn cấn, cát. Dịch: Hào trên cùng, dương: Đôn hậu về đạo biết ngưng phải lúc, tốt. Giảng: Hào này ở trên cùng, làm chủ quẻ dương cương, có tính đôn hậu, biết lúc nào nên ngừng thì ngừng tốt. * Phan
Bội Châu nhận rằng trong Kinh Dịch có tám quẻ mà ngoại quái là Cấn, tức
các quẻ : Bĩ, Bác, Ðại Súc, Cổ, Di, Tổn, Mông và quẻ Thuần Cấn này. Mà
hào trên cùng của tám quẻ đó đều tốt. Như vậy Kinh Dịch rất trọng núi, vì núi có đức “trọng hậu”. Chúng
tôi nghĩ có thể cũng vì lẽ núi có đức “tĩnh” nữa. Dịch học phái như
Khổng giáo chủ trương hữu vi (hành động để giúp đời), nhưng cũng trọng
đức tĩnh, tĩnh như núi. Tĩnh là không bị thị dục dao động mà ít lỗi,
tĩnh thì mới sáng suốt. Đạo Lão rất trong đức tĩnh. Dịch học phái trọng
động mà cũng trọng tĩnh, là dung hoà được hai triết lý lớn nhất của
Trung Hoa. Chúng tôi lại nhớ tới câu: “Trí giả nhạo thủy, nhân giả
nhạo sơn” trong Luận ngữ (VI 20) Khổng và Lão dễ dung hoà với nhau là
phải.
hết: 52. QUẺ THUẦN CẤN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:00am
53. QUẺ PHONG SƠN TIỆM
Trên là Tốn (gió), dưới là Cấn (núi) ䷴
Ngừng rồi thì có lúc phải tiến lần lần, cho nên sau quẻ Cấn tới quẻ Tiệm. Tiệm là tiến lần lần. Thoán từ: 漸: 女歸, 吉, 利貞. Tiệm: Nữ qui, cát, lợi trinh. Dịch: tiến lần lần; Như con gái về nhà chồng, tốt; giữ vững đạo chính thì lợi. Giảng:
Quẻ này trên là Tốn (ở đây có nghĩa là cây), dưới là Cấn (núi). Trên
núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt tên là
Tiệm. Cấn còn có nghĩa là ngăn, Tốn còn có nghĩa là thuận, ngăn ở
dưới mà thuận ở trên, để cho tiến, nhưng không cho tiến vội, mà tiến
lần lần thôi. Như trường hợp con gái về nhà chồng, việc gả con, phải
thận trong, thung dung, không nên hấp tấp, có vậy mới tốt. Xét bốn
hào ở giữa quẻ, từ 2 tới 5, từ dưới tiến lên, hào nào cũng đắc chính (
hào âm ở vị âm, hào dương ở vị dương), nhất là cũng đắc chính, đắc
trung ; cho nên Thoán từ khuyên giữ vững đạo chính như những hào đó thì
tốt. Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tĩnh như nội quái Cấn,
vẫn hoà thuận như ngoại quái Tốn thì không vấp váp, không bị khốn cùng.
Đại Tượng truyện Khuyên người quân tử nên theo tượng quẻ này mà tu
thân, tiến lần lần cho được thành người hiền, rồi thành bậc thánh, để
cải thiện phong tục cho dân (Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục). Hào từ: 1. 初六: 鴻漸于干, 小子厲, 有言, 无咎. Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn, vô cữu. Dịch: Hào 1, âm: Con chim hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại (hoặc tiểu nhân) cho là nguy, than thở, nhưng không có lỗi. Giảng:
Hồng là loài chim sống ở mặt nước, di thê, mùa lạnh thì bay xuống
phương Nam, mùa nóng trở về phương Bắc, bay từng đàn, có thứ tự; sáu
hào quẻ Tiệm đều tượng trưng bằng chim hồng. Hào 1 âm nhu, ở dưới
cùng, như chim hồng mới tiến được tới bờ nước, than thở không tiến được
mau, cho là nguy, vì còn nhỏ, chưa hiểu biết (tiểu tử), sự thực thì tuy
chưa tiến được mấy, nhưng vẫn không tội lỗi gì. 2. 六二: 鴻漸于磐, 飲食衎衎, 吉. Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát. Dịch: Hào 2 âm: Chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt. Giảng:
Hào này đắc trung, đắc chính, âm nhu mà ứng với hào 5 dương cương ở
trên, nên tiến được một cách dễ dàng, tới đậu ở phiến đá lớn, vui vẻ,
ung dung. Tiểu tượng truyện khuyên hào này được hào 5 giúp đỡ thì phải làm gì đáp lại, chứ đừng ăn không. 3. 九三: 鴻漸于陸, 夫征不復, 婦孕不育, 凶. 利禦寇. Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngự khấu. Dịch:
Hào 3, dương: Chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có
mang (đẻ con mà) không nuôi, xấu; đuổi cướp thì có lợi. Giảng:Hào
này đã tiến lên đất bằng, nó dương cương còn muốn tiến nữa, mà không
muốn ngó lại; nó ở sát hào 4 âm nhu, thân với 4 nhưng không chính ứng
với nhau, mà cả hai đều bất trung, ví như cặp vợ chồng không chính
đáng; chồng (hào 3) bỏ vợ mà đi không ngó lại, vợ (hào 4), có mang đẻ
con mà không nuôi, xấu. Nếu hoà thuận với nhau mà giữ đạo chính (trừ
cái bất chính đi như trừ cướp) thì có lợi. 4. 六四: 鴻漸于木, 或得其桷, 无咎. Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giốc, vô cữu. Dịch: Hào 4 âm: Chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi. Giảng:
Hào 4 âm nhu mà ở trên hào 3 dương cương, như chim hồng bay lên cây
cao, không phải chỗ đậu của nó (vì nó vốn ở trên nước), nhưng may được
cành thẳng, thì cũng yên ổn. Hào này bản chất âm, nhu thuận mà lại
ngoại quái Tốn cũng có nghĩa thuận, nên được yên ổn. 5. 九五: 鴻漸于陵, 婦三歲不孕.終莫之勝, 吉. Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng. Chung mạc chi thắng, cát. Dịch: Hào 5, dương: chim hồng lên gò cao; vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không gì thắng nổi điều chính, tốt. Giảng:
Hào dương này ở ngôi cao, chính ứng với hào 2, âm ở dưới, như vợ chồng
muốn ăn nằm với nhau, nhưng hào 5 bị hào 4 ngăn cản (ghen với 2); hào 2
lại bị hào 3 ngăn cản (ghen với 5) thành thử ba năm vợ chồng bị cách
trở, mà vợ không có mang được. Nhưng 3 và 4 không thắng được 2 và 5 vì
2 và 5 đều đắc trung, mà việc 5 với 2 kết hợp với nhau là chính đáng,
nên rốt cuộc chúng phải chịu thua. 6. 上九: 鴻漸于陸 , 其羽可用為儀, 吉. Thượng cửu: Hồng tiệm vu quì (chữ 陸 dùng như chữ 逵 quì là đường mây), kì vũ khả dụng vi nghi, cát. Dịch: Hào trên cùng, dương: Chim hồng bay bổng ở đường mây, lông nó (rớt xuống) có thể dùng làm đồ trang điểm, tốt. Giảng:
Theo thường lệ, hào trên cùng, ở trên hào 5 chí tôn, không có “vị” gì
cả, vô dụng. Trong quẻ này, nó ở cao hơn cái gò cao, tức ở trên không
trung, trên đường mây (vân lộ). Nó là hạng xuất thế, khí tiết thanh
cao, khác phàm; tùy không trực tiếp giúp đời, nhưng tư cách làm gương
cho đời, xã hội có họ thì mới văn minh, cũng như lông con hồng không
dùng vào việc ăn uống cất nhà, cày ruộng, chở đồ . . được, nhưng làm đồ
trang điểm như cờ, quạt, mũ, thì lại quí.
hết: 53. QUẺ PHONG SƠN TIỆM,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:05am
54. QUẺ LÔI TRẠCH QUI MUỘI
Trên là Chấn (sấm), dưới là Đoài (chằm) ䷵
Đã tiến lên thì phải tới, về một nơi nào đó (nơi đó là mục đích); cho
nên sau quẻ Tiệm tới quẻ Qui muội. Qui là về, muội là em gái; qui muội
là em gái về nhà chồng. Thoán từ: 歸妹: 征凶, 无 攸利. Qui muội: chinh hung, vô du lợi. Dịch: Con gái nhỏ về nhà chồng, tiến lên thì xấu, không có gì lợi cả. Giảng:
Nội quái là Đoài (con gái nhỏ), ngoại quái là Chấn (con trai lớn); chấn
lại có nghĩa là động, Đoài có nghĩa là vui vẻ, thuận theo; con gái nhỏ
về với trưởng nam, cho nên gọi là qui muội. Trai gái phối hợp nhau
vốn là “cái nghĩa lớn của trời đất” vì có vợ chồng rồi mới có gia đình,
xã hội. Vậy mà Thoán từ bảo là xấu, vì lẽ: - Cặp trai gái này không xứng nhau: trai lớn quá (trưởng nam) gái nhỏ quá (muội). -
Tình của họ không chính đáng: gái chỉ vì vui (hoà duyệt, đức của nội
quái Ðoài) mà tự động (Chấn) theo trai; cũng có thể giảng là vì gái cầu
trai mà trai đã bị động theo gái; như vậy là bất chính. Sự bất chính đó
còn thấy trên bốn hào ở giữa nữa; không một hào nào ở vị chính đáng. - Lại thêm hào 3 và 5 đều là âm mà cưỡi lên dương: 4 và 2 có cái tượng vợ ăn hiếp chồng. Ngay
từ buổi đầu, sự phối hợp đó không được chính đáng thì biết trước được
về sau không có gì lợi, chỉ tệ hại thôi (Lời Đại Tượng truyện). Hào từ: 1 . 初九: 歸妹以娣, 跛能履, 征吉. Sơ cửu: Qui muội dĩ qui đệ, bả năng lý, chinh cát. Dịch: Hào 1, dương: Em gái về nhà chồng làm vợ bé, chân thọt mà đi được, tiến đi thì tốt. Giảng:
Ý nghĩa chung của quẻ là xấu, nhưng mỗi hào xấu hay tốt tùy hoàn cảnh.
Như hào này dương cương ở vị thấp nhất, không có chính ứng ở trên, nên
ví với người con gái nhỏ có đức, nhưng không được làm vợ cả (không có
chính ứng; hào 4 cũng là dương), chỉ làm vợ bé thôi, giúp đỡ vợ cả. Vì
làm vợ bé, nên bảo là chân thọt, vì giỏi giúp việc nên bảo là đi được.
Cứ tiến đi siêng năng giúp việc thì tốt. Thời xưa các vua chúa
cưới một người vợ chính thì có năm ba em gái hay cháu gái cô dâu đi phù
dâu rồi ở luôn bên nhà trai, gọi là “đệ” như vợ bé. 2. 九二: 眇能視, 利幽人之貞. Cửu nhị: Diểu (miểu) năng thị, lợi u nhân chi trinh. Dịch : Hào 2, dương: chột mà thấy được âm thầm giữ đức trinh chính thì tốt. Giảng:
Hào này dương cương đắc trung, là người con gái hiền, trinh; nhưng
chính ứng với hào 5 âm nhu, bất chính, tức như gặp người chồng dở,
không dựng nổi cơ đồ, nên ví với người chột mắt. Cứ âm thầm giữ đức
trung của mình thì tốt. Đây là hoàn cảnh một người không gặp thời. 3. 六三: 歸妹以須, 反歸以娣. Lục tam: qui muội dĩ tu, phản qui dĩ đệ. Dịch: Hào 3, âm: Em gái về nhà chồng, chờ đợi mãi, nóng lòng trở về làm vợ bé. Giảng:
Hào này ở trên cùng nội quái, có địa vị, đáng lẽ không phải làm vợ bé.
Nhưng vì là âm nhu, bất trung bất chính, mà lại đa tình (ham vui là
tính cách của nội quái đoài) tính nết như thế nên ế chồng, chờ đợi mãi
không ai chịu lấy, đành phải trở về làm vợ bé vậy. Kẻ ham công danh,
phú quí, cầu cạnh người, kết quả bị người khinh, coi như tôi tớ, cũng
giống cô gái trong hào này. 4. 九四: 歸妹, 愆期, 遲歸, 有時. Cửu tứ: Qui muội, khiên kì, trì qui, hữu thời. Dịch: Hào 4, dương: em gái về nhà chồng, lỡ thời; nhưng dù chậm gả ít lâu, rồi cũng sẽ có lúc gặp đựơc chồng tốt.. Giảng:
Hào này dương cương, ở ngoại quái là người con gái đã hiền lại sang,
nhưng không có hào chính ứng với nó (vì 1 cũng là dương), nên lỡ thời,
không sao, cứ đợi giá cao, chậm trễ ít lâu rồi sẽ gặp duyên lành. 5. 六五: 帝乙歸妹, 其君之袂, 不如其娣之袂良, 月幾望, 吉. Lục ngũ: Đế Ất qui muội, kì quân chi duệ, bất như kì đệ chi duệ lương, nguyệt cơ vọng, cát. Dịch:
Hào 5, âm: Vua Đế Ất (nhà Thương) cho em gái về nhà chồng, tay áo của
công chúa (cô dâu) không đẹp bằng tay áo của cô phù dâu (vợ bé); như
trăng đêm muời bốn (sắp đến rằm) tốt. Giảng: Hào này âm nhu đắc
trung, ở địa vị cao quí mà lại chính ứng với hào 2 dương, địa vị thấp,
như nàng công chúa em vua Ðế Ất mà hạ giá với bình dân. Đã vậy mà khi
rước dâu, y phục của nàng lại không đẹp bằng y phục mấy cô phù dâu (vợ
bé). Như vậy là đức hạnh rất cao, không hợm mình địa vị cao quí, lại
coi thường phục sức. Đức như vậy thật đẹp, như trăng mười bốn (trăng
mười bốn tròn, đẹp mà chưa đầy hẳn; chưa đầy hẳn có nghĩa là Khiêm hư).
6. 上六: 女承筐, 无實.士刲羊, 无血, 无攸利. Thượng lục: Nữ thừa khuông ,vô thực. Sĩ khuê dương, vô huyết, vô du lợi. Dịch:
Hào trên cùng, âm: (Để cúng tổ tiên) người con gái (vợ) xách giỏ mà giỏ
không có đồ cúng, người con trai (chồng) cắt cổ con cừu để lấy huyết mà
(cắt giả vờ) không có huyết, không có gì lợi cả. Giảng: Năm hào
trên, các cô em gái đều về nhà chồng cả rồi, hào này là hào trên cùng,
muộn nhất, mà lại không có chính ứng ( hào 3 ứng với nó cũng là âm),
không thành vợ chồng chính thức được, chỉ sống bậy bạ với nhau, không
có gì lợi cả. Hồi xưa, khi cúng tổ tiên, bổn phận của vợ là dâng
đồ cúng, của chồng là dâng huyết cừu; người con gái trong hào này xách
giỏ dâng đồ cúng mà giỏ lại trống không, còn người con trai cắt cổ cừu
để lấy huyết thì lại cắt giả vờ, không có huyết; như vậy thì tổ tiên
nào chứng giám, trai gái không thành vợ chồng chính thức được. Vì hữu
danh mà vô thực. * Hào đẹp nhất
trong quẻ là hào 5. Việc kén dâu, kén vợ, trọng người có đức, không hợm
mình cao sang, giàu có, coi thường phục sức, mà khiêm tốn.
hết: 54. QUẺ LÔI TRẠCH QUI MUỘI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:35am
55. QUẺ LÔI HỎA PHONG
Trên là Chấn (sấm), dưới là Ly (lửa) ䷶
Qui là về, là tới nơi, tới mục đích, đạt kết quả (qui kết), mà đạt được
kết quả thì thịnh lớn, cho nên sau quẻ Qui (muội) tới quẻ Phong (thịnh
lớn). Thoán từ. 豐: 亨. 王假之, 勿憂, 宜日中. Phong : hanh. Vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung. Dịch: thịnh lớn thì hanh thông. Bậc vương giả tới được đừng lo, nên giữ đạo trung như mặt trời đứng giữa trời. Giảng:
Dưới là Ly (sáng suốt), trên là Chấn (động) sáng suốt mà hành động thì
làm nên được sự nghiệp thịnh lớn. Chỉ bậc vương giả có quyền có vị mới
làm tới nơi được. Khi đã thịnh lớn thì người sáng suốt biết rằng sẽ
phải suy nên thường lo; nhưng đừng nên lo suông, cứ giữ được đạo trung
như mặt trời (nội quái Ly có nghĩa là mặt trời) đứng ở giữa trời thì sẽ
tốt. Đại Tượng truyện áp dụng vào việc hình ngục, khuyên người trị
dân nên sáng suốt mà soi xét tình dân mạnh mẽ xử đoán thì mau xong
việc. Hào từ. 1. 初九: 遇其配主, 雖旬, 无咎, 往有尚. Sơ cửu: Ngộ kì phối chủ, tuy tuần, vô cữu, vãng hữu thượng. Dịch: Hào 1, dương: Gặp được người chủ hợp với mình, tuy ngang nhau nhưng không có lỗi tiến đi thì có công nghiệp đáng khen. Giảng:
Hào này ở nội quái Ly, có đức sáng suốt, có tài (vì là dương), ở trên
ứng với hào 4, thuộc ngoại quái Chấn, có đức hoạt động, mà cũng có tài
(dương cương ) Bình thường thì ứng với nhau, phải một âm một dương mới
tốt, ở hào này thì khác, cùng là dương cả mà cũng tốt, vì 1 sáng suốt,
4 hoạt động, hai hào dương thành, chứ không tương phản, giúp nhau làm
nên sự nghiệp lớn được. Hai hào ngang nhau, biết châm chước ý kiến nhau
là điều tốt cho sự hợp tác; nếu một bên cầu thắng, một bên chỉ nhường,
thì không còn là hợp tác nữa, khó mà thành công lớn được. 2. 六二: 豐其蔀, 日中見斗.往, 得疑疾, 有孚發若, 吉. Lục nhị: phong kì bộ, nhật trung kiến đẩu; Vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược, cát. Dịch:
Hào 2, âm: Bị màn che lớn, dày quá, như ban ngày (mặt trờ bị che lấp)
mà thấy sao Bắc đẩu; tiến đi thì bị ngờ và ghét, cứ lấy lòng chí thành
mà cảm hoá được người trên thì tốt. Giảng: Hào âm này ở giữa quẻ
Ly, đắc trung đắc chính; nhưng kẻ ứng với nó là hào âm, âm nhu bất
chính, không giúp được nó, không tin nó; nó như một hiền thần gặp một
ám chúa, nên ví với mặt trời (quẻ Ly) bị mây mù che dày. Có muốn theo 5
thì bị 5 nghi kỵ và ghét; chỉ có cách giữ vững đức trung trinh, lấy
lòng chí thành mà đối xử với 5, rồi sau 5 sẽ tỉnh ngộ. Chữ 若 nhược ở
đây trỏ hào 5. 3. 九三: 豐其沛, 日中見沬.折其右肱, 无咎. Cửu tam: Phong kỳ bái, nhật trung kiến muội. Chiết kì hữu quăng, vô cữu. Dịch: Hào 3 dương: bị màn che kín mít, ban ngày mà thấy sao nhỏ (muội) gẩy cánh tay phải, không có lỗi. Giảng:
Hào này dương cương, ở trên cùng quẻ Ly là người sáng suốt, có tài;
nhưng hào trên cùng ứng với nó lại bất tài (âm nhu), không giúp gì được
nó; đã vậy nó còn bị hào 4 che ám, hoàn cảnh còn tệ hơn hào 2 nữa, cho
nên bảo là bị tấm màn che kín mít, ban ngày mà tối như đêm, thấy được
cả những vì sao nhỏ. Như vậy hào 3 như người bị gẩy cánh tay phải (trỏ
hào 5 không giúp gì được nó), nó không có lỗi vì hoàn cảnh khiến vậy. 4. 九四: 豐其蔀, 日中見斗, 遇其夷主, 吉. Cửu tứ: Phong ki bộ, nhật trung kiến đẩu, ngộ kì di chủ, cát. Dịch: Hào 4, dương: Bị màn che lớn dày quá, như ban ngày mà thấy sao Bắc Ðẩu gặp được bạn bằng vai vế, tốt. Giảng:
Hào này dương cương, ở địa vị cao, có thể lập được sự nghiệp, nhưng bất
trung, bất chính lại bị hào 5 âm nhu, hôn ám che lấp hoàn cảnh cũng như
hào 2, cũng ban ngày mà thấy sao Bắc đẩu, nhưng nay được hào 1 ở dưới
đồng đức (cũng dương cương ) bằng vai vế ứng với nó, cũng coi là tốt
được. 5. 六五: 來章, 有慶, 譽, 吉. Lục ngũ: Lai chương, hữu khánh, dự, cát. Dịch: Hào 5, âm: Mời những nhân tài giúp mình thì được phúc, có tiếng khen, tốt. Giảng:
Hào này ở địa vị chí tôn, âm nhu, không có tài tạo được sự nghiệp thịnh
lớn, nhưng khá là có đức trung (ở giữa ngoại quái), và có hào 3, 4
dương cương , hiền tài ở dưới mình, nếu biết mời họ giúp mình thì có
phúc và được tiếng khen, tốt. 6. 上六: 豐其屋, 蔀其家, 闚其戶.闃其无人,三歲不覿, 凶. Thượng lục: Phong kì ốc, bộ kì gia, khuy kì hộ, Huých kì vô nhân, tam tuế bất địch, hung. Dịch:
Hào trên cùng, âm: Cất nóc nhà rất cao lớn mà phòng mình ở lại nhỏ hẹp,
bị bưng bít (tự mình không muốn ai lui tới với mình), cho nên nhìn vào
cửa, lặng tanh không thấy bóng người, ba năm không thấy ai (hoặc không
giác ngộ) xấu. Giảng: Hào này khó hiểu, mỗi sách giảng một khác,
chúng tôi theo cách hiểu của Phan Bội Châu vì hợp với Tiểu Tượng truyện
hơn cả. Hào này âm nhu, như người hôn ám, mà ở trên cùng, có địa
vị rất cao, y như người cất nhà, nóc rất cao (địa vị cao), mà buồng
mình ở lại thấp hẹp (bản tính âm nhu), thế là tự mình che lấp mình, nên
không ai lui tới với mình, do đó mà đứng ở cửa nhìn vào, không thấy
bóng người, ba năm không thấy ai (hoặc ba năm vẫn không giác ngộ: địch
là thấy rõ). Không gì xấu hơn. * Tên
quẻ là thịnh lớn, rất tốt mà không có hào nào thật tốt, hào nào cũng có
lời răn đe. Cổ nhân muốn cảnh cáo chúng ta ở thời thịnh lớn, có phúc
thì cũng có sẵn mầm hoạ, phải cẩn thận lắm mới được. Các quẻ khác,
thường hào dương ứng với âm, âm ứng với dương mới tốt; quẻ này trái
lại, dương ứng với dương (như 1 và 4) mới tốt. Đó cũng là một lời
khuyên nữa: ở thời thịnh, người ta thường vì quyền lợi chia rẽ nhau mà
hoá suy, phải biết đồng đức, đồng tâm với nhau, thì mới tránh được hoạ.
hết: 55. QUẺ LÔI HỎA PHONG
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:36am
56. QUẺ HỎA SƠN LỮ
Trên là Ly (lửa), dưới là Cấn (núi) ䷷
Thịnh
lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất
khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.
Thoán từ: 旅: 小亨. 旅貞, 吉. Lữ: tiểu hanh, Lữ trinh, cát. Dịch: Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt. Giảng:
chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi
lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian
ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh
bỏ nhà mà đi ở đậu quê người. Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều
lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ
đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như
ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết
thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta
khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách,
đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý
trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời
Thoán truyện). Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình
pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng
giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như
bất lưu ngục) Hào từ. 1. 初六: 旅瑣瑣, 斯其所取災. Sơ lục: Lữ toả toả, tư kì sở thủ tai. Dịch: Hào 1, âm: Ở đậu mà tư cách nhỏ nhen, tẳn mẳn tức là tự chuốc lấy hoạ. Giảng:
hào này âm nhu, ở vị thấp nhất, ví với người chí đã cùng, tư cách hèn
hạ đối với chủ nhà mình ở đậu mà tham lam, tẳn mẳn, khiến người ta
ghét, như vậy là tự rước hoạ vào mình. 2. 六二: 旅即次, 懷其資, 得童僕, 貞. Lục nhị: Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh. Dịch: Hào 2, âm: Ở đất khách, được chỗ trọn an lành, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ tín cẩn. Giảng:
Ở đất khách nên nhu thuận, mà hào này âm nhu, đắc trung, đắc chính,
trên lại ứng với hào 5, cũng âm nhu, đắc trung mà lại văn minh (ở ngoại
quái Ly), như gặp được chủ nhà tốt, mình có chỗ trọn an lành, lại giữ
được tiền, có đầy tớ tín cẩn, mọi việc đều tốt cả. 3. 九三: 旅, 焚其次, 喪其童僕, 貞, 厲. Cửu tam: Lữ, phần kì thứ, táng kì đồng bộc, trinh, lệ. Dịch: Hào 3, dương: Ở đất khách, mà (tự mình) đốt chỗ trọ, mất đầy tớ, dù chính đáng cũng nguy. Giảng:
Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất trung, ở đất khách như vậy
không tốt, vị lại khá cao, có ý tự cao, bị chủ nhà trọ đuổi, như vậy
không khác gì tự đốt chỗ trọ của mình, đầy tớ cũng không ưa mình, mất
lòng cả người trên kẻ dưới, dù mình có chính đáng, cũng nguy. 4. 九四: 旅于處, 得其資斧, 我心不快. Cửu tứ: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái. Dịch:
Hào 4, dương: tới đất khách, được chỗ ở tạm, có tiền của và đồ hộ thân
(tượng trưng bằng cái búa), nhưng trong lòng không vui. Giảng: tuy
dương cương nhưng ở vị âm, lại ở dưới cùng ngoại quái, là biết mềm
mỏng, tự hạ, tức biết xử thế, cho nên được chỗ ở tạm, có tiền của, vật
liệu để phòng thân, nhưng ở trên, hào 5 âm nhu không giúp đỡ gì được 4,
ở dưới, hào 1, ứng với 4 âm nhu, lại thấp hèn, cũng chẳng giúp đỡ 4
được gì, vì vậy là lòng 4 không vui. Các sách cho “tư phủ” là cái
búa sắc bén, và giảng là : lữ khách tới nơi, không có quán trọ, chỉ có
mảnh đất gai góc, phải dùng búa bén để phá bụi bờ mà làm chỗ ở, nên
trong lòng không vui. 5. 六五: 射雉, 一矢亡, 終以譽命. Lục ngũ: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh. Dịch : Hào 5, âm : Bắn con trĩ, mất một mũi tên, sau được khen và phúc lộc (hoặc chức vị: mệnh) . Giảng:
Thường hào 5 trỏ ngôi vua, nhưng nếu vua là làm lữ khách thì là vua mất
nước, cho nên chỉ nên coi là một lữ khách thôi, một lữ khách văn mình
(ở ngoại quái ly), nhũn nhặn, mềm mỏng (âm nhu) được lòng mọi người
(đắc trung) , như vậy tất được tốt đẹp như bắn được con trĩ (một loài
chim đẹp – tượng quẻ Ly) tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc
lộc. 6. 上九: 鳥焚其巢, 旅人先 笑, 後號咷, 喪牛于易, 凶. Thượng cửu: điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung. Dịch:
Hào trên cùng, dương: con chim cháy mất tổ, người lữ hành trước cười,
sau kêu khóc, vì láu táu (vô ý) đánh mất con bò (đức nhu thuận), xấu. Giảng:
thân phận ở đậu mà lại ở trên chủ nhà, đã là nghịch cảnh rồi, đã vậy
lại quá cương (hào dương), mất lòng người, tất bị đuổi đi, như con chim
cháy mất tổ. Mới đầu hớn hở, vì được ở trên người, sau phải kêu khóc vì
mất chỗ trọ. Sở dĩ vậy vì khinh dị đánh mất đức nhu thuận (tượng bằng
con bò) rất cần ở thời ở đậu. * Cuối quẻ Lữ này, cụ Phan Bội Châu có ghi cảm tưởng: “xử
cảnh khốn nạn không gì bằng Lữ, thiệp thế rất khó khăn cũng không gì
bằng Lữ. Tạp quái (truyện) nói rằng: “Lữ là ít người thân yêu, là đường
cùng khốn của người vậy: Lữ quả thân dã, nhân chi cùng dã. “Tuyền
sáu hào không một chữ cát, chữ hanh nào cả . . Dở sinh gặp hồi đen rủi,
gởi thân ở đất khách quê người . . may khỏi tai hoạ là hạnh phúc đã lớn
rồi. Vậy nên trung chính như Lục Nhị (hào 2, âm), văn minh nhu trung
như Lục ngũ (hào 5, âm) mà hào từ không có chữ cát hanh. Huống gì quá
cương , bất trung như Cửu tam (hào 3, dương). Thượng cửu (hào trên
cùng, dương) nữa ru? Vậy nên người ở vào thời Lữ, nên mang chặt lấy hai
chữ nhu, trung làm bùa hộ thân” Đọc lời của Cụ, chúng tôi vô cùng
cảm thán. Trong mấy chục năm, vì quốc gia, dân tộc, Cụ gởi thân quê
người, gặp biết bao cảnh tủi nhục, nỗi gian nguy, rốt cuộc cũng không
tránh khỏi tai hoạ, nhưng lúc nào cũng giữ được tư cách, khí phách chí
hướng. Ai hiểu được tình cảnh lữ thứ, hiểu được quẻ Lữ hơn Cụ?
hết: 56. QUẺ HỎA SƠN LỮ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:37am
57.QUẺ THUẦN TỐN
Trên dưới đều là Tốn (gió, thuận) ䷸
Lâm vào cảnh ở quê người thì thái độ nên thuận tòng người, cho nên sau
quẻ Lũ tới quẻ Tốn. Tốn là gió mà có nghĩa là thuận, là nhập vào. Thoán từ. 巽: 小亨, 利有攸往, 利見大人. Tốn: tiểu hanh, lợi hữu du vãng , lợi kiến đại nhân. Dịch: Thuận thì hơi được hanh thông, tiến hành thì có lợi, lựa bậc đại nhân mà tin theo thì có lợi. Giảng:
Quẻ này có một hào âm ở dưới hai hào dương, là âm phục tòng dương, nên
gọi là Tốn. tiểu nhân mà phục tòng quân tử thì có thể tốt, nhưng phải
có việc để tíến hành, chứ không phải chỉ ở yên mà tốt, lại phải lựa bậc
đại nhân (có tài, đức) mà tin theo. Đại nhân trỏ hào 2 và hào 5, cũng
mà dth, tiểu nhân là hào 1 và hào 4. Nhất là hào 5, đắc trung lại đắc
chính nữa, 1 và 4 đều phải theo hào đó. Đại tượng truyện giảng:
trên là gió, dưới là gió (Tốn), là có hai luồng gió tiếp tục theo nhau.
Người quân tử tiếp tục xuất phát mệnh lệnh để thi hành chính sự, mà
thiên hạ phục tòng, cũng như vạn vật ngả theo gió. Hào từ: 1. 初六: 進退, 利武人之貞. Sơ lục: tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh. Dịch: Hào 1, âm: Tiến lui tự do, thêm vào cái chí hướng bền của hạng võ dũng thì có lợi. Giảng:
Hào này âm nhu ở dưới cùng quẻ Tốn là người nhu thuận thái quá, còn
nghi ngờ, không cương quyết tiến hay lui, không thể làm gì được; Hào từ
khuyên phải theo cái chí kiên cường của hạng người võ dũng thì mới trị
được tật nghi hoặc. 2. 九二: 巽在床下, 用史巫 紛若, 吉,无咎. Cửu nhị: Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát, vô cữu. Dịch: Hào 2, dương: Thuận nép ở dưới giường, dùng vào việc lễ bái, đồng cốt rối ren thì tốt, không có lỗi. Giảng:
Hào dương mà ở vào vị âm thời Tốn (thuận), nên quá thuận đến nỗi nép ở
dưới giường. May àm đắc trung, không phải là kẻ siểm nịnh, mà lại có
lòng thành; trong việc tế thần, mà như vậy thì tốt, không có lỗi. “sử”
là chức quan coi việc tế, “Vu” là chức quan coi về việc trừ tai hoạ,
như đồng cốt. “Phân nhược” (rối ren) dùng để tả việc cúng tế, cầu thần.
3. 九三: 頻巽吝. Cửu tam: Tần tốn, lận. Dịch: Thuận tòng quá nhiều lần (quá mức), đáng xấu hổ. Giảng:
Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất đắc trung, vốn nóng nảy, kiêu
căng, thất bại nhiều lần, sau mới làm bộ tự hạ, thuận tòng, nhưng lại
thuận tòng quá mức, việc gì cũng thuận tòng dù không phải lúc, đáng xấu
hổ, R. WilheLm giảng: suy nghĩ đi suy nghĩ lại nhiều lần kĩ quá, mà
không quyết định hành động, xấu hổ. 4. 六四: 悔亡, 田獲三品. Lục tứ: Hối vong, điền hoạch tam phẩm. Dịch: Hào 4, âm: Hối hận mất đi; đi săn về, được chia cho ba phần. Giảng:
Hào này âm nhu, hào 1 ứng với nó cũng âm nhu, không giúp gì được nó, mà
lại bị kẹt giữa 4 hào dương ở trên và dưới, xấu; nhưng nhờ nó đắc
chính, địa vị cao (ở ngoại quái, sát hào 5) mà lại có đức tự khiêm,
thuận tòng, nên được trên dưới mến, chẳng những không có gì hối hận mà
còn được thưởng công. Thời xưa đi săn về, chia làm 3 phần (phẩm vật):
một phần để làm đồ tế, một phần để đãi khách, một phần giao cho nhà
bếp. Có công lớn mới được chia như vậy. 5. 九五: 貞吉, 悔亡, 无不利, 无初有終. 先庚三日, 後庚三日.吉. Cửu ngũ: Trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sở hữu chung. Tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát Dịch:
Hào 5, dương : giữ đạo chính thì tôt, hối hận mất đi, không có gì là
không lợi, mới đầu không khá mà cuối cùng tốt; (đinh ninh như ) trước
ngày canh ba ngày, (đắn đo như) sau ngày canh ba ngày, tốt. Giảng:
Hào này ở thời Tốn, phải thuận tòng, mà bản thể và vị đều là dương cả,
mới đầu không tốt (vô sợ), e có điều hối hận, may mà đắc trung, đắc
chính, hợp với tư cách một vị chủ, cứ giữ đức trung, chính ấy thì sau
sẽ tốt (hữu chung), hối hận mất hết mà không có gì không lợi. Tuy
nhiên, muốn kêt quả được tốt thì trước khi hành động, canh cải, phải
đinh ninh cân nhắc cho kỹ, rồi sau khi canh cải phải khảo nghiệm chu
đáo. Trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh Tân, Nhâm, quí,
Canh đứng hàng thứ 7, quá giữa, tới lúc phải thay đổi. (chữ Canh trong
hào từ 庚cũng dùng như chữ Canh 更 là đổi) Ba ngày trước ngày Canh là
ngày Đinh, chữ Đinh 丁 này mượn nghĩa chữ đinh 叮嚀 (đinh ninh); ba ngày
sau ngày Canh là ngày Quí, chữ quí này 癸 mượn nghĩa chữ quĩ 揆度 (quĩ đạc
là đo lường) Cách dùng chữ ở đây cũng như cách dùng chữ trong Thoán từ quẻ Cổ. 6. 上九: 巽在床下, 喪其資斧, 貞凶. Thượng cửu: Tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ, trinh hung. Dịch: Hào trên cùng, dương: Thuận nép ở dưới giường, mất đồ hộ thân, cứ giữ thói xấu đó thì càng bị hoạ. Giảng:
Ở trên cùng quẻ Tốn là thuận tòng đến cùng cực như kẻ nép ở dưới
giường; tới nỗi đức dương cương – ví với đồ hộ thân (tư phủ) của mình
cũng mất luôn. Cứ giữ thói xấu xa, đê tiện, siểm nịnh đó thì càng bị
hoạ.
hết: 57.QUẺ THUẦN TỐN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:38am
58. QUẺ THUẦN ĐOÀI
Trên dưới đều là Đoài (chằm, hòa duyệt) ䷹
Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau,
thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới
quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt. Thoán từ. 兌; 亨.利貞. Đoài; Hanh. Lợi trinh. Dịch: Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi. Giảng:
Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh
vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh
thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực,
đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài,
nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là
hợp với đạo chính, tốt. Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà
hợp với đạo chính thì là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi
trước dân thì dân quên khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì
dân quên cái chết mà cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật
lớn thay; khuyến khích dân không gì bằng. Đại Tượng truyên thiên
về sự tu thân, khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa
lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp
ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ. Hào từ. 1. 初九: 和兌吉. Sơ cửu: Hoà đoái, cát. Dịch: Hào 1, dương: Hoà thuận, vui vẻ, tốt. Giảng:
dương ở dưới cùng quẻ đoài là quân tử mà khiêm hạ, ở trên lại không tư
tình với ai (vì 4 cũng là dương, không phải là âm, tiểu nhân), nên chỉ
dùng đạo chính mà hoà thuận vui vẻ với mọi người, tốt. 2. 九二.孚兌吉.悔亡. Cửu nhị: Phu đoài, cát, hối vong. Dịch: Hào 2, dương: Trung trực mà vui vẻ, tốt, hối hận mất đi. Giảng:
Ở gần hào 3, âm nhu, tiểu nhân, nhưng hào 2 này đã dương cương mà lại
đắc trung, cho nên có đức thành thực cương trung, không nhiễm xấu của
hào 3, không bị hối hận. 3. 六三: 來兌凶. Lục tam: Lai đoài, hung. Dịch: Hào 3, âm: Quay lại cầu vui với người ở dưới, xấu. Giảng:
Âm nhu, bất trung bất chính, là hạng tiểu nhân tìm vui mà không giữ
đạo; là phận gái ở giữa bốn người con trai (4 hào dương, 2 ở trên, 2 ở
dưới), cầu vui với 2 người ở trên, thì không dám vì phận thấp, phải
quay lại cầu với 2 người ở dưới, nhưng họ cũng không thèm, vì hào 1
cương trực mà chính, hào 2 cương trực mà trung, kết quả là xấu. 4. 九四: 商兌, 未寧, 介疾,有喜. Cửu tứ; Thương đoài, vị ninh, giới tật, hữu hỉ. Dịch: Hào 4, dương: cân nhắc xem nên cầu vui ở phía nào mà chưa quyết định được rồi sau theo chính bỏ tà, đáng mừng. Giảng:
Dương cương mà ở vị âm, chưa thật là quân tử, ở trên thừa tiếp hào 5
vừa trung vừa chính, nhưng ở dưới lại gần hào 3, tiểu nhân, cho nên mới
đầu do dự, cân nhắc xem nên hướng về phía nào; nhưng nhờ có đức dương
cương, đồng đức với 5, nên sau hướng về 5, quyết tâm bỏ tà theo chính,
thật đáng mừng. 5. 九五: 孚于剝, 有厲. Cửu ngũ : Phu vu bác, hữu lệ. Dịch: Hào 5, dương: Nếu tin kẻ tiểu nhân mà tiêu mòn (bác) hết đức trung chính của mình thì nguy. Giảng:
Hào này dương cương, trung chính, địa vị chí tôn, ở vào thời Đoái mà
thân cận với hào trên cùng âm nhu là kẻ tiêu nhân làm chủ sự vui, rồi
ham vui bậy bạ thì nguy; đây là lời răn kẻ trị nước. 6. 上六: 引兌. Thượng lục: Dẫn đoài. Dịch: Hào trên cùng, âm: Đem sự vui thú tới. Giảng:
Ở trên cùng quẻ Đoài mà âm nhu là kẻ chuyên siểm nịnh, dụ dỗ người ta
tìm vui một cách bất chính. Tất nhiên là xấu rồi, chẳng cần nói. * Chúng
ta để ý; 6 hào thì 2 hào âm là tiểu nhân dụ dỗ 4 hào dương quân tử, và
4 hào này giữ được chính đạo cả, vì Kinh dịch tin như Khổng tử rằng
muốn làm vui lòng người quân tử mà không dùng chính đạo thì không thành
công (duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt dã. Luận ngữ XIII 25).
hết: 58. QUẺ THUẦN ĐOÀI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:40am
59. QUẺ PHONG THỦY HOÁN
Trên là Tốn (gió), dưới là Khảm (nước) ䷺
Hoà vui đến cực điểm rồi thì sẽ ly tán, vì vậy sau quẻ đoài đến quẻ Hoán. Hoán là lìa, tan tác. Thoán từ. 渙; 亨.王假有廟.利涉大川.利貞. Hoán; hanh. Vương cách hữu miếu, Lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. Dịch: Lìa tan: hanh thông. Vua tới nhà Thái miếu, vượt qua sông lớn thì lợi, giữ đạo chính thì lợi. Giảng:
Trên là gió, dưới là nước (Khảm cũng có thể hiểu là mây – như quẻ Thủy
lôi Truân, cũng gọi là Vân Lôi truân); gió thổi trên nước (hay mây) làm
nước tung tóe ra (hay mây tan rã ra), cho nên đặt tên quẻ là Hoán. Thường
thì nhóm họp mới hanh thông (như quẻ tụy), nhưng ly tán cũng có khi
hanh thông, chẳng hạn sương mù tụ lại nhiều quá, nắng lên, nó tan đi
thì tốt, hoặc thời nhiễu loạn, dân chúng tụ họp lại chống đối, phải
giải tán đi v.v.. Hể hợp thời thì tốt, trái lại thì xấu. Muốn cho công
việc giải tán hanh thông thì nhà cầm quyền phải có lòng chí thành, như
một ông vua tới nhà Thái miếu; lại phải biết mạo hiểm như có gan vượt
qua sông lớn; sau cùng phải giữ đạo chính, đừng làm những việc bất
chính. Thoán truyện giảng ý nghĩa hanh thông của quẻ này như sau:
nội quái vốn là quẻ Khôn, một hào dương của quẻ Càn vào thay hào 2 quẻ
Khôn mà thành quẻ Khảm; ngoại quái vốn là quẻ Càn, hào 1 quẻ Khôn vào
thay hào 1 quẻ Càn, thành quẻ Tốn. Vậy là trong trùng quái Hoán có một
hào dương cương ở trong, một hào âm nhu ở ngoài, mà hào này đắc vị,
thuận theo 2 hào dương ở trên nó để tiến lên, như vậy là tốt. Vượt
qua sông lớn mà có lợi vì quẻ có cái tượng gỗ (Tốn cũng là cây, gỗ) ở
trên nước, tức thuyền ở trên nước, nhờ thuyền mà qua sông được. Nghĩa
bóng là nhờ người có tài mà làm nên việc lớn. Đại Tượng truyện bàn
rộng ra, khuyên sau khi giải tán rồi lại nên nghĩ tới việc nhóm họp
lại, mà muốn nhóm họp, thống nhất nhân tâm thì nên đặt lễ tế Thượng đế,
tế Tổ tiên. Hào từ. 1. 初六: 用拯, 馬壯, 吉 Sơ lục: Dụng chứng, mã tráng, cát. Dịch: Hào 1, âm: Dùng con ngựa mạnh để cứu vớt, tốt. Giảng:
Ở đầu thời ly tán, còn có thể gom lại được; hào này âm nhu, kém tài,
không đủ sức, nhưng trên có hào 2 dương cương đắc trung, ỷ thác vào
được, như đi đường xa có con ngựa khỏe, cho nên tốt. 2. 九二: 渙,奔其机, 悔亡. Cửu nhị: Hoán, bôn kì kỉ, hối vong. Dịch: Hào 2, dương: Lúc ly tán, nên đựa vào hào 1 làm ghế ngồi thì hối hận mất đi. Giảng
: Thời này là thời ly tán rồi, dễ có việc ăn năn; hào này dương cương
đã giúp đựơc cho hào 1, bây giờ nên dựa vào 1 làm ghế ngồi, đỡ đần nhau
thì khỏi phải hối hận. 3. 六三: 渙其躬, 无悔. Lục tam: Hoán kì cung, vô hối. Dịch: Hào 3, âm: đánh tan lòng riêng tây của mình đi thì không hối hận. Giảng:
Hào này âm nhu, bất trung ,bất chính, là người có lòng vị kỉ, nhưng ở
vị dương lại được hào trên cùng chính ứng với nó, mà có lòng lo việc
đời (vì là dương cương); nếu 3 bỏ tính vị kỉ đi, lo gánh việc đời với
hào trên cùng, thì sẽ không hối hận. 4. 六四: 渙其群, 元吉.渙有丘, 匪夷所思. Lục tứ: hoán kì quần, nguyên cát. Hoán kì khâu, phỉ di sở tư. Dịch:
Hào 4 âm: Giải tán bè phái của mình đi, rất tốt. Vì như vậy là giải tán
cái nhỏ để tập hợp cái lớn lại thành gò đống; điều đó người thường
không thể nghĩ tới được. Giảng: Hào này âm nhu, thuận, giúp đỡ hào
5 vừa cương vừa đắc trung, như vị đại thần giúp một minh quân, mà biết
giải tán bè phái của mình đi (sở di nói vậy vì hào 1 ở dưới không ứng
viện với 4, cũng như 4 không còn bè phái), để đoàn kết, tập hợp cả quốc
dân mà cùng lo cứu nước; như vậy là giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại
thành gò đống, rất tốt. Người thường không hiểu được lẽ đó mà chê sao
lại giải tán đảng của mình. Muốn vậy phải là người đắc chính (âm ở vị
âm) , và đắc trung, cương cường như hào 5. 5. 九五: 渙汗其大號, 渙王居, 无咎. Cửu ngũ: Hoán hãn kì đại hiệu, hoán vương cư,vô cữu. Dịch:
Hào 5, dương: Ban bố hiệu lệnh lớn khắp nước như mồ hôi phát ra ở khắp
thân thể, phát hết kho lẫm của vua để chu cấp cho dân, không có lỗi. Giảng:
năm chữ “Hoán hãn kì đại hiệu” tối nghĩa. Chu Hi giảng là hủy bỏ các
hiệu lệnh trước đi, những hiệu lệnh đó như mồ hôi, chảy ra mà không trở
lại”. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên là ban bố hiệu lệnh
đi khắp nơi. J Legge và R. WilheLm cũng hiểu như vậy, nhưng giảng là
những hiệu lệnh đó cứu nguy được cho dân như người bị bệnh mà phát tán,
làm cho mồ hôi toát ra vậy. Ba chữ sau: “Hoán vương cư” nghĩa dễ
hiểu: vua nên tán tài để tụ dân, cũng như hào 4, giải tán bè phái để tụ
dân, đều là chính sách tốt ở thời ly tán cả. 6. 上九: 渙其血去, 逖出, 无咎. Thượng cửu: hoán kỳ huyết khử, địch xuất, vô cữu. Dịch:
Hào trên cùng, dương: Tan (trừ) được máu )vết thương cũ), thoát khỏi
kinh sợ (chữ [逖 ] ở đây nên đổi làm chữ dịch [惕] là kinh sợ), không có
lỗi. Giảng: hào này ở cuối thời ly tán, sắp hết xấu; nó có tài
(dương cương), lại được hào 3 ứng viện, cho nên nó thành công, trừ được
vết thương ly tán và thoát khỏi cảnh lo sợ. * Phan Bội Châu so sánh quẻ này với quẻ Tụy, đại ý như sau: Tụy
và Hoán là hai thời trái ngược nhau, một thời nhóm họp một thời lìa
tan, nhưng thời nào cũng hanh thông được cả, miễn là biết hành động hợp
lúc và có lòng chí thành: Thoán từ hai quẻ đều có 4 chữ: “Vua tới Thái
miếu”, nghĩa là phải chí thành như nhà vua khi vào tế ở Thái miếu. Nhưng
hai quẻ khác nhau ở chỗ. Tụy có 4 chữ: “lợi kiến đại nhân”, Hoán có 4
chữ: “Lợi thiệp đại xuyên” vì ở thời Tụy, thuận cảnh, chỉ cần có người
tài đức là làm nên việc còn ở thời Hoán, nghịch cảnh, phải có tài đức
mà lại phải mạo hiểm nữa. Đó là thâm ý của cổ nhân. Sáu hào quẻ
Hoán ý nghĩa rất phân minh: hào 1, còn mong cứu chữa được; hào 2 ly tán
đã nhiều rồi, chưa cứu được; hào 3 có thể bắt tay làm việc, muốn vậy
phải bỏ lòng vị kỷ đi; hào 4, phải giải tán bè phái để đoàn kết toàn
dân; hào 5 phải ra hiệu lệnh mới, ban phát của riêng, hào 6 thì thành
công. Quan trọng nhất là lời khuyên hào 4 và 5.
hết: 59. QUẺ PHONG THỦY HOÁN
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:51am
60. QUẺ THỦY TRẠCH TIẾT
Trên là Khảm (nước), dưới là Đoài (chằm) ䷻
Không thể để cho ly tán hoài được, tất phải chặn bắt lại, tiết chế lại, cho nên sau quẻ Hoán tới quẻ Tiết. Thoán từ: 節: 亨.苦節不可貞. Tiết : Hanh. Khổ tiết bất khả trinh. Dịch: Tiết chế thì hanh thông. Nhưng tiết tiết chế đến mức cực khổ thì không ai chịu được lâu. Giảng: Theo tượng quẻ, trên chằm có nước; bờ chằm hạn chế số nước chứa trong chằm, cho nên đặt tên là quẻ Tiết. Cái
gì cũng vừa phải thì mới tốt, thái quá cũng như bất cập đều xấu cả. Quẻ
này có ba hào cương, ba hào nhu, không bên nào quá; lại thêm hào 2 và
hào 5 đều là dương cương mà đắc trung, như vậy là xử sự đươc trúng
tiết, cho nên việc gì cũng hanh thông. Nhưng tiết chế qúa, bắt người ta
khổ cực thì không ai chịu được lâu, như vậy không còn hanh thông nữa. Thoán
truyện khuyên nhà cầm quyền nên theo luật tiết chế của trời đất: bốn
mùa thay đổi, nắng mưa, nóng lạnh đều có chừng mực, mà trị dân: hạn chế
lòng ham muốn, tính xa xỉ của con người, bắt dân làm việc vừa sức thôi,
như vậy không tốn của cải, không hại dân (tiết dĩ chế độ, bất thương
tài, bật hại dân). Lời đó giống lời khuyên trong Luận ngữ: “Tiết dụng
nhi ái dân” (dè dặt trong việc tiêu dùng mà yên dân). Đại tượng
truyện khuyên người quân tử (quân tử ở đây trỏ hạng người trị dân) đặt
ra số, độ, nghĩa là hạn định một chừng mực nào đó trong sự làm việc và
hưởng thụ của dân, tùy đạo đức, tài nghệ của mỗi người. (Quân tử, dĩ
chế số độ, nghị đức hạnh). Như vậy là Đại tượng truyện đã cho chữ tiết
một tác dụng rất lớn: tiết chế có nghĩa gần như kế hoạch hoá ngày nay
và có mục đích thi hành sự công bằng trong xã hội, như lời Đại tượng
truyện quẻ Khiêm (xứng vật bình thí: cho sự vật được cân xứng, quân
bình). Hào từ: 1. 初九: 不出戶庭, 无咎. sơ cửu: Bất xuất hội đình, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương: không ra khỏi sân ngõ, không có lỗi. Giảng:
Hào này dùng chữ tiết với nghĩa tự mình tiết chế mình, tức dè dặt. Ở
với tời Tiết chế, làm việc gì cũng phải đúng mức (trung tiết) mới tốt.
Hào, 1 dương cương , đắc chính, ở đầu thời Tiết chế, biết thận trọng,
không ra khỏi sân ngõ, vì biết là thời chưa thông, hãy còn tắc, như vậy
là đúng với đạo tiết chế, không có lỗi. Hai chữ “hộ đình chúng tôi dịch
theo nghĩa “ngoại chi đình” của Chu Hi. J legge dịch là không ra khỏi
cái sân ở ngoài cái cửa (door): R. Wilhelm dịch là không ra khỏi cái
sân và cái cửa (door). 2. 九二: 不出門庭, 凶. Cửu nhị: Bất xuất môn đình, hung. Dịch: Hào 2, dương: không ra khỏi cái sân ở trong cửa, xấu. Giảng:
Hào này đáng lẽ ra giúp việc được, vì thời đã khác thời của hào 1 đã
thông rồi không tắc nữa mà lại được hào 5 ở trên cũng dương như mình
giúp sức cho; vậy mà đóng cửa không ra cũng như 1, hành vi đó xấu
(hung). Chữ môn J.Legge và R Wilhelm đều dịch là gate, cửa ngõ,
tức cửa ở ngoài cùng. Từ Hải chỉ giảng: cửa có một cánh gọi là hộ, hai
cánh gọi là môn, tối không biêt cái nào là cửa ngõ, cái nào là cửa nhà.
Phan Bội Châu không phân biệt thế nào là môn, là hộ, dịch là cửa hết.
Ðiểm đó không quan trọng; chỉ cần hiểu đại khái là không ra khỏi nhà,
không đi đâu. 3. 六三: 不節若, 則嗟若,无咎. Lục tam: Bất tiết nhược, tất ta nhược, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: không dè dặt (tự tiết chế mình) mà phải than vãn, không đổ lỗi cho ai được. Giảng:
Âm nhu, bất trung bất chính, lại cưỡi lên hai hào dương, mà muốn tiến
tới cõi nguy hiểm (quẻ Khảm ở trên), như vậy là không biết dè dặt, tự
chế, rước vạ vào thân, còn đổ lỗi cho ai được nữa. 4. 六四.安節,亨. Lục tứ: An tiết, hanh. Dịch: Hào 4, âm: Vui vẻ tự tiết chế (không miễn cưỡng) hanh thông. Giảng: Nhu thuận, đắc chính, vâng theo hào 5, thực tâm dè dặt, tự tiết chế đúng thời, cho nên hanh thông. 5. 九五: 甘節, 吉.往有尚. Cửu ngũ: Cam tiết, cát. Vãng hữu thượng. Dịch: Hào 5, dương: Tiết chế mà vui vẻ (cho là ngon ngọt) thì tốt. Cứ thế mà tiến hành thì được người ta trọng, khen. Giảng:
Hào này ở vị chí tôn, làm chủ quẻ Tiết, có đủ các đức dương cương trung
chính tự tiết chế một cách vui vẻ, thiên hạ noi gương mà vui vẻ tiết
chế, cho nên tốt; và cứ thế mà tiến hành thì có công lớn, đáng khen. 6. 上六: 苦節, 貞凶, 悔亡. Thượng lục: Khổ tiết, trinh hung. Hối vong. Dịch:
Hào trên cùng, âm: Tiết chế mà tới mức cực khổ, nếu cứ giữ mãi (trinh)
thôi đó thì xấu. Nếu biết hối hận, bớt thái quá đi thì hết xấu. Giảng:
Hào này trái với hào trên, vì ở trên cùng quẻ Tiết, có nghĩa là tiết
chế thái quá, tới cực khổ, không ai chịu được hoài như vậy. Hai
chữ “hối vong” ở đây không có nghĩa thường dùng là hối hận tiêu tan đi,
mà có nghĩa là nếu hối hận thì cái xấu (hung) sẽ tiêu tan đi. Sau
một cuộc ly tán, phong tục suy đồi, kinh tế cùng quẩn, cho nên phải
tiết dục, tiết chế nhu cầu. Nhưng tiết chế một cách vừa phải thôi
(không nên thái quá) mà hợp thời thì mới tốt. Chúng ta nhận thấy 6 hào
chia làm 3 cặp: 1 và 2 liền nhau mà 1 tốt, 2 xấu; 3 với 4 liền nhau mà
3 xấu, 4 tốt; 5 và 6 liền nhau mà 5 tốt 6 xấu; chỉ do lẽ hoặc hợp thời
hay không, đắc trung, đắc chính hay không.
hết: 60. QUẺ THỦY TRẠCH TIẾT
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 4:52am
61. QUẺ PHONG TRẠCH TRUNG PHU
Trên là Tốn (gió), dưới là Đoài (chằm) ䷼
Đã định tiết chế thì người trên phải giữ đức tín để người dưới tin
theo, cho nên sau quẻ Tiết tới quẻ Trung phu. Trung phu là có đức tin
(phu) ở trong (trung) lòng. Thoán từ: 中孚: 豚魚吉, 利涉大川, 利貞. Trung phu: Đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. Dịch: trong lòng có đức tin tới cảm được heo và cá, tốt như vậy thì lội qua sông lớn được, giữ đạo chính thì lợi. Giảng:
quẻ này ở giữa có hai hào âm (hai nét đứt), như trong lòng trống rỗng
(hư tâm) không có tư dục, tư ý; còn 4 hào dương là nét liền, đặc, thực
(trái với hư), mà hào 2 và hào 5 lại đắc trung (ở giữa nội và ngoại
quái), vậy là có đức trung thực. Do đó mà đặt tên quẻ là Trung phu. Theo nghĩa thì trên là Tốn, thuận với người dưới; dưới là Đoài, phục tòng người trên; như vậy là cảm hoá được dân. Lòng
chí thành cảm được những vật ngu, không biết gì như heo và cá. Lấy lòng
chí thành, hư tâm mà ứng phó với nguy hiểm thì vượt được hết, như qua
sông lớn mà ngồi chiếc thuyền trống không (hư chu), không chở gì cả,
thật là an toàn. Phải giữ chính đạo mới tốt. Đại Tượng truyện
giảng: gió ở trên, chằm ở dưới, là gió (làm ) động được nước như lòng
thành thực cảm động được người. Nên tuy lòng trung thành mà xử việc
thiên hạ; như xử tội thì sét đi xét lại, tìm cách cứu tội nhân, tha cho
tội chết. Hào từ: 1. 初九: 虞吉, 有它, 不燕. Sơ cửu: Ngu cát, hữu tha, bất yến. Dịch: Hào 1, dương: liệu tính cho chắc chắn rồi mới tin thì tốt; có lòng nghĩ khác thì không yên. Giảng:
Hào này mới vào thời Trung phu, tuy ứng với hào 4, âm nhu, đắc chính là
người đáng tin, nhương bước đầu, phải xét cho kỹ lưỡng xem 4 có đáng
tin không, khi đã tin rồi thì đừng đổi chí hướng, lòng phải định rồi
mới tĩnh mà yên được. 2. 九二: 鶴鳴在陰.其子和之.我有好爵.吾與爾靡之. Cửu nhị: Minh hạc tại âm, kỳ tử hoạ chi; Ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mĩ chi. Dịch: Hào 2, dương: Như con hạc mẹ gáy ở bóng râm, con con nó hoạ lại; lại như tôi có chén rượu ngon, tôi cùng anh chia nhau. Giảng:
Hào này ứng với hào 5 ở trên, cả hai đều có đức dương cương , lại đắc
trung đều có lòng thành thực, đều là những hào quan trọng trong quẻ
Trung phu; hai bên cảm ứng, tương đắc với nhau như hạc mẹ gáy mà hạc
con hoạ lại, hoặc như một người có chén rượu ngon mà chia với bạn. Theo Hệ từ thượng truyện, Chương VIII, số 5, Khổng tử giải thích ý nghĩa hào này như sau: “Người
quân tử ở trong nhà mà nói ra, nếu lời nói hay thì người ngoài nghìn
dặm cũng hưởng ứng, huống chi là người ở gần; . . hành vi từ gần phát
ra thì ảnh hưởng hiện ngay ở xa . . như vậy chẳng nên thận trọng lắm
ư?” Khổng tử đã hiểu rộng “tiếng gáy của con hạc” là lời nói hay;
và “chén rượu ngon’ là hành vi đẹp, mà khuyên chúng ta phải thận trọng
về ngôn, hành. 3. 六三: 得敵, 成鼓, 或罷, 或泣, 或歌. Lục tam: Đắc dịch, hoặc cổ, hoặc bãi, hoặc khấp, hoặc ca. Dịch: Hào 3, âm: gặp được bạn (địch) lúc thì đánh trống vui múa, lúc thì chán nản mà ngừng, lúc thì khóc, lúc thì hát. Giảng:
Hào này âm nhu bất chính, bất trung, ứng với hào ở trên cùng, dương
cương mà bất trung, bất chính, như hai người ăn ở với nhau mà không
thành thực, tính tình thay đổi luôn luôn, vui đó rồi khóc đó “Hoặc cổ
hoặc bãi”, (có người hiểu là: lúc thì cổ võ, lúc thì bỏ đi). 4. 六四: 月幾望, 馬匹亡, 无咎. Lục tứ: Nguyệt cơ vọng, mã thất vong, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Trăng mười bốn (gần tới rằm), con người bỏ bạn mà tiến lên, không lỗi. Giảng
: Hào này đắc chính, thân cận với hào 5, được vua tín nhiệm sự thịnh
vượng đã gần tới tuyệt đỉnh rồi, như trăng mười bốn gần đến ngày rằm.
Nó ứng với hào 1, hai bên cặp kè nhau như cặp ngựa, nhưng nó biết phục
tòng đạo lý, nên sau bỏ 1, để chuyên nhất với 5, như vậy không có tội
lỗi gì. 5. 九五: 有孚攣如, 无咎. Cửu ngũ: Hữu phu luyến như, vô cữu. Dịch: Hào 5, dương: có lòng chí thành ràng buộc, không lỗi. Giảng: Như trên đã nói, hào này ở ngôi chí tôn, có đủ đức trung chính, thành tín buộc được lòng thiên hạ. 6. 上九: 翰音登于天, 貞凶. Thượng cửu: Hàn âm đăng vu thiên, trinh hung. Dịch: Hào trên cùng, dương: tiếng gà lên tận trời, dù có chính đáng cũng xấu. Giảng:
Hào này dương cương, không đắc trung lại ở vào thời thành tín đã cùng
cực, đức tin đã suy, vậy là có danh mà không có thực. Lại thêm không
biết biến thông, muốn cố giữ đức tín (vì có tính dương cương, cho nên
ví với con gà không là loài bay cao được mà muốn lên tới trời. Vậy
lòng thành tín vẫn là tốt, nhưng phải đừng thái quá mà biết biến thông,
Phan Bội Châu nhắc truyện ngụ ngôn anh chàng họ Vĩ (có sách nói là họ
Vi) thời Xuân Thu hẹn với một người con gái ở dưới cầu; người đó không
tới, nước lên cao, anh ta cứ ôm cột cầu chịu chêt. Tín như vậy là ngu,
không biết biến thông.
hết: 61. QUẺ PHONG TRẠCH TRUNG PHU,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 5:54am
62. QUẺ LÔI SƠN TIỂU QUÁ
Trên là Chấn (sấm), dưới là Cấn (núi) ䷽
Tin (Trung phu) mà làm ngay, không xét đều tin đó phải hay không , thì
có thể mắc lầm lỗi, cho nên sau quẻ Trung phu tới quẻ Tiểu quá. Quá có
hai nghĩa: lỗi; ra ngoài cái mức vừa phải thoán từ dưới đây dùng nghĩa
sau. Thoán từ: 小過: 亨, 利貞. 可小事, 不可 大事.飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉. Tiểu quá: Hanh, lợi trinh. Khả tiểu sự, bất khả đại sự. Phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát. Dịch:
Cái nhỏ nhiều: Hanh thông hợp đạo chính thì lợi. Có thể làm việc nhỏ,
không thể làm việc lớn. Con chim bay mà để tiếng kêu lại, không nên lên
cao mà nên xuống thấp. Người quân tử biết được như vậy thì tốt. Giảng:
Quẻ này trái với quẻ Đại quá số 28. đại quá có 4 hào dương ở giữa, 2
hào âm ở dưới cùng và trên cùng, như vậy dương nhiều hơn âm, mà dương
có nghĩa là lớn, âm là nhỏ, cho nên Đại quá có nghĩa là cái lớn (dương)
nhiều hơn. Tiểu quá có 2 hào dương ở giữa, 4 hào âm ở trên và dưới, như
vậy là âm – tức cái nhỏ - nhiều hơn dương tức cái lớn; cho nên đặt tên
là Tiểu quá. Tiểu quá là cái nhỏ nhiều hơn; nhưng cũng có nghĩa là quá
chút ít. Bình thường thì vừa phải là hay. Nhưng cũng có khi quá
một chút lại hay, chẳng hạn trong nhà, chồng tiêu pha nhiều quá, vợ
chắt bóp một chút để được trung bình; hoặc khi thiên về bên tả quá,
muốn lấy lại mức trung thì lại nên thiên về bên hữu một chút. Nhưng
việc gì cũng phải hợp lẽ, hợp thời, hợp đạo chính thì mới được. Đó là ý
nghĩa câu đầu. Câu thứ hai” “Chỉ nên “quá” trong việc nhỏ, không
nên “quá trong việc lớn; vì việc nhỏ, lỡ có quá một chút, hậu quả không
tai hại, còn việc lớn mà lỡ quá một chút, một li có thể đi một dặm hậu
quả rât nặng nề, như việc nước, lỗi lầm một chút có thể gây chiến tranh
hoặc sự suy sụp về kinh tế. . . . Thoán truyện giảng: Các hào dương (lớn) đều không đắc trung, là quân tử nhất thời, không làm việc lớn được. Câu
thứ ba tối nghĩa, không hiểu sao lại dùng tượng con chim bay ở đây. Mỗi
nhà giải thích một khác: Chu Hi bảo “trong thực, ngoài hư như con chim
bay”, có lẽ vì cho hai hào âm ở dưới như hai chân chim, hai hào âm ở
trên như hai cánh chim xòe ra? Còn về ý nghĩa thì có người giảng: người
quân tử ở thời Tiểu quá nên khiêm tốn, không nên có tiếng tăm lớn, chỉ
nên như tiếng chim kêu khi bay, thoáng qua mà thôi; mà cũng không nên ở
ngôi cao, như con chim không nên bay lên cao. Hai chữ “đại cát”, các
sách đều dịch là rất tốt; Phan Bội Châu dịch là tốt cho người quân tử,
nếu đừng có tiếng tăm, đừng ở ngôi cao “Đại” đó trỏ người quân tử. Đại
Tượng truyện giản: Chấn ở trên Cấn là tiếng sấm ở trên núi, bị nghẹt vì
núi mà thu hẹp lại, nên gọi là Tiểu quá. Người quân tử ở thời này chỉ
nên làm quá trong việc nhỏ, như có thể quá cung kính, quá thương cảm
trong việc ma chay, quá tiết kiệm. Hào từ: 1 初六.飛鳥以凶. Sơ lục: Phi điểu dĩ hung. Dịch: Hào 1, âm: Chim (nên nấp mà lại) bay, nên xấu. Giảng:
Hào này âm nhu, bất tài, được hào 4, dương; giúp, lại ở thời “hơi quá”
(Tiểu quá), nên hăng hái muốn làm việc quá, e mắc vạ, cho nên xấu. Chỉ
nên làm chim nấp, đừng làm chim bay. 2. 六二: 過其祖, 遇其妣, 不及其君. 遇其臣, 无咎. Lục nhị: Quá kì tổ, ngộ kì tỉ, bất cập kì quân. Ngộ kì thần ,vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: Vượt qua ông mà gặp bà; không được gặp vua thì nên giữ phận bề tôi, như vậy không lỗi. Giảng:
Hào nay nhu thuận, trung chính ở vào thời Tiểu qua,1 có quá một chút mà
không lỗi. Nó là âm đáng lẽ cầu dương mà nó lại vượt hai hào dương (3
và 4 ) để gặp (ứng với 5) nghĩa là gặp âm nữa, cho nên Hào từ nói là
vượt ông mà gặp bà. Hào từ khuyên hào này ở thấp, là phận làm tôi,
không gặp được vua thì cứ giữ phận bề tôi (đứng vào hàng những bề tôi
khác) . Hào này tối nghĩa, chúng tôi dịch theo Phan Bội Châu, Chu
Hi giảng là: không gặp được vua thì gặp bề tôi, như vậy là giữ được
trung, chính, tuy hơi quá (vì muốn gặp vua) mà không lỗi (sau gặp bề
tôi). Cả hai cách giảng đều không xuôi. 3. 九三.弗過防之, 從或戕之, 凶. Cửu tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung. Dịch: Hào 3, dương: Chẳng quá phòng bị (tiểu nhân) thì rồi sẽ bị chúng làm hại đấy. Giảng:
Thời Tiểu qua; tiểu nhân nhiều hơn quân tử, nên đề phòng quá cẩn thận
thì tốt. Hào này dương cương đắc chính là quân tử, nhưng vì quá cương
(dương ở vị dương), tự thị, không đề phòng cẩn thận nên bị vạ. Hào này
xấu nhất trong quẻ vì bị 2 hào âm ở trên ép xuống, 2 hào âm ở dưới thúc
lên, chỉ có mỗi hào 4 là bạn, mà chẳng giúp được gì. 4. 九四: 无咎, 弗過遇之, 往厲, 必戒; 勿用永貞. Cửu tứ: vô cữu, phất quá ngộ chi, vãng lệ, tất giới; vật dụng vĩnh trinh. Dịch:
Hào 4, dương: không lỗi vì không quá dương mà vừa đúng với đạo lý thời
Tiểu quá; nếu tiến tới thì nguy, nên răn về điều đó, đừng cố giữ đức
cương của mình, mà nên biến thông. Giảng: hoàn cảnh hào này y hệt
hào 3; cũng bị 2 hào âm ép ở trên, 2 hào âm thúc ở dưới, và cũng ở chỗ
chưa dứt được với nội quái, chưa lên hẳn được ngoại quái, đáng lẽ cũng
xấu, nhưng nhờ 4 tuy dương mà ở vị âm, như vậy là hơi biết mềm dẻo,
không quá cương như 3, đúng với đạo lý thời Tiểu quá, chi nên không có
lỗi. Tuy nhiên phải nhớ đừng tiến lên mà theo hai hào âm, như vậy
là quá nhu mất, sẽ nguy; mà cũng đừng cố chấp giữ tính dương cương của
mình, mà nên biến thông. 5. 六五: 密雲不雨, 自我西郊; 公弋,取彼在穴. Lục ngũ: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao; Công dặc, thủ bỉ tại huyệt. Dịch: Hào 5, âm: mây kịt mà không mưa ở cõi tây của ta, công bắn mà bắt lấy nó ở hang. Giảng:
Âm dương tiếp xúc với nhau thì mới thành mua, nay âm lên quá cao rồi
(hào 5), dương ở dưới, âm dương bất hoà, có cái tượng mây kịt mà không
mưa ở cõi tây của ta (như thoán từ quẻ Tiểu súc số 9), đại ý là không
làm được gì cả; vì là âm nhu, bất tài lại ở vào thời âm nhiều quá. Chỉ
có một cách là xuống tìm hào 2, cũng âm, mà làm bạn. Chữ “cộng” (ông) ở
đây trỏ hào 5, “bỉ” (nó) trỏ hào 2; hào 2 ở vị âm, tối tăm cho nên ví
với cái hang. 6. 上六: 弗遇過之, 飛鳥離之. 凶, 是謂災眚. Thượng lục: phất ngộ quá chi, phi điểu li chi. Hung, thị vị tai sảnh. Dịch: Hào trên cùng, âm: không đúng với đạo mà lại sai quá, như cánh chim bay cao quá, xa quá, sợ bị tai vạ. Giảng:
Hào này âm nhu, mà biến động vì ở ngoại quái Chấn (động), lại ở vào
cuối thời Tiểu quá,1 là thái quá, cho nên bảo là sai đạo quá; có cái
tượng con chim bay cao quá, xa quá rồi; khó kéo lại được mà còn sợ bị
tai vạ nữa. Hào 6 này âm là tiểu nhân, tiểu nhân mà vượt lên trên quân
tử (dương hào 4), cho nên răn là sẽ bị tai hoạ. Quẻ này khuyên
quân tử ở vào thời tiểu nhân quá nhiều thì đừng nên quá cương như hào
3, mà nên mềm mỏng một chút, biến thông như hào 4.
hết: 62. QUẺ LÔI SƠN TIỂU QUÁ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 5:56am
63. QUẺ THỦY HỎA KÍ TẾ
Trên là Khảm (nước), dưới là ly (lửa) ䷾
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm
nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua
sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành. Thoán từ. 既濟: 亨小, 利貞.初吉, 終亂. Kí tế: Hanh tiểu, lợi trinh. Sơ cát, chung loạn. Dịch:
đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc
đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét). Giảng:
Trong thoán từ này, hai chữ ‘Hanh tiểu”, Chu Hi ngờ là “tiểu hanh” mới
đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách
hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như
trên. Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở
dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau,
giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc
lên mà nước mới nóng, mới sôi được. Lại xét sáu hào trong 1 : hào
dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có
ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6
âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông. Ở
vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho
xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ
được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát
bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn. Thoán truyện giảng
mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt
cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc
loạn). Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy. Hào từ. 1. 初九: 曳其輪, 濡其尾, 无咎. Sơ cửu: duê kì luân, nhu kì vĩ, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương: kéo lết bánh xe (chậm lại), làm ướt cái đuôi thì không có lỗi. Giảng:
hào này là dương, có tài, ở trong nội quái Ly (lửa) có tính nóng nảy,
lại ở đầu quẻ Kí tế, có chí cầu tiến quá hăng. Nên hào từ khuyên phải
thận trọng, thủng thẳng (kéo lết bánh xe lại), chưa qua sông được đâu
(như con chồn ướt cái đuôi, không lội được), như vậy mới khỏi có lỗi . 2. 六二: 婦喪其茀, 勿逐, 七日得. Lục nhị: Phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc. Dịch : Hào 2, âm: Như người đàn bà đánh mất cái màn xe, đừng đuổi theo mà lấy lại cứ đợi bảy ngày sẽ được. Giảng:
Hào này ở giữa nội quái Ly, có đức văn minh, trung chính, có thể thực
hiện được chí mình. Nó ứng với hào 5 dương cương, trung chính, ở địa vị
chí tốn; nhưng ở thời Kí tế, đã xong việc, nên 5 không đoái hoài tới 2,
thành thử 2 như người đàn bà có xe để đi. Mà đánh mất cái màn che bốn
mặt xe, không đi được. Tuy nhiên vì 2 trung chính mà đạo trung, chính
không bị bỏ lâu bao giờ, nên đừng mất công theo đuổi, cứ đợi rồi tự
nhiên sẽ được như ý. 3. 九三: 高宗伐鬼方三年,克之.小人勿用. Cửu tam: Cao tôn phạt quỉ Phương tam niên, khắc chi. Tiểu nhân vật dụng. Dịch : Hào 3, dương: Vua Cao Tôn đánh nước Quỉ Phương, ba năm mới được, đừng dùng kẻ tiểu nhân. Giảng:
Hào này là dương ở vị dương, nên quá cương cường, hoá ra khinh suất,
phải thận trong như vua Cao Tôn, tức Vũ đinh (1324-1264) nhà Ân, khi
đánh một rợ nhỏ là quỉ Phương mà cũng mất ba năm mới được. Đừng dùng kẻ tiểu nhân là lời khuyên chung, chứ không phải chỉ khuyên riêng hào 3 này. 4. 六四: 繻有衣袽, 終日戒. Lục tứ: chu hữu y như, chung nhật giới. Dịch : Hào 4, âm: Thuyền bị nước vào, có giẻ để bít lỗ, phải răn sợ suốt ngày. Giảng:
Đã bắt đầu lên ngoại quái Khảm, nguy hiểm, phải phòng bị cẩn thận, như
người ngồi chiếc thuyền bị nước vào, phải có giẻ để bít lỗ. Hào này âm
nhu, ở vị âm, đắc chính, là người thận trọng biết lo sợ. 5. 九五: 東鄰殺牛, 不如西鄰之禴祭, 實受其福. Cửu ngũ: Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kì phúc. Dịch:
Hào 5, dương: Hàng xóm bên đông mổ bò (làm tế lễ lớn) mà thực tế không
hưởng được phúc bằng hàng xóm bên tây chỉ tế lễ sơ sài. Giảng:
Hàng xóm bên đông là hào 5, bên tây là hào 2. Cả hai hào đều đắc trung,
đắc chính, lòng chí thành ngang nhau; 5 ở địa vị chí tôn làm lễ lớn,
nhưng được hưởng phúc thì 2 lại hơn 5, chỉ vì 2 gặp thời hơn; 2 ở vào
đoạn đầu Kí tế sức tiến còn mạnh, tương lai còn nhiều; 5 ở vào gần cuối
Kí tế, lại ở giữa quẻ Khảm (hiểm), tiến tới mức chót rồi, sắp nguy,
thịnh cực thì phải suy. 6. 上六: 濡其首, 厲. Thượng lục: Nhu kì thủ, lệ. Dịch: Hào trên cùng, âm: Ướt cái đầu, nguy. Giảng:
tiểu nhân bất tài (hào này là âm) ở thời cuối cùng của Kí tê, lại ở
trên hết quẻ khảm, càng nguy nữa, như một người lội qua sông, nước ngập
cả đầu. * Kí tế vốn là một quẻ
tốt, nhưng chỉ ba hào đầu là khá tốt, còn ba hào sau thì càng tiến lên
càng xấu: hào 5, kém phúc hào 2, mà hào trên cùng (ướt đầu) so với hào
1 (ướt đuôi) còn xấu hơn nhiều. Vẫn là lời khuyên gặp thời thịnh phải
cẩn thận, đề phòng lúc suy.
hết: 63. QUẺ THỦY HỎA KÍ TẾ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 12/Mar/2009 lúc 5:58am
64. QUẺ HỎA THỦY VỊ TẾ
Trên là Ly (lửa), dưới là Khảm (nước) ䷿
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có
lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời
khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô
cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau
quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết. Thoán từ: 未濟: 亨.小狐汔濟, 濡其尾, 无攸利. Vị tế: Hanh. Tiểu hồ ngật tế, nhu kì vĩ, vô du lợi. Dịch:
chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua
sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả. Giảng:
Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao
nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm,
mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong. Vị tế chứ không
phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ
có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có
đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại
tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên
việc: thêm một lẽ hanh thông nữa. Thoán từ khuyên đừng nên như con
chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái
đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục
được đến cùng. Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người,
vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước
chẳng hạn như quẻ này. Hào từ: 1. 初六: 濡其尾, 吝. Sơ lục: nhu kì vĩ, lận. Dịch: Hào 1, âm: để ướt cái đuôi, đáng ân hận. Giảng:
Âm nhu, tài kém, ở vào đầu thời Vị tế, mà lại bước chân vào chỗ hiểm
(khảm), như con chồn sắp sửa qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không
biết tính trước phải ân hận. 2. 九二: 曳其輪, 貞吉. Cửu nhị: Duệ kì luân, trinh cát. Dịch: Hào 2, dương: kéo lết bánh xe, giữ đạo trung chính thì tốt. Giảng:
dương cương là có tài, ở vị âm là bất chính, thấy hào 5 ở ngôi tôn, ứng
với mình là âm nhu, có ý muốn lấn lướt 5, như vậy sẽ hỏng việc, cho nên
hào từ khuyên nên giảm tính cương của mình đi (như kéo lết bánh xe, hãm
bớt lại) và giữ đạo trung của mình (hào 2 đắc trung) thì tốt, vì hễ
trung thì có thể chính được. 3. 六三: 未濟, 征凶, 利涉大川. Lục tam: Vị tế: chinh hung, lợi thiệp đại xuyên. Dịch: Hào 3, âm: chưa thành đâu, nếu cứ tiến hành thì bị hoạ, vượt qua sông lớn thì lợi. Giảng:
Âm nhu, vô tài, lại bất trung, bất chính, không làm nên việc đâu, nếu
cứ tiến hành thì xấu. Nhưng đã cảnh cáo: tiến hành thì xấu mà sao lại
bảo qua sông lớn thì lợi? Mâu thuẩn chăng? Vì vậy mà có người ngờ trước
chữ lợi, thiếu chữ bất vượt qua sông lớn thì không lợi, mới phải. Có
thể giảng như vầy: xét về tài đức của 3 thì không nên tiến hành, nhưng
xét về thời của 3: Ở cuối quẻ Khảm, là sắp có thoát hiểm, hơn nữa trên
có hào 6 dương cương giúp cho, thì sắp có cơ hội vượt qua sông lớn
được. Lúc đó sẽ có lợi. 4. 九四: 貞吉, 悔亡.震用伐鬼方, 三年. 有賞于大國. Cửu tứ: trinh cát, hối vong. Chấn dụng phạt Quỉ Phương, tam niên. Hữu thưởng vu đại quốc. Dịch:
Hào 4, dương: giữ đạo chính thì tốt, hối hận mất đi. Phấn phát (Chấn)
tinh thần, cổ vũ dũng khi mà đánh nước quỉ Phương, lâu ba năm, nhưng
rồi được nước lớn thưởng cho. Giảng: Có tài dương cương, mà ở vào
thời thoát khỏi hiểm (nội quái Khảm), tiến lên cõi sáng của văn minh
(ngoại quái Ly), trên có hào 5, âm , là ông vua tin vậy mình ,thì đáng
lẽ tốt. Chỉ vì hào 4 này bất chính (dương ở vị âm) nên khuyên phải giữ
đạo chính. Lại khuyên phải phấn phát tinh thần và kiên nhẫn mới làm
được việc lớn cho xã hội, như việc đánh nước quỉ phương thời vua Cao
Tôn (coi hào 3, quẻ Kí tế) ba năm mới thành công. 5. 六五: 貞,吉,无悔.君子之光有孚.吉. Lục ngũ: trinh, cát, vô hối. Quân tử chi quang hữu phu, cát. Dịch: Hào 5, âm: Có đức trung chính, tốt, không có lỗi. Đức văn minh của người quân tử do chí thành mà rực rỡ, tốt. Giảng:
Hào này âm ở vị dương là bất chính, nhưng vì âm nhu, đắc trung (trung
còn tốt hơn chính) ở vào giữa ngoại quái Ly, là có đức văn minh rực rỡ,
lại ứng với hào 2 đắc trung, dương cương ở dưới, nên hai lần được khen
là tốt; lần đầu vì có đức trung, văn minh lần sau vì có lòng chí thành,
hết lòng tin ở hào 2. 6. 上九: 有孚于飲酒, 无咎.濡其首, 有孚, 失是. Thượng cữu: Hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu Nhu kì thủ, hữu phu, thất thị. Dịch:
Hào trên cùng, dương: tin tưởng chờ đợi như thong thả uống rượu chơi
thì không lỗi, nếu quá tự tin mà chìm đắm trong rượu chè (ướt cái đầu)
thì là bậy. Giảng: Dương cương ở trên cùng quẻ là cương tới dùng
cực, cũng ở cuối ngoại quái Ly là sáng đến cùng cực, đều là quá cả. Sắp
hết thời Vị tế rồi, mà hào 4 và 5 đã làm được nhiều việc rồi, hào 6 này
chỉ nên tự tín, lạc thiên an mệnh, vui thì uống rượu chơi mà chờ thời,
như vậy không có lỗi. Nếu quá tự tín đến mức chìm đắm trong rượu chè
(như con chồn ướt cái đầu), không biết tiết độ thì mất cái nghĩa, hoá
bậy. * Kinh Dịch bắt đầu bằng
hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo
vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Kí tế và Vị tế đã xong
rồi lại chưa xong; như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc
của loài người, không bao giờ xong, cái gì tớt chung rồi lại tiếp ngay
tới thủy. Mà đạo Dịch cũng vậy không bao giờ hết. Dịch cho ta niềm hy
vọng ở tương lai. Thật là một triết lý lạc quan.
hết: 64. QUẺ HỎA THỦY VỊ TẾ,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:03am
Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
HỆ TỪ TRUYỆN-THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG - CHƯƠNG I
Cũng gọi là ĐẠI TRUYỆN
1. Thiên tôn địa ti, Càn khôn định hĩ; ti cao dĩ trần, quí tiện vị hĩ. Động tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hĩ. Phương dĩ tụ loại, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hĩ. Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hoá hiện hĩ. (1). Dịch:
(vì thấy) trời cao đất thấp (mà thánh nhân) vạch ra quẻ Càn và quẻ
Khôn; cao thấp đã bày ra thì định được quí và tiện (dương quí mà âm
tiện). Động và tĩnh đã có luật nhất định do đó mà phân biệt cương và nhu (dương là cương động; âm là nhu, tĩnh). Việc
(1) có xu hướng phải trái nên sắp với nhau thành nhóm; vật có hình
riêng nên chia ra từng bầy; do đó mà đặt ra lời cát và hung. Xem
trên trời thấy (nhật nguyệt tinh thần . . .) thành ra nhiều tượng; xem
dưới đất thấy (núi sông, vạn vật . . .) thành ra nhiều hình; sự biến
hoá như vậy đã hiện rõ. Chú thích: tiết này nói về nguồn gốc và nguyên lý Kinh dịch. (1).
Chữ phương ở đây có người hiểu là nơi và dịch: các loài tụ lại từng
phương. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. R. Wilhelm dịch
là biến cố. 2. Thị cố cương nhu tương ma, bát quái tương đăng. Dịch:
cho nên cứng và mềm cọ nhau, giao nhau mà thành bát quái, bát quái luân
chuyển nhau (chồng lẫn lên nhau mà thành sáu mươi bốn quẻ). 3. Cổ chi dĩ lôi đình, nhuận chi dĩ phong vũ, nhật nguyệt vận hành, nhất hàn nhất thử. Dịch
: Cổ động cho muôn vật bằng sấm sét (ám chỉ quẻ Chấn); thấm nhuần cho
muôn vật bằng gió mưa (ám chỉ quẻ Tốn), mặt trời mặt trăng xoay vần, cứ
lạnh rồi tới nóng (thay đổi nhau hoài). Chú thích: đây nói về sự biến hoá thành ra các tượng ở trên trời. 4. Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ. Dịch: Có đạo Càn (tức khí dương) nên thành giống đực, có đạo Khôn (tức khí âm) nên thành giống cái. Chú
thích: Chữ đạo ở đây không có nghĩa là đạo đức, cũng không hẳn có nghĩa
như trong “Đạo đức kinh”. Có thể tạm coi là luật thiên nhiên. Nam, nữ
thường dịch là trai, gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người thôi,
nghĩa hẹp đi. 5. Càn tri thái (có người đọc là đại) thủy, Khôn tác thành vật. Dịch: đạo Càn làm chủ (tác động) lúc mới đầu (lúc chưa thành hình); rồi sau đạo Khôn làm cho (vạn vật) ngưng kết mà thành hình. Chú thích: Chữ tri ở đây không có nghĩa là biết; mà có nghĩa là làm chủ, như tri phủ, tri huyện. . . 6. Càn dĩ dị tri, khôn dĩ giản năng. Dịch:
Càn (nhờ đức cương kiện mà động nên) dễ dàng, không tốn sức mà làm chủ
tác động lúc mới đầu; Khôn (nhờ đức nhu thuận mà) đơn giản, không rối
ren mà tác thành vạn vật. Chú thích: tiết là tiếp tiết trên. Tiết
trên nói về công dụng của Càn, Khôn; tiết này nói về đức của Càn, khôn.
Chữ tri ở đây nghĩa như chữ tri ở trên, chữ năng ở đây nghĩa như chữ
tác ở trên. 7. Dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng. Dị tri tắc hữu
thân, dị tòng tắc hữu công. Hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại.
Khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp. Dịch:
(Người ta nếu bắt chước Càn, xử thế một cách) bình dị thì (lòng minh)
người khác dễ biết (1); (nếu bắt chước Khôn mà xử sự một cách) đơn giản
thì người khác dễ theo mình. Người khác dễ biết mình thì có nhiều người
thân với mình; người khác dễ theo mình thì mình lập được công lao. Có
nhiều người thân thì mình được lâu dài (2), lập được nhiều công thì sự
nghiệp mình lớn. Mình được lâu dài thì là có đức của hiền nhân, có sự
nghiệp lớn thì là có sự nghiệp của hiền nhân. Chú thích: Mấy tiết trên nói về đạo, đức của Càn, Khôn; tiết này nói về người hiền. (1)
Dị tắc dị tri: chữ tri ở đây không có nghĩa là làm chủ như trong hai
tiết trên, mà có nghĩa là biết. Chữ dị thứ nhất nghĩa là giản, chữ dị
thứ nhì (dị tri) là dễ, trái với nan là khó. (2) Cửu: lâu dài, có nghĩa là giữ chức vụ lâu, vì nhiều người đồng tâm với mình. 8. Dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hĩ, thiên hạ chi lý đắc nhi thành vị hồ kì trung hĩ. Dịch:
có đức “dị” (của Càn), có đức “giản” (của Khôn) thế là nắm được đạo lý
trong thiên hạ rồi; nắm được đạo lý trong thiên hạ, thế là có được cái
địa vị ở giữa trời và đất (cùng với trời đất thành ba ngôi: tam tài:
trời, người, đất, tham dự được với trời đất. Chú thích: thành vị
hồ kỳ trung, R. Wilhelm dịch là “sự toàn thiện ở trong đó” tức đạt được
sự toàn thiện. J.Legge, trong The I ching. Theo Chu Hi, dịch như chúng
tôi.
hết: HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG - CHƯƠNG I,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:15am
Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG II
1. Thánh nhân thiết quái, quan tượng, hệ từ yên nhi minh cát hung. Dịch: thánh nhân đặt ra quẻ, xem tượng ở trong quẻ , rồi ghép (1) lời đoán vào sau mỗi quẻ mỗi hào để tỏ rõ lẽ tốt, xấu. Chú thích: (1) Hệ có nghĩa là buộc. Thời xưa khắc chữ lên thẻ tre, và buộc các thẻ vào với nhau. 2. Cương nhu tương thôi nhi biến hoá. Dịch: Cương (quẻ hào dương), nhu (quẻ và hào âm) dời đẩy nhau mà sinh ra biến hoá (dương thành âm, âm thành dương). 3. Thị cố (1) cát hung giả, đắc thất chi tượng dã: hối lận giả, ưu ngu chi tượng dã. Dịch: Tốt xấu là cái tượng của sự đắc thất; hối tiếc là cái tượng của sự lo ngại. Chú thích: (1) chữ thị cố này thời xưa dùng để chuyển, không thực có nghĩa nhân quả, cho nên chúng tôi không dịch. 4. Biến hoá giả, tiến thoái chi tượng dã; cương nhu giả, trú dạ chi tượng dã; lục hào chi động, tam cực chi đạo dã. Dịch:
Biến hoá là hình tượng của sự tiến thoái; cương (dương) nhu (âm) là
hình tượng của ngày đêm; sáu hào động là cái lý cùng cực của tam tài
(trời, người, đất) (1) Chú thích: (1) Hào 6 và 5 là trời, hào 4 và 3 là người, hào 2 và 1 là đất; vì vậy bảo sáu hào là tam tài. 5. Thị cố quân tử sở cư nhi an giả. Dịch chi tự dã; sở lạc nhi ngoạn giả, hào chi từ dã. Dịch:
Người quân tử khi tự xử nhờ xem cái thứ tự của đạo Dịch (1) mà yên tâm;
nhờ lời đoán các hào mà vui thích, ngẫm nghĩ không chán. Chú
thích: (1) thứ tự của đạo Dịch tức lẽ đương nhiên sự việc nó phải biến
đổi theo trình tự nào đó, chẳng hạn thịnh rồi thì suy, cùng rồi thì
biến thông. 6. Thị cố quân tử cư tắc quan kỳ tượng nhi ngoạn kỳ
từ; động tắc quan kỳ biến nhi ngoạn kỳ chiêm; thị dĩ tự nhiên hữu chi,
cát vô bất lợi. Dịch: người quân tử khi ở yên thì xem tượng mà
ngẫm nghĩ lời kinh (10; khi hữu sự (muốn hành động) thì xem sự biến hoá
mà ngẫm nghĩ lời đoán quẻ (2) nhờ vậy mà được trời giúp cho gặp điều
tốt, không có gì chẳng lợi . Chú thích: (1) Chữ từ ở đây là lời giảng về mỗi quẻ, mỗi hào (quái từ, hào từ) tức là lời Kinh của Văn Vương, Chu Công. (2) chiêm là lời quẻ bảo về sự tốt xấu sẽ gặp, khi mình xin quẻ.
hết: CHƯƠNG II,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:22am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG III
1. Thoán giả, ngôn hồ tượng giả dã: hào giả, ngôn hồ biến giả dã. Dịch:
Lời “Thoán” (Thoán từ Văn Vương đặt ở dưới mỗi quẻ) là để chỉ rõ cái
tượng (ý tượng và hình tượng) của mỗi quẻ, lời hào (hào từ, Chu Công
đặt ở dưới mỗi hào) là để nói về sự trao đổi, biến hoá của các hào. 2. Cát hung giả, ngôn hồ kì thất đắc dã; hối lận giả, ngôn hồ kì tiểu tì dã; vô cữu giả, thiện bổ quá dã. Dịch: Cát (tốt) hung (xấu) là nói về sự đắc (được) thất (mất); hối lận là nói về những sai lầm nhỏ; vô cữu là khéo sửa lỗi. Chú thịch: Có sách giảng: hối: là có cơ được “cát”, lận” là có cơ bị “hung” 3. Thị cố liệt quí tiện giả, tồn hồ vị; tề tiểu đại giả, tồn hồ quái; biện cát hung giả, tồn hồ từ. Dịch:
cho nên xét vị (ngôi), của hào mà biết sang hay hèn (1); xem tượng của
quẻ mà cân nhắc (quyết định) được lớn (dương) hay nhỏ (âm) (2); xét lời
đoán mà phân biệt được tốt xấu. Chú thích: (1) Ví dụ hào 5 là sang, hào 1 là hèn. (2)
Ví dụ quẻ Bĩ, âm thịnh, cho nên thoán từ nói là “tiểu lai” (âm tới, vào
trong tức tiểu nhân ở trong); quẻ Thái dương thịnh, cho nên thoán từ
nói là “đại lại” (dương tới, tức quân tử ở trong). 4. Ưu hối lận giả tồn hồ giới, chấn vô cữu giả tồn hồ hối. Dịch:
Biết lo về những hối hận (lầm nhỏ) thì biết dự phòng ở chỗ giới hạn
giữa thiện và ác (lùi về một chút thì là thiện, tiến quá một chút thì
hoá ác); làm chấn khởi sự vô cữu (không lỗi) là ở sự ăn năn (biết ăn
năn tức là lòng sửa lỗi đã bắt đầu phát động, chấn lên – mà do đó có
thể sẽ không lỗi). 5. Thị cố quái hữu tiểu đại, từ hữu hiểm dị; từ dã giả các chỉ kỳ sở chi. Dịch: Cho nên quẻ thì có lớn nhỏ (1), lời thì có hiểm hóc hay dễ dàng, lời là để bảo cái hướng diễn biến (2). Chú thích: (1) Quẻ lớn là quẻ nào mà dương thịnh, âm suy (quân tử thinh, tiểu nhân suy); ngược lại là quẻ nhỏ. (2)
Biết cái hướng diễn biến của sự việc thì biết tránh cái xấu, tìm cái
tốt (xu cát tị hung); do đó “bảo cho ta cái hướng diễn biến” cũng là
bảo cho ta cách xử sự. Vậy nếu ta sáng suốt thì vẫn làm chủ được vận
mệnh của ta. Cơ hồ dịch chủ trương có thiên mệnh tức luật thiên nhiên
chứ không có định mệnh.
hết: CHƯƠNG III
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:38am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG IV
1. Dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa chi đạo. Dịch:
Kinh dịch (vì có đủ cái đạo của trời đất, cho nên) cùng làm chuẩn đích
với trời đất; do đó mà chỉnh đốn, sửa sang được đạo của trời đất. 2.
Ngưỡng dĩ quan ư thiên văn, phủ dĩ sát ư địa lý, thị cố tri u minh chi
cố. Nguyên thủy phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết. Tinh khí vi vật,
du hồn vi biến, thị cố tri quỉ thần chi tình trạng. Dịch: (Thánh
nhân trước khi làm Dịch) ngửng lên mà xem thiên văn, cúi xuống mà xem
địa lý, cho nên biết cái cơ sở dĩ u và minh (1). Suy nguyên từ trước,
trở lại về sau, nên biết cái thuyết sống chết (2). Tinh và khí là vật
chất hoạt động, hồn tan mà biến, nên biết được tình trạng quỉ thần (3)
. Chú thích: (1) U là tối, lúc mà vạn vật chưa có hình tích rõ ràng, ngược lại là minh, là sáng. (2)
Suy nguyên từ trước là từ khi âm dương hoà hợp, tụ lại thành hình, tức
là biết thuyết sinh (sinh ra); trở lại về sau là về lúc âm dương tiêu
kiệt, khí tán, hình tán, tức lúc chết, do đó mà biết được thuyết tử
(chết). (3) Quỉ, thần ở đây khác hẳn nghĩa ngày nay. Âm dương
ngưng tụ lại mà thành hình, thành chất, đó là tình trạng thuộc về thần;
khi hồn tan rồi, chỉ còn một khối tử vật, đó là tình trạng thuộc về quỉ
(Giải thích của Phan Bội Châu). 3. Dữ thiên địa tương tự cố bất
vi; trí chu hồ vạn vật nhi đạo tế thiên hạ, cố bất quá, bàng hành nhi
bất lưu, lạc thiên tri mệnh cố bất ưu; an thổ đôn hồ nhân, cố năng ái. Dịch:
(Trên nói về trời đất, đây nói về thánh nhân) (thánh nhân) giống với
trời đất cho nên không trái với trời đất, đức trí (sáng suốt) soi khắp
vạn vật, mà đạo (nhân của thánh nhân) giúp khắp thiên hạ, cho nên không
bao giờ quá (luôn luôn hợp với đạo trung); biết quyền biến (bàng hành)
mà không lưu đãng (không mất lẽ chính đáng) vui lẽ trời, biết mệnh trời
(1) cho nên không lo lắng; yên với cảnh ngộ, đôn đốc về đức nhân, cho
nên thực hành được bác ái. Chú thích: (1) chữ tri mệnh ở đây tức
là chữ tri mệnh trong luận ngữ: ngũ thập nhi tri thiên mệnh. Mệnh không
phải là số mệnh, mà là cái luật, cái đạo trời. 4. Phạm vi thiên
địa chi hoá nhi bất quá, khúc thành vạn vật nhi bất di, thông hồ trú dạ
chi đạo nhi tri, cố thần vô phương nhi dịch vô thể. Dịch: (Thánh
nhân) lấy sự biến hoá của trời đất làm khuôn mẫu mà không quá (vẫn giữ
đạo trung), uốn nắn mà thành tựu được vạn vật, chẳng bỏ sót vật nào,
thông suốt đạo ngày đêm mà hiểu nó (tức đạo u mình, sinh tử, quỉ thần)
; do đó thấy sự huyền diệu của bậc chí thần là không có phương sở mà
biến hoá của Dịch không có hình thể (không hạn lượng được). Chú
thích: Hai tiết sau, R.Wilhelm cho là vẫn nói về đạo Dịch, chứ không
nói về đạo thánh nhân, và tiết cuối này ông dịch như sau: “Trong
Dịch có hình thức và phạm vi của mọi vật trong trời đất, không gì thoát
ra ngoài được. Trong Dịch mọi vật ở mọi nơi được hoàn thành, không sót
vật nào. Cho nên, nhờ Dịch chúng ta có thể thấu được đạo ngày đêm mà
hiểu nó. Cho nên cái thần trí (spirit) không bị giới hạn ở nơi nào cả
mà Kinh Dịch không bị giới hạn ở hình thể nào cả”.
hết: CHƯƠNG IV,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:39am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG V
1. Nhất âm nhất dương chi vị đạo. Dịch: Một âm một dương gọi là đạo. Chú
thích: Câu này Phan Bội Châu theo Chu Hi giảng là: âm, dương thuộc về
phần khí, (tức phần hình); hai cái đó “đắp đổi, chuyển vần với nhau”;
cái “lý” của nó gọi là “đạo”. R. Wilhelm dịch là: “Cái khiến cho
khi thì âm xuất hiện, khi thì dương xuất hiện, cái đó là “đạo” (đạo,
R.Wilhelm phiên âm là tao). J. Legge dịch “đạo” là sự chuyển vần của sự vật (the course of things). 2. Kế chi giả, thiện dã; thành chi giả, tính dã. Dịch:
(Tiết này cũng rất khó hiểu như tiết trên, mỗi nhà giảng một khác,
chúng tôi châm chước Phan Bội Châu và Chu Hi mà dịch như sau). Cái
nguyên lý, cái đạo ấy khi phát ra thì tốt lành, cái tốt lành ấy tức cái
đạo ấy cụ thể hoá (thành) ở người (và ở vạn vật) thì bấy giờ gọi bằng
tính. Chú thích: tư tưởng trong tiết này giống tư tưởng trong câu
“thiên mệnh chi vị tính”, sách Trung Dung; và giống thuyết tính thiện
của Mạnh tử. 3. Nhân giả kiến chi vị chi nhân, trí giả kiến chi vị chi trí. Bách tính nhật dụng chi nhi bất tri, cố quân tử chi đạo tiển hỉ. Dịch:
(đạo rất huyền nhiệm tinh vi, không ai biết hết được, tùy bẩm thụ khác
nhau mà) người (có đức) nhân thấy nó nhân, gọi nó là đạo nhân; người
trí (sáng suốt) thấy nó trí, gọi nó là trí. (còn hạng người thấp kém
tức) trăm họ ngày nào cũng dùng nó mà chẳng biết, cho nên đạo người
quân tử (gồm cả nhân lẫn trí) mới ít người có được. 4. Hiển chư nhân, tàng chư dụng, cổ vạn vật nhi bất dữ thánh nhân đồng ưu, thịnh đức đại nghiệp chí hỉ tai. Dịch:
đạo đó hiện rõ ở đức nhân, mà mầu nhiệm về tác dụng ; nó cổ võ vạn vật
mà (vô tâm) không lo lắng như thánh nhân, cho nên cái đức của nó cực
thịnh, sự nghiệp của nó cực lớn. Chú thích: tiết này cơ hồ chủ
trương rằng đạo “vô vi nhi vô bất vi” như Lão tử, nhưng lại bảo thánh
nhân ưu thời mẫn thế, tức hữu vi, như nho gia. 5. Phú hữu chi vị đại nghiệp, nhật tân chi vị thịnh đức. Dịch:
Nó to lớn, bao trùm hết thảy (phú hữu) cho nên bảo là sự nghiệp nó lớn;
nó biến hoá không bao giờ ngừng (nhật tân) cho nên bảo là đức nó thịnh.
6. Sinh sinh chi vị dịch. Dịch: (Âm dương) Sinh sinh (hoá hoá hoài) gọi là dịch. Chú thích: so sánh câu này với câu: “nhất sinh nhị, nhi sinh tam, tam sinh vạn vật” của Lão tử. 7. Thành tượng chi vị Càn, hiệu pháp chi vị Khôn. Dịch: Tạo nên tượng (tờ mờ, còn phôi thai) là cái khí Càn; trình bày (hiệu) cái hình thức (pháp) đầy đủ, là khí Khôn. Chú thích; Vậy là Càn chủ động, Không tiếp tục công việc của Càn mà tạo thành vạn vật. 8. Cực số tri lai chi vị chiêm, thông biến chi vị sự. Dịch:
Xem xét đến cùng luật của các số mà biết được vị lai, thì gọi là coi
bói, thông suốt sự biến hoá thì gọi là (hiểu) việc (nên làm). Chú thích: Tiết này nói về việc bói – Phan Bội Châu bỏ. 9. Âm dương bất trắc chi vị thần. Dịch: Trong âm có dương, trong dương có âm, không nhất định để mà lường được (bất trắc) như vậy gọi là thần.
hết: CHƯƠNG V
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:40am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG VI+VII
(Phan Bội Châu bỏ trọn chương này) 1. Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ: dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự, dĩ ngôn hồ tĩnh nhi chính, dĩ ngôn hồ thiên địa chi gian tắc bị hĩ. Dịch:
đạo dịch rộng lớn thật; nói về xa thì đạo ấy vô cùng, nói về gần thì
đạo ấy tĩnh mà chính (ngay), nói về khoảng trong trời đất thì đạo ấy
bao gồm đủ cả. 2. Phù càn kì tĩnh dã chuyên, kì động dã trực, thị
dĩ đại sinh yên. Phù khôn, kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịch, thị dĩ
quảng sinh yên. Dịch: Đạo càn lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động
thì tiến thẳng, cho nên sức sinh ra của nó lớn. Đạo khôn lúc tĩnh thì
thu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó rộng. 3. Quảng đại phối thiên địa, biến thông phối tứ thời, âm dương chi nghĩa phối nhật nguyệt, giản dị chi thiện phối chí đức. Dịch:
Đạo dịch vì rộng lớn nên phối hợp với trời đất, vì biến thông nên phối
hợp với bốn mùa, vì lẽ âm dương nên phối hợp với mặt trời mặt trăng, vì
nó có cái hay là giản và dị (1), cho nên phối hợp với cái đức tối cao
(2). Chú thích: (1) Giản là đức của Khôn, của âm; dị là đức của Càn, của dương – Coi Ch.I tiết 6 ở trên. (2) Chữ “chí đức” ở đây, J.Legge dịch là những tác dụng hoàn toàn, R. Wilhelm dịch là năng lực tối cao. Chương này để chỉ đề cao đạo Dịch, không thêm ý nghĩa gì cả. CHƯƠNG VII
1.
Tử viết: Dịch kỳ chí hĩ hồ! Phù dịch thánh nhân sở dĩ sùng đức nhi
quảng nghiệp dã; trí sùng lễ ti; sùng hiệu thiên, ti pháp địa. Dịch:
thầy (Khổng ) nói: Đạo Dịch tinh diệu thay! Thánh nhân dùng nó mà đưa
đức mình lên cao, mở rộng sự nghiệp của mình; trí (đức) thì cao mà xử
sử (lễ) thì khiêm hạ; về phần cao đó là bắt chước trời, về phần khiêm
hạ (thấp) là bắt chước đất. 2. Thiên địa thiết vị nhi dịch hành kỳ trung hĩ; thành tín tồn tồn, đạo nghĩa chi môn. Dịch:
Trời (cao) đất (thấp) đã thành ngôi, mà sự (âm dương) biến hoá lưu hành
ở khoảng giữa (trời đất); người ta bẩm thụ được cái tính (tốt) rồi, thì
còn, còn mãi, đó là cái cửa của đạo nghĩa. Chương này cũng đề cao Dịch như chương trên.
hết: CHƯƠNG VI+VII,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:41am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG VIII
1. Thánh nhân hữu dĩ kiến thiên hạ chi trách, nhi nghĩ chư kỳ hình dung, tượng kỳ vật nghi, thị cố vị chi tượng. Dịch:
thánh nhân thấy được những cái phức tạp trong thiên hạ mà xét hình dung
của chúng rồi bắt chước mà tượng trưng các vật cùng tính cách mỗi vật,
do đó mà gọi là tượng (tượng hình và tượng ý). 2. Thánh nhân hữu
dĩ kiến thiên hạ chi động, nhi quan kỳ hội thông, dĩ hành kỳ điển lễ,
hệ từ yên dĩ đoán kỳ cát hung, thị cố vị chi hào. Dịch: thánh nhân
thấy được những cái động trong thiên hạ, mà xét cái lẽ tụ hội và tương
quan của chúng, tìm ra được qui luật vận chuyển (1) của chúng, rồi đặt
ra lời ghép vào (mỗi hào) để đoán cát hay hung, do đó mà gọi là hào. Chú thích: (1) điển lễ ở đây có nghĩa là phép tắc, khuôn phép. Hai tiết trên, Phan Bội Châu đều không dịch. 3. Ngôn thiên hạ chi chí trách nhi bất khả ố dã, ngôn thiên hạ chi chí động nhi bất khả loạn dã. Dịch:
thánh nhân nói về cái phức tạp trong thiên hạ mà không làm cho người ta
chán (1) nói về cái rất biến động trong thiên hạ mà người ta không thấy
hỗn loạn (2). Chú thích: (1) Bất khả ố, Phan Bội Châu giảng là
thánh nhân thâu nạp hết các tạp loạn trong thiên hạ, không có cái nào
“ghét bỏ mà không nói”. (2) Phan Bội Châu giảng là: vì trước sau đều sắp đặt có thứ tự. 4. Nghĩ chi nhi hậu ngôn, nghị chi nhi hậu động, nghĩ nghị dĩ thành kỳ biến hoá. Dịch:
(người học Dịch) so sánh (cân nhắc) lời trong Dịch rồi mới nói, bàn xét
về cách biến động trong Dịch rồi mới hành động; so sánh, bàn xét như
vậy để hoàn thành những công việc biến hoá trong đời mình. Chú
thích: Tiết này, R. Wilhelm cho là vẫn nói về thánh nhận và việc tạo
Kinh Dịch; và dịch là: Sở dĩ được như vậy (như tiết 3), là vì thánh
nhân nhận xét trước khi nói, bàn bạc trước khi hành động. do nhận xét
và bàn bạc mà thánh nhân hoàn thành được sự biến đổi. * (Dưới
đây là bảy thí dụ tác giả Hệ từ truyện lấy trong Kinh Dịch để cho độc
giả thấy nên so sánh, bàn xét ra sao khi đọc Dịch, rồi áp dụng trong
đời sống). 5. “Hạc minh tại âm, kỳ tử hoạ chi; ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhữ mị chi”. Tử
viết: “quân tử cư kỳ thất, xuất kỳ ngôn, thiện tắc thiên lý chi ngoại
ứng chi, huống kỳ nhĩ giả hồ; cư kỳ thất, xuất kỳ ngôn, bất thiện, tắc
thiên lý chi ngoại vi chi, huống kỳ nhĩ giả hồ. Ngôn, xuất hồ thân, gia
hồ dân; hành phát hồ nhĩ, kiến hồ viễn, Ngôn hành quân tử chi xu cơ, xu
cơ chi phát, vinh nhục chi chủ dã, Ngôn hành quân tử chi sở dĩ động
thiên địa dã, khả bất thận hồ!” Dịch: (Quẻ Trung phu, hào 2 – coi
phần dịch 64 quẻ ở trên – Hào từ nói: ) “con hạc mẹ gáy ở bóng râm, con
nó hoạ lại; (lại như) tôi có chén rượu ngon, tôi cùng anh chia nhau” (Ý
nói: hai bên cảm ứng, tương đắc với nhau, như hào hai và hào năm quẻ
Trung Phu) Thầy (Khổng) (giải thích ý nghĩa của hào đó) bảo: “Người
quân tử ở trong nhà, mà nói ra, nếu lời nói hay thì người ngoài nghìa
dặm cũng hưởng ứng, huống chi là người ở gần; ở trong nhà mà nói ra,
nếu lời nói không hay thì người ngoài ngàn dặm cũng phản đối, huống chi
là người ở gần. Lời ở (miệng) mình phát ra thì tác động ngay tới dân
chúng; hành vi từ gần phát ra thì ảnh hưởng hiện ngay ở xa. Lời nói,
việc làm của người quân tử cũng như cái máy cái chốt, cái máy cái chốt
đó phát rồi là cái gốc của điều vinh nhục. Do lời nói và việc làm mà
người quân tử cảm động được trời đất, như vậy chẳng nên thận trọng”. 6. “đồng nhân tiên hào đào nhi hậu tiếu”. Tử
viết: “quân tử chi đạo hoặc xuất hoặc xử, hoặc mặc hoặc ngữ, nhị nhân
đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim, đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan”. Dịch: (quẻ Đồng nhân, hào 5 – Hào từ nói “Hai
người đồng tâm với nhau thì trước kêu rêu rồi sau lại cười” (Ý muốn
nói: mới đầu bị ngăn cách vì hoàn cảnh, vì bị gièm pha, cho nên than
thở kêu rêu, sau thắng được hoàn cảnh mà lại vui vẻ - coi phần dịch ở
trên). Thầy (Khổng) nói: “Như đạo người quân tử, hoặc xuất hoặc
xử, hoặc yên lặng hoặc nói năng, hai người mà cũng một lòng (đồng tâm)
thì sức mạnh bẻ gảy được loại kim (ngăn cách họ), và lời của họ thấm
thía như hương lan)” 7. “sơ lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu” Tử
viết: “Cẩu thố chư địa nhi khả hĩ, tạ chi dụng mao, hà cữu chi hữu?
Thận chi chí dã, Phù mao chi vi vật bạc nhi dụng khả trọng dã. Thận tư
thuật dã dĩ vãng, kỳ vô sở thất hĩ”. Dịch: Hào sơ lục (tức hào 1 âm – quẻ Đại quá, Hào từ nói: “Lót vật gì mà dùng cỏ mao trắng thì không có lỗi” (Ý nói cẩn thận thì không đổ bể, không thất bại) Thầy
(Khổng) nói: “Nếu đặt vật gì xuống đất cũng được rồi, mà lại còn dùng
cỏ mao trắng để lót nữa thì còn sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn
thận. Cỏ mao là vật tầm thường mà biết dùng thì lại đáng quí. Nếu ta
thận trọng như vậy khi làm việc đời thì chắc không bị lỗi. 8. “Lao Khiêm, quân tử hữu chung, cát” Tử
viết: “Lao nhi bất phạt, hữu công chi bất đức, hậu chi chí dã. Ngữ dĩ
kỳ công hạ nhân giả dã. Đức ngôn thịnh, lễ ngôn cung, khiêm dã giã, trí
cung dĩ tồn kỳ vị giả dã.” Dịch: (Hào 3 quẻ Khiêm, Hào từ nói: Khó nhọc mà nhún nhường, người quân tử giữ được (địa vị) tới cùng (1) , tốt. Thầy
(Khổng) nói: “Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng
nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày. (Lao, Khiêm) có nghĩa rằng lấy
công lao của mình mà nhún nhường ở dưới người. Đạo đức thì thịnh, lễ
mạo thì cung kính, người Khiêm hết lòng cung kính mà giữ được địa vị”. Chú
thích: (1) Hữu chung có sách giảng là “người quân tử có ý trọn vẹn về
sau”, lại có người dịch là khiến cho mọi sự việc được tới cùng; cũng có
người hiểu là giữ được “lao, khiêm” tới cùng. 9. “Kháng long hữu hối”. Tử viết: “quí nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhi tại hạ vị nhi vô phụ, thị dĩ động nhi hữu hối dã”. Dịch: (Hào 6 quẻ Càn, Hào từ nói: “rồng lên cao đến cùng cực tất có điều phải ăn năn.” Thầy
(Khổng) giảng: “(Hào 6) Quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có
ngôi, cao mà người có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền
ở dưới mình mà không giúp đỡ mình, cho nên nếu hoạt động thì tất có
điều phải ăn năn”. 10. “Bất xuất hộ đình, vô cữu” Tử viết:
“Loạn chi sở minh dã tắc ngôn ngữ dĩ vi giai. Quân bất mật tắc thất
thần, thần bất mật tắc thất thân, cơ sự bất mật tắc hại thành. Thị cố
quân tử thận mật nhi bất xuất dã”. Dịch: (Hào 1 quẻ Tiết), Hào từ nói: “Không ra khỏi sân ngõ thì không bị lỗi”. Thầy
(Khổng) giảng: “Loạn sở dĩ sinh ra là do ngôn ngữ gây ra trước. Ông vua
mà không kín lời (cẩn mật) thì mất bề tôi; bề tôi mà không kín lời thì
mất thân mình; mưu cơ mà không giữ kín thì tai hại sinh ra. Cho nên
người quân tử cẩn mật mà giữ gìn lời nói, không cho tiết lộ ra. 11.
Tử viết: “Tác Dịch giả, kỳ tri đạo hồ? Dịch viết: “Phụ thả thừa, trí
khấu chí”. Phụ dã giả, tiểu nhân chi sự dã; thừa dã giả, quân tử chi
khí dã. Tiểu nhân nhi thừa quân tử chi khí, đạo tư đoạt chi hĩ. Thượng
mạn hạ bạo, đạo tư phạt chi hĩ. Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm. Dịch
viết: “Phụ thả thừa, trí khấu chi” đạo chi chiêu dã”. Dịch: Thầy
(Khổng) nói: “Người làm dịch biết được tâm lý bọn ăn trộm chăng? Kinh
Dịch (Quẻ Giải, hào 3, Hào từ nói: “Kẻ mang đội đồ vật mà lại ngồi xe
là xui bọn trôm cướp tới”. Là vì mang đội đồ vật là công việc của người
thường (nghèo), mà xe là đồ dùng của người sang (giàu) (1). Người
thường mà ngồi xe của người sang là xui cho kẻ trộm cướp tìm cách cướp
đoạt của mình. Người trên khinh nhờn, kẻ dưới (ỷ thế) tàn bạo, thì kẻ
cướp tìm cách đánh đuổi ngay(2). Giấu cất không kín đáo là dạy cho kẻ
trộm vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn gian dâm
hiếp mình. Kinh dịch nói: “Kẻ mang đội đồ vật mà lại ngồi xe là xui bọn
trộm cướp tới.” Ðó là tự mình vời trộm cướp tới”. Chú thích: (1) chữ tiểu nhân ở đây trỏ dân thường, người nghèo: chữ quân tử trỏ người có chức tước, sang, giàu. (2)
Câu này nói về việc trị nước, người trên trỏ vua, kẻ dưới trỏ quan, kẻ
cướp trỏ các nước khác muốn đánh chiếm nước mình. R. Wilhelm và J.Legge
dịch là: Minh khinh nhờn với bề trên mà tàn bạo với kẻ dưới thì kẻ cướp
sẽ tìm cách đánh đuổi mình.
hết: CHƯƠNG VIII
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:44am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG IX
(Phan Bội Châu bỏ trọn)
1. Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập. Dịch:
Số của trời là một, của đất là hai, của trời là ba, của đất là bốn; của
trời là năm, của đất là sáu; của trời là bảy, của đất là tam; của trời
là chín, của đất là mười. Chú thích: Chương này thuộc về tượng số
học và phép bói, có thể viết vào đầu đời Hán- Coi Phần I, Chương III,
và coi hình Hà Đồ, Lạc Thư Phần I, ChươngI. 2. Thiên số ngũ, địa
số ngũ. Ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ,
địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ. Thử sở dĩ
thành biến hoá nhi hành quỉ thần dã. Dịch: có năm số về trời (tức
những số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9), năm số về đất (tức những số chẳn: 2, 4, 6,
8, 10). Có năm số về trời tương đắc với năm số về đất (theo Chu Hi thì
1 tương đắc với 2, 3 với 4, 5 với 6,7 với 8,9 với 10), và có năm số về
trời hợp với năm số về đất (cũng theo Chu Hi, 1 hợp với 6,2 hợp với 7,3
hợp với 8,4 hợp với 9,5 hợp với 10) (1). Tổng số của trời là 25( 1 + 3
+ 5 + 7 + 9), tổng số của đất là 30 ( 2 + 4 + 6 + 8 + 10); cộng cả số
của trời và của đất là 55 (25 + 30). Do đó mà thành ra biến hoá và hành
động như quỉ thần (2) (Chu Hi bảo quỉ thần là sự co duỗi, đi lại của số
lẻ, số chẵn sinh ra). Chú thích: (1) Chúng tôi dịch theo Chu Hi.
R. Wilhelm dịch khác: ‘Khi những số của trời và của đất được phân phối
thành năm chỗ (five places – ngũ vị) thì mỗi số có một số bổ túc cho nó
(các hữu hợp)” J. Legge dịch cũng đại khái như vậy: các hữu hợp là “mỗi
số có một số khác thành một cặp”. (2) R. Wilhelm dịch là: nhờ đó . . . mà làm cho quỉ, thần tác động Chúng tôi thú thực chẳng hiểu gì cả. 3.
Đại diễn chi số ngũ thập. Kỳ dụng tứ thập hữu cửu, phân nhi vị nhị dĩ
tượng lưỡng. Quải nhất dĩ tượng tam. Thiệt chi dĩ tứ dĩ tượng tứ thời.
Qui cơ ư lặc dĩ tượng nhuận. Ngủ tuế tái nhuận, cố tái lặc nhi hậu
quải. Dịch: Số đại diễn là 50 (1) Nhưng trong việc bói chỉ dùng 49
cọng cỏ thi, chia làm hai để tượng trưng lưỡng nghi (hay trời đất). Rồi
lấy một cài vào khi ngón út tay trái để tượng trưng tam tài (trời, đất,
người). Tách ra mà đếm cứ bốn một để tượng, trưng bốn mùa. Dành chỗ lẻ
còn lại mà kẹp ở khe ngón giữa tay trái để tượng trưng tháng nhuận. Năm
năm thì có hai năm nhuận, cho nên dành ra hai lần lẻ, rồi sau lại làm
lại từ đầu (2). Chú thích: tiết này khó hiểu, và nói về cách thức bói. (1) Chu Hi bảo: “số đại diễn là 50 vì trong cung Hà đồ, số trời 5 cưỡi trên số đất lo mà thành ra” Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. (2)
Tôi dịch theo J.Legge “and after wards the whole process is repeated”
R. Wilhelm dịch là “this give us the whole”, nghĩa cũng tựa như
J.Legge: như vậy là xong một lần. Nguyễn Duy Tỉnh (Chu Dịch bản nghĩa: bộ Văn Hoá xuất bản 1968) dịch là “rồi mới kẹp vào”, tôi e sai. 4. Càn chi sách nhị bách nhất thập hữu lục; Khôn chi sách bách tứ thập hữu tứ, phàm tam bách hữu lục thập, dương cơ chi nhật. Dịch: Thẻ của Càn là 216, thẻ của Khôn là 144, cộng là 360, hợp với số ngày trong một năm. Chú
thích: Càn và Khôn trong tiết này trỏ quẻ Thuần Càn (6 hào dương) và
quẻ Thuần Khôn (6 hào âm). “Sách” chúng tôi dịch theo tự điển là thẻ
(có lẽ là cọng cỏ thi?) R. Wilhelm dịch là “những số sinh ra (?)
(yield) quẻ Càn là 216”. J. Legge dịch là “những số cần (?) (required)
cho quẻ Càn là 216”. Do đâu mà có những số 216 và 144? Wilhelm và
Legge mỗi nhà giảng một khác (coi I Ching tr. 311, 312 , và The I Ching
tr. 368 – sách đã dẫn), chúng tôi không hiểu mà cũng không cho là quan
trọng, cho nên không dịch. Số ngày trong một năm: 360 là số chẵn, chứ thực ra người Trung Hoa thời đó đã biết mỗi năm gồm 365 ngày và một phần tư ngày. 5. Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, dương vạn vật chi số dã. Dịch:
Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh Dịch, tức
số thẻ của 64 quẻ Trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34
quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật. Chú thích: Chữ “sách” ở tiết này, Wilhelm lại dịch là “thẻ” (stalk) tức thẻ cỏ thi chăng?. Chu
Hi giảng: Hai thiên trong Kinh Thi gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào
âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ
Càn , tức mỗi hào dương là 216 : 6 = 36; số của quẻ Khôn là 144, vậy số
của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 “ 6 = 24. Tổng số 192 hào
dương là 36 x 192 = 6.912; tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 .
Cộng cả dương lẫn âm được: 6.912 + 4.608 = 11.520. Số 11.520 hợp
với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người
Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ có khoảng một vạn mốt loài
chăng? 6. Thị cố tứ doanh nhi thành Dịch, thập hữu bát biến nhi thành quái. Dịch: cho nên bốn lần mà thành một lần biến, mười tám lần biến mới thành một quẻ. Chú
thích: Theo Chu Hi, bốn lần tráo trộn là : 1 – chia bỏ 50 thẻ cỏ thì
làm hai; 2 – bỏ một thẻ ra, còn 49 thẻ; 3 – đếm những thẻ bên tay trái,
cứ bốn một, kẹp số thẻ còn lại: 4 – đếm những thẻ bên tay mặt, cứ bốn
một, kẹp số thẻ còn lại. Như vậy được một lần biến. Ba lần biến như vậy thành một hào; mười tám lần biến thành sáu hào tức một quẻ trùng. 7. Bát quái nhi tiểu thành. Dịch: Được tám quẻ đơn rồi thì gọi là “tiểu thành” Chú thích: Ba lần biến thì thành một hào: khi thành ba hào thì được một quẻ đơn; được tám quẻ đơn thì gọi là “tiểu thành”. Chúng
tôi đoán rằng khi bói được quẻ đơn thứ nhất, tức nội quái, như vậy gọi
là “tiểu thành” (sự hoàn thành nhỏ). Rồi khi được tiếp quẻ đơn thứ nhì,
tức ngoại quái, lúc đó mới có đủ một trùng quái để đoán, mà gọi là “đại
thành” chăng? Coi lại đoạn “Hễ động thì biến” ở phần I cuối Chương IV. 8. Dẫn nhi thân chi, xúc loại nhi trưởng chi, thiên hạ chi năng sự tất hĩ. Dịch:
cứ như vậy mà tiếp tục mở trộng ra, tiếp xúc với từng loại mà khai
triển ra thì gồm tóm hết được mọi việc có thể xảy ra trong thiên hạ. Chú
thích: Chu Hi giảng: “Đã thành sáu hào rồi thì xem hào có biến hay
không mà biết động tĩnh, một quẻ có thể biến thành 64 quẻ (do sự biến
động của một hào hay nhiều hào ), và 64 quẻ thành ra 64 x 64 = 4.096
hết thảy” (Số 4.096 quẻ này diễn được đủ tất cả các việc xảy ra trong
đời). 9. Hiển đạo, thần đức hạnh, thi cố khả dữ thù tạc, khả dữ hựu thần hĩ. Dịch:
Kinh Dịch làm rõ rệt cái đạo và làm cho đức hạnh có cái gì như huyền bí
(thần, cho nên có thể giúp chúng ta (thích) ứng được với biến cố và
giúp được thần linh nữa (hoặc giúp cho cái công thần hoá). Chú
thích: Tiết này tối nghĩa. Chúng tôi theo R. Wilhelm và J. Legge cho
chữ thần 神 là động từ như chữ hiển 顯, và dịch như trên. Nguyễn Duy Tinh
(sách đã dẫn) cho thần là danh từ như đức hạnh và dịch là: “Làm rõ rệt
đạo, thần, đức, hạnh nên có thể cùng ứng đối, cùng giúp cho cái công
thần hoá vậy.” 10. Tử viết: “Tri biến hoá chi đạo giả, kỳ tri thần chi sở vi hồ?” Dịch: Thầy (Khổng) nói: “ai biết được đạo biến hoá thì biết được việc làm của thần chăng?” (Chương
này nói về sự mầu nhiệm của những con số và về phép bói, chúng tôi cũng
dịch trọn để độc giả thấy Kinh Dịch từ đời Hán đã bớt đi tính cách
triết mà mang tính huyền bí ra sao).
hết: CHƯƠNG IX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:47am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG X
1.
Dịch hữu thánh nhân chi đạo tứ yên. Dĩ ngôn giả thượng kỳ từ, dĩ động
giả thượng kỳ biến, dĩ chế khí giả thượng kỳ tượng, dĩ bốc phệ giả
thượng kỳ chiêm. Dịch: Kinh Dịch có bốn cái đạo của thánh nhân.
Khi nói năng, ta theo (1) lời từ (quái từ, hào từ), khi hành động ta
tuân theo lẽ biến hoá trong kinh đó; khi chế tạo đồ dùng, chúng ta
phỏng theo những hình tượng trong kinh đó, khi bói toán ta nghe lời
giải đoán. Chú thích: (1) Nguyên văn: thượng là chuộng. Tiết này kể bốn công dụng của Dịch. 2. Thị dĩ quân tử tương hữu vi dã, tương hữu hành dã, vấn yên nhi dĩ ngôn. Kỳ thụ mệnh dã như hưởng, vô hữu viễn cận, u thâm, toại tri lai vật. Phi thiên hạ chi chí tinh, kỳ thục năng dự ư thử? Dịch:
Cho nên người quân tử sắp làm hay tiến hành việc gì thì dùng lời (Khấn?
) mà hỏi Dịch. Dịch nhận được lời hỏi và trả lời nhanh như tiếng vang.
Không kể xa gần sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. (Nếu
Dịch) không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu làm được
như vậy? (Nguyên văn là: làm sao dự được vào việc ấy?) . 3. Tham
ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số. Thông kỳ biến toại thành thiên địa chi
văn, cực kỳ số toại định thiên hạ chi tượng. Phi thiên hạ chi chí biến,
kỳ thục năng dự ư thử? Dịch: Lấy số ba số năm mà đếm (hoặc làm ba
lần năm lần) để tìm một sự biến thi thành được cái văn vẻ của trời đất,
tăng đến cực điểm các số thì định được hết các hình tượng trong thiên
hạ. (Nếu Dịch) không là cái gì rất biến hoá trong thiên hạ thì đâu làm
được như vậy? Chú thích: Tiết này khó hiểu, mỗi sách giảng một khác. Đại ý cũng chỉ là đề cao công dụng huyền diệu của Dịch. 4.
Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên
hạ chi cố. Phi thiên hạ chi chí thần kỳ thục năng dự ư thử? Dịch:
dịch không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, yên lặng, không động; nó
chỉ cảm mà thấu được các biến cố trong thiên hạ. Nếu nó không phải là
cái thần diệu tột bực trong thiên hạ thì đâu làm được như vậy? Chú thích: Phan Bội Châu bỏ cả 4 tiết trên, Tiết 4 này cơ hồ mang tư tưởng vô vi của Lão. 5. Phù Dịch thánh nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên cơ dã. Dịch: Thánh nhân nhờ Dịch mà biết được sâu và xét được tinh vi (từ khi sự việc mới manh nha). 6.
Duy thâm dã cố năng thông thiên hạ chi chí, duy cơ dã cố năng thành
thiên hạ chi vụ, duy thần dã cố bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí. Dịch:
chỉ nhờ biết được sâu nên mới thông hiểu được cái chí của thiên hạ, chỉ
nhờ xét được tinh vi nên mới hoàn thành được mọi việc trong thiên hạ.
Chỉ nhờ thần diệu cho nên không vội vàng mà hoá ra mau chóng, không đi
mà đến được. Chú thích: Phan Bội Châu chỉ dịch hai tiết trên, còn thì bỏ hết. 7. Tử viết: “dịch hữu thánh nhân chi đạo tứ yên giả, thử chi vị dã”. Dịch: Thầy (Khổng) nói: “Kinh Dịch có bốn cái đạo của thánh nhân là thế đấy”.
hết: CHƯƠNG X
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:52am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG XI
1. Tử viết: “Phù Dịch hà vi dã giả? Phù dịch khai vật thành vụ, mạo
thiên chi đạo, như tư nhi dĩ giả dã. Thị cố thánh nhân dĩ thông thiên
hạ chi chí, dĩ định thiên hạ chi nghiệp, dĩ đoán thiên hạ chi nghi” Dịch:
Thầy (Khổng) nói: “đạo dịch để làm gì vậy? để mở mang trí và chí cho
loài người, tạo thành muôn việc; gồm hết các đạo lý trong thiên hạ, chỉ
có vậy mà thôi. Cho nên thánh nhân dùng nó để thông cái chí của thiên
hạ, thành tựu những việc trong thiên hạ, quyết đoán sự ngờ vực trong
thiên hạ.? 2. Thị cố thi chi đức viên nhi thần, quái chi đức phương dĩ trí, lục hào chi nghĩa dịch dĩ cống. Thánh
nhân dĩ thử tẩy tâm, thoái tàng ư mật, cát hung dữ dân đồng loạn, thần
dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng. Kỳ thục năng dự ư thử? Cổ chi thông minh
duệ trí, thần vũ nhi bất sát giả phù? Dịch: Cái đức của cỏ thi
tròn trịa (biến hoá, không nhất định) mà thần diệu, cái đức của quẻ bói
vuông vức (nhất định) mà sáng suốt, cái nghĩa của sáu hào biến đổi để
chỉ bảo chúng ta. Thánh nhân dùng ba đức ấy mà rửa lòng (cho trong
sạch), lúc vô sự thì cất giấu đạo đức ấy ở đáy lòng, lúc hữu sự thì
biết được tốt xấu mà với dân cùng vui, cùng lo, (vừa) , thần minh để
biết trước việc sẽ tới (vừa) sáng suốt để chứa cất những kinh nghiệm
cũ. Ai có thể được như vậy? Chắc chỉ có những cổ nhân thông minh sáng
suốt dùng uy vũ một cách thần diệu mà chẳng tàn sát (1) là được vậy
thôi. Chú thích: (1) Mấy chữ “thần vũ nhi bất sát” chúng tôi dịch
theo Phan Bội Châu. Chu Hi giảng là “hợp lẽ mà không đối vật nào”.
Wilhelm dịch là “cái thần quyền không giảm của mình”. 3. Thị dĩ
minh ư thiên chi đạo nhi sát ư dân chi cổ, thị hưng thần vật dĩ tiền
dân dụng. Thánh nhân dĩ thử trai giới dĩ thần minh kỳ đức phù. Dịch:
cho nên (thánh nhân) làm rõ đạo trời mà hiểu nguyên cớ (tình cảnh?) của
dân, mới tạo thần vật đó (tức bói Dịch), để dân lúc cần tới thì dùng.
Vì thế mà thánh nhân (khi làm việc đó phải) trai giới để cho đức của
mình được thần diệu, sáng tỏ. Chú thích: tiết này Phan Bội Châu lại bỏ. 4.
Thị cố hạp hộ vị chi Khôn, tịch hộ vị chi Càn. Nhất hạp nhất tịch chi
biến, vãng lai bất cùng chi vị thông, hiện nãi vị chi tượng, hình nãi
vị chi khí, chế nhi dụng chi vị chi pháp, lợi dụng xuất nhập, dân hàm
dụng chi vị chi thần. Dịch: đóng cửa gọi là Khôn (vì khí âm – khôn
có tính cách thu liễm, cất (giấu), mở cửa gọi là Càn (khí dương – Càn –
ngược lại với khí âm). Một lần đóng, một lần mở gọi là biến, qua lại
không ngừng gọi là thông; lẽ biến thông đó khi hiện ra ở sự vật thì gọi
là “tượng”; mô phỏng cái tượng đó mà tạo ra hình thì gọi là đồ dùng,
cách chế mà dùng đồ đó gọi là “phép”; khi ra khi vào (nghĩa là trong
đời sống hằng ngày) mọi người đều dùng nó, như vậy mới gọi là thần (vạn
năng). 5. Thị cố Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Dịch: dịch có thái cực, thái cực sinh ra lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái. Chú
thích: Những từ ngữ lưỡng nghi, tứ tượng được giảng ở phần I, Chương I.
Quan niệm thái cực, thời Văn Vương, Chu Công chưa có, thời Chiến quốc
hay Hán mới xuất hiện; tới đời tống lại thêm quan niệm vô cực nữa (các
tiết từ đây trở xuống, Phan Bội Châu đều bỏ). 6. Bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp. Dịch: Tám quẻ để định cát hung, có cát hung rồi sinh ra nghiệp lớn. 7.
Thị cố pháp tượng mạc đại hồ thiên địa; biến thông mạc đại hồ tứ thời;
huyền tượng trứ minh mạc đại hồ nhật nguyệt; sùng cao mạc đại hồ phú
quí, bị vật trí dụng, lập (1) thành khí dĩ vi thiên hạ lợi, mạc đại hồ
thánh nhân; thám trách sách ẩn, câu thâm trí viễn dĩ định thiên hạ chí
cát hung, thành thiên hạ chi vỉ vỉ giả, mạc đại hồ thi qui. Dịch:
Làm mẫu mực và hình tượng (2) thì không gì lớn bằng trời đât, về biến
thông thi không gì lớn bằng bốn mùa, về hình tượng treo ở trên trời và
sáng rỡ thì không gì lớn bằng mặt trời mặt trăng; được tôn sùng, cao cả
thì không gì lớn hơn giàu sang (3) chuẩn bị sự vật để dùng, tạo lập (1)
khí cụ làm lợi cho thiên hạ thì không ai lớn hơn thánh nhân; dò cái
thâm u, tìm cái kín đáo, thấu cái sâu, đạt được cái xa, mà định sự cát
hung cho thiên hạ khiến cho thiên hạ đều gắn gỏi (4), thì không gì bằng
cỏ thi và yếm rùa. Chú thích: (1) Chu Hi ngờ rằng sau chữ lập này, sót một chữ. (2) Wilhelm dịch “pháp tượng” là hình tượng thiết yếu nhất. (3) Chu Hi chú thích: giàu sang ở đây trỏ ngôi vua vì vua có cả thiên hạ và quí nhất trong thiên hạ. (4) Chu Hi giảng: khi ngờ vực thì người ta không ham làm, nhờ bói mà người ta tin tưởng, quyết định, lúc đó mới cố gắng. 7.
Thị cố thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc chi; thiên địa biến hoá,
thánh nhân hiệu chi; thiên thùy tượng, hiện cát hung, thánh nhân tượng
chi; Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi. Dịch: Cho nên
trời sinh ra thần vật (Hà đồ, Lạc thư) thì thánh nhân áp dụng theo;
trời đất biến hoá thì thánh nhân bắt chước; trời bày ra hình tượng,
hiện ra tốt xấu thì thánh nhân phỏng theo mà nảy ra ý tượng; ở sông
Hoàng Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra hình chữ (lạc thư) thì
thánh nhân áp dụng theo. 9. Dịch hữu tứ tượng sở dĩ thị dã; hệ từ yên sở dĩ cáo dã; định chi dĩ cát hung sở dĩ đoán dã. Dịch:
Dịch có tứ (1) tượng để cho người ta thấy, có những lời (đoán) ghép vào
(mỗi quẻ, mỗi hào) để chỉ cho người ta ý nghĩa lại định thế nào là tốt
là xấu để người ta quyết đoán. Chú thích: (1) R. Wilhelm không dịch chữ “tứ” này, có lý. Coi chú thích tiết 2 Chương sau. (Chương này đề cao dịch về phương diện bói toán, không có tư tưởng gì sâu sắc. )
hết: CHƯƠNG XI
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 4:55am
HỆ TỪ TRUYỆN - THIÊN THƯỢNG Dịch và chú thích
CHƯƠNG XII
1. Dịch viết: “Tự thiên hữu chi, vô bất lợi”. Tử
viết: “Hựu giả trợ dã. Thiên chi sở trợ giả thuận, nhân chi sở trợ giả
tín. Lý tín, tư hồ thuận, hữu dĩ thượng hiền dã, thị dĩ tự thiên hữu
chi; cát, vô bất lợi dã” Dịch: Kinh Dịch (quẻ Đại hữu, hào 6, Hào từ) nói: “tự trời phù hộ (hựu) cho; tốt; không có gì là không lợi” Thầy
(Khổng) nói: “Phù hộ (hựu) nghĩa là giúp (trợ). Ai thuận với đạo trời
thì trời giúp cho; ai có lòng thành tín với người thì người giúp cho.
Giữ lòng thành tín với người, nghĩ đến sự thuận đạo trời, lại biết
trong người hiền, như vậy thì được trời phù hộ cho; tốt; không có gì là
không lợi.” Chú thích: Tiết này lạc lõng ở trong Chương này, có lẽ do sắp thẻ lộn; để vào cuối chương VIII thì phải hơn. 2.
Tử viết: “Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý”, nhiên tắc thánh nhân chi ý
kỳ bất khả kiến hồ? Tử viết (1): “Thánh nhân lập tượng dĩ tận ý, thiết
quái dĩ tận tình ngụy, hệ từ yên dĩ tận kỳ ngôn, biến nhi thông chi dĩ
tận lợi, cổ chi vũ chi dĩ tận thần”. Dịch: thầy (Khổng) nói: “Sách
không nói hết lời, lời không diễn hết ý”, vậy thì cái ý của thánh nhân
không thể thấy hết được sao? Thầy (Khổng) nói: “Thánh nhân đặt ra
“tượng” (2) để diễn hết ý, đặt ra quẻ để diễn hết sự thực hay giả, đặt
ra lời (đoán) ghép vào (mỗi quẻ, mỗi hào) để nói hết lời, biến thông để
dùng cho hết cái lợi, cổ võ để đưa ra hết cái thần diệu.” Chú thích: (1) tiết này dùng hai lần chữ “Tử viết” (Thầy Khổng nói); chắc có một lần thừa. (2)
So câu này với tiết cuối chương trước, chúng ta thấy rất giống nhau,
những tiết trên viết: “tứ tượng”; tiết này không có chữ “tứ”. Chúng tôi
nghĩ bỏ chữ “tứ” nghĩa rộng hơn và đúng hơn: “tượng: đây là tượng của 8
đơn quái hay 64 trùng quái chứ không phải là “tứ tượng” 3. Càn,
Khôn, kỳ Dịch chi uẩn da? Càn, Khôn thành liệt nhi Dịch lập hồ kỳ trung
hĩ. Càn, Khôn hủy tắc vô dĩ kiến dịch. Dịch bất khả kiến tắc Càn, Khôn
hoặc cơ hồ tức hĩ. Dịch: Càn, Khôn (1) là cái sâu kín (2) của đạo
Dịch chăng? Càn, Khôn thành hàng rồi mà đạo Dịch lập nên ở trong (3).
Càn, Khôn bị phá (4) thì còn gì để thấy đạo Dịch nữa. Dịch không thấy
được thì cơ hồ Càn, Khôn không thi hành được. Chú thích: (1) Càn, Khôn ở đây nên hiểu là dương, âm. (2) “Uẩn” (Sâu kín) Chu Hi hiểu là chứa đựng. (3) Càn, Khôn thành hàng là muốn nói về việc vạch quẻ, định ngôi cho mỗi hào âm, dương. (4) Càn, Khôn bị phá là muốn nói: không vạch quẻ, không định ngôi cho mỗi hào âm, dương được. Cả ba tiết trên, Phan Bội Châu đều bỏ. 4.
Thị cố hình nhi thượng giả vị chi đạo; hình nhi hạ giả vị chi khí; hoá
nhi tài chi vị chi biến; suy nhi hành chi vị chi thông; cử nhi thố chi
thiên hạ chi dân vị chi sự nghiệp. Dịch: Cho nên cái có trước khi
có hình (hình nhi thượng, nay chúng ta gọi là siêu hình) thì gọi là
đạo; cái gì có từ khi có hình thì gọi là khí (chữ khí này nghĩa là đồ
dùng, là có hình nhất định. Có công dụng thấy được); nhân cái tự nhiên
sắp thay đổi mà tài chế nó thì gọi là biến (1), suy từ việc này ra việc
khác mà làm thì gọi là thông; đem ra thi thố cho mọi người trong thiên
hạ thì gọi là sự nghiệp. Chú thích: (1) Ví dụ hào 6 quẻ Càn là hết thời thịnh cực tới suy, mình rút lui trước thì tránh được tai hoạ. 5. Tiết này y hệt tiết 1 và 2 Chương VIII, nên không cần dịch lại. Tiết này và tiết 6 ở dưới, Phan Bội Châu đều bỏ. 6. Cực thiên hạ chi trách giả tồn hồ quái, cổ thiên hạ chi động giả tồn hồ từ. Dịch: Diễn đến cùng cực cái phức tạp, sâu kín trong thiên hạ là ở các quẻ, cổ võ sự hoạt động trong thiên hạ là ở lời đoán. 7.
Hoá nhi tài chi tồn hồ biến; suy nhi hành chi tồn hồ thông, thần nhi
minh chi tồn hồ kỳ nhân; mặc nhi thành chi bất ngôn nhi tín tồn hồ đức
hạnh. Dịch: Nhân cái tự nhiên sắp thay đổi mà tài chế nó là nhờ ở
tinh thần biến hoá; suy từ việc này ra việc khác mà làm là nhờ ở tinh
thần thông suốt; làm cho (đạo Dịch) thiêng liêng mà sáng tỏ là nhờ ở
người; yên lặng mà làm nên, không nói mà (người khác) tin (mình), là
nhờ ở đức hạnh. Chú thích: tiết này như bổ túc tiết 4 ở trên, nên Phan Bội Châu dịch cả hai.
hết: CHƯƠNG XII,
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Mar/2009 lúc 7:08pm
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Lời của học giả Nguyễn Hiến Lê
NHÌN LẠI QUÃNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA
Năm nay tôi đã 69 tuổi, đương thu xếp để về Long Xuyên, dự định từ sang
năm sẽ nghỉ ngơi chấm dứt hẳn công việc biên khảo, nêu có viết lách gì
nữa thì cũng chỉ là chép ít hồi ký, ghi vài suy tư hoặc dịch ít trang
sách. Vậy cuốn Kinh Dịch, đạo của người quân tử này là tập biên khảo
cuối cùng của tôi (1). Nhớ
lại trên năm chục năm trước, hồi tôi mới vào trường Bưởi, mỗi vụ hè, Mẹ
tôi cho tôi về Phương Khê (Sơn Tất) học thêm chữ Hán với Bác Hai tôi
(2) để “đọc gia phả bên nội ngọai” như Người nói, thì ngay Bác tôi và
tôi cũng cho sự học đó là một việc để tiêu khiển chớ không thể ngờ được
hòan cảnh và thời cuộc khiến cho tôi vài chục năm sau thành một người
nghiên cứu về cổ học Trung Hoa. Tôi học với Bác tôi được hai vụ
hè, tổng cộng độ ba tháng, biết được độ một ngàn chữ Hán rồi bỏ dở, một
phần vì tôi mắc học thi, một phần vì Bác tôi già rồi, không dạy học
nữa. Số vốn ngàn chữ đó chưa dùng được vào việc gì, nếu bỏ lâu chắc sẽ
quên hết. May sao, khỏang bốn năm sau, tôi ở trường Cao đẳng Công
chánh ra, phải đợi sáu tháng mới được bổ, không biết làm gì cho qua
ngày, tôi học lại chữ Hán. Lúc này tôi phải tự học trong bộ Hán Việt từ
điển của Đào Duy Anh và cuốn Grammaire Chinoise của Cordier, vì Bác tôi
đã qui tiên, không còn ai để chỉ dẫn cho tôi. Học như vậy được bốn
năm tháng, biết thêm chừng hai ngàn chữ nữa, lõm bõm đọc xong được bộ
Tam Quốc Chí diễn nghĩa (có lời bình của Thành Thán) thì được bổ vào
làm việc trong Nam. Vì có nhiều thì giờ rảnh, tôi kiếm mua được
một ít sách Hán: Mạnh tử, Luật ngữ, Ẩm băng thất của Lương Khải Siêu,
Nam du tạp ức của Hồ Thích, Cổ văn quan chỉ, vài cuốn Văn Học sử Trung
quốc mò mẫm đọc lấy, chỗ nào không hiểu thì viết thư hỏi Bác Ba tôi ở
đốc Vàng thượng, Long Xuyên. Nhờ vậy tối vỡ nghĩa lần lần và năm
1953, nhờ Bác Ba tôi khuyến khích, hướng dẫn, tôi viết được bộ Đại
cương Văn học sử Trung quốc, 3 cuốn. Bộ này tôi tự xuât bản năm 1955,
biết rằng có nhiều sơ sót, nên xin lỗi trứơc độc giả và độc giả không
ai nở trách mà còn cho là một tác phẩm đứng đắn, hữu ích vì là cuốn đầu
tiên bằng tiếng Việt viết về văn học Trung quốc. Lần tái bản tôi có sửa
lại. Hai năm sau, năm 1957, tôi viết cuốn: Nho giao, một triết lý chính trị (tôi cũng tự xuất bản năm 1958). Viết xong hai cuốn đó, tôi định bỏ hẳn khu vực cổ học Trung quốc mà sọan những sách về Việt Nam và phương Tây. Nhưng
thời cuộc khiến cho có cuộc di cư 1954, và nhờ cuộc di cư đó mà tôi
được quen ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông quê ở làng Cót (gần Hà Nội),
lớn hơn tôi sáu tuổi, hồi nhỏ học chữ Hán tới mười lăm tuổi, đậu bằng
Khóa sinh rồi mới chuyển qua học tiếng Pháp, nên sức học về chữ Hán
vững hơn tôi nhiều. Chúng tôi lần lần thân với nhau và năm 1962, tôi để
nghị với ông viết chung bộ Đại Cương triết học Trung quốc, tài liệu do
ông bạn Tạ Trong Hiệp ở Paris tìm mua giùm cho. Ông nhận lời, chúng tôi
hăng hái bắt tay vào việc ngay, chưa đầy hai năm thì xong, nhà Cảo Thơm
in thành hai cuốn năm 1965 và 1966. Viết tuy mệt thật, nhưng càng đi sâu vào cổ học Trung Quốc tôi càng thích, tôi liên tiếp cho ra: - Cổ Văn Trung Quốc – Tao Đàn 1966. - Chiến Quốc sách – Viết chung với Giản Chi – Lá Bối 1968. - Văn học Trung Quốc hiện đại từ 1898 tới 1960: 2 cuốn, tôi tự xuất bản – 1969. - Sử Ký của Tư Mã Thiên, viết chungvới Giản Chi- Lá Bối 1970. - Tô Đông Pha – Cảo thơm 1970. - Dịch Nhân sinh quan và Thơ văn Trung Hoa của Lâm Ngữ Đường . Ca Dao 1970. Bộ
Đại cương Triết học Trung Quốc không sắp thành từng thời đại, từng môn
phái như đa số các sách viết về triết học, mà chia thành từng vấn đề.
Chẳng hạn về nhân sinh luận có những vấn đề tính, tâm, tình, dục, nhân
nghĩa . . .mỗi vấn đề chúng tôi xét theo thứ tự thời gian: mới đầu thời
Tiên Tần, ai là người đặt ra vấn đề, rồi tuần tự các triết gia đời sau
bàn thêm về vấn đề đó ra sao, hoặc sửa đổi, thêm bớt, hoặc phản đối hay
dung hòa ý kiến của người trước. Cách trình bày đó mới mẻ, ở Trung
Hoa chúng tôi mới thấy có Vũ Đồng trong bộ Trung quốc Triết học đại
cương mà chúng tôi đã dùng làm tài liệu chính. Ở nước nhà, tác phẩm của
chúng tôi cũng nhờ tính cách mới mẻ đó mà được độc giả hoan nghinh.
Nhưng nó chỉ là một đại cương. Từ 1971, tôi muốn nghiên cứu riêng về
thời Tiên Tần, thời rực rỡ nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa, và
định viết kỹ về mỗi triết gia chính, phân tích tư tưởng của họ, dịch
trọn hoặc gần trọn tác phẩm của họ. Đã có sẵn một số tài liệu bằng
tiếng Anh, tiếng Pháp, rồi nhờ một bạn trẻ: Cô Thiên Mai, sinh viên du
học ở Đài Bắc kiếm thêm cho tôi tất cả những sách bằng tiếng Trung Hoa
xuất bản ở Đài Loan, Hương Cảng. Năm 1972, tôi viết xong: - Liệt Tử và Dương Tử - Lá Bối 1973. - Nhà giáo họ Khổng – Cảo Thơm 1972. Năm 1974 xong ba cuốn nữa: - Mạnh Tử - Cảo Thơm đầu 1975. - Tuân Tử - viết chung với Giản Chi – chưa kịp xuất bản thì chiến tranh chấm dứt, nước nhà được thống nhất. - Trang Tử - chưa in, cuốn này bắt đầu viết từ 1973. Sau
ngày giải phóng, mặc dầu biết lọai sách này của chúng tôi không thể
xuất bản trong mười năm sắp tới được, tôi cũng vẫn tiếp tục thực hiện
cho xong chương trình đã họach định, rồi cứ để đó, không bao giờ in
được cũng không sao. Tôi viết vì tôi muốn học thêm, mà tôi muốn học
thêm vì tôi thích tinh thần nhân bản rất cao trong triết học thời Tiên
Tần. Tôi cặm cụi viết như trước ngày giải phóng, nhờ vậy từ 1975 đến nay, xong được sáu tập nữa, đều chưa in: - Hàn Phi, viết chung với Giản Chi, 1975. - Mặc học, dịch một phần bộ Mặc Tử 1976. - Lão Tử, dịch trọn Đạo Đức Kinh, 1977. -
Khổng Tử, 1978. Tập này dài gấp năm cuốn nhà giáo họ Khổng và phân tích
tư tưởng của triết gia họ Khổng về đạo đức, chính trị. - Luận ngữ, dịch trọn bộ và chú thích, 1978. - Sau cùng là Kinh Dịch, đạo của người quân tử, 1979. Tôi
kết thúc triết học Tiên Tần bằng tập này vì cho rằng dịch học phái
trong thời Chiến Quốc đã biết lựa những tinh hoa của Nho và Lão, rồi
dung hòa để vạch cho dân tộc Trung Hoa một phép xử thế khá cao thượng
mà rất thực tiễ. Có thể nói Dịch Kinh và Dịch truyện đại biểu cho sự
minh triết của dân tộc Trung Hoa thời cổ. Nó tổng hợp các triết thuyết
chính thời Tiên Tần. Nhìn lại quãng đường đã qua trong hai mươi
bảy năm nay từ 1953, tôi thấy mới đầu tôi chỉ tính viết hai cuốn rồi
ngưng vì tự biết Hán học không phải là sở trường của mình; nhưng nhờ
gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm một ít
bước, rốt cuộc đã viết được 19 nhan đề về Cổ học Trung Hoa (không kể
một cuốn dịch của Lâm Ngữ đường), trong số đó có 6 nhan đề về Văn học
đều đã xuất bản và 13 nhan đề về triết học mà mới có 5 nhan đề đã xuất
bản, còn 8 nhan đề chỉ là bản thảo. Có những nhan đề chỉ gồm trên trăm
trang, nhưng cũng có nhan đề gồm nhiều tập, dày bảy tám trăm trang,
trên ngàn rưỡi trang; trung bình là ba bốn trăm trang. Như vậy chỉ
nhờ mỗi một câu của Mẹ tôi: “con nhà Nho không lẽ không đọc được gia
phả bên nội bên ngọai” khi nói với tôi như vậy, Người chỉ nghĩ đến công
của tổ tiên, có ngờ đâu rằng, đã vô tình vạch cho tôi một hướng đi, tìm
cho tôi một lẽ sống, tạo cho tôi một cuộc đời có ý nghĩa. Hôm nay
là ngày giỗ của Người, không khí chung quanh bàn thờ thật lạnh lẽo: về
hàng con chỉ có hai vợ chồng tôi, về hàng cháu và chắt không có một ai.
Nhưng mừng rằng còn được một nén hương trầm, một bình trà ngon của một
bạn văn và một độc giả cho. Tôi ghi lại đấy mấy trang này để con cháu ở
xa nhớ công Người: “Phúc đức tại Mẫu”. Sài gòn, ngày Rằm tháng Ba năm Kỷ mùi (11-04-1979) Nguyễn Hiến Lê
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 17/Dec/2009 lúc 7:13am
Hoa Hạ mời các anh chị, các bạn trẻ thích tìm về cội nguồn của các bộ
môn Khoa học huyền bí như Mai Hoa Dịch Số, Bốc Dịch ( xem quẻ bằng ba
đồng tiền ) hay Thuật Thông Thiên ( tức tìm hiểu về Thiên Thời : luận
đoán Trời nắng hay mưa ... nên tham khảo trước quyển " Kinh Dịch, Đạo
của người Quân tử " mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã trình bày rất đầy đủ
và rõ ràng : thiên can địa chi âm dương ngũ hành sinh khắc ...và 64 quẻ
Dịch . Kính chúc anh, chị , các bạn trẻ có những giây phút suy tư
thích thú khi vấn bước cùng học giả Nguyễn Hiến Lê để tìm hiểu về "
Kinh Dịch, Đạo của người Quân tử ".
Kính Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Sep/2010 lúc 5:25pm
5 of 5 File(s)
http://xa.yimg.com/kq/groups/6667760/56219897/name/Kinh-Dich-Dien-Giang.pdf - - Kinh-Dich-Dien-Giang.pdf
http://xa.yimg.com/kq/groups/6667760/1951682539/name/KinhDichLuocGiai.pdf - - KinhDichLuocGiai.pdf
http://xa.yimg.com/kq/groups/6667760/350628251/name/Mai - - Mai
http://xa.yimg.com/kq/groups/6667760/1126284311/name/Tim - - Tim
http://xa.yimg.com/kq/groups/6667760/1128945610/name/Tu - - Tu
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Apr/2011 lúc 9:11pm
http://dulich.chudu24.com/tin-du-lich/van-hoa/chau-a/china/ky-bi-thon-bat-quai-cua-hau-due-gia-cat-luong.html - Kỳ bí thôn bát quái của hậu duệ Gia Cát Lượng
Nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về môi trường và kiến trúc trên thế giới đang tập trung khảo sát một mô hình thôn trang kỳ bí theo bố cục bát quái ở Trung Quốc.
Thôn này có tên là thôn Gia Cát hay Bát Quái, tọa lạc tại thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang, được mệnh danh là "Trung Quốc đệ nhất thôn". Đây cũng chính là trung tâm sinh sống của hậu duệ Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng thời Tam Quốc.
Dựa theo Bát quái trận đồ lập nên thôn
Vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300), hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng là Gia Cát Đại Sư bắt đầu lập thôn Bát Quái tại Lan Khê, Triết Giang.
Theo sử chép, Gia Cát Lượng từng lập ra một trận pháp thần kỳ gọi là Bát trận đồ, biến ảo khôn lường, uy lực vô cùng, từng vây khốn cả 10 vạn tinh binh của đại tướng Đông Ngô Lục Tốn.
|
Toàn cảnh thôn bát quái nhìn từ trên cao (Theo Lantoday) | |
Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào Bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo Cửu cung bát quái.
Thôn lấy cái hồ lớn (chung trì, nửa nước nửa đất) hình thái cực làm trung tâm, 8 con đường từ hồ toả ra thành "nội bát quái".
Phía ngoài thôn lại đắp 8 tòa núi nhỏ hình thành "ngoại bát quái" bao bọc. Các sảnh, đường, nhà ở phân bố dọc theo 8 đường. Gia Cát Đại Sư trước khi qua đời có để di huấn là không được thay đổi nguyên dạng.
Trải qua hơn 800 năm dâu bể, lượng người trong thôn tăng lên nhiều, nhưng tổng thể cửu cung bát quái không hề thay đổi.
|
Trung tâm thôn bát quái là một hồ nhỏ. có hình xoáy âm dương, còn gọi là hồ thái cực (Theo Lantoday) | |
|
Người dân thôn Bát Quái vẫn sinh hoạt, giặt rũ bên hồ Chuông (Theo VTCnews) |
Trong thôn có đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc đều là kiến trúc cổ đời Minh, Thanh rất độc đáo.
Con cháu Gia Cát đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc.
Trong thôn có cả Nhà triển lãm trung y dược, vườn thảo dược... Nơi đây, riêng đời Minh, Thanh đã có 5 tiến sĩ, 11 cử nhân, hàng trăm tú tài. Các chuyên gia, học giả Trung Quốc đang đề nghị đổi Lan Khê thành TP Võ Hầu.
"Đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi"
Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc bát quái này có công năng phòng vệ và cải tạo môi trường rất cao. Thôn Gia Cát đặc biệt mát mẻ, sạch sẽ, thông thoáng.
|
: Kiến trúc trong thôn bát quái (Theo Lantoday) | |
Nhà kiến trúc Từ Quốc Bình cho rằng, kiểu kiến trúc của thôn này hoàn toàn khác với phong cách thôn trang truyền thống Trung Quốc, không lấy trung tuyến làm chủ mà bức xạ ra 8 hướng.
Các nhà trong thôn mặt đối nhau, đuôi liền nhau, đường nối nhau, rất thoáng mà kỳ thực kín đáo. Địa hình xung quanh nhìn giống như cái nồi, bốn phía cao, giữa thấp. Người ngoài vào thôn, nếu không có người quen dẫn đường thì lẩn quẩn không biết lối ra.
Nhà thư pháp Gia Cát Cao Phong, cháu đời thứ 42 của Gia Cát Lượng cho biết, trong thôn "đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi".
Năm 1925, chiến tranh ác liệt, quân đội của Quốc dân đảng là Tiêu Kính Quang đánh nhau với quân phiệt Tôn Truyền Phương 3 ngày dữ dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn.
Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, đại quân kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này. Duy có 1 lần máy bay Nhật ném bom trúng 1 phòng trong thôn.
http://dulich.chudu24.com/tin-du-lich/van-hoa/chau-a/china/ky-bi-thon-bat-quai-cua-hau-due-gia-cat-luong.html - http://dulich.chudu24.com/tin-du-lich/van-hoa/chau-a/china/ky-bi-thon-bat-quai-cua-hau-due-gia-cat-luong.html
------------- mk
|
|