Print Page | Close Window

CẦU HUYỆN QUÊ HƯƠNG TÔI

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=6960
Ngày in: 15/Nov/2024 lúc 1:23am
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: CẦU HUYỆN QUÊ HƯƠNG TÔI
Người gởi: cao the
Chủ đề: CẦU HUYỆN QUÊ HƯƠNG TÔI
Ngày gởi: 23/Jul/2011 lúc 9:25am

                                        

Lời Giới Thiệu

 

Trước hết thành kính biết ơn Hội Thân Hữu Gò Công vùng Hoa Thịnh Đốn, chân thành cám ơn Chị Phương Nga, Anh Lê Văn Tua, Anh Lộ Công Thông, đã cho tôi cơ hội gặp gở đồng hương trong buổi họp mặt Picnic 2011 tại Lake Fairfax Park,  Reston, Virginia  vừa qua.

 

Xem bài “Thương nhớ Gò Công quê hương tôi”, hình ảnh xa xưa bổng hiện về rất rõ trong trí nhớ cùn mằn của tôi, bất giác hai dòng lệ hạnh phúc chảy trào trên má.

 

Kính mến gởi lời cám ơn đến Tác giả Thy Lan Thảo đã viết một bài về Cầu Huyện rất hay,  không những trí nhớ tuyệt vời mà còn nghiên cứu tường tận hiểu biết từng gia đình, đến những chi tiết nhỏ của quê hương, xin được ngưỡng mộ và bái phục.

 

Cám ơn Chú Lộ Công Mười Lăm đã bổ túc một phần, nhất là tấm bằng khoán ít người biết, như vậy từ cống nhà ông Ba Khoa chạy Đến đường Tống Thứ là đất nhà Lộ Công.

 

Nhưng tôi vẫn “Cà Nanh” với Tác Giả, Cầu Huyện còn một phần thiếu sót từ Lộ Me phía Ao Trường Đua đi về Cầu Huyện và khoảng 30 gia đình từ Cầu đến Ngã tư đi Bình Ân , Tân Niên Tây.

 

Một nhóm nhà nghèo, dân lao động mua gánh bán bưng, nằm cuối Xóm Cầu Huyện nhưng rất gần cầu, mỗi đêm còn nghe ầm vang tiếng kêu từng thanh gổ của từng chiếc xe chạy qua

 

Thi xong bằng Tiểu học, nhà nghèo gia đình cho tôi vào Trường Học Nghề để kiếm nghề sau này nuôi thân, cuối năm học may mắn thi đậu và lên Sài Gòn học từ năm 1960, hơn 50 năm đến nay nhớ về Cầu Huyện lờ mờ , bài “ Thương nhớ Gò Công quê hương tôi “ là động lực chính thức khơi lại ký ức tưởng đã quên lãng trong tôi, nên xin ghi lại đôi dòng, trong chừng mực sự hiểu biết non nớt của tôi, ngưỡng mong được các bậc đàn anh bổ khuyết, những đàn em sau vun quén đấp bồi. Hầu những vị đến sau có cái nhìn bao quát hơn Cầu Huyện Quê Hương chúng ta. Bài viết có gì sai sót xin được thứ tha chỉ dạy.

 




SƠ LƯỢC NHỮNG GIA ĐÌNH BÊN NÀY CẦU HUYỆN

 

Đường Tống Thứ xóm tôi, nằm khiêm nhượng giữa hai ngã tư Đường Tống Thứ , Tổng Đốc Phương và Ngã tư Bình Ân.

Con đường dài không quá 200 thước, đầu đường là Bót Lính cuối đường là Tháp Canh thế mà chẳng gìn giữ được chiếc cầu để bọn cộng sản phá cho hư. Trên đoạn đường ngắn không một hàng rào nhà ai nhìn ra hồn. Nằm thoi thóp hai bên đường đủ loại cây gai, táo, chằng chịt dây hoa Tigon đan kín, ngon lành nhất nhà Bác Sáu Ngân phá đám gai dựng lên trụ rào kẻm gai, đẹp nhứt xóm như nhà Bác Ba thợ mộc được đóng bằng gổ, những tấm ván mặt đứng giữa mưa nắng tuổi thọ chẳng được bao lâu !

Chiến tranh không nơi nào bình yên trên đất nước mình, nhỏ xíu như xóm tôi con hẻm ra vào Xóm Rạch, sau khi Bót chuyển đi bọn khủng bố hắng đêm đi về gieo rắc kinh hoàng cho nhân dân, máu dân lành vẫn còn oan khiêng đọng lắng nơi nào đó trên đường ra bãi Tha Ma trước Tịnh Xá Phước Tân nhận bản án tử hình, người chết đi sự khủng khiếp vẫn còn lưu trong ánh mắt, căm hờn chẳng thể khép lại ! Vì đâu những người dân quê hiền lành chất phát biến thành những tên giết người hung tàn nhất ?

Tiếng Mõ hồi một như còn văng vẳng hằng đêm và nước mắt mồ hôi tiếng cười của lũ trẻ con nghèo người dân xóm tôi như còn quẩn quanh đâu đó !

Xóm tôi khoảng 30 nóc gia, đa số dân lao động nghèo, con cái ít học, cuộc sống lam lủ nhọc nhằn, như đoạn đường trải đá xanh dặm vá đơn sơ đầy ổ gà ổ voi.

Cuộc di tản trốn đói khoảng 1979 đã xô đẩy bà con xóm tôi vào những nỗi oan khiên mới, bộ mặt ven đường có thay đổi, nhưng người Cầu Huyện năm xưa trôi dạt bể bờ nào ? Bọt bèo ven sông đời cứ đổi thay theo từng ngọn sóng !

 

Cầu Huyện

Tôi còn nhớ rất ít về cây cầu Huyện, khung cầu sắt sơn đen lót ván giống như cầu Sơn Quy, cầu Long Chiến chỉ lưu thông một chìu, bên này xe qua bên kia xe dừng lại. Từ chợ Gò đi xuống khu vực đầu cầu, ván bắt vào những thanh đà rất tốt càng đi về Bót Cầu Huyện cây ván có nhiều thanh bị gãy nằm xiên xẹo, người ta cặp cây hai bên mép cầu để giữ cho ván khỏi bung trốc lên, thuở nhỏ khi qua cầu nhìn khoảng hở của các thanh ván thấy dưới sông dòng nước chảy nhanh quyến bên chân cầu những ổ xoáy nước, đi với má được ngồi trong thúng hai tay nắm chặt dây dóng, đi với chị, chị phải cỏng tay chân ôm cứng ngắt mới dám qua cầu. Nghe nói nhờ Việt Minh đốt cầu trong những ngày đánh Pháp nên cầu xuống cấp như vậy.

Ban đêm mỗi lần xe qua cầu ván khua rầm rầm vang vang cả xóm. Điểm đặc biệt nằm trên giường ván, ta sẽ cảm nhận được đất rung bấn bật như đuôi thằng lằn bị đứt, các lão tiền bối bảo :

- Cầu Huyện là đất không chân, nơi hội tụ những người trôi nổi, ừ thì vậy !

 

Tôi không nhớ cầu được gở vào năm nào, có một truyền thuyết nhưng rất thật vui vui do các bậc cha chú kể lại : “ Trong một đêm khuya vào cuối năm1951có đoàn xe nhà binh qua cầu những thanh gổ gây tiếng vang như thường lệ nhưng lâu hơn dài hơn, giường ván rung mạnh hơn đã giựt cả xóm cùng thức dậy. Trong gần 30 gia đình vào tháng 9 năm 1952 cho ra đời đồng loạt 10 em bé :

-         Chú Nhâm, cháu nội Bác Năm Búp, nhà số 16

-         Cô Đào, cháu Nội Cô Tư Xong ? ( chết sớm ) nhà số 3

-         Chú Năm con Bác Ba Thợ Mộc ( chết sớm ) nhà số 4

-         Chú Tới, con Chú Mười Giả, nhà số 22

-         Chú Bé Lớn, con Bác Năm Phát, nhà số 1

-         Cô Nê, con Chú Năm Mạnh, nhà số 9

-         Chú Tươi, con Bác Tư Giai, nhà số 10

-         Chú Bảy Tài, con Bác Hai Oai, nhà số 6

-         Chú Đông, con Bác Tám Trại Hàng, nhà số 14

-         Người sanh cuối cùng Chú Mười, là em trai của tôi, nhà số 12

Đoàn xe qua cầu, chẳng biết có hay không ? nhưng có 1/3 gia đình trong một xóm sinh em bé đa phần cùng tháng, cùng năm. Chuyện này ở Gò Công chắc chưa xóm nào đạt được, một kỳ tích !

Khi Cầu Huyện được tháo ra và đặt cống, mỗi lần đi ngang nhìn dòng chảy qua cống tạo thành xoáy nước cuốn tất cả sang phía bên kia vang lên tiếng ọt ọt, phát sợ.

Trước đây các bậc đàn Anh tắm sông nhảy cầu, bây giờ bày đặt tắm sông phải chui qua cống, đám con nít chúng tôi đứa nào chui qua cống mới được các anh cho tắm, bằng không bị đuổi lên bờ chỉ tắm ao, thật là ngặt nghèo

Tôi là tên chết nhát nhất trong bọn vì muốn tắm sông phải bon chen nín thở lặn qua, sau khi lần lượt thả ba cây bập dừa đầu cống bên này xem nó trôi qua bên kia không, chắc ăn như bắp rồi hít hơi … mấy con Hào bám quanh vách cống cắt chảy máu tay và cả vai. Thấy tôi ló đầu qua cả bọn reo mừng kẻ cuối cùng chui được qua cống. Trong đời tôi đây là lần bạo gan nhất, thật là hú hồn !

 

Đường kính cống khoảng 1 mét, rất nhỏ so với chiều ngang con sông làm lượng nước qua lại không kịp, để được qua bên kia sông dòng nước chảy tròn quanh trước cống với một áp lực rất lớn lâu dần làm sạt lở hai bờ, đầu cống hai bên sông phình lớn ra. Nhà Bác Năm Phát đặt hai đống chà cho cá, ở đầu cống bên bót đến 4 - 5 đống chà của các chú bác trong xóm Rạch

Vào những ngày nước kém người ta giăng lưới giở chà bắt cá, người đi xúc nhộn nhịp reo hò vang cả khúc sông, trên bờ người lớn trẻ con tụ tập đông như xem hát, dưới sông tôm cá nổi khoe râu, trường hợp này gọi là “ cá nổi ”

 

 

 

 

BẢN ĐỒ XÓM CẦU HUYỆN - NHÀ THỜ TRƯỚC NĂM 1960

 

Từ Cống đi về hướng Tân Niên Tây phía bên tay trái tuần tự những căn nhà như sau :




Trả lời:
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 24/Jul/2011 lúc 6:02am

1- NHÀ BÁC NĂM PHÁT

 

Bên này sông là nhà Ông Trần Công Phát có chức danh gì đó trong Nhà Thờ người trong xóm thường gọi Năm Phát.

Nhà bác Năm cất thụt sâu bên trong rất xa đường lộ, đi vào nhà phải qua miếng vườn nhỏ, khi trồng mía lúc trồng bắp tây… trước cửa nhà trồng cây Sơri tán thật to. Đường vào nhà cặp theo mé sông cây bần, tra và dừa lá đan kín.  Khu vườn nằm sau nhà Bác Hai Thi rất rộng từ mé nhà đến giáp đất Cô Tư Xông, khoảng đất này đào mương lên líp trồng dừa, phía sau nhà là con rạch nhỏ làm ranh với nhà Bà Sáu Mắm, con rạch theo đám lá dừa nước rậm rạp dẩn nước vô ra cái ao nhà và chảy vào các mương quanh líp dừa, buổi trưa chúng tôi thường núp vào đám lá canh vắng người nhảy qua mương leo hái trộm dừa, Anh Điệp rất chịu chơi gặp tụi tôi anh làm bộ rượt có khi còn hái dừa cho.

Gia đình Bác Năm chuyên nấu, bán Muối, cũng có làm chủ Hụi. Hụi là một hình thức huy động vốn nhàn rổi trong dân gian.

Khi chơi hụi cần có một người uy tín đứng ra chịu trách nhiệm gọi  "chủ hụi", chủ hụi mời các thành viên khác cùng chơi, người tham gia gọi " tay em". Chủ hụi có trách nhiệm đi thu tiền của các tay em giao đủ, giao đúng ngày quy định cho thành viên được hốt . Một dây hụi 500 đồng / tháng, gồm khoảng trên dưới 20 thành viên. Bỏ hụi thường vào đầu tháng. Tháng đầu tiên các tay em phải chầu hụi. Thí dụ hụi 500 đồng/ tháng, các tay em phải góp cho chủ hụi 500 đồng gọi là tiền áp thảo.

Tháng thứ nhì đến ngày giờ hẹn, tất cả các tay em tập trung đến nhà chủ hụi, bỏ hụi. Bỏ hụi bằng cách các thành viên viết số tiền mình muốn bỏ lên trên tờ giấy cho vào cái lon đặt giữa bàn, đôi khi cũng có thành viên không viết thăm mà nói số tiền mình muốn bỏ. Đến giờ kêu hụi, chủ hụi cho tay vào lon thăm, trộn đều sau đó bốc ra 1 thăm đọc tên thành viên và số tiền kêu hụi. Thí dụ : thăm thành viên thứ nhất 5 đồng, thành viên thứ hai 10 đồng, thành viên thứ ba 7 đồng  … Nếu hai thăm đồng số tiền thì người ra trước được hốt,  người kêu bằng miệng trước lúc bốc thăm nếu trùng với số tiền bỏ thăm thì người kêu miệng được hốt hụi.

Số tiền của thành viên thứ hai bỏ cao nhất 10 đồng như vậy thành viên này được hốt hụi.

- Do bỏ đi 10 đồng các con hụi phải đóng 490 đồng cho người hốt thông qua chủ hụi.

- Chủ hụi mượn vốn trước 500 đồng bây giờ phải trả lại đóng 500 đồng

Chơi hụi là một hình thức giúp đở nhau. Tay hụi hốt chót đương nhiên các tay hụi chết ( đã hốt rồi ) mỗi thành viên phải đóng đủ 500 đồng.

Bác năm có rất nhiều con : Chị Hai Ngà, anh Ba Lực, Tư Điệp, Năm Rạng, Sáu Tươi, Bảy Sáng, Bé Lớn và Bé Nhỏ.

Chị Hai Ngà là Nữ Quân Nhân ngành Xã Hội, Doanh trại làm việc nằm giữa Thành Cộng Hoà do Liên Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ thời Đệ Nhất Cộng Hoà trú đóng và Nhà Thờ Hầm, đối điện với Nha Sổ Số Kiến Thiết và Toà Đại Sứ Anh trên đường Thồng Nhất. Phạm Phú Quốc đã dội bom xuống nơi này trong lần đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm,

Đám cưới Chị Hai Ngà lớn nhất xóm tôi thời đó, người lớn làm bò, làm heo, bọn nhóc chúng tôi làm vịt cả đêm, thuở ấy chưa có đèn điện, nhổ lông gà vịt trong ánh sáng tối mù quanh bên bếp nước sôi, sáng ra thợ nấu kêu trời như bọng, đến khuya những người phụ việc  ăn cháo huyết, cháo lòng bò thả giàn. Thật là vui như một lễ hội.

 

Anh Ba Lực nghe nói học trường dòng trên Sài Gòn, sau 75 ra đời, lập gia đình bên Bến Tre, sau đó đi vượt biên ra nước ngoài và chết bên đó.

 

Nhà Bác Năm có lò muối, lò muối làm bằng gạch đặt trên lò hai cái chảo lá sen thật lớn, Anh Điệp đổ muối hột vào hai chảo cho nước vào, đốt bằng trấu, lâu lâu lủa tắt ngùm, Bác Năm dùng cây móc, cào những thanh sắt xếp nằm ngang như bậc thang ở cửa lò, gió ùa vào lửa cháy bừng reo xì xèo , nước sôi thỉnh thoảng dùng xẻng xúc ra lớp muối trắng tươi đổ vào cần xé.

Buổi chiều mát trời thường thấy Bác Năm trai và anh Điệp đi gánh trấu, hai bao bố nhồi đầy trấu, móc sắt móc vào hai thành bao xỏ đòn gánh vào, nhẹ nhàng.

Ghe chở muối thường neo bên cống và phu gánh vào bếp đổ đống cao nghệu, xài dần.

Bác Năm trai rất nghiêm khắc thời này người ta hay dùng roi để dạy con, Bác Năm cũng thế, Trần Công Điệp rất chịu chơi, bản tánh anh hùng lại hay phá phách thường bị người lớn mắng vốn, con nít đến nhà mét nên anh thường bị đòn, Bác Năm trai đánh mõi tay, anh Điệp đứng ì ra đó, không hề khóc. Một đêm anh Điệp học bài ngủ gục Bác Năm lỡ tay nắm tóc đè đầu mặt anh bị đập vào bóng đèn dầu, máu chảy phải đi lên thầy Ba Nô băng bó, để lại trên má anh vết thẹo.

 

Trong chuyến đi Gò Công lên Sài Gòn nhập ngủ, qua ngã Cầu Nổi, chỉ có nhánh cây gát  giữa đường, xe cộ dừng lại không dám qua, đã trưa không thấy lính đến giải toả, hành khách mệt nhoài, con nít khóc lóc vì nắng nóng với bản tánh anh hùng Nam bộ “Ra đường gặp chuyện bất bằng, chẳng tha” Điệp từ phía sau dảy xe tiến tới dọn dẹp trở ngại thì bị việt cộng núp bắn lén.

Hiện hai Bác Năm đều đã qua đời, Chị Hai Ngà, và Bé lớn ( Trí ) ở nước ngoài.

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 25/Jul/2011 lúc 6:35am

02- Bác Hai Thi

Kề bên nhà Bác Năm là nhà Bác Hai Thi, có biệt danh ít người biết “ Hai Tém” sau này tôi mới biết vì Bác Hai rất có duyên với mấy bà goá, trước nhà cũng có cổng giống như nhà Ông Thân Bính nhưng bằng gổ lợp lá, kề bên đặt lu nước và cái gáo bằng dừa cán rất dài, để người đi đường giải khát, gần ranh nhà với Bà Tư có cây táo, nơi hấp dẫn bọn nhóc chúng tôi . 

Bác Hai làm gì đó trong Ty Công Chánh, nhà có bán cá Lia Thia bọn con nít chúng tôi  lui tới hằng ngày

Anh Nhì là con Bác Hai, đẹp trai giống như Bác đầu tóc lúc nào cũng láng mướt, cuộc sống khép kín ít chơi với các anh trong xóm, vào độ tuổi đi lính thì anh vào Thánh Thất Tây Ninh tu, sau 75 có đem vợ con về ở với ba má

   03-Cô Tư Xong

Tiếp theo là nhà Bà Tư Xông, bà Tư có 1 trai một gái.

Chú Hai Thố làm việc trong Dinh Độc lập, Thiếm Hai Thố ở nhà nuôi con, Con Trai đầu lòng tên Dũng, đàn giỏi đi lính nằm trong tiểu Đoàn Chiến Tranh Chánh Trị

Cô Tư Là, giáo viên sau làm hiệu trưởng trường Nguyển Tri Phương, nhà ở đường Ngô Quyền, chồng là Nguyễn văn lễ trước làm việc ở trại giam Côn Đảo, thời Đệ Nhị Cộng Hoà là Hạ Nghị Sĩ ông này với Dương văn ba ở Bạc Liêu là “ ăn cơm Quốc Gia, thờ ma của việt cộng “. Trong trận đánh Bình Long có phần công sức của ông ta vẽ bản đồ chuyển tài liệu cho giặc. Sau ngày cờ đỏ lên đời, ông làm vỏ ruột xe đạp tại nhà, cho hai đứa con trai sinh đôi Đồng và Đăng vượt biên, nghe nói hiện đang ở Canada

Nhà này có một người rất đặc biệt tên Tư Còn gọi Bà Tư Xông bằng Cô, ông này lang bạt kỳ hồ, quy tụ một số anh chị trong xóm thành lập Thi Văn Đoàn lấy tên Hồn Thu Thảo, Thi sĩ phải có thơ túi, rượu bầu, sau này thêm thuốc phiện để lầy cảm hứng mà gieo vần, nhưng văn chương bị rượu thuốc hoành hành nàng thơ cũng sớm chia tay, bản thân người thi sĩ ôm ấp nàng Tiên vội vã qua đời trong khổ nghèo bệnh tật

04- Bác Ba Thợ Mộc

Nhà Bác Ba thợ mộc, Bác có 3 người con anh Hai Cầm, Chị Bé Lớn và Bé Nhỏ.

Anh Hai Cầm cũng là dân Lang bạt kỳ hồ, nhà chuyên môn nuôi gà nòi đá độ, có con gà dữ còn hơn bầy Ngổng và đàn gà Lôi ở nhà ông Phán Đờn, bọn nhóc trong hẻm mỗi lần đi học ngang qua  phải có người lớn mới dám đi, còn không thì cấm đầu chạy trối chết, nhiều đứa có cả tôi bị gà đá gà mổ đến chảy máu lưng, máu chân

Chị Bé Lớn, lấy chồng là Sĩ Quan thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh “ Sao không chết người trai chiến sĩ mà chết người gái nhỏ hậu phương” Vợ chết để lại đàn con, tái giá với Bé nhỏ, cô em vợ

Sau ngày buông súng tản hàng, được đi học tốt nghiệp trở về đoàn tụ gia đình

 

Kề bên nhà Bác Ba thợ mộc là con hẻm dẫn vào nhà tôi.



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 26/Jul/2011 lúc 7:16am

05-Bác Tư Lục Lộ

 
Bên trái hẻm nhà đấu tiên, là Bác Tư lục lộ, do làm phu bên Ty Công Chánh

Bác có hai đặc biệt

-         Mặc quần Tiều, giống người Hoa

-         Hút thuốc vấn, hút xong dán đầy góc cột nhà, khi hết thuốc gở ra vấn hút tiếp

Nhà Bác trồng cây kiểng và có máy hát đỉa quây tay, bọn trẻ con chúng tôi thường đến nghe ké tuồng cải lương Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu v.v…

Cô con gái lớn, Chị Hai theo chồng ngoài Sơn Quy

Cô gái út chị Sáu Ngữ, lấy chồng người Miên, Vợ chồng chị Sáu Ngữ ở nhà chung với cha mẹ, không con, được vài năm nghe nói  ông chồng bỏ đi về Miên sinh sống.

Sau ngày Bác Tư trai qua đời, Bác Tư gái bán nhà cho Chú Tám Cây, về cất nhà gần chị Hai ngoài cua Cô Thuỷ cho đở hiu quạnh

 

06-Bác Hai Oai

 

Nhà Bác Hai Oai, làm việc bên Toà Bố, một trong những gia đình khá giả trong xóm tôi, có 4 người con, Chị Tư Mầu, anh Năm Sơn, Sáu Long, Bảy Tài.

Bác Hai gái có tên là “ Bà Hai Trầu” miệng luôn nhai trầu , thích đánh bài Tứ Sắc, ngồi chơi suốt ngày không mệt

Gia đình khá giả, các anh chị sung sướng vô cùng. Sau ngày Bác Hai trai đột ngột qua đời, do đạp miếng miểng sành bị Phong Đòn Gánh, từ đó gia đình suy kiệt

Chị Tư Mầu yêu anh Bảy Na làm thợ mộc nhà dưới Gò Tre, Chị tư  Mầu rất nhiều con sanh 4 lần đến 7 đứa con, năm 1977-1978 gia đình đói khổ, phải bán nhà cho Chị Hai Hường con Bác Tư Giái rồi theo đoàn người Gò Công đi Cà Mau tìm sống. Nghe nói hiện giờ có vuông tôm, cuộc sống cũng khá

Ba mất, Anh Năm Sơn phải nghỉ học đi làm mướn ở tiệm cám, tuy ít học nhưng tính văn nghệ rất cao, tham gia vào Thi Văn Đoàn Hồn Thu Thảo, với bút hiệu Thanh Sơn có thơ đăng trên bào Tiếng Chuông, sau đi lính Pháo binh thuộc Trung đoàn 12, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đóng ở Đồng Tâm Mỹ Tho, người rất dể thương, uy tín với cấp trên, do chử viết đẹp lại biết thơ văn nên được làm việc ở phòng 1. Sau ngày tản hàng anh về quê vợ ở Phú Mỹ, Tân Hiệp Mỹ  Tho, làm bốc vác ở nhà máy xay lúa, tham gia văn nghệ soạn kịch, viết bài ca vọng cổ rất nổi tiếng trong khu vực.

Sáu Long mới học lớp nhì đã nghỉ , học hớt tóc với chú Tám Cây , người mua lại căn nhà của Bác Tư chị Sáu Ngữ , tiệm hớt tóc của chú cất tại Cống Cầu Huyện phía bên nhà Bác Năm Phát, Sáu Long rất hiếu thảo đi làm được bao nhiêu tiền đều đưa hết cho má. Đến năm 18 tuổi Long được anh Năm Sơn  đăng lính Sư Đoàn 7 Bộ Binh, trong lần về phép, bị cảm Bác Hai mời Thầy Ba Nô xuống chích, vừa rút kim ra thân thể bầm tím và qua đời ( Thầy Ba Nô chích dạo Thy Lan Thảo đã nói phần trên)

Người con trai út là Bảy Tài, nghỉ học từ nhỏ, đi lính Sư Đoàn 7 Bộ Binh

Sau ngày tan hàng Bảy Tài về nhà cưới Cô Nê con Chú Năm Mạnh nhà cách con hẻm, Cô Nê đi bán cốm quanh các bến xe lam mặt lúc nào cũng cười vui, có hai con nghèo khổ bán đất ăn dần sau cùng về Bình Ân, qua đời ở đó

 

Trên vuông đất của Bác Hai, khi còn sống Bác bán một phần cho Anh Năm , anh chồng của chị Tư Mầu, anh Năm làm tài xế xe hàng chị Năm bán rau cải trên chợ, gia đình này có cô con gái là Ca Sĩ Ngọc Hiếu làm ở Phòng chiến Tranh Chánh Trị. Cùng thời với Ca Sĩ Thiên Trang. Ngọc Hiếu lập gia đình với ông Trưởng Đoàn Xây Dựng Nông Thôn, sau ngày 30-4 đi cải tạo, định cư ở Mỹ

 



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 26/Jul/2011 lúc 12:20pm
 
 
Trong bài viết ngày hôm qua anh Cao Thệ có nói đến chị Tư Là làm tôi nhớ đến chuyện sau nầy:
Hồi tôi còn đi hoc trường Pétrus Ký (Saigon) tôi ở cư xá Nguyễn tri Phương, Chị Tư Là cũng ở cùng xóm. Có một lần chúng tôi từ Saigon về Gò Công chung trên một chiếc Citroen, Traction 15, anh Nguyễn văn Lễ lái. Hôm đó đi về buổi chiều, sợ trễ bắc (phà) vì lúc đó chuyến bắc chót là  6 giờ chiều. Xe chạy khá nhanh mà trời lại có mưa lăm răm. Chúng tôi qua mặt một chiếc xe đò. Tôi không biết xe mình có ép xe đò hay không mà ít phút sau chiếc xe đò chạy qua mặt lại và ngừng ngay trước mặt xe chúng tôi. Anh "Lơ" cầm cái "ma ni ven" (manivelle) đi thẳng lại xe chúng tôi định cự nự. Anh Lễ chẫm rãi lấy trong ngăn tay xe (boite à gants) cây Colt 9 để lên dash xe. Bọn kia thấy cây súng liền thối lui. Tôi nghĩ lai nếu lúc đó anh lái xe không làm trong quân đội có súng thì chuyện sẽ ra sao!!
 
Chưa hết... Xe đò để cho chúng tôi đi trước. Ít lâu sau xe chúng tôi vì trời mưa đường trơn, bị tuột xuống ruộng (lúc đó hai bên đường còn là ruộng chứ không có nhà san sát như bây giờ). Lúc tôi bính tỉnh lại thấy đầu mình quay xuống đất. Quay cửa kiến xe lên bò ra ngoài thì thấy bốn bánh xe chổng lên trời và bình xăng đang chảy ọc ọc! Cũng may là nhờ ruộng có chút nước vì trời mưa nên trong bọn không sao cả chi có chị Tư Là bị hơi bầm ở càm thôi ( hú hồn). Chiếc xe đò chạy đến ngừng xuống hỏi thăm chúng tôi. Anh Lễ nhờ họ đến bót (đồn) gần đó nói anh bị tai nạn nhờ người đến giúp. Nữa giờ sau có 2 chiếc xe Jeep đến đón chúng tôi về đồn ăn tối và ngủ luôn tại đó và họ cho lính đến kéo xe về đồn. Tối hôm đó tôi và anh Còn ( mà anh Cao Thệ có nhắc tới) ngủ chung phòng với trung úy chỉ huy trưởng đốn nầy. Sáng hôm sau mới về Gò Công, trễ mất một ngày!
 
 
 
Hồi đó tôi và anh Còn còn nhỏ tuổi. Từ đó tới sau tôi không gặp lại anh Còn nữa.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 27/Jul/2011 lúc 5:58pm

Chân thành cám ơn Chú đã cho cháu biết thêm một chi tiết rất hay về  Cô Tư Là và anh Tư Còn. Rất mong Chú bổ khuyết giúp cháu những điều thiếu xót

Cháu

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 27/Jul/2011 lúc 6:08pm
 

07- Ông Bà Sáu

Giáp ranh phía sau nhà Bác Hai là nhà Bà Sáu Mắm, Bà Sáu bán mắm ở chợ Gò Công, đất rộng trồng cây ăn trái: me, ổi, dừa và mãn cầu, phía sau nhà là Sông dầy đặt dừa lá. Ông Sáu là dân giang hồ giải nghệ, võ thuật cao cường, có hai người con trai, Anh Ba Phó và Cai ròm

Anh Ba Phó lập gia đình, đi lính sau đó hy sinh, chị Ba ở với ông bà Sáu, Sau ngày 30-4 Cha mẹ chồng lần lượt qua đời, chị bán nhà về quê

Cai có tên là Mực nhưng rất ghét ai gọi tên này, Cai là tay đàn ghi ta tuyệt vời, không qua trường lớp, là một tay võ thuật khá giỏi , người thì nhỏ con ốm yếu, trong một lần Cảnh Sát xét nhà Cai chui tọt vào tủ đựng thức ăn khi lính đi khỏi phải phá tủ chun ra, đúng ra Cai đươc miển dịch vì có anh đi lính cha mẹ già trên 60 tuổi, nhưng vẫn đăng lính vốn bà con Ông Thà nên xin vào lính Địa Phương Quân cho gần nhà để phụng dưỡng cha mẹ già, bị thương nhẹ trong trận phục kích nhưng hoả lực địch quá mạnh không tải thương được, máu ra nhiều quá, hy sinh. Bà Sáu già yếu khóc con mù đôi mắt và chết trong cảnh mù lòa

 

08- Ông Ba Nghi

 

Cách một rảnh nước bụi tre gai là nhà ông Ba Nghi thầy thuốc bắc ở Tân Thành, nhà ngói năm gian, trong  phong thuỷ đây là căn nhà xấu, không phát tích lâu dài  khu đất nhà ông cuối hẻm, rất rộng nằm ngay ngả ba sông , nhánh sông này chảy qua phía sau nhà chú Năm Mạnh,  Ông Cai Giái, ra đến đường 30-4 hiện nay  qua cống chảy vào ruộng phia bên ao Ông Hộ dùng để lấy và xả nước, những đám ruộng này vào mùa cấy khoảng 4 – 5 giờ  sáng nghe vang tiếng “ tù và ”  tẹo… tí … tẹo… tập trung thợ cấy, còn nghe những điệu hò đối đáp  nhau vang vang ngoài ruộng

Ông Ba Nghi rất khá giả tự bỏ tiền mua gạch ong lót từ đầu hẻm đến cuối hẻm, nghe nói mua đâu tuốt trên Biên Hoà vận chuyển về

Gia đình Ông Ba không được biết nhiều, chỉ biết trong gia đình đó có Nhứt Lớn, chị Giàu, Anh Ba Heo, vì nhà nuôi heo, Chị Tư sống trên Sài Gòn có đứa con trai tên Trí, nghe kể lại cô Tài Sợi ( Ca Sĩ Phương Dung ? ) ở Tân Thành bà con sao đó  ghé nhà và đánh banh bông

 

Ông có người con nuôi Đội Tập đi lính giải ngủ, trong xóm thường gọi Chú Tư Tập, Chú Tư Tập to con mập mạp, hình như làm bên Công Chánh Thiếm Tư Tập bán trên chợ Gò, Sau ngày cờ đỏ vào gia đình đi kinh tế mới trên Long Khánh

 

Trong vuông nhà trồng nhiều cây Me , Mận, Dừa cây nào cũng say trái, tuy nhiên Mậm ảnh hưởng bởi nước mặn nên trái lớn hơn trái táo một chút

 

Đặt biệt có hai bụi Chà Là trái từng chùm giống như buồng cao nho nhỏ như trái trứng cá ăn chát chát, quanh bẹ lá gai màu đen dài sọc loại này có rất nhiều ở bên rừng Sát bên Bà Rịa, trái theo sông nước trôi về đây, hay là theo chân người từ Mô Soài mà đến ?

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 29/Jul/2011 lúc 6:42am

Dọc theo bờ sông bãi bùn cây Bần mọc thành hàng, những cặt bần (Rể bần) vươn lên tua tủa như những cây chông, bọn tôi cắt đem về vót thành những phao câu cá, hoặc làm nút chai, có người vạt lấy làm phao thả Vó bắt cua. Trên những nhánh bần treo tòn ten tổ chim Vòng Vọc, là kết quả một nghệ thuật tinh xảo của hai chú chim bé tý teo, có mỏ cứng như sắt,  tỉa từng sợi lá xé đan thành tổ chim hình chử  q , cung tròn chử C là khu vực đẻ trứng, lủ chim non sinh hoạt, che mưa che nắng, chử I như ống cống chim cha mẹ chui vào ra . Chim rất khôn thường làm tổ trên những cây luôn luôn có tổ ong sắc. lơ ngơ leo lên bắt chim  ong đánh cho sưng mặt.

 

Nhà Ông Ba là nơi tập trung bọn nhóc chúng tôi nào là chơi cò chập, đánh đáo, nhảy dây, tạt lon và hấp dẩn nhứt vẫn là đá banh, trái banh cũng siêu đẳng làm bằng trái dừa điếc đá sưng giò sưng cẳng thế mà vui.

 

Lủ chúng tôi sau khi chơi phá mệt nhoài thường ra sông, trước khi đến sông thường tìm Bình Bát chín, Bình Bát là loại cây mọc hoang ven sông, trái màu xanh khi chín màu vàng tươi, ruột tương tự như trái Mãn Cầu … hoặc trèo hái trái Bần, nhớ năm Gò Công bị dịch Cúm (1956 ? ) Bần trên sông không còn một trái người ta hái bán, ăn để trị cúm. Nói đến Bần ( Thuỷ Liễu) còn có loại Bần Ổi, Bần Ổi thường mọc trên bờ , lá bần to hơn màu xanh hơn, chua hơn Bần Thuỷ Liểu.

Tắm sông bọn tôi thường chơi trò rượt bắt đuổi nhau, chia phe móc sình chọi lộn,  trong những lần móc sình vô tình bắt được Vọp.

Bắt vọp có rất nhiều cách, tuỳ theo mực nước sông,  lúc nước vừa ròng vọp dưới bùn đưa khoé miệng lên phun nước, ta đi trên bờ hoặc mép nước nhìn xuống thấy như cơm sôi,  phải nhìn kỷ nước trong vắt không có tạp chất, bàn tay chụm lại như cái nôm đưa tay xuống là dính gọi là bắt vọp sôi, cẩn thận đừng cho nước giao động mạnh, những con khác sẽ ngưng sôi,

Nước rút vừa sát mặt bùn khoé miệng vọp còn trên mặt bùn phải tinh mắt mới nhìn thấy gọi là bắt vọp mánh,

Nước rút cạn trơ bãi sình, dùng chân đạp gọi là bắt vọp đạp, vọp sống quần thể ít khi ở lẽ loi một mình

Vọp nhỏ màu xanh, vọp to do nằm dưới bùn có màu vàng của phèn đôi khi trên  lớp vôi bị bể có màu trắng đục. Vọp giống như nghêu, nhưng lớn hơn nhiều , luộc vọp lấy nước nầu canh, thịt vớt ra kho tiêu ăn cơm với canh vọp, thiệt đã hết biết !

Dùng vọp bỏ vào lu nước, những chất bả lơ lững, vọp ăn hết làm nước rất trong, hơn cả lóng phèn.

 

Những gia đình quanh bờ sông từ cống chạy lên Cầu Tây Ban Nha người ta trồng cây dừa nước, để giữ đất khỏi sạt lở. Lá dừa chặt ra tách làm đôi phơi  để lợp nhà, phần còn lại gọi là bẹ dừa hay  là bập dừa, người ta chặt bẹ dừa , xẻ nhỏ phơi khô làm lạt để buộc lá, buộc cây. Bẹ dừa còn làm phao cho đám con nít chúng tôi tập lội, thời kháng chiến chống Pháp người ta gọt thành cây súng gọi là súng bập dừa, vây đồn đánh bót, chỉ có cây súng Mút cờ Tông chạy lại chổ này bắn cái đùng, chạy lại chổ kia bắn cái rằm, số còn lại là súng bập dừa chạy tràn lan chi địa, Pháp thấy đông sợ quá đầu hàng thế là thắng trận.

 

Thân bập dừa hình chử V, ôm bó vào nhau tạo thành khoảng trống, cá cua thường chui vào để ở, để bắt mồi, ngày rằm hoặc 16 âm lịch, cá Bóng  Dừa thường  bắt cặp chui vào, những người lao động nghèo khó như chúng tôi có được bửa cơm thịnh soạn.

 

Cây Dừa Lá, trồng để giữ đất không cho sạt lỡ, tranh giành với sông nước giữ phù sa tạo bãi bồi, sống âm thầm nơi nước mặn, phèn chua, gần gủi giúp đở người bình dân lao nhọc, gìn giữ chở che cho thế hệ Cha Ông yêu nước  gắn liền tên người Anh Hùng Dân Tộc Trương Định, Đám Lá Tối Trời đi vào lịch sử giữ nước oai hùng của dân tộc , Cây Dừa nước rất đáng được tôn vinh !

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 30/Jul/2011 lúc 7:49am

09-Chú Năm Mạnh

Từ nhà Ông Ba Nghi trở ra đuờng, vuông đất kế bên là nhà Chú Năm Mạnh làm Lao công trên nhà thương, biệt danh Năm Lùn, tướng ngũ đoản, sách tướng bảo cực quý, phải chăng vì xương cốt thô lộ ngũ nhạc không triều, lổ mũi hở, tiếng nói lớn mà không vang nên thành tướng nghèo khó, chú thường bảo với mọi người là chú sinh bất phùng thời. Thiếm Năm buôn gánh bán bưng, vất vả nuôi đàn con nhỏ, các con chú được đặt tên bắt đầu từ chử N, cô Nữ, chú Nô, chú Na, cô Nê, cô Nâu, chú Ni, Chú Nư …   Chú Năm có Ông anh thuộc loại Giang Hồ Tứ Chiến, Hai Nhất từng bị tù Côn Đảo kết bè trốn về đất liền, bị bảo bè tấp vào Rạch Giá, là bạn của Sơn Vương, có cất căn nhà nhỏ trong đất chú Năm lánh nạn nghe nói Sơn Vương được thả về có ghé thăm, Ở được dăm ba tháng Chú Hai Nhất bỏ lên Sài Gòn

Trở lại chuyện nhà Chú Năm, tuy nhà nghèo con đông nhưng  nhà lợp tôn so với những căn nhà lá chúng tôi nhà Chú rất là bảnh

Con gái lớn là Cô Hai Nữ, lấy chồng là Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn

Ba Nô do hoàn cảnh gia đình nghỉ học sớm phụ bán hủ tiếu trên chợ, sáng đi sớm tối mịch mới về vì vậy không giao thiệp với ai, từ chợ về phải đi ngang qua quán bán tạp hoá của Bác Tám Kỷ ( Thy Lan Thảo có đề cặp đến) rồi đến nhà máy nước đá, Nô thường bị các anh bên sông ăn hiếp, rất nhỏ con mà chịu chơi, ngang tàng, cộc tính  thường bửa đánh lộn, Nô học của cha vài miếng, học của Ông Sáu vài thế võ, nhưng vẫn thua, thường bửa đi về thủ dao trong người cũng vẫn thua, tức quá đăng lính Dù nơi tuyển quân không nhận vì mới 15 tuổi, Đăng lính Sư Đoàn 7 cũng không được nhận, về xin vào Địa Phương Quân cũng không được nốt, thực ra tuổi tác có thể vượt qua nhưng quá thấp, thời đó cây súng Garant M1 còn cao hơn. Tức giận về quê Ngoại ở Xóm Thủ  theo việt cộng, trong một lần đi phá làng phá xóm, đấp mô đào đường chi đó bị lính bắn chết dường như ở ngã ba Trần công trường và Võ văn kiệt hiện nay

Sau ngày cờ đỏ tràn vào Chú Năm cha liệt sỹ bỏ nhà đi lang thang, nghe nói chết trên Sài Gòn, Thiếm Năm bán nhà về quê sống trong cảnh túng quẩn.

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 31/Jul/2011 lúc 5:08am

10 -   Bác Cai Tư

 
Kế đến là Nhà Bác Tư , Bác Tư là Cai Lục Lộ ( Cai Giái ), làm việc bên Ty Công Chánh, Trong xóm tôi nhà bác đầu tiên lợp thiết, đầu tiên có Radio , Radio gì mà to như cái tủ ly, con nít chúng tôi chui vào chui ra cũng được. Hình như còn phải mua cái máy phát điện để phục vụ cho cái Radio nữa, người trong xóm tụ tập chật nhà để nghe Radio, tối thứ bảy nghe cãi lương, chiều chủ nhật nghe Ông Huyền Vũ tường thuật đá banh, … thấy  bọn nhóc chúng tôi tò mò, Bác Tư bảo tao nhốt tụi nó ở trong đó hằng ngày đưa cơm nước vào, tôi rình xem qua mấy lổ tròn phía sau chẳng thấy ai, chỉ mấy cái bóng đèn đỏ rực,

Nhà Bác Tư còn nuôi con khỉ, Khỉ nhảy nhót trong lồng, làm đủ thứ trò, đám con nít chúng tôi quanh quẩn suốt ngày chọc ghẹo

Chị Hai Hường, anh Ba Cúc,  Cô Nê Lớn, chú Tươi, Phước ….

Chị Hai Hường lấy phải ông chồng là việt cộng, bị lính bắn chết để lại đứa con gái

Sau này Bác Tư bị tai nạn mất một cánh tay, Bác Tư như là khu trưởng trong hẻm mọi việc cần giúp đở, Bác giúp đở hết lòng không nệ hà, tiếng nói của Bác nhiều trọng lượng

Bác Tư có một kỹ niệm với “ lủ phà làng phá xóm” chúng tôi đến mãi bây giờ không thể quên.

 

Kể chuyện này trước hết như một lời xin lỗi mong Bác và gia đình tha thứ , số là một đêm bọn phá làng phá xóm chúng tôi nhàn rỗi chẳng có gì để phá, không nhớ đứa nào đề nghị lấy đất chọi lên nhà Bác Tư, mái nhà tôn nghe rầm rầm, bọn con Nê lớn thằng Tươi, ra của chưởi vang, thế là đêm sau, đêm sau nữa, trong xóm ai cũng nghĩ chúng tôi chứ ai mà vào đây, thú thật chúng tôi chỉ chọi có mấy cục đất đầu tiên còn sau đó thì không dám vì nhà Bác Tư tổ chức cho người lớn rình bắt. Đêm đến “ nhóm an ninh cảnh vệ ” lùa chúng tôi khoảng 6-7 thằng đến nhà Bác Tư,  đang ngồi nghe radio, bổng rầm rầm trên nóc nhà, thế là tụi quỹ chúng tôi vô tội, hôm sau theo đề nghị lủ chúng tôi lần lượt cũng đến nhà Bác Tư, bên ngoài không hiểu ai chọi lên nóc nhà như mưa, người ta nghĩ đến mấy anh lớn giải vây cho đám quỹ nhỏ.

Thế là hôm sau các anh lớn cùng bọn tôi  đến nhà ngồi nghe Radio chung, thật là chán. Đá vẫn rớt trên mái nhà , Bác Tư nghĩ ra một kế cầm cục đá đưa cho mọi người xem ra cửa nói rằng : “ Bây giờ tao quăng cục đá này ra ngoài nếu ngon lành thì lượm cục đá này bôi vôi chọi trả lại, mới hay ” rồi ném ra ngoài , tức thì cục đá dính vôi ăn trầu trắng xoá được chọi trở vô trước hàng ba, người người đang ồn ào bổng dưng yên lặng

Bác lấy cục đá khác cho mọi người xem và làm y như trước , lần này bác chọi vào lùm cây phía sau nhà, tức thì cục đá được bôi vôi quăng trở lại, người lớn im lặng,  bọn phá nhà chúng tôi xanh lét mặt mày, chẳng dám ra về. Hơn 50 năm qua không lời giải đáp !?

 

Đặc biệt trong những ngày gần Tết, Bác Tư cho đốn tre lựa cây thật già cắt thành từng đoạn quấn dây kẻm ở nòng súng, khoét lổ ngang hông, bỏ Khí Đá vào, đổ chút nước, cằm cây súng lắt lắt vài ba cái, đặt vào chân súng,  ( 2 chân súng là bốn thanh tre đóng xuống đất hình chử X, song song và thẳng hàng, cái cao cái lùn sao cho có độ dốc ) chăm ngồi lửa vào lổ bên hông, Súng tre nổ cái r..ầ…m , cứ thế chỉa súng qua rạch bắn  suốt ngày   đinh tai nhức  óc

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 01/Aug/2011 lúc 5:57am
 

11- Bà Ba

Nhà Bác Ba Chỉnh, làm nghề thợ hồ, hình như ở Bình Ân có gia đình vợ chết sớm để lại người con trai, Bác tái giá với Cô Sáu con của Bà Ba, không con.  ( tiểu sử Sư Thích Giác Lý không ghi phần này ) Cô Sáu đem đứa cháu con anh ruột ở Xóm Chốn về nuôi cho ăn học tên Bình

Tôi khoái Bình lắm vì  Bình thường  rủ tôi trốn học về xóm Chốn giữ Trâu, đôi khi hai thằng cho trâu ăn tận ngã ba sông Cầu Huyện Cầu Đúc, người ta bảo những thằng như Bình nó đứng trên bờ sông quắc mấy ghe Tống Gió, ghe phải chạy vào vì nhà nó ba đời chăn trâu. Ghe Tống Gió được làm bằng cây chuối trên cắt giấy dán thành hình chiếc ghe treo cờ xí màu mè, hình người kinh dị. Khi trong làng xóm bị dịch bệnh người ta cúng để tống khứ điều xui rủi, trên ghe có bộ Tam Sên gồm  miếng thịt heo , con cua và trứng vịt luộc chín, bọn này chăn trâu , bắt dế, tắm sông đói bụng được ăn đồ cúng khoái thích.

Đôi lúc thằng Bình bài đặt cho tôi đi kiếm “hầm” bắt cá trộm , Hầm bắt cá là cái lu nhỏ, người ta nhấn nó chìm xuống đất trên miệng lu bẻ nhánh Trăm Bầu hay cành Lứt đậy lại cho mát dụ khị cá nhảy vào lở vào rồi muốn nhảy trở ra rất khó khăn; thường người ta đặt hầm ở chổ khai nước dẫn vô ruộng, gặt lúa xong ruộng vẫn còn nước, trời nắng nước nóng Cá tìm đường đào thoát…thế là lọt vô hầm.

 

Có bửa đi theo bầy vịt chạy đồng lượm hột vịt đẻ rớt, vịt chạy đồng là người nuôi vịt, lùa chúng đi ăn ở những đám ruộng vừa mới gặt, từ cánh đồng này sang cánh đồng khác

 

Chôm được cá, lượm được trứng thì moi đất sét đấp bên ngoài, gom rơm đốt, đến khi đất nứt, khều ra bốc đất thịt cá trắng phao, hột vịt thơm lừng, vậy mà ngon, thật là tuyệt cú mèo ! Gần 60 năm sau tình cờ bắt gặp trên đường phố Sài Gòn người ta bán hột vịt nướng, vậy là chậm hơn chúng tôi rồi

Trong những lần chăn trâu với Bình có một kỹ niệm không quên, số là hôm đó Bình cầm dây dẫn trâu mẹ đi ăn, tôi ngồi lưng trâu, con nghé lon ton phía sau nghịch giởn với những con nghé khác  đến lúc đói kêu nghé ngọ ỏm tỏi, thế là trâu mẹ phải chạy lại với con, tôi nhảy xuống phụ Bình nắm dây kéo thế nào cũng không ngăn nổi, Bình chợt nghĩ ra một cách lấy dây buột quanh bụng mình, chân chịu vào bờ nhưng trâu mẹ nghe trâu con kêu hoài bèn vùng chạy lại con , lôi Bình đi hết đám ruộng, nhìn Bình lăn lộn trên ruộng tôi không biết phải làm sao ? khi hai mẹ con trâu gặp nhau Bình mình mẩy, mặt mài đầy máu

 

Bác Ba là người hiền hậu đạo đức, cuộc sống tốt lành, Thằng Bình nói hằng đêm ông ngồi thiền, có cặp rắn về bảo vệ, lủ phá làng phá xóm chúng tôi chẳng dám đến gần, kề bên vách nhà có cây Nhàu trái chín oằn cũng không dám đến hái.

 

Khi Ông Minh Đăng Quang về Gò Công truyền Đạo xóm tôi có hai vị giác ngộ xuất gia tu hành

-         Bác Ba Chỉnh, Vị này chính là Sư Thích Giác Lý, Trưởng Đoàn 5 của hệ Phái Khất Sĩ . ( Đạo Khất Sĩ tu theo Hệ phái Nam Tông, nhưng đi chân đất và ăn chay để giống Bắc Tông, Khi Thích Giác Nhiên vượt biên, Thượng tọa Thích Giác Toàn lên thay ( con liệt sỹ ) nắm toàn Giáo Hội, cho thờ hình tượng Quan Thế Âm để giống Bắc Tông thêm nửa. Khất Sĩ phân thành 5 chi Phái cho giống câu kệ của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma bên Thiền Tông, Ta vốn qua Trung thổ. Truyền Pháp cứu mê tình. Một hoa năm cánh trổ …)

-         Sư Cô Ngôn con Bác Tám thợ mộc sẽ kể dưói đây

Từ ngày chồng đi tu Cô Sáu ở nhà buôn bán phụng dưỡng mẹ già, thằng Bình lên Sài Gòn ở nhà Chú Tư đi học nghề Phay Bào với Chú Sáu ở Hảng Sáo gần Cầu Kiệu. Tân Định.

Bà Ba chết rồi Cô Sáu đi tu ở Bảy Núi, Châu Đốc và qua đời ở đó.

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 02/Aug/2011 lúc 6:25am

12-        Nhà tôi

Nhà tôi kề bên, sẽ nói sau.
 
13- Bà Tư­ Lang

 

Cách cái mương nhà tôi là nhà của Bà Tư Lang, buôn bán rau ở chợ Gò Công, con trai duy nhất Chú Năm  làm nghề lái xe có vợ và hai con gái sau theo bà vợ thứ ở Vũng Tàu. Suốt ngày Bà Tư buôn bán trên chợ tối mịt về đến nhà.

Ban ngày nhà lúc nào cũng đóng cửa, truớc sau nhà có trồng me, lủ phá nhà chúng tôi không đứa nào dám vào hái trộm, thương hoàn cảnh nghèo khó  của Bà Tư hay sợ ma, cho đến bây giờ cũng chẳng biết !

Biệt tài của bà Tư là khi về đến nhà nói chuyện một mình suốt cho đến lúc ngủ, trong xóm người ta bảo bà nói chuyện với ma.

Tướng học bảo người nói chuyện một mình là người cô độc vừa khổ tâm vừa cực thân.

 

14 -        Bác Tám Trại Hàng

 

Đầu hẻm bên phải là nhà Bác Mười Tân còn gọi Bác Tám Trại Hàng, ngoài việc đóng bàn tủ, chuyên làm đồ mộc tinh xảo, những bài vị sơn son thiếp vàng để thờ trong đền miếu, chùa chiền, ở Tịnh Xá Ngọc Tân còn nhiều bài vị của Bác Tám làm ra.

Để có được những bài vị tuyệt vời như thế, Bác Tám Trai chọn gổ, cưa bào, đục mộng lấp ráp hoàn chỉnh, Bác Tám Gái cọp bi hình ảnh ( Csan ) vào gổ. Như người thợ bánh bắt bông bánh kem , thay vì kem nhưng đây là Sơn Dầu tẩm bột, tư tưởng Bác Tám gái tập trung vào ánh mắt, bàn tay Bác dịu dàng lướt theo từng nét vẽ trên gổ, thật là điệu nghệ và tinh xảo.

 

Không hiểu vì sau anh lớn nhất bắt đầu bằng thứ sáu, anh Sáu Phẩm, chị Bảy Nguyện , Chị Tám, Chị Chín Hằng , Mười Bạch và Út Đông,

Nhà này rất đạo đức, tu hành theo Hệ Phái Khầt Sĩ , Chị Tám là Sư Cô Ngôn, Phụ tá cho Sư Bà Khất Sĩ Biểu Tình Chuyên Nghiệp Huỳnh liên, sau này có thiện nam là đại uý việt cộng làm cố vấn Cô Ngôn được điều qua trong coi Cô Nhi Viện bên đường Phạm Thế Hiển chuyên nuôi trẻ em lai, Sau ngày tan hàng Cô được đi Mỹ, cùng với các em cô nhi.

Chị Chín Hằng, đẹp gái ở khu Cầu Huyện, đào hoa, giỏi văn thơ là một thành viên của Thi Văn Đoàn Hồn Thu Thảo với Bút Hiệu là Liễu Thanh Tuyền, làm nghề giáo theo chồng về Long An sanh con và qua đời rất sớm

Chị Bảy Nguyện dạy học lập gia đình và cất nhà cũng trong xóm.

Anh Sáu Phẩm và Út Đông xuất gia theo hệ phái Khất Sỉ, sau ngày tan hàng cả hai trở về đời thường, Đông về lại nhà lập gia đình.

Tiếc quá không ai giữ được nghề của cha mẹ

 

15 -        Bà Tư già

 

Kề bên nhà Bác Tám Trại Hàng là nhà Bà Tư Già, Bà Tư nhai trầu suốt ngày nên có tên Bà Tư Trầu, gia đình này hình như ở dưới Bình Ân lánh nạn giặc cộng lên đây. Bác Hai con trai lớn cũng nghề thợ mộc, nhà ở bên kia sông mua lại nhà chị Tư Quỳnh gần nhà Chú Ba Thọ xe ngựa, Chú Ba sau đó dời nhà vô Đất Thánh gần bên đất Ông Quản Phát, Bà Tư còn người con trai lấy Cô Tám em gái Bác Tư Giái trong hẻm, sau gia đình Cô Tám dời lên Sài Gòn nhà ở Hẻm Ông Hai Địa cạnh bên Nhà Thờ Hầm trong vườn Cao su trên đường Nguyễn Văn Thoại.

Sau đó Bà Tư bán nhà lại cho người khác

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 03/Aug/2011 lúc 6:43am
16- Bác Nă­­m Búp
 
Bác Năm xích Lô, trước nhà trồng cây bông Bụp làm hàng rào dầy đặc, Chú Năm dáng người khoẻ mạnh, đạp xich lô đến tối mới về nên ít giao thiệp với ai, thiếm Năm bán xôi bắp mỗi sáng trước nhà, đi học mua gói xôi 2 cắc ăn no tới trưa.

Có con trai duy nhất Năm Phi, anh Năm Phi tài xế xe đò chạy tuyến Gò Công Sài Gòn, có hai đứa con trai, sau bán nhà dời vô Tân Thành.

 
17- Chú Sáu Nhẩn

 

Chú Sáu Nhẩn thợ mộc, thiếm Sáu bán cá ? trên chợ Gò Công

Hai Nhỏ ( Hai nhỏ để phận biệt với Hai Lớn cháu Nội của Bà Tư Già ) con trai lớn của Chú, Hai nhỏ này rất đặt biệt, đang học lớp nhì là lớp Tư bây giờ, vội vàng vâng lệnh song thân cưới vợ, cô vợ cũng đang học lớp nhì bên trường Nữ, sau ngày cưới vợ vẫn đi phá làng phá xóm, bị đám tiểu quỹ chúng tôi trêu chọc hỏi han hoài về việc vợ chồng,  nên sau đó nghỉ học ở nhà làm thợ Mộc với gia đình, sau chú Sáu bán nhà dời xuống đám ruộng trước nhà máy xay lúa ở dưới ngã tư

 

18- Bà Tư­ Ốm

Ông Bà Tư  Ốm, dường như ở bên Cầu Long Chiến dời về, Bà Tư bán quán tạp hoá, bán từ sợi chỉ cho đến củ khoai, cạnh tranh với bác Mười Thành trước cửa. Bà Tư cho mua chịu vì xóm toàn dân lao động nghèo nên buôn bán cũng tạm sống qua ngày, có hai đứa con gái không đi học ở nhà phụ giúp cha mẹ

 
19 - Nhà Cô Sáu 

 

Nhà Bà Ba, Bà Ba lên đồng, hiền hậu, tướng cách sang trọng gần như không giao thiệp với ai, người đến nhờ Bà nói chuyện dùm hoặc cho mượn xác để hồn người chết nhập về nói chuyện với gia đình họ. Chỉ thấy Cô Sáu là con gái ở với Bà. Cô Sáu có chồng là thầy giáo, con gái là Chị Mai, Cô Hương, Cô Mỹ v.v…Chị Mai cũng vào hàng mỹ nhân lung lạc nhiều anh trong xóm, thương thầm nhớ trộm, nhưng họ bị em vợ anh Ba Cúc con Bác Tư Giái đưa về dinh làm các anh ngớ ngẩn. Gia đình có họ hàng với Nhạc Sĩ Lê Dinh bên Cầu Long Chiến thỉnh thoảng thấy có ghé thăm.

 

20- Nhà Ông Bà Bảy

Nhà Ông Bà Bảy Chân, hai ông bà hiền lành phúc hậu, giống như tên.

Ba má Chú Hai Nhất, chú Năm Mạnh trong xóm, Chú Sáu Xuân đi Cảnh Sát trên Mỹ Tho

Ông bà Bảy này rất là đặc biệt, già yếu Bà Bảy mất trước, ông buồn quá đi tới lui trong nhà sau cùng tắt thở chết chung một ngày với vợ.

Trước nhà có cho Chú Ba cất cái thum, gọi Chú Ba Hớt Tóc các vị tiên hiền tập trung đánh cờ tướng suốt ngày trước của tiệm có cây điệp vàng buổi chiều chim se sẽ tụ về kêu vang, đúng là Đất lành chim đậu

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Aug/2011 lúc 8:22am
21- Nhà Cô Chín Xô
 
Cô Chín Xô chồng là Chú Tư Nhơn nhưng trong xóm vẫn gọi là Ông Chín Xô, Ông Chín Xô làm trên Nhà Thương, hiền lành ít giao thiệp.

Nhà Cô Chín được cất sâu bên trong,  phải đi qua miếng vườn trồng mãn cầu mới đến. Chị Điệp vào mùa Mãn Cầu khoảng tháng tư tháng năm gì đó, bưng rổ hái trái chín, ngoài hàng rào khối anh ngó ngơ, ngó ngẩn.

Giống như trên nhà Bác Hai Thi, trước nhà cũng có đặt lu nước mưa cho người đi đường giải khát, kế bên lu nước là cây chùm ruột, vừa uống nước mưa vừa có Chùm Ruột ăn,bảo đảm khỏi uống thuốc xổ thật  là tuyệt vời !

Gia đình Cô Chín có ba người con  Anh Nhi, Chị Gấm và Chị Điệp.

Khi Ông Minh Đăng Quang Sư Tổ phái Khất Sĩ qua Gò Công truyền đạo, đến ở đây Cô Chín Xô hiến đất trước nhà xây Tịnh Xá, đất sau nhà cất liêu cốc cho Quý Sư.

Đoàn truyền đạo gồm chiếc xe Traction đen chở Minh Đăng Quang ông này rất đẹp trai, tôi thấy vậy!  Golizat loại xe mà Lực Sỹ Hà Châu nằm xuống cho chạy qua người trong Sân Vận Động Gò Công,  giống như xe 16 chổ bây giờ chở nhóc mấy bà tín nữ. Người ta bắt loa trên mui, xe chạy chậm chậm lòng vòng trên đường phố giảng đạo, như mấy xe quảng cáo cho những gánh hát cải lương, con nít chạy rần rần theo phía sau xin chương trình.

Được Vị nào đó cúng dường cho một miếng ruộng, Tịnh Xá dời xuống đường đi Bình Ân, cất xong ăn mừng ? làm Lễ Tự Tứ  các Sư về rất đông. Tịnh Xá Ngọc Tân dành cho Ni Giới. Tịnh xá Ngọc Huệ dành cho chư Tăng ở trên Cầu Đúc.

Năm 1954 ? Ông Minh Đăng Quang đi xuống Miền Tây truyền đạo, ngang qua Bắc Bình Minh bị Tướng  Năm Lửa Hoà Hảo cho là việt cộng bắt dẫn đi mất tích. Các Đệ Tử cho rằng Ông bị thủ tiêu rồi, nên bàn thờ Phật Tử thấp nhang, về sau có Vị nào đó đi núi gặp Sư Tổ, chổ nầy hơi giống Bà Madelena vào hang, à nga! tuy một Vị gặp một Vị không nhưng lại rất giống nhau. Thì vậy “ Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc , Sắc bất dị không không bất vị Sắc ” mà, Ông gởi lời khuyên các đệ tử thời Mạt Pháp tinh tấn tu hành, từ đó Tịnh Xá, nơi đặt bức hình thờ ông không cho thấp nhang nửa chỉ thấp đèn .

Xin lỗi chư Vị, cho được lạc đề  mấy chử. Kỳ thật ! Đức Phật xưa từ bỏ Ngôi Vua bỏ Cung Vàng Điện Ngọc vào rừng tu học tìm pháp cứu mình, cứu người. Các Vị đệ tử ngày nay thì khác theo chân đoàn quân giải phóng , quý Sư  rầm rộ tiến vào thành thị, xây Chùa vàng Điện ngọc, chạy chọt chức vụ để “ cú ” người.

Sư Bà Huỳnh Liên bon chen lượm được chức dân biểu quốc hội đấy, oai thật. Cùng thời với cô  Lê … gì gì đó quét rác ở Sài Gòn vô tình nhặt được chức dân biểu quốc hội, tiếc rằng vị nầy vô trỏng không làm tròn phận sự được giao là chẳng quét được ai đổ vào thùng rác cả, sau bị trả về lại Sở vệ sinh cho đáng đời. Tiếc !.

Hoà Thượng Giác Toàn nhà thơ có bút hiệu Tha Phương Khách ( cãi lương quá, tên bi giờ là Trần Quê Hương Sư có mấy bài thơ rất là ăn khách, thuộc hạng top ten bảo đãm không phải của Lão Tiền Bối Trụ Vũ đâu nhé! ) , hiện nay cũng tranh thủ bò lên được chức hàm nghe nói lớn lắm ! mấy tháng trước coi tivi thấy Sư trên máy bay anh dũng đi xuống ôm hộp to to ? rất là trang nghiêm. Rất đáng bái phục !!!

 

Sau khi Công Chánh dở bỏ Cầu để xây cống, thì Bót Cầu Huyện cũng giải tán đất trả lại cho Cô Chín Xô, sau này Chị Gấm, Cô Chín lần lần chuyển nhà lên ở .

 

Khu vực Cái Bót nầy rất là rộng, khi lính bỏ đi bọn phá làng phá xóm chúng tôi tiếp quản là doanh trại tập họp của các anh lớn, là căn cứ để lũ chúng tôi trốn học, trốn mấy thằng nhí đầu ba giá ( đầu cạo trọc chừa 3 chòm tóc ) đi theo phá đám. Số là sau bót có cài hồ rất lớn dùng để chứa nước mưa, giữa hồ có cây cột chịu nấp hồ, trên nấp hồ có tạo lổ vuông khoảng 0m4 để người ta cho thùng xuống múc nước lên hoặc xuống làm vệ sinh hồ, bọn phá làng phá xóm chúng tôi thường đu xuống dưới để trốn các đàn anh và bọn nhóc ba giá. Không ai phát hiện được thật là diệu kế !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Aug/2011 lúc 9:21pm
22- Bác Mười Mậu
 
Nhà Bác Mười Mậu còn gọi là Mười Giả bán quán tạp hoá, Bác Mười cũng đón mua rau cải miệt Bình Ân khuya gánh lên chợ để bán lại cho bà con trong xóm. Nhà Bác Mười cuối xóm trước nhà bác có ao, Bác Mười trai trồng ớt, hành quanh  gò mả

Bác Mười có nhiều con, Anh Đức con trai lớn học hết tiểu học lên Sài Gòn, sau lập gia đình , gia đình bên vợ chuyên làm nồi, ấm nhôm cuối hẻm dọc bên Chùa Xá Lợi trên Đường Sư Vạn Hạnh.

Con Trai kế tên Rọt, Rọt là bạn tôi, ông này tánh tình hiền lành nhưng nổ hết biết, học hết tiểu học ở nhà lập gia đình phụ bán quán và sửa xe đạp

 

Nhà Bác Mười ở cuối xóm, kề bên cái ao nhỏ là ngã tư đi Bình Ân và Tân Niên Tây, ở đây ngay ngã tư nằm phía bên nhà máy xay lúa ( hình như bây giờ là cây xăng, ngã tư có đèn xanh đèn đỏ ) trước đây có xây Cái Tua  “ Tháp canh” Lính trên bót Cầu Huyện thường chia nhau xuống đây gát. Thời Đệ Nhất Cộng Hoà cách Tua khoảng 20m về phía Bình Ân người ta xây hàng rào Ấp Chiến Lược có cửa ra vào, tôi còn nhớ một buổi trưa vào năm 1956 – 1957 gì đó ? đoàn người mặc áo đen từ Bình Ân đi lên đòi Chành Quyền cho Tổng Tuyển Cử, Lính kéo kẻm gai đóng cửa Ấp Chiến Lược báo về Bót Cầu Huyện, Bót báo về Quận, không lâu sau xe lính xuống rất đông có ông Trung Uý đứng ra nói chuyện với đồng bào yêu cầu đoàn biểu tình giải tán, hoá ra đoàn người này trước đó từ Yên Luông đi ra ngả đường Chùa Thiêng Liêng đòi Tổng Tuyển Cử, dường như phần đông là người Bến Tre

Hai bên lời qua tiếng lại rất hăng , ông Trung Uý yêu cầu giải tán bằng không lính sẽ bắn vào đám biểu tình, lúc này cũng thấy có Ông Quận Trưởng, ông Quản Phát xuống tới, dân biểu tình tiếp tục tiến đến sát hàng rào đòi phải cho vào Quận rất căng thẳng, Ông Trung Uý đề nghị nhận Thỉnh Nguyện Thư và yêu cầu đoàn biểu tình giải tán ra về, Người dẫn đầu đoàn biểu tình rất hăng tiến vào hàng rào mở cổng. Ông Trung Uý lấy cây súng Garant của chú lính đứng gần gắn trái Lựu Đạn trên đầu súng, chỉa về phía biểu tình yêu cầu lui ra, họ không lui còn tiến vào phá hàng rào ông Trung Uý bắn một phát, Đoàng…Ầm, lúc đó đoàn người bỏ chạy xuống ruộng tán loạn  

Tối đến người ta thấy họ tập họp lại lấy xác những người chết. Nghe nói họ xuống ao Chuối tắm rửa người bị thương và người chết đến đỏ ao, dân quanh vùng không dám gánh nước về xài

Cái cổng Ấp Chiến Lược gần với Chợ Long Thuận Hiện nay

Bót trên Cầu dọn đi, Cái Tua bỏ trống, trèo lên nóc Tua và đu lên “ Lồng Cu” nhìn thật xa, đám phá nhà chúng tôi thường tụ tập đến đây đánh bài, chờ nhau đi tắm ao, hoặc đi mót lúa ( Mót lúa là đi lượm những nhánh lúa người thợ gặt làm rơi hoặc người thợ đập lúa gom lúa còn bỏ sót lại trên đồng )

 
23- Chú Hai sửa xe đạp

 

Từ ngã tư đi lên phía bên Bót là nhà chú Chú Hai xe đạp, chú này trước đây ở bên xóm Cầu Tàu sang lại nhà Cô Tám Kiểu bán Tàu Hủ, sửa xe đạp làm ăn khá giả thấy miếng đất trồng rau nhà chú Mười Giả nên mua lại cất nhà mở tiệm sửa xe đạp. Chú có người con trai tên Cần, phía sau nhà chú toàn là mồ mã, cờ đỏ vào buộc người ta đào mồ cuốc mã lên lập Chợ Long Thuận hiện giờ.

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 05/Aug/2011 lúc 1:45pm

24- Nhà Chị Ba bán gà
 
Kế nhà Chú Hai xe đạp là nhà Chị Ba bán gà
 
25- Nhà Thiếm Hai Cám
 
Tiếp đến tiệm Cám của Chú Hai Yển người Hoa, thường gọi Chú Hai Cám.

Ngoài nghề bán cám Chú Hai còn là một vị Tiên trong “quần tiên hội Cờ Tướng Cầu Huyện “  trong làng cờ Tướng, siêu như Mai Thanh Minh, Trềnh A Sáng hiện nay chỉ được tấn phong Quốc Tế Đại Sư , Đại Tiên còn cao hơn nữa, các vị thường lén Ngọc Hoàng hạ san xuống trần tìm chổ vắng vẻ đấu cờ. Chú Hai thường gáy với các tiên, được Ông Chú mang từ bên Tàu quyển chép tay “ Mai Hoa Phổ “ truyền cho, nằm trong buồng luyện công lâu lâu vọt qua Tiệm hớt tóc Chú Ba bày binh bố trận, sao mà giống Lệnh Hồ Xung đấu với Điền Bá Quang quá vậy ! , nước cờ độc của Chú là “ Song Pháo Liên Hoàn ” hay “ Liệt Pháo Thủ “ gì đó đã làm mưa làm gió một thời, phờ phạt râu mờ mắt mấy Tiên Ông trốn vợ đi đánh cờ ở Cầu Huyện, nếu đem so bên Võ Lâm Giang Hồ cũng ngang ngữa, với thế “ Song Chỉ Càn Long ”, “ Nhất Dương Chỉ ” ngang dọc một thời.

Chú Hai ở nhà thường rủ  công nhân làm trong tiệm cám như anh Năm Sơn con Bác Hai Oai, anh Khoái cháu vợ ở Tân Thành, Anh Tư Điệp con Bác Năm Phát vợt chiêu luyện thế, đố ai mà dám đánh thiệt tình.  Cho nên Chú Hai đánh đâu thắng đó nên xem thiên hạ toàn là đồ dõm, than thở chắc rồi đây phải cầm cây kiếm gổ lên Sài Gòn qua lại trong giới giang hồ như “ Độc Cô Cầu Bại “ sau này Kim Dung sáng tác.

Xưa nay” Hổ Phụ sanh Hổ Tử “ lẽ thường tình, cha ông cũng đã dạy bảo  “ Ngoài nhà thì sáng, trong nhà thì quáng “ chú Hai lại dính cả mấy chiêu độc  thành ngữ của Tiền nhân dặn dò mới chết! chú có hai vị Tiểu Tiên trong nhà mà không biết, Đông Cung Thái Tử Nhan Yên, và Thế Tử Nhan Sinh.

Một hôm nghe Chú Hai đánh cờ mà gáy vang rân, Nhan Yên bực xin được tiếp chiêu thi đấu, cả ba ván đều bị hạ Nốc Ao, chú Hai xệ thấy rỏ, thằng Yên ham chơi, trong chuyện đánh cờ có một luật là “ Hạ Thủ Bất Khoan Khoan” Chú Hai lại phạm luật hoài, bắt thằng Yên ngồi một chổ, chiếu hoài , khoan hoài nên nó không yên bèn nghỉ,  Chú Hai bảo :

       “ Đánh nữa mầy, Tao thua phải cho gở chứ ”

thằng Yên vẫn bỏ đi tức quá chú Hai lấy bàn Cờ Tướng “C. h. i. ế…u” lên đầu, đây là chiêu “ Phụ tử hí cờ ” khiến thằng nhỏ đở không kịp phải đổ máu. Tiếng lành đồn xa, từ đó Xóm Cầu Huyện các vị tiên hiền thường mua kẹo bánh dụ tiểu tiên đánh cờ đặng họ học thế !

 

Sau ngày tan hàng  Nhan Sinh đi vượt biên bị bắt, tù chung với “ Lão Tiên Trưỡng  Lập Màn ” , ông này người Hoa vang danh một thời khu vực Chợ Lớn. Tiên quan sát thấy Sinh đi nước cờ nào cũng sáng,  bèn dùng pháp ” truyền tâm nhập mật “ học lóm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma  mà dạy cờ, đánh cờ không có cờ mới gọi là đánh cờ, Tiểu Tiên Nhan Sinh bảo thế ! Tiên Trưởng dạy dổ hết lòng, chôm được hết bí kiếp của thầy,  ra tù Sinh đi khắp các tỉnh lập “cờ đài”  làm tán gia bại sản nhiều vị Tiên hiền ở đồng bằng Nam Bộ

 

Trước đây tiệm cám của chú Hai buôn bán phát đạt nhưng chật, vì phải đổ cám ra từng đống to cho người mua lựa chọn nên dọn về đây, miếng đất này trước đây là ruộng mã mồ tràn lan chi địa, chú đào ao đấp nền rồi cất nhà, căn nhà thật là xui cất nhà chẳng được bao lâu, một bửa nọ Chú có việc phải đi lên lấy cám ở trên Cây Lậy Mỹ Tho, thời đó Bắc Chợ Gạo còn kéo tay nên tốn rất nhiều thời gian đi về. Khi xe đò lên đến Thạnh Trị thì việt cộng đấp mô, chờ lâu không thấy lính đến giải tỏa, sợ đi về trong ngày không kịp chú xuống xe đi bộ qua mô đất, người ta nghe tiếng chốc chùm trong xóm xa vọng ra Chú Hai ngã xuống,  

Ở xóm tôi anh Tư Điệp, Chú Hai là hai người ngã xuống vì mô đất giữa đường

Gia đình Chú Hai suy sụp từ đó,  Nhan Yên cưới vợ sớm để giúp đở gia đình do đông anh em, nhưng lại theo vợ về làm ruộng ở dưới Cầu Bến Lội

 

Ngày cờ đỏ vào, Yên đi vượt biên hoài chẳng được, sau theo người Chú ruột xuống Gành Hào cả chục năm trời không có  tin tức, vợ con lập bàn thờ lấy ngày đi mà cúng giổ.

 

Phần Yên xuống Gành Hào chờ ra khơi, tình cờ quen một cô  hai người phải lòng nhau, Chí vượt biên bỏ neo từ đó. Yên xin vào làm nhân viên lái ghe cho Nông Trường II ở  chợ Vàm Đầm, huyện Đầm Dơi, Cà Mau do tánh tình hiền hậu lại siêng năng Hai Bình làm Giám Đốc  thương cho đất cất nhà, hai vợ chồng rất là hạnh phúc.

Trong một lần về quê tình cờ gặp Thiếm Hai Cám, thăm hỏi cuộc sống gia đình, mới biết là Yên đi vượt biên và chết đã lâu rồi, tôi vẽ đường hướng dẩn từng chi tiết cho chuyến đi, gia đình cha con ( con gái đi tìm cha ) gặp nhau

mừng mừng tủi tủi, nghe nói sau đó Yên có về Gò Công nhưng rồi quay lại Vàm Đầm ở với vợ sau.

Cao Thệ

 

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 06/Aug/2011 lúc 6:31am
26- Nhà Cô Tám Kiểu
 
Nhà Cô Tám Kiểu, Cô ở vậy nuôi hai đứa con gái, Cô Tám xay đậu nành nấu Tàu Hủ bán rong khắp xóm làng,  nhà bếp Cô Tám có cối xay bột bằng đá xanh dùng xay Đậu Nành, sau này bán nhà lại cho Chú Hai xe đạp về Vũng Tàu , thời gian này có phong trào người Gò Công qua Vũng Tàu lánh nạn lập nghiệp trồng Mãn Cầu nghe nói các con cô Tám hiện giờ đứa ở Mỹ đứa ở Pháp
 
27- Nhà Bác Mười Thành

 

Quán Bác Mười Thành, Bác Mười có vườn rộng , trồng Ổi trồng Mía trồng cây ăn trái, phía Bắc con Hẻm Đồ Chiểu đi thẳng vào nhà, giáp nhà Bác Ba Núm và nằm phía sau Bót Cầu Huyện, chằn chịt kẻm gai. Nam giáp con Rạch, ghe Bầu vào ra dể dàng. Đông giáp nhà Bác Bảy Hàng Sáo. Tây giáp Sông Cầu Huyện bên kia bờ là nhà Ông Quản Phát.

 

Sở dỉ phải giới thiệu rõ ràng vì đây là “ mật khu”  của chúng tôi, ra vào đều có ám hiệu, như mèo kêu, gà gáy v.v… trốn học vào đây, trốn việc nhà vào đây, trốn mấy thằng ba giá vào đây, bị đòn bỏ nhà trốn vào đây, chiến khu mênh mong, địch cầm cán chổi hay roi mây lọt vào cũng hết biết.

Ở cả ngày cũng chẳng đói, trái cây cơm nước, anh Đức bao bọc đàn em số dách có khi còn chom chỉa bánh kẹo ngoài quán đem về tiếp tế đàn em.

 Bác Mười Trai và gái cất cái quán ở đầu hẻm buôn bán hàng tạp hoá để có đồng vô đồng ra, nên chuyện trong coi vườn Bác Mười giao cho Anh Đức, Anh Đức lớn tuổi hơn đám phá nhà chúng tôi nhưng nhỏ tuổi hơn các bậc đàn anh trong xóm,  anh Đức làm đầu đảng nhóm phá nhà chúng tôi, Anh rất dể thương, nấu ăn giỏi, chúng tôi tụ tập hái trái cây, đấp mương tát cá anh cũng tham gia.

Vào những đêm mưa, đám phà làng phá xóm thường rủ nhau vào nhà anh tổ chức đi bắt Cốc về nấu cháo, khi về đến nhà đổ ra Khạp , chiến lợi phẩm nào là Cá, Ếch, Cốc lạ nhất có cả Gà, vịt ?! .

Lại chia nhau đi hái dừa trộm, hái trộm dừa còn nhiêu khê hơn vì phải đi qua 2 cái Tua có lính gát, tua thứ nhất ở ngã tư Bình Ân đám quỷ chúng tôi Chú Lính nào cũng biết, qua dảy mã mồ cuối đám ruộng của Bác Tư Xung ngay cua quẹo qua Xóm Nhà Thờ có cái Tua nằm trên hẻm đi vào xóm , mấy Chú Lính gát này không quen do trên Quận đưa xuống. Cái Tua này đã bị dẹp từ lâu nằm trên quán Cà Phê gần nhà Thầy Sấm hiện nay, đi ngang đây phải làm bộ cãi lộn vang rân mới thoát, không thì bị đuổi về.

Con hẻm Bên hông Chùa Phật Huệ đi vào nhà Thầy Năm Cần, dọc theo ranh nhà Chú Hai Nảng có trồng hàng Dừa, mục tiêu đây rồi leo lên đạp dừa rụng xuống thùm thụp, đêm vắng tiếng vang xa thế mà đoàn quân mang chiến lợi phẩm về căn cứ an toàn, thật là tài.

Ăn uống no say, lại mong đêm mai mưa nữa !

Nhà Bác Mười có 3 anh trai và cô gái

Anh Ba Đực cai lục lộ bên Ty Công Chánh, Anh Tám Ngôn, Chín Đức và cô Út Hạnh.

 
35- Nhà Bác Sáu Ngân

 

Bác Sáu Ngân thợ Hồ, nhà bác dưới Ao Chuối gần Đền thờ Võ Quốc Công, vợ chết để lại đàn con, bác cưới vợ có thêm mấy người con nữa.

Bác mua lại khoảnh đất của Chú Hai Cám cất nhà làm nơi sản xuất Bông cửa, mộ bia, gạch bông  v.v…, Anh Sáu Việt, chị Bảy Tương và Tám Lai con dòng trước trong coi trực tiếp nơi này, chị Bảy Tương làm cán bộ tiếp tế lương thục, khi đi học ngang qua nhà gởi cho mấy gàu mên cơm.

Bác Sáu đặt tên cho con còn hay hơn chú Năm Mạnh, tôi không có nói dóc đâu, nghe nhé. Hai Nhơn, Ba Sanh, Tư Hà , Năm Xứ, Sáu Việt, Bảy Tương, Tám Lai .

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 06/Aug/2011 lúc 7:39pm

Cầu Huyện quê tôi, vỏn vẹn chừng ấy căn nhà, gia đình lao động chân tay lam lủ, thuộc giai cấp thấp trong xã hội, người học thức ở mức xoàng, vẫn chưa đếm hết bàn tay, có 4 vị nổi trội nhất:

-         Sư Ông Thích Giác Lý, Trưởng Đoàn 5 Khầt Sĩ

-         Cô Ngôn Phụ Tá cho Sư bà Huỳnh liên, Giám Đốc Cô Nhi Viện

-         Cô Tư Là, Nguyên Hiệu Trưởng trường Tiểu Học Nguyễn Tri Phương

-         Chị Hai Ngà, Nữ Quân Nhân nghành Xã Hội Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà

Có 2 vị sự nghiệp công danh không bằng ai, nhưng nổi nhứt xóm

-         Bác Hai Oai làm việc bên Toà Bố chết yểu ngặt nghoèo

-         Bác Tư Giái, làm việc bên Ty Công Chánh gặp tai nạn chịu tật nguyền

Đàn Chú Bác, Anh Chị, bọn chúng tôi và cả nhóm ba giá kế chúng tôi đến giờ vẫn không thấy ai làm được cơm cháo gì để tiếng thơm cho gia đình rạng danh  xóm Cầu Huyện dưới.

 

Khi Công Chánh dỡ Cầu xây Cống, nghe bậc Chú Bác bảo con Rồng bị xiết cổ, xóm Cầu Huyện sẽ không cất đầu lên nổi chỉ có tàn mạc dần, nhìn nước xoấy cuốn tròn chui qua cống mỗi bận con nước lớn nước ròng, bên nầy bên kia mực nước sông không thay đổi gì mấy nhưng kỳ thực phía đất sau nhà  ông Cao Văn Báu người Hoa làm cải muối mỗi ngày mỗi bồi ra,  nhà Bác Năm Quăn phía dười cống Ông Ba Khoa cũng nở hông, hai bên miệng cống Cầu Huyện phình to, do cống quá nhỏ dư lực nước làm sạt lở chung quanh, áp lực của nước càng xa cống càng yếu  nên lòng sông mỗi ngày mỗi hẹp và cạn dần. Khởi đầu là Cống Bà Phước lan xuống đến Cầu Tây Ban Nha cạn dần đến khu vực nhà Ông Ba Khoa … Những con rạch ngoằn nghoèo ven sông cũng dần dần biến mất.  Đầu cống  bên này teo tóp nhà mọc lên như nắm Mối sau mưa, sông biến thành mương nhỏ xíu,  nước không thoát về biển, hoá thành ao tù nước đọng, lưu một nổi buồn !

 

Sông rạch như gân dẫn máu huyết lưu thông đem sự sống đến mọi nơi trên cơ thể con người, nay sông không còn nữa đất như da thịt ắt bị thiệt thòi, người là cây biết đi bám trên đất ấy cũng ảnh hưởng ít nhiều!

 

Văn hoá Đông Phương cho rằng

 

Gò là Sơn, là Đất  thuộc Thái Âm, Đức của đất cao dầy chuyên chở hết mọi vật   bao dung là Mẹ

Công là Thiếu Âm, là Hơi đất bốc lên trời ( Dương ) tượng Chim Phượng bay lượn, ứng cho con Gái

 

Trời là Càn, là Cha, hình tượng con Rồng, Dương khí dịch chuyển  nhô cao là núi, chổ bằng phẳng là sông.

 

Nơi dòng sông giao  nhau ở cuối chợ cũ Gò Công, Thành phố có nước bao quanh ôm ấp rất hay đã bị đấp, Khúc sông lượn lờ quanh co ở Bình Công, Bình Xuân quá đẹp cho những thành phố, "sơn thuỷ lưu tình", trong Phong Thuỷ người ta bảo thế , nay không còn nữa, bị chận ngang cổ họng rồi. Thế là Rồng ná thở !!!

 

Ngoài thiên nhiên Hơi Đất bốc lên hoà hợp khí trời kết thành mây mưa rơi xuống, vạn vật nẩy mầm sự sống cũng từ đó,

Trong gia đình Cha luôn nghĩ đến vợ con, Mẹ lo lắng phục vụ chồng con thì an vui hạnh phúc, hổ trợ lẫn nhau vượt qua những thay đổi của cuộc đời.

Trong Kinh Dịch tương ứng với quẻ  Địa Thiên Thái

 

Khí Trời nhẹ khuynh hướng bay lên, Hơi Đất nặng nề đi xuống, trời đất không giao, nóng bức là bệnh dịch phát sanh, đồng khô hồ cạn. Thế là “ tiêu  tán đường !”

Trong gia đình Cha không nhìn xuống, Mẹ gầm gầm chẳng ngó lên, gia đạo tất không yên.

Trời  Đất bất giao ứng với Quẻ Thiên Địa Bỉ. trong  Kinh Dịch 

 

Gò Công nay Dương suy thì Âm thịnh, cho nên mấy bà lên hương, mấy ông xìu xuống. Người ta hỏi ở Gò Công vì sao chỉ nghe tên mấy Bà ! Một số quý  ông vừa ngoi lên lại bị kéo xuống, ráng bám níu thì bị bỏ cuộc chơi theo Ông theo Bà giữa chừng !

 

Đấp kinh Cầu Huyện, ngăn sông tạo ngọt để phát triển thành phố là cần thiết, phải hy sinh cái này để nhận cái kia mấy ai mà bắt được cá cả hai tay! Sài Gòn người ta đang phục hồi những dòng kinh cũ đã tạo được bộ mặt mới rất dễ thương, Cũng đáng để người Gò Công suy ngẫm ?!

 

Xóm tôi ngày nay theo đà tiến chung của xã hội cũng phát triển ngầt trời nhà cửa khang trang đàng hoàng hơn, đường xá hẻm phố tráng ciment tươm tắt hơn, Gia đạo phấn phát phần lớn người tứ phương đến, ngoài Bắc vào “ đất cũ đãi người mới ”, người Cầu Huyện vẫn thế !

 

Cầu Huyện là một phần nhỏ rất nhỏ trên mãnh đất thân yêu Gò Công, mỗi lần từ nhà đi chợ, ngang qua những ngôi nhà xưa vang bóng một thời, ngói lở, tường long, rêu phong hoen ố và những ngôi nhà cũ được phục hồi nói lên trình độ thấp kém đến ngây ngô ? . . . Sợ !!!

 

Gò Công vùng Địa Linh sanh Nhân Kiệt, Cha Ông một thời dựng nước, giữ nước lẩy lừng trên mọi phương diện xã hội lưu tên tuổi trong sữ xanh, nay con cháu chưa ai có thể sánh bằng, thật quá đau lòng !

 

Chợt nhìn về đằng Đông, trên mặt biển đã chóm thấy đóm lửa hồng “ Uy vũ bất năng khuất Lê Thị Công Nhân ! ”cũng ấm lòng.

 

Mong người trẻ Gò Công gắng sức học hành, cố gắng theo kịp Cha Ông làm rạng danh cho gia đình, quê hương xứ sở, rất mong thay !

 

Thành kính  xin dâng tặng quê hương một tấm lòng !

 

Lorton, Vỉrginia những ngày tháng Tám năm 2011

Cao Thệ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Aug/2011 lúc 7:52pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ ThuyLanVy

].



CẦU HUYỆN QUÊ HƯƠNG TÔI
                                              ----o0o----
Trước hết thành kính biết ơn Hội Thân Hữu Gò Công vùng Hoa Thịnh Đốn,  Chị Phương Nga, Anh Lê Văn Tua, Anh Lộ Công Thông, Bác Sỹ Trần Văn Sáng và Chú Lộ Công Mười Lăm đã cho tôi cơ hội gặp gở đồng hương trong buổi họp mặt Picnic 2011 tại Lake Fairfax Park,  Reston, Virginia  vừa rồi.
Qua đó biết được trang Web này, quê hương Gò Công của tôi. Xem bài “Thương nhớ Gò Công quê hương tôi”, hình ảnh xa xưa bổng hiện về rất rõ trong trí nhớ cùn mằn, bất giác hai dòng lệ hạnh phúc chảy trào trên má.
Kính mến gởi lời cám ơn đến Tác giả Thy Lan Thảo đã viết một bài về Cầu Huyện rất hay, không những trí nhớ tuyệt vời mà còn nghiên cứu tường tận hiểu biết từng gia đình, đến những chi tiết nhỏ của quê hương, xin được ngưỡng mộ và bái phục.
Cám ơn Chú Lộ Công Mười Lăm đã bổ túc một phần, nhất là tấm bằng khoán " Lão Thành" ít người biết, như vậy từ cống nhà ông Ba Khoa chạy Đến đường Tống Thứ là đất nhà Lộ Công !
Nhưng tôi vẫn “Cà Nanh” với Tác Giả, Cầu Huyện vẫn còn một phần thiếu sót từ Lộ Me phía Ao Trường Đua đi về Cầu Huyện và nhất là khoảng 30 gia đình từ Cầu đến Ngã tư đi Bình Ân , Tân niên Tây.
Một nhóm nhà nghèo, dân lao động mua gánh bán bưng, nằm cuối Xóm Cầu Huyện nhưng rất gần cầu, mỗi đêm còn nghe ầm vang tiếng kêu từng thanh gổ của từng chiếc xe chạy qua, Cầu Huyện quê hương tôi.
Thi xong bằng Tiểu học, nhà nghèo gia đình cho tôi vào Trường Học Nghề để kiếm nghề sau này nuôi thân, cuối năm may mắn thi đậu và lên Sài Gòn học từ năm 1960, hơn 50 năm đến nay nhớ về Cầu Huyện lờ mờ , bài “ Thương nhớ Gò Công quê hương tôi “ là động lực chính thức khơi lại ký ức tưởng đã quên lãng, xin ghi lại đôi dòng, trong chừng mực sự hiểu biết non nớt của tôi, ngưỡng mong được các bậc đàn anh bổ khuyết, những đàn em sau vun quén đấp bồi. Nếu có gì sai sót xin được thứ tha chỉ dạy.
SƠ LƯỢC NHỮNG GIA ĐÌNH BÊN NÀY CẦU HUYỆN
Nhà tôi nằm bên đây cầu, trong nhóm khoảng 30 nóc gia đó, đa số dân lao động nghèo, con cái ít học, cuộc sống lam lủ nhọc nhằn.
Ngày xưa dưới cầu có bến đò, đò máy chạy từ cầu lên chợ, chủ yếu chở những bạn hàng mua bán, hàng hoá cồng kềnh. Chủ đò là Ông Bảy Tre, nhà ngay ngã tư đối diện với bến đò, sát bên nhà Cô Ba Vân bán gà . Sau khi Công Chánh dở bỏ những cây cầu trên kinh Cửa Khâu để xây cống , ông vào Biển Tân Thành bán quán ăn.
Chổ Bến đò sau này ông Hai Bắc cất nhà có đặt cái vó rất lớn để bắt tôm cá, người con trai lớn tên là Kim, lái xe cho Ông Cò Ngô Văn Huề ( Hiến Binh ) sát bên Ty Ngân Khố.
Phía trên nhà Ông Hai Bắc có một cống dẫn nước, con rạch mọc le que vài cây Mắm ở đầu nguồn mà chú Lộ Công Mười Lăm đã nói phần trên, đầu cống phía bên sông là nhà ông Chín Đán suốt ngày uống rượu say, la hét ỏm tỏi. Đầu cống phía bên đường là nhà của Cô Ba Vân mua bán gà.

(Còn tiếp)
 
Cao Thệ





            Những tháng ngày xa xứ, lòng ai không khỏi không nhớ quê hương, mà quê hương là cái gì mà phải nhớ phải thương, quê hương là bờ ao bụi cỏ, là rặng Trâm Bầu… là tiếng trống trường làng, là âm thanh chiếc xe lam ba bánh rú gầm tăng ga khi lên dốc cầu, là tiếng rao chè đậu đen lảnh lót trong đêm khuya… Cũng đừng quên tiếng ểnh ưởng kêu uềnh oang  vào những đêm mưa to gió lớn ..
            Nhắc tới Gò Công, tôi nhớ tới cổng nhà Ông Hương Thân Bính, Nhớ 2 xe nước đá nhận của Anh Nhạn Anh Chơi trước trường trung Học … Nhớ Chú Cưng, Chú Tư Thế …
            Đọc mấy dòng viết về cầu Huyện của bạn Cao Thệ, tôi thấy rất khoái, đang buồn nhớ, có người nhắc lại xóm cũ, người xưa…Gò Công là tỉnh nhỏ.. nên mọi người dễ dàng biết nhau .. Tôi tuy không sống ở xóm cầu Huyện dưới nhưng cũng có đôi nhà tôi biết tôi nhớ…
            Thì ở đây, sẵn bài viết của Cao Thệ, tôi thêm chút hành, chút bột nêm .. để những ai  cùng quê hương xứ sở.. có dịp khơi gợi lại chút hình ảnh của quê nhà.
            Ông Hai Bắc, dĩ nhiên là người miền Bắc, không biết lý do nào Ông chọn Gò Công làm quê hương.. Ở thời điểm thập niên 50, suốt con đường Duy Tân ( Từ ngã ba, sau là ngã tư Bà Phước về tới chân Cầu Huyện chỉ có 2 nhà người Bắc, một là Ông Ba Bắc nhà trong dãy phố công chức cạnh nhà Ông Huyện Lạc và Ông Huyện Danh trên con đường đá ngắn mang tên Cả Thuận. Hình như Ông là công chức làm việc ở Tòa Bố Gò Công , sau đó có Thầy Lang, người Bắc là công chức Thuế Vụ cũng đổi về ờ đây. .
 Ông Hai Bắc ở sát cầu Huyện là lính giải ngũ, ông chỉ là Hạ sĩ quan. Ông thường đi bộ, thỉnh thoảng thấy ông có chút rượu, mặt mày trở nên vui tươi, gặp ai trong xóm Ông cũng rền vang chào hỏi.
            Anh Kim, dáng ngưởi nho nhã, trông mặt vui vẽ, thuở đó tôi còn học tiểu học thì anh đã là lính cảnh sát.. lúc đó anh có cô bồ là chị Cúc gốc người Cầu Tàu, có đại lý bán nước đá ngoài chợ… Chị Cúc nhỏ người xinh gái, tình tình vui vẽ.. hàng ngày chị vẫn đạp xe ba bánh xuống nhà máy nước đá.. nằm ở đầu hẽm vào khu nhà của thầu khoán Quê Hương sau nầy hẽm mở rộng ra có đặt tên đướng là Hẽm Chiến Sĩ Mười Hai, tên của một Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh có thời gian khá dài đóng ở Gò Công tại nhà thương cao cẳng … Tên của vịTrung đoàn trưởng tôi còn nhớ là Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ ( giờ chót là tỉnh trưởng Huế).. Trung Tá Vũ Lộ…Trung đoàn nầy từng rượt tiểu đoàn 514 của Châu Thanh Hải chạy có cờ… Tụi quỷ rừng rất ngán .. có lẽ nỗi sợ ám ảnh tới bây giờ nên tên đường vẫn còn giữ.
            Mối tình nầy tôi không nhớ có kết hợp không, hai anh chị rất xứng đơi vừa lứa./
 Thuở Gò Công còn trực thuộc tỉnh Định Tường, Thay Ông Quận Các là ông Quận Vỹ, Ông nầy không bao giờ biết sợ  quỷ rừng , với Ông tụi nó chỉ có súng ngựa trời và mã tấu …Chỉ đâm lén, chém trộm là giỏi .. vỉ ỷ y nên Ông bị chúng phục kích hạ sát tại xóm Cống Bà Chài.. Hôm đó có tin du kích về quậy phá đâu trong Tăng Hòa, Ông Vỹ qua  rủ Trung Úy Ngô Văn Thi ( Hình như là tỉnh đoàn trưởng Bảo An) dẫn lính đi ..
            - Chỉ có mấy thằng du kích .. cần gì lính , Ông Quận đi một mình đi
 và Ông Quận lên xe với 2 người cận vệ là Anh Kim và Anh Vinh ( Chồng Cô Hai Nết, nhà ở đường Nguyễn Trãi) Anh Vinh là lính Công An..( Thời đệ nhất Cộng Hòa Ty Công An và Ty Cảnh Sát biệt lập nhau , Công An đóng ở ngôi nhà Ông Đốc học  còn cảnh sát đóng ở Pon ga lô.
 Khi xe bị chận, Anh Vinh và Kim thoát chạy được… Ông Quận bị thương chạy vô nhà dân rồi bị chém chết …( Đây cũng là vị Quận Trưởng hành chánh cuối củng của Gò Công, Thay Ông Vỹ là Đại Úy Trần Ngọc Nguyện ( tên thật là Nguyện nhưng chính Ông tự bỏ dấu nặng)
 Anh Kim vể nhà 5 ngày sau rờ lên cổ vẫn còn thấy 2 trứng …
 Tôi không biết ông hai Bắc có mấy người con, nhưng tôi biết có chị Liễu, bây giờ hình dung lại tôi nhớ chị Liễu thuộc hạng gái đẹp .. da trắng, tóc huyển.. Nhất là vòng số một .. nói theo tiểu thuyết..Căng tràn đầy nhựa sống…
 Rối bẳng đi một thời gian dài rồi mất luôn không thấy hình bóng chị ở Gò Công
  Từ đó giáo đường vắng bóng một con chiên ngoan đạo .

Thuy-Lan-Vy


(còn tiếp)

 http://phorum.vietbao.com/yaf_postst530_Que-Huong-Go-Cong.aspx

 








-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 08/Aug/2011 lúc 9:18am

Bạn Thy Lan Vy quý kính !

 

Rất cám ơn Thy Lan Vy đã bổ xung thêm nhiều chi tiết thuộc loại “ Bí mật phòng trung”

Cao Thệ rời Cầu Huyện quá sớm năm 1960 ở tuổi 13-14 nên biết về Cầu Huyện mình không được bao nhiêu, một thiếu sót.

Hy vọng bài viết của Thy Lan Thảo, kết hợp một phần nhỏ của tôi và sự bổ sung quý giá của quý thân hữu xa gần, chúng ta sẽ có được tập tài liệu hoàn chỉnh hơn về xóm Cầu Huyện

Thân ái

Cao Thệ

 

 

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Aug/2011 lúc 8:02pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ ThuyLanVy

 

Bên này sông là nhà Ông Trần Công Phát thường gọi Năm Phát chuyên nấu , bán Muối.
Chị Hai Ngà, anh Ba Lực, Tư Điệp, Năm Rạng, Sáu Tươi, Bảy Sáng, Bé Lớn và Bé Nhỏ. Chị Hai Ngà là Nữ Quân Nhân, Doanh trại làm việc nằm giữa Liên Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ thời Đệ Nhất Cộng Hoà và Nhà Thờ Hầm, đối điện với Nha Sổ Số Kiến Thiết và Toà Đại Sứ Anh trên đường Thồng Nhất.
Đám cưới Chị Hai Ngà lớn nhất xóm tôi thời đó, người lớn làm heo, bọn nhóc chúng tôi làm vịt cả đêm
Trần Công Điệp rất chịu chơi, bản tánh anh hùng, trong chuyến đi Gò Công lên Sài Gòn nhập ngủ, qua ngã Cầu Nổi gần cầu Cổ Cò ?  chỉ có nhánh cây gát  giữa đường, xe cộ dừng lại không dám qua, đã trưa không thấy lính đến giải toả, hành khách mệt nhoài, con nít khóc lóc vì nắng nóng với bản tánh anh hùng Nam bộ “Ra đường gặp chuyện bất bằng, chẳng tha” Điệp từ phía sau dảy xe tiến tới dọn dẹp trở ngại thì bị việt cộng núp bắn lén.
 
Đối diện nhà Bác Năm Phát là Đồn lính Địa Phương Quân, ngày trước gát cầu, giữ an ninh trật tự và đây cũng là điểm trọng yếu.
Cuối năm 1959, một đêm việt cộng lẻn về, kêu gọi dân chúng giết chó, lần sau về nhà ai để chó sủa quân đội giải phóng sẽ bắn vào nhà đó, trước khi ra đi chúng còn cắm súng Ngựa Trời giữa đường, hướng về Bót bắn thị uy, lính gát trên tua bắn trả lại như vãi thóc, bọn chúng chạy thục mạng, súng Ngựa Trời làm bằng ống nước, một đầu cưa xéo uốn cong 90 độ làm 2 chân cắm xuống đất, bên trong ống nước chúng nhét sắt hình tam giác có lưu huỳnh và gắn dây cháy chậm, châm lửa nổ cái  x…à, chẳng ăn nhậu đến ai.
 
Sáng hôm sau người ta đem chó cho những gia đình Công Giáo, nhất là nhà Ông Sáu Mắm chó bỏ vô bao bố trấn nước đến chết rồi thui lông xẽ thịt.
 
Trong xóm nhà nhà bắt đầu đấp “ trản xê “ . Trản xê là hầm trú ẩn, nhà tôi đào đất dưới bộ ván sâu khoảng 0,5m, lấy đất đấp chung quanh có chừa cửa chui ra chui vào, an toàn hay không chẳng biết nhưng an tâm.
 
Khởi đầu giải phóng, là bầy chó chết. Từ đó, thanh bình trên quê hương tôi không còn nữa, máu đổ chết chóc khổ đau,  nước mắt ly tan …ngất trời.
 
Cao Thệ
 
…..
 
Thiếm Năm Phát vẫn thường gánh muối ra chợ bán, buổi sáng gánh đi ngang qua nhà tôi, gánh muối của thiếm ngồi trong hàng trái cây, trước chợ cá.
            Trần Công Điệp sinh khoàng năm 46, 47 gì đó, là cựu học sinh khóa 5 trường Gò Công, suốt thời đệ nhất cấp Điệp học lớp đệ thất B, ngồi bàn áp chót dãy từ cửa bước vào… Khóa 5 có tất cả 157 trò, có 3 trò tên Điệp : Nguyễn Hồng Điệp, xuất thân từ khóa 3/69 Thủ đức, Thiếu Úy Tiểu đoàn 5 Hắc Long TQLC, giải ngũ năm 1972 , Trần Thị Điệp, gốc người Tân tây, cô giáo sư phạm cấp bổ túc, là vợ của bạn cùng khóa 5 là trò Trần công Hiệp, Điệp dự thi Trung Học đệ nhất cấp vào tháng 5 năm 1963, một khóa thi có nhiều bàn cải, dự định năm nầy sẽ mở chỉ một khóa thi, nhưng bài toán chánh lại là bài toán hình học không gian trong sách toán đệ nhị của giáo sư Nguyễn văn Phú, dù là bài toán dễ của lớp đệ nhị.. nhưng sẽ là bài toán khó của lớp đệ tứ…, lại thêm đề Việt Văn, phân tích bài thơ Con Muổi của Phan Bội Châu …bài thơ có nghi vấn không phải của tác giả họ Phan.. Để xoa diệu dư luận, câu hỏi giáo khoa toán tăng lên 13 điểm, và mở thi kỳ hai ..
 Dự 2 khoa Điệp đều .." không ăn ớt thế mà cay" Và Điệp cũng quyết định mau lẹ, không nghiệp văn thì chọn nghiệp võ.
            Điệp lên đường bằng xe đò, thuở đó bọn quỷ rừng chưa mạnh lắm, chỉ lén lúc ám sát, đào đường, rải truyền đơn…xe đò bị mấy nhánh cây cản đường, Đoàn xe phải dừng lại chờ lính Ông Quản Phát ra mở đường… Nóng lòng đi, Điệp chạy lẹ tới đám cây, bên trong xóm, tiếng súng bá đỏ cắc bùm, Điệp chạy trở lại đoàn xe, vô sự, nhưng hai chân chỉ còn một chiếc dép, thấy êm êm, Điệp trở lại tìm dép, và viên đạn cầu âu đã kết liễu đời một thiếu niên còn quá trẻ… Điệp là trò khóa 5 chết đầu tiên vì đạn VC.
            Nơi làm việc của chị hai Ngà thuở đệ nhất Cộng Hòa gọi là Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Giám Đốc là Trung Tá Châu, Ông Châu còn là Quân Ủy của đàng Cần Lao Của Ông Nhu, Sau ông Châu Là Đại Tá Trần Tử Oai .. Thời đệ nhị Cộng Hòa nâng cấp thành Tổng Cục Chiến Tranh Chình Trị .. Vị trí nằm tại số 2 ter Đường Thống Nhất Sài Gòn Quận Nhất, Thời Pháp là đường Norodom, Thời mạt vận là tên của một người trưởng ga xe lửa thời Tây …
 Đồn lính bảo an, từ thời Tây đã trưng dụng ngôi nhà của kiến họ Huỳnh Đình, Trước cổng có chòi gác.
Trong gia đình nầy tôi chỉ biết vài người, Năm Rạng,cở lứa tuổi tôi, vốn người lanh lợi, Năm 83, tôi được giặc thả vể, lúc đó thấy Năm Rang buôn thuốc tây, nghề nầy sau ngày bể dỉa ai cũng khá giả, vài năm sau, Năm Rang nối duyên chồng vợ với Anh Chìn Thôn, nhà cạnh cầu Xóm Sọc, Anh Chín Thôn là chú út của Đại Úy Chấp ( Tiểu Khu GC) và Trung Úy Lý ( Phượng Hoàng Gò Công), thuộc kiến họ Đoàn
Sáu Tươi, là nữ sinh Trung Học Gò Công hình như khóa 7 hay 8 gì đó, Tôi không rõ sau khi ra trường làm gì, chỉ biết khi tôi thả về, thì Tười và chồng con có nhà chung xóm với tôi, nhà sát cầu Tây ban Nha, chồng là sĩ quan Cộng Hòa cấp Trung úy, tù về sớm, có mở tại nhà lò ấp vịt, đời sống khá giả, rảnh rỗi,Anh Chồng có dạy kèm anh văn cho con cháu, giọng nói của Anh rất khỏe, đi ngoài đường nghe tiếng giảng bài lồng lộng của anh .
Thả về Gò Công tôi bị quản chế gần 3 năm, tuần nào sáng thứ hai cũng phải đến đồn Công An trình diện với bản báo cáo việc làm hàng ngày trong tuần… Cuối năm 83, tôi gặp 2 anh em mới ra tù vượt biên đi trình diện, lân la nói chuyện mới biết 2 cậu nầy là em của Trần Công Điệp. Có lẽ là bé lớn bé nhỏ như Cao Thệ viết trên. Trí là thiếu Úy Thủy Quân Lục Chiến, có gương mặt trầm tư, đầy nét cương nghị.. Em là Lễ ( nhớ mang máng), gương mặt thư sinh trông rất vô tư… Biết tôi là bạn học với Điệp .. Trí cho biết là phải đi thôi dù cho phải chết… Quả nhiên chỉ mấy tháng sau Trí đi mất, còn Lễ tôi thấy ra phụ với chị phơi trứng lựa vịt.. Trí bây giờ ở đâu, đọc mấy dòng nầy … liên lạc với đồng hương nha Trí

(còn tiếp) (http://phorum.vietbao.com)
 
Thủy Lan Vy
 
http://phorum.vietbao.com/yaf_postsm12913_Que-Huong-Go-Cong.aspx#post12913 - http://phorum.vietbao.com/yaf_postsm12913_Que-Huong-Go-Cong.aspx#post12913
 
 
 

 

 
 
 


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 13/Aug/2011 lúc 10:40pm

Qua Mỹ Kiều, Xin chân thành cám ơn Thuỷ Lan Vy bổ túc :

-         Anh Điệp bị rớt chiếc dép vô cùng chính xác, làm tôi nhớ đến vết thẹo ở gò má anh

-         Chị Hai Ngà làm việc Nha Chiến Tranh Tâm Lý vô cùng chính xác. Rất gần quả bom Phạm Phú Quốc đã thả xuống trong ngày đảo chánh năm xưa

 

Kính tặng anh bài thơ “ Con Muỗi “ để làm quen

 

Vo ve tiếng muỗi réo đầy tai

Thao thức năm canh nghĩ vắn dài !

Nhà, nước đục ngầu, sanh lũ nhặng

Phên tan dậu nát, muỗi vây bầy

 

Lòng đau tợ xé, kim châm chích

Dạ xót như dần, đập rát tay

Hút máu người người, no ấm cật

Thân tàn, chết bón chẳng xanh cây !

 

Cao Thệ



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 15/Aug/2011 lúc 9:34pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

Kề bên nhà Bác Năm là nhà Bác Hai Thi, có biệt danh ít người biết “ Hai Tém” sau này tôi mới biết vì Bác Hai rất có duyên với mấy bà goá, trước nhà cũng có cổng giống như nhà Ông Thân Bính nhưng bằng gổ lợp lá, kề bên đặt lu nước và cái gáo bằng dừa cán rất dài, để người đi đường giải khát, gần ranh nhà với Bà Tư có cây táo, nơi hấp dẫn bọn nhóc chúng tôi . 

Bác Hai làm gì đó trong Ty Công Chánh, nhà có bán cá Lia Thia bọn con nít chúng tôi  lui tới hằng ngày

Anh Nhì là con Bác Hai, đẹp trai giống như Bác đầu tóc lúc nào cũng láng mướt, cuộc sống khép kín ít chơi với các anh trong xóm, vào độ tuổi đi lính thì anh vào Thánh Thất Tây Ninh tu, sau 75 có đem vợ con về ở với ba má

 

Tiếp theo là nhà Bà Tư Xông, bà Tư có 1 trai một gái.

Chú Hai Thố làm việc trong Dinh Độc lập, Thiếm Hai Thố ở nhà nuôi con, Con Trai đầu lòng tên Dũng, đàn giỏi đi lính nằm trong tiểu Đoàn Chiến Tranh Chánh Trị

Cô Tư Là, giáo viên sau làm hiệu trưởng trường Nguyển Tri Phương, nhà ở đường Ngô Quyền, chồng là Nguyễn văn lễ trước làm việc ở trại giam Côn Đảo, thời Đệ Nhị Cộng Hoà là Hạ Nghị Sĩ ông này với Dương văn ba ở Bạc Liêu là “ ăn cơm Quốc Gia, thờ ma của việt cộng “. Trong trận đánh Bình Long có phần công sức của ông ta vẽ bản đồ chuyển tài liệu cho giặc. Sau ngày cờ đỏ lên đời, ông làm vỏ ruột xe đạp tại nhà, cho hai đứa con trai sinh đôi Đồng và Đăng vượt biên, nghe nói hiện đang ở Canada

Nhà này có một người rất đặc biệt tên Tư Còn gọi Bà Tư Xông bằng Cô, ông này lang bạt kỳ hồ, quy tụ một số anh chị trong xóm thành lập Thi Văn Đoàn lấy tên Hồn Thu Thảo, Thi sĩ phải có thơ túi, rượu bầu, sau này thêm thuốc phiện để lầy cảm hứng mà gieo vần, nhưng văn chương bị rượu thuốc hoành hành nàng thơ cũng sớm chia tay, bản thân người thi sĩ ôm ấp nàng Tiên vội vã qua đời trong khổ nghèo bệnh tật

 

Nhà Bác Ba thợ mộc, Bác có 3 người con anh Hai Cầm, Chị Bé Lớn và Bé Nhỏ.

Anh Hai Cầm cũng là dân Lang bạt kỳ hồ, nhà chuyên môn nuôi gà nòi đá độ, có con gà dữ còn hơn bầy Ngổng và đàn gà Lôi ở nhà ông Phán Đờn, bọn nhóc trong hẻm mỗi lần đi học ngang qua  phải có người lớn mới dám đi, còn không thì cấm đầu chạy trối chết, nhiều đứa có cả tôi bị gà đá gà mổ đến chảy máu lưng, máu chân

Chị Bé Lớn, lấy chồng là Sĩ Quan thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh “ Sao không chết người trai chiến sĩ mà chết người gái nhỏ hậu phương” Vợ chết để lại đàn con, tái giá với Bé nhỏ, cô em vợ

Sau ngày buông súng tản hàng, được đi học tốt nghiệp trở về đoàn tụ gia đình

 

Kề bên nhà Bác Ba thợ mộc là con hẻm dẫn vào nhà tôi.

 
 
Nhà bà Tư Xông còn có Bác Năm. Bác Năm có người con trai là anh Nguyễn văn Tư. Anh Tư lúc xưa là Huấn luyện viên (moniteur). Mỡi sáng anh lội (thể dục) từ Cầu Huyện lên đến nhà bà Phước. Anh thuật lại là anh phải lội gần bờ sông phía bên kia xóm anh (phía đường Trưng nữ Vương bây giờ mà lúc đó tôi gọi là đường bờ sông). Lý do là vì lúc đó chỉ có nhà bên bờ sông phía bên xóm anh ở thôi còn phía kia đường không có nhà vì họ cắt đường sát bờ sông (kinh Salicetti) nên không có nhà bên nầy. Lúc đó miếng đất bên bờ sông còn thuộc về gia đình chúng tôi. Có một người thuê chỗ đó để cột chiếc xuồng. Từ đó tôi và người em họ Lê Ngọc Mạnh lấy xuồng chèo đi lên đến Cầu Đúc trên (cầu Huyện Chi bây giờ, chỗ nhà máy Trần Công Đáng) để thăm chị Mười Bốn tôi đang ở nhà dì Bảy tôi. Có lần có anh Mạc Thủy đi cùng như tôi đã nói trong một bài trước đây.
Trở lại chuyện anh Nguyễn văn Tư lội bên kia bờ sông là vì bên nầy bờ sông có nhiều nhà cửa mà nhà nào cũng có làm cầu tiêu trên sông. Do đó nhiều khi đang lội, ngóc đầu lên thấy "vàng nổi lều bều"!!!...
Về sau anh Tư cưới chị Mười Hai tôi, dọn lên Saigon ở xóm Cây Quéo. Anh chi Mười Hai có người con gái hiện đang sống tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 17/Aug/2011 lúc 7:49pm

Chú Lộ Công Mười Lăm Kính !

Cám ơn Chú đã bổ xung thêm một chi tiết nữa mà cháu không hề biết

Rất mong được nhận nhiều sự đóng góp quý báu của Chú

Cám ơn Chú thật nhiều

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 19/Aug/2011 lúc 9:51pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ THỦY LAN VY

]
 
 
Trích bài của Cao Thệ:
 
Kề bên nhà Bác Năm là nhà Bác Hai Thi, có biệt danh ít người biết “ Hai Tém” sau này tôi mới biết vì Bác Hai rất có duyên với mấy bà goá, trước nhà cũng có cổng giống như nhà Ông Thân Bính nhưng bằng gổ lợp lá, kề bên đặt lu nước và cái gáo bằng dừa cán rất dài, để người đi đường giải khát, gần ranh nhà với Bà Tư có cây táo, nơi hấp dẫn bọn nhóc chúng tôi .  
Bác Hai làm gì đó trong Ty Công Chánh, nhà có bán cá Lia Thia bọn con nít chúng tôi  lui tới hằng ngày
Anh Nhì là con Bác Hai, đẹp trai giống như Bác đầu tóc lúc nào cũng láng mướt, cuộc sống khép kín ít chơi với các anh trong xóm, vào độ tuổi đi lính thì anh vào Thánh Thất Tây Ninh tu, sau 75 có đem vợ con về ở với ba má
 
Tiếp theo là nhà Bà Tư Xông, bà Tư có 1 trai một gái.
Chú Hai Thố làm việc trong Dinh Độc lập, Thiếm Hai Thố ở nhà nuôi con, Con Trai đầu lòng tên Dũng, đàn giỏi đi lính nằm trong tiểu Đoàn Chiến Tranh Chánh Trị
Cô Tư Là, giáo viên sau làm hiệu trưởng trường Nguyển Tri Phương, nhà ở đường Ngô Quyền, chồng là Nguyễn văn lễ trước làm việc ở trại giam Côn Đảo, thời Đệ Nhị Cộng Hoà là Hạ Nghị Sĩ ông này với Dương văn ba ở Bạc Liêu là “ ăn cơm Quốc Gia, thờ ma của việt cộng “. Trong trận đánh Bình Long có phần công sức của ông ta vẽ bản đồ chuyển tài liệu cho giặc. Sau ngày cờ đỏ lên đời, ông làm vỏ ruột xe đạp tại nhà, cho hai đứa con trai sinh đôi Đồng và Đăng vượt biên, nghe nói hiện đang ở <ST1:COUNTRY-REGIoN w:st="on">Canada</ST1:COUNTRY-REGIoN>
Nhà này có một người rất đặc biệt tên Tư Còn gọi Bà Tư Xông bằng Cô, ông này lang bạt kỳ hồ, quy tụ một số anh chị trong xóm thành lập Thi Văn Đoàn lấy tên Hồn Thu Thảo, Thi sĩ phải có thơ túi, rượu bầu, sau này thêm thuốc phiện để lầy cảm hứng mà gieo vần, nhưng văn chương bị rượu thuốc hoành hành nàng thơ cũng sớm chia tay, bản thân người thi sĩ ôm ấp nàng Tiên vội vã qua đời trong khổ nghèo bệnh tật
 
Nhà Bác Ba thợ mộc, Bác có 3 người con anh Hai Cầm, Chị Bé Lớn và Bé Nhỏ.
Anh Hai Cầm cũng là dân Lang bạt kỳ hồ, nhà chuyên môn nuôi gà nòi đá độ, có con gà dữ còn hơn bầy Ngổng và đàn gà Lôi ở nhà ông Phán Đờn, bọn nhóc trong hẻm mỗi lần đi học ngang qua  phải có người lớn mới dám đi, còn không thì cấm đầu chạy trối chết, nhiều đứa có cả tôi bị gà đá gà mổ đến chảy máu lưng, máu chân
Chị Bé Lớn, lấy chồng là Sĩ Quan thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh “ Sao không chết người trai chiến sĩ mà chết người gái nhỏ hậu phương” Vợ chết để lại đàn con, tái giá với Bé nhỏ, cô em vợ
Sau ngày buông súng tản hàng, được đi học tốt nghiệp trở về đoàn tụ gia đình
 
Kề bên nhà Bác Ba thợ mộc là con hẻm dẫn vào nhà tôi.


Chỉnh sửa lại bởi cao the - 28/Jul/2011 lúc 5:40pm
 …..
 
 
 
Đầu thập niên 50, tôi vẫn hàng tháng đi hớt tóc tại chòi của chú ba Tân Lợi ( nếu gọi tiệm thì e trật vì quá nhỏ, nóc và cách đều bằng lá, có 1 cửa sổ và hai cửa trước và sau.)  Tôi vẫn đi bộ , chị tôi dẫn đi lúc tôi còn nhỏ, đi trên cầu Huyện, lần nào ngang nhà chú hai Thi tôi cũng ghì tay chị tôi dừng lại trước cổng nhà chú Hai, cổng cất 2 mái lợp gì thì tôi quên , nhưng trong trí vẫn còn nhớ là rất nhỏ so với cổng nhà bác Hương Thân Bính, bên trong cổng có 1 lồng nuôi con trích, hơn 50 năm, chỉ còn nhớ mài mại, con trích có bộ lông màu xanh dương đậm, tôi thường bứt cỏ cho vào lòng, trích lấy chân kẹp cọng cỏ và nhúng vào tô nước rửa trước khi ăn, tôi rất thích và lần đi hớt tóc nào tôi cũng ghé ngồi chơi với Trích, ba tôi biết chuyện nầy và ân cần dặn tôi đừng ngồi sát lồng quá coi chừng bị trích mổ trúng mắt... Cở 9, 10 tuổi, cuối tuần tôi vẫn thường xuống sân nhà chú Năm Quăn ( Có lẽ Ông là dân Mai Liên nên tóc quăn, da ngăm đen, chòm xóm vẫn gọi ông bằng tên năm Quăn) để xem khi thì đá cá lia thia, khi thì đá gà, thường khi độ cá và gà gần kết thúc là tôi bỏ ra về, vì thấy chúng cắn nhau te tua, thấy thương quá
" sao không nhớ lại bởi con nòi
Một khi lông cánh tơi bời hết
 Chi khỏi sa vào chảo nước sôi"
 
 Tôi ưa nói sang đàng, đang chuyện cầu Huyện bắt qua đá gà, dù sao cũng trên đất cầu Huyện, ở trường gà nầy tôi thường hay gặp chú hai Thi, chú đi chiếc xe đạp sườn ngang, xe được chùi lau cẩn thận, chú có gương mặt rộng rãi, trán cao...tới ót ( hơi sói) mặt trông tươi vui. Ở chòi hớt tóc tôi cũng thường gặp chú đến ngồi chơi nói dóc với khách.
Riêng chú Năm Quăn có người con trai thứ ba tên là ba Hóa, thanh niên Gò Công khoảng đầu thập niên 60…đều có thể biết nhân vật nầy.. Vì Ba Quá là chủ một lầu hồng nằm trên Xóm Cỏ.
 
            " con trai đầu lòng tên Dũng đàn giỏi đi lính tiểu đoàn Chiến Tranh Chính Trị."
Năm 1969, tôi là trưởng toán Chiến Tranh Chính Trị/ hành quân, dẫn một toán về tăng phái cho tiểu khu Gò Công, thời đó chỉ có khối CTCT, do Đại Úy Vũ Văn Hào làm trưởng khối ( chung trại tù Mỹ Phước Tây với tôi), tôi phối hợp với toán dân sự vụ do Thượng Sĩ Tốt làm trưởng toán, trong toán có Anh Lâm ( khóa 4 Trường Gò Công)- Tám Móc nhà trước Ao Trường Đua, bạn học với tôi thời tiểu học, Bé, Dũng đều là lính, Dũng còn trẻ kém tôi vài ba tuổi, lúc đó Dũng có vợ là cô Hồng, nhân viên dân chính ( Nữ huấn đạo)…sau nầy thành lập Đại đội CTCVT, Đại Úy Tuyền, đại Úy Phước và cuối cùng là Đại Úy Võ Hiếu Để… toán dân sự vụ nầy nhập vào đại đội, và gọi là Trung Đội Chính Huấn do Trung Úy Trần Tới làm trung đội trưởng Tiểu đoàn CTCT chỉ có ở cấp quân khu, mỗi vùng có 1 tiểu đoàn, riêng Tiểu Đoàn 50 là đơn vị tổng trừ bị , thường tăng phái cho các binh chủng trừ bị như Dù, Thủy Quân Lục Chiến , Biệt Động Quân..
 
            "Cô Tư Là nhà ở đường Ngô Quyền.."
Năm 67, tôi lên Sài Gòn đi học, tôi ở nhà ngoại tôi cách nhà cô Tư là khoảng 3 căn, nhưng day mặt về 2 hướng khác nhau, Cô Tư Là ở đường Ngô Quyền hồi nào thì tôi không biết.
 Con đường Triệu Đà bắt đầu từ cơ thể học viện nằm trên đường Trần Hoàng Quân ( đệ nhất Cộng Hòa là đường Nhân Vị), kéo dài  tới đường Trần Quốc Toản, lại cũng nhớ mài mại, Triệu Đà cắt mấy ngã tư là Đường Tân Phước, đường Da Bà Bầu, Đường Vĩnh Viễn, Đường Nguyễn Tiểu La…
 Từ Trần Hoàng Quân qua khỏi ngã tư Vĩnh Viễn 1 block phố khoảng 6 căn, có 1 con hẽm rất rộng, hai chiếc taxi chạy song song được, bên kia hẽm là thánh thất Cao Đài, quẹo vô hẽm, căn thứ ba hay thứ tư, trước nhà có cây mận là nhà cô Tư Là, cửa sơn màu xanh ..  tôi nhớ như vậy
 
            " Chị Bé Lớn, Bé Nhỏ…"
Chị Bé lớn là gái lầu hồng, một sĩ quan cấp Đại Úy là Đại Úy Sào  ( hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa), cưới về làm vợ, và chị Bé trở thành người vợ hiền thục,. Anh Sào lên Thiếu tá, Anh tù không biết mấy năm nhưng tôi biết anh về trước tôi khoảng 3,4 năm gì đó, Anh không đi Mỹ theo diện HO. Không tiền làm hồ sơ hay lý do nào khác ??? Lúc tôi về, gặp anh làm đủ nghề, kể cả nghề coi tay bói bài.. vẫn nghèo xơ xác
 Chị Bé lớn qua đời anh tục huyền với Bé nhỏ.
 
(Còn Tiếp)
 
 THỦY LAN VY
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 19/Aug/2011 lúc 10:51pm

Chào Thủy Lan Vy !

Cám ơn Chị Mỹ Kiều rất nhiều đã thay mặt Anh Thủy Lan Vy gởi bài viết bổ sung phần thiếu xót của Cao Thệ

1-    Con chim Trỉ vô cùng chính xác, xem bài anh viết tôi thấy trước mặt  bộ lông màu xanh két và cặp giò cao lêu nghêu màu hồng xậm của Trỉ ở nhà Bác Hai.

2-    Dũng là con trai trưởng của chú Hai Thố, học tiểu học ở Gò Công, trung học là học sinh trường Chu Văn An Sài Gòn, lấy Cô Hồng chung đơn vị, nhà cha mẹ có tiệm hót tóc trên đường Lê Văn Duyệt đối diện với Đình Chí Hoà, Dũng Hồng đã ly dị.

3-    Nhà Cô Tư Là đúng là ở đường Triệu Đà ( bây giờ là đường Ngô Quyền) bỏ căn nhà đầu hẻm là tới , nhà con gái lớn ở cách Cô vài căn, xéo hẻm phía bên kia đường là Thánh Thất và có tiệm Thuốc Bắc nữa.

4-    Về chuyện Chị Bé Lớn, Bé Nhỏ thì không sai chút nào, sống trong cảnh thiếu trước hụt sau tội nghiệp mấy cháu quá chừng !

 

Trí nhớ của anh thật tuyệt vời, Xin chân thành cám ơn anh đã bổ sung

 

Cao Thệ



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 19/Aug/2011 lúc 11:42pm
.
 
Đúng rồi chị Tư Là có một lúc ở đường Triệu Đà khu Nguyễn Tri Phương. Lúc đó tôi ở đường Bà Hạt gần đường Tân Phước. Có một lần chúng tôi cùng về Gò Công trên chiếc xe Traction và bị tai nạn lật xe như đã nói trong một bài trước. Cách đây khá lâu (20 năm?) tôi có gặp con trai chị Tư Là tên Đăng từ Toronto đến Montreal nhân dịp một kỳ đại nhạc hội có các ca sỉ Khánh Ly, Lệ Thu và Giao Linh. Cháu Đăng giới thiệu và nhờ tôi làm giấy tờ để Giao Linh được đi hát bên Úc. Sẽ nói tiếp sau.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 20/Aug/2011 lúc 10:08pm

Chào Chú Mười Lăm !

 

Dạ thưa Chú, trước 75

Đường Triệu Đà ,  khởi đầu từ đường Trần Quốc Toàn có nhà thờ Hội Thánh Tin Lành cuối đường Hồng Bàng, bệnh viện chuyên khoa Phổi, Hồng Bàng, bên này là trường Trung Học Chu Văn An

 

Bây giờ đường Trần Quốc Toản thành đường 3 tháng 2

Triệu Đà thành Ngô Quyền

Bệnh viện Phổi Hồng Bàng thành BV chuyên khoa Phổi Phạm Ngọc Thạch

 

Đồng, Đăng là hai anh em sanh đôi đi vượt biên rất sớm hiện ở cùng Quốc Gia với Chú

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Aug/2011 lúc 8:42am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Mặc Thủy

 

 

Trích dẫn nguyên văn từ anh Lộ Công Mười Lăm :

" …… Từ đó tôi và người em họ tên Lê ngọc Mạnh lấy  xuồng chèo đi lên Cầu Đúc trên ( Cầu Huyện Chi bây giờ, chỗ nhà máy Trần công Đáng) để thăm chị Mười Bốn tôi đang ở nhà Dì Bảy tôi. Có lần có anh Mặc Thủy đi cùng  như tôi đã nói trong một bài trước đây …. "

 

 

 
Mơ về Cầu Huyện

            *Tặng anh em Xóm Cầu Huyện.

            
 Tôi về  trong một giấc mơ,
          Nhìn ai mặc áo tiểu thơ qua cầu
   Giờ em cá lặn phương nào.
                     Tôi con xuồng nhỏ trôi vào tiếc thương…

 

                      Mặc Thủy

 
 
 
 
 
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Aug/2011 lúc 12:18pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Thy Lan Thảo

 
 
 
 
 
 
 
         CẦU  HUYỆN  NGƯỜI  XƯA
              -=-
 
          Bước đời như một giấc mơ
Tháng tư thay áo tiểu thơ qua cầu
          Người xưa giờ ở phương nào
Xóm Cầu Huyện đó dạt dào nhớ thương
 
                   thy lan thảo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 21/Aug/2011 lúc 8:58pm

Kính chào hai anh

Mặc Thuỷ, Thy lan Thảo

Ngưỡng mộ từ lâu hôm nay được tiếp tại nhà thật là một vinh hạnh.

Xin cảm ơn bài thơ rất hay và những bức hình rất đẹp gởi cho.

Cảm ơn Mỹ Kiều đã kết nối, tạo điều kiện cho C. Thệ được làm quen đồng hương.

C.T

 

NHẮN GỞI NGƯỜI XƯA

 

Chút Tình sót lại làm mơ

Nhớ mong hoá kiếp, thành thơ nguyện cầu !

Mây trôi, bèo dạt phương nào ?

Trăm năm Cầu Huyện vẫn chờ vẫn thương

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Aug/2011 lúc 6:07pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Mặc Thủy

 
 

  

 
 

Gởi người em Cầu Huyện

 

       Tôi về gỏ cửa tuổi thơ,

       Nghe như sóng vỗ tràn bờ đại dương !

       Chim bay bay khuất dặm trường,

       Tôi cành khô đứng rưng rưng giữa trời…

 

  Mặc Thủy

 
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 23/Aug/2011 lúc 8:16pm

Kính chào Mặc Thủy

Ý và lời thơ hay quá, xin được phép họa vần, gởi Huynh Trưởng xem cho vui

C T

 

TÌNH NGƯỜI CẦU HUYỆN

 

Hương đời, chút vị ngây thơ

Tình người chìm nổi hai bờ trùng dương

Cho dù xa cách dặm trường

Đi về chung lối Sâm Thương giữa trời !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 24/Aug/2011 lúc 11:29pm

Quê Mẹ Gò Công nắng tốt trầu

Mưa về xanh ngát những vườn rau

Xơ Ri Cầu Đúc cây oằn trái

Đất Biển mênh mong rẫy Mãn Cầu

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Aug/2011 lúc 5:32pm
 
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

 
Quê Mẹ Gò Công nắng tốt trầu

Mưa về xanh ngát những vườn rau

Xơ Ri Cầu Đúc cây oằn trái

Đất Biển mênh mong rẫy Mãn Cầu

 

Cao Thệ

 
 

 

 

      
 
 
 
Bài thơ họa :
 
 
 
     Gởi về Gòcông

   Nhắn chị gắng vun mấy liếp trầu,

  Nhắn anh năng tưới mấy giồng rau…

  Cây tình cây nghĩa đơm hoa trái ,

  Mình sẽ về  chung một nhịp cầu…

  

                        Mặc Thủy

 

 

 



-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 25/Aug/2011 lúc 7:25pm

Cám ơn Mỹ Kiều nối duyên anh Mặc Thuỷ ghé nhà

chân thành cám ơn anh, xin hoạ lại mấy vần làm quen. CT

 

Duyên nợ xưa nay ở miếng trầu

Nghỉa tình hòa quyện với cơm rau

Người xa xin nhớ về quê cũ

Hẹn một ngày mai nối nhịp cầu

 

Cao Thệ

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 27/Aug/2011 lúc 4:49pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Thy Lan Thảo

 

              CẦU  HUYỆN  NGƯỜI  XƯA
                                  -=-
 
          Bước đời như một giấc mơ
Tháng tư thay áo tiểu thơ qua cầu
          Người xưa giờ ở phương nào
Xóm Cầu Huyện đó dạt dào nhớ thương
…..
          Ta đi đất lạ trăm đường
Vẫn lòng trăn trở biết phương nào về
          Cờ réo quỷ, xót não nề
Dáng Cầu Huyện đó tái tê tâm lòng
…..
          Ngày xưa nắng má em hồng
Bây giờ mưa gió bên chồng em vui ?
          Thế gian một cuộc đổi dời
Chuyện tình câu kết cũng rồi bài thơ
 
…..
          Gió trăng đâu biết đợi chờ
Nhìn mây chuyển đổi nghi ngờ thế nhân
          Nhớ Cầu Huyện, lòng bâng khuâng
Em xưa duyên dáng cõi trần nghiệp duyên
          Câu thơ viết xóa lụy phiền
Tình xưa ta giữ, của riêng bước đời
         
 
                   thy lan thảo
 
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 27/Aug/2011 lúc 7:56pm

Anh Thy Lan Thảo kính !

Chân thành cám ơn anh đã gởi tặng bài thơ.

Xin được họa vần gởi anh xem cho vui.

C.T

 

 

TÌNH NGƯỜI CẦU HUYỆN

 

Chút tình sót lại làm mơ

Nhớ mong hoá kiếp, thành thơ nguyện cầu !

Mây trôi bèo dạt phương nào ?

Trăm năm Cầu Huyện, vẫn chờ vẫn thương

 

Xe qua còn dấu trên đường

Người xa ắt hẳn nhớ phương tìm về !

Bởi Tâm mang vác nặng nề

Đường xa luống những tái tê cõi lòng !

 

Chen chân vào chốn bụi hồng

Chợ Phù Hoa đến, đừng hòng về vui

Sắc không bãn chất đổi dời

Tâm an sống giữa dòng đời là thơ !

 

Biết đâu hẹn ? biết đâu chờ ?

Lênh đênh lạc mãi hai bờ thế nhân !

Đường về chân bước buâng khuâng

Biết gì Duyên Khởi ? mà lần chờ duyên !

 

Niềm vui nào chẳng luỵ phiền ?

Tâm đơn giản sống an nhiên với đời !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 28/Aug/2011 lúc 9:44pm

XÓM CẦU HUYỆN BÊN SÔNG

 

Thật tình tôi không hiểu nhiều về xóm Cầu Huyện bên sông, nhưng Anh Thy Lan Thảo chỉ viết đến quán Bác Tám Kỷ mà không chịu viết cho hết nên tôi xin tiếp tục, trong trí nhớ cùn mằn của tôi, Lưu ý những chi tiết từ đây trở xuống nói về các nhân vật có thể sai hoặc không đúng lắm, rất mong được các bạn bổ khuyết cho.

Toàn bộ khu vực này theo như Chú Lộ Công Mười Lăm thì thuộc đất của Dòng họ Lộ

 
 

Như đã nói là chuyến về Gò Công vừa qua tôi đã gặp được nhiều cái hay. Cái hay nhứt là tôi tìm gặp giấy điền thổ xóm Cầu Huyện, chỗ ngày xưa tôi ở lúc còn nhỏ trước khi lên Saigon học trung hoc Pétrus . Bản đồ (plan cadastral) nầy làm năm 1882. Mời xem kỹ hình số 1 phía dưới, bên tay mặt.

Hình số 2 chỉ rõ ràng là miếng đất nằm sát bờ rạch Cửa Khâu (kinh Salicetti). Sau đó Chánh phủ lấy phần đất chạy dọc theo bờ sông làm một con đường chạy ra đến cầu Quan. Đường đó ngày xưa không có tên. Chúng tôi kêu là đường "Mé sông". Sau đó có tên gì không nhớ nhưng tên khác với tên của khúc đường tiếp đó chạy ra chợ Gò Công. Hiện nay đường nầy tên là Hai Bà Trưng. Thầy Nguyễn văn Ba (anh của Thy Lan Thảo) hiện đang ở trên đường nầy. Ngày tôi còn đi học tiểu học ở Gò Công có Thầy Huệ có cô con gái tên Bạch Liên ở trên đường đó. Cô nầy lúc đó đi học bằng xe đạp mỗi ngày.

Cái cầu trong hình 2 sau được mở rộng ra trong phần đất để trở thành CẦU HUYỆN.

Con đường (được chú thích trong hình là RUE) cũng được nới rộng vào phần đất và trở thành đường TỔNG THỨ (bây giờ là Nguyễn Huệ).

Con kinh Salicetti, lúc tôi còn ở Gò Công thì bị chận ra, lấy một khúc làm hồ tắm (piscine), trước trường Quan (tiểu học nam). Năm 1948 cầu Huyện bị đốt, không được sửa lại mà bị lấp làm cống. Bây giờ thì lấp hết từ đó ra đến sau chợ. Chỉ phía đầu kia con kinh là còn nước thôi.

Đó là lịch sử Cầu Huyện theo tôi biết.

 
 
 

 Nhà Bác Chín Đán cách cái ao là đến nhà Cậu Tư, Cậu Tư bán nhà dời vô Đất Thánh

 

Nhà Anh Ba Thọ kế bên cũng bán luôn đi theo Cậu Tư

 

Nhà Chị Tư Huỳnh có mấy đứa con gái lớn đi làm ăn ở xa, sau khi thấy Cậu Tư và anh Ba Thọ bán nhà, cũng bán nhà đi theo con gái, tôi chẳng biết đi đâu, nhà này sau thấy Anh Tư Đời ở

 

Kế nhà Anh Tư Đời là nhà Chú Tư Vinh, ông này cụt một bàn tay, nghe nói Chú này là dân giang hồ, sau giải nghệ hành nghề đạp xích lô, Chú Tư ăn nói ngang tàng nhưng tính rất kỹ lưỡng nhà của lúc nào cũng sạch sẽ, gọn gàng, xe xích lô chú lúc nào cũng bóng lưỡng.

Bàn Thiên nhà chú đặt ở hàng rào ngay bên lề đường, đêm đó đi ngang thấy nải chuối mập ú, máu chôm chỉa nổi lên tôi không dằn xuống được thò tay lấy, bổng nghe tiếng thằng con Chú bên kia đường hét toán lên, tôi ôm nải chuối chạy vào đường hẻm hảng nước đá, quẹo trái qua hẻm lò Bún chạy về nhà.

 

May mắn cho tôi trời đất phò hộ cho kẻ gian mà hiền nếu bị bắt được chỉ có nước độn thổ, xui hết biết ! từ đó đi học không dám đi ngã mé sông nữa, phải đi ngã Ao Trường Đua, đi học về tới nhà Thầy Huệ lượm táo, Cây Táo ở nhà Thầy Huệ ( Nhà Ông Huyện Đạt ) trái rất to ăn vào xốp xọp ngọt lịm tụi nó phong cho biệt danh là “ Thiên Hạ Đệ Nhất Táo ”, táo nhà Bác Hai Thi thua xa. Cây táo trồng ở góc vườn nằm ngay ngã ba Lộ Me, ban đầu lủ phá nhà chúng tôi vạch hoa Tygôn chui vào, sau này chúng tôi dẫm bừa lên giây hoa đi vào lượm táo, một lần mò đến hàng cây Kim Quýt tìm trái chín đỏ ăn có cảm giác vị the the phát hiện ra cây thuộc bài ( Trắc Bá Diệp ), không biết quý sư phụ lười học bài nào chế ra hái lá cây ép vào vở thì không cần học bài mà thuộc hết, báo hại cây thuộc bài nhà Thầy bị bẻ cành bẻ nhánh thảm thương và tay tôi bị Thầy khẻ xưng vù do không thuộc bài.

Về sau thấy hàng rào bên Lộ Me được đóng sắt Ấp Chiến Lược và rào kẻm gai, gọi sắt Ấp Chiến Lược là Mỹ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa sắt chử U sơn màu Nhà Binh để đóng xuống đất và mắc kẽm gai vào làm hàng rào chung quanh Ấp Chiến Lược.

Mỹ viện trợ sắt cho Chánh Quyền, Quân Đội để rào Ấp Chiến Lược , đồn bót nhưng đâu biết dân mình vốn sáng tạo số một thế giới, sắt nườm nượp đi vào sinh hoạt của dân chúng, làm cột nhà, đúc dal lót nhà sàn, làm giường, làm khung mắc võng … hằm bà lằng xắn cấu.

 

Lạc đề rồi trở về nhé, sau khi lượm táo rồi đi theo đường Lộ Me ( bây giờ là đường Nguyễn Trãi ) đến ngã ba đường Phan Bội Châu tôi nhớ năm nào đó ở cái miếu trong Đồn Bảo An làm lễ cúng cầu Quốc Thới Dân An có tổ chức hát bội sau cùng tới màn bẻ đầu Ông Tiêu, Ông Tiêu mặt sơn vôi trắng toát bên trong chứa đầy nhóc tiền bạc cắc, mấy sư phụ dặn nhỏ phải tìm mọi cách lấy được cái lưởi Ông Tiêu khó hơn lên trời! Người lớn trẻ con chen nhau mò dưới bụi lượm  bạc cắc, dành giựt la hét ỏm tỏi, tôi được mấy cắc bạc mà rách cái áo mới tinh mua 12 đồng ở chợ Gò Công, nhờ đình đám hội hè mới đi vào được đường này Khu Quân Sự dể gì vô.

Qua cống quẹo trái vào xóm Lò Rèn, xem mấy thợ con nít kéo ống thụt hơi phì phò quạt lò than cháy đỏ lòm , nơi đây thường thấy Bác Thợ Rèn làm móng ngựa, móng bò và lưỡi liềm, thỉnh thoảng cũng thấy có rèn dao, tiếng phì pho của quạt, tiếng leng keng của búa nện vào sắt thép tạo âm thanh rờn rợn mà vui tai, đi một khoảng nữa băng qua con hẻm nhỏ xíu hai bên là ao , bờ ao trồng dừa, đường đi mát rượi nhưng bị sình ra hẻm Lò bún đu cây Tra rửa cặp giò rồi theo đường Tống Thứ về nhà thật là gian nan

Cao Thệ

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 31/Aug/2011 lúc 9:11pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Thủy Lan Vy

]



Tôi học lớp ba với cô Sáu Nghĩa, cô thật hiền từ và thương học sinh, học với cô được mấy tháng, cô theo chồng đổi về SàiGòn dạy, cô Bảy Huyện từ trường nữ về dạy thế, theo lời Ba tôi vẫn thường nhắc nhở, Cô Bảy là người đàn bà học giỏi, có bằng đíp lôm thời tây, nói tiếng tây như ...đầm, biết đàn, biết hát nhạc Tây ... lẽ ra cô phải làm bà đốc mới xứng, nhưng có lẽ do cô biết nhiều quá nên có một sợi dây thần kinh nào đó bị...gút, cô buồn vui bất thường, trò nào lỡ nói chuyện trong lúc cô buồn thì thật là tội nghiệp cho cái mông của trò đó ,...Ở năm học nầy tôi còn nhớ học sinh toàn trường phải đi dưng cộ đèn ( Ngoài đêm trung thu thường niên ) mừng Ông Võ Hà Trị đắc cử dân biểu lập hiến thời đệ nhất cộng hòa .. Cuộc rước đèn bắt đầu từ trường Nam tiểu học đi ra đường Gia Long quẹo ra hướng chợ ngang qua đại lộ Phạm Đang Hưng bọc đường Chủ Sự Thiều về sân vận động để xem chiếu bóng ngoài trời ... Nhưng toán dưng cộ mới ra được tới gần chợ thi trời đổ mưa ... tất cả tự động tan hàng đi về hướng sân vận động ... Tôi còn nhớ vào được sân vận động mình mẩy tôi ướt loi nhoi ... cây đèn hình con chim câu ba tôi phất giấy màu lại từ chiều hôm trước bây giờ chỉ còn lại cái sườn tre ..Tôi còn nhớ Phim Đài Loan ... Hằng Nga du nguyệt điện do tài tử Lý Lệ Hoa đóng vai Hằng Nga ... Tôi đứng nép mình trước góc khán đài để tránh mưa ... mắt nhìn lên màn ảnh mà lòng lo sợ ... Trời mưa lai gần khuya làm sao dám đi về nhà một mình ... Nhớ tới cây me ngay ngã ba trước nhà Bác Tư Bính mà thấy ớn ... Cây me với nhiều câu chuyện ma mà tôi vẫn thường nghe kể ...Bỗng có bàn tay từ khán đài thò xuống khều vai ...
-Em đưa tay anh kéo lên ..
Thì ra là Anh Dinh, đang học lớp đệ thất trường Trung học Gò Công ... Anh đở tôi ngồi vào lòng anh ... Một cảm giác thật ấm áp dễ chịu .( Anh Nguyễn văn Dinh đền nợ nước trong sắc áo Pháo binh ) ... Ngoài ra tôi không còn nhớ gì nhiều lắm, một vài người bạn như trò Phát ( sau nầy tôi không còn gặp lại ) trò Khải ( sau trò từ trường bán công vào trường công học chung năm đệ nhất với tôi, sau đó tốt nghiệp Sư phạm Vĩnh Long về dạy tại Gò Công ) ...Khi giặc cờ đỏ thả tôi về (1983)tôi được người nhà cho biết Cô Sáu Nghĩa về sống ở Gò Công ( Dãy nhà xưa đối diện với lăng Trương Công Định, cạnh nhà ông Phán Chà ) Tôi có chỡ người chị thứ sáu đến nhà thăm cô, sau khi nhắc nhở chuyện hơn 30 mươi năm về trước, cô rất vui mừng khi gặp lại người học trò cũ, dù bây giờ người học trò cũ đã xệ cánh, tả tơi hơn xác pháo ...Mấy tuần sau cô có xuống nhà thăm tôi, thật vô cùng cảm động, tôi còn nhớ, mẹ tôi ngồi tiếp cô tại bộ ghế cẩm thạch đặt giữa nhà, tôi và chị tôi đứng sau lưng mẹ để hầu chuyện ...
Tôi từ giã cây gạo vẫn nở hoa trắng phơn phớt hồng, từ giã những thùng phuy đựng nhựa đường mà những lần trú nắng vẫn thường đứng dưới gốc cây gạo, vẫn táy máy cạy từng cực nhựa đường nắn thành hình nầy hình nọ, hay lén ve viên chọi vào đầu thằng bạn để rồi làm mặt tỉnh tuồng đứng nghe nó chửi bông lông ...
Tôi chính thức bước vào trường Nam tiểu học, ở thời khoảng đó tôi tự thấy mình lớn hơn, nhiều hãnh diện hơn vì được học tại trường Quan ( trước trường Nam là một nhánh của con kinh Sa Li Sết Ti chảy dọc theo đường Tổng đốc Phương xuống Cầu Huyện, có một cây cầu bắt ngang bên hông trường Bà Phước là Cầu Quan nối với con lộ đâm thẳng vô dinh tỉnh trưởng, từ trường Nam trở ngược hướng Cầu Tàu tới sau dinh tỉnh, trước kia chỉ là dinh thự và nhà quan quyền, nhà dân thường rất ít thường ở mãi ngoài cầu Tàu hay trước nhà thờ có lẽ cầu Quan có tên là do vậy ) .
Thời tôi vào trường Nam, Thanh tra là Thầy Lắm, hiệu trưởng là Thầy Võ Văn Giáp, đây là một vị hiệu trưởng được tuyệt đại dân Gò Công kính phục vì sự tận tụy và đạo đức của ông, giám học là thầy Nhàn, nhân viên văn phòng có thầy Mai ( Thầy có nét chữ rất đẹp chuyên viết tên trong văn bằng tiểu học và các giấy khen thưởng )Thầy Đẩu ( tóc thầy trắng như bông ) Thầy Lợi ( con trai thầy giáo Thạnh ), lao công là chú Ba Quản, nhà ở xóm Cầu Tàu, đi sổ điểm danh là Ông Tám .
Tôi học lớp nhì A với thầy Nguyễn Văn Huệ. Thầy Huệ gốc người Trà Vinh, về Gò Công dạy học, cưới vợ là Cô giáo Hớn, con gái của Ông Huyện Đạt nhà ở ngã ba Lộ Me Cầu Huyện, Thầy thuộc họ Văn Công ở Trà Vinh không biết vì sao lại đổi ra họ Nguyễn. Trường Nam lúc bấy giờ có 6 lớp nhì, B Cô Lan ( Con gái Ông Tòa Lê Bằng Ý), C Thầy Phụng, D thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm ( chồng cô Hiếu dạy trường nữ ),Đ thầy Lắm, E cô Diệu ( con gái Ông Louis Đại Đồng, F thầy Núi, lớp cô Diệu nằm ngay khúc quẹo và lớp thầy Núi nằm tiếp với hồ nước cạnh kỳ đài Trước hai phòng đầu không có hành lang, bắt đầu từ lớp thầy Huệ trước lớp mới có hành lang .
Thầy Huệ đi dạy bằng chiếc xe đạp sườn xe solex, trước thềm giữa lớp nhì A và B có một hồ nước nhỏ khoảng hơn thước khối nước, thành hồ bằng đá mài màu hồng chứa nước mưa cho học sinh uống. Lớp nhì A đặc biệt có tấm bảng đen bằng đá cẩm thạch dầy khoảng một tấc rất nặng, bạn bè chung lớp tôi còn nhớ có Nguyễn văn Sáu ( hỗn danh là Sáu sậu , Sáu nhậu , Sáu Cạo , Sáu nhánh ) Trò có một bàn tay 6 ngón gốc người Hòa Nghị là học sinh có học bổng, có trò Nguyễn Bá Chính ở Hòa Nghị té xuống piscine suýt chết, có trò Ron ( con trai thầy giáo Đầm ) đi học mà tai còn đeo khoen, có trò Ngài ở Long Chánh sau kỳ nghỉ lễ Bắc bị bệnh chết, có trò Huỳnh trước 75 là tiểu đoàn trưởng thuộc trung đoàn 12 nhà ở Thạnh Trị . Tôi ngồi đầu bàn nhì phía trái cạnh trò Bòn ở Tân Cương, Sau nầy học chung một đợt trên trung học với tôi có trò Nhuận và trò Sáu. Thầy Huệ rất hiền lành đạo đức, thầy thường ngồi ở mỗi đầu bàn để chấm bài, 5 trò ngồi trên bàn dồn tập ra cho thầy chấm, thầy vừa chấm vừa giảng, thỉnh thoảng thầy cũng nhịp thước đối với những trò quá chậm tiến, trước giờ tan học khoảng 10 phút, thầy thường kể một chuyện đời xưa mà nội dung chuyện kể không ngoài mục đích giáo dục, buổi chiều thầy thường xách vợt đến sân trường Nam ( Trường có 2 sân quần vợt ) để chơi tenis .Mực của học trò thầy Huệ tự pha lấy trong một chai lít mang đến lớp chia cho từng mỗi học sinh nên màu mực trong lớp được thống nhất. Ở lớp nhì có thêm một môn học lạ là môn Pháp Văn, tôi còn nhớ thầy dạy rất dễ hiểu ghép chữ thành những câu ngắn , thầy vừa giảng vừa viết lên bảng le chien là con chó, le là giống đực, le chien est très fidèle , est là là, très là rất, dịch nguyên câu là con chó rất trung tín ... Thầy giảng trò nhớ và tôi nhớ tới bây giờ. Tôi còn nhớ môn vẽ có thầy giáo Giáo, thầy rất hiền, thường Thầy không cho học trò chuốc viết chì bằng ống chuốc mà dạy học trò chuốc bằng dao hay lưỡi lam, tôi chuốc không được khéo nên sau mỗi lần chuốc nhờ thầy xem giùm được chưa, thế là thầy gai mắt chuốc giùm tôi thật đẹp... Năm đó thầy có cho một đề vẽ mà tới bây giờ tôi còn nhớ ..." Vẽ một cảnh mua bán vải ở chợ mà trò thường thấy ". Tôi đã vẽ dở mà gặp đề tài nầy thì chịu dù cảnh nầy tôi vẫn thường thấy, hàng vải chợ Gò Công đâu có xa lạ gì với tôi bởi tôi vẫn thường theo mẹ hay chị đi mua sắm áo quần, dãy hàng vải lúc đó nằm bên hướng tây của chợ, bắt đầu bằng sạp của chị Lan ăn trầu ( dù chị còn rất trẻ ) trong lớp tôi nhớ chỉ có trò Nhuận là vẽ được, Ông thầy cầm bức tranh mà nhìn hoài, riêng dưới con mắt tôi thì tôi thấy rất giống cảnh tôi thấy ngoài chợ. Cũng năm học nầy tôi còn nhớ có họa sĩ Ngân Hà từ Sài Gòn mang tranh lịch sử xuống trường bán cho học sinh, tranh có khổ bằng phân nửa tập vở học trò in trên giấy bìa, mặt trước in hình những bậc anh hùng nữ kiệt trong lịch sử như : thù nhà nợ nước, đầu voi phất ngọn cờ vàng, cờ lau tập trận, chiến thắng Bạch Đằng, Lời thề sông Hóa, Lê Lai cứu chúa ... một bộ 12 tấm, mặt sau in tóm tắc một đoạn lịch sử của bức tranh .
Tôi lên lớp nhứt E học với thầy Thức, một giáo viên trẻ tốt nghiệp Sư Phạm là giáo viên có bằng tú tài I đầu tiên của trường, phòng học nằm ngay đầu dãy trệt, một căn của hội trường, cách một lối đi nhỏ đến hàng rào bông bụp cao quá đầu, ranh giới của nhà vệ sinh, tôi học được 2 tuần lể thì phải trở lại lớp nhì vì thiếu tuổi, toàn trường có khoảng hơn 20 trò, trong đó tôi còn nhớ có trò Trần Công Chức, sau nầy là giáo sư trường bán công Gò Công. Trở lại học lớp nhì thầy Huệ dĩ nhiên tôi học đứng đầu lớp .
Trong thời gian nầy tôi còn nhớ trường có mở giải bóng bàn, trường có một phòng cạnh học xưởng để bảng là Thư Viện nhưng bên trong không có sách vở chi cả mà được kê một bàn banh bông ( Phòng cách kỳ đài với lớp thầy Núi ) Vô địch khối lớp nhì là trò Đinh văn Nhân ( Khi Nhân học đệ ngủ lại chiếm giải vô địch của trường trung học), vô địch khối lớp nhứt là trò Hồ hũu Phước ( tên nhà là Bé Cu, con trai thầy Phụng ).Phước sau nầy phục vụ trong binh chủng Hải Quân còn Nhân tốt nghiệp Cán sự Công Chánh Phú Thọ .
Thời tôi học có 9 lớp nhất bắt đầu từ A đến G - Lớp A Thầy Lộ Công Bích, lớp B Thầy Phan Thanh Sắc, lớp C Thầy Lê Tấn Ngọc, lớp D thầy Lượng, lớp E thầy Lê văn Sấm, lớp F thầy Thức, lớp G thầy Đạt, lao công trường là chú ba Quản, đặc biệt mang sổ kiểm danh hàng ngày có Ông Tám, vóc người ốm cao khoảng 1m80, râu bạc trắng, gốc người Yên Luông Đông đi chiếc xe đạp sườn ngang 700, những người học sinh năm xưa, bây giờ liệu còn mấy ai nhớ tới Ông ...Tôi cũng biết sơ một số nét về các thầy dạy lớp nhứt, Thầy Bích rất hiền miệng lúc nào cũng như mỉm cười, tóc quăn dợn đẹp trai Thầy hỏi vợ lần đầu gốc người Bình Ân, hai bên đều chấp thuận nhưng khi xem thấy kỵ tuổi nên đành chia tay ... kiều nữ năm xưa vẫn còn độc thân tuổi hơn 80 đang sống tại Bình Ân ...Gia đình thầy có lẽ anh em rất đông, thuở nhỏ tôi biết anh Mười Lăm là bạn của anh tôi là em trai của thầy ( hiện ở Canada), tôi không biết anh đã là út chưa ?...Lớp thầy dạy còn kiêm bán hợp tác xã cho trường ( bán văn phòng phẩm ),thầy còn có một quán sách đối diện với nhà Ông Đốc Phủ Hải, một dãy kios cất tạm trên bờ sông bên kia bờ trường nữ tiểu học, quán có tên Cô Giang, thời Ba te thịnh hành, thầy cũng tráng sân trước nhà mở quán ba te, hình như thầy không có số thương mại nên tất cả đều không mang lợi nhuận đến cho thầy...Thời Cộng Sản chúng ghép thầy vào tội đảng phái lưu đày khổ sai ra trại Vĩnh Phú gỡ hơn tám cuốn lịch, tôi là bạn học năm lớp nhì với con trai của thầy là trò Lộ Công Huân, thầy cũng có nhiều công nương cũng thuộc loại sắc nước của tỉnh nhà ...

(Lớp năm dân dã còn gọi lớp chót . Ảnh chụp trước năm 75. Cô giáo là chị Đoái Thị Hoa, cựu học sinh khóa 1 Trường Trung Học Gò Công, ảnh chụp trước kỳ đài trường Nam Tiểu Học)
Thầy Phan Thanh Sắc, gốc người Gò Tre, Thân phụ là bác Bảy Tứ, vợ là cô giáo Khoai dạy trường nữ công và dạy nữ công trường trung học bán công Gò Công, khi vào nghề thầy chỉ là một giáo viên sơ cấp, khi đổi về trường Nam thầy đi dạy bằng chiếc xe mô bi lết từ Gò Tre lên tỉnh, tự học đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, tiếp tục tự học thầy đậu bằng tú tài 1, động viên khóa 13 Thủ Đức, về làm thầy giáo lính trong ban vũ khí thuộc trung tâm huấn luyện Van Kiếp, thầy mướn một căn phố bìa trong dãy phố 6 căn sau lưng ty cảnh sát Bà Rịa, số 85 đường Thành Thái ... Thầy giải ngũ khi mang cấp thiếu úy được 1 năm 18 tháng về dạy lại ở Gò Công, tiếp tục học đậu tú tài phần 2, rồi ghi tên vào Văn Khoa Sài Gòn .... đậu nhiệm ý rồi lần lượt 4 chứng chỉ lấy bằng cử nhân chuyên khoa Nhân Văn tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Trong 12 cấp lớp của chế độ giáo dục miền Nam thầy đã dạy qua tất cả các lớp từ lớp 1 ( lớp chót ) cho tới lớp 12 ( đệ Nhất ) một việc ít có trong nghề giáo và lên tới tuyệt đỉnh của nghề giáo trong tỉnh ... Hiệu trưởng trường trung học đệ nhị cấp ... sau 75 ở tù gần một năm được thả về dạy sinh ngữ tại trường trung học Trương Định, sau cùng giữ chức vụ tổ trưởng tổ sinh ngữ cho tới ngày về hưu.
Thầy Sấm nhà ở khu Kho Muối, gia đình nghèo, là cựu học sinh giỏi của trường P . Ký, trong thời gian đi học phải đi dạy kèm để đủ tiền sách vở, nên đậu xong bằng Díp lom và đậu luôn bằng Brờ vê, thầy phải về quê nhà xin dạy học, tính rất hiền, học trò thầy thường trội môn luận văn, thời gian dạy học thầy thường viết truyện ngắn gửi đăng ở tuần san tiểu thuyết thứ năm với bút hiệu là Lê Sấm, sau năm 75 thầy không phải đi tù và vì tình trạng thiếu giáo sư, thầy được mời dạy Pháp Văn ( Đệ nhị cấp) cho trường Trương Định, Thầy đi dạy trong tư thế " nín thở qua sông ", cố làm trọn chức năng của mình để được hưởng đồng lương công nhân viên dù rất khiêm nhường nhưng không phải dễ kiếm trong một xã hội mà ...Bác Hồ nhân đạo mua gạo phải xếp hàng ...!, bởi vì thầy đang sống trong một bối cảnh mới, có lắm thầy từng được ưu đãi trong chế độ quốc gia đã" trở mình "mau chóng xum xoe nịnh hót nếu họ làm để được yên thân còn tha thứ được ... đàng nầy đã nhẩn tâm tố cáo đồng nghiệp mà lời tố cáo có thể gây tù tội cho người bị tố cáo mà sự việc thật ra không có .... đó mới là điều tồi tệ ., thầy ít giao tiếp, thoảng lắm mới thấy nở một nụ cười. Hiện thầy định cư tại Cali, thỉnh thoảng có gửi thơ đăng báo dưới bút hiệu là Lê Trường Nam.
Thầy Lượng nhà ở Yên Luông Đông, đi dạy cũng bằng chiếc mô bi lết.Học trò của thầy đa phần đều học khá, lớp thầy dạy nằm ngay tầng trệt ngay cổng vào đối diện với piscine .
Thầy Đạt, vợ là cô giáo Thu Hà, thầy đi dạy bằng chiếc xe lam.Tính thầy hiền, trông dáng người hơi khắc khổ nhưng lại có nụ cười rất tươi, thầy thường mặc áo sơ mi măn sết, cài nút tay cẩn thận. Phòng thầy dạy chung hội trường với lớp nhất của thầy Thức.
Tôi lên lớp nhứt C học với thầy Lê Tấn Ngọc, gốc người Yên Luông Đông là con trai thứ sáu của Ông Phán Nhứt. Thầy còn có hỗn danh là Sáu Bụng, là cựu học sinh P.Ký, đậu bằng Díp lôm xin về tỉnh nhà dạy học với ngạch giáo viên công nhựt thời đó lương tháng khoảng hơn 1.700$nên thầy dạy có mấy năm bỏ nghề, sau năm tôi học, thầy tình nguyện vào ngành Hiến Binh, dân dã vẫn quen gọi là ông cò mũ đỏ ... Vào hiến binh ra trường mang lon trung sĩ lương tháng trên 3.500$ " Hà Nam danh giá nhất ông cò ..." lương đã cao hơn đi dạy học mà còn có quyền ... chưa kể tới bổng lộc đủ sống dư thừa ....Sau nầy ngành hiến binh giải thể, một số theo đơn xin về học sĩ quan tại trường Thủ Đức ra trường làm tiểu đội trưởng quân cảnh tư pháp, quyền uy một cõi trong tỉnh, số còn lạì không chịu đi học cho tới ngày sập tiệm mang cấp thượng sĩ, Thầy Ngọc không qua ngành quân cảnh mà phục vụ trong ngành tư pháp Cảnh Sát Quốc Gia, tù đày ra Vĩnh Phú, tưởng đâu thầy đã chết vì ...nước trong một tai nạn té giếng ở trại nầy, hiện thầy định cư tại bang V.A...
Tôi ngồi bàn nhứt, góc bìa sát tường là trò Trần Công Quang ( hải quân trung úy ) con trai của thương gia Trần Công Đán, bên cạnh tôi là trò Nguyễn văn Ba ( hỗn danh Ba Nựng, nhập ngũ khóa 4/69 , mang cấp Đại úy hải quân, hỗn danh trong tù là Ba bọ chét) ) trò quá nhỏ con, nên khi nghe giảng bài thì trò ngồi, khi chép bài thì trò đứng, đầu bàn là trò Nguyễn Công Hoan ( trò có tật chân nên có hỗn danh là Hoan què ) trò nầy khi lớn tôi không gặp lại ...Thầy Ngọc có một vũ khí bằng gổ hình dáng như cái bánh trung thu, trò nào giỡn hay làm bài sai rất dễ dàng được thầy cho ăn cái bánh vào đầu, lớp nhứt C nằm ở cạnh mặt Bắc trường, ngó ra kỳ đài, trước lớp có một cái trống để trên cái giá trống, thầy Ngọc phụ trách điểm giờ, trống ra chơi và vô học đánh 3 tiếng, trống tan trường đánh nguyên hồi dài, thầy đánh trống rất điệu nghệ, trong lớp có trò Trần Công Chức có nhịp trống cũng suýt soát với thầy, thỉnh thoảng cây dùi cũng bị trẻ rắn mắt dấu mất thầy phải đánh bằng tay ...! Tôi còn nhớ, trong lớp có trò Âu, trò học kém nhưng ngâm thơ rất khá, buổi trưa trời nóng, học trò thường ngủ gục, thầy thường gọi trò Âu đứng dậy ngâm thơ, bài thơ nỗi tiếng của Vũ Đình Liên ...Ông Đồ Già ( có in trong quyển Việt ngữ độc bản ) Trò Nguyễn văn Tấn hát tân nhạc trò là học sinh học lại nên học rất khá, trò ngâm thơ và ca được 6 câu vọng cổ ... Trò thường ngâm đoạn thơ Anh Hùng Nguyễn Trung Trực một vở kịch thầy đang cho lớp tập mà chưa xong ....Em là cô gái Tà Niên - Đường xa gánh chiếu ra Kiên Giang thành - Chiếu em là chiếu chung tình - để người áo vải anh hùng bước lên ...đặc sắc nhứt về 6 câu vọng cổ là trò Vàng ( nhà gần chùa Thiêng Liêng ), Ngoài ra còn có trò Thời, biểu diễn bài tứ trụ và bài Mai hoa quyền ( trò nầy lớn lên thành danh trong nghể võ, võ sư Hồng Long nỗi tiếng trước 75 và cũng là phó ty thanh niên Gò Công sau khi tốt nghiệp trường huấn luyện viên thanh niên trung cấp, sau 75 mở trường võ lấy tên là Triệu Tử Long, cạnh nhà thầy giáo Liểu và đối diện với nhà Lục sự Châu văn Phú ..) Cuối năm Trường Nam thường có văn nghệ tổ chức phát thưởng hay văn nghệ trình diễn ngoài trời vào dịp bãi trường tết, lớp thầy Ngọc năm nào cũng góp mặt một vở kịch xuất sắc, lần hát tại hội trường của trường thầy cho diễn vở " Bình Định Vương Lê Lợi " với trò Trương Văn Phò( Phi đoàn chiến tranh điện tử) xuất sắc trong vai Lê Lợi, lần hát tại bến xe đò Gò Công lớp nhứt C góp mặt với vở kịch " Ông Thầy Láo " do trò Vàng thủ vai pháp sư rất được dân chúng hoan nghênh, có trò Láng ngồi bàn chót rất lớn tuổi, trò Láng dù học lớp nhứt nhưng cũng dự thi đua xe đạp do Ty thanh niên Gò Công tổ chức, đa số bạn học chung lớp nhứt tôi đều nhớ tên hết nhưng không tiện kể ra vì quá dài, có một người bạn chung lớp nhất ngồi bàn áp chót là trò Nguyễn văn Bảy ( có hỗn danh là Bảy mát, Bảy thần kinh ... ) thân với tôi từ thuở đi học cho tới ... bây giờ ( trước 75 trò là SVSQ không quân khóa 7/68 nhưng ra trường về SĐ7BB, giờ chót làm đại đội trưởng biệt lập đóng tại cầu Tân Cảng )
Trong năm học nầy có thầy Phạm Văn Răng gốc người Bình Ân dạy thể Dục và Thầy Minh dạy nhạc, vẽ thầy Giáo ..
Năm học nầy phải qua một kỳ thi tiểu học, tôi còn nhớ thủ khoa toàn trường là trò Đổ văn Vân, học trò thầy Sắc ( bên trường nữ thủ khoa là trò Nguyễn Thị Hiếu, sau nầy là vợ của giáo sư Nguyễn văn Non, Hiếu đã qua đời ở tuổi tri thiên mệnh tại Gò Công ), riêng trong lớp nhứt C tôi được xếp thứ 2 sau trò Nguyễn văn Tám ( hỗn danh là Tám Thơ, tai có đeo khoen, ở Gò Công lúc đó có chú Tám Thơ là anh của chú Chín Cò mở ra tiệm hớt tóc ngay Kios đầu tiên bên hông chợ có căng băng vải quảng cáo, trong tiệm trang hoàng rất đẹp có dàn đờn cổ nhạc, có cờ tướng nên rất hấp dẫn khách ...)
Tôi còn nhớ và nhớ rất rõ như chuyện xảy ra ngày hôm qua, thầy Ngọc gọi tôi lên bàn thầy để nói về chuyện phát thưởng cuối năm, thầy cho tôi biết, dù tôi là hạng nhì, nhưng môn toán tôi kém hơn trò Nguyễn văn Để xếp thứ ba nên phần thưởng hạng nhì dành cho trò Để nên phần tôi khỏi lãnh gì hết ( mỗi lớp chỉ có hai phần thưởng ) Quân sư phụ, khi thầy đã quyết định thì làm sao dám cải ... Việc nầy ám ảnh tôi suốt đời đi học, tôi đâm ra ghét học môn toán ...Sau nầy lớn lên tôi mới hiểu rõ lý do ....
Đây cũng là niên học quyết định của đời học sinh, vì nếu đậu được vào đệ thất thì con đường đi được thênh thang suốt 7 năm dài, rớt kỳ thi đệ thất phải thi tuyển vào lớp tiếp liên ... học trường tư là một gánh năng cho gia đình ...mà kết quả học cũng khó bằng trường công .
Niên khóa 59-60 Trường Trung Học Gò Công mở kỳ thi tuyển vào đệ thất lấy đậu 100nam và 50 nữ, có tất cả 1.500 thí sinh toàn tỉnh tham dự . Thủ khoa là trò Trương văn Xệ ( học trò lớp tiếp liên Thầy Nhàn ) ngày loan báo kết quả đọc tại trường Nam tiểu Học, khi thầy xướng tên người Thủ khoa thì Xệ được đở đứng lên thềm cửa sổ để mọi người nhìn rõ mặt, có nhiều tiếng xì xầm trong hàng ngũ phụ huynh :
-Ý là Xệ mà còn thủ khoa ...!Ông thầy đọc tới hạng 100 mà vẫn chưa có tên tôi, dù tên tôi cũng rất dễ đọc .
-Sau đây là 5 em đậu vớt ...101 ..., 102..., 103 Trần văn Bán , 103 đồng hạng Võ Hiếu Để , 103 đồng hạng là tên cúng cơm của tôi, thế là tôi đứng chót bảng, vẫn còn hơn cả ngàn tên không có tên, ba trò hạng 103 đều là học trò lớp nhứt C cuả thầy Ngọc, năm đó lớp nhứt C đậu tổng cộng 5 trò ( Trần văn Tâm và một trò nữa tôi quên tên ) phá kỷ lục của trường Nam, bởi vì học sinh lớp nhứt phải học nhiều môn như thủ công, nhạc, vẽ, thể dục, pháp văn, đức dục, hoạt động thanh niên đều là những môn không có trong chương trình thi mà phải đụng với hai lớp tiếp liên thầy Nhàn, một lớp tiếp liên bán công của thầy Tạo, lò luyện thi đệ thất của Thầy Xuyên ( Hòa Nghị ) thầy Chương ( Tăng Hòa ) thầy Đủ ( Tân Phước ) ...chưa kể học sinh đệ thất đệ lục trường tư trở lại thi ...và một số ghế dành cho các quý tử con quý vị chức sắc tỉnh nhà được sự gửi gấm ( thử tìm xem có con ộng trưởng ty chi sở nào học trường tư không ?)
Đặc biệt hai trò đậu thủ khoa bằng tiểu học đều không có tên trong danh sách, cũng như trò Tám và trò Để hai trò lãnh phần thưởng của lớp tôi .Bên nữ trò Trần Thị Phát, ái nữ của thầy giáo Đẩu đậu thủ khoa ...
Trước năm 1957 , trường tiểu học Gò Công là trường tỉnh lỵ, thuộc ty tiểu học Gò Công và mỗi năm mỗi bành trướng thêm.Nhưng từ năm 1957 tỉnh Gò Công được sáp nhập với tỉnh Mỹ Tho nên trở thành trường Quận, thuộc ty tiểu học Định Tường, càng ngày trường càng thu hẹp vì lần lượt các trường sơ cấp lân cận được mở rộng thành trường tiểu học .
Ngôi chánh là một nhà lầu hình chữ thập, từng dưới có một phòng việc hiệu trưởng và 3 phòng học, từng lầu có 4 phòng học, dãy trệt gồm có 10 phòng học ; tất cả nằm trên một miếng đất hình chữ nhật dài 76mét rộng 60mét có rào tường bằng gạch chừa hai cửa vào cửa phía Nam ngó ra đường Trường Công Định , cửa phía Tây thông ra đường Gia Long đối diện với cổng trường nữ tiểu học Gò Công .
Sân trường rộng đủ chỗ cho học sinh chơi, có trồng cây che mát, một vài gốc phượng vỹ lâu đời trổ hoa rực rỡ vào mùa chia tay ...với vài cây lim mới trồng , sân chơi không lầy lội nhờ có 2 sân quần vợt, điều kiện vệ sinh rất thích hợp, phòng học rộng rãi thoáng mát.Trường có hồ chứa nước mưa cho học sinh uống và một nhà xí tự hoại 12 căn .
Những cây phượng năm xưa bây giờ còn không nhỉ ? một cây cổ thụ tàn che mát phòng lớp thầy Sấm, một cây cạnh lớp thầy Bích ... Những cây Lim lúc tôi học chưa cao khỏi đầu người lớn nay nếu còn thì cả lớp năm xưa trèo lên cũng còn dư chỗ, Tôi nhớ những chiếc xe đạp nhỏ xíu xếp gọn gàng trong nhà để xe bắt đầu từ cổng đối diện trường nữ kéo dài đến Học Xưởng ( tiền thân của trường Kỷ Thuật, lúc tôi còn học, trường Học Xưởng có 3 phòng nằm ké trong khuôn viên trường Nam, Một phòng học văn hoá trong phòng tầng trệt ngó ra kỳ đài, 2 phòng nằm cạnh phòng thư viện gồm một lớp thực tập mộc và một lớp nguội, Lớp dạy văn hóa do Thầy Nhản ( chồng Cô Sa Bi) phụ trách, lớp Mộc do Thầy Giáo Hiện phụ trách lớp, lớp nguội tôi không nhớ, Hiệu Trưởng là Thầy Trần Văn Báu, chồng của Cô Lê Thị Điệu hiệu trưởng trường nữ công )
Những chiếc xe đạp tuy nhỏ nhưng đều là những con thần mã mang chú học trò từ Tân Bình Điền, Vàm Láng, Tân Thành ... đều xa trên 10 cây số ...
Thời tôi học, trường giữ được một kỷ luật tuyệt đối cũng nhờ vào sự tận tâm và đạo đức của quý vị thầy cô, Ông Hiệu Trưởng Võ Văn Giáp, thầy giám học Nhàn, tự hậu tôi nghĩ khó tìm được người thay thế ...
Thời đó tuyệt nhiên không bao giờ thấy một vị thầy nào la cà ở quán cà phê chứ đừng nói quán nhậu ... như những thời mạt vận sau nầy ...!!
Tôi viết về ngôi trường tiểu học mà tôi rất vinh dự được mài đủng quần 6 năm tại đây, trường có một chiều dài thời gian tương đối lớn, nên một cá nhân không thể nào dùng ký ức mà hồi tưởng lại được tất cả mọi sự việc xãy ra tại trường, dù bộ nhớ của tôi thuộc hạng khá tốt, những gì tôi thấy, những gì tôi nghe,những sự việc đó cho tới bây giờ tôi cũng còn nhớ, người viết rất mong được đọc các bài kỷ niệm về trường của các bậc huynh trưởng cũng như của các niên đệ ...để một phút nào rỗi rảnh, đọc lại hồi ức về trường, để mà bồi hồi nhớ lại một thời tuổi thơ, nhất là công ơn của thầy cô ...đã ân cần dạy dỗ ta thuở còn thơ ấu ...
...Cái gì qua rồi mới thấy tiếc !!

Thủy lan Vy
Viết tại Kỳ Đà Động , Mạnh Thu 2002










-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 01/Sep/2011 lúc 9:13pm
Anh Thy Lan Thảo kính !
 
Cám ơn anh đã Post cho bài viết rất hay về Cầu Huyện
 
Cao Thệ


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 02/Sep/2011 lúc 8:43pm

Bên kia đường Tống Thứ, đầu ngã tư đi vào Đất Thánh trước đây là nhà máy xay lúa ? dường như nhà máy xay lúa dời xuống Ngã Tư Bình Ân ? dãy nhà máy xay lúa đóng cửa bỏ hoang sau này ông Mười Miền ở Bình Xuân quen với nhà tôi lúc còn ở Bình Phú Đông về đây bán vật liệu xây dựng, tụi tôi thường lấy ngói vụn thi nhau chẻm xuồng sông , nếu miềng ngói nhảy trên mặt nước nhiều lần người đó sẻ thằng, Hai bác Mười đều ghét bọn tôi vì nghi chúng tôi lầy gạch ngói thảy xuống sông, nhưng mà cấm không cho chúng tôi đến thì không được vì cái cầu tiêu công cộng nằm chình ình sát bờ sông , ngày hai lần chúng tôi đi cầu Bác Mười đều cho mấy anh làm công rình rập. Tôi khoái đi cầu ở đây để xem bầy cá chốt dành ăn phía dưới, đưa những sọi râu đen xì vểnh lên thục xuống đuôi quảy qua quẩy lại, nước văng tung toé kêu lào xào.

Khu bán vật liệu của Thầy Bích nằm cuối nhà máy xay lúa giáp ranh khu đất nhà Ông Cai Tổng Thới, Nhà Ông Cai Tổng cất theo kiểu Pháp thật là đẹp nằm giũa khu đất rộng mênh mong, không hiểu vì sao các nhà xưa ở Gò Công đều xây Hòn Non Bộ trước cửa, Thuật Phong Thuỷ cho là xấu vì núi là Sơn, người ta cất nhà tựa lưng vào núi chứ không ai cất nhà quây mặt vào núi bao giờ, con đường gai chông trước cửa lúc nào cũng chờ đón bên ngoài.

Trong Kinh Dịch quẻ Cấn vi Sơn là Chỉ dả, nghĩa của nó là núi, núi đứng yên một chổ, “ Cấn kỳ bối “ Bối là cái lưng  thành thử nhà có hòn non bộ trước cửa cái thường dừng lại, bị cuộc đời quây lưng. Lưng là bộ phận vô tích sự, chỉ để nằm !

Nhà của cái dường như quây về hướng Đông Bắc, được cách “ Sơn địa điền sản đa tấn ích ” nhưng vì Tham Lang Mộc Tinh bị khắc vời Thổ giống như Vua bị Loạn thần bức bách khống chế nên mất tốt, nhà nầy làm giàu do vườn ruộng đất đai ở trên 15 năm thì sanh chuyện, sách nói vậy !

Ông Quản Phát nhận căn nhà này khoá cửa lại, chịu ở nhà nhỏ thấp tối tăm hiện tại, các con Ông từ chị Phấn cho đến Oanh cũng thế ! không ai chịu ở, nghỉ cũng lạ.

Trước sân nhà khoảng đất trống từ cuối nhà máy cho đến cống, Thầy Bích chất gạch ngói, đá 4x6, đá hộc chật cứng, buôn bán ghe chở gạch lui tới ì xèo.

Bên hông nhà giáp ranh với Bác Sĩ Đăng, Ông Quản Phát cho Bác Năm Bi làm trên Bưu Điện ở  trong chừng dùm ngôi nhà, vườn tược phía sau.

Anh Cúc chạy xe ngựa, khi Bác Năm trai qua đời anh lên Sài Gòn ở với Bác Tư trong Bình Thới gần Đầm Sen nuôi ngựa, nuôi cá cảnh,

Bác Năm Bi có người con trai lớn là Hai Long đi tập kết, vợ làm phụ hồ chờ đợi được mấy năm  có chồng khác, đứa con trai tên Phi giao ông bà nội nuôi, sau 30- 4 Hai Long về Sài Gòn làm việc trong toà soạn Báo Sài Gòn Giải Phóng được cấp một vila rất to trên đường Kỳ Đồng, dẫn Phi lên Sài Gòn làm việc chung

Bác Năm gái ở với cô Năm Thu giáo viên .

 

Cao Thệ

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Sep/2011 lúc 8:33pm

Nhớ

 

Le que mấy đứa bạn ngày xưa

Cầu Huyện quê nghèo lắm nắng mưa

Theo dòng cơm áo nay lưu lạc

Vẫn nhớ trong lòng thuở muối dưa

 

Hàng Bần năm ấy đâu còn nữa

Cống nước giờ đây lấp mất rồi

Nhà phố dọc ngang trên khóm mả

Quê hương chợt nhớ , dạ bồi hồi

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Sep/2011 lúc 8:35pm

Xóm Cầu Huyện cuối đường Tổng Đốc Phương  kể như  đến nhà Ông Cai Tổng Thới là hết. Ranh đất nhà ông là con rạch ngăn bên kia là khu vục Đất Thánh một miếng đất trống, nền bằng phẳng rất tốt, hình như ai đó dở nhà bỏ đi ?

 

Cậu Tư  xe ngựa nhà ở mé sông Cầu Huyện kề bên cái ao nhà Ông Chín Đán ( nói ở đoạn trước ) không biết gì lý do gì bán đất dời vô đây cất nhà. Rất gần bên những mã mồ

Mợ Tư hình như  luộc khoai lang, khoai mì bán trên chợ, hằng ngày Cậu Tư chạy xe ngựa lên bến xe luôn tiện chở Mợ Tư hai giống khoai treo lũng lẳng hai bên, nhiều hôm đi học sớm Cậu Tư còn cho quá giang đến trường, tôi chỉ nhớ con trai lớn tên Tấn ông này tuy nhỏ tuổi cũng thấy có hôm lái xe ngựa chở má đi, đem xe ra bến sau đó Cậu Tư đi bộ lên sau, kế Tấn là Thằng Lợi nhỏ tuổi hơn tôi nhưng tên này lanh lợi lắm, thường chận đường bắt nạt mấy thằng ba giá xóm tôi, kế đến là cô gì đó rất giỏi việc nhà v.v…

 

Anh Ba Thọ một mắt chạy xe ngựa nhà kế bên Cậu Tư và Chị Tư Huỳnh thấy miếng đất Cậu Tư chiếm cất nhà còn trống nên cũng bán nhà theo Cậu Tư vào cất phía trong cho có bạn. Chắc có lẽ xe ngựa thải ra chất thải phiền hà bà con chòm xóm nên vào đây vừa có cỏ cho ngựa ăn vừa có nơi bỏ chất thải. Xe hơi thì chỉ cần ra cây xăng, xe ngựa phải vác bao cùng lưỡi liềm đi kiếm cỏ cùng trời cuối đất, thật là nhọc nhắn, hai thằng con trai chú giữ một con ngựa thật là uổng !

Nhà anh Ba Thọ bán lại cho Chú Hai Thợ Mộc con trai lớn của Bà Tư Ốm bên xóm Cầu Huyện dưới.

Chú Hai Thợ Mộc có mấy người con, con trưởng tên Hai Lớn để phân biệt với thằng Hai Nhỏ con Chú Sáu Nhẩn, thằng Ba Gà, cô Tư ốm, đặt biệt không biết vì sao đứa thứ năm được đặt tục danh là Năm C… hết chuyện đặt tên con !

 

Xóm bên sông tôi chỉ biết từng ấy, nhờ các anh bổ xung thêm.

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 10/Sep/2011 lúc 9:58pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Thủy Lan Vy

 
 
Cách một rảnh nước bụi tre gai là nhà ông Ba Nghi thầy thuốc bắc ở Tân Thành, nhà ngói năm gian, trong  phong thuỷ đây là căn nhà xấu, không phát tích lâu dài  khu đất nhà ông cuối hẻm, rất rộng nằm ngay ngả ba sông , nhánh sông này chảy qua phía sau nhà chú Năm Mạnh,  Ông Cai Giái, ra đến đường 30-4 hiện nay  qua cống chảy vào ruộng phia bên ao Ông Hộ dùng để lấy và xả nước, những đám ruộng này vào mùa cấy khoảng 4 – 5 giờ  sáng nghe vang tiếng “ tù và ”  tẹo… tí … tẹo… tập trung thợ cấy, còn nghe những điệu hò đối đáp  nhau vang vang ngoài ruộng
Ông Ba Nghi rất khá giả tự bỏ tiền mua gạch ong lót từ đầu hẻm đến cuối hẻm, nghe nói mua đâu tuốt trên Biên Hoà vận chuyển về
Gia đình Ông Ba không được biết nhiều, chỉ biết trong gia đình đó có Nhứt Lớn, chị Giàu, Anh Ba Heo, vì nhà nuôi heo, Chị Tư sống trên Sài Gòn có đứa con trai tên Trí, nghe kể lại cô Tài Sợi ( Ca Sĩ Phương Dung ? ) ở Tân Thành bà con sao đó  ghé nhà và đánh banh bông
 
Ông có người con nuôi Đội Tập đi lính giải ngủ, trong xóm thường gọi Chú Tư Tập, Chú Tư Tập to con mập mạp, hình như làm bên Công Chánh Thiếm Tư Tập bán trên chợ Gò, Sau ngày cờ đỏ vào gia đình đi kinh tế mới trên Long Khánh
 
Trong vuông nhà trồng nhiều cây Me , Mận, Dừa cây nào cũng say trái, tuy nhiên Mậm ảnh hưởng bởi nước mặn nên trái lớn hơn trái táo một chút
 
Đặt biệt có hai bụi Chà Là trái từng chùm giống như buồng cao nho nhỏ như trái trứng cá ăn chát chát, quanh bẹ lá gai màu đen dài sọc loại này có rất nhiều ở bên rừng Sát bên Bà Rịa, trái theo sông nước trôi về đây, hay là theo chân người từ Mô Soài mà đến ?
Cao Thệ
 
 
…../
 Ông Ba Nghi cao dong dỏng, có đầu tóc nhỏ xíu, ra đường tay có cặp cây dù cán quéo, Chị Giàu khoảng năm 1955 học trò lớp tiếp liên  của cô Năm Lài, Em là chị Có , sau nầy lớn lên tôi ít gặp ở Gò Công… Anh Nhứt hình như có chiếc ghe, cập bến đò Gò Công gần cầu tiêu chợ, chuyên bán đồ gốm, nồi niêu, chậu kiểng bằng sành sứ… Thuở nhỏ tôi thường ra ghe nầy mua chậu nhỏ về trồng xương rồng, tôi thích kiểng vật từ thời còn bé.
 
 Thủy Lan Vy
(http://phorum.vietbao.com/yaf_postsm503999_Que-Huong-Go-Cong.aspx#post503999)
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Sep/2011 lúc 7:55pm
 
 
 
 
CON  KINH
TUỔI  NHỎ
 Thylanthảo
 
 
   (Viết nhớ xóm Cầu Huyện)
 
Con kinh, sóng nước êm đềm quá
Ta đã quen và rất thân thương
Tuổi trẻ một thời nay xa lạ
Con kinh đã lấp- nắng bụi đường…
Xóm Cầu Huyện, dòng kinh yên phẳng
Ta lớn dần theo tuổi chiến tranh
Bầy vịt lội- sóng đùa giỡn nắng
Tình thương ba mẹ cảnh yên lành
Bé Huỳnh Mai, Hồng Lan hàng xóm
Bé Nhung da trắng mắt đen huyền
Thằng Phú, Quý kém ta vài tuổi
Vẫn chơi chung- chăm chỉ học siêng…
Rồi nhiều đêm giật mình tỉnh giấc
Tiếng mõ vang báo động liên hồi
Giặc về rải truyền đơn, ám sát
Gây cảnh thù, máu đổ thịt rơi…!
Ta đi học mắt thường trông thấy
Những quan tài phủ vội quốc kỳ
Góa phụ khăn tang còn quá trẻ
Con thơ măng sữa khóc biệt ly…
Con kinh nước lững lờ yên phẳng
Dân bỏ làng tỵ nạn lấn kinh
Nhà mới dựng áng che dòng nước
Một thuở yên bình nổi điêu linh…!
Ta rời trường, lửa bom tràn chợ
Bé Mai, Lan bỏ tỉnh lên thành
Ta vào lính mà lòng luôn nhớ
Kỷ niệm êm đềm thuở tuổi xanh…
Ta ra tù về lại nhà xưa
Nhìn cảnh cũ rêu phong bụi ám
Bởi ngập đời lắm bão giông mưa
Nước kinh xưa đen mờ ảm đạm!
Bé Huỳnh Mai theo chồng di tản
Bé Nhung, Lan tay ẵm tay bồng
Phú, Quý sau tù còn hoảng loạn
Ta một thời ướt mắt nhớ mong…
Đất người lắm đêm ta thức giấc
Thấy rõ hình dòng nước kinh xưa
  •  Thylanthảo


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 12/Sep/2011 lúc 8:09am

Thy Lan Thảo Kính.

Xin được họa vần bài thơ anh.

C.T

 

Lâu chẳng về thăm nay nhớ quá

Xóm nghèo Cầu Huyện ngát trời thương

Con kinh ròng lớn ngày hai lượt

Nước tụ đầu sông, đọng cuối đường !

 

Thả tuổi thơ bên đồng, lặng phẳng

Khói lam chiều quyến luyến mái tranh

Đàn cò trắng chập chờn nương rẩy

Trâu thong dong nhịp bước an lành

 

Đêm xuống, nắng tàn rơi cuối  xóm

Vầng trăng treo đầu tháng hựu huyền

Tiếng ê a vang vang khắp ngỏ

Muốn nên người lũ trẻ chăm, siêng

 

Đêm ngủ, không thể nào vổ giấc

Trường tan, tiếng trống dục liên hồi

Đường Mé Sông dẫn về Cầu Huyện

Bạn bè tranh nhặt Táo, Me rơi

 

Tuổi thơ qua, tìm hoài không thấy

Ôm tháng năm điệu nhớ diệu kỳ !

Quanh co mãi theo dòng cơm áo

Nước chảy dần ra biển …  biệt ly !

 

Người muốn yên. Đời không yên phẳng

Đường trãi qua ngẫm lại thất kinh

Hơn nữa giấc mơ, đầu tóc bạc

Bước chân còn, theo những phiêu linh !

 

Khu nghỉa địa, tang điền hoá chợ

Lối quê xưa chốc bổng đường thành

Nhà phố mới, người người cũng mới

Ngã tư đèn chớp tắt vàng xanh

 

Nắng bây giờ,  khác nắng ngày xưa

Khói bụi ra đường che kín mặt

Suốt cuộc đời dầu dãi Nắng mưa

Chợt nghĩ quê hương, đau ruột thắt !

 

Bè bạn mấy thằng nay lạc tản

Bé xinh ngoan, tay bế tay bồng

Sống hết lòng chưa, thời lửa loạn ??? !!!

Đến bây giờ thôi trách, thôi mong

 

Sông Cầu Huyện chảy không ra biển

Quẩn quanh hoài cảnh cũ, người xưa !

Cao Thệ


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 15/Sep/2011 lúc 1:17am

Tôi thích nghiên cứu những môn học Phương Đông, từ những năm còn rất nhỏ tuổi, đến nay có chút ít kinh nghiệm.

Môn Tử vi, ngày tháng sinh có một trở ngại, giờ giấc thay đổi lên xuống trong giao du để biết về nhau hơi khó.

Nên 3 môn tôi thích nhất

-         Xem Tướng,  để hiểu người.

-         Phong Thuỷ, chọn môi trường tốt để làm việc, sống.

-         Kinh Dịch, để hiểu chính minh, hầu an tâm vui sống

 

Xin gởi tặng các bạn những bài viết tôi sưu tằm,  để làm hành trang vui trên đường đời.

 

Với một điều kiện, phải tuyệt đối tin theo là:

Chỉ để chiêm nghiệm, chứ không phải tin vào

 

Được như vậy, mời bạn viếng thăm khu vườn bí ẩn nhưng hết sức thơ mộng.

 

CHỌN BẠN.

 

Ở đời phải có giao du

Giao du phải biết, hiền ngu, dữ lành

Vậy thì Xem Tướng cho tinh

Khỏi bề lầm lộn, khỏi sinh oán thù

 

Người nào giọng nói như ru

Miệng mồm khô ráo, mặc dù người sang

Tướng này chính thị điêu, gian

Hể thân thì hại, sơ càng thêm hay

 

Những người má đỏ hây hây

Môi thâm mà cặp chân mày rậm ri

Hàm răng khít, nước da chì

Thân mình uốn éo dạ thì hiễm sâu

 

Mới vừa gặp gở lần đầu

Vuốt ve mơn trớn, dở câu ân tình

Ấy là không phải người lành

Trước sau thì cũng thực hành mưu mô

 

Vai thường nhún, miệng thường dô

Đứng ngồi lúc lắc, nói thưa ngập ngừng

Người này tâm tánh vô chừng

Hiện ra tướng ấy, xin đừng cầu thân

 

Những người mắt ngó trân trân

Huơ tay, gải trán, rung chân cười cười

Bề ngoài ra dáng thật lời

Bên trong xão trá, ắt vời vạ lây

 

Đàn bà những tướng sau đây

Khuyên đừng thân mật, có ngày phải nguy

Đêm nằm tiếng ngáy khì khì

Ban ngày ăn nói, tướng đi vội vàng

 

Trên trán có chỉ nằm ngang

Trên tay lật xấp có hàng gân xanh

Con ngươi nước mắt long lanh

Hai bên gò má có quầng đen thâm

 

Con mắt lộ, nước da ngâm

Mặt tròn mà lại dưới cằm mõng tanh

Cổ cao, ngước mặt nghênh ngênh

Đàn bà tướng ấy, bạc tình vô tâm

 

 

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Sep/2011 lúc 9:24pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

 
"Trên vuông đất của Bác Hai, khi còn sống Bác bán một phần cho Anh Năm , anh chồng của chị Tư Mầu, anh Năm làm tài xế xe hàng chị Năm bán rau cải trên chợ, gia đình này có cô con gái là Ca Sĩ Ngọc Hiếu làm ở Phòng chiến Tranh Chánh Trị. Cùng thời với Ca Sĩ Thiên Trang. Ngọc Hiếu lập gia đình với ông Trưởng Đoàn Xây Dựng Nông Thôn, sau ngày 30-4 đi cải tạo, định cư ở Mỹ"

Cao Thệ

 
 
 
…..
Ngọc Hiếu là cựu học sinh khóa 12 trường Trung Học Gò Công, trời phú cho giọng hát, nên từ thời trẻ đã xuất hiện trong những kỳ văn nghệ tổ chức tại Gò Công, hát cùng thời với Huyển Trinh, Tuyết Nga, Kiều Hoa… Kết hôn với Lượng, một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn thuộc tỉnh đoàn XDNT tỉnh Gò Công.
Ngày tàn cờ Anh Lượng bị lưu đày ra Vĩnh Phú .. cũng gở 6, 7 cuốn lịch gì đó… Nên được ra đi trong diện cựu tù nhân chính trị…
Đến Mỹ một thời gian, vợ chồng không thuận thảo phải chia tay, Ngọc Hiếu bước thêm bước nữa với một sĩ quan gốc người Kiến Hòa, làm việc tại quận Hòa Đồng Gò Công từ chuẩn úy lên Thiếu tá.
Hiện sinh sống tại Cali.

T.L.Vy


-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 17/Sep/2011 lúc 8:55pm

Thy Lan Thảo kính mến !

 

Cám ơn anh đã cho biết thêm chi tiết về Ngọc Hiếu

Rất mong được sự góp ý quý giá của anh

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Sep/2011 lúc 7:18pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

Đầu hẻm bên phải là nhà Bác Mười Tân còn gọi Bác Tám Trại Hàng, ngoài việc đóng bàn tủ, chuyên làm đồ mộc tinh xảo, những bài vị sơn son thiếp vàng để thờ trong đền miếu, chùa chiền, ở Tịnh Xá Ngọc Tân còn nhiều bài vị của Bác Tám làm ra.
Để có được những bài vị tuyệt vời như thế, Bác Tám Trai chọn gổ, cưa bào, đục mộng lấp ráp hoàn chỉnh, Bác Tám Gái cọp bi hình ảnh ( Csan ) vào gổ. Như người thợ bánh bắt bông bánh kem , thay vì kem nhưng đây là Sơn Dầu tẩm bột, tư tưởng Bác Tám gái tập trung vào ánh mắt, bàn tay Bác dịu dàng lướt theo từng nét vẽ trên gổ, thật là điệu nghệ và tinh xảo.
 
Không hiểu vì sau anh lớn nhất bắt đầu bằng thứ sáu, anh Sáu Phẩm, chị Bảy Nguyện , Chị Tám, Chị Chín Hằng , Mười Bạch và Út Đông,
Nhà này rất đạo đức, tu hành theo Hệ Phái Khầt Sĩ , Chị Tám là Sư Cô Ngôn, Phụ tá cho Sư Bà Khất Sĩ Biểu Tình Chuyên Nghiệp Huỳnh liên, sau này có thiện nam là đại uý việt cộng làm cố vấn Cô Ngôn được điều qua trong coi Cô Nhi Viện bên đường Phạm Thế Hiển chuyên nuôi trẻ em lai, Sau ngày tan hàng Cô được đi Mỹ, cùng với các em cô nhi.
Chị Chín Hằng, đẹp gái ở khu Cầu Huyện, đào hoa, giỏi văn thơ là một thành viên của Thi Văn Đoàn Hồn Thu Thảo với Bút Hiệu là Liễu Thanh Tuyền, làm nghề giáo theo chồng về Long An sanh con và qua đời rất sớm
Chị Bảy Nguyện dạy học lập gia đình và cất nhà cũng trong xóm.
Anh Sáu Phẩm và Út Đông xuất gia theo hệ phái Khất Sỉ, sau ngày tan hàng cả hai trở về đời thường, Đông về lại nhà lập gia đình.
Tiếc quá không ai giữ được nghề của cha mẹ
 
Cao Thệ





..........

Nhắc tới "Sư Bà Khất Sĩ Biểu Tình Chuyên Nghiệp" Huỳnh Liên, tôi nhớ tới một thời tù tội .. Khoàng năm 1981, Huỳnh Liên đi "xe con"( Chữ của VC) từ Hà Nội vào thăm trại tù Hà Tây… Việt Cộng là những diễn viên chuyên nghiệp, nên ngày hôm đó, anh em tù khỏi phải đi lao động mà được dẫn đi ém quân cách trại khá xa, mỗi phòng tù để lại vài anh khỏe mạnh, áo quần sạch sẽ, cũng như một vài tù ngồi đọc sách trên hội trường… Dĩ nhiên trên mỗi chỗ nằm rải rác có để sửa họp …., trực sinh quét dọn sạch sẽ, dầu xã được tưới vào cầu tiêu thơm xã…Khách nào đến thăm trại cũng đều diễn kịch như vậy…Khoảng 2 giờ trưa.. Xe con ra về… Mụ tú nầy ngồi băng sau, nhìn thấy anh em đứng từ xa đang chỉ chỏ về hướng xe mà chửi rủa, mụ lại tưởng anh em vẫy tay chào, nên toét miệng cười vẫy tay chào lại … Mụ nầy có 2 đứa con , và hình như mang quân hàm( Chữ VC) Đại úy Công An… Lúc thả về, nhà tôi ở ngã tư Binh Hòa, ngày rằm , mùng một tôi vẫn đi lễ Phật ở tịnh xá Ngọc Phương nhưng không bao giờ tôi nhìn mặt mụ nầy cũng như đốt nhang bàn thờ VC Minh Đăng Quang, lòng tôi chỉ biết lễ Phật .
 Mấy chị em con Bác Sáu Tân đều hiền hậu, Chị Hằng trội hơn về nhan sắc, niên học 1963 chị từ trường bán công vào trường công học lớp đệ tam, chung lớp với tôi, Phòng học kê bàn mặt bằng đánh vẹc ni ( cả trường chỉ có 1 phòng duy nhất xài bàn ghế nầy) và ghế rời, có 3 dãy, chị ngồi bàn áp chót dãy giữa, cạnh chị Huỳnh Kim(?) Hoa, cũng mới từ Bán Công sang…Về tuổi tác có lẽ chị lớn hơn tuổi trung bình lớp ít nhất cũng 2 tuổi .. Chị mặc áo dài trắng có dây thắc eo, trên đầu có băng đô xanh tím , trông chị chắc da chắc thịt, mặt mày sáng sửa… nét con gái lộ ra lồ lộ…
Lúc chị vào trường thì nhóm thơ 20 Gò Công bắt đầu có bài vở đăng đều trên khắp các báo Sài Gòn, đa số thành viên là học sinh Trung học Gò Công, tôi không thấy chị tham gia. cũng như không thấy chị viết bài cho báo xuân trường nên không biết chị có làm thơ
            Nhờ Cao Thệ tôi mới biết chị yểu mệnh… Đời vẫn là cõi vô thường
 
Thủy Lan Vy

(http://phorum.vietbao.com/yaf_postsm504765_Que-Huong-Go-Cong.aspx#post504765)





-------------
mk


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 18/Sep/2011 lúc 7:31pm
.
 
Nhờ mk đã chuyển sang diễn đàn nầy mấy bài của TLT rất hay. Nếu không, đọc giả của diễn đàn nầy mất đi cơ hội để được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời của một thành viên đã từng cộng tác lâu năm !!!
Cám ơn, cám ơn.
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 19/Sep/2011 lúc 5:18am

Kính Chào Chú Lộ Công Mười Lăm, Chị Mỹ Kiều anh Thy Lan Thảo !

Khách Quý vào nhà chậm trể tiếp rước, thật là bất kính. Rất mong được thứ lỗi.

Chân thành cám ơn những đóng góp quý giá, kịp thời của các bậc huynh trưởng đã giúp cho bài viết hồi sinh .

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 21/Sep/2011 lúc 8:48pm

Lưỡng Quyền như nữa quả đào

Đàn ông đáng bậc anh hào thế gian

Lưỡng Quyền sớ thịt bằng ngang

Lại thêm đen sẫm là hàng thất phu

 

Người nào càm lẹm thì ngu

Càm rộng thì được phong lưu suốt đời

Môi cân thì được thảnh thơi

Mõng môi là kẻ lắm lời thị phi

 

Môi dầy, môi nhọn, môi chì

Bao nhiêu môi ấy, tánh thì điêu ngoa

Vành tai mõng lại nẩy ra

Những người tướng ấy thật là gian nan

 

Tướng người tai trắng là quan

Tai người nhỏ xíu khó toan làm giàu

Tai dầy có trái sống lâu

Tai dầy mà rỗng của thâu không bền

 

Một điều ai nấy chớ quên

Tam Đình cân xứng mới nên con người

Bắt đầu xem ở hai vai

Hai vai ngang rộng tiền tài không hao

 

Vai ngang thì cổ phải cao

Vai ngang cổ ngắn, làm sao không nghèo?

Vai nghiêng, đi bước lưng eo

Cả đời người ấy chạy theo cửa quyền

 

Vai rùa, người ấy rất hiền

Vai rùa lưng thẳng của tiền thiếu chi

Vai xuôi, ngực nẩy, tướng kỳ

Những người tướng ấy có khi gặp thời



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 21/Sep/2011 lúc 9:49pm
 
 
Cám ơn anh Cao Thệ cho đọc mấy bài thơ hay quá.
Xin lỗi anh Cao Thệ, tôi không biết làm thơ ( có một lần tôi bắt chước thiên hạ làm mấy câu thơ thì có người hỏi tôi đã chép của ai ?!!!! nên từ đó tôi không dám làm nữa ). Tôi xin viết văn xuôi vậy, hi hi...
Tuần rồi nói chuyện với mấy người bạn Gò Công có nhắc đến cái đồn lính ở cầu Huyện cũng như anh Cao Thệ cũng có vài lần viết trong các bài của chủ đề nầy. Tôi nhớ lại dường như hồi thời Tây đến Cầu Huyện lấy nhà của thầy Tư Nhơn làm đồn lính để kiểm soát sự giao thông từ miệt Tân Tây lên chợ và tàu bè trên kinh Salicetti muốn đi qua cầu Huyện. Cứ mỗi lần thầy Tư Nhơn đi ngang nhà, chúng tôi hay gọi là thầy Tư "Người" (Nhơn).
Thời đó Tây có lập ra nhiều nhóm lính như: Cao Đài, Thiên chúa...
Có thầy Hai Maurice, nhóm Thiên chúa thường lái chiếc xe Jeep đến đồn Cầu Huyện để kiểm soát. Dường như lúc đó thầy Maurice còn đi "góp tiền chỗ" nữa. Về sau hình như ông lên chức "quan ba" rồi sau đó không biết ông ta có đi Tây hay chết tại Việt Nam.
Có một thời Bác Chin, ba thiếu tá Nguyễn Duy Sự (cựu quận trưởng quận Hòa Tân), thường đến đóng tại đồn nầy nên tôi chắc là anh Sự cũng biết rõ đồn nầy lắm đó.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 22/Sep/2011 lúc 7:36am

Chú Lộ Công Mười Lăm kính !

 

Cháu chân thành cám ơn lời chú nhận xét về mấy bài cháu viết.

Riêng bạn cháu sau khi xem những bài viết, gởi Mail nói thế này. Thơ mầy thuộc trường phài “ Đồ Chiểu” . Văn thì cục mịch như người ta lượm từng cục đất chọi chim.

Nhưng cháu nghĩ cây lớn thì phải trổ bông kết trái, vì vậy cháu cố nở hoa tặng đời, tuỳ theo giống cây nên hoa không có đẹp xấu.

Để trả lời cho các bạn cháu viết bài Ý Hương trong mục Có Không

 

“ Cho con trổ đoá hoa lòng

Nghìn phương áo trắng bềnh bồng, gió lay

Lời khuyên thơm ngát tình người

Xin trao gởi gió dâng đời ý hương “

 

Chuyện Bót Cầu Huyện cháu thuộc hàng hậu sinh, chỉ biết đất ấy của Cô Chín Xô vợ Thầy Tư Nhơn

Những điều Chú viết ra với cháu quý báu vô cùng.

Cám ơn Chú thật nhiều !

 

Cao Thệ

 



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Sep/2011 lúc 8:04pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

Nhà Bà Ba, Bà Ba lên đồng, hiền hậu, tướng cách sang trọng gần như không giao thiệp với ai, người đến nhờ Bà nói chuyện dùm hoặc cho mượn xác để hồn người chết nhập về nói chuyện với gia đình họ. Chỉ thấy Cô Sáu là con gái ở với Bà. Cô Sáu có chồng là thầy giáo, con gái là Chị Mai, Cô Hương, Cô Mỹ v.v…Chị Mai cũng vào hàng mỹ nhân lung lạc nhiều anh trong xóm, thương thầm nhớ trộm, nhưng họ bị em vợ anh Ba Cúc con Bác Tư Giái đưa về dinh làm các anh ngớ ngẩn. Gia đình có họ hàng với Nhạc Sĩ Lê Dinh bên Cầu Long Chiến thỉnh thoảng thấy có ghé thăm.

 Cao Thệ

 






-----
 Ngôi nhà nầy lúc nào cửa trước cũng khép kín, người nhà đi ra vô bằng cửa sau… Cô Sáu có chồng làm thầy giáo, đúng ra làm bé cho thầy giáo Năm, nhà bên ấp đạo. Thầy giáo Năm là người tài hoa, thầy biết sử dụng nhiều loại nhạc cụ, Thầy giáo tiểu học có xe hơi riêng đầu tiên ở Gò Công , hình như chiếc Trắc xông màu đen … Con dòng chính của thầy có một người xuất thân ngành Điện nhưng lại nổi danh trong lảnh vực Âm Nhạc đó là nhạc sĩ Lê Dinh, Khoảng năm 1956,57 Thầy Lê Dinh sau khi tốt nghiệp trường Vô Tuyền Điện ở Sài Gòn ( Tiền thân của Trường Điện Phú Thọ) thầy về Gò Công xin dạy nhạc tại trường Nam Nữ tiểu học Gò Công .. Sau đó Thầy kết duyên với Cô Tám Quyên, giáo viên thể dục trường nữ Gò Công, Sau đó thầy đổi lên Sài Gòn làm tại đài phát thanh Sài Gòn, số 3 đường Phan Đình Phùng, quận nhất Sài Gòn.Lúc dạy ở Gò Gông thầy chỉ viết một vài bản nhạc,  mà chính thầy và vị hôn thê vẫn thường trình diễn trong những lần tổ chức văn nghệ tại tỉnh nhà,( Trong chương trình phát thưởng cho học sinh trường Nam và nữ) đó là bản Làng Anh Làng Em , khi lên Sài Gòn, gặp môi trường thuận tiện hơn, với lại bằng tâm lòng say mê âm nhạc, thầy ghi tên học hàm thụ tại trường Âm Nhạc bên Pháp … cho nên ngoài năng khiếu, lại cần mẫn học hỏi… Bước tiến trong âm nhạc của Thầy rất nhanh chóng, Thầy Lê Dinh nổi nhất lúc kết hợp với ba nhạc sĩ khác là Minh Kỳ và Anh Bằng củng ký tên Lê Minh Bằng …. Một thời Sài Gòn rất nhiều người thuộc bài ca " Chuyện Tình Lan và Điệp "
 Em cô Mai có chồng là thầy giáo Núi ( Sư Phạm cấp bổ túc) cựu học sinh khóa 5 Trường Gò Công .
Thủy Lan Vy

http://phorum.vietbao.com/yaf_postsm505309_Que-Huong-Go-Cong.aspx#post505309





-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 24/Sep/2011 lúc 10:21pm

Chị Mỹ Kiều và anh Thy Lan Thảo kính !

 

Cám ơn Chị Mỹ Kiều gởi bài viết của anh Thy Lan Thảo bổ túc về nhà Cô Sáu  thật hay, hèn chi tôi thấy Nhạc Sỹ Lê Dinh giống Dượng Sáu như đúc

Em chị Mai là cô Hương giáo viên vợ của Thầy Núi

Một lần nữa xin cám ơn Anh  Chị

 

Cao Thệ



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 29/Sep/2011 lúc 3:06pm
.
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the

................

Nhà Ông Ba Khoa trở xuống toàn là mã lúp xúp dưới những bụi châm bầu , cây lứt, những trãng nước đứng từ ngoài đường nhìn vào cuối nghỉa trang là hàng rào đầy cây keo gai, chúng tôi thường vô đây cạy mủ về ngâm nước nóng để làm keo dán giấy Thủ Công, dính rất tốt...............

.......................................................................................................................................................

 
Đọc đoạn trên của anh Cao Thệ viết trong chủ đề "TUỔI THƠ NHỌC NHẰN" có nói về nhà ông Ba Khoa, tôi nhớ là có nghe nói lại là nhà cao cẳng nầy ngày xưa do ông Thôn Vàng (?) xây. Tuy nhiên bị "vấn đề" về tiền bạc sao đó nên phải bán lại cho ông người Pháp làm cho kho bạc (trésor) Gò Công. Ông nầy là chồng của Dì Ba Thức. Dì Ba Thức có nuôi người con trai tên Charlot. Anh nầy hay ăn chơi, thích đi săn bắn. Có nhiều khi đi săn ở luôn trong rừng nhiều tháng mới về nhà. Sau đó anh Charlot cưới chị Tư tôi tên là Lộ thị Jeanne. Anh chị bây giờ đều qua đời và có người cháu ngoại gái hiện giờ đang sống tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 29/Sep/2011 lúc 10:13pm

Chú Lộ Công Mười Lăm kính !

 

Cám ơn Chú đã cho cháu thông tin nhà Ông Ba Khoa ít ai biết

Chúc Chú sức khoẻ, an vui và hạnh phúc.

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Oct/2011 lúc 7:19pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the



Nhà Ông Bà Bảy Chân, hai ông bà hiền lành phúc hậu, giống như tên.
Ba má Chú Hai Nhất, chú Năm Mạnh trong xóm, Chú Sáu Xuân đi Cảnh Sát trên Mỹ Tho
Ông bà Bảy này rất là đặc biệt, già yếu Bà Bảy mất trước, ông buồn quá đi tới lui trong nhà sau cùng tắt thở chết chung một ngày với vợ.
Trước nhà có cho Chú Ba cất cái thum, gọi Chú Ba Hớt Tóc các vị tiên hiền tập trung đánh cờ tướng suốt ngày trước của tiệm có cây điệp vàng buổi chiều chim se sẽ tụ về kêu vang, đúng là Đất lành chim đậu
 
Cao Thệ





Bà Bảy bán xôi , thuở còn đi học, hôm nào nhà hết cơm nguội, mẹ cho tiền mua xôi của bà bảy, gói xôi 5 cắc ăn biết no. Bà rất hiền lành.. Thuở Tịnh Xá Ngọc Quang chưa cất, tịnh xá ni được thiết lập trong nhà Ông Bà nầy, tôi vẫn thường hớt tóc hàng tháng ở thum chú Ba Tân Lợi. Thum nầy lợp lá, vách lá, có cửa trước, và cửa sau , sườn cửa bằng tre, chầm lá.. Chú Ba dựng xe đạp phía sau trong sân nhà Ông Bảy.. Trưa có người con trai lớn của chú Ba là Châu Kim Anh mang giỏ cơm tới, trò nầy bạn học chung lớp chót với tôi.. Khi vào Trung Học tôi không còn gặp lại trò nầy nữa và mãi cho tới bây giờ vẫn chưa gặp lại lần nào kể từ khi rời lớp chót, lúc tôi học đệ nhất thì thấy trò Lâm đang học đệ ngủ chung trường, trò nầy là con chú Ba,trò có gương mặt giống Kim Anh nhưng nhỏ con hơn.
        Trở lại gia đình Ông Bảy, Khi bà qua đời , khoảng 1 giờ sau ông cũng đi theo, Đám tang nầy có nhiều đặc biệt, tôi không có chứng kiến nhưng nghe người lớn kể lại.. Đặc biệt thứ nhất là có 2 quan tài- Đặc biệt thứ hai là hai ông bà được sửa thế ngồi và liệm ngồi trong hai cái lu nước lớn ..
         Một đời hai Ông Bà hiền đức, tích nhơn đức để lại cho con cháu
        Khi vào trung học tôi hớt tóc ở chợ, và từ đó không còn gặp chú Ba Tân Lợi nữa, Vì là khách hàng con nít nên tôi thường bị người lớn chèn mất ưu tiên, phải đợi tới phiên lâu lắc… Tôi thường ra sau đứng nhìn quý ni sinh hoạt tụng niệm, cũng nhiều khi đứng tựa gốc cây me tây nghe bà lên đồng, tôi còn nhớ mỗi lần lên đồng bà xưng là Bảy..
        Thuở nhỏ tôi sợ mà lại tò mò, tuy nhiên chỉ đứng xa nghe chứ không dám tới gần quan sát…
 
Thủy Lan Vy





-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Oct/2011 lúc 1:53am

Anh Thy Lan Thảo quý mến !

 

Cám ơn anh đã cho thông tin thật quý báu.

Riêng Tịnh xá thì cất bên nhà Cô Chín Xô, kề bên

Nhà Bà Bảy mặt tiền rất nhỏ, trước cửa để hòn non bộ và mấy cây kiểng, kế bên nhà Cô Sáu cho Chú Ba cất thum hớt tóc.

 

Cao Thệ

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 08/Oct/2011 lúc 11:45pm

Khóc Bác Trí

 

Ôi thôi Bác Trí đã đi rồi !

Âm cảnh, trần gian lạc nẽo chơi

Dòng suối vàng hoe, chui xuống đất

Con thuyền Bát Nhã vút lên trời ?

 

Công danh trần thế, giao trần thế

Lợi lộc người ban, trả lại người

Phủi sạch đôi tay, về cõi nghiệp

Ôi thôi Bác Trí đã đi rồi !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 13/Oct/2011 lúc 10:37pm

Lũ Lụt 2011 nhớ 1975

 

Sóng gợn lăn tăn tận cuối trời

Nhà chìm đáy nước, của thì trôi

Nước ơi , nước đến đau Hồn Nước

Người hởi, người đi xót dạ người !

 

Cao Thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Oct/2011 lúc 5:55pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ cao the



Cô Chín Xô chồng là Chú Tư Nhơn nhưng trong xóm vẫn gọi là Ông Chín Xô, Ông Chín Xô làm trên Nhà Thương, hiền lành ít giao thiệp.
Nhà Cô Chín được cất sâu bên trong,  phải đi qua miếng vườn trồng mãn cầu mới đến. Chị Điệp vào mùa Mãn Cầu khoảng tháng tư tháng năm gì đó, bưng rổ hái trái chín, ngoài hàng rào khối anh ngó ngơ, ngó ngẩn.
Giống như trên nhà Bác Hai Thi, trước nhà cũng có đặt lu nước mưa cho người đi đường giải khát, kế bên lu nước là cây chùm ruột, vừa uống nước mưa vừa có Chùm Ruột ăn,bảo đảm khỏi uống thuốc xổ thật  là tuyệt vời !
Gia đình Cô Chín có ba người con  Anh Nhi, Chị Gấm và Chị Điệp.
Khi Ông Minh Đăng Quang Sư Tổ phái Khất Sĩ qua Gò Công truyền đạo, đến ở đây Cô Chín Xô hiến đất trước nhà xây Tịnh Xá, đất sau nhà cất liêu cốc cho Quý Sư.
Đoàn truyền đạo gồm chiếc xe Traction đen chở Minh Đăng Quang ông này rất đẹp trai, tôi thấy vậy!  Golizat loại xe mà Lực Sỹ Hà Châu nằm xuống cho chạy qua người trong Sân Vận Động Gò Công,  giống như xe 16 chổ bây giờ chở nhóc mấy bà tín nữ. Người ta bắt loa trên mui, xe chạy chậm chậm lòng vòng trên đường phố giảng đạo, như mấy xe quảng cáo cho những gánh hát cải lương, con nít chạy rần rần theo phía sau xin chương trình.
Được Vị nào đó cúng dường cho một miếng ruộng, Tịnh Xá dời xuống đường đi Bình Ân, cất xong ăn mừng ? làm Lễ Tự Tứ  các Sư về rất đông. Tịnh Xá Ngọc Tân dành cho Ni Giới. Tịnh xá Ngọc Huệ dành cho chư Tăng ở trên Cầu Đúc.
Năm 1954 ? Ông Minh Đăng Quang đi xuống Miền Tây truyền đạo, ngang qua Bắc Bình Minh bị Tướng  Năm Lửa Hoà Hảo cho là việt cộng bắt dẫn đi mất tích. Các Đệ Tử cho rằng Ông bị thủ tiêu rồi, nên bàn thờ Phật Tử thấp nhang, về sau có Vị nào đó đi núi gặp Sư Tổ, chổ nầy hơi giống Bà Madelena vào hang, à nga! tuy một Vị gặp một Vị không nhưng lại rất giống nhau. Thì vậy “ Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc , Sắc bất dị không không bất vị Sắc ” mà, Ông gởi lời khuyên các đệ tử thời Mạt Pháp tinh tấn tu hành, từ đó Tịnh Xá, nơi đặt bức hình thờ ông không cho thấp nhang nửa chỉ thấp đèn .
Xin lỗi chư Vị, cho được lạc đề  mấy chử. Kỳ thật ! Đức Phật xưa từ bỏ Ngôi Vua bỏ Cung Vàng Điện Ngọc vào rừng tu học tìm pháp cứu mình, cứu người. Các Vị đệ tử ngày nay thì khác theo chân đoàn quân giải phóng , quý Sư  rầm rộ tiến vào thành thị, xây Chùa vàng Điện ngọc, chạy chọt chức vụ để “ cú ” người.
Sư Bà Huỳnh Liên bon chen lượm được chức dân biểu quốc hội đấy, oai thật. Cùng thời với cô  Lê … gì gì đó quét rác ở Sài Gòn vô tình nhặt được chức dân biểu quốc hội, tiếc rằng vị nầy vô trỏng không làm tròn phận sự được giao là chẳng quét được ai đổ vào thùng rác cả, sau bị trả về lại Sở vệ sinh cho đáng đời. Tiếc !.
Hoà Thượng Giác Toàn nhà thơ có bút hiệu Tha Phương Khách ( cãi lương quá, tên bi giờ là Trần Quê Hương Sư có mấy bài thơ rất là ăn khách, thuộc hạng top ten bảo đãm không phải của Lão Tiền Bối Trụ Vũ đâu nhé! ) , hiện nay cũng tranh thủ bò lên được chức hàm nghe nói lớn lắm ! mấy tháng trước coi tivi thấy Sư trên máy bay anh dũng đi xuống ôm hộp to to ? rất là trang nghiêm. Rất đáng bái phục !!!
 
Sau khi Công Chánh dở bỏ Cầu để xây cống, thì Bót Cầu Huyện cũng giải tán đất trả lại cho Cô Chín Xô, sau này Chị Gấm, Cô Chín lần lần chuyển nhà lên ở .
 
Khu vực Cái Bót nầy rất là rộng, khi lính bỏ đi bọn phá làng phá xóm chúng tôi tiếp quản là doanh trại tập họp của các anh lớn, là căn cứ để lũ chúng tôi trốn học, trốn mấy thằng nhí đầu ba giá ( đầu cạo trọc chừa 3 chòm tóc ) đi theo phá đám. Số là sau bót có cài hồ rất lớn dùng để chứa nước mưa, giữa hồ có cây cột chịu nấp hồ, trên nấp hồ có tạo lổ vuông khoảng 0m4 để người ta cho thùng xuống múc nước lên hoặc xuống làm vệ sinh hồ, bọn phá làng phá xóm chúng tôi thường đu xuống dưới để trốn các đàn anh và bọn nhóc ba giá. Không ai phát hiện được thật là diệu kế !
   

Cao Thệ





---- Nhà tôi và Bà Chín có họ hàng, nhưng hỏi Ba tôi bà con như thế naò thì người nói không rõ.. Tôi bèn mở tủ thờ lấy quyển gia phả ra xem.. Quyển gia phả lâu đời viết khi thì bằng chữ Hán, khi thì bằng chữ Nôm, khi thì chữ Quốc Ngữ..
 Tôi đọc mấy trang đầu .. càng đọc cáng thấy thích...
.. Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị Đổ Thích ám sát chết, hai quan taì còn quàng với khói huơng nghi ngút... Chệt nhà Tống, một bọn vô lương, thừa lúc tang gia bối rối, xua quân sang định làm cỏ nước Nam, tướng Hầu Nhân Bảo chỉ huy, thống lỉnh kỵ, bộ binh , quân số lên tới 20 vạn.. trực chỉ phương Nam...
 Cả kinh thành nhốn nháo, vì Đinh Tiên Hoàng, tuy xuất thân từ chăn trâu, nhưng taì trí, dũng lược hơn người, trong cách đặt tên nước, Đại Cồ Việt, vửa chữ Hán vừa chữ Nôm, chỉ thiếu thêm chữ BỰ cho thiên hạ thấy nước ta thiệt Bự
            Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, dù quân mới gần kề biên giới vẫn vọng âm về kinh đô Hoa Lư nghe rõ mồn một... Nhất là mùi nước đaí ngựa của đám kỵ binh... khai tới kinh thành
Việt Nam ta không thiếu anh hùng...
 Dương Vân Nga, một trong 5 bà hoàng hậu ( Vua Đinh phong 1 lúc 5 bà cùng là hoàng hậu), đang là hoàng thaí hậu mẹ cuả Ấu Vương, lúc bấy giờ mới có 4 tuổi mấy tháng... Vua chỉ ham đá dế mà không thích thiết triều... Dương hoàng Hậu, cởi long bào khoát lên người Lê Hoàn, đang chức Thập Đạo tướng quân( Tương Đuơng Tổng Tham Mưu Trưởng)
 Tướng quân lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Lê Đại Hành.. Truyền ban lệnh Tổng Động Viên..
 Thí lúc đó Ông Gia đình tôi ( xa quá không biết kêu bằng Ông Gì) và Ông cuả gia đình bà Chín là chòm xóm... cùng rủ nhau tòng quân...
 Khi Lê Hoàn dùng thế Lạc Long Kiếm chém bay đầu tướng Chệt Hầu Nhân Bảo, đắc thắng ban sư
 Hai Ông giảỉ ngũ, kết làm thông gia.. sinh con đẻ cháu truyền tới đời tôi gọi Bà Chín bằng Bà... Đó là liên hệ họ hàng ( Cũng còn gần)
 Nhân đây cũng xin nhắc lại .. Đinh Tiên Hoàng xuất thân là chăn trâu mà sao taì giỏi quá, chệt bắc phương rất kiên nễ, chả bù hậu sinh, cũng xuất thân hàng chăn trâu mà dốt mà hèn quá.. khúm núm truớc Chệt... Lủ chăn trâu thời nay chỉ biết hả họng ăn đồ tống gió  ....
            Ông Chín Nhơn làm trên Nhà Thương Gò Công, đi làm bằng chiếc xe gắn maý, thường ngậm ống pipe... Kiến Họ Hùynh Đình là kiến họ giaù có ở Gò Công, Tôi không rõ Ông Bà có mấy người con, nhưng tôi biết có 3 người... Trai tôi gọi là Chú Nhi, Huỳnh Đình Nhi.. Tôi biết chú lần đầu tiên năm tôi học đệ thất ( 59-60)... Năm nầy trường Trung Học có tham dự dưng cộ đèn tết Trung thu... Ba cấp lớp có học sinh ngụ tại tỉnhlỵ phaỉ đi dưng cộ là thất lục ngũ... Chú Nhi lúc đó học đệ ngũ, và đây cũng là năm cuối củng trường Trung Học tham dự dưng cộ đèn....( Mỗi lớp tham dự chừng 20 trò)
 Lúc đó học chung một lớp nhưng tuổi tác chênh nhau tới 6 tuổi .. . Như khoá 5 cuả tôi anh Mươi lớn hơn tôi 6 tuổi ... Thì chú Nhi lớn hơn người nhỏ tuổi nhất cuả khoá 3 phaỉ là 10 tuổi ... Chiều hôm đó, chú mặc quần sọt xanh aó trắng bỏ vô quần chân mang săn dal hiệu Tân Tiến,, Chú xách một cây đèn Ông sao phất giấy kiếng xanh, Vòng tròn ngoaì chạy chỉ giấy màu xanh đỏ..
 Tôi nhìn chú như nhìn một nguời lớn.. Tôi nghĩ chú học đệ nhất chắc vẫn còn lớn hơn nhiều người, càm râu cạo xanh um, ống quyển đầy lông chưn... Tôi nghĩ chắc chỗ naò chú cũng có lông ...
            Chú thường lên nhà tôi chơi.. Chú dù học đệ ngũ nhưng đọc thông tiểu thuyết Pháp.. Thường mược sách pháp cuả anh tôi đọc.. Nhà bác Tư cạnh bên nuôi cơm tháng học trò nữ.. Chiều naò chị Mười ( họ Phùng) vẫn thường qua nhà tôi chuyện vản với chị tôi ... Và có chú tham dự vì là bạn củng lớp
  Chú học không kịp tuổi quân dịch, chú đăng vaò Cảnh sát, phục vụ tại Gò Vấp... Vào một đêm mưa gió, chú đang ngủ trong bót ... Có 1 tên quỷ rừng trà trộn ném lựu đạn vaò bót... Chú đền nợ nuớc...!
 Em chú là cô Gấm có chồng là thầy giaó Liễu. Cô Gấm là cựu học sinh trường Khai Trí và bán Công Gò Công .
 Em thứ là Cô Hoa , Huỳnh Thị Hoa hay Kim Hoa tôi quên.. Ở nhà tên Điệp/ Năm tôi học đệ tam, cô từ trường Bán Công chuyển qua trường công học chung lớp tôi, vậy là hai cô chaú học chung lớp . Cô có chồng là Thầy Giaó cấp bổ túc Huân, cựu học sinh khoá 2, gốc người Hoà Nghị...
 
            Thuỷ Lan Vy






-------------
mk


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 15/Oct/2011 lúc 6:48pm

Chị My Kieu anh Thuỷ Lan Vy Kính !

 

Qua bài viết của anh tôi được biết thêm về gia đình Cô Chín.

Gia đình Cô Chín thuộc thành phần quý tộc, nhà cửa vào loại kính cổng cao tường, chúng tôi dân lao động nên biết về gia đình này rất hạn chế.

Việc Cô Chín cho cất Tịnh Xá trước nhà là việc làm Phước Đức, nhờ vậy mà đám quỹ chúng tôi mới thâm nhập được một phần.

Chỉ biết đại khái là:

-         Anh Nhi mang chứng bệnh gì đó nên học trể

-         Chị Gấm đẹp gái nhưng mặt thường nổi mụn, mà mụn rất to trị hoài không hết, đi đường thường đội nón lá có cái quay bự chẳn dùng che mặt “ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen “ chăng ?

-         Chị Điệp thì rất đẹp tôi nghĩ vậy, vì thấy mấy anh trong xóm tơ tưởng quá chừng, nhưng chẳng anh nào được miếng cháo hạt cơm !

-         Phía sau nhà Cô Chín rất nhiều đìa dài nuôi cá Tra, giáp ranh nhà tôi, hàng rào bằng cây Keo Thúi che chắn rất kín bên này chẳng thấy bên kia, tôi  moi lổ chó chui qua câu cá trộm, hôm sau thấy rào kín lại liền thiệt là giỏi hết biết. Kín cổng cao tường mà !

Xin cám ơn Chị và Anh đã cho những thông tin quý giá

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 23/Oct/2011 lúc 9:20am

Trường Sơ Cấp Tư Thục Bà Hai Trầu

 

Bà Hai Trầu trước đây là Dì Phước nghe theo tiếng gọi tình yêu của Bác Hai trai đang là thầy 6 gần thụ phong Linh Mục bèn móc quéo trèo rào ra đời.

Cuộc tình duyên nữa đường gảy gánh, Bác Hai trai đi xa, túng quẩn Bác Hai gái mở Trường Tư Thục “ Bà Hai Trầu” tại nhà, dạy thêm đám con nít trong xóm, hầu có tiền nuôi con.

Trường Bà Hai Trầu đi tiên phong trong vấn đề Nam Nử học chung lớp ngồi chung bàn, không có kỳ thị trai gái, thật là “đỉnh cao của trí tuệ trong sự nghiệp giáo dục”

 

Trường học nhỏ xíu đám học trò ngồi chung quanh “Trản Xê” có đứa nằm dài trên ván ngựa, Vậy mà có đầy đủ lớp từ Mẫu giáo cho đến lớp Ba

Bà Giáo kiêm Hiệu Trưởng Bà Hai Trầu, nhai trầu luôn miệng, lâu lâu ngồi xuống vén ống quần lên chùi mép thật là ngon lành, mắt kiếng lão xệ xệ  trên gương mặt xương xương nhìn xa ngó lên, nhìn gần địa xuống, mặc bộ đồ bà ba thùng thình.

Học trò hẻm mà thời đó cũng dữ dội, tôi nhớ cái ông Tây Lai Louis Đệ Nhị với thằng Tư Niến thường đồng ca “ Thịt Bà Hai ram, nuốt vô là biết liền… thịt gì mà dai nhách… “ thiệt là hết biết chúng nó tỉnh queo ca trước mặt Bà Hiệu Trưởng.   

Chương trình học buổi sáng là khảo bài, đến màn tập đọc Bà giáo tay cằm cây roi dài sọc đập lên bảng đen bom bóp, giọng phát âm do ngậm trầu ọ ẹ trong đót vọng như bị ai bóp cổ, đám học trò đọc theo bà giáo như ban Thánh ca trong Nhà Thờ với vô số bè.

Sau màn tập đọc đến màn làm toán thì Bà Hai Trầu trải chiếu tụ tập coi tay, bà Hai Trầu mê đánh bài tứ sắc đến kỳ lạ, chỉ một bàn tay rẹt một cái hơn hai chục lá bài tròn xoe, đám học trò lâu lâu đem tập lại cho Bà chấm điểm rẹt một cái xấp thành một cục thẳng băng thật tưyệt vời đặt xuống chiếu, cằm tập cho điểm như không.

Ca sĩ Ngọc Hiếu anh em tụi nó lúc này còn ở dưới Gò Tre mỗi lần đi học xe đạp Cô Tám nó chở ba, anh em tụi nó có tên chử rất dữ dội Trung, Thành, Hiếu, Thảo đều là đệ tử ruột của Bà Hai,  thằng Thành đen phá hết biết  thỉnh thoảng rình bà Hiệu Trưởng để cục thuốc xỉa xuống chiếu nó tức thì đổi ngay cục thuốc cũ bà đã quăng, cục thuốc cứng ngắt bà chưởi vang thế là cả trường học sinh ôm nhau cười, đôi khi  bà réo vang :

-         Thằng Thệ đâu!

Tôi bên nhà bất cứ làm công việc gì cũng phải chạy sang nghe Bà Hiệu Trưởng  dạy việc, thường thì bà bảo:

-         Mầy viết cho nó mấy “ bài tón” dùm Bác đi con !

Tôi là trợ giáo đặc biệt mà.

 

Chị Tư Mầu con gái lớn của Bác Hai tốt nghiệp bằng Sơ Cấp trường Bà Phước, Hiệu Phó kiêm giáo viên trợ giảng, phụ trách đám con nít chuyên ỉa đái trong quần, Thị Mầu mà ! con nít đang khóc thấy mặt là nín ngay .

 

Bảy Tài con trai Út bà Hiệu Trưởng tạp vụ lau ván, lau ghế, quét lớp, chùi bảng. Kiêm Cán bộ vật tư của trường chuyên mua tập, mực, phấn, chuốt viết chì hộ học sinh.

Trường học với ban giáo viên thật là hoành tráng !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 25/Oct/2011 lúc 9:34am

Ông cán bộ vật tư, kiêm chức tạp vụ nhiều hôm nổi hứng lấy nồi gỏ beng beng, Bà Hiệu Trưởng đang đánh bài hết hồn, hết vía hỏi:

-         Cái gì vậy thằng quỹ !

Bảy Tài tỉnh queo trả lời:

-         Đến giờ ra chơi

Trường học lúc nào cũng chơi còn bày đặt đến giờ ra chơi.

Con hẻm tôi vốn yên lành, đến giờ ra chơi như giặc dậy, chạy giởn la khóc vang một góc trời.

Trước cổng trường có hai cây táo, trái ăn nhớt nhợt, thế mà chọi táo, thọt táo tùm lum. Người qua lại trong hẻm nhiều khi tên bay đạn lạc đau thấu trời xanh ! khi một trái táo rớt xuống cả bọn ào ra như bọn tôi tranh giựt tiền cúng cô hồn trên chợ.

 

Cô Giáo Mầu đang tuổi yêu đương cứ mắt trước mắt sau là vọt ra ngoài Trại Mộc, đứng dười gốc cây Me Tây liếc một cái rồi chạy vìa , Anh Bảy Nô đẹp trai làm thợ Mộc ở Bác Tám Trại Hàng chỉ mấy bước là tới chàng, chàng thời xách giấy đi cầu tối ngày Bác Tám nói vậy !  Bởi cả xóm tôi chỉ có cây cầu công cộng ở mép sông ranh đất nhà Chú Năm Mạnh với Ông Ba Nghi muốn đến đó phải đi ngang qua trường vì vậy hai người cứ đá lông nheo miết.

 

Cái cầu công cộng này cũng nối nhịp duyên cho bao đôi trẻ, đến khi cuộc tình tan vỡ cũng làm thơ réo rắt tiếc thương !

Anh Năm Sơn em kế chị Tư Mầu đó, vào lúc Trường Bà Hai Trầu vào cao điểm thì anh bận làm công cho tiệm cám nên không tham dự.

Nhưng mỗi sáng người tình trong mộng đi cho cá Chốt ăn thì y rằng tò tò theo sau đừng dưới gốc cây Keo Ù chờ nàng ra tâm tình, thấy anh đi lũ chúng tôi dzọt lẹ qua nhà chú Năm Mạnh lom khom trong những hàng mía rình rập xem đàn anh đàn chị tâm tình thế nào, chẳng thấy nắm tay nắm chân gì ráo, chỉ nghe nói trỏng không bâng quơ chuyện trời mưa trời nắng, xong đưa thư rồi chạy tuốt.

Anh Năm Sơn văn hay chử đẹp được anh Tư Còn rũ ren gia nhập Thi Văn Đoàn Hồn Thu Thảo với bút danh là Thanh Sơn. Chuyện tình trên mây đã vặn vẹo anh quá sức, hồn thơ tuôn trào xung túc tưởng chừng không dừng được lúc vác cám thơ vẫn âm ỉ đòi ra.

Yêu và Thơ hai nàng  làm khổ nhọc anh quá chừng, đêm hì hục với nàng thơ, sáng chép lại đem tặng nàng.

9 – 10 giờ xe đò chở báo về liền dong ra chợ mua cho được tờ Tiếng Chuông  xem bài mình được đăng không ? mỗi tờ đến 2 đồng chớ ít sao! Một hôm mở tờ báo ra anh nhảy tưng ôm lấy tôi nói không ra lời, thiên hạ ngỡ trúng số độc đắc hỏi tới tấp, anh nói :

-         Thơ tôi được báo đăng !

Có tiếng người nói:

-         Lãng ờm

Đúng là người không có máu thơ văn gì hết anh Năm Sơn nói vậy. Mừng chiến công anh mua một lần 5 tờ báo, từ chợ về anh đi như chạy, tôi đuổi theo mệt ứ hơi.

 

Sau này tôi lên Sài Gòn học, chẳng hiểu gì sao đóng cửa trường

 

Bác Hai thành lập trường không gặp thời, chứ như bây giờ Trường Sơ Cấp Tư Thục Bà Hai Trầu còn hoạt động chắc đã là Trường Đại Học Bà Hai Trầu rồi , tệ lắm cũng là Cao Đẳng hay Liên Kết Liên doanh với Đại Học Quốc Tế nào đó ! Đáng lý xóm tôi có Trường Đại Học rồi. Tiếc thật !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 29/Oct/2011 lúc 9:29pm

THU HỨNG KỲ TỨ

 

 

Văn đạo Trường An tự dịch kỳ

Bách niên thế sự bất thăng bi

Công hầu đệ trạch giai tân chủ

Văn võ y quan dị tích thì

 

Trực bắc quan san kim cổ chấn

Chinh Tây xa mã vũ thư trì

Ngư long tịch mịch thu giang lãnh

Cố quốc bình an hữu sở ti

 

Đổ Phủ

 

 

Giống VN năm 1979 quá, tạm dịch giải sầu.

 

Nghe nói Trường An tựa cuộc cờ

Mấy nghìn năm trước, khác nay đâu

Công khanh, Dinh phủ, thay người mới

Áo mão, Quan quân, lại đổi màu

 

Ải bắc ầm ầm vang trống trận

Trời Tây mờ mịt, lửa binh đao

Cá tôm vắng ngắt, dòng sông lạnh

Nước cũ thanh bình, nay thấy đâu

 

Cao Thệ

 



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 26/Nov/2011 lúc 11:25am
 
Đọc bài của Thy Lan Thảo nói đến ông Tư Nhơn (chồng bà Chín Xô) có nhà lớn "bên kia" Cầu Huyện ngày xưa bị Tây lấy làm bót (poste) và nói là ông Tư Nhơn thuộc về một gia đình rất nổi tiếng ở Gò Công là gia đình ông Huyện Huỳnh Đình Ngươn.

(Hồi đó mỗi lần đi làm ông Tư đi ngang nhà tôi được chúng tôi kêu là Tư "Người" vì chữ Hán Nhơn là Người. Không phải tôi khoe là "Hán rộng" đâu nhưng ngày xưa tôi có học chữ "nho" với giáo sư Ưng Thiều tại trường Pétrus Ký và còn nhớ mỗi một câu:

"thiên trời , địa đất, nhơn người

phụ cha, mẫu mẹ, lao bò, tượng voi"

 

hay:

"thiên trời , địa đất, nhơn người

Ngưu trâu, mã ngựa, lao bò, tượng voi".

 

Trở lại gia đình HUỲNH ĐÌNH, tôi xin ghi ra đây những gì tôi biết được về họ Huỳnh Đình tại Gò Công.

 Gò Công ngày xưa có đường tên Huyện Ngươn nối liền với đường Tổng Thứ chạy trước nhà tôi ( tôi sẽ viết trong một bài sau ). Theo tôi được biết là cha ông Huyện Ngươn từ bên Tàu sang Việt Nam làm ăn và có vợ sinh con bên nầy. Một năm nào đó xuống tàu về Tàu ( China! ) thăm vợ trước đã bị chìm tàu chết.

Ông Huyện Ngươn có con là Huỳnh thị Nữ, tức mẹ bà phủ Hạc, bà tòa Rỉ (bà nầy là mẹ vợ ông Huỳnh Thủy Lê, người nhân vật chánh trong phim và tiểu thuyết "người Tình" do bà Marguerite Duras viết về một chuyện tình của mình lúc còn nhỏ sống tại Saigon, và được giải thưởng văn chương lớn tại Pháp). Bà Nữ cũng là mẹ vợ Đốc phủ Chỉ.

 

Người con thứ hai của Huyện Ngươn là Huỳnh Đình Hạo.

Người con thứ ba là Huỳnh Đình Ngân.

Ngời con thứ tư là Huỳnh Thị Ngởi và

Người con gái út là huỳnh thị Diệu (tức là bà đốc phủ Hải).

 

 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 27/Nov/2011 lúc 10:22pm
 
 
Ông Huyện Ngươn có hai người con trai:
 
1- Huỳnh Đình Hạo có người con gái lớn và một người con trai là Huỳnh Đình Michel.
2- Huỳnh Đình Ngân có ba người con: Huỳnh thị Đồng ( còn sống tại Bỉ, đã trên 100 tuổi ), Huỳnh Đình Chì và Huỳnh Đình Kẻm.
( cách đặt tên cho con ở Gò Công rất đặc biệt, tôi sẽ nói sau )
 
Như vậy hai cha con Huỳnh Đình Nhơn và Huỳnh Đình Nhi mà Thy Lan Thảo đã nói chắc là thuộc một trong hai nhánh Huỳnh Đình Hạo và Huỳnh Đinh Ngân. 
Chồng cô Huỳnh Thị Đồng là thầy Trần Văn Vị. Hai ông bà định cư tại thành phố Namur, Bỉ ( gần chỗ cô Trần Thành Mỹ và thầy Lình ở ). Lúc thầy Vị còn sống, hai ông bà thường liên lạc vói chúng tôi và bà bác si Đăng tại vùng Hoa thịnh Đốn và thỉnh thoảng có gởi tiền ủng hộ Hội Thân Hữu Gò Công tại Hoa Thịnh Đốn. Cô Đồng là chị cô cậu của bà Lê thị Anna(con gái ông Tổng Lê Quang Thứ), mẹ bà Solange Minh  ( tức là bà bác sỉ Trần Công Đăng ) ở Cầu Huyện, trước mặt nhà chúng tôi. Do đó hai thầy cô Vị Đồng ngày xưa hay đến Cầu Huyện thăm bà bác sỉ Đăng, cô Tư tôi và thầy Lộ Công Bích.
Tôi còn nhớ là lúc đó thầy Vị bị sói đầu ( ít có ở Việt Nam ) nên thầy quấn tròn trên đầu những sợi tóc còn lại.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Phanthuy
Ngày gởi: 28/Nov/2011 lúc 11:15pm
Câu chuyện dài của các anh chị hấp dẫn quá .
Xin tiếp tục hoài nhé.
Ngày xưa gia đình PT ở đường Huyện Nguơn mà sao không biết nhiều về xóm cầu Huyện nên bây giờ đọc thấy nhiều điều hay và hấp dẫn quá.
Gần đây PT xem phim VN "Tình Án " của Hồ Biểu Chánh, thấy họ dùng ngôi nhà của Ông Đốc phủ Hải làm cảnh chính ,
 cứ mỗi lần chiếu tới ngôi nhà đó là thấy lòng bồi hồi , nhớ lại kỷ niệm những ngày đi học trường Trung học đều đi ngang qua ngôi nhà đẹp đẽ ấy  !
Chắc cũng tại vì PT ở thị xã Gò Công chỉ vài năm nên giờ không nhớ được nhiều những nhân vật và những cảnh như các anh chị tả.
Đọc thú vị lắm ! Xin cám ơn


-------------
PhanThuy-CA


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 30/Nov/2011 lúc 6:08pm

 

Chú Mười Lăm và Chị Phan Thuy Kính !

 

Mấy ngày qua bận quá chậm tiếp đón. Xin Cám ơn hai vị Tiền Bối đã ghé nhà còn gởi tặng những món quà quý giá

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 30/Nov/2011 lúc 6:31pm

MA DẤU

 

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa xóm tôi mỗi nhà sắm một cái mõ làm bằng ống tre , khoét rảnh giữa bụng, gỏ vào nghe lốc cốc tiếng vang xa. Thôn xóm có những giao ước riêng. Thí dụ:

-         Mõ hồi 1 = Báo động trộm cướp

-         Mõ hồi 2 = Họp dân

-         Mõ hồi 3 = Giúp người trong thôn xóm

Cách đánh mõ : gỏ một hồi dài và gỏ 1 tiếng là mỏ hồi một, một hồi dài và gỏ 2 tiếng là đánh mõ hồi hai v. v…

 

Mõ hồi một lại vang lên cuối xóm, những ngọn đuốc dập dìu qua lại ẩn hiện sau những hàng cây. Bọn con nít chúng tôi cuốn mình đắp mền kín đầu nằm không dám thở mạnh. Xóm tôi mấy lúc gần đây mõ hồi một thường xuất hiện vào ban đêm từ nhà Bà Năm Sài Gòn.

 

Bà Năm Sài Gòn là con gái của Ông Ba Châu, giàu nổi tiếng theo chồng lên Sài Gòn làm nghề gỗ thời gian đầu nghe nói cũng phát đạt lắm. Hai nghề tàn mạc và thành đạt luôn cận kề bên nhau “ Nhất phá sơn lâm, Nhì đâm hà bá”.

Thời gian sau chồng chết vì tên bay đạn lạc, bà Năm tiếp tục công việc của chồng không bao lâu xe chở gỗ gây tai nạn chết người, chiếc còn lại bị lật đèo, bồi thường cho nạn nhân tài sản không còn gì, nghe lời ông Ba, bà cùng con gái trở về quê, cho cửa nhà bớt lạnh lẽo.

 

Cô Hoa con gái Bà Năm Sài Gòn, không đẹp nhưng có duyên hai má lúm đồng tiền làm chết mê chết mệt những chàng nông dân xóm tôi.

Nhà ông Ba kín cổng, mương thả cá chung quanh, hàng rào tre gai dầy đặc như chiến luỹ chống ngoại xâm. Cô Hoa tiểu thư đi học có người đưa đi, rước về nhưng những chiếc đuôi cứ ngoe nguẩy phía sau bám theo đến tận nhà.

 

Thời gian gần đây cô biếng ăn, uể oải, màu da trắng bệch, Bà năm đưa con đi thuốc tây thuốc bắc, bệnh tình vẫn không thuyên giãm. Nhiều đêm cô bỏ phòng ngủ đi lang thang suốt, nói chuyện nhảm nhí với ai đó rồi cười một mình . Bà Năm an ủi dổ dành âm thầm điều tra nhưng vẫn chẳng nắm được điều gì về con gái cưng thương, bà nghĩ tại thay đổi môi trường sống đột ngột nên ảnh hưởng đến tâm sinh lý, theo lời mầy bà già trong xóm họ cho rằng con gái bà bị ” mắc bệnh đàng dưới” (ma ám) bà Năm mời những vị thầy thuốc núi trừ tà đuổi quỷ tóc tai đóng cục, xâu chuổi xâu hạt đầy cổ đầy tay, mang bao mang bịch khắp người, tụng kinh gỏ mõ dậy xóm nhưng bệnh mỗi ngày mỗi nặng hơn.

 

Nhiều đêm không tìm được con, hoảng quá lấy mõ ra đánh hồi một, nhờ dân trong xóm giúp đở, mọi người tay cầm đuốc tay cằm cây tầm vong chạy kiếm khắp nơi sau cùng người ta tìm thấy nàng ngồi thất thần trong dãy tre gai cạnh bờ sông, tay chân lạnh ngắt, ú ớ không nói nên lời, thì ra miệng nàng ngậm đầy đất sét, những người yếu bóng vía bổng nổi da gà, lộn xộn hàng ngủ. Người ta móc đất trong miệng ra, dìu nàng vô nhà, đánh răng xúc miệng, thay đồ thay đạc, đồt lò hơ ấm.

Nàng nắm đó nhắm mắt như công chúa ngủ trong rừng an nhiên giữa lời an ủi hỏi han của mọi người. Bên ngoài nhà, bao trái tim của mấy anh xóm tôi như bị ai bóp, đau điếng !

 

Ngày hôm sau trước nhà bàn thờ hương án được thiết lập, hai ba vị Sư đến nhà đánh trống thổi kèn lốc cốc leng keng, trợn mắt phùng mang,  tụng kinh cầu siêu, cầu an ỏm tỏi, lễ xong rồi buổi chiều bà Năm chắc ăn như bắp đi khoe với mọi người Thầy bảo ở  bụi tre đó, có một vong rất là đẹp trai, gặp phải con Hoa nhà tôi, nó đem lòng yêu mến theo suốt, thầy dắt nó đi tu, nó không chịu nên đã bắt vong linh nó bỏ vào túi phép của Thầy rồi, từ nay mọi sự ổn thôi.

 

Phép thầy linh thật, suốt đêm đó nàng ngủ khì, sáng bảnh mắt ra đòi ăn như giặc dậy, Bà Năm cầm tô hí hửng chạy mua hủ tíu không kịp…

 

Mõ hồi một lại nổi vang vang phía nhà bà năm, những ngày đầu bà con cô bác còn hăng hái, sau đụng chuyên ma chuyện quỷ thì sợ, các anh chạy tìm em  như chơi trò trốn kiếm thì khoái vui … nhưng cái mững miệng ngậm đất sét ngồi trong bụi tre gai, mấy chú mấy bác 9- 10 giờ tối đang ngon giấc phải xách hèo, xách đuốc chạy ra bụi tre dẫn vào riết, rồi cũng chán. Bà Năm gỏ mõ hồi một hoài cũng mõi tay. Lũ con nít chúng tôi thằng nào cũng sợ sau thì vui được thức khuya nói dóc!

 

Một hôm người ta thấy hai mẹ con Bà năm quần áo bảnh bao ôm đồ đi Sài Gòn

chạy chửa, thỉnh thoảng bà Năm có về báo cho biết gặp thầy giỏi con Hoa của bà đã hết bệnh.

 

Chuyện tình yêu hẹn hò chàng từ bờ kia sông bơi xuồng qua bụi tre bên này  tâm tình với người đẹp khi bị phát giác nàng nhét đất sét vào mồm, chàng lặng lẽ bơi xuồng dong tuốt.

 

Chuyện lấy thúng úp voi người ta ai cũng thấy, sau này trong xóm tôi không hiểu từ đâu, ai cũng biết Cô Hoa có bầu bà Năm đem về Sài Gòn sanh được thằng cháu ngoại trai, đẹp và khôn bà cưng như trúng mỏng. Từ đó cô Hoa không về quê nữa, bỏ lại các anh xóm tôi và những cái đuôi ngoe ngoẩy trên đường xưa không biết gắn vào đâu !

 

 

Sau nầy các anh bên bờ sông bị các anh xóm tôi ráo riết tìm coi thằng nào nhưng chẳng ai biết được chàng là ai kể cả bà Năm Sài Gòn !.

Chuyện trai gái tâm tình thì nhiều kiểu nhiều cách, nhưng kiểu ma dấu mãi đến giờ vẫn chưa nghe ai nói đến!

Viết những dòng này tai tôi còn nghe âm vang từng đợt mõ hồi một xa xăm !

 

Cao Thệ

 

 



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 30/Nov/2011 lúc 8:55pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Phanthuy

...Chắc cũng tại vì PT ở thị xã Gò Công chỉ vài năm nên giờ không nhớ được nhiều những nhân vật và những cảnh như các anh chị tả...
 
PT ơi, tôi cũng không ở Gò Công lâu lắm. Đến 11,12 tuổi là lên Saigon học, rồi sau đó là đi Canada và ở luôn đến bây giờ.
Hồi nhỏ còn ở Gò Công tôi ốm yếu, ít đi đâu xa ngoài con đường từ Cầu Huyện tới trường Nam Gò Công (đi đường Tổng Thứ đến Ao Trường Đua rồi quẹo qua đường "bờ tráng". Khi nào đi sớm còn thì giờ rảnh trước giờ học, thì quẹo mặt qua đường " lộ me" rồi băng qua ruộng bắt dế hay chơi đánh trổng trước khi lên đường bờ tráng). 
Thỉnh thoảng có đi Biển Tân Thành chơi. Lúc đầu biển Tân Thành chưa có "nhà mát", chúng tôi ngủ ngoài trời. Vài năm sau một nhà cao cẳng được xây lên. Chỉ có cái nóc mà không có vách chung quanh. Chừng nào có dịp tôi sẽ thuật lại các chuyện về biển Tân Thành.
Sau khi học xong Đại học tôi phải vất vả "kéo cày" trên xứ người (Canada) để kiếm ăn, nên không chú ý lắm về quê hương Gò Công nên cũng ít biết chuyện Xứ Gò. Anh Ba tôi, thầy Lộ Công Bích suốt đời dạy học tại Gò Công nên biết rất nhiều về Gò Công. Rất tiếc là có một lúc anh Ba tôi phải đi học tập tại Hoàng Liên Sơn và khi trở về thì sức khỏe hơi kém nên không nhắc nhiều về chuyện xưa. Mấy lần tôi về thăm vì thì giờ ngắn ngủi nên không hỏi được nhiều. Còn hỏi qua điện thoại cũng rất khó khăn. Bây giờ thì anh Ba tôi không còn nữa!
Mấy năm sau đây, nhận thấy xứ mình đang qua một sự thay đổi to lớn, bà con tản lạc nhiều nơi, những chuyện ngày xưa sẽ bị thất lạc nếu thế hệ của chúng tôi không chịu khó ghi lại thì về sau không còn ai biết đến nữa! Vì vậy tôi cố gắng tìm hiểu và ghi lại vài chuyện mà tôi được biết. 
Cũng may là hồi nhỏ tôi hay đi theo xách giỏ trầu cho bà nội tội là Nguyễn thị Lẩm mỗi khi bà đi thăm bà con hay bạn bè (bà phủ Hac, bà phủ Hải,...) nên 50 năm sau tôi vẫn còn nhớ chút ít. Lần rồi tôi về Gò Công đến nhà củ tại Cầu Huyện may mắn tìm ra được một bản đồ điền thổ vẻ năm 1882, mặc dầu sau 1975 anh Ba tôi đốt gần hết sách vở và giấy tờ trong nhà.
Bản đồ nầy giúp tôi lần lượt "phăng" ra nhiều chi tiết khác. Xin lỗi là phải nói nhiều về gia đình tôi và nhắc đến những người có tên tuổi trong tỉnh vì nhờ đó mới tìm ra liên hệ.
Bản đồ cho thấy là phần đất chỗ nhà chúng tôi ngày xưa năm 1882 là của bà Nguyễn thị Mai chứ không phải của họ Lộ. Tôi sẽ nói lý do nếu có cơ hội.
 
 
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 01/Dec/2011 lúc 8:46pm

 

 

Chú Mười Lăm Kính!

 

Tụi cháu thuộc thành phần lao động nghèo ở xóm Cầu Huyện, lại sớm mồ côi, không ai dạy bảo, suốt ngày lang thang ngoài đường, nên thuộc từng bụi Lứt, cây Trăm bầu, Cây keo ù, keo thúi, từng khoảng sình lầy, trên hẻm trên đường đi. Nhớ từng nhà, từng người quen dù đã hơn 50 năm xa cách. Mỗi lần nghe ai nhắc về Cầu Huyện như chạm vào hồn mình kỹ niệm bổng về y chan như ngày nào.

 

Phần trên Chú có nói đến nhà Bác Sĩ Đăng làm cháu nhớ đến thời con nít có kỹ niệm ở đó. Phía sau nhà Của Bác Sĩ Đăng, giáp ranh đầt với Nhà Ông Quản Phát có mầy cái ao nuôi rất nhiều cá. Bên phải ngôi nhà là vườn mãn cầu.

 

Trưa tụi cháu rủ nhau đi vào Đất Thánh, băng qua vựa gạch ngói của Cô Mười, đến nhà Ông Quản Phát, nơi đây vựa gạch ngói của Thầy Lộ Công Bích, len lỏi theo mấy hàng gạch ống chất cao nghiệu tụi cháu hái trộm nhản, ổi, vú sửa, me và cả trái viết trồng cạnh miễu, tuỳ mùa nhưng ổi thì lúc nào cũng có.

 

Ăn uống đày đủ xong, lội rạch ra phía sau vườn nhà nhiều líp trồng toàn ổi có hai cây vú sửa thật ngon nhưng trồng sát vách nhà quá không dám bén mảng tới. Tiếp tục lội khi hai bên bờ rạch thấy toàn dây mây đeo bám trên cây me già là đến điểm. Liền leo lên bờ một thằng đi trước quan sát tụi cháu núp lùm vừa đi vừa hái ổi theo sau. Vượt con mương cạn là vào vuông đất nhà Bác Sĩ Đăng, cái ao gần vườn mãn cầu nhiều cá, thỉnh thoảng thấy người nhà Bác Sĩ  trên chợ xuống câu. Cả đám hè nhau xuồng mò, bắt được con nào là bẻ nhánh lứt xỏ mang, cá phi thỉnh thoảng cũng có cá rô … xong xuôi cả bọn trở lại đường cũ về nhà.

 

Những trò chơi có tình dân gian mất dần, phá làng phá xóm kiểu như tụi cháu cũng không còn nữa, con nít Việt Nam bây giờ học trường không đủ, tranh thủ học thêm nhà Thầy Cô, về nhà học đêm, học luôn giờ ngủ thật là tội nghiệp !

 

Cao Thệ

 

 



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 01/Dec/2011 lúc 10:25pm
 
Anh Cao Thệ thân mến,
Cám ơn mấy dòng chữ "dễ thương" của anh làm tôi cũng nhớ lại đời sống lúc trẻ  của tôi. Trong những năm sau đệ nhị thế chiến, mọi thứ đều khan hiếm. Lúc đó lại là lúc tôi đang lớn nên cần ăn uống nhiều. Thế mà không đủ thức thức ăn nên chúng tôi phải ra ngoài vườn hái bần, ổi, keo ù, keo thúi, bần rạch... để ăn thêm hay lấy ná bắn chim trao trảo nướng ăn.
Người ta lại nói: "nhứt quỷ nhì ma thứ ba học trò" thì tôi cũng không phải ngoại lệ. Thời đó nhà tôi trồng nhiều cây trái lắm: mản cầu, vú sửa, v.v. đầy vườn.  Có một cây Cerise rất lớn. Cây cerise nầy lớn là vì anh Ba tôi, thầy Lộ Công Bích có chôn một cái da bò dưới gốc cây. Câu chuyện như sau đây: nhà trước mặt nhà chúng tôi là nhà của ông Hội đồng Can, cha vợ của Bác sỉ Đăng (chứ không phải nhà BS Đăng, mặc dầu ngày trước mộ BS Đăng nằm phía sau nhà, bây giờ thì đã dời đi rồi). Nhà nầy bị Tây lấy làm đồn lính (như nhà Tư Nhơn). Đến lễ quốc khánh 14 juillet của Pháp họ giết một con bò ăn khao, chúng tôi được họ cho cái da bò chôn dưới gốc cây. Cây cerise tươi tốt nên nhánh bò dài ra chung quanh. Chúng tôi làm giàn chống lên, ngồi phía dưới rất mát mẻ những khi trời nắng. Bà con đến xin bó nhánh để đem về trồng. Lúc đầu chúng tôi còn tưới dùm cho tới khi nhánh ra rể kêu họ đến cưa đem về. Về sau, nhiều người xin quá chúng tôi phải để mọi người đến tưới lấy và lúc ra rể họ tự tiện đến cưa đem về.
Anh thấy không nhà chúng tôi cây trái nhiều như vậy mà chúng tôi chỉ thích trái cây hàng xóm thôi anh ơi. Tôi còn nhớ có một lần đi biển Tân Thành đến buổi tối rủ nhau đi hái mản cầu trộm. Lại có một lần gần Tết tôi đi "đá dưa" trên bải biển nữa như tôi đã có một lần nói trên diễn đàn nầy.
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 02/Dec/2011 lúc 10:54am

 

 

 

Chú Mười Lăm Kính !

 

Ở xóm Cầu Huyện cây Sơ Ri nhà Chú, nếu nói theo từ ngữ bây giờ thật là  “hoành tráng” cháu vẫn nhớ cái giàn chung quanh cây sơ ri, rất vĩ đại mặc dù không được thẩm mỹ lắm. Còn thêm cây Táo già sụ nữa cũng vào hàng Táo tiền bối !

 

Lầy da bò đem bón gốc Sơ Ri thì sang quá cây không tốt sao được ! Dưới Vĩnh Trạch, Long Xuyên người ta để da bò thúi làm mồi đặt lợp câu tôm, hoặc treo trước cống để nhử tôm bò vào hào,  họ đã cho là sang rồi !

 

Nói đến người Pháp hạ bò ăn khao làm cháu nhớ ở  Long Xuyên, Dưới chân Cầu Quây bên Thánh Thất Cao Đài, rẽ về phía Nhà Máy Cháy, có lò làm bò trâu ngay tại móng chân cầu cũ, người ta cột trâu bò vào trụ cho đầu sát đất, dùng búa Tài Sồi đập vào giữa trán.

Một lần không biết thế nào bò nhổ được cây trụ  “ làm binh biến”  tương tự như Miên dậy ở Bạc Liêu Sóc Trăng mấy năm đầu giải phòng rượt đuổi làng xóm chạy trối chết, mấy tay làm bò nhảy xuống sông đùng đùng, bà con khu phố la như nhà cháy, sau cùng mấy anh 30 tháng 4 bên chân cầu nhả đạn bò mới chịu chết !

Hành động quên thân cứu người sau nầy khu phố vinh danh mấy anh là “ Dũng sĩ diệt bò” ngang hàng với “ Dũng sĩ Diệt … gì đó” trong thời chiến !

 Nhớ lại đám phá nhà tụi cháu có hôm đi vào Đất Thánh lần theo đường mòn  cặp bờ sông đi miết  sau cùng lên đến Công Xi Heo ở Cầu Đúc cũng trông thấy người ta làm bò kiểu đập đầu bằng búa như vậy.

Nhìn con bò hai hàng nước mắt chảy dài, ánh mắt u uẩn đến giờ cháu vẫn nhớ. Kiếp trâu bò sống chết thì chịu vậy “vật dưỡng nhơn” mà ! nhưng cách làm thịt của con ngưởi quả thật quá nhẫn tâm

Ai bảo “ Ngu như Bò” nên nghĩ lại !

 

Trở lại miếng da bò, ở quê người ta thường lấy da trâu da bò làm dây văng võng, đến sau ngày Tháng Tư đen, bọm nhậu cạn mồi.

Anh cháu ở Đồng Sơn, trưa nằm võng đong đưa nhắm mắt mơ màng nghĩ đến mồi nhậu, chợt  nhảy xuống đất ra sân bắt tay làm loa hú lên  “ Có Rồi ”

Các chiến hữu tụ lại , người thì tháo võng ra, vị thì lấy dao nại miếng da bò trên cột, dao chặt không đứt, dùng cưa cưa miếng da bò mấy chục năm làm dây văng võng ra thành từng khúc, kẻ thì đốt rơm đem da bò thui, sau cùng bỏ vào nồi hầm .

Thế là mấy tay nhậu có món mồi gỏi da bò đặt sản.

Thức ăn để dành mấy chục năm vẫn sử dụng tốt ngon lành bổ dưỡng, nghĩ cho cùng chỉ có miếng da bò.

Cao Thệ

 



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 28/Dec/2011 lúc 9:24pm
.
 
TRẦN VĂN ĐỒ và PHẠM THỊ PHỤNG
 
Ông Phạm Đăng Hưng theo giúp Nguyễn Ánh đến khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế được phong làm quan tại triều đình tại Huế ít có dịp về Gò Công. Con gái ông, Phạm thị Hằng (về sau trở thành bà Hoàng thái hậu Từ Dủ) ở lại Gò Công trước khi được tiến cung cho vua Thiệu Trị. Vì mẹ là Phạm thị Du mất sớm, được  người cô là Phạm thị Phụng nuôi nấng từ nhỏ.
Bà Phạm thị Phụng (và ông Trần văn Đồ) lại có một người con gái nhỏ hơn bà Phạm thị Hằng (sanh năm 1810) một tuổi là bà Trần thi Dư (sanh năm 1811). Do đó bà Trần thị Dư được bà Từ Dủ coi như em ruột. Bà Trần thi Dư lại có một người con trai duy nhất là Nguyễn văn Tá nên được bà Từ Dủ thương như con ruột (vua Tự Đức).
Trong bản đồ điền thổ làm năm 1882 của miếng đất tại Cầu Huyện có ghi tên chủ nhân là bà Nguyễn thị Mai. Bà Mai chính là cô ruột của ông Nguyễn văn Tá. Do đó ông Nguyễn văn Tá và vợ là bà Phan thị Vân được thửa hưởng miếng đất tại Cầu Huyện nằm sát bờ kinh Salicetti và cầu Huyện.
 
 
 
 
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 29/Dec/2011 lúc 10:15am

Chú Mười Lăm Kính !

 

Thưa chú,

Theo cháu hiểu trước đây khu đất, khởi đầu từ đỉnh cháu nghĩ là :

- Nhà Ông  Thân Bính ?, trên bản đồ ghi Công thổ.

- Bên mặt là bờ sông.

- Bên trái là giáp ranh đất Ông Nguyễn văn Thuận  Công Điền

- Kéo dài đến đường lộ

Là khu vực đất chủ quyền của nhà Lộ Công.

 

Nhưng bài viết ở trên, theo Chú thì phần đất hình chử nhật cặp theo đường trên bản đồ ghi chử  Nguyễn Thị Mai, hiện tại là khu nhà Họ Lộ Công đang ở.

Vậy phần đất phía trên từ con kinh sau nhà Chú trở lên nhà máy nước đá, nghĩa trang, chạy đến Nhà Ông Thân Bính ? là thế nào ?

 

Đất của bà Nguyễn Thị Mai vì sao Họ Lộ đang chủ quyền ? Chú hứa sẽ nói lý do nếu có cơ hội. Vậy hôm nay Cơ hội đến được chưa ?

 

Cao thệ



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Dec/2011 lúc 5:43pm


Anh Mười Lăm và anh Cao Thệ kính mến,

Rất cám ơn những bài viết của hai Anh . Xin tiếp tục viết thêm và viết nhiều cho thế hệ con cháu mai sau biết về quê hương Xứ Gò.

Đa tạ,
mk



-------------
mk


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 01/Jan/2012 lúc 8:12pm
 

 Cám ơn anh Cao Thệ và chị mykieu.

Và cũng theo lời yêu cầu của anh Thệ và chị mykieu, tôi xin viết thêm vài hàng về xóm Cầu Huyện.
 
 
 
 
  
 
Tờ gia phả (arbre généalogique) do ông Nguyễn Khánh Cương lập ngày 16 tháng 5 năm 1925 nói rõ về tông tích của ông Nguyễn văn Tá là con trai duy nhất của ông Nguyễn văn Diên ( vợ là Trần thị Dư, con gái của Trần văn Đồ và Phạm thi Phụng). Như vậy ông Diên là rể bà Phạm thị Phụng. Bà Lê thị Hào và chồng là Nguyễn văn Nhứt là suôi gia cuả ông bà Trần văn Đồ và Phạm thị Phụng nên cũng phải "môn đăng hộ đối" với gia đình Phạm thi Phụng.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 03/Jan/2012 lúc 10:39pm
 
 
Trong bản đồ xóm Cầu Huyện có ghi tên của bà Nguyễn thi Mai. Ở đây thấy rõ là bà Nguyễn thị Mai là cô của ông Nguyên văn Tá. Hai người con gái của ông Tá là Nguyễn thị Lẫm và Nguyễn thị Lúa.
Để kiễm chứng thì có tấm mộ bia của bà Mai như sau đây
 
 
Đọc như sau:
 

大南祖姑 http://hanviet.org/hv_timchu.php?unichar=諱 - http://hanviet.org/hv_timchu.php?unichar=號 - 阮孺人

年古日

壬寅年生甲辰孫阮氏凜阮氏稻立石

 

Dịch ra là :

"HOÀNG TRIỀU

Đại Nam tổ cô húy Mai hiệu Xuân Hoa Nguyễn Nhụ Nhân chi mộ

Tuế thứ Quý Sửu niên cát nhựt

Nhâm Dần niên sanh, Giáp Thìn niên tuất, điệt tôn Nguyễn Thị Lẫm, Nguyễn Thị Lúa đồng lập thạch"

 
Như vậy hai cháu kêu bà Mai bằng bà cô ở miếng đất đó đã tu bổ mộ bà Mai.
Ông Nguyễn văn Tá và vợ là Phan Thị Vân gả con gái Nguyễn Thị Lẫm cho ông Lộ Công Tập cư ngụ tại Tân Niên Tây. Đó là ông nội chúng tôi. Ông cũng có nhà cửa rộng lớn dưới ruộng.
Bà nội chúng tôi Nguyễn thị Lẫm không thích đi trên bờ ruộng sình lầy khi trời mưa nên xin ông nội tôi dở nhà từ Tân Niên Tây về cất tại miếng đất ở Cầu Huyện năm 1902, hai năm trước khi bảo năm Thìn (1904). Do đó trong quyển "Gò Công xưa và nay" của ông Huỳnh Minh có viết:

"Theo sự dọ hỏi của chúng tôi, tại Gò Công có gia đình ông Lộ Công Tập ở làng Long Thuận, gần ao Trường Đua, nằm trên con đường Tổng Thứ ngày nay, nhà ngói năm căn,nền lót gạch tàu mới cất, kế bị bảo lụt. Nhờ nền cao ráo cột kèo chắc nên được bình yên, quanh vùng đồng bào bị sập đều chạy đến trú ngụ nhà ông trên ba bốn trăm người, quần áo mất sạch. Chủ gia là ông Lộ Công Tập gom hết quần áo trong nhà đem cho mà cũng không đủ, cơm nấu bằng chảo lá sen, hết chảo nầy tới chảo khia. Trọn ba ngày nước bắt đầu rút rất chậm. Nghĩa cử hào hiệp đầy lòng nhơn ái của gia đình ông đáng cho đời ghi nhớ…."

 
Cách đây hai năm tôi về Tân Tây có thấy nền nhà củ vẫn còn y nguyên bên bờ ruộng.
Đó là lý do tại sao đất Cầu Huyện không phải từ họ Lộ mà của họ Nguyễn đó anh Cao Thệ ơi. Tội ngại viết về gia đình mình nhưng tôi rời Gò Công sớm nên chỉ biết chuyện trong nhà thôi, xin thứ lỗi.
Nói tiếp là ông bà Nguyễn văn Tá và Phan thị Vân cũng để cái nhà mình ở cho con gái sau là Nguyễn thị Lúa và rể là Lê Ngoc Anh. Như vậy là hai ông bà bắt hai chàng rể về ở trong đất nhà.
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Jan/2012 lúc 11:03am

 

 

Chú Mười Lăm kính !

Cám ơn Chú đã giải thích tường tận về khu đất của Bà Nguyễn Thị Mai

Nhưng Cháu vẫn còn hai câu hỏi, rất mong được Chú giải thích:

Một là:

- Phần đất từ con rạch nhỏ phía sau nhà dài lên đến tận Ông Ba Khoa Chú chưa nói.

- Và căn nhà ba gian trước sân trồng kiểng trong vuông đất Bà Nguyễn Thị Mai đối diện với cửa hàng bán vật liệu xây dựng của Cô Mười Niềm là ai ?

Xin Chú giải thích thêm, cám ơn Chú !

 

Hai là:

- Theo Như lời Chú nói  : Tôi ngại viết về gia đình mình …”

Nhưng đã lở bật mí rồi,  không nói tiếp nữa thì cháu thấy sao sao đó, tài liệu Cháu soạn tự dưng bị đứt ngang hông thật là buồn, vì vậy đánh liều hỏi Chú thêm một câu nữa rất mong được Chú trả lời và cũng để khỏi phụ lòng Chị Mỹ Kiều đã cưu mang :

“ Xin tiếp tục viết thêm và viết nhiều cho thế hệ con cháu mai sau biết về quê hương Xứ Gò “.

 

Cháu xin được phép hỏi:

Ông Thôn Lộ Công Trứ ở Tân Niên Tây là gì của Ông Lộ Công Tập ?

 

Nghe nói lại thời đó, Ông Lộ Công Trứ  rất giàu.

Hằng năm nhận báo “ La Fayette, Au bon Marché” từ bên Tây gởi sang quảng cáo. Nhờ vậy, vật dụng trong nhà thuộc hàng “ xịn” như  đèn manchon, mái hát, vải lụa, đủ các loại rượu, được nhập từ bên Tây về.

- Chén đĩa bằng sứ sản xuất từ tỉnh Limoges phía Nam nước Pháp  

- Ly tách, bình, bằng pha lê xuất xứ  vùng Vosges nổi tiếng của Pháp gần Thuỵ Sĩ.

 

Ông lại là một nghệ sĩ kỳ tài sử dụng Đờn Kìm, Đờn Tranh điêu luyện.

Trong lễ ngũ tuần của Vua Tự Đức, ông được mời ra Huế trình diển, được Vua ban hai đồng tiền bằng bạc có khắc chữ “ Tự Đức Thông Bữu”

Hỏi nhỏ Chú có giữ được đồng nào không ? xin post lên cho con cháu xem !

Cháu rất mong được Chú cho biết thêm chi tiết hơn.

Thành thật cám ơn Chú

 

Cao Thệ



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 04/Jan/2012 lúc 4:22pm
 
 
Cám ơn anh Cao Thệ chú ý gia đình họ Lộ. Tôi sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi của anh.
Dể bắt đầu tôi xin gởi anh một bài sau đây viết về ông Lộ Công Trứ, chú của ông nội tôi, Lộ Công Tập.
 

Lai lịch một dòng họ có truyền thống y dược

Người có món thuốc xổ nổi tiếng ở Gò Công là ông Hai Nhơn (tên thật là Trần Ngọc Nhơn) quê ở làng Tân Niên Tây, cách chợ Gò Công 6 cây số. Ông Hai Nhơn là rể của ông Thôn Lộ Công Trứ. Thôn là chức vụ giữ công nho (tức ngân quỹ) cho Hương chức Hội tề trong làng. Ông Thôn Trứ là nhà giàu, về già mỗi năm hai kỳ nhận được cuốn quảng cáo ở bên Tây gởi qua như “Au bon Marché, La Fayette”. (Cứ đầu Thu và Xuân, ông được hai cuốn). Do đó, ông sắm được đồ chế tạo bên Tây như rượu, vải lụa, đồ đăng-ten (rừng), chén đĩa bằng sứ tỉnh Limoges, ly tách và bình bằng pha lê ở vùng Vosges, đèn "manchon", dàn hát máy, kẹo, bánh... Ông Thôn Trứ đờn kìm (nguyệt cầm) lẫn đờn tranh thiệt hay. Khi vua Tự Đức ăn lễ ngũ tuần, có mời ông ra Huế đờn. Ngoài số tiền thưởng, ông được vua lặng hai đồng tiền bằng bạc, có khắc chữ “Tự Đức Thông Bửu”.
Ông Thôn Trứ có cô con gái út giỏi đờn tranh, nhưng cô ta nay đau mai ốm (bịnh suyễn). Hồi còn trẻ, cậu Trần Ngọc Nhơn goá vợ nhưng bảnh trai nên cô gái đem lòng thương, năn nỉ cha gả cô cho cậu Hai Nhơn. Ông Thôn Lộ Công Trứ nhận thấy cậu Hai Nhơn ruộng đất chẳng có bao nhiêu, lại không nghề ngỗng. Đã vậy, cậu Hai còn mê hốt me, mê đá gà, nên tuy gả con cho cậu, nhưng ông Thôn Trứ chỉ cấp cho con gái 20 mẫu ruộng, ăn mãn đòi thì phải giao trả cho em ông Trứ là Lộ Công Luận. Tuy là tạm thời thực lộc chi thê, nhưng cậu Hai Nhơn từ thời trẻ đã có món thuốc xổ gia truyền, đó là loại thuốc thuồn (thuốc viên nhỏ).
Thuốc này có hai vị chánh là hắc sửu và đại hoàng. Hắc sửu được ngâm với nước tiểu mấy thằng con nít (đồng nam) rồi trộn với các vị khác, đem tán nhuyễn, rồi sau hết, trộn với hồ nấu bằng nếp. Sau đó, thuốc được se từng sợi lớn có mức đũa, cắt từng viên nhỏ, vò cho thiệt tròn. Thuốc xổ này êm dịu, loại nhuận trường đúng hơn, lại giúp bịnh nhân thông hơi, hết no hơi sình bụng. Nhờ món thuốc xổ gia truyền, mà ông Hai Nhơn ăn xài phong lưu vẫn hốt me và đá gà đều đều.

Tôi không nhớ là của ai viết.
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 18/Jan/2012 lúc 2:43pm
 
 
Anh Thệ thân mến,
Tôi trả lời anh là ông Lộ Công Trứ là chú ông Lộ Công Tập là không đúng lắm! Là người "gỏ đầu trẻ" nên tôi quen nói chuyện gì cũng rõ ràng. Mà Người Pháp có nói "l'image vaut mille mots" nên tôi xin phép gởi hình gia phả cho dễ thấy.
 
 
 
 Nhìn hình tông chi mà cắc nghĩa như sau:
Thời nhà Nguyễn, triều đình sai Nguyên Tri Phương vào Nam khai thác đất đai. Ông Lộ Công Tý làm phó tướng vào khai khẩn vùng Gò Công và Tân An. Sau nầy hai ông Nguyễn tri Phương và Lộ Công Tý được phong chánh và phó thần Gò Công. Ông Lô Công Tý là ông sơ của bác sỉ Trần công Đăng. Em ông Lộ Công Tý là Lộ Công Hội là ông sơ của chúng tôi. Ông Hội có vợ truóc là Nguyễn thi Sang (bà chúa Ngọc ở làng Thuận Mỹ, Tân An). Bà là người Huế trốn vào Nam, đổi tên, làm con nuôi của một người nông dân. Bà có chồng là Lộ Công Hội. Bà làm lụng, nấu cơm nuôi lính nên được Triều đình cho nhiều ruộng đất tại làng Thuận Mỹ, Tân An. (Anh tôi thầy Lộ Công Bích có thuật lại là ngày xưa anh đi theo ba chúng tôi là Lộ Công Ngọc để thâu lúa ruộng bên Tân An. Đến lúc ba chúng tôi mất anh Bích sang thâu lúa một mình thì nghe người trong làng nói "thầy Bích sang". Thầy Bích hỏi dân trong làng "tại sao lúc ba tôi sang đây, mọi người nói có ông Chèn Hen qua mà không gọi là thầy Ngọc". Họ trả lời là tránh tên bà chúa Ngọc nên không gọi là thầy Ngọc. Khi bà Nguyễn thị Sang mất ba người tá điền họ Châu chia nhau một phần lớn ruộng đất của bà Sang và làm mả cho bà rất lớn. Họ Không biết tên thật của bà nên ghi là Châu thị HUẾ vì biết bà từ Huế vào (nói giọng Huế). Năm Đinh Sửu thầy Bích trùng tu mộ lại và sửa tên lại là Nguyễn Thái Nhu và đến cám ơn ông Châu Văn Ba đã bao năm chăm sóc ngôi mộ).
Bà Sang và ông Hội có hai trai một gái là Lộ Công Đường (nhánh hai ông Lộ Công Huấn và Lộ Công Trạch), Lộ thị Thinh và Lộ Công Ân (ông cố chúng tôi). Ông Lộ Công Hội lấy người vợ thứ hai là Nguyễn thị Hòa có bốn người con là Lộ thị Huyền, Lộ Công Trứ, Lộ thị Mực và Lộ thị Tấn. Ông Lộ Công Trứ được hưởng phần ruộng còn lại của ông bà Hội-Hòa.
Ông Trứ chỉ có một người con gái là Lộ thị Kế (vợ thầy hai Nhơn bán thuốc) là bà ngoại của bà Trần thị Pauline (Mô Linh). Hiện nay cô Pauline vẫn bán thuốc tại Gò Công nhà gần miễu Bà, bên hông nhà ông cả Nguyễn văn Tùng (ông nội của Nguyễn Chi Lan, mẹ ca sỉ Mộng Thi).
Bà Nguyễn thị Hòa không có cháu nội đích tôn nên giao ruộng đất lại cho con cháu của bà trước Nguyễn thị Sang các nhánh Lộ Công Huấn, Lộ Công Trạch và Lộ Công Tập.
Dong dài để nói rõ ràng tông tích của Lộ Công Trứ được ghi lại trong bài "Lai lịch một dòng họ có truyền thống y dược".
Mong trả lời được phần nào câu hỏi của anh.

 

http://groups.yahoo.com/subscribe/fropki -



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 18/Jan/2012 lúc 10:35pm

Chú Mười Lăm Kính !

 

Cháu thường nghe nói gia đình Thầy Bích hằng năm đi thâu lúa ruộng bên Tân An, nhưng xem tài liệu lại thấy họ Lộ ở Tân Tây, giờ được Chú giải thích thật rõ ràng, xin chân thành cám ơn Chú.

 

Thưa Chú, Trên Nhà Lầu ở Đồng Sơn, Bà Tám Huê và Bà Chín Đào dường như có họ hàng với họ Lộ phải không Chú ?

 

Cao Thệ



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 19/Jan/2012 lúc 11:35pm
 
Để đáp ứng lời yêu cầu của mykieu tôi xin nói tiếp về "xóm Cầu Huyện".
Tôi xin nói về đường Tổng Thứ. Con đường nầy chạy trước nhà chúng tôi mà trong bản đồ vẻ năm 1882 có ghi là "rue". Ngày xưa đường Tổng Thứ chạy từ cầu Huyện đến Ao Trường Đua (tôi vẫn gọi là ao chứ không quen gọi là hồ, như bây giờ, nghe sao mà khó chịu lỗ tai quá!!!). Bây giờ đường nầy đổi tên lại là đường Nguyễn Huệ.
Vậy ông Tổng Thứ là ai? Thật ra chúng tôi đã đặt câu hỏi đó từ lâu mà không có trả lời được! Mãi cho đến khi thầy Phan Thanh Sắc, trong lúc dịch các tài liệu chánh thức của tỉnh Gò Công đã thấy trong tờ tương phân của bà Trần thị Sanh người chứng nhận là "Lê Quan Thứ, chef de canton" (Lê Quang Thứ, cai tổng). Như vậy đúng là ông Tổng Thứ của tên đường nầy.
Vợ ông Tổng Thứ là bà Huỳnh thị Ngởi, chị ruột của bà Đốc phủ Nguyễn văn Hải và là con gái áp út của ông Huyện Huỳnh Đình Ngươn và bà Dương Thị Hương. Ông Tổng Thứ đã được thăng chức huyện hàm. Do đó có thể tên cầu Huyện cũng từ "Huyện Thứ" mà ra.
Mặc khác, tôi được biết là nhà đâu mặt với nhà chúng tôi là nhà của rể ông Tổng Thứ, tức là ông hội đồng Võ văn Can. Ông Hội dồng Can có vợ là bà Lê thị Anna (con gái ông Lê Quang Thứ như đã nói ở trên). Ông có ba người con: Trực, Minh, Quân. Người con thứ hai của ông, Võ thị Minh Solange tức là bà bác sỉ Trần Công Đăng và là mẹ vợ của bác sỉ Lê Ngọc Diệp, cựu thứ trưởng Thanh niên và Thể thao.
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Jan/2012 lúc 6:42pm


CÁM ƠN ANH MƯỜI LĂM , ANH CAO THỆ VÀ ANH LỢI QUAN.
XIN TIẾP TỤC  VIẾT THÊM NHỮNG TƯ LIỆU QUÝ BÁU VỀ QUÊ HƯƠNG XỨ GÒ MÌNH

MK













-------------
mk


Người gởi: hoangngochung
Ngày gởi: 20/Jan/2012 lúc 10:04pm



-------------
hung0989077120@ahoo.com


Người gởi: cao the
Ngày gởi: 21/Jan/2012 lúc 11:14am

Chú Mười Lăm, Chị Mỹ Kiều và Anh Hoàng Ngọc Hùng kính !

Cám ơn Chú đã viết cho một tài liệu thật quý

Cám ơn Chị và Anh đã ghé thăm và gởi thiệp Xuân

Xin chân thành chúc Chú, Chị và Anh hưởng Mùa Xuân an lạc, vạn sự như ý và gia đình tràn đầy hạnh phúc

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 26/Jan/2012 lúc 6:46am

CHỢ LONG THUẬN

 

Khu vực chợ Long Thuận ngày nay, xưa là ruộng được bao bọc bởi đường đi Bình Ân, Nguyễn Huệ và hẻm Đồ Chiểu khoảng hơn một mẫu tây. Vỏn vẹn 1căn nhà và 6 -7 chòm mả nổi giữa vùng đất trũng, ruộng thật sự cấy lúa chẳng còn được bao nhiêu.

Thời tôi còn nhỏ 5 giờ sáng, nằm ngủ nướng còn nghe tiếng  gọi tập họp công cấy, từ chiếc “ tù và “ làm bằng sừng trâu, người đầu nậu thổi tẹo …tí …tẹo,…   tẹo .. . tí . . . tẹo, reo vang trên đường lộ, tính đường chim bay nhà tôi với những đám ruộng  không xa lắm nên đem khuya thanh vắng, nghe rõ tiếng gọi nhau nói chuyện nô đùa của các công cấy vang vang, thỉnh thoảng còn nghe hò đối đáp chọc ghẹo giữa các cô chú nam nữ.

 

Thật tình tôi không biết miếng ruộng đầy những chòm mả của Bác nào trong xóm, nhưng từ thuở nhỏ tôi rất kính phục nghĩa cử của gia đình này.

Ngày ba tôi lìa đời, Bác Tư Lục Lộ dẫn anh tôi đến nhà xin một tiếng, vị chủ ruộng ra đến nơi chỉ tận chổ cho các anh, chú đào huyệt.

Ngày chôn Ba thật là buồn, các cô chú bác đứng trên bờ, chỉ những người trong gia đình và người phụ chôn cất là xăn quần lội ruộng, chổ đặt chân xuống ruộng đầu tiên sau này là tiệm cám, anh em tôi vừa đi vừa té, nước sình văng  ướt mặt mày đầu cổ.

Bảy năm sau đó, ngay nền chợ bây giờ Bà Nội tôi cũng được an nghỉ;  Nhưng Ba và Nội tôi có được an nghỉ đâu !!!

 

Thời gian nầy trên phần đất ruộng chỉ có một quán bán tạp hoá của Bác Mười Thành nằm ngay đầu hẻm Đồ Chiểu bây giờ, bên hông nhà là bãi rác nhỏ sau này Cô Tám Kiểu đến dựng nhà ngay trên bãi rác ấy.

Dưới ngã tư Bình Ân, Chú Mưòi Giả bên này đường cũng đào một cái ao gần những chòm mả, đất đấp nền trồng rau, ớt, trồng quanh cả trên mồ mả và ven lối đi.

Khu chòm mả này một thời tôi đi đốn củi, những bụi lứt có cây to bằng ngón tay cái, những lùm gai chùm lé có cây bằng ngón chân cái, đã giúp gia đình có những buổi cơm ngon

Tôi nhớ từng ngôi mã đá quanh chợ hiện giờ, những ngôi mã táng bằng đá ong rộng lớn phía trông, nơi đây cứ mỗi độ đông về dây Thiên Môn Đông, từng nách lá hoa nở trắng phau thành dòng toả hương thơm ngát.

Mùa mưa đêm soi ếch, nước nổi lúa trổ thì giăng câu cấm.

Những ngày giáp tết đi mót lúa, những nhánh lúa ngã rạp trên gò mà người thợ gặt cố tình bỏ xót lại cho lũ chúng tôi, những khu nước trũng cá gom về chúng tôi be bờ tát cá, những chú cá rô mề cở hai ba ngón tay phùng mang lóc dưới sình, những con cá lóc kèo cửng nhảy vọt, chúng tôi rượt đuổi tranh nhau. Đứa nào bắt được tay đưa cao con cá miệng cười hô hố.

Đến khi ruộng khô thì đánh trỏng, đá banh, thả diều.  Tuổi thơ  lũ chúng tôi trãi dài trên từng tấc đất ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ. Trên mãnh ruộng thân thương này cũng là nơi nằm nghĩ của bạn bè họ hàng thân tộc.

 

Đối diện với nhà Cô Chín Xô, Chú Hai Cám cho đào ao đấp nền nhà, sau đó cất ngôi nhà ngói ba gian và tiệm cám. Cái ao nước hình chủ nhật sát phía sau nhà mỗi buổi sáng ánh nắng rọi xuống ao chiếu lên vách  những vệt sáng lung linh kỳ ảo, thầy địa lý cho là xấu lắm, công việc làm ăn đang phát đạt thấy rõ. Một ngày nọ, Chú phải đi lấy cám ở trên Cây Lậy - Mỹ Tho, thời đó Bắc Chợ Gạo còn kéo tay nên tốn rất nhiều thời gian đi về. Khi xe đò lên đến Thạnh Trị thì việt cộng đấp mô, chờ lâu không thấy lính đến giải tỏa, sợ đi về trong ngày không kịp chú xuống xe đi bộ qua mô đất, người ta nghe tiếng chốc chùm trong xóm xa vọng ra Chú Hai ngã xuống. Mấy ngày sau nơi Chú ngã xuống một cái miếu nhỏ mọc lên ven đường.

Định mệnh kỳ lạ làm sao, trước tiệm cám có khoảng sân rộng để xe vào lên xuống hàng, giáp ranh với nhà Cô Tám Kiểu có trồng cây chùm ruột rất sai trái, trong một đêm phục kích lính kéo xác một tên việt cộng bỏ nằm gần cây chùm ruột. Nghe nói tên này là tỉnh uỷ viên đêm lén về thăm nhà bị bắn chết, trên ngực áo dắt đầy viết phải trên 10 cây Paker, loại viết mà Phan Nhật Nam tả Võ Đông Giang sử dụng giữa cuộc họp bốn bên trong quyển truyện “ Mùa Hè đỏ lửa”, lũ học trò chúng tôi nhìn xem thèm thuồng.

 

Sau khi nhà Hai Cám được cất,  Chú Hai sửa xe đạp sang lại miếng đất của Chú Mười Giả cất một căn nhà lá ba gian rất khang trang. Bên hông nhà dọc theo con lộ đi Bình Ân còn khoảnh ruộng, là khu mặt tiền chợ hiện nay Chú Mười Giả trồng rau muống

Chú Hai sửa xe đạp dạy con rất nghiêm khắc đứa con trai duy nhất tên Cần mỗi lần trốn chạy chơi với chúng tôi về là bị đòn ngang đòn dọc, thật là tội nghiệp, bạn bè chẳng dám đến gần, sợ bạn bị đòn. Bạn ngồi trước cửa nhìn chúng tôi chạy giỡn với ánh mắt thèm thuồng tội nghiệp.

 

Hẻm Đồ Chiểu đi vào đến nhà Bác Ba Núm quẹo trái, ngay chổ cua quẹo dưới ruộng là một chòm mả to, Chú Tám Méo đào ao lấy đất đắp nền và cất một căn nhà lá nhỏ, lại cũng cái ao lấp lánh ánh nắng buổi sáng chiếu rọi vào nhà, một buổi chiều nghe tiếng la làng dậy xóm người ta võng lên bệnh viện Chú Tám đã ra đi, nghe thiếm Tám nói Chú Tám bệnh Suyễn, lên cơn không chửa kịp, cũng tại căn nhà này Thiếm Tám bị “ trúng gió” làm méo miệng nên có biệt danh là Tám Méo từ đó.

 

Anh Ba Đực con chú Mười Thành làm bên Trường Tiền, lại cũng đào ao lấy đất đấp nền phía sau quán Chú Mười cất nhà dọc theo hẻm, nhà ngói rất bảnh.

Rất nhiều con, nên chị Ba bán chè trôi nước, trưa trưa gánh chè đi bán quanh xóm, mỗi lần nghe tiếng rao “ siêu …nước…h..ô..n “ của chị, bọn tôi thèm nhỏ nước miếng, chẳng biết bánh có ngon không nhưng tiếng rao sao đặm đà ngọt lịm !

 

Chị Ba gà, đón mua bán gà vịt mỗi sáng thường ngồi trên ngã tư cạnh nhà Cậu Mười Niềm nhận thấy một số người ở Tân Tây, Bình Ân đi thẳng đường Hộ Mưu lên chợ nên cho con gái xuống mua hàng trước của nhà Chú Hai xe đạp.

 

Người dân quê chỉ có lúa, ít ai có tiền, cho nên việc trao đổi lúa để lấy hàng hoá với nhau là bình thường. Làm con heo 1kg thịt được quy ra bao nhiêu kg lúa, thế là người ta đem lúa đổi lấy thịt. Những khi cần đi chợ khuya ra chuồng bắt một vài con gà, vịt cho vào giỏ hoặc đem theo mớ trứng gà,  trứng vịt, trên đường đi ghé vào điểm mua gà vịt nào đó bán lấy tiền, lên chợ mua hàng, các điểm mua gà vịt ép giá người bán, sau đó ép cho gà vịt ăn, họ dùng ống bơm, bơm thức ăn vào cân nặng đem bán lại.

Chị Ba gà sau đó thấy giữa nhà Chú Hai xe đạp và Chú Hai Cám còn khoảng ruộng trống có chòm mả nhỏ, thuê xe bò chở đất cất lên căn nhà ngói nhỏ ở đây cho tiện việc mua bán.

Như vậy toàn thể  vỏn vẹn chỉ có 7 căn nhà và 6-7 chòm mả trên miếng ruộng này. Hàng rào nhà bít kín đường vào ruộng khó khăn, sân chơi chúng tôi được dời xuống khu ruộng trước nhà máy xay lúa, hoặc chơi ké với các bạn bên Xóm Nhà Thờ trước Thánh Thất Cao Đài trên đường Hộ Mưu, những nơi này các trò chơi đá banh, đánh trỏng, thả diều được người đi đường hưởng ứng đông vui mỗi chiều.

 

Ngày cộng sản vào thành phố, nơi an giấc nghìn thu của các vị tiền bối chúng ra lệnh đào, cuốc đem đi nơi khác. Ba và Nội tôi được bốc lên dùng củi đốt tại chổ cho xương vào hủ đem về nhà thờ.

Mồ mả đã di dời bãi đất bỏ hoang rất lâu, tình cờ đi thăm người bạn nuôi tôm ở Vàm Láng tôi trông thấy ngôi chợ Long Thuận trên mãnh đất nhiều kỹ niệm này.

Biển quá cồn dâu. 

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 01/Feb/2012 lúc 10:30pm

CHĂN VỊT

 

 

Trước Tết vừa rồi tôi về Bình Phú Đông đi chăn vịt chạy đồng với anh em thằng Quang con Chú Năm Mạnh, Ba thằng chúng tôi ngủ trong chòi y như con nít chơi, cắm mấy cây cột gát lên nóc mấy cọng lá dừa cho thêm ít rơm trên nóc, dưới đất lót một lớp rơm dầy để ngủ, cái mùng , cái mền gối ngủ đen thui, mọi sinh hoạt đều ở bên ngoài chòi.

Mùi phân vịt, mùi mùng mền hôi không chịu nổi, tiếng vịt oan oan suốt đêm ngày thế mà ba thằng đều an nhiên tự tại.

 

Sáng sớm gió heo may lành lạnh, thằng Quang thức dậy công việc đầu tiên nhổ tấm lưới,  bầy vịt cả ngàn con tranh nhau ra chuồng tiếng kêu cạp cạp vang một góc trời, tôi đang cuốn mình ngủ nướng vội chui ra khỏi tấm nóp nhìn bầy vịt trắng phau đang bơi lội, thi nhau quạt cánh rỉa lông, rỉa mồi kiếm ăn ven ao.

 

Mặt trời đỏ rực nhô lên sau dãi lá dừa nước hàng cây ven sông, sương mù mờ mịt cả một vùng ánh sắc đỏ hồng điểm tô trời nước.

Máng vội chiếc nóp ướt sương đêm lên hàng rào, tôi chọp cây gáo múc nước cho vào miệng xúc qua lại, vuốt hai bàn tay ướt lên mái tóc. Công việc hằng ngày mà tôi khoái nhất cầm nhanh cần xé đi vào chuồng, trứng vịt trắng như những hòn đá cụi đầy khắp. Quang và tôi nhặt cho vào hơn nữa cần, phải 600-700 trứng đêm nay.

Anh Quý lum khum dội nước làm vệ sinh mấy nắp máy, xong vác bao lúa đổ vào cho vịt ăn, thằng Quang nói với tôi vì mùa đẻ trứng phải cho ăn dậm thêm, xong việc anh lên  ngồi trên bờ lộ nhìn bầy vịt xôn xao tranh ăn, phì phèo nhả khói thuốc  nói:

- Tụi bây áo, nón đầy đủ chưa sáng sương mù kiểu này trưa nay nắng như đổ lửa.

Mỗi người chúng tôi cầm một cây trúc dài đầu buộc tấm vải lòng thòng dùng để lùa vịt, lên ngồi trên mép lộ ngó mong.

 

Mờ mờ hình bóng người đàn bà vai quảy gánh thong dong “ Bánh mì đây !”

Lũ con nít hai bên lộ nghe tiếng rao thèm nhỏ dải, đây là thực phẩm quý hiếm chỉ phục vụ cho người giàu có. Buổi sáng ôm tô cơm nguội ăn với cục đường tán đã là cao cấp rồi, nhiều đứa chỉ uống gáo nước lạnh óc ách bụng là xong buổi sáng ôm tập chạy u đến trường !

Bác Tư trong bộ bà ba đen vá chi chít trên vai, đặt gánh xuống. Tay cho vào bao bố miệng hỏi : Mấy ổ đây ?

Anh Quý đáp gọn hơ: 6 ổ

Bàn tay nám đen gầy guộc lôi ra 6 ổ bành mì “ Pa gết dài lòng thòng “ cười híp mắt:

-         Nóng hỏi nè.

-         Lạnh tanh ! Bao nhiêu ?

-         Một chục.

Kể cũng hay hay, ngoài chợ chục là 10 ở đây chục 14, giá cả không đổi.

Thằng Quang đếm đúng 14 trứng vịt giao cho Bác Tư.

Bác Tư nhà trong xóm với thằng Quang chồng chết để lại 3 đứa con nhỏ,  bác buôn bán nhọc nhằn nuôi con. Hằng ngày 1-2 giờ khuya Bác đã thức dậy gom những món hàng Bác đổi được ngày hôm qua đi chợ sớm để bán, lấy tiền mua bánh mì, bỏ vào 2 bao bố đặt trên 2 thúng, Bác gánh đi từ Chợ Gò qua Long Chánh, Bình Công, Bình Phú có hôm ế bác đi đến nhà quen tận đâu Đồng Thạnh đổi gạo lấy bánh, thật là vất vả.

 

Thằng Quang chiên trứng vịt kẹp vào bánh mì nó chia mỗi người hai ổ

Tôi được ưu tiên đi trên đường lộ dọc theo ruộng, Quang bì bỏm đi trước, lùa vịt tránh những thửa ruộng chưa gặt, anh Quý lội nước đi phía sau, người đi sau đàn vịt phải tinh ý, nhanh mắt, thính tai. Trên những cánh đồng lúa đã được gặt xong gốc rạ cao ngất, chứ không như những gốc rạ  bây giờ được cắt tận gốc,  ban đầu vịt len lỏi đi dưới những gốc rạ, cả đàn cứ quần qua quần lại riết, những gốc rạ ngã rạp xuống có nơi khắn dưới bùn sình. Người làm ruộng thường đốt các gốc rạ làm phân bón ruộng mùa sau, nên vịt vào ruộng thường chủ ruộng không vui.

Người xấu đào những hố sâu nho nhỏ vịt đi qua lọt xuống thế là mất. Tinh mắt để nhìn thấy trứng vịt đẻ rớt, thính tai để nghe tiếng kêu những con vịt đẹt lạc bầy, bị nạn kẹt lại đâu đó.

Long nhong trên lộ, tôi thích nhìn những em học trò nhỏ gặp người lớn nào cũng  đứng nghiêm khoanh tay lễ phép chào hỏi, duy nhất ở Gò Công làng Bình Phú Đông dài lên Đồng Sơn các học sinh được Thầy Cô giáo dục như vậy, một nét đẹp văn hoá, để theo kịp thời đại mới hiện giờ đã mất đi !

 

Chúng tôi ngồi trên bờ móng quan sát đàn vịt ăn kêu cạp cạp, rào rào dưới những góc mạ, chợt tôi bắt gặp con vịt có bờm màu trắng trên đầu từ dưới gốc rạ bay lên rượt đuổi con cào cào, châu chấu gì đó, bổng tôi nhớ đến cô học trò ngang bằng tuổi vừa chia tay, nhớ đến Tươi thằng bạn mập ú trắng bóc, nhớ đến những ngày tháng vui đùa ngắn ngủn qua mau, bất giác thấy buồn trong lòng. Tôi chợt thèm có cha mẹ bên đời như bạn tôi, tôi chợt thèm cuộc sống bầy đàn, như đàn vịt dưới ruộng kia.

Mới ngần tuổi đầu trong thời gian chẳng là bao tôi đã thắm thía nhiều cuộc chia ly

-         Cuộc chia ly với Ba tôi vội vã đến không ngờ

-         Chị em chúng tôi tan tác như đàn vịt vỡ bầy

-         Giữa tôi và mẹ làm thành nổi nhớ kéo dài không biết đến bao lâu !

-         Gần đây nhứt, hai đứa học trò những người bạn trẻ thơ trong sáng như chiếc phao cuối giữa dòng đời cũng bị lấy và cuốn trôi đi biền biệt.

Ngồi bên bờ quạnh hiu này nghĩ đến cuộc chia ly đã ra đi hình dung những cuộc chia ly sẽ tới lòng dâng lên những nỗi niềm chua xót, bất giác hai dòng lệ nóng trào dâng!

Thằng Quang ngồi bên hút sáo tía lia tay bẻ nhánh lứt cạo bùn sình dính trên bắp chuối, từng vệt sình rơi xuống đóng thành giề,  thấy tôi quẹt mắt nó lăng xăng hỏi ;

-         Cái gì vậy ?

-         Con gì bay vô mắt tao !

Trong một không gian thời gian như nhau, hai thằng hai tâm tư khác nhau, tôi chạy đuổi theo những tình cảm xa lơ xa lắc, thằng Quang thực tế hơn cạo sình dính chân, vì vậy một thằng buồn khổ, một thằng khoan khoái yêu đời !

Phải chăng, Hạnh phúc là sống ở phút giây này tại đây ? Krisnamurti đã nói như vậy.

 

Tiếng chị gái Quang gọi như hét trên lộ

- Quang … Quang … Quang lên lấy cơm nè, hôm nay đi xa vậy, … kiếm mệt muốn chết !

Hai thằng tôi chạy u lên đường

Ba thằng quây quần dưới bóng mát cây me, bên thúng cơm nóng hỏi, trời chói chang ánh nắng, không một chút gió, ăn cơm mà như rượt đuổi vịt khi chúng xông vào những ruộng lúa chưa gặt, ba thằng mồ hôi chảy xối xả ướt cả mặt mày, áo xống !

Nghề nuôi vịt chạy đồng rất vất vả, cực nhọc, phải ăn bờ nằm bụi, dầu dải lăn lóc với nắng mưa, gió rét từ lúc mới bắt vịt con về cho đến lúc bán đi.

Mùa gặt, ruộng có nhiều những cua, cá, cào cào châu chấu và lúa đổ trên đồng, người nuôi vịt chạy đồng giảm bớt chi phí thức ăn. Nhưng cuối năm dịch hoạ nguy hiểm luôn rình rập đối diện hằng ngày, bầy vịt cả ngàn con  nếu chậm giải quyết người nuôi vịt trắng tay chỉ mấy ngày sau đó.

Gia đình Quang theo nghề nhiều đời truyền nối, bí quyết tuyển chọn vịt giống, chăm nuôi không người kinh nghiệm bằng, nhưng bệnh dịch chẳng chừa một ai ! vệ sinh chuồng trại, thay đổi liên tục nhưng bệnh đến cũng bó tay, nợ từ đợt nuôi trước kéo dài đến đợt nuôi sau như món nợ trần ai nối truyền nhau phải trả.

Nghề đi liền với nghiệp

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 26/Feb/2012 lúc 10:17am

CẮM CÂU

----o0o----

 

Thằng Cai ngồi bẹp dưới đất, bành hai chân bên đóng dăm tre nó vót cần câu cắm.

Tay trái cầm cây mác dài sọc ngón trỏ được quấn vãi kín mít, kẹp thanh tre vào giữa lưỡi mác và ngón tay. Tay phải cầm thanh tre kéo tới kéo lui thật điệu nghệ, dăm tre uốn cong lên như người thợ mộc đẩy bào gổ, dăm bào thi nhau cuốn lên .

Lũ chúng tôi thường chọc nó “ Tay trái bóp d…không đau”, nhưng trong trường hợp này tôi thấy bàn tay trái của nó siêu thật, chỉ cần 4 - 5 lần kéo tới kéo lui mà người ta gọi là vót, một cây cần câu cắm hình thành, đầu cần câu dịu ngoặc, tôi vót sơ vài cái dưới chân cho nhọn để dể cắm xuống đất và gọt trên đầu cần mấy nhát để buộc cho dây gân khỏi tuột là xong. Công nghệ làm cần câu cắm của hai thằng tôi “vươn lên tầm cao mới” nói theo kiểu mấy anh, mấy chú hiện giờ.

 

Chúa nhật trốn không đi Nhà Thờ, hai thằng chui vào bụi tre gai, nó chọn cây tre già trong kẹt, phải dọn những nhánh gai dài sọc, nó bảo phải cẩn thận kẻo gai tre mà đâm vào thì độc như rắn cắn, tôi bảo:

- Mầy sạo vừa vừa thôi

Nó nhìn tôi bằng ánh mắt chê bai, thuộc hàng chẳng biết gì rồi nó giảng một hơi

- Rằng, ngày xưa Chúa chỉ cho duy nhất một loài rắn nước là có nọc độc, các loài khác thì vô tư.

Một hôm trong làng  thằng bé tên Chẳn tắm ao vô tình bị chú rắn nước cắn, nộc độc theo máu làm tim ngừng đập, Chòm xóm thấy la làng lên “ Bà con ơi rắn cắn thằng Chẳn chết”. Sau đó người lớn vớt xác đưa lên bờ.

Vào thời đó thú vật đều biết tiếng người, con rắn nước đang núp trong bụi gai tre nghe thế nó nghĩ cắn không chết ta giữ làm gì bèn phun bỏ hết nộc độc, những loài rắn nghe thế tốc hành tiến về bụi tre tranh nhau liếm hết chất độc đó. Từ ấy rắn nước không còn độc nữa, Rắn thi nhau liếm hết nhưng chất độc vẫn còn ít nhiều trên tre, thành thử gai tre rất độc, bị gai đâm nhức thầu xương.

Tôi nghe chuyện phục lăn và cho nó thuộc vào hàng đỉnh cao trí tuệ loài người

Tỉa các nhành gai xong đến phần đốn, tre già cứng như sắt mẻ dao như chơi. Sau cùng cũng hạ được. Cây tre nhiều cành nhánh, nhánh cây này dan díu với nhánh cây kia hai thằng dùng hết sức chỉ kéo ra được chút ít, thằng Cai nó càm ràm hết biết. Tôi chạy đi gọi thêm thằng Long, thằng Bình tiếp cứu

Thằng Bình sức lực như voi một mình nó cây tre muốn chịu phép.

- Tao kéo cây tre ra tụi bây phải cho tao 2 khúc, không cho thì tao về.

Cai quạo lên mấy khúc cũng được, cả bốn thằng kéo được cây tre ra khỏi bụi phải đổ mồ hôi hột

Sau khi tỉa cành bỏ đầu cưa ra cũng được 6 khúc dài 7 tấc

Thằng Bình trở chứng không chịu lấy khúc nào bảo rằng:

- Chọc tụi mầy chứ lấy làm gì.

Tổ hợp cần câu cắm giữa tôi và Cai được phân công như sau:

- Cai làm cần câu

- Tôi chịu dây gân và lưởi

Mua lưởi câu về Cai chê lưởi câu như hình cái móc thùng gánh nước, cá ăn mồi chứ không ăn câu, phải uốn lại như hình quả trám mới được. Nó dùng kềm điện kẹp lưỡi câu cho vào bếp lửa đến màu đỏ lấy ra để uốn, tay trái mà khéo như nó lũ chúng tôi ai cũng chịu thua, 5 – 6 chục lưởi câu giống nhau như một, thật là tài.

Câu cá rô lúc chúc, cá lốc kèo cửng bằng ngón chân cái là mừng, mà nó làm như câu cá thu cá mập.

 

Mồi câu nó bảo, trùng để câu cá trê, mồi tôm dùng câu cá rô, mồi nhái câu cá lốc, nó y như dân chuyên nghiệp cắm câu vậy.

Đào trùng nó chọn loại trùng hổ to mập, đầu ánh sắc xanh mới bắt

Hông nhà tôi có hai mương ngày trước ba tôi đào, vớt cá Phi con thả xuống để bán, bây giờ tôi trồng rau muống cắt bán cho Bà Tư Lang, những buổi chiều mưa mát trời lũ nhái bầu núp dưới lá bắt cặp kêu “ngắc … ngan”  om trời đất, tôi bắt cho vào khạp.

 

Ôm cầu câu ra nhà tôi Cai nói đêm nay cắm câu, thế là lui cui móc mồi trùng, nhái thì cho vào giỏ ra đến ruộng sẽ móc vào lưởi câu

Chuẩn bị xong phải đợi trời tối hai thằng mới vác cần câu đi, đi sớm sợ các chiến hữu thấy chúng sẽ phỏng tay trên.

 

Thiệt là sui xẻo, chúng tôi đi vào khu vực gò mã là chợ Long Thuận hiện giờ bằng ngã vườn chú Mười Giả, những điểm chúng tôi chọn đã có người cắm trước rồi, lội dọc theo chòm mã đi lên hướng nhà máy xay lúa để lên lộ hai thằng theo đường Hộ Mưu đi đến cống lấy nước xuống bờ ruộng của Bác Tư Xung đi vào chòm mã thứ nhì.

 

Thằng Cai nói đây là đường nước chảy vào ruộng lủ cá tôm thường tụ tập kiếm mồi, cấm câu là tốt nhất.

Tôi chợt nhớ đến hai ngôi mã vừa mới chôn mấy ngày nay, tự dưng nổi da gà môi đánh bồ cạp, nghe lóc cóc Cai hỏi

- Bộ mày lạnh hả

- Thấy hai mã mới chôn tao lạnh giò quá

 

Thằng Cai nó chỉ tôi, co ngón cái vào lòng bàn tay bốn ngón còn lại quập vào vì ma dẩn đi, nó nắm ngón tay cái của mình. Nó không tìm được ngón cái là mình thoát. Còn nữa miệng phải đọc câu Thần Chú là: “ Giê Su, Maria, Juse ” sẽ đuổi ma chạy có cờ,  ba nó đã truyền cho lúc đưa má nó đi bệnh viện rồi một mình phải về nhà ngang qua cây me ông Thân Bính và khu nhị tỳ ở Cầu huyện mà chẳng con ma nào dám hó hé, bây giờ nó truyền lại cho tôi.

 

Trời ơi đi cắm câu mà nó bảo nắm hai bàn tay lại có ngộ không, làm sao móc nhái, làm sao cắm câu. Tôi ngồi gần bên mả, bắt từng con nhái móc vào lưởi câu miệng lầm bầm câu thần chú “Giê Su, Maria, Giu Se”

 

Thằng Cai dặn tôi phải móc lưởi câu vào cuối xương sống của con nhái, không chạm vào tim gan phèo phổi nên nhái sống dai, khi cắm câu canh cho con nhái vừa chạm mặt nước để hai chân sau nó tống nước gây chú ý cho cá

Bạn bè đứa nào cũng giỏi chỉ có tôi chẳng biết thứ gì.

Bắt đầu từ gò mả cắm dài đến Thánh Thất Cao Đài, Hai đứa lên cống trước nhà Bác Năm Truyện rửa giò theo đường Hộ Mưu trở về nhà.

 

Thằng Cai ngủ nhà tôi, khuya thức dậy sớm đi thăm câu.

Hai thằng nằm trên giường nói chuyện trên trời dưới đất, đói bụng Cai hỏi

- Mày còn cơm không

- Tao nhớ còn một ít

Nó xuống bếp bưng nồi cơm lên, nhưng không thấy thức ăn liền hỏi

- Ăn cơm với gì ?

Tôi trả lời tỉnh queo

- Với nước mắm, nhưng hết rồi.

Đợi tao một chút, nó chạy u về nhà đem ra một gói mắm sặc tổ bố

- Ông nội, để dành ăn sống hoặc chưn cơm mà ăn

Mắm sặc mà ăn với cơm nguội thật là bắt, loáng một cái sạch sẽ nồi cơm

Một gáo nước lạnh, no kềnh bụng hai thằng lăn ra ngủ tới sáng.

 

Chạy vội ra ruộng, gần 50 cây cần câu không dính một con nào, thằng Cai bảo:

- Mình bị tụi nó gở trộm rồi!

Quăng bó cần câu dưới sàn giường tôi ra sau nhà xuống đìa bập bởm vài cái, cho hai ống quyển sạch bùn rồi vội cột của, ôm cặp chạy miết đến trường.

 

Tối nay thằng Cai nói hay là mình vô xóm bờ kinh cấm câu, khu vực này không ai chú ý, lại né được mấy thằng phá đám.

Hai thằng cằm cây đèn soi nhái ven theo những bờ ruộng, khu vực này chúng tôi thường xuyên đi bắt dế nên rất thân quen, nền đất bỏ hoang nằm gần kinh Cầu Huyện, thằng Cai quan sát một hồi rồi nói ở đây có cá lốc  mình móc mồi nhái và mồi trùng.

 

Trên đường về, hai thằng vẽ hưu vẽ nai viển ảnh xách giỏ nặng đầy cá và bửa cơm canh chua, cá kho đang chờ sáng mai mà thèm chảy nước miếng.

Rút kinh nghiệm đêm rồi hai thằng không ngủ, hết ngồi nói dóc rồi lấy bài ra học, rồi ngồi nói dóc chẳng đứa nào dám ngã lưng.

Cứ bàn đến nồi cháo cá đải bạn bè tối mai, tô canh chua bông so đủa, ơ cá kho mà nôn.

 

Tôi cột cửa xách giỏ cằm đèn, hai thằng đi bộ đến nhà Bác Bảy xay hàng sáo mới dám xẹt hột quẹt thắp đèn.

Bác Bảy đang sàng gạo trong nhà nghe tiếng nhỏ to ngoài đường hỏi vọng ra

- Ai làm gì ngoài đó

Cai nhanh nhẩu trả lời

- Tụi con đi cắm câu

Bác Bảy tưởng chúng tôi cắm câu ở đìa của nhà bác

- Cá tao nuôi, tụi bây cắm câu, ngon quá há !

Hai thằng vừa đi vừa chạy, ngọn đèn phùn phực ánh lửa chao tới chao lui

Lại qua khu vực trường gà nhớ anh Minh anh Mẫn, con đường đi nhểu đầy vết máu ngày trước, tôi lại rùng mình da nổi gai

- “Giê Su, Maria, Giu Se”, “Giê Su, Maria, Giu Se”, “Giê Su, Maria … ”.

 

Hai thằng đi như chạy trên bờ móng dẫn vào khu vực nền nhà bỏ hoang.

Dưới góc cây Muối cây cần câu đầu tiên, rọi đèn tìm hoài không thấy, cây thứ hai, cây thứ ba ….. không thấy luôn !

Cả ba mặt của nền nhà hơn 50 cây cần câu chẳng còn cây nào, tôi ngồi một chổ bên cây đèn dầu buồn não ruột, chợt nghe thằng Cai la thất thanh từ lùm cây mây chạy ù về phía tôi, như cái máy đã lập trình sẳn miệng tôi :

- “Giê Su, Maria, Giu Se”, “Giê Su, Maria, Giu Se”.

Thằng Cai ú ớ ngồi sát vào tôi, tay chân run bần bật, miệng nói chẳng nên lời:

- M…a, m..a … ma

Tôi sợ muốn té đái trong quần, nhưng làm bộ tỉnh

- Đâu, ma đâu

Một lúc sau Cai bảo:

- Một cái đầu lâu trắng toát, toòng ten … toòng ten.

Trong bụng tôi nghĩ thằng này sạo, định nhát ma tôi . Ỷ lại vào câu thần chú nó cho, tôi nói:

- Tao mầy đến xem nào

Cai nói, khi nảy đi tới lùm cây mây, thấy cần câu tao bèn nhổ lên cần câu nặng quằn, dở lên thấy đầu lâu trắng toát tao quăng lên bờ, dười ánh đèn dầu leo lét, tôi nhìn thấy cục gì trắng toát trước mặt.

- Đây rồi.

Tôi bạo gan lượm lên, hoá ra đây là trái dừa điếc ai lấy vôi ăn trầu trét lên trắng toát móc vào lưởi câu, trời đêm tối đen mới nhìn như đầu lâu trắng toát.

Xin bái phục vị nào giấu cần câu cơm của chúng em.

Một ngày Chúa nhật, tiền bạc công sức đầu tư vào, bao mơ ứơc nhỏ nhặt đời thường gởi gắm vàơ hơn 50 cây cần câu cắm, đổi được trái dừa điếc bôi vôi.

 

Cao Thệ

 

 

 

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 08/Mar/2012 lúc 9:51am
                                             CỘ ĐÈN.

Năm nào đến dịp lễ Tết Trung Thu chị tôi cũng mua cho chiếc đèn xếp với mầy cây đèn cầy đỏ lòm cở ngón tay bỏ vào túi áo. Tôi vốn vô tích sự lại vụng về, chị tôi nói vậy. Năm nào không bị mưa ướt nhẹp thì cũng bị cháy mất xác do cây đèn cầy ngã. Năm nay tự do hoàn toàn tôi chọn cho mình một chiếc đèn vừa ý nhất.

                                                         

*

 

Thằng Long bảo :

- Mày làm chiếc tàu đi dễ ẹt hà !

Tôi đâu khéo tay như thằng Cai với thằng Hai Néo, chiếc tàu, con rồng của chúng nó là có sự tiếp tay của ba và anh. Tôi quyết định chọn làm lồng đèn ngôi sao 5 cánh … đơn giản mà dễ. Lấy giấy vẽ hình ngôi sao chăm chỉ đếm từng gạch dài ngắn trên tấm giấy vẽ,  có tất cả 10 thanh tre dài và 5 thanh ngắn.

Tôi lật chiếu lên,  nại tấm vạt giường bằng tre, chẻ nhỏ ra nhiều thanh và vuốt sạch sẽ.

Giai đoạn 1, ráp 5 thanh tre lại thành hình ngôi sao, sau cùng ráp hai khung ngôi sao lại, rồi lầy kẻm buộc hai đầu lại với nhau, thằng Long mau tay cởi mấy sợi thun đang đeo trong cườm tay nó ra quấn thật chắc.

Giai đoạn 2, cho 5 thanh nhỏ chống hai khung tre hình ngôi sao vào, rắc … rắc … rắc 3 thanh gãy ngang, 5 thanh để làm ngôi sao do không đủ chiều dài, ngôi sao tròn vo mập ú, không giống ai, thằng Long bảo :

- Tấm vạt giường của mầy lâu quá nên tre giòn dễ gãy, thôi bỏ đi.

 

Tôi vào nhà anh Chín Đức nan nỉ anh bán cho cây trúc , đi với anh Chín ra sau vườn thì gặp bọn phá nhà gồm thằng Rọt Nổ con Bác Mười, thằng Tư Niếng, thằng Năm mỏ nhọn, chúng nó đang lội dọc theo con rạch nhỏ chặt cốc kèn. Cười nói vang rân !

Chào tụi nó rồi vác cây trúc về nhà, tôi chia làm hai phần, phần gốc làm lồng đèn, phần ngọn làm cần câu.

Thật là tiện lợi không phải bỏ thời giờ ngồi vót tre cả buổi sáng, trúc chỉ cần chẻ ra là xong, kinh nghiệm đã làm qua nên nhanh chóng hoàn thành khung ngôi sao, bây giờ đến phần dán giấy.

Thằng Long nói:

- Phải mua giấy kiếng dán vào mới đẹp, chứ giấy bao tập xấu lắm. Giấy kiếng này chỉ có ở quán Năm Châu ở ao Trường đua, hoặc lên chợ.

Cằm cuộn giấy kiếng và gói bột trên tay hai thằng tôi vừa đi vừa chạy, buổi trưa mà trời ui ui, mây đen vần vũ, đài khí tượng Long nhìn trời quan sát một lúc rồi thông báo:

- Tối nay trời mưa

Tôi hỏi :

- Sao mày biết

Nó đáp tỉnh rụi

- Năm nào cũng vậy !

Cái thằng này miệng ăn mắm ăn muối nói linh lắm, tối nay mưa thiệt chứ phải chơi !

Về đến nhà, Long lấy gói bột cho vào chảo đổ nước quậy làm hồ dán

Cái phần dán giấy tưởng dễ hoá ra lại khó, cắt giấy phết hồ vào, cầm giấy dán lên thanh trúc, giấy tuộc lên tuộc xuống nhăn nheo, dán được một tấm thật là trầy vi tróc vảy chớ phải chơi sao !

Sau cùng thằng Long đề nghị là mình phết hồ lên thanh trúc rồi dán giấy lên  dể hơn, tôi lúc nào công việc gì cũng dở hơn các bạn, hoan hô Long.

Hai ngôi sao một màu xanh và một màu đỏ. Do phết hồ nhiều, lồng đèn màu xanh của tôi giấy kiếng nhăn nheo trông xấu quắc, Long nói mình thắp đèn cầy lên hơi nóng sẽ làm giấy căng ra, mà y chan như vậy ! Long thật là tài.

 

Hai thằng ngồi chống tay lên càm nhìn trời mưa rầu nảo ruột, nhìn cặp ngôi sao đẹp hết biết, không chừng chấm giải phải được giải ba giải tư gì đó, nhưng rủi mà không trúng giải cũng không sao phen này thằng Phước, thằng Dũng, thằng Tươi đám công tử bột chuyên xài đèn mua lát mắt hết.

Nôn nóng đợi giờ đi hai thằng van vái trời đất cho hết mưa, trời hết mưa.

Tụi nó gọi nhau ơi ới ngoài đường, hai thằng tôi cầm đèn dọt lẹ, chương trình đi cộ đèn được thông báo 6 giờ tối tập trung ở trường Nam Tiểu Học, đi cộ đèn vòng vòng chợ, sau cùng tập trung ở Sân Vận Động xem văn nghệ

 

Cái lũ phá nhà do thằng Rọt Nổ làm chúa đảng dẫn theo thằng Tư Niếng và Năm Mỏ Nhọn, tôi nghe tiếng các trò ở Gò Tre đi ngang la lên:

- Chơi gì kỳ vậy, chơi gì kỳ vậy !

- Đèn tao bị bằn thủng rồi !

À thì ra đám phá nhà vào vườn Anh Chín Đức chặt cốc kèn, cốc kèn là một loại dây leo mọc hoang dọc theo bờ sông lủ chúng tôi chặt khúc cở 4 phân bẻ lại thành hình chử V kẹp vào ná thun bắn lộn, bị bắn trúng da nổi đỏ bầm hình chữ V đau thấy mồ tổ. Hôm nay tụi nó không dùng ná chơi kiểu du kích  đứng dọc theo  bên đường, lấy 2 sợi thun móc vào đầu ngón tay trỏ và ngón giữa kẹp đạn cốc kèn … chéo chéo… bịch bịch.

Qua khỏi cống, mấy cha giang hồ ở mé sông thì chọi đá, các bạn đưa thân ra vừa đở vừa chạy. Con đường đem được lồng đèn đến trường quả thật quá nhiêu khê. Đến bây giờ tôi thấy mấy chị tôi thiệt là giỏi bỏ tiền vào túi đi một hơi lên chợ mua lồng đèn xếp, mấy cây đèn cầy thế mà hay.

Đi vừa tới nhà Ông Thân Bính trời bắt đầu nhiểu hột, chúng tôi vội chạy núp vào cổng , tụi nó bảo là mưa mây làm cái rào rồi dứt.

Trăng vừa lên tròn như cái thúng đỏ rực trời đông soi rỏ những vầng mây đen hùng hổ vội vả bay ngang. Tới nhà Ông Phán Đờn xa xa trên trường Bà Phước những chiếc đèn đủ màu sắc như những vì sao trên trời di chuyển ngang dọc thật là đẹp, thúc dục đoàn người chúng tôi mau bước. Tôi nói

- Long mình thấp đèn lên.

Nó bảo

- Thắp đèn tụi nó bắn hư đèn sao

Qua khỏi trường Bà Phước mưa nặng hột, chạy vội vào đục mưa dưới 2 cây cầu nhảy ở piscine, mưa tạt tứ lung tung khom người ôm đèn chịu trận, mỗi cơn gió thổi ngang qua nước trên mấy cây dương rớt xuống rào rào.

Mưa cũng vội tan ôm đèn chạy nhanh vào trường, các lớp xắp hàng đi ra cổng hướng về chợ, chợt có nghe tiếng ai gọi tôi, hoá ra thằng Hai Néo nó bảo không có điểm danh đi lớp nào cũng được. Đi ở ngoài hàng vui hơn, nghe theo lời dụ dỗ của nó tôi thắp đèn cầy gắn vào đèn ngôi sao thì ra nước mưa làm nhảo hồ dán, giấy kiếng rớt mất mấy miếng, ngọn đèn bị nước mưa văng nghe xèo xèo. Chợt thấy Hai Néo cầm đèn xếp bèn hỏi:

- Chiếc tàu mầy đâu rồi ?

Nó bảo

- Đứng trước bưu điện bị mấy anh lớn lấy chạy mất rồi, con rồng của thằng Cai bị mưa rả hết không biết nó đi đâu mất !

Bọn tôi nhập vào đoàn học sinh, quẹo cua qua đường Hai Bà Trưng trước nhà Đốc Phủ Hải bị mấy anh lớn chọi đá hoặc phá cho rách đèn  tôi là nạn nhân trong những nạn nhân. Bọn con nít có đèn đẹp phải chen vào giữa để lánh nạn

Khi chúng tôi đến gần phòng Thông Tin,  mưa đổ xuống ầm ầm mạnh ai nấy chạy tìm chổ đục mưa. Đoàn người rồng rắn xách lồng đèn đầy màu sắc vừa đi vừa hát vang … bóng trăng trắng ngà có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một … chẳng mấy chốc như bầy vịt mạnh ai nấy chạy kêu la  gọi nhau vang trời dậy đất.

 

Đất nước thanh bình, đám con nít xách đèn vui chơi trên đường phố thật là tuyệt vời, nhưng trời thì không thương năm nào cũng mưa, người thì phá đám, trong đó có nhóm phá nhà Cầu Huyện chúng nó bắn vào những lồng đèn, còn bắn vào nhóm học trò nữ ,  tội nghiệp đám con nít áo quần ướt như chuột, có đứa đèn bị rách, bị cháy hoặc bị mấy anh lớn giựt lấy khóc tỉ tê. Thế mà vui ! Lại hẹn nhau vào Tết Trung Thu năm sau.

 

Trên tay tôi chỉ còn cây trúc buộc đèn vào, cầm nhánh trúc ra về trời mưa lạnh cóng , nghĩ đến đoạn đường nghĩa địa phải đi qua mà lạnh người.

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 8:26pm

ĐƯỜNG HỘ MƯU

 

Thật lòng mà nói chòm nhà lá khoảng 30 gia đình chúng tôi tuy nằm ven  Cầu Huyện nên ăn ké gọi xóm Cầu Huyện cho oai, nhưng thật sự trên mặt hành chánh,  giấy tờ lại thuộc về Ấp Nhà Thờ. Dường như toàn bộ cuộc đất xóm lao động chúng tôi đang định cư cũng thuộc tài sản của Nhà Thờ ?

Từ Cầu Huyện đi xuống đến ngã tư Bình Ân quẹo trái, con đường Hộ Mưu nơi này với tôi nhiều kỹ niệm, những ngôi nhà nằm trên khu vực các Cô chú Bác có biết nhưng không thân nên hiểu rất ít, xin được viết ra đây các bạn  biết rõ sẽ  bổ khuyết thêm.

 

Đường Hộ Mưu là tên của vị Bá Hộ Trương văn Mưu, người đã đào ao chứa nước ngọt cho dân chúng trong khu vực, cảm cái ơn này dân chúng trong vùng gọi ao trử nước ngọt này là Ao Ông Hộ.

Ao Ông Hộ từ ngã tư Bình Ân đi về hướng Tân Niên Tây khoảng 200 m, qua khỏi nhà Chú Ba quản lý nhà máy xay lúa quẹo trái vào khoảng 200m quẹo mặt, Ao nằm giữa ruộng xa nhà dân, chung quanh những hàng cây Chăm Bầu cao ngất che chắn, Đất đào ao đắp làm nền và người giữ ao trồng rau quả, cải cà, ớt tuỳ theo mùa vụ và mùa lể tết trồng cả bông vạn thọ.

Vào mùa nắng chiều nào tôi cũng đi gánh nước, nước ao Ông Hộ không trong lắm nhưng độ ngọt có phần hơn những ao khác. Được người trong coi nên chung quanh ao sạch hơn, không ai tắm trừ những người gánh nước khi kéo thùng nước lên bị đứt giây và chìm, phải lặn xuống mò vớt đem thùng lên.

Tôi thích gánh nước Ao Ông Hộ vì có cầu đúc bê tông để người gánh ra ao múc nước, khoảng cách giữa cầu mực nước rất thấp, mùa nắng lúc nước cạn quấn giây thùng vào đầu đòn gánh thả xuống múc nước vẫn kéo lên được, Ao Trường Đua nước lợ lợ cầu lại rất cao so với mặt nước lũ con nít chúng tôi ngại. Ao Chuối gần lăng Võ Quốc Công thì xa, lại có nhà gần ao, nhiều khi đi gánh nước nhìn thấy người tắm.

Vì vậy người quanh vùng thích dùng nước Ao Ông Hộ hơn.

 

Đường Hộ Mưu, từ ngã tư Bình Ân đến ngã tư Nhà Thờ đoạn đường thân quen tôi nhớ từng nhà, từng loài cây mọc ven đường.

Đường Hộ Mưu hai bên lề mọc hoang toàn cây lức, chăm bầu, gai chùm lé và cây hột nổ. Cây hột nổ, rể kết thành củ mọc từng chùm màu vàng đất, bông tim tím trái đen hình dáng như chiếc thoi bé tí tị chúng tôi thường hái ngặm vào miệng, nước miếng thắm vào nổ cái bốc một trò chơi dân dả, thế là đặt tên Cây hột nổ.

Dọc hai bên lề đường mấy chú Lục lộ vào mùa nắng nại đất ruộng đem lên đấp thành mô xa xa một mô, nếu đường bị ổ gà mấy chú lấy đất trên mô ấy mà đấp, khoảng vài chục thước họ cuốc mương vào mùa mưa cho nước chảy xuống ruộng, con đường nhiều hoa tím, những mô đất, những cây chăm bầu mọc thấp lè tè vậy mà đẹp hoa tím cây hột nổ không đẹp bằng hoa tím Bằng Lăng hiện giờ nhưng nó mộc mạc bình dị như cuộc đời lam lủ chúng tôi,

 

Chạy song song theo đường bên trái là cái ao của Chú Mười Giã, tiếp ao là miếng ruộng hình như cái ống điếu hút thuốc, thân ống điếu giáp ranh nhà Cô Chín Xô, đầu ống điếu giáp ranh nhà Bác Tư Giái, đám ruộng này có cống thông qua ruộng bên kia đường chạy từ rạch trước nhà Ông Ba Nghi ra kinh Cầu Huyện. Trên đám ruộng này vào mùa mưa tôi thường cắm câu, đặt đuôi chuột và vó tép luôn, ở nhà tôi vào mùa cấy nghe tiếng tù và của Đầu Nậu tập hợp công cấy, còn nghe các cô chú hò đối đáp nhau, không khí làm việc thật là vui, tiếng hò, nói chuyện, tiếng cười vang một góc trời.

 

 

Nhà Bà Giáo

Qua miếng ruộng nhỏ nhà Bà Giáo ngói đỏ ba gian nằm ẩn sau hàng tre, nhà nầy thật cách biệt với chúng tôi, là một trong hai căn nhà xưa nằm trên đường,  nhiều khi đi bắt cá bóng kèo lội rạch từ nhà Ông Ba Nghi, lũ phá nhà chúng tôi đột kích vào vườn trộm ổi không dám vào sâu, rất nguy hiểm bởi chủ nhà chạy trên bờ, lũ chúng tôi lội sình bị bắt như không, bên hông nhà có cây me đậu phọng trái ngọt nhưng chẳng dám đến gần vì nhà có con chó mực rất dữ

Đối diện với nhà Bà Giáo bên kia đường Hộ Mưu đám ruộng 3 chòm mả

Tiếp nhà Bà Giáo là con hẻm dẩn sâu vào đến sông Cầu Huyện có 3 căn nhà

 

Nhà Bác Tư Xung

Đầu hẻm cặp theo hông nhà Bà Giáo là cái đìa rồi đến nhà Bác Tư Xung, Hàng rào dăm bụp xanh dờn được cắt phẳng lì, sân trống phơi lúa đến ngôi nhà lá ba gian. Bác Tư  nhỏ con hiền lành chất phát rặt dân Nam bộ lúc nào cũng thấy Bác trong bộ quần áo bà ba đen với chiếc quần ngắn ngang đầu gối, đi chân không, ăn nói từ tốn dễ thương.

Bác đặt tên con cũng bình dị như cuộc sống đời thường Muối, Mặn … bên kia đường đối diện với cái ao nhà Bác là miếng ruộng của gia đình chạy dài đến cua quẹo, đặc biệt năm nào trồng lúa cũng trúng, những hạt lúa nặng trỉu trên cành, người đi đường ai thấy cũng khen.

Các anh chị con của Bác Tư rất chịu khó, đi học về làm việc nhà việc ruộng  tối ngày và cuộc sống cũng bình dị như bác Tư

 

Nhà Chị Năm Giỏi

Chị Năm Giỏi, làm nghề xay hàng sáo, chuyên đi mua lúa xay, lấy cám nuôi heo, gạo đem về nhà sàn ra lấy tấm, lượm thóc gánh bán lại cho bà con quanh khu vực, nhà tôi là bạn hàng trung thành của chị,

Chị Năm vui vẻ dễ mến, mỗi khi nhà hết gạo nhắn tin, chị gánh đến ngay hoặc đem trước một ít hôm sau đong đủ.

Nhà chị đông con, nên vất vả

 

Nhà Bác Liêm

Thường gọi Câu Liêm, một chức sắc trong Nhà Thờ, nhà Bác đất rộng hai mặt giáp Sông Cầu Huyện và rạch Ông Ba Nghi chung quanh dừa lá mọc kín bưng, vườn trồng rất nhiều cây ăn trái, ổi, me và bàn ổi

 

Bên kia con hẻm là khu vực Thánh Thất.

 

Nhà Chú Hai Thiện

Trong khuôn viên Thánh Thất,  bên phải là nhà Chú Hai Thiện cất sâu vào trong, khoảng vườn trước nhà trồng mía, có khi thấy trồng bắp tây, Chú Hai làm nghề thợ mộc sau này chuyên chuốt đủa, chú tìm mua những bộ ván bằng gổ Mun đem về cưa ra và chuốt thành những đôi đủa Mun rất đẹp, có hai loại đủa loại thân tròn suốt chiều dài, một loại nửa tròn nửa vuông

Bộ ván gổ Mun dầy 1 tấc  nhà tôi được chú đổi cho bộ ván gỏ và 400 đồng.

Nghề làm đủa lan ra Sơn Quy, sau này lòi ra đa số dân làm đủa là việt cộng nằm vùng trong đó có chú Hai Thiện.

 

Thánh Thất Cao Đài:

Thật tình tôi không hiểu Thánh Thất này theo hệ phái nào Bến Tre hay Tây Ninh ?  nhưng thấy ít tín đồ, và khuôn viên rất khiêm nhường.

Trước Thánh Thất có cây đa nhỏ xíu ốm tong teo, không lớn nổi dù tuổi đời của nó dường như lớn hơn tuổi của tôi, mỗi dịp lễ lạc cột cờ treo tấm phướng dài sọc phất phơ,  dưới cột cờ có trồng hoa, lèo tèo mấy cây Huệ trắng.

 

Nhà Anh Năm Dở

Bên trái Thánh Thất là nhà Anh Năm Dở, Anh cũng làm những công việc như chú Hai Thiện, nhà này có ngũ long công chúa, 5 cô con gái.

Nhà cất thục sâu bên trong sân trước nhà khi thấy trồng mía, lúc khoai mì

 

Nhà Bác Năm Truyện

Nép sát vào hàng tre là nhà Bác Năm Truyện, bên hong nhà là đám bưng , Bưng cũng trồng lúa, nhưng hơi khác với làm ruộng, sau khi gặt xong ruộng phải lên líp từng hàng dài đến mùa mưa, ngăn nước sông lại và bang líp ra sau đó mới cấy lúa, đám bưng này hình như cũng của Bác Tư Xung.

Bác Năm có người con học Quốc Gia Hành Chánh  ra trường  được cử làm phó quận ở đâu dưới miền tây ?

 

Sát nhà Bác Năm là cống dùng xả nước ra sông, cống này là nơi rửa chân của tôi mỗi khi đi học. Từ cống đi khoảng 100 m là đến cua quẹo bên kia đường là con hẻm dẫn vào khu vực khoảng chục nhà dân, đầu hẻm có tua gác, trên 4 cây cột cao nghệu là lô cốt, đêm đêm lính Bảo An Tỉnh xuống gác sáng về lại trên đồn. Sau này khi thành lập ấp Chiến Lược ngoài bìa xóm dân đi lao động đào kinh lấy đất đấp bờ bao và rào hàng rào kẻm gai lính không còn gác ở đây nữa sau đó cái Tua được dỡ bỏ.

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 05/May/2012 lúc 9:14pm

Nhà Luật Sư Vương Quang Nhường

Đôi lời về Vương Quang Nhường, ông là nhà trí thức lớn của miền Nam, Sinh năm 1902 tại Yên Luông Đông, Gò Công.

Ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật ở Pháp, năm 1929 về nước.

Ông là rể của Vua Thành Thái, chồng của Công Chúa Mệ Cưới, em ruột của Vua Duy Tân cùng đi đày qua đảo Réunion với cựu hoàng.

Năm 1950 nhận chức Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục trong chánh phủ Trần Văn Hữu, và Chánh Phủ Nguyễn Văn Tâm.

 

Sau hàng bông bụp được cắt thẳng tấp, ngôi nhà ngói cất hình chữ đinh, nền cao có tam cấp đi lên. Thuộc loại nhà cổ nhưng đã xuống cấp, trước cổng bên tay phải có cây Ô Môi tòn ten những trái đen thùi như ai treo một bầy rắn bông súng, vào tháng hai hoa nở hồng tươi rực rở đẹp cả khoảng trời. Bên hông nhà là con đường nhỏ dẫn vào khu ruộng bưng có cây me đậu phọng rất to sai trái, nhiều hôm lũ chúng tôi rủ nhau đi học về ngã này để chọi me.

Bên trái là cái ao dài trồng bông sún Nhật Bổn thật đẹp, bên kia ao là Chùa Phật Huệ có ông thầy tu rất đẹp trai, dường như chùa này cũng do Gia đình Vương Quang Nhường cất.

Chùa nhỏ lợp lá âm u , trước sân có cây Bồ Đề, trên thân cây để lư nhang, dưới gốc cây lơ thơ mấy cây hoa Huệ trắng, hông  Chùa nằm dài theo con hẻm nhà Ông Hai Nảng

Sau này nghe nói thầy yêu tín nữ và người yêu thầy mang bầu, thầy bỏ chùa đi mất.

Trước nhà là dảy ruộng của gia đình Luật Sư từ đường lộ chạy đến chòm mả tuốt bên trong phải 3-4 mẫu năm nào cũng thấy trúng mùa.

Không biết phải chuẩn bị cho Vua Thành Thái về thăm Gò Công không, bìa ruộng giáp đường  bổng thấy đào ao bên hông và phía sau lấy đất làm nền, sau đó cất Villa thật đẹp, nhưng vách nhà sơn màu vàng thấy u buồn, hiện nay là Trạm Y Tế Phường 3.

Nhà này rất đơn chiếc thấy hai người đàn bà và cô giáo dạy ở trường Nhà Đèn ?.

 

Ranh Chùa Phật Huệ là ngã tư

Tẻ về trái đi dưới hàng dừa cao nghệu dẫn vào nhà Thầy Năm Cần và Chú Tám Hải, nhà rất đẹp trồng hoa kiểng vườn rộng trồng nhiều cây ăn trái, phía sau giáp sông Cầu Huyện , bên kia sông là nhà Thi sĩ Thy Lan Thảo.

Tẻ phải, con hẻm Hai Nghé,  ngày nay gọi là đường Tết Mậu Thân

bên mặt là ruộng dài qua khỏi chùa Dư Khánh tới gò mả qua đoạn bờ ruộng  thấp tè rất khó đi, cuối hẻm là đường đi Sơn Quy

 

Nhà Chú Hai Nghé

Bên trái hẻm qua khỏi ranh nhà đầu đường đến con mương, con mương này dẫn nước từ trong Nhà Thờ Thành Tâm qua cống là con mương nhỏ chạy giữa hai ranh nhà Chú Mười Trọng và anh Liển dẫn nước mưa trên lộ ra ruộng, giữa ranh đất chú Hai Nghé và Chú Mười Trọng, có đặt cống cả hai gia đình đều nuôi cá trồng rau. Đầu mương Thầy giáo Đại con chú Mười Trọng đấp nền cất nhà.  

Chú Hai Nghé, nhà và ruộng đất của chú ở trong Tân Hoà lánh giặc ra đây. Chú người cao lớn, tiếng nói to nhưng không vang, lao động chuyên cần đông con. Nhà chuyên nuôi bò Bô, con nào cũng to lớn, Giữa  hàng rào bông bụp trồng lơ thơ mấy cây me, góc vườn giáp nhà Chú Nam Thanh có trồng 4 cây trụ hình chử nhật vừa vặn một con bò, người ta dẫn con bò vào giữa 4 cây trụ buộc hai dây nuột qua bụng sau đó dở chân bò lên nại móng sắt cũ đã mòn, cạo bỏ những chất bám quanh móng rồi đóng vào móng sắt mới, xong giũa lại móng bò cho đẹp, con bò không chống cự mà lại thích thú, Chú bảo:

- Tao thay móng sắt, gọt bỏ phần móng tè le đóng móng mới, giống như người ta cắt móng tay, khoái chết mồ tổ, bây thấy hai mắt nó lim dim thì biết

Chú đi mua móng sắt tận Lái Thiêu vì nơi đó họ rèn bằng thép nhíp xe rất tốt, xài bền hơn hẳn thợ rèn Gò Công làm.

Ở Góc ao Trường Đua chổ có mấy cây dương tôi cũng thấy người ta đóng móng bò như vậy

Con trai lớn của chú cao cẳng như tôi, nhưng qua đời sớm, chú thường săn lùng những con bò Bô đẹp mua về kéo xe bò, cày ruộng và bán lại cho người cần.

 

Nhà Chú Năm Thanh

Phải đi qua cái cống nữa, cái cống nầy dẫn nước từ nhà Bác Ba Quý trên lộ, đến nhà Bác Năm và ra ruộng .

Nhà Chú Năm Thanh quây mặt ra đường Hộ Mưu, hông nhà đòn dông chỉa ra hẻm, cặp theo đường hẻm là ao nuôi cá, chung quanh ao được trồng dừa.

Chú Năm làm nghề thợ mộc, tôi nhớ không lầm Chú Năm làm việc ở Gara nhà Bác Ba Quý đối diện với Nhà Thờ sau này là điểm chơi Bida. Thiếm Năm xưa là con mồ côi trong Bà Phước, gia đình này không con, nhận đứa con trai trong nhà Bà Phước về làm con đặt tên là Quê, đi học thấy bạn bè gọi là Cai. Thiếm Năm làm việc trên nhà thương.

 

Nhà Thầy Đại

Tên thường gọi là “Thầy Chùa Đại”, thầy tu theo hệ phái Cỗ Sơn Môn nên có vợ và có con. Thuở nhỏ tôi biết hai Thầy có vợ là Thầy Đại ở Chùa Dư Khánh và Thầy trụ trì Chùa Thanh Trước dưới Gò Tre nghe nói sau này thầy ở Gò Tre giác ngộ đi theo việt cộng ? cả hai vị đều to con.

Thầy Đại như Phật Di Lặc thường đi xe đạp rất vui tánh, cười hề hề mỗi khi chúng tôi gọi “ Thầy Chùa”. Thầy trụ trì Chùa Dư Khánh, Chùa Dư Khánh do tổ tiên Thầy Giáo Hai lập ra song song với nhà ở. Cha Thầy trụ trì  ở đây và Thấy nối nghiệp cha.

Thầy đông con có mấy thằng con trai lớn, mỗi khi bận đi đám mấy bạn ấy thay thầy tụng kinh

Mỗi buổi chiều đi mót lúa, hoặc đi phá làng phá xóm khoảng 4 giờ tôi thường ghé vào đây lang thang quanh bên những Tháp Tổ vừa hái trộm Sơri vừa nghe trống Thu Không rộn ràng mà dứt khoát từ Chùa vọng ra hoà với giọng Thầy nhừa nhựa thật tuyệt.

 

Chùa Dư Khánh

Qua khỏi nhà Thầy Đại là phía sau Chùa Dư Khánh

Chùa Dư Khánh hiện nay được quy hoạch là Chùa của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Như vậy những con trai của Thầy Đại hết quét lá đa từ buổi ấy. Gia đình Thầy Giáo Hai cũng mất Chùa luôn. Giáo Hội cử về một thầy chùa quốc danh rất đẹp trai, hơn hẳn thầy trụ trì Chùa Phật Huệ, Thầy ca cãi lương và hát tân nhạc đều hay, sến của các sến ! Thầy cũng đi đóng kịch trình diển ở các đám ma, phá ngục , đánh quỷ gì đó để che chở vong linh dẫn về Cực Lạc, thật là tài giỏi !

Chùa thầy thỉnh thoảng người ta nghe giọng ca của Chế Linh trước 75 rên xiết song ca với giọng của tín nữ , phát ra cho dân quanh vùng nghe giải buồn ! thật là buồn !

 

Tôi từng thấy Thầy đang diển kịch với một vị khác trong một đám ma trên đường Nguyễn Tri Phương phường 7 thành phố Mỹ Tho, chuông điện thoại trong túi quần reo vang, thầy ngưng đánh quỹ cho tay vào túi quần móc ra:

- Alô . . . gì đó… ừ … chờ Thầy chút, gần xong rồi.

Hoá ra thầy chạy xô. 

Khi xong màn trình diển đánh quỹ rất ấn tượng thầy lấy trong túi quần ra một xấp card phát cho từng người chung quanh, y chan như ca sĩ nổi tiếng.

- Có gì gọi thầy

Sau đó ràng rịt cẩn thận đồ nghề trên xe Honda và che chắn mặt mày rồi hô biến.

Kề bên Chùa là miếng ruộng công quả bên trong miếng ruộng là hàng tre của ao Chùa và là ranh của mấy căn nhà cuối đường nhà thờ, có nhiều ngôi mả to, nơi bọn tôi thường chui vào câu cá trộm, hái me, hái trái Thanh Long mọc hoang leo chằng chịt trên những cây me, hay tìm bắt những tổ chim cu.

Con đường hẻm đến đây là hết, bờ ruộng bắt đầu có mả mồ và sình lầy rất khó đi.

 

Trở ra đường Hộ Mưu ,

- Bên phải khoảng 2 căn nhà không nhớ căn thứ ba nhà ông thầy giáo rất bảnh trai đi xe đạp đòn dông đầu tóc lúc nào cũng thấy láng cón, rồi đến căn nhà cao cẳng có hồ chứa nước mưa rất to,  ao nuôi cá  trồng rất nhiều dừa cao lêu nghêu, sát bên là nhà của Thiếu Tá Ngọc ? trước nhà có cây Sơri. Ba bốn căn phố liền vách là đến ngã tư

- Bên tay trái Nhà villa của Chú Hai Nảng, Chú thường đi xe đạp và rất mập vườn nhà chú trồng đủ thứ cây ăn trái rất quyến rủ chúng tôi. Nhưng có nuôi chó dữ bọn tôi tránh xa.

Trên nhà Chú Hai Nảng là ngôi biệt thự rất to thật tình tôi quên mất dường như nhà Đốc Phủ Tường ? cây cỏ mọc tràn lan không người chăm sóc. Một phần đất cặp theo sông Cầu Huyện, bên kia Sông là nhà ông Thân Bính.

Cuối nhà là ngã tư nếu đi dọc ra bờ sông, ranh đất giáp với đầu cầu Tây Ban Nha xưa là một cầu tiêu sông công cộng người ta đóng bằng thiếc gồm hai ngăn, ở đây cá chốt không biết ở đâu nhiều vô số kể, theo con đường dọc sông mát rượi dưới những tàn cây, qua mấy căn nhà là đến trại lính, sau này làm khám đường. Trước trại lính một hàng cây bàng cao mút trời xanh, rể quăn queo như nhưng con rắn đang bò với muôn vàn tư thế, chúng tôi thường tụ tập lượm trái bàng , để lên rể cây bàng dùng đá xanh đập, hột vỡ ra mầm cây bé tí nị ăn beo béo.

Sau này khu Quân sự không được vào

 

Cao Thệ

 



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 15/May/2012 lúc 8:32pm

Sông Cầu Huyện

 

Sông Vàm Cỏ khởi nguyên từ biển, một nhánh chảy ngược về biển qua dòng sông Cửa Tiểu. Nhành sông ấy gọi là Sông Gò Công.

Chủ trương ngọt hoá để phục vụ sản xuất nông nghiệp, sông Gò Công đã được khoá đầu ở Bình Xuân bít đuôi ngăn dòng ra biển bằng những cống đập trên đường đê ngăn mặn ở Long Uông, Tân Thành . . .

 

“ Thương nhánh sông chảy hoài không tới biển”

“ Đi quẩn quanh, bầu bạn với Lục Bình”

 

Sông Cửa Khâu nhánh của Sông Gò Công, một đoạn ngắn đi qua xóm Cầu Huyện trên hành trình chảy về  biển được gọi là sông Cầu Huyện, trong lịch sử tiến hoá của phố thị đã bị bức tử ngậm ngùi, để lại trong lòng người Cầu Huyện xưa ít nhiều thương tiếc !

Khởi nguyên từ Nhà Đèn. Bên kia là khu chợ Gò, bờ sông là bến đò tấp nập ghe thuyền, trên bờ sông bến xe đò rộn ràng hành khách xe cộ cùng với người mua kẻ bán ì xèo. Bên này với những cây bần mọc kín vàm sông  trên bờ sông im ắng là bải cỏ xanh, chạy dài theo con đường hiện nay gọi Nguyễn Văn Côn từ Nhà đèn đến trước vườn hoa Trường Nữ Tiểu Học, bên hông trường nữ xây nhà ăn trưa bằng gổ, kê những bàn gổ dài các bạn nhà xa ra đây ăn cơm và ngủ trưa. Bên ngoài trường Nhà Đèn là nhà vệ sinh, xanh um bải cỏ xanh . Trên đầu dây điện giăng giăng, lũ chim én thường tụ tập về đậu hót vang, học sinh nhìn bầy chim qua khung cửa sổ thả hồn mơ mộng … cô giáo chỉ cho học sinh nhìn, chắc nịch bảo rằng :

-         Chim đi học vì vậy các em phải chăm, kẻo thua lũ chim !

Trên bãi cỏ này một dạo người ta chất củi để bán, bên Trường Tiền cũng để ké thùng phi chứa dầu hắc loại nhựa trải đường. Sau này thấy nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa, nhà mọc lan cả trên con đường nhỏ dẫn vào Trường Nhà Đèn, phía trước mặt Trường Nữ Công bên này là Hiến Binh, thật là tiếc một con đường nho nhỏ xinh xinh !

 

Trường Nhà đèn gồm hai dãy, dãy bên sông với hàng me tây mát rượi dành riêng cho học sinh nam, dãy cặp theo hàng me bên Hiến Binh, Kho Bạc dành cho Nữ.

Còn nhớ Trường Nhà Đèn có thông lệ, đến ngày lớp nào trực, học sinh giỏi nhất trong tháng lớp đó được kéo cờ, buổi sáng gọi là Chào cờ, buổi chiều gọi Hạ cờ. Học sinh hạng nhì lớp được đánh trống. Trống trường lại đặt bên nữ.

Cái trồng trường bằng cái trống chầu, để trên chân trống rất cao, mỗi lần đánh phải nhón giò, nơi để trống có cây me rất to sai trái.

 

Qua khỏi khu vục chợ phía sau Phòng Thông Tin, sông cầu Huyện cặp theo đường Trưng Nữ Vương chảy qua trước Trường Nữ, Trường Nam, Trường Bà Phước men theo đường Tổng đốc Phương đến cuối nhà ông Ba Khoa, từ đây con sông hiền hoà chạy bọc sau nhà Bác Năm Quăn ra đường Tống Thứ vào Tăng Hoà chia hai ngọn một chạy cặp theo lộ ra biển Tân Thành và một theo dòng Long Uông hoà nước vào sông Cửa Tiểu. 

 

Khi đấp sông nối hai đoạn đường Trần Hưng Đạo hiện nay, Trước mặt Trường Nam tạo thành một hồ nước thời đó gọi Piscine. Chung quanh Piscine người ta cẩn gạch ống được đúc bằng sạn, lót từng bậc đến đáy hồ. Phần đất ngay trước nhà Ông Đốc Phủ Hải và Trường Nữ Tiểu Học người ta tạo một vườn hoa, bên dưới vườn hoa đặt cống có làm cửa cống để lấy nước vào cho nước ra Piscine.

 

Tại ngã ba đi xuống Miễu Bà, bên này là Trường Bà Phước, bên kia là Ty Cảnh Sát, Trường Tiền tháo bỏ Cầu Quan, đổ đất lấp ngang sông Cầu Huyện thành con đường chạy thẳng vào Dinh Tỉnh, trên đường hai bên được xây dựng thành công viên, trồng hoa cắt tỉa rất đẹp

 

Lề đường được trồng cây Điệp hoa vàng và cây Bả Đậu tàn che mát rượi, Công viên phía Bà Phước có độ dóc hơi cao. Bên Trường Nam người ta dựng hai cầu nhảy một thấp một cao bằng gổ các anh lớn thi nhau nhảy biểu diển lộn hai ba vòng. Dưới những cây Dương cao nghiệu có căn nhà gổ cho người tắm vào thay quần áo. Đây cũng là nơi tụ tập bọn học sinh chúng tôi. Lũ học sinh chúng tôi buổi trưa đi học thật sớm không vô trường, đi học về không về nhà thường cỡi đồ trầm nghịch hay bu quanh bên chú … người Hoa, đổ xí ngầu ăn kẹo. Ông này ăn gian hết biết, chỉ cần rung chiếc xe đạp là thay đổi kết quả tức thì, nhiều bạn thiếu nợ cả trăm cây kẹo kéo, cả trăm chén bò vò viên ?

Dạo ấy Thầy Hiệu Phó Võ Văn Giáp đi đến trường bằng chiếc xe đạp đòn dông, Thầy  thường đảo xe đạp quanh trường nhiều vòng để xem tình hình … rồi mới vào văn phòng, khi nghe các bạn ra ám hiệu Áp Dông ( Ông Giáp ) trò đang tắm leo lên hồ ôm quần áo , các trò ăn hàng, đánh đáo đổ xí ngầu ôm cặp chạy tán loạn quân thần !

Có một dạo Piscine không cho người tắm Cảnh Sát gác đàng hoàng, bởi Ty Nông Nghiệp nuôi cá Phi khuyến khích nông dân làm kinh tế.

Nhớ có lần ngư dân Vàm Láng bắt được 2 con Ba Ba rất to đem thả xuống Piscine, dân đi biển rất sợ bắt được nó họ gọi là Bà Bảy, xúi quẩy những kẻ  mê tín dị đoan bảo đem cái xúi quẩy thả vô Tỉnh. Xui rủi tính sau chỉ thấy người lớn, các anh nhào xuống tranh nhau ngồi trên thân, Ba Ba rẽ sóng lội ngờ ngờ như đang đi ghe, trên bờ người xem hò reo cổ vỏ như lễ hội. Thật tội nghiệp đang ở ngoài biển an lành, bổng đổi hộ khẩu vào cái đìa nhỏ xíu lại bị nắm kéo leo trèo rượt đuổi suốt ngày, trên đường chạy trốn đầu va vào vách hồ, vẩy vi đều bị lở lói hơn tuần sau thì qua đời, con còn lại vớt thả qua Piscine Bà Phước song được mấy ngày cũng theo ông theo bà, vớt lên để trên mép công viên.

Có năm vào ngày lễ Quốc Khánh người ta thả vịt cho người dân rượt bắt thật là vui.

Trên đường từ bờ sông đi xuống Ao Trường Đua, một bên là Trường Bà Phước, một bên là nhà ông Chủ Chí, Trường Tiền lại đấp sông làm đường qua dinh Phó Tỉnh Trưởng, đoạn này có đặt cống thông Piscine Bà Phước ra sông, nhưng đường thấp mỗi lần triều cường nước sông dâng lên là ngập.

Piscine này cạn sình nhiều, nuôi cá phi không ai tắm. Chung quanh Piscine người ta trồng dừa, cành lá la đà sát mặt nước, trước cổng Trường Bà Phước có xây bậc tam cấp những người đi bộ ngang qua và học sinh rửa chân, tiếp theo bậc tam cấp là hàng rào có lan can bằng sắt nhiều khi thấy các bạn đi trên lan can đó, thật là giỏi. Phía bên Dinh ông Phó người ta làm cầu gổ có nhà Thuỷ Tạ, hàng dương cao che bóng mát rượi, cây cảnh được chăm sóc thật đẹp.

 

Cây Cầu Huyện trên đường Tống Thứ từ ngày được dở bỏ, đấp đường đặt cống, hai đầu cống mỗi ngày một phình ra nhưng lòng sông mỗi ngày mỗi cạn dần … cạn dần.

 

Chiến tranh xô đẩy dân quê ra thành phố, bến đò chợ được dời qua  phía sông Long Chiến, người ta cất dãy phố trên bến đò này. Đoạn sông từ nhà đèn chảy đến vườn hoa trước Trường Nữ, sau đó được lấp làm đường phía sau phòng Thông Tin qua Trường Mẫu Giáo, đoạn sông này được đấp dần, sau cùng . . . Ngôi trường Thuỷ Lợi 3 mọc lên giữa chợ búa rất lãng mạng !

Đoạn sông bên này trước tiên nhà sàn được dựng lên từ nhà Bác Năm Quăn đến Cầu Tây Ban Nha vế sau nhà càng ngày cất càng nhiều, trên dòng sông nay đã chi chit là nhà. Trước miệng cống Cầu Huyện xưa, nơi sông phình lớn mênh mong nay là rảnh tí nị nước đen ngòm chảy róc rách !

Biển còn hoá cồn dâu nói chi sông biến thành nhà phố !

Cầu Huyện dòng sông quê tôi !

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 02/Jun/2012 lúc 9:18pm

Đường Tổng Đốc Phương, Xóm Cầu Huyện

 

Ngày xưa dưới cầu có bến đò, đò máy chạy từ cầu lên chợ, chủ yếu chở những bạn hàng mua bán, hàng hoá cồng kềnh. Chủ đò là Ông Bảy Tre, nhà ngay ngã tư đối diện với bến đò, sát bên nhà Cô Ba Vân bán gà . Sau khi Công Chánh dở bỏ cầu, xây cống trên kinh Cửa Khâu, ông vào Biển Tân Thành bán quán ăn.

 

Từ ngã tư Đường Tống Thứ với Tổng Đốc Phương đi lên Chợ Gò đến giao điểm Ngã ba Đường Tổng đốc Phương Nguyễn Thái Học và Trưng Nữ Vương trước năm 1956 khoảng trên 30 căn nhà. Những căn nhà bên bờ sông tuần tự như sau:

 

1- Nhà Ông Hai Vó

Chổ Bến đò sau này ông Hai Bắc cất nhà có đặt cái vó rất lớn để bắt tôm cá

Ngả tư đường Tổng Đốc Phương ( Hai Bà Trưng ) và Tống Thứ  ( Nguyễn Huệ ) nằm sát dóc Cầu Huyện có hai vị thứ Hai đều là người miền Bắc.

Nhà nằm trên đường Nguyễn Tri Phương là Ông Hai Bắc có biệt danh Ông Hai Vó, làm nghề vó tôm cá bên này cống Cầu Huyện, để phân biệt với Ông Hai Bắc bán gạch ngói nhà nằm trên đường Tống Thứ sau này ông dọn đi và Bác Mười Niềm về ở.

Nhà sàn của ông được cất một phần trên lề đường và một phần trên mặt sông, lề đường lại trồng hàng rào gai Xương Rồng nên phần đất nhà ông  không được  bao nhiêu ông phải móc đất sông đắp thêm. Chổ đầu cống kế bên nhà Bác Chín Đán, đắp con đường nhỏ đi thẳng ra sông thăm vó, những cây sậy khô ông bện lại thành lưới cắm dưới sông chạy vòng vèo để dẫn cá bơi vào rọ.

Cái vó của ông rất to thường thấy trên những đoạn kinh rạch có người Bắc định cư, bốn góc vó được buộc giây vào 4 gốc cây ở hai bờ sông để định vị không cho nước chảy cuốn dạt lưới.

Thanh đòn bẩy hình chử V một đầu được buộc vào vó, một đầu được buộc vào cục đá Hộc để cân bằng cái vó, nối sợi dây vào đầu buộc cục đá hộc Ông Hai ngồi trên nhà sàn nhậu, lâu lâu kéo sợi dây xuống cái vó được cất lên, những con cá chốt, tôm tép ngạnh dính vào lưới ông kéo sợi dây được buộc vào lưới đến khi nào rớt hết vào cái đục mới thôi.

Tôi có dịp vào nhà ông vài lần để mua tôm cá

Dường như ông có ba người con anh Kim, chị Liễu và một cô em út

Không hiểu vì sao ông dẹp vó ra đi.

Nhờ Ông dẹp vó lũ phá nhà chúng tôi mới được tắm sông lặn chui qua cống

Ban đầu là các anh lớn về sau đến chúng tôi, nhìn cái xoáy nước quay tròn trên miệng cống ban đầu chúng tôi cũng thấy ớn, nhưng được các anh lớn lặn trước thế là cả đám lên tinh thần lặn theo, những con hào bám trên thành cống không khéo nó cắt cánh tay, bắp chân máu chảy ròng ròng, trò chơi này bị các người lớn rầy quá xá.

Nhà Thơ Thy Lan Thảo viết về Ông Hai vó như sau:

“ Ông Hai Bắc ở sát cầu Huyện là lính giải ngũ, ông chỉ là Hạ sĩ quan. Ông thường đi bộ, thỉnh thoảng thấy ông có chút rượu, mặt mày trở nên vui tươi, gặp ai trong xóm Ông cũng rền vang chào hỏi.

            Anh Kim, dáng ngưởi nho nhã, trông mặt vui vẽ, thuở đó tôi còn học tiểu học thì anh đã là lính cảnh sát.. lúc đó anh có cô bồ là chị Cúc gốc người Cầu Tàu, có đại lý bán nước đá ngoài chợ… Chị Cúc nhỏ người xinh gái, tình tình vui vẽ.. hàng ngày chị vẫn đạp xe ba bánh xuống nhà máy nước đá.. nằm ở đầu hẽm vào khu nhà của thầu khoán Quê Hương …            Mối tình nầy tôi không nhớ có kết hợp không, hai anh chị rất xứng đơi vừa lứa ….

Tôi không biết ông hai Bắc có mấy người con, nhưng tôi biết có chị Liễu, bây giờ hình dung lại tôi nhớ chị Liễu thuộc hạng gái đẹp .. da trắng, tóc huyển.. Nhất là vòng số một .. nói theo tiểu thuyết..Căng tràn đầy nhựa sống…

 Rối bẳng đi một thời gian dài rồi mất luôn không thấy hình bóng chị ở Gò Công

  Từ đó giáo đường vắng bóng một con chiên ngoan đạo .”

 

 

2- Nhà Bác Chín Đán

Phía trên nhà Ông Hai Bắc có một cống dẫn nước, Đầu cống hai bên đường được xây gạch rất đẹp, con rạch mọc le que vài ba cây Mắm ở đầu nguồn dẫn vào vuông đất nhà Thầy Lộ Công Bích.

Tiếp nối cống là nhà Bác Chín Đán, Bác Chín có mấy chị gái đi làm xa thỉnh thoảng mới về. Nhà lợp ngói vách ván vào thời này vậy là khá lắm rồi, bác Chín suốt ngày uống rượu say, la hét ỏm tỏi, nói toàn những chuyện trời ơi, nhiều hôm đi học về thấy bác Chín hát bội, nhảy tưng tưng.

Bác Chín gái thầm lặng dễ thương. Cách cái ao là đến nhà Cậu Tư,

 

3- Nhà Cậu Tư

Cậu Tư chạy xe ngựa, Mợ Tư  luộc khoai lang, khoai mì bán trên chợ, hằng ngày Cậu Tư chạy xe ngựa lên bến xe luôn tiện chở Mợ Tư hai giống khoai treo lũng lẳng hai bên, nhiều hôm đi học sớm Cậu Tư còn cho quá giang đến trường.

Tấn là con trai lớn ông này tuy nhỏ tuổi cũng thấy có hôm lái xe ngựa chở má đi, đem xe ra bến sau đó Cậu Tư đi bộ lên sau.

Hòn con trai kế,  nhỏ tuổi hơn tôi nhưng tên này lanh lợi lắm, thường chận đường bắt nạt mấy thằng ba giá xóm tôi, kế đến là cô gì đó rất giỏi việc nhà v.v… nghỉ học sớm phụ buôn bán cùng mợ Tư .

Sau Cậu tư bán nhà dời vô Đất Thánh

 

4- Nhà Anh Ba Thọ

Tiếp theo nhà Cậu Tư là nhà Anh Ba Thọ một mắt đánh xe ngựa, anh có hai thằng con trai, thấy Cậu Tư  dời nhà vào Đất Thánh anh bán nhà cho Chú Hai Thợ Mộc rồi cất nhà gần bên Cậu Tư, nhưng thay gì nhìn ra sông nhà nhìn ra đường Tông Thứ.

 

Chú Hai Thợ Mộc con trai lớn của Bà Tư Ốm bên xóm Cầu Huyện dưới chú tánh tình hiền lành có mấy người con, con trưởng tên Hai Lớn để phân biệt với thằng Hai Nhỏ con Chú Sáu Nhẩn, thằng Ba Gà, cô Tư ốm, đặc biệt không biết vì sao đứa thứ năm được đặt tục danh là Năm C… hết chuyện đặt tên con ! Năm C. . . này đủ món ăn chơi, bài bạc lanh lợi nhất nhà

 

5- Nhà Chị Tư Huỳnh

Anh Tư làm nghề thợ mộc hiền lành ít nói, chị tư lanh lợi miệng nhai trầu tối ngày, đứa con gái lớn đi làm ăn ở xa, cô út ở nhà thấy chưng diện vàng vòng đỏ tay, lập gia đình rất sớm. Sau khi thấy Cậu Tư và anh Ba Thọ bán nhà, cũng bán nhà đi theo con gái, tôi chẳng biết đi đâu, nhà này sau thấy Anh Tư Đời ở

 

Cao Thệ



Người gởi: cao the
Ngày gởi: 13/Jun/2012 lúc 8:56pm

6- Chú Tư Vinh,

ông này cụt một bàn tay, nghe nói Chú này là dân giang hồ, sau giải nghệ hành nghề đạp xích lô, Chú Tư ăn nói ngang tàng nhưng tính rất kỹ lưỡng nhà của lúc nào cũng sạch sẽ, gọn gàng, xe xích lô chú lúc nào cũng bóng lưỡng.

Thiếm Tư ở nhà tụ tập bạn bè đánh bài tứ sắc tối ngày

Bàn Thiên nhà chú đặt ở hàng rào ngay bên lề đường, đêm đó đi ngang thấy nải chuối mập ú, máu chôm chỉa nổi lên tôi không dằn xuống được thò tay lấy, bổng nghe tiếng thằng con Chú bên kia đường hét toán lên, tôi ôm nải chuối chạy vào đường hẻm hảng nước đá, quẹo trái qua hẻm lò Bún chạy về nhà. May mắn cho tôi trời đất phò hộ cho kẻ gian mà hiền nếu bị bắt được chỉ có nước độn thổ, xui hết biết ! từ đó đi học không dám đi ngã mé sông nữa, phải đi ngã Ao Trường Đua,

 

7- Nhà Bác Tư Búp

Ngày trước nơi này là bến đò, nơi tắm ngựa của Cậu Tư và Anh Ba Thọ, cũng là nơi tắm của các bạn bên mé sông, hôm nào lũ chúng tôi vào nhà Ông Ba nghi hái bần tắm sông gặp nhau thì hai bên chơi trò chọi lộn bằng sình hoặc kết bầy đi hái trộm ổi, bần ổi. Sau này Chú Tư Vinh rào lại

 

Dưới gốc cây keo gai là nhà Bác Tư Búp.

Bác Tư Búp làm thợ Thiếc gò hàn máng xối, thùng gánh nước, thùng tưới cây v.v… thấy trong nhà có đứa con gái tên Nở tối ngày bên mẹ, Hai bác rất hiền, Bác Tám lúc nào cũng thấy đeo cặp kiếng lão tròn vo xệ gần tới chớp mũi

Một tay cằm thanh chì một tay cằm bình khè lửa bác đi dường hàn tài rình thẳng băng, mối hàn không chê vào đâu được.

 

 

8- Nhà Bác Tám Kỷ

Quán bán tạp hoá của Bác Tám Kỷ là cái thum nhỏ trước nhà,  nhà ở cất thụt tuốt bên trong được nối liền hàng gạch

Quán của Bác Tám bán bánh kẹo, tập vở là chính nhưng đủ thứ thập vật, hàng xóm mua gì cũng có.

Điểm đặc biệt là từ đây trở lên những căn nhà  được cất sâu bên trong rất xa đường lộ vì đây là phần đất bên voi, theo ngày tháng sông mãi bồi thêm ra

Chúng tôi thường đi bắt vọp bên phần sông nhà Ông Ba nghi, bên kia sông là nhà Bác Tám  Ô rô, cốc kèn, bần mọc kín nhưng vẫn thấy bóng người ra vào, làm việc.

 

 

9- Nhà Bác Sáu Điếc,

Căn nhà nhỏ lợp lá hàng rào cây có bàn thien bằng gổ đứng chông chênh trước sân, thoạt nhìn ta cảm nhận ngay không gian man mác buồn, tôi thấy trong nhà có bạn trang lứa với chúng tôi nhưng thấy ít giao thiệp với ai, theo bài viết của nhà thơ Thy Lan Thảo “ ông bà Bảy Điếc, Ông lãng tai rất nặng.Ông là người xứ khác, bị án lưu đày, phát vãng tới đây, sinh sống bằng nghề làm mướn “.

 

10- Hai gia đình người Tàu

 

Miếng đất kế bên thật rộng, bờ sông ngay khúc quanh ắt có bên voi bên vịnh, miếng đất này nằm ven sông Cầu Huyện thuộc về bên voi, trong Phong Thuỷ bảo tốt  hai gia đình người Tàu, tên Ông là Cao Văn Báu.

Chuyên nghề  làm cải muối. Cây cải người ta muối đem phơi khô gọi là cải Tiều xại ? Củ cải muối lấy ra phơi khô gọi là cải Xá bấu ?

Không biết Tiều Xại hay Xá Bấu có đúng không nhưng tôi biết có một điều rất là đúng gọi chung là cải muối.

Khi xe bò chở cải đến nơi người ta cắt bỏ bớt rể, có hai cái ao phía trước, lá cải, rể cải rớt xuống ao lâu ngày màu nước vàng đen, màu nước này là hoa của loài Tảo rất độc do ao tù nước động đáy ao rất dơ,  công nhân quăng cây cải và củ cải xuống ao quậy qua quậy lại rồi lượm lên.

Cây cải phơi trên tấm đệm, hôm nào không đủ đệm phơi tự do trên đất, khi dốt dốt phơi trên những cây sào.

Củ cải người ta xấp cài vào hồ, một lớp củ cải một lớp muối. công nhân thi nhau dậm đạp.

Xứ Gò Công nước mặn, nên dùng mái chứa nước mưa,  phát triển người ta đúc hồ chứa nước, một cái hồ chứa mấy chục đôi nước, sử dụng hồ ít choáng chổ hơn, nhưng xi măng làm cho nước mưa nhạt hơn.

 

Hồ chứa nước, Bác Sáu Ngân thợ hồ xóm tôi đúc sẳn để bán người dân quanh vùng. Hảng cải muối đặt làm nhiều hồ không nắp để muối cải, mấy chị ở xóm tôi là thợ ở hảng muối cài này. Chị nào chị nấy kẻ tay, kẻ chân lở lói vì ghẻ , lý do là suốt ngày đứng trong hồ chất cải, đổ muối xong rồi dậm lên cho cải xọp xuống, da tay da chân tiếp xúc với cải và muối nên ra nông nổi như vậy, Cải muối ăn rất ngon !

 

12- Nhà Bác Năm Quăn

Cuối xóm nhà nằm dọc theo bờ sông là nhà Bác Năm Quăn.

Bác Năm người Miên tóc quăn nên gọi là Năm Quăn. Ông này thuộc dân giang hồ tứ chiến

Trước nhà có cây me, dưới bóng me lúc nào cũng thấy mấy cái lồng nhốt gà nòi đủ loại, đặt mấy cái ghế Bác và các bạn hay ngồi xem vảy coi cựa gà, hoặc lũ nhỏ bu lại xem cá Lia Thia, phải nói cá Lia Thia của bác đẹp và chiến đấu hơn hẳn cá Lia Thia của Bác Hai Thi, vào thời đó Bác đã có bán cá Phướng, loại cá mà vi và kỳ đều dài xanh xanh đỏ đỏ, lúc chúng phùng mang, trợn má vươn vi kỳ thật đẹp, như Lữ Bố chung quang lưng cắm đầy cờ, trước ngực có chùm hoa vãi, trên đầu đội mão có mấy cây long Trỉ thật là oắch! Nhưng thú thật chúng tôi không dám vào mua bởi cái mặt rất ngầu của bác.

Thi Sĩ Thy Lan Thảo viết vê gia đinh Bác như sau :

“Ông Năm Quăn có người con trai mà giới lính tráng cũng như thanh niên Gò Công thường biết tên đó là Ba Hóa, nhà anh ở Xóm Cỏ chuyên nuôi” em út”…  Khoảng giữa thập niên 60”

 

Từ nhà Bác đi khoảng 10m nữa là đến cống ông Ba Khoa, khu vực quanh cống vào lúc triều cường thường bị ngập nước.

 

Không hiểu vì sao có thời gian nơi này người ta đặt cái Lô Cốt đêm đêm cử người đến gác Nghĩa Địa ? Vào những năm này bọn việt cộng mới ló mặt ra lực lượng không mạnh lắm, nhưng lập ấp chiến lược, lính tráng co cụm lại trong thành phố, bên ngoài ban đêm mặc sức cho việt cộng đi giết người, chặt cây, đào đường, cuốc lộ, đặt mìn, gài lựu đạn, để sáng ra người trong ấp Chiến lược đi làm ruộng bị giết hại ! Ngày trước dọc bên đường đi Tân Niên Tây, Bình Ân, Sơn Quy… Trường Tiền trồng cây cho người đi đường có bóng mát ngồi nghỉ chân bọn chúng hè nhau mỗi đêm chặt vài cây ngã ngang trên đường, xong treo lựu đạn vào,  ai đến kéo cây thì bị nổ, hoặc núp trong lùm bụi súng bá đỏ gát trên nạng cây, ai kéo nhánh cây trên đường trong xóm nghe chốc…chùm ngoài đường người ngã xuống thật là gian ác. Chặt riết không còn cây nào, người dưới quê đa phần là ông bà cha mẹ bọn chúng đi chợ gánh hàng về nặng mệt ứ hơi không tìm được bóng mát thật là khổ bởi lũ quỹ! Cái vọng gác vô duyên ấy tuổi thọ chẳng được bao lâu ! Nhờ dẹp bỏ bớt các đồn bót mà sau này Gò Công là một trong 2 tỉnh an ninh nhất ở miền Nam

 

Nhà bác Năm là căn cuối cùng phía bên phải, từ đây sông Cầu Huyện chạy song song với đường Tổng Đốc Phương lên đến Trường Bà Phước không có nhà nào.

Bờ bên kia sông dừa nước mọc len kín, trước ngỏ nhà Ông Cả Thuận nhìn bên sông thấy một khoảnh phía nhà sau thầy Năm Cần.

Hàng dừa lá chạy đến đầu ranh đất nhà Ông Đốc Phủ Tường thì hết, hai bên bờ sông là hai con đường.

Bên phía Cầu Huyện bây giờ là đường Hai Bà Trưng đầu đường Lộ Me bờ đất voi ra sông tạo một khoảng đất rộng, người quanh khu vực đổ rác thành đống to. Đường bên kia  sông thuộc Ấp Nhà Thờ đi thẳng đến Trại Giam, qua Trường Nam Tiểu Học , Trường Nữ Tiểu Học là đường Nguyễn Văn Côn hiện nay.

Người đi đường bên này nói chuyện với người đi đường bên kia, dưới mé sông trước nhà Thầy Sáu Tống le que mấy cây bần, phần còn lại là cỏ dại Ô rô,  Cóc Kèn, Mái Chèo mọc theo mép nước.

 

Cao Thệ




Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info