Print Page | Close Window

Sơ lược Địa Sử Gò Công

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=239
Ngày in: 15/Nov/2024 lúc 12:30pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: Sơ lược Địa Sử Gò Công
Người gởi: Admin
Chủ đề: Sơ lược Địa Sử Gò Công
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:26pm
Tác giả là  Thầy Phan Thanh Sắc .
 
Cám ơn thầy Hoang Ngoc Hung vị " Phù thủy Gò công" đã đăng trên Diễn ĐÀn Mạng Giáo Dục - Gò Công
 

Dinh Chánh Tham Biện tỉnh Gò Công  (*)

Năm 1867, Pháp thâu trọn Nam Kỳ, Pháp đổi sáu tỉnh thành 27 vùng Tham biện. Huyện Tân Hoà của cựu trào được đổi thành Tham Biện Gò Công (Inspection de Gò Công) và do một viên sĩ quan Hải quân cấp bực Trung uý làm Chánh Tham Biện. Sau Tham biện Gò Công đổi thành Hạt Gò Công (Arrondissement de Gò Công) và đến ngày 20 – 12 – 1899 bằng một nghị định của Soái phủ Sài Gòn bỏ các Hạt và thành lập tỉnh. Tỉnh Gò Công (Province de Gò Công) chính thức lập kể từ ngày nầy và là 1 trong 21 tỉnh Nam Kỳ kể từ đó. Trở lại dù sau nầy viên chức đứng đầu Tỉnh Gò Công là Tỉnh Trưởng (Chef de Province) nhưng dân Gò Công quen gọi là Chánh Tham Biện (Administrateur) và chỗ ở của viên quan nầy gọi là Dinh Chánh Tham Biện hay Dinh Ông Chánh.

 Dinh được Tây cất kiên cố bằng gạch ngói chở từ chính quốc sang. Đây là dinh thự đồ sộ đầu tiên ở Nam Kỳ (trừ Sài Gòn) bắt đầu xây năm 1885 và xong vài năm sau. Sở dĩ lấy mốc 1885 làm năm xây cất dinh thự nầy là do tôi, người viết những dòng nầy, năm 1985 có dịch cho UB Huyện Gò Công Đông một văn bản do Công Hoà Pháp gởi cho Nhà Chức trách Tỉnh Gò Công cũ, yêu cầu ngưng sử dụng dinh thự dành cho viên Chủ Tỉnh vì dinh thự nầy khi xây cất Sở Tạo Tác thuộc Bộ Hải Quân Pháp dự trù sử dụng 1 trăm năm. Đến năm 1985 là đúng hạn nên báo cho Nhà Chức trách Gò Công đừng sử dụng, nguy hiểm. Gò Công có nhiều dinh thự và ngôi nhà Tây cất nhưng duy nhất chỉ có Dinh Chánh Tham Biện nầy Tây báo cho ta mà thôi. Lúc đó tôi dịch vì tôi là Giáo viên Tổ trưởng Ngoại ngữ của trường Trung học Trương Định, Ủy Ban nhờ trường xem coi văn thư chữ Pháp do Tỉnh chuyển xuống nói gì, Trường giao cho tôi và tôi dịch, xong giao cho Chánh văn phòng Ùy Ban lúc đó là ông Nguyễn Văn Rí. Và Ủy Ban cho ngưng sử dụng dinh thự nầy.

Đi các tỉnh nào thuộc Nam Kỳ cũ ta đều thấy hình dáng kiểu dinh thự nầy. Nhưng Dinh Chánh Tham Biệm Gò Công là to và đẹp hơn hết. Hiện Dinh xưa vẫn còn lại, nét phai tàn lộ rõ vẻ ngoài. Chứng tích còn đó nhưng thời gian sẽ đưa Dinh vào dĩ vãng.

 

 

    Hình 1 :  Dinh Tỉnh trưởng nay (2007) vẫn còn, chờ đợi trùng tu

 

Thêm nữa khung viên của Dinh Chánh Tham Biện thật rộng lớn. Đông giáp Sân Vận Động Gò Công  và Toà án. Nam giáp đường Thái Lập Thành nay là đường Nguyễn Văn Côn. Tây giáp đường Trần Hưng Đạo và Bắc giáp đường Lộ Dương nay là đường Nguyễn Trọng Dân

Trong khung viên toà nhà Chánh tham biện xưa dọc theo lộ phía Tây (đường Trần Hưng Đạo) có Toà Hành Chánh, nơi làm việc của Chánh Tham Biện và các ban ngành. Tên của toà nầy cho tới năm 1945 kêu bằng tiếng Tây như từ 1868 gọi là Inspection de Go Cong nhưng người dân quen với cách cai trị của Triều đình cũ gọi là Toà Bố

______________________________________________

(*) Trích trong loạt bài "Gò Công ngày cũ -  CÁC CÔNG THỰ VÀ CÔNG ÍCH PHÍA BẮC KINH SALICETTI" của tác giả Phan Thanh Sắc




Trả lời:
Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:27pm

Toà Bố

 

Người dân Gò Công gọi Văn phòng Chủ tỉnh là Toà Bố Chợ Gò. Toà với nghĩa là toà nhà, nơi chính quyền làm việc. Bố là Bố Chính, là viên quan triều đình dưới quyền Tổng Đốc coi việc hộ và thuế má của tỉnh. Viên Bố Chính coi cả việc dinh, điền, lính tráng, nếu có ân trạch hay án lịnh gì thì tuyên đạt cho dân chúng biết. Vậy Bố Chính như là viên Chủ Tỉnh vậy.

Toà Bố Chợ Gò là một khối trệt hình chữ “Công”. Toà Nam và toà Bắc nối bằng toà ngang. Chỗ làm việc của Chánh Tham Biện là ở toà Bắc. Toà Nam dành cho cấp Phó và giữ Văn Thư, Công Báo v.v. Toà giữa có hành lang, nơi tiếp dân đến xin việc nầy việc nọ. Các ông Tham, ông Phán, thầy Ký ngồi ở đây đảm trách các vụ việc giấy tờ trong Tinh.

Sau năm 1945 dù Tây trở lại nhưng viên Tỉnh Trưởng đầu tiên là người Việt là Thái Lập Thành do Chính phủ Nam Kỳ tự trị đưa xuống. Văn phòng làm việc của Tỉnh trưởng gọi là Toà Hành Chánh Gò Công. Từ đấy dân Gò Công quên dần Toà Bô!

Toà nhà nầy tồn tại trăm năm và đầu các năm 2000 thì mất dấu. Một toà nhà hai tầng lầu được xây dựng nên. Còn toà nhà thay thế chức năng hành chánh được xây dựng ở mạn Bắc đồ sộ và đẹp nhất hiện nay.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:27pm

Sân Vận động

 

Phía Đông của khu Dinh Chánh Tham Biện ta biết là Sân Vận Động Gò Công.

Trước 1945 trên cổng vào Sân có khắc chữ “Stade de Go Cong” Trong sân có sân đá banh kích thước cở trung, Phía sau trụ “gôn” (goal, but) hướng Bắc có các các cây “xà” tập thể dục; sau trụ  gôn phía Nam có hố cát nhảy xa v.v.. Phía góc sân Đông Bắc có tấm bảng bằng xi măng đúc, nay vẫn còn, xưa để ghi kết quả các trận đá banh lớn, bên trái phía trên đề chữ GO CONG, bên kia đề chữ Tây “INVITÉ” tức là Đội banh “khách”..có đinh chốt móc các con số “goals” của hai bên…Bao quanh sân đá banh có đường “pít” (piste) rải than đá nhuyển. Học trò các trường Tỉnh đi diễn hành khi có các kỳ lễ lớn qua khán đài phía Tây. Khán đài ngó hướng Đông nên buổi trưa hay chiều khán giả ngồi trên khán đài xem đá banh thật mát. Chung quanh đường pít có hàng rào thấp bằng xi măng đúc. Thay vì song đứng là các chữ G, C tròn xếp liên tục theo hàng rào. Trước 1954 có tổ chức đua ngựa trên đường pít nầy.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:28pm

Phan Thanh Sắc

 

Toà án (hoà giải)  

 

Phía lộ bên phải cổng vào Sân Vận Động là khuôn viên nhỏ phía đầu sân Vận động về mặt Nam, có toà nhà một tầng lầu kiểu công thự Pháp. Từ cổng lớn nhìn lên trên  của chánh có hàng chữ Tây “Justice de Paix”. Dân Gò Công gọi là Toà Án. Đây là Toà Hoà giải cấp nhỏ giữ các hồ sơ hộ tịch và về lý lịch nhân dân trong Hạt trong Tỉnh. Bây giờ ai cũng quen với danh từ toà án nhưng ban đầu người dân gọi theo hệ thống cựu trào. Toà, thì như trên, toà nhà để làm việc. Án là Án Sát. Đó là chức quan của Triều đình trông coi việc pháp luật trong Tỉnh. Trong hai chữ “toà án” thì “án” mới chỉ việc liên quan đến luật, nhưng ngày nay chữ “toà”[1] đã chiếm nghĩa chánh về nơi liên hệ đến luật pháp v.v.

Nay cả Sân Vận động không còn hình dáng và Toà án được xây qua phần đất đối diện.

 



[1] Chuyện không biết nên vui hay nên buồn về chữ “toà” nầy. Từ năm 1992 đến 2000 tôi là Phiên Dịch viên tiếng Anh và tiếng Pháp chính thức của Phòng Công Chứng số 2 Tỉnh Tiền Giang, tôi có lần phải xử lý lại bản dịch của một Phiên Dịch viên khác bị một Toà Đại sứ Ngoại quốc trả lại vì Phiên Dịch viên nầy dịch “Toà Hành Chánh Gò Công” ra tiếng Pháp là “Tribunal administratif de Go Cong”, chữ “Toà” được dịch như “Toà án”.

 

 



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:28pm

Phan Thanh Sắc

 

Nhà Đốc học - Trường Quan

 

Còn hai công thự trên mặt Nam của Sân Vân Động cũ trước 1945 thì cái còn cái mất. Công thự còn hiện nay là Bộ Chỉ huy Thị Đội Gò Công. Công thự mất là Nhà của Phó Tham Biện Gò Công ngó ra Kinh Salicetti. Hai công thự nầy cất sau khi cất Dinh Chánh Tham Biện vào cuối các năm của Thế kỷ 19.

 

 

 

        Hình 2  :  Nhà Đốc học đã cải tạo mặt tiền làm Văn phòng Thị Đội Gò Công, sẽ phải phá vì  Thị Đội dời xuống Nền Bông Bà Phủ cũ

 

Toà nhà Thị Đội bây giờ đã cải tạo mặt tiền và lợp lại mái ngói trông khác xa khối dáng xưa (xem hình). Cho đến 1975 từ cổng vào bên phải có cây da thuộc loại cổ thụ có từ 1880. Toà nầy Tây cất cho viên Đốc học coi trường Quan và các trường khác trong tỉnh ở gọi là Habitation du Directeur des Écoles de la Province tức là Nhà Đốc học hay Nhà Ông Đốc. Nhà Đốc học có liên quan đến hai trường cùng trên bờ Bắc Kinh Salicetti. Trường Quan tức Trường Nam và Nữ Tiểu học Gò Công.

Như đã biết riêng Trường Nam Tiểu học Gò Công nguyên là thành ‘lính tập’ (Fort des soldats) Tây cất năm 1868 khi bình định xong vùng Gò Công. Thành lính là toà lầu hình chữ thập Mặt Nam chánh ngó ra kinh Salicetti. Bên trái thấy Cầu Quan. Sau các năm 1880 biến cải thành trường dạy Quốc ngữ và tiếng Pháp. Ngoài ông Đốc học người Việt đầu tiên là ông Nguyễn Văn Định các ông sau đều là người Pháp. Cho đến 1945 có xen kẻ các ông Đốc người Việt là ông Lê Văn Sang, Huỳnh Thiên Hộ và cuối là ông Huỳnh Văn Hai. Không biết toà nhà nầy ông đốc học nào ở đầu tiên. Riêng tôi biết ông Perrenot ở trước năm 1940 và ông Huỳnh Văn Hai ở từ 1940 đến 1945. Dân Gò Công gọi các ông nầy là ông Đốc. Ông Đốc là dân gọi không có ghi trong hồ sơ hành chánh. Các ông nầy là Directeur des Écoles des Garcons et des Jeunes Filles de Go Cong (Hiệu trưởng các Trường Nam Nữ Gò Công) kiêm Inspecteur des Écoles de la Province de Go Cong (Thanh tra các trường trong Tỉnh Gò Công). Dân gọi là ông Đốc hay Đốc học vì thời cũ vị quan của Triều Nguyễn coi việc học hành của một tỉnh là Đốc học (như Đốc học Phan Hiển Đạo (1822 – 1864) của tỉnh Định Tường, các năm Tây vô (1859 – 1861). Ông Phan Hiển Đạo là vị Tiến sĩ thứ 5 cuối cùng của Nam Kỳ và là Tiến sĩ đầu tiên của tỉnh Định Tường, 1856. (xin đọc Lịch sử Giáo Dục Tiền Giang). Quan coi việc học của một Phủ là Giáo Thụ hay Giáo Thọ (như Thủ Khoa Huân là Giáo thụ Phủ Kiến An tỉnh Định Tường, 1861). Còn chức học quan coi một huyện[1] là Huấn Đạo.

 Sau 1945 còn hai thầy giữ chức như Đốc học là ông Phạm Văn Hợi và ông Phạm Văn Lắm tới năm 1956.

Riêng thầy Võ Văn Giáp là Hiệu Trưởng trường Nam Tiểu Học[2] cũng được dân Gò Công gọi là ông Đốc Giáp. Thật ra thầy không giữ chức Đốc học. Từ 1956 ông Phạm Văn Lắm làm Ty Trưởng Ty Tiểu học Định Tường (Ty Tiểu học được thành lập từ năm nầy, ông Phạm Văn Lắm là Thanh tra Tiểu học hàng Tỉnh Gò Công được bổ làm Ty Trưởng còn ông Lê Văn Dều, Thanh tra Tiểu học hàng Tỉnh Mỹ Tho khi nhập làm Phó Trưởng Ty) Hệ thống Đốc học coi như không còn. Dưới ông Lắm có ông Thanh Tra Ngô Văn Tiếng phụ trách Giáo dục Tiểu học hai quân Gò Công và Hoà Đồng, ông Lê Văn Vững, thanh tra phụ trách các huyện của tỉnh Mỹ Tho cũ.

Trở lại, từ 1945 khi Tây trở lại, toà nhà Đốc học không còn dành cho người coi ngành giáo dục nữa, chuyển qua cho giới quân sự sử dụng.

Toà nhà nầy là biểu tượng của nền Giáo dục Pháp và Quốc ngữ vậy. Nền giáo dục nầy chấm dứt từ năm 1950. Tháng 6 năm 1950, toàn Nam Kỳ học sinh Lớp Nhứt (lớp 5) bắt đầu thi bằng Tiểu học bằng tiếng Việt, niên học trước 1949 thi bằng CEPCI (Sơ học) bằng tiếng Pháp cuối cùng..

 

 

Hình 3  :  Trường Nam Tiểu học xưa (trước 1945) gọi là Trường Quan

 



[2] Còn Gò Công từ 1852 đến 1864 là Huyện Tân Hoà, Phủ Tân An, tỉnh Gia Định, không phải thuộc tỉnh Định Tường.

[3] Cô Trần Thị Lài là Hiệu Trưởng Trường Nữ Tiểu học Gò Công. Lúc nầy (1956 – 1963) hai trường Nam Nữ Tiểu học Gò Công thuộc Ty Tiểu học Định Tường. Từ 1964 mới trở về thuộc Ty Tiểu học Gò Công.

 



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:29pm

Phan Thanh Sắc

 

Toà nhà Phó Tham Biện

 

Toà nhà Phó Tham biện là toà lầu có kiến trúc đặc trưng Pháp, nhỏ chỉ bằng một phần tư dinh Chánh Tham Biện, toạ lạc phía sau và phía đông của cây da Nhà Đốc học. Toà lầu ngó ra đường chạy dọc bờ Bắc Kinh Salicetti. Bên phải phía Đông Toà nhà ông Phó có con lộ từ bờ kinh đến trước cổng sân Vận động. Con đường sau 1954 bị bít. Bên Đông nữa là Trại và gia binh lính “gạc” Tây gọi là Caserne de la Garde Civile Locale. Khu nầy sau 1954 biến thành Trung tâm Cải huấn thế Đề lao hồi thời Tây.

Trở lại Nhà ông Phó, trước năm 1945 là tư dinh ông Phó người Pháp rồi người Việt. Năm 1945 dưới Chính quyền Việt Minh toà nhà nầy dùng làm Văn phòng Uỷ Ban Hành Chánh Kháng chiến tỉnh Trương Công Định, Gò Công. Sau 1954 toà lầu nầy là Bộ chỉ huy Tiểu khu Gò Công. Sau 1975, toà lầu thuộc Thị Đội.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:29pm

Phan Thanh Sắc

 

Đề Lao – Khám Đường

 

Đề lao (Prison) thời Pháp nằm ở khu đất sau Trường Quan, dân gọi là “Khám”, chung quanh có tường dầy gắn miểng chai, ngày nay đường mở rộng nên mất vòng tường bao,  vẫn còn một dãy giáp Trường Quan mặt Nam làm Nhà trẻ Sơn Ca 2 và các toà đứt khúc bên đường Trần Hưng Đạo.

 

Trước 1945 người dân ít thấy tầm quan trọng của Khám vì chỉ giam những tội phạm thường.  Chỉ từ khi Tây trở lại tháng 10 -1945 mới thấy Tây nhốt người bị bắt quá nhiều. Người bị bắt qua các cuộc đi bố của Tây gồm người làm Cách Mạng Việt Minh và dân thường. Từ năm 1946 đến đầu năm 1950 ngày nào vợ con cha mẹ người bị bắt cũng ngồi chờ bên lề đường trước cửa vào Trường Nữ để đón từng tốp người bị bắt, lính canh giữ dẫn ngang từ Khám qua PC (Bót chánh của Pháp tại Toà nhà Huyện Hải, sau là Ngân Hàng) hoặc ra các nơi bên Chợ để dọn dẹp việc gì đó. Thấy được người bị bắt giam được dẫn ngang “đi làm” thì biết là “tội nhẹ”, để về kiếm người lo lót để Tây thả. Những người được cho là “làm lớn Việt Minh” thì Tây giam vào “cát xô”. Lúc đó dân nghe nói giam “cát xô” là xanh mặt. Tây thường đem các người làm lớn nhốt ở “cát xô” đi bắn. Dân nói theo Tây “cát xô” là cachot, là “xà lim” (cellule) nhỏ nhất trong khám. Riêng nhà tôi bị hoạn nạn nầy, gia phụ hai lần ở “cát xô” năm 1946 và 1948 khi Tây đi bố bắt được. Lần nào cũng phải “chạy” bằng tiền và vàng mới thoát. Lần sau 1948, nặng, Tây định đem đi bắn và gia đình lo được vào giờ thứ 25.

 

Sau 1950, khám dời qua Trại lính “gạc” thì khám hay Đề lao nầy được phá từng phần …



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:30pm

Phan Thanh Sắc

 

Sở Trường Tiền

 

Phía bên kia đường của Toà Bố là khu sở “Truờng Tiền”. Gọi là Trường tiền là gọi theo thời cũ. Thời vua Nguyễn, Bộ Công đảm trách các công việc tạo tác và cả việc đúc tiền. Nơi dúc tiền, chỉ ở Kinh đô Thuận Hoá hay Gia Định Thành, Bắc Thành được tổ chức cẩn mật có bề thế gọi là Trường tiền” hay “Tràng tiền”, nên sau nầy cơ sở tạo tác đều gọi là Trường tiền (từ Bắc tới Nam). Sở hay Ty Công Chánh như tên gọi sau 1954 thì trước 1945 dân gọi là Sở Trường tiền. Tên của Pháp chính thức (thấy ghi trên công văn) là Direction des travaux publics. Hình ảnh quen thuộc của Sở Trường tiền là các chú “lục lộ” dặm vá các đường lộ trong tỉnh và chiếc “hủ lô” cán đá. Chiếc hủ lô rõ ra là từ chữ Tây “rouleau”, cái máy có bánh thép nặng lăn đè ẹp đá, ngày nay vẫn còn sử dụng. Còn “lục lộ” thật ra phải là “phu lục lộ”, vì lục lộ (routes ou voies terrestres) nói về các đường trên đất như thuỷ lộ (voies fluviales) là đường sông rạch vậy. Các chú lục lộ, tuổi sồn sồn nhà phải ở gần đoạn con lộ phụ trách, quần cụt áo bà ba đen, đầu đội nón “mê”, chân đất, vác cuốc chim quảy ky và giỏ tre nhỏ đựng cơm trưa đi đến đoạn lộ được giao và bắt đầu công việc cũng “nhàn nhã”: rải đất chỗ đá lồi lỏm chỏm, đấp chỗ hủng, tháng khô lấy đất dưới ruộng lên đắp thành “ụ” cách khoản năm chục thước bên lề dành cho tháng trời mưa. Con đường lộ dài thêm chú cai (caporal) đi coi các chú lục lộ. Dân quê và riêng tôi vẫn thấy “chú lục lộ” là hình ảnh dễ thương tuy cũng thường ví mình là “đá xanh” trên lộ…

      Đá thất thế bị hủ lô cán nhẹp

        Lại còn thêm lục lộ hoành hành”…

Bây giờ toà nhà công chánh vẫn còn, chỉ những toà nhà phía Bắc bị hạ để cất Văn phòng các Khối Chính quyền. Xưa người đứng đầu Sở hay Ty Công Chánh dân gọi là ông Trường tiền. Gò Công thời cũ có ông Trường tiền Chi, ông Lưu Văn Chi là rể lớn của ông bà Đốc Phủ Hải. Ông nầy mất vì đi xe lửa trật đường rầy. Mộ lớn hiện còn ở phía trong đường Chiến sĩ 12 bây giờ.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:30pm

Phan Thanh Sắc

 

Kho Bạc

 

Còn các toà nhà cuối cùng từ Ngã tư Nhà Đèn qua Chợ.

Toà lầu đầu tiên gồm 6 căn rộng. Hai căn phía Bắc là Kho Bạc (Trésor, Trésorerie). Gọi Kho Bạc vì Pháp bảo trợ Đông Dương xài tiền tệ theo “ngân bản vị”, tiền được bảo chứng bằng “bạc” (Ag, Argent) chứ không phải bằng “vàng” (Au, Or). Ngân hàng Đông Dương (Banque de l’Indochine) phát hành tiền giấy và tiền đồng. Tiền giấy gọi là Đồng bạc Đông Dương xài Ba miền Việt Nam, Lào và Cao Mên và tiền đồng gọi là Đồng bạc Con Ó (Piastre Mexicaine). Đồng bạc nầy y như đồng Dollar bạc của Mỹ cân nặng 27 gr gần một “ounce” (28,35 gr) (bạc 0900). Năm 1915 - 1920, 20 đồng bạc Đông Dương mua một lượng vàng. Năm 1942 – 1944 Nhựt Bổn vào Đông Dương, kinh tế khủng khoảng nên 100 đến 150 đồng bạc Đông Dương mới mua được lượng vàng. Rồi tiếp tục trượt sau 1945. Sau 1954 sở Kho Bạc gọi là Ty Ngân Khố, nhưng ký hiệu đồng bạc vẫn giữ cách viết $ , ví dụ 1.000$.

Kho bạc Gò Công có tích Cậu Hai Miêng (Huỳnh Công Miêng lối 1900), con Lảnh Binh theo Tây là Huỳnh Công Tấn được người ta thuật kể rằng: Tây trọng tên Tấn nên cho con trai là Miêng sang Tây du học. Khi về Hai Miêng ban đầu theo tên Tổng đốc Trần Bá Lộc bình định “Văn Thân” vùng Thuận Khánh, Trung kỳ. Không biết sao, sau đó Hai Miên bỏ về, không chịu làm việc gì cho Pháp, chỉ làm “miển tử lưu linh”. Tây “cưng” đến nỗi cậu muốn bao nhiêu tiền cũng được, xài hết tiền cứ đến Kho bạc viết “bông” (bon)  đưa vào lấy tiền ra. Quyển thơ Cậu Hai Miêng được truyền tụng khắp lục tỉnh, mở đầu như sau:

      Nam Kỳ có Cậu Hai Miêng

        Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công”

Lang bạc kỳ hồ, hào hiệp nghĩa khí là phần chánh của cuộc đời cậu. Còn việc lấy tiền ở kho bạc để xài thì trong Thơ có hai câu nầy:

      Cậu Hai cậu chớ có lo !

        Hết tiền Cậu xuống dưới kho lấy xài…”

Chắc ngày nay, ta cũng khó tin Hai Miêng có thể muốn lấy tiền ở Kho bạc lúc nào và bao nhiêu cũng được. Có thể hiểu như vầy:

Hai Miêng được Pháp cấp mỗi tháng một số tiền nhất định tới số nào đó, với ngân phiếu (chèque) hay bông (bon), cậu ta có thể đem đến kho bạc lãnh tiền. Đồng bào ta hồi đó (1900) thật thà, chất phác, thấy Hai Miêng hết tiền, đến Kho bạc lãnh trợ cấp tháng tới ra xài, tưởng Hai Miêng hết tiền là đến lãnh và lãnh bao nhiêu cũng được. Bọn Pháp có khi nào cấp ngân phiếu khoán trắng (chèque en blanc) cho ai đâu !

 



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:30pm

Phan Thanh Sắc

 

Nhà Đèn

 

Phía sau Trường tiền có Nhà Đèn. Qui mô nhỏ gọi là Usine d’électricité. Đây có máy phát nhiệt điện chạy bằng dâu. Từ năm 1940 đến năm 1945 đã có Nhà đèn rồi nhưng chỉ phát điện cho khu Toà Bố và Dinh Ông Chánh. Ở Chợ Gò Công duy nhất tại đường Kinh Lấp lúc đó tên Tây là Boulevard Rodier (nay đường Trương Định) có hàng cột đèn giữa đường. Các cột đèn gọi là “cột ***g đèn” vì trên có cái chụp che mưa cho các ***g đèn kiếng, sẩm tối là có người bắt thang châm dầu lửa đốt đèn cho sáng con đường. Trong chợ tối om le lói các ngọn đèn dầu đủ thứ, phố xá cũng vậy. Sáng có người bắt thang thổi tắt đèn. Có buổi sáng đầu năm 1943 tôi đi học sớm qua Cầu Quan thấy hai ngọn đèn trong ***g đặt hai bên đầu cầu còn sáng. Người ta chậm hay quên tắt.  Đấy Nhà đèn “có tiếng không có miếng” trước 1945 là như thế. Tôi chỉ thấy có cái bóng tròn có cái chụp trước “bureau” của ông Đốc học Hai trong Trường Quan. Tôi chưa biết nó cháy như thế nào. À có nhớ, năm 1942 Tây tổ chức Kermesse đấu xảo các nông phẩm trong Tỉnh Gò Công tại Sân banh cũ (nay cất Trường Trung học Gò Công - Trương Định), tôi thấy trước cổng vào có vài bóng đèn tròn, loé sáng nhưng chìm trong ánh sáng đèn Măng sông (manchon) của các gian triển lảm. Năm 1946 Tây bắt đầu cho gắn bóng tròn thay các ***g đèn dầu ở đường giữa và lần lần các đường lớn khác. Nay hàng cột đèn giữa đường (Trương Định bây giờ) còn hai cây (gọi cột ***g đèn đúng nghĩa), một cây chỗ chợ đang giải toả, đứng đầu Bắc đường nhìn là thấy, còn một cây mang vết đạn ngang tầm ngực, Tây buộc bắn anh Trần Văn Sâm đầu năm 1948, đang nghiêng, nhưng còn kế mé sông[1]. Qua các năm 1954 nhà dân bắt đầu có diện…ban đêm. Đầu năm 1970 có trạm điện ở Ao Tham Thu, chợ Gò Công mới có điện ngày đêm.

Nhớ vì có Nhà Đèn nên chỗ dân cư phía sau gọi là Khu Nhà Đèn. Hai dãy lớp học trước mặt bên phía Nam đường từ 1950 đến năm 1966 gọi là trường Nhà Đèn, thật ra dãy lớp giáp Kho Bạc là các lớp nhỏ của Trường Nữ và dãy bên mé sông là các lớp nhỏ của Trường Nam. Tháng 9 – 1966 gộp chung, cất thêm 3 phòng chấn hình chữ U, lập Trường Tiểu học Thái Lập Thành, nhưng dân quen gọi là Trường Nhà Đèn. Ngày nay chắc công việc hơi khác, Nhà Đèn là Chi ngánh Điện lực.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:31pm

Phan Thanh Sắc

 

 

Đồn Mã Tà

 

Tiếp Kho bạc là bốn căn dành cho Phú lích (Commissariat de Police) dân gọi là Mã tà.

Lúc đó khi có đánh lộn hay có chuyện tranh chấp nghiêm trọng, dân ở đồng thì la lên “Bớ làng xóm…” còn dân Chợ thì la “Bớ Mã tà…”.

Việt Nam Tự điển của Hội Khai Trí định nghĩa:

 

Ma tà: lính cảnh sát ở Nam Kỳ, gọi theo tiếng Mã lai. Nguyên khi binh Pháp sang đây, họ kéo theo quân đội Y Pha Nho (Tây Ban Nha) cùng bè vấn tội Vua Tự Đức giết giáo sĩ Pháp và Y Pha Nho. Bởi chưng bọn Y Pha Nho không đủ người, nên họ dẫn theo mớ lính thuộc địa là lính mộ tại Manille - Thủ đô Phi Luật Tân ngày nay. Còn người Mã Lai (Malais) gọi người lính cảnh sát là “matamata”. Dân Nam Kỳ thường gôp chung “mã tà, mà ní” là như  vậy).

 

Tên cò coi mã tà là Tây Lefort (commissaire de police) còn thấy tới đầu năm 1945. Những người bản xứ làm “mã tà” dân đều gọi chung là “đội xếp” (agent de police), không cần biết ngạch cao thấp.

Năm 1943 đến đầu năm 1945 quân Nhựt Bổn “lùn”  đến, lấy hai căn bìa phía Nam của Phú lích làm Bộ Chỉ huy và một số lính ở Toà Bungalow (Công An cũ), chiều chúng tôi đi học về thường dứng ngó các lính Nhựt Bổn tập xáp lá cà ở sân trống (bây giờ cất Chi cục thuế) hay trên sân Tennis của Bungalow. Toà lầu xưa nay bỏ cất lại toà Kho Bạc nhà nước và Thư viện Gò Công.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:31pm

Phan Thanh Sắc

 

Văn phòng Hiệu Trưởng Trường Nữ

 

Toà cuối cùng cất lầu phía ngoài đầu dãy lớp trường Nữ. Toà nhà dành cho Hiệu trưởng trường Nữ (Direction de l’École des Jeunes Filles), nhưng thời Pháp chỉ để làm việc.

Từ 1956 đến 1963 là Văn phòng và chỗ ngụ tạm của ông Thanh tra Ngô Văn Tiếng phụ trách giáo dục Tiểu học hai Huyện Gò Công và Hoà Đồng của Tỉnh Định Tường.

Từ năm 1964 là Văn phòng Ty Tiểu Học và từ 1973 là Sở Giáo dục phụ trách chung các ngành giáo dục. Nay là Phòng Giáo Dục Thị xã Gò Công.

Toà nhà là đặc trưng kiến trúc Pháp. Dù lầu cao nhưng vẫn nhìn thấy cái “đầu hồi” phía  Bắc của hai mái ngói rất lạ có cửa vòm bán nguyệt nhỏ, bây giờ không còn ai cất kiểu nầy; đó là loại “mansarde” của kiến trúc cổ điển Pháp. Đặc biệt toà lầu vẫn còn vững chắc, là công thự cuối cùng thời Pháp không thay đổi dáng vẻ còn sử dụng được.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:32pm

Phan Thanh Sắc

 

PHÁP LẬP LÀNG THÀNH PHỐ LÀM TỈNH LỴ GÒ CÔNG

 

Đoạn cuối giòng sử cuộc Kháng chiến của Đại tướng quân Trương công Định chống Pháp có ghi

Pháp sau khi hạ được Trương công tại Đám là tối trời làng Gia Thuận, đem thi hài người về Gò Công phơi ở nhà ***g chợ 3 ngày rồi cho Bà Hầu Trần Thị Sanh (*) là vợ kế của ông lảnh thi thể chồng về chôn”. 

Sự kiện nầy xảy ra vào cuối tháng 8 năm 1864 cũng là sự kiện bi thảm nhất của vùng đất cũ Gò Công. Nó sẽ chấm dứt trăm năm chủ quyền Việt của miền đất Lôi Lạp của Thủy Chân Lạp mà cụ Nguyễn Cư Trinh mang gươm từ Thuận Hoá dùng chính sách ‘tàm thực” (tầm ăn dâu) sáp nhập vào bản đồ nước Việt năm 1756. Miền đất nầy đến đời Tự Đức thứ năm (1852), vì ân sủng cho quê mẹ tức Đức Bà Từ Dũ, vua cho nhập 2 huyện Tân Hoà và Tân Thạnh thành một huyện lớn: Huyện Tân Hoà, lỵ sở cũ của Phủ Hoà Thạnh từ Chợ Dinh (Đồng Sơn) dời về thôn Thuận Ngãi làm lỵ sở huyện mới Tân Hoà. Thôn Thuận Ngãi là nơi Đức Bà Từ Dũ lúc nhỏ thường đến ở học công ngôn dung hạnh với Cô ruột là bà Phạm Thị Phụng và học chữ nho với Duợng là ông Trần Văn Đồ và ở hẵn từ năm 12 đến 14 tuổi (1822 –1824) trước khi  được tuyển về kinh đô Huế làm Phi của hoàng tử Miên Tông, sau là Vua Thiệu Trị.

Lỵ sở Thuận Ngãi phát triển nhanh từ năm 1852 đó và 12 năm sau tức từ năm 1864 không còn do dân ta kiểm soát nữa. Thực dân Pháp bắt đầu triển khai qui hoạch nhập hai thôn kề cận là thôn Thuận Ngãi phía Nam con rạch Cửa Khâu và thôn Thuận Tắc phía Bắc thành một làng thuộc loại thành phố sẽ đặt tỉnh lỵ và chánh thức đặt tên lại là Làng Thành Phố. Mộc (con dấu) của làng Thành Phố - tỉnh mới Gò Công - còn thấy được trên Tờ Tương phân gia sản lập năm 1895 của Bà Dương Thị Hương, goá phụ của ông Huyện Huỳnh Đình Nguơn. Bà Huyện Ngươn cũng là con gái còn lại trong 9 người con của bà Trần Thị Sanh và ông Dương Tấn Bổn, chồng trước quá cố của bà Sanh. Đó là mộc hình vuông dài 3 và 2 cm, có 3 hàng: trên, GOCONG THANHPHO, không dấu và viết dính từ cặp, giữa, No 18. Số 18 là số hiệu tỉnh Gò Công thời thuộc Pháp (**). Dưới là bốn chữ nho Gò Công Thành Phố, trong đó Gò Công là hai chữ Nôm:  Gò gồm chữ “thổ” và “khu” còn Công gồm chữ “công” nghĩa là “ông” và chữ “điểu”. Như thế cũng đủ biết ký ức của dân Gò Công hiểu địa danh Gò Công là gò chim công. Bốn chữ nho Gò Công – Thành Phố nầy cho tới năm 1948 vẫn còn thấy ở mặt tiền Nhà việc làng Thành Phố. Nhà việc bây giờ quy mô vẫn còn, đó là Nhà Bưu Điện Thị xã Gò Công.

_____________________________________________________________________ 

(*) Bà Trần Thị Sanh là con thứ sáu của ông Trần Văn Đồ và bà Phạm Thị Phụng. Bà Phụng là em gái ông Phạm Đăng Hưng. Vậy bà Sanh là em cô cậu của Đức bà Từ Dũ

(**) Pháp chia Nam kỳ thành 21 tỉnh và mỗi tỉnh mang một con số, ghe thuyền phải mang số hiệu của tỉnh mình. Số hiệu nầy đặt theo thứ tự của chữ đầu của tỉnh :

Gia Châu Hà, Rạch Trà Sa,

Bến Long Tân Sóc, Thủ Tây Biên Mỹ Bà,

Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc Cấp

Gò Công nằm thứ tự 18 và Cấp tức tỉnh Cap Saint Jacques, dân gọi tắt là Ô Cấp (Au Cap) mang số 21.



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:33pm

Phan Thanh Sắc 

 

BÓNG HÌNH LÀNG THÀNH PHỐ

 

Năm 1867 là năm Pháp chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ rồi chia thành 20 vùng Tham biện. Huyện Tân Hòa đổi thành Vùng Tham biện Gò công.

 

Viên Chánh Tham biện đầu tiên của Sở Tham biện Gò Công (Inspection de Gò Công) là Hải quân Trung Úy Guys cho xây thành lính tập bên bờ Bắc Rạch Cửa Khâu (*), dân gọi là thành “săng đá” (Fort des soldats) từ năm 1868. Sau nầy thành “săng đá” được chuyển thành trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp đầu tiên của cả vùng, tồn tại trên trăm năm (đến năm 1999 thì phá xây Trường Tiểu học Phường 1). Chính viên sĩ quan nầy cũng là công trình sư của tỉnh lỵ Gò Công ban đầu. Còn Rạch Cửa Khâu lúc đó là con rạch thiên nhiên chia thôn Thuận Ngãi là lỵ sở huyện Tân Hoà bên Nam và thôn Thuận Tắc bên Bắc.

 

Năm ấy Pháp cho nhập 2 thôn thành làng lớn để đặt tỉnh lỵ và làng Thành Phố (Commune de Thanh Pho) ra đời. Mặc dù không có tài liệu ghi lại công trình xây dựng tỉnh lỵ Gò Công của Pháp nhưng nếu ta nhìn hiện trạng tỉnh lỵ Gò Công từ năm 1943 trở về trước và nghiên cứu sách xưa ghi ký ức vùng nầy ta sẽ thấy: Con Rạch Cửa Khâu và trục chợ thôn Thuận Ngãi cũ làm 2 trục chánh cho quy hoạch làng Thành Phố. Đất đô hộ nhưng Tây cũng muốn Thành phố phải có dáng dấp Châu Âu, nhất là mẩu quốc Pháp. Phải có sông, có cầu! Chuyện bên lề là sông mà chảy qua thành phố, có cầu bắc ngang qua là vẽ đẹp của biết bao thành phố Châu Âu. Paris đẹp cũng nhờ có dòng sông Seine, 32 chiếc cầu bắc qua và một cù lao trên sông nổi tiếng “Ile de France” với Nhà thờ Đức Bà mà truyền thuyết dệt thành chuyện bất hủ của Victor Hugo “Notre Dame de Paris”. “Thằng gù Nhà thờ Đức Bà”. 

 

Rạch Cửa Khâu được nạo vét đầu tiên năm 1870, qui hoạch thành kinh. Kinh đào rộng và sâu, bắt đầu từ vàm lấy mối nước Rạch Gò Công còn gọi là sông Long Chiến (Long Chiến gọi trại từ Long Chánh). Kinh chảy qua nội thị, được ba cái cầu sắt bắc qua nối hai bờ, rồi vượt đầm lầy ở ngoại ô và vùng lân cận phía đông, biến đầm lầy, đất biền thành ruộng cấy một mùa lúa rẩy, rồi mùa lúa đồng. Kinh băng qua làng Hoà Nghị, vài chục năm sau tại đây bên bờ Nam nó làm bạn với một ngôi chùa lớn đẹp do Bà huyện Ngươn xây cất gọi là Long Thoàn Bửu Tự cùng với cây dầu cao trên năm mươi thước. Cây dầu cao cho tới bây giờ vẫn là cái mốc Giồng Nâu. Rồi kinh qua cây cầu sắt số 4 tại Hoà Nghị, chạy thẳng qua cây cầu sắt thứ 5 tại chợ làng Tăng Hoà và thoát ra sông Cửa Tiểu tại vàm của kinh.

 

Chợ Tăng Hoà được dân chúng gọi là chợ Cửa Khâu từ đó để nhớ con rạch xưa. Kinh mới thay rạch và thay tên trên bản đồ vùng Gò Công là Kinh Salicetti (l’Arroyo de Salicetti)**. Có tên nầy từ lối sau năm 1872. Tên là Tây đặt để kỷ niệm viên Chánh tham biện Vĩnh Long người Pháp đầu tiên, Salicetti bị nghĩa quân phục kích giết chết tại Vũng Liêm năm 1872. Sau nầy 1940  Tây cho đào thêm một kinh nữa theo con rạch từ Vĩnh Lợi tới rạch sông Long Chiến thì chạy thẳng ở mặt Nam nội thị qua cây Cầu Đúc lên Yên luông Đông và Cầu Đúc Lò Heo đi Tăng Hoà rồi gặp Kinh Salicetti, lại tách băng qua Xóm Dinh, Xóm Vạn Thắng  bằng cây Cầu Đúc nữa. Nó hướng về Đông đến làng Bình Ân qua cầu sắt thẳng ra làng Tân Bình Điền qua cầu cây xưa gọi Cầu Khỉ, giờ có cây cầu mới gọi là Cầu Tam Bản (thế cầu Tam Bản xưa ở Hộ Bắc không còn) rồi thoát ra biển ở Cửa Rạch Bùn.

 

Chính đoạn kinh thứ nhì có 2 cái cầu đúc chạy qua miền Nam khu nội thị đã khiến khai tử đoạn Kinh Salicetti qua chợ và 3 cây cầu sắt sau nầy. Cây cầu thứ nhất và thứ nhì dở bỏ năm 1943, cây cầu thứ 3 bị đốt năm 1948. Đoạn kinh Salicetti trong nội thị cuối cùng là chiếc “piscine” sau thành ao tù bị lấp.

 

_______________________________________________________________________________

(*) Rạch Cửa Khâu trong Tiểu Giáo trình địa lý Nam kỳ của P. Trương Vĩnh Ký xuất bản năm 1885 là con rạch chảy ngang Gò Công, tên Hán Việt là Khâu Giang

 

(**) Theo truyền thống tỉnh Vĩnh Long, Salicetti chết là do Thủ lảnh nghĩa quân địa phương Lê Cẩn lập kế giết được :

Ông Lê Cẩn - chưa rõ quê quán - nguyên là một võ quan của triều đình Huế, làm đến chức Đề đốc. Khi nói về ông, sử sách thường ghi là Đốc binh Lê Cẩn. 

Đốc binh Lê Cẩn vốn là người trung nghĩa, có khí phách, chủ trương đánh giặc Pháp bằng vũ lực. Chiến công vang dội của ông được lưu truyền là cuộc tiến công vào trụ sở địch quận Vũng Liêm và trận phục kích Cầu Vông cũng thuộc Vũng Liêm ngày nay.

Cuộc tiến công vào trụ sở quận Vũng Liêm, tại đó lực lượng địch gồm dân binh người Việt và người Khmer do tên Thực, chủ quận Vũng Liêm cầm đầu. Bọn tay sai này rất trung thành với quan thầy Pháp, cũng đàn áp nhân dân, tước đoạt của cải đồng bào, được xếp vào loại ác ôn hạng “nặng”. Phải trừng trị chúng để làm gương cho đồng bọn khác. Được sự tham mưu góp sức của cụ Phó Mai, Đốc binh Lê Cẩn cùng Nguyễn Giao đã tổ chức tấn công chớp nhoáng vào dinh quận. Tên chủ quận Thực bị nghĩa quân giết cùng với 6 lính lệ khác.

Cuộc tiến công này khiến bọn thực dân Pháp và tay sai hoảng sợ. Chúng bèn sai Tôn Thọ Tường, tên Việt gian thâm hiểm về Vũng Liêm để đối phó với tình thế. Tôn Thọ Tường một mặt ra sức vỗ về, chiêu dụ dân chúng, mặt khác dùng mồi bổng lộc để thuyết phục nghĩa quân, trước hết là lãnh tụ Lê Cẩn ra hàng. Nhưng ông và nghĩa quân nhất quyết bác bỏ, không chịu sa vào âm mưu giặc. Còn hơn thế nữa, đó là trận phục kích thắng lợi của nghĩa quân tại Cầu Vông năm 1872.

Trong việc đàn áp cuộc khởi nghĩa của Đốc binh Lê Cẩn, ngoài Tôn Thọ Tường còn có tên Tham biện người Pháp, chủ tỉnh Vĩnh Long Salicetty chỉ huy. Chúng vừa đánh vừa kêu gọi nghĩa quân đầu hàng. Tương kế tựu kế, ông nhận lời ra hàng và hẹn với chúng đàm phán cụ thể tại Cầu Vông. Thực chất ông đã trá hàng, tạo cơ hội đưa chúng vào đất hiểm để tiêu diệt.

Theo tài liệu cũ thì mặc dù Tôn Thọ Tường đã lưu ý can ngăn nhưng Bồi Xê (tên tục của Salicetty) vẫn chủ quan,

nghênh ngang đến Cầu Vông để nhận sự “đầu hàng” của Lê Cẩn. Đúng như dự kiến, cuộc phục kích nổ ra khi Lê Cẩn bất thần tiến công vào Salicety còn Nguyễn Giao thì đánh tập hậu vào vào toán quân đi theo. Theo “Vĩnh Long xưa và nay” thì “Đốc binh Lê Cẩn đã cùng với Salicetty ôm vật nhau lăn xuống sông cùng chết”. Thi thể ông đã được Nguyễn Giao và nghĩa quân đưa về, làm lễ tang điệu và an táng chu đáo. Nhưng phần mộ ông hiện nay chưa xác định ở đâu, một phần do cần giữ bí mật nơi an nghỉ của người lãnh tụ nghĩa quân, mặt khác để tránh sự trả thù của giặc. Còn Bồi Xê thì đầu bị bêu giữa đồng Láng Thé. Sau trận này, nghĩa quân tiếp tục tiến công vào khu vực Trà Vinh và làm chủ cả vùng này một thời gian.

Thực dân Pháp thấy tình hình không ổn nên quyết tâm đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng huy động nhiều lực lượng, tập trung các tên tai sai đắc lực như Đốc phủ Cái Bè Trần Bá Lộc và Huỳnh Văn Tấn (Đội Tấn). Chúng đã đàn áp nghĩa quân rất khốc liệt. Có thể nói đây là cuộc đàn áp đẫm máu nhất của thực dân Pháp trong các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta sau khi Pháp thôn tính 6 tỉnh Nam kỳ. Nhưng cuộc khởi nghĩa này vẫn kéo dài hoạt động trong vùng Trà Vinh cho đến khi ông Nguyễn Giao - bạn chiến đấu của Lê Cẩn hy sinh vì bị giặc phục kích trên đường vượt sông Cổ Chiên sang Bến Tre tiếp tục chiến đấu. Đến đây, cuộc khởi nghĩa do Đốc binh Lê Cẩn lãnh đạo mới thật sự chấm dứt.

Tấm gương mưu trí, dũng cảm và hy sinh vì nghĩa lớn của Đốc binh Lê Cẩn đã để lại trong lòng dân Vũng Liêm niềm thương tiếc vô hạn. (Ngay thời Pháp thống trị chúng đã cho xây một trụ đá hàm ý ghi nhớ “công lao” của Salicetty và bè lũ !). Ngày nay, cũng tại đây nhân dân Vũng Liêm đã xây một bia tưởng niệm để luôn luôn tưởng nhớ tấm gương anh dũng bất khuất của các nghĩa sĩ Cầu Vong. Ở ấp Đầu Giồng xã Bình Phú, huyện Càng Long vào ngày mồng 3 tết âm lịch hàng năm có ngày giỗ hội. Đó cũng là biểu hiện sự tưởng nhớ các nghĩa sĩ vì nước bỏ mình. Tương truyền khoảng 200 người bị giặc đưa về đây hành hạ, giết chết và vùi xác nơi đây.

Để ghi nhớ công lao của tiền nhân, tưởng nhớ tinh thần yêu nước quật cường của nghĩa sĩ, của những vị anh hùng, năm 2005 ngành Văn hóa Thông tin Vĩnh Long đã xây dựng tượng đài Đốc binh Lê Cẩn - Nguyễn Giao tại ngã ba An Nhơn, thị trấn Vũng Liêm.

 



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:33pm

Phan Thanh Sắc

 

KHU NAM VÀ KHU BẮC QUA KINH SALICETTI

 

Trở lại nhìn công trình xây dựng làng Thành Phố và nội thị Gò Công của viên Chánh Tham biện Guys, ta thấy trục Kinh Salicetti phân chia nội thị thành 2 khu Nam và Bắc.

Khu Nam là khu phố dân cư, chợ búa buôn bán sầm uất từ trục chính đã nhắc là trục chợ cũ, trụ sở lỵ sở Thuận Ngãi của huyện cũ Tân Hoà, ngôi đình cũ thôn Thuận Ngãi thờ Thành Hoàng bổn cảnh đã được phong sắc thượng đẳng thần đời Tự Đức năm thứ 5, 1852. Hai bên trục nầy đã có phố xá khá nhộn nhịp. Từ trục nầy ở phía Tây mở đường lớn trên con kinh lấp. Đường Kinh Lấp, dân kêu bằng tên nầy, rồi sẽ thành đại lộ tiêu biểu tỉnh lỵ Gò Công: Boulevard Rodier, “boulevard” là đại lộ. Đây là đại lộ duy nhất nội thị theo cách đặt tên đường của Pháp. Nói đến việc hình thành đường Kinh Lấp nhắc nhớ ngay khu chợ bây giờ “Chợ Gò Công” với các nhà ***g sườn sắt bây giờ vẫn còn, khánh thành tức khai thị vào tháng giêng năm Đinh Tỵ, dương lịch 1917.

Đường Kinh Lấp (*) và chợ Gò Công (**) là trái tim và mạch chính của cả vùng Gò Công từ ấy tới giờ. Trái tim vẫn còn đập và mạch vẫn lưu thông qua bao thăng trầm hơn trăm năm, không già nua cằn cổi mà trẻ lại đẹp ra!

Khu chợ xong, đến khu nhà thương, ban đầu do Công giáo cất nhà Từ thiện Y tế, sau tặng chính quyền xây bịnh viện theo mô hình chung của bịnh viện các tỉnh ở Nam Kỳ. Dân gọi là “nhà thương” tức là nơi ấy cũng có chút gì tỏ rõ tình người: nơi xoa nổi đau, chửa lành tật bịnh, chỉ bó tay khi không thể nào mở được tay. Đặc biệt là trong khu bịnh viện có Nhà Bảo sanh. Vào những năm 1930 ai được sanh tại đây là dân chợ dân thầy, dân thợ, còn dân ruộng sanh tại nhà! Trong khai sanh học trò chúng tôi thời ấy, ai có nơi sanh ghi là “Maternité de Go Cong” (tức Bảo sanh Gò Công) là điều hảnh diện. Tôi sanh giữa những năm 30, sanh tại nhà ở đồng dù rằng nhà lúc đó cũng khá giả, nhưng sợ nhà thương ! Khai sanh của tôi ghi trể mười hôm vì chờ coi có “phởn phơ” không và ghi nơi sanh là làng Thành Phố.  

Tiếp lại khu bên phía Tây từ đường Kinh Lấp đến nhà thương nầy từ trên Mỹ Tho xuống qua cầu sắt Long Chiến là tới, dân gọi là khu chợ mới để phân biệt khu chợ cũ tức trục chính nói ở trên đang mở về phía Đông.

        

Khu Bắc sẽ là khu hành chánh, trường học, toà bố, dinh Chánh Tham biện, toà nhà phó tham biện, sở trường tiền, toà án, khám đường, trại lính, sân vận động v.v. Trong phạm vi  khu hành chánh nầy cho đến năm 1945 không một nhà dân chúng nào chen vào được. (Xem bài Những công thự và công ích phía Bắc Kinh Salicetti đã đăng)

 

_____________________________________________________________________

(*) Trước khi Tây vô, có con rạch cùn từ Vàm Rạch Gò Công chảy theo hướng Bắc Nam, Tây chiếm Gò Công từ năm 1864 cho đỗ rác và đất lần lần thành con đường lớn tráng nhựa dựng dãy cột ***g đèn giữa (giờ còn 2 cây, một giữa các sạp chợ “lấn” và một gần mé sông). Tên đầu tiên là dường Kinh Lấp (dân kêu) rồi Boulevard Rodier, từ 1949 là đại lộ Phạm Đăng Hưng, sau 1975 là đường Trương Định 

(**) Chợ Gò Công là Chợ mới, chợ cũ là trước Bưu điện trên trục có ngôi đình. Chợ mới khánh thành năm 1917 có hai nhà ***g sắt, nay cải tạo xi măng đúc mặt tiền, chứ 2 nhà ***g sắt vẫn còn phía sau



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:33pm

Phan Thanh Sắc

 

BA CHIẾC CẦU BẮC QUA KINH SALICETTI NỘI THỊ

 

Khi vét đào Kinh Salicetti nội thị Pháp cho bắc 3 cây cầu sắt trên 3 trục lộ Nam Bắc.

 

CẦU HUYỆN

 

Bây giờ, ai là người Gò Công cũng đều nghe đến Cầu Huyện, có thể cũng biết chỗ Cầu Huyện nhưng mấy ai thấy dáng dấp chiếc cầu sắt nầy. Cây cầu nằm trên con đường ven phía Đông chợ Gò Công, từ Miếu Bà phía Nam ngược lên qua Ao Trường đua về các làng miền Đông Bắc: qua cầu gần 100 thước nếu đi thẳng thì về các làng Tân Niên Đông, Tân Niên Tây v.v. , nếu rẽ phải sẽ về Bình Ân và Tân Bình Điền, nếu rẽ trái thì vòng về Sơn Qui, làng Tân niên Trung. Chíêc cầu nầy có trụ sắt, thành cầu thẳng băng, mặt cầu lót ván rộng 4 mét. Cầu không cần mống cao. Xe ngựa, xe bò, xe kéo đi qua gần như bình thường không cố sức nhiều.  Chiếc cầu chắc có tên Tây, nhưng dân ta kêu là Cầu Huyện.

Chiếc cầu đầu đời khi tôi có ý thức thấy và nhớ được là Cầu Huyện nầy. Sau nầy, đầu năm 1948 ngay sáng sớm hôm sau của đêm nó bị đốt cháy, tôi đã đứng cách khung sườn khét lẹt của cầu, nhìn vài miếng ván cầu cháy dở rơi xuống dòng nước vô tình đang chảy, tôi không nhớ tôi có buồn hay sao sao nữa! Nó là chiếc cầu hằng ngày sáng qua chiều qua, bằng đôi chân trần tôi đi học. Cầu Huyện bị đốt, không bắc cầu lại mà đặt ống cống đắp đập nối thông hai đầu lộ. Giờ đã bỏ cả cống mười năm rồi, dân vẫn gọi là Cầu Huyện.

 

CẦU PHỦ (..1943) – CẦU TÂY BAN NHA (1967 – 1998)

 

Từ Cầu Huyện, ngược đường vô chợ cặp mé sông (lúc đó ai cũng gọi là sông) cũng có hơi quẹo sẽ gặp chiếc cầu sắt thứ nhì. Cầu nhỏ quá chỉ dành cho xe kéo và người đi bộ băng qua (trước các năm 1940). Bên bờ Bắc của Kinh thấy đường đến ngôi Nhà thờ đồ sộ tháp chuông cao. Sau nầy khi đi học xa về thăm nhà, qua đò Mỹ Lợi một đổi, thấy được tháp thánh giá nhà thờ biết là gần tới “nhà”, rồi thì nôn nao mong mau tới nếu vừa đỗ đạt, còn rầu vì tâm sự “Bùi Kiệm” ngổn ngang, không biết phải thưa cha thưa mẹ làm sao vì “con thi rớt mới về”! Tôi nhớ má tôi an ủi tôi là học tài thi phận, má hát:

           “Thưa cha con thi rớt mới trở lụn về,

            Bùi Ông mắng nhiếc, nhúng trề,

            Trách phận mầy sao ham bề vui chơi.

             Kiệm rằng …tài bất thắng thời…”

      

Bên Nam là đầu đường gọi là Lộ Me. Tôi chưa bao giờ đặt chân lên chiếc cầu nầy và có người gọi là Cầu Phủ. Sau nầy nó mất đi, đoạn kinh nầy không nối được đôi bờ gần 30 năm. Rồi sau nầy năm 1967 có cây cầu cây mới vững chắc tên gọi không tây không ta mà là Cầu Tây Ban Nha.

Năm cầu Tây Ban Nha xuất hiện tôi cũng biết, rồi khi miếng ván cầu cuối cùng của chiếc cầu cây cũ cho rơi xuống vũng nước còn lại tôi cũng thấy vì tôi có nhà ở khu nầy để đi dạy. Lúc đó có ai hỏi tôi ở đâu, tôi đáp ở khu Cầu Tây Ban Nha. Xin nói mau vì tác giả Huỳnh Minh trong quyển “Gò Công xưa” viết: gọi là cầu Tây Ban Nha vì do một toán lính Tây Ban Nha cất. Không có lính Tây Ban Nha nào tham chiến thời chống Mỹ cả, chỉ có toán y bác sĩ thiện nguyện người Tây Ban Nha đến Bịnh viện Gò Công từ năm 1966 để giúp về y tế. Họ được bố trí ở toà nhà là Thị đội bây giờ. Đầu năm 1967, cầu cây mới làm xong, rộng 1,4 thước đủ xe lam ba bánh qua được và được đặt tên là cầu Tây Ban Nha để kỷ niệm công việc thiện nguyện của họ. Có một tấm bản ghi tên cầu bằng chữ Tây Ban Nha ‘ PUENTE ESPANA’ ở đầu cầu bên Nhà thờ. Hôm khánh thành, vài người trong phái đoàn họ đứng chụp hình bên tấm bảng cầu và nói họ sẽ gởi về quê nhà. Họ nói tiếng Pháp. Đầu năm 1973 họ ra đi…

 

Mới đây tháng 07 – 2006, tình cờ tôi thấy một trang Web nói về nước Tây Ban Nha hồi năm 1965 có giúp Chính quyền cũ Sài Gòn về Y tế tại Gò Công theo Chương trình Viện trợ phi Quân sự như sau:

 

SPAIN  NONMILITARY AID TO VIET NAM

 

 In December 1965 the government of Spain announced that as a result of a request by the government of Vietnam, it would provide a medical mission of twelve to fourteen men to the Republic of Vietnam. Negotiations over support arrangements were made in co-ordination with the U.S. Agency for International Development and the Vietnamese Minister of Health. The major points of this arrangement were that the government of Spain would pay the team's salaries and allowance, plus fifty dollars a month per member for subsistence, and the United States would pay all other costs.

 

It was decided to locate the team of four doctors, one quartermaster, a captain, and seven nurses in Go Cong Province in the IV Corps Tactical Zone. The team arrived in Vietnam on 8 September and on 10 September it replaced the US Military Provincial Health ***istance Program team at the province hospital in Go Cong.

 

 Xin dịch ra tiếng Việt:

TÂY BAN NHA –

              VIỆN TRỢ PHI QUÂN SỰ CHO VIỆT NAM:

Tháng 12 năm 1965, Chính Phủ Tây Ban Nha loan báo rằng do kết quả thảo luận về yêu cầu của CHVN, nước TBN sẽ gởi một Đoàn y tế gồm 12 đến 14 nhân viên đến CHVN. Các cuộc thảo luận về hoạch định viện trợ được thực hiện kết hợp với AID của Mỷ và bộ Y tế Việt Nam. Những điểm chính của cuộc hoạch định nầy là: Chính phủ Tây Ban Nha sẽ trả lương và phụ cấp cho Đoàn Y tế cộng thêm 50 đô la mỗi tháng cho từng thành viên để sinh hoạt và Mỹ sẽ trả mọi chi phí khác.

Quyết định là cử Đoàn y tế với 4 bác sĩ, một trưởng đoàn, một đại uý và 7 y tá phục vụ tại Tỉnh Gò Công thuộc Vùng IV Chiến thuật. Toán Y tế sẽ đến Việt Nam vào ngày 8 tháng 9 - 1966 và ngày 10 tháng 9 thay thế Đoàn Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ về Y tế Tỉnh tại Bịnh viện Tỉnh Gò Công.

 

Vậy mọi chi tiết tôi viết về chiếc cầu Tây Ban Nha là chính xác !

      

            

 

           CẦU QUAN

 

Cầu Quan là chíếc cầu quan trọng nối liền hai bộ phận Nam Bắc của nội thị Gò Công. Nó ở ngay một vị trí mà tới ngày nay không ai tưởng rằng chỗ nầy phải có cây cầu và là cây cầu quan trọng và đẹp nhất thời bấy giờ.

Lùi về bên mặt Nam phần dân cư nó nối một con đường lúc đó gần như là con đường ven. Từ Miếu Bà theo con đường đi lên phía Bắc bên trái đã có nhà phố, nhà máy xay lúa, nhưng bên phải còn là ruộng cho tới đầu các năm 1950, các thầy giáo mới đến cất nhà ở. Nhớ lại, xưa sau khi tên Huỳnh công Tấn chết (1877), gia đình có cất ngôi chùa gọi là chùa ông để thờ Quan Công nhưng cũng để thờ Lãnh Binh Tấn. Cổng chánh chùa ngó mặt qua phía sau Nhà Bà Phước. Trên 2 cột trụ có 2 câu đối bằng chữ Hán “ Độc chúc Tào vô dạ” “Đơn đao Hán hữu thiên”. Đây là 2 câu mô tả tính cách và hành động anh hùng của Quan Công, để mọi người lầm tưởng đây là chùa thờ Quan Thánh. Trong chùa có bài vị của Tấn mãi sau nầy vẫn còn. Vị trí bây giờ là khu Nhà trẻ Sơn Ca và trường học. Từ chùa qua con đường là khu Cô Nhi viện của các bà sơ người Pháp “Sœurs de Saint Paul”, dân quen gọi là Nhà Bà Phước nuôi trẻ mồ côi….Nay (2004) ngôi lầu có ghi hàng chữ Pháp trên vẫn còn trong khuôn viên trường Mẩu giáo Bình Minh.

Đối ngang qua đường Nhà Bà Phước là ngôi lầu Bungalow một loại nhà quan-cư như câu lạc bộ thời Pháp có sân tennis, năm 1942 thấy có lính Nhựt (lùn) chiếm đóng, chiều tập đánh xáp lá cà trên sân tennis. Các thời sau tòa nhà nầy làm đồn Công an. Nay tòa bungalow bị triệt hạ cất lầu cũng làm đồn Công an.

Xưa (trước 1943) đứng trên đường, giữa Bungalow và nhà Bà Phước là qua đường dọc phía Nam con kinh và qua chiếc cầu sắt là Cầu Quan đó !

Cầu có tên Tây là cầu Albert Sarraut, nhưng dân quen gọi là Cầu Quan. Cũng ngộ dân gọi cây cầu sắt phía Đông là Cầu Huyện, cầu sắt nhỏ giữa đoạn kinh là Cầu Phủ và cây cầu lớn gần chợ nầy là Cầu Quan.   

Cầu bắc qua kinh Salicetti, cách vàm của kinh từ Rạch Gò Công lối 300 thước. Cầu không có mống cao dài 30 thước, rộng 5 thước lót ván ngang, thành cầu thẳng băng cao thước rưởi. Đầu thành cầu phía phải bên Nam có cột sắt ***g đèn vừa tầm người. Bên Bắc nhìn qua đầu thành cầu bên phải cũng có cột ***g đèn như thế, đối chéo. Phải chi có 4 trụ đèn thì đẹp biết bao ! Đêm có người đến châm dầu và đốt đèn soi mờ mặt cầu…

Vừa qua Cầu Quan, phía Bắc chừng trên mươi thước là có con đường ngang. Đường nầy chạy từ vàm kinh phía tây qua mặt Nam của Trường Nữ, qua Trường Nam, hai trường nầy dân gọi chung là Trường Quan, rồi chay dọc theo kinh đến tận đầu phía Bắc Cầu Phủ, quẹo trái  theo hướng Bắc nhập vào đường chạy ngang Nhà thờ.

Còn bên chợ qua Cầu Quan chỉ chạy một đoạn ngắn 200 thước là tới đường cắt ngang (giờ đường Nguyễn Văn Côn) và cổng vào dinh Chánh tham biện. Dinh Chánh tham biện cất xong năm 1885 còn Cầu Quan chắc hoàn thành trước hay sau đó. Hoá ra Cầu Quan là nối khu Nam dân cư với toà nhà làm dinh quan Chánh Tham biện. Xe từ Mỹ Tho xuống qua Cầu Quan mà đến ngay dinh nầy thì rất tiện, nhưng đến các cơ sở khác thì phải quẹo trái hoặc phải thật vòng vo. Sau có con đường  giữa trường Nam và trường Nữ là trục tiện lợi nhất, nhưng không có cầu nối. Bên khu Nam cũng có con đường đến mé sông. Hai đầu đường ngó nhau qua lòng kinh rộng. Thấy nhau mà phải đi vòng qua Cầu Quan như thế gần suốt 60 năm, đến năm 1943 mới được thông nối, nay (2004) là đường Trần Hưng Đạo. Trở lại con đường qua Cầu Quan đến cổng dinh Tham biện quẹo phải và nhìn thấy sân banh nhỏ (bây giờ là Trường Trung học Gò Công – Trương Định) bên phải, đi tới trước cổng Sân Vận Động Gò Công gặp con đường nhỏ (bây giờ trong khuôn viên trường) chạy nguợc hướng Nam ra gặp đường mé kinh. Trở lại con đường trước Dinh, qua khuôn viên Dinh là đến Sân vận động bên trái đường có sân đá banh kích thước trung bình, nhưng có khán đài, có rào đúc ngăn cách sân và đường chạy chung quanh trải than đá vụn. Đường chạy đủ rộng  nên Tây thường cho đua ngựa vào dịp 14-7 (Quatorze Juillet 1789, ngày phá ngục Bastille), ngày lễ “chánh chung”, Quốc khánh của Pháp hay vào dịp Tết ta. Còn sân banh nhỏ bỏ trống, nhớ năm 1942 gần Tết Tây tổ chức “kermesse” như là hội chợ đấu xảo bây giờ. Hàng đấu xảo là sản vật, nông phẩm của 40 chục làng trong tỉnh đem đến dự thi. Từ cổng sân vận động đi tới bên phải là mặt sau của trại lính “gạc” (Garde civile locale). Trại lính có mặt tiền ngó ra đường nhỏ chạy dọc bờ kinh phía Bắc. Qua trại lính là khuôn viên ngôi nhà dân sự duy nhất của cánh họ Dương Tấn bây giờ vẫn còn, bây giờ giáp trại lính cũ toàn là nhà. Bên trái kế bên sân vận động là khu nhà thờ có ngôi “Thánh đường Sacré Coeur Thánh Tâm”. Con đường trước nhà thờ có thể đi về các làng Tân Niên Trung … sau khi qua Cầu Sơn Qui. Con đường trước dinh Chánh Tham biện vừa mô tả không sầm uất, chỉ thỉnh thoảng có xe hơi, xe kéo, xe máy (xe đạp) chạy qua và người đi bộ đi đông đúc là khi đến xem các trận đá banh ở sân vận động. Xe ngựa từ hướng Sơn Qui muốn vào chợ, khi tới nhà thờ thì quẹo trái theo đường nhỏ có thời gọi đường Hộ Mưu, vòng qua Cầu Huyện mới vào bến xe ngựa được. Xe hơi từ Sài gòn về chạy theo đường vòng sau dinh Tham biện gọi là Lộ Dương, tới ngỏ tư Nhà Đèn hoặc chạy thẳng rồi ngoẹo trái trước mặt trường Quan rồi qua cầu, hoặc tới ngã tư ngoẹo trái đến trước cửa dinh queo phải rồi qua Cầu Quan.  Xe đò nhất là xe ngựa không dám bén mảng đoạn đường từ ngã tư nhà đèn đi thẳng để quẹo qua trường Nam vì kế bên Kho Bạc (bây giờ vẫn kho bạc nhưng cất mới) là Bót lính mã tà dân gọi là phú lích. Thuở ấy có một ông cò Tây (commissaire de police) hung dữ dân gọi là Cò Le Fort, cầm roi, đội nón cối trắng đi rểu rểu. Xe ngựa chạy bậy, đậu không đúng chỗ sẽ bị phú lích dán một “ề” cò (tem) phạt ở bình phuông xe là kể như tiền chở khách ngày hôm đó không còn đủ mua cỏ lúa cho ngựa!

 

 

 

     HÌnh 2  :  Cầu Quan trước 1943. Đứng trước cửa Trường Quan tức bên bờ Bắc Kinh Salicetti  thấy quang cảnh nầy :  Lòng kinh sau năm 1943 đấp đập ngăn chỗ chiếc cầu và đấp bên phía phải nay là đường Trần Hưng Đạo làm Piscine mấy chục năm. Cầu Quan phá năm 1943 nay là đoạn đường Lưu Thị Dung đi đến Thị Đội, đến Dinh Tỉnh trưởng cũ. Tòa lầu bên trái là Nhà Bà Phước nay trong khuôn viên trường Mẩu giáo Bình Minh. Tòa lầu bên Phải là Bungalow, trước 1975 là trụ sở Công An. Nay triệt hạ cất tòa lầu mới vẫn là trụ sở Công an



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:34pm

Phan Thanh Sắc

 

THĂNG TRẦM  “CHỢ” GÒ CÔNG

 

Đến năm 1940 là năm tôi bắt đầu “đi” chợ Gò Công. Tôi thường theo cha tôi đến nhà cô ruột ở phía Nam chợ. Tôi quen dần các con đường ở chợ. Tôi nhớ như in dòng kinh Salicetti, hai bên bờ kè của nó và ba chiếc cầu trong nội thị…Tất cả đều đi vào cổ tích... Vàm kinh bấy giờ rộng và lòng kinh hẹp hơn, hai bờ cẩn đá xanh  làm kè cho tới đoạn ngã ba Nhà Bà Phước. Ở đoạn kinh chánh nầy nầy bên bờ Nam có hàng rào trụ xi măng đúc cách khoảng có chắn hai hàng “railles” sắt mỗi đoạn chừng mươi mét. Rào chừa 3 khoảng, một gần vàm để người đi ghe từ dưới nước bước lên bến xe đò, một trước nhà Bà Lớn có nhiều bậc xuống để ghe đậu người lên bộ, rồi lại cách khoảng trước Nhà Bà Phước có bậc, chúng tôi học trò thường xuống rửa chân cho mát. Từ đó xuống tới cầu Huyện, hai bên bờ Kinh chỉ trồng cây ô môi tây, quanh mùa cho trái dẹp màu nâu tươm mật ngọt quéo ăn vài ba trái đã say. Con đường chạy cặp bờ Kinh Nam là đường Đốc Phủ Đức chạy từ dốc cầu Long Chiến qua chợ, qua Tháp Lảnh Binh Tấn rồi cập kinh đến Bà Phước. Từ Nhà Bà Phước xuống Cầu Huyện là đường đá nhỏ gọi là đường Đốc Phủ Đức nối dài nhưng dân gọi là đường Bờ Kinh Cầu Huyện, sau là đường Tổng Đốc Phương (giờ đường Hai Bà Trưng). Đoạn nầy ngay đầu cầu Phủ xưa bên Nam có ngôi từ đường của dòng nội ông Đốc phủ Hải do ông Thân Nguyễn văn Bính là cháu kêu ông Phủ Hải bằng bác ruột ở và thờ phụng. Đây là ngôi nhà cổ nhất chợ Gò Công còn sót lại. Nhà gạch lợp ngói âm dương có lớp thí gồm ba căn hai chái rộng 5 căn, nhà ngang phía sau hợp thành khối bề thế. Trong nhà các bàn thờ liển đối còn đầy đủ, thật xứng là nhà xưa liệt hạng. Nhà từng được phân cảnh quây phim “Con nhà nghèo” dựa theo tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Từ ngôi nhà nầy xuống tới nhà cao cẳng của ông Ba Khoa rồi hết không còn nhà ở nữa. Đoạn kế tiếp, là hai dãi đất hai bên, cỏ cây cao thấp bên những nấm mồ, bãi tha ma xưa thật xưa. Nhớ lại có nhiều đêm, cha tôi chở tôi về ngang đoạn đường hiu quạnh nầy, dù ngồi giữa hai tay của cha, tôi vẫn sợ, nhất là vào mùa mưa hai bên cóc nhái kêu, nhạc sành trổi từng đợt và bên kia kinh đóm đóm loè sáng trên cành bần, phía xa đám lá dừa nước đêm càng thấy rậm. Tận gần những năm cuối 50, tôi đi ngang đoạn nầy, cảnh vẫn chưa đổi thay, đom đóm mùa thu vẫn loé, tôi chợt nhớ câu ca dao mẹ tôi thường ru các em tôi:

        “Bần gie đóm đậu sáng ngời,

         Lở duyên tại bậu trách trời được sao!”

Giờ các em nhỏ sống ở khu nầy, thấy trên truyền hình có chương trình “Đom đóm học đường”, chắc sẽ hỏi     mẹ chúng : “đom đóm là gì hởi mẹ?”

 

Nhắc lại Kinh Salicetti chính nó và 3 chiếc cầu bắt qua sông ở khu chợ Gò Công có gợi nhớ cho viên công trình sư người Pháp đến quê nhà là mỗi thành phố đều có sông với nhiều chiếc cầu chảy qua không? Riêng tôi thấy cảnh con kinh lúc đó rất đẹp. Kinh nước lớn ròng vẫn trong, không rác rến, tuy ít nhưng cũng có nhiều chiếc ghe mui nhỏ vẫn qua dưới Cầu Quan, qua cầu Phủ, qua cầu Huyện rồi trở lại hay về đâu, về đâu… như nước chảy qua cầu! Hình ảnh xưa cũng là nước chảy qua cầu. Ai cũng có hình bóng quê nhà, riêng tôi ngoài điều ước lệ nầy, gần 70 năm qua con Kinh và ba chiếc cầu sắt bắc qua là những hình bóng cũ!

 

Rồi, nhắc để không quên. Từ Vàm đầu kinh bước lên, nhớ lại trước mặt xưa là trục chợ và trụ sở thôn Thuận Ngãi. Trên vàm bắt đầu là  bến xe đò, rồi thấy Tháp tên Tấn. Bến xe và Tháp nằm trên nền chợ cũ. Ráng ngó hơi xa, công sở mới có tầng lầu gọi là Nhà việc làng Thành Phố. Nhà việc chắc phải trên nền cũ trụ sở huyện lỵ Tân Hoà và Thôn Thuận Ngãi. Hơi khó thấy, nhưng sau Nhà việc chừng trăm thước ngôi đình Thuận Ngãi xưa được cất lại uy nghi đỉnh lập vào những năm đầu của 1930. Hai bên hông đình đều có 4 chữ Hán thời gian không phai nhạt ”Đình Thành Phố Thôn” (đọc theo chữ Hán bên phải qua). Đình thay tên nhưng trong long đình thờ trước bàn Thần, sắc phong thượng đẳng thần cho đình, đời Tự Đức thứ năm vẫn còn giữ…Cũng ở vị trí cũ ta tưởng tượng thấy hồ nước to lớn sau và cách đình một con lộ. Dân gọi là Hồ nước phát nước mưa cho dân dùng mùa khô hạn.

 

 

 

 

 

 Hình 3 : Đình Thành Phố (trước 1975) nay là Đình Trung Gò Công.Gọi là Đình Trung theo lý giải của Ban Phụng tự là Đình tập trung thờ ba sắc thần Vua Tự Đức phong cho 3 ngôi đình thôn Thuận Ngãi, thôn Thuận Tắc và thôn Long Chánh. Từ 1956 ba thôn cũ nầy nhập thành xã Long Thuận trước 1975.  Đình trông thấp xuống vì các đường bao quanh nâng lên trên 5 tấc. Mặt tiền đình hướng phía Bắc

 

 

Đứng trên đường trước trường Nữ ngó qua kinh ta thấy toà nhà của ông bà Đốc phủ sứ Nguyễn văn Hải và Huỳnh thị Điệu. Toà nhà trên đường Đốc phủ Đức nầy (giờ đường Hai Bà Trưng) có kiến trúc bên ngoài kiểu Pháp kiểu ta kết hợp hài hoà, bên trong nhà ở và nơi thờ phượng. Đây là ngôi nhà cách tân đầu tiên thời Pháp thuộc, cất xong năm Kỹ Dậu 1909. Không lấy làm lạ nếu được biết ông Đốc phủ Hải từng được đưa sang Pháp du học và là rể của Bà Huyện Huỳnh Đình Nguơn, tức bà Dương thị Hương con gái bà Trần thị Sanh, tức là Bà Hầu của Trương Công Định.

Năm 1942, tôi đi học ở trường Quan là trường Nam Tỉnh lỵ “École Primaire des Garçons de Go Cong”, trường nguyên trước đây là thành lính tập của Tây, khi tôi học trường đã lâu đời, bao thế hệ đã học qua, đã tới đời ông Huỳnh văn Hai làm đốc học thứ 20 rồi. Đa số học trò chúng tôi phải qua Cầu Quan sớm chiều

bốn bận. Lúc đó tôi mới bắt đầu quen với chiếc cầu sắt nầy. Cầu dáng như cầu Huyện, hơi rộng hơn và dài hơn. Giờ đi học hay tan học chúng tôi thung dung đi, xe cộ quá ít và thường nhường cho học trò nam nữ của hai trường qua cầu. Cũng không lâu vì học trò lúc đó không nhiều. Tôi là học trò nhỏ qua cầu tưởng chừng như qua đường hầm lọt thỏm trong cầu. Tôi qua lại trên cầu đâu chỉ được một năm thì:

Đầu năm 1943, người ta đấp con đập qua kinh ở hai đầu Bắc Nam đường Trần Hưng Đạo bây giờ. Giữa lòng kinh đặt cống. Chặn kinh nối đường và xe không qua Cầu Quan nữa. Chúng tôi thấy vui, cũng đi qua trường bằng đường mới. Rồi người ta bắt đầu dở Cầu Quan. Dân dồn Tây cho dở cầu bán sắt vì thua trận bên nước nhà. Nhưng không phải vậy. Viên Chánh tham biện Tây cuối cùng là Ropion muốn sủa sai công trình của viên Chánh tham biện đầu tiên Guys bằng cách nối liền trục lộ quan trọng Trần Hưng Đạo bây giờ.

Kinh không là thuỷ đạo cần thiết nữa nên cho dắp luôn chỗ Cầu Quan để chắn một đoạn kinh làm hồ tắm. Cuối năm 1943 đã lắp xong cống, thay đổi nước ra đoạn kinh bên phía chợ. Bốn bề hồ tắm được cẩn bậc đá sạn. Hồ tắm dài và rộng hơn bất cứ hồ tắm xây nào ở các tỉnh miền Nam và cả Sàigòn. Người dân bắt đầu gọi hồ tắm là Piscine và tên Trường Quan bị quên dần, bắt đầu được gọi là Trường Nam Piscine. Hai phía của Piscine, con kinh đứt khúc, nước vẫn lớn vẫn ròng. Đoạn kinh bên chợ được 15 năm rồi thành đất, cất trường học nghề và nhà cửa. Bên Đông lâu lắm mới thành đất khi cầu Tây Ban Nha thành đường mới mươi năm nay. Trở lại Piscine luôn đầy ấp nước, lâu lâu thay nước một lần. Nước là nước sông lấy khi nước lớn đầy ấp cũng trong cũng sạch, không ô trọc, ngọt lợ tuỳ theo mùa.  Thanh thiếu niên ở chợ bắt đầu đi tắm và bơi trên hồ. Lần lần các học trò lớn của trường Nam cũng xuống bơi lội, đùa giởn. Học trò hơi nhỏ có thể học bơi trong mé nhờ có bậc để hai tay bám vào. Thanh niên ở chợ khi tắm thì mặc quần cụt, còn học trò thì cởi quần áo gói tập vở để trên bờ và tấm trần truồng, gần đến giờ học thì nhảy lên bận quần áo và chạy vào trường. Sau năm 1945, lại làm thêm cầu ván thấp ngang qua Piscine lối trước cửa Bưu Điện, để làm cầu nhảy. Các học trò và các bạn học của tôi leo lên cầu ôm vật xô nhau xuống nước, vui thật là vui… Tôi không biết lội, học lội ở mé hồ và sau vài lần uống nước và một lần hụt tay chìm xuống đáy, may nhờ vớ trúng bậc đá cuối, lần theo bậc mà trồi lên. Hú vía và biết lội! Vẫn tắm trần truồng và đùa vui như thế cho đến năm 1949, tôi rời trường lên Sàigòn học tiếp trung học.

Năm 1955 tôi trở lại quê nhà, bắt đầu đi dạy ở trường làng và khi đi ngang Piscine để vào văn phòng Ty Học chánh tôi vẫn thấy các em học sinh, thế hệ thứ hai sau chúng tôi xưa, vẫn còn tắm truồng. Được biết lúc nầy thầy cũ của tôi là thầy Võ văn Giáp  đang làm Hiệu trưởng Trường Nam. Trưa trước giờ học chừng nửa tiếng thầy thường đạp xe rảo chung quanh trường, gặp học sinh đổ xí ngầu thầy dừng lại tịch thu xí ngầu và chộp đứa đang chơi để phạt. Đặc biệt thầy thường đi bộ từ văn phòng ra bờ Piscine, nếu thấy học sinh bỏ quần áo trên mé tắm truồng, thầy cho gom hết. Trống đánh vào học, các học sinh nhảy lên bờ thấy mất quần áo tập vở và được biết ông Hiệu trưởng lấy, đứa nào đứa nấy xanh mặt chạy vào văn phòng Hiệu trưởng, đứng xếp hàng chờ phạt. Thường thì thọ phạt xong chờ thầy dạy lớp đến lảnh về. Năm 1957, tôi về dạy lớp Nhất trường Nam, chưa đầy một tuần đã được mời xuống văn phòng lảnh một tốp học trò “quí” tắm Piscine trước giờ học buổi chiều. Chắc có lẽ thầy Hiệu trưởng muốn nhắc nhở thầy giáo mới, bảo phải răn đe các em. Dẫn các em về lớp mà tôi nhớ lại mới mười năm trước, chúng tôi cũng tắm như thế nhưng may không bị lấy quần áo! Tôi chỉ nhỏ nhẹ cắt nghĩa cái hại khi đi tắm mà không chuẩn bị kỹ, tắm trước buổi phải vào học là cập rập, mệt vọp bẻ là chết đuối, piscine nước sâu v.v. vã lại đã học lớp Nhất rồi, tương lai đang đợi. Còn các em tắm truồng, tôi nghiêm mặt và rầy trước lớp: “Lớn tồng ngồng mà còn tắm truồng, bộ đây là dòng sông, con rạch ở quê nhà các em sao?”.

Sau đó học trò tôi không tái phạm nữa, nhưng mỗi khi dạy xong bài, tôi ra hành lang lớp trên lầu ngó ra Piscine. Ôi Piscine coi mênh mông mà hiền hoà, suốt cuộc tồn tại chỉ giúp học trò (chỉ hơi tiếc là chỉ riêng học trò nam thôi!) bơi lội đùa vui chưa lần nào gây mất mát. Tôi  bâng khuâng nhớ mới ngày nào, nhớ tuổi học trò vô tư đùa nghịch. Đứng trên lầu đôi lần tôi tạm không thấy Piscine để tưởng tượng trước mặt là con kinh chạy từ vàm thanh thoát bên phải và bên trái tôi là chiếc Cầu Quan, con đường hầm đen của tôi, phía đông xa xa chiếc Cầu Phủ nhạt nhoà, và ôi chiếc Cầu Huyện, chiếc cầu đầu đời của tôi, một buổi sáng buồn mùa xuân 1948, cho rơi những ván lót còn ngún khói xuống dòng kinh…!

 Suốt năm năm như thế, tôi đứng hành lang lớp học trên lầu trông ra. Tôi đang dạy ở trường Nam Gò Công gọi là trường Nam Piscine. Tôi không từng dạy ở trường Quan, tôi chỉ từng qua Cầu Quan để học trường Quan!

 

              Ôi Trường Quan huyền thoại của “chợ” Gò Công vì chỉ gọi trường Quan khi còn  dòng  Kinh Salicetti và 3 chiếc cầu sắt bắc qua!

                                 

              
         

               Hình 4 :  Ngày cũ: Con đường Đốc phủ Đức, nay đường Hai Bà Trưng. Bên trái là hàng rào nhà ông bà Đốc phủ Hải Bên phải, mé Nam Kinh Salicetti, có trụ xi măng và railles sắt ngăn chia. Nhìn phía trái sau người mặc áo trắng sẽ thấy chiếc ghe đậu gần bực đúc sát mé, nước kinh đang lớn. Trên lòng kinh nầy giờ là trường Kỹ Thuật. Hàng cây cao là trước mặt Trường Nữ có con đường nhỏ chạy qua Trường Nam. Nhìn trên chiếc xe ngựa là nhà Bác sĩm Huân, bỏ nóc mái ngói làm nóc bằng rồi, Nếu nhìn kỹ phía dưới bên trái tòa nhà sẽ thấy cái tháp Lãnh binh Tấn có trụ trắng. Chỗ tháp giờ là Phòng Thông tin trước 1975



Người gởi: Admin
Ngày gởi: 04/Jul/2007 lúc 1:34pm

Phan Thanh Sắc

 

NHÀ LỒNG CHỢ  CŨ GÒ CÔNG NĂM 1864 Ở ĐÂU ?

 

Trở lại, Pháp đem thi thể của Trương Công về phơi ở nhà ***g chợ năm 1864, vậy nhà ***g chợ ở tại vị trí nào? Chợ ở đây là chợ thôn (làng) Thuận Ngãi lúc ấy trên bờ Rạch Cửa Khâu, bây giờ là khu Phòng Thông tin, toà nhà Bác sĩ Trương văn Huân, và khu nhà bến Bạch đằng. Chợ mới bây giờ ở bên kia con kinh lấp, tức đường Trương Định bây giờ, chợ cất xong năm Bính Thìn 1916 và khai thị vào tháng giêng năm Đinh Tỵ 1917 (xin xem Vè Khai Thị do Tác giả Việt Cúc sưu tầm trong Gò Công cảnh cũ người xưa). Nơi phơi thây ông Trương, sau nầy gần đến năm 1880 Pháp cho xây Tháp kỷ niệm tên bán nước Huỳnh công Tấn. Tháp tồn tại trên 65 năm, chỗ là Phòng Thông tin và hàng chữ Tây làm bia khắc trên đá cẩm thạch trắng  ngó ra đường (giờ đường Hai Bà Trưng) và ngó ngay nhà việc làng Thành Phố (giờ cơ sở Bưu Diện)  Bia kỷ niệm thành bia bêu rếu ghi:

      A la mémoire du Lanh Binh Huynh Cong Tan

             Chevalier de la Légion d’honneur

                Fidèle serviteur de la France

             (Ghi công trạng Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn

                       Đệ ngủ đẳng Bắc đẩu bội tinh

                Công bộc trung thành của nước Pháp}

Tháng 9-1945, tháp bị nhân dân ta đập phá, đầu tiên là phá các trụ treo lòi tói sắt bốn bề, sau phá trụ đỉnh rồi đến thân tháp. Giữa lòng tháp người ta lôi ra cái hộp đựng nào gươm lệnh, nào quân phục mủ hàm lãnh binh của tên Tấn. Có người lấy thanh gươm khều áo quần mủ mảng của y đưa cao cho dân chúng bao quanh xem; gió thoảng qua phút chốc các biểu tượng quyền uy tơi tả, tả tơi rớt từ mảng rồi không còn gì nữa!

        



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 06/Jul/2007 lúc 5:35am

Sau loạt bài về vua Tự Đức (cháu ngoại Gò Công), một số Gò công's fan yêu cầu giới thiệu về rể Gò Công. Sau đây là bài viết của Trần Văn Nhựt về một trong các vị rể đặc biệt của Gò Công.

Rể Gò Công 

   Người Gò Công tôn kính Trương Công Định nhưng ông không phải là người Gò Công, mà là Rể của Gò Công. Hoàng Đế Bảo Đại cũng là Rể Gò Công. Rể Gò Công thì nhiều lắm. Trong bài nầy chỉ đề cập vài điểm đặc biệt lý thú về Hoàng Đế Bảo Đại mà thôi.
   Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.
   Nữ giới ở đất Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rễ xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.
   Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rễ của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ. Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.
   Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.
   Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rễ Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử. Muốn làm rễ Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham. Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẽ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:
   - Gia đình cô đồng ý trước đả.
   - Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:
   - Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.
   - Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.
   -Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
   -Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép hai người buộc ai.
   Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.
   Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.
   Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rễ Gò Công.
   Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.
   Bảo Đại giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế.” Người đàn bà duy nhứt trong lịch sử Việt Nam được chỉ dụ đặc biệt nầy.
   Trong hồi ký . . . đã viết về Hoàng Hậu như sau: “Chân dung Nam Phương Hoàng Hậu mặc quốc phục thật xứng đáng là “Đệ Nhất Phu Nhân”. Trông gương mặt bà sang trọng mà không kiêu, hiền mà không tầm thường, dễ dãi. Nụ cười kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh. Chiếc cổ tròn, thon và cao hợp với khuôn mặt. Dáng bà lại cao nên xứng đôi khi đi bên cạnh Bảo Đại. Nếu chỉ so sánh về sắc đẹp với những vị đệ nhất phu nhân khác trên thế giới như Hoàng Hậu xứ Monaco, Phi Luật Tân thì chắc chắn bà Nam Phương Hoàng Hậu phải được chấm giải nhứt. Nhất không phải chỉ riêng vì sắc đẹp, mà nhất về tư cách và đạo đức và cách sống của bà từ ngày trở thành Hoàng Hậu cho tới ngày tạ thế với tước vị Long Mỹ Hầu rồi tăng thêm là Long Mỹ Quận Công và Kim Khánh Bội Tinh đệ nhứt hạng cho mẹ vợ là bà Lê Thị Bình (Con ông tỷ phú Huyện Sỹ) với tước vị Mệnh Phụ Cung Đình đệ nhất hạng.
   Sau đây là vài chi tiết về người con rễ Gò Công nầy:
  “Theo Đế Hệ Nguyễn tộc: Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh, Bảo, Quý, Định, Long, Trường, thì Bảo Đại thuộc về hệ thứ 5 tức là Vĩnh – Vĩnh Thụy. * Lên ngôi Hoàng Đế năm 12 tuổi (13 tuổi ta) ngày 8 tháng 1 năm 1925 lấy hiệu là Bảo Đại, và lại tiếp tục sang Pháp du học.
   *Bảo Đại hồi loan: Tàu D’Artagnan cập bến cảng Saint – Jacques (Vũng Tàu) đầu tháng 9 năm 1932. Ông ngỏ lời trước quốc dân là ông sẽ lãnh trách nhiệm làm cho toàn thể quốc dân được tiến hành trong công cuộc văn minh tiến bộ. Sau đó ông cải cách guồng máy chính trị cho phù hợp với thời gian lúc bấy giờ. Như lập thêm Bộ Xã Hội Kinh Tế, Bộ Tài Chánh. . .
   “Được phong làm Đông Cung Thái Tử năm vừa được 7 tuổi (năm Khải Định thứ 5) Chiếu chỉ ban ngày 20 tháng 2 năm 1920.
   Sang Pháp du học ngày 24 tháng 2 năm 1922 ở biệt thự sang trọng đường Bourdonnais  Paris.
  Ông vừa học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và cả chữ Pháp. Ông được nhập học trường Lycée Condorcet Puis Sciences Politique.
   Ngoài giờ học ở trường, ông còn học thêm về âm nhạc, đàn dương cầm, chơi quần vợt, tập lái xe hơi, bơi lội, và tập khiêu vũ với những cô đầm non cùng lứa tuổi với ông.
   *Thân thế: Nói đến chàng rễ Gò Công Bảo Đại, chúng ta chưa có một manh mối nào về cha ruột của người Hoàng Đế cuối cùng của Việt Nam nầy. Chỉ biết mẹ ruột là bà Hoàng Thị Cúc tức là bà Từ Cung sau nầy. Còn cha ruột? Trong sách sử cũng như các tư liệu đều nói rằng Ông Bửu Đảo tước hiệu là Phụng Hóa Công là vua Khải Định là cha trên giấy tờ là người bất lực, vô hậu. Chỉ biết Bảo Đại tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm Quý Sửu (1913) tại Huế. Theo nhà nghiên cứu Phan Thứ Lang thì sau khi lược qua những tập di cảo đồ xộ, lọc ra nhiều chi tiết có liên quan đến việc Vĩnh Thụy chính là con cụ Hường Đ.
   Hành động đầu tiên: Là một việc nhỏ nhưng lúc bấy giờ là một việc trọng đại, một cách mạng trong nghi lễ triều đình: Bỏ năm lạy, chỉ có xá ba xá là “Tam khấu lể”. Lý do là Ông muốn tôn trọng người lớn tuổi, đáng bậc chú, bậc cha, nếu các vị quan trong triều mà phủ phục quỳ lạy một người tuổi chỉ đáng hàng con cháu thì khó coi quá.
   Còn người ngoại quốc thì chỉ bắt tay theo phép xã giao Tây phương cho được thoải mái.
   *Đồng bạc Bảo Đại: Đựơc đúc bằng đồng mỏng. Có giá trị bằng ½ tiền Khải Định
   Trong dân gian lúc bấy giờ có câu:
   “Hai con đổi lấy một cha
     Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền”.
   Sở thích: Gần như cái gì Bảo Đại cũng thích. Đánh bài, khiêu vũ, săn bắn, cởi voi, lái xe, đàn dương cầm. . .
   Trong tài liệu nói rằng ông ném vô sòng bài chiếc du thuyền 250.000 đô lúc đó, đến nỗi cái lâu đài ở Cannes gần thành phố Nice – miền Nam nước Pháp – cũng đem nướng luôn. Nhưng cũng có lần được thắng thì cho bà Nam Phương đi mua sắm hả hê. Có lần đánh ở sòng bài quốc tế Monaco với các tiểu vương và các nhà tư bản giàu sụ ông thắng đậm và mua ngay cho bà Mộng Điệp chiếc nhẫn kim cương trị giá mấy triệu đô – là chiếc nhẫn kim cương lớn nhất vùng Đông Dương lúc bấy giờ.
   *Hạ sanh Hoàng Tử: Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân đất thần kinh nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành. Dân chúng biết đó là Hoàng Nam vì là 7 tiếng súng còn nếu là công chúa thì sẽ là 9 tiếng súng. Đó là Thái Tử Bảo Long. Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:
   Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.
   Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.
   Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.
   Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.
   Những tình nhân của Bảo Đại:
   Mộng Điệp: Được Bảo Đại cưng chiều chỉ sau Hoàng Hậu Nam Phương. Được Bảo Đại tín dụng truyền chỉ mang Ấn Kiếm (Nguyễn Triều Chi Bảo) sang Pháp cho bà Nam Phương cất giữ. Bảo Đại và Mộng Điệp có 3 người con:
   Phương Thảo sanh năm 1946
   Bảo Hồng sanh năm 1954
   Bảo Sơn sanh năm 1957.
   Lý Lệ Hà: là người đẹp đã theo sát Bảo Đại từ  Việt Nam sang Trung Quốc lưu vong. Có người tả hai hàm răng của Lý Lệ Hà là hai hàng bạch ngọc và quý hơn ngọc đã làm cho Bảo Đại say mê và bà Nam Phương phải buồn lòng và lo lắng vì mối tình nầy.
    Bà Đầm Monique Baudot: Người tình cuối cùng: Khi bà Nam Phương tạ thế thì cựu Hoàng mới có 65 tuổi còn bà đầm Monique Baudot 35 (chỉ nhỏ hơn cựu Hoàng 30 tuổi thôi mà). Bà đầm nầy với Bảo Long là nước với lửa. Đã choảng nhau, kiện tụng vì cái ấn kiếm. Ai là chủ quyền của Ấn Kiếm nầy? Và hiện nay đang ở đâu?
   Cặp Ấn Kiếm – Mệnh danh là Nguyễn Triều Chi Bảo – nầy do vua Bảo Đại truyền chỉ cho thứ phi Mộng Điệp đã đem từ Việt Nam cùng hơn 600 món bảo vật đến tận tay bà Nam Phương Hoàng Hậu bảo quản. Trong lúc tiếp nhận có bốn ông giúp bà đưa vào tủ kiến (các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng và Phạm Bích – con của Phạm Quỳnh). Khi bà còn sanh tiền đã nhắc nhở Thái Tử Bảo Long rằng: Đừng bao giờ mở tủ kiến mà tách hai bảo vật nầy ra hai nơi. Đến khi Bảo Đại viết xong cuốn sách “Con Rồng An Nam” muốn mượn con dấu để đóng lên quyển sách cho thêm phần giá trị thì Bảo Long nhất quyết không cho, viện dẫn lý do là Mẫu Hậu đã có dặn. Vì thế mà có cuộc tranh chấp kiện tụng ra tòa. Tòa xử: “Bảo Đại giữ Quốc Ấn, còn Bảo Long được giữ Quốc Kiếm.” Đến nay không biết hai báu vật – hai linh vật nầy đang ở đâu?
   Một người Pháp nói rằng: “Chiếc ấn là vật có hồn.” Suy nghiệm thì ấn kiếm – Nguyễn Triều Chi Bảo là có hồn thật. Cây Quốc Kiếm vì lý do nào đó mà bị gãy đôi là điềm chia đôi đất nước 1954. Khi Quốc Ấn và Quốc Kiếm tách rời nhau thì dân Việt Nam cũng bị chia lìa, chồng xa vợ, vợ xa chồng vì tù đày, vì vượt biên, và mỗi người mỗi nẻo. Những người suy tư đến vận mạng dân tộc, đất nước muốn hai linh vật nầy được châu về hợp phố vì hai báu vật nầy vốn là vật bất khả phân.
   *Phần Chót: Rễ Gò Công – Cựu Hoàng Bảo Đại – Vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam đã qua đời lúc 5 giờ sáng ngày thứ năm ngày 31 tháng 7 năm 1997, thọ 83 tuổi.
   Đám tang của cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính quyền nước Pháp, điện Elysée đứng ra lo liệu.
   Ngày chúa nhật 5 tháng 10 năm 1997, tại chùa Viện Phật Giáo Pháp ở ngoại ô Paris, có tổ chức một lễ cầu siêu 49 ngày cho cựu Hoàng Bảo Đại rất trọng thể gồm 1000 người Việt Nam tham dự, có cả bà chị ruột của Nam Phương là bà Bá Tước Didelot (92 tuổi), Hoàng Tử Vĩnh San, con vua Duy Tân, giáo sư Vũ Quốc Thúc cùng nhiều Ông Bà cùng thời với ông tham dự. (Bà Thứ Phi Monique không có mặt vì không được mời).
   Điều làm nhiều người Việt Nam tham dự ngạc nhiên và cảm động đến ứa lệ là Thái Tử Bảo Long – Mà người ta đồn rằng đã quên tiếng Việt – cảm tạ quan khách bằng tiếng Việt chững chạc, rõ ràng trên máy vi âm. Điểm đáng nói là các Hoàng Tử và Công Chúa mặc đại tang màu trắng tiến vào đại sảnh quỳ lạy trước bàn thờ rất thuần thục và đã lạy trả những người đến niệm hương. Sau buổi lễ các hoàng tử và công chúa trong tang phục đứng chờ ở cửa để ân cần cảm tạ quan khách từng người đúng cổ tục. Theo các báo chí, bưổi cầu siêu nầy đã quy tụ đầy đủ các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài. Các người tham dự đều có một nhận xét chung là dù các con cái phải sống lưu vong nới đất khách từ lâu vẫn còn giữ truyền thống Việt Nam, thật xứng đáng là con của Cựu Hoàng.
  Ngoài ra, buổi lễ có treo cờ vàng ba sọc đỏ, có cử quốc thiều, có cử bài “Đăng Đàn Cung” và giữ phút mặc niệm rất trang nghiêm. Điều nầy cũng ghi cảm xúc đầy ý nghĩa cho những người tham dự về tinh thần Quốc Gia Dân Tộc. 
    Trần Văn Nhựt 
  ______________________________
Sách tham khảo:
     Chiếc Bảo Ấn Cuối Cùng của Lê Văn Lân
     Bảo Đại : Vị Vua Triều Nguyễn Cuối Cùng của Nguyễn Thứ Lang
     Chuyện Nội Cung Của Các Vua của Nguyễn Đắc Xuân
 



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 06/Jul/2007 lúc 5:39am

Cựu hoàng Bảo Đại trong mắt một học giả phương Tây

 

Bảo Đại được chính quyền bảo hộ Pháp đưa sang “mẫu quốc” nuôi dưỡng từ khi 8 tuổi, đến 19 tuổi mới “miễn cưỡng” về nước để lên ngôi. “Miễn cưỡng” vì Bảo Đại đã quá quen nếp sống hiện đại của phương Tây, khó chấp nhận những lễ nghi gò bó và xơ cứng của Hoàng triều.

Sách viết về Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam khá nhiều, trong đó có cả sách của các tác giả phương Tây: Lucien Bodard với tác phẩm “Chiến tranh Đông Dương”, Davits Gilbert với “Tin tức bí mật Đông Dương”; Perrin Elula với “Gió mùa cho đàn bà”...

Năm 2006 vừa qua, Daniel Grandclément - tác giả người Pháp tiếp tục cho ra mắt độc giả Việt Nam tác phẩm mới: “Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam”. Khai thác nguồn tư liệu phong phú và quý hiếm từ Phòng Lịch sử quân sự Vincennes, Lưu trữ Bộ Ngoại giao, Lưu trữ thành phố Hà Nội, Lưu trữ quốc gia Foutainebleau, Lưu trữ thành phố Cannes... Daniel Grandclément đã hé lộ thêm với độc giả một số bí mật về cuộc đời của vị vua bù nhìn tai tiếng này.

“Khi trở về Việt Nam lên ngôi Hoàng đế, tôi sẽ chẳng làm gì cả, mà chỉ hưởng lạc những thú vui trần thế”! - Đó là một trong những tuyên bố của Hoàng tử Vĩnh Thụy khi rời Pháp trở về Việt Nam để lên ngôi Hoàng đế.

Cũng đúng thôi, vì vị Hoàng tử Tây học này còn có thể làm gì khi chế độ phong kiến Việt Nam chỉ còn tồn tại với tư cách bù nhìn. Hoàng tử Vĩnh Thụy, con trai vua Khải Định được chính quyền bảo hộ Pháp đưa sang “mẫu quốc” nuôi dưỡng từ khi 8 tuổi, đến 19 tuổi mới “miễn cưỡng” về nước để lên ngôi.

“Miễn cưỡng” vì xứ xở quê hương đã trở nên mờ nhạt, xa lạ. Hoàng tử đã quen nếp sống hiện đại của phương Tây, khó lòng chấp nhận những thói quen, những lễ nghi gò bó và xơ cứng của Hoàng triều.

Khi trở thành Hoàng đế nước Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến, Bảo Đại đã sử dụng quyền lực của một ông vua để thực hiện một số cách tân trong Hoàng cung như: bỏ chế độ cung nữ, tự quyết định hôn nhân.

Không giống những vị vua triều Nguyễn trước đó, Bảo Đại tự chọn bạn đời cho mình là cô Nguyễn Hữu Thị Lan - người con gái 18 tuổi, con một điền chủ giàu có nhất Nam kỳ, đã từng du học ở Pháp. Nguyễn Hữu Thị Lan đã chinh phục trái tim của vị vua trẻ phong tình bởi sắc đẹp và sự dịu dàng.

Trong hôn lễ, Bảo Đại phá luật lệ, cho phép người vợ trẻ mang một bộ áo cưới màu vàng có đính rồng và phong bà làm Hoàng hậu Nam Phương. Trước ngày cưới họ thề bồi sẽ sống với nhau đến đầu bạc răng long. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, thói ham hưởng lạc của Bảo Đại đã khiến Hoàng hậu ngậm đắng nuốt cay và thu mình trong thế giới đau khổ.

Trong khi Bảo Đại mải mê với những người đàn bà đẹp khác thì Hoàng hậu phải âm thầm nuôi dạy con cái ở xứ người, rồi qua đời ở tuổi 49. Dân làng Chabrignae (Pháp) nơi bà sống đã xác nhận rằng: Bảo Đại chưa một lần nghiêng mình trước phần mộ của bà!

Sở thích hàng đầu của Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp. Ông đã từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình: “Luôn có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người”.

Một người thân thiết của ông thì bình phẩm: Con người Bảo Đại có “một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet”... Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm...

Ngoài những người đẹp ở xứ xở quê hương, ông còn có đàn bà Trung Hoa, Hồng Công, Pháp, Nhật Bản, Zaire.... Đối với họ, lúc nào ông cũng lịch sự, hào phóng và lãng mạn. Những khi kiếm được tiền ông có thể vung tay mua biệt thự đắt giá tặng cho người tình. Nhưng cũng có lần lâm vào cảnh túng quẫn, ông phải sống bằng số vốn liếng đã cóp nhặt cả đời của một cô gái nhảy.

 

Ảnh%20minh%20họa

 
Còn Monique - lãnh sự danh dự của nước Cộng hòa Zaire vì ngưỡng mộ Vĩnh Thụy đã giúp ông thanh toán những khoản nợ nần và là người đàn bà duy nhất ở bên ông khi ông qua đời. Trong số những người đàn bà đã có thời gian gắn bó với Bảo Đại như Lý Lệ Hà, Phi Ánh, Mộng Điệp... thì Mộng Điệp được bà Từ Cung - mẹ của Bảo Đại nhìn nhận như một cô con dâu đích thực.

Mộng Điệp đã có với Bảo Đại hai người con và được ông ủy quyền đứng ra nhận từ tay người Pháp hai báu vật là chiếc ấn vàng và thanh kiếm nạm ngọc của triều Nguyễn với sự chứng kiến của bà Từ Cung.

Bảo Đại còn là một đệ tử trung thành của các sòng bạc lớn. Ông đã từng có mặt ở khắp các sòng bạc nổi tiểng nhất thế giới, như Hồng Công, Pháp... Daniel Grandclément đã kể trong sách rằng: Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam cử một phái đoàn sang Hồng Công thương thảo với Tưởng Giới Thạch.

Bảo Đại là một thành viên của phái đoàn. Khi chuyến công cán kết thúc, Bảo Đại đã không ngần ngại bày tỏ ý định ở lại Hồng Công để ăn chơi. Bảo Đại chỉ nhờ chuyển một lời nhắn đến Nam Phương Hoàng hậu là ông vẫn vui, khỏe. Sau đó ông đã đổi tên thành Wang Kunney tiên sinh cho tiện việc hưởng mọi lạc thú.

Dân Hồng Công kháo nhau rằng: Muốn xem mặt ông vua nước Nam chỉ cần tìm ở 14 tiệm nhảy, nếu không thấy thì tìm các sòng bạc. Không ít lần ông đã khiến các con bạc phải kinh ngạc vì những món tiền khổng lồ ông mang tới.

Cũng có lần ông thắng bạc, đủ tiền mua một chiếc xe hơi đời mới nhất làm quà tặng sinh nhật Hoàng tử Bảo Long. Nhưng hầu như các sòng bạc đã nuốt chửng những món gia tài kếch xù của ông, bao gồm cả biệt thự, bộ sưu tập ôtô, máy bay, du thuyền...

Vốn là một người ham chơi, Bảo Đại thành thạo nhiều lĩnh vực, từ nhảy đầm, đánh gôn, sưu tầm ôtô, máy bay. Tác giả cuốn sách đã rất hóm hỉnh khi so sánh sở thích của Vua Louis XVI nước Pháp với ông vua cuối cùng của triều Nguyễn: “Louis XVI thì mê các ổ khóa, còn Bảo Đại thì  thích hí hoáy hàng giờ với động cơ ôtô”.     

Bộ sưu tập ôtô của Bảo Đại thời đó toàn những xe đắt tiền, ấn tượng và hiện đại nhất: 1chiếc Mercedes lớn, nặng 4 tấn, có kính dày 3 cm, vỏ chống được đạn 8 ly của tiểu liên và súng máy; 4 chiếc Limouzin; 1 chiếc Citrôen động cơ bánh trước; những chiếc xe thể thao hiệu Ferrari hay Bentley. Ngoài ra ông còn là chủ sở hữu của mấy chiếc máy bay và du thuyền.

Tiết lộ mới của Daniel Grandclément khiến người đọc phải sửng sốt: “Cựu hoàng có tất cả bốn máy bay DC.3, một máy bay B.24 sáu chỗ, một máy bay B29 và một máy bay để thi nhào lộn. Các máy bay nói trên được lắp đặt một cabin làm phòng ngủ, một phòng có thể chiêu đãi đông người, nhiên liệu đảm bảo hoạt động một đường kính 6.000 km... giống như máy bay của Hoàng đế Anh Georges VI.

Chưa hết, ông còn có 2 chiếc du thuyền sang trọng, trong đó có 1 chiếc trị giá một trăm triệu Franc do Thủ tướng Queuille tặng. Để mua sắm những phương tiện đó, ngoài khoản trợ cấp của Chính phủ Pháp, Bảo Đại còn biết cách kiếm chác qua những vụ chuyển tiền từ Đông Dương qua Pháp, Hồng Công để ăn chênh lệch và đã có thời gian ông phất to bởi nghề này.

Săn bắn là một thú chơi Bảo Đại say mê từ thời còn thanh niên. Được biết, ông là một tay săn tầm cỡ, vì vậy trong các biệt thự của ông, nền nhà được trải bằng những tấm da thú. Ông đã thuê hẳn 1.500 ha đất cạnh làng Epshtein rồi xua muông thú xung quanh vào đó để săn. Ông còn bỏ tiền xây dựng một ngôi nhà nhỏ giữa rừng Krafft làm chỗ gặp gỡ bạn gái trong các cuộc đi săn. Đó là mấy cô diễn viên, thường là người châu Âu. Họ có thể lưu lại với Bảo Đại vài ngày, vài tuần rồi ra đi không trở lại...

Khi “canh bạc” chính trị ở Đông Dương kết thúc, Bảo Đại cùng toàn bộ gia quyến chạy sang Pháp. Tại đây, ông tiếp tục cờ bạc, trai gái và cưới thêm một người vợ rất trẻ, đó là nàng Monique mà phần đầu bài viết đã đề cập. Khi về già, gia tài khánh kiệt đến mức phải bán hết gia sản, thậm chí phải tranh chấp với Hoàng tử Bảo Long quyền sử dụng hai báu vật của triều Nguyễn là ấn vàng 8 kg và thanh kiếm nạm ngọc...

Từ một ông hoàng nổi tiếng ăn chơi và tiêu tiền như rác, chủ sở hữu của rất nhiều biệt thự đắt giá, cuối đời Bảo Đại trở thành người không có khả năng trả tiền thuê nhà, sống bằng khoản trợ cấp của chính phủ Pháp.

Ngày 1/8/1997, Bảo Đại qua đời ở tuổi 82 bởi chứng ứ nước não, xuất huyết nội tạng thận và ung thư dạ dày tại một bệnh viện quân đội ở Paris. Vì giữa Bảo Long và cha đã có những mối bất đồng về lối sống nên Bảo Long chỉ có mặt bên linh cữu cha khi ở nhà thờ, còn đưa tiễn ông ra nghĩa địa chỉ có bà Monique.



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 06/Jul/2007 lúc 5:40am

Dinh Bảo Đại ở Đà Lạt

 

DINH I

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images547151_dinh1.jpg">

Từ dinh 2, theo đường Trần Hưng Đạo - Hùng Vương đến ngã 3 Trại Hầm rẽ trái chừng 400m, du khách sẽ đến với dinh 1. Nguyên là cơ ngơi của một người Pháp được Bảo Đại mua lại, cho xây dựng thành tổng hành dinh của chính phủ Hoàng triều cương thổ. Sau đến đời Ngô Đình Diệm thì đã được gia cố thêm thành một lâu đài tráng lệ và kiên cố. Dưới toà nhà chính có một số đường hầm thoát hiểm, cửa chính xuống đường hầm nằm ngay cạnh phòng ngủ của Ngô Đình Diệm (lưng chừng cầu thang lên lầu nên khó phát hiện và từ ngoài nhìn vào giống như cửa phòng bình thường). Một phần của tầng nổi trên mặt đất và có đường thoát hiểm thông ra phía sau Biệt điện - nơi có sân tráng nhựa cho máy bay trực thăng đỗ dài khoảng hơn 100m. Hiện nay dinh đã được mở cửa cho tham quan và đang thuộc quyền quản lý của Liên doanh DRI.

DINH II

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images547157_dinh2BT.jpg">

Xuôi từ Dinh Bảo Đại, theo đường Trần Phú, đến ngã tư cây xăng Kim Cúc (cửa ngõ vào thành phố Đà Lạt), rẽ phảo đi vòng 300 m du khách sẽ đến dinh Toàn quyền Đông Dương tọa lạc trên một ngọn đồi cao 1.533 m. Dinh ở vào một vị trí khá đẹp, một mặt nhìn xuống hồ Xuân Hương, một mặt nhìn ra những rừng thông, cảnh quan ở phía dưới các thung lũng. Khi còn đương chức, Toàn quyền Deuco đã cho xây dựng dinh thự này làm nơi nghỉ mát mỗi mùa hè. Để tránh máy bay oanh tạc và tránh sự tấn công từ bên ngoài; toàn quyền đã cho xây dựng đường hầm bí mật để khi có sự cố thoát ra ngoài, nhiều năm nay đường hầm không được bảo vệ nên đã hư hại khá nhiều.

Đến đời Ngô Đình Diệm cầm quyền ở miền Nam thì dinh này được ông cố vấn Ngô Đình Nhu lên ở như là dinh riêng.

Ngoài dinh toàn quyền chủ yếu dùng để gia đình toàn quyền nghỉ ngơi, người Pháp còn xây dựng một văn phòng phủ toàn quyền khá bề thế. (Nhà nghỉ Liên đoàn lao động tỉnh hiện nay). Trong dinh có một số hiện vật quý như bức liễn khảm xà cừ khắc những bài thơ của vua Tự Đức đang để ở phòng khách. Trước đây còn có cả ngà voi nhưng hiện nay đã bị thất lạc qua nhiều lần thay đổi chủ quản lý. Trong dinh hiện vẫn còn chiếc dương cầm của phu nhân toàn quyền.

Việc sửa chữa và khôi phục lại đường hầm chắc chắn sẽ làm cho dinh hấp dẫn khách hơn và có thể cho khách thuê để tổ chức tiệc tùng, cưới xin ở ngay phòng dưới đường hầm.

DINH III

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images547169_dinh3BT.jpg">

Nằm trên đường Triệu Việt Vương, cách trung tâm Đà Lạt 2,5km về phía Nam, được xây dựng năm 1933 khi Bảo Đại còn đang làm vua ở triều đình Huế. Năm 1937 thì khánh thành và cựu hoàng Bảo Đại dùng nơi đây làm nơi nghỉ mát mùa hè. Đến khi Pháp quay trở lại Việt Nam, đưa Bảo Đại lên làm quốc trưởng bù nhìn vào năm 1950 thì ông đã dùng nơi đây làm nơi ở và làm việc. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là “công xa biệt điện”. Lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.

Biệt điện có 2 tầng: Tầng trệt dùng làm nơi hội họp, yến tiệc, tiếp khách ngoại quốc và quan chức chính phủ Hoàng triều cương thổ. Gồm có các phòng: Làm việc, tiếp khách thân mật, khánh tiết, phòng bí thư riêng ở ngay cửa ra vào, phòng vui chơi của công chúa và hoàng tử. Tại phòng khánh tiết vẫn còn một kỷ vật là bức tranh đền Ăngcovát do hoàng thân Xi Ha Núc (Campuchia) tặng cho Bảo Đại.

Ở trên lầu là phòng ngủ của Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương cùng thái tử Bảo Long, các công chúa Phương Mai, PhươngLiên, hoàng tử Bảo Thăng. Phía ngoài phòng ngủ của cựu hoàng là Lầu Vọng nguyệt khá đẹp dùng làm nơi cựu hoàng và hoàng hậu ngắm trăng. Do thái tử Bảo Long là người được chọn kế nghiệp ngai vàng (từ năm 1939) nên trong phòng trang hoàng toàn màu vàng.

Vua Bảo Đại có một bà vợ chính thức là hoàng hậu Nam Phương (tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan), con nhà hào phú Nguyễn Hữu Hào). Từ năm 1949, khi hoàng hậu Nam Phương đưa các con sang sống, học tập bên Pháp thì Bảo Đại chung vui với 3 thứ phi là Bùi Mộng Điệp, Phi ánh và bà Jeny Woong (người Hương Cảng). Ba bà thứ phi ở 3 dinh riêng tại Đà Lạt, mỗi khi cựu hoàng cần thì cho xe đến đón và dùng cơm chiều với ông rồi ở lại luôn trong dinh. Sáng hôm sau lại có xe đưa các bà trở về dinh của mình. Theo nhiều người đã từng phục vụ Bảo Đại kể lại thì cựu hoàng Bảo Đại mê bà Mộng Điệp hơn do bà vừa có sắc đẹp lại trẻ trung. Bảo Đại đã có với bà này 3 người con là hoàng nữ Phương Thảo, 2 hoàng nam Bảo Hoàng và Bảo Sơn. Cách đây vài năm con gái của cựu hoàng Bảo Đại với bà Mộng Điệp có về ở lại trong dinh (cùng chồng là một kỹ sư người Pháp).

Sau khi Bảo Đại qua Pháp sống lưu vong, dinh là nơi nghỉ mát cao cấp của chính phủ Ngô Đình Diệm và sau này là Dinh của Nguyễn Văn Thiệu. Trong nhiều năm, dinh thuộc Ban tài chính quản trị tỉnh uỷ Lâm Đồng và mới được giao về cho Công ty du lịch dịch vụ Xuân Hương quản lý từ giữa năm 2000.

Năm 1988, người ta đã phát hiện ra một số bảo vật gồm 122 món ngọc ngà, châu báu của triều Nguyễn do bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) đem từ Huế vào. Theo một tài liệu đáng tin cậy thì số bảo vật này là của cải riêng của hoàng thái hậu Từ Cung và cựu hoàng Bảo Đại, được Chính phủ cách mạng lâm thời (tháng 9.1945) cho phép tự do sử dụng. Đáng chú ý có nhiều đồ dùng bằng ngọc như thau rửa mặt bằng vàng nạm 16 viên ngọc, các loại bát ngọc, đĩa ngọc, một số đồ dùng bằng vàng. Số bảo vật này đang được lưu giữ tại kho bạc tỉnh Lâm Đồng và chưa dám khui ra vì địa phương rất lo lắng đến phương án bảo vệ. Qua các tài liệu còn lưu giữ được thì có lẽ đây là bộ sưu tập về ngọc đầy đủ nhất, quý giá nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam còn lưu giữ được cho đến ngày nay. Trong một tương lai gần, bộ sưu tập ngọc này sẽ được đưa ra trưng bày tại Dinh 3 để cho du khách gần xa có dịp chiêm ngưỡng.

Phía ngoài dinh (từ ngoài vào mé bên trái) vẫn còn hầm rượu của Bảo Đại nằm chìm dưới đất, cửa vào trông ra mé đồi thông. Theo nhiều người kể lại thì ngày trước Bảo Đại có rất nhiều loại rượu ngoại, chủ yếu là ảnh hưởng của lối sống Pháp. Thường buổi trưa ông thích ăn cơm ta và chiều ăn cơm Tây, một điều lạ là ông không thích nhậu nhẹt mà chỉ để tiếp khách. Nếu ăn cơm ta thì dọn các món lên một lần còn cơm Tây thì dọn từng món một. Một sở thích của vua Bảo Đại là thích săn bắn, ông thường tổ chức những chuyến đi săn xuyên đường quốc lộ 27 qua bên Dăk Lăk và kéo dài cả tuần, với đoàn tùy tùng đi theo rất đông. Cựu hoàng bắn rất giỏi, chính các quan chức Pháp cũng phải phục, bằng chứng là ngày trước trong dinh có 3 bộ da cọp để trang trí ngay phòng khách và trên lầu do chính tay Bảo Đại săn được. Chung quanh khu vực dinh ngày trước còn khá rậm rạp và cọp thỉnh thoảng cũng có về định “hỏi thăm”.

(Theo website Lâm Đồng)

Mộ Bảo Đại ở Paris

Mộ của Bảo Đại tại nghĩa trang P***y, Pháp.

Thật bất ngờ, mãi đến trước lúc về Việt Nam tôi mới biết rằng cách chưa đầy 1km từ chỗ tôi trọ học mấy năm nay là nơi an nghỉ của vị hoàng đế cuối cùng Việt Nam - Bảo Đại.

Từ tháp Eiffel, đi bộ khoảng chừng 10 phút là đến nghĩa trang P***y, nằm ngay bên cạnh quảng trường Trocadero, nơi du khách thường đến để ngắm và chụp ảnh tháp Eiffel hùng vĩ. Không khí se lạnh và trong lành, hoa cúc muôn màu khoe sắc được trồng khắp nơi trong nghĩa trang.

Các ngôi mộ ở đây thật sạch sẽ, tinh tươm với đủ mọi hình thái kiến trúc. Quả thật, qua hơn 10 nghĩa trang trải khắp nước Pháp mà tôi đã từng viếng thăm, có thể cảm nhận rằng nghĩa trang ở Pháp có cái sắc thái tươi tắn, sinh động, ngược hẳn với vẻ u buồn, đôi chút rùng rợn của các nghĩa trang Việt Nam.

Ngay cửa vào tôi thấy một bản đồ nghĩa trang với tên tuổi những người nổi tiếng được chôn tại đây và chỉ dẫn khu vực mộ, số hiệu của ngôi mộ... Trong danh sách những người nổi tiếng này, tôi đã tìm thấy ngay tên “Bảo Đại - hoàng đế Việt Nam”. Tạt vào phòng quản lý nghĩa trang, tôi xin một bản đồ giấy cầm tay để tiện cho việc tìm kiếm.

Theo hướng dẫn trên bản đồ, tôi nhanh chóng tìm thấy khu vực mộ của Bảo Đại. Thế nhưng, quành đi quành lại cả chục vòng, tôi vẫn không nhìn thấy mộ của vị cựu hoàng nước Nam. Không một bia mộ nào có đề tên ông. Thật lạ lùng!

Tôi quay trở lại phòng quản lý. Vừa nghe tôi hỏi, người giám đốc nghĩa trang đã xông xáo dẫn đường. Đến khu vực mà tôi đã tìm kiếm lúc nãy, ông đưa tay chỉ vào một ngôi mộ nằm thấp tè sát mặt đất. Thật không thể tin nổi vào mắt mình! Phần đất khiêm tốn, phủ bên trên bởi hai miếng bêtông như hai tấm dale. Không một tấm bia, không một dòng đề tặng. Một vài chậu cây xơ xác...

Tôi hỏi ông giám đốc ấy vì sao ngôi mộ lại quá đỗi hoang lạnh. Phải chăng vì không ai cung cấp tiền để tu bổ, chỉnh trang? Ông khẳng định vấn đề ở đây không phải là tiền. Phần đất nơi chôn ông Bảo Đại đã do người vợ Pháp của ông mua quyền sở hữu vĩnh viễn. Và chính bà đã quyết định chôn cất ông như thế.

Đã nhiều người, trong đó có ông, bỏ tiền túi ra để dựng bia mộ cho ông Bảo Đại. Nhưng mỗi lần như thế bà vợ Bảo Đại đều phản đối, cho người gỡ đi. Chính ông cũng không biết lý do tại sao lại như vậy. Vị giám đốc ấy còn kể rằng sự ngạc nhiên mà tôi gặp khi nhìn thấy mộ Bảo Đại cũng là chuyện bình thường. Đã rất nhiều người VN đến đây thăm mộ. Lần nào ông giám đốc cũng phải dẫn họ đi tìm. Và lần nào ông cũng chứng kiến họ ra về, thái độ rất thất vọng.

Được biết có lần hội Việt kiều đã tổ chức quyên góp mỗi người 1 euro để tu bổ mộ Bảo Đại. Tiền không thiếu, thế nhưng khi quyên xong công việc vẫn không thực hiện được vì gặp sự phản đối của người vợ góa của Bảo Đại. Ngày đám tang của ông có rất nhiều người Việt Nam đến dự. Các cô con gái lai Tây của ông cũng có mặt, nhưng như nhiều người Việt ở đây mô tả “họ đã quá lai căng, không chút vấn vương của tâm hồn người Việt nơi họ”.

Thật bất ngờ! Giữa quần thể nghĩa trang đẹp đẽ của thường dân Pháp là ngôi mộ vị vua cuối cùng của nước Việt nằm nép mình cô đơn và lạc lõng... 

(Theo http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/Cuoc-song-do-day/2005/03/3B9DC23C/ - http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/Cuoc-song-do-day/2005/03/3B9DC23C/ )



Người gởi: Hoang Ngoc Hung
Ngày gởi: 10/Jul/2007 lúc 11:37pm

Hoa Hạ và fan's

Một bức thơ lịch sử của dân chúng Gò Công gửi phản kháng chính phủ Pháp vào năm 1862.

   Trích từ Gò Công xưa của soạn giả Huỳnh Minh, sách có đoạn:

     Cố công sưu tầm ,chúng tôi xin trích lục bức thư đăng trong tuần báo phổ thông , số 7 tháng 10 năm 1952 của soạn giả Trần nguyên Anh gồm những đoạn sau đây : " cuộc tranh thủ độc lập của dân tộc Vịêt Nam đang làm sôi nổi dư luận thế giới phải chú ý tới .Người ta nói rằng cuộc tranh đấu mới có từ mấy năm nay ,thật là một sự hiểu lầm to vì nó đã bắt đầu từ khi triều đình ta nhượng ba tỉnh Miền Đông rồi sau nầy bị quân xâm lăng cướp luôn ba tỉnh miền Tây tức là trọng Nam kỳ Lục tỉnh". Một bằng chứng cụ thể , một tài liệu quí giá với những lời lẻ thiết tha trong lá thư của dân chúng Gò Công gửi lên đô đốc Reveillere tư lệnh quân đội Pháp khi ông nầy đến đó thiết lập tỉnh bộ hành chánh năm 1862. Tiếc rằng bản chánh không còn , nhưng bản Pháp văn do Georges Garro mà chúng tôi tạm dịch ra đây , thiết tưởng cũng đầy đủ lột hết tinh thần nho phong sĩ khí dân ta thời ấy .."


 Cùng nhà đương quyền Pháp


"  Mất chính phủ của bản quốc hoàng đế , chúng tôi đau đớn như con mất cha mất mẹ .Quí quốc ở Tây phương bản quốc ở Đông Hải ,chẳng khác gì con ngựa và con trâu vậy .

Chúng ta khác nhau từ ngôn ngữ từ văn tự ,đến phong hoá .

Tạo hóa sinh ra loài người mỗi giống mỗi khác Khắp trong vũ trụ loài người như nhau nhưng không chung một bản tính .

Vì mang ơn quốc vương chúng tôi,chúng tôi quyết báo thù kẻ nào xúc phạm đến Ngài và chúng tôi sẽ chết vì Ngài .

Vậy sự xung đột sẽ phải dài,nhưng chúng tôi phải làm thuận lòng trời và quyết nhiên chúng tôi phải thắng .

Nếu các ông muốn hoà bình ,Hãy trả lại đất cho Quốc vương chúng tôi .chúng tôi có phải chiến đấu cũng chỉ vì mục đích ấy .Các ông chiếm xứ sở của chúng tôi để tăng cường nền phong phú của các ông ,và để đề cao thanh danh của các ông .

Các ông có muốn một số tiền chuộc đất đai ấy không ?Chúng tôi sẽ trả cho các ông nhưng các ông đừng gây chiến nữa .các ông hãy đem quân đội về xứ của các ông đi .!Chúng tôi sẽ mang ơn , các ông cũng sẽ được tiếng vẻ vang đối với  hoàn vũ .

Các ông muốn có thị trường để mở mang thương Mại ư ?  - chúng tôi sẽ nhân nhượng cho các ông .

Nhưng trái lại , nếu các ông không hứng chịu ,chúng tôi sẽ chiến đấu "mãi " để thuận lòng người .Chúng tôi cũng gớm khả năng của các ông đấy ,nhưng chúng tôi coi sợ trời hơn là coi sợ các ông .Chúng tôi thề sẽ chiến đấu vô cùng , vô tận , không ngừng .

Ngày mà chúng tôi không còn gì nữa ,chúng tôi sẽ bẻ cành lá làm cờ và vỏ trang binh bị bằng đòn bằng gậy .Đến ngày ấy liệu các ông có còn ở chung với chúng tôi được nữa không  ?

Chúng tôi yêu cầu các ông chú ý xét lại thơ nầy và chấm dứt tình trạng tai hại cho quyền lợi của các ông và quyền lợi của chúng tôi . "

 

****************


 

Nhà cầm quyền Pháp ở Sài gòn nhận được lá thư trên .Đô Đốc Réveillière lấy làm khâm phục chí anh dũng của dân tộc Việt Nam và thốt ra lời sau nầy đã làm vinh dự cho ông "Thật ra không phải là những lời sáo rổng ,chưa có một dân tộc nào đã đề kháng nổi thống khổ như vậy ."

Chúng tôi nhắc lại thư nầy để nhận định tinh thần của dân tộc việt Nam và chép vào đây để lưu giữ một trang VĂN SỬ oai hùng của dân tộc Vịêt Nam nói chung và của dân quân xứ Gò Công nói riêng .



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info