Print Page | Close Window

ĐỜI SỐNG GIA DÌNH

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Tâm Tình
Forum Discription: Giải bài tâm sự về gia đình, xã hội hay chính mình về điều gì đó.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=3319
Ngày in: 05/Nov/2024 lúc 2:55pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH
Ngày gởi: 27/Oct/2010 lúc 6:15pm
Nói nhiều - "bệnh khó chữa" của các bà vợ
Tác Giả : Nguồn: DTNews   

Vừa dắt xe vào sân, chồng chưa thấy mặt vợ đâu đã nghe tiếng: “Ai mở vòi nước mà không tắt? Khổ thân tôi chưa? Tháng này rồi cha con nhà ông liệu mà trả tiền nước đi nha!”.

Người ta kể, ở Pháp có một người đàn ông bị đi tù sáu tháng vì tội đánh vợ. Mãn hạn tù về chưa đầy một tuần lễ, anh ta đã khăn gói đến xin ban quản lý trại giam cho được tiếp tục... cải tạo thêm. Hỏi vì sao không ở nhà mà lại muốn vào tù? Anh ta thú thật, tuy ở tù chẳng sung sướng gì nhưng còn hơn ở nhà, vì ở tù không phải nghe vợ đay nghiến suốt ngày đêm!

Biết rồi, khổ lắm, nói mãi

Một cuộc điều tra xã hội học ở Trung Quốc với 1.027 đàn ông ở nhiều vùng dân cư khác nhau với câu hỏi: "Vợ anh có thói xấu gì khó chịu nhất?", thì đến 82% trả lời, đó là tính nói nhiều. Hóa ra, ai cũng sợ cái tính nói nhiều, nói dai của các bà vợ. Nỗi sợ này có nguồn gốc sâu xa từ thuở nhỏ, các cậu bé đã bị mẹ mắng mỏ nhiều quá. Đàn ông lẩn tránh các "lời khuyên" của vợ cũng giống như khi còn nhỏ họ lẩn tránh lời giáo huấn của mẹ. Thực tế "phái mạnh" rất hay bị "phái yếu" rầy la. Lớn lên một tí bị chị mắng. Lớn tí nữa, bị người yêu trách. Lấy vợ, bị vợ chê. Về già cũng chưa yên. Có cụ ông khi tiễn cụ bà về nơi an nghỉ cuối cùng đã tưởng từ nay chẳng còn ai nói mình nữa. Nào ngờ, cụ lại phàn nàn: "Con gái tôi bây giờ cũng nói nhiều chẳng kém gì mẹ nó!".

Tại sao đàn ông, cả những người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng lại sợ "võ mồm" của phụ nữ? Đơn giản vì nó không nguy hiểm chết người nhưng làm cho người ta khó chịu đến mức có thể ăn không ngon, ngủ không yên, sức khỏe cả tinh thần lẫn thể chất suy yếu dần, thậm chí sinh bệnh mà... chết.

Không hiểu các bà vợ có đề tài gì mà nói nhiều như vậy? Để lý giải điều đó, người ta đã làm những cuộc khảo sát nho nhỏ dành riêng cho các ông chồng và nhận ra, có đến 95% những lời "giáo huấn" của vợ là... giống nhau! Lại... hóa ra, hầu hết những "bài ca bất tận" của phái đẹp không phải là những sáng tác mới mà được tái bản nhiều lần, đến nỗi chồng thuộc lòng. Lắm ông chỉ nghe câu đầu đã biết toàn bộ nội dung "bài hát". Cho nên, nhân vật Cố Hồng trong truyện Số đỏ của Vũ Trọng Phụng có một câu cửa miệng đã trở thành "bất hủ" là: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi".

Tai hại thấy rõ nhất của việc nói nhiều là đầu độc bầu không khí gia đình... (Ảnh minh họa)

Tai hại thấy rõ nhất của việc nói nhiều là đầu độc bầu không khí gia đình. Khi có một người bộc lộ sự không hài lòng của mình về người khác thì cả nhà đều bị căng thẳng. Chị Thúy Lan (Q.Phú Nhuận, TP.HCM) đi làm về, vừa dắt xe vào đến sân, chồng chưa thấy mặt vợ đâu đã nghe tiếng la: "Ai mở vòi nước mà không tắt vậy hả? Khổ thân tôi chưa? Tháng này rồi cha con nhà ông liệu mà trả tiền nước đi nha!". Tắt cái vòi nước, bước chân vào nhà, thấy cái bãi chiến trường: quần áo, giày dép vứt mỗi cái một nơi; trên bàn cốc chén ngổn ngang; dưới sàn đất cát vương vãi là chị biết chắc ông con trai lôi đám bạn về, bày ra rồi cứ thế rủ nhau đi đá bóng. Thế là chị vừa dọn dẹp vừa nói luôn mồm. Không nói cũng không được.

Tại anh...

Nhưng, những người đàn ông hãy thử nhìn lại mình một cách nghiêm túc xem, liệu sự ca thán của các bà vợ là đúng hay oan? Các nhà tư vấn tâm lý sau khi kiên nhẫn ngồi nghe hàng ngàn cuộc than phiền từ các quý bà, đã nhận thấy một thực tế đau buồn là: trên đời khó có ông chồng nào thoát khỏi bị vợ chê. Người làm việc trí óc, làu thông kinh sử thì bị vợ la rầy về tội đóng cái đinh không nên hồn, thay cái cầu chì thì cứ như xẩm sờ gậy. Người là thợ bậc 7, làm việc gì cũng khéo lại bị chê là con bị ốm, viết cái đơn xin cho nó nghỉ học cũng không xong. Người giỏi cả chân tay lẫn trí óc lại bị tra tấn vì tội không biết lãng mạn là gì, từ ngày lấy nhau đến giờ chưa bao giờ mua được cặp vé đưa vợ đi xem kịch. Tóm lại là anh đã lấy vợ thì kiểu gì anh cũng bị vợ chê, không chuyện này thì chuyện khác. Xưa nay phụ nữ rất ít khen chồng. Nếu có khen thì khen chồng… hàng xóm. Nhưng, giá bảo đổi chồng thì chắc chắn họ lắc đầu quầy quậy.

Vậy khi mới yêu nhau, phụ nữ có thói quen đó không? May thay, lúc đó họ luôn ít nói. Họ kiên nhẫn ngồi nghe đàn ông ba hoa, bốc phét một tấc đến giời, lại còn đế vào: "Thế cơ à? Sao anh giỏi vậy? Anh thông minh thế?". Lúc ấy, anh nào mà chả đáng yêu. Anh ta đang chinh phục mà! Ngày lễ, ngày Tết có hoa, có quà. Đi đâu thì xe đưa, xe đón. Thích gì chưa nói anh ta đã đoán được và chiều đúng ý nàng. Cho nên nhất cử nhất động của anh ta đều đáng yêu hết. Mọi điều đáng ca thán chỉ bắt đầu từ khi họ kết hôn, về chung sống với nhau.

Hãy thử nghe một buổi "ca nhạc thính phòng" tại gia xem như thế nào? Hôm ấy, bữa cơm tối diễn ra vui vẻ. Ăn xong, vợ ngọt ngào bảo chồng: "Bữa nay anh rửa bát nhá!". Chồng vừa dán mắt vào tivi theo dõi trận quyền Anh, vừa trả lời rất ga-lăng: "Cứ để đấy, anh rửa!". Nói xong, chồng vẫn ngồi nguyên vì theo anh ta, xem hết trận đấu rồi đi rửa bát cũng chẳng chết ai! Nhưng người vợ không chấp nhận kiểu đó. Sẽ xảy ra một trong hai tình huống. Một là người đẹp nhắc lại bằng giọng nữ cao: "Anh có rửa bát không?". Hai là nàng lẳng lặng bưng mâm bát đi rửa. Đừng vội mừng là bà xã chịu thua! Đó chính là cách "đay nghiến không lời", còn khủng khiếp hơn là đay nghiến bằng lời, vì đi kèm với nó là một bộ mặt đằng đằng sát khí.

Đã có những nghiên cứu về đề tài tại sao phụ nữ nói nhiều và các nhà khoa học phát hiện nguyên nhân chính là do đàn ông. Vì, ngay trong thời đại phụ nữ đã được giải phóng thì hầu hết việc nhà vẫn rơi vào tay chị em, mà loại việc đó thì có làm mãi vẫn không mấy khi có thể hài lòng. Hết con bày ra lại đến chồng buông quăng bỏ vãi, nhìn đâu cũng gai mắt không thể chịu nổi. Công bằng mà nói, nếu gia đình nào vợ đi vắng lâu ngày, buộc chồng phải đảm đương nội trợ thì anh ta cũng nói nhiều chẳng kém. Cho nên, muốn "trị" được bệnh nói nhiều của vợ, chỉ còn cách các ông chồng chịu khó xắn tay áo lên. Trong khi vợ nấu cơm, nếu không vào phụ bếp thì hãy thu dọn nhà cửa cho gọn gàng, lau sạch sàn nhà, đưa con đi tắm hoặc giặt quần áo, phơi lên. Xong việc thì đi tưới cây trên sân thượng. Bạn hãy thử như thế xem, hẳn vợ bạn sẽ nhìn bạn với nụ cười âu yếm...

Xưa nay phụ nữ rất ít khen chồng. Nếu có khen thì khen chồng… hàng xóm (Ảnh minh họa)

Thay đổi "đường lối"...

Thật ra, nếu cứ gặp đâu nói đấy thì có nói suốt ngày cũng chẳng thể nào giải quyết được vấn đề. Không có gì hoang tưởng hơn là chỉ bằng lời nói mà cải tạo được chồng, con. Muốn chồng chịu nghe mình, bạn không cần nói ngay lúc sự việc không hài lòng đang diễn ra, mà nên chờ dịp thuận lợi để nói chuyện một cách nghiêm túc. Bạn cũng không nên hì hục dọn dẹp một mình mà buộc ai đã bày ra thì phải tự dọn lại. Bạn cũng đừng ca thán chung chung mà chỉ việc cụ thể cho chồng làm. Nếu không anh ta sẽ quát lại: "Bây giờ phải làm cái gì?". Rồi nhăn mặt như ăn phải ớt: "Sao mà nói lắm thế! Không biết mỏi mồm à?". Chỉ cần vài lần hướng dẫn cụ thể từng việc, làm được thì có động viên khuyến khích. Cứ thế, bạn sẽ dần đưa được chồng con vào thói quen ngăn nắp, gọn gàng. Nếu chưa được, cứ tiếp tục uốn nắn nhưng phải bằng việc làm cụ thể chứ không chỉ bằng cách nói nhiều.

Tại sao có những ông chồng tan sở không muốn về nhà? Vì cứ thò mặt về là bị "tra tấn" bởi những "bài ca không quên". Ngồi ăn cơm cũng đắng mồm vì vừa ăn vừa bị nghe. Thậm chí, buổi tối "đài phát thanh" cũng không ngừng làm việc. Có người đàn ông nào thích sống trong bầu không khí ấy đâu! Có đứa trẻ nào hằng ngày hít thở không khí ấy mà tâm hồn không bị ô nhiễm! Cho nên, nếu hỏi nhà sạch đẹp có cần không? Rất cần. Chồng con bày bừa có cần phải la không? Cũng cần. Nhưng, nếu đem hạnh phúc gia đình đánh đổi những cái đó, thì giá quá đắt. Nhà cửa sạch bong, đồ đạc ngăn nắp đâu vào đấy nhưng chồng đi đằng chồng, con đi đằng con, chỉ còn mình bạn trong ngôi nhà ngăn nắp gọn gàng nhưng trống trải, cô đơn, lẽ nào đó là giấc mơ của bạn?



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...



Trả lời:
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Oct/2010 lúc 6:52pm
 
/main/doisong/giadinh/22424-ni-au-tui-gia.html - Nỗi Đau Tuổi Già
 
Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

      Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “đem cha bỏ chùa ”.

      Cũng lại câu chuyện của một người già. Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng. Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có p***port hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường Los mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.

      Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có p***port của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái.
 
      Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng. Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi. Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

      Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off. Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời. Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá lớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng. Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi:
-“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?”
Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:
-“Bả đi khỏi rồi!”

      Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ. Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm. Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không có tiếng Anh, sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

      Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”. Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.

      Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ truyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

echo sưu tầm


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Oct/2010 lúc 8:25pm
 
THƯƠNG CẢM QÚA LAN HUỲNH ƠI ! CryCryCry


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Oct/2010 lúc 8:50pm
 

BÀ MẸ QUÊ.





 
BÀ MẸ QUÊ. ...Bài rất cảm động....
 

          Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì con gọi bố mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai danh từ này cho bài viết về mẹ tôi, một bà mẹ quê.

Thầy tôi qua đời ngày 15 tháng Giêng năm 1947, hưởng dương  41 tuổi! Ông cụ mất đi khoảng sau 2 tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn”(?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không còn nhớ gì nữa! Kỷ niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ, khi đến bên bờ hồ trước cửa nhà thờ thì nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò, còn tôi, một thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi đành buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc vì sợ con trâu sẽ chết đuối.

          Nhưng với bu tôi, một bà mẹ quê, thì tôi nhớ nhiều, nhưng chưa một lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu. Khi thầy tôi mất thì bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con, tất cả cùng sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai trái, một mảnh vườn với dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An, thành phố Hải Phòng, và chỉ cách hai nơi này chừng hơn 3 cây số.

Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn còn như đang thấy trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc vườn, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc sau khi đã chôn cất thầy tôi xong.

Bu tôi cả ngày phải chân lấm tay bùn với ruộng lúa vườn rau, mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn (heo) xong thì mặt trời đã lặn, giữa lúc tranh tối tranh sáng, bà lẳng lặng ra góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè mà thút thít khóc trong khi các con không hay biết.

Một buổi chiều tối, khi chim đã về tổ, tôi leo lên cây cau ở góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con “chíp chíp” mà tôi đã rình từ lâu, tôi thất kinh suýt rơi xuống đất khi bất chợt thấy bóng đen đứng khóc góc vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra giải khăn tang trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của bu tôi, tôi vội tụt xuống định chạy vào nhà, nhưng rồi khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì nghe tiếng bu tôi khóc:

“Ối ông ơi! Trời đã tối rồi! Ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống nước với các con ông ơi!” .

Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không biết sợ ma nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các con nghe được, chắc bà cam chịu đau khổ thương nhớ một mình, không đành chia nỗi buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi không ai hay biết việc này, vì sau một ngày quần quật với công việc ruộng lúa vồng khoai thì tất cả đã mệt nhoài, mọi người đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.

Riêng mình tôi biết bu tôi khóc, tôi chẳng nói cho ai hay, nhưng tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau hè nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của khổ đau kéo cành chè gẫy xuống! Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang:

Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế ! Hãy để cho Quán nó yên nghỉ.

Đó là tiếng của cụ Dưỡng, chú của thầy tôi, chắc cụ cũng sót ruột vì tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu nên phải vâng lời chú, từ đó bu tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu vì nấm mồ chôn chồng chưa xanh cỏ thì làm sao vơi nên nước mắt tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong góc bếp giữa đêm khuya.

Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê với căn nhà lá có nhiều khe hở để gió lùa vào, anh em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò đầu, cái lạnh đêm khuya lại thêm dạ dày trống đúng với câu châm ngôn “bụng đói cật rét” nên giấc ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vửa gáy, tôi thức giấc thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy và mon men tới để sưởi cho ấm thì thấy bu tôi ngồi nấu cám heo, một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa cháy, bóng mẹ tôi in lên vách bếp, ngả nghiêng theo ánh lửa bập bùng. Đêm khuya, thấy con thức dậy bò xuống bếp thì bà mẹ biết con đang thiếu cái gì. Vừa trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:

 Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu nướng cho con củ khoai.

Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ lép-bép làm bắn ra những tia lửa tựa pháo bông và kéo theo tro bụi phủ lên người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro trên tấm khăn tang trắng rồi lấy củ khoai lang ở cái thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu rau”.

Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro” là gì, mùi vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của bu tôi hiện nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng không biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho tôi không có gì so sánh được. Người ta thường dùng chữ “ban” đề nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế, Chúa, Phật ban cho con chiên, phật tử, nhưng bu tôi đã “ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ con.

Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm rơm chà lên vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:

 Khoai còn nóng lắm, con ăn từ từ.

Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon với trẻ em miền quê, nếu em đói mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”, ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang dễ bị nghẹn. Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng thì thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn của tôi biến đi đâu mất, tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ cũ khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời nào cả? Biết nói gì hơn, và dù biết văn hoa chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói cũng bằng thừa, là sáo ngữ. Tôi đưa nủa củ khoai cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya mả tôi thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng nhường miếng ăn cho con như tất cả các bà mẹ khác.

Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi không nói gì cả nhưng lại choàng tay qua kéo tôi vào lòng. Tôi biết bu tôi đang thổn thức và rồi bà khẽ nói:

 Con lên nhà đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để còn kịp “ra đồng”.

Hai chữ “ra đồng” là chỉ công việc ngoài đồng ruộng như cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng bắp (ngô) v.v.. những công việc của nhà nông để làm ra thực phẩm mà người “thành phố”, nhất là các bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có thể hình dung ra được nó vất vả như thế nào.

Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre, rồi bị chạy loạn vì chiến tranh! Khi hồi cư về làng cũ thì chỉ còn hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con đi, không biết đi về đâu và làm gì! Những lúc gian nan khốn khổ như thế chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi và mong chồng chỉ lối đưa đường cho vợ góa con côi được về nơi bình an.

Cuối cùng thì gia đình tôi làm dân di cư trôi dạt vào Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương năm 1954. Người nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ di”, vất đâu cũng sống được với đất, nhưng mẹ con chúng tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có hai bàn tay nên phải xoay sở, các anh chị tôi lúc này đã trưởng thành nên phiêu lưu về thành phố và gia đình tôi lại di chuyển về 172/41 đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, quận Bốn, Saigon.

Bu tôi, một bà mẹ quê “lạc” về thành phố, bỏ lại sau lưng xa tít mù khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn và nhất là mồ chồng mà sẽ không bao giờ được nhìn lại nên bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau khi đã có tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác, thương cháu chăm sóc cháu hơn thương con.

Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái bình với cháo rau đạm bạc bên con cháu cho tới lúc đầu bạc răng long thì chiến tranh lại tràn về, các con trai con rể của cụ lên đường tòng quân, thằng Cao Nguyên, đứa Đông Hà, con trai út ở núi Sơn Chà thì con trai áp út ở mãi tận mũi Cà Mâu, đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ! “Đại bác đêm đêm vọng về thành phố” thì bà mẹ quê khốn khổ thức giấc ngồi tựa lưng vào vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc thầm chuỗi Mân-Côi cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con nơi lửa đạn.

Nhưng hằng ngày bu tôi vẫn nhói tim khi nhìn những xe nhà binh GMC trên chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa! Khi nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của lính chết trận đó thì bu tôi vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.

 Rồi sáng ngày N tháng 6/1966, một xe GMC chạy vào xóm và từ từ dừng lại khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng người lính TQLC tìm nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là người cùng quê, để báo tin con trai bà là thằng Mão đã tử trận! Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng muốn xỉu theo, vì Mão và tôi là bạn và cùng tình nguyện vàoTQLC. Mão Tiểu Đoàn 1, tôi Tiểu Đoàn 2, cả hai vừa đụng trận tại ngã ba sông Định, thuộc Bích La Thôn Quảng Trị, nó tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên tôi đã nói với hậu trạm là đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo đúng thủ tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe nhà binh đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi, người báo tin chưa kịp nói gì thì bu tôi không còn biết gì nữa!

Vì bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để đi phép. Bu tôi đang nằm trên giường bệnh, thấy tôi về, cụ ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con lắc lắc như muốn biết đây là thực hay chiêm bao? Bu tôi không nói gỉ mà chỉ khóc, có lẽ cụ khóc vì lo âu, cụ khóc vì hạnh phúc còn cầm được tay con vừa từ mặt trận trở về, những bà mẹ của lính chiến thấy mặt con lúc nào thì hạnh phúc lúc đó. Tôi xin mượn ý bài thơ MTHS: “không chết người con lính chiến mà chết người mẹ ở hậu phương”, người lính chiến nếu có chết, chỉ chết một lần, nhưng bà mẹ hậu phương thì chết dần chết mòn, chết giấc vì con!

Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa con, đứa cháu trong họ hàng và cùng ở TQLC lần hồi tử trận như Tô Chiêu, Tô Sơn, Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh v.v..Cuối cùng thì ngày 19/6/1969, trên con kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã loại tôi ra khỏi vòng chiến, nhưng may mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v.., tôi còn nặng nợ, chưa đi được nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh bệnh viện, toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu tôi đang lấy cạy vết máu, vết sình đã khô trên mặt tôi, tôi mấp máy đôi môi, gọi qua hơi thở của bình dưỡng khí:

 “Mẹ”.

Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi quen với chữ “Mẹ” từ đó.

Tôị bị trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến thì cũng là lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu, thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ kẹp nách thì mẹ lại mỉm cười:

 “Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo”.

Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc quanh quẩn một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không biết đọc mà chỉ biết khóc vì con. Thế rồi đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tực vất vả vì các con, lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh nhìn mẹ rồi vất đôi dép làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để vào túi xách cho tôi lên đường “vinh quang”.

Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai người anh rể đều lên đường để “được” cải to làm con người! Chẳng cần nói thêm thì ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”! Nghe hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho các con để sớm được về đoàn tụ!

Quá khứ đời tôi lính chiến đã khiến mẹ lo âu sợ hãi nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này, tôi lôi đôi dép cao su ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà, mẹ tôi nhìn sững tôi và chắc bà tự hỏi tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để sớm được về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được tình thương mênh mông của bà mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang chín từng khúc rut. Tôi lẳng lặng cầm túi xách với bộ quần áo lên đường, không lời chào từ giã mẹ già đang ngồi tựa lưng vào vách mà mắt nhìn theo gót chân con!

“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ thấy mẹ, linh tính cho biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà mỗi khi đến thăm nuôi thì được biết mẹ tôi vẫn bình thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong giấc mơ, tôi đem chuyện hỏi lại thì lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách ra một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo nhưng dấu kín. Tôi không còn nước mắt để khóc mẹ vì tôi đã không chào mẹ khi ra đi, không biết rằng đó là lúc chào lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi khóc vì các con phải đi xa khi đã thái bình khiến mẹ mù lòa! Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!

“Lòng mẹ thương con như biển Thài Bình dạt dào”, lòng mẹ như bị dao chém mỗi khi nghe tin con “thắng trận” trở về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa”! Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong vài trang giấy! Những bà mẹ dù quê hay thành phố, dù bên này hay bên kia đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ VN thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui khi các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính chiến luôn canh cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu:

 _“Lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống !!!”

Những ai còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì xin chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đã phạm đối với “bà Mẹ quê” để khỏi phải ân hận khôn nguôi./.



NNNNNguồn
 Nguồn :DzungNguyen-tnic
 
 
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Nov/2010 lúc 8:58pm
8 lời nói dối trong đời người mẹ....



Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con. Mẹ bảo: Các con, ăn nhanh đi, mẹ không đói!——>Mẹ nói câu nói dối đầu tiên!

Khi cậu bé lớn dần lên, người mẹ tảo tần lại tranh thủ những ngày nghỉ cuối tuần, đến những vùng đầm hồ ven đô bắt cá về cho con ăn cho đủ chất. Cá rất tươi, canh cá cũng rất ngon. Khi các con ăn thịt cá, mẹ lại ngồi một bên nhằn đầu cá. Lấy lưỡi mà liếm những mảnh thịt sót lại trên đầu cá. Cậu bé xót xa, liền gắp miếng cá trong bát mình sang bát mẹ, Mẹ không ăn, lại dùng đũa gắp trả miếng cá về bát cậu bé. Mẹ bảo: Con trai, con ăn đi, mẹ không thích ăn cá.——> Mẹ nói câu nói dối thứ hai.

Lên cấp 2, để nộp đủ tiền học phí cho cậu bé và anh chị, Vừa làm thợ may, mẹ vừa đến Hợp tác xã nhận vỏ hộp diêm về nhà ngồi cặm cụi mà dán vào mỗi tối, để kiếm thêm chút tiền chi tiêu cho gia đình. Một buổi tối mùa đông, nửa đêm cậu bé tỉnh giấc. Thấy mẹ vẫn còng lưng dán vỏ bao diêm bên cạnh chiếc đèn dầu. Cậu bé nói: Mẹ à, mẹ đi ngủ thôi, sáng ngày mai mẹ còn phải đi làm nữa mà. Mẹ cười nhẹ: Con trai, đi ngủ đi. Mẹ không buồn ngủ!——> Mẹ lại lần thứ ba nói dối

Ngày thi vào trung học, mẹ xin nghỉ làm, Ngày nào cũng đứng ở cổng trường thi, làm chỗ dựa tinh thần cho cậu bé đi thi. Đúng vào mùa hạ, trời nắng khét tóc. Người mẹ nhẫn nại đứng dưới cái nắng hè gay gắt chờ con suốt mấy tiếng đồng hồ. Tiếng chuông hết giờ đã vang lên. Mẹ nghiêng người đưa cho cậu bé bình trà đã được pha sẵn, dỗ dành cậu bé uống, bình trà nồng đượm, tình mẹ còn nồng đượm hơn. Nhìn thấy bờ môi khô nẻ và khuôn mặt lấp lánh mồ hôi của mẹ, cậu bé liền đưa bình trà trong tay mời mẹ uống. Mẹ bảo: Con uống nhanh lên con. Mẹ không khát! ——>Mẹ nói dối lần thứ tư

Sau khi Cha lâm bệnh qua đời, Mẹ vừa làm Mẹ vừa làm Cha. Vất vả với chút thu nhập ít ỏi từ nghề may vá. Ngậm đắng nuốt cay nuôi con ăn học, cái khổ không lời nào kể xiết. Có chú Lý ngồi sửa đồng hồ dưới chân cây cột điện đầu ngõ biết chuyện, việc lớn việc nhỏ chú đều tìm cách qua giúp một tay. Từ chuyển than, gánh nước, giúp ít tiền cho gia đình cậu bé tội nghiệp. Con người chứ đâu phải cây cỏ, lâu rồi cũng sinh tình cảm. Hàng xóm láng giềng biết chuyện đều khuyên mẹ tái giá, việc gì phải một mình chịu khổ thế. Nhưng qua nhiều năm mẹ vẫn thủ thân như ngọc, kiên quyết không đi bước nữa. Mọi người có khuyên mẹ kiên quyết không nghe. Mẹ bảo: Mẹ không yêu chú ấy. ——>Mẹ nói dối lần thứ 5

Sau khi cậu bé và các anh chị cậu tốt nghiệp đại học đi làm. Mẹ nghỉ hưu rồi nhưng vẫn tiếp tục làm những việc lặt vặt ở chợ để duy trì cuộc sống. Các con biết chuyện thường xuyên gửi tiền về để phụng dưỡng mẹ. Mẹ kiên quyết không nhận, tất cả tiền con gửi về mẹ đều gửi trả. Mẹ bảo: Mẹ có tiền mà! ——>Mẹ nói dối lần thứ 6

Cậu bé ở lại trường dạy 2 năm, sau đó thi đỗ học bổng học thạc sỹ ở một trường đại học danh tiếng của Mỹ. Sau khi tốt nghiệp cậu ở lại làm việc tại một công ty nghiên cứu máy móc. Sống ở Mỹ một thời gian, khi đã có chút điều kiện. Cậu bé muốn đưa mẹ qua Mỹ sống để phụng dưỡng mẹ tốt hơn. Nhưng lại bị mẹ từ chối. Mẹ bảo: Mẹ không quen! ——>Mẹ nói dối lần thứ bảy.

Nhiều năm trôi qua, mẹ lâm trọng bệnh, phải vào viện điều trị. Khi con trai đáp máy bay từ nơi xa xôi về thăm mẹ, mẹ già đi nhiều và yếu quá rồi. Nhìn mẹ bị bệnh tật dày vò đến chết đi sống lại, thấy con trai đau đớn vì thương xót mẹ. Mẹ lại bảo: Con trai, đừng khóc, mẹ không đau đâu. ——> Đấy là lần nói dối cuối cùng của mẹ


« IL Y A UN PARADIS SOUS LES PIEDS D’UNE MÈRE »


http://2.bp.blogspot.com/_2BYVqD-pTGo/R4Ou5t0qQpI/AAAAAAAAEHU/QTr0QcYHFq0/s1600-h/mother_and_child_3.jpg">

Cette histoire commence alors que j’étais petit enfant : je suis né pauvre. Souvent, la nourriture manquait. Quand nous en avions un peu, ma mère me donnait souvent sa part de riz. Tout en mettant son riz dans mon bol, elle me disait : « Mange ce riz, mon fils ! Je n’ai pas faim. » C’était le premier mensonge de ma mère.

Puis je me suis mis à grandir et ma mère a p***é ses moments de loisir à pêcher dans une rivière, près de notre maison ; elle espérait qu’avec le poisson qu’elle prendrait, elle pourrait me donner des aliments plus nourrissants pour ma croissance. Une fois elle a attrapé deux poissons et elle a fait une soupe de poissons. Alors que je mangeais ma soupe, maman s’est ***ise à côté de moi et s’est mise à grignoter ce qui restait sur l’arête du poisson que j’avais mangé ; mon cœur a été touché quand je l’ai vue. Je lui ai donné l’autre poisson avec ma baguette mais elle a refusé aussitôt et m’a dit : « Mange ce poisson, mon fils ! Je n’aime pas le poisson. » C’était le deuxième mensonge de ma mère.

Puis, pour financer mes études, ma mère est allée à la fabrique d’allumettes et a ramené à la maison des boîtes d’allumettes vides qu’elle remplissait d’allumettes neuves. Cela lui permettait de gagner un peu d’argent pour couvrir nos besoins. Une nuit glacée d’hiver, je me suis réveillé et j’ai trouvé ma mère remplissant les boîtes d’allumettes à la lueur d’une bougie. Alors je lui ai dit : « Maman, va dormir ; il est tard : tu pourras reprendre ton travail demain matin. » Ma mère m’a souri et m’a dit : « Va dormir, mon fils ! Je ne suis pas fatiguée. » C’était le troisième mensonge de ma mère.

Quand je suis allé me présenter à mon examen de fin d’études, ma mère m’a accompagné. Depuis l’aube, ma mère m’a attendu, pendant des heures, jusque sous la chaleur du soleil. Quand la cloche a sonné, j’ai couru vers elle. Ma mère m’a embr***é et m’a versé une t***e du thé qu’elle avait préparé dans un thermo. Le thé n’était pas aussi fort que l’amour de ma mère, la voyant couverte de transpiration je lui ai donné alors ma t***e et lui ai demandé de boire aussi. Ma mère m’a dit : « Bois, mon fils ! Je n’ai pas soif. » C’était le quatrième mensonge de ma mère.

Après la mort de mon père, ma mère a dû remplir le rôle de parent unique. Il lui a fallu reprendre son ancien emploi et ***urer, seule, nos besoins. Notre vie familiale s’en est trouvée plus compliquée. Nous avons souffert de la faim. Voyant les conditions de notre famille empirer, mon oncle, prévenant, qui vivait près de chez nous, est venu nous aider à résoudre nos problèmes, petits et grands. Nos autres voisins ont vu que nous étions frappés par la pauvreté et ils ont souvent recommandé à ma mère de se remarier. Mais elle refusait disant : « Je n’ai pas besoin d’amour. » C’était le cinquième mensonge de ma mère.

Quand j’ai eu fini mes études et obtenu un travail, le temps était venu pour ma vieille mère de prendre sa retraite mais elle a continué d’aller sur les marchés, chaque matin, pour vendre quelques légumes. J’ai voulu lui envoyer de l’argent mais elle est restée inébranlable et elle m’a même retourné l’argent. Elle m’a dit : « J’ai ***ez d’argent. » C’était le sixième mensonge de ma mère.

J’ai poursuivi mes études à temps partiel pour ma maîtrise. Financées par la Corporation américaine pour laquelle je travaillais, mes études ont été réussies. Avec un grand bond dans mon salaire, j’ai décidé d’amener ma mère à profiter de la vie en Amérique, mais ma mère ne voulait pas être un souci pour son fils, elle m’a dit : « Je n’ai jamais aimé la grande vie. » C’était le septième mensonge de ma mère.

A ses vieux jours, ma mère a été atteinte d’un cancer et il a fallu l’hospitaliser. Vivant maintenant de l’autre côté de l’océan, je suis rentré pour voir ma mère qui était clouée au lit suite à une opération. Ma mère essayait de me sourire, j’ai eu le cœur brisé de la voir si maigre et si faible, mais ma mère a dit : « Ne pleure pas, mon fils ! Je ne souffre pas. » C’était le huitième mensonge de ma mère.

Et en me disant son huitième mensonge, elle est morte.

OUI, MA MERE ETAIT UN ANGE !



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Nov/2010 lúc 5:46am

Thói Quen Văn Hóa Tại Hoa Kỳ

Minh Công

Bất cứ ai khi thay đổi môi trường sống đều phải biết cách thích ứng với môi trường mới; trước hết phải tìm hiểu, sau đó là tìm cách để thích ứng. Có những cái tốt ở môi trường mới cần học tập và có những cái tốt ở môi trường cũ cần kế thừa và phát huy.

Trên đất nước Hoa Kỳ tự do và thịnh vượng, đàn ông dù kiếm được nhiều hay ít tiền đều phải có trách nhiệm chia sẻ với vợ việc gia đình. Tổng Thống hay những người rất thành đạt và giàu có vẫn vào bếp nấu ăn như thường. Dưới đây là một số sự khác biệt về văn hóa và ứng xử trong gia đình giữa Hoa Kỳ (giống như phần lớn các nước phương Tây) và Việt Nam (văn hóa Á Đông).

Trong quan hệ vợ chồng: Tại Mỹ, sự bình đẳng thể hiện khá rõ nét. Người chồng và người vợ cũng có trách nhiệm đối với gia đình như nhau. Người đàn ông có thể làm các công việc gia đình, thậm chí còn nhiều hơn cả phụ nữ, kể cả chăm sóc con cái. Quan niệm về cuộc sống gia đình là cả hai vợ chồng đều phải chia sẻ, gánh vác và cùng nhau làm các công việc sẽ giúp cho vợ chồng gắn bó với nhau hơn.

 

Đa phần các gia đình ở Việt Nam, khái niệm người chồng đi làm kiếm tiền là phổ biến. Người vợ đi làm với số lương nhiều khi bằng hay cao hơn chồng nhưng công việc gia đình vẫn được nghiễm nhiên giao cho phụ nữ. Anh chồng đi làm về gần như không động đến móng tay vào công việc gia đình. Các bữa nhậu vui vẻ với bạn bè, đối tác được cho là làm việc. Chính vì thế nhiều phụ nữ Việt Nam khá vất vả vì vừa phải đi làm, vừa phải chăm sóc con cái, vừa phải lo toan hầu hết các việc gia đình.

Tại Hoa Kỳ, người đàn ông bất kể có kiếm được nhiều hay ít tiền, đều phải có trách nhiệm cùng chia sẻ với vợ việc gia đình và chăm sóc con cái. Ngay cả Tổng Thống Obama hay những người rất thành đạt, giàu có vẫn dạy dỗ con học và đưa đón con đi chơi. Họ vẫn phải dành thời gian nhất định cho gia đình. Không nên có quan niệm chỉ kiếm thật nhiều tiền về nhà là đủ, còn lại thuê osin làm thuê và chăm sóc con cái; điều này rất sai lầm, vì lúc đó ý nghĩa về cuộc sống gia đình không còn nhiều nữa. Nhiều gia đình Việt Nam tan vỡ trên đất Mỹ cũng vì lý do này.

Giữa con cái và bố mẹ cũng có sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Trẻ con ở Mỹ khá ngoan và biết cái gì được phép và cái gì không được phép. Thông thường các bậc cha mẹ có những quy định khá rõ ràng và từ rất sớm những gì được làm và những gì không được làm ngay từ đầu cho bé. Do đó trẻ con tuân thủ khá tốt những quy định này. Khi có mong muốn nào đó, chúng thường hỏi cha mẹ trước có được phép không, nếu cha mẹ đồng ý thì nó làm và nếu không đồng ý thì thôi. Ít thấy trường hợp trẻ con khóc và giận dỗi đòi bố mẹ dai dẳng để cha mẹ phải đồng ý như ở Việt Nam.

Tuy nhiên, trẻ con ở Mỹ lại rất hay hỏi tại sao cha mẹ lại không cho phép làm điều đó và chúng cần những lời giải thích hợp lý từ phía người lớn. Điều này rất tốt cho suy nghĩ của bé sau này và các bậc cha mẹ khá tôn trọng và lắng nghe ý kiến của con cái, không ngại ngần mất thời gian trả lời, giải thích và hướng dẫn con cái, không có tư tưởng áp đặt quan điểm và thậm chí áp đặt sở thích của mình cho con cái một cách phí lý và không giải thích.

Về quan hệ giữa ông bà và con, cháu, giữa anh, chị em trong cùng gia đình: Ở Mỹ, ít khi có gia đình sống nhiều thế hệ chung trong một căn nhà như ở Việt Nam hoặc các nước Á đông. Khi con cái trưởng thành, ai ai cũng ra riêng và sống tự lập thậm chí ngay từ khi đi học đại học. Khi không có khả năng mua nhà ở thì đi thuê nhà và tự trang trải chi tiêu hàng tháng. Ông bà cũng chỉ đến chơi và thăm con cháu hoặc nếu có giúp trông cháu thì cũng chỉ một vài hôm chứ không can thiệp vào công việc nuôi và dạy cháu hàng ngày.

Quan hệ về tình cảm giữa ông bà và con cháu không chặt chẽ như ở Việt Nam. Thường về già thì hai vợ chồng sống với nhau và hưởng thụ tuổi già, họ có thể cùng nhau đi du lịch, làm vườn, tham gia sinh hoạt cộng đồng. Với điểm này thì cũng có cái tốt và không tốt. Tốt là ông bà không can thiệp quá sâu vào cách nuôi dạy con cái của con họ, những người già dành nhiều thời gian cho họ hơn để sống và hưởng thụ. Không tốt là quan hệ trong nhiều thế hệ không chặt chẽ cho lắm. Ông bà nội ngoại ở Việt Nam thường tìm thấy niềm vui của mình qua việc gặp gỡ và chăm sóc con cháu.

Quan hệ giữa anh, chị em trong gia đình cũng khá rõ ràng, tôn trọng nhau, mọi thứ trong công việc và cuộc sống không quá lệ thuộc vào quan hệ thân quen, quan hệ họ hàng, phần lớn mọi người đều phải có ý thức độc lập, tự chủ. Còn ở Việt Nam thì có thể một người làm quan cả họ được nhờ.

Người dân Mỹ khá thân thiện với môi trường, với động vật và có ý thức bảo vệ môi trường. Điều này xuất phát từ công tác tuyên truyền giáo dục từ chính phủ, các tổ chức xã hội, trong nhà trường và có những chế tài để người dân ý thức hơn đối với môi trường. Phần lớn người già, những người độc thân đều nuôi một con vật như chó, mèo trong nhà, họ chăm sóc động vật và nói chuyện như những người bạn thực sự.

Nếu bạn có hành động "bạo lực" ngay cả với động vật cũng bị đánh giá rất thấp. Tại nơi công cộng bạn thường phải có ý thức bảo vệ môi trường, vứt rác đúng chỗ, đúng nơi, và đúng chỗ quy định. Nếu bạn kinh doanh hoặc làm gì đó có rác thải thì đương nhiên bạn phải dọn sạch sẽ khu vực của mình. Điều này làm cho môi trường tại Mỹ khá trong sạch. Kể cả những lễ hội diễn ra rất liên tục nhưng không thấy hiện tượng sau một lễ hội là rác thải được bày ra như bãi chiến trường.

Hoa Kỳ là một đất nước đa chủng tộc nên đồ ăn, thức uống và hàng hóa cũng có nhiều chủng loại nhằm đáp ứng các sở thích của từng đối tượng và thói quen khác của từng dân tộc khác nhau. Tuy ở Mỹ, nhưng nếu bạn thích bất kỳ đồ ăn Việt Nam nào cũng đều có, không phải đồ đông lạnh mà rất tươi ngon, chỉ trừ có thịt chó là không được ăn. Còn lại nếu bạn thích ăn cháo lòng hoặc tiết canh cũng có. Ngoài ra, bạn có thể ăn uống và có thể nấu nướng bất kể loại thức ăn của bất kỳ dân tộc nào. Tại siêu thị hay cửa hàng cũng phục vụ bạn đa dạng, đủ màu sắc về các loại thức ăn này. Thời gian cho việc nấu ăn ở đây tiết kiệm được hơn nhiều so với ở Việt Nam, vì mọi thứ đều được làm sẵn, bạn chỉ cần mua về và nấu nướng. Ví dụ như mua cá chẳng hạn, bạn không phải về mổ bụng, cạo vẩy, chặt khúc mà chỉ việc cho vào nồi, tại siêu thị mọi thứ đều làm sẵn tới mức tiện dùng nhất.

Quan hệ bạn bè và cộng đồng ở Hoa Kỳ cũng khá khác biệt so với ở Việt Nam. Sinh hoạt nhóm và cộng đồng rất nhiều và tổ chức liên tục, từ văn hóa, gia đình, trao đổi kỹ năng, môi trường… Các hoạt động sinh hoạt khá rõ ràng, có nguyên tắc và mang tính tự nguyện cao.

Bạn bè khi giao lưu trao đổi cũng khá rõ ràng, giữa cái chung và cái riêng. Ví dụ khi đi ăn nhà hàng để nói chung thì mỗi người thích ăn gì gọi cái đó và thanh toán tiền riêng của mình. Những sinh hoạt chung hoặc mời cùng đi chơi thường sẽ lên lịch và hẹn với nhau trước. Ít khi người Mỹ gọi điện cho bạn bè vào trước 8h sáng hoặc sau 9h tối vì đó là thời gian dành cho gia đình. Trong khi đi chơi với nhau để trao đổi và nói chuyện về vấn đề gì đó thì thường họ tập trung vào vấn đề gì mà họ quan tâm và ít khi để ý tới chuyện riêng tư của người khác.

[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển: http://www.machsong.org/ - - http://www.machsong.org .]



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Nov/2010 lúc 3:12am
Quyền được khóc
 

   Trong vùng ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn bên bàn ăn, bao quanh là cả gian nhà đang ngủ yên trong bóng đêm, tôi lặng lẽ ngồi khóc một mình.

Cuối cùng, tôi cũng đưa được hai đứa con lên giường ngủ. Là một ông bố mới vừa chịu cảnh gà trống nuôi con, tôi phải vừa làm bố, vừa làm mẹ của hai đứa con nhỏ. Tôi mới vừa cho chúng tắm xong. Mà nào có phải là công việc kỳ cọ thôi, tôi phải đương đầu với hai đứa trẻ tinh nghịch trong phòng tắm. Chúng không ngừng múa may quay cuồng, cười đùa la hét và chốc chốc lại ném tung mọi thứ trong phòng. Đùa chán, chúng mới chịu thay đồ lên giường với điều kiện là tôi phải xoa lưng cho mỗi đứa năm phút đồng hồ. Rồi tôi lại phải nhấc cây đàn ghi-ta lên, tiến hành nghi thức hát ru hằng đêm với một loạt bài hát dân ca, kết thúc với bài "Những chú ngựa nhỏ xinh xắn", bài mà chúng ưa thích nhất. Tôi hát đi hát lại bài ấy, hạ dần âm thanh và tiết điệu cho đến khi thấy chúng có vẻ ngủ say mới ngừng hẳn.

Tôi vừa mới ly dị vợ và được quyền nuôi dạy con cái. Quyết định dành mọi nỗ lực để mang đến cho bọn trẻ một cuộc sống gia đình bình thường và ổn định, tôi đã khoác lên một bộ mặt hạnh phúc và cố duy trì nề nếp trong gia đình như lúc trước. Chẳng có gì thay đổi trong các nghi thức được tiến hành hàng đêm trước khi ngủ, ngoại trừ sự vắng mặt của mẹ chúng. Tôi đã cố gắng chạy theo những thói quen của bọn trẻ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều suôn sẻ: một đêm nữa trôi qua bình yên.

Tôi đã phải đứng dậy thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra một tiếng động nào dù là nhỏ nhất. Nếu không, chúng có thể giật mình thức dậy, đòi nghe thêm một vài bài hát hay một vài câu chuyện kể nữa. Tôi nhón gót bước ra khỏi phòng, chỉ dám khép hờ cửa rồi rón rén bước xuống cầu thang.

Ngồi thừ bên ghế bên cạnh bàn ăn, tôi mới nhận ra rằng, kể từ khi tan sở về nhà cho đến lúc ấy, tôi mới có dịp ngồi xuống ghế nghỉ ngơi. Tôi đã phải lao vội xuống bếp, tất bật nấu nướng rồi dọn bàn phục vụ và động viên hai thiên thần bé nhỏ ấy ăn hết khẩu phần bữa tối. Sau đó, tôi lúi húi rửa bát đĩa, loay hoay với những đòi hỏi vụn vặt mà bọn trẻ đặt ra chỉ để khiến tôi phải chú ý đến chúng. Xong việc bếp núc, tôi lom khom bên bàn học, cùng làm bài tập nhà với con bé chị đang học lớp hai, đồng thời chia sẻ thời gian với thằng bé út bằng cách tán thưởng bức vẽ mới nhất của cu cậu, hoặc bò lê dưới nền nhà chơi trò xếp hình khối với nó. Rồi đến giờ tắm rửa, rồi kể chuyện, rồi xoa lưng, hát ru..., và cuối cùng, sau một thời gian mệt nhọc, tôi mới có được một vài phút cho riêng mình. Không gian vắng lặng và bình yên quả là món quà thư giãn vô giá.

Rồi tất cả vụt ào đến, đổ ập xuống người: mệt mỏi, gánh nặng trách nhiệm, nỗi lo về những hoá đơn tính tiền mà tôi không chắc rằng mình có thể thanh toán được trong tháng này. Cả một chuỗi dài những lo toan cần thiết để duy trì nhịp sống của một gia đình. Vậy mà chỉ mới gần đây thôi, tôi cũng còn có bạn đời, có người gánh đỡ một phần trách nhiệm, chia sẻ một phần công việc, và giúp tôi thanh toán một phần trong số những tấm hoá đơn tính tiền kia.

Và cuối cùng là cô đơn. Cảm giác cô đơn bao trùm lấy tôi, đẩy tôi xuống tận đáy biển lạc loài và tuyệt vọng. Tất cả đều rời bỏ tôi, chỉ còn khối lo lắng và phiền muộn. Tôi cảm thấy mình không còn chịu đựng thêm được nữa. Trong nỗi tuyệt vọng, tôi bật khóc lúc nào chẳng biết. Tôi cúi đầu, lặng lẽ khóc một mình.

Bất chợt, một vòng tay bé xíu quàng quang người tôi. Tôi nhổm dậy và bắt gặp khuôn mặt ngây thơ của đứa con trai năm tuổi đang chăm chú ngước mắt lên nhìn tôi.

Tôi hoàn toàn bối rối khi nhận ra rằng thằng bé đã nhìn thấy tôi khóc. "Xin lỗi con, Ethan. Bố không biết con vẫn còn thức." Tôi không hiểu vì sao mình lại nói với con như vậy, nhưng người ta thường xin lỗi khi để người khác thấy mình khóc, mà tôi cũng không phải là một ngoại lệ. "Bố rất lấy làm tiếc. Bố không định khóc đâu. Chỉ vì, tối nay bố cảm thấy hơi buồn một chút thôi."

"Không sao đâu bố. Khóc được cũng tốt thôi, bố cũng có quyền khóc chứ!"

Ôi, con trai của tôi! Không thể nào diễn tả hết niềm hạnh phúc mà thằng bé đã mang đến cho tôi. Đứa con trai năm tuổi của tôi, vị thiên thần ngây thơ với trực giác tinh khôi và trong ngần ấy, đã ban cho tôi cái quyền được khóc. Dường như thằng bé muốn nói với tôi rằng tôi không cần phải là một người luôn mạnh mẽ và kiên cường, rằng đôi lúc tôi cũng có thể ngả lòng và bộc lộ những cảm xúc của mình.

Thằng bé rúc vào lòng tôi. Hai bố con chúng tôi ôm nhau và trò chuyện một lúc. Sau đó, tôi đưa nó về phòng và bế nó lên giường, cẩn thận đắp chăn cho nó, sau một ngày dài chấm dứt bằng một sự việc như thế, tôi đã có thể lên giường và ngủ một giấc thật ngon. Cám ơn con, con trai của bố!

(Nguồn: hoathuytinh.com)



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Nov/2010 lúc 5:31am

 NGƯỜI BẠN QUÍ

  http://saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/22184-ngi-bn-qui.html -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2010 lúc 10:04pm

TỰ THẮNG NỖI TỨC GIẬN

 
Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.” Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”
Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”

Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.” Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.
Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”
Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai. “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.
“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”
Sưu tầm
.





Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Dec/2010 lúc 6:11am
Đôi Ðũa

image

 

Dù tự ái dân tộc có nở lớn đến thế nào đi chăng nữa, tôi cũng chẳng thể nói đũa là thứ quốc hồn quốc túy của đất nước ta. Chung quanh chúng ta, người Hoa, người Nhật, người Cao Ly... cũng dùng đũa. Nhưng đi vào nếp sống văn hóa của dân Việt Nam thì đũa có lẽ là một vị khách quý. Vơ đũa cả nắm. Ðũa mốc đòi chòi mâm son. Những câu tục ngữ đã "nâng cấp" cho đôi đũa lên hàng ẩn dụ tinh thần. Tôi vừa nhặt được trong cuốn tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu Lai một từ Hà Nội: Bánh mì đũa cả.

 

Ðời sống tình cảm của người dân Việt trong ca dao cũng dính vào đôi đũa khá nhiều.

 

Tôi đã bảo mẹ rằng đừng

Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào

Bây giờ chồng thấp vợ cao

Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.

 

Ðũa lệch thì nản chết. Nó gợi lên một sự so le thảm thương. Lệch nhau cũng hình dung bằng đôi đũa, bằng nhau khít khao cũng đũa một đôi.

 

Ðôi ta như đũa trong kho

Không tề, không tiện, không so cũng bằng.

 

Ðũa mốc không được nằm trên mâm son. Trèo cao quá coi không được mắt.. Phải ngang hàng với nhau, xứng hợp với nhau, con mắt mới vừa.

 

Ðôi ta là bạn thong dong

Như đôi đũa ngọc nằm trên mâm vàng

Bởi chưng thày mẹ nói ngang

Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.

 

Vui cũng đũa, buồn cũng đũa, trách móc cũng đũa. Ðũa dính vào cái ăn nên đũa cũng nằm dềnh dang trong đầu. Cứ nghĩ tới đôi tới cặp, người Việt chúng ta nghĩ ngay đến đũa. Nghĩ tới nữa, bàn tay cầm đũa còn mách bảo tính tình, tư cách của người cầm đũa. Có những ngón tay khéo léo tháp vào đôi đũa như ngàn đời ăn ý với nhau đẹp thùy mị như một bức tranh, có những ngón tay xuôi nhịp nhàng theo đũa chân thật như canh với cà. Nhưng cũng có những ngón tay cứng cáp dằn vặt như đanh đá hành hạ đôi đũa, có những ngón tay vụng về e dè xoay xoay lưỡng lự như ngượng nghịu với đũa. Và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên đã vẽ ra đôi tay bối rối tập tành biết yêu như tập tành cầm đũa.

 

 

tình mới lớn, phải không em, rất mỏng?

cách tập tành nào cũng dễ hư hao

thuở đầu đời cầm đũa thấp cao

và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ

 

Chúng ta sinh ra hình như đã biết cầm đũa. Không biết thì... đói. Chúng ta cầm đũa tự nhiên, như thở. Nhưng, trong tiệm ăn, thấy tây đầm cầm đũa hẩy hẩy thức ăn lên miệng mới biết cầm đũa chẳng phải là chuyện dễ. Huống chi cầm đũa cho đẹp, cho quý phái, cho ra dòng ra giống. Nhưng cái lọng cọng của đôi đũa trong những bàn tay chuối mắn của tây đầm cộng với những đôi mắt xanh ánh lên nét hào hứng như đang tham dự vào một trò chơi thích thú thấy cũng có nét dễ thương. Cái dễ thương mà chúng ta cảm thấy một cách kẻ cả, như một đấu thủ thuộc hạng chuyên nghiệp nhìn xuống một đấu thủ mới tập tễnh ra lò. Nó như một thứ... tự hào dân tộc!

 

 

MẸ, CON GÁI VÀ ÐÔI ÐŨA

 

Thuở còn thơ bé, những ai từng được bà, được mẹ kể cho nghe câu truyện cổ tích "Cây tre trăm đốt" hẳn đều thương anh Khoai thật thà, chăm chỉ bị lão phú ông thách cưới bằng việc vào rừng tìm về cây tre trăm đốt. Cây tre ấy sẽ dùng để vót đũa cho đám cưới anh Khoai với con gái phú ông. Những đôi đũa cưới có thể đem lại niềm hạnh phúc mà cũng có thể làm mất đi giấc mơ đẹp nhất cuộc đời anh. Ông Bụt tốt bụng thương người hiền lành đã giúp anh Khoai biến giấc mơ đó thành sự thật với câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất" diệu kỳ. Tôi vẫn tưởng tượng trong ngày đám cưới anh Khoai, những đôi đũa vót từ cây tre trăm đốt sẽ được đặt trang trọng trên mỗi mâm cơm, là minh chứng cho hạnh phúc của chàng trai nghèo khó ấy.

 

Không phải ngẫu nhiên mà đôi đũa thường được dân gian ví với hình ảnh đôi vợ chồng. Hai chiếc đũa luôn đi liền với nhau thì mới làm được điều có ích, cũng như hai vợ chồng khi đồng tâm cộng lực thì có thể cùng nhau tát cạn cả biển Ðông. Người con gái bị mẹ ép gả vào nơi không tương xứng, phải lấy người mình không yêu thương đã thốt lên lời than cay đắng:

 

"Bây giờ chồng thấp vợ cao

Như đôi đũa lệch so sao cho bằng"

 

Chuyện vợ chồng trăm năm quan trọng là thế, vậy mà có khi dân gian đánh giá không bằng chuyện một đôi đũa: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh". Thế mới biết người dân mình cẩn trọng trong việc lựa chọn những chiếc đũa sao cho tương xứng với nhau. Rất nhiều những lời khuyên bổ ích khác được xây dựng bởi hình tượng đôi đũa như: "So bó đũa chọn cột cờ", "Vơ đũa cả nắm", "Ðũa mốc lại chòi mâm son"…

 

Bài học đầu tiên tôi được học khi ngồi trong mâm cơm là bài học về đôi đũa. Phải cầm đũa sao cho đúng, gắp được thức ăn mà không làm rơi vãi lung tung. Ngày đầu tiên được cầm đôi đũa là một ngày khá trọng đại với một đứa bé "thích làm người lớn" bởi chỉ người lớn mới đủ khéo léo để điều khiển đôi đũa thật nhanh nhẹn, nhịp nhàng. Bố tôi cầm đũa tay trái nên thường ngồi đầu nồi hoặc ngồi cách xa người bên cạnh để hai bên không chạm vào nhau. Những đôi đũa không chỉ có một loại mà bao gồm đũa để ăn cơm, đôi đũa dài cho mẹ nấu nướng, đôi đũa cả dùng để xới cơm. Ngày nay khi nhà nhà đều dùng nồi cơm điện có lẽ nhiều đứa trẻ lớn lên mà không biết về những đôi đũa cả đã từng tồn tại. Như khi xưa tôi được mẹ dặn rất kỹ rằng trước khi xới cơm thì nhúng đũa sơ qua vào nước cho khỏi dính. Xới cơm xong dùng chiếc nọ gạt cơm khỏi chiếc kia chứ không được gõ vào nhau thành tiếng bởi âm thanh ấy là dấu hiệu gọi ma đến nhà. Ðũa ăn cơm không được cắm thẳng lên trên bát bởi người ta chỉ làm thế trong đám ma. Ðứa trẻ con khi ấy là tôi nghe nói đến ma chay là khiếp vía, chẳng bao giờ dám không làm theo lời mẹ.

 

image

 

Rồi nhà tôi cũng chuyển sang dùng nồi cơm điện. Ngày gói đôi đũa cả bóng loáng nước tre, mòn vẹt cả một đầu cất vào góc sâu nhất trong chạn bát, tôi thấy trong mắt mẹ thoáng chút ưu tư. Ngày bố mẹ ra ở riêng trong gian tập thể bé xíu của cơ quan bố, hành trang hai người chỉ có một valy quần áo. Trong đó đựng luôn cả chục bát ăn cơm, chục đôi đũa con và một đôi đũa cả. Mười một đôi đũa ấy chính tay bà ngoại đã vót cho mẹ mang theo để mỗi bữa ăn còn lưu lại chút hình ảnh của quê hương. Hơn chục năm trời mẹ ngồi đầu nồi xới cơm cho cả gia đình rồi hướng dẫn các con cách xới cơm sao cho đúng mực, đôi đũa cả đầu tiên bà ngoại cho đã không còn. Nhưng đôi đũa nào cũng in dấu bàn tay mẹ, cũng là chứng nhân cho những bữa cơm gia đình đầm ấm, rộn vang tiếng chuyện trò, cười nói của các con. Cất đi một đôi đũa là gói lại trong lòng bao nhiêu kỷ niệm. Mẹ đã từng nhắc bố không bao giờ được dùng đũa cả để răn đe các con giống như nhiều gia đình khác vẫn làm. Khi con mới lớn lên, biết chơi chuyền, chơi chắt, con len lén về lấy trộm chục đũa của mẹ làm chuyền. Biết được mẹ không hề la mắng, chỉ dặn con rằng không được dùng đũa ăn cơm để nghịch bởi đôi đũa gắn với miếng ăn trong miệng, phải trân trọng giữ gìn. Vậy mà cũng chính bàn tay mẹ đã vót cho con đôi que đan đầu tiên trong đời bằng một đôi đũa mới bởi giữa thành phố thật khó tìm được đốt tre ưng ý, mà con thì sốt ruột, muốn học rồi phải được đan ngay bằng chính que đan của mình…

Nhớ những ngày hè về thăm ông nội, tôi vẫn thường ngồi xem ông vót đũa, bàn tay ông nhanh thoăn thoắt thật tài tình. Vừa vót đũa ông vừa kể chuyện ngày xửa ngày xưa mà không hề làm sai một chút. Bây giờ mỗi lần đi siêu thị, mắt hoa lên với hàng chục loại đũa không chỉ từ tre mà còn làm bằng nhựa, bằng i-nốc, bằng gỗ mun, gỗ kim giao, gỗ dừa…, không chỉ đũa Việt Nam mà còn nhập về từ các nước, tất cả đều làm bằng máy, thẳng đều tăm tắp , tôi lại nhớ về những đôi đũa mộc mạc của ông bà năm xưa. Ngày ông mất, bác cả tự tay vót đũa cắm trên bát cơm quả trứng đặt lên quan tài cho ông. Nhớ về ký ức đau buồn ấy, tôi vẫn thấy hiện lên chùm nan tre loăn xoăn của đôi đũa thấp thoáng trước tấm ảnh ông hiền hậu như đang muốn mỉm cười. Ðôi đũa gắn bó với con người khi còn sống và cũng theo con người đi về nơi an nghỉ cuối cùng.

 

Rồi mai đây trở thành người mẹ, trong bữa cơm đầu tiên con được dùng đôi đũa, tôi sẽ kể với con rằng: Con có biết xung quanh đôi đũa là bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam ta?...

Emtiti... bài thơ này mình xin post vào... chắc emtiti hiểu ý vì sao hén...

 

BÀI THƠ ÐÔI ÐŨA

 

Ðọc bài thơ em viết cho anh

Kể chi li em nói về đôi dép

Là vật dụng song hành thật đẹp

Anh liên tưỏng về: "Ðôi đũa" chẳng kém chi.

 

Ðôi đũa kia trông có vẻ nhu mì

Nhưng quấn quýt bên nhau, sao mà chặt thế

Dao, rĩa, môi, thìa cũng đành vị nể

Thoăn thoắt, nhịp nhàng, không thể rời mâm.

 

Sánh gắp bên nhau đôi lúc cũng âm thầm

Ðể hưởng thụ nhâm nhi cùng chén rượu

Rơi một chiếc coi như là bất hiếu

Số phận chiếc còn đành lặng lẽ nằm im.

 

Tiệc muốn ngon lại phải kiếm tìm

Một chiếc khác để giúp mình gắp tiếp

Hai chiếc cạnh nhau, luôn là thông điệp

Gánh vác hết mình cho đến lúc tàn mâm.

 

Với như ta, đôi lúc cũng còn nhầm

Chọn chồng thấp, vợ cao là khập khễnh

Khi đôi đũa kia, không bằng mà lệch

Chắc chắn đau lòng người dự tiệc khi ăn.

 

Ðôi đũa vô tri: tre, gỗ khô cằn

Nhưng khăng khít bên nhau không ganh tị

Hai chiếc đũa cùng nhau chung một ý

Bữa ăn nào cũng phải có mặt cả đôi.

 

Cùng với nhau theo ta trọn cuộc đời

Dẫu bằng: gỗ, tre, ngà,...hay bằng nhựa

Nhưng vẫn bên nhau cùng giữ gìn lời hứa

Gắn bó cả đời suốt bữa tiệc cùng mâm.

 

Hai chiếc đũa bên nhau có vẻ âm thầm

Sẽ ngừng gắp khi mất đi một chiếc

Chỉ còn một là mất đi bữa tiệc

"Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia".

 

Thân mến,

 

 

VienDzu Sưu Tầm



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Dec/2010 lúc 5:57am

CƠM  NGUỘI

Tiểu Tử

 

Ông già đó lái xe đưa hai thằng cháu nội sáu bảy tuổi đi ăn MacDonal's. Bữa nay chúa nhựt, vợ chồng thằng con ông không có đi làm, nhưng vì phải đi dự đám cưới của một người bạn vào buổi trưa nên thằng con ông nhờ ông đến nhà vừa giữ nhà vừa trông chừng hai đứa nhỏ. Nó đã điện thoại cho ông hôm tuần trước để…"xí chỗ" bởi vì nó biết hai đứa em của nó lâu lâu cũng nhờ ông làm như vậy. Nhà ông chỉ cách nhà của các con ông có ba bốn chục phút xe hơi – nếu xa lộ không bị kẹt – nên việc đi lại không gây nhiều phiền phức. Ông sống một mình, thành ra khi đứa con nào cần, gọi ông là ông "ừ"! Trừ phi ông đã hẹn lỡ với mấy ông bạn già đi đánh bài ở nhà ông nào đó, hay đi ăn phở ở khu 13 chợ tàu Paris…

Giữ hai đứa cháu đến bốn giờ chiều vẫn chưa thấy cha mẹ chúng nó về. Giờ này phải cho chúng nó ăn cái gì – quen giữ mấy đứa cháu nên ông rành thông lệ đó. Ông đề nghị đưa chúng nó đi ăn MacDo's, hai đứa vỗ tay nhảy cẫng reo mừng. Vậy là ông chở chúng nó đi, sau khi viết ít chữ để lại trên bàn ăn cho vợ chồng thằng con ông biết.

Nhà hàng nằm ngoài đồng nên có sân chơi rộng lớn với nhiều đu và cầu tuột. Giờ này thật đông khách, nhứt là trẻ con. Nhờ có bãi đậu xe mênh mông nên ông già không phải khó khăn tìm chỗ.

Vừa xuống xe, hai thằng nhóc chạy thẳng ra sân chơi. Ông già nói vói theo bằng tiếng Việt:

- Hai đứa muốn ăn cái gì để ông nội lấy.

Hai đứa không quay đầu lại nhưng nói to bằng tiếng Pháp:

- Hamburger và coca.

Ông lại hỏi:

- Không lấy happy meal hả?

Hỏi như vậy, vì thông thường trẻ con hay lấy món đó để có đồ chơi.

Tụi nhỏ vừa trèo lên cầu tuột vừa nói lớn bằng tiếng Pháp:

- Không! Cái đó của con nít!

Ông bật cười, vừa chửi thầm " cha tụi bây" vừa bước vào trong. Nối đuôi một lúc rồi ông mang mâm đồ ăn ra ngồi ở một cái bàn ngoài sân dưới nắng, cho ấm. Hai thằng cháu nội của ông đang chơi cầu tuột, la hét bằng tiếng Pháp, om sòm. Trong đám trẻ tóc vàng, chúng nó tóc đen mắt hí nên dễ thấy. Ông nhìn theo tụi nó trèo lên tuột xuống, chen chúc với bầy tây con mà ông thấy thương.

Hai thằng cháu nội của ông chỉ hiểu chớ không nói được tiếng Việt. Tiếng Việt, tụi nó nói được có hai tiếng " ông nội".( Đó là bây giờ, sau khi được ông sửa nhiều lần. Chớ hồi còn bốn năm tuổi, tụi nó gọi ông bằng " ông nại", nghe thấy cười lắm !)Thành ra, trong đối thoại giữa ông cháu, tụi nó nói tiếng Pháp, còn ông thì dùng tiếng Việt. Ông nghĩ :" Cứ bắt tụi nó phải nghe tiếng Việt, kẻo không chúng nó sẽ quên. Rồi mình sẽ đốc thúc ba tụi nó đưa tụi nó đi học nói và học viết nữa".

Một lúc sau, thấy hai đứa nhỏ chơi đủ lâu, ông đứng lên vẫy tay gọi:

- Tí ! Tú! Lại ăn nè!

Tụi nhỏ còn ráng tuột thêm hai lần nữa rồi mới chạy vào, mặt mày đỏ ửng, mồ hôi mồ kê. Ông nói:

- Vô toa-lét rửa tay rửa mặt rồi ra ăn.

Hai đứa gật đầu nhưng vẫn cầm ống hút chọc lủng nắp ly giấy, hút vài ngụm coca trước khi hí hửng đi vào bên trong. Ông mỉm cười nhìn theo mà nghe tình thương dào dạt trong lòng…Ông nhớ lại ở bên nhà hồi xưa, hồi thời mà cha chúng nó bằng tuổi chúng nó bây giờ, ông cũng hay dẫn đi "ăn cái gì" lúc bốn năm giờ chiều chúa nhựt. Mà ở Việt Nam đâu cần phải lái xe đi cả chục cây số như ở xứ Pháp này. Cứ thả bộ ra đầu ngõ là có đủ thứ để "bỏ bụng": cháo lòng, mì, phở v.v… Hồi đó, khi được dẫn đi ăn, cha chúng nó cũng có bộ mặt hí hửng giống như tụi nó bây giờ. Vậy mà cũng đã gần bốn chục năm…

Hai đứa nhỏ trở ra ngồi vào bàn ăn hamburger. Thằng lớn, tên Tí, để ý thấy ông nội không có hộp MacDo's nào hết, bèn hỏi:

- Ông nội không ăn gì à?

- Không, ông không có đói.

Ông cầm cái ly giấy đựng cà phê đưa lên:

- Ông uống một cái cà-phê là đủ rồi.

Thằng nhỏ, tên Tú, chen vào, miệng còn ngồm ngoàm hamburger:

- Mấy người già kỳ cục lắm! Ăn uống không giống ai hết!

Thằng anh rầy:

- Nói bậy ! Mày nói như vậy là không có lễ độ!

Rồi nó lên giọng người lớn để dạy em, nói chậm rãi :

- Người ta nói : mấy người lớn tuổi không biết cách ăn uống. Mầy hiểu chưa?

Ông bật cười, chửi đổng "Cha mầy"! Thằng Tí không hiểu tiếng chửi đó nên hỏi:

- Ông nội nói cái gì vậy? "Cha mầy" là nghĩa gì?

Ông đưa tay gãi cổ, tìm cách giải nghĩa:

- Ờ…ông muốn nói…Nghĩa là…Nghĩa là…

Thấy ông nội nó có vẻ gặp khó khăn trong tiếng Việt, thằng Tí đề nghị:

- Ông cứ giải nghĩa bằng tiếng Pháp đi, có lẽ dễ hơn đó!

Ông gật đầu, nói bằng tiếng Pháp:

- Ông muốn nói rằng…muốn nói rằng là… con dễ thương!

Thằng nhỏ mỉm cười, vừa gật gật đầu vừa hí hửng nói:

- Merci! Merci!

Thấy thương quá, ông chồm qua mặt bàn hôn lên má phinh phính của nó. Thấy vậy thằng em đòi :

- Còn con! Còn con!

Ông bèn đưa tay ôm hai cái đầu cụng lại rồi hôn chúng nó trơ trất. Hai đứa rụt cổ cười lên hắc hắc. Trong khoảnh khắc đó, ông già cảm thấy không còn sự sung sướng nào bằng…

Ăn xong, thằng Tí xin phép ông nội cho tụi nó tiếp tục chơi một lúc nữa. Ông vén tay áo nhìn đồng hồ rồi gật đầu. Hai đứa nhỏ vừa chạy đi vừa nói nửa tiếng tây nửa tiếng ta : "Merci ông nội !". Ông mỉm cười nhìn theo một lúc rồi mới đi vào bên trong lấy thêm một ly cà phê.

Ngồi vào bàn, ông vừa nhăm nhi vừa nhớ lại thời ông còn nhỏ. Hồi đó, ông ở dưới quê với bà ngoại. Chiều nào đi học về, cũng bước vào bếp bốc một cục cơm nguội to bằng nắm tay rồi ra ngồi ngoài hiên ăn với miếng đường mía màu nâu sặm đen nhỏ bằng ngón chân cái. Vậy mà sao ngon vô cùng! Và ngày nào cũng vậy. Hể nghe đói – ngoài hai bữa cơm chánh – là cứ vô bếp lục cơm nguội. Lúc nào nấu cơm, bà ngoại cũng nấu nhiều. Bà nấu trong cái nồi đất và không biết nấu cách nào mà khi nguội cơm dính vào nhau chớ không bời rời. Cho nên chỉ cần cầm chiếc đũa bếp xắn xuống một cái là có ngay một cục cơm gọn bân! Nồi cơm nguội luôn luôn nằm trên đầu ông táo. " Để kiến đừng bò vô, vì kiến sợ tro bếp". Hồi đó nấu bếp bằng củi nên bếp đầy tro. Lâu lâu, bà ngoại có hốt tro đổ bớt, nhưng vẫn chừa lại một lớp dầy để giữ than cho âm ỉ dùng "ghế" nồi cơm. Bà giải nghĩa: "Sôi vừa cạn nước là dập tắt lửa ngọn rồi cời than với tro ra khỏi chưn ông táo, bắc nồi cơm xuống đặt lên đó cho gạo nở. Như vậy kêu là ghế nồi cơm. Nấu cơm ngon hay không ăn thua ở cái chỗ biết ghế hay không biết ghế. Chỉ có vậy thôi !". Bà coi chuyện nấu cơm trong nồi đất và bằng lửa củi là chuyện dễ ợt. Điều quan trọng đối với bà ngoại là phải nấu dư dư ra một chút. "Cho thằng nhỏ nó có cơm nguội nó ăn". Nói như vậy chớ thỉnh thoảng bà cũng cho "thằng nhỏ" một khúc khoai mì hay một củ khoai lang…những thứ không phải hiếm – nhứt là ở vùng quê – nhưng vì nhà nghèo nên những thứ như vậy cũng trở thành hiếm hoi cho lúc đói lòng của" thằng nhỏ"…

Nghĩ đến đó, ông già buông tiếng thở dài. Sao mà có thể nghèo như vậy được? Bà ngoại chỉ có mấy nọc trầu, vài hàng cau, đôi ba cây ổi cây mít…Ngần đó thứ chỉ đủ cho hai bà cháu có hai bữa cơm rau khô mắm hằng ngày. Vậy mà bà ngoại cũng ráng nuôi cho ông đi học. " Cái thứ mồ côi, Trời bù cho cái khác. Thằng nhỏ sáng dạ học giỏi, bắt nó ở nhà chăn trâu sao đành". Vậy là ông phải cắp sách đến trường như mọi đứa trẻ khác và chiều về nếu không có củ khoai thì vẫn còn có nồi cơm nguội... Thành ra, cơm nguội đối với thằng nhỏ nghèo là ông hồi đó, lúc nào cũng có giá trị như hamburger của hai thằng cháu nội của ông bây giờ. Còn hơn thế nữa là nhờ có cơm nguội mà ông đã đi hết bậc tiểu học một cách trơn tru rồi sau đó thi đậu học bổng vào trường lớn ở Sàigòn, cũng dễ dàng như bà ngoại nấu cơm trong nồi đất!

Ông già vén tay áo xem đồng hồ rồi đứng lên gọi:

- Tí! Tú! Về, tụi con!

Hai đứa chạy lại mang mâm hộp không ly không dẹp vào trong rồi theo ông nội chúng nó ra xe.

Về đến nhà thì ba mẹ của hai thằng nhỏ cũng đã về rồi. Ba chúng nó hỏi bằng tiếng Việt:

- Tụi con đi chơi có vui không?

Hai đứa gật đầu. Thằng Tí giành nói:

- Ông nội cho tụi này chơi cầu tuột, chơi đu, lâu thật lâu. Đã luôn!

Ba chúng nó quay sang ông già:

- Tụi nó có ngoan không, ba?

- Ngoan chớ. Dễ dạy lắm.

Mẹ chúng nó vừa đưa cho mỗi đứa một cái bánh sô-cô-la vừa nói bằng tiếng Pháp:

- Mẹ tưởng tụi con không có đi ra ngoài nên mẹ mua bánh cho tụi con đây.

Hai đứa vừa ôm mẹ hôn vừa nói "Cám ơn! Cám ơn!" tía lia. Thằng Tú bẻ cái bánh của nó ra làm hai rồi đưa phân nửa cho anh nó:

- Ăn với Tú nè! Để dành cái bánh của Tí lác nữa ăn!

Thằng anh vui vẻ cầm lấy phần bánh nói " merci" rồi vừa hôn lên má em vừa nói bằng tiếng Việt:

- Cha mầy!

Mẹ nó giật mình, trừng mắt, la lên bằng tiếng Pháp:

- Tí ! Sao con chửi nó?

- Con đâu có chửi. Con nói nó dễ thương mà!

- "Cha mầy" là tiếng chửi đó!

- Hồi nãy, ông nội nói "cha mầy là dễ thương"!

Ông già bật cười trong lúc mọi người đều ngạc nhiên nhìn ông không hiểu. Ông nói :

- Ờ ! Hồi nãy ba có giải nghĩa như vậy khi thằng Tí nói một câu dễ thương. Thật ra, hai tiếng đó tùy trường hợp và tùy cách nói mà thành tiếng chửi hay tiếng mắng yêu, tụi con hiểu không?

Mẹ chúng nó quay sang hai con, nói bằng tiếng Pháp:

- Tiếng đó chỉ có người lớn mới có quyền dùng thôi. Tụi con không được nói, nghe chưa?

Thằng Tí gật đầu, rồi vừa kéo thằng em đi vào trong vừa càu nhàu :

- Ồ… tiếng Việt Nam rắc rối quá!

Mấy người lớn nhìn nhau mỉm cười. Ông già nói, giọng nghiêm trang:

- Ba nghĩ tụi con nên sắp xếp thì giờ để chở tụi nhỏ đi học nói và học viết tiếng Việt. Ở Paris thiếu gì chỗ dạy. Ngoài ra, ba cũng muốn nhắc tụi con thường xuyên nói tiếng Việt với chúng nó thay vì dùng tiếng Pháp. Để cho chúng nó đừng quên. Mình đi lưu vong, bỏ hết mất hết. Chỉ còn có tiếng nói mang theo mà cũng để cho mất luôn…thì mình sẽ thành ra cái giống gì, hả các con?

Giọng ông già bỗng như nghẹn lại. Ba mẹ tụi nhỏ chừng như xúc động , làm thinh. Yên lặng một lúc, mẹ thằng Tí vừa đi vào bếp vừa nói:

- Để con đi làm cơm. Ba ở lại ăn với tụi con nghen.

- Không, con. Chơi một chút rồi ba về.

Ba tụi nhỏ rót trà vào tách đưa cho ông già:

- Biết ba thích uống trà nên con có pha sẵn bình Ô long cho ba đây.

- Ờ…Cám ơn con!

Ông già hớp một hớp, đặt tách xuống, gật gù:

- Ùm…Ngon!

Rồi ông tiếp:

- Hồi nãy, ở ngoài Mac Do's, tự nhiên sao ba nhớ lại ba hồi nhỏ. Hồi đó, vì nghèo nên ba đâu có quà bánh gì để ăn. Ba chỉ biết có cơm nguội ăn với đường mía, loại đường cục đậm đen nhìn không thấy thèm mà khi cắn vô mùi mật mía thơm phức làm tươm nước miếng.

Ông già ngừng nói đưa tách lên môi hớp một hớp trà, làm như ông vừa bắt gặp lại vị ngọt đậm đà của cục đường đen và ông cần một hớp trà để đẩy đưa cho hậu vị…

Người con ông ngồi đối diện, uống trà trong im lặng. Anh biết cha anh đang sống lại với dĩ vãng nên không dám làm xáo trộn giòng suy tư của cha. Ông già nói tiếp:

- Hồi thời đó bà ngoại của ba nấu cơm trong nồi đất, nhúm lửa bằng giăm bào, chụm bằng củi. Muốn cho lửa bắt phải hít hơi đầy phổi rồi dùng ống trúc mà thổi nhiều lần. Ống trúc đó gọi là " ống thổi". Khi sử dụng, phải để ý. Bởi vì ống thổi có một đầu sạch và một đầu dơ. Đầu sạch là đầu mà mình chúm môi kê vào để thổi, còn đầu dơ là đầu mà mình thọc vào chỗ có lửa. Đầu đó luôn luôn bị cháy nám đen và dính tro bụi. Người không biết, thổi ở đầu dơ, một lúc sau mồm mép dính lọ đen thui mà không hay!

Ông già khịt mũi cười rồi mới tiếp:

- Rồi phải đợi cơm sôi để hạ lửa, sớm một chút là cơm nhão, trễ một chút là cơm khê. Nấu cơm cực lắm chớ không phải như bây giờ nấu bằng nồi điện, chỉ cần nhận có cái nút!

Ông ngừng nói, cầm tách lên hớp mấy hớp trà. Ba thằng Tí cũng đẩy đưa:

- Như vậy mới là tiến bộ, chớ ba.

- Dĩ nhiên. Đó là điều cần thiết cho cuộc sống. Bây giờ mà bắt mấy bà mấy cô nấu cơm bằng nồi đất, bằng lửa củi… chắc họ nổi loạn! Ba muốn nhắc lại chuyện nấu cơm hồi trước là để cho con thấy trong hột cơm hồi đó có chút công sức của người nấu, có chút tình người làm cho hột cơm có giá trị hơn hột cơm "nhận nút" của thời bây giờ. Chỉ có vậy thôi.

Ông già ngừng nói, nhìn thằng con một chút rồi tiếp:

- Nhưng chuyện mà ba muốn nói ở đây là chuyện "cơm nguội" . Cơm nguội là một thứ chẳng có gì hấp dẫn ! Cho dù nó có nằm trong nồi đất hay trong nồi điện gì, nó cũng không gợi thèm như tô phở hay tô mì. Nó không có chỗ đứng trong hàng quà bánh. Chẳng ai để ý tới nó hết ! Vậy mà khi mình đói và chẳng có gì ăn thì cục cơm nguội lại trở thành "có giá"! Nó như loại bánh xe xơ-cua của xe hơi : bình thường chẳng ai nhìn đến, nhưng khi bị xẹp bánh mới thấy cái bánh xơ-cua, dù đã mòn lẵn, thật hữu ích vô cùng.

Ông già lại ngừng nói, tự tay rót trà vào tách, chậm rãi như để cho thằng con có thời giờ" thấm " những gì ông muốn nói. Sau một hớp trà, ông tiếp:

- Con thấy không? Cục cơm nguội cũng có cái giá trị của nó đó chớ! Ngoài ra, khi ăn cục cơm nguội, đối với những ai chỉ biết nồi cơm điện chớ chưa từng biết cái nồi đất như tụi con chẳng hạn, thì cục cơm nguội chẳng gợi lên hình ảnh gì khác. Nhiều lắm là chỉ gợi lên hình ảnh cái bánh xơ-cua thôi ! Còn như đối với những người như ba, nhai cục cơm nguội là nhớ công ơn người thổi lửa nấu cơm nuôi mình. Nhai cục cơm nguội là nhớ cái gốc nghèo của mình. Cái gốc mà từ đó ba đã cố gắng vươn lên để về sau, ở Sàigòn, tụi con mới có đủ thứ quà bánh bỏ vào bụng khi cần, và để bây giờ, ở đây, tụi thằng Tí thằng Tú mới có hamburger. Con thấy không ? Cơm nguội đâu phải chỉ là cơm nguội!

Dứt lời, ông già đứng lên cầm tách trà uống một hơi. Ông đặt tách xuống rồi nhìn ra ngoài:

- Thôi, ba về kẻo tối. Già rồi, mắt mũi dở lắm, con à.

Rồi ông hướng vào trong, nói lớn:

- Ông nội về nghe tụi con!

Tụi nhỏ ló đầu ra cửa buồng nói nửa tiếng Pháp nửa tiếng Việt "Au revoir Ông Nội". Có tiếng mẹ chúng nó từ trong bếp vọng ra: "Dạ ! Ba về. Lái xe cẩn thận nghen ba!"

Ra đến cửa, ông già đưa tay bắt tay thằng con. Anh ta cầm tay cha, vừa siết mạnh vừa nói:

- Cám ơn ba! Cám ơn!

Trong cái siết tay đó, hình như người con muốn nói lên một điều gì… Anh ta đưa ông già ra xe, đứng nhìn theo chiếc xe đi lần ra ngõ trong ánh hoàng hôn chập choạng. Xe đã đi khuất mà anh ta vẫn còn nhìn theo hướng đó, ân hận sao hồi nãy mình không nói được một lời gì để cho cha hiểu rằng mình thương cha vô cùng…thương vô cùng…

Trên đường về nhà, ông già lái xe chậm rãi. Hình ảnh cục cơm nguội vẫn còn vươn vấn đâu đó ở trong lòng. Bỗng ông thở dài, lẩm bẩm: "Mình, bây giờ, cũng chỉ là một thứ cơm nguội đối với các con. Tụi nó chỉ phone tới, khi nào tụi nó cần…"

Con đường trước mặt ông sao thấy như dài thăm thẳm…

Tiểu Tử  



Người gởi: Huy-Tưởng
Ngày gởi: 04/Dec/2010 lúc 12:46am

- Con thấy không? Cục cơm nguội cũng có cái giá trị của nó đó chớ! Ngoài ra, khi ăn cục cơm nguội, đối với những ai chỉ biết nồi cơm điện chớ chưa từng biết cái nồi đất như tụi con chẳng hạn, thì cục cơm nguội chẳng gợi lên hình ảnh gì khác. Nhiều lắm là chỉ gợi lên hình ảnh cái bánh xơ-cua thôi ! Còn như đối với những người như ba, nhai cục cơm nguội là nhớ công ơn người thổi lửa nấu cơm nuôi mình. Nhai cục cơm nguội là nhớ cái gốc nghèo của mình. Cái gốc mà từ đó ba đã cố gắng vươn lên để về sau, ở Sàigòn, tụi con mới có đủ thứ quà bánh bỏ vào bụng khi cần, và để bây giờ, ở đây, tụi thằng Tí thằng Tú mới có hamburger. Con thấy không ? Cơm nguội đâu phải chỉ là cơm nguội!

ClapTongue



-------------
mhth


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 05/Dec/2010 lúc 4:35am
 
 
Mẹ & con gái 
 
 
 

Nhà chỉ có hai mẹ con. Đã rất lâu rồi, con gái quen với cuộc sống chỉ có hai người. Thị xã không giàu, một cái chợ đủ để thứ gì cũng có, trừ những thứ quá cao sang. Một bến đò cũng đông đúc người qua sông và tàu bè chở cát, mấy sạp quần áo, giày dép mọc hai bên đường. Mẹ sắm xuồng máy chở khách qua sông đã chục năm nay, buồn vui không hết chuyện.

 
Con gái học xong trung cấp dược, mở một quán bán thuốc ngay bên bờ sông Hồng, sau này lại mở thêm cửa hàng bán vải bên cạnh. Ngày nắng thì đông người vào ra, những ngày mưa hai mẹ con lầm lũi một già một trẻ. Đò vắng người sang, sông Hồng chảy lặng thầm một dải…

Bạn bè hỏi:

- Sao nhà chỉ có hai mẹ con?

Con gái cười:

- Ba tao đi vắng.

Con gái nói vậy mà nghe cay xè mũi. Mẹ đứng trong buồng nhìn ra, mắt vời vợi buồn. Con gái không biết nên thương hay giận mẹ. Càng lúc hai mẹ con càng ít nói với nhau hơn. Mỗi người giữ một sự câm lặng cho mình. Cho đến năm con gái hai mươi tuổi.

Sinh nhật con, mẹ đi đưa đò từ mờ sáng. Nhưng khi thức dậy, con gái đã thấy trên bàn có một lọ hoa hồng đỏ và một bức thư. Đấy là bức thư đầu tiên mẹ viết dành riêng cho con gái. Mẹ kể về người thứ ba. Người ấy đã rời xa bến sông này đúng ngày này của hai mươi năm về trước.

“Con gái yêu của mẹ.

Sinh nhật năm nay, mẹ mang đến cho con một món quà chua xót. Xin lỗi con. Nếu con muốn biết về một người thứ ba thiếu vắng trong gia đình mình bấy lâu thì hãy đọc tiếp những gì mẹ viết”.

Con gái gập vội bức thư lại, một cảm giác hoang mang, lo sợ rất lạ đang xâm chiếm. Đây có phải là sự thật mà con gái muốn biết từ lâu, sự thật về sự ra đời của mình trên bến sông này.

“Cha con là lính thông tin, đóng bên kia sông Hồng. Hằng ngày, cha có nhiệm vụ sang bên này sông để đặt cáp thông tin. Mẹ quen cha từ những lần sang sông ấy. Khi ấy mẹ đôi mươi. Bà ngoại bảo:

 - Đừng yêu những người qua sông. Như những con cá bạc, quẫy động một vùng sông rồi lại bơi đi.

Con gái ơi! Mẹ là đứa con hư, không biết nghe lời người lớn. Mẹ đem lòng yêu cha con từ cái ánh nhìn đầu tiên sâu hun hút, đầy ma lực; từ sự bồng bột và ngông cuồng của tuổi trẻ. Sau những cuộc hẹn hò, con đã hình thành và ra đời trong bao nỗi cay nghiệt của người đời. Đừng hỏi mẹ, cha con đang ở đâu. Điều ấy chính mẹ cũng không biết. Có những điều ta cần phải biết đến tận cùng, nhưng cũng có điều ta quên nó thì tốt hơn. Mẹ chỉ mong con đừng bao giờ bước theo dấu chân lỗi lầm của mẹ, đừng nông nổi như mẹ ngày xưa…”.

Con gái nhìn sông Hồng chảy lặng một dòng. Hai mươi năm qua, mẹ bỏ nhà trong xóm, ra bến sông này trở dạ sinh con. Từng ấy năm bươn chải trên những chuyến đò, nuôi nấng con gái bằng những nỗi đau giấu lặng. Chưa khi nào con gái lại thương mẹ nhiều đến thế…

* * *

Tối thứ bảy, nhà văn hóa thanh niên của thị xã tổ chức chương trình văn nghệ cho thanh thiếu niên các xóm giao lưu. Con gái hát hay nên được bầu làm đội trưởng đội văn nghệ xóm Đò. Thi thoảng, mấy đứa trong đội lại tụ tập nhau tại quầy hàng, vừa bán hàng vừa tập văn nghệ. 

Lần nào con gái đi giao lưu văn nghệ, mẹ cũng đứng ngóng, ngồi trông. Con gái về đến nhà rồi mà mẹ vẫn chưa hết lo. Con gái thương mẹ nên mấy lần thủ thỉ:

- Mẹ đừng lo cho con nhiều, con lớn rồi mà…

Mẹ quay mặt thở dài:

- Biết thế nào là lớn khôn. Con người ta đi hết cả đời mà có khi vẫn lầm lỡ.

Con gái thấy dáng mẹ ngồi như núi vọng phu mà thương. Đã có lần con gái ngập ngừng bảo:

- Hay mẹ đi bước nữa đi.

Vẫn một dáng ngồi nhìn ra phía sông, nước mắt mẹ chảy dài. Hình như mẹ chờ ai…

* * *

Đoàn ca nhạc tạp kỹ đến thị xã biểu diễn. Con gái xin mẹ đi từ chiều để phối hợp bán vé, vì ông trưởng đoàn hứa sẽ ủng hộ trại trẻ mồ côi trong thị xã một phần ba số tiền thu được. Mẹ nghe cũng thấu, nhưng vẫn dặn:

- Xong buổi biểu diễn phải về nhà ngay. Mẹ chờ cửa đấy.

Con gái đóng cửa hàng thuốc và sạp vải rồi vội vã lên nhà văn hóa. Đoàn nghệ sĩ và thanh niên thị xã giao lưu rất nhanh rồi bắt tay vào công việc. Tối đó, đoàn nghệ sĩ chiêu đãi thanh niên thị xã một bữa cháo gà. Anh phụ trách hậu cần vừa trổ tài nấu nướng vừa bày trò trêu vui mọi người. Con gái cứ như bị hút hồn bởi nụ cười, ánh mắt và tính cách khôi hài ấy. Cho đến khi hai ánh mắt gặp nhau thì con gái dường như đã quên lời mẹ dặn. Đêm ấy, sau khi đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, con vẫn còn nấn ná ở lại. Anh bảo:

- Không ngờ con gái làng Đò lại xinh và dịu dàng đến thế.

Vẫn biết đó là những lời ong mật của cánh con trai mà sao con gái vẫn thấy ngọt lòng. Có phải vì con gái khờ dại… Tối ấy, khi trở về, mẹ vẫn ngồi cửa đợi con gái. Tự nhiên, con gái thấy có lỗi vô cùng, cố giấu nhịp tim đang đập mạnh, cố giấu vẻ ngượng ngùng, sợ mẹ bắt gặp. Nhưng hình như trái tim nhạy cảm của người mẹ đã nhận ra, lúc con gái đặt lưng xuống giường, mẹ nhắc khéo:

- Hình như con có chuyện gì vui thì phải.

Con giả vờ đã thở đều đều, chìm sâu vào giấc ngủ. Đêm chìm vào tĩnh lặng, thi thoảng gió thổi mùi phù sa sông nồng nồng, âm ấm. Thi thoảng, con vạc đi ăn đêm lại cất tiếng kêu thảng thốt. Áp tai xuống giường, con gái còn cảm nhận được cả hơi thở, tiếng cựa mình của dòng sông hiền hòa, nghe thấy cả những bồi hồi khó tả…

Sau đêm diễn đầu tiên, anh bảo:

- Em có muốn nghe anh kể chuyện không? Bắt đầu từ chuyện về vùng quê anh sinh ra nhé.

Thế là một dải cát trắng hiện ra, biển xanh đến vô cùng, vô tận. Con gái trải lòng mình vào thế giới chưa bao giờ đến, như một khu vườn cổ tích nhiều hoa lá, tắm đẫm trong con gái ước mơ được bước ra những thế giới lạ, vô cùng đẹp đẽ.

Đêm diễn thứ hai, đoàn dọn đồ để đi. Anh nắm tay con gái thật chặt:

- Đi theo anh nhé!

Lời mời mọc đến một thế giới xa xôi, diệu kỳ làm cho mọi nỗi sợ hãi, dè dặt trong con gái tan biến. Lúc ấy, khao khát được yêu, được sống một cuộc sống khác cứ cháy bùng trong lòng cô gái trẻ. Đêm ấy, đoàn nghệ sĩ lặng lẽ ra đi. Đêm ấy, con gái không về. Chắc hẳn mẹ vẫn ngồi cửa đợi.

Đoàn ca nhạc tạp kỹ không dừng lại ở đâu quá năm ngày. Con gái đi mãi vẫn không thấy thế giới con gái từng mơ tưởng. Khi con mang dòng máu của anh, cũng là lúc con nhận biết một sự thật: người đàn ông đó đã có gia đình. Con gái không còn đủ can đảm để rong ruổi theo anh những cuộc hành trình bất tận. Tình yêu cũng không đủ lớn để ràng buộc một người đàn ông đã có vợ con. Con gái bỏ đoàn, lặn lội trở về với bến đò và người mẹ già hao gầy vì trông đợi.

* * *

Mẹ tiếp tục miệt mài với những chuyến đò, sạp vải của con gái vẫn hẩm hiu vào những ngày mưa. Con gái không còn buồn nhiều như những ngày xưa nữa. Đôi lúc muốn hận thù một ai đó, nhưng không làm được. Muốn quên một ai đó, cũng không làm được. Nhưng con gái đã biết học cách chấp nhận từ mẹ. Giọt máu của người đàn ông ấy đang lớn dần, rồi con gái sẽ được làm mẹ, để đến khi đứa con nhỏ biết hỏi: “Sao nhà mình chỉ có ba người?”, chắc hẳn con gái lại trả lời: “Ông ngoại và cha con đi vắng”.

Con gái và mẹ, hai người đàn bà đã mang những nỗi đau giống nhau, một số phận giống nhau, bước đi trên một con đường trơn trượt. Có tiếng ai đó gọi với từ trên bến xuống:

- Cho tôi qua đò với.

Mẹ ngồi lặng yên, mắt đăm đăm nhìn dòng sông, gió thổi bên tai ù ù, mưa giăng, dòng phù sa cuộn đỏ như một dải lụa màu uốn qua thị xã. Tiếng gọi đò đã cất lên mấy lần mà mẹ vẫn lặng yên, như thể mẹ vẫn đang đợi chờ một người nào đó…

Nam Ngân



-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Dec/2010 lúc 6:08am
HẠNH PHÚC LÀ ĐÂY
 
Tác Giả: Lê tấn Kiệt sưu tầm   
 
http://saigonecho.com/main/doisong/loihayydep/18681-hnh-phuc-la-ay.html -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Dec/2010 lúc 7:43pm

BÀI CA VỌNG CỔ



Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê là tôi già ! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì rất lạ : mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi, mái tóc đã ngả bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước ’’Cách mạng thành công’’ và tôi của bây giờ - nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống dưới chế độ gọi là ưu việt - thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi ... tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt !
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire ( Phi Châu ) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu tôi cho Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gởi cho tôi vé máy bay nữa !
Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da đen như là: ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v.v.. Vì vậy, tôi hơi ... ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia ...

http://daihocsuphamsaigon.org/hinh/tieutu-thuyen.jpg">nhấn%20vào%20để%20coi%20rõ%20hơn

"Thuyền "
(Tranh sơn dầu - Võ Hoài Nam)


Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km ! Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước ... coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao và trũng không sâu ...
Nhà nước phá rừng trồng mía. Ruộng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v.v.. Khu này cách khu kia cỡ vài cây số.
Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến.
Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đất đỏ, mỗi lần máy bay bay lên đáp xuống là bụi bay ...đỏ trời !
Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi ’’làm lại cuộc đời’’ ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết ! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng ( chỉ có năm người ) và Tây đen ( đông vô số kể ). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là ’’le chinois’’ - thằng Tàu - Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi ...nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng ! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.

... Một hôm, sau hơn tám tháng ’’ở rừng’’, tôi được gọi về Abidjan để họp ( Đây là lần đầu tiên được về thủ đô ! ). Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa.
Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế đưa tôi vào phòng đợi, nói :
- Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron ( ông chủ ) đi được rồi tôi mới về.
Ở xứ đen, họ dùng từ ’’Patron’’ để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v.v... Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết ! Tôi nói :
- Về đi ! Đâu cần phải đợi !
Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng toát :
- Tại Patron không biết chớ ở đây lâu lâu họ lại huỷ chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường !
Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh : hành khách khá đông, nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v.v... Không phải họ không biết gởi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gởi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ ...xách tay, cho dầu là nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh !
Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim ...

Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ : ’’Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy’’. Rồi lại nhắm mắt lim dim ... Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi ’’xuống hò’’: ’’Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng... đang vươn lên ngọn khói... á... lam... à... chiều...’’
Đúng rồi ! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá ! Người đen đâu có nằm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển ...họ cũng ít dùng nữa.

Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là loại võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hoà hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp :
- Bonjour !
Anh ta ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói ’’Bonjour’’. Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp :
- Anh hát cái gì vậy ?
Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp :
- Một bài ca của Việt Nam. Còn ông ? Có phải ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không ?
Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp
: - Đúng và sai ! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.
Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ :
- Trời ơi ! ...Bác là người Việt Nam hả ?
Rồi hắn vỗ lên ngực :
- Con cũng là người Việt Nam nè !

Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại ’’trôi sông lạc chợ’’ đến cái xứ ’’khỉ ho cò gáy’’ này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt ...

Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên :
- Trời ơi !... Con mừng quá ! Mừng quá ! Trời ơi !... Bác biết không ? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt... con mừng ’’hết lớn’’ bác à !
Rồi hắn kéo tôi lại võng :
- Bác nằm đi ! Nằm đi !
Hắn lại đống gạch ’’bờ-lóc’’ gần đó lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói :
- Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi ! Đâu đợi tới bây giờ...
Hắn móc gói thuốc, rút lòi ra một điếu, rồi đưa mời tôi :
- Mời bác hút với con một điếu.
Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một ’’cái gì’’ rất Việt Nam.
Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười :
- Bác nhìn ra nó rồi hả ?
Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến :
- Của ông ngoại con cho đó ! Ổng cho, hồi ổng còn sống lận.
Rồi hắn bật cười :
- Hồi đó ổng gọi con bằng ’’thằng Lọ Nồi’’.
Ngừng một chút rồi tiếp :
- Vậy mà ổng thương con lắm à bác !
Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm... Tôi nói :
- Vậy là cháu lai Việt Nam à ?
- Dạ. Má con quê ở Nha Trang.
- Rồi má cháu bây giờ ở đâu ?
Giọng của hắn như nghẹn lại :
- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt cộng vô năm 1975.
- Còn ba của cháu ?
- Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn !
Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi môi dầy...
Tôi chợt nói, nói một cách máy móc :
- Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết !
Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang :
- Có chớ bác. Con có lai chớ bác.
Hắn xoè hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại :
- Bên nội của con là nằm ở bên ngoài đây nè.
Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim :
- Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.
Bỗng giọng hắn nghẹn lại:
- Con lai Việt nam chớ bác !
Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt tôi, một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vói tay vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói :
- Ờ ! Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy ...
Hắn mỉm cười : - Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa ! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không ?
Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt :
- Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là Trời còn thương con quá !
Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai : cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng ...
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu :
- Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài ’’Đường về quê ngoại’’ đó bác.
- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên :
- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không ? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.
- Bác cũng vậy.
Tôi nói, mà thầm phục sự hiểu biết sâu sắc của hắn. Và tôi thấy rất vui khi có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau ... Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói :
- Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh :
- Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết ’’Jean le vietnamien’’ hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.
Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ, rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi :
- Ghé con nghe bác ... Ghé con ...
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật gật đầu, vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con ...
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội vã quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho ’’thằng Jean le vietnamien’’. Hồi nãy, nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ ...
...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến ’’thằng Jean’’ rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa !


* * *

Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi :
’’Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam ?’’
’’Và có được bao nhiêu người còn mang mểnh trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nằm nguyên trong đó ?’’.


Tiểu Tử



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/Dec/2010 lúc 5:42am

Nội

Tiểu T

            

- Nội xuống kìa !                                              

- Nội xuống! Ê ! Nội xuống!

- Nội xuống!

Bầy con tôi reo mừng, chạy ừa ra ngõ.Ngoài đó,tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.

Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tội, im lặng.Tôi hiểu :bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên? Sáng sớm mai là đi rồi …

Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :

Không sao đâu. Đ anh lựa lúc nói chuyện đó với má.

Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói,hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chùng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà …Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng…Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cận » hoặc chị « nuôi » và lâu lâu hay trông có bà Nội xuống. Và lùc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau : « Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì xuống ăn không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ  đến miếng ăn thôi !

Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lùc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói :« Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyeän thôi ! ».Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại ,bà nó cho đó là một thi vị của tuồi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.

Tôi hỏi má tôi :

- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?

Vợ chồng tôi hay gọi má tôi  bằng « nội  » như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu , chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng «nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến. 

Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :

-Thôi đi mày ơi !…Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ.Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !

Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :

- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mỡ nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết !

 - Ủa ? Rồi làm sao nội đi được ? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả  nội ? Con gái lớn tôi chen vào.

- Dễ hôn ! Nội đâu có đễ cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.

Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe :

- Cái rồi …cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội  đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.

Nghe đến đây, bày con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève…

Con út nóng nảy giục :

 - Rồi sao nữa nội ?

- Cái rồi…lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ…cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang . Nó đi qua khỏi rồi chớ,nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ủa ? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy ? » Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giào Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa tr rồi…Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !   

Ti là tên con ùt. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nớ bớt cong. Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : «Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu chớ nó lâu rách ».

Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện !Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, tôi trong đó hỏi vọng ra :

- Nội ăn gì chưa nội ?

- Khỏi lo !Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.     

Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau.Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc.Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng còn gì thay đổi.Vẫn loại quần vải đen lưng rùt, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa :«Cha…bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? » Má tôi cười : «Ậy !Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ».Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây !

Tôi là con một của má tôi.Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi,má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, việt cộng hay b ắn hỏa tiển vào Gò Dầu về đêm –má tôi thường chắc lưỡi nói :«Thiệt…không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ».Cái «xứ» Sài gòn, đối với má tôi, nó «tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần.Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ.Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bấy con tôi thì xuống chơi với  chúng nó năm bảy bữa rổi về. Má tôi hay nói đùa là «đi đổi gió» !  

Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật.Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang «cái gì để ăn» cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nu i má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều.Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư «bậc hai trên sáu »,tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đùt cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu !Thật là một «cuộc đổi đời» (Việt Cộng thường rêu rao :«Cách mạng là một cuộc đổi đời»).Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !

Lắm khi tôi tự hỏi :«Rồi sẽ đi đến đâu ?».Bấy giờ tôi đã trở thành «trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi «ngang » mà nhờ  đó tôi còn được ở lại với sở cũ .Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không «đạt yêu cầu ».Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn «nghiệp dư» của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề .Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !

Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người.Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, «vượt biên» là đi vào miền vô định…

Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó.Tôi thắc mắc hỏi : «Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội?».Bạn tôi cười :«Ai cũng nghĩ như anh hết.Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa ?»

Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu.Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ  liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay.Chừng đó thì «sự đã rồi»…

Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không  được. Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ trọn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ? Liệu má tôi … liệu má tôi …Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời…

Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải «tăng gia» cho đúng «đường lối của nhà nước». Thật ra , trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có…trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi «nhét kẻ răng» !Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen :«Anh chị công tác tốt đấy chứ.Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu tha hồ mà ăn».Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn «tăng gia», họ đã phải đào cả sân xi-măng hoăc sân lót gạch, thì lấy gì để «làm tốt» ?

Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi l ưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách.Tôi tự hỏi:«Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi  đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được ?». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái nùm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại :

- Đừng ! Nhột !Thằng  chơi dại mậy !

Rồi má tôi cười văng cốt trầu.Con Ti la lên :

- Má ôi ! Coi ba măn vú nội nè !

Tôi cười hả hê thích thú.Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm…Và cũng trong khoảnh khắcđó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc !Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể  tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bt chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…

Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : «Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành…Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tô cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỏi vì trong cá kho có tép mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là «để cho nó dằn » ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào nó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …

Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :

- Bộ cay hả ?

Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi s không còn bữa cơm nào như vậy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi s sống hay chết ? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ?

Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng…để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh ngườiđang hấp hối, trong giây phùt cuối cùng lưỡi đã cứng đơ, mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối  những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũ ng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được!  

Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái:

- Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !

Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc !

Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :

- Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?

Rồi bà chồm tới nhìn vào tô cá. Các con tôi nhao nhao lên :

- Đâu có cay, nội.

- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?

- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.

- Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?

Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt !

Tôi đặt chuyện, nói tránh đi:

- Hổm raày nóng trong mình, lưỡi của ba bị  lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.

Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi…

Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu .Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội…Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo.Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong.Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không có giường tủ gì hết - rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài…

Thời gian đi qua…Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ  được vẽ những lằn ngang song song trắng đục.Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.

Bỗng cửa phỏng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :

- Ba con Ti ngủ chưa vậy ?

Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :

- Dạ chưa, má.

Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :

- Coi b nc hả my ?

- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.

Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc.Tay má tôi vẫn quạt đều. Rồi má tôi hỏi :

- Tụi bây còn gì đề bán nữa hông ?

- Dạ …

Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi.Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ sa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến”…những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi :”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sĩ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chằng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá!”.Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát !

Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói :

- Rồi my phải tính làm sao chớ chằng lẽ cứ như vậy hoài à ? Tao thy by tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.

Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :

- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mầy đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói.Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mầy hiểu hôn ?

Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn.Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ có ở chế xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy !

Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :

- Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơđể vượt  biên.

Tôi  nghe  tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi  yên  lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :

- Vậy hà…

Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang  trong  cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :

- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …

Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.

Một lúc sau, má tôi nói  :

- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.

Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ .Ti ếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nôi mấy đứa nh ỏ đang cầu nguyện ngoài đó.

Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…

Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo.Chúng nó không có vẽ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh.  Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình.Thật là mầu nhiệm !

Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi.

Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.

Tôi chỉ nói có mấy tiếng :

- Con đi nghe má !

Rồi bước ra khỏi cổng.

 

*   *   *

Lần đó, tôi đi thoát.

Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.

Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.

Tụi nó kể :

 “Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa .Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, hợ an ủi nội mấy câu rồi từđó không thấy trở lại nữa”.

Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục:“Nội hay thiệt !”.

Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của maù tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẽ bình  tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có  dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…

 “Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xung tiếp tế cho tụi con.Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nôi mới chịu theo ông theo bà !”.

Tôi biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu…Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt.Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ờ đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình .Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …

Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội.Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm !”

 “Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà.Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nôi niệm phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…”

Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn kh ông bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.

 “ Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi :

- Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nôi muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn !”

Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt - hay đúng ra để vĩnh biệt - tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội.Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cẩn tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.

Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ.Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, ng ười ở lại vơi đầy chua xót…

Mấy con tôi nói :”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.

 

*   *   *

Tôi làm việc ở Côte  d'Ivoire  (Phi Châu), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào…những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con…Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.

Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả …



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 13/Dec/2010 lúc 6:33am
http://saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/20538-tinh-yeu-va-cuc-sng.html">
Tình yêu và cuộc sống
Tác Giả: Vô Danh
 
http://saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/20538-tinh-yeu-va-cuc-sng.html


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Dec/2010 lúc 11:07pm

http://cothommagazine.com/pps/ThongDiep.pps - - Những Thông Điệp Gửi Bạn  (pps) - Lê An 



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Jan/2011 lúc 10:47pm

CHUYỆN TÌNH ĐÔI ĐỦA LỆCH

http://saigonecho.com/main/doisong/giadinh/23684-chuyn-tinh-oi-a-lch.html -



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Jan/2011 lúc 7:37am
 
 
 
Bữa cơm tối ở Nhà hàng Ly Hôn
(Đỗ Quyên )
 
Anh cưới chị được 10 năm. Giữa hai vợ chồng không còn xúc cảm và hứng thú. Anh ngày càng cảm thấy đối với vợ hầu như chỉ còn là trình tự và nghĩa vụ. Anh bắt đầu thấy ngán.
 


Nhất là khi đơn vị vừa nhận về một người phụ nữ trẻ hết sức sôi nổi và cuồng nhiệt bám lấy anh. Anh chợt có cảm giác cô ta là mùa xuân thứ hai của anh. Sau nhiều đêm suy nghĩ, anh quyết định ly dị vợ. Chị dường như đã trơ lỳ, bình thản, đồng ý đòi hỏi của anh.
Thủ tục tiến hành rất thuận lợi. Sau khi ra khỏi cửa, anh chị đã trở thành cá nhân độc lập và tự do. Không hiểu sao, anh bỗng thấy trống trải vô cùng, anh nhìn chị nói: “Trời tối rồi, hay là đi ăn cơm đã”.
 
Chị nhìn anh nói: “Vâng. Em nghe nói gần đây vừa khai trương Nhà hàng Ly Hôn, chuyên phục vụ bữa ăn cuối cùng cho các cặp vợ chồng ly dị. Chúng mình đến đấy đi?”
 
Anh gật đầu. Hai người, một trước một sau lặng lẽ đi vào Nhà hàng Ly Hôn. Anh chị vừa yên vị trong phòng VIP, cô phục vụ đã bước vào nói: “Anh chị dùng gì ạ?”
 
Anh nhìn chị nói: “Em gọi đi.” Chị lắc đầu: “Em ít khi ăn nhà hàng, không quen gọi món, anh gọi đi.”
 
“Xin lỗi, nhà hàng chúng tôi quy định, bữa này do vợ gọi món hàng ngày người chồng thích ăn nhất, và chồng gọi món người vợ thích ăn nhất. Đấy là món “Ký ức cuối cùng.”
“Thôi được”, chị hất món tóc xõa trước mặt ra sau, nói: “Gà luộc chấm gia vị nước chanh, đậu phụ rán chấm nước mắm nguyên chất rắc hành thái nhỏ, chân giò luộc chấm mắm tôm, rau cải thảo luộc.”
 
“Anh gọi gì ạ?” Cô phục vụ nhìn anh. Anh sững người. Lấy nhau 10 năm, anh thật sự không biết vợ anh thích ăn món gì. Anh há hốc mồm, ngồi thừ ra đấy.
 
“Những món này đủ rồi, đều là món chúng tôi thích nhất.” Chị vội chữa thẹn cho anh. Cô phục vụ cười: “Thực tình mà nói, đến nhà hàng chúng tôi ăn bữa cơm cuối cùng, các anh các chị đều không thể nuốt trôi. Hay là anh chị đừng dùng món “Ký ức cuối cùng” nữa, hãy dùng bữa tối nhà hàng đặc biệt làm cho vợ chồng ly hôn: Đồ uống ướp lạnh. Những người đến đây, không có ai từ chối sự lựa chọn này.” Anh chị gật đầu: “Được.”
 
Chốc lát, cô phục vụ mang đến hai suất đồ uống ướp lạnh. Trong hai suất có một suất xanh lơ, toàn đá đập vụn; một suất đỏ tươi, còn đang bốc khói. “Bữa tối này gọi là “một nửa ngọn lửa, một nửa nước biển”. Mời anh chị thưởng thức.” Cô phục vụ nói xong lui ra. Trong phòng ăn im lặng như tờ, anh chị ngồi đối diện, nhưng không biết nói gì với nhau.
“Cộc cộc cộc!” Có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng. Cô phục vụ đi vào, tay bưng chiếc khay có một bông hồng đỏ tươi, nói: “Anh còn nhớ cảnh tặng hoa cho chị đây không? Bây giờ, khi mọi việc đã kết thúc, không còn là vợ chồng, nhưng là bạn. Bạn bè gặp nhau vui vẻ rồi chia tay, anh tặng chị bông hồng cuối cùng đi.”
 
Chị rùng mình, trước mắt hiện ra cảnh anh tặng hoa chị 10 năm về trước. Hồi đó, anh chị vừa đến thành phố xa lạ này, hai bàn tay trắng, bắt đầu xây tổ ấm từ số không. Ban ngày, anh chị đi tìm việc làm, ban đêm chị ra hè phố bán quần áo. Anh vào nhà hàng rửa bát. Nửa đêm mới về đến gian nhà thuê chưa đầy 10 mét vuông. Đời sống khổ cực, nhưng anh chị thấy vui, thấy hạnh phúc.
 
Tết Valentin đầu tiên ở thành phố này, anh mua tặng chị bông hồng đầu tiên, nước mắt chị chảy dài trên má vì sung sướng quá. 10 năm rồi, cuộc đời đã giàu lên, thế mà anh chị lại chia tay nhau. Càng nghĩ, chị càng tủi, hai mắt ngấn lệ, xua tay nói: “Thôi, thôi, khỏi cần.”
 
Anh cũng nhớ lại 10 năm qua. Và sực nhớ 5 năm nay, anh không mua hoa tặng chị. Anh vội vẫy tay, nói: “Không, phải tặng.”
 
Cô phục vụ cầm bông hồng lên, “xoèn xoẹt” một cái, bẻ làm đôi, ném vào cốc của anh chị, mỗi người một nửa. Bông hồng tức khắc hòa tan trong cốc.
 
“Đây là bông hồng nhà hàng làm bằng gạo nếp, cũng là món ăn thứ ba gửi anh chị. Mời anh chị thưởng thức. Còn cần gì nữa, anh chị cứ gọi tôi”. Nói xong, cô quay người ra khỏi phòng.
 
“Em... anh...” Anh nắm lấy tay chị, nói không nên lời. Chị rút mạnh bàn tay. Không rút nổi, bèn để yên. Anh chị im lặng nhìn nhau, vẫn không nói nên lời.
 
“Phụt!” Đèn điện tắt ngấm, trong phòng tối om. Bên ngoài vang lên tiếng chuông báo động đổ dồn, có mùi cháy khét lẹt bay vào.
 
“Chuyện gì thế?” Anh chị vội đứng lên.
 
“Nhà hàng cháy rồi, mọi người ra ngoài mau, mau lên!” Bên ngoài có người kêu thét lên. “Anh!” Chị ép vào người anh, “em sợ!”
 
“Đừng sợ!” Anh ôm chặt lấy chị, “Em đừng sợ, có anh ở bên cạnh. Chúng mình chạy ra ngoài đi.”
 
Ngoài phòng, đèn điện sáng trưng, mọi vật như cũ, không có chuyện gì xảy ra. Cô phục vụ nói: “Xin lỗi anh chị, đây là món “Sự lựa chọn từ đáy lòng” của nhà hàng gửi tới anh chị.”
 
Anh chị trở về phòng ăn, ánh sáng chan hòa. Anh cầm tay chị nói: “Vừa nãy là sự lựa chọn từ đáy lòng của chúng mình thật. Anh cảm thấy chúng mình không thể sống thiếu nhau, ngày mai chúng mình đi đăng ký lại!”
 
Chị cắn môi: “Anh nói thật lòng đấy chứ?”
 
“Thật! Anh hiểu rồi.” Cô ơi, cho thanh toán.
 
Cô phục vụ đi vào, đưa cho anh chị mỗi người một tấm phiếu màu hồng rất đẹp nói: “Đây là phiếu thanh toán của anh chị, cũng là món quà của nhà hàng gửi tặng anh chị, gọi là “Phiếu thanh toán vĩnh viễn”, mong anh chị cất giữ mãi mãi.”
 
Anh nhìn phiếu, mắt đỏ hoe. “Anh làm sao thế?” Chị lo lắng hỏi. Anh đưa phiếu thanh toán của mình cho chị, nói: “Anh có lỗi với em, mong em tha thứ.”
 
Chị cầm tấm phiếu đọc: “Một gia đình ấm cúng, hai bàn tay làm lụng, ba canh ngồi chờ anh về, bốn mùa dặn anh giữ gìn sức khỏe, năm tháng săn sóc anh chí tình, sáu mươi mẹ già vui vẻ, bảy ngày trong tuần nuôi dạy con cái, tám phương giữ gìn uy tín của anh, chín giờ thường xuống bếp làm món anh khoái khẩu, mười năm hao tổn tuổi xuân. Vì ai... Đó là vợ anh”.
 
“Anh vất vả thật đấy. Mấy năm qua em thờ ơ với anh quá.” Chị đưa phiếu thanh toán của mình cho anh xem. Anh mở ra đọc: “Một mình gánh vác trách nhiệm, hai vai nặng trĩu cơ đồ, ba canh cặm cụi bên bàn, tứ thời chạy ngược chạy xuôi, vinh nhục biết chia sẻ cùng ai, bể dâu khắc sâu đuôi mắt, nghĩa vụ đối với gia tộc, gập ghềnh chông gai con đường công danh, là người phàm tục làm sao mười phân vẹn mười. Lúc nào cũng tận tình với vợ con... Đấy là chồng em”.
 
Anh chị ôm chầm lấy nhau, oà lên khóc thành tiếng.

Theo Đỗ Quyên

Hạnh phúc gia đình

 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: giodocgocong
Ngày gởi: 13/Jan/2011 lúc 6:19am
 Một tấm gương
Tác giả: Minh Tạo

 Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

                           Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

                           Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?

                           Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
                           - “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
                           Tôi hỏi tiếp:
                           - “Còn con có đi học không ?”
                           Thằng bé nói:
                           - “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
                           Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
                           Có lần thằng bé hỏi tôi:
                           - “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
                           Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.
                           Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

                           Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

                           Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
                           Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

                           Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi. Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…

                           Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đở gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.




-------------
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Jan/2011 lúc 11:32pm

Tờ lịch gỡ mỗi ngày

Ngô Phan Lưu


 


Nhà tôi treo một “lốc” lịch to nơi phòng khách, mỗi sáng thức dậy, tôi gỡ một tờ quăng đi… Khi ló tờ mới, tôi xem kỹ câu danh ngôn nếu có, coi đấy như lời dạy dỗ đầu ngày của các bậc tiền bối ! Không biết ai sao, riêng tôi thấy tâm đắc việc này lắm !

 

Ví như, sáng thứ 2 tuần trước, ngủ dậy liền đến bóc tờ lịch, tờ mới có ghi câu danh ngôn của Turenne: “Tôi có ý kiến này muốn tặng bạn: Đó là, mỗi khi bạn muốn nói, bạn hãy làm thinh”. Xem câu ấy xong, tôi ngẫm nghĩ… và thấy có lý, hay lắm. Quá hay đi chứ! Lời khuyên răn này rất xác đáng, đã đúc kết một kinh nghiệm quí báu trong cuộc sống đầy những chuyện khôn lường của lòng dạ con người! Và, ngày hôm đó tôi cẩn ngôn hơn! Tôi chỉ thực hành nửa câu nói ấy mà cũng thấy mình khá rồi! Còn thực hành nguyên câu dĩ nhiên là không nổi! Xin cảm ơn ông hay bà Turenne người nước nào tôi không rõ, đã cho tôi một chút của báu giắt lưng phòng thân trên đường đời gian truân! Tôi không muốn coi tiếp câu danh ngôn của ngày kế tiếp… Ừ, cứ giữ bí mật để đó, vội gì!

Đến sáng ngày thứ 3, ngủ dậy, tôi lại gỡ lịch, gặp câu nói của Swift: “Nổi giận là tự gánh giùm lỗi của người khác!”. Chí lý ! Dại gì mà nổi giận cơ chứ! Quả nhiên, câu ấy tác động nơi từng sâu thẳm tâm hồn, ngày hôm đó gặp nhiều việc bực mình, mà tôi đâu có thèm giận! Ngu gì gánh lỗi kẻ khác! Lại phải cảm ơn cái ông Swift hay bà Swift gì đó nữa!...

Rạng đông ngày thứ 4, lại ló tờ lịch ghi câu của Montesquieu: “Phải khóc con người lúc sinh ra, chứ đâu phải lúc chết”. Chết rồi có phải làm gì nữa đâu mà cực với nhọc! Thế thì cũng chả nên khóc lóc mà làm chi! Ừ nhỉ! Lạ thật! Cái chết đột nhiên giảm bộ mặt khủng khiếp trong tâm tưởng tôi, nói chí tình cũng phải có chút ít tác dụng của Montesquieu mới ra thế! Và, ngày hôm đó tôi nghị lực hơn, yêu đời hơn! Lại cảm thấy mình cứng cáp lên!

Sang ngày thứ 5, tờ lịch hiện lên câu ngạn ngữ Ba Tư: “Lưỡi dài thu ngắn đời sống”. Ôi, quá chất lượng! Dân Ba Tư kinh nghiệm quá dày dặn! Nói lắm chỉ được cái “nguy to”, chỉ được cái “rước họa vào thân”! Còn nhớ trong ngày ấy, lúc nhậu cùng bạn bè, vậy mà tôi cũng ráng tịnh khẩu! Cứ sợ sa vào cái “vạ mồm”!

Đến ngày thứ 6, tờ lịch lấp lánh câu danh ngôn khác, thật cao siêu của Villier de l’Isle Adam: “Người nhục mạ bạn, họ chỉ nhục mạ ý nghĩ của họ có về bạn, tức là họ nhục mạ chính họ!”. Câu này trong tầng sâu là đúng, nhưng thực hiện quả là thiên nan vạn nan! Lên hàng thánh mới xài được! Tâm đắc lắm nhưng cứ cất yên đấy! Công lực chưa đủ, chờ thời gian nữa hẵng hay!

Sáng ngày thứ 7, lại ló câu của Cervantes: “Ăn to thì di chúc nhỏ”. Úi cha! Cũng có lý quá! Tôi coi tiếp luôn ngày Chủ nhật xem sao… Đó là câu của G. Herbert: “Ai cũng có một thằng điên trong ống tay áo”. Trời đất ! Lại cũng quá đúng! Những lúc bưng ly bia, cốc rượu chỗ đông người, trong ống tay áo tôi thường rớt ra thằng điên, thậm chí đôi lúc rớt ra hai thằng ! Say quá, có khi rớt tới ba thằng!

Ôi chao! Riêng về phần danh ngôn, tờ lịch vậy mà hay! Một lần nữa xin cảm ơn, cảm ơn… tờ lịch gỡ mỗi ngày! Việc gì phải đi thư viện đọc sách hao thời gian, cứ lịch đấy mà học mãn đời không hết!... 

trong " Trần Gian Một Khúc "



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Jan/2011 lúc 6:36am
CÁCH DẠY CON Ở MỸ
 
Tác Giả: Nguyễn Xuân Bích Huyên   

Dâu Tây dạy con, mẹ chồng đại khai nhãn giới

Con trai tôi du học, sau khi tốt nghiệp thì định cư tại Mỹ, và đã kiếm cho tôi cô con dâu người Tây tên Susan.

Hiện giờ, cháu trai Peter đã 3 tuổi. Mùa hè năm nay, con trai đăng ký visa "thăm người thân". Thời gian 3 tháng tôi lưu lại Mỹ, con dâu Tây Susan có cách giáo dục con cái làm tôi đây - người mẹ chồng - phải đại khai nhãn giới.
 
Phần 1: Không ăn thì cứ nhịn đói

Mỗi buổi sáng, sau khi Peter thức dậy, Susan để phần ăn sang lên bàn và bận rộn làm việc khác. Peter sẽ tự mình leo lên chiếc ghế, uống sữa, ăn bánh sandwich, sau khi ăn no, nó sẽ tự về phòng của mình, tự tìm quần áo trên tủ, rồi tự lấy giày, tự mình mặc lên. Bất kể chỉ mới 3 tuổi thôi, vẫn chưa phân biệt rõ ràng mặt trái hay mặt phải của bít tất, giày trái hay giày phải.

Có một lần, Peter lại mặc ngược chiếc quần lên người, tôi vội vàng chạy đến muốn thay lại cho cháu, nhưng đã bị Susan cản lại. Nó nói, nếu cảm thấy không thoải mái tự cháu sẽ cởi ra, và mặc lại; nếu nó không cảm thấy không có gì là không thoải mái, vậy thì tùy. Và nguyên ngày đó, Peter mặc cái quần ngược đó chạy tới chạy lui, Susan như không thấy gì hết.

Một lần nữa, Peter ra ngoài chơi với cháu nhà hàng xóm, chưa được bao lâu thì nó chạy thở hổn hển về đến nhà, nói với Susan: “Mẹ ơi, Lusi nói cái quần của con mặc ngược rồi, đúng không? Lusi là con nhà hàng xóm, năm nay 5 tuổi. Susan mỉm cười nói: “Đúng vậy, con có muốn mặc lại không?” Peter gật gật đầu, tự mình cởi quần ra, xem tỉ mỉ rồi, bắt đầu mặc lại. Từ lần đó về sau, Peter không bao giờ mặc ngược quần nữa.

Tôi đã không kiềm được mà nhớ lại, cháu gái ngoại của tôi lúc 5 - 6 tuổi chưa biết dùng đũa, lúc học tiểu học còn chưa biết cột dây giày, và bây giờ đang theo trung học dạng ký túc xá, mỗi cuối tuần là đem một đống quần áo dơ về nhà.

Có một buổi trưa, Peter giận dỗi, không chịu ăn cơm. Susan la rầy mấy câu, Peter giận hờn đẩy khay cơm xuống đất, thức ăn trên khay rớt đầy trên đất. Susan nhìn Peter, giọng nói nghiêm khắc: “Xem ra con đúng là không muốn ăn thật! Nhớ lấy, từ giờ đến sáng mai, con không được ăn gì hết.” Peter gật gật đầu, kiên quyết trả lời: “Yes!” Và tôi chợt cười thầm, hai mẹ con này cứng đầu như nhau!

Buổi chiều, Susan bàn với tôi, nhờ tôi nấu món ăn Việt Nam cho bữa tối . Tôi lại thầm nghĩ, Peter đặc biệt thích món ăn Việt Nam, nhất định Susan thấy sáng nay cháu không ăn gì hết, nên muốn buổi tối cháu ăn ngon và nhiều hơn. Tôi bèn trổ tài nấu ăn, làm món sườn chua ngọt mà Peter thích nhất, món tôm, và còn dùng mì Ý để làm món mì kiểu Việt Nam mà Peter rất thích, người nhỏ nhỏ như thế mà có thể ăn được một tô lớn.

Bắt đầu bữa cơm tối, Peter vui mừng nhảy lên ghế ngồi. Susan đến lấy đi dĩa và nĩa của con, nói: “Chúng ta giao ước rồi phải không, hôm nay con không được ăn gì hết, chính con cũng đồng ý rồi đó.”

Peter nhìn nét mặt nghiêm túc của người mẹ, “òa” lên khóc, vừa khóc vừa nói: “Mẹ ơi, con đói, con muốn ăn cơm.” “Không được, nói rồi là phải giữ lời.” Susan không một chút động lòng.

Tôi thấy đau lòng muốn thay cháu cầu xin, nói đỡ lời dùm, nhưng thấy ánh mắt ra hiệu của con trai tôi. Nhớ lại lúc mới đến Mỹ, con trai có nói với tôi: “Ớ nước Mỹ, lúc cha mẹ giáo dục con cái, người ngoài không nên nhúng tay, bất kể là trưởng bối cũng không ngoại lệ.” Không còn cách nào, tôi chỉ còn giữ im lặng mà thôi.

Bữa cơm đó, từ đầu đến cuối, Peter tội nghiệp chỉ ngồi chơi với chiếc xe mô hình, mắt trưng trừng nhìn ba người lớn chúng tôi ăn như hổ đói. Đến đó tôi mới biết dụng ý của Susan khi nhờ tôi nấu món Việt. Tôi tin rằng, lần sau, trong lúc Peter muốn giận hờn quăng liệng thức ăn, nhất định sẽ nghĩ đến kinh nghiệm bụng đói nhìn ba mẹ và bà nội ăn cao lương mỹ vị. Bụng đói không dễ chịu tí nào, huống chi là đối mặt với món mình thích ăn.

Buổi tối, tôi và Susan cùng đến chúc Peter ngủ ngon. Peter cẩn thận dè dặt hỏi: “Mẹ ơi, con đói lắm, giờ con có thể ăn món Việt không?” Susan mỉm cười lắc đầu, kiên quyết nói: “Không!” Peter nuốt nước miếng, lại hỏi: “Vậy để con ngủ dậy rồi khi mở mắt con được ăn chứ?” “Đương nhiên được rồi”, Susan thật dịu dàng khẽ đáp. Peter đã cười tươi hẳn ra.

Sau bài học này, Peter rất tích cực ăn cơm, nó không muốn vì “tuyệt thực” mà lỡ bữa ăn ngon, và chịu cực hình bụng đói. Mỗi lần nhìn thấy Peter ngoạm từng phần lớn thức ăn, lúc miệng và mặt dính đầy thức ăn, tôi lại nhớ đến cháu ngoại, hồi bằng tuổi Peter; mấy người cầm tô cơm dí theo sau đuôi nó, dỗ dành, mà nó còn chưa chịu ngoan ngõan ăn, mà còn ra điều kiện: ăn xong chén cơm mua một kiện đồ chơi, ăn thêm một chén thì mua thêm một kiện đồ chơi…
 
Phần 2: Ăn miếng trả miếng

Có một lần, chúng tôi dắt Peter ra công viên chơi. Rất nhanh, Peter đã cùng hai cô bé chơi nấu ăn với nhau. Cái nồi nhỏ bằng mủ, cái xẻng nhỏ, cái thau nhỏ, những cái chén nhỏ xếp đầy trên đường. Bất ngờ, Peter tinh nghịch cầm cái nồi bằng nhựa lên, đập rất mạnh lên đầu một cô bé. Cô bé bần thần một lúc trước khi oà khóc thật lớn. Cháu gái kia thấy tình hình vậy cũng òa khóc theo. Đại khái, Peter cũng không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng như vậy sẽ xảy ra, đứng qua một bên, trợn mắt nhìn. Susan đi tới. Sau khi hiểu được đầu đuôi sự việc, nó không quát nạt một tiếng, cầm lấy cái nồi ấy, gõ mạnh một cái lên đầu Peter. Peter không phòng bị, té ngã xuống bãi cỏ, khóc nức nở. Susan hỏi Peter: “Đau không? Lần sau có còn làm thế nữa không?” Peter vừa khóc vừa lắc đầu. Tôi tin rằng, lần sau nó sẽ không làm thế nữa.

Cậu của Peter tặng cho cháu một chiếc xe đạp nhỏ, Peter rất thích, khư khư giữ làm bảo bối không cho ai đụng vào. Lusi cô bé trong xóm, là bạn thân của Peter, đã mấy lần thỉnh cầu Peter cho chạy thử chiếc xe nhỏ này, Peter không đồng ý.

Một lần, mấy cháu đang chơi chung với nhau, Lusi thừa lúc Peter không để ý, lén lén nhảy lên chiếc xe và đạp mau đi. Khi biết ra, Peter rất phẫn nộ, đến méc mẹ. Susan đang ngồi nói chuyện và uống café với mẹ của những đứa nhỏ kia, liền mỉm cười trả lời con: “Chuyện của chúng con thì chúng con tự giải quyết, mẹ không xen vào được.” Peter bất lực quay đi. Một lát sau, Lusi chạy chiếc xe về. Vừa thấy Lusi, Peter lập tức chạy tới đẩy bạn té xuống đất, giật lại chiếc xe. Lusi ngồi bệt dưới đất, khóc ré lên.

 Susan ẵm Lusi dậy và dỗ dành một lát. Rất nhanh sau đó Lusi đã chơi vui vẻ lại với những bạn còn lại. Peter tự mình chạy xe tới lui một lát thì cảm thấy hơi nhàm chán, nhìn thấy những bạn kia chơi thật vui vẻ với nhau nên nó muốn tham gia chung. Nó chạy tới chỗ Susan, lầu bầu thưa: “Mẹ, con muốn chơi với Lusi và tụi nó.” Susan không đả động gì và trả lời: “Con tự kiếm mấy bạn ấy vậy!” "Mẹ ơi, mẹ đi với con nhen”, Peter thỉnh cầu. “Chuyện này không được rồi, lúc nãy con đã làm cho Lusi khóc, giờ con lại muốn chơi với mọi người, vậy con phải tự đi giải quyết vấn đề". Peter leo lên chiếc xe và chạy từ từ đến chỗ Lusi, lúc gần đến chỗ, thì nó lại quay ngược đi. Chạy tới lui mấy vòng như vậy, không biết từ lúc nào mà Peter và Lusi lại vui vẻ với nhau, hợp thành nhóm ồn ào.
 
Dạy dỗ chăm nom con cái là chuyện của cha mẹ
 
Song thân Susan , biết tôi đang ở Mỹ, nên lái xe từ California đến thăm chúng tôi. Nhà có khách tới, Peter rất hào hứng, chạy lên chạy xuống. Nó lấy cái thùng đựng đầy nước, rồi xách đi tới đi lui trong nhà.

 Susan cảnh cáo nó mấy lần rồi, rằng không được làm nước văng lung tung trong nhà. Peter để ngoài tai. Cuối cùng Peter đã làm nước đổ hết ra nền. Chưa thấy mình làm sai, Peter còn đắc ý dẫm đạp lên vũng nước, làm ướt hết quần áo.

 Tôi lập tức chạy đi lấy cây lau nhà để dọn dẹp. Susan giật lại cây lau nhà và đem đưa cho Peter, nói với nó: “Lau sàn cho khô, cởi đồ ướt ra và tự mình giặt sạch.” Peter không chịu vừa khóc vừa la. Susan không nói thêm lời nào, lập tức kéo nó đến phòng trữ đồ, đóng chặt cửa lại. Nghe từ bên trong tiếng khóc hoảng sợ của nó, tim tôi đau thắt lại, rất muốn chạy đến ẵm cháu ra. Bà ngoại của Peter lại cản tôi, nói: “Đó là chuyện của Susan".

 Một lát sau, Peter không khóc nữa, nó ở trong phòng trữ đồ hét thật lớn: “Mẹ ơi, con sai rồi!” Susan đứng ở ngoài hỏi: “Thế giờ con biết phải làm gì chưa?” “Con biết.” Susan mở cửa ra, Peter chạy từ phòng trữ đồ ra, nước mắt đầy mặt. Nó cầm cây lau nhà cao gấp đôi nó ra sức lau cho khô sàn nhà. Sau đó tự cởi quần áo dơ ra, xách trên tay, trần truồng chạy vô nhà tắm, hí hửng giặt đồ. Ông bà ngoại của nó nhìn vào thái độ kinh ngạc của tôi, thích thú mỉm cười. Sự việc này làm tôi cảm động vô cùng.
 
Ở rất nhiều gia đình Trung Quốc, cha mẹ giáo dục con cái thì thường phát sinh vấn đề “đại thế chiến”. Trẻ luôn luôn được ngoại nuông chiều, nội thì can ngăn, vợ chồng cãi nhau, gà bay chó chạy.

 Sau này, tôi và ông bà ngoại của Peter trong khi trò chuyện có nhắc đến chuyện này, một câu họ nói đã gây ấn tượng sâu sắc cho tôi : “Con trẻ là con cái của cha mẹ chúng, trước tiên phải tôn trọng cách giáo dục của cha mẹ".

 Đứa bé tuy còn nhỏ, nhưng thường mang tính nghịch ngợm bẩm sinh. Nếu quan sát thấy các thành viên trong gia đình có mâu thuẫn, nó sẽ nhạy bén lợi dụng sơ hở. Việc này không cải thiện hành vi của nó, và chẳng ích lợi gì cho nó. Ngược lại còn làm cho vấn đề càng nghiêm trọng hơn, thậm chí còn gây ra những vấn đề khác.
 
Ngoài ra, nếu các thành viên trong gia đình xung đột, không khí gia đình không hòa thuận, trẻ sẽ có cảm giác bất an, sự phát triển tâm lý của nó sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. Cho nên, dù ông bà cha mẹ bất đồng về cách giáo dục con cháu, hay là vợ chồng có quan niệm giáo dục khác nhau, cũng không nên để lộ sự mâu thuẫn trước mặt con cái.

 Ông bà ngoại của Peter ở lại một tuần và chuẩn bị về Cali. Hai ngày trước khi đi, ông ngoại của Peter rất nghiêm túc hỏi con gái mình: “Peter muốn chiếc xe đào đất, ba có thể mua cho nó chứ?”. Susan suy nghĩ rồi nói: “Ba mẹ lần này đã mua cho nó đôi giày trượt băng làm qùa rồi. Đợi đến Noel ba hãy mua chiếc xe đó cho nó!”
Tôi không biết ông ngoại của Peter nói như thế nào với thằng nhóc này, mà sau đó tôi dắt cháu đi siêu thị, nó chỉ tay vào món đồ chơi, khoe “Ông ngoại nói, đến Noel sẽ mua tặng cháu cái này” với giọng thích thú và mong đợi.

Susan nghiêm khắc với con như vậy nhưng Peter lại yêu thương mẹ hết mực. Khi chơi ở ngoài, cháu hay thu thập một số hoa lá mà cháu cho là đẹp rồi trịnh trọng tặng mẹ. Người ngoài tặng quà cho cháu, cháu luôn gọi mẹ cùng mở quà; có thức ăn ngon, cháu luôn để phần một nửa cho mẹ.

Nghĩ đến nhiều đứa trẻ Việt Nam coi thường và lạnh nhạt đối xử đối với cha mẹ, tôi không thể không kính phục cô con dâu Tây này của tôi. Theo tôi, cách giáo dục con cái của bà mẹ Phương Tây này rất xứng đáng để các bà mẹ Phương Đông như tôi học theo...



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jan/2011 lúc 12:13am
http://gocong.com/main/doisong/suytudongdoi/24050-nhin-qua-khung-ca-s.html - Tác Giả: ThuongHL   

http://saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/24050-nhin-qua-khung-ca-s.html -



Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 20/Jan/2011 lúc 3:26pm

BÁNH  XÈO, BÒ KHO

***Ý  Nga***

 

Thưa Ba,

Đây là lá thư thứ hai con viết cho Ba, viết không bằng ngòi chấm mực để cha con mình nhìn nét chữ nhau mà biết đang mạnh hay yếu, để nghe Ba khen, chê nét chữ xấu, đẹp. Thư này con viết bằng 10 ngón tay gõ trên phím chữ vô tri, như mỗi ngày con vẫn gõ ở văn phòng.

Đây cũng là lá thư thứ hai mà con sẽ không được Ba hồi âm, để ngắm nét chữ thật đẹp của Ba trên trang giấy

Đêm nay con nhớ Ba quá!

Con nhớ chén bò kho cuối cùng của cô Tựu mang sang mà Ba đã thức dậy hâm nóng cho con ăn lúc 3 giờ sáng:

-Để 5 giờ con ra phi trường đáp chuyến bay không bị đói, không bị đau dạ dày.

Khi con hỏi:

-Sao Ba không ngủ thêm cho khỏe?

5 giờ anh Linh mới tới chở con ra phi trường mà sao mới 3 giờ Ba đã lục đục trong bếp rồi?

Ba chỉ cười và hối con ăn cho nóng. Hai cha con mình đã chia chung một ổ bánh mì và đùa giỡn thật là vui vẻ. Tưởng chỉ là bữa ăn tạm biệt Ba tiễn con đi Cali, ai ngờ lại là bữa ăn vĩnh biệt đời đời, 2 ngày trước khi Ba giã từ

trần thế vì một cơn tắc nghẽn động mạch cơ tim cấp tính (Heart Attack)

 

Ba ơi!

Con đâu có ngờ món ăn thứ hai được Ba săn sóc cho ăn trong đời lại là món ăn cuối cùng như vậy.

Ba có nhớ khi xưa ở nhà, mỗi lần con đổ bánh xèo cho cả nhà ăn không?

Tuổi con gái, nhà đông em quá nên mỗi lần đổ bánh xèo con cực ơi là cực vì hồi đó làm gì có bột gạo bán sẵn sàng như bây giờ, con phải ngâm gạo trước một đêm cho mềm, rồi hôm sau gánh gạo đi cả nửa tiếng mới tới được nhà dì Cúc bán bánh bèo, để mượn nhờ cái cối đá của dì mà tự tay xay gạo thành bột. Cái cối nặng trình trịch mà tuổi 15 của con chưa bẻ gãy nỗi sừng trâu nên con vật lộn với nó vất vả vô cùng. Dì Cúc cũng người Quảng Nam như mình nên dì ít khi lấy tiền bạc chi cả, chẳng những thế, nhiều khi dì còn xay giùm cho nhanh để con còn khệ nệ gánh bột về nhà, đi chợ mua tôm, thịt, rau thơm và đón những người nông dân gánh cải bẹ xanh đi ngang nhà mua cho tươi. Xong phần ấy, 2 bàn tay nhỏ xíu của con lại phải lo chẻ số củi cho đủ lượng đổ bánh được 10 người ăn và nhiều chuyện vụn vặt khác như giả tỏi, ớt làm nước mắm; xắt thịt, làm tôm, giả nghệ, xắt củ hành.v.v…. nữa mới xong mâm bánh xèo cho tươm tất. Trời nóng hừng hực, mà con cứ phải ngồi hoài trong bếp từ trưa tới chiều mới kịp cho cả nhà.

Có lần tụi nhỏ đang ăn giữa bữa, con còn ở trong chái bếp với mồ hôi đang ướt đẩm lưng áo, vừa bưng gáo nước mưa uống cho hạ hỏa bớt thì Ba xuống bếp và ra lệnh:

-Con lên nhà trên ăn đi, để đó ba làm tiếp cho.

Con đã trố mắt ngạc nhiên nhìn Ba cho đến khi mệnh lệnh được nhắc lại lần thứ 2 con mới mừng quýnh mà tin rằng con được thoát cái lò lửa. Ngạc nhiên là phải, vì Ba có bao giờ làm bếp đâu? Trong nhà mình, chẳng những Ba không bao giờ đụng vô bất cứ chuyện chi của phụ nữ mà Ba còn nghiêm cấm mấy đứa em trai luôn cho nên Má và 2 chị em con phải gồng gánh mọi chuyện của cả nhà trên 3 đôi vai gầy guộc. Thật là bất công cho phụ nữ với một quan niệm hẹp hòi của  Á Đông như vậy!

Phần vì mệt và khát nước, phần vì những cái bánh Ba làm không hợp với khẩu vị của con (hồi nhỏ con chỉ thích thịt mỡ và nhiều giá trong khi làm cho con ăn, cái nào Ba cũng bỏ thật nhiều thịt nạc với tôm, hành) nhưng con cũng đã vui, được ngồi nghỉ ngơi một chút và được ăn chung với các em, dưới cái quạt máy mát ơi là mát và trên cái mâm sạch sẽ, không bóng loáng những dầu đậu phộng chung quanh.

 

Nhắc lại chuyện xưa mà con nghe như khói bếp ngày ấy hãy còn… cay mắt con đây nè.

Sau này vượt biên, sang Ý, rồi sang Canada tạm cư, sống lênh đênh một mình nơi xứ người, mỗi lần làm bánh xèo cho chồng ăn, con đều nhớ đến Ba. Từ ấy đến nay đã gần 40 năm trôi qua, nếu trí nhớ của con còn tốt thì hình như chưa có phái nam nào làm món ấy cho con ăn cả? Từ hôm ấy, con có thêm món bò kho của Ba cay… nhòe cả mắt.

 

Con đã từng nói với một người bạn thân nhất của con rằng:  điều gì dễ thương và duy nhất cũng giữ hoài nét đẹp vĩnh viễn của nó cả!

Hai lần săn sóc ấy đã là 2 dấu ấn để con nhớ đời: tình Ba thương con ngọt ngào thế nào.

Bây giờ nhà không nghèo như xưa, con lại chẳng có đứa con nào nên điều kiện để mua tôm, mua thịt nạc dễ hơn hồi xưa và con cũng không còn thích thịt mỡ nữa rồi, sao Ba không làm bánh có tôm, có thịt nạc nhiều cho con được dùng tiếp?

 

 

Ba ơi!

Đời con từ nay về sau, mỗi lần ăn bánh xèo và bò kho sẽ là một lần ngậm ngùi vì sẽ không còn ai có thể cho con hưởng được vị ngọt ngào như Ba đã cho con nữa và sẽ không có một nhà hàng nào trên thế giới này có thể cho con thưởng thức lại được sự ấm áp của tình phụ tử mà Ba đã gói ghém trong ấy.

Thôi Ba hãy ngủ ngon đi nghe Ba!

Trong giấc ngủ ngàn thu của Ba sẽ còn hoài niềm nhớ này của con.

 

Ý Nga, Canada*

Viết lại lúc 4 giờ sáng 13-1-2011.

 



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Jan/2011 lúc 8:11pm
MỘT CHUYẾN XE
 
Tác Giả: Theo Nhân Thân.   

Tôi là một tài xế taxi. Không nhiều tài xế nhận làm việc ca đêm.

 Riêng tôi, vì cuộc hôn nhân mới tan vỡ với Rachael nên tôi đồng ý. Và vị khách của đêm cuối năm ấy để lại trong tôi một ấn tượng đặc biệt.

 
Tôi nhận được lời nhắn vào lúc 2:30 sáng. Tôi dừng xe, xung quanh vẫn tối đen, chỉ trừ ánh đèn hắt ra từ một cửa sổ nhỏ ở tầng trệt. Bình thường, cũng như mọi tài xế taxi khác, tôi chỉ bấm còi một hai lần, đợi một chút, nếu vẫn chưa thấy khách ra thì lái xe đi.

Nhưng không hiểu tại sao lần này, tôi lại ra khỏi xe, bước lên bậc tam cấp. Không khéo người ta cần mình giúp, tôi nghĩ vậy và gõ cửa.
- ' Xin chờ một phút' – một giọng nói run rẩy cất lên. Sau một lát yên lặng, cửa mở. Một bà cụ nhỏ bé đứng trước mặt tôi, mặc một chiếc váy hoa, đội mũ nhỏ có mạng che mặt. Chiếc valy nhỏ đặt dưới chân.

Căn phòng phía sau lưng cụ trông như không có ai ở đã nhiều năm.Tất cả đồ đạc đều được phủ ga trắng.

- 'Cậu mang đồ ra xe giúp tôi được không?' - bà cụ hỏi. Một tay tôi nhấc chiếc valy lên, nó còn nhẹ bẫng, còn tay kia thì khuỳnh ra cho bà cụ vịn. Chúng tôi đi rất chậm ra xe.
- 'Cậu tốt quá!', bà cụ nói nhẹ nhàng mắt không nhìn vào tôi, tựa như đang nói với một ai khác.

Khi chúng tôi vào xe, bà đưa cho tôi địa chỉ cần tới và nói:
- 'Cậu có thể đi xuyên qua khu chợ cũ được không?'
- 'Nhưng đó không phải là đường ngắn nhất, cụ ạ!'
- 'Tôi không vội mà!'. Ngừng lại một lát, bà nói tiếp:' Tôi đang đến viện dưỡng lão!'

Mắt bà long lanh: 'Thế cũng tốt! Ðằng nào thì bác sĩ cũng nói rằng tôi không còn sống được bao lâu nữa.'
Tôi tắt đồng hồ đo cây số và hỏi: 'Ðầu tiên cụ muốn cháu đưa đi đâu?'

Hai tiếng đồng hồ, chúng tôi đi lòng vòng quanh thành phố. Bà cụ chỉ cho tôi tòa nhà bà từng làm việc, khu chung cư vợ chồng bà đã thuê khi họ mới cưới.

Bà bảo tôi dừng lại trước một cửa hàng nội thất nơi trước đây là sàn nhảy, bà vẫn đến khiêu vũ khi còn thiếu nữ. Thỉnh thoảng bà bảo tôi đi chậm qua một tòa nhà hay một góc phố đặc-biệt-nào-đó dừng lại trong bóng tối và im lặng.

Khi những ánh mặt trời đầu tiên xuất hiện phía chân trời, bà cụ đột nhiên nói 'Tôi mệt rồi, chúng ta đi thôi.'

Chúng tôi tới địa chỉ mà bà cụ đưa cho tôi mà không nói thêm câu nào. Ðó là một viện điều dưỡng dành cho những người già không nơi nương tựa. Hai người hộ lý và một chiếc xe lăn đã chờ sẵn ngoài cổng. Bà cụ dừng bước, vừa rút ví ra, vừa hỏi tôi, dịu dàng: - 'Tôi phải trả cậu bao nhiêu?'

- 'Không gì cả, cụ ạ!' - Tôi nói
- 'Cậu cũng phải kiếm sống mà' - Bà cụ hỏi, giọng vẫn dịu dàng, tuyệt nhiên không có chút ngạc nhiên nào.
- 'Sẽ còn những hành khách khác mà cụ' - Tôi trả lời.

Bất giác, tôi cúi xuống ôm lấy bà cụ. Bà cũng ôm chặt tôi.
- 'Cậu đã cho tôi rất nhiều' - Bà cụ nói - ' Cám ơn cậu'.

Tôi siết nhẹ tay bà cụ rồi quay ra. Trời vẫn còn mờ tối. Sau lưng tôi, cánh cửa viện điều dưỡng đã đóng lại. Ðó cũng là âm thanh khép lại một cuộc đời.

Cả ngày hôm đó tôi không đón thêm một hành khách nào nữa, tôi lái xe đi lang thang, đắm chìm trong suy nghĩ, rồi băn khoăn tự hỏi: Ðiều gì sẽ xảy ra nếu bà cụ gặp một tài xế dữ dằn, hoặc đang nóng vội trên chuyến xe cuối cùng?

Ðiều gì sẽ xảy ra nếu tôi bóp còi rồi bỏ đi hoặc từ chối tuyến đường đặc biệt của bà cụ?

Và bất giác tôi cảm thấy mình hạnh phúc xiết bao... Ít ra tôi hiểu rằng sự cô đơn trong trái tim của một người từng bất hạnh như tôi vẫn còn rất nhiều yêu thương. Và vì thế mọi cánh cửa vẫn chưa hề khép lại

(Nguồn hình: Nursing Homes, Google)
 



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Jan/2011 lúc 4:52am
NGUYỆN LÀM ĐÔI CHÂN CHO CON
 
http://www.youtube.com/watch?v=yNtBs7NyjIA -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Feb/2011 lúc 8:03am
  /main/vanhoc/tuybut/24059-hnh-ng-u-nm.html -
Tác Giả: Trần Trung Đạo   
Thứ Sáu, 04 Tháng 2 Năm 2011 00:00
 
 Một đời không hẳn là dài, một ngày không hẳn là ngắn, nhưng là những gì được đóng khung trong ký ức sau khi hầu hết đã phôi phai.

Chúng ta, những giọt nước chảy trong cùng một giòng sông, cùng trôi qua những bến bờ, có lúc êm đềm, lắm khi ghềnh thác, rất riêng tư, xa cách nhưng cũng vô cùng gần gũi. Có thể lúc nào đó không nhận ra nhau, không tìm thấy nhau, hay quên nhau đi, nhưng nếu còn duyên, rồi một ngày sẽ gặp lại nhau như tôi đã gặp lại bà Vú, chủ quán Cà Phê Bà Vú ở đầu hẻm 220 Trương Minh Giảng, Sài Gòn trong ngày đầu năm dương lịch ở Atlanta.

Nhớ lại hơn hai năm trước, tôi đến Atlanta tham dự một chiều thơ nhạc. Chương trình khá dài. Đến cuối chương trình, đa số khán giả đã lần lượt ra về, tôi nhìn xuống, ngoài thân hữu văn nghệ, vẫn còn một gia đình đồng hương, có vẻ xa lạ với các sinh hoạt thơ văn, ngồi im lặng như đang chờ ai ở phía cuối hội trường. Thì ra họ chờ tôi.

Người đàn ông dắt theo hai con còn nhỏ. Anh đưa một bài thơ được in ra từ internet và hỏi tôi về sự tích bài thơ. Dĩ nhiên tôi biết vì là tác giả của bài thơ đó. Bài thơ tôi viết để tưởng nhớ bà Vú, chủ quán cà phê ở đầu hẻm 220 Trương Minh Giảng, bên hông đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Anh tự giới thiệu là con trai của Vú. Cô bé đứng cạnh anh với cặp mắt đỏ hoe báo tôi biết “Bà nội qua đời rồi chú ạ”.

Anh trao cho tôi vài tấm hình của Vú chụp vào tháng 6, 2003. Tôi bồi hồi nhìn ảnh Vú. Tôi không nhớ chính xác mình viết bài thơ ngày nào nhưng chắc cũng vào thời điểm đó. Khi viết bài thơ, tôi đoán chừng tuổi Vú và có linh cảm Vú đã qua đời nên mới có hai câu cuối cùng “Nơi Vú ở không bạc tiền vẫn sống / Nén hương lòng con trả Vú bằng thơ”. Vì thấy một số khá đông người cũng đang chờ gặp tôi nên anh và các cháu vội chào từ giã. Khi anh và các cháu đi rồi tôi mới chợt nhớ ra mình sơ sót, chưa kịp hỏi Vú mất ngày nào và chôn cất ở đâu.

Tôi mang tấm ảnh về lại Boston và trưng bày trang trọng trong website của tôi với hàng chữ: “Vừa chính thức biết tin Vú đã qua đời, chúng con, cựu sinh viên đại học Vạn Hạnh thắp nén hương lòng tưởng niệm Vú. Dù không dạy môn nào và chưa hề đi học ở Vạn Hạnh, Vú đã là một phần của huyền thoại Vạn Hạnh”.

Tết Dương Lịch năm nay, tôi trở lại Atlanta lần nữa để tham dự một sinh hoạt của bà con Quảng Nam Đà Nẵng. Hội Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẵng ở Georgia tròn 15 tuổi. Khi tôi vừa bước xuống khỏi sân khấu sau khi phát biểu vài lời, một chị khoảng ngoài 60 tuổi đến gặp tôi và tự giới thiệu là con gái đầu của Vú, chủ quán cà phê đầu hẻm 220 Trương Minh Giảng. Tôi thật mừng. Lần trước gặp con trai của Vú và nay thì được gặp con gái Vú. Chị đến tìm tôi không phải chỉ vì tôi là tác giả bài thơ, điều đó chị và gia đình đã biết, nhưng quan trọng hơn, ngày Tết Dương Lịch cũng là ngày giỗ của Vú. Chị gặp để mời tôi đi đám giỗ Vú. Tôi rất vui đón nhận một nhân duyên thật tốt lành vừa đến.

Khi tôi đến cả gia đình rất mừng như đón một người thân vừa từ xa trở về trong ngày giỗ Vú. Tấm hình trên bàn thờ chụp khá lâu nên rất giống Vú thời còn vất vả ngoài hẻm 220. Vú mất vào ngày cuối năm của 2003 và được an táng ở Atlanta. Gia đình cho biết, Vú ngã bịnh sau lễ Giáng Sinh, được đưa vào bịnh viện, chỉ 5 ngày thì Vú ra đi trong nhẹ nhàng thanh thản. Sau hơn 35 năm, sợi nhân duyên kỳ diệu đã nối kết chúng tôi lại với nhau dù ở một nơi cách con hẻm 220 Trương Minh Giảng nhiều ngàn dặm và trong hoàn cảnh kẻ còn người mất.

Tôi cũng gặp lại cô bé bưng cà phê cho chúng tôi mỗi sáng, bây giờ, đương nhiên không còn là cô bé nữa. Chúng tôi không nhận ra nhau vì ngày đó cô mới khoảng 13,14 tuổi. Thời gian đã phủ nhiều bụi trắng lên mái tóc của mỗi chúng tôi nhưng kỷ niệm thì không. Chúng tôi và các anh chị trong gia đình đều nhớ rõ từng chi tiết của một thời thân thương nhưng cũng đầy sóng gió đã qua.

“Cô bé” kể lại những ngày còn khỏe Vú thường nhắc đến chúng tôi, không phải do chuyện nợ nần đã trở thành sương khói mà bởi vì chúng tôi là một phần trong đời sống vui buồn của Vú. Sau Mậu Thân, tại đầu con hẻm 220 Trương Minh Giảng, bên hông đại học Vạn Hạnh, là nơi Vú đã cất lên chiếc quán cà phê bằng hai tấm vải ny-lông nối hai đầu một chiếc xe đẩy. Quán không có tên. Chúng tôi cũng không biết tên thật của Vú nên chỉ gọi là Cà Phê Bà Vú. Mà dù có biết tên thật, theo truyền thống Vạn Hạnh, có lẽ chúng tôi cũng đã gọi bà là bà Vú như chúng tôi gọi Hòa Thượng Viện Trưởng là ông ngoại. Cả hai cách gọi đều có tính gia đình, rất gần gũi, rất thương yêu nhưng không thiếu phần tôn kính.

“Cô bé” cũng kể, trước ngày đi khỏi Việt Nam Vú đã xé bỏ cuốn sổ “Đoạn Trường” ghi ngang dọc mấy trăm tên con nợ, dĩ nhiên trong đó có tên tôi. Thật ra, nợ tiền nhà và cơm tháng thì nhiều nhưng nợ cà phê cà pháo thường không là bao nhiêu. Con nợ của Vú đa số là sinh viên đến từ các tỉnh. Dân có gia đình ở Sài Gòn như tôi chỉ thiếu một vài ngày là trả hết. Tôi còn nhớ rất rõ, sổ nợ là cuốn vở xích-lô 100 trang, trên gáy vở Vú xoi một lỗ nhỏ và móc vào đó một sợi dây. Vú treo “cuốn sổ đoạn trường” trên đầu xe đẩy để vừa khỏi bị ướt và vừa dễ lấy xuống khi cần. Nhìn cuốn sổ đong đưa những tên thiếu nợ nhiều chỉ thầm mong nước sôi văng trúng tên mình. Mỗi khi ký sổ bọn tôi còn phải giúp Vú dò tên con nợ. Nhiều đứa biết chính xác tên mình được Vú đánh vần sai ra sao, viết màu gì và nằm trong trang thứ mấy. Bên kia đường cũng như chung quanh chợ Trương Minh Giảng có nhiều quán cà phê khang trang hơn và ngay cả phòng ăn của trường trên lầu hai cũng sạch sẽ hơn, nhưng như một thói quen chúng tôi chỉ thích chen chúc nhau ở quán cà phê của Vú.

Ngày đó Trung Tâm Ngôn Ngữ đã xây xong nhưng hàng rào thì chưa. Chúng tôi ngồi dọc theo những cột xi-măng chạy từ đường Trương Minh Giảng cho đến tận bên trong hẻm. Những chiếc bàn sắp dọc theo bờ tường xiêu vẹo. Buổi tối Vú không đẩy xe về mà chỉ hạ hai tấm ny-lông xuống che chiếc xe chất đầy bàn ghế. Tôi hay chọc Vú cười và thường phàn nàn khi Vú quên chấm một chút bơ vào ly cà phê sữa nóng của mình nên nếu còn sống có thể Vú nhận ra thằng sinh viên ốm yếu có giọng Quảng ồn ào ngày xưa.

“Cô bé” kể có lần Vú về Việt Nam và ghé thăm góc hẻm 220 đầy kỷ niệm. Cả gia đình Vú ngồi ngay tại nơi chúng tôi đã ngồi ngày trước. Vú không nói ra nhưng hẳn đã thầm tự hỏi “không biết đám sinh viên nghèo đó bây giờ ra sao”. Tôi chưa về nhưng cũng đã nhiều lần ngồi như Vú để lắng nghe từng giọt cà phên đen nhỏ xuống đời mình và cũng bâng khuâng tự hỏi “không biết Vú già xưa bây giờ ra sao”.

Quán cà phê của Vú tuy không nằm trong khuôn viên trường và hẳn nhiên không thuộc quyền quản trị của Hội Đồng Viện nhưng mỗi khi nhắc đến trường cũ, chúng tôi không quên nhắc đến quán cà phê trong cùng một cảm tình như khi nhắc đến thư viện, thiền viện, phòng văn mỹ nghệ, trung tâm sinh hoạt sinh viên, trung tâm ngôn ngữ, giảng đường 18, giảng đường 19. Trên những chiếc ghế vuông nhỏ nhoi đó, những sinh viên Vạn Hạnh, từ những nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, những cây vợt bóng bàn nỗi tiếng cho đến những người ngày đó không ai biết như tôi, đã ngồi, đã đứng dậy và ra đi theo chọn lựa riêng của mình. Dù góc biển chân trời, và ngay cả dù không cùng một chí hướng, trong lòng vẫn còn một chút tình giữ lại cho nhau, tình Vạn Hạnh.

Ngày Tết Dương Lịch ở Atlanta, tôi thay mặt bạn bè, thắp nén hương trước bàn thờ hương linh Vú và thưa nhỏ “Con đến thăm Vú”. Tôi thật xúc động, không phải vì đau buồn mà vì nghe từ đáy lòng mình đang dâng lên một niềm vui rất lạ. Cả gia đình với rất đông con cháu của Vú cũng thế. Chúng tôi kể nhau nghe nhiều chuyện vui như có Vú đang ngồi đâu đó trong phòng, lắng nghe và mỉm cười. Vú đã ra đi. Vâng, một ngày nào đó tôi cũng thế, nhưng sợi dây nhân duyên không vì chuyện sống chết mà đứt đoạn. Sợi dây tình người đã và đang nối dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho quê hương và cho dân tộc Việt Nam.

Tôi có ý định ra thăm mộ Vú nhưng hôm đám giỗ Vú trời mưa quá lớn. Nhìn những hạt mưa rơi trên đường về lại hội trường, tôi chợt nghĩ, những giọt nước kia phải chăng đã một lần nhỏ xuống tấm ny-lông che quán cà phê nghèo nàn của Vú ở đầu hẻm 220 Trương Minh Giảng, đã hòa vào dòng kinh đen Nhiêu Lộc, đã trôi xa, bốc thành mây và cuối cùng đã tìm được ra nhau giữa xứ người xa lạ trong buổi hạnh ngộ đầu năm. Và tôi chợt nhớ tha thiết một quán cà phê khác, trong một thành phố khác.

Dưới đây là bài thơ về quán cà phê bà Vú.

Nhớ Café Bà Vú ở Đại Học Vạn Hạnh

Cuốn vở xích-lô dày đúng 100 trang
Ghi ngang dọc mấy trăm tên con nợ
Có con nợ đã bỏ đi
Có con nợ còn ở lại
Có con nợ vừa trả xong
Có con nợ ….cười trừ.

Cuốn Sổ Đọan Trường trông cũng dễ thương
Nhưng có khối kẻ chưa nhìn đã sợ
Thầm ước: “Tối nay trời mưa trôi dùm ông con số nợ
để sáng mai ông hiên ngang làm lại cuộc đời.”
Những chiếc ghế thấp, bàn vuông, chen lấn nhau ngồi
Trung bình một tách Café, 4 bình trà nóng
Vú vẫn vui như người mẹ hiền kiên nhẫn
Gắng gượng nhìn đàn con (nợ) ký sổ mỗi ngày.

Những con nợ nghèo nhưng thích sống trên mây
Nợ Vú trả chưa xong đã bàn nợ nước
Chưa ra khỏi nhà đã tả cảnh núi rừng xuôi ngược
Vá túi chưa xong nhưng toan tính chuyện vá trời
Tương lai cụt dần như con hẻm 220
Quá khứ đen như con kinh Nhiêu Lộc bốc mùi hôi quanh năm suốt tháng
Chiều mưa lớn nước ngập chân cầu Trương Minh Giảng
Hai tấm ny-lông không đủ che quán Vú nghèo nàn.

Những đứa con (nợ) của Vú ngày nào
Lần lượt đi xa
Đứa xuống phố làm quan
Đứa lên rừng làm giặc
Đứa làm báo, làm văn, làm nhạc, làm thơ, làm tiền, làm luật
Đứa thích đấu tranh nên được làm tù
Buồn cuộc đời cũng có đứa đi tu.

Đôi lúc tình cờ như những chiếc lá thu
Dăm con (nợ) trở về thăm
Ngõ hẻm còn đây
Quán Café đã vắng
Nước vẫn chảy qua cầu Trương Minh Giảng
Mà Vú già xưa như mấy trắng phương nào.

Những con nợ nghèo giờ biết ra sao
Có còn nhớ một thời áo cơm lận đận
Nhớ Thiền Viện, Thư Viện, Giảng Đường, người yêu, bè bạn
Nhớ người đi và nhớ kẻ không về
Tiếng nhạc buồn, ai hát để ai nghe?

Cuốn vở xích-lô dày đúng 100 trang
Cho con trả Vú hết cả lời lẫn vốn
Vú mỉm cười: “Nơi Vú ở không bạc tiền vẫn sống”
Nén hương lòng, con xin trả Vú bằng thơ.

 



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Feb/2011 lúc 9:25pm

Cái nhìn khắc khoải

Truyện Nguyễn Ngọc Tư

 Hướng Dương diễn đọc

http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=400274 -

-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Feb/2011 lúc 5:53pm
CHỊ TÔI
TRÂN THỊ ÚT

18 tuổi chị đẹp như hoa phù dung, nhiều nơi hỏi cưới không thèm.
26 tuổi, mẹ sợ chị ế chồng gả vội vàng cho anh bán củi tận Vành Hưng.
30 tuổi, má hóp, da đen, tay xách, nách mang ba đứa nhỏ về quê, mắt chị buồn xa vắng. Ba không chứa vì cái câu Trong nhờ đục chịu , xuất giá tùng phu .
42 tuổi, chị từ giã cõi đời với căn bệnh ung thư, mang vào lòng đất lạnh xa xôi lời ru của mẹ: Má ơi đừng gả con xa... .


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 18/Feb/2011 lúc 6:05pm
 
 
Thơ văn Việt Nam sao buồn quá vậy!
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Feb/2011 lúc 7:48pm
/main/doisong/suytudongdoi/24814-toi-rt-t-hao-c-sng--m-.html -
Tác Giả: Thùy Vân   
Thứ Bảy, 26 Tháng 2 Năm 2011 05:36

Tôi không quên nguồn gốc mình là người Việt Nam nhưng tôi cũng sẽ không làm kẻ vong ơn, ăn cơm, uống nước của Mỹ nhưng luôn miệng che bôi Mỹ.


 
 
Gần đây tôi có đọc được nhiều những bài viết nói về cuộc sống của người Việt trên đất  Mỹ khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Ở bất kỳ đất nước nào trên thế giới, phàm là con người  đều phải đi làm  mới có ăn . Những người lười biếng, thì cuộc đời của họ sẽ phải chịu thiệt thòi .Giầu và nghèo thì không có nước nào mà không có hai tầng lớp này, bởi vì chẳng nơi nào chỉ có toàn người giầu và chẳng nơi nào chỉ có toàn người nghèo cả. 


Tôi đã theo cha mẹ qua Mỹ khi 20 tuổi và bây giờ chỉ còn hai năm nữa thì tôi được 40.

 
Như vậy có nghĩa  tôi đã  ở Mỹ một thời gian khá dài. Phải nói rằng trong lòng tôi luôn cám ơn đất nước Mỹ đã cho tôi cơ hội đến trường mà không phải lo sợ không có tiền để đóng học phí , cám ơn Mỹ đã cho các em  tôi cơ hội để cầm mảnh bằng Dược Sỉ  trong tay, và cám ơn nước Mỹ đã cho anh em chúng tôi cơ hội kiếm được  công việc làm khá tốt.


Tất cả những điều có được ngày hôm nay là do sự cố gắng vươn lên của chính bản thân mỗi cá nhân chúng tôi, bố tôi , mẹ tôi . Muốn đạt tới sự vinh quang không phải là ngồi một chỗ than trách hoặc lười biếng mà có được.

 
Sau hơn mười năm tù cộng sản , bố tôi đi Mỷ với hai bàn tay trắng , đầu tắt mặt tối đi làm bất cứ việc gì kiếm được , cả bố lẫn mẹ , không hề than thở .Bố tôi rất ít nói , thỉnh thoảng có nói gì thì cũng không ngoài mấy lời động viên các con nên chăm lo học tập và một mực khước từ đề nghị của chúng tôi đi làm giúp gia đình . Hồi ấy thỉnh thoảng có đôi người bạn già đến thăm bố tôi , câu chuyện qua lại loáng thoáng tôi nghe được " thằng Mỷ khốn nạn " . Tôi cũng hiểu ít nhiều là người Mỷ đã đành đoạn bỏ rơi VN năm 75 . Lâu lắm , thấy cuộc sống trong gia đình tương đối ổn định , tôi yên tâm lo học và cũng chẳng còn quan tâm đến mấy tiếng thằng Mỷ khốn nạn nữa .


 
Cho đến gần đây khi các em tôi lần lượt cầm được mảnh bằng Dược sỉ trong tay tôi lân la trò chuyện với bố tôi , tôi mới phát hiện thêm một điều : bố tôi không còn trách Mỷ bỏ rơi VN nữa vả lại bố tôi cũng đã nhận ra rằng chính con cái mình bây giờ cũng đã hiểu rằng đường lối của Mỷ xưa nay vẫn chỉ là quyền lợi của Mỷ mà thôi , bây giờ bố́ tôi lại tỏ ra xót xa cho nước Mỷ khốn nạn , khốn nạn đã cưu mang không ít một mớ người vong ân bội nghĩa ! Ở điểm này , tôi thật tình chua chát mà rất tâm đắc với bố tôi .

Lục lọi trong ký ức tôi còn nhớ có lần , lúc mới qua Mỷ được một thời gian , đi đâu về , bố tôi tỏ thái độ bực bội về một phát biểu của một người bạn HO của bố " Biết tụi Mỷ đem con bỏ chợ như thế này thì tau đâu có thèm đi ..."


Tôi miên man suy nghĩ không hiểu nước Mỷ đã nợ người VN những gì mà bây giờ cam nhận những lời trách móc , chửi rủa thậm tệ nào là qua Mỷ di làm cực quá , về hưu không còn đủ sức khỏe để hưởng hưu . Thậm chí có những người mà tôi biết rất rõ họ không đi tù , qua đây do con bảo lảnh , ráng hết sức cho có quốc tịch Mỷ thế là đã có thừa điều kiện hưởng SSI mà chưa hề một ngày đi làm đóng thuế , đã nở nhẩn tâm mở miệng rằng " DM...có mấy trăm bạc mà bày đặt bao nhiêu giấy tờ , hành xác mình hết chỗ nói..."

Rất nhiều người Việt vượt biển , vượt biên qua Mỹ trước kia đã thành công, có nhà cửa và có tương lai sự nghiệp vững chắc.  Nước Mỹ không hề bắt buộc , thúc ép chúng ta đi , mà chỉ vì nặng tình nghĩa đồng minh , ra tay cứu vớt , tạo điều kiện cho chúng ta nối tiếp nhau , liên tục có mặt tại đây qua biết bao nhiêu diện di dân . Chính phủ và nhân dân  Mỷ đã dành cho chúng ta bao nhiêu chương trình ưu đải , có nơi ăn chốn ở , có công việc làm , con cái đỗ̃ đạt , tương lai huy hoàng . Như vậy đủ biết xã hội Mỹ đã tốt đến thế nào đối với chúng ta.

Nhìn cho kỷ thêm chút nữa , thử hỏi trong chúng ta , những người sang đến Mỷ khắp các diện , các thành phần , đang có cuộc sống đầy đủ  ở Mỷ liệu đã có thành thật hội đủ những tiêu chuẩn chính đáng do thủ tục nhập cảnh đòi hỏi hay không , có chắc chắn không vi phạm những điều lệ hưởng các loại trợ cấp hay không .

Tôi nghĩ rằng người Mỷ đả từng chinh phục được không gian , lẻ nào họ lại không biết có không ít những mánh khóe dối gian nhưng họ cứ nghĩ rằng chỉ cần tin vào một lần giơ tay tuyên thệ , một lời cam đoan đơn giản là đủ rồi .

Như vậý có bao giờ chúng ta thử gác tay lên trán , nhìn lại mình trước cái cao thượng của người Mỷ, quan sát chung quanh, trước khi có những than phiền chê trách Mỷ, chửi đổng nước Mỷ .

Về trở lại Việt nam ư ? Việt Nam là quê hương ngàn đời của mình , có ai chối cải , về VN , đâu có ai  cấm đoán nếu không phải là chính mình ? Mỷ tồi , Mỷ bóc lột , Mỷ cực thì ai bắt buộc mình phải bám víu Mỷ làm gì ?

Tại sao mình không chịu nói lên sự thật rằng mình đang hối tiếc cái quá khứ mà mình đã tôn thờ như một thời vàng son , một thời oanh oanh liệt liệt . Tất cả cái quá khứ vàng son đó đã không mang theo đuọc theo với vận nước một thời . Sang đây bổng đôi khi thấy mình bị : " perdu dans la m***e " cảm thấy như hụt hẩng khi nhìn chung quanh thấy nguòi ta ...hơn mình ....

Thế nên bèn ra sức chiêu đải một số chọn lọc trong đám bạn bè , đứa nào còn giử được chút phong độ hào nhoáng của ông cựu trung tá , ông cựu giám đóc , ông cựu trưởng ty thì tạo cách năng lui tới để cùng nhau đánh bóng cái vang bóng một thời ! Không được , buồn quá , phải nghĩ đến chuyện trở về VN để mong đập gương xưa tìm hình bóng cũ !

Thì cứ mạnh dạn nói một tiế́ng GOOD BYE , nào có ai buồn cấm cản .

Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì?

Căn cứ theo báo cáo cũng như từng đọc báo chí thì tôi thấy cuộc sống ở VN khó khăn gấp vạn lần bên Mỹ. Thử hỏi một kỹ sư hóa học ra trường kiếm được bao nhiêu tiền một tháng?  Ngay cả tầng lớp trí thức như giáo sư người đã cho sinh viên kiến thức, mà còn nghèo khổ đi làm thêm ban đêm để có đủ tiền nuôi vợ con đó thôi

Những người giầu bên VN đa số thuộc thành phần nào chúng ta đã thừa biết, chúng ta không thể nào so sánh cuộc sống của người Việt tại Mỹ với cuộc sống của người Việt tại quê nhà được vì đây là hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau.

Nước Mỹ không phải là thiên đường nhưng nó đã giúp cho người Việt chúng ta ở đây có rất nhiều cơ hội, mà nếu ở VN thì chắc chắn họ sẽ không bao giờ có được, trừ khi họ có thân nhân trong guồng máy chính quyền .

Tôi không quên nguồn gốc mình là người Việt Nam nhưng tôi cũng sẽ không làm kẻ vong ơn, ăn cơm, uống nước của Mỹ nhưng luôn miệng che bôi Mỹ.

Tôi rất tự hào khi được sống ở bên Mỹ! 



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Mar/2011 lúc 8:31am

TÀI KHOẢN VÔ GIÁ


Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào tài khoản của bạn 86.400 USD ( € ngon hơn :) ).

Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác.

Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Bạn sẽ phải làm gì ?
Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên !Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.

Tên ngân hàng là THỜI GIAN.
Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây.
Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất,
thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt.
Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.
Cũng không cho phép bạn bội chi.
Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.
Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.
Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày,
người bị mất chính là bạn.
Không có chuyện quay lại ngày hôm qua.
Không có chuyện tiêu trước cho "ngày mai"
Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.
Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó,
để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !
Đồng hồ vẫn đang chạy.
Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.


Để biết được giá trị của MỘT NĂM,
hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.

Để biết được giá trị của MỘT THÁNG,
hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.

Để biết được giá trị của MỘT TUẦN,
hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.

Để biết được giá trị của MỘT GIỜ,
hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.

Để biết được giá trị của MỘT PHÚT,
hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.

Để biết được giá trị của MỘT GIÂY,
hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.

Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,
hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.
Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !
Và hãy nên quý thời gian hơn nữa

bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc biệt đối với bạn,
đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.
Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.
Ngày hôm qua dã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.
Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là
PRESENT !
( có nghĩa là HIỆN TẠI, mà cũng có nghĩa là QUÀ TẶNG ).
Bạn bè thật sự là một loại nữ trang quý hiếm.
Họ khiến bạn mĩm cười và khuyến khích bạn thành công.
Họ lắng nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng,
và họ luôn muốn mở trái tim ra với chúng ta.
Hãy gởi những lời này đến với ai mà bạn xem như BẠN MÌNH,
Và nếu những dòng này lại trở về với bạn,
bạn ắt biết rằng bạn đang có một vòng tròn bạn hữu.

 


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Mar/2011 lúc 12:02am
CHỒNG NAM VỢ BẮC
Tác Giả: Nguyễn Thị Thanh Dương   
Chúa Nhật, 06 Tháng 3 Năm 2011 13:49

Tôi lấy vacation nghỉ ở nhà 3 ngày để dưỡng sức vì bị cảm từ mấy ngày trước.

 Ba ngày ở nhà tôi tha hồ ngủ muộn dậy trễ và lên net vui chơi với bạn bè. Có nhóm bạn bè cùng lớp thời trung học là thân nhất, chúng tôi gặp nhau hàng ngày, ngoài thông tin liên hệ tới trường cũ bạn xưa nếu có, hầu hết chúng tôi hỏi thăm nhau, kể chuyện mình, chuyện đời và vui đùa qua lại. Thời buổi thông tin điện tử vừa nhanh vừa tiện lợi.

Sáng hôm nay chúng tôi có đề tài “Kiếp sau tôi sẽ thay chồng, đổi vợ không?” nhiều bạn hăng hái trả lời sẽ lấy chồng khác, vợ khác để …thay đổi không khí, bạn Nguyễn Trung Trực đã xuất thần làm ngay 2 câu thơ dù cả đời chẳng làm thơ bao giờ:

           “Một kiếp đã oải lắm rồi,
            Lấy thêm kiếp nữa đời tôi còn gì?”

Và một bạn khác cũng đồng tình:

           “ Một kiếp đã chán thấy bà,
             Lấy thêm kiếp nữa chắc là tiêu luôn”

Nhưng vài người quyết chí kiếp sau sẽ lấy lại người phối ngẫu hiện tại của mình. Tôi cũng thế, sẽ lấy lại người chồng Nam Kỳ hiền lành đã dám kết duyên cùng tôi cô em Bắc Kỳ chanh chua đanh đá.

Ngày xưa anh Bông quen tôi đúng là duyên kỳ ngộ, không tìm nhau mà gặp nhau. Anh hay đến thăm một người bạn ở cùng xóm tôi, lần nào anh cũng gặp tôi đang ngồi ăn bún riêu xì xụp ở đầu con hẻm. Nhờ tật ăn hàng thường xuyên ấy mà anh nhớ mặt tôi và tò mò làm quen. Khi đã quen nhau anh chọc quê tôi:

-         Xóm này có nhiều con hẻm giống nhau, nhưng nhờ có em ngồi ăn bún riêu nên anh biết chắc mình không lộn.

Tôi đã bẻn lẻn và chọc lại anh:

-  Tại em thích ăn bún riêu cua với rau kinh giới, nên thành ghiền luôn. Hôm nào em nghỉ ăn bún riêu cho anh đi lạc sang ngõ hẻm khác cho biết thân..

Quê anh Bông ở Cần Thơ gạo trắng nước trong, ruộng vườn bát ngát, cây trái xum xuê, anh là công tử miệt vườn của xứ Tây Đô.

Mẹ tôi không tán thành cho tôi kết duyên với anh, bà thành kiến với trai miền Nam, chỉ thích ăn nhậu, sinh ra đánh vợ đánh con và nhất là tiêu xài hoang phí, không biết phòng xa cho tương lai, lấy nó thì đời con nghèo mạt rệp, hạnh phúc chẳng dài lâu. Thà tôi lấy người miền Trung, xứ khô cằn sỏi đá nhưng sản xuất ra nhiều nhân tài, chịu thương chịu khó làm ăn và căn cơ tằn tiện …cao tay hơn cả dân miền Bắc thì bà yên chí đời tôi ấm no, hay tôi lấy đồng hương miền Bắc thì tốt nhất vì giống nhau mọi thứ, sẽ thông cảm nhau.

Nhưng mẹ tôi đâu biết rằng tôi đã “kết” anh Bông rồi, nghe anh tả vườn trái cây nhà anh tôi đã mê tơi, chỉ mong được về quê anh trèo hái trái cây và ăn cho thỏa thích, những trái mận, trái soài ngọt lịm ngon lành, mà dù có chua thì chấm muối ớt cũng ngon luôn.. Còn chuyện tính tình thì tùy từng người, chứ đâu phải trai miền Nam nào cũng hư như mẹ tôi nghĩ.

Tôi đã hứa với mẹ:

- Mẹ yên tâm, anh ấy là dân Cần Thơ hay bất cứ vùng Nam Kỳ Lục tỉnh nào, hay dân miệt vườn Nam bộ Hốc Môn Bà Điểm 18 thôn vườn trầu đi chăng nữa mà vào tay con, con sẽ huấn luyện thành Bắc Kỳ nhà mình ngay.

Cuối cùng mẹ tôi cũng phải đồng ý, bà lo âu dặn dò:

-         Vậy con phải học làm ruộng, làm vườn mà gánh vác giang sơn nhà chồng.

Tôi yêu vườn ruộng nhà anh, tôi yêu anh, dù trước đó những đồng hương Cần Thơ của anh đã lừa đảo tôi hai cú thật đẹp..

Sau năm 1975 có lần mẹ tôi sai tôi đi Cần Thơ thăm một gia đình họ hàng làm ăn ở đó. Khi về tôi có ghé chợ tại bến Ninh Kiều để mua trái cây về Sài Gòn làm qùa. Tôi đã chọn lựa kỹ từng qủa soài, một chục soài 14 qủa, ( người miền Nam hào phóng thế đấy, đã gọi là “một chục” đáng lẽ ra là 10 mà thành 14) Bà bán hàng để vào túi giấy ngay trước mắt tôi. Vậy mà bà phù phép sao đó về nhà đếm lại chỉ có 12 qủa mà lại có mấy qủa soài hư. Tôi vừa tức giận vừa…kinh ngạc bái phục bà bán hàng soài sát đất. Hay là bà đã tốt nghiệp nghề ảo thuật trước khi ra chợ bán hàng ?

Chưa hết, khi ra bến xe đò về Saì Gòn, thấy phòng bán vé đông nghẹt người, tôi biết sức mình không chen lấn nổi với người ta, đành tìm mua vé chợ đen, thì có một anh lơ xe túm áo tôi mời mọc lên xe với gía cả đắt gấp đôi gía chính thức. Tôi đồng ý miễn là khỏi bon chen và được về sớm, anh hướng dẫn tôi lên xe ngồi xong đòi tôi trả tiền để anh còn chạy đi kiếm thêm những khách khác cho mau đủ chuyến.

Tôi trả tiền và thong thả ngồi ngắm thiên hạ đang lu bu ngoài bến xe mà thương cho họ, thà  chịu hi sinh tốn thêm tiền như tôi cho khỏe tấm thân.

Khi hành khách đã đầy và xe bắt đầu chạy thì một anh lơ xe khác đến thu tiền từng người. Tô mới giật mình biết mình đã bị lừa, anh lơ xe lúc nãy là tên lưu manh lường gạt nào đó, anh lơ xe này mới là thật. Thế là tôi lại phải trả tiền xe gía chợ đen thêm một lần nữa.

Mẹ tôi qúa lo xa, vì vợ chồng tôi sống ở Sài Gòn, tôi không phải làm ruộng làm vườn, nhưng quản lý một anh chồng Nam Kỳ theo …truyền thống Bắc Kỳ nhà mình, theo đúng ý mình cũng vất vả lắm.

 Mẹ tôi nói linh qúa, anh Bông vừa ăn xài rộng rãi vừa thích nhậu nhẹt lu bù.

Mới lấy nhau tôi đã thấy làn ranh Nam Bắc ngay trong nhà mình, trong cách ăn uống, cách suy nghĩ và trong từng lời ăn tiếng nói của hai vợ chồng. Bố mẹ tôi người Bắc, di cư vào Nam lại sống trong khu xóm toàn người Bắc, nên tôi vẫn nguyên vẹn là con gái Bắc cả từ ăn nói đến cách sống ở đời.

Bài học vỡ lòng tôi dậy anh là dẫn anh vào bếp chỉ từng món một:

-         Anh ơi, đây là cái “ bát” và cái “thìa”, anh đừng gọi là cái “chén” và cái “muỗng” nữa nhé.

Anh nhanh nhẩu:

-         Biết rồi, còn cái “gía” múc canh kia kêu là cái “môi” chứ gì?

Tôi không hài lòng:

-         Đấy, sao anh lại nói tiếng Nam “kêu là” phải “gọi là” như tiếng Bắc em chứ. Em đã nói rồi, hai vợ chồng sống chung cả đời với nhau dưới một mái nhà thì phải cùng một thứ ngôn ngữ cho đồng điệu mà, đơn giản chỉ vì thế thôi, chứ em không ghét bỏ gì tiếng miền Nam của anh đâu. Nhưng dù sao tiếng miền Bắc cũng …dễ thương hơn, thí dụ chiếc thuyền còn được đưa vào thơ vào nhạc, “thuyền tình” chứ ai nói “ghe tình” bao giờ. “Đi về” mà anh nói “Đi dìa” hay “tấm màn cửa” anh nói “tấm màng cửa” là sai lỗi chính tả đấy.

Anh Bông khiêm nhường chịu thua:

-         Anh đồng ý là anh và em sẽ xài chung, à quên…sẽ dùng chung tiếng Bắc cho hoà hợp như tình yêu của chúng mình đã hòa hợp, cho dù em có thiên vị tiếng Bắc của em rõ ràng.

Ngoài việc dậy tiếng Bắc cho chồng, tôi còn sửa đổi anh bản tính ăn tiêu phong lưu, rộng rãi như đa số những người miền Nam sinh ra ở nơi chốn vốn được đất trời ưu đãi, ruộng vườn tươi tốt, nhiều sông rạch, nhiều cá nhiều tôm, huống chi anh lại là con nhà giàu được cha mẹ cưng chiều từ nhỏ.

Dần dần công tử Tây Đô của tôi cũng đã dùng quen nhiều từ miền Bắc và ăn được những món Bắc, tôi khỏi phải làm thực đơn phân loại hai miền Bắc Nam như hồi mới lấy nhau nữa.

Cái màn “cai rượu” cho anh mới là khó. Ban đầu tôi ra chỉ thị:

-         Anh chỉ được phép uống rượu bia khi xã giao thôi nhé. Em không thích đàn ông có mùi rượu đâu.

Rồi tôi lườm, tôi nguýt mỗi khi thấy anh uống rượu, nên anh cũng giảm được đôi chút. Để nhắc nhở chồng, tôi dán một tờ giấy với hàng chữ viết to bằng mực đỏ: “ Uống rượu vợ bớt yêu”, nhưng anh vẫn chứng nào tật nấy.

Tôi tăng cường thêm một khẩu hiệu khác mạnh mẽ hơn: “ Uống rượu sẽ mất vợ”

Lần này anh Bông tức tốc hỏi tôi ngay:

-         Em sẽ bỏ anh hả?

-         Không bao giờ, em vẫn yêu anh suốt đời. Anh bỏ em thì có, vì nếu anh không nghe em bỏ rượu thì một ngày nào đó anh say xỉn không trúng gío ở ngoài quán hay lề đường chết bất tử thì cũng sơ gan, ung thư gan mà chết sớm, em sẽ ôm trọn gia tài anh để lại và đi lấy chồng khác ráng chịu.

Thế là anh Bông bớt rượu và bỏ rượu hẳn. Không biết vì anh sợ mất vợ hay sợ mất gia tài?

Khi gia đình tôi được bảo lãnh sang định cư ở Mỹ, dòng máu Nam kỳ xả láng của anh Bông lại ngóc dậy, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.

 Anh đi shopping trong mall mua quần áo, đồ dùng toàn là đồ hiệu đắt tiền, còn đi làm anh cũng lười không muốn mang gỉo đồ ăn theo, sáng sớm anh ghé tiệm mua điểm tâm cà phê trước khi vào hãng, trưa thì anh chạy xe ra ăn ngoài v..v…

Một lần nữa tôi lại phải uốn nắn, sửa đổi cho anh. Tôi ra kế hoạch:

-         Anh ơi, mình phải sống tiết kiệm để dành tiền mua nhà.

Anh cằn nhằn:

-         Mới xong kế hoạch mua xe bây giờ đến mua nhà…

Tôi kế hoạch tiếp:

-         Còn nữa, xong mua nhà tới để dành tiền cho hai con vào đại học.

Anh thảng thốt đến nỗi quên phéng tiếng miền Bắc của vợ, mà xổ nguyên một câu miền Nam quen thuộc:

-         Trời đất qủy thần thiên địa ơi, hết kế hoạch này tới kế hoạch kia, em giống cộng sản Việt Nam y chang hà, lúc nào cũng chỉ tiêu và kế hoạch làm cho dân tình lầm than. Lấy vợ Bắc Kỳ cứ tưởng mãi mãi là cô em Bắc Kỳ dễ thương, ai dè em lo xa, tằn tiện, bóc lột đời anh không ngừng nghỉ.

Đợi anh nguôi ngoai cơn “sốc” tôi “khiếu nại” anh đã dùng tiếng miền Nam, là đi sai đường hướng thuận hòa của hai vợ chồng, và anh đã phải học thuộc câu thảng thốt bằng tiếng miền Bắc là: “Ối giời cao đất dầy ôi” thay vì “ Trời đất qủy thần thiên địa ơi”.

Anh hứa lần sau nếu đụng chuyện anh sẽ xử dụng câu này.

Đấy, anh chồng Nam kỳ của tôi hiền lành và dễ bảo như thế,  kiếp sau tôi không lấy anh thì cũng phí. Chỉ lo là kiếp sau anh Bông …có chịu lấy tôi nữa hay không mà thôi.

                           *********************

Buổi trưa tôi lại vào email của nhóm bạn học, lần này đọc được hai hung tin một lúc.

Một người bạn bên Việt Nam mới bị đụng xe chết tốt, và một người bạn ở Mỹ thì bị stroke đang nằm hôn mê trong bệnh viện.

Chúng tôi nhào nháo hỏi thăm nhau những tin tức liên quan đến hai người bạn đồng môn bất hạnh này và bàn xa tán gần đến cuộc sống vô thường ngắn ngủi, chẳng biết sống chết lúc nào.

Người nọ khuyên người kia hãy lo hưởng thụ cuộc đời, của cải vật chất chỉ là bọt bèo, hãy thương yêu vợ, chồng mình thêm nữa. Ai cũng biết thế, nhưng cuộc sống luôn có những điều để người ta phải lo toan, tính toán.

Hôm nọ tôi mới bị cảm mà đã thấy mệt mỏi chán đời. Lúc ấy tiền bạc, món ăn ngon, niềm vui thú nào cũng đều vô nghĩa. Vậy tại sao tôi không hưởng những thứ ấy khi đang khỏe mạnh, yêu đời.

Tôi nhớ mãi câu chồng tôi đã thảng thốt kêu lên “ Trời đất qủy thần thiên địa ơi” suốt nhiều năm nay, bỗng thấy ân hận và thương anh Bông qúa. Hai con đã học đại học xong rồi, tôi lại đề ra chỉ tiêu chắt chiu để dành tiền mai mốt…cho cháu nội cháu ngoại. Lo toan như tôi thì kéo dài đến cả kiếp sau cũng chưa hết.

Hôm nay tôi sẽ thay đổi chính mình, một cuộc thay đổi quy mô và bất ngờ cho chồng tôi ngạc nhiên và sung sướng.

Ngay chiều nay tôi sẽ không thèm nấu cơm, chốc anh đi làm về tôi sẽ rủ anh đi nhà hàng, chiêu đãi anh những món ngon và đắt tiền nhất để đánh dấu một cách sống khác, một bước ngoặt trên con đường đời của một đôi vợ chồng hạnh phúc.

Anh vừa bước chân vào cửa tôi đã hớn hở xông ra ôm chầm lấy anh, nũng nịu:

-         Welcome anh đã đi làm “dìa”.

Anh Bông ngạc nhiên chất vấn và chỉnh tôi:

-         Sao em lại nói tiếng miền Nam sai lỗi chính tả thế? Ừ, anh đã đi làm về.

Tôi dịu dàng hơn bao giờ:

-         Hôm nay em thích tiếng miền Nam của anh mà. Em biết là tiếng miền nào cũng có cái dễ thương của nó, ngay cả tiếng miền Trung nặng nề  khó nghe, khó hiểu.

-         Nhưng sao em lại welcome anh? Em lịch sự bất ngờ thế? một ngày anh đi làm về như mọi ngày.

Tôi nghiêm chỉnh nói:

-         Em chờ anh về để thông báo một tin rất vui là bắt đầu từ hôm nay trở đi chúng ta sẽ chi tiêu thoải mái, không phải hà tiện để dành tiền  theo bất cứ kế hoạch nào nữa. Nhân dịp em vừa nghe tin hai người bạn gặp nạn, em sợ cuộc đời bất trắc, kiếp người còn phù du nói chi là tiền bạc. Chúng ta hãy vui hưởng cuộc sống ngay khi còn khỏe mạnh anh ạ, nhà cửa, xe cộ trả hết sạch sẽ rồi, tiền bạc trong 401K và trong bank của hai vợ chồng mình khá nhiều vì dành dụm suốt nhiều năm nay. Chúng ta sẽ mua xe đẹp, loại đắt tiền, sẽ sắm quần áo xịn, sẽ đi du lịch đó đây mỗi năm, và chốc nữa đây vợ chồng mình sẽ đi ăn tiệm anh nhé. Mai sau về gìa chúng mình đều có tiền retire, lo gì.

Nói xong tôi nhìn anh với vẻ ban ơn huệ, như một cai tù độ lượng vừa phóng thích cho một tù nhân mang án tù vô hạn định, tưởng anh sẽ mừng vui và hét lên thỏa thích khi được trở về bản chất Nam Kỳ của chính mình vì bao nhiêu năm nay anh đã sống theo cách sống Bắc Kỳ của tôi, theo sự quản lý của tôi. Nhưng tôi kinh ngạc qúa, anh thảng thốt lên một tràng với những từ miền Bắc rất chuẩn:

-         Ối giời cao đất dầy ôi, em đang tỉnh hay mê? sao em liều và to gan thế? Sao bỗng dưng em rửng mỡ đòi tiêu xài hoang phí thế? Khi mà trước đây anh tiêu xài hoang phí em đã điên tiết lên cấm cản anh. Em có biết là nước Mỹ đang nợ ngập đầu ngập cổ không? ngân sách chính phủ Mỹ càng ngày càng eo hẹp, đang phải cắt xén bớt tiền phúc lợi của người gìa, người về hưu không? Người ta còn tiên đoán rằng chẳng bao lâu nữa chính phủ sẽ không có đủ tiền trả cho những người hưu trí nữa đấy. Nên dù chúng ta không phải lo cho con cái nữa, nhưng vẫn phải sống căn cơ, dành dụm tiền để sau này về gìa có mà chi tiêu, ở Mỹ điều kiện khoa học, y tế cao chúng ta sẽ sống lâu, sống thọ lắm. Không ai thương mình bằng chính mình đâu em.

 Thì ra suốt mấy chục năm sống bên nhau, bây giờ anh đã lo xa, tính toán hơn cả dân Bắc Kỳ thứ thật là tôi đang đứng trước mặt anh. Mẹ tôi ở dưới suối vàng chắc cũng đang mỉm cười mãn nguyện?

Tôi còn đang ngẩn ngơ không ngờ người chồng Nam Kỳ của tôi đã bị tôi Bắc Kỳ hóa nhuần nhuyễn đến thế thì anh ân cần và rất rành rẽ nói:

-         Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ.

                        Nguyễn Thị Thanh Dương



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 08/Mar/2011 lúc 10:16pm

BÁC RUỘT
LAM CHÂU


Nó lên Hà Nội trước gần một tháng để chuẩn bị thi Đại học. Nó ở nhờ nhà bác ruột. Mấy ngày đầu bình yên, mấy ngày sau bữa cơm nào bác cũng mang chuyện hao cơm, tốn nước, tốn điện... ra chửi con cái. Nó dè dặt mọi điều, tính thời gian bằng giây. Viết thư cho bố mẹ nó bảo: “Bác hết lòng vì con”. Thi xong, nó về. Bác
bảo: “Chỉ ăn không béo trong ra đấy!” Về nhà nhìn thấy mẹ, nó khóc nức nở, mẹ hoảng hốt:
“Con ốm à, sao xanh xao thế này hả con? Khổ thân con tôi”.


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Mar/2011 lúc 11:33pm
 Chuyện Gần - Chuyện Xa

Huy Phương/Người Việt

 

6 năm trong tù và 26 năm liệt nửa người trên giường bệnh

 

Năm 1966, tại trường trung học tư thục Hưng Ðạo, Saigon có hai cô cậu học trò thương nhau. Cậu là Trần Chấn Thanh, người Long Mỹ, Cần Thơ, và cô là Huỳnh Thị Diệu, ở Hậu Nghĩa lên Saigon trọ học.

Ba năm sau, tốt nghiệp trung học, họ cử hành hôn lễ và năm 1971, anh Thanh bị động viên vào khóa 1/71 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Ra trường, nhờ có vóc dáng cao to, Thanh được tuyển vào binh chủng Quân Cảnh và được điều động ra trại tù binh Phú Quốc.

Trong những ngày cuối cùng trước khi miền Nam thất thủ, Trần Chấn Thanh mang cấp bậc thiếu úy làm việc tại Tiểu Ðoàn 7 Quân Cảnh đóng tại Saigon và Huỳnh Thị Diệu là nhân viên của Nha Thương Cảng. Gia đình này lúc đó đã có ba cô con gái.

Vợ chồng ông bà Trần Chấn Thành. (Hình: Huy Phương/Người Việt)

Sau tháng 4 năm 1975, là một sĩ quan miền Nam, Thiếu Úy Thanh đã bị tập trung qua các trại tù Katum, Trảng Bom, Suối Máu gần 6 năm. Ra tù được vài tháng, Thanh tham gia một tổ hợp xây dựng, làm thợ phụ hồ để phụ với gia đình kiếm sống.

Vào tháng 10 năm 1985, trong khi đang đứng làm việc trên một giàn giáo cao 10 thước, giàn giáo gãy và Thanh bị rơi xuống mặt đất, bất tỉnh, đầu và xương sống bị chấn thương nặng. Thanh được chở đi cấp cứu tại bệnh viện Sàigòn, nhưng vì vết thương ở đầu, Thanh lại được chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy. Trong quá trình mang đi cấp cứu, thay vì phải bảo vệ phần xương sống cho bệnh nhân, Thanh lại được chở đi bằng xích lô nhiều chặng, khiến tủy sống bị tổn thương, nửa phần thân thể, từ bụng trở xuống bị tê liệt, không cứu vãn được. Gia đình nạn nhân không hề được một đồng bồi thường nào của chủ thầu, sau khi được biết tin anh liệt nửa người, y bỏ trốn qua làm ăn bên đất Miên.

Trong hoàn cảnh chồng liệt giường, ba con còn nhỏ, chị Thanh phải mở tiệm bán củi, bán gạo thêm tại nhà kiếm thêm lợi tức để lo thuốc men cho chồng. Với khí hậu nóng nực của Saigon, chỗ bị liệt không xoay trở được, anh Thanh bị hoại tử phần thịt ở mông, vết thương lở loét mà không có thuốc trụ sinh, không có băng bông. Phần khác, việc tiêu tiểu không kiểm soát được nên vấn đề săn sóc người bệnh trở thành một gánh nặng cho thân nhân anh Thanh. Không chỉ có người vợ tận tình săn sóc chồng, mà đến cả người em gái vợ, sống chung nhà, trước hoàn cảnh khó khăn của gia đình người chị, cũng bỏ qua nỗi thẹn thùng, đem tấm lòng thương người ra để lo chuyện vệ sinh cho anh. Phần vợ anh Thanh, chi Diệu, thì mắc bệnh tim bẩm sinh, thường hay bị té xỉu.

Hoàn cảnh đen tối của gia đình Trần Chấn Thanh càng ngày càng đi sâu vào tuyệt vọng, nếu không có chương trình nhân đạo của chính phủ Mỹ cứu vớt những người tù VNCH trong các trại tập trung của Cộng Sản, sự sống của Trần Chấn Thanh sẽ ra sao? Mặc dù ở ngay tại Saigon, gia đình anh Trần Chấn Thanh, một phần không có khả năng chạy dịch vụ, một phần ngần ngại trước viễn ảnh cuộc sống ở Mỹ khi cả hai vợ chồng đang lâm vào hoàn cảnh đau yếu bệnh tật như thế, lại có một cháu gái đã lập gia đình, nên cho mãi đến năm 1996, gia đình cựu Thiếu Úy Trần Chấn Thanh mới lên đường đến Mỹ theo danh sách H.O.40.

Một bác sĩ của IOM đã tháp tùng săn sóc anh Trần Chấn Thanh trên chuyến bay từ Saigon đến San Francisco, rồi đến phi trường John Wayne. Ðến Mỹ, nhờ các tiện nghi về y tế, vết thương lớn sau lưng Trần Chấn Thanh đã được chữa khỏi. Anh có thuốc men đầy đủ, được cấp giường bệnh, xe lăn, tã lót, và mỗi ngày có 4 giờ cho người đến săn sóc tại nhà. Năm 2000, người vợ tù Trần Chấn Thanh cũng đã được mổ tim và điều trị hết căn bệnh ngất xỉu.

Từ một hoàn cảnh tuyệt vọng của một người bị liệt nửa người, vết thương rỉ máu, anh Trần Chấn Thanh đã bước đến một đời sống, tuy không bình phục như ngày chưa bị tai nạn, nhưng được an ủi vì nền y tế nhân đạo tại Mỹ dành cho những người kém may mắn như anh. Nước Mỹ đem anh Trần Chấn Thanh đến đây, không hy vọng gì ở sự đóng góp của anh cho nước Mỹ mà hoàn toàn vì chính sách nhân đạo, nếu không, anh đã không còn sống cho đến ngày hôm nay. Cũng chính vì vậy, mà cách đây ba năm, khi gặp gỡ bà Khúc Minh Thơ, một người vận động cho chương trình ra đi của những người tù chính trị, chị Huỳnh Thị Diệu đã không cầm được những giọt nước mắt tri ân của người vợ tù đã trải qua những ngày dài bất hạnh.

Ngày nay, gia đình cháu gái đầu lòng của chị đã được sang Mỹ sum họp với đại gia đình đang sống với anh chị Thanh, góp thêm phần săn sóc, gần gũi cha mẹ. Gia đình anh Trần Chấn Thanh may mắn có ba người con rể, tất cả đều hiếu thuận, những lúc cần đỡ anh Thanh lên xe đi bác sĩ đều nhờ các cháu, chứ phần chị không làm nổi. Mỗi tháng hai lần, các cháu rể cũng đẩy xe cho anh đi lễ chùa Hương Tích gần nhà.

Phần chị Diệu, một người vợ lính, một người vợ tù, chị đã bươn chải để nuôi anh trong 6 năm tù, lại vất vả lo nuôi anh, một người chồng chỉ còn hoạt động một nửa người phần trên với chiếc đầu và hai tay, trong 11 năm tại Việt Nam và 15 năm trên đất Mỹ. Sự hy sinh và chịu khổ của những người đàn bà Việt Nam như chị Diệu đáng cho chúng ta phải khâm phục. Chị mang tấm lòng hoan hỷ của một người hiểu Phật Pháp: “Ðây là nghiệp của anh phải trả, và là nợ của mình chưa hoàn tất, vui vẻ mà chấp nhận.”

Còn anh Trần Chấn Thanh, 6 năm tù đày và 26 năm nằm liệt trên giường, anh nghĩ sao? “Chúng tôi vẫn yêu nhau như những ngày còn đi học ở trường Hưng Ðạo, Saigon. Tôi chỉ biết cám ơn Diệu và cám ơn nước Mỹ!”

Cũng không thấy anh tỏ vẻ buồn phiền, anh nói thêm: “Người ta thường nói: Vợ chồng cùng tuổi (Kỷ Sửu), nằm duỗi mà ăn, tôi nằm duỗi tính đến nay đã 25 năm rồi, chỉ tội cho vợ tôi.”

Anh chị cầm tay nhau, cười với nhau mà không thấy ngượng ngùng như những đôi vợ chồng già khác. Ðúng vào lúc ấy, tôi bấm máy để chụp một tấm ảnh cho bài báo này.



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Mar/2011 lúc 9:44am
CHIẾC ĐỒNG HỒ

 
Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chòng chọc vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: “Chắc là con nó cần…”
Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: Con mới đi làm, cũng cần biết giờ biết giấc . Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con.
Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha, rươm rướm nước mắt:
- Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!
 
VŨ ĐỨC NGHĨA

 


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Mar/2011 lúc 10:54pm
KIẾP LÀM DÂU
Tác Giả: Hoàng Thanh / Viễn Đông   
Thứ Hai, 21 Tháng 3 Năm 2011 06:40
 
“Người mình thường hay than, ‘Khó như mẹ chồng’. Nhưng đó là mấy bà mẹ chồng người Việt Nam, chứ chưa ai nếm mùi mẹ chồng người ngoại quốc như chị đâu, em à”. Chị Hương nói một hơi...

 
Tôi cười: “Mẹ chồng người Mỹ mà khó à? Em cứ tưởng người Mỹ mà lâu lâu gặp thì mình cứ ‘How are you?’ là xong ngay, vả lại thời buổi bây giờ đâu có ở chung đâu mà khổ, hở chị?”.

“Lầm to. Nhưng mẹ chồng chị đâu phải người Mỹ, mà là người... Nhật, vậy mới chết...”.


 * Thưở ban đầu

Chị lấy chồng năm 1997. Chồng chị, anh Peter Ryoji Brown, là người Mỹ lai Nhật. Ba anh người Mỹ, mẹ người Nhật. Ban đầu chị để ý anh ở nét đẹp lai nửa Âu nửa Á. Khi hò hẹn, chị thích anh ở những điểm tốt mà người Mỹ và Nhật có được. Kiên nhẫn, tiết kiệm, dịu dàng, lo xa... của người châu Á. Óc cầu tiến, không gia trưởng, giúp đỡ vợ... của người Tây Âu. Chị tưởng rằng mình may mắn, nhưng có ai ngờ...

Khi chuẩn bị đám cưới thì anh nói: “Mẹ anh phản đối. Mẹ vui khi biết anh lấy vợ người châu Á, nhưng đến chừng biết em là người Việt Nam thì Mẹ không đồng ý”. Chị hỏi lý do. Anh kể: “Người chồng đầu tiên của Mẹ anh là người Việt Nam, nhưng sau năm năm chung sống thì hai người ly dị. Mẹ cứ nhắc hoài, ‘Đó là sai lầm lớn nhất trong đời Mẹ’. Mẹ nói: ‘Quen ông ấy, Mẹ đọc sách báo tìm hiểu về dân tộc và con người Việt Nam, Mẹ phục người Việt Nam lắm, họ anh hùng, chịu khó, cần cù, thông minh, đầy những đức tính tốt. Mẹ thương ổng cũng vì những điểm này. Thế mà khi lấy về hơn hai năm thì việc làm không suôn sẻ như trước, ông ta chán đời lao vào cờ bạc, rượu chè. Mẹ khuyên can dữ lắm, động viên chồng đứng lên làm lại. Ông ta có cố gắng, nhưng không may lại thất bại. Thế là ngựa quen đường cũ, ông lại rượu chè ngày đêm, về đòi tiền vợ. Mẹ không đưa, ổng đánh. Có lần về hạch tiền, Mẹ khóc đòi ly dị, thì ổng lớn tiếng, ‘Tôi thách bà, có đưa tiền không thì bảo?’, rồi ông ta tát tai Mẹ một cú như trời giáng. Sau này Mẹ hay nói với các con, Mẹ nhớ hoài cái tát tai đó. Giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Và Mẹ ly dị. Người Việt Nam  cho rằng người Tàu, người Nhật trọng nam kinh nữ, nhưng chính họ mới là những kẻ vũ phu nhất. Họ anh hùng trong chiến tranh, nhưng hèn nhát khi đối đầu với thất bại. Họ có thể đấu tranh đến cùng cho lý tưởng, nhưng lại mau bỏ cuộc buông xuôi khi sự đời không như ý. Hôm nay họ có thể bất khuất trước cái chết, nhưng ngày mai lại đầu hàng trước rượu chè, bài bạc...’”.
 
* Thuyết phục và thử thách

Anh Peter vì thương chị nên cố gắng thuyết phục Mẹ. Anh bảo: “Mẹ không thể vì một người mà quơ đũa cả nắm, đâu phải người Việt Nam nào cũng như ông ấy”. Mẹ nói: “Chẳng thà con lấy vợ Mỹ”, vì Ba anh - ông Michael Brown, chồng sau của Mẹ, người Mỹ, rất tốt và thương yêu Mẹ. Mất gần cả tháng năn nỉ ỉ ôi thì Mẹ nhượng bộ, nhưng với một điều kiện...

“Điều kiện gì vậy chị?”. Tôi tò mò hỏi ngay.

“Hết ý kiến”. Chị Hương lắc đầu. “Tại ảnh là con một, lại là trai, nên Mẹ ra điều kiện là chị phải sanh cháu trai cho bả, còn không thì anh phải bỏ chị, lấy vợ khác. Em coi, có bà mẹ chồng mà ác nhơn vậy không chứ. Nhưng tại anh chị thương nhau quá, nên cũng nhắm mắt đồng ý đại, cứ làm đám cưới rồi tính sau”.

“Thiệt tình”, chị Hương thở dài. “Đúng là ‘Con sâu làm rầu nồi canh’. Ông ‘sâu’ Việt Nam nào hồi đó quậy cho đã, giờ thì chị nhảy vô lãnh đủ nồi canh chua loét”.
  
* Nỗi lo của chồng

Nghĩ cũng tội cho ông xã chị. Anh Peter kể chị nghe nhiều về Mẹ anh lắm, anh chỉ mong là cơm sẽ lành, canh sẽ ngọt trong gia đình. Anh bảo: “Mẹ anh là mẫu người phụ nữ vừa cổ điển, vừa tân thời. Bà luôn gìn giữ những nét văn hóa tốt đẹp của người Nhật, đồng thời vẫn cố gắng học hỏi các điều hay của nước ngoài”. Chị bảo anh cho một ví dụ. Anh nói ngay: “Từ lâu lắm rồi, người phụ nữ Nhật sau khi kết hôn thì  không được giữ họ của mình nữa. Một cặp vợ chồng phải lựa chọn một họ duy nhất cho hai người, và theo phong tục Nhật Bản, thì đó phải là họ của người đàn ông. Phụ nữ Nhật luôn luôn bị xếp hạng thứ yếu trong kinh doanh, học thuật, chính trị, nói chung là trong mọi lĩnh vực, và phải làm hầu hết công việc nội trợ và nuôi dạy con cái. Từ nhiều thập niên qua, ngày càng nhiều phụ nữ Nhật muốn có sự bình quyền, nên họ đã sử dụng tên họ thời con gái làm bí danh trong công việc. Mẹ anh là một trong những người đó. Khi lấy ba anh, Mẹ đã quyết định giữ họ của Mẹ - Nishimoto. Ba anh là người Mỹ, và ông không đặt nặng vấn đề này. Ông thường bảo: ‘Cái họ không quan trọng. Quan trọng là ở trái tim. Cho dù có thay đổi tên họ, nhưng có ích lợi gì chăng? Cái họ mới có thể làm người vợ không thay đổi tình yêu hay không?’. Và Mẹ anh rất thích những người chồng có được suy nghĩ như vậy”.

Kể xong rồi thì anh căn dặn chị: “Trên đời này, chỉ có hai người phụ nữ mà anh yêu thương nhất, đó là Mẹ và em. Thôi thì thương anh, em cố gắng vừa cổ điển, lại vừa tân thời cho Mẹ vui”. Chị cười phá lên: “Chèn ơi , anh muốn em trở thành con tắc kè hay sao chứ? Khi nào Mẹ anh xanh thì em cũng xanh, còn lúc nào Mẹ đỏ thì em phải ráng đỏ theo à?”. Ảnh cũng cười: “Thôi mà, ráng chút đi honey, anh sẽ thương nhiều...”.
  
* Gian truân khổ ải

Chị nhớ người mình có câu:
 
Dạy con từ thưở còn thơ
 Dạy vợ từ thưở bơ vơ mới về...

Nhưng với chị, thì phải đổi là “Dạy dâu từ thưở bơ vơ mới về” mới đúng. Ngay từ những ngày đầu gặp mặt là bà Taiko Nishimoto - Mẹ chồng chị, đã làm khó dễ chị đủ điều. Chưa bao giờ bả cười với chị một lần. Tuy không ở chung, nhưng bà Taiko gọi phone cho chồng chị gần như mỗi ngày. Hai người luôn luôn nói với nhau bằng tiếng Nhật. Có lần chị nói lẩy là: “Hai mẹ con anh cố tình nói tiếng Nhật để nói xấu em chứ gì?”. Peter đáp: “Không đâu. Từ nhỏ Mẹ anh đã ra nội quy là người trong nhà, trong họ hàng đều phải nói với nhau bằng tiếng Nhật, dù rằng anh sinh ra tại Mỹ. Mẹ bảo đó là một trong các phương cách để bảo tồn văn hoá đất nước”. Nhưng chị để ý rằng có vài lần sau khi cúp phone, anh Peter cứ trầm ngâm. Chị hỏi thì anh bảo: “Không có gì”, nhưng linh tính cho chị biết là có. Có một lần anh hỏi: “Phụ nữ Việt Nam luôn luôn phục vụ, hầu hạ chồng phải không em?”. Chị hỏi lại: “Tại sao anh nói vậy?”. Ảnh đáp: “Mẹ nói là đàn ông Việt Nam là chúa gia trưởng, bởi vậy đàn bà Việt nam từ bao đời đã ngấm sâu vô máu sự nhẫn nhục, phục tùng và cam chịu. Mẹ muốn em phải phục vụ anh như ngày xưa ông chồng cũ đã bắt Mẹ vậy”. Chị bực mình gắt lên: “Mẹ anh khôn vừa thôi, phong tục cổ hủ của người Á Đông, sao Mẹ không giữ để hầu hạ chồng mình đi, mà lại bắt con dâu phải giữ kia chứ?”. Anh Peter thở dài...

Chưa hết, anh Peter bảo chị phải học làm sushi sao cho thiệt ngon để làm vui lòng Mẹ. Chị nói: “Thì mình cứ đi mua đem tặng Mẹ, nói là em làm, có sao đâu”. Ảnh cản: “Không được, Mẹ mà biết ra là từ mình luôn đó, người Nhật ghét nhất là nói dối. Thôi em ráng học đi, rồi hôm nào sang thăm Mẹ, em làm cho Mẹ vui”. Thương chồng nên chị học, nhưng khổ nổi chị không thích, mà cũng không ăn được món sushi, cá sống nó tanh làm sao ấy!

Giọng chị Hương đều đều: “Sinh nhật bà Taiko, anh chị đến thăm, và chị trổ tài làm sushi trước mặt Mẹ chồng. Ôi thôi, bả chê đủ điều. Nào là ‘Thế mà ai bảo là phụ nữ Việt Nam đảm đang, nấu ăn khéo? Có mỗi món cá sống cuốn mà làm còn không xong thì còn nấu được thứ gì?’. Ba chồng chị, ông Michael, xen vô vài câu bênh chị, bả gạt ngay, ‘Ông để tôi dạy my daughter-in-law’. Chị tức quá, bỏ ngang bữa tiệc sinh nhật, bước ra cửa đi về. Bả còn nói với theo: ‘Cô còn một cơ hội thôi đấy: Tôi đợi thằng cháu nội của tôi!’. Chị tức sôi gan. Anh Peter chạy theo chị. Tiếng bà Taiko: ‘Stop, Ryoji! She is your wife. I am your MOM, you hear that?’. Và thế là ảnh ở lại, chị về...”.
  
* Cũng may Trời thương

Chị giận không thèm nói chuyện với chồng cả một tuần. Peter cứ năn nỉ: “Người Nhật anh được dạy từ lúc nhỏ là ‘Vợ thì có thể nhiều , còn Mẹ thì chỉ một’, hơn nữa hôm đó là sinh nhật Mẹ, nên anh đành phải ở lại, mong em hiểu cho anh”. Chị lớn tiếng: “Thế thì anh chọn đi, tôi hay Mẹ anh?”. Ảnh gần khóc: “Anh chọn cả hai”. Lại thấy thương. Thế là làm lành. Và “cái đêm hôm ấy đêm gì?”. Ông Trời có mắt, nên chị có bầu thằng cu, chứ nếu không may là con gái, thì có lẽ bả bắt anh chị ly dị rồi...

Anh Peter mừng rỡ báo tin cho Mẹ. Dĩ nhiên là bả vui lắm. Thế là ngày nào Mẹ cũng gọi, kêu chồng chị mua thuốc thang đủ loại cho chị uống, mà toàn là thuốc cổ truyền của Nhật. Chị không uống, chồng chị cũng “dạ, dạ” cho Mẹ vui, nhưng không ép chị. Chưa hề bao giờ bà Taiko nói chuyện qua phone hỏi thăm chị lấy một tiếng. Chị tủi thân lắm, có bầu mà cứ khóc. Rồi thì bé John chào đời...
  
* Tức nước vỡ bờ

Bà Taiko không hề đến thăm chị ở nhà thương. Khi chị về nhà, bà đến thăm thường xuyên, nhưng vẫn cứ lạnh nhạt với chị. Hễ bước vào nhà là bà và Peter nói với nhau bằng tiếng Nhật, rồi bả cứ ẵm riết thằng cháu trai mà hôn hít, không thèm cám ơn người đã mang nặng đẻ đau đứa cháu đích tôn cho bà lấy một lời. Ngày lại, ngày qua, nằm trên giường dưỡng sức, chị suy nghĩ nhiều và hận lắm. Hận Mẹ chồng, hận người đàn ông Việt Nam nào đó mà chị chưa hề gặp mặt, hận luôn cả những hủ tục của người châu Á gồm cả Việt Nam và Nhật Bản. Chị cay đắng nhận ra rằng, “Ngay cả ở nước Mỹ tự do này mà vẫn còn có những nàng dâu đau khổ, nhưng nỗi lòng này biết tỏ cùng ai?”.

Có một hôm chị bệnh. Bà Taiko phone cho biết là bà sẽ tạt qua thăm thằng cháu nội và cho nó mấy món quà. Anh Peter nói là anh phải chở chị đi bác sĩ. Bà nói: “Sao, phụ nữ Việt Nam giỏi giang lắm mà, bao người trong chiến tranh một tay nuôi chồng, nuôi con, vậy mà không tự đi bác sĩ một mình được à?”. Rồi bà bảo chồng chị ở nhà để bà qua thăm John, kêu chị tự lái xe đi một mình đi. Khi nghe anh Peter kể lại, chị tức điên lên được. Chị nói to với chồng: “Mấy năm nay, tôi nghe lời anh, ráng ‘cổ điển’ mà chiều Mẹ anh. Giờ thì tôi ‘tân thời’ cho anh và Mẹ anh biết. Tôi làm tắc kè bao lâu đủ rồi. Mẹ anh muốn xanh thì tôi phải xanh sao? Rồi lúc bả đỏ thì tôi phải đỏ kia à? Giờ thì hễ bả trắng là tôi đen, còn bả đen thì tôi trắng”. Rồi chị đùng đùng lái xe đi, mặc cho ảnh chạy theo gọi ơi ới kêu chị lại.
  
* Dâu kỵ Mẹ, cháu chẳng thương bà

John ngày càng lớn. Từ nhỏ, cháu đã sớm nhận ra ngay là bà nội không thích Mẹ. Mỗi dịp đầu năm, Christmas, Lễ Tạ Ơn, sinh nhật... chị không muốn qua thăm gia đình chồng nữa. Anh Peter chở John đi thôi, chị ở nhà. Mà cứ về là John kể bô bô những gì bà nội nói không tốt về Mẹ nó. John nói được tiếng Mỹ, tiếng Việt và tiếng Nhật. Cháu khôn trước tuổi, và biết khi nào, những gì nên nói với Mẹ, với Ba, với bà nội, và bằng thứ tiếng nào. John kể: “Hễ con bênh Mẹ là Nội la con. Giờ con không thích Nội nữa. Con nói Daddy là mai mốt con không qua nhà Nội nữa đâu. Con thấy Daddy buồn...”. Chị cũng thấy lòng phân vân. Mẹ chị mất từ khi chị còn nhỏ. Chỉ có mỗi bà mẹ chồng, mà cứ cơm không lành, canh không ngọt, khổ cả đời chị một kiếp làm dâu.
  
* Giọt nước tràn ly

Tháng 12 năm ngoái là sinh nhật bà Taiko 70 tuổi. Ông bà làm tiệc rất lớn đãi mọi người, vì người Nhật cho rằng ai sống đến bảy mươi là người ấy đã làm nhiều việc phước đức mới được như vậy. Chị ráng vui vẻ cùng chồng con sang mừng tuổi Mẹ. Chị đi mua tất cả những thứ gì mà anh Peter biết là Mẹ thích. Khi tặng, chị đưa bằng cả hai tay, “For you, Happy Birthday, Mom”. Chị biết là chị đã làm hết sức. Bả cười nhẹ, nói gọn lỏn, “Thank you”, rồi quay sang mở những món quà khác của bạn bè, mà không hề ngó ngàng gì đến gói quà mà chị đã tốn cả ngày trời đi lựa. Chưa hết, bà sắp xếp cho mọi người ngồi ở bàn trên, cả bạn bè, họ hàng, anh Peter, và... cả thằng John, mới 9 tuổi. Còn chị, bà để chị ngồi bàn sau bếp với đám trẻ con, toàn là bọn con gái. John đòi chị lên ngồi cùng với cháu. Chị lắc đầu bảo: “Con cứ lên ngồi với Nội, vì con là con trai. Mẹ về”. Chị bỏ về ngang buổi tiệc, văng vẳng phía sau tiếng con khóc...

Tới nhà, cứ nằm trên giường mà chị không sao ngủ được. Chị quyết định sẽ nói với chồng rằng, “Một là mình ly dị, còn hai thì em thề sẽ không nhìn mặt Mẹ anh nữa”. Nhưng chờ mãi không thấy chồng và con về. Cuối cùng sốt ruột, chị gọi cell anh, không ai bắt. Linh tính có chuyện chẳng lành, chị cứ nằm cầu nguyện. Gần nửa đêm , Peter gọi, cho biết là anh và ba đang ở bệnh viện, vì Mẹ anh bị nhồi máu cơ tim. Anh nhờ chị đến đón con, vì cháu còn đang ở nhà bà nội với ông chú. Chị lo lắng lái xe đến chở con về. John kể: “Khi Mẹ bỏ về, con khóc và chạy lên phòng trên, con nói to với Nội, ‘Grandma, you're not nice to Mommy. I  don't love you anymore’. Tự nhiên Nội quay lại nhìn con, rồi Nội té xuống đất. Ai nấy xúm lại đỡ Nội, con sợ quá chừng. Daddy và Grandpa vô nhà thương với Nội, Daddy nói con ở nhà chờ Mẹ tới đón”.
  
* Tan biến mọi giận hờn

Tự dưng lúc ấy, chị quên hết mọi chuyện. Không còn nhớ gương mặt lạnh lùng của bà mẹ chồng mà chị từng ghét cay ghét đắng. Không còn nhớ hai tiếng “Thank you” khô khốc từ miệng bà. Sáng hôm sau, chị chở con vô bệnh viện. Bà vừa trải qua ca mổ tim. Bác sĩ bảo: “Rất may là người nhà đã chở bà vô kịp lúc, nếu không thì...”.

Anh Peter túc trực ở bệnh viện đêm ngày. Khi tỉnh lại, đôi mắt bà đờ đẫn, mỏi mệt. Bà ráng gượng cười với chồng, với con. Chợt nhìn thấy chị, một thoáng ngạc nhiên trên nét mặt, rồi bỗng dưng chị thấy mắt bà hoe đỏ. Hai mắt chị cay cay. Chị bước tới nắm tay bà, cái nắm tay lần đầu tiên sau 13 năm làm dâu. Chị lúng túng, chỉ mở miệng nói được một tiếng duy nhất “Mom”. Gian phòng bệnh viện im phăng phắc. Ông Michael mĩm cười. Anh Peter chảy nước mắt. Tiếng bé John vỗ tay: “Grandma, Mommy, I love both of you!”.
  
* Gia đình đầm ấm

Ngày rời bệnh viện, cả gia đình đến đón Mẹ. Bà yếu hơn trước nhiều, nhưng vẫn khá tỉnh táo. Bước vô nhà, ngồi vào ghế, Mẹ gọi chị lại và nói: “Helen, I'm sorry, forgive me”. Chị ôm bà và khóc. Hôm đó cả nhà dùng bữa cơm tối thật vui. Bà bảo chị không cần làm món sushi cho bà nữa, khi nào khoẻ hẳn, bà sẽ làm cho cả nhà ăn. Thường thì vốn liếng tiếng Anh của chị cũng đủ xài thôi, nhưng không hiểu sao lúc đó, chị lại muốn nói với bà vài câu tiếng Nhật mà anh Peter đã từng dạy, vậy mà chị quên sạch ráo. Chị buột miệng: “Taiko, Mom. I ... Japanese...”. Anh Peter hiểu ý nên anh hỏi: “Em muốn nói gì?”. Chị bảo: “Em mong Mẹ hiểu rằng dân tộc nào cũng người tốt, kẻ xấu. Nhưng dù là người Việt Nam hay Nhật Bản, thì trái tim con người vẫn luôn luôn còn chỗ để yêu thương và xóa bỏ những hiểu lầm”. Mẹ nghe anh dịch lại bằng tiếng Nhật, bà gật đầu. Rồi Mẹ cười, nụ cười dành riêng cho chị, mà mãi 13 năm chị mới có được...

Tôi có xin phép chị Hương chụp một bức ảnh gia đình chị. Chị hỏi chồng. Anh Peter hỏi Mẹ. Bà Taiko cười: “Thôi, tôi già rồi, và tôi có lỗi với con dâu tôi. Đừng đăng hình tôi lên báo, kẻo mọi người lại hiểu lầm là người Nhật nào cũng xấu như tôi”. Bà lại cười, lần này tôi thấy nụ cười của bà sao giống hệt nụ cười của Ngoại tôi khi xưa. Ngoại già và mất rồi, người Việt Nam, nhưng cũng khó tính không thua gì bà Taiko đâu đấy.

 (Ghi theo lời kể của chị Helen Hương Phạm)



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Mar/2011 lúc 8:13pm

Người quê, kẻ tỉnh

Ông Hai đứng tần ngần trước sân, trời mờ sáng. Hồi hai giờ khuya, ông đưa vợ ra xe đò về Sài Gòn trông cháu cho con trai. Hai vợ chồng già tay xách nách mang, lội bộ một thôi đường, chờ xe nửa tiếng, thế là hết đêm.

Năm năm nay, ông bà Hai thành vợ chồng son khi đứa út xuống thành phố học, mấy đứa lớn học xong, ở lại kiếm sống, rồi lấy vợ chồng. Hôm qua, đứa con dâu gọi điện về thỏ thẻ với mẹ chồng “nội ơi, con bé nhớ nội”. Nghe điện dứt, bà chạy sang người em dâu, lấy chục ký gạo ruộng vì tụi nó thích ăn gạo ở đây, đậm vị chứ không lạt như gạo mua ở dưới. Ra chuồng, bà xếp chục trứng gà, gói giấy từng trái, bắt luôn con gà mái dầu.

Cầm liềm vô vườn cắt mớ rau lang, muống, ngót, mồng tơi, bẻ mấy cây mía, đến góc bếp lựa thêm mớ củ, vài nhánh chuối. Vừa bó rau bà vừa nghĩ tới ánh mắt sáng rỡ, tiếng hít hà “rau sạch, quý lắm đó nội” của con dâu khi nhìn giỏ quà mẹ chồng. Thế nào vợ thằng lớn cũng phân loại ngay, chia phần vô bọc cẩn thận cho vào tủ lạnh ăn nhín. Ừ, rau quê có phân thuốc gì dâu, để cả tuần ăn vẫn ngọt. Sực nhớ, bà mở tủ chén lấy chai mật ong rừng mới mua. Hành trang thăm cháu nội đã xếp xong, giờ tới việc đưa tiền chợ và nhắc ông Hai cho chó, gà ăn, nhớ tưới đám rau mới gieo.

Ngày thằng lớn vô đại học, hơn 15 năm trước, ông Hai mừng. Quá nửa đời ông cầm phấn đứng trước bảng, ngoài bốn mươi, bất đắc chí, ông chán chường bỏ về cầm cuốc, rách vẫn rách, ông thấu đời. Đến đứa thứ ba, bốn công ruộng và chừng ba mẫu vườn đội nón đi khỏi nhà ông, cộng thêm đồng tiền vay họ hàng, lối xóm. Có người cảm cảnh nhà ông, than “học cho lắm rồi bẻ chữ ăn à!” Lúc đó, ông thật thấm thía câu “giật gấu, vá vai”. Hết ruộng vườn, đất chỉ còn đủ ở, vợ chồng “thất nghiệp”, ông bỗng thấy tay chân thừa thãi, bứt rứt.

Người vợ xoay sang bóc hột điều mướn, ngày kiếm chục ngàn sống. Mỗi khi mấy đứa con về nhà, ông thấy nét sợ sợ trong anh mắt bà Hai “tiền đâu cho chúng?” Đâm lao theo lao, vợ chồng già lại chạy vạy, có người hàng xóm tốt bụng, thỉnh thoảng cho mượn tiền nhưng dứt khoát không lấy đồng lời vì “ông bà có làm ăn gì đâu, tụi nhỏ đi học mà”. Chục năm dai dẳng, cũng may, mấy đứa nhỏ nhà ông chịu học, chịu làm. “Nợ mòn, con lớn” mọi chuyện rồi cũng qua đi.

Người%20quê,%20kẻ%20tỉnh
Ảnh: SGTT

 Tiếng trống trường dứt dòng suy tưởng, ông Hai đi bộ ra quán mua đồ ăn. Đã ba năm, từ khi có đứa cháu nội, thực đơn chính của ông mỗi khi bà Hai xuống với cháu, là mì gói nấu trứng, có khi cả nửa tháng. Cơm nấu cho chó, mèo ăn là chính. Thành quen, cầm bịch đồ ăn, ông sang luôn nhà người bạn già, đã có bốn năm ông ngồi quanh ấm trà. Họ tự phong là hội độc thân vì gần cảnh ngộ, đề tài chính của mỗi buổi trà sáng chỉ xoay quanh chuyện người đi. kẻ về. Ông Tư khoe, con gái sắp về chơi khiến mấy hôm rày, ông cứ thắc thỏm, hết ngó lịch lại nhẩm đốt tay. Quê bây giờ còn toàn người cũ, cảnh cháu con khuya sớm quây quần còn mấy. Dễ gặp là những bóng già lủi thủi.

Các bà đi trông cháu nội – ngoại, bỏ các ông tha thẩn ở nhà cùng chó, mèo. Nếu không chia lìa, lại vất vả “làm mẹ thay con” vì cha mẹ chúng đang vật lộn nơi thị thành. Xứ ông giờ người ta bỏ về chốn thị thành nhiều, ruộng cũng bỏ hoang nhiều. Sồn sồn, vợ đi giúp việc, giữ trẻ; chồng đi phụ hồ, thợ mộc, xe ôm. Nhiều đôi ngâu cả năm mới gặp nhau nhưng lại to tiềng vì tiền nong, rồi nghi ngờ tình cảm. Trẻ trai bước vào khu công nghiệp lương tháng vài triệu, làm việc 12 tiềng. Lỡ sinh con chỉ được vài ba tháng, giao cho ông bà ở quê, tiền đâu gửi trẻ và xin con học ở thành phố.

Con nhà nghèo chịu thương chịu khó vừa học vừa làm không mặc cảm thấp kém để rồi có nghề nghiệp đàng hoàng, ít lắm. Con nhà khá một chút lại coi đây để xài tiền cha mẹ, học hành qua quýt, rồi tệ nạn, rồi hỏng! Rốt cuộc già trẻ, gái trai, người đi kẻ ở đều khốn khổ. Biết ai khổ hơn ai? Nhiều gia cảnh thương tâm, cha mẹ xa con, vợ chồng chia lìa, cửa nhà ly tán vì cuộc mưu sinh -  người dân quê hôm nay đang chịu đựng. Nghĩ cảnh người rồi lại nghĩ cảnh mình, ông tự an ủi “thôi, vì con vì cháu”.

Hôm nghỉ lễ vừa rồi, cả sắp con về quê, nhà ông Hai vui như hội. Chừng tụi nó cũng đã có chút để dành nên mấy đứa khẩn khoản “hay bố mẹ về dưới, không thích ở chung tụi con mua một mảnh đất nhỏ ở vùng ven, có chỗ để trồng rau nuôi gà cho đỡ nhớ quê”. Bà Hai có vẻ xuôi xuôi khi đứa cháu nội ê a rủ “xuống chơi với con”, nhưng ông Hai lắc đầu: “Tụi bây có nhớ thì làm siêng về thăm tao. Tao ở đây quen rồi, có chỗ mà thở, có nhúm ruột của thằng út khi chào đời, hương hồn người ruột thịt. Bỏ đi sao đặng!”.

Nguyễn Doãn Công



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Apr/2011 lúc 4:49am
HIU HIU GIÓ BẮC
 
Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư   
Thứ Năm, 31 Tháng 3 Năm 2011 15:25

Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp.

Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: " Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương" .

Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: " Mê gì như thằng Hết mê cờ" .

Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: " Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?" .

Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê. Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.

Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng vô.

Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu .  Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấụ Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.

Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay: " Ăn rồi . Ăn cơm với thằng Hết rồi" .

Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một chút.

Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.

Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về.

Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều.  Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.

Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có nghĩa gì đâu.

 Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái xóm Giồng Mới . Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường.

Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, " Chớ ầu ơ... Cây khô đâu dễ mọc chồị.." .

Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình.

 Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.

Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bộị Hỏi anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.

Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết mình.

Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảọ

Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi.  Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được. Ai đời, đi chốt qua sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoài.

 Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.

Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổị Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị.

Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vui . Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: " Anh Hết hổng được chỗ nào hả má?" .

- " ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo.  Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà" .

 Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đờị

Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép.

 Sáng hôm sau anh đã thay đổi, nhanh như người ta lật một bàn taỵ Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng Hết bê tha thiệt rồị Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên mấy con cờ xanh đỏ.

Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ lớn nhất đời ngườị Con đã nợ má em Hoài, tía à.

 Không biết ông già rồi có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậỵ Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu nhịp nhàng " Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường" .

 Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đờị

Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơị Xóm này người ta không biết nên nói mày hết thuốc chữa rồị Con tao mà vậy à.

Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng.

Hôm đám, anh Hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậỵ

 Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồị

Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậỵ Anh Hết dứt khoát không ngước lên.

Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vàọ

 Đi một đoạn, nghe đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà khóc vậỵ

Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưạ

Hết cười lớn, nói lớn: " ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về" ...

 
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.

Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tíạ

Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khộ Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh rau đắng.

Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót xa:

- Sao nông nỗi vầy, Hoàỉ

Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không tin: " Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ" .

 Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.

Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông.

Chị thôi không đứng tần ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữạ

Chị Hoài nói với bạn: " Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ, ảnh nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè..." .

Giữa đường nói chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đâỵ Cho bỏ tội mê cờ, nghen.

Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay vào quân cờ nào nữa.

Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi.

Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn. Tấn chỗ nàỏ Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏi.

Tụi nhỏ kêu, đây là kiểu " hiệp sĩ mù nghe gió kiếm" , đánh cờ mà làm công chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.

Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô.

Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nộị

Hết lượng sượng mãi mới cười: " Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ" .

Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không.

 Anh Hết cãi, làm gì có, tíạ Ông già đứng dậy, vậy phải thử.

Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi.

Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà:

" Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:

- Hảo, tôi... cảm ơn.

Anh ngần ngừ sau chữ " tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãị Chi vậy Hết ơi!

Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừạ Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu không?

Hiểu, nên tôi chờ đây nè.

Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm " Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn" , chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.

Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?

Ai mà biết.

Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về.



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Apr/2011 lúc 7:08am
 

Cái lợi của 10 năm nói dối vợ

 
 

 

Trong 10 điều cấm của vợ tôi, nghiêm trọng nhất là cấm nói dối. Thế nhưng sự thực là suốt 10 năm sống với nhau, tôi nói dối nàng liên tục.



 

“Trên đời này em ghét nhất là dối trá. Vì thế, dù sự thật khó nhằn thế nào anh cũng phải nói với em, hễ nói dối là tình vợ chồng đứt cái phựt đừng hòng nối lại”, nàng phủ đầu ngay khi tôi cầu hôn. Tôi trịnh trọng hứa trước khi lồng nhẫn vào tay nàng. Kể từ đó, nàng yên tâm là đã trói tôi như đã buộc cổ dề vào con cún.

 

Tôi đi họp thì báo là họp, nhậu thì khai là nhậu, không như mấy gã  hư hỏng cứ than họp hành triền miên trong khi mài đũng quần trên chiếu nhậu đến ê cả mông, nhầu cả mặt. Vợ tôi đến giờ vẫn vô cùng tín nhiệm, coi tôi là lão chồng ngoan ngoãn thật thà. Vì thế nên mong các bạn giữ kín hộ những gì tôi chia sẻ hôm nay: Sự thật là tôi nói dối vợ suốt. Tôi không thể không thấy là nói dối vợ nhiều khi rất có lợi, thậm chí siêu lợi.

 

 

Bao nhiêu năm nay trước mặt vợ, tôi vẫn ra vẻ một thằng chồng cù lần rỗng ví, vợ cho bao nhiêu tiền thì tiêu bấy nhiêu, vì bao nhiêu lương lậu đã nộp cho nàng cả. Thỉnh thoảng tôi còn vờ vịt là lỡ đi nhậu hết cả tiền, xin thêm ít để ăn trưa. Nàng không bao giờ biết là tôi có quỹ đen. Trong các bạn, những ai là đàn ông thì hết thảy phải đồng ý với tôi rằng, phàm đã bị vợ thu hết tiền lương, anh nào bảo không có quỹ đen thì một là hắn nói dối, hai là hắn không phải thằng tử tế với vợ. Tại sao ư? Hãy xem tôi làm được gì với cái quỹ đen của tôi.

 

 

Mỗi ngày vợ cho tôi 100 nghìn (tính theo giá trị tiền đồng hiện nay nhé). Tôi ăn sáng mất 25 nghìn, ăn trưa mất 40 nghìn. Hôm nào “đi lạc” sang cái quán bên cạnh với mức ăn sáng 35 nghìn, ăn trưa 65 nghìn là hết cả tiền xăng xe. Thế nhưng đàn ông chúng ta, có anh nào không cà phê cà pháo, không rượu bia nhậu nhẹt? Lấy tiền đâu ra? Quý đen chứ đâu. Đó là tiền tôi cặm cụi làm thêm, tiền cơ quan thỉnh thoảng bổ sung quỹ lương… Nhờ nó, ngày 8/3, sinh nhật nàng…, tôi có thể tặng nàng một bó hoa thật sang, bộ đồ lót thật xịn, cái túi xách thật oách, khai giá giảm đến 70% rồi nói dối nàng (lại nói dối) rằng “đó là tiền anh nhịn ăn sáng suốt một tuần”. Vợ tôi cảm động muốn khóc, sau đó lén dúi thêm tiền vào túi chồng.

 

 

Có quỹ đen, tôi ăn nhậu, tiêu xài… mà vợ chẳng hay biết gì hết. Thử tưởng tượng nếu không có quỹ, kiểu gì tôi cũng phải xin tiền nàng cho những vụ đó chứ không nhịn được. Sĩ diện của thằng đàn ông tôi chẳng màng, tôi chỉ nghĩ nếu vợ thấy phải chi đến mấy triệu đồng một tháng cho những thứ ba lăng nhăng vớ vẩn ấy thì sẽ xót xa đứt ruột, tội cho nàng biết bao. Lập quỹ đen, âu cũng là vì yêu vợ, thương vợ vậy.

 

 

Thực ra tôi không chỉ nói dối vợ mỗi chuyện tiền. Cả về tình tôi cũng dối nốt. Dĩ nhiên là tôi luôn yêu nàng, nhưng tình yêu sau 10 năm lấy nhau không thể sôi nổi như thuở ban đầu, hễ thấy nhau là “tim đập chân run” được. Mỗi lần phải đi công tác xa vài ngày, tôi không thể cồn cào nhớ nàng vì ngày mải làm việc, đêm nhậu với bạn rồi ngủ tít trong khách sạn. Thế nhưng với thói lãng mạn, nàng không chấp nhận điều đó. Thế nên tôi vẫn luôn nói rằng tôi nhớ nàng phát điên lên được, rằng tôi yêu nàng không khác gì ngày xưa… (sự thật là tôi yêu nàng chẳng kém ngày xưa, nhưng chắc chắn phải khác ngày xưa).

 

 

Lại còn chuyện nàng hỏi tôi về nhan sắc của nàng nữa, dĩ nhiên tôi lại phải nói dối. “Em già quá rồi phải không anh?”. “Anh xem này, em ngày càng béo”. “Anh thấy bụng em có to quá không?’. Bạn thử nghĩ xem, nàng chẳng nói câu nào sai, nhưng chẳng lẽ tôi lại gật đầu lia lịa? Tôi lập tức cao giọng mắng nàng: “To gì? Em có bụng đâu mà to?”. “Đồ ngốc. Anh cực kỳ ghét loại đàn bà chẳng có tí da thịt nào”. (Tôi nói “da thịt”, tránh đề cập đến khái niệm “mỡ”). “Em dở hơi à? Em ra ngoài đường mà xem cái bọn sinh viên mới ra trường có trẻ được bằng em không?”. Vợ tôi yên tâm ngay. Có thể nàng thấy mình chẳng xinh như tôi ca ngợi, nhưng nàng nghĩ điều quan trọng là chồng thấy mình xinh. Thế là nàng lại đủ tự tin để nhí nhảnh, nũng nịu với chồng như cũ.

 

 

Và còn vô số điều khác, tôi đã nói dối nàng. Chẳng ngụy biện đâu, tôi nói dối vì thấy… có lợi đã đành, còn vì tôi yêu nàng nữa, dù tình yêu không giống như ngày xưa. Một lần nữa xin nhắc các bạn đừng mách vợ tôi để điều tôi thổ lộ hôm nay vẫn tiếp tục là bí mật với nàng.

 

Mà nếu các bạn có mách cũng chẳng sao, bởi vợ tôi sẽ cho là các bạn nói dối nàng, hoặc nãy giờ tôi đã nói dối các bạn cho vui, vì hôm nay là Ngày Nói dối 1/4 mà.

 

 

http://www.baodatviet.vn/Home/doisong/Cai-loi-cua-10-nam-noi-doi-vo/20114/138264.datviet - - http://www.baodatviet.vn/Home/doisong/Cai-loi-cua-10-nam-noi-doi-vo/20114/138264.datviet



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 06/Apr/2011 lúc 10:37am
Bướm Vàng Đậu Ngọn Mù U
Tác giả Ấu Tím
Diễn đọc Mỹ Hạnh & Dzuylynh
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=664890 - http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=664890
 




-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Apr/2011 lúc 9:44am
 
“Trong thảm họa nước Nhật, con học được cách thương yêu và hy sinh”

Japan%20Needs%20You

(Dân trí) - Mẹ, lúc ở nhà, con chưa từng một lần nói yêu mẹ, cũng chưa từng làm được điều gì cho mẹ vui lòng. Kỳ lạ thay, đang ở nước Nhật, chứng kiến những thảm họa khủng khiếp, con đã học được cách yêu và cách hy sinh, mẹ ạ.

 Mẹ,

Từ nhỏ, được bố mẹ lo cho một cuộc sống đầy đủ nên con chẳng chịu học hành, chưa có ý chí phấn đấu. Tốt nghiệp cấp 3, con cũng không chịu thi đại học, tự ý tung hô con đường của riêng mình. Con học những gì con thích, làm những gì con cho là hay ho, không cần biết tương lai phía trước sẽ ra sao mà thực sự, con cũng chẳng biết sau này mình sẽ làm được gì.  

Ở cái tuổi ương ương, xanh xanh ấy, lúc nào con cũng muốn chứng tỏ bản thân mình đã lớn, cho rằng việc của bản thân mình là quan trọng. Con biết đâu rằng sự ích kỷ của mình đã nhiều lần làm tổn thương đến mẹ. Mỗi lần cãi lại mẹ, đối đầu với mẹ, làm mẹ khóc, là mỗi lần con thấy cái tôi của mình được nâng lên.  

Con luôn đòi hỏi bố mẹ phải quan tâm, chăm sóc con nhiều hơn nữa. Con thấy mình chưa đủ hạnh phúc. Nhưng lúc đó làm sao con biết từ khi lấy nhau, sinh con ra, bố mẹ đã phải lao vào làm ăn, buôn bán dù thâu đêm suốt sáng không ngủ để lo cho con một cuộc sống thừa cơm ăn áo mặc. Nhưng con vẫn yêu cầu bố mẹ phải dành thời gian cho con nhiều hơn nữa.  

Nhưng bố mẹ biết không, từ khi con sang đây, bắt đầu cuộc sống tự lập, con mới hiểu thất bại lớn nhất của cuộc đời là làm cho bố mẹ mình đau khổ. Ở nơi đất khách quê người, con vừa làm vừa học tập, con mới hiểu thế nào là nỗi lo cơm áo gạo tiền. Không đi làm sẽ không có tiền trả tiền nhà, tiền gia, điện, nước và tiền ăn. Rồi còn cả tiền học nữa. Giờ con mới hiểu 18 năm con đi học là 18 năm mẹ quay cuồng vì mối lo này, và tất cả là vì con.  
 
Đặng Minh Thảo (hàng cuối, thứ 2 từ phải sang) cùng các bạn người Việt và các em người Nhật ở thành phố Kitakyusyu đi quyên góp ủng hộ người dân vùng thảm họa.

Nước Nhật đã làm con thay đổi nhiều lắm mẹ ạ. Nhìn họ, con đã biết chăm chỉ làm việc, có tinh thần trách nhiệm. Từ suy nghĩ “bố mẹ phải làm gì cho con”, con đã biết nghĩ ngược lại “con đã làm được gì cho bố mẹ, đã làm được gì để bố mẹ có thể tự hào về con”. Và con đã hành động rất khác trước đây. Những thành quả nay con có được tất cả đều quá bé nhỏ và đơn giảm với nhiều người, nhưng con muốn dành mọi điều cho bố mẹ.  

Rồi con chứng kiến bao mất mát mà thiên tai bỗng chốc giáng xuống con người: hình ảnh những công trình kiên cố bao công xây dựng bỗng dưng chỉ là đổ nát và đổ nát, những người mẹ để tuột mất con trong thảm họa, những em bé không còn gia đình  http://dantri.com.vn/c728/s728-467984/le-tot-nghiep-dac-biet-o-vung-tam-dong-dat-nhat.htm - đưa đến dự lễ tốt nghiệp , những bát súp đong đầy tình người trong khốn khó…. Dù chỉ qua truyền hình, nhưng con cảm nhận chết chóc và đổ vỡ hiển hiện nhiều nơi. Hàng nghìn người vẫn phải sống trong các trung tâm tạm trú. Khó khăn, thiếu thốn mọi bề, trong khi mối nguy hiểm hạt nhân vẫn còn lơ lửng.  

Ở quê nhà, bố mẹ và người thân đang lo lắng gọi điện giục con về, nhưng bố mẹ đừng lo. Nơi con ở là tỉnh miền nam, cách khu vực đông bắc và Tokyo hơn 1.200km, nên mẹ yên tâm. Dù người Nhật đang đối mặt với thời khắc kinh khủng nhất, nhưng với lòng kiên trì và tính cách chăm chỉ lao động của người Nhật, nước Nhật sẽ lại hồi sinh. 

Cũng chính đây là lúc con học hỏi được rất nhiều đức tính quý giá của tính cách Nhật, càng gắn bó với xứ sở này, nên con càng không thể về. Con tiếp tục phải ở lại đây, học tập, làm việc như những người Nhật, cùng chung tay góp sức xoa dịu một phần nỗi đau của bao người và cả những khó khăn của các bạn ở vùng Tokyo và Đông Bắc nữa.  

Có những điều quý giá ta có mà không biết. Có những điều quý giá mà khi mất đi rồi, ta mới biết. Trong thảm họa với người Nhật, con đã học được rất nhiều, và đặc biệt là biết những gì với mình là quý giá. Dù hơn 18 năm qua, con chưa từng nói một lần, nhưng bây giờ con muốn nói: Con yêu bố mẹ hơn tất thảy trên đời. 

Con gái của bố mẹ
            Đặng Minh Thảo
            Sinh viên năm I Đại học Công nghiệp Kyusyu, Fukuoka

 

http://dantri.com.vn/c25/s135-468010/trong-tham-hoa-nuoc-nhat-con-hoc-duoc-cach-thuong-yeu-va-hy-sinh.htm - http://dantri.com.vn/c25/s135-468010/trong-tham-hoa-nuoc-nhat-con-hoc-duoc-cach-thuong-yeu-va-hy-sinh.htm

 
 
 

 


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Apr/2011 lúc 9:50pm

NUÔI MẸ
Tác giả: Nguyễn Phúc Song Hương
Diễn đọc
: Trần
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=656716 -



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 26/Apr/2011 lúc 8:51pm
BẢNG CHỮ CÁI KỲ DIỆU
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Ba, 26 Tháng 4 Năm 2011 08:15

Hãy cùng khám phá cuộc sống qua bảng chữ cái kỳ diệu, để tự tìm lại cho mình những bài học quý giá mà cuộc sống muốn gửi gắm đến bạn.
Xin
http://saigonecho.com/saigon1945/suytu/alphabet_of_life.pdf -



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 29/Apr/2011 lúc 4:25am
Mẹ Điên
Tác giả: Vô Danh
Diễn đọc: Trang hạ - Vương Hằng Tích 
 
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=670714 -  
 


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/May/2011 lúc 5:37am
MẸ TÔI
Cẩm Ly
http://www.youtube.com/watch?v=0pb-CFERoqE -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 04/May/2011 lúc 8:20am
 
 
CHÚC MỪNG TẤT CẢ CÁC BÀ MẸ
 
 
 
 
 
 
 
 
 mothers-day-desi-glitters-9
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/May/2011 lúc 8:36pm
http://www.authorstream.com/Presentation/tdhoanh-241082-doi-ca-thien-thu-tieng-cuoi-entertainment-ppt-powerpoint/">
ĐỔI CẢ THIÊN THU TIÊNG ME CƯỜI
Trần Trung Đạo
Đào Thúy
 
http://www.authorstream.com/Presentation/tdhoanh-241082-doi-ca-thien-thu-tieng-cuoi-entertainment-ppt-powerpoint/


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/May/2011 lúc 8:38pm
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Mặc Thủy

 
 
Kính tặng tất cả bà mẹ Việt Nam,
đặc biệt riêng cho  Bà Mẹ Gò Công

 
 
 

 

“Người mãi còn kia trên đỉnh núi,

Bồng con  đứng đợi tự ngàn năm…

Tôi xin qùy xuống hôn lên đá,

Danh tiết muôn đời Mẹ Việt Nam !! ’’

 (Mc Thy)

Mother’s Day 2011

 



-------------
mk


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/May/2011 lúc 9:02pm
MẸ GÒ CÔNG
Hòang Phương
Ngô Quốc Linh
http://www.youtube.com/watch?v=LQGCCwSBTyA -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/May/2011 lúc 1:40am
 
 
 Mother'Day 2011
 
 
 
 
 
 
MẸ VÀ LỜI RU
 
Tác giả : nhạc sĩ Nhất Sinh
 
*
 
Trình bày : ca sĩ Trọng Phúc
http://www.cakhucvietnam.com/ca-khuc/me-va-loi-ru/ZKBYQGHRTW - http://www.cakhucvietnam.com/ca-khuc/me-va-loi-ru/ZKBYQGHRTW
 
 
Trình bày : ca sĩ Hương Lan
http://m.www.nhaccuatui.com/nghe?M=7MQ8ln1f6j - http://m.www.nhaccuatui.com/nghe?M=7MQ8ln1f6j
 
 
 
**
*****
 
 
Tôi lớn lên từ vành nôi
Tôi lớn lên từ bờ tre
Tôi lớn lên từ lời ru
Với tiếng sáo diều lả lơi
Con nước đi về đầy vơi.

Bên mái tranh chiều ngày xưa
Chiếc võng kẽo kẹt mẹ đưa
Với tiếng ru hời hời ru
Man mác tâm hồn tuổi thơ
Xao xuyến đến tự bấy giờ.

Đêm đêm, mẹ ngồi ru con
Tiếng ru khắc khoải như chờ đợi ai
Ngoài xa, tu hú gọi bầy
Trăng tà như vướng víu vào lời ru.

Ầu ơ … Con ơn con ngủ cho ngoan
Cha con còn bận nước non chưa về
Cha con còn bận nước non chưa về.

Như nước trong nguồn chảy ra
Như sóng rào rạt biển đông
Như đuốc soi đường con đi
Câu hát vô cùng mẹ ơi
Vẫn mãi vang vọng đời con.

Năm tháng qua rồi mà sao
Không thể quên được lời ru
Ao ước quay về tuổi thơ
Để thấy cánh cò ngày xưa
Trong tiếng ru hời của mẹ.
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/May/2011 lúc 2:53pm

Túi gạo của Mẹ

Dịch giả: Linh Đan

 


Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này,nhưng dường như,nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ.Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ.Cha qua đời vì cơn bạo bệnh.Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng,người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy,chị quyết không đi bước nữa.Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình.Chị cặm cụi,chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp,tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị.Ngày qua ngày,năm nối năm,những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên,ngoan ngoãn,học hành giỏi giang,nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai,cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố.Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ.Thế nhưng không may thay,khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh.Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới.Vốn là lao động chính của gia đình ,giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông.Cậu bé vốn hiểu chuyện,thương mẹ vất vả,cậu xin nghỉ học:
- Mẹ này,con nghỉ học thôi,ở nhà làm ruộng thay mẹ.Đi học,tiền đâu mà đóng học phí,tiền sinh hoạt phí,lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa,nhà mình biết lấy đâu ra.
- Có thế nào con cũng không được bỏ học.Con là niềm tự hào của mẹ.Chỉ cần con chăm chỉ học hành,còn những việc khác,con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu,cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ.Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm.Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được ,mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má,cậu mới sững người lại.Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi.Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nỡ…

Nghe mẹ,cậu khăn gói vào trường nhập học.Lòng cậu nặng trĩu.Người mẹ đứng lặng hồi lâu,nhìn bóng con trai khuất dần…

Ít lâu sau,có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa,chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ.Chị nộp gạo cho con trai.Chị là người đến muộn nhất.Đặt bao gạo xuống đất,chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị,nói:
-Chị đặt lên cân đi.Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi.

Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại,giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào.Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn.Đấy,chị xem.Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ,vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ,cả cám gạo nữa,đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi,gạo thế này,chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. _ Thầy vừa nói vừa lắc đầu.
-Nhận vào. _ Thầy nói ,không ngẩng đầu lên,đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

Mặt người mẹ đỏ ửng lên.Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:
-Tôi có 5 đồng,thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?
-Thôi,chị cầm lấy để đi đường uống nước. _ Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay,khổ sở,mặt đỏ ửng lên,chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào.Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

~*~

Đầu tháng sau,chị lại đến nộp gạo cho con trai.Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày,lắc đầu.Thầy có vẻ lạnh lùng ,ác cảm:
- Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì,chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra,đừng trộn chung như thế này.Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem,với loại gạo hổ lốn thế này,liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
- Thầy thông cảm.Thầy nhận cho,ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế ! Người phụ nữ bối rối.
- Thật buồn cười cái nhà chị này ! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào ! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt,mặt chị trở nên trắng bệch,nhợt nhạt.Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp,bước cao ra về.Dáng chị liêu xiêu,đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

~*~

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo.Chị lại đến.Vẫn dáng đi xiêu vẹo,mồ hôi mướt mải trên trán,ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ.Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.

Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra.Lần này,nét giận dữ in hằn trên mặt thầy.Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:
- Tôi đã nói với chị thế nào.Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa.Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này.Chị mang về đi.Tôi không nhận !

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất.Dường như bao nỗi ấm ức,đau khổ va bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát.Chị khóc.Hai hàng nước mắt nóng hổi,chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn.Có lẽ,chị khóc vì tủi thân và xấu hổ.Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc,không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế.

Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng.Một bên chân quắt queo lại
- Thưa với thầy,gạo này là do tôi... Tôi đi ăn xin,gom góp lại bao ngày mới có được.Chẳng giấu gì thầy,chân cẳng tôi thế này,tôi làm ruộng thế nào được nữa.Cháu nó sớm hiểu chuyện,đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng.Thế nhưng tôi kiên quyết không cho,kiên quyết không để con tôi thất học.Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này.Nhà chỉ có hai mẹ con,cha cháu mất sớm... Thầy thương tình,thầy nhận giúp cho.Không nộp gạo,con tôi thất học mất !

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế.Trời còn tờ mờ,khi xóm làng còn chưa thức giấc,chị lặng lẽ chống gậy,lê mình rời khỏi thôn.Chị đi khắp hang cùng,ngõ hẻm xóm khác xin gạo.Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về.Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng.Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên.Giọng thầy nhỏ nhẹ :
- Chị đứng lên đi,người mẹ trẻ ! chị làm tôi thực sự bất ngờ.Tôi đã có lời không phải với chị.Thôi thế này,tôi nhận.Tôi sẽ thong báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này,để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt.Chị gần như chắp tay lạy thầy.Giọng chị van lơn:
- Xin thầy.Tôi có thể lo cho cháu,dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được.Khổ mấy,vất vả mấy tôi cũng chịu được.Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này.Đây là bí mật của tôi,mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn,đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc,liêu xiêu ra về.

Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng.Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối.Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này.Ngoài ra,học lực của cậu rất khá,đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp,cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường.Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô.Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú,khi tên cậu được xướng lên đầu tiên,mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất,mỉm cười sung sướng.

Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy,có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng,nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất.Ai cũng thắc mắc,không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong buổi lễ trang nghiêm ấy,thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài.

Cả trường lặng đi vì xúc động.Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra.Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.

Thầy nói:
- Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực.Những hạt gạo đáng quý này,Tiền,vàng cũng không thể mua nổi.Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc.Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu tùng bước khó nhọc bước lên sân khấu.

Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

- Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng,chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha,người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản,tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai.Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy,chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:
- Mẹ ơi ! Mẹ của con…

Linh Đan (dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/May/2011 lúc 6:11am
NHỚ MẸ LÝ MỒ CÔI
Cẩm Ly
http://www.youtube.com/watch?v=tnBsgVjTqp8&feature=related -
 


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 06/May/2011 lúc 11:00am
 
Nhạc ngày của Mẹ




 


-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/May/2011 lúc 5:06pm
lòng mẹ 1
tác giả: THL
diễn đọc : hoàng tín
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=655958 -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2011 lúc 7:34am
LÒNG MẸ 2
tác giả: THL
diễn đọc : hoàng tín
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=655959 -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2011 lúc 8:29am
GIÒNG NHỚ
Tác giả: Nguyễn Ngọc Tư
Diễn đọc: Tuyết Lê - Nguyễn Đình Khánh

http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=637413 -


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 07/May/2011 lúc 9:35am
.
/chuyen-cua-hoa/hoa-cuc-danh-cho-ngay-cua-me/In.html -    
 
 
/chuyen-cua-hoa/hoa-cuc-danh-cho-ngay-cua-me.html - Hoa Cúc dành cho Ngày của Mẹ /chuyen-cua-hoa/hoa-cuc-danh-cho-ngay-cua-me/In.html -   /component/option,com_mailto/link,0ea5c880d9abc153c06e397b8b2f6c4f8f810738/tmpl,component/ -  
Trong Ngày của Mẹ (Mother’s Day),
 hoa Cúc là loại hoa thích hợp nhất để những người con hiếu thảo tặng Mẹ của mình.
Ở hầu hết mọi nơi đặc biệt là ở châu Âu, hoa Cúc là loại hoa cao quý, thường được tặng cho những người phụ nữ mà ta kính trọng và yêu mến.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2011 lúc 3:26pm
TỪ MOTHER (MẸ) CÓ NGHĨA NHƯ SAU:

M - Million là hàng triệu điều Mẹ trao cho con, người Mẹ được ví như hàng triệu triệu thứ trên đời.

O - Old  nghĩa là Mẹ sẽ vì thế mà ngày càng già đi, người Mẹ phải chăm sóc chúng ta nên mỗi một ngày Mẹ già đi.

T - Tears  là những giọt nước mắt Mẹ đã đổ vì con, người Mẹ luôn luôn thương yêu chúng ta và đôi khi vì chúng ta mà Mẹ chảy nước mắt.

H - Heart  là Trái tim vàng của Mẹ, Trái tim người Mẹ luôn luôn dành cho chúng ta.

E - Eyes là đôi mắt Mẹ luôn dõi theo con, đôi mắt của Mẹ luôn luôn dõi theo chúng ta từng ngày.

R - Right là những gì đúng đắn Mẹ hay khuyên bảo, những điều đúng đắn Mẹ hướng dẫn cho chúng ta, Mẹ luôn luôn là người giúp chúng ta sống tốt và sống đúng. Một người Mẹ luôn luôn và sẵn sàng hy sinh cho con cái.



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2011 lúc 10:11pm

Bà Mẹ Vợ

 

       Steve đi làm về, vừa thay quần áo xong là Linh kéo tay anh ngồi xuống giường :
- Em muốn nói với anh một chuyện nghiêm chỉnh nè..
Steve vòng tay qua ôm và hôn vợ, làm Linh dãy nảy lên :
- Trời ơi, em đã nói là chuyện nghiêm chỉnh mà.
Steve cãi :
- Anh hôn em, hôn vợ đâu phải là chuyện đùa.
- Thôi được, nghe em hỏi đây : Anh có muốn con mình bị cảm lạnh không? Không chứ gì ! Anh có muốn con mình bị sưng phổi không ? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị mất ăn, mất ngủ không? Cũng không chứ gì?
Steve kêu lên kinh ngạc:
- Em hôm nay làm sao thế? Em hỏi anh một tràng những câu hỏi khủng khiếp rồi em tự ý trả lời, không chừa cho anh có cơ hội nói một chữ nào.
- Em biết chắc anh sẽ trả lời ? không? nên em trả lời giùm anh luôn cho nhanh.. Nghe em hỏi tiếp đây, anh có biết là chị Hai em mới bảo lãnh mẹ em qua Mỹ được vài tháng nay không? Biết chứ gì! Anh có biết là mẹ đang ở với gia đình chị Hai ở California không? Biết chứ gì!...
Steve lại kêu trời:
- Em nói những chuyện lung tung, chẳng liên quan gì đến nhau cả !
- Có liên quan đây. Em định bàn với anh là mời mẹ về ở chung với chúng mình, để mẹ trông thằng Eugene, khỏi phải mỗi buổi sáng bồng bế nó đi Day Care. Tội nghiệp !
Steve tròn mắt lên:
- Có nghĩa là mẹ em sẽ ở đây dài lâu?
Linh hạ giọng, dịu dàng để Steve cảm động:
- Mẹ sẽ giúp mình được nhiều việc. Anh thấy rồi đó, con mình mới có 9 tháng tuổi mà nay bị cảm, mai bị hỏMỗi sáng sớm xách con ra xe đem đi gởi mà em đau lòng quá. Có mẹ ở đây, Eugene sẽ yên ấm ở nhà, sẽ ăn no ngủ kỹ, ngoài ra, mẹ còn trông nom nhà cửa, nấu nướng phụ em được nữa.
Steve ngạc nhiên:
- Có một bà mẹ già làm được những điều ấy sao?
- Em chẳng biết những bà mẹ Mỹ của anh giỏi cỡ nào! Nhưng mẹ em hay các bà mẹ Việt Nam khác đều là thế cả.
Steve chép miệng:
- Ðiều này rất tốt, nhưng mất sự riêng tư của chúng mình !
Linh năn nỉ:
- Nhà mình rộng thênh thang, mẹ thương em, em thương mẹ và em tin rằng anh cũng sẽ?thương mẹ em luôn.
Thấy Steve chần chừ, Linh tấn công thêm, vì cô biết chồng rất thương con:
- Nhưng vì con mình là trên hết. Mẹ sẽ là người chăm sóc nó tuyệt vời.
Steve trả giá:
- Anh tạm đồng ý. Nếu mẹ ở một thời gian , không thích hợp thì thôi nhé?
Linh vui thích ôm lấy cổ chồng:
- Cám ơn anh, bây giờ anh cứ hôn em đi! Unlimited !
Linh thừa hiểu, người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời sống vợ chồng. Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám, chẳng thằng con rể nào muốn mời tới nhà, nói gì ở chung lâu dài ! Hơn nữa, một bà mẹ vợ không đồng chủng, mới từ Việt Nam qua, chưa gặp gỡ, trò chuyện , thì làm sao mà Steve, một người Mỹ Anglo không e ngại ?
Mẹ và chị Hai đều chấp nhận đề nghị của Linh, con Linh còn nhỏ nên cần sự giúp đỡ của mẹ hơn.Và vì Linh lận đận tình duyên, kén chọn mãi, hơn 30 tuổi mới lấy chồng, nên mẹ cũng thương đứa con lận đận hơn .
Linh mua vé máy bay, hôm sau mẹ Linh đã từ California bay đến xứ núi Utah, ngay những ngày đầu mùa Ðông giá lạnh.
Hôm bà đến, tuyết rơi trắng xoá, những mái nhà phủ đầy tuyết, và xa xa những dãy núi cũng phủ đầy tuyết trắng làm bà rợn người, chợt tưởng như vừa bị ném vào một cõi hoang vu, xa lạ . May mà có cô con gái ngồi bên cạnh, là điểm tựa duy nhất để bà tin là mình không đi lạc, không bị bỏ rơi. Chứ thằng con rể người Mỹ, và thằng cháu ngoại trông giống bố, mắt xanh, tóc vàng kia coi nhử chẳng liên quan gì đến bà.
Về đến nhà, Linh dẫn mẹ đi khắp nhà để chỉ dẫn những điều cần biết về nơi ăn, chốn ở, và những sinh hoạt hàng ngày.
Bắt đầu từ ngày mai, thằng Eugene sẽ ở nhà với bà ngoại.
Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng Linh mở cửa ra đi làm, giữa trời lạnh, tuyết bay ngoài đường, Linh thấy yên lòng vì con mình vẫn đang nằm ngủ êm ấm trong nhà, hơn thế nữa, trong vòng tay chăm sóc, thương yêu của bà ngoại.
Suốt đêm qua, phần vì lạ nhà, phần vì thấp thỏm cho một công việc mới, nên bà không ngủ ngon cho lắm, chỉ còn hai bà cháu ở nhà, bà nằm ngủ tiếp, cho đến khi Eugene tỉnh giấc và khóc, bà tỉnh dậy, thấy đồng hồ chỉ 9 giờ sáng.
Bà thay tã cho nó và đi pha sữa. Nuôi trẻ con ở Mỹ sao mà lắm thứ, lỉnh kỉnh thế ! sữa này, nước trái cây này, đồ ăn sẵn trong hũ nàỷXứ văn minh, giàu có quá chỉ bày đặt ! Hồi xưa, bà nuôi mấy đứa con, có cần những thứ này đâu, mà đứa nào cũng khoẻ mạnh và lớn lên như thổi .
Thằng bé vừa bú bình sữa vừa nhìn bà lạ lẫm, bà cũng có dịp nhìn nó kỹ hơn, nó giống bố, chẳng giống mẹ tí nào, nếu không do chính con gái bà đẻ ra thì bà không tin nó có một nửa dòng máu Việt Nam trong người. Mới hôm qua, bà còn cảm thấy xa lạ nó, mà bây giờ , ôm nó trong tay, nhìn nét mặt bé bỏng, ngây thơ, đang cần bàn tay bà chăm sóc, bà thấy tình máu mủ, ruột thịt, gắn bó với nó biết bao.
Thằng bé đã biết bò, vừa đặt ngồi xuống là nó đã bò thoăn thoắt, nên bà cứ phải để mắt đến cháu luôn, không dám đặt trên giường, sợ nó bò lăn xuống đất.
Ðể chắc ăn, buổi trưa, bà trải một tấm mền ngay giữa phòng khách cho nó nằm ngủ, bà vừa trông nó, vừa nấu cơm. Bà lấy đồ trong tủ lạnh ra, lấy nồi, lấy chảo, lấy dao, lấy thớt?Mọi động tác đều làm nhẹ nhàng, khe khẽ, thế mà thằng bé tỉnh ngủ quá, bà quay lại đã thấy nó thức và ngồi nhỏm dậy từ lúc nào. Bà vội vàng ra đặt nó nằm xuống, vỗ về cho nó ngủ tiếp, rồi khi bà phi hành tỏi, làm món rau xào, vừa đổ rau vào chảo, kêu ?xèỏ một tiếng cũng đủ làm Eugene mở mắt, lại ngồi nhỏm dậy, hai mắt mở to trô trố nhìn bà, cứ vài lần nó tỉnh giấc, và bà vỗ về như thế, mới nấu xong một bữa cơm. Thật căng thẳng và hồi hộp, lo bảo vệ giấc ngủ cho thằng cháu mà bà cứ thấp thỏm, rón rén như đang đi ăn trộm !
Nấu cơm xong, tưởng được thoải mái, thì đến lượt cái điện thoại làm phiền giấc ngủ của cháu bà. Tiếng phone ring inh ỏi, nghe thấy tiếng Mỹ là bà cúp luôn, không để phí phạm thêm một phút giây nào cả. Vì mấy tháng sống ở California với cô con gái lớn, bà đã học được kinh nghiệm là có những cú phone, nói tiếng Mỹ chỉ là quảng cáo, không cần nghe làm chi cho mệt, mà dù có nghe, bà cũng chẳng hiểu .
Bà nhìn cái điện thoại như nhìn một đứa cà chớn, đáng ghét, thế mà nó không chừa, lại ring lên lần nữa, làm tim bà giật thót lên. Lại bốc phone, lại nghe tiếng Mỹ, chắc là thằng cha quảng cáo lúc nãy, bà bực mình, quát vào phone một tràng tiếng Việt Nam:
- Này ! Tôi nói cho ông biết nhé, đừng có gọi quảng cáo đến nhà này làm cháu tôi mất ngủ . Ông mà gọi đến lần nữa là tôỉcúp máy luôn đấy.
Rồi bà đặt phone cái ?kịch? mà vẫn chưa hết bực mình.
Giá như có cái võng đu đưa, thì cháu bà sẽ ngủ say hơn, ngủ lâu hơn, không sợ những tiếng động xung quanh nữa, bà nhìn khắp nhà, không thấy chỗ nào có thể mắc võng được, ở Mỹ coi vậy mà?thiếu tiện nghi. Ở Việt Nam, chỗ nào cũng có thể mắc võng dễ dàng: chân cầu thang, kèo cột, vách tường, hay gốc ổi, gốc mít ngoài sân v..v?
Cuối cùng cháu bà cũng có một giấc ngủ trưa đầy đủ. Thà nó tỉnh dậy, ngồi chơi, bà còn làm được nhiều việc hơn, bà không phải e dè nữa, làm mạnh tay, nhanh chân, vèo một tí là xong, nhà cửa tươm tất, công việc đâu ra đấy.
Buổi chiều Linh về nhà trước, thấy Eugene được ăn ngủ đầy đủ, tắm táp sạch sẽ, Linh vui lắm, xong cô hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, lúc trưa nay, mẹ có chuyện gì mà bực mình thế? Mẹ gắt ầm trong phone.
Bà ngạc nhiên:
 
- Sao con biết? Mẹ gắt mấy thằng quảng cáo đấy, cú gọi đầu làm thằng bé thức giấc, mẹ đã cúp vội máy rồi, nó lì lợm gọi thêm lần nữa, mẹ phải quát nó mới thôi.
Linh ôm bụng cười:
- Chồng con đấy, Steve định gọi cho mẹ để nói Hello với mẹ thôi.
Bà cũng cười, bẻn lẻn :
- Gớm, thôi bảo nó đừng bày đặt nói hello làm gì, cứ nghe điện thoại reo lại nói tiếng Mỹ làm mẹ hết cả hồn.
Ngày đầu chưa quen việc, bà thấy mệt mỏi, vất vả quá, vài ngày sau mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, bà đã nấu những bữa cơm ngon lành, con rể bà bắt đầu nếm những món nọ món kia, mà có cao sang gì đâu, thịt kho tàu, cá kho tộ, tôm rim, thịt bò áp chảỏcanh rau đủ món, thay đổi, làm Steve khám phá ra những cái ngon của đồ ăn Việt Nam, mà Linh chưa hề nấu, phong phú, và đa dạng như mẹ. Ðến nỗi Steve đã hỏi Linh ?Mẹ em trước kia ở Việt nam là chủ nhà hàng hả??.Anh đâu biết, bà chỉ là một người nội trợ bình thường như bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác.
Cháu bà tên Eugene, cái tên gì mà khó đọc, khó nhớ, bà? đổi quách thành cu Tí cho tiện việc, cái tên Việt Nam nghe êm ái và quen thuộc với bà hơn.
Thằng Cu Tí rặt Mỹ, mắt xanh, tóc vàng như rơm, đã quen và thân bà, vì cả ngày ở bên bà, tối lại ngủ với bà. Trước kia, vợ chồng Linh vẫn để nó ngủ một mình trong phòng, bà thấy tội nghiệp cháu quá. Ai đời, vợ chồng ngủ với nhau , để thằng bé ? bơ vơ ?
 
Thường thường cu Tí rất ngoan, bú xong bình sữa là ngủ ngay, nhưng có khi nó cũng dở chứng như thời tiết, hai mắt cứ mở thao láo không chịu ngủ dù đêm đã khuya. Bà đã phải trổ hết tay nghề của một người đàn bà từng nuôi con mọn, bà bế trên tay, đong đưa, bà ấp trong lòng, vỗ nhẹ vào mông nó. Bà đã trổ hết tài ? văn nghệ?, ru à ơi với ca dao, tục ngữ, rồi chuyển sang hát tân nhạc, rồi xuống giọng ngâm thơ nỉ non. Bà đã ? xàỉ hết vốn liếng văn chương của mình mà cu Tí vẫn chưa chịu ngủ, bà nghĩ có lẽ cu Tí chưa ?cảm thông? được tiếng Việt Nam, hay nó tưởng bà kể chuyện, nên mải nghe mà?quên ngủ ?? Bà không nản chí, bà tin rằng dần dần nó sẽ hiểu tiếng Việt Nam, những bài ru của bà sẽ đưa nó vào giấc ngủ dễ dàng, như ngày xưa bà đã từng ru mẹ nó, và khi nó lớn hơn một tí bà sẽ tập cu Tí ăn cơm với đồ ăn có chất mắm muối Việt Nam. Dù bố cu Tí là Mỹ, nhưng mẹ nó là dân Việt Nam cơ mà, ngay cả bố nó, Steve cũng đang quen dần với các món ăn Việt Nam, ăn bánh cuốn cũng hăng hái chan đầy nước mắm, cái món không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của người Việt Nam, nhưng đối với hầu hết người Mỹ vẫn là thứ mùi vị ? khó chịủ không dễ dàng gì chấp nhận được.
 
Thỉnh thoảng bà vẫn nói chuyện tay đôi với con rể mà không cần con gái thông dịch, bà nói tiếng Việt Nam, Steve nói tiếng Anh, lời nóỉtheo gió bay, vì chẳng ai hiểu ai, nhưng vì nhu cầu bà vẫn cứ nói, còn Steve có hiểu hay không thì?mặc kệ nó.
 
Mùa Ðông đã đi qua, phố núi vẫn tràn trề tuyết trắng trên những đỉnh núi xa xa, và lấp lánh màu trắng bạc khi mặt trời có nắng. Trong không gian vẫn còn hơi lạnh dù mùa Xuân đã về, lá bên đường xanh lại, người ta đã quên mùa Ðông để rộn ràng dạo phố, các cửa hàng của ?Open Air Mall? tại Salt Lake City tưng bừng đón khách lại qua, kéo dài tới mùa Hè ngắn ngủi, rồi tới mùa Thu, không gian dìu dịu lạ lùng.
 
Lần đầu tiên trong đời, bà thấy một mùa Thu đúng nghĩa như trong sách vở, thơ văn. Khắp nơi trong thành phố, lá bắt đầu đổi màu, ửng đỏ, ửng vàng từng phần, rồi trở thành đỏ và vàng hàng loạt. Màu lá vàng tươi rói, mơ màng, mà bà tin rằng không một hoạ sĩ nào có thể vẽ nổi cái màu sắc của thiên nhiên thật tuyệt vời ấy. Gió hiu hiu, lá cũng hiu hiu rơi từng chiếc, thế mà dưới những gốc cây chạy dài trên hè phố hay trước sân nhà là cả một thảm lá vàng, đẹp và hoang sơ, tưởng như chưa hề có bước chân người dẫm lên, nên không ai nỡ mang đi, không nỡ quét dọn những chiếc lá thu vàng đó, dù luật của thành phố, đã phát cho cư dân những bao bịch lớn để hốt lá vàng, để mang dấu tích của mùa Thủđi đổ rác !
 
Rồi màu đỏ, màu vàng của lá đậm hơn, gió vẫn hiu hiu nhưng làm lá rụng nhiều .Có một hôm, gió thổi mạnh, quần quật trên mái nhà, bên vách nhà, những bước chân của gió như đang nổi cơn thịnh nộ. Khi bà vén cửa sổ nhìn ra ngoài, cả một rừng lá đỏ, lá vàng bay tả tơi theo chiều gió, rồi trời đổ mưa, giông gió thế, mà mưa chỉ lâm râm, hay mưa sợ làm đau thêm những chiếc lá vàng vừa mới lìa cành ? những chiếc lá bay đi và theo mưa nằm bẹp trên đường ướt át. Cành cây trước nhà hôm qua còn nhiều lá vàng, giờ trở nên trơ trụi, lạnh lẽo chìm trong mưa mù, làm bà mủi lòng, thấy cuộc đời phù du. Hình như mùa Xuân mới vừa hôm qua, lá xanh non, mà hôm nay Ðông về đã tàn phai !
 
Thế là mùa Ðông lại về, bà đã ở với vợ chồng Linh được 1 năm, cu Tí đã biết đi, đã biết ăn phở, ăn bún, bà cắt nhỏ từng sợi phở, sợi bún, nâng niu đút cho cháu từng thìa, Bà muốn nó biết ăn và yêu thích những món ăn Việt Nam trước khi biết đến Hamburger, khoai tây chiên hay hot dog.
 
Khi cu Tí bập bẹ học nói, tiếng đầu tiên nó thốt ra là ?Bà?, bằng tiếng Việt Nam, bà sẽ dạy nó uốn lưỡi để nói thêm chữ ?ngoạỉ, thành ?bà ngoạỉ đàng hoàng. Cu Tí cả ngày quấn quýt bên bà, thằng bé khoẻ mạnh, phổng phao hẳn lên, nó không còn bị ốm vặt như thời đi Day care nữa. Bà thích ngắm cháu, lúc nó vui cười hay cả lúc nó hờn dỗi vì gắt ngủ, đói sữa, khóc dãy lên đành đạch, nước mắt, nước mũi nhoèn ra hai bên má, dễ thương như mặt mèo.
 
Một hôm, bà phải trở về California để dự đám cưới đứa cháu, cũng là dịp thăm lại gia đình cô con gái lớn, con nào bà cũng thương, trước sau gì bà cũng phải về thăm chúng.
 
Thế là vợ chồng Linh lại phải đem cu Tí đi Day care gởi 1 tháng, coi như bà ngoại đi vacation . Bà đi rồi, nhà cửa trống vắng hẳn ra, công việc bỗng ùn lên làm hai vợ chồng Linh bối rối. Ði làm về Steve lo đón con, Linh lo nấu nướng, rồi tắm rửa cho con, dọn dẹp nhà cửa và bao nhiêu thứ việc lặt vặt khác. Những buổi tối đầu tiên xa bà ngoại, cu Tí khó ngủ, có lẽ nó đang đợi nghe những bài ca dao, tục ngữ, những lời ru à ơi, vời vợi, êm ả của bà, dù cái thằng cu Tí kia đã hiểu gì tiếng Việt Nam.
 
Steve buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng , anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào ! Chẳng cần ai nói , Steve cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Anh đã có một người vợ tuyệt vời, yêu chồng, thương con, lại có thêm một bà mẹ vợ cũng tuyệt vời. Mới 2 tuần trôi qua, chưa đến hẹn bà mẹ vợ trở về, Steve bồn chồn hơn cả Linh, anh đã sốt ruột gọi phone cho bà, anh ngọng ngiụ mãi mới nói được một câu tiếng Việt :
- Mẹ ?sẽ...trở..về? với chúng?con?không ?
Bên kia đầu dây, bà cũng ?vất vả? không kém, lắp ba lắp bắp để nói được vài chữ tiếng Anh:
- OK?wị.ll?cọ.mẹ.bạ.ok?
Vẫn cảm thấy chưa nói được hết ý, bà ?bổ sung? thêm một tràng tiếng Việt :
- Con yên trí, mẹ thương hai con và thằng cu Tí lắm, mẹ sẽ trở về để sống với các con chứ, mẹ không ở đây một tháng đâu. Mùa Ðông đang bắt đầu, mẹ sợ cu Tí mang ra ngoài bị cảm lạnh. Tuần sau mẹ sẽ về con nhé.
 
Nguyễn thị Thanh Dương
 


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 08/May/2011 lúc 1:07am
 
Rưng rưng... Ngày Của Mẹ

 

1. Lịch sử Ngày của Mẹ

Lịch sử sớm nhất Ngày của Mẹ đã bắt đầu từ thời cổ xưa ở Hy Lạp, vào hội mùa xuân hàng năm, người Hy Lạp đã chọn Ngày của Mẹ để thờ vợ của thần Cronus - mẹ của rất nhiều vị thần khác trong thần thoại Hy Lạp.

Còn người La Mã, cách đây hàng nghìn năm đã chọn ngày 15 tháng 3 hàng năm tổ chức lễ hội Hilaria vào mùa xuân, để tưởng nhớ đến mẫu chúa Cybele.

Những người Cơ Đốc đầu tiên cũng đón mừng Ngày của Mẹ, được tổ chức vào chủ nhật thứ tư của mùa chay (40 ngày trước lễ Phục Sinh) để tưởng nhớ đến đức mẹ đồng trinh, mẹ của chúa Giesu. Ngày này được gọi là Ngày Chủ nhật của Mẹ.

Vào ngày này, tất cả mọi người được khuyến khích đi thăm mẹ của họ. Theo phong tục, trẻ em đem quà tặng và bánh Simnel - một loại bánh cổ truyền để tặng mẹ mình. Tuy nhiên, những phong tục này về Ngày của Mẹ đã bị lãng quên suốt thế kỷ XIX cho đến khi trở thành một ngày lễ thực sự ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới vào thế kỷ thứ XX.

2. Trở thành ngày Quốc lễ tại Mỹ

Ngày của Mẹ ở Mỹ được bà Julia Ward Howe kêu gọi lần đầu vào năm 1872. Bà là một nhà hoạt động chính trị, nhà văn, nhà thơ. Bà đề nghị lấy ngày 2 tháng 6 hàng năm để tổ chức Ngày của Mẹ.

Bà viết một bức thư nhiệt thành gởi đến các phụ nữ và kêu gọi họ đứng lên chống lại chiến tranh vào Ngày của Mẹ cho Hòa Bình. Tuy vậy, Ngày của Mẹ chỉ thực sự được công nhận bắt đầu từ một câu chuyện cảm động về tấm lòng của cô con gái với người mẹ đã khuất của mình.

Năm 1905, Anna Reeves Jarvis - một người phụ nữ sống tại bang Virgina qua đời. Trong những năm sau đó, cô con gái Anna Javis luôn dâng hoa cẩm chướng đến nhà thờ ở Graton, Virginia vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tưởng nhớ mẹ mình. Điều đó đã gây xúc động cho những người dân trong bang Virginia, sau đó trở thành một phong tục phổ biến tại 45 bang nước Mỹ.

Năm 1913, Anna viết thư gửi tới các nhân vật quan trọng của nước Mỹ để xin một ngày tưởng nhớ về Mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị này. Và ngày 10 tháng 5, Tổng thống Woodrow Wilson đã công bố Ngày của Mẹ chính thức là Quốc lễ của nước Mỹ.

3. Ngày của Mẹ trên thế giới

Ngày của Mẹ dường như chạm vào sâu thẳm trái tim của mỗi con người, tri ân những hi sinh và tình yêu của Mẹ. Bởi vậy, cho đến nay, Ngày của Mẹ đã được tổ chức khắp nơi trên thế giới.

Tại Mexico, một công ty làm bánh đã cho ra lò chiếc bánh kem khổng lồ hình trái tim nhân Ngày của Mẹ. Tại Peru từng có một đám cưới tập thể được tổ chức với 307 cặp tình nhân vào Ngày của Mẹ.

Tại Trung Quốc, những tù nhân tại nhà tù ở Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm được cho gặp mẹ mình trong ngày này. Ở Chiết Giang, những em bé mẫu giáo đã được dạy rửa chân cho mẹ của mình như một cách thể hiện lòng kính trọng trong Ngày của Mẹ.

Hoa cẩm chướng được xem là loài hoa biểu tượng cho Ngày của Mẹ. Điều này được gắn với truyền thuyết về sự ra đời của chúa Giesu. Vào khoảnh khắc chúa Giesu ra đời, những giọt nước mắt của đức mẹ rơi xuống đất, từ đó mọc lên loài hoa với mùi hương sâu lắng và màu sắc đẹp đẽ - hoa cẩm chướng.

Ở một số nước khác, loài hoa được coi là biểu tượng trong Ngày của Mẹ là hoa hồng. Nhưng dù đó là hoa gì, thì màu đỏ cho những ai còn mẹ, màu trắng cho những đứa con mồ côi mẹ. Bông hoa rưng rưng đánh dấu lên ngực áo những đứa con vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5.


 

-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 08/May/2011 lúc 1:28am
 

Sao%20Hàn%20và%20“Ngày%20của%20mẹ”,%20Phim,%20sao%20Hàn,%20ngày%20của%20mẹ,%20hiếu%20thảo,%20Kim%20Hee%20Soo,%20Moon%20Geun%20Young,%20Lee%20Seung%20Gi,%20Lee%20Hyori,%20Yoo%20Jae%20Suk,%20Hyun%20Sook,%20Bi%20Rain,%20Jang%20Dong%20Gun

 



-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 08/May/2011 lúc 2:11am
 





-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/May/2011 lúc 5:40am
KÍNH CHÚC TẤT CẢ CÁC BÀ MẸ GÒ CÔNG NGÀY TỪ MẪU THẬT BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC
 
 


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/May/2011 lúc 7:40pm
NHỮNG LỜI NÓI DỐI CỦA MẸ

Mẹ tôi là người hay nói dối. Mà bà nói dối thiệt tài. Lúc tôi ở Việt Nam, còn nhỏ thì nhẹ dạ. Mẹ nói gì thì tin ngay.
Sau này trưởng thành lên ở Úc tôi mới bắt đầu nghi ngờ.

Quả là thế. Chẳng hạn như:
- Con cứ ăn sáng trước đi rồi đi học. Mẹ 9, 10 giờ mới đói. Quen rồi.
- Con ăn miếng thịt đi vì đi học cần bối dưỡng bộ óc. Mẹ làm việc chân tay, cơm là chính.

Trong biến cố Mậu Thân, mẹ bảo:
- Thời buổi này loạn lạc, trai lớn ra đường loạng quạng là bị bắn. Con cứ ở trong nhà, me chạy việc bên ngoài cho.
Ai mà bắn một bà già cho tốn đạn.

Khi tôi đi Úc du học, mẹ bảo:
- À mẹ có cái plaque vàng đeo tay. Con mang đi Úc giữ dùm cho mẹ. Việt Nam loạn lạc, lỡ mất thì uổng lắm.

John Thuy



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/May/2011 lúc 7:40pm
 
 

NÀNG DÂU NAM KỲ.

Nguyễn Thị Thanh Dương

(Mother’s Day -2011) 
 
 

Tôi coi lại va ly quần áo và túi xách tay của mẹ chồng một lần nữa, rồi tôi lảnh lót gọi với lên lầu cho thằng con trai:

-         Cu Tí ơi, cu Tí à, con sẵn sàng chưa ?

Mẹ chồng tôi không hài lòng, trách tôi:

-         Con trai lớn tướng mà cứ gọi Cu Tí như thằng bé lên 3 ấy.

-         Mẹ ơi, con biết rồi, chỉ gọi giỡn  “anh chàng” một chút cho vui mà. Andrew ơi, xong chưa con, chúng ta đi thôi?.

Con trai tôi đã đến bên tôi, anh chàng nhìn bà nội âu yếm :

-         Cháu cám ơn bà đã nhắc nhở mẹ cháu.

Bà cũng âu yếm nhìn cháu, Andrew lớn giống bố như khuôn như đúc, lại hiền ngoan học giỏi, ra trường là xin ngay được công việc như ý nên bà thương nhiều. Bà khéo léo giục cháu:

-         Thì cháu lấy vợ đi, mẹ cháu sẽ không bao giờ gọi là “Cu Tí” đâu. Bà gìa rồi phải cho bà thấy mặt cháu dâu và cả chắt nữa như người anh họ của cháu ở Calif. thì bà mới yên lòng.

Andrew hứa hẹn:

-         Vì chúng cháu phải tìm hiểu nhau lâu để thử thách tình yêu nên chưa cho gia đình biết. Vâng, bà cứ đi California chơi, khi bà về cháu sẽ mang cháu dâu tương lai đến trình diện bà và bố mẹ cháu.

Mẹ chồng tôi vui mừng:

-         Cháu làm bà sốt ruột, bà chờ đợi mấy năm nay mới nghe cháu hứa một câu làm bà hài lòng đấy.

Tôi cũng vui mừng không kém, hai vợ chồng tôi có con muộn, Andrew là con trai duy nhất, từ ngày Andrew tốt nghiệp đại học, có  việc làm vững chắc đã nhiều năm nay tôi giục con cưới vợ mà nó cứ nói chưa có ai, tình yêu chưa đến, nên tôi không nhắc nó nữa. Hôm nay bất ngờ lại có tin vui.

Chúng tôi đưa bà ra phi trường về California, thăm gia đình con trai trưởng. bà sẽ ở chơi Calif. một tháng. Bà chẳng ưa gì con dâu cả, nhưng bà thương con trai và cháu đích tôn nên về thăm họ.

Tiễn bà đi phải đầy đủ mặt con cháu, gồm vợ chồng tôi và Andrew.  Tôi hiểu tính mẹ chồng lắm, bao giờ bà cũng muốn được con cháu quây quần chăm lo, qúy mến, chứ không thể xuề xòa, lấy lệ cho xong.

Khi chồng con tôi đang check vé máy bay cho bà, thì bà chợt nhớ ra, dặn dò tôi:

-  Chốc nữa về con nhớ đi gởi món tiền ấy về Việt Nam cho mẹ nhé. Lần này ngoài phần tiền của mẹ lại được con cho thêm vài trăm thì cậu Nụ tha hồ sửa nhà cửa. Cậu con già rồi, có căn nhà tử tế thì chết cũng yên lòng nhắm mắt con ạ.

                         *******************

Ngày tôi và anh Bông yêu nhau, anh dẫn tôi về “ra mắt” mẹ anh, bà mẹ người Bắc tóc vấn trần cài lược, đôi mắt sắc xảo nhìn tôi không chút thiện cảm. Bà khéo léo hỏi thăm họ hàng tông môn nhà tôi, rồi phán:

- Hai đứa cứ tìm hiểu nhau cho kỹ, chứ Bắc Nam có nhiều điều không hợp nhau đâu.

Anh Bông qủa quyết:

-  Kỹ từ lâu rồi mẹ ơi, bây giờ chỉ đợi mẹ cho phép hỏi cưới thôi. Thí dụ…ngay ngày mai cũng được.

Bà nghiêm mặt lườm con trai:

-  Anh đừng có nhanh nhẩu đoảng, chuyện hôn nhân hệ trọng cả đời.

Thế là mối tình nồng nàn của chúng tôi khựng lại vô hạn định vì mẹ anh chưa đồng ý. Thuở ấy anh Bông đang ở trong quân ngũ, một hôm anh mang về qủa lưụ đạn, đặt lù lù trên bàn, ngay trước mặt mẹ anh và thống thiết:

-         Nếu mẹ không đồng ý cho chúng con cưới nhau thì qủa lựu đạn này sẽ nổ tung chết cả con và cô ấy, và xin mẹ chôn chúng con chung một nấm mồ.

Mẹ anh hoảng hốt lên:

-         Ối con ơi, bình tĩnh nào, việc gì phải mang vũ khí đạn dược ra thế!!

Anh ai oán:

-         Sống mà không lấy được người mình yêu thì chết cho xong !

Mẹ anh năn nỉ:

-         Đừng dại dột con nhé? Vậy con muốn cưới hỏi ngày nào thì mẹ sẽ làm ngày ấy.

Nhờ thế tôi mới sớm được làm dâu của bà, và vì thế bà càng ghét cay ghét đắng tôi.

Mãi sau này chồng tôi mới dám kể cho tôi nghe, mẹ anh đã chê tôi là con gái miền Nam quen ăn trắng mặc trơn, làm đồng nào “xào” đồng ấy, lấy cái “ngữ” này chỉ khổ vào thân,  thằng chồng nai lưng đi làm nuôi con vợ ăn tiêu hoang phí.

Anh đành “khủng bố” mẹ bằng qủa lựu đạn, nếu không thì mẹ anh cho tôi đợi tới gìa hay chán qúa tôi đi lấy chồng khác mà thôi.

Tôi làm dâu nhà anh, cha anh mất trước đó vài năm. Anh cả đã lấy vợ và ở riêng một năm nay, vì anh cả thuyên chuyển công việc ra miền Trung nên vợ con cũng đi theo, chồng tôi là con thứ cũng là con út, đi lính đóng quân ngay Lái Thiêu, tiện đi về thành phố Sài Gòn mỗi ngày.

Mẹ chồng tôi nắm giữ quyền hành trong nhà, bà đảm đang trông coi cửa hàng bán vật liệu xây cất do chồng để lại, cửa hàng trước cửa nhà  rất đông khách nên bận bịu cả ngày, nhưng bà vẫn đi chợ mỗi buổi sáng, quẳng cái gỉo chợ xuống bếp, vắn tắt ra mệnh lệnh cho tôi:

-         Thịt bò thái xớ ngang, xào rau muống. Thịt lợn kho mặn, cua gĩa nhuyễn, nấu bát riêu cua cà chua..

Tôi hỏa mù trước những món ăn Bắc này, ở với má, tôi cà nhỏng ăn học và ăn chơi, má dễ dãi hiền lành thôi thì con gái ở với ba má sướng ngày nào thì cứ hưởng, chừng lấy chồng vất vả lo cho chồng con thì giờ đâu mà ăn chơi.

Hôm cuối tuần  mẹ chồng tôi mua một con gà sống về ra một mệnh lệnh khác:

-         Cắt tiết gà, luộc gà với hành gừng cho thơm, thịt gà phải vừa chín tới. Nước gà nấu bát miến, cho tiết luộc và lòng mề thái nhỏ lên trên.

Tôi rình lúc mẹ chồng không để ý, gọi chồng xuống bếp và than phiền:

-         Mẹ anh đang chơi trò rượt đuổi em chạy trối chết luôn, bắt em nấu hết món này tới món kia, mà toàn là những món em chưa biết nấu bao giờ. Anh cứu em với.

-         Mẹ đang dậy em nấu nướng đấy, trước lạ sau quen.

-         Nhưng em không dám cắt cổ gà, nhìn nó đau em sợ lắm…

Má tôi Nam kỳ dễ tính,  mua gà làm sẵn ngoài chợ cho lẹ, còn mẹ anh Bắc Kỳ tính toán chi li từng chút một, mua gà sống sẽ biết chắc con gà ngon vừa ý, và nhất là gía rẻ hơn gà làm sẵn.

Tôi cầm chân và hai cánh gà thật chặt còn mắt thì nhắm lại trong khi chồng tôi cắt tiết, đúng lúc ấy mẹ chồng tôi xuống bếp, giọng bà hùng dũng như một vị tướng mắng mỏ quân sĩ phạm luật:

-         Giời ôi, hai vợ chồng mới cắt tiết được con gà cơ à? Này nhé, chị lấy hai chân kẹp cánh, kẹp chân gà và cầm cổ gà cắt vài nhát, dốc ngược gà lên cho chảy hết tiết là xong. Ngày xưa tôi làm dâu, nhà chồng có giỗ Tết một mình tôi cắt tiết một lúc mấy con gà nhanh như chớp.

Chồng tôi bênh tôi:

-         Ngày nay khác rồi mẹ ơi, với lại vợ con chân yếu tay mềm…

Bà “mát mẻ”:

-         À thì ra ý anh nói tôi vũ phu đấy, còn vợ anh thì yểu điệu thục nữ.

Để đáp lễ lại những món ăn Bắc mẹ chồng đã chỉ dạy, tôi về học cấp tốc má tôi mấy món miền Nam dễ nấu như canh khổ qua nhồi thịt và cá thu kho nước dừa, thì mẹ chồng tôi dẫy nẩy lên:

-         Canh mướp đắng ư? Tôi chịu thôi, không ăn được.

-         Cá thu kho nước dừa lợ lợ khó ăn lắm.

Tôi liền đổi sang món “Canh rau tập tàng” cho lạ đời, thì bà mẹ chồng Bắc Kỳ vẫn không chấp nhận. Bà rên siết:

-         Canh gì mà lắm loại rau thế này? Nào mồng tơi, rau rền, mướp khía, bù ngót, bắp non. Chị nấu canh nào thì nấu một món rau thôi nhé, đừng hoang phí thế.

Trời ơi, món “Canh rau tập tàng” của miền Nam dân dã hào phóng dùng nhiều loại rau chứ có phải tôi sáng chế ra đâu.

Tôi bất mãn lắm, chỉ muốn bữa nào…trả thù,  làm món “Mắm kho quẹt” cho bà ăn, món này rẻ tiền, mặn mà ăn hoài không hết, đỡ tốn, hay cho bà uống nước mưa như ở dưới quê tôi thay cho uống nước trà, tiết kiệm được tiền mua trà, chắc bà sẽ không chê tôi hoang tàn nữa?

Những chuyện “mất lòng nhau” giữa mẹ chồng người miền Bắc và nàng dâu người miền Nam thường xuyên xảy ra.

 Ngày giỗ tết gia đình anh cả về nhà, làm cỗ xong tôi cho 2 con anh cả ăn trước thì bị mẹ chồng mắng cho một trận là không biết nề nếp gì cả, trẻ con không được phép ăn trước người lớn. Trong khi trong gia đình miền Nam chúng tôi cứ thoải mái dọn đồ cho tụi nhỏ ăn trước cho rảnh để rồi người lớn ăn sau.

Vốn chẳng ưa tôi, bà thường mang tôi ra so sánh thẳng thừng với nàng dâu cả của bà, nàng dâu Bắc, ăn nói ý tứ lịch lãm, sống căn cơ tằn tiện, biết thu vén trước sau chồng con sẽ được nhờ và chê tôi tuệch toạc bạ đâu nói đó, thích gì làm đó,  mua sắm thì bất kể tiền còn nhiều hay ít. Nói trắng ra là tôi đang “phá của” nhà chồng.

Vì yêu chồng nên tôi nhẫn nhịn chịu đựng mẹ chồng, cũng như tôi đã chịu hi sinh bỏ nghề dạy học chỉ để ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán.

Tối về tôi chỉ biết khóc rấm rứt với chồng để cho anh vỗ về an ủi, thôi em cố chiều mẹ, sau này mẹ hiểu ra sẽ thương yêu em nhiều. Trời chẳng phụ công, phụ lòng tử tế của ai bao giờ.

Được 1 năm thì biến cố 1975 xảy ra, cả đại gia đình chúng tôi đều vượt thoát đến Mỹ.

Đầu tiên mẹ chồng tôi ở với gia đình anh cả, có nàng dâu Bắc Kỳ mà mẹ từng đắc ý, tấm tắc khen ngoan, hơn nữa anh chị cả có con trai đầu lòng, là cháu đích tôn của bà.

Nhưng khi sống chung lâu dài thì bà và nàng dâu cả lại có sự xung khắc, càng ngày càng nhiều. Mẹ chồng Bắc và nàng dâu Bắc, giống nhau cả tính ý, cả cách ăn ở mà vẫn không thể đi chung đường.

Một hôm chị Bích đã gọi phone cho tôi, thông báo khẩn cấp:

-         Em chuẩn bị tinh thần đón mẹ về sống chung đi nhé, mẹ đang đòi về với vợ chồng em đấy.

-         Có chuyện gì hả chị?

Chị Bích ấm ức kể:

-         Bao nhiêu chuyện lặt vặt xưa nay chị kể em nghe nhiều rồi, chị không chấp, vì mẹ gìa rồi, tính nết lại khó khăn hơn người ta. Nhưng chuyện này thì không thể, “tiền gìa” mẹ lãnh hàng tháng mẹ cứ bo bo suốt bao nhiêu năm nay, ai đời ăn cây táo đi rào cây cam hở em ! mẹ để dành tiền gởi hết về cho cậu Nụ và thân nhân ngoài Bắc. Mẹ có cho ai thì cũng chừa lại phần mình tí chứ, đến lúc cần gì ở Mỹ thì lại hỏi vợ chồng chị, ai mà chịu được? Chưa hết, mỗi đầu năm bà lại hỏi chính phủ đã “tăng lương” cho mẹ chưa? tiền trợ cấp tăng theo thời gía đắt đỏ ấy mà, mẹ lẩm bẩm nói: “Đừng có tưởng tôi không đọc được tiếng Anh mà lờ đi nhé”. Thế có điên người không? Cứ làm như bà không hỏi, không nhắc nhở là chị sẽ ăn chặn, ăn bớt món tiền ấy không bằng. Chị bực mình gắt lên, thế là bà giận hờn, mắng mỏ chị và đùng đùng đòi về sống với vợ chồng em.

-         Hay mẹ giận thì nói thế thôi, chứ mẹ vẫn theo đúng “tôn ti trật tự” là phải sống với con trai trưởng và cháu nội đích tôn mà?

-         Không, lần này mẹ sai nguyên tắc rồi. Bằng cớ là mẹ còn…khen em nữa đó, khen nàng dâu miền Nam sởi lởi, dễ chịu và thoải mái hơn dâu Bắc.

Thật thế, mẹ chồng tôi “hi sinh”, thà về sống với gia đình tôi, tiền gìa lãnh ít hơn ở California nhưng bà bảo tinh thần bà thoải mái hơn nhiều, bà lôi chuyện nàng dâu cả ra kể nào là tính toán với bà từng món chi tiêu, nàng khá gỉa thế mà còn muốn bà bớt chút tiền gìa đóng góp hàng tháng v..v… Tôi chẳng biết giữa mẹ chồng và nàng dâu này ai đúng ai sai, vì ai cũng cho là mình có lý cả.

Mẹ chồng sống với tôi, tình thế đảo ngược so với ngày tôi làm dâu bà. Nhà này là nhà của tôi, của cải tiền bạc mẹ chồng tôi mất hết sau khi bỏ nước ra đi. Hiện nay bà sống nhờ tiền xã hội, tuổi đã gìa, không biết tiếng Anh, không thể lái xe, muốn gì cũng phải nhờ con nhờ cháu.

Bản tính tôi hồi nào tới giờ vẫn thế, chi tiêu rộng rãi trong cuộc sống. Tôi đi shopping quần áo cho tôi, nhưng thấy quần áo nào đẹp và tốt thì…sắm luôn cho chồng con và bà mẹ chồng, bà vẫn xót xa như ngày xưa  khi tôi chân ướt chân ráo làm dâu nhà bà:

-         Con ơi, mua làm gì lắm quần áo thế? một đời ta ba đời nó, quần áo trong tủ cả đống kia đã mặc hết đâu.

Bây giờ bà đã thân mật âu yếm gọi tôi là “con” không gọi bằng “chị” kiểu cách lịch sự như thuở tôi mới làm dâu nữa.

-         Theo mùa, theo “mốt” mà mẹ, nhưng con cũng mua lúc đại hạ gía rồi.

Bà đành chịu thua:

-         Ừ, con thích thì sắm cho mình con thôi, quần áo mẹ mặc tới chết chưa hết con đừng mua nữa.

Thế mà tôi vẫn cứ mua về vì tôi thấy thích hợp với bà  không mua cũng…uổng, dù tôi biết mang về nhà bà lại vừa nhận qùa vừa càm ràm mắng tôi hoang phí và lanh chanh, không ai khiến mà cũng mua .

Đi chợ tôi toàn mua những món đắt tiền, tôi quan niệm tiền nào của ấy, thường xuyên mua cá Tuyết, cá Salmon, cá B*** hơn là cá Catfish, cá đù, cá nục. Thịt bò loại.T-bone Steak, Ribeye Steak hay Sirloin Steak. đương nhiên phải ngon hơn loại thịt vai dai nhách.Trái cây đầu mùa đắt bao nhiêu nhưng tôi cũng mang cả thùng về cho cả nhà cùng hưởng món ngon đầu mùa, chẳng phải nhịn thèm đợi tới giữa mùa.

Mỗi lần mẹ chồng tôi mở tủ lạnh, lui cui dọn dẹp bà lại rên rỉ như khi mình mẩy lên cơn đau nhức:

-         Giời ơi là giời ! đồ ăn thức uống mua ê hề thế này, ăn không hết bỏ đi, phí cả tiền và phí của giời.

Tôi đã quen nghe bà cằn nhằn, nên không buồn, mà còn vui đùa:

-         Mẹ ơi là mẹ, con phải mua sắm cho chợ búa đắt hàng, kích thích nền kinh tế phát triển . Ăn ngon thì bổ vào thân và cũng là cách hưởng đời.

-         Thế con không dành dụm tiền của cho thằng con của con à? Mẹ vì hoàn cảnh, vì biến cố nên trắng tay đã không lo được gì cho con cháu rồi…

-         Mẹ nói thế là trả lời rồi đấy, nên con quan niệm có tiền cứ hưởng ngay trong hiện tại, chẳng cần nhịn thèm, nhịn mặc hay từ bỏ những niềm vui tốn tiền nào đó để dốc hết vốn để dành, chồng con của con đã được nếm đủ mùi sung sướng hơn người. Tương lai, con của con sẽ làm ra tiền và tự lo cho nó cũng như vợ chồng con đã tự lo và gây dựng nên nhà cửa, vốn liếng ngày nay.

Tiền trợ cấp hàng tháng mẹ chồng tôi vẫn gởi về miền Bắc, cho người em út của bà là cậu Nụ, người đã kẹt lại không theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Cả một đời cậu nghèo khổ, những năm đất nước chiến tranh, lương công nhân không nuôi nổi vợ và hai con, nên người vợ vốn đã ốm yếu lại càng ốm yếu quanh năm. Thậm chí cậu không đủ tiền mua cái vỏ xe đạp hiếm hoi lắm cơ quan mới có mà phân phối ưu tiên cho công nhân tiên tiến như cậu…

.Ngày nay cậu Nụ đã gìa, vợ chết sớm vì bệnh tật, cậu sống bám vào đám con cháu cũng nghèo khổ, nên mẹ chồng tôi thương xót đã gởi tiền về hàng tháng cho em, mong em sung sướng được ngày nào hay ngày ấy. Ngoài ra bà còn các họ hàng quyến thuộc khác ở quê hương miền Bắc của bà, nay giúp người này mai giúp người nọ, nên tiền bạc lúc nào cũng vơi, cũng không đủ.

Tôi hiểu mẹ chồng tôi và đồng tình với bà, giúp đỡ thân nhân nghèo khó bên Việt Nam vừa là tình thương vừa như làm điều phước thiện. Thỉnh thoảng có những cảnh khổ làm tôi động lòng, đưa thêm tiền cho mẹ chồng gởi biếu họ, coi như tôi theo mẹ làm phước dù những thân nhân như cậu Nụ hay ông chú này, bà bác kia tôi đều chưa biết mặt bao giờ.

                                ****************

Mẹ chồng tôi đã trở về từ Calif., bà có vẻ hài lòng với chuyến viếng thăm này. Thật ra khi người ta không hợp nhau khi chung sống, thì hãy sống xa nhau và là khách của nhau sẽ hay hơn. Vợ chồng tôi mừng vì mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu cả đã hàn gắn được phần nào.

Buổi tối đầu tiên ăn bữa cơm xum họp gia đình, mẹ chồng tôi vẫn nhớ và hỏi Andrew ngay:

-         Sao, cháu của bà, hôm nào thì mang cháu dâu tương lai ra mắt cả nhà như cháu đã hứa?

Andrew thăm dò:

-         Để cuối tuần sau được không ạ?

Tôi nói:

-         Dĩ nhiên là được, với lại mẹ cần chuẩn bị tinh thần cũng như một bữa cơm để chào đón cô khách qúy chứ.

Mẹ chồng tôi cẩn thận:

-         Con chưa biết cô gái ấy ra sao mà đã vồ vập thế sao được.

-         Ít ra cô gái là bạn của con mình cũng là qúy rồi.

Bà lẩm bẩm:

-         Thời buổi này mẹ chồng nàng dâu cứ như là bạn bè ấy, không có khoàng cách gì cả. Cháu ơi, thế cô gái ấy là người miền Nam hay Bắc hở cháu?

Andrew hơi bối rối:

-         Sao bà lại hỏi phân biệt thế? Giống như ngày xưa bà đã hỏi bố cháu khi mang mẹ cháu về trình diện bà.

Chồng tôi mỉm cười trấn an con trai:

-         Không sao đâu, bà chỉ hỏi cho biết mà thôi. Bây giờ khác xưa rồi.

Andrew ấp úng:

-         Cô ấy… không là người miền Nam như mẹ, mà cũng… không là miền Bắc như bố.

Mẹ chồng tôi cởi mở:

-         Ừ, bà không phân biệt Bắc Nam như bố mẹ cháu ngày xưa đâu. Bà biết rồi, cô ấy là người miền Trung chứ gì. Con gái Trung cũng chịu khó tần tảo làm ăn và thương chồng con hết lòng lắm.

Chồng tôi phản đối:

-         Cứ gì gái Trung hay gái Bắc, gái Nam kỳ như vợ con cũng thương chồng chiều con không ai bằng, lại còn chiều cả mẹ chồng nữa, sẵn sàng bỏ nghề dạy học nhàn hạ, thôi làm cô giáo, ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán, bận rộn mịt mù với gạch cát xi măng và tính toán tiền nong cả ngày như một mụ lái buôn chuyên nghiệp.

Mẹ chồng tôi cười hài lòng:

-         Điều này thì mẹ công nhận, gái miền nào cũng tốt xấu tùy người. Cô gái cháu yêu và sẽ cưới làm vợ là người miền Trung bà cũng vui vẻ chấp nhận ngay vì cứ là con gái Việt Nam là nề nếp rồi

Andrew lo lắng đáp:

-         Nhưng cô ấy là…người Mỹ bà ơi. Tên là Jessica.

Mẹ chồng tôi buông đũa, ngạc nhiên và bất bình kêu lên:

-         Con gái Mỹ?? giời ôi, nó người Mỹ làm sao thích hợp với nhà này?

Vợ chồng tôi nhìn nhau, chia sẻ cái nhìn cùng quan điểm. Tôi lên tiếng trước:

-         Thưa mẹ, chuyện lấy vợ Mỹ hay chồng Mỹ là chuyện thường tình. Chúng ta sống ở Mỹ, đây là quê hương thứ hai của chúng ta, những người trẻ lớn lên ở Mỹ, hấp thụ nền văn hóa Mỹ, thì lấy Mỹ đâu có gì là xung đột.

-         Nhưng cô gái Mỹ ấy sẽ tiêu xài kiểu Mỹ khổ thân cháu tôi. Sẽ tan nhà nát cửa…

-         Sống ở Mỹ tiêu xài kiểu Mỹ là đúng rồi mẹ à…Chừng nào sống ở Việt Nam mà tiêu xài kiểu Mỹ thì mẹ hãy lo.

Chồng tôi tiếp lời tôi:

-         Mẹ cứ yên tâm, phần đời ai nấy lo, ngày xưa mẹ cứ chê nhà con là gái Nam ăn tiêu hoang phí, mà bây giờ vẫn nên nhà nên cửa và chính mẹ lại hợp với nàng dâu Nam kỳ đấy, còn Andrew, chúng ta hãy tôn trọng quyết định của nó.

Andrew có vẻ buồn buồn vì bà nội không vui, anh chàng không ăn cơm nữa, đứng lên đi nhanh về phòng, làm mẹ chồng tôi hoảng lên:

-         Nó đi đâu đấy? hay là lại tìm qủa lựu đạn như bố nó năm xưa ra hù dọa tôi?

Tôi trấn an bà:

-         Nó có đi lính như bố nó đâu mà có sẵn lưụ đạn.

Chồng tôi lửng lơ:

-         Nhưng ở Mỹ này mua vũ khí tự do nhé, biết đâu nó có súng lục trong nhà? Vì con đã kinh nghiệm rồi, tuổi trẻ đang yêu, muốn cưới vợ mà bị ngăn cản là thất vọng, chán đời lắm.

Mẹ chồng tôi vội vàng gọi to lên:

-         Cháu ơi, cháu ơi, ra đây bà bảo…

Andrew lững thững đi ra. Bà xuống nước ngọt ngào, có lẽ vì đã một lần kinh nghiệm đủ nhớ suốt đời:

-         Cháu ơi, bà biết cháu mang dòng máu nóng nảy của bố cháu nhưng chớ có dại dột  đi tìm súng ống làm gì, đừng đe dọa bà nhé. Bà đồng ý rồi, cháu lấy Mỹ cũng được, miễn là cháu cảm thấy hạnh phúc khi sống với cô gái ấy.

Andrew reo lên:

-         Bà nói thật không? Bà vui lòng nhé? Tuần sau cháu sẽ đưa cô ấy về đây.

-         Ừ, bà nói thật. Vậy cháu bỏ ý định về phòng lấy vũ khí đi nhé?

Andrew ngơ ngác, ngạc nhiên:

-         Cháu có mua vũ khí để trong nhà bao giờ đâu, cháu định về phòng gọi phone cho Jessica để tâm sự than thở cùng cô ấy thôi mà.

Cả nhà cùng thở ra nhẹ nhỏm, mẹ chồng tôi vui vẻ ăn cơm xong đi về phòng của bà. Tôi vừa dọn dẹp vừa nghĩ đến cô con dâu tương lai, nay mai gia đình tôi sẽ tiếp nhận thêm một thành viên mới, một cô gái Mỹ, mẹ chồng tôi dù  không ưa cháu dâu thì bà cũng không thể nào hạch họe, chành chọe với nàng được, như ngày xưa bà đã làm với tôi, vì lẽ bà không biết  tiếng Anh..

Thấy tôi đắc ý mỉm cười một mình, chồng tôi hỏi:

-         Em đang vui vì sắp có con dâu phải không?

-         Đúng thế anh ạ, nếu cô gái hiền ngoan, tử tế thì chúng ta sẽ cho con cưới bất cứ lúc nào anh nhé.

-         Vậy em có muốn con dâu Mỹ học nấu món ăn Việt Nam không?

-         Em sẽ dậy nếu nó thích, còn không, nó nấu món Mỹ thì em cũng ăn cho nó vui lòng dù anh biết đấy, em không thích ăn đồ Mỹ.

-          Thế em không như mẹ anh ngày xưa chỉ bắt em nấu và ăn món Bắc và chê món Nam của em à?

-         Nếu con dâu không hòa đồng với mình thì mình phải hòa đồng với nó chứ.

-         Em thật là một bà mẹ chồng tuyệt vời…

Tôi ngắt lời chồng:

-         Em chưa nói hết mà, nếu con dâu thích đi ăn nhà hàng thì thỉnh thoảng cuối tuần em sẽ mời vợ chồng nó đi ăn với vợ chồng mình và bà nội luôn cho vui. Khỏi nấu nướng làm chi cho mệt.

-          Xong chưa? để anh khen luôn một chuyến cho tiện, em là một người mẹ chồng tuyệt vời chưa đủ, mà là một phụ nữ miền Nam tuyệt với nữa đấy, vì lúc nào cũng nhân hậu, hào phóng, dễ tính và dễ thương vô cùng.

 

                      Nguyễn Thị Thanh Dương

                               (Mother’s Day -2011)



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/May/2011 lúc 8:48pm
 
Mother’s Day -2011
MẸ & CON
 
 
 
 
 
 

Ảnh ấu thơ của các nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới

Đó là những bức ảnh từ hồi còn nhỏ của Tổng thống Mỹ Obama, Thủ tướng Nga Putin, Thái tử Anh Charles , Hoàng tử William cùng mẹ và gia đình.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Thái tử Charles và mẹ là Nữ hoàng Anh Elizabeth II.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Hình ảnh khó quên của Thủ tướng Nga Vladimir Putin và mẹ.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Tổng thống Mỹ Obama tươi cười trên tay mẹ.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Nguyên Thủ tướng Anh Gordon Brown (ngồi, bên trái) và gia đình.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cười tủm tỉm bên mẹ (phải).
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Nguyên Tổng thống Mỹ George W. Bush ngày còn nhỏ.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Nữ hoàng Anh Elizabeth II và mẹ là Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất.
Ảnh%20thơ%20ấu%20của%20các%20nhà%20lãnh%20đạo%20nổi%20tiếng%20thế%20giới
Hoàng tử William ngoan ngoãn trên tay mẹ là Công nương Diana.
 
đỗ quyên

Theo Chinaview/Bưu Điện Việt Nam

 
 
http://www.zing.vn/news/anh-va-video-clip/anh-au-tho-cua-cac-nha-lanh-dao-noi-tieng-the-gioi/a114347.html - http://www.zing.vn/news/anh-va-video-clip/anh-au-tho-cua-cac-nha-lanh-dao-noi-tieng-the-gioi/a114347.html
  





-


-------------
mk


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/May/2011 lúc 5:13am
NGỌN NẾN KHÔNG CHÁY
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Hai, 09 Tháng 5 Năm 2011 21:44

Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi.

 
Người cha quá đau khổ, tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.

Một hôm, người cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gái bé bỏng của mình.

Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: “Tại sao nến của con lại không cháy?". Bé gái đã đáp rằng: "Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con".

Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười.

Người đứng đầu, đôi khi phải đứng vững mà run, thì người dưới mới bớt khủng hoảng, thoái thác.

Con cái biết dựa vào đâu nếu không phải là cha mẹ. Niềm tin cậy của chúng không thể là người ngoài.

Con cái sẽ nghe từng câu, nhìn từng cử chỉ và việc làm của cha mẹ để tin, nghe và theo.

Con cái sẽ dựa vào bức tường vững chắc là cha mẹ mà sống an vui, nên chúng sẽ hoang mang, sợ hãi, thất vọng khi thấy cha mẹ không còn cứng rắn nữa.

Con cái sẽ bị gục ngã nặng nề gấp nhiều lần, nếu thấy cha mẹ bị suy sụp tinh thần.

Con cái dựa vào hướng dẫn của cha mẹ để nhìn đến một tương lai tươi sáng, dù khó khăn mấy cũng cố vượt qua. Nếu cha mẹ khi gặp đau thương mà bỏ cuộc thì chúng mất hết sức sống, nghị lực và hy vọng để chiến thắng bản thân cũng như nghịch cảnh.

Con người có thể mất mọi sự, nhưng hy vọng thì không thể đánh mất. Vì hy vọng là tia sáng cuối cùng còn lại để con người cố trườn mình qua vũng lầy cuộc đời. Và tin rằng ngày mai tốt hơn, sau cơn mưa trời lại sáng, sông có khúc người có lúc…

Mong sao mọi bậc phụ huynh luôn là chỗ dựa an toàn nhất của con cái, để tinh thần, tâm trí, lương tâm và lòng đạo đức, lòng hiếu thảo của chúng luôn được phát triển mạnh mẽ.

Ước rằng, mỗi cha mẹ luôn chỉ cho con cái thấy được ý nghĩa cuộc đời, và giúp chúng đạt được lý tưởng chúng.

Nguyện xin mỗi cha mẹ giúp cho con cái biết cách để sống, sống tốt, sống có ích, để trở thành người của kiến tạo hoà bình và yêu thương, tha thứ và nhân từ…

Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hy vọng của con ông.



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/May/2011 lúc 5:37am
hình bóng
tác giả: Hồ Như
diễn đọc:Hồng Vân
nguồn : VOANew.com
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=230167 -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/May/2011 lúc 9:38am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=59991 -
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=59991 -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/May/2011 lúc 11:54am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=129762">
màu tím hoa sim
tác giả: Võ Đình Tuyết
do bạn Mercury sưu tầm

http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=129762
 


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/May/2011 lúc 3:10am
TÌNH CHA
Tác Giả: Trần Văn Giang   
Chúa Nhật, 22 Tháng 5 Năm 2011 21:00
 
“Dưới bầu trời bao la này, bố chỉ là một con người nhỏ bé…  nhưng đối với con bố sẽ cố gắng giang hai tay thật rộng thành cả một bầu trời chung quanh con…”
 
 

 
Vai trò của người Cha trong gia đình
Với tình trạng ly dị và con rơi (trẻ con đẻ ngoài vòng hôn phối / out-of-wedlock) mỗi ngày mỗi ngày một gia tăng, quan niệm cổ truyền về gía trị gia đình (sự liên hệ vợ chồng, cha con, mẹ con…) thay đổi rất nhiều…  thêm vào đó, vì kinh tế triệt thoái, tỷ lệ mất việc cao cũng làm lung lay các truyền thống gia đình, thay đổi ý nghĩa của các tiêu chuẩn gương mẫu, hạnh phúc; làm vấn đề nuôi con gọi là “chu đáo, đến nơi đến chốn” trở nên một vấn đề xã hội đáng quan tâm…  Áp lực xã hội này dường như đè nặng hơn trên người “chủ gia đình” – hay người cha trong gia đình.
Làm cha (không phải là linh mục!) trong thế kỷ 21 không còn dễ dàng như cha, ông chúng ta ngày trước…  Các bác trai không chỉ là người “lo kiếm cơm” cho gia đình mà con phải tích cực tham gia vào công việc nhà, việc nột trợ (rửa chén, giặt quần áo, lau nhà) và nhất là săn sóc (cho con bú, thay tã), dậy dỗ (đưa đón con đến truờng, chỉ dạy con làm bài tập ở trướng) con cái mà rất ít khi bà nội, bà ngoại các bác kể là ông ông nội, ông ngoại phải thức dậy giữa đêm để thay tã, cho con bú sữa, hay ru con đang khóc…  Tuy rằng còn có nhiều bác vẫn chưa cảm thấy “sẵn lòng” (willingly) tham gia các công việc mà xã hội của thế kỷ 21 đặt lại tiêu chuẩn, nhưng cũng phải công nhận các bác trai đã không ít thì nhiều gặp nhiều chuyện căng thẳng trong gia đình khi phải đương đầu với các vai trò, các nhiệm vụ mới.

 Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929, sự thay đổi luật lao động căn cứ trên phái tính, và cuộc phát động phong trào giải phóng phụ nữ…  phụ nữ bắt đầu gia nhập lực lượng công nhân, thợ thuyền, tham gia các vai trò quản lý, và trợ lý trong thị trường việc là môt cách rộng lớn; đàn ông bị đặt vào cái thế không thể tránh được là: “phải chia sẻ trách nhiệm gia đình con cái với người phối ngẫu (vợ).”

 Không cần thiết phải dài giòng thêm, trách nhiệm người cha của gia đình rất lớn; nhưng trẻ con thực ra không đòi hỏi nhiều từ người cha.  Chúng chỉ mong được thấy mặt bố; muốn bố dành thêm một ít thời giờ với chúng;  muốn bố là một người mà chúng ngưỡng mộ, muốn đến gần.  Bố lúc nào cũng muốn hãnh diện vì con cái nhưng trước hết nên nhớ là con cái cũng muốn được hãnh diện vì ông Bố của chúng nữa.

 Dành thời giờ với con cái sẽ kết chặt cái tình cha con (bonding) mà gia đình có thể đang thiếu (hay không có?)  Thay vì cố gắng đóng vai trò một ông bố đạo mạo khó tính, khắt khe, bắt lỗi bắt phải  v..v.. hãy sống gần gụi các con, cho con cái thấy bố của chúng cũng chỉ là một con người bình thường có những cái hay cái tốt để học hỏi và (chỉ cho con)  những cái không hay, cái xấu (hút thuốc, cờ bạc, nhậu nhẹt tán phét) để con biết cách tránh, biết cách đối phó.  Cả hai khía tốt xấu cạnh đều có ích lợi cho sự trưởng thành và cho những tương lai ngày sau lớn lên của con… Cuộc đời Bố sẽ từ từ biến thành một phần (rất lớn) cuộc đời con cái sau này.

 Theo sự tự nhiên của trời đất, người mẹ có sẵn sự chăm sóc con cái chu đáo hơn người cha về mặt tình cảm và “tới nơi tới chốn…”  Nhưng vai trò không thể thiếu của người cha là dạy cho con cái cách sinh tồn trong đời sống thật, đầy sợ hãi và cạm bẫy.  Dưới mái ấm gia đình. người mẹ thường thiên về sự bảo vệ con cái chặt chẽ, đôi khi quá đáng.  Thâm tâm của Mẹ cốt ý cho con tránh, không phải đụng chạm với những sai lầm và rủi ro… sự kiện này vô hình chung làm giảm đi khả năng sinh tồn của con cái.  Bố là người rất tốt góp mặt để lấp cái hố bất lợi này bằng cách chỉ cho các làm sao biết sống mạnh giỏi với những sự thất vọng (không nhận được món qua giáng sinh, sinh nhật vừa ý…), những cái mà mình không thích, không bằng lòng, không vừa ý chút nào (thua một trò chơi, thua một trận đấu thể thao, thi rớt, thất tình…  chẳng hạn).  Dạy cho con biết là: thua lần này nhưng chắc chắn sẽ làm tốt đẹp hơn (để thắng) trong lần tới, sắp đến..  Dạy cho con biết giá trị quý báu của những “bài học” thua cuộc, thất bại.  Con cái không thể nào là những công dân tốt, hiển hách, làm nên đại sự (thi đậu bằng cấp là chuyện rất tầm thường của trẻ con Á châu) nếu chúng không biết cách học sự thất bại của chính mình hay của người khác.

 Cái ý tưởng “winning is not just only thing; but it is everything!” là một sự giáo dục một chiều nguy hiểm. một chương trinh tự sát yên lặng…

 Tôi không bao giớ muốn nói người mẹ không làm được chuyện dạy cách sinh tồn cho con; phải để công việc này cho bố…  Nhưng bản chất phụ nữ là bác ái và dịu dàng hơn nam giới…  phụ nữ không muốn con cái phải đụng chạm các vấn đề khó xử, vấn đề thương tâm…  Cái bản chất dịu hiền của Mẹ đôi khi có ảnh hưởng không hẳn là tốt đến con cái; làm con cái nghiêng về khuynh hướng tránh né hơn là can đảm đương đầu trực tiếp với thực tế lợi bất cập hại.

 Riêng đối với con gái, hình ảnh, vai trò, và cách ứng xử của người cha sẽ mãi mãi là khuôn khổ, vóc dáng, kỳ vọng về người đàn ông trong suốt cuộc đời của đứa con gái sau này qua cách các bác trai đối xử với vợ mình vả mà phải kể thêm cả cách đối xử của bác với các phụ nữ khác mà các bác phải tiếp xúc hàng ngày… Hãy dừng lại một phút và nghĩ là: Bác muốn con gái bác sẽ lấy người chồng như thế nào?  Nếu bác sử xự như một kẻ vũ phu, ích kỷ, vô tình thì, cơ hội rất lớn, con gái bác sẽ gặp và yêu một người y hệt như vậy!!!  Bác là người duy nhất phải chịu trách nhiệm về sự “không may” này… Theo tôi, “Số phận” chỉ là trả lới của một sự chạy tội tiện lợi thôi…

 Vài lời cho con

 Đến mùa lá rụng này, Bố đã 62 tuổi, đầu hai thứ tóc, có lẽ muối nhiều hơn tiêu, và sức khỏe bắt đầu có nhiều vấn đế đáng quan tâm…  Với cái “em ơi, 62 năm cuộc đới,” Bố cũng đã trải qua khá đầy đủ các cay đắng, tiêu trưởng của cuộc đời…  Hôm nay là “Ngày của Cha,” (“Father’s Day”) Bố lần đầu tiên viết riêng cho con một vài hàng để con luôn luôn nhớ là:

 Bố rất hãnh diện vì con.

Bố luôn luôn nghĩ đến con.

Bố muốn nắm thật chặt bàn tay của con.

Bố luôn luôn nhớ con dù cho bố đang ở đâu.

Bố chỉ muốn ôm con vào lòng.

Bố muốn luôn luôn được ở bên cạnh để che chở con.

Bố muốn con lúc nào cũng vui vẻ hồn nhiên.

Bố sẽ sẵn sàng làm mọi chuyện và đi bất cứ đâu để con được hạnh phúc, vui sướng.

Bố không bao giờ muốn con phải lâm vào những hoàn cảnh khó khăn, khó xử vì bất cứ lý do gì.

Bố muốn mọi chuyện khó khăn của con rồi sẽ cuối cùng trở nên xuông sẻ tốt đẹp.

Bố biết là con thích ăn “donuts.”  Bố sẽ ăn phần ở giữa cái “donut” để dành cho con ăn phần bên ngoài.

Bố muốn chia sẻ những mơ uớc lớn cũng như bé của con.

Bố luốn luôn tin tưởng và đặt hết niềm tin vào khả năng cũng như tư cách của con.

Bố luôn luôn thương yêu con vì môt lý do đơn giản: con là con của bố.

Bố mong sao sau này con lớn lên, con sẽ gặp được người bạn tri kỷ, bạn đời cũng thương yêu quý mến con như Bố thương yêu quý mến con.

Bố không muốn con phải khóc khi đọc những giòng chữ này vì bố òn lại một ít nước mắt, và Bố đã khóc hộ cho con rồi.

 .. và sau cùng:

 “Dưới bầu trời bao la này, bố chỉ là một con người nhỏ bé…  nhưng đối với con bố sẽ cố gắng giang hai tay thật rộng thành cả một bầu trời chung quanh con…”

 Câu chuyện người cha nông dân

 Người nông dân đó tên là Flemming, môt nông dân nghèo ở Anh quốc.

 Khi ông Flemming đang làm việc ngoài đồng để nuôi gia đình thì ông nghe những tiếng kêu cứu thất thanh của một đứa trẻ phát ra từ một cái đầm bùn (“bog”) ở gần đó.  Ông Flemming vội buông cái cuốc trong tay,  chạy nhanh tới cái đầm bùn thì thấy một cậu bé với khôn mặt đầy sợ hãi, đang bị lún bùn đến ngang thắt lưng.  Cậu bé vừa kêu cứu, vừa vùng vẫy để cố thoát ra vũng bùn lún một cách tuyệt vọng.  Hôm đó, nếu không có nông dân Flemming giải cứu thì chắc chắn cậu bé sẽ chết lún, chôn vùi giữa vũng bùn…  qua một cái thật chết chậm và rùng rợn…

 Hôm sau, có một cỗ xe ngựa sang trọng dừng trước căn nhà tồi tàn, ọp ẹp của nông dân Flemming.  Một nhà quý tộc xuống xe, đến gõ cửa xin gặp nông dân Flemming và tự giới thiệu ông  ta là cha của đứa trẻ mà nông dân Flemming đã cứu sống ngày hôm qua.

 “Tôi muốn trả ơn bác.  Cái ơn mà bác đã cứu mạng sống của con trai tôi ngày hôm qua.”

 Nông dân Flemming phân trần:

 “Không.  Không. Tôi không thể nhận bất cứ món quà gì của ngài.  Vì đây chỉ là chuyện tôi, hay bất cứ một người cha nào khác phải làm thôi...”

 Ngay lúc đó, cậu con trai của nông dân Flemming lò dò bước từ phía bên trong nhà đi ra.

 “Đó có phải là con trai của bác không?”  Nhà quí tộc kia hỏi nông dân  Flemming.

 Nông dân Flemming trả lời một cách hãnh diện:

 “Thưa ngài đúng như vậy.  Đây là đứa con trai duy nhất của tôi”

 Nhà quý tộc liền đề nghị:

 “Thôi thì thế này: Xin bác nhận lời cho tôi đuợc phép giúp cậu con trai của bác được đi học và học ở các trường học tốt nhất nước Anh.  Tôi tin tưởng cháu trai là con một công dân tốt, khí khái như bác cũng sẽ phải là một người phi thường...  cậu bé chắc chắn sẽ làm cho bác phải hài lòng.”

 Và nông dân Flemming bằng lòng.

 Sau này, con trai của nông dân Flemming tốt nghiệp Bác sĩ y khoa từ trường St. Mary’s Hospital Medical Schoool ờ Luân đôn, và trở thành một vị bác sĩ nổi tiếng toàn cấu.  Đó là Bác sĩ Sir Alexander Flemming - người đã sáng chế ra thuốc trụ sinh Penicilline.

 Những năm sau đó, nhà quí tộc bị bệnh thương hàn (pneumonia) rất nặng.  Chính thuốc Penicilline đã lại cứu mạng sống của ông ta.

 Nhưng mà nhà quý tôc mà chúng ta đang nói đây là ai vậy?  Đó là Lord Randolph Churchill.  Đứa con trai của ông ta bị lún bùn suýt chết ngày trước là Sir Winston Churchill, một vị Thủ tướng tài ba của Anh quốc trong thời Đệ nhị thế chiến.

 Như vậy, khi làm việc phải thì chúng ta không cần được mang ơn…  Mọi chuyện sau đó sẽ đến một cách tốt đẹp.

 “Ngày của Cha” sắp đến nơi rồi.  Các bác trai hãy cùng tôi “nối vòng tay nhỏ” và làm ngày này là một ngày thiêng liêng không thua kém gì ngày “Mother’s Day.”

 “Happy Father’s Day” tất cả các bác trai…

 Thân mến,

 Trần Văn Giang

(“Ngày của Cha” – năm 2011)



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/May/2011 lúc 2:32am
CÔNG ĐỨC SINH THÀNH
http://www.youtube.com/watch?v=B6hOVKVnAkM&feature=related -


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 24/May/2011 lúc 8:49am
 

Chuyện khó tin có thật: Một người cha vĩ đại



Cha tôi vốn là một người rất vui tính. Nhưng hôm đó, thái độ của ông rất lạ. Ông lặng lẽ gắp thức ăn và giục chúng tôi ăn. Chúng tôi biết ông có việc gì hệ trọng lắm.

Kính thưa Tòa soạn.

Tôi thay mặt hai đứa em của tôi viết thư này gửi đến Tòa soạn để kể về người cha của chúng tôi. Chúng tôi vừa làm giỗ đầu cho ông. Chúng tôi thống nhất với nhau chỉ kể về người cha của mình sau khi giỗ đầu ông.

Trước kia, khi ông còn sống, ba anh em tôi đã ngỏ ý với cha cho phép chúng tôi viết câu chuyện về ông. Nhưng lần nào ông cũng gạt đi và nói: "Bố nuôi nấng và thương yêu anh em con không phải để các con hay ai đó viết một bài báo về bố. Điều bố mong ước lớn nhất là anh em con phải thương yêu đùm bọc nhau, nhất là sau khi bố mẹ không còn trên cõi đời này nữa".

Mẹ tôi sinh được ba anh em tôi: hai trai, một gái. Hiện nay, tất cả chúng tôi đã trưởng thành và đã có gia đình riêng. Tôi có thể tự hào rằng, anh em tôi đã biết sống cho nhau mặc dù cuộc sống của chúng tôi trước kia vô cùng khó khăn.

Tôi nhớ cách đây bảy năm, khi người em út của chúng tôi xây dựng gia đình riêng được một năm thì cha tôi làm một bữa cơm và gọi ba anh em chúng tôi đến. Cha tôi vốn là một người rất vui tính. Nhưng hôm đó, thái độ của ông rất lạ. Ông lặng lẽ gắp thức ăn và giục chúng tôi ăn. Chúng tôi biết ông có việc gì hệ trọng lắm.

Sau bữa cơm, ông bắt đầu câu chuyện. Ông hỏi chúng tôi lâu nay có nghe thiên hạ nói gì về gia đình mình không. Nhất là từ sau ngày mẹ chúng tôi qua đời. Chúng tôi thưa với ông là chúng tôi không nghe thấy điều gì cả. Ông im lặng rất lâu, sau đó cất tiếng hỏi: "Có bao giờ các con nghe ai đó nói bố không phải bố đẻ của các con không?". Khi nghe ông hỏi vậy, anh em chúng tôi hết sức ngạc nhiên. Hai đứa em tôi không hề biết gì về chuyện này. Nhưng tôi có nghe một người bạn nói rằng tôi không phải là con của ông. Ngày ấy, tôi đã hỏi mẹ tôi. Bà nhìn tôi ngỡ ngàng một lúc lâu rồi nói là không có chuyện như thế.

Rồi mẹ tôi mất sớm khi chưa đến năm mươi tuổi. Từ đó đến lúc này, bố tôi một mình nuôi dạy và lo chuyện nghề nghiệp cho đến dựng vợ gả chồng cho ba anh em tôi. Ba anh em tôi nói với ông đừng nghĩ gì về những lời đồn thổi không thiện chí của thiên hạ. Ông nhìn chúng tôi hết sức nghiêm nghị và nói: "Hôm nay là ngày quan trọng, bố cho gọi ba anh em đến đây để nói cho các con biết một điều vô cùng hệ trọng. Cả ba anh em con đều không phải do bố sinh ra".

Chưa bao giờ tôi lại gặp một câu chuyện bất ngờ đến như thế. Sau những phút bàng hoàng, cả ba anh em chúng tôi biết rằng điều ông nói hoàn toàn là sự thật. Lúc đó, anh em chúng tôi đều khóc. Ông cũng khóc. Ông nói, không biết việc ông giữ kín chuyện hệ trọng đó với chúng tôi cho tới ngày nay có tốt hay không: "Khi bố tin các con đã trưởng thành và có suy nghĩ chín chắn thì bố mới dám nói điều này cho các con biết. Dù thế nào thì trước sau bố cũng phải nói cho các con. Các con có quyền phán xét bố. Nhưng bố rất hạnh phúc vì đã được sống cùng các con, đã nuôi dạy các con thành những người tốt cho xã hội".

Rồi sau đó, ông cho chúng tôi biết ai là cha đẻ của chúng tôi. Đến lúc này chúng tôi mới biết ba anh em chúng tôi là ba anh em cùng mẹ khác cha. Chúng tôi thực sự bàng hoàng khi biết ba anh em chúng tôi có những người cha khác nhau. Lúc đó, chúng tôi vừa thấy đau đớn vừa thấy xấu hổ. Sau đó chúng tôi hỏi ông tại sao mẹ chúng tôi lại làm như thế. Ông nói với chúng tôi đừng nghĩ khác về mẹ chúng tôi. Rồi ông kể cho chúng tôi nghe toàn bộ câu chuyện.

Cha chúng tôi không có khả năng sinh con. Ông đã nhiều lần khuyên mẹ chúng tôi xây dựng gia đình với người khác. Mẹ tôi kiên quyết phản đối ông. Nhưng khát khao có một đứa con đã thúc đẩy bố mẹ tôi nuôi một người con nuôi. Song đứa bé đã không sống được vì một căn bệnh hiểm nghèo. Sau đó mẹ tôi đi xem bói. Thầy bói nói mẹ tôi không thể có con nuôi, vì nuôi con nuôi nếu con không chết thì mẹ chết. Sợ quá, mẹ tôi không dám tìm xin con nuôi nữa.

Đến một ngày, mẹ tôi quyết định xin một người đàn ông quen biết một đứa con. Thế là tôi được sinh ra. Khi có thai, mẹ tôi sợ hãi vô cùng vì đã phản bội bố tôi. Mẹ đã khóc và nhận lỗi trước bố tôi. Ông bàng hoàng. Những ngày sau đó ông nói với mẹ tôi là ông đã nhiều lần khuyên mẹ tôi đi xây dựng gia đình với người đàn ông khác, nay mẹ tôi có con với người khác thì cũng là mong muốn của ông cho mẹ tôi. Bố tôi còn nói với mẹ tôi, nếu mẹ tôi còn muốn ở với ông thì ông sẽ che chở cho hai mẹ con.

Thực ra, mẹ tôi yêu và kính trọng bố tôi vô cùng. Mẹ tôi đã không ra đi và hết sức chăm sóc, chiều chuộng ông như để trả ơn một phần những gì bố tôi đã đối với mẹ tôi.

Mấy năm sau, mẹ tôi lại có thai với một người đàn ông khác. Mẹ tôi sợ quá và tự tử. Nhưng bố tôi phát hiện và cứu mẹ tôi. Ông đã tát mẹ tôi và gầm lên: "Cô định giết chết đứa bé trong bụng hay sao? Chẳng lẽ cô lại độc ác như thế hay sao?".

Lần có thai này mẹ tôi vô cùng xấu hổ. Mẹ tôi bỏ về nhà ngoại. Bố tôi tìm đến, đưa mẹ tôi về nhà và nói: "Tất cả là tại tôi. Chỉ có hai vợ chồng mình mới hiểu được điều đó. Em hãy ở lại đây đến khi nào em muốn". Lần mang thai thứ hai, mẹ tôi sinh đôi. Đó chính là hai đứa em tôi bây giờ. Bố tôi đã yêu thương và chăm sóc chúng tôi hết lòng.

Khi chúng tôi tới tuổi cắp sách đến trường thì người đàn ông là bố đẻ của hai em tôi đến gặp bố tôi để xin lỗi và xin mang hai em tôi về nuôi. Bố tôi nói không nỡ xa hai đứa trẻ vì đã gắn bó với chúng khi còn trong bụng, nhưng quan trọng hơn là mẹ tôi không cho đồng ý. Cuối cùng, người đàn ông là bố đẻ của hai em tôi đành phải chấp nhận để bố tôi nuôi dạy. Bố tôi cũng nói với người đàn ông kia là khi chúng lớn sẽ cho chúng biết về cha đẻ và ủng hộ chúng trở về với bố đẻ của mình.

Sau khi kể cho chúng tôi nghe toàn bộ sự thật, ông khuyên chúng tôi hãy đến với những người bố đẻ của mình. Cả ba anh em chúng tôi đều khóc khi nghe điều ấy.

Chúng tôi yêu ông, mang ơn ông và thương ông vô hạn. Hiểu ý chúng tôi, ông nói: "Các con đừng giày vò về việc này. Bố nuôi dạy các con vì bố yêu các con và bố cần các con chứ không phải để chiếm hữu các con. Nay các con đã lớn, các con đủ lý trí và tư cách để biết sự thật. Bây giờ các con đi đâu, làm gì và ở đâu bố cũng yên tâm. Các con là con ai không phải là quan trọng. Quan trọng nhất là các con sống như thế nào với con người và với xã hội". Sau đó, ông đưa địa chỉ của những người bố đẻ của chúng tôi.

Chúng tôi đã gặp những người bố đẻ của mình. Nhưng chúng tôi phải thú thực rằng: Chúng tôi không thể nào sống xa người bố đã nuôi dạy và yêu thương chúng tôi. Ông quả là một người bố vĩ đại. Vì ông mà chúng tôi biết sống có nhân có đức với mọi người.


Sưu tầm




-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/May/2011 lúc 9:31pm
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt
 
 
*
Tác giả là một nhà báo, người phụ trách một cột mục trên tạp chí Ca Dao tại Dallas, đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Sau đây là hồi kết bài viết mới của ông, với lời ghi: “Gởi chút niềm riêng...”
*
1.
…Cha tôi đánh mẹ tôi như cơm bữa, lần cuối cùng, năm tôi 6 tuổi. Hôm đó, cha về nhà với người đàn bà son phấn chứ không xoàng xĩnh như mẹ tôi. Sáu tuổi đầu nhưng tôi đã linh cảm được đại sự xảy ra! Thay vì chạy trốn đòn như mọi lần cha về thì tôi chạy xuống bếp với mẹ để nhớ đời về trận đòn kinh khủng mà mẹ tôi phải gánh chịu. Cha đuổi mẹ ra khỏi nhà bằng những câu chửi tục tằn, những hành vi ghê sợ. Người đàn bà kia đứng khoanh tay nhìn cha tôi đá cái lò củi đang cháy mà trên đó là nồi cơm chiều đang sôi. Có lẽ do nước cơm đang sôi làm phỏng chân vì cha đi dép chứ không phải giày nên ông nóng giận hơn bình thường và đã trút cơn thịnh nộ lên mẹ tôi một trận đòn kinh khủng. Ong đá mẹ tôi liên miên đến không đứng dậy nổi, cuối cùng là nắm tóc và giập đầu mẹ vô vách đến khi dòng máu đỏ chảy dài xuống mặt thì người đàn bà kia can ra, không cho đánh nữa. Bà ta mở bóp đầm, lấy ra cái khăn tay để hỉ mũi… chứ không phải lau máu cho mẹ tôi.
Mẹ nắm tay tôi, lom khom vì đau đến không đứng thẳng người lên được, trở lên nhà trên, mẹ xốc thằng em tôi đang ngủ dúi ở góc nhà. Mẹ vác nó lên vai, cố tha lưng nó cho đừng khóc nữa. Chúng tôi ra khỏi nhà trong bóng chiều chạng vạng. Người đàn bà kia đứng lặng nhìn theo… tương lai của bà. Con chó phân bua vài tiếng sủa, rồi quyết định chạy theo những kẻ khốn cùng.
Chúng tôi đi bộ thật gần để sang nhà bà nội. Mẹ tôi gởi chị em tôi cho bà nội để đến nhà ông y tá trong xóm băng bó vết thương vì máu chảy đầm đìa. Nội xua đuổi chúng tôi làm om xòm cả xóm. Chú Tư tôi ngoài quán nhậu, nghe chuyện trở về nhà. Ong ra lệnh cho bà nội giữ đứa con trai, (năm đó, em tôi 4 tuổi) và ra lệnh cho mẹ dẫn tôi đi đâu thì đi, đừng về nhà nữa, đừng đến đây nữa. Mẹ tôi miễn cưỡng gởi lại thằng em tôi cho bà nội, nhưng nó khóc la, không chịu rời mẹ tôi. Chú Tư táng nó một bạt tai đến sặc máu mũi, chửi tới ba đời nhà nó. Mẹ tôi không cho đánh nó nữa bằng cách ôm nó vào lòng mẹ. Chú Tư trút giận lên mẹ tôi còn tàn nhẫn hơn cha tôi. Chú đánh mẹ tôi như đánh chó. Đá lăn lông lốc trên sân… Tôi không còn khóc la nổi nữa, chỉ đứng há hốc miệng ra nhìn. Thằng em tôi thôi khóc, máu mũi nó chảy xuống đỏ cả ngực áo nó lẫn áo tôi, nó vùng ra khỏi tay tôi đang ôm nó trong lo sợ, nó dõng dạc chỉ mặt chú Tư! "Đụ má mày chú Tư." Ong, cho nó một đá văng ra ngõ, nó giẫy đàng đạch như con cá lóc bị đập đầu. Mẹ tôi bò ra ngõ, lôi thằng em tôi và gọi tôi. Chạy. Con chó chạy theo…
Đêm đó, chúng tôi ngủ sạp ngoài chợ Chồm hổm là ngôi chợ tự phát, mọc lên sau "giải phóng". Bờ sông bãi rác trước đây nhưng có lợi thế trên bờ dưới bến, thuận tiện cho việc mua bán của ghe thương hồ. Đêm xuống, mấy chiếc ghe thương hồ leo lét đèn bão và tiếng hát lời ca vang lên cùng tiếng đàn vọng cổ. Tôi quá lạnh, sợ và đói nên không ngủ được, rúc vô mẹ tôi thì thằng em không nhường hơi ấm, nó xô tôi ra. Tôi ôm con chó, khóc thút thít… rồi lịm đi.
Khuya, mấy người Phường đội, du kích, công an… đi bắt vượt biên làm náo động mấy chiếc ghe thương hồ đã yên giấc. Họ bắt chúng tôi chung với những người lạ, những người vượt biên lớ ngớ không biết chạy di đâu. Tất cả những người bị bắt, được giải về Công an Phường. Sáng hôm sau, công an nhận mặt ba mẹ con tôi là người địa phương nên thả ra chứ không đưa đi trại giam.
Mẹ dẫn chị em tôi xuống cuối chợ, mua cho mỗi đứa một trái bắp luộc và dặn ngồi ngoan ở đó để mẹ đi xin việc làm. Con chó cũng kêu đói ăng ẳng đòi phần, mẹ nhường cho nó củ khoai lang luộc là phần của mẹ. Bây giờ, tôi mới thấy trên đầu mẹ tôi được buộc lại như đeo tang, máu khô còn đầy ở mang tai và gương mặt tím bầm nhiều chỗ. Chúng tôi ăn xong, ngồi ngoan một chỗ để mẹ đi gánh nước và rửa tô cho hàng hủ tiếu. Con chó lẽo đẽo theo mẹ đi gánh nước…
Từ đó, chúng sống ngoài chợ. Tối ngủ coi đồ cho hàng hủ tiếu khỏi dọn bàn ghế về nhà như trước đây. Gia đình tôi cũng quen được ông bà Mười làm nghề thương hồ. Ong bà lên hàng là cả ghe cá mắm tới rau trái, dừa khô, khoai lang, bí đỏ… Họ mua bán trao đổi không hết hàng thì để lại cho mẹ tôi bán chợ chiều vì công việc phụ hàng hủ tiếu chỉ bán chợ sáng. Những ngày tháng ấy, tôi thấy mẹ tôi cười khi chợ vắng tanh về tối và thằng em tôi chơi với con chó nhiều hơn chơi với chị.
Chuyện, ba mẹ con tôi sống ngoài chợ được đồn đến tai cha tôi và chú Tư cũng đồng nghĩa với hết yên ổn từ hôm bà nội đi chợ. Bà ngồi ăn bún thịt nướng chả giò thơm lừng. Tôi không giữ nổi thằng em như lời mẹ tôi dặn dò, nó vùng khỏi tay tôi để chạy đến bà nội xin ăn vì thịt nướng thơm lắm! Bà nội hất nguyên tô bún vô mặt nó. Bảo lượm lấy mà ăn! Chửi ba đời chín kiếp nhà nó. Nó không lượm thịt nướng chả giò dưới đất mà chỉ thẳng vào mặt bà nội! "Đụ má mày bà nội". Người dưng cười hả hê bao nhiêu thì mẹ tôi bị chú Tư ra chợ đánh cho một trận còn thê thảm hơn thế. Chiều tối hôm sau, tới phiên cha tôi ghé chợ, đánh cho mẹ tôi một trận nữa, đánh tới gẫy xương sườn. Từ đó về sau, thằng em tôi chỉ nói một câu: "Đụ má". Ai hỏi nó ăn hôn? Chơi hôn? Ngủ hôn? Đi đái hôn?... nó chỉ trả lời…! Người kẻ chợ gọi nó là "thằng Đụ má".
Chị em tôi sống nhờ cơm ông Mười nấu dưới ghe, bà Mười đưa mẹ tôi đi nhà thương chưa về. Dì Hường (cháu gọi bà hủ tiếu bằng dì, là người làm côn việc gánh nước, rửa tô với mẹ tôi). Dì mua cho chúng tôi hai bộ đồ mới… là tất cả những gì tôi còn nhớ được tới hôm nay.
Ong ngoại (ông Mười) bỏ chị em tôi xuống ghe, con chó đã bị người ta bắt trộm làm thịt trong hôm mẹ tôi đi nhà thương. Chúng tôi khóc con chó quá mức nên quên khóc cho mẹ dở sống dở chết nơi đâu chúng tôi cũng không biết! Ong ngoại đưa chị em tôi về nhà ngoại ở dưới quê. Bà ngoại ở bệnh viện chờ bác sĩ "hàn xương sườn" cho mẹ tôi. Ong ngoại nói với chị em tôi như thế. Chúng tôi được ở nhà ngoại với dì Hai, (dì bị té sông hồi nhỏ nên tâm thần lãng đãng). Nhưng dì biết nấu cơm cho chúng tôi ăn, dì biết ca vọng cổ, hay lắm! Không nhớ bao lâu thì mẹ tôi cũng được ông bà ngoại đưa về quê. Từ đó, mẹ tôi làm người đi trao đổi hàng hóa từ thành phố về, thu mua đặc sản trong xóm, sắp sẵn cho ông bà ngoại về tới là lên hàng và xuống hàng, đi liền. Ong bà ngoại không phải ở lại xóm một hai hôm để mua bán, trao đổi hàng hóa với xóm làng vì đã có mẹ tôi lo.
Thương vụ của ông bà ngoại phát đạt nhờ có mẹ tiếp sức. Ong bà ngoại tôi tin là mẹ tôi đã đem may mắn đến gia đình có bốn người con gái nên làm ăn ạch đụi hoài! Từ hồi có mẹ tôi thì gia đình ông bà ngoại đã đủ Ngũ Long Công Chúa nên ai cũng ăn nên làm ra. Trừ dì Hai bị tâm thần nên không lập gia đình, còn lại các dì kế đều tự nhiên làm ăn được nên khá lên. Cả nhà ngoại thương mến mẹ con tôi đến độ ông bà ngoại gả chồng cho mẹ tôi với người đàn ông trong xóm, cũng làm nghề thương hồ và vợ chết khi sanh đứa con thứ hai cho ông. Mẹ tôi chưa đồng ý chuyện cưới hỏi thì chú Tư đã xuống tới nơi, tố cáo với công an địa phương là ông bà ngoại tổ chức vượt biên nên mẹ con tôi bị bắt lần nữa. Ong bà ngoại xạt nghiệp lần đó, phương tiện làm ăn chỉ là cái ghe thương hồ mà bị cấm hoạt động vì tội đưa người; chứa người vượt biên thì còn gì để sống! Ngoại bán ghe để chạy chọt cho họ thả chúng tôi ra.
Dì dượng ba của tôi đã âm thầm chuẩn bị cho chúng tôi ra khỏi trại giam với lệnh phải trở về Sài gòn trong ngày. Nhưng dì dượng đón chúng tôi khi xe đò rời Vĩnh Long không xa và đưa chúng tôi đi trốn trong gò mả - ngoài đồng hoang cả tuần tới hôm đi vượt biên.
2.
Chúng tôi đến đảo như mọi người vượt biên khác và khác người là ba mẹ con thui thủi, không biết có được đi định cư ở nước thứ ba vì hoàn toàn không có thân nhân ở ngoại quốc. Cơ may bất ngờ là có một gia đình vượt biên như chúng tôi, họ có thơ của thân nhân ở Pháp gởi tới trại. Trong thơ có mấy câu tiếng Pháp do đứa cháu nội của ông già vượt biên viết hỏi thăm ông nội, nhưng ông không biết đọc tiếng Pháp. Mẹ tôi dịch được sang tiếng Việt cho ông hiểu. Nhờ đó, mẹ tôi quen chú Thành. Chú giỏi tiếng Anh và làm việc cho ban lãnh đạo trại để giúp đỡ đồng bào tỵ nạn, chứ chú đi Mỹ lúc nào cũng được vì gia đình chú đã sang Mỹ từ lâu.
Ngày tháng, những gia đình vượt biên cùng chuyến đã đi định cư, chỉ còn gia đình tôi ở miết vì không người bảo lãnh đi nước thứ ba; cũng không phái đoàn nào nhận chúng tôi đi bất cứ đâu để khỏi bị cưỡng bức hồi hương. Chú Thành quyết định làm đám cưới với mẹ tôi ngay bên trại tỵ nạn. Đám cưới được Ban lãnh đạo trại tổ chức cho và có mấy phái đoàn ngoại quốc dự đám cưới nữa nên gia đình tôi đi Mỹ với chú Thành, khá dễ dàng.
Tôi không tưởng tượng được sự giàu sang của gia đình chú Thành, khi tôi tới Mỹ. Nhưng tôi không được sống trong căn nhà lộng lẫy, gọi bà cụ hiền khô là bà nội. Chúng tôi sống riêng ở một căn aparterment. Cuối tuần, chú Thành ghé thăm.
Mẹ tôi, một lần nữa lăn xả vào cuộc sống mới vì hai đứa con nhỏ. Ai cũng khen mẹ tôi giỏi giang vì tới Mỹ mấy ngày thôi đã lội tuyết đi làm cho tiệm fast-food Mỹ. Đêm, ngồi may tới khuya lơ để kiếm tiền. Từ khi mua được chiếc xe hơi cũ, cuối tuần nào mẹ cũng chở chúng tôi đến thăm bà… với quà bánh cho bà rất hậu.
Cuộc sống chúng tôi ổn định dần thì bà bị trợt té gẫy chân, phải nằm bệnh viện lâu vì giập lá lách nữa. Mẹ chú Thành có bốn người con trai thì ba người con dâu trước đây không công nhận mẹ tôi là em dâu út, nhưng bây giờ cần người vô bệnh viện với mẹ chồng thì gọi vợ Ut Thành! (Tôi đã bắt đầu biết suy nghĩ về gia cảnh của mình và hoàn cảnh của mẹ vì tôi đến Mỹ năm 10 tuổi, bây giờ đã sắp 13).
Mẹ tôi nói với chú Thành là mẹ xin nghỉ vacation, sau đó nghỉ không ăn lương để có thể chăm sóc cho bà. Nhưng mẹ nói với tôi: "Chú Thành đã cứu chúng ta, bây giờ mẹ phải giúp chú ấy. Mẹ bị buộc thôi việc vì nghỉ nhiều quá, nên không có tiền lương nữa. Cũng không có thời giờ may để kiếm tiền trả tiền thuê aparterment…" Mẹ dạy tôi may và tôi đã ngủ gục trên bàn may nhiều lần để có tiền trả aparterment, năm tôi 13 tuổi.
Khi bà được xuất viện về nhà, mẹ tôi vẫn chăm sóc bà thêm mấy tháng. Khi bà tự nói: Bà đã có thể tự túc một mình, mẹ tôi nên đi làm lại để nuôi con. Bà cho mẹ tôi một số tiền lớn lắm, có thể mua được căn nhà để ở. Nhưng mẹ tôi không lấy và trình ra giấy ly dị với chú Thành mà mẹ đã ký sẵn để trả lại tự do cho chú Thành như thoả thuận của mẹ với chú Thành từ hồi làm đám cưới bất đắc dĩ bên đảo.
Tôi với thằng em, phản đối vì chúng tôi đã thân quen với chú Thành như con với cha, dù chú không ăn ở với mẹ tôi. Tôi nhớ lần cuối đến thăm bà vào ngày cuối tuần vì mẹ tôi quyết định dời đi tiểu bang khác sinh sống. Mẹ không giải thích lý do nhưng tôi lờ mờ hiểu là mẹ muốn xa bà và chú Thành.
Hôm đó thật buồn, bà ngồi trên ghế bành và khóc. Cuối cùng, bà tuốt cái nhẫn trên tay bà mà bà nói là quà cưới của bà. Bà trịnh trọng trao cho mẹ tôi: "Bác không có con gái để trao lại cái nhẫn này nên bác cho cháu. Về chuyện của cháu với thằng Thành, nó là người tín nghĩa trong việc giúp cháu qua được Mỹ, hai đứa phải mang danh nghĩa vợ chồng trên giấy tờ mà nó thì sống độc thân mấy năm nay. Nó chờ cháu đó! Cháu cứ nhận cái nhẫn gia bảo này như cháu là người xứng đáng được bác trao lại kỷ vật của gia đình. Nếu cháu nhận thêm ý nghĩa thứ hai - là cái nhẫn đính hôn cho con trai của bác thì bác cảm ơn cháu thật nhiều."
Mẹ tôi khóc, chị em tôi cũng khóc, mẹ đưa tay cho bà đeo nhẫn vào.
Chúng tôi trở về aparterment của chúng tôi. Tôi bắt đầu suy nghĩ về tình cảm của người lớn! Tôi ước gì chú Thành đến tặng hoa cho mẹ tôi vì nhẫn đính hôn thì bà đã trao rồi. Tôi hỏi thằng em: "Mày có muốn chú Thành làm ba của mình hôn?" Nó trả lời tôi bằng cái ôm chị hai thật lâu. (Nó là người khô khan tình cảm tới lạnh lùng, nó không thích nói và chỉ thích đánh lộn.) Không ngờ, mẹ tôi khóc sau lưng chúng tôi - hôm đó là thứ bảy. Sáng hôm sau, chú Thành ghé aparterment chở chúng tôi đi chơi như chú hứa. Hai chị em tôi xin qua cây xăng - sát bên aparterment mua kẹo để mang theo ăn. Mẹ tôi đang chuẩn bị đi làm, mẹ tôi đi làm liên tu bất tận…
Lần đầu tiên, chúng tôi nói dối mẹ với chú Thành vì chúng tôi băng qua chợ Mỹ, mua một bó hoa hồng rẻ nhất (loại người ta đã bỏ ra ngoài tủ lạnh chưng hoa với bảng giá 50% off, vì tiền chúng tôi có tới đó thôi!) Chúng tôi mang về, dúi vô tay chú Thành và hai đứa đứng yên. Chú nhìn chúng tôi thật lâu sau lớp kính cận rất dày của chú… chỉ có nước mắt chảy ra. Cuối cùng, chú cũng tiến đến mẹ tôi để trao bó hoa, chú trao luôn ra cái hộp bé xíu mà xinh xắn đến tuyệt vời…
Ba mẹ tôi đã ôm nhau thật lâu - trước mặt chị em tôi - để vài năm sau - tôi có thêm đứa em cùng mẹ khác cha. Lần đầu tiên từ khi đến Mỹ, mẹ tôi bỏ việc không làm để đi chơi. Ngày chủ nhật đầu tiên trong đời chị em tôi được đi chơi với cha mẹ. Chiều về, ăn nhà hàng sang trọng để hai chị em tranh nhau cái toilet mà ói vì đứa nào cũng không quen với cao lương mỹ vị.
3.
Hai năm trước, tôi ghé thăm ba mẹ nhằm hôm ba đi câu với thằng em khác cha của tôi. Mẹ đưa tôi lá thơ viết tay có dấu Bưu điện Sài gòn chứ không phải Vĩnh Long. Tôi bình tĩnh theo phản xạ của người trưởng thành dị biệt. Tôi ngồi nghĩ về ngôi chợ Chồm hổm ở bờ sông Dương Bá Trạc…
…Nhớ ba lần về Việt Nam, gia đình tôi đều thuê xe về thẳng Vĩnh Long. Lần đầu về thăm ông bà ngoại và các dì; lần sau về xây mộ cho ông ngoại; lần cuối về xây mộ bà ngoại. Mẹ tôi về một mình trong lần thứ tư để chôn cất dì Hai đã mãn phần vì chứng tâm thần từ nhỏ của dì nên dì kém thọ. Không biết lần về một mình, mẹ tôi có ghé thăm bên nội?! Tôi không nghĩ mẹ tôi còn ghé bờ sông Dương Bá Trạc làm gì! Nhưng bằng cách nào mà bên nội biết được địa chỉ của mẹ? Tôi không hỏi, cũng không đọc thơ dù phong bì đã xé. Tôi ngồi lặng thinh, ký ức trở về năm lên 6 tuổi của mình với lòng oán hận tới ứa nước mắt. Mẹ tôi nói: "Vì lá thơ có liên quan tới con nên mẹ phải đưa cho con." Tôi ngước lên nhìn mái tóc bạc sớm của mẹ, đôi vai gầy và đôi mắt sâu… làm tôi không nói được lời oán trách nào hết! Mẹ ngồi xuống bên tôi như đêm đầu ngủ chợ, vết thương trên mang tai mẹ chỉ còn vết sẹo lu mờ, máu khô nâu đã sạch nhờ ơn chú Thành chùi rửa! Không biết mẹ có biết vết thương trong lòng tôi với em tôi không bao giờ khép miệng!
Một tuần trôi qua, tôi mất ngủ hoàn toàn vì tò mò muốn đọc lá thơ nhưng lại tự lòng không cho mình đọc. Tôi không muốn xát muối lên vết sẹo còn mưng mủ trong lòng em tôi. Tôi không muốn làm tổn thương chú Thành khi ơn chú chưa trả mảy may! Vì ở vai trò người cha kế, chú xử tệ với chị em tôi thì đã sao? Ngược lại, chú thương tôi bằng vất vả, hy sinh, chia sẻ… cho đứa con gái nhiều mặc cảm về gia đình và xuất xứ bản thân. Chú khổ sở với tánh tình hung bạo, hận thù tất cả, không tin ai ở đời… của thằng em bất trị của tôi. Không ít lần nó làm cho chú suýt vô tù, mất việc, tiền bạc tiêu tan trong những lần phải bồi thường cho những người mà nó gây hại cho người ta. (Nó đánh người vô cớ khi chợt nhớ về thù hận đâu đâu trong tuổi thơ của nó.) Nó quên tiếng Việt đến 99%! Phần trăm còn lại là câu "Đụ má". Mỗi lần nhìn mẹ tôi cắn răng chịu đựng những cơn đau nội tạng bị tổn thương khi trở trời. Nó chửi thề tiếng Việt ỏm tỏi, mắt long lên giận dữ như con chó điên! Những lúc ấy, tôi an ủi, vỗ về nó để nó đừng ra đường đánh đại - bất cứ ai mà nó thấy mặt. Chú Thành lặng lẽ săn sóc mẹ tôi hết khăn nóng tới khăn lạnh. Chú nói chơi mà tôi khóc thiệt, "Lau mòn da cũng không hết cái đau bên trong! Tụi con ngoan ngoãn nghe lời, cố gắng vươn lên… mới là cái khăn lông lau được nhức nhối trong lòng của mẹ con. Hai đứa ráng lên…"
Tôi đến nhà em tôi sau cú điện thoại nó gọi, tôi đoán được việc nó đã thu xếp trước với anh rể vì chồng tôi ít khi để tôi đi đâu môt mình trong ngày nghỉ cuối tuần. Tôi đến một mình và người vợ mới cưới của nó cũng vắng nhà vô cớ để chỉ có hai chị em tôi gặp nhau. Tôi ngồi chưa nóng ghế thì ba tôi đến - chú Thành ở trại tỵ nạn năm xưa - nay đã già, qua hai tròng kính cận thật dày, đôi mắt nhân từ độ lượng của ông vẫn như xưa - người đàn ông khuôn mẫu trong quyết định của tôi khi lập gia đình vì chồng tôi giống chú đến 90%, mười phần trăm còn lại là khoảng cách tuổi tác của hai người.
Ba chúng tôi không vào chuyện được khi chai rượu vang đã gần cạn. Chú Thành hỏi tôi: "Con đã đọc lá thơ của ba con chưa?" Tôi trả lời: "Dạ chưa"! Chú nói: "Không cần đọc nữa! Vì mẹ con đã đưa chú đọc. Chính chú nói: Cứ đưa cho con để con quyết định. Nội dung bức thơ do cha con viết, chỉ một yêu cầu: Con bảo lãnh ông ấy sang Mỹ vì thằng Thắng (em tôi) không có giấy khai sanh. Con thì có. Cha con cũng không có giấy kết hôn với mẹ con, nên chỉ mình con có tư cách bảo lãnh ông ấy sang Mỹ. Mẹ các con nhờ chú suy nghĩ giúp vì bà không lường được hậu quả chuyện này. Với lòng tin mà mẹ các con đã gởi gắm nơi chú! Chú tin mình có thể vượt qua những khó khăn của gia đình chú. Nhưng, hai con đã trưởng thành nhiều, chú muốn chính chúng con giải quyết việc riêng của gia đình riêng của các con…"
Thằng em tôi nổi giận, mắt nó long lên! Chửi thề văng tục… nó thề giết cha tôi, giết hết bên nội… rồi tới đâu thì tới nếu tôi bảo lãnh ông ấy sang đây.
Tôi biết không bàn tính được gì với em tôi, tôi với chú Thành và chồng tôi lại ngồi xuống với nhau. Hai người đàn ông đã gầy dựng lại cuộc đời tôi từ đổ nát… cũng không ai cho tôi được quyết định cuối cùng vì mỗi mình tôi có liên hệ pháp luật với quá khứ! Tôi có tờ khai sanh oan nghiệt.
4.
Tôi đi gặp mẹ để đi đến quyết định cuối cùng cho chuyện có bảo lãnh cha tôi hay không? Mẹ tôi biết trước cuộc gặp này nên có lẽ mẹ đã chuẩn bị chu đáo cho một lần nói hết với con. Tôi như người bạn của mẹ tôi nơi một góc nhà hàng xa lạ, hai người phụ nữ Việt Nam lạc lõng trong cái nhà hàng Mỹ như đôi bạn dạt trôi đến nơi này từ địa ngục trần gian. Mẹ tôi ăn mặc đẹp, nét đẹp trời cho… rồi tiếc! Nên ông ấy ganh tỵ với mẹ tôi hoài. Lâu lắm rồi, tôi mới nhìn kỹ mẹ mình bằng con mắt khách quan để hiểu thêm vì sao mẹ khổ! Người đàn bà nào không ham nhan sắc! Và đó là nguồn gốc của bất hạnh bản thân cùng những liên lụy đến đời sau… những nghĩ suy miên man trong đầu tôi không trốn chạy được ánh mắt mệt mỏi của mẹ mình. Mẹ tôi dở lại từng trang đời cho đứa con nghe như nước đã qua cầu! Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu…
Mẹ tôi nói: "…mẹ không trả lời những câu hỏi của con, khi con còn quá nhỏ. Đến khi nói được với con thì tự con thấy không nên hỏi mẹ nữa! Cảm ơn con đã xử sự với mẹ bằng sự chia sẻ thầm lặng đó! Nhưng hôm nay, mẹ nói hết một lần với con về xuất xứ của con và cả xuất xứ của mẹ nữa, khi định mệnh đã không buông tha mình…
Biến cố 1975 đã liệng mẹ ra khỏi Viện mồ côi với tuổi đời 16, thân xác trưởng thành hơn đồng lứa, có lẽ hai người sinh ra mẹ cũng khá đẹp đôi. Mẹ không biết đi về đâu, làm gì để sống?... Khi trong tay chỉ có vốn tiếng Pháp ở trình độ biết đọc, biết viết mà các dì Phước đã dạy cho mẹ; một chút tài may vá, thêu thùa học được trong Viện mồ côi. Mẹ với người bạn thân trong Viện đã đói khát nhiều ngày mới xin được việc ở đợ cho một gia đình mà trước mặt tiền đường là tiệm may. Người bạn của mẹ phải ở nhà dưới lo cơm nước, giặt giũ. Mẹ biết cắt may nên được bà chủ may mặc cho dễ coi để đứng tiệm ở nhà trên, dù thời ấy cũng chẳng ai may mặc gì nhiều. Tưởng cuộc đời có ăn có mặc được yên thân, ai dè ông bà chủ bảo coi nhà cho gia đình họ đi chơi Đà lạt dăm hôm. Họ không trở về nữa. Họ đã vượt biên. Công an đến niêm phong nhà cửa, tịch thu tài sản. Mẹ với người bạn bị bắt đưa về Phường để điều tra! Thuở ấy, hai đứa trẻ mồ côi đâu biết được cạm bẫy ngoài đời. Đó chỉ là cái cớ cho họ đưa hai đứa con gái mồ côi ngờ nghệch về hành lạc, chứ ai đi bắt đám con ở làm gì! Cả hai đứa bị hãm hiếp tập thể trên tầng ba của ngôi nhà lầu, bất kể ngày đêm… Hai (chị em) mẹ quyết định tự tử. Cô chị nhảy lầu trong hoàn cảnh không mảnh vải che thân. Mẹ nhảy theo không thoát vì bị níu lại. Người chị chết thảm trên lề đường đêm khuya, chắc cũng không được chôn cất gì đâu. Sáng hôm sau, họ giải mẹ lên công an quận để xoá dấu cái chết đêm qua của bạn mẹ. Từ quận giải đi tiếp đến đâu thì mẹ không biết! Chỉ biết trên xe có chú Tư của con. Dọc đường, đồng bọn của chú Tư giải cứu, cướp tù. Họ bắn nhau với công an. Trong hỗn loạn tiếng súng, chú Tư nói mẹ chạy theo chú chứ ở lại thì họ xử bắn mẹ. Mẹ chạy theo chú Tư… để ân hận suốt đời.
Chú, đưa mẹ về nhà bà nội con, rồi đi biến đến mấy tháng. Mẹ không có khái niệm về một gia đình vì nhỏ lớn ở trong Viện mồ côi. Mẹ chỉ biết so sánh gia đình bà nội với gia đình tiệm may và thấy khác xa, thế thôi. (Con cứ nhớ lại năm con 16 tuổi và sự khờ khạo của mình thì mẹ khờ gấp đôi con vì mẹ ở trong Viện mồ côi nhỏ lớn. Không biết gì về đời sống bên ngoài). Có bà hàng xóm với bà nội, xúi mẹ trốn đi vì bà nội là người hành nghề chứa chấp mãi dâm, đó. Nhưng mẹ biết trốn đi đâu, khi miếng băng vệ sinh, mẹ cũng phải xin bà nội vì mẹ đâu có đồng nào trong túi để tự mua.
Mẹ ở nhà nội như con ở, trong tủi nhục cũng có cái mừng là mình không bị có thai với đám công an. Mẹ bắt đầu hiểu biết về chuyện đó từ bà hàng xóm của bà nội. Mấy dì Phước chỉ dạy mẹ phải giữ gìn vệ sinh thật kỹ, hàng tháng thôi. Các dì không dạy chuyện hơn. Nhưng ông nội con đã hãm hiếp mẹ đến có thai. Lần ông đang hãm hiếp mẹ thì chú Tư đột ngột về nhà, vô phòng. Chú, rút dao găm và đâm chết ông nội ngay trên người mẹ. Chú kéo xác ông xuống gầm giường vì đang trưa. Đến đêm, chú Tư với bác Hai của con đưa xác đi đâu thì mẹ không biết. Mẹ lên cơn sốt vì khủng hoảng tinh thần triền miên mấy ngày. Bà nội cho uống thuốc bắc, đối xử tử tế ra mà mẹ không biết? Khi biết thì đã thành kẻ giết người vì thuốc đó là thuốc trục thai. Mẹ nhớ suốt đời chỗ bờ sông mà bà nội đã ném cái thai xuống dòng nước… trôi đi.
Sau đó, mẹ lại có thai vì chú Tư hãm hiếp. Tiếp theo, chú Tư đi tù bất ngờ vì chú là người đâm thuê chém mướn. Tới bác Hai ra tù, (anh em họ vào tù ra khám như đi chợ). Bác Hai về nhà cũng bất thường như chú Tư, bác Hai cũng hãm hiếp mẹ như chú Tư. Mẹ biết mình đã có thai với chú Tư nhưng không nói ra vì sợ bà nội cho uống thuốc nữa. Mẹ không muốn giết người. Con hiểu! Khi bụng mẹ lớn rồi, mà vẫn chưa có tiền và có cách để trốn đi thì bà nội bắt uống thuốc phá thai như lần trước. Mẹ đã biết gian ngoa, nói dối từ cuộc sống dạy mình. Mẹ cầu cạnh bác Hai che chở và nói dối với bác: Cái thai trong bụng mẹ là con của bác Hai. Con ra đời như thế đó!"
(Tôi điếng người khi hình dung ra gương mặt chú Tư… lờ mờ trong trí nhớ! Gương mặt mà những khi thằng Thắng ngủ khò trên sofa… tôi nhìn mặt nó rồi nổi da gà vì vừa thương vừa giận mà tôi không bao giờ hiểu được vì sao? Tôi giải thích cho mình không thoả đáng khi nghĩ thương vì là chị em; giận vì nó gieo tai họa cho gia đình nghiêm trọng. Nó không biết thương chú Thành chút nào hết! Tôi giận nó để rồi thương trong vòng lẩn quẩn. Sao nó lại giống người đàn ông mà tôi ghê sợ nhất là chú Tư! Cha tôi là chú Tư. Còn gì cay đắng hơn trong đời tôi?!)
Qua cơn xúc động nhất thời, tôi không muốn nghe thêm về gia đình bên nội tôi nữa! Nhưng tôi nghe vì thương mẹ tôi. Tôi hiểu lòng người đàn bà được nói ra những khổ tâm sẽ dễ chịu lắm! Nên mẹ tôi nói tiếp: "Bác Hai thích mẹ thì đúng hơn thương. Những người nhà nội mà biết thương ai! Mẹ cũng không hiểu vì sao họ thích khi trong tay họ biết bao nhiêu cô gái trẻ. Bác Hai làm khai sanh cho con để phòng khi chú Tư ra tù thì không tranh chấp nữa vì mẹ đã như là vợ bác Hai. Bác đưa mẹ qua sống ở căn nhà mà mình đã từ đó ra đi…
Khi chú Tư ra tù (vượt ngục hay được thả thì mẹ không biết). Chú Tư lầm lì tới đáng sợ! Lui tới nhà mình khi bác Hai vắng nhà và hãm hiếp mẹ. Sự chống đối của mẹ hoàn toàn không có vì chỉ thiệt thân với những trận đòn không tả nổi. Mẹ thật sự không biết thằng Thắng là con bác Hai hay con chú Tư. Chỉ sau này, căn cứ vô tính tình của nó thì mẹ đoán nó là con chú Tư. Phần bác Hai con, là người nghiện rượu, xì-ke ma túy. Nên mẹ càng tin là thằng Thắng con chú Tư. Mẹ đối phó với hoàn cảnh mình là gian ngoa, nói dối… với chú Tư để bảo vệ cái thai thằng Thắng vì mẹ không muốn giết người - dù mới là phôi thai. Trong hoàn cảnh của mẹ lúc ấy, không có chọn lựa!
Chú Tư đánh bác Hai suýt chết vì bác Hai cướp mẹ trên tay chú Tư , bác Hai trở mặt tố cáo chú Tư giết ông nội tại nhà. (Sau này mẹ biết ra, ông nội cũng không phải là chồng bà nội. Ong có gia đình và chỉ lui tới với bà nội theo lối già nhân ngãi non vợ chồng. Ông là cán bộ, đã che chở cho bà nội làm ăn phi pháp. Nên chính bà nội cũng nổi ghen với mẹ vì bị ông bỏ rơi.) Trong tình thế gia đình tranh giành bát nháo đó, họ thi nhau trút giận lên mẹ là vậy! Mẹ hiểu chú Tư có tình cảm với mẹ hơn nhưng kẹt người anh tán tận, người mẹ bất nhân. Mẹ không muốn chú Tư giết bác Hai vì mình - dù họ tàn ác như nhau, nhưng là chuyện của họ! Không nên xui anh em người ta giết nhau để mình mang tội. Người ta có tàn nhẫn với mình thì để bề trên xét xử.
Sau khi thằng Thắng ra đời, bác Hai không làm khai sanh cho nó vì nghe lời người ngoài, bà nội… rồi tin nó là con chú Tư. Bác trở nên tàn độc với mẹ hơn, những lúc không tiền uống rượu, chích xì-ke, bác Hai bắt mẹ tiếp khách tại nhà để ông lấy tiền uống rượu và chích. Giai đoạn này thì mẹ đã học được cách tránh thai từ những cô gái trong nhà chứa của bà nội. Chú Tư thù bác Hai về việc bắt mẹ tiếp khách, điều đó thì mẹ biết! Nhưng chú bị người ta đâm lòi ruột trong những tranh chấp ngoài đường, cũng là việc làm ăn của chú. Chú về nhà nội nằm dưỡng thương mấy tháng. Giai đoạn đó, mẹ chỉ muốn tự tử vì tủi nhục. Nhưng hai con mình ai nuôi? Mẹ rối trí dữ lắm! Mẹ nhớ những người khách hiền lành, họ thật sự có nhu cầu giải quyết sinh lý đơn thuần. Họ thương cảm những cô gái điếm bằng những đồng tiền dấm dúi cho riêng trong khi hành lạc vì họ dư biết số tiền trả cho ông/ bà tú thì bản thân người gái đĩ đâu có bao nhiêu, thậm chí không được đồng nào trong những hoàn cảnh bị khống chế.
Mẹ chắt chiu tiền đó để chờ cơ hội dẫn tụi con trốn đi nơi khác, sống. Mẹ có mua cho chú Tư gói thuốc lá, tô hủ tiếu… không phải vì tình cảm của mẹ với chú mà đơn giản - chú là cha của tụi con. Mẹ phải có trách nhiệm với ông ấy cho tới khi tụi con trưởng thành. Suy nghĩ của mẹ lúc ấy là như thế.
Khi chú bình phục lại thì nói mẹ dẫn tụi con lên Long Khánh sinh sống. Chú sẽ giúp đỡ về tài chánh và sẽ sinh sống với mẹ như vợ chồng. Nhưng mẹ tưởng tượng ra tương lai của tụi con… thì trốn đi làm chi? Mẹ có mưu đồ trốn chạy nhưng với hai con thôi. Đó là căn nguyên của những trận đòn tàn tạ mà bác Hai với chú Tư đã trút lên mẹ.
Chuyện người đàn bà son phấn xuất hiện ở nhà mình để bắt đầu một cuộc ra đi của ba mẹ con mình, mẹ vẫn tin là Ơn trên đã cho mình một lối thoát.
Bên ngoài cửa kính của nhà hàng, lá thu bay xào xạc về đâu? những chiếc lá tụ ở một góc parking thì mục rữa theo thời gian. Tôi theo chiếc lá bay một mình trên parking mênh mông - vô định! Không còn tập trung nổi để nghe mẹ tôi nói, nhưng mẹ cứ nói như không còn cách nào dừng lại được!
Từ khi ngủ chợ thì con biết rồi. Những lần về Việt Nam thì con cũng đã có trí nhớ. Hôm nay, mẹ chỉ nói về lần mẹ về một mình. Sau khi xây mộ cho dì Hai, (là các dì muốn mẹ về chơi chứ không ai cần tiền của mẹ.) Lần đó, chú Thành đã chuyển về cho dượng Ba hai chục ngàn đô la, nên khi mẹ về tới là có hai chục ngàn và năm ngàn trong bóp tay của mẹ. Mẹ rời Vĩnh Long với tiền bạc còn nguyên vì không dì nào cho mẹ chi trả gì hết. Mẹ lên Sài gòn với tâm nguyện thực hiện những điều mình đã nghĩ trước đó. Mẹ tìm lại xóm xưa để thăm dì Hường, (Dì bây giờ khổ lắm! Con cái cũng nghèo nên không nhờ được gì. Người chồng thì y như bác Hai - xì-ke, nghiện rượu. Thiệt là khổ cho dì. Mẹ cho dì mười ngàn đô la để sửa sang lại ngôi nhà đã mục nát tới hết cỡ. Bỏ nhà bank cho dì mười ngàn đô la để dì có thể sống bằng tiền lời từ nhà bank, chứ tuổi tác chưa già nhưng sức khoẻ yếu kém của dì thì chắc chắn khổ tới chết. Mẹ có đến bờ sông để thắp cây nhang xin lỗi người anh/ chị của con, mẹ đã bỏ nó mấy chục năm trời lạnh lẽo ngoài bờ sông - dù mới là phôi thai nhưng nó đã có linh hồn.
Không ngờ dì Hường là người chị em mà Ơn trên đã ban cho mẹ. Dì nghèo vậy mà cũng đã xin lễ cầu siêu cho nó, rước vong linh nó vô Chùa để cầu siêu theo tín ngưỡng của dì. Mẹ nhớ hoài về hai bộ quần áo mà dì đã mua cho tụi con - hôm tụi con theo ngoại về quê - là tiền giành dụm của một đứa rửa tô ngoài chợ. Hôm mẹ xuất viện, ông bà ngoại phải lén đưa mẹ xuống ghe (sợ gia đình nội biết được thì không biết điều gì xảy ra cho mẹ). Vậy mà trước lúc ông ngoại nhổ sào cho ghe đi, dì Hường có mặt kịp thời. Dì đặt chồng tô đi thu gom từ những bạn hàng ở chợ xuống đất, dì xuống ghe và ôm mẹ khóc hết nước mắt. Khi ghe đã đi rồi, mẹ mới biết được dì đã lén đút hết cuộn tiền đi thu tiền hủ tiếu vô túi áo mẹ. Nghe bà ngoại nói, dì bị đòn cũng tan xương nát thịt vì tội ăn cắp số tiền đó.) Bao năm nay, mẹ cứ tâm niệm là mẹ còn thiếu người chị em một trận đòn, thiếu dì Hường cái tình nghĩa người dưng mà hơn cả ruột thịt.
Mẹ không ghé thăm bà nội hay bác Hai, vì chẳng có gì cho mẹ thăm. Nhưng dì Hường có cho mẹ hay là chú Tư đang ở tù vì vận chuyển xì-ke ma túy, chờ ngày ra pháp trường chứ không phải tù ngồi một thời gian như những lần trước. Mẹ suy nghĩ thật kỹ và tự đi thăm ông. Lúc đối mặt nhau ở nhà tù, ông nói: "Ong đã cầu nguyện cho được gặp lại mẹ một lần. Và ông đã mãn nguyện". Những câu xin lỗi của một người ăn năn thật hay giả thì mẹ không quan tâm, Mẹ chỉ nói với ông: "Tôi, không đến đây để thăm ông. Tôi đến đây chỉ để nói với ông: Những gì ông đã gây ra cho tôi thì tôi bỏ qua! Những gì gọi là giúp đỡ tôi lúc khốn khổ thì tôi trả ơn ông bằng cách cho ông biết: Hai đứa con tôi đã nên người…" Mẹ không muốn nói thêm nên ra về.
Vì mẹ không yên tâm lắm về cuộc sống của dì Hường nên đã để lại địa chỉ cho dì Hường liên lạc khi túng thiếu và cần mẹ giúp đỡ. Theo dì Hường cho biết qua thơ thì người chồng của dì đã ăn cướp hết tiền sửa nhà (nên nhà cũng chưa sửa được gì mà tiền thì đã hết). Phần tiền trong nhà bank thì ông không lấy ra được nhưng đánh đập dì mỗi tháng khi lấy ra tiền lời nhưng không đưa cho ông. Tóm lại, mẹ cũng không giúp được dì sướng hơn mà làm cho dì còn khổ hơn không có tiền. Thật là đau khổ.
Dì cũng cho mẹ biết: Sau lần mẹ vô thăm chú Tư trong tù thì ông đã tự tử chứ không đợi ngày bị đưa ra pháp trường. Mẹ không ăn năn, hối hận gì về việc đó! Biết ông là cha của tụi con, và mẹ nghĩ ông ấy đã để lại một chút con người cho con cái không quá xấu hổ về người cha - như thế cũng tốt!
Chuyện ông chồng của dì Hường đã đánh cắp địa chỉ của mẹ để đưa cho bác Hai với thoả thuận gì giữa họ thì mẹ không biết. Mẹ chỉ trình bày hết sự thật cho con quyết định có bảo lãnh bác Hai sang đây hay không? Cho con hiểu rõ hết những điều mà bao năm qua mẹ đã không nói! Con thương hay oán trách mẹ thì mẹ cam chịu khi không thể làm gì hơn được…"
Vậy là bức màn u uất về bản thân tôi đã được vén lên rõ ràng. Xét về mọi mặt… thì tôi không nên bảo lãnh bác Hai sang đây làm gì! Nhưng lòng riêng tôi cứ muốn đưa ông sang đây để ông tận mắt thấy được hạnh phúc mà mẹ tôi đang có. Để ông thấm thía tội ác mà ông đã gieo cho người vô tội thì về sau: Người hiền vẫn được trời thương, người ác vẫn bị trừng phạt. Tôi muốn ông sống thật lâu để chết mòn trong bơ vơ và đau khổ ở xứ người, hơn là để ông chết với một cơn say thuốc phiện quá liều bằng cách gởi tiền về cho ông ăn hút ngập mặt; chết vô thừa nhận như một kẻ vô lại.
Những thù oán xưa cũ đã cho tôi nghị lực để hoàn thành ý nguyện từ mỗi miếng giấp khai sanh - xét ra chẳng có giá trị gì! Tờ khai sanh như tờ giấy lộn với cái mộc đỏ của cấp Phường, là đơn vị hành chánh cấp địa phương, vừa vô nghĩa, vừa nực cười… Nhưng lòng riêng đã quyết nên tôi không ngại tốn kém. Tôi thực hiện bằng được một cuộc trả thù xứng đáng cho những gì mẹ con tôi đã chịu đựng từ mấy mươi năm qua và tới hết đời chúng tôi không chừng! Tánh tình em tôi có dịu lại từ khi Ơn trên đã sai phái người vợ hiền ngoan của nó đến giúp nó làm lại cuộc đời. Nhưng tôi biết trong lòng nó chẳng bao giờ có bình an - nhất là những lúc mẹ tôi đau đớn với nội tạng hư hao vì bị hành hạ xưa kia…
Ngày, vợ chồng tôi ra phi trường đón bác Hai - với danh nghĩa cha tôi. Tôi thề không khoan nhượng trong cuộc trả thù này. Nhưng bề trên không muốn cho tôi trở thành một người độc ác. Người đàn ông răng hô, da trắng xanh đến bệnh hoạn, nói giọng Bắc đặc… thì chắc chắn không phải bác Hai tôi vì gia đình nội tôi người miền Nam. Tôi chưng hửng, không biết đối phó ra làm sao trong trường hợp mà mình không lường trước được. May là chồng tôi tỉnh táo, anh nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh và dùng toàn tiếng lóng vì không biết ông Bắc này có biết tiếng Anh không? Chồng tôi đã bình tĩnh để suy xét:
"… Ba em (bác Hai) đã khôn hơn em tưởng! Ong qua đây làm gì cho em trả thù? Ong đã nhường chuyến xuất ngoại này cho một tội phạm trong nước hay cán bộ bị truy nã vì lý do gì đó?... thì anh không cần biết! Bác Hai ôm một đống tiền, tha hồ ăn hút ở Việt Nam, không sướng hơn sang đây cho em trả thù! Ông này đủ tiền mua một chuyến xuất ngoại và qua mặt chính quyền thì ông ấy là tay ghê gớm bên Việt Nam. Anh nghĩ, ra khỏi phi trường, ông ta sẽ bỏ trốn mình. Chuyện còn lại là chúng ta đối mặt với luật pháp ở đây là không khai báo khi đón nhận thân nhân giả mạo…"
"…. Em hết biết tính sao rồi! Anh tính toán giùm em."
Chồng tôi cho biết:
"Nếu mình tố cáo ông ấy ngay trong phi trường thì mình vô tội. Ong ấy, không phải người tốt cho mình áy náy hay hối hận gì đâu! Phần bác Hai của em bên Việt Nam cũng không yên nếu ông này không trót lọt bên đây! Có thể tay chân ông này sẽ đòi lại tiền bằng máu của bác Hai. Nhưng những người không đáng giúp này thì rất cần trừng trị…"
Tôi đồng ý với chồng tôi nên anh giả đi vô toilet để gọi cảnh sát. Ong Bắc đúng như chồng tôi tiên đoán, ông cũng giả đi toilet nhưng trốn chạy! Ong ta là tội phạm cỡ nào bên Việt Nam thì tôi thật thà không biết!
Chồng tôi đã giúp tôi qua được những rắc rối điên đầu với cảnh sát cho tới khi họ tóm được thủ phạm của một vụ lừa đảo sở Di Trú Hoa kỳ.
Nhiều lần ngồi nhớ lại chuyện ân oán này. Tôi hiểu biết hơn về lòng mình với những ân oán của con người. Tôi nghĩ… Hãy để bề trên phán quyết thay ta.
Phan
* Lời người viết.
Cảm ơn nhân vật "tôi" trong bài ghi chép của Phan. Cảm ơn bạn đã cho nhiều người suy nghĩ về tình yêu và hận thù trong những hoàn cảnh tương tự với bạn. Lớn hơn là suy nghĩ về tình yêu và hận thù trong thời đại chúng ta.
Cảm ơn nhân vật "mẹ" đã đồng ý cho phổ biến trên trang báo về cuộc đời không may nhưng kết thúc khá có hậu của bà. - Như một thông điệp chia sẻ cùng bạn đọc: Ở hiền gặp lành không bị ảnh hưởng gì từ văn minh và khoa học kỹ thuật. Con người muôn đời - gieo gió gặt bão - ở hiền gặp lành.
Chân thành cảm ơn qúy vị
Người ghi chép
Phan



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/May/2011 lúc 10:03pm
chọn một người cha
tác giả: ngân bình
diễn đọc : hồng vân
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=657244 - http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=657244



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/May/2011 lúc 8:42pm
Hai nàng dâu tương lai
 
 
Hôm nay nhà bà Hằng rộn ràng đón khách. Hai cậu con trai không hẹn mà cùng đưa bạn gái về ra mắt gia đình.
Hai nàng dâu tương lai một béo, một gầy nhưng đều là những cô gái xinh xắn đáng yêu, thoạt nhìn đã có cảm tình.
Nhung người đậm đà, ăn mặc hợp thời trang là người yêu của cậu em. Cô này vừa đến đã đon đả chào hỏi gia đình bạn trai như thể đã là người trong nhà, không chút e thẹn, lại còn mang theo rủng rỉnh túi nọ túi kia làm quà biếu mẹ chồng tương lai.
Thấy hai nhóc, con của chị cả đang nghịch đồ chơi, cô Nhung mở ví rút xoẹt 2 tờ 200 ngàn lì xì cho các cháu trước ánh mắt hài lòng của mọi người. Riêng Tuấn tỏ ra rất tự hào về bạn gái mình.
Điều đó khiến Nam, anh trai Tuấn đâm lo cho người yêu vì Trang đến tay không, chẳng mang theo quà cáp gì mà cũng chẳng có lì xì cho các cháu.
Anh lén nhìn Trang, sợ cô chạnh lòng hoặc cảm thấy bị lép vế. Nhưng Trang vẫn tự nhiên không tỏ chút thái độ bối rối. Có lẽ cô là người biết giấu cảm xúc của mình.
Mọi người vừa ăn vừa nói chuyện rôm rả, nhất là Nhung. Ai cũng thấy đó là một cô gái sắc sảo, cực kỳ am hiểu về các vấn đề kinh tế cũng như những xu hướng mới của thời đại. Nghe cô nói chuyện, cả nhà khi thì cười vỡ bụng khi thì gật gù thán phục.
Nam lại càng lo cho ý trung nhân của mình. Từ đầu đến giờ hình như Trang chưa ghi được điểm nào trong buổi đầu ra mắt. Trong khi Nhung thật sự nổi bật thì Trang không để lại chút ấn tượng nào.
Khi hai cô gái đã về, mọi người trong nhà bắt đầu xì xào bình luận. Nhung được cả nhà khen lấy khen để, nào là khéo ăn khéo nói, nhanh nhẹn hoạt bát, hào phóng, sắc sảo... đúng là không chê vào đâu được. Còn cái cô Trang thì rõ chán.
Lúc ấy, hai thằng bé con chị cả mới đồng thanh: “Cô Trang có lì xì cho tụi con mà!”. Vừa nói chúng vừa giơ ra hai chiếc phong bao màu đỏ xinh xinh.
Trong khi mọi người ngây ra không hiểu Trang lì xì cho các cháu khi nào mà họ không biết thì thằng lớn bô bô: “Cô Trang lì xì thì chúc mau ăn chóng nhớn, ngoan ngoãn, học giỏi, lại còn thơm vào má tụi con mấy cái. Cô Nhung thì chả chúc gì, đưa tiền như ném phi tiêu”.
Thấy thằng anh được nói, thằng bé cũng chen vào. Nó kể lúc đi vệ sinh nghe thấy cô Nhung nói điện thoại: “Mẹ không phải lo, cả cái nhà ấy đã tối mặt tối mũi vì đống quà con mang đến rồi. Gớm, giá mà mẹ nhìn thấy lúc con lì xì cho bọn chíp hôi mấy trăm bạc mà bố mẹ chúng nó mắt sáng rực như đèn ô tô. Thôi lát về con kể cho mà nghe”.
Cả gia đình bà Hằng chết lặng. Chị cả tức giận quát con: “Sao bây giờ chúng mày mới nói?”.
Thằng bé cãi lại: “Lúc ấy con định chạy đi mách mẹ nhưng cô Trang cũng ở đấy, cô ấy bảo đừng nói gì kẻo cả nhà mất vui”.
Bà Hằng bấy giờ mới chép miệng: “Đúng là giá trị đảo lộn hết cả, chả biết đường nào mà lần!”

Dương Dung


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jun/2011 lúc 5:35am
CHA YÊU
Lâm Thúy Vân
http://www.youtube.com/watch?v=obQRaQ6Hov0 -


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Jun/2011 lúc 7:03pm
 
 
 
Bóng Dáng Mẹ Hiền

 
Hôm nay trời buồn khuất trong mây
Mưa chiều nặng hạt nương gió bay
Không gian ủ rũ mầu tang trắng
Lunh linh ánh nến trước linh hài.
 
Biết rằng cha về rước mẹ đi
Nhưng vẫn nghẹn ngào phút phân ly
Tiếc thương chan chứa tuôn giòng lệ
Thiết tha cung kính con bái quỳ
 
Thảnh thơi mẹ đến chốn bình an
Ung dung lãnh hưởng phúc thanh nhàn
Phủi tay trả hết nợ trần thế
Chẳng còn vương lụy kiếp nhân gian.
 
Để con sụt sùi nỗi tủi thân
Hết rồi những lúc mẹ ân cần
Cho con ánh mắt thật âu yếm
Khuyên nhủ con vui với số phần.
 
Đâu còn hình ảnh mẹ vẫn ngồi
Bên mâm cơm nóng luôn miệng mời
Gắp cho đứa lớn rồi đứa bé
Những miếng thơm ngon nét tươi cười.
 
Và còn đâu nữa lời dặn dò
Mọi việc vứt đó không phải lo
Đồ ăn thức uống - Mẹ nấu sẵn
Bận bịu chồng con - Mẹ giúp cho.
 
Suốt đời mẹ sống vì chúng con
Qua bao thử thách chẳng hao mòn
Tấm gương đạo hạnh luôn ngời sáng
Mẫu tử tình thâm quá vẹn tròn.
 
Ngàn lạy... Mẹ ơi - Ơn mẹ sinh
Công lao dưỡng dục cả biển tình
Quyện hương khói tỏa... Giờ đưa tiễn
Sống mãi trong con: Bóng mẹ hiền.
 
antrinh
 
 
 
 
 
 
 
DẶN CON
 
 
Nếu một mai mẹ sớm mãn phần
Vào ngày các con chưa thành thân
Thì hãy vì mẹ mà cố gắng
Đạt tới mục tiêu trong chuyên cần.
 
Nếu không có mẹ ở một bên
Cũng đừng vì thế mà ưu phiền
Hãy cứ thảnh thơi trong đầy đủ
Coi như mái ấm vẫn còn nguyên.
 
Nhớ đừng để bố phải đơn côi
Kiếm ai cho bố / Đũa có đôi
Một mình xoay sở bố khổ lắm
Mọi chuyện phải lo sẽ mệt người.
 
Mẹ dặn phòng hờ bấy nhiêu thôi
Đến ngày Chúa cất mẹ đi rồi
Tìm lại giấy tờ mẹ hay viết
Để đọc cho vui giữa cuộc đời.
 
 
antrinh
 
 


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jun/2011 lúc 9:59pm
Các tác phẩm Viết Về Cha đoạt giải cuộc thi “Ơn Cha Nghĩa Mẹ”

1. Giải Nhất: “Tình Cha” của tác giả Anna Nguyễn Thị Huỳnh, bút hiệu Huỳnh Nhi.

TÌNH CHA

Cây cao bóng cả vươn chồi
Chắn che giông bão suốt đời cho con
---
Băng rừng, vượt biển, lên non
Đem về sự sống ngọt ngon ấm lòng
Nuôi con vun đắp cây trồng
Mầm xanh đứng vững theo dòng thời gian
---
Lớn lên nguyện ước con ngoan
Đức tài ghi khắc toả ngàn tiếng thơm
Dù cho vắt kiệt sức hơn
Cha luôn bấm chịu thoả cơn sóng đời
---
Cốt cho con được nên người
Và mong nhìn thấy nụ cười của con
Lời êm thấm dạy con khôn
Việc hay cha chỉ, gọt mòn mấu sai
---
Đường đời đầy dẫy chông gai
Nương theo chân bước, một mai giúp đời
Nhìn ngay làm thẳng hơn người
Hy sinh khó nhọc cao ngời Tình Cha.
---
Nặng nề khó nhọc cha mang
Để cho con được huy hoàng đời con
Đất trời như xẻ làm đôi
Cha đi vĩnh viễn cha thôi không về.



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Jun/2011 lúc 4:00am
Ánh Mắt Của Cha 
 Lam Trường
http://www.youtube.com/watch?v=g6EAueI4XnM&feature=related -


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Jun/2011 lúc 3:31pm
 
 
 
MẸ BẢO EM



 
Mẹ bảo em là người Việt Nam
Em là một cô gái da vàng
Rồi hôm bão nổi trời tan tác
Theo đám mây buồn trôi lang thang.
 
Mẹ bảo tóc em, mái tóc huyền
Mềm như giải nắng lụa ngoài hiên
Nhưng từ dạo ấy mưa giông tới
Xơ xác bạc phai với muộn phiền.
 
Mẹ bảo mắt em mầu mắt đen
Tinh anh trong sáng ánh sao mai
Chỉ bởi một đêm cơn ly loạn
Sao rơi lụn tắt không tương lai.
 
Mẹ bảo em cũng có quê hương
Những chiều khói bếp còn thơm vương
Ngọn đèn mờ tỏ cha đọc báo
Mẹ dạy con ngoan biết yêu thương.
 
Mẹ bảo mầu da, mầu tóc, mầu mắt em
Một mầu đúc kết máu trong tim
Những người dân Việt đành xa xứ
Phải giữ, phải tô cho đẹp thêm.
 
Nhưng mẹ chỉ "bảo", chỉ "bảo" thôi
Chính mẹ niềm tin đã chết rồi
Giữa đời lưu lạc bao cay đắng
Nhắm mắt bỏ lại con mồ côi...!!!
 
antrinh


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Jun/2011 lúc 2:19am
Công Cha Nghĩa Mẹ
http://www.youtube.com/watch?v=ZdQSYPlcX78&feature=related -


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Jun/2011 lúc 6:12pm
Bệnh và Lười

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo. Tôi có la, nó ấp úng trả lời:
-Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.
Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho được.
Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:
-Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.
Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.
Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.
Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:
-Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích đó.
Tui vỗ về:
-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.
Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa. Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày, uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức …


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Jun/2011 lúc 11:51am
Ly kỳ mối tình đầu của Napoleon
 
Tên tuổi của Napoleon trong lịch sử gắn liền với những câu chuyện tình ái ly kỳ và mối tình đầu của ông với Bernadine Eugenie Desiree Clary, người sau này trở thành hoàng hậu Thụy Điển cũng là một trong số đó.


Là một người đàn ông được ngưỡng mộ trong lịch sử nước Pháp, Napoleon được biết đến như một nhà thông thái. Ngoài tài năng quân sự kiệt xuất, Napoleon còn có tài chinh phục trái tim của phụ nữ, những bức thư tình chan chứa yêu thương của ông vẫn còn khiến trái tim của các cô gái thời nay thổn thức. Tên tuổi của Napoleon trong lịch sử gắn liền với những câu chuyện tình ái ly kỳ và mối tình đầu của ông với Bernadine Eugenie Desiree Clary, người sau này trở thành hoàng hậu Thụy Điển cũng là một trong số đó.

Mùa xuân năm 1794, Napoleon làm quen với Eugenie -cô con gái 14 tuổi của thương gia tơ lụa giàu có ở Marseille. Eugenie còn có một anh trai và một chị gái. Mặc dù nhỏ tuổi nhất nhưng Eugenie tỏ ra khá trưởng thành, sau khi giới thiệu Julie-chị gái mình cho anh trai Napoleon là Joseph, Eugenie và Napoleon cũng bắt đầu tình yêu mãnh liệt của mình.

Khi đó, Napoleon vô cùng khó khăn, người lại lùn thấp và không theo phái cầm quyền mà chỉ là một tướng lãnh đạo đội quân cộng hòa Pháp vừa có chút tiếng tăm nhưng Eugenie vẫn say mê ông ngay từ cái nhìn đầu tiên, cô ca ngợi vẻ mạnh mẽ, quyết đoán và cương nghị trên khuôn mặt Napoleon.

Cha mẹ và anh trai của Eugenie đều không ủng hộ cuộc hôn nhân của Julie và Joseph nhưng tiếng sét ái tình đã khiến họ vượt qua tất cả để đến được với nhau. Tuy nhiên, điều khiến cha mẹ và anh trai Eugenie lo lắng hơn cả chính là trong hôn lễ của chị gái mình, Eugenie đã nhận lời cầu hôn của Napoleon. Không còn cách nào khác để ngăn cản, cha mẹ Eugenie đã ra điều kiện đợi tới khi cô đủ 16 tuổi sẽ cho làm lễ cưới, Napoleon chấp nhận điều kiện đưa ra.

Nhưng chẳng được bao lâu thì Eugenie và Napoleon đang chìm đắm trong dòng sông tình yêu đã phải phân li. Napoleon nói với Eugenie rằng ông phải tới Vendée ngay lập tức để đánh đuổi một số kẻ bất hạnh như đảng bảo hoàng. Eugenie hết mực can ngăn Napoleon không nên đi và hãy ở lại để cùng nhau trồng trọt, chăn nuôi và xây dựng một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Tuy nhiên, một người đầy tham vọng như Napoleon không cam tâm sống một cuộc sống yên ả và bằng phẳng như vậy. "Eugenie, em bị điên rồi sao? Em thực sự tin rằng anh sẽ sống ở nông trại, sẽ giúp em trai anh bán dây ruy-băng sao?"-Napoleon giận dữ. Sau đó, Napoleon đã mượn toàn bộ 98 franc mà Eugenie dành dụm được, đây cũng chính là số tiền mà Eugenie định dành để mua một bộ quần áo mới cho Napoleon. Trước sự quả quyết của Napoleon, Eugenie đành lấy tiền cho Napoleon mượn và còn hứa sẽ thêu một chiếc áo cưới đầy chữ B (chữ cái đầu trong tên của Napoleon BoNapoleonarte). "Phải rồi, nàng hãy thêu thật nhiều chữ B, sau này nàng sẽ trở thành phu nhân của Napoleon"-Napoleon hưởng ứng. Napoleon đã phải rời xa mối tình đầu của mình khi họ đang yêu nhau say đắm và những lá thư chính là cầu nối để họ nói lên tâm tư của mình khi ở xa nhau.

Tháng 7 năm 1794, Napoleon được cử tới nước cộng hòa Genoa cực kỳ nghèo khó. Mặc dù khó khăn nhưng ông vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Về lý mà nói, Napoleon là một công thần nhưng khi quay về Nice không lâu, ông lại bị bắt giam. Ông bị giam cầm trong một pháo đài gần Antibes. Trong thời gian bị cầm tù, Napoleon rất nhớ Eugenie. Ông thường xuyên hôn lên món đồ đeo trước ngực mà cô tặng. Biết tin Napoleon bị bắt, Eugenie đã hết sức lo lắng. Sau nhiều lần khóc cạn nước mắt, cuối cùng cô quyết định lấy hết can đảm tới tù thăm Napoleon. Cô đã dùng nước mắt của phụ nữ để làm động lòng mấy viên cai ngục và đem gói đồ vào cho Napoleon. Sau này mỗi khi nhớ lại chuyện này, Napoleon cũng không khỏi bùi ngùi xúc động: "Gói đồ mà Eugenie mang vào lúc bấy giờ là tình thương, dũng khí và sức mạnh là đức tin để tôi thoát khỏi xiềng xích". Vì vậy, ngay khi ra tù, Napoleon đã ngỏ lời làm đám cưới với Eugenie nhưng Eugenie lại khước từ và muốn chờ tới năm cô 16 tuổi.


Ở tuổi 26, Napoleon đã là một người anh hùng dẹp loạn tại Paris, có danh tiếng và tiền bạc. Napoleon bắt đầu quen biết nhiều phu nhân thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội và trong số đó có cả Josephine. Napoleon nhanh chóng bị những người phụ nữ này quyến rũ và tình yêu đối với nàng Eugenie bị ông lãng quên. Napoleon rơi vào vòng xoáy tình ái với Josephine, bà quả phụ đã có hai đứa con. Nhờ có các mối quan hệ của Josephine mà Napoleon đã được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh bên Ý.

Sau một năm bặt vô âm tín, Eugenie quyết định lên Paris tìm vị hôn phu của mình. Tới đây, Eugenie đã được một người bạn của Napoleon là tướng Bernadotte giúp đỡ nhưng cô không thể ngờ rằng lúc gặp được Napoleon cũng chính là giây phút ông tuyên bố kết hôn với Josephine. Nghe xong, Eugenie như bị sét đánh ngang tai, cô chỉ biết thốt lên từ "không" rồi ném chai rượu lên chiếc váy trắng mà tình địch đang mặc. Sau đó, một mình Eugenie bỏ đi trong cơn mưa tầm tã. Sự tức giận càng khiến Eugenie thêm tuyệt vọng, cô từng cố ý định nhảy xuống sông tự vẫn trong lúc quá đau khổ. Rất may, tướng Bernadotte đã kịp thời tới cứu cô. Cảm phục trước tình yêu chân thành của Eugenie, Bernadotte đã cầu hôn cô nhưng bị Eugenie thẳng thừng từ chối vì cô cho rằng người phụ nữ chỉ yêu một lần trong đời. Ngày hôm sau, cô rời khỏi Paris với trái tim như bị ngàn mũi kim đâm phải.

Năm 1798, quay trở lại Paris và lần này cô đã không từ chối lời cầu hôn của Bernadotte, người sau này trở thành Quốc vương Thụy Điển.

Năm 1799,Napoleon được cử làm “tổng tài” cai trị nước Pháp rồi từ đó xưng hòang đế. Tuy nhiên, là một người trung thành với lý tưởng dân chủ, tướng Bernadotte lại không tán thành với cách làm của Napoleon nhưng ông cũng không thể làm được gì và đành phải làm toàn quyền Pháp tại Hanovre (Đức).

Trong thời gian cai trị tại Hanovre, uy tín của tướng Bernadotte không ngừng được nâng cao. Sau khi đánh thắng quân Thụy Điển, tướng Bernadotte đã tỏ rõ tầm nhìn xa trông rộng của mình đối với tương lai của nước này cũng như của cả châu Âu. Không lâu sau, ông và Eugenie được phong làm hoàng tử, công chúa Thụy Điển. Một thời gian sau, vua Thụy Điển bị ám sát, với danh nghĩa là con nuôi của người kế vị ngai vàng đã già nua, tướng Bernadotte được chọn làm thái tử. Từ khi thoát khỏi vòng kiểm soát của Napoleon, Bernadotte đã liên kết với Anh, Nga, Áo, Phổ để chống lại Napoleon. Chính Eugenie đã nhiều lần phải làm người trung gian đem thư đe dọa tấn công Thụy Điển của Napoleon cho Bernadotte và đem thư từ chối liên minh với Napoleon của chồng cho người tình cũ. Cuối năm 1813, Bernadotte thắng Napoleon trong một trận đánh quyết liệt tại Leipzing.

Sau trận Waterloo, Napoleon thất bại hoàn toàn. Lãnh đạo chính phủ lâm thời Pháp đã quyết định cử Eugenie mang thư tới khuyên Napoleon đầu hàng và thuyết phục Napoleon đưa bảo kiếm cho Eugenie.Khi nhắc tới chuyện quá khứ, Napoleon bắt đầu cảm thấy ân hận và nói rắng tình cảm mà ông dành cho Eugenie là chân thành. "Thật không thể tin được, Bernadotte đã cứu nàng và sau đó nàng lại trở thành hoàng hậu Thụy Điển còn ta lại phải mang kiếm giao cho nàng. Đúng là không ai có thể nói trước được điều gì cả"-Napoleon giãi bày.

Tháng 5 năm 1821, Napoleon mất tại St Helena miền đông nam châu Phi, trên tay vẫn giữ chặt cuốn nhật ký mà Eugenie đã viết về mối tình đầu của hai người.

Sầm Hoa (Theo blog.sina)




-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/Jun/2011 lúc 9:31am
javascript:showpopup%28file=article/1303577179.gif%29"> http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=17102 -


Bùi Phương
Nhạc Độc tấu Guitare Vô Thường
Slideshow PPS: Bùi Phương
http://www.dunglac.org/slideshow3/BanRon.pps -



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Jun/2011 lúc 9:31am

 - Về hướng mặt trời -
Duy Hân
Nhạc nền: Tiếng Dương Cầm
Sáng Tác: Nhạc Sĩ Văn Phụng
Piano: Minh Ngọc
Sưu Tầm và Thực Hiện: Duy Hân

http://www.dunglac.org/slideshow3/1428-DanhNgonHuongDuong-DuyHan.pps - (Bấm vào đây download xong rồi mở bằng cách bấm vào F5, Nhạc và hình chạy tự động)



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Jun/2011 lúc 11:51am
THIÊN ĐƯỜNG TRONG TRÁI TIM TÔI
Tác Giả: Donna Nguyen   
Thứ Bảy, 18 Tháng 6 Năm 2011 07:52

Tác giả là cư dân San Jose,  đã có nhiều bài viết về nước Mỹ  được phổ biến, như "Chồng Tếch Vợ Ly"; "Cái Bát Mạ Vàng", “Kết Hôn Để Qua Mỹ”. Các bài viết của cô luôn cho thấy sự thẳng thắn, đôi khi ngang tàng nhưng tử tế vui vẻ."

 
 

Ngày còn tôi ở Việt Nam, tôi vẫn thường nghe người ta kháo nhau rằng nước Mỹ là thiên đường của hạ giới.  Dạo ấy, việc đi Mỹ không cùng người thân,không mong ngày được trở lại thì Thiên Đường này không hấp dẫn gì mấy.

Nhưng nếu ngày ấy tôi miễn cưỡng đi Mỹ một mình; thì ngày nay tôi đã vì sinh sống lâu ở đất Mỹ mà ngộ được ra thấp thoáng hình dáng của Thiên đường. Đối với tôi, nước Mỹ vẫn chưa phải là thiên đường theo định nghĩa chính xác của nó. Nhưng nhờ nước Mỹ mà tôi hiểu và tìm ra: thiên đường của tôi, thiên đường trong trái tim tôi.

Nay tôi viết những dòng này, để tạ ơn những điều tốt đẹp của nước Mỹ. Và cũng để lưu luyến những gì ưu ái của Việt Nam một thửơ xa xưa nào đó, nơi chôn nhau cắt rốn và đã nuôi dưỡng tôi làm người Việt Nam, hướng ngoại nhưng sẻ không bao giờ chối bỏ cội nguồn, quê hương.

Những ngày đầu nơi đất Mỹ xa lạ này, tôi rất bất bình khi có những người da trắng đôi lúc hay phát ngôn những câu nói rất láo xược :
-Go back where you are!
-Get out of my country, you are not belong here!

Nhưng tôi cũng đủ bản lĩnh để trả treo lại với họ rằng:
-Tell me exactly where you  and your ancestors really came from!

Ngày đó tiếng Anh một thời được hạng A trong những năm trung học, đủ cho tôi nhiều tự tin để không cảm thấy những áp bức vô lý kia có thể dìm chết được mình. Hơn nữa quanh tôi vẫn còn nhiều người da trắng rất dể thương và lại rất gần gũi khi tôi tự xưng là người Việt Nam, da vàng mũi tẹt, tóc đen thùi.

Việc làm đầu tiên của tôi được dể dàng khi xin vì người phỏng vấn là một cựu quân nhân đã từng phục vụ ở Việt Nam ngày trước. Làm thâu ngân trong căn tin cho một hãng tiện, tôi có cơ hội tiếp xúc với hầu hết các nhân viên của hãng từ trên xuống dưới gồm rất nhiều chủng tộc khác nhau. Nhờ vậy mà tôi học được nhiều cái hay và tránh nhiều cái dở của những phong tục tập quán của mỗi dân tộc khác nhau. Điều may mắn này giúp tôi có cách nhìn phóng khoáng, khách quan, không bao giờ xử dụng định kiến bảo thủ để phê bình bất cứ một sắc tộc nào. Đối với tôi, ” ở đâu cũng có anh hùng, ở đâu cũng có kẻ khùng, người điên.“

Bạn sẽ nghĩ gì khi người ta hay nói:
-Tôi không thích làm chung với người Việt và không thích sống gần khu người Viêt. Vì họ nhiều chuyện và xô bồ lắm!
Đôi lúc tôi cũng có cùng ý nghĩ này dù tôi đã rất vui mừng khi được từ bỏ miền Đông lạnh lẽo, cộng đồng người Việt ít ỏi để dọn sang Cali để tìm khu người Việt mà sinh hoạt, gần gũi.

Những ngày đầu háo hức được ăn đồ Việt, nghe tiếng Việt, gặp gở người Việt đã xa rồi. Có những kỹ niệm rất dể thương nhưng những điều bực mình cũng không ít. Nhưng dù sao, đối với người Việt hay người của sắc tộc nào, tôi cũng luôn luôn dùng ánh mắt khách quan để mà nhìn chứ không để thành kiến bảo thủ làm mờ đi quan điểm sống của mình nữa. Điều đáng tiếc ở chổ là tôi hay nhạy cãm, đôi lúc quá thẳng thắn nên vẫn bất bình khi nghe người ta hay nói Việt Kiều, Việt trong nước, người Mỹ thế này, thế nọ.

Thật lòng mà nói, nước Mỹ tân tiến và tự do trong luật lệ. Nước Mỹ có nhiều chương trình nhân đạo rất hữu ích. Sống ở nước Mỹ có thể nghèo nhưng không thể đói dài. Nước Mỹ không phải là thiên đường nơi hạ giới. Nhưng nước Mỹ không phải là địa ngục trong những ngày tôi sinh sống ở đây. Ở nước Mỹ, tôi được nếm mùi tự do tột đỉnh nếu tôi tôn trọng tự do của những người xung quanh. Ở Mỹ, tôi có được nhân quyền nếu tôi không xâm phạm nhân quyền của ai hết. Ở Mỹ, cũng có những người ỷ có tiền khinh khi người khác. Nhưng tôi cũng vẫn có quyền khinh khi họ nếu họ không phải là người cho tôi việc làm và sự tôn trọng tối thiểu giữa người và người này. Ở Mỹ cũng có tội phạm và tội ác rải rác đâu đây, nhưng người ta cũng có quyền lựa chọn phòng ngừa và tránh xa nó. Nước Mỹ “cũng có anh hùng”, người khùng người điên ” Nhưng ở đây, người khùng kẻ điên không tự do đến nổi được quyền xâm phạm và làm hại người khác được. Ở Mỹ, tôi được nói, suy nghĩ và hành động theo ý mình, miễn tôi không xâm phạm quyền lợi đó của ai là được rồi.

Bạn cũng biết, cuộc sống ở đây cũng có nhiều bất công cũng như ai đó đã hay nói ” Life is not fair “. Đời sống có thật sự công bằng hay không còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng người. Nhưng chuyện mà tôi đôi lúc nhớ lại vẫn còn thấy ấm ức là việc tôi bị cảnh sát cho giấy phạt vì chạy nhanh hơn quy định 5 mile một giờ trong khu gần trường học. Bị phạt đúng luật tôi không chối cải hình phạt được vì làm thế cũng chỉ tổn thọ và phí công thôi. Nhưng điều tôi làm tôi cảm thấy mình bị phạt oan là tại vì bao nhiêu người chạy xe lúc đó cũng không hề chạy chậm hơn tôi chút gì hết nhưng rỏ ràng là tôi xui đúng nghĩa nên bị chận phạt mà thôi. Sau mấy ngày tôi tránh không đi qua tuyến đường này, thì tôi quyết định phải làm một cuộc thử nghiệm. Tôi chạy ngang qua con đường đó, với tốc độ quy định, vừa chạy vừa ung dung vì mình làm đúng luật. Nhưng xe chạy chưa đầy một vài phút thì bà con bấm còi inh ỏi, tỏ vẻ bực mình vì tôi đang làm ”kỳ đà cản mũi“, chạy xe chậm như rùa. Tôi cứng đầu, thầm nghĩ mình cứ chạy đúng luật, thì đã sao. Vậy mà, có một vài chiếc xe đã nóng nãy, dành đường phóng qua tôi nhanh như tên lửa. Lúc đó tôi mới hoảng hồn, không khéo lại chọc tức thằng điên nào, mà hắn có súng dơ lên bắn tôi đùng một cái thì quả thật là oan mạng. Cho nên, thôi thì tôi đầu hàng, tấp lại bên đường, nhường bước cho bà con…”phạm luật” để có cơ hội bị “xui” như tôi ngày trước.

Cái cảm giác buồn, giận đó thỉnh thoảng vẫn đeo theo tôi cho đến ngày tôi thi hành nhiệm vụ học lại lớp Luật lái xe online. Trời ơi, đến lớp mà ngồi 8 tiếng để xóa điểm dơ trong bằng lái đối với tôi là một cực hình. Thôi thì làm liều học thử online coi sao. Lớp online này tính ra không phải dể và tốn thời gian lắm vì họ thiết kế mỗi câu hỏi phải có đủ thời gian nhất định thì họ mới cho mình chuyển tới câu hỏi kế tiếp. Điều quan trọng là những câu hỏi đó có những lời giảng giải rất chi tiết và hợp lý. Lớp học online này rất hữu dụng và thực tế. Những điều học được còn giúp tôi áp dụng vào cuộc sống đời thường nữa. Ví dụ như khi chạy xe trên đường, dù biết người ta có lổi khi sắp đụng mình, thì mình vẫn phải tránh. Vậy thì khi ra đời quan hệ giao tiếp, mình biết ai đó có lổi, cố ý va chạm mình, thì mình vẫn phải tránh để khỏi bị thiệt hại và khỏi cần phải kiện cáo ai cả. Luật lái xe giúp người ta giao thông trong trật tự và an toàn để chúng ta không bị tổn hại bất luận là ai lổi ai phải.

Luật pháp nơi chúng ta sinh hoạt, cũng dùng để bảo vệ sự an toàn và quyền lợi của mỗi một cá nhân của chúng ta. Nó giúp chúng ta có được một tinh thần tập thể cao và có đủ ý thức cộng đồng. Làm người đã khó, làm người tốt càng khó hơn. Tôi không nghĩ mình sẻ được lên thiên đàng sau khi được về bên kia thế giới. Nhưng tôi nghĩ mình sẻ có được thiên đàng của chính bản thân mình, khi áp dụng được những suy nghĩ này trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Nước Mỹ là nước của cơ hội và những lựa chọn. Tôi bây giờ mới cảm nhận được sự may mắn của mình khi được phép định cư ở đây.

Gần đây, trận động đất thiệt hại nặng nề và tinh thần dân tộc rất đáng tuyên dương của nước Nhật, đã khiến tôi càng biết trân trọng những điều mình đang có. Dù sao, ở Mỹ ý thức cộng đồng cũng khá, nếu đem so sánh với xã hội Việt Nam hiện tại thì là một trời một vực rồi. Nhiều nghĩ ngẫm nghĩ thấy mình may mắn ghê bạn ạ. Nếu mà ngày trước tôi không đi Mỹ, không biết bây giờ tôi làm gì ở xã hội Việt Nam đang đua nhau khóa lương tâm tìm lương tháng, xóa nghèo bạn nhỉ? Nhiều người hay đùa với nhau ” nếu không đi Mỹ chắc bây giờ đứa thì đạp xích lô, đứa thì bán hàng rong khắp phố ” , tôi nghe rồi mà vẫn…mắc ham đi…Mỹ.

Những ngày đầu trở về thăm quê hương, chúng tôi thường ngớ ra vì tiếng Việt  lúc ấy hình như hơi ngớ ngẫn hơn bình thường. Vậy mà sau bao năm mở cửa và chạy đua theo thời đại điện tử và tư bản chủ nghĩa, tiếng Việt lại ngày càng “vớ vẫn ” đi nhiều. Ngày xưa tôi luyến tiếc tuổi thơ và kỷ niệm của những ngày sống ở Việt Nam với người thân bao nhiêu; thì ngày nay tôi lại càng ước gì đem được tất cả những người thân thương sang hết Mỹ bấy nhiêu. Việt Nam quê hương tôi, non sông gấm vóc vẫn ngọc ngà. Nhưng xã hội  của Việt Nam nay đã xa lạ và xa cách còn nhiều và khó hơn là  khoảng cách địa lý gần một ngày bay, từ cách nhìn đến tiếng nói, buồn thay.

Mấy năm gần đây,kinh tế và cuộc sống ở Mỹ khó khăn và căng thẳng hơn nhiều. Nhưng dù gì đi nữa, nếu biết ” khéo ăn thì no, khéo co thì ấm ” thì đời sống vẫn có thể ung dung sung túc. Và hạnh phúc vẫn có thể vẫn tràn…trề.
Những người công dân Mỹ chúng tôi đã biết quan tâm bảo vệ trái đất. Nhiều người đã vui vẻ đua nhau ăn chay, học thiền, bớt xa xỉ. Điều quan trọng nhất là một số không nhỏ, đã bắt đầu nhắc nhở nhau dành thêm thời gian và tâm tình để quan tâm người thân và bạn bè. Khoa học càng tân tiến với những phát minh mới,sáng kiến mới. Càng ngày càng nhiều món hàng lạ thi nhau ra đời cạnh tranh nhau trên thương trường. Kinh tế trì trệ nhưng bà con vẫn đua nhau nâng cao kiến thức và đời sống. Riêng tôi, tuy không đủ khả năng và sức lực chạy đua với thời đại, nhưng vẫn còn đủ tri thức để biết nhắc nhở bản thân ” hạnh phúc không phải là tất nhiên ” nên phải biết nhìn nhận và trân quý nó.

Mỗi ngày trôi qua, khi thiên tai, bệnh tật, tội ác và tai nạn không xãy ra trên mình tôi, là tôi biết mình cần phải tạ ơn đời. Bây giờ tôi cần biết cảm nhận đâu là hạnh phúc đâu là thiên đường. Miễn tôi có đủ sức khỏe và tinh thần, thì  tôi thường nhắc nhở mình có “bánh mì ” thì chớ nên bon chen vì ”hoa hồng “mà hãy cố gắng sống hết lòng với đời với người. Thế  là lòng tôi nhẹ nhàng thanh thản hơn, và sự thanh thản này đưa tôi lên thiên đàng với những phút giây bằng lòng với hiện tại. Thì ra thiên đàng chỉ có trong mình. Và nó chỉ hiện hữu khi tôi đang sống ở quê hương thứ hai nhưng sẽ là vĩnh viễn này. Tôi xin gởi lời cầu nguyện đến những người đang chiến đấu cho tự do,  chiến thắng thiên tai, bệnh tật hoặc đang lạc lối đi tìm ý nghĩa cuộc sống và định nghĩa chính xác cho bản thân họ về hai chữ Thiên Đàng.
With Love and Best wish,



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 21/Jun/2011 lúc 11:24am
CHỮ TÂM
 
Tác Giả: tsnh   
Thứ Ba, 21 Tháng 6 Năm 2011 07:30

Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá


Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm. Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người :

- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.
- Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
- Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
- Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
- Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…

Cho nên, ta không những đem tâm cua mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn :

- Đặt trên tay để giúp đỡ người khác.
- Đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân.
- Đặt trên chân để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
- Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
- Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
- Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.

Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người.



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Jun/2011 lúc 7:55am

Đường Về Không Đơn Côi

                Phạm Lệ An



 
- Cô có sao không?

      Giọng nói nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh vang lên bên cạnh khiến An Hạ giật mình. Nàng dùng khăn giấy chậm bớt những giọt nước mắt còn ràn rụa trên mặt và ngước nhìn… Một người đàn ông Á đông đang cúi nhìn nàng chờ đợi. An Hạ hơi bối rối chưa biết nói gì trước ánh mắt lo lắng kia thì ông ta lại hỏi tiếp:
- Cô là người Việt?
      Còn đang nghẹn ngào nên An Hạ chỉ gật nhẹ đầu thay câu trả lời, người đàn ông mỉm cười. Dù lòng đang rối bời nhưng An Hạ vẫn nhận ra rằng ánh mắt và nụ cười của người đối diện đầy vẻ thân thiện.
- Ồ thật quí hóa, không ngờ gặp được đồng hương…
 
      Một giọng Bắc khá chuẩn. An Hạ thầm nghĩ, quí hay không không biết chứ còn gặp trong hoàn cảnh như thế này thì đối với An Hạ thật không dễ chịu chút nào. Chẳng lẽ người đàn ông này không nhớ rằng đây là trong nhà thờ hay sao mà lại hỏi chuyện lúc An Hạ đang quì cầu nguyện thế này. Cũng may bây giờ là buổi trưa nhà thờ vắng người nên không đến nỗi làm phiền ai. Trước thái độ vồn vã của người đàn ông, An Hạ định nói một câu gì đó cho đỡ bất lịch sự nhưng đầu óc nàng mụ mẫm quá nên cuối cùng cũng chẳng nói được câu nào. An Hạ cầm ví đứng dậy, nàng nhìn lên bức tượng Chúa trên cao, dù cố gắng giữ lại nhưng nước mắt An Hạ lại lặng lẽ rơi thành dòng… Lạy Chúa, con tuy không có đạo nhưng hôm nay trong lúc thất vọng nhất tình cờ có duyên lại được gặp Ngài, xin Ngài hãy dẫn dắt con ra khỏi nỗi buồn để có thể tiếp tục sống những ngày sắp tới cho thật tốt… Một tờ khăn giấy đưa tới trước mặt, An Hạ cầm lấy chậm nước mắt và nói nhỏ:
- Cám ơn anh…
 
      Nàng quay lưng đi ra cửa, người đàn ông cũng lẳng lặng theo sau.

      An Hạ hơi ngạc nhiên, tự dưng ở đâu lại xuất hiện một “đồng hương” thế này nhỉ? Lúc nãy vừa lái xe vừa khóc suýt chút xíu là An Hạ gây ra tai nạn nên nàng sợ quá ghé đại vào ngôi nhà thờ nhỏ bên đường cho tâm trạng lắng dịu xuống và suy nghĩ phải làm gì sắp tới. Thành phố nơi An Hạ định cư hơn mười năm nay có rất ít người Việt sinh sống. Nếu như bình thường thì An Hạ đã hỏi thăm người đàn ông vài câu nhưng hôm nay An Hạ không vui nên nàng chẳng thiết tha đến điều gì cả.
 
       An Hạ vừa đi về hướng xe của mình vừa cho tay vào ví tìm chùm chìa khóa xe. Ngồi trước tay lái nàng lại bật khóc khi nhìn thấy tấm ảnh chụp vợ chồng nàng tươi cười vui vẻ bên nhau mùa Hè năm ngoái trong cái móc treo chìa khóa. Vậy mà sao nỡ… hở anh? An Hạ úp mặt trên volant khóc không thành tiếng. Tim nàng như bị nghiến nát khi nhớ lại hình ảnh Chi và chồng mình trong phòng ngủ nhà nàng sáng nay… Nỗi đau bị phản bội của An Hạ hình như nhân lên gấp đôi khi người tình của chồng nàng không ai khác hơn là người bạn gái thân nhất của nàng. Có tiếng gõ bên ngoài kính xe… An Hạ ngẩng lên nhìn qua màn nước mắt. Nàng chau mày khó chịu khi nhận ra người bên ngoài chính là người đàn ông đồng hương khi nãy. Hạ kính xuống, An Hạ chưa kịp tỏ nỗi bất bình thì ông ta đã nhanh miệng:
- Xin lỗi cô, tôi đoán là cô đang có chuyện buồn và không muốn bị quấy rầy nhưng tôi thật sự không yên tâm khi cô muốn lái xe trong tình trạng như thế này…
 
       Người ta đã rào đón như vậy nên An Hạ đâu thể buông lời trách móc được. Nàng đành dịu giọng:
- Anh yên tâm, tôi sẽ không sao đâu…
Ông ta vẫn lắc đầu:
- Nhìn cô cứ khóc hoài như vậy làm sao tôi yên tâm được… hay là cô cho phép tôi được chuyện trò với cô vài phút được không?
       An Hạ bối rối chưa biết nên từ chối như thế nào thì người đàn ông lại nói tiếp:
- Cô đừng từ chối, nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ những người gặp cảnh khó khăn, huống chi cô lại là đồng hương, tôi không thể nào để cô đi trong hoàn cảnh như thế này được…
      An Hạ ngạc nhiên nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Nhiệm vụ? Nàng nhíu mày:
- Ý anh là...
- Không dám giấu cô, tôi tên Khang, là counsellor của giáo xứ này... Lúc nãy tình cờ thấy cô khóc lâu quá nên định hỏi xem có giúp được gì không...
 
        Trời bên ngoài khá lạnh, mũi của người đàn ông đã đỏ lên vì lạnh. Ông ta đã nói như vậy thì An Hạ khó thể từ chối. Thôi kệ, hãy nghe xem ông ta khuyên An Hạ phải làm gì, biết đâu những ý kiến chuyên nghiệp sẽ giúp được An Hạ lúc này...
- Mời anh vào trong xe ngồi cho ấm…
Và An Hạ nói sau khi người đàn ông đã ngồi cạnh nàng:
- Anh có lòng như vậy tôi thật không dám chối từ. Nhưng thú thật tôi nghĩ trường hợp của tôi chưa đến nỗi phải nhờ đến counsellor...
 
Người đàn ông cười nhẹ:
- Tôi biết cô đang nghĩ gì... Nhiều người thường hay bị dị ứng khi nghĩ đến gặp counsellor vì họ có thói quen nghĩ rằng chỉ có những người có vấn đề trầm trọng lắm thì mới cần được giúp đỡ… Thật sự không phải vậy... Không tin cô cứ cho tôi thử xem có giúp được cô không... Bảo đảm không có kết quả không tính tiền...
 
        An Hạ cảm thấy lòng vơi đi chút xíu với nụ cười ấm áp và câu pha trò của người đồng hương tốt bụng.
 
        Không biết Khang thật sự có tài thuyết phục người khác nói ra tâm sự của mình hay tại An Hạ đang cần người để gửi gấm nỗi niềm riêng mà sau đó An Hạ đã kể hết chuyện của nàng cho Khang nghe. Từ chuyện vợ chồng nàng gặp nhau, yêu nhau, kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau đã được mười năm tại thành phố nhỏ này. Cho đến nỗi vui mừng không sao kể xiết của An Hạ khi gặp lại Chi, người bạn khá thân thời trung học. Và chuyện mới nhất là sáng nay lái xe gần tới sở chợt nhớ là bỏ quên tập hồ sơ nên trở về lấy và bắt gặp Chi với chồng mình trong phòng ngủ cũng được An Hạ kể hết với Khang…
 
         Sau khi kết thúc câu chuyện An Hạ lại mũi lòng rơi nước mắt. Bằng một giọng nhẹ nhàng và trầm ấm Khang đã khuyên giải và an ủi nàng thật tận tình. An Hạ thút thít khóc nhưng vẫn lắng nghe giọng đều đều của Khang đang rót vào tai. Những lời nói ấy hình như đã phần nào xoa dịu được tinh thần An Hạ.
- “Trời không có đường cùng...”
 
         Đang buồn não ruột mà nghe Khang nhại một câu giống y như trong phim kiếm hiệp, An Hạ cũng tức cười, nụ cười đầu tiên từ lúc gặp Khang, dù hơi gượng nhưng vẫn là một dấu hiệu tốt:
- Cám ơn “toa thuốc” của anh, tôi thực sự đã cảm thấy dễ chịu hơn... và đã biết mình nên làm gì...
 
***
 
         Rồi dù cho có đau lòng đến đâu đi nữa thì An Hạ cũng phải đối diện với Chi và Danh để giải quyết chuyện tình cảm của ba người. Nàng quyết định dọn ra ngoài để lại tất cả cho họ. An Hạ còn nhớ rõ nét mặt sững sờ của Chi khi nghe nàng quyết định như vậy. Riêng Danh thì nàng chỉ đọc được trong mắt chàng một chút xót xa, bỡ ngỡ. Dù Danh có đề nghị bán nhà rồi chia đôi tài sản nhưng An Hạ vẫn một mực chối từ. Khang cũng khuyên An Hạ nên nghĩ đến tiền bạc có thể bảo đảm cho tương lai của mình nhưng An Hạ vẫn khăng khăng không đổi ý. Có lẽ mọi người đều cho rằng An Hạ dại hay “quân tử tàu” nhưng hơn ai hết An Hạ hiểu rõ đối với nàng vật chất bây giờ chẳng có ý nghĩa gì khi mà tình cảm vợ chồng hơn mười năm còn có thể đổ vỡ chỉ trong một thoáng.
 
          Cũng may là trong thời gian khó khăn nhất lúc nào An Hạ cũng có Khang bên cạnh. Qua sự giới thiệu của Khang, An Hạ mướn lại tầng trên của một căn nhà hai tầng. Khang tháo vát và xoay sở giỏi lại quen biết nhiều và hết lòng giúp đỡ nên chẳng bao lâu An Hạ đã “an cư”. Biết tinh thần An Hạ vẫn chưa hoàn toàn bình phục nên mỗi tuần Khang đều gọi phone để trò chuyện với nàng ít nhất một lần… Khang thường đùa:
- An Hạ là “bệnh nhân” đầu tiên mà tôi “chữa bệnh” qua điện thoại đấy...
 
        Khang quả thật là một người có lương tâm nghề nghiệp. Dù vẫn còn buồn nhưng tinh thần của An Hạ đã ổn định nhiều. Rồi không biết từ khi nào Khang bắt đầu xuất hiện thường xuyên ở nhà nàng. Những buổi “chữa bệnh” dần dần được thay thế bằng những cuộc đối thoại tâm đắc giữa hai người bạn ngày càng thân thiết...
 
          Nửa năm trôi qua... Những săn sóc và lo lắng của Khang dành cho An Hạ từ lúc nào đã không còn thuần túy là công việc của một counsellor nữa. Qua ánh mắt, qua lời nói, qua cách thay đổi lối xưng hô của Khang, An Hạ dễ dàng nhận ra điều này. Và nàng cố gắng tránh không tạo cơ hội cho Khang có thể bày tỏ những tình cảm đó. An Hạ biết mình không thể đón nhận Khang vì trong tim nàng hình ảnh Danh vẫn còn hiện diện. Hay nói cách khác nàng vẫn còn yêu Danh. Có những buổi tối không dằn được lòng An Hạ đã cố tình lái xe ngang nhà cũ dù biết rằng sau đó khi trở về nhà nàng sẽ khóc. Có nhiều lần nàng ngừng xe bên kia đường, nhìn vào nhà và nhớ lại khoảng thời gian hạnh phúc bên Danh. Trong tình cảm An Hạ biết mình rất yếu đuối và không dễ quên. Có lẽ An Hạ sẽ tìm cách nói với Khang để chàng đừng mất thì giờ với An Hạ nữa. Nhiều khi An Hạ nghĩ hay là mình cứ tiến tới với Khang, biết đâu sẽ quên được Danh. Nhưng An Hạ không dám liều lĩnh. Nàng không thể ích kỷ, không thể khiến một người vì nàng mà đau khổ...
 
***
 
         Trong khi An Hạ vẫn chưa tìm ra được dịp thuận tiện để cho Khang biết tình cảm của nàng thì một buổi tối Khang gọi điện thoại cho An Hạ. Giọng chàng nghe thật lạ:
-An Hạ sửa soạn, anh đến chở em đi thăm một người...
An Hạ ngạc nhiên:
- Thăm ai hở anh?
- Chút nữa gặp Hạ anh sẽ nói sau, em chuẩn bị nhé...
 
        An Hạ chưa kịp hỏi thêm thì Khang đã cúp máy. Linh tính báo cho nàng biết hình như có chuyện chẳng lành nhưng nàng không có thì giờ suy nghĩ. An Hạ chỉ kịp rửa mặt thay đồ là Khang đã gọi cửa.
 
An Hạ vừa ngồi vào xe đã hỏi:
- Thật ra có chuyện gì hở anh? Em có linh cảm không tốt...
 
        Khang mở máy nhưng chưa cho xe chạy, chàng quay lại nhìn Hạ, nói chậm rãi:
- Anh Danh bị tai nạn xe hơi đang nằm nhà thương không biết có qua khỏi không. Cô Chi gọi cho anh nhắn em vào gặp anh ấy, có thể là lần cuối...
 
Tim An Hạ nhói lên, nàng thảng thốt:
- Không! Không thể nào...
 
Nước mắt bắt đầu rơi, như chợt nhớ ra An Hạ hỏi:
- Nhưng tại sao Chi lại biết anh mà gọi nhắn, sao không gọi thẳng cho em?
 
Khang nắm lấy tay An Hạ bóp nhẹ như để trấn an nàng:
- Anh nghĩ cô Chi sợ em bị sốc nên không dám gọi thẳng cho em, còn tại sao biết số phone tay của anh thì anh không biết...

Khi Khang và An Hạ vào đến bệnh viện thì thấy Chi bên ngoài phòng bệnh, mắt đỏ hoe. Chi có vẻ bức rức phân trần:
- Xin lỗi anh Khang và An Hạ... tại từ lúc được người ta đưa lên xe cấp cứu cho đến khi chìm vào hôn mê anh Danh chỉ gọi tên An Hạ cho nên...
 
An Hạ sững sờ nhìn vào mắt Chi, ánh mắt đau khổ và chịu đựng kia cho nàng biết là Chi không gạt nàng. Thật vậy sao anh? Chẳng lẽ trong tim anh vẫn còn em? Chẳng lẽ em đã làm sai khi nhất định nhường anh cho Chi? Như vậy tại sao anh lại... với Chi hôm đó? Rồi tại sao sau đó một câu phân trần hay xin lỗi em anh cũng đã không nói?
 
An Hạ nhìn qua cửa kính. Danh nằm bất động trên giường, đầu quấn băng trắng xóa.
Nàng nghẹn ngào:
- Bây giờ anh ấy sao rồi Chi?
- Bác sĩ nói vết thương ngoài da thì không có gì trầm trọng, chỉ có não bộ là bị chấn thương nặng nên tạm thời chưa thể tỉnh lại được.
 
      Một tuần lễ trôi qua, một tuần thôi mà An Hạ tưởng chừng như một tháng. Bao nhiêu chuyện dồn dập xảy đến gần như cùng lúc. Danh đã thực sự trở thành người thực vật. Các bác sĩ đành phải bó tay. Không ai có thể trả lời cho An Hạ là khi nào Danh mới tỉnh dậy. Họ nói cách duy nhất giúp được cho tình trạng của Danh là vào thăm thường xuyên và nói chuyện thật nhiều với chàng. Quan trọng là nhắc về những chuyện trong quá khứ.
 
       Nhưng điều khiến An Hạ bất ngờ nhất là sự bỏ đi của Chi. Chi đã gửi cho An Hạ một email thật dài xin lỗi nàng về những chuyện đã xảy ra và nói là rời khỏi thành phố này và không bao giờ trở lại nữa. An Hạ đã khóc thật nhiều khi đọc email của Chi. Nàng hiểu rõ cảm giác bẽ bàng của Chi nên đã không còn giận Chi nữa.
 
***
 
An Hạ thay bó hoa mới vào chiếc bình để trên chiếc tủ nhỏ đầu giường. Sau một hồi loay hoay cắm cắm sửa sửa, An Hạ hài lòng lùi ra một chút xoa tay ngắm nhìn công trình của mình. Màu trắng tinh khiết của những đóa hoa khiến lòng nàng dịu hẳn lại.

An Hạ nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường. Nàng nhìn nét mặt như đang say ngủ của Danh một cách trìu mến. Cầm nhẹ lấy bàn tay Danh ủ trong hai bàn tay mình, nàng nói nhỏ:
- Anh coi nè, hôm nay em đặc biệt mua loại hoa bách hợp trắng mà anh thích nhất... Màu trắng đẹp quá phải không anh?
- Anh còn nhớ hôm nay là ngày gì không? Kỷ niệm 12 năm đám cưới của tụi mình đó. Vậy mà anh xấu ghê đi, cứ nằm hoài ở đây không chịu thức...
 
An Hạ lại rơi nước mắt, nàng đưa bàn tay của Danh lên và khẽ áp má vào, An Hạ thì thầm:
- Anh biết không? Khi quyết định rời xa anh, em tưởng là em sẽ có thể quên anh, thậm chí là ghét anh... nhưng không phải... hình như càng cố quên anh em lại càng nhớ, càng muốn ghét anh em lại càng thương. Những khi nghĩ về anh thì những kỷ niệm ngọt ngào của chúng ta cứ hiện ra khiến em nhớ anh quay quắt...
 
- Chi nói với em là tuy anh sống chung với Chi nhưng lúc nào anh cũng nghĩ đến em. Đồ đạc trong nhà anh không cho Chi dời đổi hay bỏ đi một món nào. Mỗi buổi tối anh đều ngồi tại bàn làm việc của em mở những tấm hình cũ mà chúng ta chụp chung ra coi...
 
- Chi còn nói anh theo dõi sinh hoạt của em rất kỹ và anh còn tỏ vẻ ghen khi thấy dạo sau này Khang cứ lên nhà em. Số phone của Khang mà hôm trước Chi gọi cũng là tìm được trong điện thoại cầm tay của anh...
 
- Cuối cùng Chi đã biết được là hạnh phúc không thể do giành giựt mà có. Chi biết anh không yêu Chi mà chỉ yêu em nên trước khi bỏ đi Chi đã xin em hãy tha thứ và trở về với anh vì lỗi là do Chi cố tình quyến rũ anh. Chuyện này thì Chi không đúng chút nào, nếu anh cương quyết thì đâu ai có thể quyến rũ được anh. Nhưng thôi, dù sao anh cũng là đàn ông, và đàn ông thì vốn dễ mềm lòng trước sự cám dỗ nên em quyết định tạm tha cho anh lần này, nhớ là chỉ một lần thôi đó nha...
 
An Hạ bắt đầu chậm rãi xoa bóp mấy ngón tay của Danh theo cách bác sĩ dạy, nhìn thấy móng tay đã khá dài nên nàng quay sang tìm cái cắt móng tay trong hộc tủ. Hình như ngón tay của Danh đang cử động trong bàn tay nàng thì phải. An Hạ quay lại, nâng bàn tay của Danh lên và nhìn chầm chập vào những ngón tay chàng. Nàng thở dài thất vọng, có lẽ chỉ là ảo tưởng...
 
An Hạ vừa cẩn thận cắt từng móng tay cho Danh vừa thủ thỉ tiếp tục:
- Anh biết không? Khang thật sự là một người rất tốt. Bây giờ suy nghĩ lại lúc đầu khó khăn đó nếu không có Khang chẳng biết em sẽ xoay sở ra sao. Có lẽ anh ghen cũng không sai vì có những lúc em tưởng mình đã xiêu lòng vì Khang. Nhưng lúc nào cũng vậy... ánh mắt xót xa và bỡ ngỡ của anh nhìn em lần cuối đã ngăn không cho em gật đầu với Khang vì em trực giác ra được rằng chúng ta vẫn chưa thật sự mất nhau...
 
Ngón tay trỏ của Danh cử động nhẹ, lần này thì An Hạ nhìn thấy và cảm nhận rất rõ ràng. Tim nàng như ngừng đập. An Hạ nhìn thấy mi mắt Danh hơi động đậy, Danh thật đã tỉnh rồi. Quýnh quáng một lát An Hạ mới định thần bấm chuông gọi y tá...

***
- Hạ có anh trai không nhỉ?
 
An Hạ hơi ngạc nhiên, nàng quay đầu lại nhìn Khang đang đứng khoanh tay tựa lưng vào thân cây. Mắt chàng nhìn ra sân bệnh viện, nơi có mấy người già đang ngồi hong nắng...
- Không anh ạ, An Hạ lớn nhất nhà...
Và như chợt nghĩ ra nàng nói tiếp:
- Kể cũng ngộ ghê, chúng ta quen nhau hơn nửa năm, nói đủ thứ chuyện nhưng hình như chưa bao giờ nói về chuyện này... Còn anh thì sao? Nhưng mà sao tự nhiên anh lại hỏi vậy?
- Ngược với An Hạ, anh là con trai út...
Ngừng một chút, Khang tiếp:
-... nên không có em gái...
- Ý anh là...
- Muốn Hạ làm em gái của anh...
- Ủa... chứ không phải... An Hạ bỏ ngang câu nói bối rối nhìn Khang.
Khang nheo mắt:
- Sao Hạ không nói tiếp? Hay muốn anh nói giùm?
An Hạ đỏ mặt:
- Anh này... anh biết em định nói gì sao...
- Đừng quên anh giỏi nhất là đoán ý người khác nhé...
An Hạ chọc:
- Anh là counsellor chứ đâu phải... thày bói, sao biết em định nói gì...
- Vậy chúng ta đánh cuộc nhé, nếu anh đoán trúng em định nói gì thì em đồng ý chúng ta kết nghĩa anh em...
- Vậy nếu anh đoán sai thì sao?
- Anh sẽ không đoán sai...
- Trời, anh này tự tin thiệt...
Khang hất mặt:
- Dĩ nhiên...
- Vậy anh nói đi...
- Em định nói là... “Ủa chứ không phải anh muốn em làm vợ anh sao?”. Đúng không?
 
An Hạ vừa phục vừa xấu hổ, nàng không ngờ Khang lại dám nói một cách thẳng thắn như vậy. Nàng cúi gầm mặt không dám nhìn Khang:
- Anh này thiệt tình...
Khang cười nhỏ:
- Đúng ra hôm trước anh có muốn như vậy thật, nhưng sau khi chứng kiến cảnh em và Danh vượt qua bao nhiêu trở ngại để có nhau, anh đã xác định được vị trí của mình...
 
An Hạ chớp mắt cảm động. Nàng cảm thấy cuộc sống thật đẹp đẽ và quí giá. Và quí hơn hết có lẽ là tình người... An Hạ như choáng ngộp trong hạnh phúc... Với tình yêu vừa tìm lại và nhất là từ nay còn có thêm một ông anh mà nàng hết lòng quí mến...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 25/Jun/2011 lúc 9:51pm
VỢ HIỀN
Tràm Cà Mau
 
 
Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.
1.
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!

Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.
Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.

Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.

2.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là "tam thập nhi lập". Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng.

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng "chuyên chính" của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng.

Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:
- Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.

Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt!

Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về.

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá,chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?

3.
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:

- Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:

- Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:
- Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.

Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.

Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

4.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:

- Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép.

Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:

- Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:

- Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.
Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:

- Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:

- Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng.

Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại

.5
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:

- Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.

Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:

- Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:

- Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.
Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.

6.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:

- Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.
Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới.

Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình....

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản.

Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền....

7.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi    về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:

- Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.
Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.
Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:

- Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.

Cùng với bạn bè cũ mới,chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm.Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên...

Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tráng xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.

8.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới....

Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà.

Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã...

Nhiều đêm Mai thì thầm:

- Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? ...

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.

Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền ...Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:

- Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.
Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn...

9.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:

- Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?Nàng nói:

- Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được   nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.

Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.
Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.

Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.

10.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:

- Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:

- Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.

Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân.
Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.

Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe."
...
Mai kết luận rằng: "Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương".

1.
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: "Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi".

Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Jun/2011 lúc 8:38pm

Nghiệp Chướng

 


Tôi gặp Tịnh hôm thứ bảy vừa qua ở chùa Quan Âm Thiền Viện , nhìn cái mặt buồn thiu , tôi nghĩ chắc lại chuyện người mẹ ghét bỏ cô , đúng là một chuyện đáng thương cho những người con có mẹ mà không sao kêu lên được tiếng mẹ ơi . Chúng tôi quen nhau khi cùng đứng ngắm tượng Phật Bà Quan Âm giữa sân chùa . Lúc đó nhìn thấy Tịnh đứng trầm ngâm như hồn vía lạc đi đâu , ánh mắt thật buồn . Còn tôi cũng đứng lâm râm khấn nguyện , chỉ cầu xin sức khỏe được tốt để cho con cháu nương nhờ được ngày nào hay ngày ấy , như nấu cơm dùm lúc con cái đi làm quá bận rộn , coi sóc các cháu dùm khi con cái phải đi công tác xa , cùng vài ba chuyện lặt vặt không đáng kể . Tôi sắp xếp công việc của mình nên cũng có thời gian để giúp con , giúp cháu . Tôi nói " chừng nào mẹ yếu thì thôi " . Mấy đứa nhỏ nhìn tôi cười tranh nhau nói " mẹ còn lâu mới yếu , mẹ sống trên cả trăm tuổi lận " . Tôi trợn mắt đùa " vậy là để tụi con "đì" mẹ chứ gì ? " .
Phải nói tôi là một "bà già" rất hiểu tâm tình tâm tư của mọi người chung quanh cuộc sống của mình , nên bỗng nhiên được mọi người trao cho mảnh bằng "nhà tâm lý học " ngang xương . Nếu ai mà hỏi sao hồi đó chị không đi học để lấy bằng cho rồi ", thì tôi bảo " shi` hụt có nửa điểm không thôi đã mở văn phòng từ lâu à nha " . Dí dõm rứa cũng khiến thiên hạ cười thật vui . Cho nên tôi được mệnh danh là " người mẹ vui vẻ ". Thật ra cũng có những lúc bực dọc , nhưng thiệt giống như lửa rơm , cháy nhanh mà dập tắt cũng lẹ . Cả cuộc đời chẳng hề giận hờn ai mà phải để trong bụng , cứ theo mình suy nghĩ , người giận mới là người thực sự đau khổ . Người làm cho mình giận thì họ đã khoái chí xong thì quên mất rồi , với lại khi giận khi nhìn vô gương thiệt là xấu xí , mười hai con giáp chả giống con nào cả , cho nên "ngu" sao mà giận hờn cho thiệt thân mình . Nói tôi vô tư , thì nhất định là sai , có lẽ dùng chữ hồn nhiên tôi thích hơn, bởi gặp bất cứ chuyện gì xảy ra thì trước tiên tôi hay tự nhủ " bình tỉnh ...bình tỉnh ". Chuyện gì ai cho to lớn mà gặp tôi là hóa nhỏ liền , rồi chuyện nhỏ thì hóa không mà hình như điều này tôi học từ những người mang tư tưởng bao dung yêu chuộng hòa bình .
Ái dà tôi lại đi một vòng chi mà xa xôi vạn lý khiếp luôn , bị tôi đang nói về nhân vật tên Tịnh đó mà . Tôi quen Tịnh hơn 10 năm rồi và cũng làm nhà phân tích tâm lý tư cho cô ta cũng ngần bằng ấy năm tôi quen biết . Những ngày lễ Vu Lan , đó là ngày báo hiếu cho cha mẹ . Tôi vẫn thấy Tịnh cài trên ngực một đóa hoa màu hồng , chứng tỏ cô ta còn mẹ nhưng khi tôi hỏi về mẹ của cô thì cô cứ bị nghẹn ngào . Chừng chúng tôi có độ thân thiết , thì cô ta hỏi tôi " chị có tin vào nghiệp chướng không ? " . Điều đó thì hẳn nhiên là tôi rất tin . Cô cho biết mẹ cô có rất nhiều con cái , nhưng cô là đứa con độc nhất bị ghét bỏ mà gần như là thù hằn . Nghe những câu chuyện cô kể thì tôi cũng khó hình dung sao mà có chuyện kỳ cục đến như thế ?. Cô tâm sự với nụ cười gần như muốn khóc ,khi nào những món ăn bị thiu không ai thèm ăn thì bà mẹ kêu Tịnh lấy về mà ăn ,rất nhiều bửa tiệc trong gia đình bà mẹ luôn đưa mắt theo dõi coi Tịnh ăn cái gì ,hể thấy cái nào ngon thì mang giấu đi , đồ bị chê thì kêu Tịnh ra điều vồn vã " ăn đi ...ăn đi " . Làm cho mọi người nhìn vô tưởng đâu Tịnh cũng được đối xử công bằng . Mới đây, trong một dịp gặp gỡ gia đình , bà chị dâu mang đồ ăn tới quá nhiều , lúc tan tiệc kêu gọi mọi người mang về dùm . Con cái ai lấy gì cũng được , bà mẹ chỉ cần nhìn thấy Tịnh đứng lên lấy là bà nhào tới dòm ngó kiếm chuyện liền ,đưa tay tém tém , túm túm làm cho Tịnh bị tổn thương , miếng ăn có đáng gì và Tịnh đâu có thiếu thốn .Tịnh cũng có phân trần , nhưng người trong gia đình cứ lấy cớ là mẹ già rồi hơi đâu mà để bụng . Người không đứng trong hoàn cảnh thì làm sao mà biết nỗi đau của người khác , nên Tịnh từ đó có chuyện gì cũng đành phải u uất để trong lòng.
Tịnh kể với tôi khi cả gia đình còn ở Việt Nam, lúc đó gia đình cũng rất khó khăn, chật vật .Nhưng Tịnh là một người rất biết tự trọng , cô bảo khi cô mang thai thì chồng bị bắt trong một chuyến vượt biên ,tiền bạc bị tiêu sạch cho cuộc ra đi đó . Tịnh may mắn còn có một cô bạn rất tốt bụng thường hay giúp đỡ . Cô bạn có một sạp hàng trong chợ , sáng nào Tịnh cũng ra chợ để phụ giúp người bạn buôn bán , tới trưa sau khi ăn cơm hàng cháo chợ xong thì Tịnh về nhà để ngủ trưa ,rồi chiều mới ra lại phụ bán hàng tiếp cho bạn . Sau khi dẹp hàng sạp Tịnh về luôn nhà bạn ăn cơm tối rồi mới về nhà . Có một buổi trưa Tịnh bảo ,đã muốn quên đi cho đỡ buồn tủi nhưng không sao quên được , câu chuyện như một cây gai đâm trong tim , cứ mỗi lần nhớ tới thì bị mũi gai lún sâu vào làm nhói buốt cả lòng ngực. Trời Sài Gòn hôm đó đã vào mùa hè nên thật là oi bức , Tịnh mang cái bụng bầu ì ạch từ chợ trở về , vừa thấy Tịnh bước vô nhà , bà mẹ đang ngủ trưa vội vùng đứng lên thật nhanh đi vào bếp mang nồi cơm trên bếp cất vội vào tủ rồi khóa bằng cái ổ khóa thật lớn . Tịnh nhìn thấy hành động của người mẹ thì đứng chết lặng cả người , nhìn gương mặt người đàn bà đã mang nặng đẻ đau mình ra giống như một con người nào thật vô cùng xa lạ . Cái miệng với đôi môi mỏng rít chặt , mím lại giống như một sợi chỉ , ánh mắt sòng sọc lên với những tia máu đỏ trong tròng mắt . Tịnh cảm thấy chới với gần như đầu gối muốn khụy xuống ,rồi run rẩy đi vào chiếc gường của mình , đưa tay tìm lấy một chiếc khăn lông tắm to trong vô thức trãi ra trên gối , Tịnh nằm nghiêng xuống để mặc cho hai hàng nước mắt cứ thế mà đổ tuôn như hai dòng suối tưởng chừng không bao giờ vơi đi .
Tôi bấy giờ nói với Tịnh " bất cứ điều gì thì mình nên tìm ra nguyên nhân của sự việc " . Tịnh kể vào lúc cô ta mới mười sáu tuổi . Ông già của Tịnh lúc đó có một cô bồ trẻ , chỉ hơn Tịnh 2 tuổi . Bỗng dưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra , cô ta ngang nhiên tìm đến nhà . Thật xui hôm đó lại có bà già ở nhà . Người cha run sợ quýnh lên nói cô ta là bạn của Tịnh , và ông đã chận Tịnh ngay trước nhà khi cô vừa đi học về , ông nói " cứ nhận là bạn con rồi ba cho tiền đi sắm đồ " . Tuổi trẻ vô tư , không hề biết hậu quả về sau Tịnh nhận bừa để câu chuyện qua đi. Cho nên có thể đây là một nguyên nhân chăng?. Mẹ Tịnh mãi sau này mới khám phá ra cô ta là nhân tình của chồng mình , bởi thời gian đó bà đam mê bài bạc đâu thèm để ý vào những chuyện gì khác , đánh bạc nặng tay bị thua để mắc một món nợ lớn , ba Tịnh phải bán một căn nhà để trả nợ cho bà .
Thời thiếu nữ của Tịnh thiệt buồn , cha theo vợ bé , mẹ đi bài bạc . Tới khi nhà tan cửa nát , cô vợ bé nhỏ hơn tuổi con của mình lấy hết tiền của rồi đá đít ông già để cho ông thân tàn ma dại mới quay trở về gia đình . Bà mẹ bị con ma bài bạc xui khiến làm mất hết nhân cách , gặp ai cũng vay mượn để đi bài bạc cho đã cơn ghiền . Gia đình Tịnh suy sụp tới chín từng địa ngục thì sự may mắn vụt đến như một tia sáng le lói ở dưới đáy vực sâu . Người anh lớn gửi giấy tờ về bảo lãnh gia đình qua Mỹ . Lúc bấy giờ Tịnh đã về ở bên nhà chồng,thời gian đó chương trình những người con có gia đình đều bị loại ra khỏi danh sách . Mẹ Tịnh thật vui không sao che đậy được khi biết Tịnh vì có gia đình sẽ bị ở lại. Thì như một phép lạ đã xảy ra hay sự sửa đổi bộ luật vào đúng thời điểm , gia đình Tịnh được chính phủ Mỹ chấp thuận cho ra đi với hồ sơ riêng . Ngày được giấy tờ bảo lãnh , Tịnh mừng quá mang qua khoe với gia đình , thì đụng ngay gương mặt của bà mẹ cùng giọng nói rít qua hàm răng " còn lâu mới đi được " , hậm hực mỉa mai đủ điều ,nói những câu không tiếc lời mạ lị như dao vạch lên da thịt của con mình , gương mặt đỏ lên vì giận dữ như thể nói thẳng với Tịnh cùng với lời nguyền rũa " mày phải ở lại với địa ngục " , rồi gương mặt biến thành xanh xám , có vẻ hăm he sẽ sẳn sàng làm bất cứ điều gì miễn Tịnh phải ở lại địa ngục để chạy cơm chạy áo , bửa đói , bửa no mởi thỏa mãn lòng oán ghét trong bụng của bà .
Tới ngày gia đình và những người con còn độc thân lên đường , bà mẹ vẫn còn căm gan và không ngớt lời nguyền rũa tiếp những gì đen tối nhất sẽ mang lại cho Tịnh . Nhưng dầu bà có muốn thì cũng không nằm trong khả năng của bà mong đợi .Hai năm sau Tịnh và chồng con được ra đi về miền đất hứa . Ngày Tịnh đến chỉ có vài người trong gia đình ra đón vì biết bà không ưa nên cũng chìu theo ý của bà . Tịnh nhớ, vẫn là gương mặt lạnh lùng đanh lại khi Tịnh và chồng con vừa đến nơi . Tịnh quả thật đã quá mệt mỏi với những thái độ ghẻ lạnh của người mẹ , nên cứ giả đò như không nhìn thấy . Chưa được một tháng sống nương nhờ thì bà mẹ nói xiêng , nói xỏ , bất cứ chuyện gì trong gia đình đều trút lên Tịnh và mấy đứa con , còn bảo con của Tịnh là đồ âm binh có nghĩa là ma quỉ . Chồng Tịnh quá đau lòng và cũng may gặp lại bạn bè đi qua trước ,họ biết được hoàn cảnh cay đắng của gia đình Tịnh nên mang cả gia đình Tịnh về ở trong cái nhà chứa đồ cũng khá lớn ở phía sau vườn . Hai vợ chồng , hai đưa con chui rúc trong cái ổ chó vậy mà Tịnh cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng hơn khi phải đối diện người mẹ đẻ ra mình vẫn tánh nào tật nấy . Ở Mỹ vẫn tém tủm cất giấu đồ ăn không cho Tịnh và các con được ăn, chỉ cho ăn những đồ thừa dư ra .
Mấy chục năm qua , kể từ lúc bà mẹ khám phá ra sự bao che bất đắc dĩ cho người cha về chuyện cô nhân tình đến nhà bất ngờ , giữa Tịnh và bà mẹ vẫn như kẻ thù không đội trời chung . Sau này vợ chồng Tịnh có công ăn việc làm ổn định điều này cũng làm cho bà xốn mắt khó chịu hơn .Trong thâm tâm hình như bà chỉ muốn nhìn Tịnh phải nghèo khổ thì bà mới được vui . Tịnh nói có lẽ cho tới chết mới thôi .Tôi có xem một cuốn phim nói về câu chuyện tiền kiếp . Trong kiếp trước hai người phụ nữ dành một người đàn ông , trong một lúc nóng giận có một người đã bị đâm chết . Tái sinh trong kiếp hiện tại họ là hai mẹ con và đứa con bị đâm ở kiếp trước rất thù ghét người mẹ của mình . Người mẹ là người đàn bà lỡ tay đâm chết đối thủ cũng chính là đứa con của mình hôm nay . Bà mẹ đó đã yêu thương hy sinh hết lòng cho đứa con ,cũng giống như Tịnh đã làm hết mình trong khả năng để chìu lòng mẹ mình . Nhưng cũng không sao làm thay đổi cái nhìn của đứa con trong phim và cái nhìn của mẹ Tịnh ở ngoài đời .
Tôi rất thương Tịnh , coi cô như em , nên có chuyện gì buồn tôi đều lắng nghe và sẽ chia cùng cô em gái này . Tịnh cũng đồng ý với tôi về chuyện oan gia nghiệp chướng . Có lẽ kiếp trước Tịnh đã gây nên một lỗi lầm nào ghê gớm lắm , để cho tới kiếp này cái nghiệp chướng đó vẫn còn đeo đẳng mãi không tha . Ngày lễ Vu Lan đối với Tịnh lại càng thấy thật tội nghiệp còn hơn những người đã không còn mẹ trên đời ,vì tận đáy lòng cũng không thể nào giả dối để hát được những câu như ...lòng mẹ bao la như biển thái bình rạt rào ... Tịnh nói sao mà mỉa mai cho Tịnh quá . Tôi chỉ biết khuyên Tịnh hãy để mọi sự xuôi theo tự nhiên bởi những gì Tịnh làm hết sức vẫn không thay đổi được thành kiến đã quá sâu đậm ở cái nhìn nơi người mẹ .Mỗi ngày tuổi đời càng chồng chất , sự chịu đựng cũng có giới hạn . Chẳng lẽ cứ phải đối diện với nỗi đau hoài sao ? . Càng nghe chuyện của Tịnh tôi chỉ biết thở dài khuyên Tịnh "thôi người mẹ đã không thương , coi mình như kẻ thù thì không nên gặp mặt nữa ". Bởi tôi cứ thấy càng ngày vết thương của Tịnh cứ bị xé toạc ra mỗi khi đối diện với người mẹ của mình. Không biết tôi khuyên như vậy có đúng không ? Thật trong câu chuyện này tôi có giỏi đằng trời cũng không sao tìm ra một biện pháp nào ổn thỏa cho Tịnh ...
 


Mầu Hoa Khế
June 2011



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 30/Jun/2011 lúc 8:54am
BỐ CHỒNG
http://music.forvn.com/show/450796.html -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jul/2011 lúc 8:53am
TẬP LÀM VĂN
 
 
Chuyện Có Thật
        









Đề: Em hãy phân tích câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn"
 Câu tục ngữ uống nước nhớ nguồn cho ta thấy nước ta có nguồn nước rất dồi dào. Nước rất quan trọng trong đời sống chúng ta: cây cối cũng cần nước, ví dụ: đậu bắp, động vật cũng cần nước, ví dụ: trâu, bò, gà, vịt... Không có nước thì con người sẽ chết.
Câu tục ngữ uống nước nhớ nguồn làm em liên tưởng đến câu tục ngữ "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" nghĩa là ăn quả rồi phải nhớ giữ lại hạt để trồng cây mới.
            
Đề: Hãy đặt câu có từ "đỡ đần".
Vì em chăm học nên em đỡ đần.
            
Đề: Tả một loại cây mà em biết.
Hàng ngày chúng em vui đùa dưới bóng cây khoai lang.
            
Đề: Em hãy kể lại câu truyện "Thánh Gióng".
Ngày xửa ngày xưa, đất nước ta sinh ra được một cậu bé Thánh Gióng trông rất là quái nhân vì đã 3 tuổi mà vẫn không biết nói biết cười. Đột nhiên một hôm giặc tới, Thánh Gióng nhảy tót lên mình ngựa, sau khi đã ăn một bữa cơm khủng khiếp với hàng thúng cà muối mặn mà vẫn không khát nước. Thánh Gióng đánh giặc xong không biết đường về nhà vì chưa ra khỏi nhà lần nào. Thánh Gióng không biết đi đâu về đâu nên đành phải bay lên trời.
            
Đề: Tả cảnh bình minh trên quê em.
Tờ mờ sáng một đám mây từ từ vén váy, một cục đỏ ối lồi ra, trên con đường làng thẳng tắp những hàng cây cỏ bợ, bà con tấp nập rủ nhau ra đồng...
            
Đề: Tả mái đình.
Hôm nay cô giáo cho chúng em về làng quê chơi, đầu làng có cái mái đình cong cong, khi chúng em đến mái đình rung rinh chào đón chúng em.
            
Đề: Tả vườn rau muống.
Nhà em có một vườn rau muống. Chiều chiều mẹ em lại bắc thang lên hái lá về nấu canh.
   
         
Đề: Tả chú bộ đội.
Cạnh nhà em có một chú là bộ đội. Năm nay chú đã 20 tuổi đời. Chú luôn đeo súng ngắn bên mình, mỗi khi ngồi xuống, khẩu súng của chú lại chìa ra trông rất oai hùng.
       
     
Đề: Em hãy giải thích câu tục ngữ "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh".
Câu tục ngữ nói lên sự dã man của bọn giặc cướp, khi đã tràn vào làng mạc, nhà cửa thì không cứ đàn ông, mà cả đàn bà, trẻ em chúng cũng đánh đập, hành hạ. Câu tục ngữ trên nhằm kêu gọi nhân dân đánh đuổi quân giặc xâm lược.
            
Đề: Hãy phân tích bài ca dao: "Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa".
Đây là cảnh làm nông của một gia đình khá giả. Họ có ít nhất ba thửa ruộng. Một thửa ruộng do chồng cày, một thửa thì vợ đang cấy và một ruộng đang bừa. Họ có ít nhất hai con trâu. Một con đi cày, một con đi bừa.
            
Đề: Tả chú thương binh.
Gần nhà em có một chú thương binh, chú đã bị thương 2 lần. Một lần ở Buôn Mê Thuột và một lần ở đùi.
            
Đề: Tả cây hoa hướng dương.
Hôm nay em đi học về nhặt được một hạt hướng dương. Em cho nó vào chậu, sau nó mọc một cây như chiếc đũa. Em chăm bón nó và nó nở một bông hoa như cái nắp ấm. Sau đó hoa rụng hết cánh, em lấy hạt vào rang ăn.
            
Đề: Bình luận câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn".
Uống nước nhớ nguồn là khuyên chúng ta phải nên tiết kiệm nước, khi tắm phải từ từ, không được xối ào ào...
            
Đề: Tả cây đàn bầu.
Đàn bầu là đàn có một dây. Dây bầu nằm trong ruột bầu, ruột bầu để mẹ em nấu canh chua.
            
Đề: Tả con đường làng.
Xa xa con đường có bác nông dân tay dắt cày, vai vác trâu đang từ từ tiến về đầu làng.
            
Đề: Tả ông nội.
Nhà em có nuôi một ông nội. Năm nay ông 70 tuổi. Ông nội em ăn rất khoẻ, lại còn biết trông nhà.
            
Đề: Tả bác hàng xóm.
Bên cạnh nhà em có bác tên là Sẵn, ngày ngày bác ra đồng đi cày ruộng, con trâu đi trước bác đi theo sau. Mỗi lần bác kêu tắc tắc là con trâu lại đi qua bên phải qua bên trái trông thật vui mắt. Khi bác đưa cây roi lên đánh vào mông chú trâu thì ếch nhái hai bên bờ ruộng kêu inh ỏi.
            
Đề: Tả công viên.
Gần nhà em có một cái công viên. Buổi sáng hay có các cụ già đi bộ tập thể dục. Buổi trưa hay có các bác xe ôm đỗ xe ngủ. Buổi tối hay có các cô chú ngồi ôm nhau.
            
Đề: Tả một loại cây mà em biết.
Nhà bà ngoại em có trồng một cây dưa hấu. Lá cây xanh thẫm diệu kỳ. Thân cây rất to, 5 người ôm không xuể.
            
Đề: Tả chú gà trống.
Nhà em có nuôi một chú gà trống. Chú khoác trên mình bộ váy sặc sỡ. Sáng nào chú cũng dậy sớm chạy ra sân và kêu cục ta cục tác để dụ đám gà mái. Em rất yêu quý chú vì hàng ngày chú đều đẻ trứng cho mẹ em đi chợ
bán.



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Jul/2011 lúc 11:49am
TÌNH XƯA NGHĨA CŨ
 
Tác Giả: Phó Tế Nguyễn Mạnh San   
Thứ Hai, 04 Tháng 7 Năm 2011 05:29

Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San trong cuối thập niên 1970s và đầu 1980s làm thêm nhiệm vụ đón tị nạn từ các trại tị nạn Đông Nam Á tới Oklahoma.

(LTS: Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San vừa xuất bản Tuyển Tập Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng, gồm nhiều bài viết do tác giả kể lại những kinh nghiệm và cảm xúc trong nhiệm vụ của một chuyên gia luật pháp tại Tòa Án Liên Bang Oklahoma và cũng là một tuyên úy mục vụ trại giam. Các bài trong Tuyển Tập trích đăng nơi đây sẽ giúp thêm kiến thức pháp luật cần thiết trong đời sống tại Hoa Kỳ. Trân trọng cảm ơn Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San.)
 
http://0.tqn.com/d/queens/1/0/o/L/jfk_aiport_saarinen_interior.jpg">TWA%20Terminal%20at%20Kennedy%20Airport%20in%201965  
 
Chắc hẳn những người Việt Nam chúng ta cho đến giờ phút này, có rất nhiều người không thể quên được cuộc di tản không tiền khoáng hậu, vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 của mấy trăm ngàn người Việt, đã phải rời bỏ quê hương yêu dấu của mình được phép đến Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn cộng sản và tiếp theo những ngày tháng năm sau đó, có hàng vạn người tiếp tục bỏ nước ra đi, vượt biên bằng những chiếc thuyền nhỏ mong manh trên biển cả hoặc bằng đường bộ, để hy vọng sẽ đến được bến bờ tự do Hoa Kỳ. Cũng chính vì lý do bất khả kháng phải rời bỏ quê hương yêu dấu của người Việt Nam chúng ta, ra đi không hẹn ngày về này mà đã có hàng ngàn người đã phải bỏ mạng trên biển cả, hoặc nhiều đàn bà và con gái bị hải tặc hãm hiếp bất kể tuổi tác, rồi kể cả những người đã may mắn đến được bến bờ tự do Hoa Kỳ, cũng phải chịu đựng biết bao nhiêu hoàn cảnh ngang trái, éo le, vui buồn lẫn lộn: Vui vì đã tìm được sự tự do trên xứ người, buồn vì phải xa lìa những người thân yêu nhất đời của mình như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt, họ hàng xa gần và bạn bè thân thiết, tưởng chừng như muôn đời sẽ không còn được gặp lại mặt nhau nữa, nên có một số người trở thành mồ côi cha mẹ, mất vợ hay mất chồng, phải sống trong trạng thái cô đơn, và vì xa mặt cách lòng nên đã dẫn đưa đến một số thảm cảnh khó xử: Người có chồng còn bị kẹt lại ở Việt Nam sẵn sàng chấp nối với người có vợ còn đang bị kẹt lại ở Việt Nam vì không biết đến ngày nào mới được đoàn tụ với nhau tại Hoa Kỳ.

Có một số những trường hợp, những người cựu quân nhân QLVNCH khi còn ở trong các trại tỵ nạn không dám khai thật trên giấy tờ với cơ quan di trú, là mình đã có vợ con còn đang ở Việt Nam vì sợ khai sự thật có thể sẽ làm liên lụy đến người ở lại nên đành phải khai dối là độc thân. Nhưng sau hơn 33 năm, những người Việt thuộc đợt di tản đầu tiên hay những người vượt biên đến Hoa Kỳ đã được trên dưới 20 năm, thì hầu hết đã trở thành người Mỹ gốc Việt, nghĩa là đã nhập tịch cả rồi, và những cặp vợ chồng vì hoàn cảnh ngoài ý muốn của họ đã đưa họ đến cuộc sống vợ chồng chắp nối mà chúng tôi vừa nêu ở trên, thì ngay sau khi có chương trình đoàn tụ gia đình dành cho những người Việt tỵ nạn, có những cặp vợ chồng sống trong tình trạng chắp nối này, đã tự giải quyết tình trạng của mình một cách ổn thoả tốt đẹp, có nghĩa là cả 2 bên đều đồng ý chia tay nhau, để mỗi bên được tự do tiến hành thủ tục nạp đơn với cơ quan di trú Hoa Kỳ, xin bảo trợ chồng con hoặc vợ con còn đang bị kẹt lại tại quê nhà.

Cho đến ngày hôm nay, theo tin tức cho chúng tôi biết, vẫn còn một số trường hợp vợ chồng chung sống với nhau trong hoàn cảnh chắp nối, nhưng họ chưa muốn chia tay nhau để mỗi bên được tự do bảo trợ cho chồng con hay vợ con đang còn sống tại quê nhà vì nhiều lý do tình cảm tế nhị, không tiện nói ra đây. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp này, họ rầt muốn giải quyết tình trạng chắp nối, mặc dù đã sống chung với nhau trong nhiều năm qua, nhưng vì cả hai bên đều sợ bị liên lụy đến pháp luật, nhất là đối với cơ quan Di Trú Hoa Kỳ nên đôi bên không dám xúc tiến giải quyết vấn đề này. Sau đây chúng tôi xin trình bày cùng đọc giả một câu chuyện có liên hệ đến pháp luật, đã xảy ra cách đây nhiều năm, với mục đích duy nhất của chúng tôi là xin góp ý kiến cho những cặp vợ chồng chắp nối nào ở Hoa Kỳ và hiện nay người bạn đầu đời của mình cùng với các con của mình vẫn còn bị kẹt lại tại quê nhà, mà những cặp vợ chồng này thực sự rất muốn chia tay nhau từ lâu, để mỗi bên được quyền tự do quyết định nạp đơn bảo trợ cho những người thân yêu nhất đời của mình, thì vẫn còn chưa muộn; đồng thời cũng là một dịp ngàn năm một thuở cho mình được thể hiện câu: “Tình Xưa Nghĩa Cũ” và nhắc nhở lại lời thề hứa năm xưa: “Thương Hoài Ngàn Năm” lúc ban đầu hai người yêu nhau.

Thật sự, như chúng ta thường biết, khi một sự việc xảy ra về mặt tình cảm, nhiều khi không còn có cách gì có thể giải quyết được sự éo le ngang trái của những người trong cuộc gây ra. Nhưng nếu chúng ta đem áp dụng những nguyên tắc pháp lý để giải quyết vấn đề tình cảm, thì hầu như mọi vấn đề khó khăn thế mấy của vấn đề, đều có thể giải quyết được, miễn là những nhân vật chủ yếu trong cuộc phải hy sinh chấp nhận một ít hay nhiều sự thiệt thòi về phần mình. Có như thế mọi rắc rối khó khăn của vấn đề tình cảm sẽ được giải quyết một cách ổn thoả cho người ở thế chủ động cũng như cho người ở thế thụ động. Một trường hợp xảy ra có nội dung tương tự như nhiều trường hợp khác, đã được giải quyết một cách tốt đẹp trong nhiều năm qua mà chúng tôi trực tiếp cũng như gián tiếp đã thu thập được từ những nhân vật chủ yếu trong câu chuyện, để xin được kể lại câu chuyện này cùng quý đọc giả và quý vị sẽ nhận xét thấy vấn đề pháp lý trong câu chuyện tình cảm này sẽ được giải quyết như thế nào, và trực tiếp giúp cho 2 người c
hủ yếu trong cuộc sẽ không còn bị cắn rứt trong lương tâm về vấn đề tình cảm riêng tư của mỗi người như sau:

Ông Tư là một cựu công chức trung cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, đã được một trực thăng Hoa Kỳ đưa lên hạm đội 7 đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế vào những giờ phút chót trước khi nước mất. Ông ra đi bỏ lại Việt Nam vợ và 4 con dưới tuổi vị thành niên. Khi sang tới Hoa Kỳ, nhờ trước kia ông đã được chính phủ gửi đi tu nghiệp nhiều lần tại đây nên ông được một cơ quan tư nhân thâu dụng ông vào làm việc theo đúng ngành mà ông đã học trước kia. Sau gần 3 năm làm việc miệt mài chăm chỉ cho quên thời gian tẻ lạnh, để tâm tư ông vơi đi một phần nào nỗi nhớ vợ nhớ các con, cuộc sống của ông gần giống như một nhà tu hành tại gia, sáng xách ô đi tối xách ô về. Suốt trong thời gian này, ông không kề quen biết một người đàn bà nào khác. Những lúc đêm khuya thanh vắng, tuyết rơi lạnh lẽo về mùa đông, ông lại đem hình ảnh người vợ xinh tươi chụp chung với 4 đứa con yêu dấu của ông ra nhìn ngắm, để hồi tưởng lại những kỷ niệm hạnh phúc êm đềm xưa kia, làm sưởi ấm một phần nào cõi lòng cô quạnh của ông trong căn phòng đơn độc nơi xứ lạ quê người. Nhiều lúc ông nhìn ngắm hình ảnh vợ con trong tấm hình, làm ông động lòng thương xót mắt nhoà lệ, không còn thấy gì nữa trên tấm hình mà chỉ còn nghe thấy tiếng lòng mình thổn thức, ngậm ngùi nuốt những giọt nước mắt từ từ lăn trên đôi má xuống đôi môi ông. Nhưng người ta vẫn thường nói thời gian là liều thuốc thần tiên, quả thật đúng như vậy, chuyện gì phải đến thì cũng sẽ đến, có lúc buồn thì cũng phải có lúc vui và chỉ có thời gian mới có thể chứng minh được lòng mình.

Vào một hôm trời nắng ấm, ông Tư tình cờ gặp lại một nữ cộng sự viên duyên dáng trước kia làm việc chung một cơ quan với ông tại Việt Nam. Cô tỏ ra rất vui mừng được gặp lại ông và kể lại cho ông nghe chuyện gia đình của cô, chồng cô là một cựu sĩ quan pháo binh trong QLVNCH, nên sau một thời gian ngắn bị cầm tù ở miền Nam, thì bị đưa ra ngoài Bắc tiếp tục ở tù và không biết đến bao giờ chồng của cô mới được thả ra về, nên cô cùng 2 con đã tìm đủ mọi cách vượt biên để sang được tới đây. Rồi thoạt tiên trong tình bạn đồng nghiệp cũ, hai người thường đi lại thăm hỏi nhau, coi như bạn và chỉ trao đổi với nhau qua những câu chuyện bâng quơ cho vui, thỉnh thoảng ông lại tình nguyện đưa đón 2 con của cô đi shopping riêng với ông, giúp cho ông có cảm giác như ông đang dẫn con của ông đi chơi với ông. Trong thời gian hai người gặp lại nhau thắm thoát trôi qua mau, tưởng chừng như một cơn gió thoảng, nhất là trong lòng ôngTư bị nguội lạnh từ nhiều năm qua, nay chạm phải luồng điện ái tình làm hâm nóng lòng băng giá của ông lại. Do đó, hai người đã phải lòng nhau như câu “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lòng biết thuở nào ra” và không đầy một năm sau, cô bạn đồng nghiệp của ông đã cho ra đời một cậu bé kháu khỉnh giống hệt ông như 2 giọt nước. Thế rồi đi xa hơn nữa, hai người đã dẫn nhau đến toà án địa phương để cùng nhau ký giấy giá thú chính thức thành vợ chồng…

Cuộc sống êm đềm của đôi uyên ương chắp nối này đang đi đến độ nồng thắm tuyệt đỉnh của tình ái, là cô sắp sửa tặng thêm cho ông Tư một công chúa xinh tươi nữa, thì ông lại nhận được một điện tín khẩn cấp của vợ ông gửi cho người bạn ông ở Pháp từ Việt Nam qua, báo tin cho ông biết là thằng con trai đầu lòng của ông 15 tuổi, bị đưa đi làm lao động công trường đã chết vì bệnh sốt rét. Tin này như một tia sét đánh trúng vào con tim ông, làm lương tâm ông hồi tỉnh lại, tự thú nhận với lòng mình là từ bấy lâu nay ông đã phạm một lỗi lầm quá lớn đối với vợ con ông ở quê nhà. Vì quá mãi mê vui thú bên người vợ chắp nối này mà ông đã quên hết tình xưa nghĩa cũ với người bạn đời ban đầu của mình, quên tất cả những lời thề hứa sẽ trung thành suốt đời mình với người vợ trong nghi thức thành hôn tại Nhà Thờ, quên cả trách nhiệm và bổn phận làm người cha đối với 4 đứa con còn thơ dại. Mặc dù nhiều lần vợ và đứa con lớn, đều viết thư hối thúc ông hãy làm giấy bảo lãnh cho vợ và các con sang đoàn tụ với ông ở bên này, nhưng ông vẫn đánh ván bài tảng lờ như không biết gì hết. Theo giải thích của ông cho biết, sở dĩ ông phải đánh ván bài tảng lờ như thế là vì 2 lý do: Điều thứ nhất, khi ông tới Hoa Kỳ, ông đã khai báo với nhân viên sở di trú là ông còn độc thân. Lúc đó ông nghĩ rằng khi khai như vậy sẽ tránh cho vợ con ông còn kẹt lại quê nhà không bị chính quyền cộng sản hạch hỏi và gây khó khăn vì có chồng đi vượt biên, hơn nữa chồng lại là một công chức trung cấp cho chính phủ VNCH hiện đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Điều thứ hai ông đã lập giá thú với người vợ chắp nối tại đây, ông nghĩ rằng nếu ông nạp giấy tờ bảo trợ cho vợ và 4 con với sở di trú, thì ông sẽ bị truy tố ra toà về 2 tội phạm: Tội thứ nhất là tội song hôn có chứng cớ hiển nhiên qua 2 tờ hôn thú. Tội thứ hai là khai man trá tình trạng độc thân qua lời tuyên thệ trước mặt nhân viên chính quyền của sở di trú Hoa Kỳ, là cơ quan có quyền tài phán. Qua những lời giải thích về sự việc diễn tiến trên đây của ông Tư, chúng ta nhận thấy ông đã viện dẫn những lý lẽ để biện minh cho hành động của ông đối với vấn đề này một cách quá chủ quan, không vững chắc, chỉ được căn cứ vào sự hiểu biết thông thường của riêng ông, vì ông thiếu sự hướng dẫn chuyên môn về Pháp Luật Hoa Kỳ thuộc loại pháp luật đa dạng và phức tạp nhất trên thế giới hiện nay. Như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu, là giải quyết một vấn đề tình cảm thì rất khó khăn, nhiều khi phải bó tay đầu hàng, không tìm ra lối thoát và đành phải chờ đợi phép lạ mầu nhiệm của Thượng Đế ban ơn xuống thì mới giải quyết được. Nhưng ngược lại, để giải quyết một sự việc bằng pháp lý, thì sự việc đó dù khó khăn đến đâu đi chăng nữa, vẫn có thể giải quyết được, miễn là chúng ta được hướng dẫn về pháp luật một cách chính xác tường tận. Nên nhớ rằng chúng ta đều là những người phải rời bỏ quê hương theo diện tỵ nạn cộng sản, sang đây trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, không có thời gian để chuẩn bị tư tưởng cũng như vật chất nên mọi điều sai lầm của chúng ta trên giấy tờ, qua những lời khai không đúng sự thật với cơ quan di trú, đều có thể xin điều chỉnh lại cho đúng thực trạng, tuỳ theo từng trường hợp của mỗi cá nhân qua nhân chứng, qua những giấy khai sinh, giấy rửa tội, giấy hôn thú hay bằng những lời khai hết sức thành thật và hợp lý của chúng ta.

Trong trường hợp của ông Tư trên đây, là ông vẫn muốn bảo trợ vợ và 3 con sang đây theo diện đoàn tụ gia đình, mà ông vẫn không bị liên lụy đến pháp luật như ông đã nghĩ. Sau khi biết đích thực ông Tư thật tâm muốn bảo trợ cho vợ và các con sang đây đoàn tụ gia đình với ông, dù ông đang ở trong một tình trạng khó xử với người vợ chắp nối và sắp sửa có thêm 1 con nữa với người vợ này. Nhưng tình xưa nghĩa cũ với người vợ ban đầu đã sống lại trong con tim của ông, hình ảnh một người vợ hiền thục, duyên dáng, nết na, đảm đang đã chung sống với ông hơn 12 năm trước ngày mất nước, nhất là trải qua nhiều năm xa cách nhau, biết bao nhiêu sự đổi thay chua xót ở quê nhà mà vợ ông vẫn giữ một lòng chung thủy với ông, lòng hy sinh, tận tụy làm việc cực nhọc mỗi ngày của vợ ông để nuôi dưỡng 4 đứa con thơ dại thay cho ông, với niềm hy vọng duy nhất là sẽ có ngày được đoàn tụ với ông. Hơn thế nữa, đứa con trai đầu lòng của ông là biểu tượng của biết bao kỷ niệm êm đẹp cho mối tình đầu của vợ chồng ông, thì nay nó đã chết. 

Sự ra đi vĩnh viễn của nó làm thức tỉnh con tim ông, ông rất hối hận và ăn năn về những hành động sai quấy của mình đối với vợ con từ bấy lâu nay, càng nghĩ về vợ con ông đang sống thiếu thốn cơ cực ở quê nhà bao nhiêu, thì lương tâm ông lại càng bị dày vò cắn rứt bấy nhiêu, vì trong tiềm thức ông lúc này cho ông biết ông là kẻ chủ mưu phản bội người vợ chung thuỷ của ông và là người cha vô lương tâm vô trách nhiệm với con cái. Nay ông muốn làm tất cả những gì mà ông có thể làm được, để đem được vợ con sang đây, hầu có thể đền bù lại một phần nào những lỗi lầm mà ông đã phạm đối với vợ con ông.

Chúng ta vẫn thường suy luận và cùng đồng một quan điểm với nhau rằng, nếu một người nào đó trong chúng ta đã làm những điều lầm lỗi và người đó đã tự thú trong lòng, là chính mình đã làm những điều lỗi lầm đó và hứa với lòng mình là sẽ không bao giờ tái phạm những lỗi lầm đó nữa, thì những lỗi lầm đó sẽ được tha thứ và người đó sẽ trở thành kẻ đáng thương hơn đáng trách. Chúng ta có thể coi ông Tư cũng nằm trong trường hợp của một người đáng thương hơn đáng trách và ông Tư đã đến gặp chúng tôi để yêu cầu được hướng dẫn về mặt pháp lý đối với cơ quan di trú, để ông tiến hành thủ tục bảo trợ cho vợ con ông sang đây theo diện đoàn tụ gia đình như sau:

1. Tiến hành thủ tục xin ly dị người vợ chắp nối tại toà án địa phương nơi cư ngụ. Trước khi tiến hành thủ tục, ông Tư cần lựa lời giải thích cho bà ta biết rõ lý do tại sao ông phải ly dị bà ta và cần phải bày tỏ lập trường vững chắc của ông, là toà án lương tâm của ông không thể cho phép ông tiếp tục làm ngơ vấn đề bảo trợ người vợ đầu tiên và các con của ông đang chờ đợi ông từng ngày từng giờ từng phút từ Việt Nam. Thuyết phục bà nên hiểu rằng, dù ông có ly dị bà ta nhưng bổn phận thiêng liêng cao cả và trách nhiệm pháp lý của ông đối với đứa con hơn 1 tuổi và đứa con sắp trào đời của ông với bà ta, cũng như 2 đứa con riêng của bà ta vẫn không có gì thay đổi, ông hứa sẽ luôn luôn chu toàn săn sóc chúng nó về vật chất cũng như về tinh thần.

2. Ông nên nói cho bà ta biết, dù bà còn hay không còn thương yêu người chồng cũ của bà nữa, nhưng bà hãy nghĩ đến 2 đứa con riêng của bà với ông ta, hai đứa nhỏ hoàn toàn vô tội, không vì một lý do gì mà bà nỡ để chúng nó mồ côi cha. Sau này chúng khôn lớn, chúng sẽ oán hận mẹ nó là đã phản bội cha chúng nó. Như vậy việc ly dị sẽ giúp ích cho cả 2 người: Bà ta sẽ dễ dàng nạp đơn bảo lãnh cho chồng của bà, còn ông sẽ bảo lãnh cho vợ và các con của ông.

3. Trong trường hợp bà ta bằng lòng ly dị ông, ông chỉ cần nhờ một luật sư (tốn khoảng từ $150 đến $300) để thảo ra một thoả ước hỗ tương, ông bằng lòng sang nhượng những gì của ông mà bà ta đòi hỏi, dành quyền người mẹ nuôi dưỡng 2 đứa con của ông cho bà ta, ghi rõ số tiền ông phải cấp dưỡng hàng tháng cho bà ta để nuôi 2 đứa con cho đến tuổi trưởng thành, ghi rõ quyền đến đón 2 đứa con về với ông cuối tuần là bao nhiêu lần của mỗi tháng. Ông có thể đưa bản thoả ước này cho bà ta ký tên và có thị thực chữ ký, hoặc ông có thể đưa bà ta đến văn phòng luật sư của ông để ký tên. Tuỳ theo luật lệ của mỗi Tiểu Bang, sau khi luật sư đệ nạp hồ sơ xin ly dị tại toà, thông thường phải chờ đợi tối thiểu từ 6 tuần trở lên mới nhận được bản án ly dị.

4. Trong trường hợp bà ta không chịu ly dị ông, ông vẫn có thể nhờ luật sư tiến hành thủ tục ly dị bà ta tại toà mà không cần có sự ưng thuận của bà ta. Như vậy thời gian để nhận được bản án ly dị sẽ kéo dài lâu hơn, vì cả hai bên sẽ phải đối chất nhau trước phiên toà xử, và có thể phải chờ đợi từ 3 cho đến 6 tháng mới nhận được bản án ly dị. Lẽ dĩ nhiên bà ta sẽ được quyền nuôi con và ông phải cấp dưỡng tiền hàng tháng cho bà ta nuôi 2 đứa con của ông (Child support), có thể ông phải cấp dưỡng tiền thêm cho 2 đứa con riêng vẫn còn dưới tuổi vị thành niên của bà ta. Vì khi ông ký giấy giá thú với bà ta, là mặc nhiên ông đã chấp nhận chúng nó làm con nuôi của ông, vì khi đó chúng nó vẫn còn dưới tuổi vị thành niên, nhưng ông không phải cấp dưỡng tiền cho bà ta (Alimony) vì bà ta đang đi làm việc có lợi tức cao.

5. Khi đã nắm trong tay bản án ly dị, tức nhiên tình trạng gia đình của ông trở lại như cũ, ông đến sở di trú ngoại kiều tại địa phương để tiến hành thủ tục bảo trợ cho vợ và 3 con của ông. Trong đơn bảo trợ phải kèm theo giấy hôn thú và giấy khai sanh của các con, kèm theo bản dịch các giấy tờ này từ tiếng Việt sang tiếng Mỹ. Vì lời khai man là độc thân trước đây của ông nên sở di trú trước khi chấp thuận đơn xin bảo trợ, ông có thể nhận được thư của sở di trú mời ông đến phỏng vấn, để nghe ông giải thích về sự sai lệch này. Ông cứ khai hết tất cả sự thật, là lúc đó ông sợ vợ con ông ở Việt Nam sẽ bị liên lụy vì chức vụ của ông thuộc thành phần công chức tín nhiệm trong chính phủ VNCH trước ngày mất nước. Nên hiểu rằng luật di trú Hoa Kỳ đôi khi được thi hành một cách linh động tuỳ theo từng trường hợp đặc biệt, nó bao hàm tính chất chính trị nhiều hơn là áp dụng biện pháp chế tài theo luật hình sự. Do đó, vấn đề khai sự thật của ông sẽ được nhân viên hữu trách sở di trú xét như một trường hợp đặc biệt về sự sai lầm của ông, miễn là trong tay ông không còn có 2 tờ giá thú bị coi là phạm tội song hôn (bigamy) và lời khai gian độc thân trước kia của ông sẽ được điều chỉnh lại thành có vợ, để ông hội đủ điều kiện nạp đơn xin bảo trợ cho vợ và các con của ông từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đoàn tụ gia đình.

Đúng như sự dự đoán của chúng tôi đã cố vấn cho ông Tư về vấn đề vừa nêu trên, ông đã thuyết phục được người vợ chắp nối này, để bằng lòng ly dị ông theo tất cả những điều kiện được vị luật sư ghi trong tờ thoả ước do ông đề nghị. Ông cũng không gặp một trở ngại nào với sở di trú trong việc xin điều chỉnh tình trạng và nạp đơn bảo trợ cho vợ con của ông. Điều đáng mừng hơn nữa, là chúng tôi được biết vợ và 3 người con của ông đã được đoàn tụ với ông tại Hoa Kỳ và hiện nay 2 trong 3 người con của ông, một người trở thành nha sĩ và một người đã trở thành dược sĩ; còn mối liên hệ tình cảm giữa ông và người vợ chắp nối hiện nay ra sao, thì hoàn toàn chúng tôi không biết rõ. Sở dĩ chúng tôi kể lại câu chuyện cũ này đã xảy ra cách đây hơn 15 năm, là vì mới khoảng hơn 2 tháng trước đây, có 2 trường hợp nội dung cũng tương tự như trường hợp của ông Tư trong câu chuyện trên đây, đã gọi điện cho chúng tôi từ Tiểu Bang California và Texas yêu cầu được tư vấn về vấn đề này. Trước khi xin được kết thúc đề tài mang tính chất vừa tình cảm lẫn pháp lý này, chúng tôi cầu mong sao, nếu còn có những trường hợp tương tự như trường hợp của ông Tư trong câu chuyện kể trên, thì sớm đưọc điều chỉnh lại tình trạng và được đôi bên giải quyết một cách công bằng ổn thoả, để cho những người vợ hiền chung thuỷ, những người chồng gương mẫu, những người cha biết thương yêu con cái và những đứa con thơ dại, mau sớm được sum họp gia đình tại nơi phần đất tự do này. 



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Jul/2011 lúc 8:38am

Cánh Chim Cuối Trời


    
     
      Đức chúc mũi phi cơ nhắm mục tiêu, bấm nút thả trái bom cuối cùng. Ánh lửa loé sáng và đất cát cày lên bụi mù. Nhẹ nhàng nhấc bổng thân tàu, Đức quay mũi chiếc chiến đấu cơ ra biển, bỏ lại  đàng sau đất nước Iraq đang mịt mù khói lửa.

      Trời trong và xanh, chiếc hàng không mẫu hạm bên dưới nhỏ như chiếc lá im lìm trên mặt nước. Đức hạ dần cao độ, đổi hướng bay ngược với chiều gió, nhắm sàn tàu lao xuống. Khi chiếc hook sau lái phi cơ móc được sợi dây cable giăng ngang trên sàn tàu, và phi cơ rùng mình ngừng hẳn lại, Đức mới thở ra một hơi thật dài:
      -     Mission accomplished! Không biết đây là lần thứ bao nhiêu rồi.
 
     
      Ra khỏi phòng hành quân sau khi tường trình về phi vụ của mình, Đức húyt sáo nho nhỏ, lách mình qua những hành lang chật hẹp trở về phòng ngủ dành cho mình và một người bạn đồng ngũ. Henry vẫn còn đang nằm trên giường đọc sách, chắc là chờ tới phiên bay đêm. Đức mặc nguyên áo bay, ném mình xuống giường:
      -     Hi Henry. Mày khoẻ chứ?
      Henry ngồi thẳng dậy:
      -     Hi Doug. Tao bình thường. Còn mày, mệt hả?
      -     Ừ. Bây giờ tao cần ngủ nguyên một ngày!
      Henry nhoẻn miệng cười:
      -     OK. À, có một lá thư cho mày để trên bàn viết đó.
      -     Thư cho tao? Tao đâu có …
      -     Thực ra thì tên phát thư đưa cho tao lá thư của học trò một trường trung học viết gửi lính tráng đang ở ngoài mặt trận nhân dịp cuối năm. Tao thấy tên người gửi hình như là người Việt nên tao dành cho mày.
      -     Thế à? Thôi, cứ để đấy. Bây giờ tao ngủ đây.

      Đức nhắm mắt, giấc ngủ tới dần, người Đức lâng lâng như đang cùng phi cơ bay bổng trên trời, nhưng  bỗng dưng Đức giật mình ngồi bật dậy vì trong giấc mơ Đức thấy phi cơ do mình lái lao vào một đám cháy, và nổ tung. Đức ôm ngực hồi hộp. Chỉ là một giấc mơ thế nhưng trái tim vẫn còn như đập liên hồi. Đức đứng dậy thay quần áo, bước vào phòng tắm, bỏ hẳn ý định ngủ thêm một giấc miệt mài.

  
      Nước lạnh làm Đức tỉnh táo hẳn. Ngồi xuống bàn viết, Đức với tay cầm lấy lá thư, nhủ thầm:
      -     Người gửi là Loan Nguyễn! Chắc chắn là Việt Nam rồi.

      Đức mỉm cười, xé cạnh phong bì, lôi tờ giấy hình như từ một tập note book, đưa mắt đọc thoáng qua. Cũng không có gì đặc biệt, chỉ là những lời thăm hỏi bình thường của một học sinh năm cuối của một trường trung học tham dự phong trào viết ra tiền tuyến để cám ơn những người đang bảo vệ tự do cho đất nước, nhưng cuối thư cô gái ghi lại địa chỉ của mình, và một dòng tái bút:

      “Cha tôi một thời cũng từng là quân nhân của Việt Nam Cộng Hoà. Sau cuộc chiến, chúng tôi được đất nước này đón nhận, và cho chúng tôi đã có một đời sống yên lành. Chúng tôi biết ơn Hoa Kỳ, và xin cám ơn những người lính như anh”.

      Những dòng chữ hình như viết với chân tình chứ không phải là khách sáo khiến Đức nghĩ ngợi vẩn vơ. Cha Đức cũng là cựu quân nhân của VNCH, năm 1975 theo đoàn người di tản qua đất này, nhưng lúc nào cũng mong một ngày về vinh quang, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Đức lớn lên tại nơi này, và ngày tốt nghiệp trung học, được nhận vào University Of California at San Diego và Naval Academy tại Annapolis, Đức đã băn khoăn không biết là nên theo học USD để được ở gần nhà hay chọn binh nghiệp theo bước chân của cha ngày xưa. Ông Nhân, cha Đức, không ép uổng con trở thành bác sĩ, nha sĩ hay luật sư như đa số các gia đình VN, nên để mặc cho con lựa chọn, tuy nhiên ông khuyên Đức là lúc nào cũng nên nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình mình trong cơn hoạn nạn, và nếu phải hy sinh cho quốc gia này thì cũng nên. Đức chọn binh nghiệp vì những lời tâm tình của cha, và cũng vì muốn bay bổng ở những chân trời xa lạ, quyến rũ những người trẻ tuổi vừa mới bước chân vào đời.

      Thư của Loan làm Đức nhớ tới cha và tâm huyết của một người suốt đời chỉ biết hy sinh. Đức cầm thư Loan đọc lại thêm một lần, thẫn thờ cầm bút viết thư trả lời để cám ơn một người lạ đã nghĩ tới những người lính xa nhà vào dịp cuối năm.

 
0O0

  
      Bà Tâm thấy Loan dạo này hình như rất lạ. Con bé vui ra mặt, nhiều lúc liú lo như chim, nhưng cũng có những lúc thẫn thờ, đưa mắt nhìn ra ngoài khung cửa như thể là đang nhớ tới một người. Nhiều đứa con trai, mà Loan nói là bạn, thường ghé qua nhà thăm hỏi nhưng bà Tâm thấy hình như Loan chẳng chú ý tới ai. Bà cũng không mong gì hơn, chỉ muốn Loan chú tâm vào học hành vì ngày thi tốt nghiệp cũng gần kề. Con gái 18 tuổi, không còn bé bỏng nhưng bà vẫn chưa hết lo âu. Đêm hôm nhiều lúc bà tỉ tê với chồng, băn khoăn cho tương lai con cái nhưng ông Tâm hình như không mấy quan tâm:
      -     Chúng nó lớn cả rồi, mai mốt vào đại học xa nhà, tốt nghiệp, lấy chồng hoặc đi làm xa, tự chúng sẽ biết lo thân. Chúng nó khôn ngoan và giỏi giang hơn chúng mình nhiều, bà đừng lo.

      Vẫn biết thế nhưng bà vẫn không yên tâm. Hôm nay thấy Loan nhận một lá thư, vui mửng ôm vào ngực chạy tuốt vào phòng, bà muốn chạy theo hỏi xem là thư của ai nhưng dằn lòng đợi cho tới lúc cả nhà quây quần trong bữa cơm tối bà mới làm như vô tình hỏi Loan:
      -     Chiều nay con nhận thư gì mà vui vậy? Được nhận vào đại học nào hả con?
      Loan lắc đầu, nhoẻn miệng cười:
      -     Thư của bạn con.
      -     Bạn hả? Đứa nào vậy?
      -     Ở xa. Mẹ không biết đâu.
      -     Ờ, thì mẹ hỏi vậy cho biết mà.
      Loan tần ngần nhìn ông Tâm:
      -     Bố! Ngày xưa lúc còn ở quân đội, bố có nhận được thư của người lạ bao giờ không?
      Ông Tâm ngơ ngác, nghĩ ngợi rồi chợt hỏi:
      -     Con muốn nói là những lá thư thăm hỏi chiến sĩ vào những dịp đặc biệt như Tết?
      -     Dạ.
      Ông Tâm mỉm cuời:
      -     Có một lần.
      -     Rồi sao bố?
      -     Sao là sao?
      -     Bố có trả lời, có liên lạc với người gửi thư sau đó không?
      Ông Tâm buông đũa cười lớn:
      -     Không. Cô nữ sinh đó không để lại địa chỉ, chỉ ghi tên trường. Khi bố đóng ở Đông Hà có một phái đoàn nữ sinh ra thăm tiền đồn, ủy lạo chiến sĩ, nhưng chỉ thăm rồi thôi. Đâu có cô nào muốn kết thân với lính, nhất là lính mang cấp bậc Chuẩn Úy như bố thì đâu có ai thèm.
      Loan lắc đầu, mỉm cười chỉ bà Tâm:
      -     Ớ ờ! Thế ai đây Bố?
      Ông Tâm cười hì hì:
      -     Cái này là duyên số. Bố và mẹ là con nhà hàng xóm. Mà sao hôm nay con lại hỏi bố chuyện này.
      Loan có vẻ ngập ngừng, cúi đầu ấp úng:
      -     Con quen một người trong trường hợp tương tự.
      Bà Tâm hỏi dồn:
      -     Sao? Quen bao giờ? Có thân không?
      -     Cũng đến gần một năm rồi rồi mẹ… Bạn thôi, nhưng con quí anh ấy lắm.
      -     Anh ấy là ai?
      -     Người Mỹ gốc Việt mẹ à, lớn lên ở bên này cũng  như con, qua đây mới vào trung học.
      -     Thế hả? Anh ta đóng ở đâu, và con đã gặp mặt bao giờ chưa?
      Châu, em gái của Loan, chen vào câu chuyện:
      -     Trời ơi, mẹ tra vấn kỹ thế, cứ từ để chị con kể cho nghe đi mẹ.
      Bà Tâm lườm con:
      -     Học không lo học. Quen biết vớ vẩn làm gì cho mất thì giờ.
      Ông Tâm cười an ủi vợ con:
      -     Bà cứ lo xa. Các con đều ngoan và học giỏi cả. Bố nghĩ là các con đều biết suy nghĩ chín chắn. Thế anh gì đó bây giờ đóng ở đâu hả Loan?
      Loan nhìn bố biết ơn:
      -     Dạ, anh ấy tên là Đức, cấp bậc đại úy, hiện phục vụ trên một hàng không mẫu hạm đang tham chiến tại vùng biển Iraq. Con chưa gặp mặt bao giờ, chỉ thư từ trao đổi, và nói chuyện qua điện thoại vài ba lần.
      -     Thế ra là Hải Quân.
      -     Dạ, anh Đức bay phi cơ chiến đấu đó bố.
      Châu kêu lên:
      -     Ah! Pilot.
      Loan cười lắc đầu:
      -     No. Aviator!
      -     Là sao?

      Loan nhớ lại một lần nghe Đức hãnh diện giải thích sự khác biệt giữa hai danh từ này nên cười với Châu:
      -     Pilot lái máy bay đáp xuống phi trường, nhưng aviator, và chỉ có aviator, mới cất cánh và đáp xuống hàng không mẫu hạm. Khó hơn đáp xuống phi trường trên đất liền nhiều!
      Châu gật đầu, vịn vai chị hỏi nhỏ:
      -     Đẹp trai không? Có hình đem cho cả nhà xem đi.

      Loan chỉ cười, không trả lời. Bà Tâm nhè nhẹ thở dài, nghĩ thầm. Biết ngay mà. Vui buồn thất thường thế này thì “yêu” rồi chứ không chỉ “quí” thôi đâu! Bà nghĩ tới những ngày tháng cũ ở quê nhà, mỗi lần ông Tâm đi hành quân, bà ngồi đứng không yên, lo sợ là niềm bất hạnh có thể ập đến bất cứ lúc nào. Bà không muốn các con bà phải rơi vào hoàn cảnh như bà năm xưa. Trời ơi, thiếu gì kỹ sư, bác sĩ ở cái xứ yên bình này. Yêu ai không yêu lại đi yêu người lính ngoài chiến trường! Tội nghiệp, con bé còn ngây thơ quá. Bà đưa mắt nhìn con, nhưng thấy nét mặt như đang reo vui của Loan, bà chỉ biết kín đáo dấu nỗi buồn.
 
0O0

 
Loan mở email, chăm chú đọc lại lá thư cuối cùng của Đức thêm một lần.

 
“Em yêu,
 
      Từ ngày quen em tiếng Việt của anh tiến bộ nhiều lắm rồi đó, em thấy không? Và bây giờ  em là “Em yêu” chứ không phải là “Honey” nữa, em bằng lòng chưa?
      Anh sẽ về gặp em, sẽ đưa em đi dự senior prom như em muốn, và không chỉ như thế đâu, anh sẽ còn tới thăm em hàng ngày, để rồi khi phải trở về đơn vị anh sẽ không bao giờ quên những giây phút bên em.
      Em, anh có những ước mơ đội đá vá trời, muốn bay bổng lên trời xanh và hoà mình vào vũ trụ, nhưng anh cũng có những ước vọng rất tầm thường như được vuốt mái tóc người con gái mình yêu thương. Anh đợi ngày về phép để được dắt tay em đi trên con đường ven biển,  được ôm em trong vòng tay, đứng trên bờ đá nhìn sao đêm lấp lánh trên trời, và thủ thỉ với nhau về chuyện chúng mình.
      Ừ, chúng mình còn trẻ như em nói. Em còn những tháng năm đại học, và anh cũng còn những tháng ngày lênh đênh nên lúc này chưa thể có nhau trong vòng tay, thế nhưng không ai cấm chúng mình ước mơ, vẽ cho nhau một trời hạnh phúc vì sẽ được sống với nhau đời đời.
      Mỗi lần mở cell phone là anh nhìn thấy hình em, cô con gái VN tóc dài e ấp mỉm cười. Anh mang phone trong túi áo gần trái tim, kể cả khi phải mặc đồ bay, để luôn luôn cảm thấy có em bên mình, và anh đang đếm từng ngày, đợi đến mùa hè rực rỡ để gặp em.
 
Yêu và thương nhớ em.
 
Anh Đức.”

  
      Tình yêu đến quá mau làm Loan nhiều lúc thấy ngỡ ngàng. Ban đầu thì chỉ là những lá thư/email thăm hỏi, và rồi từ thăm hỏi qua tâm tình. Niềm cô đơn của của những tháng ngày dài trên biển của người con trai phương xa đã làm Loan xúc động, và không chỉ có thế, Loan cũng như những người con gái mới lớn của thành phố nhỏ, không thể nào không mơ mộng về những bến bờ chưa một lần đặt chân. Đức cũng gửi về những tấm hình của những nơi Đức đã đi qua, và cả những tấm hình Đức mặc áo bay bên chiếc phi cơ trước giờ cất cánh, trông oai phong và lãng mạn làm rung động lòng người.

      Lâu lâu Đức được phép gọi điện thoại từ biển khơi về cho Loan. Những lời ngập ngừng từ lúc ban đầu dần dần trở thành thiết tha, nhớ nhung, và cuối cùng là hẹn hò thương yêu, nhất là sau khi Đức nhận được những tấm hình của Loan. Tình yêu đến thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật thiết tha của những tâm hồn Việt Nam trên xứ lạ. Loan vui, và ngày nào Loan cũng đợi chờ.

      Thế nhưng đã hơn một tháng nay không thấy Đức gọi điện thoại hay gửi email. Loan biết là có những lúc vì lý do an ninh mọi người phải im lặng tuyệt đối, nên dù Loan có gửi hàng chục cái emails cũng không có hồi âm, tuy thế chưa bao giờ Loan phải chờ đợi lâu như lúc này. Lá thư cuối cùng làm Loan náo nức bao nhiêu thì sự đợi chờ mong tin làm Loan bồn chồn bấy nhiêu, nhất là Loan không thể gọi điện thoại tới một con tàu lênh đênh ngoài khơi, chỉ có Đức mới có thể gọi về qua một hệ thống viễn liên đặc biệt mà thôi.  

      Tắt máy laptop, bỏ vào backpack, Loan thẫn thờ dời thư viện nhà trường. Loan muốn về nhà ngay xem có thư từ gửi qua bưu điện hay không, nhưng lại ngại ngùng sợ thất vọng và buồn thêm. Hay là anh ấy đã gặp một người con gái khác, và không còn yêu mình nữa? Loan lắc đầu không tin cái ý nghĩ vửa thoáng qua đầu. Anh ở đâu, anh có biết là Loan đang nhớ anh lắm không!

 
0O0

  
      Đêm đã khuya lắm, cả nhà hình như đã ngủ yên, chỉ còn mình Loan ngồi thẫn thờ. Trang sách mở rộng nhưng Loan chẳng đọc thêm được chữ nào. Bỗng dưng màn hình PC chớp sáng và hàng chữ “You got mail” nhấp nháy báo tin. Loan mừng rỡ mở hộp thư, thế nhưng rồi thất vọng tràn trề. Không phải là thư của Đức mà của một người nào đó có cái tên “tonyl”!

      Loan đã định nhấn nút “delete” xoá bỏ vì nghĩ chắc lại là một lá thư rác rưởi như hàng chục emails Loan vẫn nhận hàng ngày, thế nhưng hàng chữ tiêu đề ghi rất rõ là “Gửi chị Kim-Loan” nên Loan tò mò mở ra xem.

 
“Thưa chị,
 
      Tên tôi là Tony Lê, một trong số ít người Mỹ gốc Việt phục vụ trên chiếc hàng không mẫu hạm với hàng ngàn nhân viên này. Tôi không phải là bạn của anh Đức, thế nhưng đã gặp nhau một vài lần trên boong tàu, nên có thể nói là quen biết nhau.
      Tôi làm việc trong nghành I.T., đặc trách hệ thống email của chiến hạm, và là người “clean up” những hộp thư mỗi khi có người thuyên chuyển hay không còn ở với chúng tôi. Anh Đức không còn ở với chúng tôi, và đêm nay tôi đã ngập ngừng trước khi xóa bỏ account của anh. Tôi thấy trong hộp thư hơn 10 lá thư của chị, và tất cả đều được flagged là thư mới, chưa đọc lần nào.
      Thưa chị, tôn trong sự riêng tư nên dù có khả năng, tôi không bao giờ đọc thư người  không gửi cho mình. Tuy nhiên hơn mười lá thư gửi cho người không còn trên chiến hạm nên tôi nghĩ là chị chưa được thông tin, và nghĩ tình người Việt với nhau, nên tôi xin được gửi tới chị thư này.
      Anh Đức đã ra đi rồi chị! Anh không trở về trong chuyến bay cuối cùng. Phi cơ anh trúng hoả tiễn phòng không, nổ tung trên vòm trời Iraq, và dù đã cố gắng hết sức, toán cấp cứu cũng không  tìm được một dấu vết gì trong sa mạc hoang vu. Anh ra đi là một sự mất mát lớn lao cho đơn vị, và bạn bè đồng ngũ trên chiến hạm này đều rất xót thương. Gia đình anh đã được thông báo, nhưng tôi  nghĩ có lẽ chị là một người thân bị xót tên nên  tôi …”

  
      Loan oà lên khóc, và không thể nào đọc hết lá thư. Nước mắt nhạt nhòa lăn trên má, Loan ôm mặt nức nở, mặc cho niềm đau vỡ oà. Mẹ ơi, ngày xưa mẹ lo lắng mỗi lần bố đi hành quân. Bố trở về an toàn, mẹ khóc vì mừng vui trong lúc bạn của mẹ có chồng tử trận ôm quan tài khóc như đứt từng khúc ruột. Mẹ không muốn con chịu niềm đau chia lìa, có ngờ đâu …

 
0O0

  
      Cơn bão trái mùa đã đi qua thành phố nhưng trời vẫn còn u ám. Bãi biển hẻo lánh chỉ lác đác vài bóng người. Trên cầu tàu người con gái mặc áo đen cầm bông hồng đứng cúi đầu trầm lặng. Gió lạnh thổi mái tóc tung bay, và thân hình người con gái rung lên từng cơn. Cô ta ném bông hoa xuống nước, đứng nhìn thật lâu cho đến khi đoá hồng nhung theo nước thủy triều trôi xa bờ. Người đàn bà đứng tuổi tới gần, ôm vai cô gái dỗ dành. Cô gái gục trên vai người đàn bà, chắc là mẹ, khóc nức nở. Người đàn bà thở dài, đưa mắt nhìn ra khơi. Bà mẹ thì thầm với con, và dìu nhau về hướng thành phố. Trên không mây đen vẫn trôi lững lờ, và một cánh chim hải âu lẻ loi bay về hướng cuối trời.
 
Trần Quang Thiệu
July, 2011


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Jul/2011 lúc 7:44pm

Nhành Cây Lạ

                              Minh Mẫn



Mỗi lần bác Tư ra vườn, nhìn thấy nhành cây từ nhà kế bên xuyên qua tường rào, lòng bác cảm thấy bực bội khó chịu!

-         Tại sao tao bảo triệt hạ nhánh cây nầy, chúng mầy không làm   đượcBác Tư càu nhàu bầy trẻ.

 
Thật ra không phải con cháu bác Tư không muốn chặt, nhưng khổ nổi, lọai cây gì mà vừa dẻo, vừa dai; nhất là loại cây quý, nhánh lá xanh tươi, đẹp lắm, tương tự như cây đa mà không phải đa, trong vườn nhà bác Tư cũng có giống tương tự, trồng trong cái chậu to đùng để làm kiểng, nó phát triển chậm và không tươi tốt như cây nhà kế cận.

 
 Bác Tư và bác Sáu là bà con đầu ông đầu bà, giòng họ bà con ở chung một xóm; từ thuở ông tằng cố tổ khai sơn lập nghiệp phương Nam, con cháu sanh sản bầy đàn, tụ tập thành một ấp. Nhiều đời cháu chắt nủa quen nửa lạ, chúng được ông bà cho biết tất cả là bà con, nhưng giai hệ thế nào chả ai  rõ. Những lúc chòm xóm tối lửa tắt đèn có nhau, bác Tư và bác Sáu quý nhau như anh em ruột. Bác Tư nhường miếng đất của mình cho bác Sáu về ở kế cận cho vui. Bác Sáu từng cư ngụ nước ngòai, hiện cũng có con ở nước ngòai, thỉnh thỏang nhận được thuốc men, bánh kẹo, thường chia sớt cho bác Tư; lũ nhỏ của bác Tư thích nhất chocolate, thằng bé lên ba, cứ chạy qua nhà bác Sáu ngữa tay nói bập bẹ hai chữ: chọt lét. Bác Sáu lấy tay cù lét vào nách cháu, nó lắc đầu, chạy về cầm miếng giấy bạc nó đã liếm sạch chocolate, đưa cho bác Sáu, bác vẫn làm như không hiểu:
 cháu cho ông miếng giấy nầy để vấn thuốc phải không?
 Nó lắc đầu quầy quậy, chỉ miếng giấy bạc rồi đưa vào miệng; bác Sáu lại đùa:
con muốn ăn giấy thế cơm?
 Nó dẫm chân tức tối, bác Sáu đành dỗ cháu:
 Ông hết rồi, chừng nào có, ông sẽ cho cháu.

 
Bác Tư còn cho thằng cháu vô công rỗi nghề qua ở giúp bác Sáu

 
Cứ thế, gia đình bác Tư qua lại nhà bác Sáu như chung một mái ấm. Một hôm bác Tư cần một số tiền lo việc riêng, giữa lúc bác Sáu chưa sẵn tiền, bèn tìm lời thối thoát, bác Tư ngỡ bác Sáu chê mình nghèo, sợ không trả nỗi, sanh hờn giận.

 
-         Chúng mầy không được qua nhà ông Sáu nữa nghen; Họ giàu có nên khi dể mình. Bác Tư đâm ra hằn học với con cháu

 
Lũ trẻ cũng chả hiểu tại sao hai bên hòa thuận, nay  ông mình lại gắt gỏng. Bà Tư cũng biết tánh chồng, không  bận tâm tìm hiểu nguyên nhân
Bác Tư ngồi bật dậy khỏi ghế sofa, vói tay lật từng tờ lịch. Block lịch từ đầu đến cuối năm, không bao giờ xé bỏ. Một dãy lịch block những năm qua, bám bụi, bác vẫn còn treo trên góc tường đầu giường nằm.

 
-         Ồ, đây rồi, Ất Dậu, con gà hử! bác bấm tay, lẩm nhẩm: năm năm rồi, lẹ quá.

 
Bác Tư lật tới tờ lịch đánh dấu ngày bác Sáu  xây nhà trên đất mình. Những tờ lịch mỏng như tờ giấy quyến vấn thuốc rê, bác Tư ghi rõ từng buổi tiệc tùng, ma chay, ngày giờ sinh đẻ con cháu; ngày vay nợ, bán ruộng, ngày hai ông bà cãi vã để bác Tư gái khăn gói về nhà mẹ mình…
Cái tính tỉ mỉ chi li đến độ bác Tư gái nhận tiền của chồng cho, lúc hưng phấn, cũng ghi vào. Nhà sản xuất lịch, biết được bác Tư, chắc họ hả dạ vì không uổng công sản xuất. Block lịch như thế trở thành chứng nhân và chứng tích của thời gian cho mọi việc xẩy ra trong gia đình bác Tư. Còn cái cây quý hiếm từ lúc bác Sáu đem từ nước ngòai về trồng, có lần bác Tư ngỏ ý muốn chiết nhánh lấy giống, bác Sáu hẹn khi trổ cành. Giờ đây cành đã chui sang nhà bác Tư, chưa kịp chiết thì tình cảm đã bị sứt mẻ; cái cây lạ mà quen đó, đã xuống giống được hơn ba năm, bác Tư thắc mắc, giống gì mà phát triển tươi tốt nhanh thế. Hoa trổ đẹp nhưng không mỏng manh như cây họ thảo, màu trắng tinh khiết như hoa bưởi; chúng nhú nụ tròn trỉnh bụ bẫm, nhưng chưa kết trái.

 Những cây cảnh bác Tư trồng trong chậu, phân bón dồi dào, thế mà nó cứ chai lỳ không phát tiết, thân cây bị sâu bọ gặm nhấm xù xì; hoa kiểng mà nào ra kiểng, cứ như hoa giả không bằng! Bác thèm cái cây lạ của bác Sáu lắm, nhiều lúc muốn thương lượng với bác Sáu, mang hẳn về trồng bên đất nhà mình, nhưng ngượng miệng, không dám tỏ lời.

  Mẹ mầy tính sao cái nhánh cây chọt ngang qua nhà mình? Bác Tư buồn rầu, bực bội, gắt gỏng hỏi bác Tư gái

 -  Ông tính sao thì tính, làm sao đừng mất tình làng nghĩa xóm là được. Bác gái trả lời nhát gừng; Biết tính nóng nảy của chồng, bác gái không muốn tham gia ý kiến; Ông nên nhớ, bác Sáu nhà mình không phải đơn độc như mình, họ có bề thế với xóm giềng, họ xã giao rộng trong xã hội, gia đình họ là trí thức; con cháu họ có địa vị trong và ngòai nước…

 Bác gái chỉ gợi ý để chồng suy nghĩ kỷ trước tánh khí nhỏ nhen của chồng. Bác Tư kéo một hơi thuốc lào, ngã vật xuống ghế sofa; Mỗi lần cần suy tính việc gì, bác thường mượn điếu cầy hổ trợ tinh thần; Những tiếng sùng sục của nước trong ống tre, làn khói mỏng manh từ ống điếu, vật vờ trong căn nhà ẩm tối, con thằng lằn quen hơi, bò đến thừa hưởng mùi nicotine quen thuộc. Giọng lè nhè, bác nói:
Giàu có, địa vị, uy tín thì đã sao nào! luồn cúi mới được như thế; ta đây đếch cần, thà nghèo mà thanh thản; ta sẽ cho chúng nó biết tay…

 
Bác Tư gái vẫn im lặng. Thằng Cu Cỏn được ông nội cho qua giúp việc nhà bác Sáu, ngày nào cũng qua lại báo cáo nội tình sinh họat của gia đình bác Sáu; Từ hôm bác Tư hằn học, bác Sáu vẫn im lặng, ít giao tiếp; bác Sáu cũng dặn con cháu, kẻ ở người ăn không nên lời qua tiếng lại với người nhà bác Tư. Được thể, bác Tư nghĩ rằng bác Sáu sợ mình, bèn vu khống bác Sáu xúi con cháu hãm hại mình; Thằng Cu Cỏn cũng bịa chuyện bác Sáu bóc lột nó, hà hiếp nó. Nó xúi bác Tư:
 Ông nội đòi đất lại, đuổi họ đi, đất đó cho con ở, con sẽ cưới vợ, sanh con để phụng dưỡng ông bà nội.
Bác Tư, sau một tuần thuốc lào, tươi tỉnh hẳn, nhiều phương án hiện ra trong đầu rõ như lằn chỉ trong lòng bàn tay:
 Ừ, thằng cu Cỏn nói thế mà phải, cứ xúi nó quậy phá trong nhà ông Sáu, tự khắc buồn chán mà bỏ đi; Mỗi ngày mình đứng trước cổng chửi đổng, cho đám con cháu gây áp lực suốt, có ma mà ở được. Hoặc  chặt bỏ nhánh cây, hoặc bảo thằng Cu Cỏn tưới nước sôi vô gốc cây cho bỏ ghét. Má nó thấy sao?

 
- Ông ơi, không dễ như ông tưởng đâu. Ông quậy kiểu đó thì an ninh khu phố đâu để yên cho ông? Giá đình bác Sáu từng được cấp bằng khen là gia đình gương mẫu của huyện. Cái nhánh cây ông còn không làm được thì đừng tính tới cái gốc. Ông không nhớ Tài Nguyên Môi Trường và câu lạc bộ cây cảnh đã ngắm nghía  vườn kiểng của  bác Sáu, họ muốn bao thầu  những lọai quý hiếm đó sao!
Bác Tư gái tìm cách can ngăn. Thằng con cả của bác Tư cũng hết lời can gián bố nó. Bác Tư thịnh nộ:
 Mấy người không thấy nó lên giọng trịch thượng dạy đời mình sao. Dẫu sao, trước một ngày, hay một chuyện, tôi cũng lớn hơn mấy tuổi mà nó không kiêng nể, làm như trên đời nầy có mỗi mình nó khôn; Bà không nhớ ngày nó mới dọn về, chân ướt chân ráo đã biểu mình xây lại mặt tiền,vẽ lại bảng hiệu, thay cái nầy, đổi cái kia, còn đòi giáo dục dạy dỗ con cháu mình nữa chứ. khuyên mình không nên quản lý con cháu kiểu phong kiến; Làm như tụi mình  kém văn minh, thiếu hiểu biết. Xen sâu vào nội tình của mình, mấy người chịu được sao.

 
Bác Tư đánh trúng vào lòng tự ái gia môn của cậu con cả, cậu im lặng suy nghĩ, nhưng bác gái vẫn cố phân trần: Người ta xem mình như gia đình, họ góp ý mình thấy được thì chấp nhận. Họ ở nước ngòai nên cái hiểu của họ cũng thóang hơn mình; Họ nói có lợi cho mình chứ có lợi gì cho họ.

 - Tôi đồng ý với bà, nhưng chuyện nhà, ông ta lại thuật  cho cả khu phố biết là sao? chẳng khác nào bêu rếu cho mọi người thấy gia đình mình dở, ông ta giỏi!

 - Điều nầy ông tự ái là đúng, nhưng trong buổi họp tổ dân phố, người ta bảo ai có ý kiến đóng góp xây dựng khu phố Văn Hóa, từ giáo dục đến vệ sinh môi trường và cả kiến trúc… cho bộ mặt khu phố đẹp hơn, bác Sáu mới đưa ra ví dụ nhà mình như vậy thôi!
 Bác gái cố bênh vực bác Sáu.

 - Cả cái con bé trốn học, chơi game, thế mà ông ta bảo đừng trừng phạt, đừng đánh đập nó, ông ta còn muốn mình sắm cái vi tính cho nó ở nhà chat và chơi games nữa chứ. chuyện lạ đời thế mà nghe được …

 - Ba á, lối giáo dục bây giờ không phải  đánh đập, trừng phạt mà phải nghiên cứu khuyết điểm của con cháu để lái nó sang cái khuyết nhẹ hơn, từ từ làm mới cái sở thích của nó, điều đó đúng chứ không sai đâu. 
 Cậu con cả lên tiếng

 Thằng Cu Cỏn chạy về, nói nhỏ vào tai ông nội:
 họ đã nhận đơn thưa của con, nay mai sẽ  đem ra tòa án nhân dân giải quyết nội à!

 Bác Tư gật gù ra vẽ đắc ý:
Được lắm, lần nầy cho mầy biết tay, giỏi mà cậy thần ỷ thế luồn lách.

 Bác Tư gái ngày càng trầm lặng, ra chiều suy nghĩ mông lung; cậu con cả cũng ít nói; bầy  cháu như đoán được không khí nghiêm trọng, chúng ít ồn ào mỗi khi về thăm ông bà. Cuộc sống như chìm trong ngột ngạt; Mỗi mình cô dâu trưởng lo lắng nhiều bề:
 Kinh tế gia đình đang khủng hoảng, tài chánh cạn kiệt; khu phố cảnh báo nạn hư hỏng của bầy cháu; chuyện dồn dập như thế mà cha chồng không lo, lại lo cái chuyện vặt vảnh kỳ cục như thế. Cô dâu trưởng nhận thấy rằng, từ ngày Bác Sáu về, mấy đứa con của cô ít nhiều cũng biết nghe lời bác Sáu mà hiếu kính với cha mẹ ông bà. Bác Sáu cũng góp ý cho khu phố trong chương trình Hiếu học và Hướng nghiệp, bao nhiêu cái tốt đó không đủ khỏa lấp thành kiến nhỏ nhen của bố chồng.

 - Ông Tư cho biết, theo đơn thưa của gia đình ông, bác Sáu đóng góp cho khu phố mục đích che đậy âm mưu phản loạn mà bác Sáu cấu kết với nước ngòai. Xin ông cho biết rõ và những chứng cứ để khu phố có cơ sở truy tố. ông khu phố trưởng hỏi

 - Thưa ông, nếu mà có bằng cớ thì đâu cần phải thưa gửi làm gì. Nhân dân đóng góp, nhân dân kiểm sóat mà lịi thằng cháu nội tôi phụ giúp việc nhà cho ông ấy, biết rõ hành tung bí mật của ông ta có nguy hại cho an ninh đất nước. Nếu khu phố không tin chúng tôi thì sau nầy sự cố xẩy ra, khu phố chịu trách nhiệm. bác Tư cố phân trần

 Ông khu phố trưởng nghe nói thế, sợ liên đới trách nhiệm, bảo bác Tư viết tờ tường thuật và cam đoan là sự thật. Biết đâu vụ nầy giúp mình có thêm công trạng bảo vệ an ninh khu phố. Ông khu phố làm tờ trình chuyển qua an ninh; Mấy hôm sau, một quyết định từ trên đưa xuống, buộc bác Sáu ra khỏi khu phố với lý do đơn giản:
 Theo đơn tố cáo của nhân dân, ông Sáu có hành vi đe dọa an ninh chính trị khu phố.

 Bác Sáu không ngạc nhiên khi nhận được quyết định, bác mỉm cười, yêu cầu khu phố trưng bằng cớ kết tội; Lời vu cáo chưa đủ thuyết phục thì không thể là cơ sở để ra quyết định như thế. Ông khu phố không biết trả lời thế nào, thế là tình tạng nhùng nhằng. Xét hộ khẩu mỗi đêm, cũng bắng thừa, không có một lỗi nào để phải trục xuất, Bác Sáu vẫn bình chân như vại.

 Bác Tư gọi bầy con lại để nghe ý kiến. Cậu con cả nói:
 Ba làm như thế thất bại, tại sao mình cứ phải vu khống, trục xuất người ta. Cách loại trừ xưa rồi, mình phải sống chung với kẻ thù để chuyển hóa và khống chế. Trước nay ba không chủ động được họ vì quan niệm “ cách sống chung”  thiếu cập nhật. Mình phải thấy cái tốt của họ, lợi dụng cái tốt của họ để làm lợi cho mình; đừng khống chế  đối phương như khống chế cây kiểng, hãy để cho nó tự phát, lái nó sang chiều hướng mình muốn. chúng ta quen chống kẻ thù vì ta kém họ nhiều mặt.Hơn nhau không phải giàu sang, quyền thế mà là tài năng chuyển hóa.

 Bác Tư gật gù như có lối thóat. Bác gái nhìn thằng con trưởng ra vẻ thán phục. Cô con dâu hãnh diện về người chồng khôn ngoan. Bác Tư lên tiếng:
Vậy cái nhành cây xuyên qua nhà, mình giải quyết bằng cách nào?

 Thằng Cu Cỏn tiu nghỉu vì đơn thưa của nó không hiệu nghiệm. Cô dâu trưởng lên tiếng:
Thưa ba, thưa má, chạy vòng vo, làm lớn chuyện, cuối cùng chúng ta trở lại nhánh cây. Khác nào Chủ Nghĩa xã Hội là con đường đi đến Tư Bản dài nhất! Nhành cây xuyên qua nhà mình, tuy cái gốc thuộc nhà bác Sáu, vấn đề là nhánh cây thuộc quyền quản lý của mình. Mình chặt bỏ là hạ sách, mình để nó tự do phát triển, xâm lấn không gian  là ta bất lực. Chúng ta phải tận dụng cái đẹp, cái quý của nó để làm lợi cho ta. Thưa ba má, ngày mai con sẽ bó đất cho nó đâm chồi để lấy giống; đồng thời con sẽ nhờ viện Thực Vật cấy gen cho ra màu hoa và trái theo ý mình, và tìm lọai tương cận để tháp cành,  có như thế, gốc người mà nhánh ta, ai làm gì được nào. Hơn nhau cái trí mà không cần phải dùng thủ đọan quyền lực triệt nhau ba à. Đẹp người mà cũng đẹp ta.

 Bác gái thở phào nhẹ lòng, trách yêu con dâu:
sao lâu nay con không nói để khỏi mất lòng lối xóm, lại khỏi lao tâm khổ trí ba mầy. Tôi xin bổ túc ý nhỏ với ba mầy, khi chiết nhánh thành công, cây mới nên trồng ra đất cho nó đủ sức sanh trưởng tự nhiên. Còn nhánh biến đổi gen hay tháp cành gì đó cứ để tự nhiên phát triển bên không gian của mình, vừa đẹp mắt mà khỏi bận lòng như bấy lâu nay.
 Bác gái nói xong, ngúyt chồng như trêu cợt.
Cả nhà như vửa thóat khỏi cái không khí nặng nề. Cháu bé lên ba vẫn còn cầm miếng giấy bạc đưa cho ông nội đòi chọt lét. Bác Tư nghiệm ra rằng, bấy lâu bực bội, khổ tâm cũng bởi do chính ông tưởng tượng, gây khổ cho mình. Sinh họat bên nhà bác Sáu vẫn bình thường. Thằng cu Cỏn ái ngại nên tránh mặt bác Sáu. Bác Sáu vẫn gọi nó qua phụ giúp. Nhành cây lạ sau vườn vẫn xanh tươi đều đặn. Bác Tư không còn thấy nó chướng mắt mà trở thành nhành cây vừa lạ vừa quen. Bác Tư vói tay ghi vào tờ lịch: ngày đổi mới Tư Duy


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Jul/2011 lúc 2:08pm

Vết thương

Nguyễn Ngọc Tư

 

Tôi nhớ hoài bản sơ yếu lý lịch mà Phúc viết năm em mười hai tuổi. Ở dòng nơi sinh em ghi: dưới gốc bàng. Tôi nhớ vẻ mặt trong vắt của em khi phụng phịu: “Thiệt vậy mà, anh Hai quên rồi sao?”.

Không, có chết tôi cũng không quên buổi sớm hôm ấy, khi tôi và má nuôi nhìn thấy Phúc ở dưới gốc cây, xung quanh lá khô rơi đầy. Người ta túm em trong bọc vải đẫm sương, người em đã tím, em không khóc nữa nhưng dường như đã khóc rất nhiều, môi em khô rốc, bợt bạt.

Khuôn mặt nhòe nhoẹt máu, một bên mắt em đã bị chuột gặm nham nhở. Tôi - bảy - tuổi khóc điếng, hình dung mình cũng đã từng nằm dưới gốc cây nào đó, cùng kiến, chuột và bóng đêm. Hôm má nuôi ôm tôi lên cũng giống như bây giờ, gói em trong tay, bà hơi trùng trình, lảo đảo, nom em nhỏ nhoi như trái bí, trái bầu nhưng mang sức nặng của một sinh linh.

Chúng tôi mang em về Sương, về ngôi nhà nhỏ chênh vênh trên khu vườn chôn chi chít những tiểu sành - những hòn máu bị vứt bỏ mà má nuôi tôi nhặt từ bệnh viện. Tôi lẳng lặng xách dao dọn một khoảng cỏ, chuẩn bị tấm vải và cái quách nhỏ. Nhưng thật lạ lùng, em vẫn sống, tiếc là chỉ còn một mắt. Lần đầu tiên má nuôi tôi tin có kỳ tích trên đời.

Vẫn những buổi chiều lên, vẫn khu vườn hiu hắt, những giọt máu chưa thành hình không đủ để hóa linh hồn, chỉ vật vờ những ngọn khói mỏng xiêu xiêu. Nhưng từ khi có Phúc, có tiếng cười giòn tan vắt vẻo trên tàng cây, khói cũng bớt khóc than. Để hình dung ra mình đã lớn như thế nào, tôi nhìn Phúc lớn.

Nhưng khó hi vọng được nhìn thấy mình, vì Phúc khác biệt tôi. Phúc không thèm nhớ mình là đứa bé bị ruồng bỏ đã đành, vết thương - hốc mắt trống phập phồng trên gương mặt, em cũng chẳng để ý. Phúc hay đòi má nuôi tôi kể lại ngày lượm được em, để lấy làm sung sướng, ra vẻ kinh ngạc, ngỏn ngoẻn: “Vậy mà con sống, ngộ thiệt”. Thời gian đi qua Phúc có vẻ nhẹ nhàng.

Tôi thì không. Tôi thường buồn bã, chờ đợi, ham muốn điều gì đó không rõ ràng. Vài bóng người lạ mặt lảng vảng trong vườn khói của má nuôi tôi cũng làm tôi hi vọng và tuyệt vọng. Chẳng có ai tìm mình.

Có lần bắt gặp một người phụ nữ ngồi than khóc bên cạnh một ngọn khói nhỏ, tôi ôm mấy gộc củi ra sân, bửa như điên dại. Ước gì mình cũng hóa khói... Nghe vẳng trong nhà tiếng Phúc nói với má: “Anh Hai đang khóc…”. Khi chỉ có hai chúng tôi, Phúc tần ngần hỏi nhỏ: “Có má thương mình không đủ sao anh Hai?”.

Với Phúc sống là đủ, có người nuôi cưu mang là đủ, có một con mắt nhìn đời cũng đủ. Đi đường, thấy bất cứ đám tang nào, em cũng bỏ dép ghé vào, thắp mấy cây nhang, lạy ba lạy. Thấy tôi ra vẻ ngạc nhiên, em thầm thì: “Biết đâu họ là cha má mình...”.

Em có thể điềm nhiên chơi dưới gốc cây bàng năm cũ, vừa ngó nghiêng vừa nói: “Để em kiếm con chuột hỏi nó coi tha con mắt em đâu?”. Rồi thấy tôi ngồi đằng xa, mướt mồ hôi, mặt cắm xuống đất, em rón rén lại, chìa trái bàng khô ra:

- Anh Hai, coi con mắt em rớt ở đây nè, chà, nó cũ mèm rồi.

Con mắt còn lại lấp loáng ánh cười.

Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ ước gì mắt Phúc có cả đôi. Nó sẽ làm cho khuôn mặt em xinh đẹp hơn, cho cái cảm giác chông chênh ở em không còn nữa. Và quan trọng, ở Phúc không còn dấu tích bị bỏ rơi. Của em và của tôi.

Ý nghĩ ấy ngày càng vây lấy tôi như con rắn đói điên cuồng quấn mồi. Tôi thôi học theo má nuôi làm công việc quét dọn trong bệnh viện. Đồng lương ít ỏi, tôi bỏ bệnh viện đi làm thợ hồ. Nhiều bữa gạch cắt tay đổ máu, thấy em chắc lưỡi hít hà, tôi cười:

- Đứt chút đỉnh nhằm nhò gì. Miễn là có tiền làm mắt giả cho em...

Phúc cúi đầu, đang thoăn thoắt quấn vải bó tay tôi bỗng chậm rãi, đắn đo. Tôi lại bỏ việc ở công trường, bởi quần quật bốn tháng trời cũng chưa đủ chi phí cho ca phẫu thuật. Người quen giới thiệu một chỗ bưng bê ở nhà hàng thị xã. Bà chủ tốt bụng hay biểu vào phòng, nhờ đấm bóp, cho thêm tiền. Bắt gặp cái ánh nhìn rất ướt của bà, lòng tôi lạnh ngắt lạnh ngơ. Tôi chợt nhận ra, buột miệng nói “Chết cha…”, mình chỉ nóng bừng khi đứng trước Phúc. Em không còn đơn thuần là đứa em gái nhỏ. Điều đó làm tôi càng nôn nóng. Thật hạnh phúc khi nhìn thẳng vào em, ôm ghì em trong tay mà không bị ám ảnh bởi gốc cây, con chuột...

- Anh làm tháng nữa là đủ tiền...

Má nuôi tôi rầy: “Cái thằng, lải nhải hoài chỉ chuyện đó”. Phúc không nói gì, ngồi trước thau giặt đồ to tướng, tay vò miết chiếc áo tôi còn vương vất mùi dầu thơm của người chủ nhà hàng. Dường như em lại lặng đi… Tôi không hiểu cái lặng đi đó, không hiểu sao nhắc tới chuyện mắt, Phúc không giấu được buồn.

Phúc lẳng lặng bỏ đi, không trở lại. Má nuôi tôi nói chính tôi đã đẩy Phúc đi. Tôi chạy ra ngã ba Sương, vô vọng ngó những con đường chạy hun hút đằng phía chân trời.

Những ngọn khói không còn vật vờ than thở nữa, chúng nhận ra làm người cũng chẳng sướng gì khi phải chịu đựng những nỗi đau. Chúng an phận khói… Chúng để mặc tôi rấm rứt với cách trả lời bằng câm lặng của Phúc.

Rằng Phúc cũng đau, nhưng em không tránh né bởi quay về hướng nào thì trên mặt em cũng còn vết, nên em tự giẫm bừa lên đó, để chỗ đau chai sạn. Rằng em tuyệt vọng khi cố gắng kiệt sức mà chỉ thấy khiếm khuyết của mình hằn vết sâu nhói trong mắt tôi…

Tôi thường đem củi ra bửa đến khuya, đến kiệt sức, vì nhớ Phúc. Thật kỳ lạ, trong cái nhớ quay quắt đó, tôi không mảy may nghĩ về vết thương, trong tôi long lanh nụ cười trong vắt của Phúc, giọng nói giòn tan của Phúc.

Và mắt của Phúc không bao giờ lầm lũi cúi nhìn, không nề hà chuyện mình có đủ đôi hay không, mắt em luôn lấp lánh sáng, hay háy nguýt, ứ đầy những hờn giận, thương yêu...



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 22/Jul/2011 lúc 4:06pm

http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/P_DinhNghiaHonNhan.pps -  <<<


 


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info