TỪ THIỆN
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Tâm Tình
Forum Discription: Giải bài tâm sự về gia đình, xã hội hay chính mình về điều gì đó.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7051
Ngày in: 14/Nov/2024 lúc 12:20pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: TỪ THIỆN
Người gởi: cao the
Chủ đề: TỪ THIỆN
Ngày gởi: 09/Aug/2011 lúc 5:35pm
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/nhoc_salad2009/article?mid=62 -
Hôm rồi
tôi được đến thăm một ngôi chùa ở Đồng Nai, là nơi nuôi giữ hằng trăm cháu bé
mồ côi. Có lẽ ai bảo rằng khi người ta đến đó, người ta làm từ thiện, nhưng đối
với tôi, khi bước chân vào ngôi chùa ấy, tôi được bọn trẻ từ thiện cho tôi.
Điều tôi
nhận được không phải là những bài pháp thí, những câu răn dạy mà chỉ là sự bình
yên. giữa đời sống, đôi khi mình cần sự bình yên nhiều hơn là những giáo điều. Những
tà áo nâu, vàng và xám tung tăng chạy chơi cùng nhau nơi một quãng sân rộng trồng
tòan những cây mít, xòai, bưởi. Khi có đòan nào đến viếng chùa, bọn trẻ sẽ xếp
thành một hàng dài đọc những kinh cầu cho cha mẹ, ông bà, đạo pháp, đất nước,
chúng sinh v.v… có những bạn mắt nhắm tít lại, như thả hồn vào những lời kinh,
hay đôi lông mày rậm nhíu thật chặt để cố nhớ, cố đọc theo kịp bạn bè... đó là
bình yên đấy.
Điều tôi
được bố thí không phải là tài vật, không phải là pháp thọai mà chỉ là sự bình
yên. Bình yên khi ngắm bọn trẻ nô đùa bên Sư bà dáng cao cao, gầy gầy. Bình yên
khi thấy bọn trẻ đem tặng mình chén tàu hủ giữa cái nắng trưa oi ả, bình yên
khi thấy màu áo lam ngồi cặm cụi học bài trong góc chùa yên tĩnh, bình yên khi
dùng một chén cơm chay. Sao tôi lại bình yên khi dùng một chén cơm chay ? vì đó
là do những con người bình yên đến kì lạ, và giản dị đến chất phát nấu. Tôi tập
ăn một chén cơm trong sự tỉnh thức, tôi cố gắng tìm trong từng món chay, từng
hạt cơm sự từ tâm cúng dường của các Phật tử, sự yêu thương chan hòa của những
vị làm công đức, niềm vui ngây thơ của bọn trẻ khi phụ các dì, các cô gọt củ
cải đỏ, cải trắng, lặt mấy bó rau. Tôi tìm đựơc gì ngòai sự bình yên cơ chứ ?
tôi chỉ thấy bình yên đến không bằng vũ lực không bằng sự đấu tranh mà là sự
hòa quyện, yêu thương và chan hòa,
Trên
tường những bức thư pháp với nét chữ chẳng chút cầu kỳ, chỉ là những nét phát
đầy đơn sơ và bình dị... vậy mà vui, vậy mà cảm thấy bình yên. Tôi chợt nhận ra
tôi khi tôi đến nơi đây, tôi nhận được quá nhiều, nhận được còn nhiều hơn tất
cả những gì tôi đã mang lại cho bọn trẻ, cho các ni sư, đó là sự bình yên, yêu
thương và an lạc.
Tôi chợt
nhận ra từ cám ơn của cuộc đời đã đôi lần bị tôi bóp méo... cám ơn vì khách
sáo, cám ơn vì tỏ ra bản thân lịch lãm, cảm ơn để nói tôi là người trí thức...
tôi chưa học được như bọn trẻ biết nói cám ơn từ sự ngây thơ và hồn nhiên.
Tôi chợt
nhật ra từ xin lỗi của cuộc đời từng bị tôi vò lại, rồi đặt ở một nơi khác...
tôi tự xin lỗi để mong chờ sự thông cảm, mong chờ sự tự nhận lỗi về phần mình
của người đối diện, tôi xin lỗi để người ta đừng nhìn vào lỗi của tôi nữa, tôi
xin lỗi vì người ta dạy tôi phải như thế.... còn bọn trẻ chúng hồn nhiên xin
lỗi, xin lỗi để thấy lỗi và để thấy mình còn là con trẻ.
Tôi chợt
nhận ra những lo toan của tôi khi công việc bộn bề kéo đến chỉ là những động
tác tự dối lòng... tôi hay cho chính mình là người quan trọng, tôi lo lắng với
những việc bé xíu để tôi thấy tôi được cao hơn... còn vị sư bà kia lại khác, bà
lo lắng vì tình thương và lòng từ tâm.
Tôi lại
nhận ra mình học Phật như một nhãn mác của giới trí thức bây giờ, ai nói đến
đâu tôi cũng có thể nói đến đó... nhưng tôi vẫn chưa thấy lòng mình an lạc,
chưa nở được trên môi một nụ cười của trẻ thơ. Tôi học Phật như một cách chứng
tỏ bản thân, vì những tư tưởng của Phật giáo giúp tôi viết văn hay hơn, có
chiều sâu hơn v.v… nhưng tôi vẫn chưa có thang để bắt lên, trèo khỏi cái chiều
sâu ấy... mà sợi thang chỉ là một nụ cười.
Một
ngày nào đó, bạn ghé lại ngôi chùa với bọn trẻ áo lam, áo vàng chạy ra chào
đón, chúng chắp tay hình búp sen nõn nà và xinh xắn. Chúng đọc cho bạn nghe
những bài kinh nhật tụng đầy yêu thương. Xin bạn, khi trao cho chúng những món
quà thì hãy bỏ lại, gác lại hai tiếng TỪ THIỆN, vì bọn trẻ, vì ngôi chùa đã cho
bạn quá nhiều, nhiều hơn những vật dụng bạn mang đến cho họ... đó là Bình yên,
là niềm vui, là nụ cười, là tất cả những gì họ có... còn những vật phẩm của
bạn, đôi khi là những vật cầu tài, xả xui, hay vì làm ăn phát đạt, quay lại cảm
ơn trời đất. Bọn trẻ, và vị Sư bà vẫn nhận,. nhận để gieo cho bạn một chút
duyên lành của Bình yên..... đó là sự TỪ BI.
Cao
Hồng Ân
|
Trả lời:
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 10/Aug/2011 lúc 7:40pm
Chuyến đi
Tháng trước,
tôi có cơ hội được đến Đà Lạt. Chuyến đi kéo dài 2 ngày và 1 đêm. Đây là một
chuyến đi giúp đỡ người nghèo ở những vùng xa xôi của tỉnh Lâm đồng. Đây là một
chuyến đi thú vị nhất mà tôi từng được tham gia.
Chúng tôi bắt
đầu khởi hành ở Sài Gòn vào lúc 4h sáng, trời còn sương mù và không khí se
lạnh. Sau khi đã sắp xếp hành lý, quà bánh lên xe, chúng tôi lên xe và ngả lưng
xuống ghế. Lúc đầu tiên, cơn buồn ngủ kéo đến, chúng tôi thiếp đi và thức dậy
vào lúc 7h sáng, bởi tiếng gọi của người trưởng đòan. Cô ấy gọi chúng tôi thức
dậy để tham gia một số sinh họat trên chuyến đi, bao gồm hát những bài hát về
tuổi trẻ, chơi một số trò chơi nhóm, và ăn sáng với bánh mì và thịt. Nắng đã
lên, ấm áp và tươi sáng, không khí chuyển dần sang mát mẻ hẳn khi chúng tôi lên
đèo. Nắng vẫn gay gắt, nhưng không khí lõang hơn, và chúng tôi bảo với nhau
rằng :” Đà Lạt đang ở rất gần”, chúng tôi đi ngang qua miếu 3 cô, và được nghe
người trưởng đòan kể sự tích ngôi miếu ấy.
Chúng tôi đến Đà
Lạt sau khi uống café, ăn bánh và dùng trà tại một nhà hàng nhỏ, tất cả đều
free vì đây là một hình thức giới thiệu thương hiệu sản phẩm của họ. Chúng tôi
ăn trưa với xôi gà do một chị trong đòan
mang theo.
Không khí trở
nên lạnh hơn, chúng tôi cảm nhận thấy lá
cây như xanh hơn, hoa đẹp và rực rỡ hơn. Chị trưởng đòan bắt đầu giới thiệu về
Đà Lạt, và lịch trình của chuyến đi. Chị bảo chúng tôi sẽ ghé lại một Tu Viện
của các Ma-Sơ và bắt đầu gói quà, chị hướng dẫn chúng tôi cách gói và sắp xếp.
Công việc ấy khá nặng, nhưng vì không khí mát mẻ, và những bài hát luôn được
vang lên trong suốt quá trình làm việc, nên chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn công
việc được hòan tất nhanh trước thời hạn.
Tối đêm đó,
chúng tôi ghé một nhà thờ trên đồi, đây là nơi chúng tôi sẽ tổ chức lửa trại và
tặng quà cho những trẻ em người dân tộc K’ho. Không khí trên đồi lạnh lắm ! Ai
trong chúng tôi cũng co ro, mặc dù đã khoát lên người 2 lớp áo lạnh. Chúng tôi
bắt đầu chất những cây gỗ to để đốt lửa trại, và tốp còn lại sẽ thổi những
chiếc bong bóng xinh xắn cho trẻ em. Buổi lửa trại bắt đầu, và khi đến gần bên
đống lửa, ca hát và nhảy múa, chúng tôi cảm thấy ấm áp hạnh phúc. Tôi đặc biệt
thích ngắm những gương mặt rạng rỡ niềm vui của những trẻ em nghèo khi chúng được
nhận quà… vì chỉ còn hai ngày nữa là đến lễ Noel, chúng tôi đã bí mật chuẩn bị
một bộ đồ của già Tuyết, mang cho một chú khá to người trong đòan, ông già tuyết đã bước ra giữa những ánh nhìn
trầm trồ của bọn trẻ. Chúng rất hạnh phúc, chúng tôi nghĩ thế. Chúng tôi cũng
rất vui khi được mang đến niềm vui cho người khác.
Chúng tôi lên
xe trở về khách sạn. Sáng mai chúng tôi rời Đà Lạt lúc 7h sáng, trong niềm
luyến tiếc vì chưa ai có cơ hội được nhìn ngắm những đóa hoa tuyệt đẹp của phố
núi. Tuy nhiên những đóa hoa trong lòng chúng tôi đang nở rộ. Tôi nghĩ rằng đây
là chuyến đi rất có ý nghĩa, vì nó giúp tôi biết trân trọng hơn những gì tôi
đang có, và biết san sẽ với mọi người nhiều hơn. Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 12/Aug/2011 lúc 9:14pm
Thầy
Duy Nhiên ơi
Con
xin phép được gọi người quản trò trên chuyến từ thiện hôm ấy là Thầy, một vị
Thầy ở cạnh mọi người trong đòan vỏn vẹn gần 24 tiếng, đủ thời gian để con hiểu
Thầy, đủ thời gian để con hiểu rằng trong Thầy tràn đầy một sức sống, một tình
yêu cho tha nhân. Nhưng Thầy ơi, khỏang thời gian ấy không đủ để con học được
hết những đức tính của Thầy, những kiến thức bao la của Thầy, cách Thầy quản
trò làm cho cả đòan có những khỏanh khắc thật bình an và hạnh phúc.
Hôm
rồi, con điện thọai cho cô Nga để hỏi thêm thông tin về chuyến đi sắp tới, con
được cô báo tín rằng Thầy mất… vỏn vẹn như thế, con chưa kịp hỏi nguyên nhân,
chỉ lặng lẽ nói với cô :” Cô ơi, con tiếc quá, Thầy là người rất tuyệt vời !”
Hôm
đi cùng với Thầy, con đã hỏi Thầy về sự tích miếu Ba Cô, hỏi Thầy về hoa mắc
cỡ, hoa trinh nữ, rồi tất cả những gì con thấy trên suốt chuyến đi… Thầy đã
giải đáp tất cả, bằng một giọng kể hết sức hấp dẫn và thú vị… những tràn cười
khiến cho chuyến đi dài đằng đẵng không làm cho cả đòan mệt mỏi… chuyến đi kéo
dài 2 ngày, ngày cuối cùng là sinh nhật Thầy, con nhớ hôm ấy mọi người đã vỗ
tay cùng Thầy cắt một chiếc bánh bông lan sơ sài... bài hát Happy birthday to
you vang lên trên những con đường đèo hẻo lánh. Nắng như trong hơn và nhẹ nhàng
hơn trong tiếng hát và nụ cười, con nhìn nụ cườin của Thầy, thấy giống hệt một
đứa trẻ… bình yên, bao dung và đầy hiểu biết…
Chuyến
đi ấy mang Thầy đến với con, mang mọi người đến với những người nghèo khổ nơi
heo hút của tỉnh Lâm Đồng. Núi đồi bạt ngàn, bên phải là những rừng thông, bên
trái là dốc đá thăm thẳm, những ruộng đồng bên dưới, màu xanh của nương rẫy,
màu vàng đậm của những mái nhà trải ra trước mắt con_thằng bé lần đầu tiên đi
xa như thế cho một chuyến đi từ thiện…. tuyệt vời thật Thầy ạh, con cảm giác
như con đang sống thực với chính con “ cho con một trái tim mới biết thứ tha
cho người, cho con là những vòng tay đón nhận người cô thế, cho con là những nụ
cười sưởi ấm bao buồn đau, cho con là niềm tin mới hiến trao đời an vui… cho
con là muối trần gian ướp mặn đời u tối”
Khi
xe lăn bánh tiến về Sài gòn, trong lòng con hân hoan lắm, chuyến đi ấy đã giúp
con có được những người bạn mới, những người bạn là những vị Thầy sống nơi các
dòng tu, những người trẻ đầy nhiệt huyết giúp đời, những bác sĩ nhân hậu và
riêng Thầy là người cho con hiểu hơn về Sức mạnh của tình yêu điều mà Chúa Jesu
rao giảng và mang cả cái chết để minh chứng.
Con
tin rằng Thầy sẽ được Chúa đón về nước Chúa, đón về với một vùng trời đầy yêu
thương và bác ái… bởi lẽ ngay khi Thầy sống, trong từng giây phút, Thầy đã là
“con trẻ” những đối tượng đặt biệt của
nước Trời.
Cảm
ơn Thầy, cảm ơn chuyến đi ấy đã thay đổi con… con đã tìm được một cách sống vì
mọi người và vì tha nhân nhiều hơn nữa, Thầy ạ… nhờ vào nụ cười của Thầy… con
tin khi Thầy nằm đấy, nụ cười vẫn không tắt… và ngọn lửa “sai đi” vẫn cứ mãi sáng
ngời…
Con
không muốn viết một bài viết tạm biệt, hay vĩnh biệt Thầy, vì con hiểu Thầy
không mất đi, Thầy đang hiện diện trong chúng con, trong nụ cười khi đòan chúng
con trao quà cho người nghèo và hát cho nhau nghe…
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 13/Aug/2011 lúc 8:10pm
Đi chân trần qua những
đồng cỏ khô cháy. Nghe thân cỏ gãy vụng nơi từng bước chân. An nhiên và tĩnh
tại, mặc nhiên hôm nào đó ta trở thành cỏ. Cũng vỡ tan nơi những nẻo đời đang
cuồn cuộn trôi.
Có con rùa mù từ biển sâu
trồi lên giữa mặt biển bao la. Cổ rùa tự dưng đưa ngay vào giữa bọng cây đang
trôi dập dìu nơi sóng lớn. Rùa bảo với cây, vậy là duyên. Nhưng rùa không thể
mãi ôm bọng cây để trôi nổi giữa mù khơi, cuộc sống của rùa là nơi đáy biển
thâm u huyền ảo. Cũng ngày nào đó, khúc gỗ yêu thương ấy tan ra giữa những cơn
sóng hung hãn. Cũng một ngày nào đó, rùa vĩnh viễn nằm lại nơi tận cùng của đại
dương sâu thẳm… nên duyên ấy dù giữ, hay không cũng vẫn sẽ vỡ tan như trăm ngàn
con sóng lớn nhỏ ngoài kia.
Nếu nơi cõi Ta Bà này,
mình không sống trọn vẹn với nhau từng giây phút của tình thân, của chia sẻ và
yêu thương thì nơi cõi Bụt, mình cũng sẽ vẫn loay hoay, vẫn sẽ thơ thẩn bên
những vết thương của ký ức. Rồi mình lại hẹn nhau ở một cõi khác nữa. Cứ thế,
mình lại là khách trọ nơi các cõi ấy. Vì chưa bao giờ mình uống cạn và thưởng
thức được vị ngọt của hiện tại.
Dòng vô thường cứ trôi,
dòng quanh quẩn sống và chết cứ cuồn cuộn chảy. May cho mình, có người chỉ cho
mình thấy ngoài khổ đau ra mình còn có khả năng chế tác ra hạnh phúc. Mình có
khả năng như Bụt và các Bồ tát khác. Nếu Quan Âm có thể bố thí sự vô uý, thì
với thân giả hợp này mình cũng có thể mang lại sự vô sở sợ cho người khác. Nếu
Bụt Di Đà mang đến ánh sáng, mang đến Tịnh độ thì mình cũng có thể làm như thế
bằng xác thân ngũ uẩn này. Cho nên bên cạnh những cuộc chạy trốn sự khổ, những
chủng tử của súc sanh, quỷ đói, và địa ngục mình còn có viên ngọc mà Kinh Hoa
Nghiêm Kỳ Diệu đã nhắc đến. Người bạn lành đem may viên ngọc vào trong túi áo của
kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày đi khắp chợ, khắp phố cầu xin từng đồng xu, hạt gạo, bữa
cơm ngay lúc trong túi áo lại có vật giá trị trăm ngàn muôn lượng. Mình quên đi
mình có khả năng chuyển hoá chốn đau thương này, và làm nơi này biến thành vùng
đất của niềm hoan hỷ vô lượng. Một câu ái ngữ, một mắt lành trông chúng sanh,
một hơi thở có ý thức chỉ bấy nhiêu đó thôi mình đã chạm được vào bản nguyện của
chư Bụt và Bồ tát rồi.
Con rùa già mù loà sẽ ra
đi trong hối tiếc, trong đau đớn khi nhớ về bọng cây. Cái hối tiếc, đau khổ ấy
sẽ dẫn nó đến một thân mới cũng giống như ngày nó ra đi. Để loay hoay chờ đủ
duyên tìm lại một bọng cây mới ở kiếp sau và kiếp sau nữa. Sóng vẫn làm công
việc muôn đời của sóng, là xô đẩy những bọng cây trôi đi bất tận. Rùa vẫn tìm
kiếm. Vậy thì nhân nào làm mình quanh quẩn ở chốn này… có phải là những mong
cầu, hứa hẹn, chỉ núi thề sông hay không ? Sóng là dòng duyên trôi… có ai biết
duyên nào sẽ đến đâu. Tuỳ duyên là một cách có thể chuyển hoá được đau khổ và
vượt khỏi xoáy sinh tử. Vì không cầu mong, mà đều hoan hỷ với bất cứ chướng hay
thuận duyên. Ai đi chùa, ai tu tập cũng biết đến từ Tuỳ Duyên. Và hay nói từ ấy
vào khi mình gặp những ngịch cảnh, những nỗi khổ niềm đau. Nhưng mình vẫn âm
thầm đi tìm những thuận duyên giống như rùa mù mải miết kiếp này sang kiếp khác
tìm người tình bọng cây.
Cõi Tịnh Độ nếu không
hiểu rõ, sẽ trở thành bọng cây ấy. Cõi đó không phải là nơi toàn là những thuận
duyên. Nếu mình chưa liễu ngộ được ý nghĩa của từ tuỳ duyên thì đi đâu mình vẫn
nhìn mọi việc với tâm phân biệt giữa thuận, và chướng. Mình lỡ thấy Bụt Di Đà
xoa đầu người khác mà không xoa đầu mình. Mình sẽ giận và ấm ức Bụt nhiều lắm,
và mình cho đó là Chướng duyên. Cho nên trong Kinh về cõi Bụt Ánh Sáng, có nói
rằng cõi ấy không có từ KHỔ. Vì bài học đầu tiên của chúng sanh nơi cõi ấy là
TUỲ DUYÊN, và không nhìn mọi việc với con mắt nhị nguyên. Đúng-sai,
Tốt-xấu, đau khổ-hạnh phúc, chướng-thuận. Đó là những ý niệm không có thực. Bị
vướng vào những tư tưởng nhị nguyên này, mình sẽ đau khổ nhiều lắm, và chủng tử
đố kỵ, chủng tử ngạ quỷ sẽ có cơ hội để đâm chồi nảy lộc. Mình phải gỡ những
chỗ vướng mắc ấy, giống như người đi đường do sơ ý bị áo móc vào bụi gai. Người
đó giữa trời nắng chang chang phải đứng lại gỡ ra, đôi khi gai còn đâm vào tay
chảy máu, trầy da… nhưng vẫn phải tiếp tục vì đường còn xa, và thời gian không
còn nhiều nữa,
Mỗi lần, mình cúi đầu lạy
một vị Bụt, một vị Bồ tát mình hãy nguyện như vầy. Con nay có đủ hết tứ chi để
làm thành 5 vốc. Con xin lạy Bậc Vô thượng trí, Bậc Chiến thắng phiền não, Bậc
Từ Bi Vi Diệu giùm những loài súc sanh vì chúng không có trí tuệ để nhận biết
chư Bụt, những loài ngạ quỷ vì họ không có giây phút nào ngơi sự đói khát để
nhận biết chư Bụt, và những loài Địa ngục vì ngoài những đau khổ, nóng rát,
kinh hoàng họ không có không gian nào để nhớ nghĩ đến Bụt. Xin lạy thay họ, và
nguyện cho họ được mát mẻ, soi sáng và đủ đầy. Nếu thực tập như vậy đến lúc nào
đó, mình sẽ không còn thấy mình và Bụt là 2 thực thể riêng biệt nữa. Mình ở
trong tim Bụt, và Bụt ở trong tim mình. Không còn những đối tượng nữa mà chỉ
còn lại lòng bi mẫn bao phủ khắp mười phương cõi đất này. Như thế là mình sống
trọn vẹn trong từng động tác lễ lạy, mình sống và thưởng thức Tịnh Độ hiện tiền
bằng tâm Từ Bi của Bồ tát Lắng Nghe, bằng nguyện lực oai hùng của Ngài Địa Tạng
và sự tỉnh thức an nhiên của Mười Phương Chư Bụt.
Mỗi lần, mình ngắm nhìn
Bụt, hay Bồ tát mình đừng xem đó là người có thể ban phước lành, người có thể
cứu độ mà là những huynh trưởng, những tiền bối để mình học hỏi, noi gương và
hoà điệu cùng các Ngài với tâm thành kính. Đó là mình ngắm Bụt, hiểu Bụt và
nhìn Bụt với con mắt của trí tuệ, yêu thương chứ không còn hễ nhìn thấy Bụt là
nghĩ đến tiền tài, danh vọng, vật chất nữa. Mình đã khoát lên Bụt những lớp màn
của sự huyền bí, của cầu tài lộc từ rất lâu rồi, hôm nay chính tay mình sẽ gỡ
những rèm che ấy để thấy Bụt tinh tuyền đến nhường nào. Mình gọi Phật là Bụt vì
nghe có vẻ thân thương lắm ! Thấy tựa hồ như mình là đứa con nhỏ gọi cha ơi, mẹ
ơi ! Từ Phật để dành cho những buổi lễ trịnh trọng và trang nghiêm khi ấy vị
Thầy trở thành người chứng minh, và được khoát chiếc áo của sự oai nghiêm. Còn
từ Bụt, mình dùng để tâm sự, để sẻ chia và thủ thỉ. Giống như ngày xưa, bên đạo
Kitô, các môn đồ của Chúa Jesus gọi Ngài là Thầy… Lạy Thầy… nghe thương lắm !
Nó phá đi giới hạn, phá đi những rào cản của sự nghiêm trang đôi khi không cần
thiết. Các vị đến giáo hoá nơi cõi thương đau này, đều muốn lắng nghe đau
thương để ủi an chứ đâu cần nghe những lời tán dương sợ sệt. Chúa sẽ vui khi
mình gọi Thầy ơi ! Phật sẽ vui khi mình gọi Bụt ơi… con kể Bụt nghe, con hứa
với Bụt ! Bồ tát sẽ cười thật tươi khi mình gọi Ngài là Mẹ ơi ! Mẹ Quan Âm ơi…
cho con phụ mẹ một tay nhé, Mẹ tần tảo sớm hôm nhiều rồi… giống hệt như
đứa con nhỏ nói với mẹ rằng :” Mẹ ơi, hôm nay con vào bếp với mẹ nha ! “… có
người mẹ nào nỡ lòng từ chối lời đề nghị dễ thương như vậy ?
Đây là một phương pháp
rất hay để đạt đến một sự chứng ngộ khó tìm được. Người chuyên môn gọi là TÂM
ĐỒNG TÂM CHƯ PHẬT, còn nếu những đứa con trong nhà khi hiểu, thông cảm và chia
sẻ với Cha mẹ thì gọi là con Ngoan. Sự đồng tâm ấy không có gì khó tìm, nếu
mình biết cởi bỏ lòng ham thích huyền bí, phép lạ, và những điều khó hiểu. Mình
không cần phải ngồi thiền, niệm Phật, trì chú hằng giờ liền để đạt tới cảnh
giới này. Chỉ cần ngồi thật vững, thật thảnh thơi, trải tâm từ ra mênh mông với
hết thảy mọi loài, rồi thủ thỉ nhỏ với Bụt… Bụt ơi, xin cho con được dự phần
vào hạnh nguyện của Bụt… Bụt Ánh Sáng ơi, xin cho con cùng Bụt thiết lập Tịnh
Độ…
Mỗi ngày lễ Tết , cả gia
đình quây quần bên nhau, cùng nhau cố gắng giữ chánh niệm, nói lời ái ngữ vì ai
cũng mong năm mới sẽ có nhiều niềm vui, hạnh phúc. Ngay lúc đó, gia đình trở
thành Tịnh độ, để mọi người biết tu tập ( tức là từ bi và tỉnh thức ) tụ hội
về, đồng hướng về một mục đích chung là Giác Ngộ. Tịnh Độ không nằm ở phương
Tây xa xăm, Tịnh độ có khả năng được thiết lập tại đây nơi những người dễ
thương hội tụ. Trong đạo Kitô, Thầy Jesus nói rất hay, rất có hương vị của Tịnh
Độ : Hễ ở đâu có từ hai người trở lên cầu nguyện vì danh Thầy, thì Thầy sẽ ở
giữa những người đó !
Chỉ cần thân nhẹ, tâm an,
miệng mỉm cười và cùng hỗ trợ nhau tu tập thì ấy là Tịnh độ, còn ở Kitô giáo là
mời được Thầy Jesus về hiện diện nơi buổi cầu nguyện. Đó là phép màu có thật
giữa thế gian.
Tịnh Độ có được, khi mỗi
người nơi cõi giới ấy thành thục về pháp Tuỳ Duyên, để tha thứ cho nhau, hỗ trợ
nhau tu tập. Mình không thấy việc tôi quan trọng hơn việc anh, mình không thấy
tôi gồng gánh cõi này nhiều hơn anh, mình lại càng không thể thấy rằng vì mình
tu giỏi, được gần gũi chư Phật mà tỏ ra ngạo mạn. Hay tệ hơn nữa là tôi ôm ấp
nhiều nỗi khổ niềm đau hơn anh nên anh phải hiểu tôi chứ ! Sẽ không ai hiểu
mình, nếu mình không tuỳ duyên mà hiểu người. Bụt Di Đà hiểu điều đó rất sâu
sắc, nên Bụt hoá thành các loài chim quý ngày đêm hót vang. Những tiếng hót ấy
là bài giảng pháp. Bụt hoá thành gió xao động hàng cây. Tiếng xào xạc của lá
trở thành bài giảng pháp. Từ Nhất phẩm đến Cửu phẩm sen đều hiểu theo cách
riêng. Bài pháp không dành riêng cho bất cứ phẩm nào mà thực sự lại dành riêng
theo một cách đặc biệt. Chỉ cần hiểu như vậy về Bụt Di Đà, mình sẽ hiểu người
đứng đầu Tịnh Độ phải có một tâm từ bi, và trí tuệ rộng lớn đủ hiểu tâm tánh
của chúng sanh như trong lòng bàn tay. Và ý tứ đến mức sợ chúng sanh phát tâm
phân biệt lớn nhỏ, nặng nhẹ mà phải chọn cách giảng pháp vi diệu như vậy.
Học ở Bụt Di Đà, mình sẽ
thấy tình thương mình đưa ra hơi vô tư đôi khi trở thành sự kiêu mạn của người
này, và sự tủi thân của người kia nếu như mình ở cương vị của một vị Thầy, một
người lớn. Thì với địa vị càng lớn, tình thương và cách thể hiện tình thương
càng phải có chánh niệm, tỉnh giác. Tình thương gây ra đau khổ, và ngã mạn là
tình thương của Thế gian, đó không phải là từ bi mà chỉ là những luyến ái đời
thường.
Vậy mình có thấy rằng nơi
này, ngây bây giờ có thể xây dựng được một Tịnh Độ chỉ cần có sự tỉnh thức, từ
bi và đoàn kết. Chỉ nhiêu đó là đủ cho một Tịnh Độ hình thành giữa Ta Bà rồi.
Mình không nên xem Ta Bà là một danh từ không đẹp, nó có thể là uế trược nhưng
nó là nền tảng của tất cả sự chứng đắc, là pháp của tất cả các pháp thành tựu
giác ngộ. Cho nên, Ta Bà là một mảnh đất cần được chăm sóc, chuyển hoá và bồi
dưỡng. Đừng phụ lòng Đất Mẹ này, khi mỗi ngày ta phải vay của đất hơi thở, ly
nước,lá rau, miếng đậu phụ, mà lại thấy Đất Mẹ xấu xí, và mơ về một cõi đất ở
phương Tây. Nếu ta không có khả năng trang hoàng cõi này cho tốt đẹp, thì ở cõi
khác ta vẫn sẽ sống không an ổn vì gốc ta không an trụ vững chãi.
Niệm Bụt Ánh Sáng, ta
phải thấy được Bụt đang ở trong ta, và đang cùng ta niệm. Từ niệm rất hay,
không phải là kêu tên. Pháp môn Niệm Bụt được gọi là Tịnh Độ tông, Độ có thể
hiểu là cứu thoát, giải thoát, Tịnh là thanh tịnh. Vậy tức là một pháp môn dùng
sự thanh tịnh mà giải thoát chúng sanh. Do vậy, trước phải làm sao thanh tịnh
tâm và thân này. Hãy thở với Bụt, hãy đi đứng nằm ngồi với Bụt. Để thấy Bụt là
năng lượng rất lành, rất mát mẻ và sâu sắc. Bồ Tát Lắng Nghe dạy rằng khi niệm
Bụt miên mật và đạt được thành tựu ta sẽ có khả năng ấn ngón chân cái xuống đất
và cõi Ta Bà trở thành Tịnh Độ trang nghiêm. Đó không phải là khả năng của
riêng vị Bồ tát ấy, mà cũng là của ta, của tất cả hữu tình này nếu chúng ta
biết gọi : Bụt Ánh Sáng ơi ! Con mời Bụt về nơi đây cho con được phép ngồi thở
với Bụt và Bụt cùng con niệm danh hiệu của Bụt nha !, hay giữa mọi người ta
biết cách kiến tạo Tịnh Độ trong tỉnh thức trên nền tảng của pháp Tuỳ duyên.
Ta có thể chọn một phút
giây nào đó, thật yên tĩnh và bình an, và tập thủ thỉ tâm sự với Bụt, Bụt ơi
con không biết cách đi, cách đứng cho vững chãi và thảnh thơi. Bụt dạy con, và
đi cùng con nhé ! Bụt sẽ vui lòng lắm. Không phải cứ ở chùa, ở Tịnh Độ là chắc
chắn ta sẽ bước chân có tỉnh thức. Tỉnh thức nằm ở trong tim ta. Mỗi bước chân
chạm xuống mặt đất là một lần ta phát khởi hạnh phúc. Vì ta có đôi chân này để
bước đi, vậy xin dùng đôi chân này để mang đến lợi lạc cho tha nhân, cho hữu
tình. Đi tỉnh thức không phải là đi cho thật chậm, mà càng không phải là đi
nhanh. Mà đi phải có oai lực, và kiểm soát được đôi chân này, đôi tay này. Có
những đứa trẻ bị bại liệt, chúng không có đôi chân để đi trên đất nhưng chúng
vẫn là những thành viên của cõi Bụt, vì chúng đến đó bằng Tâm vươn lên khỏi
nghịch cảnh như đoá sen vượt thoát bùn nhơ. Trong khi ta có đôi chân là có thêm
một phương tiện nữa để vào cõi của Bụt Ánh Sáng ngay khi ta còn hiện diện ở Ta
Bà này. Vì đường xá nơi cõi ấy toàn là pha lê, được trang hoàng bảy loại báu dát
vàng bạc nên bước chân ta sẽ phát khởi được chánh niệm. Nếu ngay thời điểm này,
ta không có chánh niệm trong từng bước đi, thì khi về cõi ấy ta sẽ luýnh quýnh,
ngượng ngùng biết chừng nào ? Khi ở chùa, ở cõi Cực Lạc, chắc chắn cũng sẽ có
những vị Thầy, vị Bụt giao cho ta công việc. Mình gọi là Phật sự. Phật sự là
làm công việc cho Phật. Vậy mình không thể làm công việc ấy với cái tâm, cái ý
hệt như làm thế sự được. Không thể để chút lửa sân, chút kiêu mạn vào từng động
tác nhỏ. Phải ý thức, bình đẳng, và từ tâm ấy mới là ý nghĩa thật sự của Phật
sự. Không phải làm vì công việc, mà làm vì lợi ích của hữu tình, không phải làm
vì bản ngã mà làm vì Bồ đề tâm của mình và tha nhân, không phải làm vì ông Bụt
ngồi trên điện thờ mà làm vì hàng ngàn, hàng vạn vị Bụt đang ẩn tàng trong mỗi
người xung quanh. Nếu làm với tâm như vậy, ta sẽ thấy việc nào cũng vừa sức,
việc nào cũng sẽ thành công, việc nào cũng đẹp lòng chư Bụt mười phương.
Danh hiệu Bụt không phải
chỉ là tên gọi đơn thuần. Mỗi danh hiệu gắn liền với nguyện lực sâu dầy của vị
Bụt ấy. Cho nên khi ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì ta phải hiểu đó là tập hợp
của nhiều yếu tố mà điển hình là trí tuệ, từ bi, an lạc… và ta cho chúng mặc
nhiên theo hơi thở này ngấm vào trong từng tế bào của ta.
Khi ta niệm Bụt và
bước đi trong chánh niệm thì ở cõi Cực Lạc, ta đã có mặt thông qua hình ảnh của
đoá hoa sen. Tức là ta đã góp phần làm đẹp cho Tịnh Độ rồi…
Namo Avalokitesvara
Namo Shantideva
Nguyện những điều con viết ra trong Chánh niệm đều cúng dường Như Lai, và vì lợi ích của hữu tình. Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 15/Aug/2011 lúc 8:46pm
NỤ CƯỜI GIỮA
PHỐ.
Đêm nay thành
phố lạnh quá … người ta vì lạnh mà đổ xô ra đường, cái lạnh nối anh và em xích
lại gần nhau và bàn tay tìm nhau để nắm chặt … hơi ấm truyền cho nhau giữa cái
se lạnh của phố thị … bình yên như một bông tuyết.
… bên góc đường ở ngã tư Lý Thường Kiệt và Trần Hưng
Đạo, có một người ngồi giữa phố đêm. Tôi gặp anh không một lý do nào cả, tôi đi
học ngang qua nơi anh ngồi, tôi ghé lại, mỉm cười, rồi miệt mài với con chử và
tương lai. Anh vẫn ngồi đấy, bụi khói lơ lững giữa đời. Có đôi lần anh đi ngang
nhà tôi, từng bước chầm chậm giữa phố trưa nắng như lửa đốt, thân hình gầy gò
và quần ngắn cũn cỡn, chiếc áo sơ mi bạc màu. Anh nhìn vào nhà tôi, lúc ấy tôi
đang trông quán giúp Dì, tôi nhìn anh và tôi cười với anh, anh trả cho tôi một
nụ cười tinh tuyền nhất trong những nụ cười tôi đã từng nhận được từ những
người dưng … mối quan hệ của chúng tôi chỉ có thế, chỉ có những nụ cười, cúi
xuống cười và đi … chỉ đơn giản là thế, anh trao tôi nụ cười tinh tuyền và tôi
trao anh nụ cười của tất cả yêu thương vào những trưa hè đầy nắng, anh bước
thấp bước cao trên phố trưa êm đềm … một mình, một dáng đi lẻ loi và cô độc.
Tôi chạy vào nhà, lấy vội chiếc nón ngày trước đi du lịch hay đội, đến bên anh
… giữa cái nắng trưa gay gắt, đội nó lên đầu anh, những sợi tóc lần đầu tiên
tôi nhìn kỹ, lơ thơ và trơ trọi … anh nhìn tôi cười thật tươi, đôi mắt to tròn
thường ngày, nheo lại vì nụ cười ấy, anh cười bằng tất cả những cơ mặt và lấy
tay sờ sờ vào chiếc nón trên đầu, môi anh mấp máy nói một điều gì đó không rõ,
tôi không quan tâm … chỉ biết nhìn anh cười và tự dưng tôi cũng cười theo …
cười bình dị, cười như trẻ thơ … ngày hôm ấy tôi đã đến tận cùng của nụ cười,
bình yên và hạnh phúc.
Có đôi lần giữa đời, tôi đã cười, cười vì thỏa hiệp,
cười vì đau đớn, cười để thôi không khóc mướt vì những đau khổ. Xa xa nụ cười
trưa hôm ấy là những tiếng cười về đêm của những quán bar đầy nhạc và đầy những
hoan lạc, những niềm vui trần thế, đám thanh niên trao cho nhau những nụ cười,
cười khi giải tỏa tạm bợ những nỗi khổ niềm đau, cười khi cha mẹ thấp thỏm ngồi
nhà ngóng trông con, cười khi ngoài kia những người tàn tật chắt chiu 2,000
dồng tiền xu để dành cho tương lai và cười khi trong nhà lồng chợ, bác lao công
vẫn miệt mài với từng nhát chổi, mỗi động tác là một mơ ước về nhỏ con gái cuối
năm nay sẽ vào đại học … nụ cười trong hoan lạc có lẽ là nụ cười mà tôi sợ
nhất, chúng vô cảm và lạnh lẽo đến ghê người.
Và xa hơn tí nữa, là nụ cười của cô gái ngày mai về
nhà chồng nơi xứ lạ. Nàng ôm ấp mộng ước không như những bạn bè đồng trang lứa
ngày vu quy, không mong một mái gia đình hạnh phúc, những đứa con bụ bẫm, chỉ
mong mỏi ngày nào làm ăn có tiền, gửi về cho cha mẹ xây lại mái nhà tranh dột
nát, cho thằng em cái áo trắng lành lặn đi học, cho nhỏ út một con gấu bông đẹp
như trong mơ … ngày mai, trong lễ vu quy vội vàng ấy, người ta thấy hai kẻ một
già, một trẻ đi cùng nhau, chỉ mới là ngày đầu tiên họ gặp, cũng chính là ngày
họ có những mong ước rẽ đôi … sẽ về đâu những nụ cười xa vời ấy, vô vọng lắm
phải không ?
Và khuya xuống, tôi hay ngắm phố đêm, vắng vẻ và lạnh
lẽo, tôi bắt gặp cái cười của những người bán hoa, cái cười gượng gạo và lạnh
tanh, những lớp phấn son rẻ tiền trên gương mặt ấy nhăn nhúm nhó, nứt toác. Có
đôi lần tôi hay nghĩ về những nụ cười ấy, tại sao họ lại cười khi đời khinh
miệt họ ? và rồi giữa đêm, tôi thấy chị về lại con hẻm ấy, mệt mỏi và khô quắt,
chị đốt vài tờ giấy, thả xuống đất, bước qua bước lại, vài kẻ “đồng nghiệp” từ
xa hỏi vọng lại : - “xả xui hả mậy?” … chị cười … và một tràng dài những lời
chửi… đêm hôm ấy tôi hiểu hơn về nụ cười mang tính thỏa hiệp.
Một hôm nào đó, gần ngày tôi vào học Đại học và cũng
là lúc bạn tôi mất trong một tai nạn giao thông khốc liệt … đó có lẽ là tin
chấn động trong giới học sinh trường tôi dạo ấy. Khi tôi đến thắp cho bạn nén
hương, tôi bắt gặp mẹ bạn nằm trên ghế salon, lăn lộn tức tưởi với những cảm xúc dâng trào. Tôi đến bên
cạnh, vội nói vài câu an ủi dư thừa : - “ Cô ơi, ráng khỏe lại, ráng nén đau
thương lại, con nghĩ rằng bạn con thấy cô như thế bạn sẽ buồn lắm !” … có lẽ đó
là những câu nói lố bịch nhất mà tôi từng thả ra vào lúc đau buồn nhất. Mẹ bạn
nhìn tôi cười, cười nhạt nhòa với những hàng nước mắt cứ chảy, rả rích như trận
mưa ban chiều, khi tôi đón xe đò về quê viếng bạn lần cuối … Cười và khóc hiện
rõ trên khuôn mặt người phụ nữ ấy, tóc tai bươm ra, dính đầy mặt mũi, nước mắt
cứ lăn dài theo những tràng cười, cô nhìn tôi … cười vào sự ngây thơ đến tội
nghiệp ấy, tôi vội vàng chào cô và đi khỏi, không dám quay lại nhìn bạn lần
cuối, sợ ánh mắt buồn tênh trên tấm hình tưởng niệm ngày ấy sẽ ám ảnh lấy tôi
trên suốt những ngày dài ở Đại học … Tối hôm đó về nhà, không nuốt nổi bữa cơm
chiều, trong đầu tôi chỉ toàn là hình ảnh của người mẹ mất con, khóc nấc và cười trong đau thương, đêm đó, tôi chợt vỡ
ra một điều, khi nước mắt không đủ truyền tải một thông điệp đau khổ, thì đau
khổ sẽ lan dần ra nụ cười và nụ cười cũng là nước mắt, cũng đượm hương vị của
đớn đau … tôi chợt giật mình tự hỏi giữa muôn vàn nhân loại đang cười và đang
khóc này đây, ai là đau khổ thật và ai là hạnh phúc thật ? hay chỉ là chạy theo
một vòng cung mênh mông của cảm xúc và niệm khởi … Khi đi đến tận cùng của đau
khổ, ai đó sẽ bắt gặp hạnh phúc, để rồi nhận thấy nỗi buồn cũng đáng được trọng
vọng như niềm vui. Đêm ấy tôi không ngủ, miên man với những suy nghĩ viễn vong, những lý thuyết cao vời
trước tuổi … tôi tự hỏi giờ này bạn đang cười hay đang khóc … có người bảo tôi
chết sẽ được thanh thản, vì đời sống này đầy rẫy những khổ đau; lại có người
bảo tôi chết khi không biết mình sẽ về đâu là khổ, là bất hạnh … tôi rùng mình,
nghĩ về bạn, bạn sẽ về đâu ? lý thuyết nào sẽ đúng ? làm sao để biết mình đi về
đâu ? tại sao chết đi rũ bỏ hết trách nhiệm mà lại khổ đau ? … những câu hỏi cứ
tràn về, đầy ứ trong đầu … tôi chìm dần vào giấc ngủ. Sâu thẳm trong những cơn
mộng mị mờ ảo, tôi thấy một đóm sáng, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, tôi quờ quạng vén những mộng mị sang một
bên và lao về phía đó … tôi gặp anh, gặp lại nụ cười giữa trưa nắng oi ả anh
tặng cho tôi, trắng ngần và tinh khiết.
Tôi rất sợ vào những shop thời trang, sợ đứng gần
những con manơcanh, đó là cái bệnh kỳ lạ nhất của tôi, mặc dù nhà tôi bán shop
quần áo, tôi sợ nhìn những gương mặt muôn đời vẫn thế, sợ nhìn những hình nộm
hay đúng hơn là sợ sự vô cảm của những nụ cười … và rồi một hôm giữa dòng đời,
tôi bắt gặp trăm ngàn những gương mặt manơcanh ấy, chúng cười một cách bất
biến, chúng nhìn tôi bằng ánh nhìn bất biến, tôi sợ hãi xô chúng ra chạy thật
xa và chạy trốn … nhưng chung quanh tôi đầy rẫy những con manơcanh như thế,
những mái tóc giả, những nụ cười giả, những ánh mắt giả, những cơ thể giả … và
tôi giật mình sờ lại chính cơ thể tôi, cũng cứng ngắt, cũng khô ráo và trên môi
tôi cũng là một nụ cười như thế, vô hồn và máy móc … tôi ngã quỵ hay đúng hơn
là linh hồn tôi ngã xuống và xác tôi vẫn đứng vững vì chúng được làm từ chất
liệu nào đó giả dối, tạm bợ … khi nhìn ra xung quanh, trời ạh, một biển
manơcanh đầy rẫy, mênh mông những nụ cười ma quái … hồn tôi lại lòm còm bò dậy
và tôi đã chấp nhận những nụ cười ấy, ánh mắt ấy là của tôi … và tôi mặc những
thứ giả tạo ấy lên chính tôi, đi lại sống cùng những manơcanh … lạnh lẽo và u
ám.
Gần hai tháng nay, mỗi khi đi học trên thành phố về,
tôi không thấy anh nơi ngã tư gần nhà, có lẽ anh bệnh … tôi có gửi mẹ gói đồ
tôi mua tặng anh nhân dịp Noel, mẹ bảo, mẹ không gặp anh mỗi sáng và hình như
anh không ra ngã tư nữa … tôi điếng người, biết bao nhiêu suy nghĩ đổ dồn đến,
vồ vập lấy tôi, anh không chịu nổi những cơn mưa mùa trước, hay vì không chịu
nổi những nụ cười manơcanh … tôi lặng lẽ đi giữa phố lạ, vô hồn và chỉ nghĩ về
nụ cười anh tặng tôi trưa hôm ấy … nụ cười với đôi mắt nheo lại vì vui, nụ cười
với cái môi mấp máy nói lời cảm ơn, nụ cười với cả tâm hồn không chút vẩn đục
v.v… tôi để mặc tâm trí tôi miên man như thế trên chuyến xe bus đến trường và
cả trên những đoạn đường vắng tanh của khu công viên phần mềm Quang Trung. Tôi
đang sợ mất đi một nụ cười bạn ạh ? Sợ lắm, vì ngoài những người thân của tôi
ra, chưa ai trao cho tôi nụ cười trong sạch và tuyệt vời đến thế như thế cả …
chúng được trả giá bằng tình yêu, bằng cảm xúc, bằng xác thịt và giúp đỡ chân
thành của tôi ? … Chưa lần nào tôi nhận được nụ cười của người dưng lại trong
sạch và tuyệt vời đến thế. Tôi viết entry này sáng thứ năm, khi đang ngồi nghe
lại bài Sắc màu của Trần Tiến … và dạt dào những nỗi nhớ “ nhớ ra mình một
mình”, “nhớ ra mình đã ở đâu đây” … Tôi đã từng ở nơi đây và lại về đây vì Vô
minh và muôn vàn những nợ nần trần thế, có lẽ kiếp sau nữa, tôi vẫn sẽ trở về
nơi này, để ngồi cho cảm xúc của chính tôi chảy tràn ra hòa quyện vào những
mãnh đời bất hạnh, để cùng dìu nhau đi lên, tôi lại một lần nữa sẽ lọt thỏm
giữa muôn vàn những nụ cười giả và cố gieo những nụ cười thật giữa đời giống
như nụ cười của anh …
Anh là người khuyết tật ngồi bệt ở ngã tư gần nhà tôi,
anh ngồi đó đợi lòng hảo tâm của người đời, mỗi ngày đi học, tôi ghé anh đưa
tay lục túi lấy 2,000 đồng gấp gọn lại, nhét vào kẻ giữa những ngón chân của
anh vì tay anh không lành lặn, không cầm được vật dụng, mẹ bảo có thể lúc nhỏ
anh bị co giật … dáng đi quằn quại và đáng thương, giữa những trưa hè và thân
hình dị dạng giữa phố đông người mỗi sáng tinh sương … trưa hôm ấy, tôi đứng
thật lâu nhìn theo bóng anh in xuống mặt đường cháy nắng, chiếc bóng cũng như
người, cũng cong quẹo dị hình … nhưng bạn ạh, tôi đã tìm được cho mình một lẽ
sống, một chiếc neo giữa một buổi trưa như thế … bình dị lắm phải không ? Tôi
nợ anh một lời hỏi thăm, nợ mấy cái quần short tôi định sẽ mua tặng anh, nợ một
lần tôi sẽ lần theo dáng anh về tận nhà, để hôm sau tôi mang gạo đến … tôi đã
dự định nhiều lắm, từ nụ cười anh tặng tôi, vậy mà …
Tôi hy vọng anh đã có người thân và người thân không
cho anh ra đường ngồi đợi lòng hảo tâm nữa, người thân sẽ chăm sóc và thương
yêu anh … tôi đã nghĩ về những điều xấu hơn, anh bỏ tôi, bỏ cái ngã tư đường
đầy gió bụi và đầy manơcanh ấy mà đi … tôi nghĩ về anh, nghĩ về nhỏ bạn, nghĩ
về nơi tôi sẽ về sau khi tôi nhắm được đôi mắt manơcanh của chính tôi lại và
trên môi tôi thôi phải bạnh ra vì nụ cười giả dối … tôi nghĩ về ngày cuối cùng
tôi nhắm mắt, nụ cười giữa trưa sẽ giúp tôi bình an khi tứ đại bắt đầu tan rã …
ai đó bảo với tôi cười và khóc là vô thường, nhưng tôi tin nụ cười và giọt nước
mắt phát xuất từ an lạc và từ bi sẽ tồn tại, sẽ thường hằng và hiện hữu …
Tôi còn chưa nắm tay anh một lần nào, chưa mua cho anh
được hộp sữa, chưa dìu anh về nhà khi dáng anh cứ thấp thỏm, nhấp nhô giữa phố
trưa nắng như thiêu đốt …anh ạh, mong rằng trưa Noel này, tôi lại được thấy
anh, thấy nụ cười ấy, nụ cười từ một người khuyết tật, miệng không răng và môi
bị lệch … nhưng anh biết không ? ngay cả những người đẹp tuyệt vời giữa phố
manơcanh này, vẫn thua anh một nụ cười … vì rằng, “ Hãy như con trẻ nếu các
người muốn được vào nước Trời” …anh là con trẻ ấy của một nước Trời xa xăm …
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 17/Aug/2011 lúc 8:40pm
MỘT CHÚT ƠN ĐỜI
Đêm vắng, thuyền trôi
Đường về Bảo sở xa ngai ngái
Một hoá thành, huyễn hoặc
Thoáng bình yên…
Ngọc châu giữ đó, không quen biết
Tìm mãi bao giờ, tìm mãi đâu ?
Mùa
mưa bắt đầu. Giữa phố lạ, đôi khi ta thèm khát một góc quê nhà. Có tiếng ếch
kêu, có tiếng dế gáy… và hơn thế nữa, phóng tầm mắt ra xa thật xa là đồng lúa,
mênh mang kì ảo trong màn mưa trắng đục.
Giữa
phố lạ, ta bắt đầu quen với nhạc Trịnh. Những biến tấu của ngôn từ. Có người
bảo Trịnh viết tình ca, có người cãi rằng ông viết Đạo ca. Giữa bộn bề những cô
đơn, giữa tiếng mưa, giữa quá khứ mịt mù và tương lai xa ngai ngái… ta chợt
nhận ra rằng, ông đangchép lại Tâm ca của chính ông, và của cả thế gian này.
Tâm
ca không phải là những triết lý dày đặc ngàn ngàn trang giấy. Tâm ca càng không
phải những lý luận là rối óc người đọc ở lần đầu tiên. Tâm ca không làm người
nghe chết ngộp giữa vô vàn những thăng hoa cảm xúc… Tâm ca là khúc ca được viết
ngay trong hiện tại. Có lẽ khi ông sáng tác, ông đã ngồi trong đêm, hay nơi
quán café nhỏ ở góc phố. Nhưng ta dám chắc chắn rằng ông viết nhạc khi đương
ngồi thật thảnh thơi trong cõi yên bình của thực tại. Và Tâm ca đã vang lên như
“chút ơn” “cho đời”. Bình yên đến mà không cần phải gọi mời.
“Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ”
Ai
đó bảo rằng Trịnh tương tư một bóng hồng để rồi viết nên bài hát ấy. Nhưng hình
ảnh “em” ấy sao mà nhạt quá, chỉ vài đường nét thôi. Môi hồng, tóc trầm, vai
thơm. Cuộc sống là một chuỗi dài, rất dài những con đường được hoạch định phải
có mục đích. Và khi nghe một khúc Tâm ca, xin ta đừng vội gắn vào đó một hình
ảnh cụ thể. Ta đi tìm Bống của Trịnh, ta đi tìm Diễm của Trịnh. Và có thể tìm
ra. Nhưng đến với chút ơn đời này, ta lúng túng quá. Sao mà tìm không ra nhỉ ?
Hình ảnh đưa ra mơ hồ quá, nhưng với sự suy tôn của đoản Tâm ca, hình ảnh ấy
đẹp lên như một phép màu. Ta hay cần có một cây thước để đo. Đo chiều dài, đo
sự sáng, và cuối cùng là đo cái đẹp. Nhưng cái đẹp ở bài hát này, không phải là
cái đẹp cụ thể, hữu hình. Nó như có đó, mà cũng như không. Chính nhờ cái đẹp
ấy… những vùng đất lạ, những hoá thân của Trịnh bắt đầu được mở ra. Thật nhẹ
nhàng giữa đôi bờ, có và không…
“Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
Làm lời lá bay trên đường đi
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ
Môi thiên đường hót chim khuyên
Ôi tóc trầm ướp vai thơm
Ta nghe đời rất mênh mông
Trong chân người bước chậm chậm.”
Trịnh
tan vào giọt nắng, tan vào từng gót chân của “em” bước trên hè phố vắng. Ông
thấy trong giọt nắng cũng có sự hiện hữu của ông. Và chính sự hiện hữu tuyệt
diệu ấy, đã làm cho vẻ đẹp thêm phần mềm mại và dịu dàng. Trịnh trở thành cái
đẹp ấy, và cái đẹp ấy trở thành ông. Trịnh không mất đi, vì ông là giọt nắng,
là những gót chân vui tung tăng trên hè phố. Chỉ khi nào giọt nắng không hoà
mình vào cái đẹp, những gót chân không làm vang lên những lời hát ca bất tận
thì khi ấy Trịnh mới thật sự không còn nữa. Và lúc ấy cái đẹp cũng không còn.
Và
khi người nhạc sĩ chép Tâm ca ấy, thấy rõ được cái đẹp, từ những âm thanh thiên
đường, tóc trầm và vai thơm… trên đôi môi những tiếng hát trong vắt, ngọt ngào
của chú chim khuyên được tung bay giữa phố lạ. Khi nào, ta nghe được tiếng chim
hót và cảm thấy rằng sao âm thanh ấy tựa hồ như thanh âm từ thiên đường vọng
đến thì lúc ấy ta đa4 ở nơi của Trịnh đang đứng hồi viết bài hát này. Nghe chim
hót. Mấy mươi năm nay ta nghe mải rồi. Khi ta chạy như bay đến sở làm, trên cao
chim vẫn hót. Khi ta lo sầu giữa bệnh viện vì một một kết quả xét nghiệm không
tốt, trên cao chim vẫn hót. Khi ta đứng ngồi không yên với bộn bề cuộc sống,
thì chim vẫn hót trên cao. Ta chỉ nghe đó là tiếng chim, tiếng của một loài vật
nào đó. Chưa bao giờ, ta thử dừng chính ta tại. Những giận hờn, lo toan, tham
muốn của ta ngăn ta không tiếp xúc được với tiếng chim hót, ngăn ta không thấy
bóng dáng mà ta “chợt thấy đi về bên kia phố” là biểu hiện của cái đẹp bất sinh
bất diệt. Ta hay so sánh con chim này hót luyến không hay, bóng hồng này không
đẹp bằng những cô đào, người mẫu. Cuộc sống đã cung cấp cho ta quá nhiều những
thước đo. Hãy đến với hạnh phúc, mà không cân đong đo đếm, không đem hạnh phúc
bỏ và khuông mẫu. ta sẽ nghe được như Trịnh. Chỉ một tiếng chim thôi, mà cà cõi
Thiên đường đã hé mở. “em “ đến để làm thay đổi đời tôi, mang tôi ra từ một nỗi
buồn thân phận nhỏ bé. Hoá ra cõi đất này là thiên đường, hoá ra cõi đất này
đẹp như vậy mà sao ta không nhận ra. Ta cứ ngày đêm ôm ấp rằng… “trên từng vành nôi là từng nấm mồ. Sớm mai
này lại khóc thiên thu”. “em” đến để chỉ cho tôi rằng, trong tôi không chỉ
có mầm của sự chết, tôi còn có hạt giống của sự trường tồn. Vì em nhắc tôi rằng
tôi có mặt trong tất cả. Tôi là mọi thứ, và mọi thứ là tôi. Những suy nghĩ,
chán chê về sự mong manh đời người “tin
buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người” đã hết. Nhờ “em” cả đấy “em” có
biết không ? Chỉ một lần ta tiếp xúc với hiện tại, ta sẽ thấy hiện tại đẹp đến
vô ngần. Vậy mà ta đâu hay đâu biết. Ta mải chạy, chứ đâu có “bước chầm chậm” như vầy.
Trịnh
nói với ta rằng chỉ cần bạn đi với tôi, đi thật chậm, thật chậm. Bỏ hết những
thước đo, định kiến, nỗi khổ niềm đau, dự án, hoạch định xuống đó. Bước cùng
tôi để ngắm nắng, hít thở khí trời, nghe chim hót là bạn sẽ thấy “em”_hiện tại
đẹp như thế nào, đẹp đến mức tôi không biết viết ra sao. Chỉ dám lấy những tinh
tuý của thiên nhiên mà so sánh, hương trầm, màu nắng, tiếng chim. Bạn sẽ vỡ oà
ra sao mà “ đời mênh mông” đến thế, rộng rãi và tràn đầy hạnh phúc đến lạ kỳ.
Sao không còn là nơi ôm ấp đầy những đau khổ của phận người. Đời rộng quá, mênh
mông quá những cái đẹp trường tồn. Vậy thì sao ta phải vội vàng ?
“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
( Xuân Diệu)
Trịnh
đang vỗ vai Xuân Diệu và nói thật nhẹ nhàng rằng, anh ơi, ta còn mãi đây. Ta
chắc chắn sẽ không mất đi, nếu ta biết tiếp xúc với hiện tại màu nhiệm này. Nếu
ta biết bước đi chầm chậm. Đừng vội vàng nữa, sóng và nước chẳng phải là hai.
Sóng thể dạo chơi rồi tan vỡ vô thường, nhưng biển thì muôn đời vẫn thế, vẫn là
biển của ngàn thu.
Độ
trước, tôi miệt mài đau khổ về con sóng bao nhiêu, thì hôm nay tôi hạnh phúc bấy
nhiêu vì tôi đã tìm thấy được đại dương rồi !
“Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ
Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Làm lời hát ca cho trần gian”
Đã
bao lần ta gục ngã ? Trịnh gọi ta, hãy đứng dậy nào, hãy bước đi. Chỉ cần một
tà áo bay là đã đủ làm “ơn” cho cuộc sống này rồi. Chỉ cần sự sống được thể
hiện mềm mại qua tà áo bay trong gió lộng là đủ mang lại bình minh. Vậy thì cuộc
sống này cần được duy trì bởi những điều tưởng chừng như bé nhỏ đến vô vàn. Một
bước chân kéo dậy cả mặt trời, một tà áo giản đơn cũng đủ làm nhân loại mang
ơn. Bởi vì em ạ, em không hề bé nhỏ, vô ích. Trong em là tất cả cuộc sống này,
và ngược lại. Em có thể là người ngày hôm nay vừa được nhận tin mình mang bệnh
ung thư, có thể là người thất bại nặng nề trong cuộc sống, có thể là một đứa
trẻ khuyết tật bẩm sinh, có thể là kẻ mang tất cả những bất hạnh của đời này.
Nhưng em ơi, chỉ cần em gật đầu đồng ý cho sự sống hiện diện nơi em. Dù là phần
bé lắm, nhỏ lắm. Nhưng đó vẫn là cách em mang lại cho cuộc sống này những món
quà quý giá nhất.
Trong khu rừng có muôn vạn mùi hương, em là
một trong vô vàn những loại phấn thơm của rừng. Nhưng nếu thiếu em thì không
còn bình minh, không còn hương của rừng, không ơn huệ ở đời. Và đời này sẽ im
bặt những tiếng ca. Em hát ca cho “trần gian”, và “trần gian” cũng đang hát ca
về em.
“Dưới đường phố kia có người nhớ em
Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường”
Trịnh
tựa như đang thốt lên rằng, tôi đã tìm được sự sống từ em, trong lần gặp bỡ bất
chợt nơi góc phố đầy nắng và rợp tiếng chim. Để khi ấy, tôi tiếp xúc được với
màu nhiệm bất biến nơi cõi đời này. Nỗi nhớ ấy, không hẳn là nỗi nhớ. Mà là một
sự giao tiếp thực sự, giữa ông và cái “đẹp” trường tồn. Lần gặp gỡ ấy, mang tôi
trở về với thiên đường. Cuộc sống này bên cạnh những bất công, đen tối, giả trá
và mong manh lại cũng chính là thiên đường sao ? Thiên đường với nắng, gió,
thanh âm, hương thơm, và hơn hết nữa là không dễ vỡ, không chút gì là vô thường
cả. Đó không phải là giấc mộng, mà là cảm giác của người lần đầu tiên bước ra
khỏi đau thương của nhân gian, và dần tiếp xúc được với bất biến của hiện tại.
Nghe
bài hát này, mỗi buổi sớm, tôi lại vượt qua được những nỗi đau của chính tôi,
vượt qua được những thất bại, nhọc nhằn. Để khoát lên mình một chiếc áo tinh
tươm của những lời yêu thương, để đeo trên cổ trang sức lóng lánh của nụ cười…
vì tôi biết, khi “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”… đấy là lúc, tôi còn có thể cho
đời, và đời sẽ cho tôi.
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 19/Aug/2011 lúc 11:16pm
XA XĂM… NHỮNG MÙA DẾ
Khi
những chùm phượng thi thoảng gieo mình xuống nền đất chai sạm, thì cũng là lúc
bọn sinh viên chúng tôi được nghỉ hè. Hè sớm… rợp trong tiếng ve rả rích, hoa
học trò rực rỡ mà hồn nhiên. Cùng với nắng và gió. Phố lạ với ngót ngét 8 triệu
con người, mà sao thấy lòng trống trãi lạ kỳ. Phố cũng gồng mình dung chứa
những khoảnh hồn quê. Có gánh bánh xèo của cô Mười Xiềm, có gốc chuối, có cây
khế, có rỗ rá mây tre. Nhưng sao giữa mịt mù khói bụi, tôi cứ mãi đi tìm. Một
mùa hạ, với những cơn mưa rả rích. Đêm về, bầy trẻ con đi vòng khắp xóm nhỏ,
tìm bắt những con dế than, dế lửa… Trưa hè, bè bạn quây quần ở quán dừa nước
bên hông trường tiểu học nhắc lại những chuyện xưa… tối đến, chạy vòng khắp
phố, nhẩn nha nhẩn nhơ rồi ghé vào quá nước mía ở góc nào đó bên bờ giếng nước
lớn. Nghe vị ngọt của mía, của mít, của mứt chùm ruột , vị chua phảng phất của
trái tắt, rồi còn vị mằn mặn của đậu phộng muối nữa chứ ! Phố lạ khác quê, vì
dòng sống trôi đi nhanh quá, dẫu ai đó có mang quê lên để trang điểm hay cho
lòng khách lạ bớt quay quắt nhớ cố hương… nhưng rồi cũng đâu vào đấy. Kẻ xa quê
giống hệt như cây dừa trồng nơi quán phố, lòng cứ đau đáu những quầy dừa phải
cắt vội khi trong ruột chưa có lấy giọt nước lành, vì người ta sợ, quả dừa rơi
gây nguy hiểm cho khách hàng. Cứ ngập ngừng, bảng lãng giữa nỗi nhớ được chấp
vá bởi muôn màu xa lạ.
Bạn
ở lại đất lạ, chạy như bay theo việc làm thêm, kiếm thêm mảnh bằng ngoại ngữ,
vi tính. Tôi lững thững về quê, giữa buổi trưa cuối hè nắng gay gắt, trên vai balô
nặng chịt. Tôi phân vân giữa ở lại và đi về. Ở để được trưởng thành, để vững
chãi hơn, để quen với không khí của thành phố trẻ, năng động và xông xáo. Về để
gần gũi với gia đình, để chiều chiều đi bộ vòng giếng với mẹ, để rảnh rang rủ
đám bạn cũ tụm năm tụm bảy, để thấy lòng này bình yên khi đôi chân thôi không
chạy mải miết. Thế là về quê, như một cơ hội nào đó, tôi tự học cách yêu bản
thân mình cho đúng nghĩa.
Trưa
về trời đầy nắng. Chiều đến mưa rả rích. Đêm thì trời ráo hoảnh. Tên thi sĩ
trong tôi mừng thấp thỏm, vậy là từ trên ô cửa nhỏ, tôi được ngắm bầy trẻ con
đi lang thang khắp xóm bắt dế. Tay đứa nào
cũng cầm cái đèn pin, lon sữa bò. Chúng cãi nhau õm tỏi, chúng hí hửng, hồi hộp
đến ú tim khi nhìn thấy một bóng dế bay chao lượn trên ánh đèn đường. Cũng như
tôi của ngày ấy xa xăm.
Nhưng
sao mùa dế năm nay lạ quá. Bọn trẻ biến đi như cá lặn mất tăm hơi… tôi đợi mãi
nơi ổ cửa, mong chờ ánh đèn pin xoẹt ngang. Rồi cơn mưa đến, rả rích từng giọt,
dần dà nặng hạt và ầm ầm trút nước. Chắc hôm nay đài dự báo khuya sẽ mưa nên ba
mẹ bọn nhóc không cho chúng đi bắt dế rồi… hôm sau vậy…
Hôm
sau… Hôm mốt và những hôm tiếp theo nữa, phố vẫn im thin thít. Bọn trẻ đâu mất
rồi ?
Ánh
đèn đường trên cao vẫn sáng. Mưa ngoài trời như thoả hiệp với sự chờ đợi của
tôi, rơi nhiều và dày hơn nữa. Chợt một con dế bay vào ô cửa nhỏ, đậu trên rèm
cửa. Nó múa may đôi râu dài đen nhánh. Màu vàng đỏ ửng trên đôi cánh, gù gờ
những hình thù bí hiểm và hung hăn. Nó nhìn tôi ( có lẽ là thế ), ngạo nghễ
cười. Dế ở đây, còn bầy trẻ bắt dế đâu rồi ? …
Tôi
lang thang đi tìm nơi những quyển sách về tâm lý trẻ con, thấy chẳng ai nói về
tại sao con nít không còn mê chơi dế nữa, chẳng ai nói tại sao ma lực của tiếng
dế gáy mùa mưa không còn đủ mạnh ?
Và
một dịp nào đó, tôi tìm ra câu trả lời, mơ hồ lắm, và chẳng thấy sách vở nào
nói đến. Tôi cũng chưa đủ tự tin bảo đó là đáp án chính xác như bác Chánh Tín
vẫn thường hồ hởi chúc mừng người thắng cuộc trong game show nào đó trên đài.
Nó nhỏ bé, và chỉ đủ làm tôi gầt gù.. ậm ừ…
Những
buổi sáng, tôi thấy bọn trẻ vai đeo cặp thật nặng, được ba mẹ chở đi như bay
trên những con phố còn tươi màu nắng mới. Chúng gặm ổ bánh mì trong vội vàng và
hối hả. Những đứa trẻ tóc chưa kịp chải, mắt nhắm mắt mở vì cơn say ngủ… Trong
sâu thẳm những đôi mắt còn ngái ngủ ấy nhìn những cây vợt, trái cầu, quả banh
của đám thanh niên ngoài bờ hồ, tôi đọc được sự thèm thuồng. Ước gì được đánh
cầu, ước gì được đá banh, ước gì… và ước gì.
Những
buổi trưa, nắng gay gắt như đổ lữa. Nơi ngã tư phố, những chiếc cặp to hơn cả
người đeo vẫn lảng vảng trên từng con phố, ngỏ hẻm. Chạy theo con chữ, và
“rinh” chữ về nhà. Mùa hạ vẫn lắt lẻo trên cao. Lớp học ấy mở ra khi ngoài ô
cửa lớp còn rợn ngợp tiếng ve. Ngày xưa, bà dạy tôi con ve vì trong năm biếng
học, nên hè phải ôm tập học bài. Còn bây giờ vẫn là những học sinh giỏi, đôi
mắt trĩu nặng vì cặp kiếng cận dày cộm, tập trắng chữ khôi… nhưng mùa hè cứ như
những con ve rả rích. Ve ve ve.. đi học hè. Người giáo viên trong lớp học hè
cũng mệt, có đôi lần cô tự thấy sao mà ái nái quá, cô giống như kẻ xấu cứ giành
giật mùa hạ với bọn học trò nhỏ. Gia đình cô đang nghĩ ngơi ở biển, ở núi , ở
thành phố sương mù. Nhưng con chữ thời nay sao nặng quá, kĩu kịt trên vai người
dạy và kẻ học. Quyển sách giáo khoa đã dày, nay lại còn dày hơn gấp bội. Những
con chữ muôn đời không dạy hết, học hết cứ được nhét vào một năm học ngắn ngủi.
Làm sao học hết nếu không dạy ẩu, học ẩu, hoặc dạy thêm và học thêm ?
Những
buổi chiều, bọn trẻ mệt lả người đi… vẫn cặm cụi học. Buổi sáng học toán 2
người, buổi trưa học anh văn 2 chỗ, buổi chiều học lý học hoá. Tiểu học thì áp
lực thì vở sạch chữ đẹp, đọc nhanh viết giỏi. Trung học thì cổng trường như
chuôi kim, phải học làm sao như sợi chỉ, xỏ vào vừa vặn, khít khao. Người ta
dạy bọn trẻ học chạy, chạy rất nhanh. Dạy cả những kiến thức về thiên văn, địa
lý, và những công thức để chế tạo ra thuốc nổ, những định luật để lưu hành dòng
điện v.v.v nhưng chưa ai dạy chúng về cách chế tác ra hạnh phúc, nghị lực và
yêu thương…
Ngày
hôm qua, một trong số muôn vàn bọn trẻ chạy theo con chữ. Có một đứa đã “bỏ
cuộc chơi “ khi làm bài thi đại học không tốt. Nó lặng lẽ về nhà, nhắn tin từ
biệt bạn bè, rồi cũng lặng lẽ cầm chai thuốc rầy uống vào ừng ực. Nó là đứa học
sinh giỏi hoá, nó dư sức biết công thức chế tạo ra thuốc rầy, và độc tính của
thuốc. Nhưng làm sao bây giờ ? ở trường, ở xã hội chỉ những người dạy phải
chiến thắng, phải thành công… bài học về chấp nhận và chuyển hoá thất bại, đau
khổ sao mà xa vời vợi đến thế ? Học vội, và tự tử cũng thật vội vàng… xa xăm
ngoài kia, cũng một đứa trẻ đang chiến đấu với bệnh ung thư, đứa trẻ ấy cũng
mếu máo rằng : bác sĩ ơi !làm ơn cho con
thêm một ngày sống nữa thôi ! Đó không phải là lỗi của đứa trẻ tự tử, mà là lỗi
của xã hội, lỗi của các bậc người lớn khi cứ ép bọn trẻ, định hướng bọn trẻ
theo chiều hướng có lợi cho họ. Nhiều học sinh đỗ đại học, nhiều học sinh đỗ
thủ khoa… các bậc người lớn sẽ có được nhiều nhiều thứ lắm ! Những bằng khen,
những tiếng tăm có xứng đáng với mạng người hay không ?
Bọn
trẻ có nghe dế gáy. Nhưng bài vở chồng chất, cả ngày mệt mỏi, phải ngủ sớm để
mai còn chạy như bay theo con chữ mênh mang. Tiếng dế gáy còn lẩn khuất trong
bụi cỏ, còn con chữ tràn đầy ra đường. Con chữ đem về danh dự cho mẹ cha, cho
tương lai, còn con dế chỉ đem lại giây phút mơ hồ của tuổi thơ thôi… vậy giữa
hai thứ, con trẻ phải chọn gì đây ?
Những
người mẹ, ông bố còn nóng bừng bừng đôi gò má, khi thấy con mình còn thua con
bé nhà bên vì nửa điểm môn Toán. Vậy là con nhà này phải học thêm một ông thầy
dạy Toán nữa mới đủ… rồi còn biết bao nhiêu điểm số khác nữa. Môn lý, môn
hoá,môn anh văn v.v.v Đôi khi người lớn bị rơi vào vòng xoáy của con chữ, nhưng
khác hơn bọn trẻ, họ đứng trên phương diện của danh dự, của tự ái… con tôi phải
hơn con anh. Mà có ai chịu thua ai đâu ? chỉ còn lại những tuổi thơ gắn chặt
với những chuyến học “bay”.
Tôi
bần thần nhìn lại xung quanh. Quê tôi giờ cũng như phố lạ. Đang chuyển mình
trên con đường phát triển. Những nhân tài đỗ hai trường đại học, những anh kỹ
sư, giám đốc cố bám trụ lại nơi đất lạ. Quê phải oằn mình, đào tạo, oằn mình
hun đúc. Làm sao cho phố lạ thừa thãi rồi thì nhân tài sẽ tự động về lại quê
thôi. Về để thấy trời ơi, mình thua bạn bè ở phố nhiều quá ! ở đây là mất tương
lai, ở đây là đói triền miên không sắm được xe “hộp”, nhà cao. Công tác ở đây,
mà bạn thót tim, chọt bụng khi đọc trên mảnh báo sáng nay, công ty ở phố lạ
đang vào đợt tuyển nhân viên. Và bạn thấy thở không nỗi, mệt nhoài, chán chường.
Nhưng biết đâu rằng, quê cũng mòn mỏi lắm rồi. Người quê chạy, và hồn quê cũng
phải chạy. Chạy để tự biến mình giống như phố lạ. Xa xăm, ngút ngàn những cao
ốc chọc trời… Con dế và người bắt dế trở thành huyền thoại. Khi ấy, cha mẹ giở
sách cổ tích đọc cho con hằng đêm. Ngày xửa, ngày xưa, đã lâu lắm rồi, có đám
trẻ mùa mưa tụm năm tụm bảy đi bắt dế…
Đêm
nay, con dế ấy lại bay đến đậu trên bệ cửa nhỏ. Nó nhìn tôi, ánh nhìn quay
quắt. Anh ơi, sao tự dưng tôi lại ao ước bị săn đuổi, bị tìm kiếm. Lạ đời chưa
kìa! Tôi nhanh tay chộp lấy nó, nghe nó vùng vẫy trong lòng tay. Lặng lẽ lên
sân thượng, nơi gốc khế kiểng, thả tay ra, và tôi bảo nó hãy ráng bay thật xa,
làm một chuyến phiêu lưu như chú Dế Mèn, về đến những vùng đất vẫn giữ được
linh hồn của quê, của những mùa dế rộn ràng… Hình như nó nghe lời thật, vụt
cánh bay đi trong màn mưa lất phất…
Tôi
phải chọn gì đây giữa thoáng bình yên và tương lai phía trước ? Âm thầm, tôi
thu xếp áo quần… ngày mai, tôi bước lại vào vòng xoáy, của con chữ, của kinh
nghiệm, của hơn thua. Khép lại trọn một tuần quê dai dẳng. Và trong bao la
những xoáy đời, có đôi lần tôi nghe tiếng dế gáy… khe khẽ, rả rích. Những mùa
dế tuổi thơ. Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 20/Aug/2011 lúc 11:58pm
CHIẾC
TRỐNG.
Tôi
tặng vị ân nhân một chiếc trống nhỏ xíu… với lời nhắn, mỗi lần biển dậy sóng,
anh cứ lắc trống sẽ nghe tung tung… mọi sự đau thương, mệt mỏi sẽ qua đi, và
niềm vui lại lan rộng… nghe cứ như chuyện cổ tích, thần thoại nào đó. Nhưng
phép màu ấy có thật, nếu chúng ta biết lắng tâm lại để nghe những âm thanh…
Chiếc
trống tôi tặng, là thứ đồ chơi thường thấy của các trẻ em thôn quê. Mặt trống
vốn là thứ không kêu, hai dây đính hạt gỗ cũng chẳng thể tự kêu được, tay cầm
cũng thế. Nhưng chúng nằm đó, và kết hợp lại với nhau. Chỉ cần nhờ mình lắc nhẹ
là âm thanh tùng tùng tung tung được vang ra…
Tiếng
trống là một pháp được tạo thành khi nhiều pháp khác duyên lại với nhau. Nhưng
đôi khi các pháp đã hợp lại rồi vẫn cứ nằm im thit thít. Cái trống nhỏ đã có
rồi, nhưng nó vẫn chưa được xem là trống nếu như không có bàn tay xinh tạo
thành chất xúc tác cuối cùng để vang ra những thanh âm vui nhộn. Đôi khi duyên
hội tụ đủ đầy rồi, vẫn còn phải đợi một duyên khởi nữa để tròn vẹn, viên thành.
Sự
nằm im chờ đợi ấy. Đầy dẫy ở cõi Ta Ba này. Những quả trứng được ra đời, vẫn
còn phải đợi sự ấp ủ của gà mẹ. Những đứa con hình thành trong cơ thể người mẹ,
đả trải qua giai đoạn “mang nặng”, và phải chờ qua một thời khắc khác là “đẻ
đau”. Tập giấy trắng tinh, bút mực đủ đầy, vẫn phải chờ bàn tay người mới có
thể tạo ra được những con chữ tròn trịa. Những tình cảm cứ ngỡ sẽ tiến xa hơn,
nhưng vẫn phải đợi một lời nói. Những duyên khởi cũng tràn đầy trong không gian
diệu hữu này, nhưng chúng không biết sự hội tụ nào cần có chúng.
Âm
thanh của chiếc trống nhỏ là kết quả của muôn vàn các pháp, được tụ hội lại bởi
muôn duyên, và duyên khởi. Nếu nhìn kỹ, mình sẽ thấy, âm thanh tùng tùng ấy
không phải do riêng công của tay người, hay của những phần cấu tạo nên trống.
Âm thanh ấy là của chung, của tất cả các pháp đã, đang, và sẽ tạo kết hợp lại
cùng nhau. Thiền Sư bảo kết quả của các pháp tụ hội là vô thường, huyễn hoá.
Nhưng khi ta thấy được tự thân của mặt trống, của hạt gỗ, của que cầm, của tay
người đều có thể tạo ra âm thanh, đều phản chiếu lên được bóng hình của “thứ”
mà chúng có thể tạo thành. Thì thanh âm đó không còn là huyễn hoá nữa, mà sự
trường tồn, bất biến. Nên gọi, tự thân các pháp đã thể hiện đầy đủ tất cả các
pháp khác hiện hữu trên thế gian này. Đấy là chỗ thấy chắc chắn có được, khi
hành giả thiền quán về sắc thân vô thường, vạn pháp vô thường sẽ nhận chân được
bản thể bất sanh bất diệt ẩn tàng trong những điều tưởng chừng như sanh trụ
hoại diệt liên tục này.
Âm
thanh tự tánh của chiếc trống vốn dĩ là sự tịch lặng. Chỉ vì các pháp hội đủ,
duyên khởi đưa đến thì tiếng tùng tùng ấy phát ra. Mình nghe như thế bảo tùng
tùng là âm thanh của trống. Đó là nghe và biết dưới con mắt của thế gian, thật
sự âm thanh ấy là của muôn trùng duyên khởi, nó vốn không có, cũng không không,
do duyên hợp tạo thành. Nó là thành quả khi các pháp nương theo duyên mà hội tụ
và viên thành. Giống như người chưa học Phật thì chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó là
những thứ vô thường, mà lại quên mất sự thường hằng nằm trong tự tánh của tổng
thể các pháp. Mình chạy theo con sóng, nhưng quên mất tự tánh của sóng cũng là
nước. Nước có thể yên tịnh, cũng có thể xao động cuồng nộ nhưng bản chất của
nước lại an nhiên. Chư Bụt, chư Bồ tát ngộ được sự an nhiên của nước, nên hành
đạo giữa Ta Bà mà không hề bị nhiễm đắm bụi trần. Dạo chơi trên sóng dữ, lửa đỏ
là thân tâm thơi thới, bình an. Bồ tát đi vào Địa ngục, thì Địa ngục hoá thành
hồ sen. Địa ngục không phải là nơi ở ngoài ta, nó ở ngay trong tâm ta, dùng trí
Bát Nhã đem vào lửa của sân hận, kinh hoàng thì lửa tự tiêu tắt. Cho nên có câu
nguyện rằng, “ nếu con hướng về lửa, nước sôi thì lửa, nước sôi tự khô tắt; nếu
con hướng về non đao, non đao tức thời liền sụp đổ “. Đó là oai lực của trí Bát
Nhã thâm sâu mà hành giả đạt được khi Thiền quán, chứ tuyệt đối không hề có môt
vị Bồ Tát tên Quán Tự Tại dùng thần thông bảo hộ, giúp mình vượt khỏi 3 đường
xấu ác được. Tin Bụt, và Bồ tát thì phải thực hành theo các Ngài, tu tập theo
các Ngài, chứ không thể cứ mãi ngồi đó mặc cả từng lời cầu xin.
Chư
Phật ba đời, chư Bồ Tát mười phương vốn tồn tại không theo một dạng hình thể
riêng biệt. Các Ngài là nguồn năng lượng lành vô tận vô biên bao trùm tất cả.
Chỉ cần mình thôi chạy theo những con sóng, mà quay về nhận được tự tánh bất
sanh bất diệt này thì chắc chắn mình cảm nhận được nguồn năng lượng vĩ đại ấy.
Lúc đó, hành giả chỉ còn quỳ xuống mà đảnh lễ bằng cả thân tâm này, mỗi lần
cuối xuống thật sát đất, để hôn lên đất, để quy phục lưới hạnh nguyện rộng dày,
bao dung của các Ngài đã trải ra từ bao nhiêu lâu nay, mà mình không hề nhận
thấy.
Mình
quen cách đặt tên cho một tổ hợp các pháp tương đối, và tin rằng nó thường
hằng, vĩnh cữu. Như thấy tổ hợp của thân này thì gọi là con người, thấy tổ hợp
linh kiện thì gọi là máy móc, thấy miếng da căng ra bịt kín hai mặt của chiếc
hộp rỗng thì gọi là chiếc trống.v.v. và xa hơn nữa thì thấy tổ hợp của quan
tâm, chăm sóc thì gọi là yêu thương, thấy tổ hợp của vợ đẹp, con ngoan, nhà cao
cửa rộng thì gọi là hạnh phúc. Những khái niệm về tổ hợp ấy đã bao đời nay giam
giữ ta, khiến cho ta sanh ra phiền não, đau khổ, mong cầu. Đến mức ta vào chùa,
quỳ dưới chân Bụt_ là Người từ bỏ tất cả, để xin lại những thứ mà Người ấy đã
từ bỏ rất lâu rồi. Như vậy, những định kiến ngàn đời về tên gọi của các tổ hợp
ấy khiến ta điên đảo, và chưa chắc việc đi chùa, lễ Bụt là cách đối trừ điên
đảo hay là một các vi tế đang tự đào sâu, vun vén cho cội gốc của dây leo phiền
não được tinh vi hơn, thâm độc hơn.
Hiểu
được thế, ta nguyện sẽ đến Chùa bằng tâm không mong cầu. Không viết giấy nhờ
Quý Thầy cầu an, cầu mua may bán đắt. Mà đến Chùa, lễ Phật như dịp ta tạm buông
gánh phiền não, gánh nợ đời này ở trước cổng, rồi thong dong nhẹ bước vào Chùa.
Một cơ hội, để thân nhẹ, tâm an, miệng mỉm cười. Những khoá tu nửa ngày, một
ngày, ba ngày… an lạc cũng với mục đích như vậy, nhưng điều quan trọng hơn hết
là chúng ta có tiếp nhận được sự an lạc ấy, và nguyện gìn giữ, lan truyền sự an
lạc ấy cho người thương, người thân xung quanh khi ta kết thúc khoá tu hay
không. Cho nên tâm mình nên như gió, bản chất thật của gió là không hương,
không vị nhưng gió nguyện mang hết hương vị của thế gian. Hương thơm để dành
cho những chúng sanh thích mùi thơm, mùi hôi thúi để dành cho những chúng sanh
vì nghiệp báo chỉ nghe và chịu những sự sự thúi hôi, nhơ nhớp. Như các loài
gián, chuột, vi khuẩn yếm khí chỉ chấp nhận được, và hạnh phúc khi ở trong cống
rãnh, ao tù nước đọng. Gió là hạnh nguyện của chư Bồ tát khi truyền bá và hoằng
pháp. “Không nhơ, không sạch, không cấu, không tịnh”… vì ngôn ngữ của Thế gian
được hình thành nên bởi những cảm thọ, và những cảm thọ lại sanh ra các tưởng
uẩn_ luôn luôn có những sự so sánh, đối nghịch như thanh tịnh trái với cấu uế,
định tỉnh trái với điên đảo, lăng xăng.v.v.nên thể nhập vào cảnh giới Bất Nhị
được Ngài Duy Ma Cật trình bày là sự ngồi bất động trong sự im lặng hùng tráng.
Vì vốn dĩ cảnh giới ấy không thể diễn tả bằng ngôn ngữ của Ta Bà, nếu còn nói,
còn hý luận thì không thể gọi là Bất Nhị pháp môn được. Chỉ có Gió biết được
bản chất của Gió, chỉ có hành giả tu tập miên mật và tinh tấn mới nhận chân
được tự tánh của mình.
Quán
sâu về chiếc trống nhỏ bé, ta cũng đủ năng lực để mở tung cánh cửa Bất Sanh Bất
Diệt, và phủ kín tâm này bằng niềm hỷ lạc vô tận mà không ngôn ngữ nào diễn tả
được. Căn nhà có tạm vạn bốn ngàn cánh cửa để ra vào, vậy chỉ cần vào được nhà
ấy, thì có thể thông suốt được tất cả các cửa còn lại. Nên có một vị Thầy dạy
rất hay là nghe chim, nghe lá, nghe gió, nghe suối đều đã, đang, và sẽ thuyết
Pháp Hoa Kinh.
Khi
gặp những lúc sóng dữ, nghịch cảnh cầm trên tay chiếc trống, lắc nghe tùng
tùng, ta sẽ được cho một công án để suy ngẫm. Và mỉm cười nhẹ nhàng khi nhận ra
rằng, àh, các pháp đang tụ hội, nương theo duyên khởi mà sanh diệt. Sự tụ hội
ấy là huyễn hoá, thì pháp kết quả cũng là khói mây. Nhìn lại, thấy vạn pháp
trôi trong dòng chảy của duyên khởi trùng trùng điệp điệp, giải thoát không
phải là có một chiếc thuyền để ngồi lên ngắm nhìn sự cuồn cuộn ấy, mà là sự hoà
nhập vào dòng chảy đảo điên, mà nhận ra được bản chất của mình. Thì liền khi ấy
thấy như có trôi theo dòng, nhưng là không khuất phục, thấy như là náo loạn, mà
lại là an nhiên, tự tại, thấy như sân hận mà tràn ngập từ bi, thấy như cấu uế
nhưng sáng thanh tịnh không nhơ. Phiền Não vốn là nhân của Như Lai, Hoa Sen
được xem là thanh khiết nhất trong các loài hoa, lại bắt đầu đời sống trong ao
tù, nước đọng, rễ bén sâu vào bùn nhơ để nuôi lớn Bồ Đề Tâm. Vậy không có chúng
sanh cũng sẽ chẳng có quả vị Bụt, không có chúng sanh cũng sẽ không có đối
tượng để nhập hạnh Bồ tát, không sanh già bệnh chết thì không có sự giải thoát,
không phiền não sẽ không có Thiền định. Thiền Phái Trúc Lâm có câu kệ rằng :
“
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền “
Có
đôi lần, hành giả nên quán mình là chiếc trống, những lời nói, tiếng hát, hành
động, suy nghĩ là tiếng tùng tùng. Mình biết âm thanh ấy là không thực, nhưng
nó đem lại niềm an lạc của tha nhân. Tựa như Bồ tát biết thân này là vô thường,
bất tịnh nhưng không nảy ra ý định chán ghét, khinh miệt thân này mà trái lại
còn trang nghiêm thân bằng Trí Bát Nhã, rồi dùng thân này để lợi lạc hữu tình,
cúng dường Tam Bảo. Hãy im lặng khi vắng bóng của duyên khởi, nhưng khi bắt
buộc phải nói thì hãy nguyện nói những lời ái ngữ, dùng vô thường để khiến mình
và giúp người quay về với Tri Kiến Phật, với viên ngọc bị lãng quên trong túi
áo kẻ ăn mày. Khi mình đau buồn, tay xìu xìu, mệt mỏi lắc trống, trống vẫn vang
lên âm tùng tùng. Khi sân hận, khi vui vẻ, trống đều tùng tùng. Vậy dù đời có
đau khổ, có bế tắc, có tuyệt vọng đến cùng cực mình hãy là chiếc trống, luôn vang
lên những lời nói của ái ngữ, luôn toả ra năng lượng của Từ Tâm Vô quái ngại.
Giống như vị Bồ tát Thường Bất Khinh, lặn lội đến với người đời để nói vỏn vẹn
có một điều :” Anh ơi ! Tôi không dám xem thường anh đâu, vì trong anh có một
vị Bụt còn ngủ quên, anh hãy cố lên nhé !”… câu nói ấy dễ thương lắm, vì được
phát xuất từ một tâm Vô Ngại, chỉ miệt mài giúp hữu tình quay về nơi sự màu
nhiệm ẩn tàng trong tâm thức này. Người đời có xua đuổi, chửi bới, thậm chí
đánh mắng, Ngài Thường Bất Kinh Bồ tát vẫn cứ mải nhắc nhở. Vậy, mỗi khi ta mệt
mỏi, sắp sửa để mình thất niệm giữa dòng đời vạn biến này, ta cứ nhắm mắt lại,
buông thư và nhủ thầm :” Ngài Thường Bất Khinh ơi, con biết Ngài tin ở con, vì
thậm chí những ai xua đuổi mà Ngài vẫn ở bên, thì chắc chắn Ngài sẽ ở bên con.
Ngài biết nhắc nhở chúng sanh về vị Phật còn ngủ quên, thì nay Ngài cùng con
đánh thức vị Bụt ấy nha !” Hãy tin rằng không ai có thể giải trừ đau khổ, phiền
não cho ta ngoại trừ chính bản thân ta nỗ lực. Nhưng hãy tin rằng, ta sẽ giúp
được cho những người thương trên con đường chuyển hoá, bằng lời nhắc nhở như
Ngài Bồ Tát Bất Khinh đã, đang vẫn sẽ tiếp tục làm nơi cõi đất này với tâm từ
bi vô giớn hạn đối với chúng sanh.
Thêm
điều nữa về chiếc trống. Nó có thể phát ra âm tùng tùng vì nó rỗng. Chiếc trống
không chứa đựng gì ngoài khoảng không bên trong nó. Hãy xem đó là một bài mẫu
cho ta thực tập. Ta sẽ không đem lại niềm vui cho bất cứ ai nếu trong tâm ta
còn chất chứa những định kiến, nội kết. Hãy xả bỏ những sân hận, si mê, và tham
đắm để đến với người mình thương một cách tinh tuyền nhất. Mình không thể làm
người khác thấy an ninh khi ở bên nếu trong lòng mình còn quá nhiều những định
kiến, những sự bất tín nhiệm về họ. Mình có thể níu kéo được thân xác của người
đó ở cạnh, nhưng tâm họ vẫn ở đâu đâu vì bản thân mình không như chiếc trống,
không rỗng rang để vang lên những thanh âm khích lệ tinh thần, không rỗng rang
để mỉm cười, mà trái lại có quá nhiều những cuộn sóng, bão tố để chẳng thể dung
chứa một niềm tin. Chiếc trống nhỏ, âm thanh cũng rất nhỏ. Nhưng chiếc trống
không sợ rằng âm thanh của nó sẽ tan mất giữa hư không, hay lọt thỏm trong vô
vàn những tiếng động của dòng đời… vì sự rỗng rang của nội tâm tạo nên sự
trường tồn của thực tại. Trống không lo lắng tiếng tùng tùng sẽ đi đâu, về đâu,
sẽ lặn ngụp nơi nào, sẽ hoà điệu theo bài nhạc nào, sẽ vào ra nhĩ căn của ai
trong vô vàn tha nhân. Hãy tập như trống, tin vào âm thanh vang ra từ sự rỗng
rang, không chất chứa. Chịu va đập để cho tiếng tùng tùng làm vui tai mọi
người, và hạnh phúc, hoan hỷ với sự tung bay rất cao, rất xa, rất rộng của
những âm thanh tưởng như nhỏ bé, và đơn điệu ấy. Nhìn vào chiếc trống, ta không
thể tìm thấy những thanh âm, nhưng chính từ nơi đó những tiếng tùng tùng được
tạo ra. Tình cảm không phải là nhốt người mình thương, mình yêu vào tim; mà là
hoan hỷ khi thấy họ được thong dong, tự tại với công việc, với cách sống họ
chọn vì mình biết mình là nguồn cảm hứng cho cách sống, cho công việc ấy…
Nếu
ta có tu tập, có quán chiếu thì bất cứ điều gì đến, đi đều là cơ hội để ta nhận
rõ những bài học quý giá mà cuộc sống mang lại. Mỗi lần ta đảnh lễ Quá, Hiện,
Vị Lai chư Tôn Pháp thường trú mười phương, ta phải nguyện ta nhìn ra được pháp
giải thoát, phát tự tại ẩn tàng nhưng bao phủ , trùm khắp. Tại sao ta đảnh lễ ?
Vì ta không còn biết làm gì nữa trước sự bao la, vô tận vô biên của các pháp
đưa đến Giác Ngộ, ngoại trừ hành động cuối xuống thật chậm, thật chậm, chánh
niệm và chánh niệm… Nguyện chư Tôn Pháp thẫm đẫm cả thân tâm này.
Nguyện
những điều con viết ra đều trong chánh niệm và từ bi
Nguyện
những điều con viết ra đều cúng dường Như Lai, và lợi lạc hữu tình.
Namo
Avalokiteshvara
Namo
Shantideva
Cao
Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 25/Aug/2011 lúc 7:48pm
ChÚt Ít LòNg... GửI bAy TrOnG gIó...
Tôi hay đốt
nhang. Không phải là một thói quen, mà là một cuộc thi đấu. tôi chẳng bao giờ
đốt một cây đơn lẻ, tôi thích đốt 3 cây… Người già bảo một cây cho trời, một
cây cho đất và cây còn lại cho cõi âm. Tôi nghe thế, ậm ừ. Những niềm tin
truyền từ bao thế hệ, đến bây giờ tự dưng vụt tắt. Chẳn ai tin, chẳn ai nghe,
hay có quá lắm cũng xem như một thứ cổ tích… của những người ngàn năm tuổi.
Người già lại bảo bọn trẻ chúng bây hoang đàn chi địa, rồi dẫn nhau đi phá thai,
ấy là tội giết người, ác nghiệp đấy con ạ. Tôi cười, luật pháp họ cho phép lấy
gì mang tội. Mẹ lại đi giết con… có những điều xảy ra giữa xã hội này, khi nhìn
dưới một góc độ nào đó, chúng khác nhau hòan tòan. Và cũng có những điều tự con
người chưa mày mò ra được, xin đừng vội quy cho nhau hai tiếng “dị đoan”.
Người già, già lắm.
Cũ mèm trong lối sống và suy nghĩ. Khi bọn trẻ bây giờ chạy theo rock&roll,
chạy theo cái mà bên Tây, họ sống ầm ầm, tội gì mình không thử, chúng nó văn
minh thế kia mà. Người già lại lụi hụi quét bàn thờ, chùi lại bộ lư, lâu lâu
lại cầm từng món đồ vật lên nhìn ngắm. Họ bảo vật có linh hồn. Bọn trẻ hét
tóang, trời ơi, ông bà lỗi thời rồi, đám nguyên tử, phân tử gì ấy cấu tạo nên
chúng, vô tri mà, xài qua thời rồi bỏ đi cũng được. Tôi thường gặp những người
già như thế, lọt thỏm trong những câu nói như thế của đám con cháu. Họ chẳng
hiểu thế nào là một bản nguyên tố hóa học, thế nào lạ hạt Nơtron, electron, hay
nhân gì gì đó, họ chỉ hiểu linh hồn ám ảnh vào mọi thứ…
Bọn trẻ bây giờ
yêu nhau, bồng bế dẫn dắt nhau vào nhà trọ, nổ ra tí chuyện, chia tay, đau khổ,
đường ai nấy đi… Người già cứ ngồi nghe mấy bài cải lương cũ rích, nào là yêu
mà không dám ngỏ, nào là những câu đong đưa , tình tứ… sao không nói phức ra
cho rồi… Baby, I love you. Người già khi con cháu lên thành thị đi học, họ dặn
con gái lấy chữ “trinh” đặt lên hàng đầu… con nhỏ ngún ngỏay, 4 năm ròng, quần
ngắn cũn cỡn, áo khóet sâu vào giữa đôi bồng đảo… chữ nào đặt trên đầu rớt hay
còn… có trời mới biết.
Người già quan
trọng chuyện đi nhà thờ, đi chùa chiền miếu mạo. Bọn trẻ quen ghé bar, vũ
trường, quán café, v.v.v.. Mỗi khi bị bắt dẫn ông bà đi đến những nơi trái
khóay, chúng hét tóang lên. Trời ạ, sao tôi khổ thế này. Già rồi, chân cũng
già, và những bước đi cũng già cả lụm cụm lại. Người già đi chậm, bận tìm chỗ
vừng chắc để khỏi ngã, không nhảy chân sáo, không tận hưởng cảm giác rất
Yomost, không vừa đi vừa đọc rap… nghe những thứ so sánh có vẻ buồn cười và
kệch cỡm… nhưng đó là sự thật, những khỏang trống, khó lòng nối lại… Có hai
chiếc máy nho nhỏ giống hệt nhau về hình dáng, nhưng một cái để mang người già
đến gần với thế giới này hơn. Máy trợ thính. Còn cái kia là để cho bọn trẻ.
Phong cách, cá tính, riêng biệt với cuộc sốngv.v.v .. máy nghe nhạc… Hai đường
thẳng song song. Chỉ là một công nghệ, một chiếc máy, hai con đường.
18 tuổi, tôi
nếm tình yêu ngọt như mật trong ánh mắt và đôi môi. Ngất ngây. Hoan lạc. Hai
đứa đèo nhau ra ngồi ngòai giếng nước. Mùa ấy gió chướng, gió thốc mạnh như bây
giờ. Và đêm cứ nặng trĩu, đêm nương theo gió. Chẳng bay lên cao, chỉ là đà…
lễnh đễnh. Về nhà, trước khi đồng hồ gõ nhịp 12 tiếng. Bà vẫn thức chờ tôi. Mẹ
tổ cha thằng này, mày đi với con nào mà khuya lắm thế. Cháu đi với đám bạn. Mặt
mày hí hửng thế, ráng mà học mày ạ.
Tôi yêu vội, chia
tay cũng vội. Hè hết, tình cũng hết, sạch trơn. Đêm, không kéo dài nữa. Học
xong là về thẳng nhà. Chuyên chú và tập trung. Bà nhìn tôi cười móm mém…
Tôi đậu đại
học, bảo với bà tin ấy cho bà mừng. Bà nheo nheo, mừng quá mày ơi. Lên đó ráng
học ráng hành. Cháu biết rồi bà cứ nói mãi… rời phố nhỏ, tôi bước chập chững
như thằng con nít trên những con đường chật ních người và xe. Tôi ngắm những
tòa cao ốc giữa biển người, và ngắm người trong ngồn ngộn khói và khói. Nhà tôi
ở ngay sát một khu chợ đêm giữa trung tâm Thành phố. Khuya. Ban đầu, tôi lê lết
khó nhọc vào thứ giấc ngủ nhập nhọang. Ồn quá… những tiếng ồn át cả thời gian.
Rồi dần dà về sau,
tôi cứ thể, thả cái tôi trôi tuột vào giấc ngủ. Ngủ say mèm. Ngòai kia vẫn còn,
còn hàng trăm con người quần quật nói cười giữa chợ đêm, giữa những khách hàng
cách nhau nửa vòng trái đất. Dì tôi bán shop. Tôi sớm hiểu thế nào là “vật vã
nói cười”. Dì cười tươi rói, bán quần áo “đắt như tôm tươi”, nhưng tôi biết dì
mệt. Tuổi già bị cái vật vã của những tràn cười che phủ. Nó liền trở thành bầy
mối, gậm nhấm và phá họai. Thẳng tay. Lạnh tanh… đêm về, tôi hiểu dì nằm đấy,
nghe tiếng mối gặm… gặm những tàn phai, gặm lấn cả những xuân xanh.
Và hàng trăm
đêm như thế, tôi trôi tuột, và mặc nhiên bên dưới nhân lọai, kẻ bán và người
mua vẫn “kì kèo bớt một thêm hai”, vẫn nói cười, vẫn mệt nhọc… riết rồi thành
thông lệ, tự dưng tôi dễ tánh. Không khen chê món nào, và cũng không nói khó
ngủ ở những chỗ lạ lẫm. Vậy mà hay. Hôm nào đó, lâu lắm rồi, đi xem triển lãm
thư pháp, người nghệ nhân viết một câu 5 chữ, chắc nịch mà uyển chuyển :” Bình
thường tâm thị đạo”… tôi chẳng đi tìm đạo, vì chưa đến lúc… tôi chỉ biết, “bình
thường” để dễ sống, dễ chấp nhận, và dễ thỏa hiệp với đời hơn. Thế là hết. Tự
dưng khi nhận ra điều đó, tôi nhớ nhà, nhớ bà, nhớ mẹ, nhớ dì khủng khiếp. Nhớ
đến mức mỗi khi đón một cơn gió chướng ( mùa này hay có gió chướng) tôi lại nhớ
về những buổi chiều chở mẹ đi chùa, nhớ cái gió đêm 30 Tết, tôi dẫn bà lên tận
sân thượng ngắm pháo hoa, nhớ sáng thứ bảy tôi đèo dì trên chiếc wave đỏ chạy
qua quán hủ tíu bên Cầu Quay... Thời gian trôi nhanh quá. Đêm nằm nghe đồng hồ
gõ nhịp… đều đều như tiếng mối ăn dặm… tích tắc… tích tắc… hay rào rào… rào
rào…? Vì nỗi nhớ hay vì chuyến đi xa làm tôi thay đổi, không thích hàng quán,
không thích bè bạn, chỉ muốn ở với gia đình mỗi bận từ Tp về. Và chính bà cũng
thay đổi. Ban đầu, bà bảo mày lấy vợ đi, rồi cho bà đứa cháu bà giữ cho… tôi
cười khì, chừng nào con gom đủ tiền sống, nghỉ làm rồi cưới luôn. Chừng nào ?
chẳng biết, con tính khỏan năm 40 tuổi… mày điên rồi !
Và bắt đầu bà tăng
dần cường độ lên. Mày kiếm con nhỏ nào, dẫn về bà cưới cho. Bao nhiêu tiền của,
vàng bạc bà cho mày làm của hồi môn hết… cưới lẹ, đẻ mấy đứa nhỏ cho nó bò bò
lên cầu thang cho vui… nhà buồn quá… tôi nghe bà nói bằng cả sức lực của tuổi
già. Thấy thương quá, giống như bà khẩn khỏan. Chẳng lẽ bà cần cháu cố đến mức
ấy ? Hay vì nhà mình trống trải quá… đúng rồi, trống hóac… quanh đi quẩn lại
vẫn là tường, là gạch, là vật dụng. Chúng có linh hồn, nhưng chúng không tải
nổi những tiếng cười. Nhà tôi thiếu tiếng cười, thiếu người, thiếu nhân sự,
thiếu tất cả. Tôi đi… ám ảnh trên những chuyến xe là dáng bà đi lụm cụm, dáng
mẹ ngồi cô độc trong phòng, là dì với những tràn cười với người dưng kẻ lạ…
những kẻ mối người mang.
Tôi không lang man
khi đang nói về người già và bọn trẻ mà lại tạt ngang kể lể chuyện gia đình mà
đây là khúc dạo đầu, hơi dài, nhưng không ngắn… đủ để dạo chơi, và tản mạn… Lên
Sài gòn, tôi đọc sách như điên, như con mọt ngấu nghiến cắn phập vào những
trang giấy… Quản trị học, Kinh tế thương mại, Kĩ năng Marketing, Thế giới phẳng
v.v.v chúng dạy tôi lắng nghe thị trường, lắng nghe người công nhân giống như
mèo lắng nghe từng bước chân nhập nhọang của chuột… nhắm mắt, vểnh tai, cong
đuôi và giấu móng đi để dành cho cú vồ lấy cuối cùng. Tôi phát triển cái nhìn
nhiều hơn và xa hơn tôi tưởng. Trưởng thành hơn, thông thạo hơn trước. Thế mà,
tôi vẫn chưa học được cách để lắng nghe… lắng nghe trong thông cảm và chia sẻ.
Tín chỉ ấy tôi được
cấp không phải ở trường mà ở nhà… tôi tập ngồi nghe bà hát
“ chuối non dú ép
chát ngầm
Trai tơ muốn vợ,
khóc thầm giữa đêm
Khóc rồi, lại mẹ
đánh thêm
Vợ đâu tao cưới nửa
đêm cho mày “
Tôi cười ha hả
khi câu hát ấy ám chỉ tôi. Bà hỏi mày có khóc thầm không. Để chừng nào cháu
khóc, cháu sẽ nói bà. Vậy chừng nào mày mới khóc. Chừng nào bà đừng bệnh nữa,
cháu sẽ ráng khóc… Bà tôi không khỏe nữa, giờ giống hệt như cây nhang cháy sắp
tàn, ít khói và mỏng manh. Cô độc. tôi sợ nhang cháy hết… sợ nhìn thấy những
chân nhang, đỏ quạch vô hồn.
… trở lại chuyện
bọn trẻ và người già… Ai đó bảo rằng yêu thương là phải hiểu, vì hiểu mới sanh
ra yêu thương… Nhưng thế nào là hiểu, thế nào là yêu thương ? Năm tôi yêu. Lang
thang trong một khối thơ tình đồ sộ, tôi tìm được một câu thơ… kinh điển. Nhưng
sao bây giờ nhìn lại, tôi thấy hình như nó không chỉ nói về tình yêu, không chỉ
nói về những đau khổ mà còn là dạy về cách thực tập yêu thương.
“ Yêu là chết ở
trong lòng một ít”
Dạo ấy. Tôi mơ
màng về một lâu đài tình ái. Thả hồn vào những cuộc vui, như thiêu thân. Ừ, con
thiêu thân chết vì ánh đèn. Tôi không hiểu đó là bản năng lao vào ánh sáng, hay
trần trụi là vì nó cần ánh sáng đến thế. Tự dưng lúc ấy, tôi thương con thiêu
thân. Thấy bọn chúng kéo bè kéo lũ mà chết. Thiên hạ gọi Chết chùm cho vui. Tôi
bĩu môi, thấy kẻ khác chết mà vẫn cứ lao vào là ngu… một biến dạng khác của cái
gọi là vô minh. Mà nếu thật, chúng chết vì tham vì ánh sáng, thì ngẫm lại, kẻ
bảo chúng ngu có hơn chăng gì chúng. Khối kẻ đâm nhau, chém nhau vì chén cơm.
Khối kẻ thấy chết vẫn lao vào kiếm chác. Khối kẻ đứng dậy chẳng đúng thời…
nhiều nhiều lắm. Thiêu thân là tự đốt chính mình. Nghiệt ngã nhất là đốt mà
không biết mình đang đốt. Mải mê. Miệt mài… Lúc trước, ba đem về cây đèn bắt
côn trùng. Mỗi đêm mưa tạnh, cả nhà lại tắt đèn thường đi và mở đèn ấy lên. Lũ
thiêu thân lao vào đông vô kể, nổ nghe lép bép. Có đứa chết nổ, có đứa chết
liệm, có đứa chết cháy khói bốc lên khét lẹt… bất chợt tôi khóc. Mẹ hỏi sao
vậy. Thương con thiêu thân_tôi trả lời. Giờ ngẫm lại, hồi ấy, tôi thương chúng
hay tôi nghĩ đến chính tôi. Vẫn biết dòng đời ngòai kia. Chén cơm trả bằng nước
mắt. “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Thế mà sao vẫn phải lao vào, khác chi một thứ
bản năng. Đúng rồi, một bản năng, dẫu có nhận ra rồi thì có giải quyết được gì
đâu... 4 năm. Ngắn ngủn. Cũn cỡn như một chiếc váy thời thượng. Gió tốc, thổi
bay…
Yêu thật sự. Yêu
đúng nghĩa của yêu thì không phải chết. Chỉ là hy sinh. Cái chết mà thi sĩ ấy
nhắc đến, hệt như cách nhà Phật họ đánh tan bản ngã. Dẹp chính con người mình
đi, dẹp hằng ngày, dẹp từng chút một. Để yêu, để cảm thông hơn. Để thôi tức
điên lên,vò đầu bức tóc, để tha thứ và lại yêu. Học được như thế, mới thật sự
có thể yêu một người già. Hai đường thẳng song song mới tìm được cây cầu nối.
Người trẻ bây giờ, học được điều ấy khó lắm. Khó như bắt con cá lội ngược dòng.
Cuộc sống này là một dòng nước. Dòng nước là một dòng đời… mà dòng đời thì trôi
theo, mang theo cuồn cuộn những bản năng, những ham muốn, những sân hận. Trong
trường học, người ta đã hết dạy nghệ thuật sống. Không dạy về Tiết chế. Chỉ đơn
thuần là cấm đóan, thậm chí là cách buông tay để trôi tuột…
Có lần, tôi tập
ngồi bóp chân cho bà. Bà cười vui lắm, gương mặt tươi như mặt con trẻ. Người ta
hình như đang đi lại một vòng tròn ngay trong kiếp sống này. Tôi không nói về
thân xác, nó đã chịu quá nhiều những vết thương của đồng lọai, của bản thân và
của thời gian. Vết chém, vết xăm, và những nếp nhăn… bà nằm đấy, ca hát như
say. Tôi nhìn bà cười thật tươi. Tập chăm sóc cho người khác trong chánh niệm
và yêu thương. Dẫu biết rằng, bà già rồi, như cái máy chạy mãi. Chạy cả một đời
người, những bánh răng bắt đầu mỏi mệt. Chúng đình công và bà nhức. Cái nhức
của tuổi già kỳ lạ lắm. Nó từ trong xương mà mom mem bò ra. Bò như đàn kiến.
Nhức không nhiều, không dữ dội mà âm thầm, buông buốc. Tôi hít thở và ngồi xoa
vào những nơi bà bảo nhức. Nhức quá chắc bà chết mày ạ. Người ta chết vì bệnh
chứ ai chết vì nhức bao giờ. Mai mốt bà chết rồi mày coi. Bà phải sống để xem
đám cháu cố nó bò lên cầu thang chứ. Ừ, đúng rồi, mà khi nào mày lấy vợ, lấy lẹ
lẹ lên đi... Bà hồ hởi nói về tương lai… nhìn bà cười, cười thật tươi. Yêu thật
là như thế…
Người trẻ à…30
năm…40 năm… trôi nhanh qua như một cái chớp mắt. Miệt mài, mộng mị cứ chạy mãi
trong một vòng tròn. Cứ lần hồi, rồi lại đi qua những mô đất, những thành quách
mà người già đã có lần ghé đến. Rồi sẽ về đâu… cũng lại gỡ chiếc mp3 ra để thay
vào cái máy trợ thính. Nghiệt ngã lắm. Thứ lạnh hơn nước đá, lạnh hơn khí trời
ở Bắc cực , là những quy tắc, những định luật bất biến. Và Già, Trẻ là thứ định
luật ấy. Hãy tập sống với một người già, hãy lắng nghe và yêu thương để thấy
cuộc sống này đẹp hơn, ấm hơn trên con đường chằn chịt những vết xe đổ… cố lên
đi, bạn và tôi.
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 01/Sep/2011 lúc 9:49pm
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/nhoc_salad2009/article?mid=224 -
“KINH LẠY CHA
Lạy Cha chúng con ở trên Trời
Chúng con nguyện danh Cha cả sáng
Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời
Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày
Và xin tha nợ cho chúng con như chúng con
đã tha kẻ có nợ chúng con
Xin giữ chúng con khỏi sa trước cám dỗ
Nhưng xin cứu chúng con ra khỏi sự dữ
Amen “
Bài Kinh
Lạy Cha do chính Chúa Jesus dạy cho các môn đệ. Chúa Jesus là người cấp tiến
trong nhận thức về Thiên Chúa vào thời đại ấy. Cho nên Kinh Lạy Cha mang một
màu sắc hoàn toàn khác với những bài kinh khác như Kính Mừng,.v.v. Đa số trong
đạo Thiên Chúa, các kinh đọc và lần chuỗi được chia ra làm 2 mảng. Mảng để tôn
vinh Chúa, Đức Mẹ và mảng để thực hành. Tuy nhiên các giáo dân và có thể là cả
những vị Linh mục không nhận thức rõ được điều này. Mảng để tôn vinh Thiên Chúa
thì đứng đầu là kinh Kính Mừng, rồi kinh Sáng Danh, kinh Nữ Vương. Mảng để thực
hành đầu tiên là Kinh Lạy Cha, rồi rất nhiều kinh của các vị Thánh , điển hình là
bài Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô khó khăn...
Trở lại
phần trên như đã nói, Jesus là một người đạo Chúa cấp tiến. Thầy ấy gần như đã
phá vỡ hoàn toàn các định kiến của thời bấy giờ. Trao quyền năng cho con người.
Trong ấy quyền năng cao nhất là sự THA THỨ. " ở đất này, các người cũng có
quyền tha tội cho anh em của các người ". Vậy Thầy Jesus mang màu sắc của
Cựu Ước là hình ảnh Chúa Cha oai nghiêm ra để đến gần với tâm lý của dân Do
Thái, và từ sự gần gũi ấy, Thầy gần như lấy hết các quyền năng của Chúa Cha mà
trao cho con người. Như việc Ngài dạy các môn đệ cách làm yên biển động và gió
dữ. và bảo rằng " lòng tin của ngươi đã cứu ngươi ". Theo cách nói
của Thầy ấy, Chúa Cha không còn một quyền lực nào trên con người ngoại trừ sự
PHÁN XÉT, THƯỞNG PHẠT , ĐỊNH TỘI... Thầy Jesus giới hạn sự tác động của nhân
vật Cha trên Trời trở thành danh từ mà phương Đông, Đức Thích Ca gọi là LUẬT
NHÂN QUẢ.
"
không ai đến được với Cha Thầy, mà không qua Thầy "
Nếu chấp
vào văn tự, ta sẽ hiểu lầm rằng Thầy Jesus đang đề cao chính Thầy, và tự làm
quan trọng hóa bản thân. Nhưng nếu hiểu thoáng ra tức là muốn ung dung tự tại
nơi Cha Thầy thì phải thực hành theo giáo lý của Thầy. Mà Giáo lý của Thầy là
tình thương, là từ bi, bác ái. Như vậy, Thầy Jesus không trực tiếp giảng dạy về
cách Thiền Quán Từ Bi, nhưng gián tiếp dạy về Hành Từ Bi cho các môn đệ và giáo
dân của Thầy. Muốn ung dung tự tại trong nguồn máy bất tận và công bằng của
NHÂN QUẢ, cách duy nhất Thích Ca nói đến là sự Tu tập, và đoạn diệt các tham
đắm. Không gieo nhân nữa thì sẽ không có quả. Tức là không có tác ý. NHÂN QUẢ
dẫn đến LUÂN HỒI, Bồ tát ung dung tự tại cứu khổ trong LUÂN HỒI vì Bồ tát liễu
ngộ sâu sắc và tột cùng của NHÂN QUẢ.
Vậy thì
lời dạy của Jesus và Thích Ca có khác không ?
Thầy
Jesus tuy là người cấp tiến nhất thời bấy giờ, nhưng vẫn không thể nào giảng
dạy một đạo mà ko hề liên quan gì đến Thiên Chúa. Không thể nào bảo rằng "
Duy ngã Độc Tôn". Như vậy, giáo lý của Ngài sẽ bị cho là TÀ GIÁO theo quan
điểm của giáo hội lúc bấy giờ. Ngài không còn cách nào khác, ngoài cách giảng
dạy đã chọn. Đem con người vào một giáo lý mới, nhưng cũng khẳng định Thầy vâng
lời Cha Thầy đến để truyền ban giáo lý này cho các con. Nhận là Con Thiên Chúa
để giáo lý có thể được chấp nhận tuyệt đối. Thừa hưởng cái cũ, nhưng cũng đồng
thời phá nát những định luật cổ xưa. Thiên Chúa không nói hai lời, nhưng tại
sao giới luật cho Moise lại khác, và cho Thầy Jesus lại khác. Vì Thầy Jesus
không phải đến để rao giảng về nước Thiên Chúa của ngàn xưa, Thầy đến để dạy về
cách biến cõi đất này nên Thành của Thiên Chúa, và thánh hóa dân chúng trở nên
một với Thiên Chúa. Cách đó ở Phương Đông, dân chúng cũng ngỡ ngàng với một học
thuyết, các Phật thể tánh vốn đồng, và chúng sanh cũng đồng một Phật tánh.
Kinh Lạy
Cha thật sự là một cách cầu nguyện siêu việt và vĩ đại của Thầy Jesus, đó không
phải là Kinh để đọc theo kiểu tính đếm, mà là Pháp để y giáo phụng hành, thực
tập sâu sắc. Kinh ấy không phải để trừ tà ma mà là cách dạy nên những người có
thể trừ tà bằng đức độ, và lòng tư bi vô lượng của chính bản thân họ.
Lương
thực là thứ đầu tiên được nhắc đến, nhưng tại sao không là lương thực quanh
năm, lương thực dư thừa mà là lương thực hằng ngày ? hằng ngày là hiện tại, vậy
Thầy Jesus quan tâm là hạnh phúc hiện tiền chứ không phải ngày mai, hôm qua và
mai sau. Điều cầu xin đầu tiên không phải là giàu có, mà là sự đầy đủ. Lương
thực là ẩn dụ của sự đủ đầy, no ấm và hạnh phúc. Lương thực vừa của tâm linh và
thể xác. Là chiếc bánh thánh nơi bàn lễ, là chén cơm ăn mỗi ngày. Ý thức
được rằng lương thực này của Cha ban, ta sẽ hứa thọ dụng trong chánh niệm, mà
đối với người phương Tây là ăn một cách trịnh trọng. Ăn hạt lúa và nhận rõ tính
chất tương quan trong hạt lúa. Điều này Kinh Hoa Nghiêm nói đến, bằng hình ảnh
lưới trời Đế Thích, mỗi hạt châu phản chiếu muôn vạn hạt châu. Để thấy rằng
Chúa Cha không phải là một hình tượng cụ thể mà tồn tại dưới dạng những định
luật thường hằng của vũ trụ. Tìm Chúa Cha theo dạng tìm kiếm cụ thể hình dáng,
mắt tai mũi lưỡi chính là giết chết Chúa Cha. Nhận ra sự hiện diện của Cha qua
những điều bình dị của cuộc sống. Tìm Cha qua hạt lúa, hột cơm, tiếng cười,
giọt nước mắt ấy mới là lòng tôn kính Cha Thật sự. Điều đó thể hiện rất rõ ràng
qua " ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên trời ", và Thích Ca cách
đó rất lâu cũng nói rằng : các định luật chi phối cả chư Thiên và chúng sanh.
và tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Kế đến
là sự mặc cả của sự tha tội, Cha ơi tha tội cho con nha, vì con cũng đã tha tội
cho hết thảy những ai mắc nợ con rồi. Nói là sự mặc cả, nhưng thực chất Thầy
Jesus đã đồng hoá con người, nâng tầm vóc của người cầu nguyện trở nên một với
đối tượng lắng nghe sự cầu nguyện. Con cũng có thể tha tội cho người khác, và
Cha cũng thế. Con và Cha không phải là hai thực tại riêng rẽ. Con trong Cha, và
Cha ở trong con.
Trong
các Pháp quán Tứ Vô Lượng Tâm, pháp quán thứ 4 là xả. Xả là bỏ. Ở đây Tha Tội
cũng gần giống với Xả, không chấp giữ. Xả là pháp quán có thể vượt thoát Sanh
tử bởi không còn vướng mắt, không thương ghét, hỷ nộ ái ố. Lúc nào cũng an lạc,
thanh thản. Ké khác mang nợ con, và con mắc nợ với Cha. Vậy Thầy Jesus đã cố ý
xoá đi ranh giới giữa kẻ vay và người trả nơi thế gian này. Hắn nợ ta vì biết
đâu trong kiếp trước ta nợ hắn và chưa trả, hôm nay hắn đến đòi lại. Không còn
hình ảnh vay trả giữa hai thực thể nữa, mà là sự công bằng và toàn vẹn của NHÂN
QUẢ, của Ý CHA trong từng sát na. Sự vay trả trở thành một dòng sông, không
khởi điểm và cũng không kết thúc. Ai nói dòng sông có bắt đầu và kết thúc là họ
đang chấp vào hình tướng và có cái nhìn thiển cận. Sông đổ ra biển, và từ biển
đổ về sông. Nước sông không mất đi đâu cả, ngàn năm nay vẫn thế. Vì con nhìn
thấy được tất cả đang được vận hành theo Ý CHA, nên con nguyện không nhìn ai là
người mắc nợ, và không tự xem mình là kẻ đi cho vay. Con chỉ là một tác nhân
trong dòng cuộn tròn của Nhân Quả, cho nên khi tự xét thấy mình không nợ ai, và
không ai nợ mình ấy chính là khi hoa sen vút cao lên khỏi bùn nhơ. Vượt thoát
khỏi sự trả vay vốn dĩ, vượt thoát khỏi sinh tử luân hồi ấy là lúc CHA tha nợ
cho con rồi, và con về với nước CHA. Là Niết Bàn theo Thiền Tông, Cực Lạc theo
Tịnh Độ và Thiên Đàng theo Kitô giáo. Nơi sự bất sanh bất diệt được hiển bày.
Thầy
Jesus dạy các môn đệ tu học theo Tân Ước phải dừng cuộc đòi nợ lại. Khi người
cho vay không làm công việc thu nợ nữa, thì sẽ không còn bóng dáng hay danh
hiệu của kẻ vay tiền. Sâu xa hơn, không chỉ dừng lại ở hai kẻ đi vay và cho
vay, hay thiếu nợ và đòi nợ. Có lẽ, Thầy nhấn mạnh hơn rằng những danh xưng của
thế gian này chỉ là tạm bợ, phù hoa, như dấu chân trên sa mạc. Chúng không có
thật. Thầy Tư Tế làm công việc Tư Tế, nhưng không đền thờ, không giáo dân,
không Thần Linh thì chức danh Tư Tế ấy có được hiểu hay không ? Cho nên danh
xưng chỉ là cách định dạng, tóm gọn tạm bợ những gì nó bao gồm. Nhà vua có còn
là vua khi không quần thần, không đền đài, thành quách, dân chúng,.v.v. Vì
chúng con đã nhận thấy sự phù phiếm của danh xưng, đã dừng lại cuộc trả vay bất
tận nên Cha tha cho chúng con. Cha chỉ tha thứ khi nào các con hội đủ những yếu
tố ấy. Mà cũng không cần có một vị Cha cụ thể để làm công việc tha tội vĩ đại
ấy, chính chúng con đã được sạch rồi. Cũng hệt như pháp Sám hối của Phật giáo
“ Tội do
Tâm sanh, do Tâm diệt
Tâm đã
diệt, tội cũng không còn
Tội hết,
tâm không, hai vẳng lặng
Như Thế
mới là chơn Sám hối “
Đức Thích
Ca sanh vào một thời kỳ mà Tôn giáo sản sanh ra như cỏ sau mưa, phái thờ thần
Lửa, thần Rắn, thần Nước, phái Loã Thể, phái Khổ Hạnh .v.v.. Nên việc Ngài lập
ra một Tôn giáo, một Triết lý mới và đánh sập toàn bộ hệ thống của các Tôn giáo
khác là việc hoàn toàn có thể. Nhưng đối với Jesus, Thầy là một vị đạt được
phương tiện khéo. Dùng chính những sai lệch, những thiếu sót trong Cựu Ước, và
Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ để lập nên một tôn giáo, một nền tảng triết lý
khác. Ta có thể gọi là “ bình cũ nhưng rượu mới “. Chỉ cần Ngài xưng là Con
Thiên Chúa thì đã bị xem là phạm thượng rồi, thì quan điểm mới của Ngài, trao
quyền năng cho con người sẽ bị đối xử như thế nào ? Khi cái thấy của Ngài không
đồng với tất cả các vị Tiên tri mà dân Do Thái từng ngưỡng mộ ? Con thuyền của
Jesus lập nên có đủ sức để cứu chúng sanh cũng như thuyền Bát Nhã của Thích Ca.
Vì chúng không khác nhau, bất nhị. Nhưng từng sắc tộc, địa điểm mà phương tiện
phải thay đổi, phải linh động. Ấy gọi là “khéo ứng các nơi chỗ “ để cứu độ
chúng sanh.
“Xin chớ để chúng con sa trước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”
Sau khi
đã dừng lại giữa dòng sanh tử, vay trả không lúc nào ngơi nghĩ. Thầy mở ra cho
dân Thầy thấy rằng đối tượng tăm tối không phải là Satan, Lucifer cụ thể như
Cựu Ước đã từng đề cập mà là những cám dỗ và sự dữ. Những cám dỗ kéo con người
bước đi vào lại nơi cuộc vay trả, trả vay đang quay cuồn cuộn. Sức hấp dẫn của
những khổ đau không bao giờ đến bằng nước mắt, héo úa và sầu muộn mà hiện ra
trước mắt hành giả bằng sắc đẹp, mùi hương, đàn hát, xác thịt, ngon ngọt. CHA
giữ chúng con bằng cách nào ? bằng cách cho chúng con thấy rõ BẢN CHẤT VÔ
THƯỜNG của vạn pháp. Cám dỗ kéo chân con, bắt con phải sa vào luân hồi, xin hãy
thể hiện sự VÔ THƯỜNG nơi những cám dỗ ấy. Đức Phật quán 3 ma nữ con gái của Ba
Tuần là già nua xấu xí. Thì hôm nay, Thầy Jesus dạy môn đệ nhìn thấy ấy là cám
dỗ, và khổ đau ẩn tàng dưới lớp màn của hạnh phúc, dục lạc. Nhìn thấy đó là cám
dỗ, thì nó mất ngay. Nhìn thấy đó là vọng tưởng thì nó liền tan. Ấy phải chăng
là pháp thiền PHẢN QUANG TỰ KỶ, quay lại tìm tâm thì chẳng thấy tâm của Tổ Bồ
Đề Đạt Ma khi truyền đạo sang Trung Quốc ? Sự dữ là những ác nghiệp, cứu khỏi
sự dữ là mang chúng con đi khỏi những ác nghiệp. Bằng cách nào ? Là dạy chúng
con ác và thiện nghiệp cũng đồng một bản chất là NGHIỆP. Cha đã dạy chúng con
dừng gieo hạt mầm của nghiệp báo lại rồi thì sự dữ ấy không còn đến được nữa.
Bản dịch Tiếng Anh là “ Deliver us form evil “. Deliver nghĩa là mang ra khỏi,
vượt thoát khỏi. Có lẽ hiểu bản Tiếng Anh sẽ sát với ý nghĩa hơn và dịch sang
Tiếng Việt. Từ “ Cứu” thường bị hiểu lầm như từ “cứu” trong Phật giáo. Người ta
hay hiểu “cứu” cũng giống như gà mẹ thấy gà con bị diều quạ tấn công liền dương
đầu với diều hâu quạ dữ. Nhưng trong bài Kinh này, và trong các kinh điển Phật
giáo, “cứu” được phát khởi từ Tâm Bi… Bi là mong muốn cứu thoát chúng sanh đang
lâm nạn, sự mong muốn ấy phát triển đến một mức vĩ đại cao tột thì gọi là Đại
Bi, và Đại Bi nên khéo ứng các nơi chỗ. Ứng nơi chỗ không phải để cứu theo cách
của Thế gian, mà là mang lại Pháp môn thích hợp để cứu thoát. Như Ngài Địa Tạng
độ thoát chúng sanh khỏi Địa Ngục… ta có thể dịch thành :” He can deliver Souls
of Dead from Dell “. Độ thoát không phải là mang đi mà là trao cho phương tiện
để có thể TỰ THÂN vượt thoát. Thầy Jesus từng bảo “ Chính đức tin của ông đã
cứu ông “. Đó chính là ý nghĩa của cả câu “ cứu chúng con khỏi mọi sự dữ “, tức
là hãy “hãy trao cho con Chánh pháp đặng con độ hết mọi đau khổ nơi thân tâm
này”.
Điều
đáng lưu ý là đối với những cám dỗ lại dùng cụm từ “giữ cho khỏi sa” , và sự dữ
thì “ cứu khỏi “. Có thể Thầy Jesus quan niệm rằng cám dỗ là một đối tượng để
quán chiếu. Dục lạc là một đối tượng khá thú vị cho hành giả quán chiếu về sự
vô thường của xúc cảm nơi thân. Nên có một số người nói rằng “ tu mà không diệt
được dục thì không phải tu “… Ta không dấn thân vào Địa Ngục thì ai sẽ vào giúp
ta đây ? dấn thân vào Địa ngục là hành động điềm tĩnh, an nhiên trước cám dỗ,
dùng trí tuệ rộng lớn mà nhận thấy được bản chất của vấn đề. Thân này huyễn
hoặc, do duyên hợp tạo thành thì có “sa “ trước cám dỗ không ? Tuyệt đối là
không. Nhưng phải “giữ”, Cha phải “giữ “con. Đó là sự duy trì chánh niệm cho
miên mật, cho liên tục. Không phải cứ nhận được chân tướng của cám dỗ một lần
là sẽ thoát được đó, lúc nào cũng phải cảnh giác, phải nuôi lớn chánh niệm hằng
ngày. Khi con cầu nguyện thì con không gục ngã. Khi con ngồi Thiền, trì Chú,
Niệm Phật thì chắc chắc con vượt khỏi lục trần. Nhưng trong đời sống hằng ngày,
con phải làm thế nào để phát huy được hạt giống con đã gieo trong những giờ hợp
ý cùng Cha, những thời công phu sáng chiều. Phải phấn đấu sống chánh niệm suốt
24/24 mỗi ngày. Và câu nói, “cha ơi giữ gìn con nhé !” là một câu nói rất dễ
thương, và êm dịu. Khi đứa con nhờ Cha giữ gìn vì nó sợ những lúc nó quên lối
về, thì lúc ấy nó đã thắp được mặt trời chánh niệm mà bước đi rồi…
Ta có
thể kể lại chuyện Thầy Huệ Khả cầu đạo với Ngài Bồ Đề Đạt Ma
-
Thầy ơi, tâm con không an lành, xin Thầy giúp con
-
Vậy, con đem Tâm ra xem nào ?
-
Ơ hay, con không tìm được tâm con
-
Vậy là Thầy đã an tâm cho con rồi đấy !
Và câu
chuyện giữa người Kitô hữu với Thiên Chúa :
-
Chúa ơi, xin giữ con khỏi sa cám dỗ, và giúp con thoát khỏi những sự dữ
-
Vậy, con hãy mang cám dỗ và sự dữ ấy ra cho ta xem nào ?
-
Con không làm được, chúng không hiện hữu.
-
Vậy, Cha đã giúp con rồi đấy !
Ta gọi
dục lạc, gọi sắc thanh hương vị xúc pháp là những cám dỗ, súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục là sự dữ. Nhưng bản chất của chúng vốn không thật, quay lại tìm thì
chúng biến mất ngay. Vậy chỉ cần con canh phòng cẩn mật, hệt như lúc con quay
lại tìm Tâm, hay tìm cám dỗ và sự dữ thì con sẽ được an lành.
Trong
một bài Kinh rất ngắn, Thầy Jesus hiển bày 3 pháp môn tối thắng của Phật
giáo là HIỆN PHÁP LẠC TRÚ, QUÁN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, và TRỰC CHỈ NHÂN TÂM KIẾN TÁNH
THÀNH PHẬT. Những điều ấy chứng minh rằng, những phép quán ấy không thuộc riêng
về Phật giáo, không phải do công của Đức Thích Ca sáng tạo nên. Đó là chân lý hằng
hữu trong vũ trụ này, chỉ cần thắp đèn trí tuệ thì có thể thấy được “ Tận hư
không biến pháp giới, quá, hiện , vị lai chư Tôn Pháp thường trú trong mười
phương “. Những điều to lớn, khó tin ấy hoàn toàn có thật. Và Thầy Jesus cũng
là một trong vô số hoá Phật đã diễn bày,và tuyên dương Chánh pháp giữa cõi Ta
Bà này.
http://up.anhso.net/ - - -
-
-
-
-
-
-
-
Cao Hồng Ân.
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 07/Sep/2011 lúc 12:31am
ĐỘC THỌAI VỚI MÙA THU
Chiều. Giống hệt như bao chiều khác. Những chiếc lá ủ dột, khô đét
rơi rụng trên con phố dẫn đến trụ sở hội văn học tỉnh. Kiểu kiến trúc cổ, âm u,
trầm mặc. Mấy bức thư pháp treo trên nền tường màu vàng đất. Chữ cũng mộc như
đất. Và mộc mạc cũng là một thứ gì đó, tôi đi tìm… lang thang trên những con
phố… cuộc tìm kiếm ấy kéo dài suốt một mùa thu.
Nắng. Lặng đi trên những chiếc lá. Lá khô đét, gầy gòm, già đét
lại vì nắng, hay theo một quy luật nào đó. Em bước đi trên những con đường lá
khát. Lá khát một thứ mộc mạc giữa đời thường. Em bỏ lại, những giận hờn, hạnh
phúc và mớ khát khao cháy bỏng. Chúng bị vò lại với nhau như một chiếc tất cũ
mèm, ai đó vứt dưới gầm giường. Nhện. Bụi. Giăng và đeo bám. Lá me vàng, lá
điệp rơi bám theo trên mái tóc bay trong gió thu. Lá rơi vì gió, hay vì tóc em
đẹp lạ thường. Chiếc lá bàng rơi vội, nhìn theo những chiếc lá nhỏ hơn. Nuối
tiếc và ngậm ngùi, ước gì, nó đừng to lớn như thế… vậy là nó rơi khi nó mang
màu đỏ, màu của máu trong tim thấm ngược ra da mình. Anh đứng đấy, cầm chiếc lá
bàng thô kệch, nhìn những con gió nâng lá rơi rụng. Nhìn lá trong gió, mà cứ
ngỡ lá trong tóc em… ừ thì cứ cho là mơ tưởng… mơ giữa nắng thu.
Đêm. Quán 3A lặng đi trong bóng tối, với những ánh đèn bé tí. Ánh
sáng ấy không đủ xua tan bóng đêm, chúng làm cho đêm sâu hơn và buồn hơn. Quán
vắng, mấy cặp tình nhân ngồi lưa thưa, tận hưởng ly café… hay chỉ đơn thuần là
tắm táp trong một thứ hương vị yêu đương. Được ngồi cạnh nhau, nói chuyện, nhìn
nhau cười nói, tựa đầu vào nhau, và lòng thấy ấm. Ngòai trời. Đêm vẫn mịt mù,
với những ánh đèn vàng hoe hoắt. Lá rớt rơi, chẳng ai hay biết. Lá vẫn rơi. Để
khuya nay, người lao công quét vội chút mùa thu vô danh… ở đời. Những thứ vô
danh, chẳng biết để làm gì… thường được cho là rác. Và mùa thu vô danh cũng
thế. Xa xa. Đêm trên sông dài vô tận. Gió thu Nam Bộ không rõ ràng, chỉ lẫn
khuất, chút lá rơi, chút buồn xa vắng. Thu về, vẫn nương theo tiếng nổ vang
vang của máy đò ngòai sông. Có đôi lần, ngắm nhìn những ánh đèn le lói nơi sông
vắng, ai đó bảo rằng đó là mắt của sông. Mắt sông không sáng mà trầm mặc, mà
lặng đi giữa đêm, giữa gió. Mắt sông trôi nổi giữa dòng, hay là đời người trôi
nổi. Những gia đình trôi nổi, Những cuộc tình trên sông, yêu vội và sống vội.
Thân như bèo nước. Có biết đến mùa thu ?
Sáng. Nơi căn gác trống hóac. Chăn chiếu lạnh như một thứ băng giá
ẩn khuất. Người đàn ông còn sót lại sau cuộc mây mưa của mùa hạ và mùa thu. Gã
nhẹ nhàng khóat lên mình chiếc áo sơ mi màu vàng đất. Bước xuống nhà, hàng hiên
đầy những lá thu rơi rụng. Mặt xác. Người đàn ông bước đi, màu áo thoắt ẩn hiện
trong màu của lá vàng… Bóng những chiếc lá rơi, chập chờn trong ly café màu
cánh gián. Bàn tay người khẽ cầm lên nhâm nhi. Chút đắng của đời, và chút ngọt
của tình.
Tôi hay tự đặt câu hỏi cho chính tôi. Tại sao khi lá sắp rơi rụng,
chúng lại chuyển thành màu vàng_màu của đất. Và tôi lại đi tìm câu trả lời.
Cũng lang thang như chính tôi đi tìm cái Mộc giữa đời thường… có thứ gì đó ám
ảnh tôi, bóng những chiếc lá rơi trong ly café đen đặc, và khói bốc lên nghi
ngút.
Ông lão cạnh nhà, ngày tôi lên Sài gòn luyện thi đại học, ông còn
cười với tôi. Nụ cười móm xọm. Vậy mà thương. Ánh mắt nheo nheo vì cái cười đã
chiếm gần hết khuôn mặt teo hóp lại. Ông chúc tôi thi đậu, thành công… Tôi ậm
ừ. Tôi hỏi ông khỏe không. Tao càng lúc gầy đét như cành khô. Cần tí gió, gãy
liền mày ơi !... Tôi về. Ông mới mất hai ngày, gương mặt trên bàn thờ vẫn móm
mém cười với những cây hương cháy vội. Thu cũng vừa đến, lá rụng nhiều, là
những cành khô… giống hệt như ông. Đám tang. Con cháu về đông lắm, khói hương
xông khắp nhà. Ngày tiễn ông ra mộ, tôi có tham dự. Đứng lặng nhìn nụ cười ông
mịt mờ phía sau những làn khói bay đi vội vàng, để lại những chân hương đo đỏ,
gầy đét… Tôi chợt vỡ ra… Lá rơi, là một chút vô thường.
Mùa thu có lẽ là một đối tượng thích hợp để độc thọai. Dù đó là
mộc mạc, cầu kỳ, là giàu có, hay nghèo rách. Tất cả đều như một chiếc lá. Không
to hơn lá bàng đâu, nhỏ như lá me ấy… Có mặt, hiện diện, lớn lên… để gió thổi
bay. Tôi tin vào những chiếc lá rơi rụng nơi gốc cây, chúng sẽ cung cấp chất
mùn cho cây tốt hơn, xanh hơn. Và tôi tin ông lão hàng xóm, chính ông đã cho
tôi câu trả lời… để tôi thôi chạy theo những thứ nặng nề giữa đời sống này,
quẳng lại ở một xó xỉn nào đó… để nhẹ hơn, để vươn lại trên tóc em… một thứ tóc
của cuộc đời.
Vào một ngày cuối thu. Gã đàn ông dẫn về nơi gác xếp một người phụ
nữ. Họ sống đời vợ chồng nơi căn nhà ấy. Khỏanh sân trước nhà, được người vợ
quét lại, tươm tất, gọn gàng… Gã biết đã đến lúc thôi ngắm lá thu rơi phản
chiếu qua màu cánh gián…đơn giản vì trời thu đẹp lắm, tại sao không ngước mắt
nhìn lên ?
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 11/Sep/2011 lúc 4:59am
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/nhoc_salad2009/article?mid=265 -
Đêm…
lang thang nơi những vùng đất ảo. blog này, nối tiếp blog kia thành những dòng
dài, rất dài. Có người đau khổ về cuộc tình tan vỡ, có kẻ đang hạnh phúc dùng
blog như trang nhật ký ngày yêu nhau. Có người viết về những điều cao đẹp,
thanh khiết, cũng có người đăng tải những trang entry đậm hương vị của xác thịt…
Có người viết về sự đầm ấm, thân thương nơi gia đình… có người đương chia sẻ về
nỗi mồ côi. Ừ, thì mồ côi thiệt.
Dừng lại
giữa hàng trăm blog được lướt qua trong đêm, dừng lại ở blog mồ côi ( cứ tạm
gọi như thế ), tôi thấy lòng tựa hồ như đang se lại. Giữa đêm lạnh,
giữa phố 8 triệu con người, sao lạc lõng đến vậy. Nghĩ vậy mà tự dưng lại thấy
thương. Thương lắm.Thương blogger ấy. http://up.anhso.net/ -
Hồi đó,
mỗi đêm trước khi đi ngủ, mẹ thường dạy cho thuộc ca dao tục ngữ. Mẹ hay ê
a hát cho thằng con bé tí bặp bẹ nói theo :
“ Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha mất, gót con đen sì “
Tôi ngô
nghê hỏi mẹ, vậy là không có cha kì gót chân cho hả mẹ. Mẹ nói ừ, được kì gót
chân cho là cả một hạnh phúc. Còn nhỏ xíu, tôi chẳng biết gì… chỉ biết mỗi cuối
tuần ba về, chở hai mẹ con đi ăn, đi ngắm phố. Ba hay cõng tôi lên tận 4 tầng
chung cư nhà cậu mợ. Ba giấu mẹ, lén mua cho tôi nho, táo… những thức ăn xa xỉ
thời bấy giờ. Chỉ biết ba từ mỏ đá về nhà trên chiếc môtô màu đỏ pha vàng đất của
những con đường lầy lội, áo ba cũng vàng và người nồng nặc mùi đất núi, và bụi
đường xa.
Từ bé
đến giờ, tôi không có thói quen đợi Tết, mà chỉ đợi đến hết tuần. Những ngày
cuối cùng sót lại của một tuần, gia đình tôi vui như hội… Tôi chỉ nhớ còn nhỏ,
mặc cộc một chiếc quần sịp 7 màu, hai răng súng, cắt đầu ngố như lấy cái muỗng
dừa úp lên. Hễ lần nào nghe tiếng động cơ xe réo ì ì ngoài cổng, tôi tưng tưng,
tơn tơn chạy ra… hét lên inh ỏi : Mẹ ơi ! Ba về ! Ba về kìa !
Lúc
bé, trong tôi, vẽ lên rõ nhất hình ảnh về ba như thế này. Ba rất nóng tính, nên
đừng bao giờ đem bài vở hỏi ba chỉ cho. Ba cũng rất dễ dụ, nên đồ chơi nào mẹ
không mua mà nói với ba thì sẽ có tất cả. Nghĩ như vậy, nhưng ít khi nào tôi
nói ba mua con cái này, cái kia. Tôi tập theo mẹ, im lặng… nhưng ba là một ông
tiên, ba lúc nào cũng đoán trước những suy nghĩ, những mong muốn của thằng con
bé tẹo, tròn trĩnh. Ba là vậy. Lúc nào cũng vậy, đừng nói gì hết, vì ba đã tính
toán xa rất xa rồi.
Khi bọn
trẻ cùng trang lứa mải mê với trò công an bắt cướp, đá banh, bắn bi… tôi rút
trong nhà với mẹ. Hồi ấy, nhà tôi nằm sâu trong Quân Khu 7, giữa mịt mù cỏ ,
bông lau, cây mắt mèo, và những hàng xoài xanh xa xa, những hàng cây bạch đàn
xào xạc. Thi thoảng có vài anh bộ đội đi tuần ngang nhà, hát vu vơ vài câu nhạc
từ chiến khu xa xăm. Mỗi đêm mưa, là bầy dế, cào cào, châu chấu rên lên rĩ rả.
Trò vui nhất là được cầm kiếm gỗ đánh nhau với mẹ, tập theo mấy bộ phim chưởng
thời bấy giờ. Hay trưa trưa đi bắt kiến bỏ vào mấy hang con “kim quýt “ cái này ông anh họ tôi lên chơi, ông gọi như
thế. Hay tha thẩn bắt cào cào bỏ vào rổ nuôi. Vớt nòng nọc sống trong cái xe
bồn rỉ sét đem chơi trò bán hàng. Hôm nào đó thì nắn đất sét thành con này, con
nọ rồi ngồi chơi một mình.
Nghĩ
lại, thời ấy người ta chưa phát hiện bệnh tự kỷ rầm rộ như bây giờ, chứ nếu
không mẹ cũng đã lo sốt vó thằng con trai cưng bị bệnh gì liên quan đến thần
kinh. Và mỗi lần ba về, là ánh nắng chiếu qua những ngày tháng chầm chậm trôi
ấy. Ba chở 2 mẹ con về thăm ngoại, xách nước tưới cây, nuôi gà, nuôi khỉ… ba
làm mọi thứ để không gian ấy không trôi chậm nữa, mà sinh động lên. Ba không
muốn thằng con trai quen theo cách sống của mẹ cứ lầm lũi chịu đựng, hay phải
buồn buồn nhìn theo những món hàng đắt tiền chưng bày trong mấy tủ kiếng sáng
choang.Ừ, Ba cho con gót chân son để bước nhẹ tênh giữa đời.
Tôi
không hiểu ba. Giống như chưa bao giờ hiểu. Vì ba xa quá, giống như ông Phật
trên bàn thờ vậy. Mình chỉ cầu xin Phật, chứ chưa bao giờ mình tự hỏi mình có
hiểu cái ông bằng cát đá, xi măng kia có ẩn ý, hay buồn khổ gì không. Đến bây
giờ, khi lớn lên, vững vàng hơn trước, tôi mới hiểu ba sau khi đã tìm hiểu ông
bằng cát đá trên chùa ấy ổng dạy điều gì… Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba
nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung
như vị Phật, người ta hay thờ bằng tượng ngồi trên một chiếc bè nhỏ xíu giữa
bát ngát sóng cuộn mà gương mặt vẫn y nguyên, không vui không buồn… mình gọi là
bình thản… Mấy Thầy dạy, đó mới thật là An Nhiên.
Nhưng
hiểu là một chuyện, còn bước vào cảnh giới ấy thì là một chuyến đi rất dài. Có
lẽ, tôi chỉ vừa dợm chân bước trên con đường hiểu ba. Có hiểu mới có thương.
Còn thương trước, rồi hiểu sau, chắc chỉ duy nhất thằng tôi này đang làm. Nhưng
vì tình thương để mình cố gắng hiểu một ai đó để rồi thương cho đúng cách, đúng
nghĩa là thương. Chắc như vậy cũng được. Ai cũng có nội kết, ba cũng vậy. Đời
tặng ba chút đau khổ, đạo tặng ba chút bình yên. Bù trừ, đôi khi công bằng, đôi
khi bất công.
http://up.anhso.net/ -
Người ta
tin rằng có một vị Phật, nguyện hoá thân là quỷ dữ để độ chúng sanh. Tôi cũng
tin như vậy trong ngày chân ướt chân ráo vào với bể Phật mênh mông. Người ta
tin Phật hoá ra quỷ dữ chứ ít thấy ai đi tìm Phật trong quỷ. Ngay cả ba, đến
bây giờ tôi mới nhận ra ba là người khéo phương tiện, khéo giáo hoá, khéo độ
đời. Đứng giữa biển, là Phật lớn thì an nhiên, tĩnh tại, còn Phật nhỏ hay Phật
vừa vừa thì thoáng chút sóng gió, cũng thoáng chút nhẹ nhàng. Tôi tin vào Phật
Ngàn Tay bao nhiêu, thì giờ tôi lại tin ba bấy nhiêu. Vị Phật nhỏ, vừa vừa đang
ở bên tôi. Sao không vén lớp bèo tấm mỏng tanh là những quạo quọ, cọc cằn, khó
chịu để thấy bên dưới, mặt nước trong vắt đến mê người. Rồi từ sự trong veo ấy,
tôi thấy ba dịu dàng ngồi xức thuốc đỏ cho vết thương của mẹ mau lành, thấy ba
sừng sững như núi và vui như hội khi dẫn vợ con đi ăn sáng, uống café, thấy ba
thông tuệ như một vị Đạo sư khi giảng cho hai mẹ con nghe về Thập nhị nhân
duyên, lục căn lục trần… vị Đạo sư ấy kỳ lạ đến duyên dáng khi cứ miệt mài hỏi
hai đệ tử : có ai hỏi Đạo gì không ? làm ơn hỏi đi… , thấy ba như một cánh chim
lớn, một tàn cây vững vàng mỗi lần con nghĩ về chuyến đi lên phố lạ, thấy ba
luýnh quýnh đến tội nghiệp khi mỗi lần mẹ truyền dịch mà bình nước sắp hết,
thấy ba ung dung rãi thóc cho chim trời và cùng mau nước mắt mỗi khi thấy ai đó
có hoàn cảnh khó khăn, thấy ba chi li từng đồng cho bản thân mà cũng hào phóng
đến bất tận với vợ con… Còn nhiều lắm, ba tôi đứng giữa 2 khoảnh trời trái
ngược nhau. Tìm ba giữa đạo đế thấy ba mênh mông hiểu biết, tìm ba giữa đời để
hiểu ba từng trải, trôi nổi bể dâu.
Ba
giữ cho con trai ba gót đỏ như son, để đôi tay con chưa từng chai sạm, để con
hãnh diện với bạn bè cùng lứa, để môi con không ngớt nở nụ cười… rồi ngày kia,
con vô tình nhận ra, chân ba cứng như đá, đôi bàn tay như gọng kềm (mẹ và con
hay nói vậy ), môi ba cười đôi lần méo xệch. Ai đó có lần khen, con có nụ cười
trong veo, và đầy từ bi… nhưng không ai biết rằng ba chở bao sương gió, chở bao
nhiêu nhọc nhằn để nụ cười ấy còn mãi trên môi con. Ai đó có lần khen, con viết
văn hay, suy nghĩ sâu sắc… nhưng không ai biết rằng ba trằn trọc bao đêm giữa
chợ đời để những suy nghĩ cao xa cứ tuôn mãi theo những ngón tay con bay trên
bàn phím. Không ai biết cả, chỉ có mình con biết. Vậy mà có lúc, con tưởng
chừng đã quên.
Mùa
Vu Lan, mọi người hay viết về mẹ. tôi cũng đã viết, rất nhiều về mẹ. Vì tôi gần
mẹ, trong từng khoảnh khắc trưởng thành, mẹ luôn bên cạnh. Có lần, tôi còn bảo
mẹ là vị Phật nào đó trên chùa, thương tôi mà xuống ở cạnh bên để chăm lo, nhắc
nhở.
Trong
kinh Vu Lan báo hiếu, Mục Liên chỉ quán tìm mẹ giữa vòng trầm lao, chứ không
thấy nhắc đến cha. Rồi kinh Báo Hiếu cũng dạy về công ơn của mẹ nặng hơn cha
gấp bội lần đến nỗi xương mẹ nhẹ hơn xương cha, vì mẹ phải sinh nở đớn đau. Đó
là những điều có thật. Và hình ảnh người mẹ dễ làm người ta xúc động. Vì mẹ
thui thủi bên con, lo con từng miếng ăn giấc ngủ. Đến quê người ta cũng dành
quê của mẹ, chứ không phải của ba :
“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều “
Như vậy,
hình ảnh mẹ dễ làm hảnh giả phát khởi tâm từ bi trong các pháp quán niệm. Có vị
Thầy dạy rằng, hãy quán chúng sanh trong nhà lửa đau khổ khôn cùng là mẹ ngươi
trong muôn ngàn kiếp_ kẻ đã từng mang nặng 9 tháng 10 ngày ròng rã rồi tách da
xẻ thịt sanh ra ngươi rồi nuôi nấng chăm bón ngươi từng muổn sữa, chén
cháo, bát cơm .v.v. Mẹ là hình ảnh để quán Từ Bi, còn đối với tôi, ba là một
dạng thiền công án. Lúc choáng váng, ngợp thở, khó hiểu, gút mắc lúc thì mênh
mông, hiền hoà, giản dị. Một dạng khởi đầu từ hiểu mà thương, dạng kia lại từ
thương mà hiểu. Nhưng cuối cùng vẫn là hơi thở… Hơi thở cho tôi tiếp xúc với mẹ
tôi, ba tôi vừa thương vừa hiểu.
Blog
mồ côi viết thấy tội quá, nhưng trong những bài viết ấy phía sau vẫn chập chờn
những tia sáng của niềm tin, của yêu thương. Giống như giữa phố đông, có vị Bồ
tát đi vỗ vai từng người bảo rằng :” tôi không dám khinh anh đâu, vì anh là một
vị Phật chưa thành “… Tôi tin rằng ngày nào đó, sẽ có người vỗ vai tôi giữa chỗ
kẹt xe, bến xe buýt, phòng chờ bệnh viện hay bất cứ đâu trên phố. Vỗ vai để
nhắc lại, anh quay về đi, quay về bên trong anh, quay về nơi người xung quanh
anh. Để thấy sự hiện diện của người thân là một phép màu vi diệu. Bàn tay vỗ
vai đôi khi là một bài viết, một hình ảnh, một âm thanh… cảm ơn blog Mồ côi nhé
! đã nhắc Cải nhớ về gia đình. Nơi đó, Cải có một công án, một khán thoại đầu
mà mãi mãi vẫn còn phải miên mật suy tư…
Có lẽ,
Cải sẽ cần bàn tay vỗ vai này mãi về sau…
Namo Avalokiteshvara
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 19/Sep/2011 lúc 6:00am
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/nhoc_salad2009/article?mid=54 -
viết
thay lời một con chim cu trống...
ừm, vậy
là em đã đi rồi , đi thật xa ... ngày hôm ấy, khi ông chủ vừa mở cửa lồng, em
đã vụt bay ra như một phản xạ, một niềm khao khát ... em à , mình đã giữ nhau
đủ rồi ...
ngày hôm
nay , sao tiếng gù krúc...cu ...cu...krúc...cu...cu của anh nghe xa xăm đến
thế, chắc vì thiếu những âm thanh nhỏ nhẹ và hờn dỗi của em ước.. ước.. ước .... có bao
giờ tiếng chim cu gù lại cô đơn và quạnh quẽ đến thế này không em ???
Chiều
hôm ấy, khi em bay đi , anh đã gọi em, gọi rất nhiều em ạ... mình đã sống cùng
nhau, đôi cánh em vẫn chưa đủ sức bay thoát khỏi móng vuốt của con mèo nhà bên
cạnh, hay em sẽ mỏi cánh dừng lại ở một cành cây nào đó , vì đã bị giam cầm lâu
rồi, đôi cánh thiên thần ấy vẫn chưa quen với một khung trời mới, em có tránh
được những viên đạn đồng của bọn trẻ đi săn .... em đã đi thật rồi sao , tiếng
kêu của anh sao nghe hoang vắng đến thế, trời chiều đã buông xuống rồi , anh
vẫn cứ cố kêu, em ạ... anh ngước mắt ra ngoài những mắt lưới nhỏ, anh nhìn vào
tàn cây mận đối diện, anh chờ đợi nơi tàn xanh ấy, sẽ có một đốm trắng, dù đó
không phải là em đi chăng nữa, nó cũng đủ làm cho anh , đêm nay ngủ thiếp đi
trong bình an và vui sướng khi biết em trở về ....
Vậy mà
không vợ yêu ạ, chỉ có bóng tối, anh thấy tiếng kêu mình bị mắc lại trên những
cành cây , rồi nghẹn ngào tan biến vào màn đêm ... anh kêu lên lớn lắm , như
bảo với ông mặt trời rằng, ông ơi đừng đi mất, khi ông đi, tôi sẽ chẳng thấy
đường để kêu, và vợ tôi sẽ chẳng biết đường về ....
Nhưng
sao ông ấy tàn nhẫn lắm, cứ quay lưng mà bỏ đi , mặc cho anh kêu nài, van xin
... rồi đêm xuống thật, anh tự nhủ lòng mình sẽ kêu suốt đêm, cho em ở nơi nào
đó có lẽ sẽ nghe được anh, đêm nay em sẽ bớt đi nỗi sợ lần đầu tiên giữa một
vùng trời to lớn lắm...
đêm ấy,
anh mơ, anh thấy anh gù rất nhiều, anh gù lên liên tục em ạ, và em về thật,
bóng em bay thấp thoáng nơi những đám mây xa ...
Khi anh
giật mình tỉnh giấc, trời đã sáng rồi, đêm qua trời có lẽ mưa, anh thấy đất
xung quanh lồng thật ẩm ướt, và anh cảm thấy mình lạnh, anh nhìn về chiếc tổ
của hai chúng ta, nơi ấy vẫn còn đó quả trứng tròn , niềm mơ ước của đôi ta cơ
mà ....
Dẫu có
biết rằng em yêu tự do, em yêu bầu trời nơi đôi cánh em sải rộng, những để đổi
lấy tự do, em bất chấp mọi thứ, bất chấp một mái ấm nhỏ nhoi hay sao ? em à ,
anh không trách em, chỉ biết lặng lẽ ăn một vài hạt thóc ... Trời ạ, sao hôm
nay thóc cứng thế, khô thế, cổ họng anh ran rát... anh vội bay đến bên chậu
nước trong veo , rồi kỉ niệm chợt ùa về : ngày nào đó, em và anh cùng nhau uống
nước, chúng ta nhìn bóng nhau dưới làn nước ấy ... sao giờ đây bên anh chỉ là
một khoảng trống... vô hồn....
Chỉ
trong chiếc lồng vỏn vẹn này thôi em ạ... anh chỉ muốn hai ta bên nhau, chỉ nơi
không gian tù túng này chúng ta yêu nhau ... chỉ vỏn vẹn thế thôi ... anh chỉ
dám mơ rằng tiếng kêu của anh, những câu nói ngày nào anh trao cho em : em đẹp
lắm, em xinh lắm vợ yêu của anh... và em đáp lại rằng : anh xạo quá đi , ai mà
tin anh ... em hay làm nũng ...
Chẳng
biết em còn nhớ những hạt thóc anh trao tặng em ngay ngày em cho ra đời giấc mơ
của hai đứa mình... chỉ còn vỏn vẹn vài ngày thôi, với hơi ấm của em, giấc mơ
của chúng mình sẽ thành hiện thực, giống như bài hát nào đó của loài người :”
anh mơ về căn nhà , và lũ trẻ” ... em yêu à ...
Bữa nay,
anh nghe bà chủ bảo với ông chủ rằng thôi thì cứ mua cho nó con chim mái khác,
cho nó đỡ buồn .... và anh nhắm mắt lại, anh nghĩ về chiếc tổ cả đôi ta, sẽ
không còn dáng hình em , mà là một bộ lông khác, một chiếc mỏ xinh xinh khác
... em à, anh đã bay khắp lồng, đập cánh loạng xạ ... anh sợ, mình có lỗi với
em ...
Ngày hôm
nay, trời nóng lắm, anh vẫn cứ cố kêu , kêu thật nhiều....anh nghĩ về em... anh
sợ nếu anh không kêu, em sẽ lạc đường mất thôi ... đã 3 ngày rồi kể từ ngày em
bay đi.... vài hạt thóc, một ngụm nước , vậy mà anh đã sống, và đủ sức để cất
lên tiếng krúc...cu...cu ... anh sợ em sẽ lạc đường....
Chẳng có
ai cấm mình nuôi hy vọng, và anh hy vọng về điều ấy, anh đã kêu rất nhiều, đôi
lúc anh thấy mình khản cả cổ, định bay đến chổ đựng nước, nhưng lại thôi , anh
sợ trong khoảng thời gian ấy , không nghe tiếng của anh, em sẽ lạc đường, sẽ
rơi vào sợ hãi mất ... anh cứ đứng đấy mà kêu .... vừa kêu , anh vừa nhìn về
phía tàn cây mận, anh tìm một đôi cánh trắng phau em à... những hoa nắng cứ lấp
ló sau những tán cây , làm anh chói mắt và đôi lúc anh nghĩ em về thật... anh
mừng vui , anh đập cánh liên hồi , anh chạy đến bên niềm mơ ước tròn trĩn của
đôi ta,anh bảo nó :” Con ngoan ráng sức nhé, mẹ về sẽ cho con hơi ấm ...!” ,
anh vẫn còn nhớ em thích ăn những hạt thóc do chính anh mớm cho em ... anh đã
vội ngậm lấy một hạt thóc, rồi bay đến sát cửa chuồng, đặt hạt thóc xuống đất,
cất tiếng gọi :” em ơi hãy đến đây ăn em nhé !” , chỉ có tiếng lá xào xạt đáp
lời anh ...
Anh ngậm
lấy hạt thóc ấy, bay bám vào trong những mắt lưới, anh nhìn về phía tàn mận ...
nơi đó có những chiếc lá xanh thẫm, và những hoa nắng cứ chập chờn...anh sững
người, hạt thóc bỗng rơi xuống, mất tăm ...
Anh vẫn
cứ kêu, vẫn chẳng thèm ăn uống, anh sợ khi anh dừng lại, em sẽ đi lạc, bầu trời
tự do kia cao quá, xa quá, mơ hồ quá, em có chắc mình được hạnh phúc hay không
khi em biết về nó chỉ qua những mắt lưới nhỏ nhoi ??? em à, anh vẫn kêu ...
Và rồi
em biết không, anh không giữ nỗi đôi mắt mình nữa, sao nó cứ nhắm tít lại, anh
cố gắng lắm, cố gắng để mở ra mà trông em về cùng anh .... nhưng sao nó cứ đi
ngược lại ý anh ... thôi thì mình sẽ vừa nhắm mắt vừa kêu vậy .... anh nhớ em
nhiều lắm, nàng tiên áo trắng của anh...
Và rồi
em ạ, lần đầu tiên anh nhận ra đôi chân cứng cáp của anh không giữ nỗi anh trên
cành cây nữa, anh hé mắt nhìn, anh thấy anh đang rơi, đôi cánh không đủ sức bọc
gió , và đập liên hồi để nâng anh lên nữa ... anh nghe mình rơi phịch xuống đất
như một trái mận chín rơi từ trên cành... nhưng em biết đấy, anh vẫn cứ kêu ,
kêu để em về cùng anh ....
Anh nhìn
về giấc mơ tròn của hai đứa mình, anh thấy màu trắng dần chuyển sang màu
vàng.... và anh thấy anh không làm chủ được đôi mắt mình nữa .... anh thấy
miệng mình có vị gì đó mằn mặn...
Chợt như
một sức mạnh, anh nhớ đến em , anh phải đứng dậy để kêu , để dẫn đường cho
em... anh vùng dậy, mở to mắt, cố thu hết sức mình để đến được ngay cửa
chuồng... anh thấy những tàn lá xanh, anh thấy những hoa nắng ... à mà không em
đang về đấy chứ .... anh gọi em, gọi thật lớn...
.....
sáng hôm nay khi vô tình ra vườn nhà, đi ngang qua chuồng chim cu, tôi thấy nó,
một con chim trắng phau, nằm sát ngay cạnh cửa chuồng, nơi khoé mỏ có một dòng
máu chảy ra, và đôi mắt đỏ au cứ mở to, trong đôi măt ấy, hình như còn lấp lánh
những hoa nắng ....
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 04/Oct/2011 lúc 9:49pm
THUỲ LINH
Tiết
2 , nó ngồi học, bỗng một tờ giấy nhỏ chuyền lên :” Tao cảm thấy Thùy Linh là một đứa con gái
không có cá tính, một nhỏ gái hư ! làm tao mất cả hình tượng !”
Mấy
hôm nay trong lớp nó, bạn bè bàn bạc về vấn đề một đoạn videoclip của Thùy Linh
trong lúc mây mưa cùng bạn trai bị tung lên mạng... có lẽ đây là một vấn đề hot
nhất hiện nay ... chỉ đơn thuần vì công chúng biết Thùy Linh qua vai chính
trong phim Nhật ký Vàng Anh ...và họ xem Thùy Linh như một biểu tượng của trong
sáng và ngây thơ.
Bạn
bè nó, phần đông thì tỏ ra rất bất mãn, phê bình, chỉ trích và khinh bỉ rất
nhiều ! vì một hình tượng bị phá vỡ hoàn toàn !
Riêng
nó, nó lại nhìn khác, và chưa khi nào nó nhận ra mình cảm thông với Thùy Linh
bằng lúc này ... mặc dù nó chưa hề xem Phim nhật ký Vàng Anh, chưa hề biết Thùy
Linh mập ốm ra sao ... chỉ đơn thuần là suy nghĩ !
Và
rồi cũng ngay vào tiết 2, nó hí hoáy viết trả lời bức thư ném lên :” tao thấy
tội nghiệp !”
Ừh,
đáng thương lắm, tội nghiệp lắm, sáng nay , nghe nhỏ bạn trong lớp nói rằng Thùy
Linh đã lên Ti vi và khóc rất nhiều, Thuỳ Linh cảm thấy có lỗi với ba mẹ, có
lỗi với người hâm mộ ..v.v..v... hình như có chút gì đó nghèn nghẹn phải không
Thùy Linh ?
Người
ta bảo rằng trong mỗi con người luôn mang hai phần : tánh CON và chất NGƯỜI
! và hai phần ấy chẳng bao giờ dung thứ
cho nhau, cứ tranh giành, cứ chống đối ! và đến một lúc nào đó, tánh CON mệt
mỏi, nó ngủ vùi ... chất NGƯỜI sống dậy, đẹp đẽ và trong sáng.
Cũng
có khi chất NGƯỜI buông xuôi... tánh CON khi ấy trỗi dậy , làm đủ mọi chuyện
xấu !
Con
người tốt là kẻ biết khéo đè nén tánh CON ấy , nhưng trên đời này chẳng ai là
tốt toàn vẹn cả ! cũng như xưa kia chúa Jesu phán với đám người hăm hở đòi ném
đá vào người phụ nữ phạm tội lăng loàn :” trong các ngươi, ai tự xét thấy mình
không có tội , thì hãy ném đá vào người này !” ... và đám đông dần bỏ đi ...
tại sao ? vì trong những người náo nức lên án cái xấu ấy, tự xét thấy mình còn
nhiều nhiều lắm những tội lỗi !
người
tốt phạm lỗi vì người tốt có lúc ngủ quên trong sự tốt lành, không tỉnh thức để
canh chừng tánh CON... và có ai trong chúng ta dám nhận rằng mình chưa khi nào
lơ là trong công cuộc canh giữ đó ... khi mà thời gian làm việc là cả một đời
người ???
vậy
là Thùy Linh cũng thế , cũng trong một lúc bốc đồng và nông nỗi của tuổi trẻ,
đã để tánh CON nổi dậy cướp chính quyền... Thùy Linh có lỗi , nhưng xem ra Thùy
Linh đáng thương hơn đáng trách rất rất nhiều lần !
Nhỏ
bạn nói với nó :” tao thề là sau này sẽ chẳng bao giờ để như con bé Thuỳ Linh
ấy !”
Suy
nghĩ ấy là đúng , nhưng cuộc sống này chẳng bao giờ theo ý muốn mình cả ,mình
chẳng phải là chủ của cuộc sống này , mình sở hữu cơ thể mình nhưng có bao giờ
cơ thể ấy chịu nghe lời mình không ? mình buồn ngủ , mình phải đi ngủ mặc dù
chuông đồng hồ réo vang inh ỏi ... mình thua cơn buồn ngủ ! Mình đói mình phải
ăn ... mình có ép cơ thể mình :” tao buộc mày đừng có đói nữa !” được không ?
Mình
bệnh, mình có muốn mình hết bệnh là hết ngay được không ?
Tuyệt
đối là không bao giờ ... vậy đó, ngay đến chính cơ thể mình mà mình cũng chẳng
điều khiển được thì huống chi là tâm lý , huống chi là tinh thần, huống chi là
tương lai ???
Mình
chẳng thể bảo rằng :” tôi thề là sẽ không làm việc đó “ , mà xin hãy nhỏ nhẹ
nói rằng “ tôi sẽ cố hết sức để chuyện đó không xảy ra !” ...
Cũng
như Thùy Linh vậy, Thùy Linh có muốn chuyện ngày hôm nay xảy ra hay không ?
Thùy Linh có muốn mình bị tung phim sex lên mạng , Thùy Linh có muốn mất tất cả
hay không ? Tuyệt đối là không bao giờ !
vậy
thì sao ?
Thùy
Linh chỉ biết nơi hiện tại , lúc mà đoạn videoclip ấy được ra đời, Thùy Linh
chỉ biết vỏn vẹn một điều rằng điều ấy thoả mãn những lúc bốc đồng ! Thùy Linh
chẳng làm chủ được tương lai, cũng chẳng thể làm chủ được tình thế lúc ấy khi
những xác thịt và cuộc vui trỗi dậy ! càng nghĩ, nó lại càng thương cho Thùy
Linh, tội nghiệp thiên thần bé nhỏ ấy, phải ngập chìm trong những trò vui !
Nhìn
về chuyện của Thùy Linh, xin đừng vội chỉ trích lối sống của giới trẻ bây giờ
là sa đoạ và dơ bẩn ... mà hãy xin suy nghĩ lại, người lớn đã tạo cho giới trẻ
có được một cách nhìn đúng đắn, một cách nhìn sáng suốt vấn đề hay chưa ? Và
cũng xin tuyệt đối đừng nhìn videoclip ấy là một văn hoá phẩm đồi truỵ , một
vết nhơ , mà chính là một tiếng nói của xã hội ... một hồi chuông báo động rằng
giới trẻ thời nay đang thiếu mất đi những tổ ấm của tinh thần , thiếu đi những
dòng suối để gội sạch tâm hồn ! giới trẻ Việt Nam đang cô đơn và lạc lõng trước
những chiếc điện thoại NOKIA tối tân, trước những SH sang trọng và trước sự du
nhập ào ạt của văn hoá phương Tây ... họ sống và chạy theo chúng như những mode
thời thượng , nhưng quên rằng công dụng chúng để làm gì ?
Có
ai dám chắc rằng đoạn Videoclip ấy không phải là tác phẩm của một máy quay kĩ
thuật số hay đơn thuần chỉ là một chiếc điện thoại có chức năng ghi hình ? Nhà
sản xuất muốn thế ư ?
Thùy
Linh chỉ là một trong vô vàn những giới trẻ , những bóng hình lắc lư nơi quán
bar theo những điệu nhạc mạnh, và trở về nhà lúc nửa đêm khi đã mệt rã cả người
??? vậy ra nơi người trẻ ngả vào khi gặp bất hạnh , gặp khó khăn trong cuộc
sống là những điểm đen điên cuồng và thác loạn đến thế ?
Thùy
Linh chỉ là một ví dụ rất nhỏ, rất đáng thương về những phút nông nỗi ... Thùy
Linh đã rơi nước mắt ... chỉ đơn giản rằng Thùy Linh đang cô đơn , cô đơn khi
nhìn thấy hình tượng ngây thơ mình chẳng còn nữa ! vậy là hình ảnh trong veo ấy
tan vỡ mất rồi !
Hình
như đây cũng là một điều cần phải suy nghĩ về vấn đề thần tượng trong mỗi con
người ! Nét trong veo của Thùy Linh ngày hôm nay sẽ như một vết hằn , người ta
sẽ nhìn và bảo :” trời đất, con bé ấy nhìn vậy mà khiếp thật !” ... vậy là
trong lòng người ta Thùy Linh chẳng còn nữa, từ trong veo thay bằng từ vẩn đục
, tốt thay bằng xấu ... chỉ đơn giản vậy thôi ... con người muôn đời là thế ,
con người chẳng làm chủ được mình , vì lẽ ấy, tình cảm con người vốn cũng mong
manh ... Ngày hôm nay tôi thích Thùy Linh, ngày mai tôi ghét cô ấy vì cô ta nhơ
nhớp quá, bần quá ! Ngày hôm nay tôi thích giọng hát ấy, ngày kia tôi lại cảm
thấy nó chói tai kinh khủng ! Bữa nay tôi buồn tôi thích nghe nhạc sến , nhưng
hôm nao vui tôi thích nghe nhạc rock ! Con người thay đổi thất thường , bản
chất của đám đông thường chỉ là những cảm xúc chóng phai , nay thương mai
ghét... vậy có đôi dòng gửi những ai đang sống bằng tình cảm của đám đông hâm
mộ rằng , hãy không ngừng cố gắng và tự hoàn thiện mình từng ngày từng ngày một
... và cũng đừng thất vọng , hay đau buồn khi một ngày nọ bên mình , người ta
đột nhiên “rụng” đi đâu mất cả ... tất cả chỉ đơn thuần là một cảm giác ghét và
thương !
Người
ta sẽ thôi cho Thùy Linh vai Vàng Anh
nữa, vì họ nghĩ rằng như thế sẽ làm bẩn đi mất hình tượng Vành Anh, người ta
còn sợ những bậc phụ huynh sẽ không cho con em mình xem ... cuộc sống vốn không
bao giờ bằng phẳng, và tính từ trong veo, trắng ngần chỉ đơn thuần là những
điểm cực trị của hàm số cuộc sống ! cuộc sống là một hàm số, có điểm lồi điểm
lõm, có điểm cực đại, cực tiểu ! một hình tượng đẹp không hẳn là một hình tượng
vẹn toàn ... mà là một hình tượng biết vươn lên sau khi gục ngã , biết lồm cồm
bò dậy và chạy thật nhanh về đích đến ! đó là một hình tượng đẹp và thiết thực
cho cuộc sống thời nay nhiều hơn !
Và
nữa, những bạn trẻ, xin đừng bĩu môi, mỗi khi nghe nhắc đến 2 từ Thuỳ Linh ...
bởi lẽ , chúng ta cũng chẳng hơn gì... chúng ta cũng chỉ là những kẻ canh gác
mệt mỏi trước tánh CON không ngừng trỗi dậy ! chúng ta cũng có những đêm không
ngủ , chúng ta cũng từng chuyền tay nhau những băng hình sex , chúng ta cũng
từng có những giờ phút toàn là xác thịt ! chúng ta chỉ khác Thuỳ Linh ở chỗ,
Thuỳ Linh được quay thành phim, còn chúng ta ... nhiều lắm song chẳng nhớ được
bao !
Có
bạn, xem videoclip ấy là một thứ đồ độc địa, một thứ là ô uế tâm hồn, và đêm
về, lén ba lén mẹ mở ra xem ... như thế còn tệ hơn gấp ngàn lần người đóng
phim.
Có
bạn chuyền nhau đường truyền link như một điểm đen trên mạng ... nhưng bạn quên
nhìn những giọt nước mắt của người trong cuộc ... phát tán những thứ làm người
khác đau khổ ... cũng là một tội lỗi !
Có
bạn viết trên blog phê bình , chỉ trích Thuỳ Linh gay gắt ... hình như cũng
đang diễn lại chính cái vai của biết bao người bình thường khác, nay ghét, mai
lại thương ! bạn phê phán để người ta xem bạn là một người tốt , một người biết
sống sạch ! cũng như một cogaidolong nào đó, chê bai ca sĩ nào nó, để rồi kiện
cáo ! vì sao , vì bạn muốn viết để chứng tỏ rằng ta đây là một kẻ biết thưởng
thức, có sức ảnh hưởng lớn, ta biết sống có phong cách , chẳng sợ đứa nào !
nhưng như thế trở lại được gì ... một cô gái bất hạnh, thì thiếu mất những dòng
bạn viết , cô gái ấy có bớt chút bất hạnh hay không ? những việc bạn làm đâm ra
vô vị và lố bịch biết bao !
Có
lẽ, Thuỳ Linh sẽ chẳng đọc được bài viết này, vì nhóc chẳng biết Thuỳ Linh có
blog hay không ? mà nếu có thì giữa hàng trăm cái blog , thì blog của nhóc ...
lọt thỏm ! viết chỉ đế viết, viết để thay đổi một phần nào đó những suy nghĩ
trong những ai từng xem đoạn videoclip ấy !!! Viết cho một chút xíu gì đó gọi
là tình người !
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 26/Oct/2011 lúc 5:34pm
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/nhoc_salad2009/article?mid=243 -
Hằng
đêm, tịnh tâm vài ba phút. Giây phút rất ngắn. Nhưng để có dịp nghe hơi thở,
vào ra, ra vào đều thật đều. Có đôi lần, chợt nghĩ, ừh thì mình nghe mình thở
vậy là mình còn đang sống. Sống khoẻ, sống có tỉnh thức như vầy.
Có
một người bạn, lâu rồi không gặp, bạn nói với tôi là nước và lửa không ghét
nhau, nhưng không thể ở cùng nhau được. Nghĩ vậy mà sao thương thân này quá,
bao nhiêu năm nay nước, lửa, gió và đất cứ ở mãi cùng nhau. Kị nhau ra mặt chứ
có vui vẻ gì đâu.
Nhưng
bù lại, ở giữa những trận chiến tưng bừng của 4 thứ không hạp tánh nhau, ta còn
có hơi thở. Cảm ơn hơi thở nhiều lắm, hơi thở có biết không ? Hơi thở cho ta
chỗ đứng tách ra khỏi những cuộc binh đao, để nhìn, ngắm và suy niệm. Chỉ suy
niệm thôi, chứ không phân ra bên chánh, bên tà hay bên phải, bên quấy. Suy niệm
để thấy thương cho thân này. Có lẽ nó mòn mỏi lắm rồi.
Và
nghe hơi thở như vậy, nhìn những cuộc chiến, qua đi, diễn lại, qua đi… bất tận
thiên thu. Một hôm hơi thở nắm tay, dẫn ta vào một vùng đất mới. Vùng đất ấy
nằm giữa những cuộc chiến ác liệt, nằm lẩn khuất trong lớp khói bụi mù mịt của
binh đao. Đó là một cõi thiên đường. Nơi ấy, hơi thở mời ta ngồi vào vị trí của
đoá hoa, của ngọn núi, của hồ nước. Ta thấy sao mà tươi mát, vững chãi, và tĩnh
lặng đến vậy ! kỳ lạ quá.
Vậy
là bên dưới những cuộc chiến, luôn có góc khuất, sự ẩn tàng của bình yên. Nếu
khéo tay một chút, ta có thể phát huy năng lượng tươi tắn của đoá hoa để làm an
dịu binh lửa. Nếu khéo nghĩ một chút, ngọn núi giúp ta an trụ giữa đời này. Bận
rộn nhiều thứ quá, nhưng ta vẫn có khả năng nắm tay công việc, dắt dìu, lèo lái
công việc theo ý của ta. Ta là ngọn núi sừng sửng để tiền bạc, cảm xúc không
kéo lôi ta đi xềnh xệch như bấy nhiêu năm đã qua. Ngọn núi làm cho lưng ta thật
vững, đầu ta ngẩng cao dù đời có chê cười, trách móc, dỗi hờn. Ta biết, chất
liệu của sự vững chải đang nằm nơi đây. Nơi hơi thở này.
Rồi hồ
nước. Bao nhiêu ngày tháng ròng rã, ta
đi qua bao nhiêu hồ nước, ngắm mình nơi mặt nước tịnh bình an, vậy đó, vậy mà ta quên mất
ta cũng y chang như mặt hồ. Bấy lâu nay ta cứ để chiến tranh, trận mạc làm mặt
nước tâm bị khuấy động, rộn ràng. Bữa nay, nhờ sự dìu dắt của hơi thở. Ta thấy
ta có khả năng nhìn mọi vật với lòng không phân biệt. Thấy
người kia mặt mày kênh kiệu
ta không bực tức, thấy những cảnh hớ hênh tâm không còn ngóc đầu
dậy, bò loe nghoe. Không để tâm chạy
theo những thứ bên ngoài nữa, mà nơi này, tâm là hồ
nước. Ngoại cảnh thay đổi,
hình bóng phản chiếu thay đổi nhưng bản
chất tịnh lặng của hồ tâm vẫn ngàn đời là thế.
… ta mải mê với
3 sự kỳ diệu quá đổi kinh ngạc mà hơi
thở mang đến. Nhưng hơi thở ghé sát vào tai, và nói nhỏ nhẹ
rằng :” mấy điều
trên cũng bình thường mà thôi, còn một
điều nữa mới là tuyệt đối !”… ta lặng đi, điều
gì ngoài sự tươi mát, vững chải, thảnh thơi nữa. Chỉ cần bấy nhiêu ấy, hành trang vào đời vạn biến đã đủ lắm rồi. Nhưng mà Thở khuyên như vầy, anh ráng chút xíu nữa
đi, để em sẽ dắt anh vào một vùng này. Không có hoa, núi và hồ nước
nhưng là có tất cả. Vì tò mò, ta ngồi lại, cho thiệt yên thiệt tĩnh và bắt đầu thả
trôi theo hơi thở có ý thức…
Và
sự kỳ diệu bắt đầu… Ta không còn cảm giác của cuộc chiến, không thấy binh đao
là thật nữa. Chúng hình như là có, mà cũng có vẻ là không. Hơi thở dẫn ta vào
với không gian bên trong. Mêng mông, bao trùm và tràn đầy những bí ẩn.
Nơi
vùng đất trống không, mênh manh ấy, tự dưng ta thấy những hạt giống trôi lơ
lửng. Hạt giống đợi đủ duyên mà nẩy mầm. Trong không gian ấy có sẵn, và đầy đủ
những yếu tố mà hạt giống cần. Chút hơi ấm, chút đất, chút nước, chút xíu không
khí. Ta không nhìn thấy cây ở đâu hết, vậy mà chớp mắt cây xuất hiện. Chớp mắt
cây biến mất.
Hơi
thở vẫn đều đặn vào ra…
Vùng
không gian ấy cứ ngỡ là không, nhưng mà bao trùm tất cả. Nói là không cũng
đúng, mà có cũng được. Vì nơi đó có đầy đủ những yếu tố để kích hoạt cho sự ra
đời, cũng như sự kết thúc.
Vùng
không gian ấy nở lớn ra đến vô cùng với hơi thở chánh niệm.
Khi
tiếp xúc với màu nhiệm bông hoa, ta bị vướng vào sự tươi mát. Với ngọn núi, sự
vướng mắc là phải thiệt vững vàng…. Còn sự vô phân biệt thì nơi hồ nước.
Còn đối với cảnh giới này, ta thấy rằng ta có thể là bông hoa, cũng có thể là
ngọn lửa, là ngọn núi mà cũng có thể là cây cỏ bé nhỏ, là hồ nước tịnh mà cũng
là hồ nước động. Miễn là ta có mặt trời chánh niệm, ta biết rằng hình như ta
đang là như vậy.
Hình
như có sự tươi mát
Hình
như có sự vững chải
Hình
như có sự thảnh thơi.
Tất
cả là hình như, người chuyên môn họ gọi là “như”. Có người bảo “như thị “ là
hình như tôi nghe như vầy, “như lai “ là hình như tôi có đến. Không nghe cũng
được, không đến cũng chẳng sao. Vì chỉ là “như” thôi mà. Tiếp xúc với màu nhiệm
của không gian trong tâm thức, ta như đứa trẻ lần đầu được đi máy bay, ngắm nhì
từ ô cửa kính thấy cả không gian sao mà rộng lớn vô biên đến vậy. Thấy mọi việc
rõ như ban ngày, và mỉm cười thật an nhiên khi dòng đời trôi đi bất tận.
Ta
không dừng lại giữ dòng đời vì ta sẽ bám riết lấy nơi ta đứng.
Ta
càng không thả trôi theo dòng huyên náo vì ta sẽ tan đi mất.
Mà
ta phải như là đang đứng, như là đang trôi… Không gian cho ta phép màu của từ
“như”… có vẻ là thế, không cũng được, mà có cũng chẳng sao, chỉ cần ta biết
tỉnh thức từng sát na… Từng sát na trôi liên tục, và dòng tỉnh thức cũng tuôn
tràn miên mật như một dòng suối pha lê , hay ai đó thích gọi là lưu ly, xa cừ,
mã nảo. Dòng tỉnh thức không cuốn ta đi, mà làm ta an nhiên, “như lai” giữa đời
này.
Hơi
thở giới thiệu ta một cư dân già nhất nơi cõi không gian, vị ấy tên là Quán Tự
Tại. Gặp vị ấy, ta cúi đầu chào thật lễ phép vì ta là khách vô tình lạc vào cõi
này. Vị mỉm cười thật an nhiên. Hơi thở khẽ nói, vị ấy tài lắm, có thể biến hoá
khắp nơi nơi, đi khắp mọi chỗ…. Tự dưng ta cũng mỉm cười, ta thỏ thẻ : ừh,
nhưng mà tôi cũng làm được như vậy, chỉ cần hơi thở luôn bên tôi…
Bất
chợt, chuông đồng hồ reo vang inh ỏi… ta bước ra khỏi thế giới vi diệu ấy mà
chẳng chút hối tiếc nào mặc dù ta còn muốn ở đó, để nghe cư dân tên Quán Tự Tại
kể về không gian vô tận bao la ấy.
Bên
ô cửa, dòng đời cuồn cuộn chảy và gầm lên như thác. Hôm nay, ta không thấy sợ
dòng đời, sợ khói bụi nữa. Ta mỉm cười, khẽ nói nhỏ :” Namo Avalokitesvara”…
Giữa
cõi lăng xăng người ta bảo có một Tịnh độ. Thiệt là vô lý. Nhưng cũng quá
chừng hợp lý với những ai thấy mình đương hình như đến, hình như đi giữa đám
bụi mù khơi.
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 28/Jan/2013 lúc 12:04pm
DUYÊN QUÁN ÂM
“Gửi thân giữa
chốn Ta Bà
Cuối lưng, hôn
đất, quê nhà Từ Bi”
Trong chúng ta, có
lẽ ai cũng trải nghiệm qua được sự giới hạn của ngôn ngữ, và từ đó nhận ra rằng
đôi khi nụ cười, ánh mắt hay đơn giản hơn chỉ là sự im lặng lại mang đến nhiều
ý nghĩa và có thể nội chứa được rất nhiều điều vi tế hơn. Tuy nhiên, chúng ta đang
sống giữa nơi được hình thành nên bởi ngôn ngữ, do vậy khi nói chuyện về Pháp
vi diệu ta cũng phải miễn cưỡng chấp nhận sự truyền tải bằng chữ viết hay lời
nói. Để diễn đạt về công hạnh của chư Bụt và Bồ tát mười phương cũng vậy, các
Ngài đã ở nơi tĩnh lặng hết mọi phong ba, thì dù diễn nói hay đến mấy, lâu bao
nhiêu cũng chẳng thế nói hết. Nhưng khi chúng ta thực tập pháp lạy Bụt thì sẽ
có hoàn toàn cảm được những điều vô ngôn ấy:
“ Năng lễ sở lễ
tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao
nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng
như Đế Châu
Thập phương chư
Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện
chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc
quy mạng lễ”
Chỉ có kẻ uống
nước mới biết nước nóng lạnh, chỉ có người đủ sức can đảm bỏ xuống hết bản ngã
và sự mong cầu mới có được sự “cảm ứng” đối với chư Bụt và Bồ tát một cách sâu
sắc nhất. Do vì lẽ đó, khi tiếp xúc tới cánh cửa Phổ Môn của Ngài Quán Thế Âm,
ta cũng phải làm tương tự như vậy. Hít vào một hơi thật sâu, thở ra một hơi
thật chậm để đem tâm về lại thân qua hơi thở. Hít vào nông, thì thở ra cạn. Và
khi tâm đã chịu bỏ đi những cuộc vui long nhong, ta bắt đầu dùng hơi thở để
tưới tẩm thân tâm bằng nước Cam Lộ của lòng Từ Bi,
Hít vào ta thấy Bồ
tát Quán Âm ở trong tim ta
Thở ra ta thấy
Ngài tan vào và tịnh hóa
Hít vào ta thấy ta
ở Bồ tát
Thở ra ta thấy ta
đang tan vào biển lớn từ bi.
Và khi đã đánh
thức được tâm Quán Âm thì hành giả hãy cùng nhau nhìn lại. Chúng ta có thói
quen đặt tên cho những tổ hợp của các pháp. Cái bàn là tổ hợp của đinh, gỗ, và
ốc víc. Tuy nhiên những vật liệu sẽ không thể nào trở thành cái bàn nếu thiếu
đi yếu tố quyết định đó là người thợ mộc thứ mà nhà Phật gọi là duyên tạo tác,
hay hiểu thoáng hơn theo Kitô giáo thì đó là Thượng Đế vì mang tính chất của
tạo lập. ( điểm này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở những phần sau )
Cũng cùng sở hữu
thân tứ đại huyễn hợp này, nhưng sao tôi có hình tướng khác anh, anh có tướng
hình khác chị. Khoa học cho đó là gene, nhưng Phật gọi là nghiệp quả và người
Phật tử tin rằng chúng ta có thể hoàn toàn chuyển hóa được nghiệp quả bằng nỗ
lực tự thân. Đến với Ta Bà này, chúng ta nghiễm nhiên phải chấp nhận duyên tạo
tác. Chúng ta bị duyên tạo tác lôi đi sền sệt lúc thì lặn ngụp trong địa ngục,
khi thì đói khát rên la trong dáng hình của quỷ đói, hay si mê tột độ trong áo
khoát của súc sanh. Khi chư Bụt và Bồ tát đến hành đạo giữa thế gian này, các
Ngài nghiễm nhiên cũng chấp nhận duyên tạo tác thông qua hình thức những hạnh
nguyện. Do vậy, ta học về đức Bụt Di Đà ta phải học thông qua 48 hạnh nguyện
của Ngài, khi ta học về Bồ tát Quán Âm, ta phải hiểu từ 12 hạnh nguyện, cũng
tương tự như vậy đối với tất cả chư Bụt và Bồ tát khác.
Khi nhắc về Bồ tát
Quán Âm điều đầu tiên ta nghĩ đến đó là tâm TỪ và tâm BI vô lượng. Nên thay vì
gọi là TÂM TỪ BI VÔ LƯỢNG thì Bụt Thích Ca đã cụ thể hóa bằng hình ảnh của vị
Bồ tát tên gọi Quán Thế Âm. Không phải tự nhiên mà Ngài làm như vậy, mà đó là
kết quả của một quá trình quán chiếu nhân duyên chúng sanh vô cùng sâu sắc.
Ngài nhận thấy chúng sanh nơi cõi vô thường này, giữa dòng xoáy vô tận của
nghiệp duyên, cần phải có nơi vững chắc được cụ thể hóa bằng ngôn ngữ để làm
nương cậy. Do vậy, Ngài đặt tên cho tổ hợp năng lượng đại từ bi tên là Bồ tát
Quán Âm. Và nghiễm nhiên vị Bồ tát này có thực, nhưng Ngài không đi mây về gió,
mà dạo chơi nơi tâm thức của mỗi chúng sanh đón chờ kẻ ấy khởi nên lòng bi
thương mà liền hiện bày giúp đỡ.
Ở phần đầu của
kinh Phổ Môn, Bụt Thích Ca vì lòng thương chúng sanh của Ngài Vô Tận Ý, nên đã
hiển bày tất cả những duyên lành để vị Bồ tát được mang danh hiệu Quán Thế Âm.
Trong tất cả những ví dụ của Bụt, chúng ta để ý thấy có 4 phần riêng biệt,
tượng trưng cho 4 tính chất cơ bản nhất tạo nên TÂM TỪ BI VÔ LƯỢNG là Vững
Chãi, Tươi Mát, Tự Do và Viên Thành.
Đầu tiên chúng ta
cùng quán chiếu về sự VỮNG CHÃI được thể hiển nơi phẩm Phổ Môn qua các hình ảnh
bị cuốn trôi bởi nước dữ, nếu ta niệm Bồ tát Quán Âm thì liền được tấp vào bờ
an toàn. Nếu hành giả quán chiếu được sức mạnh của nghiệp lực xô đẩy ta đi thì
hoàn toàn hiểu được tại sao gọi nó là nước lớn cuồn cuộn chảy. Điều này, không
cần phải đạt đến một cảnh giới thiền cao độ, mà nó rất dễ cụ thể hóa qua sự
quán chiếu vê cử động của thân. Điều đầu tiên, khi ta thấy một con kiến hay con
ruồi là ta phải đập nó. Hôm nay, ta học và hiểu về tâm từ bi nên ta dừng hành
động đó lại. Nhưng trong vô thức, tay ta vẫn giơ lên cao, và nào cùng quán
chiếu:
Có cảm giác giơ
lên.. cao… cao .. cao nữa
Chúng ta giật mình
nhìn lại, thấy ý sát nơi tâm mình có mạnh không ? Nó vừa mạnh và vừa thâm hiểm
bởi lẽ mình đã gieo trồng nó từ rất lâu rồi, bởi vậy hôm nay ta mời Ngài Quán
Âm lên để cùng ta dùng cuốc từ bi và xẻng trí tuệ mới đủ sức đào bỏ hết được
cái tâm ý ấy.
Hình ảnh minh họa
cho chiến thắng tột cùng của Từ Bi trước ý tham muốn sát sanh, còn gì oai hùng
và tráng lệ bằng cảnh dao gậy của người cầm liền gãy từng đoạn. Nếu chúng ta
muốn thay đổi, canh tân lại xã hội đang đầy rẫy tội ác ngoài kia, trước tiên ta
phải thật sự bẻ gãy dao gậy của chính bản thân mình. Và nếu không muốn bị chết
vì dao gậy căm thù thì dứt khoát phải chấm dứt sự gieo rắc mâu thuẫn, tuyên
thuyết và truyền bá tư tưởng thù hận. Vì lẽ đó, sẽ rất là trừu tượng và hài
hước nếu chúng ta mơ ước về hòa giải và bình an khi mà trong nhà vẫn chất chứa
ngút ngàn vũ khí.
Trong những chuyện
về Bụt Thích Ca, có câu chuyện về con chim nhỏ bị đại bàng săn đuổi, nó bay đến
đậu trên vai Bụt và tự nhiên thấy an lành. Bình an là hoa trái của một nội tâm
VỮNG CHÃI và TƯƠI MÁT.
Sự tươi mát là đặc
tính của đóa hoa, của lá rau, của trời đất vào xuân và hơn hết là của một hành
giả có tâm thanh tịnh. Trong truyền thuyết, tươi mát là nước Cam Lộ của Ngài
Quán Thế Âm dùng để tưới mát cho tội nhân nơi địa ngục nóng bức, vì nó sản phẩm
của tâm bi. Do đó, nơi phẩm Phổ Môn, tính chất này được cụ thể qua hình ảnh
hành giả niệm Quán Âm dẫu vào trong lửa lớn thì thì lửa không thể tổn hại được
thân. Lửa đỏ thường được ví như sự sân hận, chính vì sân hận mà chúng ta phải
rơi vào địa ngục. Nếu chúng ta quán chiếu về từ bi, thấy chúng sanh đã, đang và
sẽ chịu đựng rất nhiều đau khổ trong cuộc sống thì làm sao ta còn sân hận được.
Làm sao ta giết chết một người đang chết dần mòn đi trong từng sát na ? Ta cũng
thấy sự đau khổ ấy nơi thân ta, nơi người thương nơi kẻ thù, và chính nhờ sự
quán chiếu về vô thường sanh diệt ấy, ta nhận ra được rằng, tự thân đã có quá
nhiều đau khổ, sao nỡ trách tha nhân, sao nỡ làm tha nhân đau khổ chi nữa.
Nhưng tâm Đại Bi không dừng lại ở chỗ chấp nhận sự khổ đau, mà chuyển hóa được
an lạc, tươi mát từ trong đau khổ, phải kiến thiết Niết Bàn từ những yếu tố của
uế trược, cấu nhơ. Trong vô lượng tiền thân của Bụt, Ngài đã từng là một tội
nhân nơi địa ngục, thấy muôn chúng sanh kẻ thì bị lửa đốt, bị đánh đập, bị trói
buộc, bị moi móc tim gan, và tự dưng Ngài quên đi hết những hình phạt đang chịu
và khởi lên tâm rằng: xin cho tôi nhận hết như hình phạt của họ, xin cho họ
được an lành. Ngay lúc đó, Ngài và vô lượng chúng sanh liền thoát khỏi kiếp nạn
địa ngục. Cũng như khi hành giả quên đi chính bản thân giữa những đau khổ chúng
sanh, làm thành hạt muối tan ra để ướp mặn nồng đại dương, thì ngay lúc đó hành
giả sẽ cảm nhận sự thanh thản và tươi mát nơi thân tâm. Nói cách khác, đó cũng
là một trong những tính chất vô sanh diệt của Niết Bàn. Con người có tư tưởng
rất lạ là luôn ôm ấp những hận thù và đề phòng thù hận, họ viện dẫn rằng, tôi
phải làm vậy mới đủ sức chống giữ lại kẻ thù. Nhưng còn gì đáng thương hơn, khi
chúng ta tự dựng nên một kẻ thù vô hình nào đó, để rồi đánh mất sự tươi mát của
nội tâm. Và hơn thế nữa, người đó không thể tươi mát, bởi lẽ họ chưa thật sự
được TỰ DO.
Chúng ta hay đi phóng
sanh, thả cá thả chim để cầu xin phước báu. Hình như vì lẽ đó, nghi thức phóng
sanh thường rất lâu vì chúng ta quan niệm rằng, nghi lễ càng lâu thì công năng
sẽ càng lớn. Và đôi khi không tránh được những hình ảnh rất đau lòng, con cá
chết cứng đơ khi nghe tụng chú, con chim hấp hối vì nghi ngút khói nhang. Con
người có xu hướng rất ích kỷ, mình viện dẫn vào tình thương để trói buộc và áp
đặt người thương của mình. Ta muốn con ta phải thế này, ta muốn vợ ta phải thế
nọ, ta buộc chồng ta phải thế kia. Và ta cũng TRÓI BUỘC chim cá qua cái lý
tưởng CỰC LẠC hay QUY Y của chính mình. Mình viện dẫn vì tụi nó là súc sanh nên
cần phải nghe niệm kệ, phải được quy y nhưng đó là mình đang đứng ở chỗ tín đồ
rồi viện giải, chứ có bao giờ mình là con cá, con chim bị kẹt cứng giữa lúc
nhúc đồng loại đâu mà hiểu. Do vậy hãy để con chim bay qua khỏi những tín
ngưỡng, con cá lội sảng khoái qua những nghi thức, thì đó là tự do, và ngay lúc
đó TỪ BI được hiển bày.
Người ta hay hiểu
lầm TƯ DO có liên quan gì đó đến chính trị. Nhưng Tự Do của Từ Bi hoàn toàn
khác. Nhà chính trị nói rằng, để được coi là tự do, thì con người phải được thế
này, thế kia. Ta gọi đó là Tự Do có tính tương đối bởi vì làm sao có tự do, có
thảnh thơi mà lại có những quy định, những đối chiếu ? Do vậy, khi hành giả học
về Phật pháp, hiểu về Từ Bi thì mỗi khi nghe đến Tự Do phải hội đủ những điều
kiện chi tiết thì hành giả cứ an nhiên mà mỉm cười. Bởi lẽ hôm nay kinh Phổ Môn
đã cho mình thoát khỏi những xiềng xích gông cùm trói buộc nơi thân và tâm này
từ quá lâu rồi.
Tôi gặp chị giữa
một mùa mưa như trút nước, chị lang thang đi thả cá. Một thùng cỏn con hai ba
con rô, con lóc, chị đứng ở bến sông trút lẹ chúng xuống và đứng đó thật lâu,
cười an lạc. Tôi hỏi sao chị vui vậy, chị trả lời tỉnh bơ: Tại thấy tụi nó vui,
tui vui quá hà… Trời ơi, đó niềm vui chân thật nhất giữa cõi Ta Bà này. Tay chị
còn lem lấm bùn, trên đầu cái nón lá rách bươm và áo quần sũng nước. Vậy mà chị
là người đầu tiên tôi biết, đạt được cái Tự Do bất tận của Từ Bi. Niềm vui tự
do của bầy cá, niềm vui được thả cá của chị phảng phất hương vị của sự VIÊN
THÀNH.
Khi Bụt đạt được
sự Tự Do khỏi tù ngục tham ái, Tưới mát được sân hận, và Vững Chãi trước não
phiền, chư Thiên liền hiện đến, đãnh lễ và chúc mừng Ngài đã VIÊN THÀNH. Đó là
một tên gọi khác của sự tròn đầy và thành tựu công đức. Nơi phẩm Phổ Môn, Bụt
dạy rằng một người nếu thọ trì danh hiệu hay nhẫn đến một thời lễ lạy, cúng
dường Bồ tát Quán Âm thì công đức vô lượng đến mức trăm nghìn kiếp không thể
tiêu mất. Hay nói một cách trực ngôn là, nếu chúng sanh nào khởi nên tâm từ bi
to lớn với hết thảy chúng sanh, quy mạng, tu bồi và cũng cố tâm ấy thì chắc
chắn đạo quả VIÊN THÀNH.
Hay đơn giản hơn
như việc cầu con trai con gái. Ở đây rất nhiều người hiểu lầm là Bồ tát Quán Âm
sẽ mang tiên đồng ngọc nữ từ trời xuống cho. Nhưng nếu chúng ta quán chiếu kỹ
lại thì chúng ta đã đủ sẵn TỪ BI TO LỚN để đón nhận đứa trẻ đặc biết ấy chưa ?
Nếu con trai thì phước đức trí huệ, con gái thì tướng mạo đoan trang và rộng
sâu cội phước đức. Hiểu được và quán chiếu được như thế, ta sẽ thấy rất rõ về
câu ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU. Nếu chúng ta không biết tu dưỡng
lòng từ ái, và bi thương đối với hết thảy chúng sanh thì sẽ không thể quyến dụ
được những duyên lành, ý tốt và kể cả khi miễn cưỡng cho rằng Bồ tát ban con
thì cũng sẽ không vị nào dám đem trứng trao ác cả. Do vậy, việc đầu tiên không
phải là tìm cầu mà hãy học cách yêu thương, tìm hiểu nỗi khổ của chúng sanh và
cầu mong cách để xoa dịu những đau thương ấy, mới là việc người trí cần làm đầu
tiên.
Ta vẫn có thể hiểu
chi tiết này khi đối chiếu với gia thất của Duy Ma Cật. Ông là một đại trưởng
giả và cũng là bậc đại thượng thủ, Ngài luận giải về quyến thuộc con cái như
sau:
“ Lòng Từ Bi là
con gái
Tâm Thiện Thật là
con trai”.
Quyến thuộc, gia
thất được hiểu như tập hợp những người thương, và thật sự Bồ tát ra vào sanh
tử, lấy chúng sanh làm nghiệp nên sẽ cần lắm những quyến thuộc Từ Bi và Thiện
Thật như vậy.
Quán chiếu về chất
liện VIÊN THÀNH của tâm Từ Bi, ta sẽ nhìn thế gian bằng con mắt trạch pháp tức
là không để bị lừa dối bởi bản thân và tha nhân. Cho nên ta sẽ thấy rằng bất cứ
pháp nào, việc làm nào mà không hội đủ sự Vững chải, Tươi mát, tự do hay không
thể hiện từ bi thì chắc chắn không thể nào là Viên Thành được, dù người ta có
gắng gượng mà giữ nó khỏi sập đổ đến trăm ngàn năm sau.
Trong kinh, Bụt
cũng đề cập đến tâm THAM DỤC, và Sự Ngu si, cộng với lửa sân hận nữa thì ta có
đầy đủ TAM ĐỘC. Mà phương pháp đối trị hay nhất, có lẽ là Khởi lên, Quán chiếu
và Sống với Tâm Từ Bi. Đó là thuốc diệu lành mà Bậc Y Vương đã hiển bày cho
chúng ta vậy.
Nam Mô Bụt Thích
Ca Mâu Ni
Nam Mô Bồ tát Quán
Thế Âm
Nam Mô Bồ tát
Shantideva
Nguyện những điều
con viết ra đều từ nơi chánh niệm và có khả năng lợi lạc hữu tình.
Cao Hồng Ân
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 03/Feb/2013 lúc 12:15am
Phổ môn chiều thứ Sáu
GNO
- Chiều thứ Sáu nhẹ như một làn khói mỏng. Nó khép lại bôn ba sóng
gió của những ngày chạy miệt mài theo sinh kế, nó cũng mở ra một cánh cửa về
với gia đình đầm ấm những ngày cuối tuần.
Ý
niệm về Phổ môn
Hồi
còn nhỏ, tôi vẫn nhớ về những ngày như thế. Đêm thứ Sáu ba sẽ về từ nơi công
tác rất xa xôi. Sáng thứ Bảy cả nhà ăn bận thật tươm tất đi ăn sáng. Cảm ơn
chiều thứ Sáu vì khi mệt mỏi, ta còn có cái để đợi chờ. Tôi trông nó mau đến để
được nghe tiếng xe ba đỗ trước hiên nhà.
Vậy nên trong tâm thức,
ngày thứ Sáu là điểm kết cho những mệt nhoài suốt tuần làm việc, và cũng là
khởi đầu cho những bình an.
Sau này khi biết đến đạo
Phật, biết bận áo tràng xúng xính đi lên chùa lạy sám hối, biết có vị Bồ-tát
hiệu là Lắng Nghe đẹp như trăng rằm, tôi cứ ưu ái gọi chiều thứ Sáu là PHỔ MÔN.
“Phổ” có nghĩa là sự rộng mở, hay nó cũng mang hơi hướm của từ “phổ độ”. Vì lẽ
ấy, trong tiềm tàng vô thức, tôi cho rằng “phổ” là sự mang lại an ninh, hạnh
phúc và định tĩnh. Còn “môn” đương nhiên là một cánh cửa. Nói gọn lại, “phổ
môn” có nghĩa là cánh cửa mở ra sự bình an cho muôn người.
Trở về chiều thứ Sáu, tôi tin ai đang mệt mỏi trong công việc, nghĩ về thời
gian ấy đều thấy như có cơn gió bỗng dưng thổi qua, cuốn đi hết những mệt
nhoài. Vì mình biết mục đích của sự cực khổ trong công việc này là vì bà xã và
thằng nhỏ ở nhà, vì những người thương. Khi sự mệt nhọc, đau khổ, gian khó được
xác lập với một đích đến là yêu thương, đùm bọc và san sẻ thì tất cả như gió
thoảng mây bay. Do cái suy nghĩ bình dị ấy, chiều thứ sáu mang tên PHỔ MÔN.
Tìm Phổ môn ở đâu?
Tại chúng hội kinh Hoa Sen (Diệu Pháp Liên Hoa kinh), Đức Phật Thích Ca đã dành
hẳn một phẩm để nói về công hạnh và lòng từ ái bao dung của vị Bồ-tát Lắng
Nghe. Và phẩm ấy có tựa là PHỔ MÔN.
Ngài dạy rằng cứ mỗi khi con gặp tai nạn về thân và tâm thì phải tưởng nhớ đến
vị Bồ-tát này như một cứu cánh duy nhất giữa cõi đời trần lao. Mỗi khi con đau
khổ đến tột cùng giữa dòng đời vạn biến, con cứ niệm thầm danh hiệu của Bồ-tát thì
dù bất cứ phương tiện gì, bất cứ khổ đau nào, Ngài cũng sẽ nhất định đến giúp.
Giữa những mệt nhoài của công việc, người công nhân viên nghĩ về ngày thứ Sáu
để lấy lại bằng an. Giữa bao sóng dữ dâp dìu của thế thái nhân tình, chúng sanh
kêu tên của vị Bồ-tát này để khơi lại ngọn đèn chánh niệm, để thấy đời thôi
không hẳn là những cấu uế, ô trượt mà còn đâu đó thấp thoáng bóng áo trắng từ
bi.
Bạn hay hỏi tôi vậy chiều thứ Sáu qua nhanh quá. Bạn tan sở, ghé qua siêu thị
mua ít quà về cho con rồi phóng như bay giữa những luồng ket xe của đất gió bụi
này mà lòng cứ lâng lâng. Bạn tự vẩn vơ trong đầu về bữa cơm vợ nấu, về thằng
cu nhảy cẫng lên vì món quà nhỏ xíu. Quanh qua quẩn lại xong một buổi chiều,
cũng hệt như thời khắc giao thừa. Nó không có thực vì nó nằm giữa những sát-na.
Nhích cây kim giây qua chút xíu xiu là thôi hết năm cũ, và đã thuộc về mùng một
rồi. Vậy đi tìm chiều thứ Sáu ở đâu, tìm giao thừa ở chốn nào, và làm sao thấy
được Phổ môn?
Tên phẩm là như vậy, nhưng hàng vạn người tụng niệm ít ai thắc mắc về kinh
không hề đề cập đến cánh cửa nào cả, dù chỉ là một bậu cửa thâm thấp. Đạo Phật
không có quan niệm về cánh cửa. Trong những bức tranh Thiền của Nhật, ta hay
thấy một cánh cổng lạc lõng giữa bao la trời đất. Cho nên Phổ môn cũng là một trong
những cánh cổng công án như thế. Không thể tìm nó ở núi phía Nam, cũng chẳng
thấy ở phương Tây, các phương khác thì càng vô vọng. Nó là cành mai trước hiên
nhà của thầy Mãn Giác:
Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(HT.Thích Thanh Từ dịch)
Phổ môn là sự hội ngộ tất cả những nhân duyên, công hạnh được hòa quyện vào
nhau bởi tâm TỪ BI VÔ LƯỢNG.
Chiều thứ Sáu trao tặng bạn hương vị gia đình. Bồ-tát Lắng Nghe tặng chúng sanh
một cánh cửa để thân nhẹ, tâm an, miệng mỉm cười. Ngài hiến tặng chúng sanh một
sát-na vĩ đại để nhận ra hạt minh châu người bạn lành đã may trong túi áo kẻ
hành khất.
Chúng ta là những kẻ đi hoang. Đã bao lần lạc vào xác thân của quỷ đói,
đã bao lần rơi tõm xuống hố sâu của địa ngục, đã hàng vạn lần chui rúc
trong cái ấm áp của bộ lông súc sanh. Những đứa con đi rong trong cõi vô
thường và thản nhiên gieo những hạt giống bất thiện. Để rồi kêu khóc, than vãn
về cõi ố trược. Những tiếng khóc cần có một sự lắng nghe và vị Bồ-tát đã đáp
ứng nhu cầu ấy.
Hiện tại là giải thoát
Trong kinh nói rằng, khi Đức Phật Thích Ca ấn ngón chân xuống đất thì cõi Ta-bà
trở thành thanh tịnh và trang nghiêm. Sát-na Ngài thực hiện động tác ấy là PHỔ
MÔN tức là gieo trong tâm thức của chúng sanh một niềm hy vọng mãnh liệt về cõi
nước an lạc ngay trong hiện tại.
Hiện tại là sự giải thoát. Chúng ta không sống trong hiện tại mà luôn tìm cầu
về tương lai, luôn gặm nhắm quá khứ để đau buồn và mơ mộng.
Hiện tại là PHỔ MÔN vì không thể nắm bắt được hiện tại mà chỉ quán sát được
thân tâm trong từng sát-na sinh diệt. Khi thấy được và an trụ được nơi thân tâm
thì là giải thoát. Trở về tên gọi Phổ môn cũng không sai khác.
Chúng ta không thể bước vào hay nắm bắt được Phổ môn vì nó chỉ là một hóa dụ
thành do vị đạo sư hóa ra để khích lệ tinh thần tướng sĩ. Tuy nhiên, hóa dụ
thành và Phổ môn lại có một vị trí rất quan trọng trong đạo Bụt, với vai trò
khích lệ, động viên. Người đạo sư nói với tướng sĩ rằng tôi chỉ hóa phép ra
thành này để các ông thấy đường đi bớt xa ngai ngái, nhưng các ông phải đứng
lên, chỉnh chu lại trang phục để đi tiếp. Và Bồ-tát Lắng Nghe nói với chúng
sanh rằng mục đích cuộc dạo chơi nơi cõi Ta-bà của ta không phải chỉ để cứu khổ
và ta cũng không muốn các con dành trọn một đời cho những nghi lễ, cầu xin ai
oán. Mà mục đích tối thượng và duy nhất là con phải nhận ra được Phật tánh,
phải phát khởi được từ bi, phải thôi nguyện cầu cho bản thân mà thay vào đó là
những mơ ước, khát vọng kiến thiết cho nhân loại đang khổ đau.
Chúng ta đã và đang kẹt nơi những hóa dụ thành lâu quá rồi nên cần bỏ bớt những
giáo điều, những nghi lễ - nơi mà Phật tinh tuyền được xem như thần linh có khả
năng ban phước giáng họa, nơi Bồ-tát Lắng nghe được mang vào những thuật chú,
tà mị.
Các Ngài là năng lượng rất lành, rất bình an đang bao trùm lấy hết thảy mọi
sinh linh. Hãy học cách bình dị hóa cuộc sống này. Hãy học cách yêu thương. Hãy
tự trở thành Phổ môn của chúng sanh nơi cõi Ta-bà.
PHỔ MÔN là bát cơm tình thương cho thằng nhỏ cơ nhỡ để nó không phải tím lòng
hốt hoảng khi nghĩ về đám em nheo nhóc đêm nay sẽ đói nếu xấp vé số trên tay nó
ế ẩm; là người nghèo khi nhận món quà cứu trợ đã trao cho nhóm thiện nguyện nụ
cười thật dịu êm và chan chứa. Có ai biết đâu, nụ cười vô tình đã là động lực
duy nhất khiến người trẻ tự nguyện dấn thân, bỏ xa phố lên đèn hàng ngàn cây
số, lang bạt kỳ hồ giữa núi rừng chỉ để đến trao quà rồi đi...
Tất cả những phương tiện mà chư Phật, Bồ-tát (và cả chúng ta) tạo ra để cho
đồng loại và chúng sanh được thấy bình an, nhẹ nhõm khi nghĩ đến thì đều được
gọi là PHỔ MÔN!
Cao Ngọc Hồng Ân (từ
Australia)
http://giacngo.vn/phatgiaotuoitre/2013/01/25/3FD25A/ -
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 05/Feb/2013 lúc 8:12am
HẠNH PHÚC TỰ THÂN VÀ PHỔ MÔN
Em cứ vui và bình dị như cây cỏ. Và đời sẽ vui và bình dị lại với em.
Hôm nay, chúng ta sẽ khép lại những trang kinh sách. Em và ta sẽ đi lang thang trên những ngọn đồi để ngắm nhìn cuộc sống. Xem màu xanh của cỏ non, màu vàng của cỏ úa và màu đen của cỏ cháy. Thấy cây tùng cao vời vợi, thấy bụi cây gai thấp lè tè.
Ta nói với em, hãy lắng nghe cây cỏ, lắng nghe thiên nhiên, lắng nghe con người để rồi hiểu về pháp của Bụt. Ngày xưa, Bụt không sống cố định trong những ngôi chùa quanh năm bụi không đóng bám, và mưa gió không thể len lỏi vào. Ngài cùng tăng đoàn cứ dạo đi như ta và em hôm nay qua những ngọn đồi để ngắm cây cỏ, ngắm chúng sanh. Bởi vì nếu không có những chuyến đi như vậy, Bụt sẽ không có duyên để tiếp xúc với người cầu đạo. Hay nói một cách khác, Bụt và pháp của Ngài không thể tách rời khỏi thế gian.
Không một chút đo đếm, cân đong em ạ, mà mưa trời thấm mát tất cả cành cây ngọn cỏ trên đồi. Cũng giống như mưa, Bụt tạo ra pháp phương tiện để ủi an, ôm ấp và chữa lành hết bệnh khổ của chúng sanh. Bụt không tạo ra mưa, nhưng pháp của Ngài là mưa vì có tính chất chan hòa và không phân biệt.
Em cứ nhìn cây tùng bách ấy, nó hạnh phúc khi được là tùng bách. Em đọc được niềm hạnh phúc ấy khi nhìn vào bộ rễ đồ sộ nó dùng để ôm lấy đất mẹ. Thấy màu lá nó xanh căng tràn nhựa sống. Rồi em hãy cúi đầu xuống đất để nhìn lá cỏ. Nó cũng hạnh phúc vì màu xanh tinh nguyên và sức sống của nó có thua gì cây tùng cao lớn kia đâu. Nó mừng vui trong hình dáng của cỏ.
Nếu chán nhìn ngắm cỏ cây, em có thể chuyến hướng qua muôn loài. Em thấy con chim bói cá hạnh phúc khi đứng trên cọc thuyền mà đợi con mồi xấu số. Em cứ tưởng bầy cá sẽ đau buồn. Không đâu em, cứ nhìn xuống nước, bầy cá vẫn hạnh phúc viên mãn đang đùa giỡn quanh những sợi rong mặc cho có sự nguy hiểm trên cao. Ai đó sẽ cho rằng đó là sự vô minh của kiếp động vật. Nhưng ở đây, em và ta cứ nhìn ở khía cạnh niềm vui thôi. Em thấy đó, vạn vật và muôn loài đang hạnh phúc vì được là chính nó.
Cũng giống như khi em hỏi con bướm vàng rằng, cậu không bay cao được như chim, cậu có buồn không ? bướm nói, tôi bay nơi thấp để yêu thêm hoa, vui thêm lá và thưởng thức được mật ngọt. Sao tôi lại phải là chim ?
Em thấy lạ quá, nên hỏi chim rằng, cậu có muốn bay thấp như bướm vàng để thưởng mật và yêu hoa không ? chim lắc đầu nguầy nguậy, không không tớ không muốn vậy đâu, niềm hạnh phúc của tớ là được bay thật cao, được vượt qua những ngọn núi lớn, được thấy cõi đất trong tầm mắt. Sao lại phải là bướm ?
Em biết không đó là bí mật của vạn vật nơi cõi đất này. Tất cả đều hạnh phúc khi an trú nơi chính bản thân chúng. Nếu con chim ấy ganh tị với bướm thì nó sẽ không còn là chim nữa, và ngược lại đối với bướm, vị trí của chim cũng thật là vô nghĩa. Trong vô số đồng loại của chúng ta ngoài kia, họ đang chạy miệt mài vì một thứ hạnh phúc kiểu mẫu, vì họ không thấy hay không muốn thấy hạnh phúc của chính họ. Nhưng em biết không, trên đời này sự đau khổ lớn nhất là không biết được hạnh phúc khi được là chính mình. Sự màu nhiệm và bình an nằm ngay ở chính cái mình đang là. Hiểu và quán chiếu được như vậy, em sẽ thấy bình an biết mấy khi an trụ nơi chính hải đảo tự thân này. Bụt do quán chiếu về niềm hạnh phúc ấy nên nói rằng, con hãy là ốc đảo tự thân trên đời sống này, tức là ta không tìm cầu, không lặn lội nữa. Ta quay về với chính ta, với niềm vui chân thật. Giống như câu hát
“ Con vua thì lại làm vua Con sãi ở chùa thì quét lá đa”
Người ta cứ nghĩ rằng làm vua là một hạnh phúc nên khép câu đồng dao này vào lĩnh vực chuyên quyền của xã hội phong kiến. Nhưng thật sự, nó đang nói về niềm an lạc khi quay về tự thân. Niềm vui của hoàng tử là được làm vua. Niềm vui của chú tiểu là được ngày ngày quét lá vườn tâm. Đó là hạnh phúc.
Ngày xưa, hành giả đến cầu đạo hỏi bậc thượng nhân rằng: - Lạy Thầy xin an tâm cho con - Được thôi, con đem tâm ra, Ta sẽ an giúp con.
Người ấy tự nhiên quay về chính mình, lìa bỏ tha lực tìm cầu thì ngay đó đạt được đạo lớn. Cho nên ta cứ mạnh dạn quay về với chính ta, với những khả năng chế tác hạnh phúc và bình an nơi tự thân này thì ngay lúc đó ta có được sự vững chãi, an ninh. Chúng sanh bị dẫn đi bởi nghiệp lực, mà nghiệp lực cũng từ sự tìm cầu một cái gì đó khác với cái mình đang là. Ta thấy chiếc áo lông thú chị kia mặc mới thật sự là ấm áp, dễ chịu thì ngay khi chết, ta cũng chui tọt vào bộ da của súc sanh. Cho nên sự tìm cầu tha lực là nhân dẫn đến những đau khổ và đảo điên.
Hiểu được điều này là hiểu được lẽ vận hành của trời đất và vũ trụ quan. Vạn vật đều có sẵn những niềm vui và hạnh phúc tự thân mà không cần phải như thế này, thế khác hoặc phải xin cầu từ bên ngoài. Có được cái thấy như vậy, giờ em và ta quay về giở lại trang kinh Phổ Môn đoạn, Bụt kể với ngài Vô Tận Ý cách thức Bồ Tát Quán Thế Âm dạo đi nơi cõi Ta Bà này:
“ Khi chúng sanh đáng dùng thân nào đặngđộ thoát, vị Bồ tát này liền hiện ra thân ấy để đặng độ thoát”.
Và giờ ta sẽ mỉm cười, vì nơi mỗi thân của chúng sanh trên cõi đất này đều chứa đựng bát ngát niềm vui và mênh mông an lạc rồi. Muốn hiểu về Ngài Quán Thế Âm ta phải quay về với tự thân trước đã, phải biết yêu thương cái mình đang là, để từ đó mà chan hòa thương yêu với tha nhân.
Giờ em phải thôi viết hay nói những câu ngô nghê rằng ước gì tôi được như anh, như chị. Bởi vì em đã có sẵn tất cả những nguyên liệu để chế tác hạnh phúc, chế tác yêu thương. Em có đôi mắt này thì xin nguyện sẽ nhìn chúng sanh trong thương yêu, không đánh giá hay phân biệt. Em cóđôi tai này, xin lắng nghe tâm tình của tha nhân kể cả những tâm tình họ không nói nên lời. Em có đôi môi này xin dùng lời ái ngữ để xoa dịu chúng sanh. Ngay cả sự hiện diện của em cũng mang lại an ninh cho tha nhân rồi.
Quán chiếu và nguyện như vậy em sẽ thấy mình giá trị biết nhường nào. Tối nay, em sẽ từ chối những cuộc vui bên ngoài đểvề ngồi ăn cơm với ba mẹ. Thấy mẹ cười, thấy ba vui. Ngày mai, em sẽ cười với chú bảo vệ thật tươi vì em hiểu chú chắc phải rất mệt mỏi vì công việc nhàm chán này. Thật vậy em ạ, sự hiện hữu của mỗi chúng sanh trên cõi đất này là mộtđiều màu nhiệm và thiêng liêng nhất. Vậy nên em hãy thương cho đời nụ cười, thương cho đời sự hiện diện, thương cho đời sự bình an vì em nhận chân được giá trị và hạnh phúc nội tại nơi em và tha nhân.
Con bướm có hạnh phúc và cõi bay của riêng nó Con chim có hạnh phúc và vùng trời của riêng nó
Hiểu và trân trọng hạnh phúc tự thân nơi mỗi chúng sanh, Bồ tát Quán Âm trong cuộc dạo chơi nhiệm màu nơi cõi Ta Bà này, Ngài đã không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ cái mà họ đang là để nhận lấy sựcứu độ. Sẽ là bi kịch nếu như tôi sẽ cứu anh với điều kiện anh phải bỏ đạo theo tôi. Sẽ là thảm họa nếu như tôi sẽ độ anh khi anh không phải là người có màu da, tiếng nói khác tôi. Sẽ là một nỗi đau nếu như tôi hỏi chị chừng nào chịkhông làm nghề bán phấn buôn hương. Em hãy nhớ kỹ rằng, yêu thương là thành quả của người ý thức được hạnh phúc tự thân của họ và nơi mỗi chúng sanh, Yêu thương là thành quả của không phân biệt, không điều kiện. Yêu thương là quay về tự thân.
Quán chiếu được vậy rồi, em, ta và mọi người hãy mỉm cười lên.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bụt Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát Nam Mô Shantideva Bồ tát
Nguyện những điều con viết ra đều trong chánh niệm và đều làm lợi lạc hữu tình.
Cao Hồng Ân
|
|