In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Tâm Tình
Forum Discription: Giải bài tâm sự về gia đình, xã hội hay chính mình về điều gì đó.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12790 Ngày in: 17/Nov/2024 lúc 11:19pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: TÀN..... CUỘC CHIẾN !Người gởi: mykieu
Chủ đề: TÀN..... CUỘC CHIẾN !
Ngày gởi: 25/Jan/2015 lúc 11:56pm
Đôi Mắt Năm Xưa
Chiếc xe van của Công ty Du lịch Saigon bon bon chạy trên đường Sài gòn - Đà Lạt…
Qua khỏi cầu La ngà, xe bắt đầu vượt lên những đồi dốc trên Quốc lộ 20.
Xe chậm lại khi lên đồi 110 – trước đây là đồi Trương Văn Phúc, tên của một
chiến sĩ VNCH đã hy sinh tại đây trước năm 1975. Sau khi xuôi dốc, xe ngừng lại
trước khu chợ Định Quán để du khách ăn uống nghỉ ngơi chốc lát.
Anh
nhìn lại quang cảnh nơi đã từng làm việc hơn ba mươi năm trước đây. Vẫn những
mỏm đá vươn cao, chồng lên nhau, lấn sát quốc lộ; vẫn ngôi chùa đối diện khu chợ.
Tuy nhiên, căn nhà gỗ bên cạnh chùa mà Xã đã xây cất cho Phó quận ở trước đây;
quán nước anh đang ngồì - trước kia là quán Rô be, với quán cơm chay bên cạnh…
tất cả nay đã thay đổi hoặc không còn tồn tại nữa... Nhà cửa phố xá ở mặt lộ,
trong lòng chợ... trông vắng vẻ tiêu điều khó nhận ra những nét quen thuộc ngày
xưa. Bỗng nhiên, khi nhìn qua bên kia đường, anh thấy một cửa tiệm với bảng hiệu
“Tiệm Khâm Hương, Chụp hình Digital…” khiến anh ngạc nhiên lẫn vui mừng.
Đã hơn ba mươi năm rồi, kể từ ngày anh đến làm việc tại quận Định quán, và nhất
là sau cuộc đổi đời 1975, tiệm Khâm Hương vẫn còn đó sao?
* * *
Anh đến nhận nhiệm sở tại Định quán vào một buổi chiều cuối năm 1970. Sau khi
vào gặp Thiếu tá Xuân, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng, anh được mời một “chầu
nhậu sơ giao” tại quán Rô-be. Chủ quán là một ông già thuộc “dân Tây” đến mở
quán từ lâu tại thị trấn nhỏ bé trên quốc lộ 20, cạnh “núi đá ba chồng”. Những
chuyến xe đò từ Sàigòn đi Đà lạt, thường dừng lại đây để khách ăn trưa, nghỉ
ngơi chốc lát trước khi xe chạy tiếp một đoạn đường dài lên dốc, qua đèo... và
sẽ đến Đà lạt khi trời vừa xẩm tối. Hôm ấy, ông già Rô be đem một chai rượu Tây
lâu năm hiệu Napoléon ra đãi khách mới đến từ phương xa.
Buổi tối, trong cơn say chếnh choáng, anh lên xe Jeep Chi khu, cùng về với ông
Quận trưởng cũng say mèm! Anh được hướng dẫn vào căn phòng dành cho Phó quận
trong dãy nhà của sỹ quan chi khu. Những ngày sau đó, anh bị nhức đầu, đau răng…
một phần do cuộc nhậu liên tiếp với ông Xã trưởng Định quán, Trưởng chi Cảnh
sát, Trưởng chi Y tế… Theo lời chỉ vẽ, anh đến tiệm Khâm Hương, chủ tiệm có giấy
phép làm nhiều nghề: chụp ảnh, sửa đồng hồ, chữa răng… Ông chủ Khâm Hương quê ở
Miền Bắc, theo cha mẹ di cư vào Nam năm 1954. Ông bà có hai con. Người con gái
giống mẹ, nước da trắng, môi hồng và đôi mắt to, tròn long lanh như hai hạt nhãn,
đang học trung học. Người con trai út giống bố, nhanh nhẹn tươi cười, còn học
tiểu học.
Khi anh bước vào tiệm, gặp ông Khâm Hương đang chăm chú sửa đồng hồ. Anh chào
ông chủ tiệm:
-
Chào chú Khâm Hương, tôi có chiếc răng bị đau, nhưng không có thì giờ về Sài gòn
để chữa trị… Chắc chú khám để chữa cho tôi được chứ?
- Dạ
được! Chữa răng là nghề chuyên môn của tôi, cha truyền con nối mà, thưa ông Phó!…
Nghe tin ông về làm việc ở đây cả tuần nay mà không có dịp để chào ông, mời ông
đến nhà chơi. Nay ông quá bộ tới đây, thật hân hạnh cho chúng tôi quá! Xin mời
ông vào phòng răng bên trong để tôi xem thể nào…
Thầy thuốc Khâm Hương, tuy thiếu bằng cấp nhưng dư tay nghề, có phòng răng cũng
khá sạch sẽ, hợp vệ sinh, nhiều y cụ tối tân chẳng khác một phòng răng ở Sàigòn!
Ông xem xét chiếc răng sâu nằm trong cùng hàm dưới, chích thuốc tê và bắt đầu
nhổ. Ông làm một mình, không cần phụ tá, nhanh nhẹn, gọn gàng và tạo cho bệnh
nhân cảm giác thoải mái, ít đau đớn… Xong ông cho bệnh nhân ngậm một cục bông
gòn lớn để cầm máu và khuyên anh về ngậm nước muối và đá lạnh cho đến khi máu
hết chảy ra…
Khi ông Khâm Hương tiễn chân ra về, anh thấy một một cô gái trắng trẻo, áo dài
thướt tha bước vào nhà. Thấy có khách lạ, cô gái cúi đầu toan bước vào trong,
nhưng ông chủ nhà đã gọi lại giới thiệu:
- Con
gái lớn của tôi đó…Cháu nó vừa đi học về…Chào ông Phó đi con!
Cô
gái ngẩng lên lí nhí câu chào. Nhìn người khách lạ đang ngậm miếng bông gòn, tay
ôm má, cô gái mở to đôi mắt nhìn, tay che miệng cười và bước vội vào trong.
Sau
lần nhổ chiếc răng đau, anh dự định sẽ từ chối những lần được mời đến các cuộc
hiếu hỉ, chén thù chén tạc sau này… Nhưng anh khó có thể từ chối mãi với những
người hiếu khách ở đây được. Thị trấn nhỏ bé này là nơi quy tụ những người dân
làm nghề “phá sơn lâm”. Họ làm việc cực nhọc, hiểm nguy, lại thêm khung cảnh nơi
đây khô khan cằn cỗi mà chẳng có gì giải trí ngoài việc uống rượu tiêu buồn. Cho
nên, việc mời nhậu nhẹt thành một thông lệ, anh thấy khó chối từ, nếu không muốn
bị họ chê là “kém thân dân” ….
Một
buổi trưa cuối tuần, anh đang nằm đọc sách trong căn nhà gỗ cạnh chùa, Đại úy
Thái trưởng chi An Ninh Quân Đội lái xe đến nhắc lời mời đi ăn giỗ tại nhà ông
Xã trưởng. Thái là bạn cũ của anh, cùng học ở trường Chu văn An Sài gòn trong
những năm 1958-61… Ông Xã trưởng Định Quán là người gốc Long An, rất thích uống
rượu, nhưng ít khi say sưa, càng uống càng vui vẻ tươi cười. Cư ngụ ở đây đã lâu
nên ông được người dân mến trọng; bạn bè của ông, nhất là bạn nhậu khá đông. Sau
nhà ông Xã trưởng có vườn cây rộng rãi, nhiều mỏm đá thấp; trên một tảng đá
rộng, ông cho cất một nhà sàn thật cao bằng gỗ. Khách mời được ông hướng dẫn
leo thang để lên nhà sàn mà ông gọi là “khoái lạc đài”, trên đó có sẵn
bàn để nhiều chai rượu Tây với nhãn hiệu như Hennessy, Napoléon, Courvoisier.
Đặc biệt có những loại hảo hạng như Martell nhãn đen (Black Label) cổ lùn VSOP.
Ngoài ra có một thùng lớn chứa một cây nước đá, ngâm sẵn những lon bia của Mỹ
hiệu Budweiser, Miller… Những lon bia này để “chữa lửa” khi rượu mạnh đã “bốc”
lên đầu “ẩm khách”… Khách uống rượu không trông thấy một loại rượu mạnh nào của
Mỹ như Whisky, Rhum…, hoặc bia Việt nam như Bia 33 nhãn hiệu đầu cọp…. Những
“mồi nhậu” thuộc loại thịt rừng như nai nướng, mễn xào, nhím cà ri …được nhà bếp
nấu sẵn, chuyển lên “khoái lạc đài” nhanh chóng bằng thang dây! Bên cạnh bàn
tiệc, có sẵn chiếc giường nhỏ để khi quá say, khách có thể nằm ngủ một giấc
ngắn, khi tỉnh rượu sẽ ngồi dậy nhậu tiếp…
Khi anh và người bạn đến nơi, đã thấy khá đông các vị trong Hội đồng và Ủy ban
Xã, các ông chủ trại cưa, chủ xe be… Sau khi giới thiệu tân Phó quận với các vị
khách địa phương, chủ nhà hướng dẫn mọi người lên “khoái lạc đài”, vì trên đó có
“rượu nồng gió mát như tiên cảnh” ! Mặc dù anh dè dặt uống rượu cầm chừng với
chủ nhà, lúc cáo từ ra về, anh khá say, phải nhờ người bạn sỹ quan dìu vào nhà…
Chân nam đá chân xiêu, anh bước lên thềm, loay hoay móc chìa khóa trong túi ra
mở cửa. Trước khi vào nhà, anh quay sang nhìn ra phố chợ bên kia đường. Từ trong
cửa tiệm Khâm Hương, cô gái “có đôi mắt hột nhãn” đang chăm chú nhìn sang. Anh
cảm thấy ngượng ngùng khi cô gái đang quan sát mình trong tình trạng say sưa,
mất tự chủ. Anh vội đóng cửa, đến nằm vật xuống giường, không kịp thay áo quần
giày vớ.
Trong lúc đang lim dim, đầu óc quay cuồng, anh bỗng nghe tiếng gõ cửa. Tiếng gõ
se sẽ rụt rè … rồi ngưng lại; tiếng bước đi, rồi tiếng gõ trở lại mạnh mẽ hơn.
Khi anh bước ra mở cửa đã thấy hai người con ông Khâm Hương. Cô gái mỉm cười,
nhẹ nhàng đưa anh ly đá chanh mát lạnh. Cậu em cẩn trọng đưa bình trà nóng bằng
hai tay. Cô gái bối rối một lúc rồi cất giọng nhỏ nhẹ:
- Dạ… Ba cháu xin gửi chú ly nước chanh và ly trà nóng để chú uống chóng khỏe.
Anh chưa kịp nói lời cám ơn, cô gái đã cúi chào, mắt long lanh, má đỏ ửng, bước
vội ra đường trở về nhà.
* * *
Mỗi
sáng thứ Hai đầu tháng, anh thay mặt Quận trưởng sang Văn phòng Cố vấn Mỹ để họp
bàn về Lượng Giá Ấp trong toàn Quận. Sau buổi họp, anh thường hỏi tin tức về
tình hình an ninh mà viên thông dịch tên Hoa biết được, do làm việc với “Ông già
” - tên thân mật do Trung sĩ Hoa đã đặt cho người cố vấn Mỹ. Anh ta tỏ ra tốt
bụng, sẵn sàng chia sẻ những tin tức mới nhất, “hot” nhất. Một hôm, Hoa nói
riêng với anh:
-
Chắc ông không được bên Chi khu cho biết tình hình đang căng thẳng lắm? Tôi cũng
là dân “biệt phái” như ông, nên cần tìm hiểu để “sống còn” ở vùng đất nguy hiểm
này ! Cách đây mấy hôm, toán Thám sát Tỉnh hành quân dọc sông Đồng Nai, vùng
giáp ranh với Bình Tuy, khám phá ra 2 kho bột mì và gạo… Chắc “tụi nó” dự tính
tích trữ lương thực để mở cuộc tấn công vô quận Định Quán hoặc Xuân Lộc. Mất
lương thực, có lẽ không còn tấn công nữa, nhưng coi chừng tụi nó pháo kích vô
Quận trả thù đó ông à!
Anh
ta ngưng lại, rít một hơi thuốc Haft-and-Haft từ chiếc tẩu ngắn, rồi thân mật
nói:
- Mỗi
tối ông không nên lên lầu với các Sỹ quan Chi khu. Nếu pháo kích chạy xuống
không kịp. Khi nào ông nghe tiếng con chó tôi sủa, phải coi chừng có kẻ lạ lẻn
vô Chi khu. Ông biết tụi nó có thể lẻn vô lối nào không? Qua khe mấy chồng đá
sau Chi khu đó! Khi nghe tiếng pháo kích, ông nên nằm yên đừng chạy ra kẻo lạc
đạn. Ban đêm, bên này thường bố trí đại liên sẵn sàng bắn ra khi có động tịnh…
Đầu
năm 1971, Trung tá Hai đến nhậm chức Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Định Quán …
Sau khi phối kiểm tin tức tình báo, ông tỏ ra lo lắng tình hình an ninh tại đây.
Ông xin bên Cố vấn Mỹ yểm trợ cọc sắt kẽm gai để rào mặt sau Chi khu quân sự.
Nhưng vật liệu từ Long Bình chở về còn chất trước sân Chi khu, chưa rào dậu …
Ông cho mở cuộc hành quân phối hợp để kiểm tra các đơn vị NDTV các Xã, Ấp về
nhân số, vũ khí; kiểm soát lại các gia đình có người lạ mặt cư trú bất hợp pháp,
những thành phần tình nghi tiếp tế cho địch… Cuộc hành quân phối hợp quy mô mà
ban chỉ huy gồm: Chi khu phó, Phó quận Hành chánh, Trưởng chi Cảnh sát quận và
một trung đội Cảnh sát Dã chiến. Cuộc hành quân kéo dài cả ngày lẫn đêm, khiến
anh nhớ lại những cuộc di hành dã trại khi thụ huấn ở quân trường Bộ binh Thủ
Đức.
Trái với dự đoán của Trung tá Hai, địch không về quấy phá các Ấp bên ngoài thị
xã Định quán, nhưng đã tạo một thiệt hại nặng và bất ngờ bên trong Chi khu. Đêm
hôm ấy trời không có ánh trăng. Khoảng nửa đêm, anh nghe tiếng chó sủa bên
compound của Cố vấn Mỹ. Bỗng nhiên đèn điện tắt ngóm, cả Chi khu và bên Cố vấn
Mỹ chìm vào bóng tối. Có tiếng mở máy xe, đèn xe hơi từ compound Mỹ chiếu sáng
tận Chi khu. Có tiếng súng bắn hỏa châu và những trái sáng bay lơ lửng trên vòm
trời… Từ trên lầu khu nhà sỹ quan Chi khu có tiếng người hỏi vọng xuống:
- Ai đó?
Không
nghe trả lời, nhưng có tiếng chạy của nhiều người… Tiếp theo là hai tiếng nổ ầm
ĩ liên tiếp từ Văn phòng quận, và sau đó một tiếng nổ khác từ lô cốt trước vòng
rào Chi khu. Tiếng đại liên bắn dòn dã từ compound Mỹ, tiếp theo là tiếng lựu
đạn nổ, tiếng súng cối từ hướng căn cứ pháo binh Mỹ bắn sang phía sau hàng rào
Chi khu… Sau đó không có gì xảy ra…
Anh
nằm im nghe ngóng tình hình… Từ bên rào Văn phòng Cố vấn Mỹ, có tiếng Trung sĩ
Hoa gọi sang:
- Có gì nổ bên này vậy? Trung tá với ông Phó có hề gì không?...
Anh mở cửa bước ra, thấy Trung tá Hai đang đứng với Đại úy Chi khu phó, vội trả
lời cho Hoa yên tâm:
- Không ai bên này bị gì cả… Để tôi hỏi xem có gì nổ to quá vậy…
Theo hướng nhìn hai vị sỹ quan, anh thấy Văn phòng Quận “biến mất”, chỉ còn trơ
lại mảnh tường chơ vơ, loang lổ. Tư thất của Quận trưởng phía sau Văn phòng vẫn
còn nguyên… Trung tá Hai ra lệnh Chi khu phó mở cuộc truy kích, rồi quay sang
Phó quận:
-
Thật bất ngờ! Tụi nó không tấn công, không pháo kích như mình tưởng mà lại đánh
đặc công! Có lẽ bên compound Mỹ phản ứng khá nhanh, nên tụi nó chỉ kịp ném chất
nổ làm sập Văn phòng Quận, rồi ném vô lô cốt trước Chi khu rồi rút lui…
Ông Quận trưởng đã từng là một sỹ quan tác chiến binh chủng nhảy dù nên vẫn
bình tĩnh trước bất ngờ tai hại này. Ông nói tiếp:
- Có lẽ đến hơn chục tên đặc công theo khe gộp đá sau Chi khu lẻn vô. Chúng rút
ra theo khe đó, để lại nhiều vết máu, bỏ lại nhiều quả B40, nhiều giỏ đựng chất
nổ...nhưng không thấy xác chết đồng bọn để lại…
Phó quận hỏi thêm tin tức về kết quả cuộc đột kích:
- Bên mình có ai bị thương
tích chết chóc gì không Trung tá?
Trung tá Hai đáp giọng buồn bã:
- Chỉ có Trung sỹ thường vụ trực trong lô cốt trước Chi khu bị ném chất nổ chết
cháy! Ngoài ra không có thương vong nào khác. May là phòng ngủ không bị sập nên
tôi không hề hấn gì!
Ông Quận nói thêm trước khi quay vào căn phòng đang đứng trơ trọi giữa đống gạch
ngói đổ nát:
- Tôi sẽ cho dọn dẹp một căn phòng trống trong Chi khu để ông Phó và nhân viên
làm việc tạm. Ông cho thu dọn hồ sơ giấy tờ vung vãi, chuyển sang làm việc ngay
hôm nay để dân chúng khỏi hoang mang. Mọi việc hành chánh ông Phó lo dùm để tôi
rảnh tay đối phó tình hình an ninh bất ổn đang gia tăng ở đây…
Trong khi chờ đợi nhân viên đến làm việc, anh lái xe sang Chi ANQĐ rủ đại úy
Thái đi ăn sáng, và nhân thể trao đổi thêm tin tức an ninh. Lính gác mở cổng Chi
khu, anh vừa lái xe vừa ngạc nhiên thấy đám người hiếu kỳ đang đứng trước vòng
rào nhìn cảnh hoang tàn đổ nát bên trong. Có tiếng reo lên khi thấy anh:
- Ông
Phó kìa! May quá, có ai bị gì không ông?
Anh lắc đầu, đưa tay chào những người quen… Trong đám người hiếu kỳ xôn xao chào
hỏi, anh thoáng thấy một khuôn mặt nhợt nhạt, với đôi mắt mở to đầy lo âu, đen
láy như hai hạt nhãn lồng… Anh kịp nhận ra người con gái của ông bà Khâm Hương
đang đứng lẫn vào đám đông. Anh mỉm cười nhìn đôi mắt long lanh của cô gái, rồi
lái xe sang bên kia đường đến trụ sở của đại úy Thái.
* * *
Đầu năm 1973, anh được lệnh về Tỉnh, nhận nhiệm vụ mới. Hôm rời quận, một buổi
trưa thứ Bảy, ông bà Khâm Hương mời anh và đại úy Thái đến dùng cơm tại
nhà… Đã lâu lắm, hôm nay anh mới được thưởng thức những món ăn đặc biệt của miền
Bắc do bà Khâm Hương cùng cô gái “Bắc kỳ nho nhỏ” của họ nấu nướng. Anh được
tiếp đãi thật ân cần, nồng hậu và quý mến. Sau bữa ăn, anh chào từ giã để lên xe
cùng đại úy Thái về Sài gòn. Ông bà Khâm Hương cùng cô con gái tiễn anh ra tận
xe đậu trước cửa tiệm của họ. Anh lưu luyến chào ông bà rồi mỉm cười với cô con
gái đứng nép bên mẹ:
- Cám ơn cháu và mẹ cháu đã đãi một bữa ăn với nhiều món “đặc biệt Bắc kỳ” thật
ngon! Mong cháu ở lại học hành đỗ đạt để còn lên đại học nữa chứ!
Cô gái e thẹn đáp lời:
- Dạ, cháu cám ơn chú.
Lời khen ngợi, khuyến khích của anh không làm cho đôi mắt cô gái bớt u buồn. Cô
đứng nhìn theo cho đến khi chiếc xe chở hai người khuất xa nơi triền dốc.
-
Thôi chết ông rồi ông Phó ơi! Ông ra đi để lại nỗi buồn cho một trái tim sầu
muộn! Tôi đã bắt gặp “ông Phó nhìn em ông Phó cười” đấy nhé!… Về Xuân Lộc làm
việc, nhớ trở lại Định Quán thăm “cháu Hồng” con gái rượu ông bà Khâm Hương đấy!
Anh
nhìn người bạn tâm giao, ra sức chống chế:
- Ông
tài thật, biết cả tên cô bé kia à! Thôi đừng nói nhảm! Con gái người ta còn vị
thành niên, chớ nói chuyện yêu đương, kẻo đến tai ông bà Khâm Hương thì “mệt”
cho tôi lắm đó, bạn già!
Thái cười diễu cợt:
- Tên
cô gái thì ai chẳng biết… Chỉ có ông Phó đến Định Quán sau tôi nhưng thân thiết
với gia đình Khâm Hương trước tôi. Thế mà đến ngày ra đi vẫn không biết tên con
gái cưng của người ta mới lạ chứ ! Vô tình đến thế thì thôi!
Xe
đến “cua chữ C” trên quốc lộ 20, trước khi nhập vào quốc lộ 1 để về Sài gòn,
Thái cho xe chạy thật nhanh… Trời đã về chiều. Đoạn đường ngoằng ngoèo, vắng vẻ
đã khiến anh cảm thấy nao nao, nhớ nhung Định Quán. Những năm tháng làm việc
tại đây đã cho anh nhiều cảm giác lẫn lộn: êm đềm, lo sợ, mến thương…
* * *
Sau lần chia tay với gia đình Khâm Hương, anh không có dịp nào về Định Quán thăm
lại họ nữa. Về làm việc tại Xuân Lộc - một quận tại tỉnh lỵ, rộng lớn, đông dân,
nhiều xã ấp hơn Định Quán - nên anh không còn rảnh rỗi. Cuối tuần, anh lái xe về
Sài gòn thăm gia đình và bù khú với bạn bè đang làm việc tại thủ đô. Thỉnh
thoảng anh gặp đại úy Thái ở tỉnh, nhưng không nhắc gì đến chuyện “về lại Định
Quán thăm gia đình ông bà Khâm Hưng với cô gái rượu tên Hồng” nữa!
Ngày 17 tháng 3, năm 1975 địch quân bắt đầu tấn công vào Phương Lâm, La Ngà;
cuối cùng chiếm chi khu quân sự và toàn quận Định Quán… Hơn nửa tháng sau, gần
ba sư đoàn của địch tấn công vào tỉnh lỵ Long Khánh. Suốt mười hai ngày đêm, sư
đoàn 18 của thiếu tướng Lê Minh Đảo, cùng các đơn vị địa phương quân, các đơn vị
Dù, Biệt động quân tăng cường đã chống trả mãnh liệt (từ sáng 8 tháng 4 đến đêm
20 tháng 4, 1975) gây nhiều thiệt hại cho đối phương. Cuối cùng, toàn bộ quân,
cán, chính tỉnh Long Khánh và quận Xuân Lộc đã rút theo Sư đoàn 18, qua ngã Bình
Ba, Bình Giã, về đến Phước Tuy an toàn.
Sau đó, với sáu năm trải qua những tháng ngày bị đày ải khốn khổ trong những
trại tù “cải tạo” từ Nam đến Bắc, anh đã đem được tấm thân tàn tạ trở về sống
với gia đình tại Sài Gòn. Rồi anh xin vào làm việc ở một hãng sản xuất đồ nhôm
gia dụng thuộc Quận 6, gần cầu chữ Y. Mỗi chiều, sau một ngày làm việc cực nhọc,
anh được người chủ, một cựu chiến binh thời Việt Nam Cộng Hòa, mời ở lại dùng
cơm, uống với ông ta vài chung rượu thuốc để giải sầu… Khoảng năm 1983, ở Sài
gòn người ta xôn xao khi nghe đồn về một chiếc tàu chở người “vượt biên bán
chính thức” - đa số là người Hoa - đã bị chìm tại chân cầu chữ Y vào một đêm tối
trời... Những hôm anh đạp xe về nhà trong tình trạng chếnh choáng hơi men, sau
những ly rượu thuốc tình nghĩa của ông chủ hãng nhôm, anh thường dừng lại trên
cầu chữ Y... Nhìn dòng nước đục cuồn cuộn dưới chân cầu, anh như thấy ẩn hiện
những đôi mắt trợn trừng, những cái mồm há hấp kinh hãi trước khi chìm xuống
dòng sông oan nghiệt.
Giữa năm 1992, anh cùng gia đình đến được
bến bờ Tự do. Không phải theo con đường vượt biên, với những lo lắng, sợ hãi,
hiểm nguy, những tráo trở gạt gẫm - đã dẫn đến những cái chết tức tưởi trên biển
Đông… mà theo “diện HO”, dành cho những sĩ quan quân, cán, chính của VNCH, đã
sống sót trở về từ những trại tù “cải tạo” CS! Và rồi, với lòng nhớ nhung chốn
quê xưa, nhớ thương những thân quyến còn ở lại Việt Nam, những người dân tốt
bụng ở địa phương xưa kia anh đã từng phục vụ… anh đã trở về thăm lại quê hương.
* * *
Khi bước vào cửa tiệm “Tân Hương - Chụp Hình Digital” anh đã thấy một thanh
niên đang ngồi trước máy Computer, hí hoáy sửa lại tấm hình lên trên màn ảnh nhỏ.
Anh lên tiếng hỏi:
- Này cậu, có phải đây là nhà ông Khâm
Hương không?
Cậu thanh niên dè dặt đáp:
- Dạ phải…Nhưng chú là ai mà biết Ba tôi?
Với một tia hy vọng vừa nhóm lên trong lòng, anh đáp:
- Tôi là bạn cũ của Ba cậu, từng làm việc ở quận Định quán trước năm 1975, muốn
gặp Ba chốc lát…
Cậu thanh niên vào bên trong, dìu một ông già gầy ốm bước ra. Ông già nheo mắt
nhìn anh một cách xa lạ:
- Thưa ông là ai và gặp tôi có việc gì cần không?
Anh nhìn ông chủ tiệm một thời mập mạnh,
tươi trẻ mà nay trông quá già nua ốm yếu… Anh nở nụ cười xót xa :
- Chú Khâm Hương không nhận ra tôi sao? Hồi trước năm 75 chú có nhổ răng cho ông
Phó quận nào mà nhất định không nhận tiền không?
Ông già Khâm Hương móm mém cười, quay vào bên trong gọi vợ:
- Ông Phó hồi xưa thường đến nhà mình chơi đó. Bây giờ trông ông khác quá! Nghe
nói ông sang định cư ở Mỹ phải không? Lâu quá mới gặp lại ông, nay tôi không
nhận ra, thật có lỗi với ông quá.
Anh nhìn kỹ ông bà Khâm Hương. Ông đã gần 70 nhưng trông già trước tuổi. Bà vợ
có dáng còn mạnh khỏe, trẻ trung hơn, đôi mắt vẫn còn đẹp như ngày anh làm việc
ở quận này… Được bà cho biết ông Khâm Hương bị bệnh tiểu đường, anh an ủi, khích
lệ ông, biếu ông một số tiền để mua thuốc… Họ cảm động vui mừng vì cuộc hội ngộ
bất ngờ hôm nay. Anh nhìn căn nhà vắng người, hỏi ông Khâm Hương:
- Tôi đi Đà Lạt, ghé đây ngồi uống nước quán bên kia đường, thấy bảng hiệu Khâm
Hương, sực nhớ đến chú. Chắc chú cho người ta thuê hành nghề chụp hình phải
không?
Bà Khâm Hương trả lời thay chồng:
- Thưa, đâu có cho ai thuê… Thế ông Phó không nhận ra cháu út ngồi đó sao?
Anh sực nhớ cậu em út này ngày xưa đã cùng người chị bưng trà nước sang cho anh
ở căn nhà gỗ bên kia đường.
Anh hỏi ông bà Khâm Hương:
- Thế cô Hồng đâu rồi? Đã có gia đình, tay bồng, tay bế gì chưa?
Một thoáng im lặng bao trùm căn nhà mà ngày xưa tràn đầy tiếng cười vui của ông
bà Khâm Hương, tiếng khách hàng ra vào, cười nói…Bỗng dưng, ông bà đưa mắt nhìn
nhau, rồi bà Khâm Hương cúi mặt nức nở, đôi vai rung lên:
- Cháu nó mất rồi ông ạ! Sau năm 75, nó lấy chồng người Hoa ở Chợ Lớn, có một
đứa con trai kháu khỉnh lắm. Hồi năm 85, hai vợ chồng đóng mười mấy “cây vàng”
để vượt biên bán chính thức. Không ngờ đêm đó xuống tàu, chạy đến chân cầu chữ Y
thì tàu chìm, chết cả vợ chồng con cái. Chết tức tưởi, tội nghiệp quá!
Anh nhìn ông bà Khâm Hương, như hai thân cây héo úa, rũ xuống với những khổ đau
vì thương nhớ người con gái và cháu ngoại mến yêu của họ. Anh cúi mặt để dấu
dòng nước mắt đắng cay, thương cảm.
* * *
Anh
chia tay với ông bà Khâm Hương, sau khi đã nắm chặt đôi tay gầy guộc, lạnh lẽo
của ông nói lời an ủi, khích lệ… rồi bước ra đường, chuẩn bị lên xe. Trời đã xế
chiều. Những hòn đá ba chồng bên kia đường in bóng trên bầu trời xanh ngắt, vẫn
im lìm, sừng sững đứng đó trong bao nhiêu thiên niên kỷ, đã chứng kiến bao cảnh
binh đao, chết chóc xảy ra trên mảnh đất khốn khổ này! Anh như thấy lại trong
những vách đá núi đá khô cằn đó thấp thoáng đôi mắt tròn, trong sáng, đen láy
như hai hạt nhãn, ánh lên vẻ dịu hiền của người con gái tên Hồng năm xưa…
Anh nhìn lần cuối quang cảnh khu chợ Định quán. Nơi đây lịch sử đã diễn biến với
biết bao sự kiện: đặc công VC đánh sập Văn phòng quận năm đầu 1971, sau đó chúng
đánh chiếm quận lỵ cũng như toàn bộ quận Định quán vào đầu năm 1975…
Lịch sử đã sang trang, tất cả đã theo vận nước trôi vào dĩ vãng. Tuy nhiên hình
ảnh đôi mắt năm xưa vẫn còn đậm nét trong tâm hồn anh. Suốt bao năm sống tha
phương nơi hải ngoại, anh vẫn mong ước một ngày trở lại quê xưa, về nơi chốn anh
đã từng phục vụ trong hơn hai năm - với biết bao hiểm nguy, bao vui buồn, cay
đắng lẫn ngọt ngào…, để gặp lại những gương mặt thương mến cũ, nhìn lại đôi mắt
năm xưa. Nhưng nay tất cả đã đổi thay …kể cả đôi mắt ấy đã vĩnh viễn khép lại,
không bao giờ anh còn gặp lại nữa!
Hồi ức
Tam
Bách
------------- mk
Trả lời: Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Jan/2015 lúc 1:08am
Lịch sử đã sang trang vào ngày 30/4/1975, nhưng những dấu ấn của chiến
tranh khó phai mờ. Mùa hè 1972 chiến cuộc diễn biến ác liệt, quân Cộng sản Bắc
Việt công khai vượt vĩ tuyến 17 mở các mặt trận lớn, đưa xe tăng, pháo binh và
phòng không hiện đại tiến công lấn chiếm lãnh thổ VNCH. Ở phía Nam, địch quân
từ Campuchia tràn sang mở mặt trận Bình Long, cuộc vây hãm thị xã An Lộc gần
ba tháng là một chiến trường thách đố đối với các nhà báo. Nam Nguyên, lúc đó
là đặc phái viên của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia kể lại câu chuyện của
mình.
Chiến trường thách đố
Báo chí gọi đây là chiến trường thách đố vì lần đầu tiên trong chiến tranh
Việt Nam, 40.000 quân cộng sản phong tỏa hoàn toàn một thành phố của Nam Việt
Nam cả trên bộ cũng như trên không. Đường bộ vào An Lộc theo QL 13 bị cắt,
địch quân tạo lưới lửa phòng không và pháo kích không ngừng, trực thăng không
thể đổ quân vì không có một bãi đáp nào đủ an toàn. Tiếp tế đạn dược và lương
thực toàn thả dù với hơn phân nửa lọt vào vùng địch. Đối với các phóng viên
vào An Lộc đã khó mà khi vào được rồi thì lại không có đường ra.
Nhật báo Sóng Thần ở Saigon vào năm 1972 có số phát hành kỷ lục, tờ báo vào
thời gian này chú trọng tin tức phóng sự chiến trường và đầy ắp hình ảnh.
Chúng tôi ngoài công việc chính ở Đài Phát thanh Saigon còn cộng tác với nhật
báo này. Ông Uyên Thao lúc đó là Tổng thư ký báo Sóng Thần, từ Virginia ông
phát biểu:
Cái đặc biệt nhất là hình ảnh nghĩa trang của biệt cách trong
vùng đó với câu thơ ghi khắc ‘An Lộc địa sử lưu chiến tích - Biệt cách dù vị
quốc vong thân.’ Chúng tôi đã là người đầu tiên phổ biến trong làng báo lúc
đó. -Ông Uyên Thao
“Trận An Lộc, phóng viên tại mặt trận đó của chúng tôi là anh Nguyễn
Mạnh Tiến đưa về cho chúng tôi khá nhiều tài liệu hình ảnh như các xe tăng của
cộng quân bị bắn phá, những hình ảnh đổ nát của mình. Cái đặc biệt nhất là
hình ảnh nghĩa trang của biệt cách trong vùng đó với câu thơ ghi khắc ‘An Lộc
địa sử lưu chiến tích - Biệt cách dù vị quốc vong thân.’ Chúng tôi đã là người
đầu tiên phổ biến trong làng báo lúc đó.”
An Lộc tỉnh lỵ của Bình Long là cửa ngõ phía Tây Bắc và chỉ cách Thủ đô
VNCH khoảng 60 km. Từ Saigon đi Thủ Dầu Một rồi theo Quốc Lộ 13 sẽ đến An Lộc.
Đầu tháng 4/1972 sau khi chiếm được quận Lộc Ninh, đại quân cộng sản tiến về
bao vây thị xã An Lộc. Tại Hội đàm Paris, Bà Nguyễn Thị Bình lúc đó tuyên bố
trong vòng 10 ngày An Lộc sẽ là Thủ đô của Mặt trận Giải phóng, điều này đã
không xảy ra. Những trận đánh ác liệt với quân số áp đảo có xe tăng và pháo
binh yểm trợ với 7 trận tấn công quyết thắng, nhưng Bắc quân vẫn không chiếm
được An Lộc.
An Lộc là câu chuyện của cuộc vây hãm, 40.000 quân cộng sản với xe tăng
pháo binh đã vùi dập một thị xã diện tích 4 km2. Lực lượng VNCH tử thủ An Lộc
gồm 6.350 quân, chủ lực là Sư Đoàn 5 BB với tướng Tư lệnh mặt trận Lê Văn
Hưng, cùng Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, hai tiểu đoàn của SĐ 18 và Địa Phương
Quân Tiểu Khu Bình Long. Ở ngày phong tỏa thứ 10, phía VNCH tăng viện cho An
Lộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù. Các đơn vị này được trực
thăng vận ngay trong vòng vây và vào được An Lộc.
Chiến trường An Lộc năm 1972. Screen
capture.
Trong chiến dịch An Lộc VNCH đã tung lực lượng giải vây 20.000 quân để khai
thông QL13 phá vòng vây An Lộc, nhưng cũng phải hơn 2 tháng lực lượng này mới
bắt tay được với các đơn vị bên trong An Lộc. Yểm trợ quan trọng cho quân tử
thủ An Lộc phải kể tới hàng ngàn phi xuất các loại của của không lực Việt Nam
Cộng Hòa và Không lực Hoa Kỳ, trong đó có cả pháo đài bay B52. Xin nhắc lại
trong giai đoạn này Hoa Kỳ đang rút quân khỏi Việt Nam, trận An Lộc quân bộ
chiến của đồng minh không tham gia.
Sau nhiều tuần lễ hướng về An Lộc bằng đường bộ, trực thăng vận không thành
công, kể cả chuyện máy bay bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp trong vùng địch.
Ngày 13/6/1972 chúng tôi đã thực hiện được mục đích của mình là vào An Lộc và
từ đó gởi về bản tường trình tại chỗ với cuộc phỏng vấn tướng tử thủ Lê Văn
Hưng. Sau đây là hồi ức của chúng tôi về chuyến đi này.
Số người lên trực thăng gồm Đại úy Nguyễn Văn Quý sĩ quan báo chí SĐ5 BB và
nhóm báo chí gồm chúng tôi Nguyễn Mạnh Tiến Vô Tuyến Việt Nam, Dương Phục Đài
Tiếng nói Quân Đội, Anh Thuần báo Tiền Tuyến, Tam Phong Slao Quắn SĐ5 và
Gérard Hebert phóng viên tự do (Free lance) người Canada lúc đó có hợp đồng
với UPI. Ít lâu sau chuyến vào An Lộc, ngày 22/7/1972 nhà báo 54 tuổi này đã
tử thương ở mặt trận Quảng Trị. Sau này chúng tôi được biết những thước phim
được đổi bằng sinh mệnh của người quay, đã được trình chiếu trên Truyền Hình
Canada theo cách không có dẫn giải, các đạo diễn đã chọn hình thức phim không
lời vì những hình ảnh khủng khiếp của địa ngục An Lộc Bình Long, của đại lộ
kinh hoàng Quảng Trị Thừa Thiên đã nói thay bất cứ lời thoại nào cho phim.
Đoàn trực thăng 5 chiếc chở binh sĩ tiểu đoàn 2/31 SĐ 21 BB tăng viện cho
mặt trận An Lộc đáp vội xuống Xa Cam lúc 11g sáng ngày 13/6/1972. Trực thăng
chưa chạm đất đã nghe những tiếng xé gió, những tiếng nổ đinh tai nháng lửa,
như thường lệ địch quân pháo kích mỗi khi trực thăng xuất hiện.
Địch quân chào 5 chiếc trực thăng và nhóm nhà báo chừng 15 trái đạn. Tất cả
chúng tôi mạnh ai nấy chạy túa vào hai bên rừng cao su và lao mình xuống những
hố đạn cũ gần nhất.
Dứt tiếng pháo, chúng tôi chạy theo hai ven rừng cao su, phía trước là các
toán quân vừa được trực thăng vận tới. Khi kiểm điểm nhân số thiếu Dương Phục
và Slao Quắn, một lát sau hai người bắt kịp chúng tôi. Nhưng Dương Phục nói,
trong khi chạy pháo kích văng mất chiếc túi đeo, sức ép của tiếng nổ và từ
cánh quạt trực thăng đã làm những đồ vật trong túi bay như bươm bướm. Duơng
Phục đã bị mất hết các vật dụng, ngoại trừ tìm được cái máy c***ette đã trở
thành vô dụng. Đó cũng là lý do tại sao ngày hôm đó bài tường trình từ An Lộc
của chúng tôi được phát cùng lúc trên Hệ thống Truyền thanh Quốc gia và Đài
Tiếng Nói Quân Đội.
An Lộc trong tầm mắt, nhiều xác T54 nằm rải rác, 1 chiếc xe be vàng chói
đầy vết đạn pháo kích nằm vắt ngang con dốc. Đây là khúc quanh tử thần vì chỉ
riêng tại nơi này hơn 200 thương binh và những người được phép di tản đã chết
trên đường đón trực thăng ở bãi đáp.
Không một nhà nào còn nguyên vẹn
Leo hết con dốc tử thần là bắt đầu vào An Lộc, đồng hồ chỉ 11g 20, chúng
tôi đã chạy trong 20 phút từ bãi đáp Xa Cam vào An Lộc. Càng vào sâu cảnh điêu
tàn càng hiện rõ, trên con đường chúng tôi đi, không một thước vuông đất nào
không ghi lại những vết tích của chiến tranh. An Lộc không một nhà nào còn
nguyên vẹn, những mái nhà sụp đổ, thân tường nghiêng ngả lỗ chỗ vết miểng,
những cột đèn siêu vẹo, dây điện đứt lung tung và điểm thể hiện duy nhất cho
sự kiện An Lộc không chiến đấu cô đơn chính là những cánh dù tiếp tế phủ đầy
mặt lộ.
Chiến trường An Lộc năm 1972. Screen
capture.
An Lộc chẳng còn gì, nhưng tất cả những vết tích điêu tàn đổ nát chính là
biểu hiện vững chắc nhất, cho tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng tột cùng
của tất cả những ai đã góp công giữ vững thành phố này vào năm đó.
Chúng tôi được hướng dẫn gặp tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh SĐ5BB kiêm tư lệnh
mặt trận An Lộc trong hầm chỉ huy của ông. Ông tướng dáng vẻ xanh xao và có nụ
cười hiền từ, tất cả bộ tham mưu của ông đều mặc áo thun hoặc ở trần. Vào buổi
chiều, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng người hùng tử thủ An Lộc đã lên mặt đất để trả
lời phỏng vấn của chúng tôi. Những lời ông nói được thu vào máy c***ette của
tôi, tướng Hưng không nói về mình, chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của
tất cả các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh
bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long.
Tôi xin tướng Hưng cho dùng Hot Line Bộ Tổng Tham Mưu để chuyển bản tường
trình có ghi âm lời ông về Đài Phát Thanh Saigon. Người trực tiếp nhận và phát
bản tường trình này là ông Lê Phú Nhuận, lúc đó là Trưởng phòng Phóng viên. Từ
Houston Texas ông Lê Phú Nhuận phát biểu:
Sau khi bản tường trình đặc biệt phỏng vấn tướng Lê Văn Hưng
ngay tại mặt trận của Phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến được phát đi trên hệ thống
truyền thanh toàn quốc, thì hầu như tất cả mọi nơi đều hứng khởi. -Ông
Lê Phú Nhuận
“Sau khi bản tường trình đặc biệt phỏng vấn tướng Lê Văn Hưng ngay tại
mặt trận của Phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến được phát đi trên hệ thống truyền
thanh toàn quốc, thì hầu như tất cả mọi nơi đều hứng khởi. Phủ Tổng thống và
đặc biệt lúc đó ông Hoàng Đức Nhã đã ra lệnh cho Hệ thống Truyền hình và Điện
ảnh Quốc gia là phải vào ngay An Lộc và có trực thăng riêng để vào An Lộc làm
phóng sự. Chính vì nhờ có chuyến bay đặc biệt đó mà Phóng viên Nguyễn Mạnh
Tiến mới có thể đi ra khỏi An Lộc được.”
Chiều 13/6/1972, chúng tôi đi trong buổi hoàng hôn điêu tàn của An Lộc và
bắt gặp ở khu phố chợ những dãy mộ mới vun đắp, một vài thánh giá đóng tạm
bằng ván thùng, những cành hoa dại trên các ngôi mộ và đặc biệt trên một tấm
bảng có câu thơ viết bằng sơn trắng “An Lộc địa Sử lưu chiến tích, Biệt Cách
Dù vị quốc vong thân”.
Ông Lê Đắc Lực cựu đại úy thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù hiện định cư ở
Houston Texas nhớ lại:
“Trong 68 ngày chúng tôi ở trong đó chiến đấu thì hơn 300 quân nhân của
chúng tôi bị thương và 88 chiến sĩ đã nằm xuống tại chiến trường An Lộc. Chúng
tôi vừa chiến đấu vừa đi thu những xác chết đồng đội của chúng tôi theo lệnh
của Trung tá Phan Văn Huấn là không bỏ anh em nào cả, dưới làn mưa đạn chúng
tôi đã chôn đồng đội bên hông chợ nhỏ của An Lộc… Cô Pha là một cô giáo dạy ở
An Lộc, cô bị pháo kích bị thương nơi bắp chân, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã
đưa cô về trạm xá và chữa trị cho cô, chúng tôi đã làm nạng gỗ để cho cô sử
dụng. Từ trong ngôi nhà gọi là Tân Huệ Xương cô nhìn ra thấy bọn tôi cặm cụi
đào hố chôn xác đồng đội dưới làn mưa đạn, cảm động cô mới viết ra câu thơ “An
Lộc địa sử lưu chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.”
Hai câu thơ “An Lộc địa sử lưu chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong
thân”mà tác giả là người con gái Bình Long có cái tên mộc mạc giản dị đã
đi vào huyền thoại.
Tại toàn bộ mặt trận Bình Long phía VNCH có 8.000 thương vong, riêng tại
Thị xã An Lộc là 2.300 binh sĩ. Theo nguồn tin Hoa Kỳ, tổn thất về phía lực
lượng cộng sản Bắc Việt gồm có 27 xe tăng bị bắn hạ ngay trong thị xã An Lộc,
10.000 binh sĩ chết 15.000 bị thương, tổn thất nhân mạng lớn là vì bị bom B52.
Tuy vậy, phía cộng sản chỉ nhìn nhận 2.000 bộ đội chết và 5.000 người bị
thương. Tổn thất của thường dân vào khoảng hơn 10.000 thương vong.
Kỳ tới, Nam Nguyên sẽ tường thuật chuyến viếng thăm An Lộc ngày 7/7/1972
của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu; cũng như một số chi tiết khác ở mặt trận
An Lộc, mời quí vị đón theo dõi.
=====
Mời vào các links bên dưới đọc tiếp .
xp
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&uact=8&ved=0CCEQFjAB&url=http%3A%2F%2Fwww.rfa.org%2Fvietnamese%2Fin_depth%2Fradio-journalist-n-an-loc-p2-nn-01022015115714.html&ei=mESvVNGiA8P4mAWQ9YLIAg&usg=AFQjCNH4cygnpRydVHulorsg8J4Lbro6aQ&sig2=-Yi0Y-th2U0enWd5NGQywg - Nhà báo và mặt trận An Lộc (P2)
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=3&cad=rja&uact=8&ved=0CCcQFjAC&url=http%3A%2F%2Fwww.rfa.org%2Fvietnamese%2Fin_depth%2Fa-radio-journalist-n-battle-of-an-loc-p3-nn-01022015131417.html&ei=mESvVNGiA8P4mAWQ9YLIAg&usg=AFQjCNHHtRjB_CYSPDdJJcgnMjWdL4qJUg&sig2=83qDUIOg8sbAnNu3ai9AQA - Nhà báo và mặt trận An Lộc (P3)
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Jan/2015 lúc 2:56am
Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
VNCH đã giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.
Trong
số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt
Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt
tại Bắc Việt. Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù
được thả ra miền Bắc có 7 người đã bị CS tuyên án tử hình và đã bị hành
quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các trại tù khổ sai miền
Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người mất tích khi thi hành
nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư tại các nông trường hay hợp
tác xã miền Bắc. Đa số những người còn lại đều bị tra tấn dã man và bị
bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu
hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đã bị CS bắt ? Bài
viết sau đây là của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách
các toán Biệt Kích Dù được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết
những nét đại cương về tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của
họ và cách thức điều hành của cơ quan tình báo Hoa Kỳ.
o O o
Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu. Đó
là những bí danh của một cơ quan tình báo chiến lược, được thành lập từ
cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong mạng lưới chỉ
huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH.
Cơ
quan này được Hoa Kỳ yểm trợ cả về tài chánh lẫn các phương tiện cần
thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước chống miền Bắc CS.
Sau
Hiệp định đình chiến Geneva, vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự
và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và
Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp lực của Hoa Kỳ, đã phải kéo
cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho quốc kỳ VN tung bay
tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ.
Để
đáp lại, quân đội Pháp đã không nương tay, xóa sạch mạng lưới tình báo
mà họ đã khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc. Đây là một sự
thiệt hại khá lớn cho ngành tình báo non trẻ của miền Nam.
Trong
khi đó, CS đã để lại tại miền Nam vô số cơ sở tình báo mà họ đã gầy
dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân
của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn
chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân và Phong kiến đã làm mồi nuôi
dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho
các cán bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù
vậy, ngành tình báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải đặt nền
móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt vì đa số người Việt
thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng
phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đã thấy rõ bộ mặt gian dối của
CS.
Có
người đã chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tố dã man các thành phần
quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là
thân nhân của các nạn nhân đó.
Ngoài
ra, những tài liệu sống động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đã gây
được một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.
Nắm
được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đã gấp rút gửi nhân viên đến
các trại định cư, liên lạc với các vị lãnh đạo tinh thần cũng như các
bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt tình yêu nước còn
thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo vỏ bọc
thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động. Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau đây:
- Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu.
- Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó sử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác.
-
Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào
điểm công tác, móc nối với thân nhân đã nằm vùng, hoặc giới chức được
tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử dụng “bona
fides” để nhận nhau.
-
Cử chuyên viên phục vụ tại Tòa Đại Sứ của một vài nước thứ 3 như Lào,
Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong … rồi từ đó tuyển mộ và huấn luyện
các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cũng
như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động. Phương
pháp này đã được nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng vì quá tốn kém nên chỉ được
thực hiện từng giai đoạn.
Tuy
có nhiều hình thức xâm nhập khác nhau như vừa trình bày trên, nhưng
trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập đến những
toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, vì đây
là phần việc mà chính tôi đã đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan tình
báo chiến lược này.
Những chuyến bay đêm
Các
toán Biệt Kích Dù thường được thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng.
Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 – 20 âm
lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và
thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương tiện đối phó với các bất
trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải
mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng tiểu liên Swedish
K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống
giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ còn phải đèo thêm các dụng cụ khác
trên 20 món, nào bidon nước, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3
ngày lương khô, đèn bấm, pamean, dao găm, túi cứu thương cá nhân, cà
mèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo tay, radio v.v…
Các
dụng cụ này thường được mua ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào
được mang nhãn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể
nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ dùng cho 3
tháng v.v…đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ và máy beacon
là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng số 1.
Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng
của gió, bạt ra xa cách bãi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ
có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập
trung.
Thông thường, các nhân viên quê
quán vùng nào được thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công
tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết trình vào giờ chót,
trước khi lên máy bay. Các chuyến xuất phát trong những
năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ đã yểm
trợ cho các chuyến bay bí mật này và lộ trình duy nhất được xử dụng là
Tân Sơn Nhất – Đà Nẵng – Vùng mục tiêu.
Tại
Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cởi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi
khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi cơ được xử dụng là loại DC7
hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung Hoa. Tuy nhiên, cũng có
lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số sĩ quan có khả
năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao
Kỳ hồi còn mang lon Đại úy, đã nhiều lần làm phi công chính thức cho các
phi vụ đặc biệt này. Đến cuối năm 1966, Trung Ương Tình
Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan tình
báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi
cường độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất thì nhu cầu tin
tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải được tăng
cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế bằng C123
hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay
nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay đón nằm ở phía Đông -Bắc Thái
Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3
để bay băng qua lãnh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới
Lào-Việt. Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc
Viêt.
Trực
thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ tiền vừa tiện lợi nhưng lại là
phương tiện kém an toàn nhất, vì tiếng động cơ quá lớn, địch dễ phát
hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công
tác Biệt Kích tại miền Bắc?. Vấn đề này đã được phía VN quan tâm và nêu
lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không
quan tâm.
Số phận những con chim lạc loài
Đến
cuối năm 1968, trong số gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng
không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là còn giữ
được liên lạc với Trung Ương, đó là các toán Tourbillon (1962), Ares
(1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963).
Theo
đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt – Mỹ thì cả 5 toán
này hình như đã bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn còn tin tưởng
một toán, đó là toán Ares.
Sự tin tưởng này có thể đúng vì lý do sau đây:
Vào
những năm đầu ở trại “cải tạo”, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc
cơ quan nào và cấp nào, đã thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích.
Một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau
hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không còn sức chịu đựng, tôi đã bị
gục ngã vì tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi về phòng, nhưng 2
giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng đủ trò ma giáo “hỉ,
nộ, ái, ố”, … lúc thì mời tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc có
đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng,
khinh bỉ. Họ chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đã dùng
những lời rất cộc cằn và thô lỗ để áp đảo tinh thần tôi.
Một
điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như
trưởng toán tên gì, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên
ngoài như thế nào, có những đặc điểm gì, những liên hệ gia đình, địa
chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v… Tôi thầm nghĩ nếu Ares đã
thật sự nằm trong tay họ thì mắc mớ gì họ phải hỏi tôi những chuyện thừa
thải ấy. Tôi có lý do để không trả lời họ, vì Ares đã xuất phát năm
1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi
xin nói ra đây những gì tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác
tôi thấy chưa thể tiết lộ lúc này vì có thể phương hại đến sự an toàn
của toán đó, nếu quả thật toán đó đến nay vẫn còn dấu được tung tích.
Ares
hay Hạ Long có tên thật là …, một cán bộ trung cấp và là đảng viên CS
bị khai trừ vì bất mãn. Anh đã theo đoàn người di cư vào Nam năm … và
được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đình Nhu. Tổng Thống
Diệm và ông Nhu đã lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau đó, Sở Bắc đã
cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt
động. Anh đã đồng ý và đã được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962,
rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Phòng và nhà máy điện Uông Bí. Đây là 2
mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ
ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đã
mộ mến Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách khác thường. Hàng năm, trước
ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc mừng TT Diệm và
nguyện trung thành phục vụ tổ quốc.
Khi
nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và sau
khi được Trung Ương xác nhận, anh đã tỏ ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh
vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo. Những chuyến tàu
cập bến Hải Phòng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân dụng, đã được anh
theo dõi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên, anh còn báo cáo
kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng và nhà
máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Phòng.
Để
giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bị bịnh sốt rét,
Trung Ương đã chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm người em ruột và
một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục
tiêu ở xa. Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở
nên trầm trọng, nhưng Trung Ương không tiếp tế cho anh được vì địa điểm
nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đã bị lộ. Thêm vào đó, vùng
biển Hải Phòng bị Mỹ gài mìn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho
anh đều không thể thực hiện được.
Khoảng
giữa năm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đã tìm được kế hoạch
tiếp tế cho Ares. Trung Ương báo ngay cho anh tọa độ một số bãi thả tiếp
tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên
được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung Ương đã hướng dẫn các chi tiết
mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như dự liệu.
Đến
ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đã xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở
Hải Phòng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác đã bắn một thùng
“container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đã ấn định và được Ares
đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đã chỉ thị. Cách tiếp tế này đã được
thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong
muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo
quần còn có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi
khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, còn có 4 lá thơ, trong đó có một
lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, còn 3 lá thơ khác được dán bì kín.
Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian
tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu hiệu riêng mà toán không được biết lý
do.
Chỉ
trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội dung thường đã đến tay người
nhận, thơ còn nguyên xi không bị mở, nhưng thơ thứ 3 có “gài” một tài
liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng sau, khi được
Trung Ương hỏi về lá thơ này thì toán cho biết, trên đường đi tới bưu
điện, bị còi báo động, đương sự phải chạy tìm hầm trú ẩn, không may đánh
rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đã không gửi. Lý do này đã khiến
bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ lòng trung thành của Ares.
Nhiệm vụ mới
Đến
năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật
phải lãnh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới
được thành lập:
–
Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để
thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên
lãnh thổ Bắc Việt.
–
Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt động trong
lãnh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC
nằm trên lãnh thổ nước láng giềng Cam-bốt.
–
Các toán EARTH-ANGEL, còn được gọi là Đề Thám, là những toán được thành
lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt
động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền Bắc. Nhờ đó
họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đã nhiều phen lập được nhiều
thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đã gia nhập Quân đội VNCH.
–
Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt
kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt động nằm
vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu v.v… Đây là những
nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các nhân viên này có
nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt động địch và hướng dẫn phi cơ oanh tạc
lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt động
như trên, còn có chương trình công tác lừa địch và ly gián địch, được
gọi là chương trình Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc
Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang bị như
một toán viên rất trung thành của miền Nam: một bản đồ, lệnh hành quân,
thơ giới thiệu v.v… Các thứ này được dấu kín trong áo nhảy và chỉ được
trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống
vùng địch chiếm đóng.
Các
chương trình mới này đã đem lại những kết quả hết sức khích lệ, nên
phía Hoa Kỳ đã yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán còn lại ở
miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy tìm cách xâm nhập qua Lào,
trình diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam. Tuy nhiên, nhiều
tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện.
Hướng về những người anh em kiêu hùng
Các
Biệt Kích Dù bị CS bắt đã phải chịu đủ thứ cực hình. Tuy vậy, họ vẫn
giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ cương quyết của họ đã
phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người “không cải tạo
được”. Mãi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS mới
tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích.
Người được trả sớm nhất đã phải ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất trên 20 năm.
Khi
họ trở về, chúng ta đã biết thêm được nhiều chuyện đã xảy ra khi họ
công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số toán bặt tin, trong đó
có toán VOI do anh Trần Hiếu Hòa làm trưởng toán cùng với 4 toán viên. Toán Ares mà tôi đã đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất tích này.
Phải
chăng họ đã bị thủ tiêu hay đã hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ.
“Hy sinh trong bóng tối, tất cả vì Tổ quốc”, đó là phương châm hành động
mà mọi Biệt Kích đã chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.
Tôi
còn nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đã được xem
một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu được của bộ đội Bắc Việt
khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại
phiên tòa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt động tại
vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là tay
sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đình Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ
chính quyền và phá hoại tài sản nhân dân v.v…
Toán
Jackson đã bị bắt toàn bộ với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá
chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Lò. Hầu hết toán viên đã lãnh án tử hình, chỉ
1-2 người lãnh án chung thân. Điều làm anh em chúng tôi xúc động và hãnh
diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và bình tĩnh của các toán
viên khi bản án tử hình được tuyên đọc. Theo lời một
nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 người
lãnh bản án tử hình đã bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ
là:
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm ! Tổng Thống Ngô Đình Diệm muôn năm !
Anh
em chúng tôi là những người đã đi qua nhiều trại “cải tạo” ở miền Bắc
và đã được nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em
Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè
của tôi đã sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù hình sự miền
Bắc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ “bọn hình sự”, vì
phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm cướp, đâm chém, giết người …
khi được hỏi về anh em Biệt Kích thì họ tỏ vẻ rất khâm phục.
Họ
nói với tôi: “Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại
cũng phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với nhau, họ thương
nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay bị ốm, là
các anh khác tìm cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần ăn
để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đã có những anh Bê Ka cướp
súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo
tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ trại cũng đành phải làm ngơ
…”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm tù
CS, đã không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao
giờ quên những con người hào hùng cùng chung lý tưởng đã cùng chung sống
với nhau trong tình huynh đệ chân thành. Tôi là người đã từng sống
chung với họ ở trại huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công
tác, tôi đã tiễn chân hoặc nhiều khi đã cùng với họ bay vào vùng mục
tiêu xâm nhập, đưa tay vẩy chào họ khi họ rời máy bay … Những kỷ niệm đó
khó quên được.
Những kỷ niệm khó quên
Tôi
nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa
một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người bạn gái, hay nói đúng hơn,
một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng,
nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy vội vã bước xuống
xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quý báu còn lại.
Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên
tay anh còn mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của
người yêu. Họ nhìn nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông
nỗi buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn. Xe chạy được một quãng
đường, người thanh niên ấy quay nhìn tôi, vừa nói vừa mở món quà: ”Đây,
anh xem, quà cô ấy tặng em”.
Tôi liếc nhìn, thấy một nắm tóc thề được gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đã đề bì sẵn và nói:
”Anh
Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đã không dám nói thật với
mẹ em. Vì vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho mẹ em một
bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên
tâm”.
Tôi xúc động nhìn người thanh
niên ấy với tất cả lòng yêu thương và mến phục. Tôi đã nhận thơ anh giao
và hàng tháng, tôi đã đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư
của con bà. Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đã được trao mà
“khóa học” của anh vẫn chưa mãn.
Hai
nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cõi chết,
sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó
là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, còn người kia, trước ngày
tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vả hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy
vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích
khác còn ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai này.
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh Tiểu sử của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh (NVV): Houston Sept. 04, 2011 Matthew Trần
Trung
Tá NVV hơn tôi (MT) dộ 3,4 tuỗi và có bà con xa với tôi: Chúng tôi cùng
quê ỡ làng Dốc Sơ và nhà cách nhau một xóm. Làng Dốc Sơ nằm về hướng
Bắc cách thành phố Huế độ 5,6 cây số, dọc theo quốc Lộ 1. Làng Dốc sơ
cũng có giáo xứ Dốc sơ: Nơi mà sau nầy (1980?) đã một thời gian, trở nên
họ đạo được cai quãn bỡi linh mục dáng kính Tadêô Nguyễn Văn Lý đối đầu
với csVN trong vụ chúng ngăn cản lần Cha Tadêô đưa đám thanh niên trong
họ đi hành hương Dức Mẹ Lavang.
Vào
tuổi niên thiếu, chúng tôi đều được gia-đình cho vào Huế để học. Chúng
tôi không học chung cùng trường nhưng khi “hè về”, chúng tôi đều trở về
làng và thường gặp nhau hàng ngày trong các trò tiêu khiển cũa tuổi trẽ
như: câu cá, bắn chim.. Nếu được sáp giữ trâu "mời" chúng tôi theo tụi
vào các trò chơi ban dêm thì chúng nó sẽ cho chúng tôi ăn trái cây mà
chúng nó đi "ăn trộm" được từ các vườn có trái trong làng như: thanh
trà, bưỡi, mít, cam, quýt ..vv. Những vườn nầy cũng thuộc các gia đình
bà con cũa chúng tôi cả !! Đó là thời vàng son của tuổi trẽ mà bây chừ
chúng tôi không thể níu kéo lại được.
Hình
như anh NVV được gọi nhập ngũ vào khóa 3 SQTB/TĐ (đầu 1953) thì phải.
Tôi được gọi nhập ngũ 6 tháng sau: Khóa 4 SQTB/TĐ (1953-54).
Trong
suốt thời gian trong quân ngũ, điều khôi hài là thỉnh thoảng chúng tôi
gặp nhau, chúng tôi nhận thức ra nhau là cã hai chúng tôi đều: đội mũ
nồi (béret) xanh lục đậm, với huy hiệu (logo) LLĐB, bằng Dù và mặc đồng
phục bằng vãi dù hoa, cả 2 chúng tôi đều tự nhận biết là cùng binh chủng
LLĐB nhưng chúng tôi không biết là người kia ỡ đơn vị nào, giữ chức vụ
gì.
Trong
LLĐB chúng tôi “không” có thói quen tìm hiễu công việc cũa nhau. Chúng
tôi vẫn có những SQ ăn mặc thường phục và được dùng xe mang số ẩn tế.
Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau trên các đường phố trong lúc lái xe
ngược chiều thì chúng tôi .. hoặc là nhìn nhau mĩm cười .. hoặc là đưa
tay vẫy.. thế thôi.
Vào những ngày dầu
sôi lữa bỏng trước khi VNCH bị tên phản quốc: tướng Dương Văn Minh bán
đứng cho csBV (30/04/1975) bằng cách lên đài phát thanh ra lệnh cho
chiến sỉ khắp nơi đầu hàng địch .. vào một hôm nào đó (April 28?/1975)
trên đường đến bộ TTM (giai đoạn nầy tôi phục vụ ỡ Bộ TTM), tôi gặp Tr.
Tá NVV lần cuối cùng khi anh từ ngõ sân bay Tân Sơn Nhất lái xe nhà với
gia đình ra, chúng tôi có ngừng xe đễ nói chuyện vài phút. Đầu đề không
ngoài việc hỏi thăm nhau về các quyết định hệ trọng liên quan đến việc
di tãn khỏi Vietnam.
Anh
NVV có hỏi tôi về quyết định của tôi và anh cho biết là HK đã lo việc
di tản cho anh và gia dình trong ngày hôm nay (April 28?/1975) nhưng anh
& gia dình đã không vào phi
trường được
.
Mọi ngã - ra vào - đều có xe kẹt cứng hết .. nên anh & gia đình đang trở ra ..
Tôi
cho anh hay là nhờ trong thời gian trước đó, tôi đã được phục vụ như là
TVQL/ QLVNCH tại Đại Hàn, nên có liên hệ tương đối mật thiết với DAO
(VP TVQL/HK) và DAO có hứa sẽ giúp phương tiện di tản. Nguyên thủy,
gia-đình tôi được dự trù di chuyển bằng máy bay, nhưng vào ngày dự-trù,
phi trường TSN bị địch pháo kích, vì vậy, cuối cùng, gia đình chúng tôi
được di tản bằng đường thủy (từ Tân cảng, SG).
Thế rồi chúng tôi không gặp nhau nữa cho đến …. năm 1992, khi tôi từ Mỹ về Viet
N
am đễ lo vấn đề riêng tư gia đình và đã gặp lại anh NVV khi tôi đi xem lễ tại DCCT ỡ đường Kỳ Dồng, Sàigòn.
Vào
giai đoạn đó thì anh NVV đã dược csVN trã tự do. Gia đình anh có lập
một cái tiệm cho thuê "băng" chuyện film (lúc nớ chưa có DVD) bằng nhựa.
Nó nằm đâu đó trên dường Trương Minh Giãng. Business không đến nỗi tệ
lắm.
Anh NVV hơi chán nãn khi nhận thức là tôi vừa “về hưu” và đang về Việt
N
am
lúc đó tôi vào 56 tuổi thì anh NVV trong giai đoạn chờ chực đễ được
phỏng vấn hầu dịnh cư tại HK. Anh khá lo lắng cho tương lai.
Trong
thời gian chờ đợi để được HK phỏng vấn, anh may mắn được một cựu nhân
viên đang định cư tại HK, gỡi cho anh một bài báo (lá kãi) có hình ãnh
của anh & một dám nhân viên BK củ. Bài báo mô tả hoạt động của anh
trong quá khứ. Vì vậy, cuộc phỏng vấn của phía HK đối với anh trở nên dễ
dàng. Họ giúp đỡ gia đình Tr.Tá
NVV tối đa để được di chuyển sớm.
Thế rồi gia đình của Tr.Tá NVV qua định cư tại Baton Rouge (Louisiana) theo lời khuyến khích của một cựu nhân viên cũa anh.
Vào
lúc dó thì Tr.Tá NVV với tuỗi đã trên dưới 6 bó, anh sống với sự trợ
giúp cũa chính phủ HK. Nhân viên cũ cũng hăng hái giúp đỡ trong khã
năng. Các con của anh thì vừa qua, họ chỉ kiếm được các công việc với
đồng lương khiêm nhượng mà thôi.
Độ
5, 6 năm sau, một cựu nhân viên khác của anh, mời gia đình anh lên
Denver (CO) để định cư và người nầy hứa là sẽ giúp đỡ cụ thể hơn (chỗ ỡ
free thì fãi). Hình như người nầy may mắn hơn nên họ hoặc là thuê bao
..hay xây một ngôi nhà để cho gia đình Trung Tá Vinh ở mà chẳng phải lo
gì về tiền thuê mướn ..
Thế
là gia đình Tr Tá NVV lại di chuyễn một ngoai nữa. Coi bộ lần nầy cuộc
sống tương đối được thoải mái hơn. Thêm vào dó, một người rễ cũa anh
(cựu giáo sư Anh Văn bên VN) và người vợ nhân dịp Bưu Diện HK đang mỡ kỳ
thi tuyễn. Không biết 2 vợ chồng chuẫn bị ra sao mà khi thi tuyễn vào,
diễm cũa mỗi người là 100 % !! Tối đa !! Thế là cã 2 vợ chồng đều được
thu nhận vào các positions tốt. Lương khá.
Mấy
sắp nhỏ sau đó cũng đã lai rai bắt đầu ra trường. Thế là cuộc sống của
gia đình Tr. Tá NVV được bão đãm. Anh Chị hằng ngày chĩ có chăm lo việc
tinh thần (đạo) mà thôi.
Thế
rồi chuyện phải đến đã đến. Chị Vinh đã qua dời vì một bạo bệnh ngặt
nghèo. Như vậy cũng đã cách nay hơn mười năm. Tr. Tá NVV cũng di theo
chị dộ 3, 4 năm sau.
May God save their souls.
Matthew Trần Houston, TX 2008 Trần Đình Phục (TĐP)
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Jan/2015 lúc 11:47pm
Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không tặc máy bay quân sự C130 vô tiền
khoán hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi
VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra
sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu
chuyện sau 36 năm:
“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ,
sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà
già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ
không bao giờ đi nữa”.
Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm
việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không
quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái
rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc
đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.
Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời
VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không
hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở
lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là
cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc
đời ông:
“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối
đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep
ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có lệnh phải đi công
tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy
lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui
khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi
một chiếc máy bay C30 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai
là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để
thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn
ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng
nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi
lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.
Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở
lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một
thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’ - Ông Trương Văn Ẩm
Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ
thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế
độ Cộng sản lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn
Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết
trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho
đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn
nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham
quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân
Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.
Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn
Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9
tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3
ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông
Trương Văn Ẩm:
“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại
mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi
nào nó biết hết’”.
Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông
Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay
quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:
“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu,
nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không.
Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép
đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.
Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự
C130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được
lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều
được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.
“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa
cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác
chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì
mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho
phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện
với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất
cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.
Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi
đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật
hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống
chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:
“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy
được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay
loại C119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân
bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được
nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.
Chiếc máy bay C130, ảnh minh họa
Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha
sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được
khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín
hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do
bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố
gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế
hoạch:
“Ông Nha nóng ruột, chung hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói
anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An
ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.
Sau đó không lâu, mọi việc suông sẻ:
“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.
Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh
Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là
người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy
về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc
dĩ và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.
“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ
Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc
đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại
đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng
10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em
mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.
Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng
phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh
là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:
“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách
hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi.
Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7,
10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của
Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng
tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng
của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước
rồi”.
Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển
đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi
khóc trong máy bay vậy đó. - Ông Trương Văn Ẩm
Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:
“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc
không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín
hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp
rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm
soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu
của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.
Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người
được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ
sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay
dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và
khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.
Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm
việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên
Hoa Kỳ:
“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy.
Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như
người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh
đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả
nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin
tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho
các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các
anh”.
Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định
cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận
được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước
ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp
ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày
ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì
người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can
thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:
“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.
Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã
trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN
mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi
công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên
từ 20 đến 35 năm tù giam.
Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi
thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt
của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên
họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa
Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được
chào đón như một Việt kiều yêu nước.
Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoán hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi về”,
đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến
nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần
vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của
chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và
ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn
giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.
NGUỒN :
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0CBsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.rfa.org%2Fvietnamese%2Fin_depth%2Fhijack-military-aircraft-seek-freedom-ha-01262015121810.html&ei=MBXHVIiOBNTd8AXP9YDIBg&usg=AFQjCNF8n-snldtPJnbi2jkjAzSgXVZIbw&sig2=vF8vQ0WHeHs0wASr5oZFUg&bvm=bv.84607526,d.dGc - Cướp máy bay quân sự để vượt biên
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Jan/2015 lúc 4:04am
"Last
days in Vietnam"
sự phản bội cuối cùng
Thông điệp chính của cuốn phim là gì.
Trình bầy sự hoảng loạn của quân dân VNCH và sự bình tĩnh tận tâm của Mỹ cứu
vớt người Việt Nam vào ngày cuối cùng. Hoa Kỳ muốn nói rằng đã nỗ lực, nhưng rất
ân hận là vào giờ chót phải bỏ rơi vào khoảng 400 người.
Giao
Chỉ, San Jose.
Cali
Today News - Bộ phim Last days in Việt Nam đã được
giới thiệu tại Hoa Kỳ. Nhà làm phim tài danh tiếng là bà Rory Kennedy đã sưu tầm
tài liệu nhiều năm và hy vọng đoạt giải Oscar năm nay, ghi dấu 40 năm mất miền
Nam. Ngôi sao chính được phỏng vấn trong phim là tiến sĩ Kissinger. Báo chí Việt
ngữ khen ngợi. Truyền thông Hoa kỳ còn siêu hơn 1 bậc. Hầu hết đều hết lời xưng
tụng. Các báo Mỹ miền Đông cho đến 5 sao. Báo miền Tây khó tính nhưng cũng phải
bỏ ra 4 sao. Trên Amazon bình luận là tuyệt phẩm.
Dự trù sẽ chiếu tại các rạp vào
ngày 28 tháng 4-2015 . Kỷ niệm tháng 4 đen. Người Việt di tản suốt 40 năm qua gọi
là ngày quốc hận 30 tháng 4-1975. Kỳ này ngậm thêm một quả đắng. Người Mỹ làm
được cuốn phim những ngày cuối cùng ở Việt Nam đã hãnh diện gọi là sự thật trần
truồng.
Ngày cuối ở Việt Nam là ngày cuối
của ai. Đối với Việt Nam Cộng Hòa chăng. Không phải. Ngày cuối cùng của những
người Việt bị bỏ rơi trong tòa đại sứ. Có phải không ? Không phải. Đó là ngày
cuối của người Mỹ ở Việt Nam. Hoa Kỳ nghĩ thế nào. Nhà làm phim nghĩ sao?
Tôi không biết. Theo tôi. Đúng là ngày cuối của người Mỹ tại Việt
Nam.
Các ông bà truyền thông Mỹ Việt
có thể khen ngợi tán thưởng phim này. Đó là quyền của quý vị. Theo ý tôi, đây là
một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.
Tôi xin
nói tại sao.
Nội dung cuốn phim 1 giờ
30 phút sơ lược gồm các đoạn phim tài liệu về 30 tháng 4-1975 có chừng 10 cảnh
chính.
Trên biển Đông, máy bay
trực thăng của VNCH di tản. Đáp xuống là đẩy xuống biển. Cảnh chiến binh VNCH
lên tàu bị lính đồng minh Hoa Kỳ khám người, tước súng, vất xuống biển. Cảnh 1
tay triệu phú cao bồi Mỹ Ed Daly ở Oakland lấy máy bay World Airways bay ra Đà
Nẵng cứu dân tỵ nạn tạo ra hình ảnh rất thảm khốc tại phi trường. (Ông đại sứ
Martin miệt thị bảo tay này chỉ làm tình thế thêm rối loạn) Cảnh mọi người chen
nhau vào tòa đại sứ tìm đường chạy. Cảnh chiến xa cộng sản tiến vào Sài Gòn. Những
chiến binh VNCH bỏ quân phục, mặc quần cụt tan hàng. Cảnh máy bay trực thăng của
1 chiến binh không quân chở vợ con được cứu trên biển. Và sau cùng cảnh chiến hạm
hải quân Việt Nam lặng lẽ hạ cờ trong nước mắt.
Xen lẫn vào các
tài liệu thời sự đau thương của 40 năm trước là phần bình luận của những người
Mỹ trong cuộc và một vài người nhân chứng Việt Nam. Tổng thống Ford bầy tỏ tấm
lòng nhân đạo muốn cứu vớt nhiều người Việt Nam. Tiến sĩ Kissinger với tình
nghĩa rạt rào dâng cao cũng muốn cứu thêm nhiều người. Các thành viên trách nhiệm
Hoa Kỳ ở tòa đại sứ cùng sĩ quan chỉ huy thủy quân lục chiến kể lại những giây
phút cuối tại văn phòng tùy viên bên Tân sơn Nhất và tại tòa đại sứ. Anh lính
thủy quân lục chiến Mỹ bị chết vì pháo kích. Đây là người lính Mỹ cuối cùng có
tên trên bức tường tưởng niệm ở thủ đô.
Thông điệp chính
của cuốn phim là gì. Trình bầy sự hoảng loạn của quân dân VNCH và sự bình tĩnh
tận tâm của Mỹ cứu vớt người Việt Nam vào ngày cuối cùng. Hoa Kỳ muốn nói rằng
đã nỗ lực, nhưng rất ân hận là vào giờ chót phải bỏ rơi vào khoảng 400 người.
Những người may mắn lọt vào trong tòa nhà đại sứ và được hứa hẹn sẽ bốc đi hết.
Nếu họ biết số phận như thế, bỏ đi từ sớm may ra còn kịp tìm đường khác. Những
người này cố leo lên cầu thang, lên nóc nhà, chỗ máy bay hạ cánh, nhưng cửa bị
chặn và lính Mỹ ném lựu đạn khói cho nghẹt thở để phải bò xuống.
Mới đâu đó giây
phút trước Mỹ Việt còn chuyện trò hứa hẹn. Rồi chợt Mỹ biến mất.
Đó
là nội dung cuốn phim.
Trong phim ngày cuối cùng,
người Mỹ nhận tội bỏ rơi 400 người, nhưng thực ra họ đã bỏ rơi cả triệu người
Việt của một nửa nước Việt Nam.
Làm sao tôi có thể khen
ngợi cuốn phim chết tiệt này được. Ngay cả về kỹ thuật cũng chẳng có gì mới lạ.
Tôi xin nói tại sao.
Suốt 40 năm qua, cảnh đau
thương ở phi trường Đà Nẵng, cảnh đẩy trực thăng xuống biển. Cảnh chen chúc ở cửa
tòa đại sứ, chúng ta đã được xem đi xem lại biết bao lần. Kỳ này, với phương tiện
và khả năng rộng rãi của bà chủ biên, có thêm 1 vài đoạn đau thương ly kỳ nhưng
cũng não lòng không kém. Kỹ thuật cắt xén xào nấu đâu có gì mới lạ.
Với nội dung và kỹ thuật
như vậy làm sao tôi có thể khen ngợi 1 bộ phim chết tiệt như thế.
Tôi không thích phim
này, nhưng tôi biết có những người rất thích và có lý do để thích. Việt cộng.
Các bạn thử nghĩ coi.
Chiến binh Việt cộng ở vào tuổi của tôi. Năm 1954 các tay này 20 tuổi, cũng như
lúc tôi di cư vào Nam. Họ bắt đầu cầm súng đi “giải phóng” miền Nam. Từ 54 cho
đến 75, qua hơn 20 năm không chết nhưng cũng không trực tiếp thấy hình ảnh phe
ta tan nát ra sao. Vớ được phim này, thấy cảnh “Mỹ Ngụy” chạy như thế. Thích là
cái chắc.
Xin lưu ý chữ “ giải
phóng miền Nam” và chữ “ Mỹ Ngụy” tôi viết trong ngoặc kép. Chữ của Việt
cộng đấy.
Phim mà kẻ thù thích thú,
phim chết tiệt như thế làm sao tôi khen ngợi.
Tài tử Kissinger
Phim đã chẳng ra làm sao, tài tử
bình luận chính lại là Kissinger đóng vai nhà chính khách nhân đạo, thương yêu
Việt Nam hết sức. Ông muốn cứu thêm mà ngoài khả năng. Thật tội cho ông tiến
sĩ, nhưng sự thực quý vị có biết không?
Nhắc đến chuyện Kiss sang Tàu để
bàn chuyện bán đứng Việt Nam Cộng Hòa là chuyện xưa rồi. Ngay từ tháng 3-1975
Kiss đã liên lạc với Nga sô để xin thỏa hiệp với Hà nội. Yêu cầu Hà
nội đánh đâu thì đánh, phải chờ ở ngoài vòng đai Sài Gòn cho Mỹ rút vào ngày 3
tháng 5-1975. Ai tiết lộ chuyện này. Chính đại sứ Martin.
Trong cuốn sách Nước mắt
trước cơn mưa viết từ 1990 tác giả Lary Engelman hỏi chuyện ông đại sứ lúc ông
còn sống. Đại sứ nói rằng cần 2 tuần lễ để rút cho êm. Kiss nói đã thỏa hiệp với
Brezhnev bên Nga và được biết Hà Nội đồng ý. Tuy nhiên đầu tháng 4 đại sứ
Martin muốn chắc ăn đã gửi đại tá Harry Summers đi theo chuyến bay của uỷ hội
quốc tế ra Hà Nội nói chuyện trực tiếp. Bắc Việt đồng ý sẽ chờ ngoài cửa Sài
Gòn cho Mỹ rút êm, nhưng phải bỏ của chạy lấy người. Quân dụng để lại hết. Vì vậy
khi thấy Mỹ cho phi công Viêt Nam di tản qua Thái Lan, coi như di tản quân dụng,
là vi phạm thỏa hiệp phải để lại tất cả chiến cụ. Cộng sản bèn pháo kích Tân
sơn Nhất để cảnh cáo. Chính ông Martin kể lại.
Câu chuyện rõ ràng
là Mỹ bỏ chạy trong kế hoạch và cũng hoảng loạn không kém gì Việt Nam. Hẹn nhau
ngày chót là 3 tháng 5-1975 mà đã vội vàng bỏ đi trước 3 ngày,
Đầu
đuôi như thế bảo làm sao tôi thích phim này cho được.
Lại nói thêm câu
chót về Kissinger. Một hôm ngồi ăn cơm cạnh ông Hoàng đức Nhã, tôi hỏi về chuyện
tranh cãi ký kết hiệp định Paris. Hỏi rằng lúc gay cấn với Kissinger, trong nội
bộ giữa chỗ riêng tư, ông Thiệu có tức giận không. Có chứ. Vậy ông nói gì. Ông
nói ĐM Kissinger ... Đó là tiết lộ của ông Nhã. Trong bàn ăn có cả tướng Nguyễn
Khắc Bình gật gù xác nhận. Chẳng khác nào cả Kiss và Nixon cũng đã chửi thề khi
nói đến VNCH. Kết luận về tiến sĩ Kissinger như vậy đủ chưa.
Thế hệ tương lai.
Có anh bạn thích cuốn
phim danh tiếng này bảo rằng phim cần cho con cháu chúng ta xem để biết về chuyện
ra đi năm 75. Tôi xin nhắc lại. Chúng ta muốn con cháu thấy cảnh 1 chiến binh
chen với gia đình binh sĩ lên máy bay chạy trốn để tay Mỹ cao bồi tống cho 1 quả
rớt xuống. Muốn hay không. Chúng ta có muốn con cháu thấy cảnh lính tráng cởi
quân phục có cả giầy trận và vũ khí đầy đường rồi tan hàng hay không.
Cảnh chen lấn ở cổng tòa
đại sứ hay cảnh đồng minh khám xét đồng minh trên tàu. Hình ảnh chết tiệt như
thế mà dành làm kỷ niệm cho thế hệ tương lai thì buồn cho con cháu nhiều lắm.
Bạn lại hỏi tôi là nếu ông làm phim
thì ông làm ra sao. Nhu cầu đơn giản, ý kiến đơn giản. Phải có đoạn phim trận
đánh ở Long Khánh của sư đoàn 18. Một sư đoàn lính bộ binh miền Nam chặn đứng 3
sư đoàn Bắc quân kịp thời cho Mỹ rút. Cảnh tàn quân của Sài Gòn cầm chân các
đơn vị tiền quân của Hà nội tại cầu Tân cảng. Đó là những thước phim tài liệu
đã từng chiếu lại. Đoạn phim trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long tự tử ở trước tượng
thủy quân lục chiến. Những người dân chở trên cyclo đem vào nhà thương Grall,
Sài Gòn. Tất cả đều đã có phim ảnh.
Cũng trong 24 giờ cuối cùng hãy kể về
chuyện 7 vị tướng tá tự vẫn. Trong chiến tranh cận đại sau thế chiến thứ II
,chưa từng có quân đội nào mà 7 vị lãnh đạo đã tuẩn tiết khi được lệnh buông
súng. Đó là những hình ảnh tích cực của những ngày cuối cùng phía Việt Nam Cộng
Hòa.Tuy nhiên điều quan trọng là ngày cuối cùng của người Mỹ cũng không thể để
cho những người như ông Ford, ông Kissinger lên tiếng giả nhân giả nghĩa. Những
chính khách đã quay lưng phản bội đồng minh, dù là phục vụ cho quyền lợi của
Hoa Kỳ thì cũng không thể táng tận lương tâm để 40 năm sau dối trá rằng muốn cứu
thật nhiều người Việt vào những ngày sau cùng.
Theo đúng các điều
kiện của chính phủ Mỹ dự trù thì chỉ có khoảng 60 đến 70 ngàn người sẽ được đem
ra khỏi Việt Nam.
Trên thực tế, giờ
chót chẳng cần giấy tờ, trong cơn hoảng loạn vào được DAO hay tòa đại sứ là đi.
Xuống các xà lan chở đạn ở bến Khánh Hội là đi. Hàng ngàn thuyền chạy loạn trên
biển Đông đã được vớt. Chuyến hải hành cuối cùng của VNCH chở trên 30 ngàn người.
Trên những con tầu cận duyên của chúng tôi cũng vớt cả trăm người. Tất cả đều
đi theo lá số tử vi, không theo danh sách của ông Ford. Đoàn tàu VNCH qua đến
Suvic Bay, chính phủ Phi luật Tân mới hôm trước còn là đồng minh thân thiết với
VNCH. Hôm sau đã không thèm nhận tỵ nạn Việt Nam, dù là tạm trú.. Sợ cộng sản
Hà nội bơi thuyền qua đánh Phi nên bắt Mỹ phải kéo cờ VNCH xuống mới chịu lãnh
món quà gồm nguyên cả một hạm đội. Tiến sĩ Kissinger là bộ trưởng ngoại giao
Hoa Kỳ nói là thương VNCH mà cũng không hề can thiệp. Vì vậy nhớ chuyện 75 nghĩ
rằng không tin cộng sản đã đành, cũng chẳng tin được Hoa Kỳ. Khổ thay, bây giờ
mình cũng đã là người Mỹ. Không lẽ lại theo gương ông Thiệu mà chửi thề
Kissinger, éo le thay, bây giờ ông lại là danh nhân của nước Hoa Kỳ chúng ta.
Quả thực trong suốt 21 năm Việt Nam Cộng Hoà vừa xây dựng vừa
chiến đấu, có khi lên khi xuống, có lúc tốt lúc xấu. Trận 68 cả nước vùng lên
triệt hạ toàn thể quân "Giải phóng miền Nam". Trận 72 đẩy lui quân
cộng sản miền Bắc trên cả 3 vùng chiến thuật. Qua đến trận 75 chỉ vì tình phụ
đồng minh bỏ chạy từ 73 nên đã tan hàng thảm bại. Tuy nhiên có làm phim về đoạn
cuối thì ít nhất cũng cần ghi lại trận Long Khánh vào những giây phút sau cùng.
Hình ảnh sáng 29 tháng tư phi cơ Hỏa Long chiến đấu đơn độc và tuyệt vọng rồi
bùng cháy trên mây trời Hóc Môn. Và để xóa bỏ toàn thể hình ảnh gẫy súng tháng
tư là những câu chuyện của hàng trăm chiến binh vô danh tuẫn tiết cùng với 7 vị
anh hùng với đầy đủ hình ảnh và nhân chứng. Phim tài liệu về những ngày cuối
cùng với nhiều thiếu xót sai lầm nên đã trở thành sự phản bội cuối cùng. Ghi
dấu 50 năm sau 75, vào năm 2025 chúng ta cần một cuốn phim khác. Đoạn mở đầu là
ngày ra đi và chấm dứt bằng ngày trở về. Quý ông bà nghĩ sao.
(Giao
Chỉ, San Jose.)
Ghi
chú : Chúng tôi sẽ gửi đến quý vị các trích đoạn cuốn
Tear before the Rain của Larry Engelmann (1990) do Nguyễn Bá Trạc dịch và Giao
Chỉ giới thiệu. Tin Biển xuất bản 1995. Tác phẩm đầy đủ và xuất sắc nhất về
ngày 30 tháng tư 1975.
giaochi12@gmail.com
NGUỒN :
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0CBsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.baocalitoday.com%2Fvn%2Ftin-tuc%2Fcong-dong%2Flast-days-in-vietnam-su-phan-boi-cuoi-cung.html&ei=taDIVJQeiYnxBa3ZgpgI&usg=AFQjCNEAUOEz4zvxgTUssrOh3X1lP2smLw&sig2=04yX_pDz9fImhGutRh5Qbw&bvm=bv.84607526,d.dGc - "Last
days in Vietnam" sự phản bội cuối cùng - Bao Cali Today
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2015 lúc 6:10am
CẢM TẠ MIỀN NAM
Bài thơ của một thi nhân Miền Bắc, ca ngợi Miền Nam (VNCH) ... xem Miền Nam là thiên Đàng.
Cảm Tạ Miền Nam
Phan Huy
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói Với Miền Nam , miền đất mới thân quen Một lời cảm ơn tha thiết chân tình Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
Miền Bắc
Tôi còn nhớ sau cái ngày "thống nhất" Tôi đã vào một xứ sở thần tiên Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Chợ Saigon (chợ Bến Thành)
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục Mở mắt to nhìn nửa nước anh em Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động Đất nước con người dân chủ tự do Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.
Tòa Đô Chánh (sau 1975 là trụ sở Ủy ban nhân dân TP)
Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu" Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản."
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng Xã hội thụt lùingười kéo thay trâu Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh Biết được nhân quyền, tự do dân chủ Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu Mà trước đây tôi có biết gì đâu Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Namđã một thời làm chiến sĩ Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ Dù không thành công cũng đã thành nhân.
Phan Huy
Saigon Xe Hơi Công Ty, Saigon 1965 Góc đường Thống Nhất - Duy Tân
(tức
Lê Duẩn - Phạm Ngọc Thạch ngày nay). Tại vị trí này hiện nay là siêu thị
Diamond Plaza
Nhà hàng Continental - đường Tự Do
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Feb/2015 lúc 7:51pm
http://vietluan.com.au/thong-tin-nguoi-vo-linh-o-thu-duc- - - ƯỜ - Ợ - Í - Ở - Ủ - ĐỨGiao Chỉ.
Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ
Mùa Xuân năm 1959 họ đạo Thủ Đức có
đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn Thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện
nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh
Thủ Đức.
Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham
dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia
đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20
tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định
từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm
1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long,
sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà
trai.
Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng
anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô
gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô
gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi
lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước
nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ
trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo
chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở
thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử
bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người
anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phụ của cô
lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn
sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc
Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai
rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia
đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở
thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung
sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ
Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.
Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm
1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn
luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh
trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ
anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại
tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại
mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh.
Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội
trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu Giang và Tiền
Giang.
Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể
sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho
lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng
nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ Ngọc
Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh
dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy
tuần giằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng
chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn
phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền
tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay
này ngon. Chợt thấy một ông sếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến
của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa
rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với
lính phòng thủ An Lộc.
Sau khi Bình Long trở thành Bình
Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mỗi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn
ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi
ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của
ông ngày
xưa.
Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã
đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa
chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ
huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ.
Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ
Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân
phục cấp bậc đầy đủ.
Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của
người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức
bi thảm.
Giây phút cuối của Chương Thiện
Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ
Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm
người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để
chết.
Bà nói: "Kể lại cho bác rõ,
những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh
Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng
cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy
ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai
cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải
đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần thơ. Chú lính nói rằng bà không
đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa
đi vừa khóc.Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi
trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự,
không vùng vẫy, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất
nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã
gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con em không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên
anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin
anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử
bắn.
Thời gian anh bị giam gia đình bên
anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về.
Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin
riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi
coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa,
nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý
không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại
rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên
cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng
gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt,
không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm
trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến
tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác
hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra
mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau
Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến
khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long
Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di
hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình.”
“Cô đi năm nào?”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75.
Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ.
Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền
nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây
giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”
Chuyện đời người vợ lính thời chinh
chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng
đọng. Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn
chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ
niệm nào vui không?”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ. “Em
thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh
Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng
em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung
đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính.”
Tôi hỏi tiếp: “Cô có đi dự tiệc
tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”
-“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương
Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em
về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên
cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không
ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại
tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm.
Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để
lên tấm bia lịch sử.”
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh
Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng
hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi: “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự
lễ gắn lon không?”
“Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi
về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của
đời nhà binh.”
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi
chơi Vũng Tàu tắm biển không?”
Bà Cẩn thật thà nói rằng: “Khi
anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn
chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ
con em mới thấy biển Vũng Tàu...”
Trong số một triệu chiến binh Việt
Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người
yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa
có dịp. Hồ Ngọc Cẩn Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy
chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ
quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn
Thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày
vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ
binh Thủ
Đức.
Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở
bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng
Chủ Nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Giao Chỉ, San Jose.
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Feb/2015 lúc 12:17am
http://sangtao.org/2015/02/27/40-nam-roi-sao/ - - 40 n - m r - i sao
(Châu Đình An)
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0CBsQtwIwAA&url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DhcXG6Dwr54I&ei=o1DxVMHjFqO-mAX78IHgAQ&usg=AFQjCNF3zMr3c6jgfhFQu4QT-1mK-ajbcg&sig2=Ve674jPStkIOZ2wqke3INw&bvm=bv.87269000,d.dGY - 40 Năm Rồi Sao (thơ: Mâu Lê - nhac: Châu Đình An) ca sĩ ...
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Mar/2015 lúc 8:48pm
NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH GIÀ
Rồi
đêm dài cũng hết, liếc thấy đã gần 11 giờ 30, tôi thu dọn lại những
việc riêng của mình để sửa soạn ra bãi đậu, đóng sổ và kiểm tiền cho
mấy người sắp hết ca về nghỉ.
Trời
khuya vắng lặng, tất cả chuyến bay đến đều đã đáp xong. Trong bãi
đậu, một hai nhóm khách nhận hành lý trễ đang rảo bước tìm về xe của
họ với hành lý kéo lê rồn rột theo sau. Áng hừng phải mất 10 phút cho
đám khách nầy lấy xe và lái ra cổng trả tiền, tôi thong thả rảo bước
vòng quanh mấy trạm xem lại cửa nẻo. Mây vần vũ, gió lạnh, thế nào đêm
nay cũng mưa to và bên trong booth, tức là cái trạm của người thâu
tiền, máy móc và các hộc tiền sẽ ướt sũng nếu cửa để hở, vì khu vực
phi trường trống trải, gió lồng lộng, chỉ cần mở hé cửa chừng một
ngón tay, nước mưa sẽ vung vãi đầy trên các máy móc tính tiền và hệ
thống đó hôm sau ắt gặp đủ thứ trở ngại.
Sau
khi tắt hết các đèn chiếu sáng lối ra, cảnh vật trở nên âm u, chỉ còn
đèn trong booth hắt xuống thành vệt dài trên nền xi măng xám xịt. Tôi
chợt giật nẩy người khi suýt đụng vào một đống đen thui đang ngồi bệt
xuống thềm, dựa lưng vào thành sắt đằng sau cái booth, thở phì phò, “
hắn” phải mệt nhọc lắm mới ngồi đại xuống thềm xi măng lạnh lẽo đang
ướt đẫm sương đêm. Một người da đen, trong chiếc áo bông bù xù,
không rõ đàn ông hay đàn bà, đội chiếc mũ vải có vành nhỏ chung quanh
như của mấy người lính biệt kích năm xưa hay đội, trời tối quá không
nhìn được rõ mặt, tôi e ngại bước lui lại, hỏi:
- Sao “you” lại ngồi ở đây? You có cần giúp gì không?
Hơi thở phì phò đáp lại:
- Tôi không tìm được xe của mình… rồi ngưng một chút như để lấy hơi thêm, hắn cáu kỉnh:
- Cái phi trường chết tiệt của mấy ông rắc rối quá, làm người ta lẫn lộn lung tung!
- Không đâu…
Tôi nói và chỉ vào hàng xe đang tiến đến đến gần cổng trả tiền, tôi bảo hắn:
- You có thấy mấy người kia không, họ tìm ra xe mình rất dễ dàng.
Hắn nói gần như lẩm bẩm trong miệng:
- Tôi không giống như họ.
Dĩ nhiên rồi, tôi thầm nghĩ, và để chấm dứt đôi co, tôi hỏi ngay:
- Xe you đậu ở đây bao lâu rồi?
- 7 ngày.
- OK, nhưng you có chắc là đậu trong bãi nầy không, phi trường còn có nhiều bãi đậu khác nhau nữa đó.
Hắn im lặng, tỏ vẻ phân vân, tôi hỏi tiếp:
- Vé gởi xe của you màu gì?
- Chẳng biết nữa, nó ở trong xe. Cái xe thì màu xanh, dark blue, Chevy 2000.
Sợ hắn nổi giận tôi không dám nói là ở trong nầy, dark blue.
Chevy 2000 có cả trăm chiếc như thế.
- Thôi cho tôi bảng số xe, tôi sẽ tìm ra nó nằm ở đâu rồi chỉ đường cho you đến đó, OK?
- Bảng số xe ư?
- Vâng, chúng tôi kiểm kê xe hằng đêm, bằng bảng số. You có vẻ không nhớ số xe mình hả?
- No way.
Những ngày đầu mới vào làm ở đây, tôi rất ghét những người chỉ có
bảng số xe của mình mà cũng không nhớ được, nhưng sau một thời gian,
tôi mới hiểu ra là họ có thể có nhiều xe, và thay đổi xe luôn chứ
không phải chỉ đi có một chiếc, và cũng không phải khi nào xe chạy hết
nổi mới đổi chiếc khác như mình nên tôi mới hết thấy bực mình về
chuyện đó, còn giờ đây, một người mà sức khỏe tàn tệ như thế nầy thì
việc không nhớ được số xe mình cũng là điều dễ hiểu, không đáng
phải thắc mắc lắm.
Nhìn đoàn xe ra cổng đã gần hết, tôi sắp phải làm việc nên bảo người da đen:
-
Gọi phone về nhà you xem có ai nhớ được số xe không rồi cho tôi hay,
tôi phải đóng sổ cho người cashier nầy ra về đã rồi quay lại với
you sau nhé.
Hắn nhìn tôi lo lắng:
- Còn ai ở nhà nữa đâu, chỉ có vợ tôi mà cũng đang ở đây với tôi.
- Thế thì tôi chịu thua luôn, làm sao giúp you được.
Rồi nhìn hắn ái ngại, tôi nói thêm cầu may:
-
Trước khi đi, you ráng tìm xem có cái thứ giấy gì có thể có số xe ở
trong đó không, giấy đăng bộ xe của DMV, giấy mua bảo hiểm xe… cố
gắng lên, đó là cách sau cùng để có thể giúp ông được đấy – bây giờ
thì tôi biết hắn là đàn ông rồi.
Hắn lồm cồm đứng dậy, một người đàn ông đen, mặt mày thô kệch, râu
bạc lún phún đầy 2 bên má, chắc cũng phải 6, 70 tuổi hoặc hơn nữa, bước
chân nặng nề đến bên quầng sáng của ánh đèn, khó khăn lắm mới móc ra
được cái ví dày cộm, rồi lần lượt lôi ra các thứ giấy tờ. Tôi vừa làm
việc mình vừa liếc nhìn giùm cho hắn, thấy cái giấy in chữ xanh quen
thuộc của DMV, tôi thở phào: Nó kìa. Nhưng không phải, đó chỉ là
cái giấy chứng nhận người đàn ông là handicap thôi, một người thương
tật, thảo nào đi đứng khập khiểng, chậm chạp. Hình như một bàn
tay cũng không xử dụng được, chỉ để chận cái ví cho tay kia lục lọi
giấy tờ mà thôi. Tôi ái ngại nói với bà cashier người Mễ cũng đang
theo dõi câu chuyện:
- Nầy Rosa, thôi bà đếm tiền đi nhé, tôi phải giúp hắn một tay đây.
-
OK, dĩ nhiên, trông “him” cũng đáng thương quá, nhưng bà níu tay
tôi nói nhỏ: mà ông coi chừng trễ giờ của tôi nhé, gần 12 giờ rồi
đấy.
- Không sao đâu Rosa, tôi quay lại với bà ngay.
Trong cái mớ giấy tờ hỗn độn của gã đàn ông da đen nầy, tôi
thoáng thấy được một loại giấy làm tôi rất xúc động, mà nếu không nhìn
thấy nó, chưa chắc tôi đã hết sức giúp đỡ ông lúc ấy, loại giấy đó
là cái thẻ DAV Goldcard Membership. DAV là Disabled American Veterans,
Cựu chiến binh tàn phế Mỹ.
Không
biết ông ta có phải là một cựu chiến binh hay không, nhưng đã đóng góp
giúp đỡ cho hội CCB nầy, đóng góp khá lâu và có thể là khá nhiều nên
mới có thẻ Goldcard như thế, chia sẻ tiền trợ cấp tàn phế của mình
cho những người tàn phế khác, thật cảm động, ông già da đen nầy cao
hơn những gì tôi đã đánh giá về ông, “đừng đánh giá một con người qua bề
ngoài của họ”, bài học nầy đã được dạy tự bao giờ mà cứ vấp phải
hoài. Tôi thấy ngượng, không dám nhìn vào mặt ông trong lúc ông cứ
nhìn tôi chờ đợi. Tôi nhẹ nhàng nói:
-Giữ chặt những thứ nầy ông nhé, không thì gió thổi bay mất.
Sau khi bà Rosa xong việc và rời khỏi booth, thấy ông già có vẻ tin cậy mình và thân thiện hơn, tôi hỏi:
- Vợ ông đang đợi ở đâu?
- Trước cửa thang máy tầng 3, tôi cứ ngỡ là mình đậu xe ở đó.
- Được rồi, ông có nghĩ là còn loại giấy tờ nào liên quan đếnchiếc xe nữa không?
Ông già lục lọi thêm nữa rồi đưa ra một cái giấy…chỉ có số VIN.
Thấy ông tìm giấy tờ một cách quá khó khăn và chậm chạp, tôi hỏi:
- Tôi có thể tìm giúp ông được không?
- Why not?... please!.
Cầm
lấy cái ví và mớ giấy tờ hỗn độn vào trong cho khỏi bị gió thổi bay,
tôi cẩn thận xếp cất lại những giấy tờ không cần thiết, và do đó ngỡ
ngàng thấy được thêm một phần trái tim bao la nữa của ông lão tàn tật,
đó là một phong bì có in sẵn địa chỉ của PVA, và xuyên qua ánh đèn sáng
trắng, tôi thấy đã có một tấm check nằm sẵn ở bên trong. Tấm check ký
bao nhiêu tiền thì tôi không biết, nhưng PVA và cái logo có hình người
ngồi xe lăn thì với tôi không lạ gì, đó là Paralyzed Veterans of
America, Cựu chiến binh bại liệt Hoa Kỳ. Hoá ra ông già đen đúa xấu xí
nầy đây là ân nhân của cả 2 hội Cựu chiến binh Mỹ. Tôi không biết rõ lắm
những hoạt động của 2 hội nầy vì không bao giờ đọc hết những giấy tờ
của họ gởi, nhưng tôi biết họ là những cựu chiến binh, phục vụ giúp đỡ
lại cho những cựu chiến binh khác yếu đuối, tàn phế hơn mình, hay nói
theo cách những người Việt mình hay nói, tàn nhưng không phế.
Chúng
tôi đứng nhìn nhau, đầy thiện cảm. Tôi nhìn ông, và không giấu diếm sự
ngưỡng mộ nhưng không dám nói ra vì mình coi lén giấy tờ riêng tư của
người khác, còn ông thì nhìn tôi tin cậy, nghĩ là chắc tôi sẽ tìm ra
được chiếc xe của ông, tuy vậy, cuối cùng vẫn không có một chi tiết gì
hơn về chiếc xe của ông cả, tôi quyết định phải chở ông đi vòng quanh
các bãi đậu để cho ông nhìn từng chiếc một, và như vậy tôi có thể về nhà
trễ hơn thường ngày chừng nửa giờ. Tôi bảo ông gọi cho bà vợ, dặn cứ
chờ tại chỗ và hỏi bả xem có nhớ được gì thêm về việc đậu xe hay không
rồi cho biết khi tôi trở lại, vì tôi phải vào văn phòng nộp hết báo cáo
của cashier mới chấm dứt nhiệm vụ của mình hôm nay.
Hơn 20 phút
sau, quay lại với xe riêng của mình thì bà vợ của ông cũng đã đến đó,
với mớ hành lý hỗn độn. Bà cũng là một người da đen, nhỏ con, nói năng
nhỏ nhẹ dịu dàng thật khác hẳn với anh chồng . Họ tự giới thiệu: Paul và
Helena, trong lúc chúng tôi đã yên vị trên xe. - Gọi tôi là Tony ông bà
nhé. - Okedo. Paul bật ra tiếng OK mà những người lính hay dùng làm tôi
nghe mà xúc động, tưởng như nghe bạn mình đang nói trên tần số vô tuyến
như những ngày nào. Họ có vẻ rất yên tâm, thoải mái hẳn ra, còn tôi rất
vui được có dịp giúp đỡ nhưng người có tấm lòng tốt như họ. Paul không
phải là người vui chuyện kể lể ba hoa như những người da đen khác, ông
nói ít giọng trầm trầm có lẽ tại tuổi già, tôi khơi chuyện của mình
trước mà cũng có ý ngầm tìm hiểu thêm về Paul:
-
Ở tuổi của ông chắc có nghe nói đến chiến tranh Việt Nam, quê hương của
tôi đó Paul, tôi rời quê sang đây đã 15 năm . Cả 2 người im lặng hồi
lâu, rồi Paul cất giọng khàn khàn.
- Tôi đã ở đó… đơn vị tôi đóng đâu đó trên vùng cao nguyên, tên là An Khê.
- Thật thế ư, còn tôi thì ở Pleiku, không xa nơi đó là bao nhiêu, chắc ông cũng thường được yểm trợ từ phi trường Pleiku chứ.
-
Vâng, dĩ nhiên…hầu như mỗi ngày, và rồi một lần… chuyện chết tiệt ấy
xảy ra cho tôi, họ mang tôi về Mỹ, cưa cụt chân, và để tôi rời quân đội
từ đó, năm 1967. Sợ nhắc đến chuyện cũ làm ông không vui, tôi hỏi qua
hướng khác:
- Năm 67, chắc ông còn trẻ lắm, lúc ấy đã có bồ chưa?
-
Vào ngày giải ngũ, tôi vừa đúng 20. Helena còn ở lại Việt Nam, nàng là
một y tá, về Mỹ năm sau rồi lại phải sang Âu châu. Tôi trở lại trường
Đại học, nhưng không học hành được gì, chỉ tối ngày biểu tình phản
chiến, rồi nghiện ngập, chán chường, suýt tự tử. May sao đó là lúc
Helena trở về… Paul không biết diễn tả gì hơn nữa, chỉ chậm rãi gật gù,
nói thêm nhè nhẹ:
- Nàng là một thiên thần, đối với tôi.
-
Dĩ nhiên rồi, tôi thấy bà rất dịu dàng đối với ông… và muốn nói thêm
với Paul: Ông cũng là một thiên thần, tuy rằng đã gãy cánh, nhưng vẫn cứ
là một thiên thần đối với những người bất hạnh khác. Nhưng tôi đã yên
lặng. Paul chắc là loại người không thích những lời khen. Chạy vòng chầm
chậm qua các dãy xe, chúng tôi lại nói chuyện, Paul và Helena có vẻ
thân mật, tin cậy hơn, họ kể thêm về cuộc sống gia đình, kể về tiểu bang
Alabama, nơi ông và Helena lớn lên. Không văn hoa màu mè, Paul thành
thực kể lại nỗi đau của những người lính trở về, nhất là những cựu chiến
binh da đen như ông, những người nổi loạn bị cảnh sát đánh đập, dân
tình cũng hất hủi, đến nỗi ông phải bỏ xe lăn tập đi nạng, rồi phải bỏ
nạng đi bằng chân giả, cắn răng nuốt xuống nỗi đau vừa tâm hồn vừa thể
xác để đi học, cố kiếm lấy mảnh bằng chỉ để làm giáo viên thôi, vì một
bàn tay ông cứ tê liệt dần và rồi thì không còn cử động mấy ngón tay
được nữa…
Tôi cố gắng trở lại cái điều mà tôi muốn hỏi:
- Là một cựu chiến binh, hẳn ông hiểu họ nhiều lắm nhỉ?
-
Đương nhiên rồi, tôi hiểu họ lắm ông Tony ạ, vì tôi đã từng là họ. Làm
xong bổn phận của một người lính, cho dù có là một anh hùng đi chăng
nữa, cụt chân trở về, cởi trả quân phục, họ như những con chim bị vặt
trụi hết lông, không có ngay đến lớp áo để tự vệ, mà cũng không thể giấu
mình hoài trong tổ được, phải chui ra ngoài để kiếm ăn nữa chứ…
…Giọng
ông vẫn trầm trầm như thương cảm cho những người cựu chiến binh nào đó,
không hề có ẩn giấu một chút gì cay đắng cho chính số phận của mình…
-
Tôi luôn luôn cố gắng làm một cái gì cho họ, nhưng có làm được gì nhiều
đâu, lâu lâu mới giúp được một món quà nhỏ trong cái trợ cấp của mình,
thế thôi.
-
Thế là đã nhiều lắm đối với ông rồi, Paul ạ. Càng thiếu thốn sự chia sẻ
của ông mới càng cao quí. Thế bây giờ ông có làm một công việc gì thêm
nữa không? Tôi nói nửa đùa nửa thật:
- Chỗ chúng tôi đang còn cần nhiều cashier lắm đó. Paul bình thản trả lời:
-
Làm gì còn thì giờ nữa ông, mẹ của Helena cảm ơn Chúa bà vẫn còn sống,
Helena thì dạy học cho lũ trẻ và làm việc ở nhà thờ, tôi phải ở nhà chăm
sóc bà cụ một buổi, còn buổi chiều vào Bệnh viện quân đội giúp việc
thiện nguyện. Chúng tôi sống tạm đủ, có cần tiền vào việc gì nữa đâu…
Tìm
được chiếc xe của Paul không khó lắm, tôi phụ giúp 2 ông bà chuyển đồ
đạc sang xe họ, khi tôi vừa đóng nắp thùng xe thì 2 người đã đứng sát
sau lưng. Trong tay cầm sẵn mấy tờ giấy bạc, bà Helena trang trọng nói:
-
Cảm ơn Tony, nếu không có ông giúp thì đêm nay chúng tôi không biết sẽ
ra sao trong cái phi trường rộng lớn nầy, chúng tôi hết sức biết ơn sự
giúp đỡ của ông mặc dù ông chưa bao giờ biết chúng tôi, Chúa sẽ phù hộ
cho ông.
Hít một hơi dài trấn tĩnh, tôi giữ chặt trong tay mình những bàn tay đen đúa của họ, nói chậm rãi:
-
Hai người đừng bận tâm, tôi chỉ làm công việc thường ngày của mình
thôi. Vâng, tôi chưa hề gặp ông bà lần nào, nhưng ông Paul đây cũng đâu
có biết một người Việt Nam nào mà ông vẫn sang chiến đấu cho quê hương
chúng tôi, đổ máu trên đất nước chúng tôi, và cuối cùng đã bỏ lại những
phần thân thể trên đất nước không phải là của ông mà là của chúng tôi,
vì vậy tôi mới là người phải nói lên những lời cảm tạ và biết ơn quí bạn
về việc đó…
Paul hẳn là không thích nghe người khác ca tụng mình, ông lắp bắp:
- Thôi…thôi Tony, đó chỉ là làm nhiệm vụ thôi, đã ở trong quân đội thì ông cũng biết rồi.
-
Vâng, cứ cho là như vậy, còn bây giờ thì sao, khi ông vẫn tiếp tục giúp
đỡ đồng đội, những cựu chiến binh thương tật khác. Còn có nhiều người
như mình nữa, ông Paul ạ, nghĩa là những cựu chiến binh như chúng ta,
nhưng họ có làm như ông đâu. Khi nhìn thấy tấm thẻ DAV và PVA của ông,
tôi kính phục tấm lòng của ông lắm, mặc cho chuyện gì đã xảy ra, ông vẫn
không quên các quân nhân, các đồng đội, ghét chiến tranh nhưng yêu mến
chiến binh ông nhỉ. Ông bà rất xứng đáng được Chúa phù hộ và bảo vệ. Số
tiền nầy nếu ông bà muốn cho tôi thì cho phép tôi đóng góp vào phần giúp
đỡ của ông bà cho họ nhé. Thôi đã quá khuya rồi, xin tạm biệt, chúc hai
ông bà lên đường bình an.
Cả
hai người đều xúc động, họ cầm tay tôi khàn khàn nói tiếng cảm ơn,
trong cái ôm vai của những người không quen biết nhưng đã hiểu nhau, tôi
thấy mắt Paul đẫm ướt, nhưng chỉ một bên thôi, còn con mắt bên kia vẫn
trong sáng, vô hồn. Ô, hoá ra những gì mà Paul bỏ lại trên quê hương tôi
năm nào, không phải chỉ có một bàn tay, một bàn chân mà còn có thêm một
con mắt nữa.
Ông Paul ơi, cơ thể ông thương tổn như vậy mà tấm lòng thì bao la vô cùng.
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 09/Apr/2015 lúc 12:01pm
Ai giải phóng ai?
By Datviet.com on April 8, 2015
Ngày 30-04-1975 được Cộng Sản Bắc Việt rêu rao là ngày họ “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi sự “kìm kẹp” của Mỹ-Ngụy. Tới nay đã 40 năm trôi qua, ta thử nhìn lại xem ngày này: Ai giải phóng ai?
Để có câu trả lời khách quan cho câu hỏi này, có lẽ trước hết ta nên đi tìm định nghĩa của động từ “giải phóng”, sau đó điểm qua cảm nghĩ và nhận thức về cuộc sống vật chất và tinh thần của dân chúng hai miền Nam – Bắc vào thập niên 1970 của một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, cán binh v.v… là những người đã được đào tạo và hun đúc dưới mái trường XHCN khi họ có dịp vào miền Nam thăm viếng, công tác, hay sinh sống sau ngày 30-04-1975.
Qua một vài cuốn tự điển Việt-Việt, động từ “giải phóng” có thể được định nghĩa như sau: Bằng cách này hay cách khác làm cho hay giúp cho một số người nào đó thoát ra khỏi một tình trạng xấu xa tồi tệ. Nói khác đi, nếu đưa một đối tượng từ một tình trạng tốt đẹp sang một tình trạng tồi tệ, thì không thể gọi là “giải phóng” được.
Qua một số bài trên mạng, ta thấy một số tác giả đã bày tỏ quan điểm của họ về đề tài này:
Thư của một cựu “giải phóng quân”
Trong phần đầu thư, anh “cựu giải phóng quân” đã cho biết là anh ta đang tự giác “Ngụy Quân Hóa và Mỹ Cút Hóa” với lý do như sau:
“Ngụy-quân hóa vì cái gì của Ngụy tôi cũng thích, như nhạc Ngụy, sách Ngụy, nói chung là thượng vàng hạ cám gì của Ngụy đều… hiện đại. Mỹ-cút hóa là con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp ông Liên Xô để úp mặt vào đồng Đô “đế quốc” Mỹ…
“Mỹ-cút hóa vì con gái rượu của Thủ tướng Dũng thiếu gì con trai của các nhà lão thành Cách Mạng gạ gẫm cưa kéo mà cứ một hai “em chả, em chả”, cứ nằng nặc đòi lấy bằng được thằng con Ngụy đã cút theo Mỹ ngày Mỹ cút; Mỹ-cút hóa đến nỗi mấy đứa cháu tôi bây giờ mừng sinh nhật cũng hát bài Hép-Pi-Bớt-Đê (Happy Birth Day), hễ mở miệng là Ô Kê Ô Gà! Ra phố thì cứ đòi uống Cô Ca, ăn thì Mạc-Đá-Nồ (McDonald), Bơ-Gơ-Kinh (Burger King), Ken-Tơ-Ky-Phờ-Rai-Trích-Cần (Kentucky Fried Chicken)… con quan CS chỉ toàn muốn du học Mỹ Tư Bản….”
Sau đó anh CGPQ còn tỏ ra khâm phục và ca tụng quân dân miền Nam:
“Chả dấu gì Anh, sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh.
“…. nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng…”
Phần cuối thư anh kết luận:
“….nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.”
Nhà báo Huy Đức, tác giả “Bên Thắng Cuộc”:
Trong phần “Mấy lời của Tác Giả” cuốn “Bên Thắng Cuộc” HĐ cho biết sau ngày 30-04-1975 qua hình ảnh xe đò Phi Long từ miền Nam chạy ra Bắc đã khiến HĐ nhận ra được rằng dường như ở miền Nam có mức sống văn minh, phong phú và đa dạng:
“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.”
“Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giời văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dầy, Thép Đã Tôi Thế Đấy. Những chiếc máy Akai, radio c***ette, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”
Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:
Trong phần đầu bài “Cảm Tạ Miền Nam, PH viết:
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục Mở mắt to nhìn nửa nước anh em Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động Đất nước con người dân chủ tự do Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.” PH cũng đã mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản vô cùng tồi tệ:
“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu” Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”
Trong phần cuối bài thơ, PH kết luận, ngày 30-04-1975 là ngày miền Nam đã giúp cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản:
“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh Biết được nhân quyền, tự do dân chủ Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu Mà trước đây tôi có biết gì đâu Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.” Trong một bài thơ khác “Tâm sự một đảng viên” PH cho biết sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì quá tin vào lời tuyên truyền của họ:
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”
“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng.” Khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền của bác và đảng:
“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản.” Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của bác Hồ và đảng Cộng, PH cảm thấy hổ thẹn với lương tâm và đã khóc:
“Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.” Tiến sĩ Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:
Vào ngày 30-04-1975, ông Dương còn là sinh viên của trường đại học sư phạm Vinh và sau đó ông được cho vào miền Nam với nhiệm vụ:
“…mang ‘ánh sáng’ văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tồi lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì?”
Khi tới Thị trấn Cao Lãnh để nhận nhiệm sở, ông được cho ở tại khách sạn Thiên Lợi và đây là cảm nhận của ông khi sống trong khách sạn này:
“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh…”
“Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã…”
Từ nhận thức về mức sống cách biệt giửa hai miền Nam và Bắc, cùng những sự việc đã liên tiếp xẩy ra ở miền Nam sau ngày 30-04-1975, đã buộc ông Dương suy nghĩ:
“Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…”
Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết)
Trong bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” ông Châu Hiển Lý đã nhận định vế “chiến thắng 30 tháng 04” của đảng cộng sản Việt Nam như sau:
“Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”
Phần cuối bài ông Lý viết:
“Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Sau cùng ông kết luận:
“Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.”
Nhà báo Trần Quang Thành
Trong “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu.” TQT, cựu phóng viên đài phát thanh Tiếng Nói và Truyền Hình cộng sản Việt Nam:
“Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyền truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.»
Nhà văn Dương Thu Hương
Mới đây phóng viên Tường An, đài Á Châu Tự Do, đã có trao đổi với nhà văn Dương Thu Hương về hồi ức của bà về ngày 30-04-1975:
PVTA: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?
Bà DTH: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn. Họ (phía bên thua cuộc) có thể văn minh hơn về văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.
Tóm lại qua cảm nghĩ và nhận thức của các nhân vật trên đây, người ta có thể có được những kết luận sau đây:
- Nhân dân miền Nam có tự do, dân chủ và no ấm.
- Nhân dân miền Bắc nghèo khó và phải kéo cày thay trâu và nhân phẩm ngang hàng với bèo dâu.
- Nhờ giải phóng miền Nam, nhân dân miền Bắc thấy được ánh sáng văn minh và trở về quốc gia dân tộc.
- Nhờ “giải phóng miền Nam” mà người dân miền Bắc biết về thế giới văn minh và hội nhập vào thế giới này.
- Đời sống của người dân miền Bắc vào thập niên 1970 thê thảm và lạc hậu đến nỗi người dân phải tranh giành nhau từng cục “phân bắc” để nộp cho hợp tác xã.
- Xã hội chủ nghĩa là một xã hội tồi tệ và được phơi bày rõ rệt qua sự nghèo khổ của nhân dân miền Bắc và là một thời đen tối nhất trong lịch xử Việt Nam.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chỉ là cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam làm tay sai cho Nga Sô và Trung Quốc.
- Chế độ miền Bắc là một chế độ man rợ.
- Chế độ miền Nam là một chế độ văn minh.
Tóm lại, qua những kết luận trên đây thiết tưởng cũng tạm đủ cho người ta thấy rõ là, ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc ra khỏi sự kìm kẹp, giam hãm và đô hộ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời cũng đã giúp nhân dân miền Bắc nhận ra được rằng, chế độ cộng sản là chế độ man rợ, chẳng những đã chọc thủng con ngươi của họ, mà còn đâm thủng luôn cả màng nhĩ của họ nữa, khiến họ không nghe được và không thấy được những xã hội văn minh và tiến bộ ở thế giới bên ngoài. Do đó, họ đang bị đảng Cộng Sản Việt Nam giam hãm, kìm kẹp và đọa đày trong một “nhà tù khổng lồ” song vẫn cứ tưởng là đang sống hạnh phúc tuyệt vời trong “thiên đường cộng sản văn minh nhất hành tinh”.
Huy Vũ / Nguon: Theo RFA Tieng Viet
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Apr/2015 lúc 9:12pm
Cha tôi và những ngày tháng ấy…
April 10, 201 Hồng Thúy
Sau cuộc di cư vĩ đại vào Nam năm 1954, bỏ của chạy lấy người tìm lấy chữ tự
do, nghe kể lại, cha tôi đã theo từng bước chân ông bà nội tôi trải qua muôn
vàn khó khăn vất vả trong hoàn cảnh mới để xây dựng lại cơ ngơi từ đầu.
Ông bà nội tôi, sau đó, vốn tuổi tác
và sức lực chẳng còn trẻ, lại thêm bôn ba mưu sinh cộng thêm mối muộn phiền
tinh thần, nên đã lần lượt nối gót quy tiên. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến
tâm hồn rất non trẻ của cha tôi, khiến ông mang nặng mối căm giận chủ nghĩa
Cộng Sản sâu sắc, ông cho rằng chính sự hà khắc và độc tài tàn bạo của chế độ
đưa đến sự phân rẽ chia đôi đất nước, gây ra bao cuộc tang thương, chia lìa,
mất mát để cha tôi chẳng những xa rời hẳn nơi chôn nhau cắt rốn mà còn đôi ngã
âm dương với cả hai thân sinh yêu quý nhất đời mình.
Tưởng là ở miền đất mới, sau khi
quyết tâm vượt khó, tạo dựng được sự nghiệp tươi đẹp để gia đình riêng của ông
hưởng được cuộc sống ấm êm hạnh phúc với đồng lương hậu hĩnh và bổng lộc là căn
nhà biệt lập 3 phòng ngủ ngay trung tâm quận Nhất gần chợ Bến Thành, nhưng có
ai ngờ, thời cuộc bể dâu, thiên đường ăm ắp ước mơ chắp cánh chưa bay cao thì
lần nữa địa ngục trần gian một ngày như cơn giông ào ào kéo đến làm cho tơi bời
cảnh vật.
Tuổi thơ ly loạn của tôi, đứa con
nít ngây thơ, mở ra còn nguyên dấu ấn hãi hùng bởi cơn pháo kích của Mậu Thân
68, rồi liền với thảm sát kinh hoàng hè 72, khiến cho chúng tôi những người dân
thành thị từ đó hết hẳn khung cảnh đón tết náo nức với tiếng pháo truyền thống
bao đời.
Những năm tiến gần đến 1975, qua
radio, gia đình chúng tôi như ngồi trên đống lửa khi chiến sự bộc phát nhanh
như cơn lốc diễn ra ở các tỉnh, lan đến ven thành. Đầu tháng 4 năm 75, nỗi sợ
trung tâm thành phố bị bất ngờ pháo kích, cha tôi đã dựng hầm nổi dã chiến ngay
trong phòng ngủ chính giữa nhà bằng những bao cát dân sự, nắp hầm là nhiều tấm
phản gỗ dầy, cứng nặng. Tôi nhớ lại mới thật hãi hùng làm sao! vì nếu có chuyện
gì, chúng tôi không chết vì bom đạn pháo thì cũng bị thương nặng do sập hầm đổ
gỗ.
Gia đình chúng tôi cũng như bao dân
thành phố còn trong thời loạn, tâm trạng hỗn mang cuống cuồng với mọi cách
riêng tự bảo vệ tài sản. Vàng bạc là đơn vị tiền tệ chính dành cho hữu sự, nên
cha tôi cùng với mẹ tận dụng tất cả những quần áo rách, mảnh vụn, rẻo vải dư từ
quần áo mà mẹ cắt may cho chúng tôi mặc trước đó, làm cho bẩn đi rồi dùng chúng
quấn bọc lên những chiếc vòng, nhẫn bạc, dây chuyền quý báu và nhét rải rác bừa
bộn chung trong đám đồ lạc xoong, phế thải như một cách ngụy trang để không gây
chú ý, hành động này có vẻ tức cười khờ khạo, nhưng lại rất an toàn, vì sau này
khu vườn nhà chúng tôi bị xới tung vì nghi ngờ có chôn giấu quý kim.
Tôi nhớ mãi sáng 30 tháng 4 ấy,
chúng tôi cùng với toàn thể dân Miền Nam chịu cùng chung số phận điêu đứng đau
thương như đã định cuộc. Cha tôi ôm chúng tôi với đôi mắt thức trắng thâm quầng
tuyệt vọng trong khi ngoài đường âm thanh của xe tải nện thình thịch, hỗn loạn
dân tình trốn né, pha trộn với sự khích động của tiếng loa phóng thanh chát
chúa, la ó của những kẻ lái gió trở cờ từ đâu khua động cả góc trời, chúng tôi
hiểu mình đã bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại!
Con đường trước mặt gia đình chúng
tôi, từ đó, mở ra quãng đời đen tối nhất. Nỗi sợ hãi của cha tôi năm nào, viễn
cảnh sống dưới chế độ cộng sản, đã không chỉ hiện tiền, mà chúng tôi còn ở và
sinh hoạt chung với Việt cộng ngay cùng trong một căn nhà.
Ngay sau khi thành phố bị tiếp quản,
cha tôi lập tức bị đình chỉ chức vụ, căn nhà chúng tôi đang sinh hoạt bỗng bị
chiếm lĩnh ngang xương. Phần diện tích chính và to nhất của căn nhà phải nhường
cho một gia đình cán bộ cao cấp tập kết từ miền Bắc vào, và đương nhiên đẩy gia
đình chúng tôi chen chúc sống trong diện tích rất nhỏ, thiếu mọi tiện nghi, vốn
là phòng khách gia đình của chúng tôi lúc trước.
Thôi thì bao cảnh trái tai gai mắt,
xã hội thu nhỏ vào cả khu vườn nhà xinh đẹp ngày nào nay bỗng tiêu điều xơ xác
với đàn gà vịt ngỗng thả rông, phá phách tanh bành, tiếng kêu đinh tai nhức óc
của đám heo nuôi khiếp vía chạy cuống cuồng mong thoát những bàn tay đồ tể bán
buôn xẻ thịt ngay trên sân gạch lộ thiên diễn ra hằng ngày.
Sống trong miệng cọp, nỗi nguy rình
rập từng phút, cũng phải mắt nhắm tai ngơ với những hành động đê tiện chúi mũi
vào mỗi sinh hoạt của chúng tôi, để rồi những tờ kiểm điểm cứ xoành xoạch thực
hiện như cơm bữa đối với những hành động mà chúng cho là sai trái với chính
sách, chế độ, v.v… Dù phẫn nộ, cha tôi cũng đành cắn răng và thầm an ủi là còn
chỗ dung thân hơn là bị tống ra sống cầu bơ cầu bất ngoài đường phố như nhiều
gia đình đã từng bị, phải đi đến nạn diệt thân.
Qua cánh cửa phòng khách đóng kín,
lằn ranh được, thua, hai thế giới đối đầu diễn ra ở đó, dạy cho chúng tôi hóa
thân vào những nhân vật của sân khấu đời tìm sự sống từ cái chết.
Con giun xéo mãi cũng oằn. Phong
trào vượt biển lúc này diễn ra tuy kín đáo nhưng rất sôi nổi. Cha tôi vừa vất
vả kiếm sống nuôi vợ con vừa để mắt bắt mối liên lạc khắp nơi tìm chủ tầu, chọn
bãi, chuẩn bị chờ cho cuộc vượt biển một mất một còn.
Cuộc trốn chạy ai ngờ trùng hợp ngày
đau cắt ruột gan, đám tang bà ngoại tôi, do thương nhớ người cậu, một quân
nhân, tưởng rằng học tập 10 ngày hóa ra vô hạn trong trại tù cải tạo, khiến bà
sinh bệnh uất ức mà chết. Không còn cách chọn lựa để được báo hiếu đưa bà đến
tận nơi an nghỉ cuối cùng, chúng tôi đành ngậm ngùi trấn an rằng vong linh bà
đã phù hộ cho cơ hội để gia đình con cháu chúng tôi danh chính ngôn thuận đi xa
vắng nhà.
Nhưng Trời chưa chiều lòng người,
trong một ngày, chúng tôi chưa kịp ra tầu lớn thì đã bị lộ do công an bí mật
cài người trấn lột hết vàng bạc, làm náo loạn cả một nhóm khiến trẻ con sợ hãi
khóc ré giữa đêm, đưa đến việc tóm trọn cả tầu.
Tôi vẫn tin những gì huyền bí linh
thiêng của Ơn Trên, của tổ tiên ông bà giúp đỡ, nếu không thì sao có phép mầu
nhiệm phò trợ chúng tôi, để cả gia đình có thể thoát vòng tù tội vượt biên như
một giấc mơ. Việc gì đã xui khiến làm sao bữa ấy có đến 4 tầu bị bắt, nơi chứa
người vượt biên quá tải, bọn công an như bị ai che mắt, chỉ hỏi sơ sài lấy lệ,
tạm giữ lại đám thanh niên trai tráng, còn thì thả hết phụ nữ con nít người
già, trong đó có cha tôi, chỉ độ trung niên nhưng do nhân dáng khắc khổ gầy gò
làm ông già hơn cả chục tuổi đã cứu được ông khỏi vòng nạn tai.
Vàng bạc đã mất hết, chúng tôi trắng
tay, sinh hoạt tệ hại hơn. Ăn mãi bo bo khó tiêu, mì sợi mốc thếch, gạo thóc
sạn sỏi làm cả nhà điêu đứng. Tội nhất là đứa em trai út của tôi do ăn uống
thiếu chất dài ngày, đã sinh bệnh, lờ đờ bần thần ngồi mót chấm mút những hạt
vụn vôi móc từ trong mảng tường bể. Đau đớn quá, cha tôi quyết định liều một
phen, ông đem rao bán chiếc vòng cổ hạt trai giả, chiếc vòng tôi tình cờ giấu
kín góc nhà, món đồ kỷ niệm sót lại duy nhất mà bà ngoại đã cho tôi như quà
thưởng đậu trung học. Đồ giả ai mà ngó, nhất là thời buổi khó khăn, ăn còn chưa
đủ no, vậy mà tài tình thay, nó được bán trong trường hợp hi hữu.
Sợ bị lấy mất khi trưng bày dù là đồ
giả, cha tôi nghĩ ra cách chào hàng độc nhất vô nhị. Ông lấy cọ để họa lại
chiếc vòng đeo cổ ấy trên giấy bìa trắng cứng. Không biết cha tôi vẽ giỏi hay
là tình yêu đối với đứa con trai bị bệnh quá lớn trở thành động lực vượt hơn
bình thường để cây cọ trên tay cha thành đũa thần xuất sắc với nét vẽ linh hoạt
để rồi trước mắt những đứa con cùng khổ đang ngóng chờ sự cứu đói, sợi dây
chuyền hạt trai nổi bật hoàn hảo y như vật thật bên ngoài, đưa đến thành công
vượt dự đoán, người khách Liên Xô vô tình đi ngang qua cửa tiệm ký gởi bị hấp
lực bất ngờ từ hình vẽ, đã mua ngay nó với giá khá cao.
Một tháng không thể sống với tiền bán
dây đeo cổ dù gia đình chúng tôi ráng chắt chiu dè xẻn. Mẹ tôi lúc này sức khỏe
cũng không khá nên chẳng giúp gì được. Cha tôi đành chỉ tự cách xoay ra làm đủ
nghề linh tinh, không đâu vào đâu. Một ngày tôi nhớ nhất, cha tôi bị xỉu ngoài
đường, nhờ người ta đưa về, sau này chúng tôi được mẹ cho biết riêng là do cha
bán máu yếu sức ngã nhào bất tỉnh.
Thời gian cùng cực này, tôi vẫn
trông ngóng không biết họ hàng bà con của tôi hiện ở đâu? Thầm trách sao họ nỡ
hững hờ dửng dưng với gia đình tôi như thế, tôi không dám hỏi tin tức về họ sợ
bận lòng cha, mặc dầu tôi cũng biết được tình hình chung của mọi nhà trong thời
cuộc biến động sau việc đổi tiền, đánh tư sản, đi vùng kinh tế mới v.v… khiến
tất cả trở thành tứ tán tay không, nhưng có lẽ vì khổ quá, cảm giác lẻ loi
không có ai chia sẻ, giúp đỡ và thông cảm, nhất thời tôi không chấp nhận được
hiện thực nên khăng khăng lòng giận hờn tủi thân. Nhưng ai có ngờ…
Một gia đình người cô của tôi cố bám
lấy thành phố không còn cách sinh sống, đã được cha tôi thương xót giúp đỡ chút
vàng để tìm đường sống, trong khi cha tôi tưởng gia đình riêng chúng tôi sẽ
vượt thoát được, lại may mắn cơ duyên đến được bến bờ tự do và định cư yên ổn ở
trời xa. Cô chú này đã liên lạc với các cô chú khác đã tự cách thoát thân bí
mật tự lúc nào, cùng nhau thừa cơ hội nhà nước cho phép bà con, thân nhân ngoại
quốc gửi quà tiếp tế người nhà, nên hùn hạp mua đồ gởi về gia đình chúng tôi.
Món quà từ bên trời xa đổ về như giọt mưa thời hạn hán đã kịp lúc cứu nguy
trong cơn thập tử nhất sinh của gia đình tôi. Cha tôi nhờ thế mà hồi phục sức
khỏe, em trai tôi thôi suy dinh dưỡng nhưng ngược lại cha mẹ tôi cũng như đa số
người dân, bất kể thành phần trước đây thế nào, bỗng thay áo trở thành con
buôn, bạn hàng bất đắc dĩ lao vào chốn Sài Thành, nơi trở thành chợ trời vĩ
đại, trao đổi mua bán với đủ loại thượng vàng hạ cám.
Qua cơn bĩ cực cũng đến hồi thái
lai. Gia đình chúng tôi cuối cùng đã được đoàn tụ với cô chú trong chương trình
bảo lãnh anh em nhiêu khê sau hơn mười mấy năm lận đận sống như một thử thách
của một kiếp người không ra người, của cuộc đời trí trá suy đồi đạo đức với bao
tủi nhục chua cay. Chúng tôi biết ơn vô cùng quê hương thứ hai nơi đây, xứ sở
tự do giàu lòng quảng đại, với con người không cùng màu da, chẳng cùng sắc tộc
đã giang tay cưu mang và ưu ái trao muôn vàn cơ hội tốt đẹp đến cho chúng tôi
tạo dựng nên một chân trời tươi sáng với mơ ước hiện thực.
Chúng tôi vui vẻ an ấm trong sự
nương tựa vừa tinh thần lẫn vật chất từ tấm lòng bao la của cha, người đã lần
nữa, hy sinh không quản nặng nhọc với công việc vất vả ngày đêm để cho con cái
của ông chuyên tâm vào học hành mong sự thành đạt là hành trang vững vàng cho
đời sống mới xán lạn.
Mẹ tôi hưởng hạnh phúc chưa được bao
lâu với chúng tôi thì rơi vào bạo bệnh và ra đi êm ả.
Còn lại cha, chúng tôi đang dự định
làm lễ chúc thọ cho cha tôi trong vòng gia đình thân mật sau những cơn phong ba
bão táp cuộc đời. Nhưng than ôi! mầm bệnh sinh khởi và dai dẳng nằm trong cơ
thể cha do lao tâm mệt trí trước đó đã tạo nên cơn kích tim cấp kỳ đưa ông xa
hẳn nhân thế, để lại cho con cháu chúng tôi hình ảnh người cha khó phai mờ
trong lễ đại tang với đau thương tột cùng!
Thưa cha! Qua bao cuộc bể dâu, thăng
trầm cuộc đời, di chuyển vất vả, hy sinh sức lực bao lần để đánh đổi lấy chữ tự
do quý giá, giờ thì cha đã yên bình đi đến đích của miền cuối cùng của vòng
quay sinh tử. Từ đây, cha rũ sạch lo toan, thoát vòng phiền não, có chăng là
chúng con, những người còn lại mất cả bóng mát tin yêu chở che, lưng núi vững
vàng để nương tựa tinh thần trong mọi vấp ngã phong ba cuộc sống. Chúng con nén
hương tận lòng, xót xa cả tấc dạ để hiểu rằng mình đã mất cả bầu trời tình
thương không chỉ hôm nay mà là vĩnh viễn… Cha ơi !
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Apr/2015 lúc 11:40pm
Tôi, đứa con người tù học tập cải tạo! Hồi Ức Về Người Cha.
Lê Xuân Mỹ
Những ngày cuối tháng tư 1975, Sài gòn đắm chìm trong cơn hỗn loạn. Tin tức về một cuộc chiến
kết thúc bi thảm được truyền đi kéo theo một dòng người tìm mọi cách
vượt thoát khỏi quê hương. Không nhận được tin người đến đưa toàn bộ gia
đình ra đi như đã hứa, tôi cùng ba và gia đình người em gái trên chiếc
xe jeep hối hả đi về Bến Bạch Đằng nơi con tàu VNTT đang ngập tràn những
dòng người từ khắp nơi đổ về. Hai vợ chồng em gái lên tàu trước. Tôi và
ba chần chờ sửa soạn lên sau.
Trong cái dòng người hoảng loạn, trong cái âm thanh cuồng nộ những
ngày cuối cùng của tháng tư, hai cha con vẫn còn nhìn về hướng Lăng Ông
Bà Chiểu, nơi nhà tôi ở đó. Vẫn còn hy vọng mẹ và các em đến kịp để cùng
đi. Phép lạ đã không xảy ra. Tàu sắp nhổ neo, mẹ và các em tôi vẫn biệt
tăm. Ba bảo thôi con lên trước đi, ba đợi thêm một tí nữa, mình gặp
nhau trên tàu. Trong mắt ba vẫn còn ánh lên một tia hy vọng. Nhưng tôi
biết là đã hết. Thời gian không còn kịp nữa. Ba hối thúc tôi lên tàu,
riêng ba không đành bỏ vợ và 8 đứa con con nhỏ dại, quyết định quay lại.
Với tôi, ra đi hay ở phải là một quyết định trong chớp mắt. Nhưng sao
đành bỏ lại ba một mình với khuôn mặt và cặp mắt thất thần như vậy. Tôi
lắc đầu. Thế là tôi và ba quay ngược lại dòng người vẫn cuống cuồng chạy
về phía bờ sông, dù con tàu đã từ từ rời bến. Cùng với hàng triệu người
miền Nam Việt Nam, tôi và gia đình bắt đầu sống những tháng ngày đen
tối nhất.
Đêm đầu tiên, khi nghe tin ĐT Dương Văn Minh đầu hàng trên đài phát
thanh, ngoài đường những nhóm người đội mũ cối cầm súng đi qua đi lại,
cả gia đình tôi chui dưới chân cầu thang, tắt đèn tối thui, ẩn trốn, và
ba đã khóc. Thế là chấm dứt một quảng đời, lịch sử đã sang trang và
chúng tôi đã cảm thấy một tương lai mịt mù sắp tới.
Trong những ngày sau đó, ba tôi sống trong hoang mang, lo sợ, không dám
bước ra khỏi nhà. Mặt ba lúc nào cũng căng thẳng. Riêng tôi mỗi ngày vẫn
lên trình diện cơ quan rồi về. Lên để biết thì ra có những bạn bè cùng
sở làm ngày xưa, từng cùng vui chơi sinh hoạt với mình bây giờ đội mũ
cối, cầm súng lầm lì đi ra đi vào. Có người còn chào hỏi tử tế nhưng có
đứa mặt mày vênh váo, kênh kiệu, những nhân viên còn lại, không phải dân
Cộng sản nằm vùng tụm lại một phòng trên lầu, co cụm đến tội nghiệp.
Trong những ngày đầu mất nước tháng 5 năm 1975, tôi biết ba vẫn còn hy
vọng về môt người, người em út đi tập kết từ những năm 1954, nghe đâu
đang làm lớn và hình như đang có mặt tại Sài Gòn. Chính ủy chính iết gì
đó. Ba kể hồi nhỏ ba và chú rất thương yêu nhau, ngày chú đi vào rừng
theo kháng chiến, ba là người cuối cùng gặp và đưa chú vào chiến khu. Ba
vẫn nghĩ nếu có chú chắc ba sẽ không sao.
Như một người sắp sửa bị chìm tàu, cố bám víu một chút hy vọng nào đó để
sống, dù rất mỏng manh. Với riêng tôi, hình ảnh về chú không hiền lành
như ba tưởng tượng mà là những con người tôi đã từng xem qua cuốn phim
“Chúng tôi muốn sống”, lạnh lùng và tàn ác. Tôi nghĩ ba quá ngây thơ,
nhưng biết làm sao được, một người lính thất trận, một vợ và 9 đứa con
nheo nhóc trong một thành phố đã không còn thuộc về mình, chung quanh
đầy rẫy những bóng đen rình rập. Có thể ba đang cố quên nhưng với tôi,
ký ức về một Mậu thân khủng khiếp ở Huế vẫn còn đó, không thể nào không
nhớ. Những cuộc trả thù tàn khốc chắc chắn sẽ xảy ra. Không ảo tưởng như
ba, tôi chờ đợi và biết rằng ngày đó sẽ đến, không xa.
Một ngày đầu tháng sáu, giống như ba đang mong đợi, chú tôi đi cùng một
vài bộ đội cầm súng ghé nhà thăm gia đình chúng tôi. Một Trung tá chính
uỷ thuộc đơn vị phòng không không quân Hà Nội, ghé thăm cựu trung tá
cảnh sát chế độ củ. Hai anh em thuộc hai chiến tuyến gặp nhau tại Sài
-Gòn sau 20 năm xa cách. Hai người đi hai con đường khác nhau, cuối cùng
hội tụ tại một điểm. Cũng chào hỏi, cũng mừng mừng tủi tủi, cũng nhắc
lại chuyện xưa, nhưng tôi biết quan hệ đã không còn như trước nữa,
ngượng ngùng, khách sáo. Nói thật lòng, chú tôi nhìn bề ngoài gầy gò
khắc khổ, ít nói và trông có vẻ hiền lành chứ không đến nỗi dữ dằn như
trong tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi vẫn không thể chuyện trò thân mật
với chú được. Một bức tường vô hình đã chắn ngang trong quan hệ của
chúng tôi.
Sau ngày đó thỉnh thoảng chú đến thăm ba tôi, và cũng kể từ ngày đó
những đồ đạc quí giá còn sót lại trong gia đình cũng dần dần ra đi. Khi
thì cái tủ lạnh, khi thì cái truyền hình trắng đen hiệu Denon 4 cửa xếp.
Mẹ nói riêng với tôi:
– Cho chú, thôi kệ của đi thay người, hy vọng sau này có gì nhờ chú giúp ba con cũng đở khổ phần nào.
Mẹ nghĩ vậy thì hay vậy, chứ trong thâm tâm tôi mẹ đã không biết gì về
Cộng Sản rồi. Xin tiền thì có thể chú sẽ cho nhưng để bảo lãnh cho một
sĩ quan cảnh sát như ba tôi chắc chắn là không. Biết vậy, nhưng thôi cứ
để mẹ bám víu một chút hy vọng dù rất mong manh. Nói một cách trung
thực, từ ngày có chú đến thăm gia đình, thái độ của các công an CS, cán
bộ phường đối với gia đình tôi cũng có chút thay đổi, không giống như
những ngày đầu “mất nước”.
Nhớ lại ngay ngày mồng 2 tháng năm, vừa mới sáng sớm một đoàn người đông
đảo, cán bộ có công an có ghé vào nhà, kêu ba tôi ra trình diện, ra
lệnh ba tôi trong thời gian này phải ở nhà, không được đi đâu cả cho đến
khi có lệnh mới. Sau đó đi một vòng quanh nhà tôi, ngang phòng khách,
giật đứt chiếc điện thoại để bàn, xem giấy tờ từng người và trước khi ra
về, lấy luôn chiếc đồng hồ đeo tay của ba trên đầu tủ thờ. Chiếc đồng
hồ kỹ niệm của ông nội mà ba rất quý. Mẹ chắc lưỡi – thôi kệ, của đi
thay người.
Một ngày cuối tháng sáu, cái ngày tôi biết chắc chắn phải đến, cuối cùng
đã đến. Ba tôi nhận giấy đi trình diện học tập cải tạo dành cho đối
tượng sĩ quan nguỵ quân nguỵ quyển. Địa điểm tập trung: trường Trung Học
Chu Văn An. Trong giấy ghi rõ đem theo dồ dùng cá nhân để sử dụng trong
30 ngày. Nhận được giấy báo, ba mừng như thoát được gánh nặng canh cánh
bao lâu nay. Ba bảo:
– Tôi nói có sai đâu bà, bây giờ hoà bình rồi họ không trả thù như hồi
Mậu thân đâu. Kỳ này tôi chỉ đi học có 30 ngày mà ngay tại Sài Gòn này
thôi. Xong kỳ học tập này rồi mình sẽ được đối xử như những người dân
bình thường. Tôi tính gia đình mình sẽ về lại Đà Nẳng sinh sống. Có mắm
ăn mắm có rau ăn rau. Khoẻ rồi, hoà bình rồi, hết chiến tranh rồi bà ơi.
Mẹ tôi, với linh cảm và yếu đuối của đàn bà, lên tận sân bay Tân Sơn
Nhất xin gặp chú nhờ chú giúp đở. Liếc sơ qua giấy báo trình diện học
tập chú nói:
– Chị đừng lo, cách mạng khoan hồng, anh cứ đi, học tập khoản môt tháng
là xong. Cứ học tập thật tốt, về sớm đúng ngày, không sao đâu.
Mẹ tôi an lòng chuẩn bị mền mùng thức ăn khô cho ba. Riêng tôi, qua trực
giác và qua sách báo đã đọc, tôi nghi ngờ về chữ học tập tốt mà chú đã
nhấn mạnh. Tôi biết là mọi chuyện chỉ mới bắt đầu. Để xoá đi ký ức của
một sĩ quan cảnh sát 51 tuổi đời, 25 năm quân ngủ, và để đào tạo thành
một người công dân chế độ xã hội chủ nghĩa, chắc chắn không thể là 30
ngày ngắn ngủi như thế. Tôi biết là chú đã không nói thật, và ba thì ảo
tưởng hoặc có thể đã biết nhưng muốn che dấu mẹ, cố gượng vui chờ ngày
lên đường trình diện. Có những đêm thức giấc giữa đêm khuya tôi thấy ba
ngồi lặng lẽ và hút thuốc liên tục ngoài hiên. Đôi vai như quằn xuống,
tôi chua xót nhận ra chỉ trong một thời gian quá ngắn ba đã già đi rất
nhiều. Trong cái bóng tối mênh mông, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và vô dụng
vô cùng.
Một ngày trước khi đi, ba dặn riêng tôi không cho mẹ biết, hai cha con
ra chợ Bến Thành. Ba nói ba còn để dành 2 lượng vàng, bán xong con nhớ
đem về cất riêng, khi nào mẹ và các em cần tiền thì con đưa cho mẹ. Ba
không biết khi nào về, con nhớ phụ mẹ lo cho các em. Thì ra ba không
ngây thơ như tôi tưởng, tất cả nụ cười trên khuôn mặt ba thường ngày chỉ
là giả tạo. Không có mẹ bên cạnh, ánh mắt ba bây giờ mới là thực. Nhìn
khuôn mặt hoang mang đến tội nghiệp của ba, tôi thấy mắt mình cay cay.
Thương ba vô cùng.
Cuộc mua bán 2 lượng vàng diễn ra nhanh chóng và lén lút. Tôi ngồi canh
chừng công an, ba đưa vàng, người bán đếm tiền gói lại đưa cho ba, ba
đưa tôi. Liếc ngang liếc dọc, bỏ vô túi xách, ôm kè kè bên mình, về nhà
cất kỹ trong két khoá lại, phòng khi bất trắc.
Sáng sớm hôm sau, không nhớ ngày, tháng 8 năm 1975, Ba từ giả gia đình
đi trình diện. Ba ôm mẹ, hôn các em. Mẹ, các em đều khóc. Bé út khóc to
nhất. Tôi ráng cắn chặt răng, mắt cay xè, hối hả đạp xe chở ba đến
trường Chu Văn An. Không ai nghỉ rằng, đó là lần cuối cùng mẹ và các em
gặp ba. Trước cổng trường, đông nghẹt những người đi trình diện và những
thân nhân lóng ngóng bên ngoài. Tay xách ba lô, ba lủi thủi đi vào,
trước khi bước qua cánh cửa sắt có mấy tên công an đứng gác, ba quay lại
nhìn tôi như nhắc nhở con nhớ thay ba lo cho mẹ và các em. Khi bóng ba
mờ khuất sau dãy lớp, nỗi đớn đau kềm hảm bấy lâu vỡ oà, tôi khóc ngon
lành như một đúa trẻ. Tôi biết rằng ngày ba trở về còn xa lắc xa lơ.
Từ khi ba đi, căn nhà trở nên vắng vẻ vô cùng. Mẹ phần lo chạy gạo hằng
ngày, phần lo lắng nhớ ba, gầy đi trông thấy. Tuy nhiên mẹ vẫn hy vọng 1
tháng sẽ trôi qua nhanh chóng, ba trở về và mọi chuyện sẽ trở lại như
xưa. 30 ngày rồi 45 ngày trôi qua, tôi và mẹ bắt đầu sốt ruột lo lắng.
Mẹ cứ mỗi ngày hết đi ra lại đi vào, hết lên phường hỏi thăm rồi lại lên
Tân Sơn Nhất tìm gặp chú. Vẫn là 1 câu trả lời:
– Chắc sắp được về thôi. Anh học tập tốt thì cách mạng sẽ cho về, chị đừng lo.
Câu chị đừng lo càng lúc càng trở thành vô dụng khi bao tháng trôi qua,
vẫn không một tin tức gì về ba. Vừa phải lo cuộc sống vừa phải chạy đôn
chạy đáo hỏi thăm đầu này đầu nọ, mẹ già hẳn đi. Cuộc sống càng ngày
càng khó khăn cho một gia đình 11 miệng ăn. Đồng lương ít ỏi của tôi
không đủ nuôi sống cả gia đình, mẹ bắt đầu đem đồ đạc trong nhà ra chợ
bán. Chú thì thỉnh thoảng vẫn ghé thăm nhưng thưa thớt hơn nhiều. Có lẽ
vì bận rộn nhưng cũng có lẽ sợ không biết phải trả lời sao với mẹ. Không
lẽ đợi anh học tập tốt, cách mạng khoan hồng, hay là chắc mai về khi mà
ngày mai của chú có thể là một ngày không bao giờ đến.
Thấm thoát rồi cũng qua một năm. Mẹ vẫn mỏi mòn chờ đợi trong vô vọng,
ba vẫn biền biệt phương nào. Không một tin tức, không một dấu vết, dù
nhỏ nhoi. Những đồ vật có giá cuối cùng trong nhà cũng đã bán hết. Hai
mẹ con ôm nhau khóc. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến số tiền bán 2 cây vàng
dấu trên gác. Một số tiền khá lớn thời bấy giờ. Ai ngờ khi mở gói tiền
tôi sững sờ nhìn thấy nguyên bó tiền chỉ có hai tờ đầu là tiền thật, ở
giữa toàn là giấy báo. Thì ra lợi dụng việc mua bán chui lén lút, vừa
bán vừa canh chừng công an, khi đưa tiền, người bán đã tráo đổi gói tiền
đang đếm bằng gói tiền gói sẵn. Cho đến khi chết chắc ba cũng không thể
ngờ những đồng tiền cuối cùng ba để dành cho mẹ là con số không to
tướng.
Trong những tháng năm sau đó, cuộc sống càng ngày càng khó khăn. Không
còn cách nào khác, mẹ vẫn mỗi ngày tiếp tục ra bán chui trước chợ Tân
Định. Sạp hàng là một tấm vải ni lông, cột dây bốn góc để dễ túm lại khi
có công an đến. Thời đó buôn bán trên vĩa hè là phạm pháp. Vừa mua bán
vừa láo liên canh chừng công an. Nếu công an tới thì túm tấm nilông bỏ
chạy vào nhà lồng chợ. Công an đi khỏi, đem hàng ra bày bán tiếp. Đồ bán
khi thì một đôi giày, một chiếc áo củ hay có khi chỉ là lớp vải lông
thú tách ra từ những chiếc áo lính ngày xưa.
Có gì bán nấy. Khởi đầu là đồ đạc trong nhà, sau đó là đồ mua lại từ
những người có cùng hoàn cảnh đem bán. Cũng có khi là đồ chôm đồ chỉa,
cũng lây lất qua ngày. Các em còn qúa nhỏ, chỉ mình tôi với mẹ, sĩ diện,
lòng tự trọng của một kỹ sư cũng đem chôn chặt trong lòng. Tôi mỗi
ngày, sau giờ làm việc cũng ra phụ mẹ, cũng chạy ra chạy vào, cũng cặp
mắt láo liên, vừa bán vừa mua, vừa canh chừng công an. Trong những ngày
vô cùng khốn khó đó, thỉnh thoảng chợt nhớ về thời thơ ấu cũ lòng thật
buồn. Những ngày tươi đẹp ấy đã quá xa. Những lo lắng về cuộc sống và
một tương lai mù mịt, làm tôi trở nên lạnh lùng chai đá. Dù rằng cũng có
đôi khi, tôi một mình khóc thầm trong đêm.
Như một định mệnh, trong những ngày cùng cực khốn khó đó tôi gặp C. vợ
tôi bây giờ. Người ta hay nói vợ chồng là duyên là nợ. Điều này rất đúng
với chúng tôi. Trước 75 tôi và C. cùng làm chung tại Trung Tâm Bưu
Chính Viễn Thông thuộc Bưu Điện thành phố Sài Gòn. Gặp nhau thường xuyên
nhưng ít khi nói chuyện.
Nàng làm thư ký cho Desai, giám đốc chương trình đào tạo của Liên Hiệp Quốc. Hồi đó C là một người đẹp, nhiều người theo đuổi.
Tôi là kỹ sư mới ra trường. Tốt nghiệp Bách Khoa Phú Thọ, tôi chọn vào
Trung Tâm vì tại đó có học bổng đi học cao học về viễn thông. Tôi ghét
cái kênh kiệu và lạnh lùng của nàng. Nàng thì ghét cái giọng Huế nặng
trịch của tôi. Tôi càng ghét nàng khi bài thi xếp hạng để đi du học của
tôi bị cộng sai điểm. Tôi khiếu nại không được. Và vì vậy tôi bị sắp đi
đợt 2 vào tháng 12 thay vì đợt đầu vào tháng giêng năm 75.
Chuyến đi du học tháng 12 bị bãi bỏ do biến cố 75. Tự an ủi xem như chưa
có số xuất ngoại dù trong lòng tôi buồn và tưng tức. Có lẽ, do nợ tôi
một món ân tình quá lớn nên sau này nàng đã phải trả lại tôi gấp nhiều
lần hơn. Cùng hoàn cảnh, cùng thuộc gia đình ngụy quân ngụy quyền, cùng
ghét Việt Cộng như nhau, chúng tôi gặp nhau thường xuyên trong những lần
đi nghe các buổi nói chuyện về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin. Chúng
tôi thường chọn ngồi dưới hàng ghế cuối cùng. Để ngáp, và để ngủ không
bị để ý. Những hàng ghế cuối cùng trở thành nơi chúng tôi chia sẻ những
đắng cay, những mất mát và những yêu thương. Cuối cùng chúng tôi quyết
định nên vợ nên chồng. Dám yêu đứa con cảnh sát chế độ cũ, tương lai mờ
mờ mịt mịt, chắc chắn chỉ có thể nàng đã quá yêu tôi.
Đám cưới được tổ chức đơn giản. Không rễ phụ không dâu phụ, không rước
dâu. Lạy cha mẹ, lạy bàn thờ gia tộc hai bên, đơn giản chỉ như vậy. Chỉ
một số ít bạn bè thân thiết và bà con gần. Không có gì phải phô trương
khi ba tôi vẫn mịt mù đâu đó trong trại cải tạo, không biết sống chết ra
sao. Em yêu tôi và tôi cũng rất yêu em. Thế là đủ.
Một ngày trước đám cưới chúng tôi nhận được giấy báo từ phường Yêu cầu
gia đình ra khỏi nhà trong vòng 48 giờ. Lý do gia đình thuộc diện 28, sĩ
quan cảnh sát làm việc cho chế độ Mỹ nguỵ. Giấy báo còn cho biết phường
sẳn sàng giúp đở, tạo mọi điều kiện để gia đình có thể lập nghiệp trên
vùng kinh tế mới.
Kết thúc vội vàng buổi tiệc mừng đám cưới, hai vợ chồng đạp xe lên sân bay Tân Sơn Nhất xin chú can thiệp giúp đở. Chú nói:
– Theo chú thấy đi kinh tế mới dầu sao cũng tốt cho mẹ và các cháu. Cực
khổ lúc ban đầu nhưng sau này sẽ khá hơn. Hồi chú ở ngoài Bắc cực khổ
hơn gấp trăm lần, có sao đâu. Sau này ba con về còn có chỗ sinh sống.
Trả lời như chú vậy thì chẳng thà nói với đầu gối sướng hơn. Hai đứa chỉ
biết nhìn nhau, thầm nghĩ với tình thế này chắc cũng phải lên đường đi
lập nghiệp trên vùng đất mới mà thôi. Trong lúc cùng đường, vợ tôi chợt
nhớ đến ông xếp cũ từ thời trước 75, một kỹ sư tốt nghiệp từ Pháp, cựu
giám đốc bưu điện nay là cán bộ cao cấp làm việc trong thành uỷ. Nghe
trình bày hoàn cảnh, nghĩ đến mối giao tình thầy trò ngày xưa, ông nói
để ông xuống phường xem thử. Không hiểu ông can thiệp như thế nào, hai
ngày sau phường gửi giấy quyết định cho gia đình tạm thời ở lại cho đến
khi chồng đi cải tạo trở về. Nói theo ngôn ngữ bóng đá bây giờ, vợ tôi
đã cứu gia đình tôi một bàn thua trông thấy vào phút 90.
Từ khi lập gia đình, tuy có thêm đồng lương của vợ tôi, nhưng vẫn không
thể nào đủ cho một gia đình 11 miệng ăn. Bán chợ chạy của mẹ thì vất vả
mà thu nhập quá kém cỏi. Hai đứa bắt đầu làm thêm đủ thứ ngành nghề.
Khởi đầu là nuôi heo. Nhờ giấy giới thiệu của cơ quan, mỗi tháng vợ tôi
được mua một cặp heo con với giá rẻ. Chiếc cầu tiêu duy nhất tuy nhỏ
cũng được ngăn ra dành chỗ để nuôi 2 con heo mọi mới đẻ. Mỗi ngày đi
tiêu đi tiểu trong tiếng kêu ủn ỉn của chúng, mới đầu rất khó chịu,
nhưng rồi nghe riết cũng quen, cũng ghiền. Nuôi 1, 2 tháng, đem ra chợ
bán. Lại lên trại mua 2 con khác nuôi tiếp.
Chỉ nuôi heo không cũng chưa ăn thua. Bắt đầu nuôi thêm gà công nghiệp.
Cũng xin giấy giới thiệu lên trại gà mua vài chục gà con, nuôi vài tháng
hơi lớn lớn rồi đem bán. Được vài tháng xuông sẻ, gặp mùa toi dịch, gà
heo chết hàng loạt, cụt vốn, hai vợ chồng nhảy qua làm bánh đậu xanh,
khô, ướt. Mẹ ngâm, đãi đậu, tôi cắt giấy, vợ tôi gói. Mỗi chiều đi làm
về, hai vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ kỷ đi giao bánh cho mấy
tiệm ăn quanh xóm. Không phải bán đứt, ký gửi thì đúng hơn. Giao bánh,
vài ngày sau quay lại. Bán hết thì lấy tiền, giao bánh mới. Gặp lúc bán
không hết, bị mốc, đem về không biết làm gì cho hết, trộn vô cám cho heo
gà ăn.
Cứ vậy, những tháng ngày tiếp tục trôi. Vợ chồng ốm tong ốm teo như ma đói, nhưng cũng phải ráng chịu cực mong đợi ngày ba về.
Đến một ngày đầu tháng 2 năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được thư
ba, lần đầu tiên. Góc thư tôi còn nhớ rõ địa chỉ Trại K2 Tân Lập, Vĩnh
Phú. Trong thơ ba hỏi thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học tập cải tạo
tốt. Thư ngắn chưa đầy một trang giấy. Ba nhắc tôi ráng chăm sóc mẹ và
các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc lúc đó đối với tôi vô cùng xa lạ. Nếu
có biết cũng chỉ biết qua sách vở. Vĩnh Phú ở đâu, ra sao, xa xôi như
thế nào, không quan trọng, ít nhất là ba vẫn còn sống.
Thế là đủ. Quá mừng rỡ mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa em viết
một câu cho ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về cuộc sống ngoài này. Tôi ầm ừ
cho qua chuyện, trong thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học tập tiến bộ để
sớm về với gia đình. Tôi không kể về cuộc sống gia đình từ ngày ba đi.
Không lẽ cho ba hay rằng căn nhà đã bị tịch thu, gia đình suýt nữa bị đi
kinh tế mới, hay lại kể với ba rằng mẹ mỗi ngày đang bán từng chiếc áo
cũ của ba ngoài lề đường. Hoặc kể cho ba chuyện 2 cây vàng. Thôi thì cứ
để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con của ba dù là con của sĩ quan chế
độ Mỹ nguỵ, vẫn được cách mạng CS đùm bọc thương yêu. Thôi thì cứ như
vậy cho ba yên lòng và ít nhất thư cũng đến được với ba. Kể từ hôm đó
khoảng hơn mỗi tháng một lần gia đình tiếp tục nhận được thư ba. Mỗi lần
chỉ hơn một trang giấy, nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui
và hy vọng. Sẽ có ngày ba trở về.
Cho đến một ngày, Cũng từ K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội
dung ba đang học tập tốt, cán bộ đố xử với ba rất tốt, cũng khuyên các
con cố gắng học tập trở thành cháu ngoan của “Bác”, nhưng nét chữ run
run, nguyệc ngoạc, khó đọc và ngắn hơn rất nhiều so với các thư trước.
Mẹ và các em vẫn mừng rở như mọi lần, nhưng riêng tôi linh cảm một điều
gì đó không hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem thư ba lên phòng đọc đi
đọc lại nhiều lần. Hình như chữ “tốt” (học tập tốt, sức khoẻ ba vẫn rất
tốt được viết đậm hơn, to hơn các chữ khác). Chữ ba viết quá xấu so với
bình thường. Rất bất thường. Không tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là
bịnh.
Quá lo lắng, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đi thăm ba. Lên phường xin giấy
phép đi ra Bắc, bị từ chối. Phải có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về.
Hồi đó muốn đi Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, người dân bình thường như
tôi phải làm đơn xin phép, phải có lý do chính đáng và phải có người bảo
lãnh. Thời gian được cấp giấy phép thường rất lâu nhất là đối với những
gia dình thuộc diện nguỵ quân nguỵ quyền như chúng tôi. Lên gặp chú nhờ
chú can thiệp giúp đở, chú nói cũng y hệt như mấy ông cán bộ phường:
– Khi nào họ cho phép thăm nuôi thì ba con sẽ gửi giấy tờ về.
Chú trả lời như vậy thì kể như không nói. Thật lo lắng cho ba, nhưng
không biết làm sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba sức khoẻ, và
mong chờ một phép lạ. Và phép lạ cuối cùng cũng đã xảy ra.
Ở hiền gặp lành. Tháng 8 hiệu trưởng loan báo có đợt cho nhân viên và
giáo viên trường Bưu Điện đi tham quan miền bắc xã hội chủ nghĩa và du
ngoạn tại bãi biển Đồ Sơn 1 tuần. Tôi và vợ tôi có tên trong danh sách
được đi. Lúc đó vợ tôi đang mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Phần làm
việc vất vả, phần thể trạng yếu đuối, khộng dám đi xa, vợ tôi đành ở
nhà. Tôi đi ra miền bắc một mình. Không phải vì yêu “Hà Nội xã hội chủ
nghĩa” cũng không phải để tắm biển Đồ Sơn, mà trong lòng tôi đang hình
thành một kế hoạch đi tìm ba.
Cả đoàn đi ra Hà Nội bằng xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu là
phần nghe giảng về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin, về miền bắc xã hội
chủ nghĩa 4 ngày tại Hà Nội. (Phần này bắt buộc không ai được vắng
mặt). Phần sau 3 ngày là về nghỉ ngơi vui chơi tại bãi biển Đồ Sơn. Phần
này kỹ luật tương đối lỏng lẻo hơn. Đa số các cán bộ quê miền Bắc nhân
thời gian này tranh thủ về thăm gia đình, chỉ có những người miền Nam
lần đầu tiên ra Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn. Tôi thì đã có kế hoạch từ
trước xin trưởng đoàn ở lại Hà Nội với lý do thăm gia đình ông chú ruột
là trung tá Chính ủy đơn vị phòng không không quân. Cũng phải viện một
lý do gì đó để đơn xin có trọng lượng. Cũng phải cho trưởng đoàn biết là
con nguỵ nhưng cũng có bà con là cán bộ cộng sản dù trong thâm tâm tôi
biết ông chú đi cách mạng có cũng như không, khó nhờ vả sơ múi gì đuợc.
Hồn ai người nấy giữ.
Thế là những ngày đầu thánh 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành trình
tìm cha. Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất cả điều xa lạ. Manh mối
duy nhất là địa chỉ trên thư: K2 Trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Phương
tiện di chuyển: chiếc xe đạp Phượng Hoàng mượn của ông chú.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú: khu Tập thể Nam Đồng, Đống Đa,
Hà Nội. Trạm đầu tiên: Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng
rong ở ga. Vĩnh phú thì nhiều người biết nhưng trại Tân Lập ở đâu thì
không ai hay. Thôi thì cứ lên tàu đi về hướng Vĩnh Phú trước đã.
Đúng là tàu chợ, xe lửa thì củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt
người, đa số là người lao động và người bán hàng rong. Vì vướng chiếc xe
đạp, chật vật lắm tôi mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu
chuyển bánh. Vì lên sau cùng, tàu đông kịt người, chỗ đứng chổ ngồi hầu
như không còn, tôi ngồi xuống một khoảng trống sát vách cầu tiêu. Lần
đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng người cùng tiếng nói,
cùng một màu da.
Mỗi một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những em bé
bán chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một tin tức
mơ hồ từ một em bé:
– Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người hình như ở trong nam
ra vì không giống người ngoài này, đi lao động, hình như ở gần ga Ấm
thượng, Vĩnh Phú. Em bé nói thêm hình như có trại giam giữ những người
miền nam gần đó.
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng Lạng Sơn. Mùi hôi
thúi bốc lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng hoà quyện vào cái mùi mô hôi
của hàng trăm người đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi mãi
suy nghĩ khi nào thì đến ga Ấm Thượng? Vì không nhìn được qua cửa sổ,
tôi đành nhờ một bà lão ngồi sát cửa sổ nhắc giùm khi đến ga.
Xuống được ga Ấm Thượng thì cũng đã giữa trưa. Phải nói là trạm thì đúng
hơn. Nhà ga là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoắc. Vùng đất
thật hoang vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con đường đất đỏ
duy nhất về một làng nào đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa hỏi đường. Hỏi xem
có ai biết về trại Tân Lập không? Không ai biết. Phải đến lần thứ 9 hay
thứ 10 gì đó, khi tôi đã vào sâu khoảng 5, 7 cây số, mới có được câu
trả lời tương đối rõ ràng:
– Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dãy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia là biên giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa diệu vợi, chân tay rã rời, đôi khi tôi kiệt sức muốn bỏ
cuộc quay về. Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên đường. Con
đường càng vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi thì ngoằn nghèo, khi thì
lồi lõm. Có những đoạn không đạp xe được vì mưa trơn trợt, tôi xuống xe
dắt bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa thớt, càng ít người qua lại. Tôi vừa
mệt, vừa sợ, vừa đi vừa nhìn chung quanh, dáo da, dáo dát. Nói thật lúc
đó có ai nhảy ra, phang cho mình một gậy, cướp xe đạp, vất xác xuống ven
đường, chắc cũng không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao giờ tôi đi đâu một mình như thế này
đâu. Hồi nhỏ thì có cha có mẹ, vào trường thì có bạn có bè. Đi đâu cũng
đi với người này hay người khác. Ngay cả khi đi trồng cây si, cũng rủ
thêm Trường Thọ hay Quốc Chính (đã mất) cùng đi. Đi đâu cũng xe đạp hay
xe Jeep của Ba. Đi bộ thì nhiều nhất là một cây số. Chạy thì nhiều nhất
một vòng sân trường là thở dốc. Vừa mệt vừa sợ cướp, vừa sợ ma, tôi vừa
đạp xe vừa lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn quay về. Rồi lại
nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba trước cổng trường Chu
Văn An ngày nào, tôi lại lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng là lê là lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp, đất
bùn quyện nước mưa nhão nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt
đầu cảm thấy lạnh. Một cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi khổ chưa dừng
ở đó. Trên con đường độc đạo duy nhất về trại Cải tạo Tân Lập, tôi phải
vượt qua hai con sông.
Quen với cái hiền hoà của giòng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi
thấy con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Dòng nước đục ngầu và đỏ như máu
chảy cuồn cuộn. Đứng bên này nhìn thấy bờ bên kia nhưng không biết cách
nào qua. Không cầu không cống. Không một bóng người. Men theo bờ sông,
tôi đi về hướng ánh đèn leo lét xa xa. Hỏi thăm, thì ra muốn qua sông
thì đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông, chụm hai tay gọi lớn sang
bên bờ bên kia “ Đò ơi…ơi” Thế là từ bên kia bờ, chênh chếch phía trên
có một thuyền nhỏ một người chèo qua. Nói thì rất dễ dàng nhưng để băng
qua được bên này không dễ chút nào. Khoảng cách hai bên bờ không lớn
lắm, nhưng do nước chảy xiết, từ bên kia muốn qua bên này, người lái đò
phải khéo léo dựa theo dòng nước chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp đúng
vào kè đá nơi tôi đứng. Điều khiển không khéo thì thuyền lật như chơi,
còn nếu không thì thuyền tắp xuống quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đò giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nhìn người lái đò,
nhìn dòng nước sông dục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn văn của
Nhất Linh, của Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về các tỉnh miền Bắc xa
xôi này. Hình như nơi đây, bánh xe thời gian đã ngừng lại. Giống y
chang như trong các bài văn ngày nào. Vẫn như xưa, nếu không nói là cũ
kỷ hơn, nghèo khổ hơn. Và có lẽ vì vậy người dân ở miền đất sát biên
giới Việt Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn lần những con người
tôi găp ở Hà Nội. Vì vậy, may mắn tôi vẫn còn cái mạng quay về.
Đi thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự thì trời đã
tối đen. Lúc này tôi không còn đạp xe được nửa. Tôi dắt xe, vừa đi vừa
run cầm cập. Dân thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy nỗi sợ hãi
cùng cực khi một mình giữa đồng không mông quạnh, âm thanh là tiếng côn
trùng ếch nhái, thỉnh thoảng là những ánh đom dóm lập loè. Lại thêm cái
lạnh cắt da của ban đêm và mưa phùn miền Bắc. Khổ không thể cực khổ
hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu không vì ba tôi đã bỏ cuộc từ lâu.
Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một căn chòi trống ven đường. Đây
có thể là nơi tạm trú của những nông dân hay của những em bé chăn trâu
nào đó.
Căn nhà (cái chòi thì đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng
tre nhỏ xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng nghỉ
mệt. Có thể nói trong đời đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù
rằng những giọt mưa vẫn từ các khe hở nhỏ xuống lạnh buốt. Bây giờ mới
cảm thấy đói. Bửa ăn tối đầu tiên trên miền đất tận cùngbiên giới của
người con đi tìm cha đang học tập cải tạo là một cái bánh bao không nhưn
mua vội trên tàu. Cái gọi là bánh bao thật ra chỉ là một cục bột hôi
mốc nhờ mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu không chắc sẽ cứng như đá. Nhưng không
sao, khi đói thì đất cát vẫn thấy ngon như thường. Vừa ăn tôi vừa cố
nuốt đi những giọt nước mắt. Cùng với cơn lạnh ban đêm, dù trải qua một
ngày không ngủ, mệt lã, tôi vẫn không tài nào chợp mắt được. Tôi ngồi bó
gối co ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy cái vô tận của đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất khá
dài, khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được trại Tân
Lập. Thật ra cái tôi gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô quạnh này là
một ngôi nhà tranh, tương đối lớn, phía trước có treo một tấm bảng nhỏ “
K10 Tân Lập”. Bên trong là một cái bàn dài có hai dãy ghế bằng tre.
Không thấy có ai canh gác. Tôi nghĩ đây là nhà khách. Đợi một lúc quả
nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi trình giấy tờ, ghi rõ là cán bộ
Bưu Điện ra Hà Nội công tác luôn tiện thăm cha đang học tập tại K2 Tân
lập.
Mừng hụt. Trại cải tạo Tân Lập thì đúng rồi nhưng đây là nhà khách thuộc
K10. Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong thì bắt
đầu từ khu K10, K9…cuối cùng sát biên giới là khu K1. K10 là khu vực đầu
tiên của trại Tân Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ có những trại
giam, cán bộ và tù nhân. Sau này tôi mới biết khu trại Tân Lập không chỉ
giam giữ các tù nhân từ trong Nam mà còn là nơi giam giử các thành phần
bất hảo ăn cắp ăn trộm ngoài Bắc. Thành phần này được giam ở các khu
K10, K9 gần phía nhà dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền nam được phân loại và giam giử theo thứ tự,
chức vụ càng cao, càng ác ôn thì được đưa về các khu số nhỏ K1, K2 sát
núi gần biên giới, khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát. Nếu có
vượt thoát được công an ở các khu vực K1, K2, K3…thì chắc không qua được
các thành phần bất hảo của K9, K10. Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát
khỏi trại, mặc áo tù đi lang thang 30 Km, ra khỏi đây không bị bắt trở
lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai mì, những
cánh đồng trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán người mặc áo
tù đang cuốc đất. Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này đường đất tương
đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp người cố gắng đạp thật nhanh. Đi riết rồi
cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu vào địa phận K2. Có lẽ khoảng 10 giờ
sáng, mưa phùn vẫn còn rơi. Tính ra từ sáng tới giờ tôi đã đi một lèo
gần 4 tiếng đồng hồ. Không ăn uống gì nhưng tôi vẫn không cảm thấy đói.
Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp được gặp lại ba. Vừa đi tôi vừa
suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện gì sẽ kể cho ba. Tự nhủ phải
thật bình tỉnh, phải không được xúc động, phải không được khóc. Nghĩ tới
lúc sắp gặp ba, quên cả mệt nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ khoảng
5 đến 10 mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ, người đang cuốc
đất, người đang vác những bó củi khô, cạnh đó mấy tay mặc áo vàng đội
mũ cối, cầm súng đi qua đi lại. Tôi biết chắc chắn đó là những tù nhân
đang lao động cải tạo. Như một phản xạ tự nhiên, tôi đạp xe chậm lại,
đưa mắt nhìn quanh. Cùng lúc một tù nhân đang đội nón lá lui cui gần vệ
đường ngước mắt nhìn về phía tôi. Dù đã bao năm qua không gặp, dù bây
giờ đã quá khác xưa, gầy gò, mặt mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ,
nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba. Nhảy ra khỏi xe, tôi thảng thốt kêu lên
một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều người quay lại hướng về phía
tôi trong đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven đường. Trong khoảnh
khắc, tôi bắt gặp đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt của con thú hoang
ngây dại và đầy vẻ lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như
muốn tôi đứng lại và chỉ về phía căn nhà xa xa. Tôi khựng lại, tôi biết
tôi không được quyền đứng lại hay trò chuyện với ba. Nuốt giọt nước mắt
đang chực chờ chảy, tôi lên xe phóng nhanh về căn nhà khách, không quên
nhìn lại ba. Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy gò yếu đuối
run run ngã quị bên đường.
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một công an mặt áo vàng, gương mặt
gầy nhọn, non choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ an. Tôi đưa giấy tờ chứng
nhận là cán bộ giáo viên trong nam ra công tác Hà Nội tranh thủ thăm cha
đang học tập cải tạo ngoài này. Sau khi xem giấy tờ, tên cán bộ hỏi tại
sao tôi biết nơi này. Không lẽ nói do tự tìm kiếm, tôi nói do chú là
Trung tá chính ủy chỉ đường. Thái độ có vẻ nhã nhặn hơn nhưng gã ta cho
biết là tôi không thể thăm được ba tôi lần này được với lý do:
– Ông nhà đang trong thời kỳ bị kỹ luật do vi phạm nội quy của trại, đang bị biệt giam.
Thú thật nếu không gặp mặt ba ngoài kia, chắc chắn tôi đã phải tin lời
quay về. Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt bàn tay dằn cơn giận
dữ. Xuống nước:
– Nhưng thưa cán bộ tôi mới gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
– Anh có chắc không? Ông đang bị biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc anh nhìn lầm.
Sao có thể lầm ba với ai được. Dù có bị đày đoạ cở nào, dù ba có thay
đổi bao nhiêu, thì tôi vẫn không bao giờ lầm ba với ai khác. Cặp mắt ấy,
con người ấy với tôi là duy nhất. Đuối lý nhưng tay công an vẫn khăng
giữ vững ý định không cho tôi gặp ba. Nhiều lý do được đưa ra: Thứ nhất
đây không phải là mùa thăm nuôi, thứ hai tôi cũng không có giấy phép
(hèn chi các nhà khách tôi đi qua vắng như chùa bà đanh).
Tôi cố gắng trình bày là đi công tác đột xuất, hơn nữa đường đi xa xôi,
đã lỡ đến đây rồi, xin cán bộ thông cảm. Làm ra vẻ tử tế, lão cán bộ
chép miệng:
– Thật ra tôi cũng muốn thông cảm cho anh, không phải tôi làm khó dễ nhưng thú thật không thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng cứng rắn. Lão nỗi nóng:
– Nhưng tôi nói không gặp được là không gặp được, anh về khi nào có giấy tờ thăm nuôi thì chúng tôi sẽ giải quyết.
Nhìn khuôn mặt tên cán bộ mặt mày lấc cấc, máu tôi sôi lên, tôi muốn đấm
cho nó một cái, ra sao thì ra. Nhớ đến ánh mắt của ba ngoài kia, cặp
mắt ngây dại của con thú hoang đang co cụm dẫy chết. Nhớ đến đôi vai gầy
gò run rẫy trong gió lạnh ngoài kia, lòng tôi dịu lại, tự nhiên tôi bật
khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa khóc tôi vừa năn nỉ tên cán bộ đáng tuổi
em mình. Tiếng khóc động đến lòng trời, đúng lúc một tay cán bộ nữ bước
vào. Có lẽ khuôn mặt một người đàn ông đang khóc nhìn thê thảm, xấu xí
và cảm động quá, sau khi bàn bạc, cán bộ nữ đồng ý cho tôi được gặp ba
nhưng chỉ được gặp đúng 15 phút mà thôi. Dù sao đàn bà vẫn là đàn bà,
vẫn tình cảm hơn.
Chờ khoảng một tiếng, một tên công an đi vào, theo sau là ba tôi. Lúc
này tôi mới có cơ hội nhìn rõ ba. So với hồi ở nhà, hoàn toàn khác hẳn.
Khuôn mặt đen sạm, tóc tai bạc trắng, râu dài tới ngực, mặc bộ đồ tù cũ
kỷ, tay cầm chiếc nón lá rách tả tơi. Không kềm được tôi phóng người về
phía ba, hai tay dang rộng. Ba giật mình bước tránh qua một bên miệng
lắp bắp “dạ thưa cán bộ, tại con tôi không biết”. Nói xong ba lầm lủi
theo tên công an đến chiếc bàn tre chính giữa phòng. Đợi tên công an
ngồi xuống chiếc ghế ở giữa hất đầu ra lệnh, ba ngồi xuống ở chiếc ghế
đầu kia đối diện với tôi. Tên CA hất hàm:
Anh có 15 phút để nói chuyện với ông.
Dù tự nhủ phải cố gắng bình tỉnh nhưng vẫn không thể được, tôi oà khóc
như một đứa bé. Trong khi đó ngoài trừ cặp mắt ánh lên một nỗi niềm khổ
đau vô hạn, ba bình tĩnh hơn tôi nhiều. Ba nói trước, ba hỏi thăm về mẹ,
về các em. Cũng vẫn là lời lẽ như trong các thư ba gửi về. Thỉnh thoảng
dù rất cố gắng kìm lại nhưng ba vẫn húng hắn ho. Tiếng ho vẫn đục như
có đàm chận trong cổ. Vừa khóc, vừa trả lời tôi mãi nhìn ba, muốn nhảy
đến ôm ba vào lòng. Nhưng khoảng cách hai đầu chiếc bàn quá xa và tên
công an ngồi chính giữa như một bức tượng lạnh lùng, đe doạ. Tôi để cho
ba hỏi ba nói và tôi trả lời. Có nhiều điều muốn hỏi, muốn kể với ba
nhưng nỗi xúc động làm tôi không nói được nên lời.
Thật ra nếu nhớ ra, có hỏi, chắc chắn cũng là câu “cách mạng khoan hồng,
ba học tập tốt sẽ được cho về ”. Nhìn ánh mắt ba, tôi biết sẽ không bao
giờ ba học tập tốt được, ngày về sẽ còn xa lắc xa lơ. Tôi lấy từ trong
túi sách, mấy gói thực phẩm khô, chuối khô do mẹ làm, một ít bánh đậu
xanh, mấy hộp diêm một tút thuốc lá đen đẩy về giữa bàn về phía Ba. Ba
đẩy tất cả về phía tên CA, miệng nói: Nhờ cán bộ giữ giùm. Cặp mắt sáng
lên, mặt bớt lạnh lùng, tên CA đem các món đồ vào chiếc tủ nhỏ ở góc
phòng. Không biết ba sẽ nhận được lại các món này hay không, tôi không
có tâm trí để nghĩ đến.
Tôi cứ mãi nhìn người đàn ông gầy gò tội nghiệp và yếu ớt đang ngồi
trước mặt mình không nói được lời nào. Nước mắt cứ không ngừng tuôn. Nói
chuyện được khoảng 15 phút tên công an lạnh lùng đứng dậy tuyên bố hết
giờ. Ba chậm chạp đứng lên, cặp mắt nửa như ngây dại, nửa thảng thốt,
nửa tiếc nuối nhìn tôi, bước theo tên công an ra khỏi nhà khách. Không
kìm được, tôi vùng chạy tới, ôm choàng lấy ba khóc như mưa. Lần đầu tiên
tôi thấy mặt gã công an như dịu lại, quay mặt ra nơi khác. Bây giờ thì
ba cũng khóc. Không biết chúng tôi đứng bên nhau được bao lâu cho đến
khi tên CA kéo tay Ba tôi đi. Ba lủi thủi đi không quay lại. Cái dáng đi
khòm khòm, nhẫn nhục đến tội nghiệp.Và đó là lần cuối cùng tôi gặp ba.
Còn sống.
Sau chuyến đi gặp ba trở về, biết được địa điểm, lo lắng về tình trạng
sức khoẻ của ba, mẹ suốt ngày hối thúc tôi đưa mẹ đi thăm ba. Thời đó
người dân bình thường nếu muốn ra Bắc phải làm đơn ra phường xin phép.
Với gia đình nguỵ quân nguỵ quyền như gia đình tôi, xin giấy phép càng
khó khăn hơn, thời gian chờ đợi lâu hơn. Phường thì bảo phải có giấy
phép thăm nuôi từ trại gửi về mới cấp. Đợi giấy phép thì không biết đến
khi nào. Lên gặp chú thì chú chỉ ngược về phường. Cũng như không. Mẹ thì
cứ sốt ruột, đi ra đi vào. Suốt ngày mẹ như lửa đốt, bỏ ăn bỏ làm. Các
em thì còn nhỏ dại, cũng chỉ hai vợ chồng chúng tôi trăm phương nghìn
kế, tính đủ mọi cách cũng chưa biết phải làm thế nào.
Tình cờ (đến lúc này thì tôi tin có những sự tình cờ do ơn trên sắp
đặt), tôi được lệnh ra Hà Nội tham gia lớp tập huấn dành cho giáo viên
môn mạch điện tử. Lấy lý do là lần trước vợ tôi chưa đi Hà nội, tôi xin
phép Hiệu trưởng cho vợ tôi được nghĩ phép cùng đi. Do quan hệ tốt và có
lý do chính đáng, hiệu trưởng đồng ý ký giấy phép dù bây giờ vợ tôi mới
sinh con đầu lòng, sức khoẻ còn yếu lắm. Thật ra chúng tôi đã có kế
hoạch từ trước. Giấy phép đi Hà Nội có ghi rõ tên tôi và vợ tôi NGUYEN
THI CUC, cán bộ Trường Bưu Điện Thành phố ra Hà Nội công tác. Chữ trên
giấy phép do chúng tôi điền và đưa hiệu trưởng ký. Chữ CUC sau này được
sửa thành chử LỘC, tên của mẹ tôi. Thế là tôi và mẹ có giấy phép ra Hà
Nội công tác, dĩ nhiên chính là để thăm cha.
Lần trước khi thăm ba, do không biết đường đi cũng như không hy vọng gặp
được ba tôi chỉ đem một ít đồ dùng. Kỳ này mẹ chuẩn bị chu đáo hơn. Bao
nhiêu tiền dành dụm, mẹ đem ra mua hết. Sửa đặc, cơm khô, thịt chấy,
bánh đậu xanh, áo quần, thuốc lá (nên nhớ hồi đó mọi nhu yếu phẩm, gạo
cơm, thức ăn đồ dùng đều được cung cấp theo chế độ tem phiếu, có tiền
cũng rất khó mua). Chúng tôi phải dùng mọi cách, từ vay mượn đến năn nỉ
xin xỏ gom góp cũng được khoảng hai bao tải gần 60 kg.
Hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi xong công việc thanh thủ cuối
tuần hai mẹ con cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ hướng Cao Bằng
Lạng Sơn về ga Ấm Thượng. Do đã biết trước địa điểm, lại háo hức mong
gặp ba, chuyến đi này diễn ra xuông sẽ nhanh chóng hơn lần trước. Vượt
30 km đường bộ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 vào lúc
nửa đêm. Mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều.
Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức
không ngủ được.
Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất hình
sự. Tôi trình bày lý do, giấy tờ và xin phép được gặp ba. Gã cầm giấy tờ
đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gã đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm
đăm. Gã nói: Rất tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông
nhà đang bị kỹ luật vì vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để thức ăn
và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông. Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và
năn nỉ. Gã một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to
hơn.
Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà càng lớn tiếng. Không có nỗi
đau nào bằng nỗi thất vọng lúc này của chúng tôi. Khóc hết nước mắt vẫn
không lay chuyển, mẹ tôi càng la càng hét. Gã công an lúng túng không
biết xử lý như thế nào với tình thế phát sinh lúc này. Mẹ tôi lúc này
như một người mất trí, khuôn mặt nhể nhoại mồ hôi. Cặp mắt đỏ ngầu.
Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh đều
hướng về phía bàn chúng tôi. Tình hình căng thẳng đến nỗi đến tai cấp
chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai người thầm thì nhỏ to gì
đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu giọng:
– Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà
đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi.
Tuần sau bà quay lại. Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi
bình thường. Còn bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ
đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ gì.
Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi
nghĩ chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nhìn khuôn
mặt hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gã đã rất thiệt tình.
Tôi nói nhỏ với mẹ, mình về thôi. Tuần sau lên lại hy vọng họ giử lời
hứa cho gặp được Ba lâu hơn.
Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng
cho ba bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm
nhiệm vụ đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi. Để ấm nước
xuống bàn, người này đi chầm chậm về phía chòi vệ sinh sau khi ngoái lại
nhìn tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gã cán bộ công an đi vệ
sinh.
Bước vội nhanh vào phía trong vừa kịp thấy dáng khòm khòm của người tù
nhân bước ra. Tôi bước vào, nhìn quanh chòi vệ sinh được xây tạm bợ bằng
lá tranh với cánh cửa nửa kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nhìn quanh vách
tre lá. Tôi có linh cảm hình như người tù nhân muốn cho tôi biết một
điều gì đó. Tôi nhìn quanh, quả đúng như linh cảm, trên góc đòn tre phía
trái, tôi thấy một mãnh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một dòng
chữ: Ông D. bệnh nặng.
Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào phòng tiếp tân. Dù rất xúc động nhưng
tôi vẫn còn giữ chút bình tĩnh kéo mẹ ra góc phòng báo tin. Mẹ vững vàng
và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và
nói:
– Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa
về Hà Nội cũng mất hai ngày. Gã cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị biệt
giam, không được phải cả tuần chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.
Đến lúc này nỗi uất ức trong lòng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:
– Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các ông có còn là con người không?
Đến lúc này thì mẹ tôi không còn biết sợ là gì nửa, tất cả những oán hận
chất chứa trong lòng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể
ngăn được. Cả phòng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều người
bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gã cán
bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc nãy. Gã dịu giọng
nói với chúng tôi:
– Xin bà bình tỉnh, mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải quyết.
Nói xong gã ra lệnh cho hai công an dìu mẹ tôi vào căn phòng phiá trong.
Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện. Căn phòng sạch
sẽ hơn phòng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:
– Bây giờ tôi xin nói thật về tình trạng của ông nhà. Thật ra ông đang
bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đã biết, tôi
sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông. Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho
người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát.
Nói xong gã bước ra, nói nhỏ gì đó với tay công an trực. Tay công an
bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút gì đó gã trở về, bước đi gấp
gáp, hấp tấp. Lại thì thầm to nhỏ với viên chỉ huy.
Linh cảm không hay đến với tôi. Lần này viên sĩ quan trầm giọng:
– Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đã tận tình
chữa trị ,nhưng vì sức yếu , ông nhà vừa mất cách đây 5 phút. Chúng tôi
xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ lo chôn cất ông nhà đàng hoàng tử
tế.
Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la.
Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không đem ra
chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ
dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại. Tôi ôm
mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê
liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất đi.
Chúng tôi được dẫn di gặp ba lần cuối. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn
sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ.
Ba nằm trên một giường tre, thân hình gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như
bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng
không dài thòn như lần đầu tôi gặp. Hình như đã hết nước mắt, mẹ không
khóc yên lặng ngồi xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên
kia. Hai mẹ con ôm chầm lấy ba.
Vẫn còn hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng
trừng nhìn ba. Hình như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu. Sẽ không
bao giờ tôi quên được cái hình ảnh của ba mẹ tôi trong bệnh xá trại K2
Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi
kéo mẹ đứng lên.
Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang
hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống
để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được một muỗng cháo trắng. Muỗng
cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi mãi mãi. Giá mà tay cán bộ có một
chút tình người thì có lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần
một lần mà thôi, của một cuộc tình ba mươi mấy năm. Tôi biết ba đã không
đành lòng ra đi. Đành lòng sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ
nam ra bắc, chỉ còn cách một bước chân thôi mà mẹ không thể nói với ba
những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn trối sau cùng.
Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên lòng ra đi rồi có ngày
mẹ ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng.
Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.
Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù
nhân tương đối đàng hoàng. Có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được
bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được vùi sơ sài trong các
khuôn đất trống bên trong trại. Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên
có hòm làm bằng gỗ ván thông mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ
rách bươm. Cũng có 4 người tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có
4 công an đi cùng. Cũng có ly hương là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm
bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba còn sót lại trong trại. Mẹ
đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ đi về phía 1 đồi
trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi, tôi để ý thấy có
những gò đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh. Nơi chôn ba là một ngọn
đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội 1 lớp đất không
sâu lắm, hòm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan
cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận
cùng biên giới Việt Trung. Một mình, lạnh lẽo. Mẹ không còn nước mắt để
khóc. Suốt buổi nhìn trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng
tràn đầy oán hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặc môi đến tươm
máu. Thôi ba ơi, hãy yên nghĩ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày
không xa.
Trước khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập
ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.
Tin chồng bà bún bò Huế chết trong trại học tập cải tạo lan truyền một
cách nhanh chóng khu Hồ Tắm Chi Lăng và cả khu chợ Cây Quéo Phú Nhuận.
Có thể có những người chết trước ba nhưng có lẽ ở khu phố Lam Sơn Phú
Nhuận ba tôi là sĩ quan đầu tiên chết trong trại cải tạo được gia đình
chôn cất đàng hoàng. Từ lúc trở về mẹ tôi ngày nào cũng đi khắp xóm. Gặp
ai cũng khóc cũng kể về cái chết của ba, về nỗi uất ức của một người
đàn bà đi cả ngàn cây số để cuối cùng không gặp mặt chồng trước khi lìa
đời. Xa ngàn dặm và chỉ gần một bước chân mà vợ chồng không thể gặp nhau
lần cuối. Đớn đau và tàn nhẫn quá. Mẹ khóc, mẹ kể với sự đồng cảm của
bạn bè, của thân nhân và của cả những người không quen biết. Công an
phường và cảnh sát khu vực nhiều lần gặp mẹ, an ủi xoa dịu và cả đe dọa
nhưng mẹ không từ bỏ.
Con người khi đã mất đi phần đời yêu qúy nhất của mình thì còn nỗi sợ
nào hơn. Tôi thì rất lo dù sao tôi vẫn đang làm việc. Các em đang còn
nhỏ dại. Nếu bị trả thù hay mẹ bị bắt vì tội phản động thì gia đình sẽ
ra sao? Nhưng khuyên cách mấy cũng không làm mẹ thay đổi. Tính mẹ tôi
thuở nào cũng như vậy. Khi bà muốn làm điều gì thì làm cho bằng được. Đã
nhiều lần bị đưa ra kiểm điẻm trong các buổi họp tổ dân phố nhưng mẹ
vẫn như củ. Gặp ai cũng kể gặp ai cũng khóc cho đến ngày chúng tôi nhận
đuợc giây triệu tập lên phường.
Lo sợ có chuyện không lành xảy ra cho gia đình, tôi báo tin và xin chú
cùng chúng tôi lên Phường. Không biết có phải vì muốn xoa dịu chúng tôi
hay không, hôm đó Phường mời chúng tôi lên chỉ để đọc quyết định trả
quyền công dân cho ba. Công an phường sau khi thuyết giảng tràn giang
đại hải về lòng khoan dung của đảng và nhà nước đã trao cho mẹ giấy trả
quyền công dân vì thành tích học tập tốt của ba trong thời gian trong
trại cải tạo. Sau này tôi mới biết qua người bạn tù của ba, ba là người
thường xuyên bị kỷ luật và biệt giam. Thường xuyên không tuân thủ nội
quy trại. Trả quyền công dân cho một người đã chết, thật quá tức cười và
quá nỗi đắng cay.
Cuối cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và
chúng tôi cũng phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em vẫn
hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu
tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng
thịt. Mỗi khi nhìn con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy
nhiêu năm ba rời xa chúng tôi. Cho đến bây giờ sau bao nhiêu năm tháng
tôi vẫn không quên khuôn mặt ốm nhom ốm nhách của ba trong trại K2 năm
nào.
Những năm sau đó, dù vất vả, cuộc sống khó khăn, chúng tôi cùng mẹ cũng
kiên cuờng sống tiếp nuôi các em ăn học. Có những ngày ăn bo bo thay
cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì.( thời đó tại
sài gòn chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài bắc). Tùy
theo lúc, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì, có khi cả tuần
nhận toàn bo bo. Số luợng nhận tùy theo nhân khẩu của mỗi hộ gia đình).
Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đở ngán. Dù sao
thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày trong tù miền bắc.
Tôi tự an ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong
lòng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ ray rứt nghĩ về nơi lạnh
lẽo ba nằm, về nắm mộ hoang phế nơi tận cùng biên giới.Mẹ thường nói
không biết ba mày nằm ngoài đó như thế nào. Đêm nào mẹ cũng khóc một
mình. Càng ngày càng héo hon. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết
than ngắn lại thở dài.
Ba chết chưa đầy 3 năm, quá sốt ruột, thương mẹ và thương ba nằm lạnh
lẽo hiu quạnh, tôi xin nghĩ phép cùng mẹ ra Hà Nội một lần nửa. Lần này
với ý định đem ba về chôn cất tại Huế bên cạnh ông bà ngoại. Nhờ người
giới thiệu, tại Hà nội chúng thuê được 1 người chuyên về đào mộ cùng đi.
Từ sáng sớm 3 người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi
đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ trại xin đào lấy xác ba
đem về chôn tại quê nhà và bị từ chối. Lý do phải có giấy cho phép của
cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phài trên 3 tháng. Không còn
cách nào khác, không lẽ về tay không, chúng tôi quyết định đào trộm.
Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn
không hiểu tại sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui,
chết hoặc ở tù như chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba
và một phần do sự khuyến khích của tay đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ
của ba nằm ngoài vòng đai trại, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy
ra cho chúng tôi.
Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng tôi
đi đến khu mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rõ đường đi. Vẫn không thay đổi gì
nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thành giá trước mộ vẫn còn đó,
xiêu vẹo. Dấu khắc trên cây vẫn còn dù có mờ đi. Và cũng chỉ một mình
ngôi mộ của ba nằm ở đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi
mộ nào khác. Có lẽ chỉ một mình ba tôi là có thân nhân đến tiễn đưa khi
chết.
Chúng tôi bắt đầu công việc bốc mộ trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người
đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh chóng chạm đến nắp hòm. Nén xúc
động, tôi mở nắp quan tài. Ba nằm đó bộ xương còn nguyên vẹn với da thịt
và tóc chưa phân hủy hết. Chúng tôi đem bộ xương ba lên theo thứ tự
đầu, chân, tay, bên phải bên trái. Mẹ nức nở vừa khóc vừa rửa xương ba
bằng nước cánh hồi, sau đó bỏ vào hai bao lác mang theo. Một bao tôi
xách gồm phần đầu và phần tay chân bên trái. Bao lác của mẹ gồm xương
sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ dặn phải làm như thề để khi
về đem chôn trở lại với hình hài còn nguyên vẹn.
Chúng tôi lặng lẽ vượt 30km lên đường trở ra ga ấm thượng trong đêm. Về
đến ga Hàng Cỏ Hà Nội thì cũng đã xế chiều hôm sau. Mệt lã người vì
thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui vì đã đem ba về an toàn.
Bây giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn trước ga, mỗi
người ôm chặc một bị lác chứa xương người. Chúng tôi ăn những ổ bánh mì
dai nhách, uống những ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành .
Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay mình nhẹ tưng, bừng tỉnh
cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình tôi về phía trái. Ôi
cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương
người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống
đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng.
Đêm đó hai mẹ con ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài,
dài vô tận.
Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi đáp chuyến tàu đầu tiên xuôi nam và đến
ga Huế vào nửa đêm. Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự Bình,
cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các
ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà nửa đêm nhưng đã có rất đông họ
hàng, các em cùng vợ con tôi về Huế từ ngày hôm trước. Và có cả ông Cặn
hàng xóm, người chuyên môn lo về đám ma với hòm rương nhang đèn đầy đủ.
Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ
nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp lại
theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với các đồ
dùng còn sót lại của ba. Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An lăng có
mặt thật đông. Hôm đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần dù ba qua đời gần 3
năm. Dù sao mẹ cũng đã mãn nguyện thực hiện được uớc muốn từ bao năm
qua: đưa được ba về, nằm ấm cúng trong mảnh vuờn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn
mệ. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba ơi, hãy yên nghỉ, chúng con
thương ba vô cùng. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ và các em được
bình an.
Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi,
luôn theo dỏi phù hộ chúng tôi. Độ 3 tháng sau ngày đem ba về Huế, gia
đình tôi bỗng nhận được tin về đưá em gái kế. Người duy nhất trong các
anh em tôi ra đi tại bến bạch Đằng 6 năm về trước. Chúng tôi nhận được
thư của em gái kèm tờ giấy bạc 50 dollars. Không thể nào kể hết được nỗi
xúc động và sung sướng của gia đình chúng tôi lúc đó. Đã sáu năm trôi
qua, tưởng chừng như đã mất em vĩnh viễn. Hạnh phúc lớn nhất kể từ ngày
ba mất đi.
Ngoài niềm vui về đứa em gái, số tiền 50 dollar đối với gia đình tôi hồi
đó là một tài sản đáng kể. Kể từ ngày liên lạc được với gia đình, thỉnh
thoảng, em tôi gửi về lúc thì tiền lúc thì xà phòng, kẹo bánh, đồ dùng
điện tử. Quà nhận được, hầu như tất cả đều được đem bán thành tiền để
chi dùng trong gia đình. Họa hoằn lắm thì chúng tôi mới giữ lại một vài
gói kẹo M. M. Chia cho các em thì mỗi đứa cũng được độ 5-10 viên nhỏ
xíu. Hồi đó cái gì từ Mỹ cũng qúy vô cùng.
Dù không tin có thế giới bên kia, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng có ba luôn
ở quanh quẩn đâu đây, cùng với gia đình và luôn phù hộ cho mẹ con chúng
tôi. Cuộc sống gia đình chúng tôi từ cuối năm 1981 trở đi bớt cơ cực
hơn. Tôi ngoài giờ đi dạy học ở trường Bưu Điện, còn đi dạy luyện thi
vào đại học tại nhà học sinh trong xóm. Vợ tôi nhờ quan hệ tốt với các
cán bộ trong trường, khi thì mua thêm được gạo, khi thì mua thêm được
thịt, các bửa ăn trong gia đình cũng được khá hơn lên.
Các em, kể từ ngày ba được trả quyền công dân, sự phân biệt đối xử tuy
vẫn còn nhưng không quá nhiều như ngày đầu sau 75. Mẹ tôi mở gánh bán
bún bò tại nhà. Gia đình không dư giả giàu có gì nhưng cũng sống được
qua ngày một cách hiền lành, lương thiện. Sau ngày ba mất, chú tôi thi
thoảng có ghé thăm nhưng tôi vẫn cảm thấy một nỗi ngượng ngùng nào đó
trong quan hệ của chú cháu chúng tôi. Mỗi lần nhìn hình ba trên bàn thờ
tôi lại nhớ đến khuôn mặt gầy gò, râu tóc bạc phơ ngày nào trong trại K2
Vĩnh phú. Đôi mắt trừng trừng tức tưởi của ba cứ ám ảnh trong tôi hằng
đêm. Còn lâu tôi mới có thể tha thứ cho chú được. Giá mà ngày đó chú thu
xếp để mẹ tôi ra thăm ba sớm hơn thì có lẽ ba sẽ không ra đi như thế.
Nghĩ như vậy nhưng tôi biết, dù có thương ba bao nhiêu, chú cũng không
thể làm gì khác được.
Trong những đứa em của tôi, đứa thứ ba là đứa ít nói nhưng ghét chú và
căm thù chế độ CS nhiều nhất. Thái độ bất mản trong học hành và trong
sinh hoạt hàng ngày nhất là với các cán bộ miền bắc khiến tôi vô cùng lo
lắng, bất an. Em thường có những lời nói và biểu hiện mà các cán bộ cho
là phản động. Có khuyên mấy cũng không được. Lo sợ em gặp sự không may,
tôi bàn với mẹ đưa em ra Đà nẵng sống với gia đình người chị con bà dì
ruột. Và từ Đà Nẳng em là người đầu tiên trong gia đình tôi vượt biên
trái phép sang Mỹ sau 1975.
Năm 1982, chúng tôi nhận giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đình ODP. Chúng tôi nộp đơn xin đi Mỹ và ngay năm đó cả hai vợ chồng
cùng nhận giấy tờ cho thôi việc. Lý do: anh chị đã nộp đơn đi nước
ngoài, không còn đủ tư cách làm việc tại cơ quan Bưu Điện được nữa. Đây
là điều chúng tôi đã luờng trước nhưng không ngờ đến quá nhanh như vậy.
Vào những năm 81-82, gia đình có thân nhân ở nước ngoài được xem là phản
quốc. Nhất là với những người có tư tưởng ra sống ở nước ngoài như
chúng tôi. Chấp nhận bị đuổi việc môt cách bình thản, vợ chồng chúng tôi
bắt đầu khoảng thời gian lăn lóc với đủ thứ nghành nghề để kiếm sống và
tồn tại.
Thời đó nhờ những lần đi chầu chực lãnh quà từ nước ngoài tại phi trường
Tân Sơn nhất rồi đem bán tại chợ đồ ngoại cuối đường Nguyễn Thông, tôi
làm quen với nhiều bạn hàng và cả những người đi lãnh quà như tôi. Mới
đầu bán đồ của mình, sau đó mua lại của những người khác, tôi bắt đầu
gia nhập hàng ngủ những người mua đi bán lại. Có mặt từ sáng sớm tại phi
trường, theo chân những người lãnh hàng về tận nhà, mua rồi đem ra chợ
bán kiếm chênh lệch. Hàng hoá từ kẹo, bánh đến nước hoa, đồ điện tử.
Thượng vàng hạ cám, bất kỳ thứ gì miễn là của Mỹ là mua, là bán. Làm cái
công việc không dính dáng gì đến cái bằng cấp tốt nghiệp của mình.Chỉ
cần cái miệng thật dẽo, thật trơn tru. Một đôi khi nhớ lại những ngày
tháng trước năm 1975, thấy mình thật nhiều thay đổi. Cái hiền lành chơn
chất thuở nào như không còn nữa. Thật buồn, thật tiếc nuối.
Cũng may, tôi vẫn còn duy trì lớp dạy sửa chửa Radio TV tại nhà vào buổi
tối. Đó là thời khắc vui nhất trong ngày của tôi. Ít nhất là lúc đó tôi
còn thấy mình còn có ích, còn giống đứa con của ba mẹ thuở nào. Lớp ít
học sinh nhưng tôi đã giảng dạy một cách say sưa. Và cuốn sách sửa TV
của tôi ra đời trong thời gian này. Để in và xuất bản được cũng là một
quá trình nhiêu khê nhưng cuối cùng Hội trí thức yêu nước cũng giúp tôi
thực hiện được mơ ước nhỏ nhoi này.
Trong những năm giữa thập niên 80, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện hàng
điện tử second hand. Đây là những mặt hàng điện tử như tivi, tủ lạnh,
radio c***ette hư cũ đã qua xử dụng được các thủy thủ tàu viễn dương đem
về bán lại. Các tàu chở hàng đậu ngoài cảng xa. Mỗi khi có hàng về,
chúng tôi đi từng nhóm dùng thuyền nhỏ cặp ra tàu lớn mua lúc từ 5 đến10
cái. Dĩ nhiên đây là buôn bán trái pháp luật nhà nước. Bị bắt thì hàng
bị tịch thu, phạt tiền và ở tù. Nhưng nếu thoát được thì kiếm tiền
nhiều. Đem về sửa lại rồi đem ra chợ bán.Thời đó có ăn nhất là chuyển hệ
TV để xem hình có màu trên TV. Dĩ nhiên không đẹp và rõ như bây giờ
nhưng thời đó là cái mốt của các cán bộ miền bắc có tiền. Chợ trời điện
tử Huỳnh Thúc Kháng hình thành và lớn mạnh trong khoảng thời gian đó.
Sau đó là một loạt các chợ trời Bảy Hiền, Lăng cha cả, Chợ lớn được
thành hình giúp những người có một chút tay nghề về điện tử như tôi sống
sót và tồn tại.
Nhưng cũng chỉ một thời gian. Lúc đầu, buôn bán rất khá, lợi nhuận cao,
sau đó càng ngày càng khó khăn khi mà có nhiều tay trùm có quá nhiều
tiền nhảy vào. Họ không mua từng 5-10 cái như chúng tôi mà họ mua nguyên
cả tàu khi vừa cập cảng. Những tay trùm cán bộ có thế lực và có rất
nhiều tiền. Họ có quan hệ và quyền lực mà những người ít tiền như chúng
tôi không cạnh tranh nổi. Phải là con ông cháu cha. Phải đợi chia lại
hàng từ những trùm lớn hơn. Đôi khi phải qua trung gian 2, 3 cấp. Chất
lượng hàng cũng kém đi rất nhiều.
Bỏ nghề điện tử, nhảy qua buôn trầm từ Đà Nẳng về Saigon. Nói là buôn
trầm cho oai chứ mình làm gì có tiền nhiều như thế. Thường chỉ ra Đà
nẳng nhận trầm từ ngươi quen, đem vào Sài gòn giao cho mối, ăn tiền
chênh lệch. Đi đuợc chục chuyến có lời dù cũng rất vất vả. Lúc thì lăn
lóc trên xe đò khi thì la lết trên tàu chợ nam bắc. Tôi càng ngày càng
ốm nhom ốm nhách. Mặt mũi đen thui. Chỉ lạ một điều là thời đó dù đi
nhiều, tôi lại rất ít gặp người quen, bạn bè. Nếu có gặp, bạn bè chắc
cũng không nhận ra chàng kỹ sư hiền lành chơn chất trắng trẽo thư sinh
thuở nào.
Đi thoát được khoảng chục lần, đến lần thứ 11 thì tôi bị quản lý thị
trường bắt. Trầm bị tịch thu, riêng tôi bị giam tại công an Quảng Ngải. 2
ngày trong trại tạm giam tôi đã suy nghĩ thật nhiều về những ngày tháng
đã qua trong cuộc đời. Hình như tôi đã thay đổi quá nhiều, không còn là
tôi của năm xưa. Cái được thì quá ít, cái mất đi thì quá nhiều. Tôi cay
đắng nhận ra rằng nếu tôi không dừng lại, tôi cũng sẽ mất tôi vĩnh viễn
trong một thế giới không thuộc về tôi. Một thế giới bụi bặm, luờng gạt
và xảo trá khác xa với thế giới ngày tôi sinh ra, lớn lên. Tôi biết, ba ở
một nơi nào đó đã rất buồn.
Bỏ nghề buôn bán, bỏ qua ý tưởng làm giàu nhanh chóng, tôi quay lại nghề
dạy điện tử của mình. Vẫn là nghề phù hợp vói mình nhất. Dù không có
nhiều tiền nhưng 1+1 là 2 thì vẫn dễ hơn là 1+1=3. Vẫn là vợ tôi bên
cạnh trong những thời khắc khó khăn với những an ủi và chia sẻ. Nàng
luôn ủng hộ tôi trong những quyết định quan trọng và chúng tôi có đưa
con thứ nhì. Con gái. Tôi thầm nghĩ, ba đã cầm tay, dẫn dắt tôi bắt đầu
làm lại.
Năm
1988, gia đình được gọi đi phỏng vấn ở toà lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài gòn.
Với giấy tờ đầy đủ, hợp lệ cuộc phỏng vấn đáng lẽ đuợc diễn ra một cách
nhanh chóng đột nhiên bị dừng lại khi có phái đoàn cấp cao từ Thái Lan
ghé thăm, lúc đó trong phòng, mẹ đang chuẩn bị trả lời. Vị trưởng đoàn
có vẻ ngạc nhiên khi đọc hồ sơ của gia đình, nhất là chuyện liên quan
đến ba tôi, người sĩ quan cảnh sát chết trong trại cải tạo sau 2 năm 6
tháng học tập. Ông ta có vẻ ngạc nhiên về tờ giấy trả quyền công dân của
ba tôi.Có lẽ là lần đầu tiên ông thấy được một loại giấy tờ như vậy.
Giấy trả quyền công dân cho một người đã chết.
Mẹ
tôi vừa khóc vừa kể chuyện của ba. Câu chuyện về một cái chết và một
chuyến đi thăm nuôi tức tưởi đã làm ngươì lãnh đạo đoàn thanh tra ODP
cảm động. Chỉ một thời gian ngắn mẹ và các em tôi được giấy chấp thuận
đi Mỹ theo diện HO thay vì theo diện đoàn tụ gia đình dù rằng ba tôi ở
tù chưa đến 3 năm. Tôi biết có sự can thiệp đặc biệt của phái đoàn từ
Thailand và tôi thầm tin có sự phù hộ của ba. Riêng vợ chồng chúng tôi
tôi ở lại vì lúc đó có gia đình và sổ hộ khẩu riêng.
Vài
tháng sau Mẹ và các em tôi đi Mỹ. Vợ chồng chúng tôi ở lại với 2 con
nhỏ và bà cô em ông nội không chồng. Cũng may nếu tôi cùng đi thì không
biết bà cô sẽ ra sao. Cuộc sống sau những năm 1990 của chúng tôi ngày
càng ổn định. Lúc này, ngành điện tử và vi tính bắt đầu phát triễn. Các
công ty nước ngoài bắt đầu thiết lập các văn phòng đại diện và quan hệ
buôn bán tại việt nam. Tôi được tuyển vào làm việc lần lượt tại các văn
phòng đại diện của Hewlett Packard, Brother, AT&T và cuối cùng là
AMP tại Việt nam.
Đó
là khoảng thời gian tôi sống sung sướng và sung túc nhất kể từ ngày mất
nước 1975. Thời kỳ này, tôi sống và làm việc đúng với khả năng, với
kiến thức từ khoa điện trường đại học Phú Thọ. Nếu không có thời kỳ mở
cửa này, nếu không có những công ty nước ngoài, có lẽ suốt đời, tôi đứa
con một sĩ quan cảnh sát chế độ cũ, đã sống một cách tối tăm và mất hút
đâu đó trên chính quê hương đen tối của mình. Vào những năm 90, tiền
lương 700 usd của là một con số không nhỏ nêu không muốn nói là lớn.
Quan trọng hơn, đó là khoảng thời gian tôi được tiếp xúc với thế giới
bên ngoài qua những chuyến đi học tập ngắn ngày tại Singapore, Thailand,
Malayia, Indonesia, và Philipine.
Đi
học và về, tôi liên tục tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu các sản
phẩm và công nghệ mới của HP. Brother, AT&T và AMP tại Sài Gòn, Hà
Nội, Đà Nẳng… Tên, hình ảnh tôi được đăng trên báo. Ra đường tôi đã có
quyền ngẫng cao đầu. Ba tôi chắc chắn đã rất sung sướng, tự hào về tôi.
Một khoảng thời gian hạnh phúc và có ích. Tôi đã tìm lại chính con người
thật của mình.
Năm
1998, tôi được chấp thuận đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Bấy giờ tôi
đã có 3 đứa con với cuộc sống rất ổn định, sung túc. Những chuyến đi
nước ngoài thường xuyên. Có nhà riêng. Con đầu đang học đại học. Mọi
chuyện suông sẻ, thuận lợi. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Đi hay ờ. Một
quyết định không dể dàng.Với tuồi gần 50 làm gì nơi đất khách quê người.
Đã quá già để làm lại từ đầu. . Xin hoản ngày đi 3 tháng rồi cũng đến
lúc phải quyết định, nếu không hồ sơ sẽ được xếp lại. Cơ hội đi doàn tụ
sẽ không còn.
Thật
ra nếu chỉ nghỉ đến riêng cho vợ chồng tôi thì câu trả lời sẽ rất dễ
dàng, đơn giản. Tội gì phải ra đi khi đang có một cuộc sống ổn định và
quá đầy đủ vào lúc đó. Trưởng văn phòng đại diện một công ty nước ngoài
tại Sàigòn. Đi nước ngoài thì năm nào cũng đi 3, 4 lần. Tháng nào cũng
700-800 dollar bỏ túi. Công việc thì dễ dàng. Xếp trực tiếp thì ở tận
Singapore. Vài tháng mới qua Việt Nam 1 hay 2 lần. Một tài xế, một cô
thư ký xinh đẹp, vài ba nhân viên dưới quyền và một người giúp việc. Đi
làm thì có Laptop, cell phone. Đi ăn thì có khách hàng trả tiền. Cuối
năm thì gia đình đi du lịch nước ngoài, chi phí có công ty lo. Khách
hàng thì rất nhiều. Tết nhứt cũng có quà cáp, nhậu nhẹt. Phải từ bỏ tất
cả thật sự là một quyết định quá khó khăn. Và còn mộ ba ở đây nữa, ai
lo? Phải, có rất nhiều lý do để ở lại, không đi.
Đã nhiều lần đừng trước bàn thờ ba, mong ba một lới khuyên. Đi hay ở. Quá khó.
Cuối
cùng tôi chọn giải pháp ra đi. Không phải vì vợ chồng riêng tôi mà vì
gia đình, vì mẹ, vì các em, vì tương lai các con của tôi và vì lời hứa
với ba, “mãi mãi thay ba vì cái gia đình này”. Tôi biết những ngày sắp
đến tôi sẽ phải bắt đầu trở lại một cuộc phiêu lưu mới. Sẽ không dễ dàng
với một người quá tuổi như tôi trên một đất nước hoàn toàn lạ lẫm và
quá xa xôi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ hối hận về quyết định của mình.
Cũng còn một lý do thật sâu kín không ai biết ngoại trừ vợ tôi: “Vết
thương mất cha ngày nào trong trại học tập mãi mãi không lành”.
Mỗi
lần nhìn những tay công an, những cán bộ cộng sản, tôi lại nhớ đến
khuôn mặt gày gò, cặp mắt đau thương tuyệt vọng của ba lần gặp mặt trên
đường đến trại K2 mười mấy năm về trước. Muốn quên nhưng khó thể quên
được.Muốn tha thứ nhưng không thể nào tha thứ được. Vẫn mãi mãi một mối
căm thù. Vợ tôi hiểu điều đó, chấp nhận cùng chồng đối diện một cuộc thử
thách mới trên đất khách quê người, bỏ lại bên kia bờ đại dương một mẹ
già và một người em gái yêu quý. Tôi biết tôi đã nợ em, một mối ân tình
thật sâu đậm.
Những
ngày cuối năm 1998, máy bay chở gia đình chúng tôi đáp xuống phi trường
Los Angeles, California Hoa Kỳ. Kết thúc quảng đời 23 năm sống dưới chế
độ cộng sản và để bắt đầu một cuộc hành trình không biết sẽ ra sao
nhưng tôi tin, chắc chắn sẽ tốt đẹp và bình an hơn. Và, dù ở cách xa
ngàn dặm, ba vẫn sẽ luôn theo dỏi, phù hộ mẹ và 9 anh em chúng tôi. Ba
ơi, nếu có một kiếp sau, chúng con vẫn sẽ là những đứa con ngoan của ba:
Người tù học tập cải tạo chết ở miền đất tận cùng biên giới Việt Trung
năm 1978. Hưởng dương 54 tuổi.
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Apr/2015 lúc 11:25pm
Nỗi đau của cả dân tộc :
Cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh
Tại hội nghị Genève Thụy Sĩ ngày
20-7-1954 nước Việt Nam bị phe tư bản và cộng sản chia đôi lấy sông Bến Hải làm
ranh giới. Miền Bắc thuộc khối Nga-Tàu, miền Nam là Mỹ-Pháp. Cuộc chiến tranh
lạnh giữa Tư Bản và Cộng Sản kéo dài gay gắt từ ngay sau thế chiến thứ II và ba
nước nằm trong lằn ranh tranh chấp ấy bị chia đôi là Đức, Triều Tiên năm 1945
và Việt Nam năm 1954. Trên bàn cờ quốc tế bấy giờ, Đông – Tây Đức, Nam – Bắc
Triều Tiên, Nam – Bắc Việt Nam nằm trên tuyến đối đầu và rất dễ biến thành
những con tốt thí cho cuộc chiến tranh lạnh nếu những người lãnh đạo không có
bản lãnh, khôn ngoan, không biết nhìn xa, trông rộng, nhất là không có lòng yêu
nước sẽ dễ dàng bị ngoại bang lung lạc, sai khiến.
Tuy trong cùng hoàn cảnh phân chia nhưng dân tộc Đức và Triều Tiên không bị
thảm cảnh nồi da xáo thịt như Việt Nam.
Miền Bắc Triều Tiên trải qua ba đời cai trị tàn bạo của triều đại cộng sản
nhà họ Kim (Kim nhật Thành, Kim jong Il, Kim jong Un) cũng không gây ra cuộc
chiến giữa 2 miền Nam – Bắc sau khi cuộc chiến Trung Cộng và Mỹ chấm dứt năm
1953. Hiện nay Nam Triều Tiên là nền kinh
tế đứng hàng 11 thế giới. Hai miền Đông – Tây Đức thay vì
gây ra cảnh nồi da xáo thịt thì cả hai đều lo kiến thiết đất nước bị tàn phá
tan hoang trong thế chiến thứ 2 thành 2 nền kinh tế vững vàng. Đông Đức Cộng
Sản có đời sống cao nhất trong khối Cộng Sản, vượt trên cả Liên Xô. Sau 44 năm
bị phân chia, dân tộc Đức thống nhất hoàn toàn chi trong 1 buổi tối, không tốn
1 viên đạn, không một người chết, không một ngôi nhà, một mảnh vườn bị tàn phá.
Đó là tối 9/11/1989 khi bức tường Berlin, biểu tượng của sự chia cắt, sụp đổ. Dân tộc Đức thực hiện cuộc thống nhất kỳ
diệu: không có kẻ chiến thắng, không có kẻ chiến bại: chỉ có một dân tộc Đức
hợp làm một, một dân tộc Đức thống nhất!
Trong khi đó dân tộc Việt Nam chịu nỗi bất hạnh của hơn 10 triệu tấn bom đạn đổ lên đầu,
không biết bao nhiêu xe tăng, thiết giáp, máy bay, hoả tiễn, đại bác từ phía
cộng sản và tư bản quần thảo, bắn phá gần 20 năm trời gây biết bao tàn phá,
chết chóc ở cả Miền Nam lẫn Miền Bắc.
Trước hết nói về số người chết, dù là miền Bắc hay Miền Nam, thì tất cả đều là
người Việt, con dân nước Việt. Máu, thịt đổ ra ở miền nào thì cũng là máu thịt
Việt Nam! Có bao nhiêu triệu người Việt Nam chết trong cuộc chiến tương tàn
này?
Kẻ thắng là chính quyền Cộng Sản từ khi chấm dứt chiến tranh đến nay chưa bao giờ dám công bố tổng số người chết
trong cuộc chiến vì 2 lý do: thứ nhất, nếu công bố tổng số con số
người chết rõ ràng thì cuộc chiến thắng của họ trả bằng cái giá xương máu quá
đắt của dân tộc Việt Nam; thứ hai, họ không dám đứng ra nhận trách nhiệm
về cuộc tiến quân vào miền Nam mà nếu biết nhìn xa, trông rộng, nếu có tấm lòng
thương đến giống nòi, đất nước thì phải giữ yên 2 bờ chiến tuyến bị bắt buộc
phân chia, rồi chờ cơ hội thuận tiện xum họp Nam Bắc một nhà.
Dân tộc Đức đã làm như thế và dân tộc Triều Tiên rồi cũng sẽ làm như thế !
Cố Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà Thương Thích huyền Quang từng nói đảng Cộng Sản Việt
Nam giết chết 10 triệu người từ năm 1945 đến sau khi tàn cuộc chiến 1975, trong
đó có gần 1 triệu chết trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Ông Nguyễn minh Cần, cựu phó Chủ
Tịch Hà Nội hiện đang sống ở Nga, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày
25.2.2015 ước lượng cuộc chiến tranh tương tàn Bắc – Nam vừa qua “gây chết chóc
6 triệu người hay thậm chí còn lớn hơn.”
Từ điển Bách Khoa Wikipedia viết số người thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam
từ 3 tới 5 triệu người, hàng triệu người bị tàn tật. Về thường dân có từ 900
ngàn tới 4 triệu người, trong đó 2 triệu ở miền Bắc và 2 triệu ở miền Nam. Tài
liệu của Wikipedia không đáng tin cậy: Thứ nhất, con số ước lượng từ 900 ngàn
tới 4 triệu có khoảng cách quá xa. Thứ hai, đã nói từ 900 ngàn tới 4 triệu mà
lại nói 2 triệu ở miền Bắc và 2 triệu ỏ miền Nam là không hợp lý.
Căn cứ vào số bom đạn, số vũ khí tối tân có khả năng tàn sát
lớn, trận địa mở rộng khắp miền Nam từ miền núi tới đồng bằng, từ thành thị tới
nông thôn kéo dài tới gần 20 năm và sự tàn sát không nương tay thì con số do cố
Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang và ông Nguyễn minh Cần đưa ra hợp lý hơn.
Những người bị buộc phải trực tiếp cầm súng giết hại lẫn nhau ở hai miền là bao
nhiêu?
Miền Bắc theo sách lược chiến tranh toàn diện, tức động viên toàn bộ nhân vật
lực, ở thôn làng vắng bóng thanh niên. Phụ nữ bị động viên vào dân quân, thanh
niên xung phong hay lao động các nông trường. Thiếu niên 16, 17 chưa đủ tuổi
Đảng cho vay để bắt đi bộ đội vào miền Nam.
Ở miền Nam thanh niên lớn lên 18, 19 tuổi là bị bắt lính, trừ những người còn
đi học. Nhưng sổ lính chờ sẵn nếu thi rớt là bị gọi ngay: Rớt Tú Tài anh đi trung sĩ, Em ở nhà lam lũ nuôi con. Khi nào con lớn con khôn, Nhắc con làm lễ chiêu hồn cho anh!
(Ca dao)
Sao lại làm lễ chiêu hồn? – Lễ chiêu hồn ngày xưa dành cho những người chết
không lấy được xác như đắm đò, té xuống sông bị dòng nước cuốn đi, lên rừng bị
cọp tha xác mầt, linh hồn vơ vẩn không biết đường về nên người ta lập đàn chiêu
hồn trên bờ sống, nơi mé rừng (để gọi hồn).
Ở đây người “chinh phu”nghĩ rằng trong tình trạng chiến tranh khốc liệt như thế
mong gì ngày trở về: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Vương Hà). Xác phơi
nắng, phơi sương ngoài đồng hoang, rừng sâu, núi thẳm lấy “ai mạc (vẽ hình để
thờ), lấy ai gọi hồn” CPM.
Không biết ở miền Bắc có những câu ca dao tương tự không?
Từ Nam chí Bắc không nhà nào, không thôn xóm nào không có người chết trận.
Con số những thanh niên ở cả 2 miền Nam – Bắc bị bắt buộc cầm súng giết nhau là
bao nhiêu?
Sau năm 1975, người ta tổng kê được 3.608.863 khẩu súng bộ binh của miền Bắc và
1.900.000 khẩu súng bộ binh của miền Nam do Liên Xô, Trung quốc, các nước Đông
Âu và Mỹ, Pháp chế tạo, cung cấp, chưa kể đại bác, hoả tiễn, máy bay, xe tăng,
thiết giáp… Như vậy ở miền Bắc ít nhất có 5 triệu người cầm súng và miền Nam ít
nhất là trên 3 triệu vì những người bị chết, bị thương, quá tuổi được giải ngũ
súng lại trao cho người khác. Tất cả có khoảng 8 hay 9 triệu người Việt Nam cầm
súng bắn giết nhau !
Số tổn thất của miền
Bắc: Theo tài liệu “Lịch Sử Kháng Chiến
Chống Mỹ Cứu Nước (1954-1975) của nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia đã xuất bản
thì tống số bộ đội chết trận là 1.100.000, kể cả 300ngàn không lấy được xác và
600 ngàn bị thương hay bị bệnh. Theo tài liệu mới nhất của Bộ Lao Động-Thương
Binh Xã Hội thì:
- Cho đến năm 2012 cả nước qui tập được: 937.000 hài cốt liệt sĩ (*)
- Trong 2 năm 2013 và 2014 tìm thêm được: 90.000 hài cốt nữa.
- Số hài cốt liệt sĩ chưa kiếm được là: 214.000
Tổng cộng: 1.241.000 người chết. Con số này không đáng tin cậy vì từ
xưa đến nay chính quyền Cộng sản không bao giờ thành thật, người ta không dại
gì đưa ra con số tổn thất lớn lao có hại về chính trị, dư luận bất lợi và nhất
là trách nhiệm trước lịch sử.
Phần quân đội Mỹ, họ ước đoán giết khoảng 500.000 bộ đội (10 đổi), quân
đội miền Nam giết khoảng 400.000. Con số này có lẽ là con số bộ đội bị giết
trong thời gian quân Mỹ tham chiến (1965-1974), còn thời gian trước đó từ
1957,1958 đến 1965 là bao nhiêu? – Ít nhất cũng từ 500.000 đến 700.000 nữa chưa
kể con số chết khi vượt núi rừng Trường sơn vào Nam: “cứ 10 người lính thì chỉ
5 – 6 người tới Miền Nam, còn lại bị chết vì bệnh sốt rét, rắn cắn, kiệt sức
hay tai nạn” (Vi Wikipedia). Như vậy số
binh sĩ Miền Bắc chết trong trận chiến khoảng 2 triệu người hay hơn nữa.
Số tổn thất của Miền
Nam: Lewy dẫn tài liệu lưu trữ của Bộ
Quốc Phòng Mỹ là 220.357 binh lính tử trận từ 1965 đến 1974, nhà sử học R.J.
Rummel ước tính cao nhất là 316.000 tử trận. Số liệu của Bộ QP Mỹ chỉ ghi từ
khi quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam 9 năm, non nửa thời gian cuộc chiến và có lẽ
chỉ ghi sự tổn thất của lực lượng chính qui, không ghi các lực lượng bán quân
sư như Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát và lực lương dân sự như cán bộ Xây
Dựng Nông Thôn, các viên chức Xã, Ấp. Chỉ riêng con số các viên chức Xã, Ấp ở
miền Nam bị ám sát, bắt cóc thủ tiêu, theo Giáo Sư Sử Học Phạm cao Dương, đã
lên tới khoảng 150.000 người bị giết hại do chính sách khủng bố của chính quyền
Cộng Sản suốt cuộc chiến gần 20 năm trời.
Trong 1 cuộc khảo sát tại kho Lưu Trữ Hồ Sơ của Nha Hưu Bổng Cấp Dưỡng Bộ Cựu
Chiến Binh ở Saigòn cuối năm 1973, chúng tôi ghi nhận có khoảng 1.050.000 hồ sơ
cả cấp dưỡng và hưu bổng, trong đó hồ sơ Hưu Bổng (cho lính về hưu) chiếm
150.000, còn lại 900.000 là hồ sơ Cấp Dưỡng cho vợ con tử sĩ (quân chủ lực, bán
quân sự, dân sự). Như vậy số người chết vì chiến trận hay liên quan xin cấp
dưỡng là 900.000 người. Nhưng chúng ta nhớ là ở Miền Nam phần lớn gọi thanh
niên từ 18 đến 25 tuổi vào quân đội, hầu hết những người này lúc bị bắt đi lính
chưa lập gia đình nên khi tử trận không có hồ sơ cấp dưỡng. Con số đó là bao
nhiêu?
Theo tôi nghĩ ít nhất là 400.000, 500.000 người.
Số dân chúng chết vì chiến tranh: Người dân là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh theo hai
nghĩa : Nghĩa thứ nhất, chết do kẹt
giữa 2 lằn đạn hoặc bị oanh kích, pháo kích, bị trúng mìn,bị truy đuổi trên Đại
Lộ Kinh Hoàng, Quốc lộ 14; chết vì bị nghi ngờ theo Việt Cộng, bị tra tấn, đánh
đập cho đến chết, chết trong tù; chết vì bị nghi ngờ làm do thám, làm anten cho
Quốc Gia là bị giết, bị thủ tiêu. Vào những năm 1960-1970 người dân Saigòn tới
Bình Chánh, Nhà Bè câu cá bị nghi là do thám nhiều người bị bắt mất tích (mang
đi thủ tiêu), một phóng viên của báo Tự Do phụ trách mục phóng sự “Thăm Dân Cho
Biết Sự Tình” bị bắt mất tích ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long… Giết
lầm hơn thả lầm. Nghĩa thứ hai là
đói khát khổ sở, không có ăn (bộ đội còn không đủ ăn -Vi Wikipedia), không có
thuốc men, vì sưu cao thuế nặng cho chiến tranh nên nghèo đói, nghĩa vụ lao
động nặng nhọc phát bệnh mà chết (miền Bắc); nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá,
lang thang đói khổ phát bịnh mà chết (Miền Nam). Tất cả dân chúng chết trong
cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh là bao nhiêu?
Không có con số thống kê. Từ Điển Vi Wikipedia ước lượng cả 2 miền là 4 triệu.
Ôi những con số ! Những con số !
8,9 triệu người Việt Nam cầm súng bắn giết nhau trong gần 20 năm trời!
2 triệu lính Miền Bắc bị giết.
1 triệu rưỡi lính Miền Nam bị giết.
4 triệu người dân bị giết !
Núi xương sông máu !
Bao nhiêu tấm khăn tang ?
Bao nhiêu dòng nước mắt ?
Bao nhiêu cô, quả ?
Bao nhiêu nhà cửa, ruộng vườn bị đốt cháy, bị tàn phá ?
Bao nhiêu con đường bị đào bới, bị đặt mìn và bao nhiêu chiếc xe bị nổ tung ?
Bao nhiêu cây cầu bị ném bom, bị đặt mìn giựt sập ?
Ai phát động hay bị bắt buộc phát động cuộc chiến ?
Ai đưa 430.000 quân Trung cộng tới Việt Nam ?
Ai đưa 500.000 quân Mỹ tới Việt Nam ?
Ai trao tay xe tăng T 54 – M48, máy bay T28, F5 – Mig19, Mig21, Sơn pháo 130
ly, hoả tiễn 122 ly – đại pháo 155 ly,175 ly, AK47 – AR15 – dao găm, lưỡi lê,
mìn bẫy cho người Việt Nam giết hại lẫn nhau ?
Lịch sử đang và sẽ chỉ ra những người phải chịu trách nhiệm trong cuộc tàn sát
vừa qua. Sự kết tội hay nêu tên người này, người khác không phải là mục đích
của chúng tôi, chúng tôi chỉ nêu lên cái thảm họa tang tóc, bi đát mà dân
tộcViệt Nam phải gánh chịu.
Tội ác của họ, tên tuổi của họ sẽ bị lịch sử ghi lại muôn đời; con cháu họ –
cũng giống như con cháu Trần ích Tắc, Mạc đăng Dung, Lê chiêu Thống… – ngàn đời
phải mang tiếng xấu của cha ông họ để lại. Cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh đẫm máu
này, sau cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh, là những trang sử đen tối nhất,
đáng ghê tởm, đáng trách nhất của lịch sử Việt Nam.
Ước mong rằng con cháu chúng ta mai sau nhìn vào những tấm gương đáng nguyền,
đáng trách của người xưa để tránh những thảm cảnh đau đớn cho dân tộc.
Phạm Đình Nhiên
*Cước Chú: (*) Báo Quân Đội Nhân Dân Online thứ 6, ngày 03/01/2001 cho
biết 900.000 hài cốt liệt sĩ đã được qui tập.
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Apr/2015 lúc 7:33pm
Sự ra đi của hai vị Tướng Tư Lệnh
Ngày
đầu tháng 3/2015, trong không khí ảm đạm của cơn mưa xuân, đông đảo
những người lính già, đủ mọi quân binh chủng, có mặt tại nhà quàn nghĩa
trang Peek Family trong thành phố Westminster (California), để chào tiễn
biệt vị niên trưởng- vị chỉ huy trưởng – vị Tư Lệnh – ngày trước. Nổi
lên giữa màu đen tang lễ, là những bộ quân phục trắng với bê rê đỏ của
Thiếu Sinh Quân, worsted màu vàng trang trọng của những SVSQ Trường
VBQGVN và những Kỵ Binh Thiết Giáp với mũ nồi đen. tốt nghiệp thủ khoa
từ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau này trở thành Chỉ HuyTrưởng Thiết
Giáp Binh và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn Bộ Binh, mà có thời được nhiều
người biết đến với danh hiệu “Người hùng Kontum” khi ông là Tư Lệnh Sư
Đoàn 23BB, đánh thắng các sư đoàn nổi tiếng của Cộng quân, giữ vững
thành phố Kontum, địa đầu Tây Nguyên trong suốt “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972.
Đến
trước linh cửu ông, đứng nghiêm đưa tay lên chào ông lần cuối hôm nay,
ngoài danh nghĩa là một người lính, tôi còn là một thuộc cấp của ông tại
Sư Đoàn này. Đã có mặt tại chiến trường Kontum trong suốt trận chiến,
và thường có cơ hội gặp ông. Cả những lúc bị ông la rầy hay được ông
khen thưởng.
Cũng
như tôi, có lẽ những người lính có mặt trong tang lễ hôm nay, chào kính
và tiễn biệt ông, trong cái tình “huynh đệ”, với lòng kính trọng dành
cho một người anh, một ông thầy khả kính hơn là một thuộc cấp đối với
một ông tướng. Bởi cái khoảng cách “quân giai” ấy trên thực tế đã không
còn tồn tại. Có thể có một số không mấy đồng tình với ông về đôi điều
ông làm, ông tuyên bố, hay đứng chung với nhân vật này nhân vật khác
trong vài tổ chức sau ngày ông sang Mỹ, hay một vài tấm ảnh do Cộng sản
giàn dựng, nhằm tuyên truyền bôi nhọ ông, nhưng chắc chắn tất cả đều
kính trọng ông từng là một tướng lãnh VNCH, đã ghi nhiều chiến công
trong cuộc chiến chống Cộng sản bảo vệ miền Nam Việt Nam. Nhiều người
còn dành cho ông sự thương cảm, bởi ông là vị tướng không bỏ rơi thuộc
cấp, chiến đấu tới giờ phút cuối cùng, bị địch quân bắt sống ngay trước
giờ thứ 25 của cuộc chiến, bị tù đày nghiệt ngã đến 13 năm, và nằm xuống
khi không còn chút uy quyền hay ân sủng nào của quân đội hay quốc gia. Trong
cái không khí trang trọng thấm đẫm tình huynh đệ ấy, tự dưng tôi thấy
lòng xúc động lẫn chút ngậm ngùi, khi liên tưởng tới sự ra đi và tang lễ
của một vị Tướng Tư Lệnh khác, có nhiều điều giống ông, chỉ khác là vị
tướng kia đã chết tại chiến trường khi miền Nam còn có quân lực và chính
quyền. Và tang lễ của ông tất nhiên được tổ chức rất uy nghi trang
trọng, với đầy đủ lễ nghi dành cho một tướng lãnh. Điều đặc biệt hơn,
phu nhân của ông, nguyên là một nữ sĩ quan trong binh chủng Nhảy Dù, đã
chết cùng ông, nên tang lễ đã được cử hành chung. Trong hơn mười năm
cuối cùng của miền Nam, cũng là thời gian tôi phục vụ tại Sư Đoàn 23BB,
có hai vị Tư Lệnh nổi danh, đã tạo nên hai chiến thắng lẫy lừng: Tết Mậu
Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đó là Tướng Trương Quang Ân và Tướng
Lý Tòng Bá. Hai vị có nhiều điểm giống nhau trong lúc khởi đầu, nhưng
kết thúc khác nhau ở cuối cuộc đời binh nghiệp. Cả hai đều xuất thân
từ nhữngThiếu Sinh Quân ưu tú và sau đó là Trường Võ Bị Liên Quân Đà
Lạt. Một trùng hợp đặc biệt lý thú khác, cả hai vị đều tốt nghiệp thủ
khoa. Tướng Trương Quang Ân tốt nghiệp thủ khoa Khóa 7 (Ngô Quyền) và
Tướng Lý Tòng Bá thủ khoa Khóa 6 (Đinh Bộ Lĩnh). Tướng Trương Quang
Ân chọn binh chủng Nhảy Dù, ông đã đạt nhiều thành tích nổi bật trong
học tập, chỉ huy và chiến trận. Ngoài vị trí thủ khoa từ trường VBLQĐL,
ông còn đậu thủ khoa tất cả các khóa tham mưu mà ông theo học, trong
nước cũng như quốc tế, (đặc biệt đầu năm 1965, thủ khoa Khóa Chỉ Huy
&Tham Mưu Cao Cấp tại trường Fort Leavenworth, Kansas – Hoa Kỳ, mà
khóa sinh hầu hết là sĩ quan từ các quốc gia đồng minh, có cả Mỹ). Ông
đã tạo nhiều chiến công hiển hách từ khi còn nắm giữ các chức vụ Tiểu
Đoàn Trưởng (TĐ8), Chiến Đoàn Trưởng (CĐ2) Nhảy Dù. Với những thành tích
ấy, ông đã vượt qua người niên trưởng Thủ Khoa Khóa 6 cũng rất tài ba,
nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB vào ngày 24/11/1966 và được thăng cấp
đặc cách Chuẩn Tướng vào ngày 19/6/1968, trước niên trưởng Lý Tòng Bá
của mình đúng bốn năm.
Trong
trận Mậu Thân, vào khoảng 1 giờ 30 sáng ngày mồng một Tết, Cộng quân
bất ngờ tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột (nơi đặt bản doanh
BTL/SĐ23BB), với toàn bộ Trung Đoàn 33 được tăng cường 2 Tiểu Đoàn 301
và 401 cơ động tỉnh cùng 4 đại đội địa phương. Địch quân đã xâm nhập vào
một số khu vực hành chánh và trại gia binh. Tư lệnh Sư Đoàn Trương
Quang Ân điều động hai Tiểu Đoàn 1, 2 và Đại Đội Trinh Sát của Trung
Đoàn 45 đang hành quân bên ngoài, bất thần đánh từ sau lưng địch và làm
vòng đai bao vây. Ông cũng trực tiếp điều động hai chi đoàn của Thiết
Đoàn 8 Kỵ Binh phản công từ bên trong, tạo địch quân trong thế gọng kềm.
Lực lượng địch bị chia cắt và tiêu diệt gần như toàn bộ. Xe của ông bị
bắn cháy phía sau, nhưng ông rất bình tĩnh và can đảm, nhảy xuống xe
thoát nạn, tiếp tục điều quân và tạo nên chiến thắng vẻ vang. Ban Mê
Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương,
du kích của địch bị đánh tan tác, để lại 924 xác trên trận địa và 143 bị
bắt sống. Cũng trong thời điểm ấy, tại Bình Thuận, một tỉnh cũng nằm
trong lãnh thổ trách nhiệm của Khu 23 Chiến Thuật mà ông kiêm nhiệm Tư
lệnh, Trung Đoàn 44 BB đang hành quân tại khu Vĩnh Hảo, Tuy Phong, cách
thị xã Phan Thiết hơn 100 cây số, nhận lệnh trực tiếp từ Tướng Vĩnh Lộc,
Tư Lệnh Quân Đoàn II, di chuyển khẩn cấp vào giải vây thành phố Phan
Thiết, bị Cộng quân tấn công và đã xâm nhập một số cơ sở. Trung Đoàn 44
và Chi Đoàn 4/8 TK tăng phái đã chiến đấu rất dũng cảm trong một vị thế
cam go, bất lợi, cuối cùng đã đánh bật các đơn vị Cộng quân ra khỏi
thành phố. Sau đó Tiểu Đoàn 3/44 và Chi Đoàn 4/8 TK được một đại đội bộ
binh tùng thiết, chia làm 2 cánh truy kích và tiêu diệt một số lớn địch
quân trên đường rút lui, tháo chạy. Giao các vùng tái chiểm lại cho TK
Bình Thuận, BCH/Trung Đoàn 44 di chuyển về Trinh Tường, ngoại ô thành
phố, chuẩn bị trở về vùng hành quân cũ. Nhưng
ba tuần sau, Cộng quân lại điều động một số lực lượng khác từ các tỉnh
Bình Tuy, Ninh Thuận, tấn công đợt thứ nhì vào thành phố Phan Thiết. Lần
này, chúng tung các toán đặc công tinh nhuệ đánh thẳng vào tòa tỉnh và
chiếm lao xá bằng mọi giá, nhằm giải thoát những tù binh CS bị giam giữ,
mặc dù trước đó Tiểu Khu Bình Thuận đã nhanh chóng chuyển số tù binh
nguy hiểm đến một địa điểm an toàn khác. Trong tình hình nguy ngập,
vị Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng, Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân, vì một
lý do nào đó bay lên BTL Quân Đoàn (Pleiku) chưa về kịp. Chỉ có Thiếu Tá
Trần Văn Chà, Tiểu Khu Phó (nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/45)
có mặt tại Tiểu Khu. Tướng Trương Quang Ân (khi ấy còn Đại Tá) vừa tạm
xong trận chiến Ban Mê Thuột, liền bay xuống Phan Thiết. Khi biết vị
Tỉnh Trưởng /Tiểu Khu Trưởng không có mặt, ông tuyên bố tạm thời kiêm
nhiệm chức vụ Tiểu Khu Trưởng Bình Thuận kể từ giờ phút ấy, và tức khắc
trực tiếp chỉ huy cuộc phản công. Đích thân ông đã ban kế hoạch, điều
quân, và hướng dẫn một đại đội của Tiều Đoàn 3/44, chia từng toán nhỏ,
trang bị nhiều lựu đạn tấn công và hơi cay, đánh từ nhiều hướng vào khu
vực lao xá (nằm không xa tòa tinh) do sơ hở của một đơn vị bố phòng
thuộc TK/ Bình Thuận, bị Cộng quân xâm nhập, thả một số tù binh. Một
trận chiến thật cam go, nhưng dưới sự điều động trực tiếp của ông, chỉ
hơn 2 tiếng đồng hồ sau, quân ta đã đánh bật Cộng quân ra ngoài và tiêu
diệt toàn bộ các toán đặc công cố thủ trong bờ thành lao xá. Cùng lúc
ấy, Tiểu Đoàn 3/44 của Thiếu Tá Mai Lang Luông cũng đánh đuổi địch quân
ra khỏi khu vực trường Thánh Tâm, lực lượng Cảnh sát phòng thủ mặt hướng
Đông, dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Hồ Đức Nhị, một vị trưởng ty gan dạ
và mưu lược, cũng đánh bật lực lượng địch cuối cùng ra khỏi vòng đai
thành phố. Tiểu Đoàn 4/44 của Thiếu Tá Vũ Công Khanh truy kích tiêu diệt
những tên địch cuối cùng trên đường tháo chạy. Ngay sau khi trận chiến
vừa kết thúc, Tư Lệnh Trương Quang Ân, đã quyết định thăng cấp tại mặt
trận và gắn lon trung tá cho Thiếu Tá Võ Khâm, Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 44BB, một người cùng khóa 7 Võ Bị với ông. Với tài năng lãnh
đạo, chỉ huy và tạo nên các chiến thắng lẫy lừng, ông được thăng cấp đặc
cách lên Chuẩn tướng vào ngày Quân Lực 19.6.68.
Ngày
8.9.1968, ông cùng phu nhân bay lên Quảng Đức để thăm viếng và ủy lạo
binh sĩ. Lúc 10 giờ 30 sáng, sau khi rời khỏi tiền đồn Đức Lập, chiếc
trực thăng H-34 chở vợ chồng ông và tùy tùng bị rớt. Ông bà đã hy sinh
cùng với Đại tá Cố Vấn Trưởng, hai phi công và các sĩ quan Việt- Mỹ tháp
tùng. Ông nổi tiêng là một vị tướng nghiêm khắc, nhưng rất cương
trực, thanh liêm. Khi ông và phu nhân hy sinh, ngôi nhà nhỏ của ông bà
trong cư xá Lê Đại Hành, chỉ vừa đủ chỗ cho 2 chiếc quan tài, và theo
báo chí, trong sổ tiết kiệm vỏn vẹn có 50.000 đồng. Sáng ngày
10/9/1968, tang lễ của ông và phu nhân được cử hành vô cùng trọng thể,
với sự hiện diện đông đủ của các cấp lãnh đạo chính quyền và quân đội:
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, Thủ Tướng Trần Văn
Hương, Đại Tướng Cao Văn Viên, Đại Tướng Creigton W. Abrams, Tổng Tư
Lênh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, các vị Chủ Tịch Thượng và Hạ
Viện, cùng rất nhiều tổng, bộ trưởng và tướng lãnh. Ông được truy thăng
Thiếu Tướng và truy tặng Đệ Tam Đẳng BQHC kèm anh dũng bội tinh với
nhành dương liễu. Phu nhân ông cũng được truy tặng Đệ Ngũ Đẳng BQHC.
Luân phiên túc trực hai bên quan tài của ông là các vị thiếu tướng,
chuẩn tướng và đại tá, hai bên quan tài của bà là những sĩ quan nữ quân
nhân. Đám tang được dẫn đầu bởi hai toán dàn chào danh dự của binh chủng
Nhảy Dù, đứng trên xe trong tư thế bắt súng chào, đông đảo đại diện các
quân binh chủng và nhiều tướng lãnh tháp tùng. Dù phải di chuyển dưới
cơn mưa tầm tã, đám tang vẫn giữ sự uy nghiêm và đúng lễ nghi quân cách.
Ông bà được an táng tại Nghĩa Trang Mạc Đỉnh Chi, Sài gòn (khi ấy chưa
có Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa) Cuối tháng 1 năm 1972, Đại Tá Lý
Tòng Bá về nắm chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, thay thế Chuẩn Tướng Võ Văn
Cảnh. Tướng Cảnh là người ở Sư Đoàn khá lâu và đóng góp nhiều chiến công
cho đại đơn vị này. Từ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45, và sau
đó là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, ông đã được đề bạt vào chức vụ Tư Lệnh thay
thế Tướng Trương Quang Ân tử nạn. Khi Đại Tá Lý Tòng Bá về Sư Đoàn,
nhiều nguồn dư luận đã làm một số sĩ quan mất thiện cảm nơi ông. Nhiều
người nghĩ rằng ông là “người”của John Paul Vann, một người dân sự
(trung tá đã giải ngũ) nhưng lại làm Cố Vấn Trưởng cho Tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn II/QK2. Ông ta có tài, gan dạ, liều lĩnh, nhưng bản tánh nóng
nảy bốc đồng và khá kênh kiệu, nhiều người không thích. Báo chí gọi ông
là “phù thủy mắt xanh”, và cho biết là ông đã đề nghị (sau đó là áp lực)
Trung Tướng Ngô Dzu,Tư lệnh Quân Đoàn, phải thay thế hai vị Tư Lệnh Sư
Đoàn. Đồng thời đề bạt Đại Tá Lê Minh Đảo thay thế Chuẩn Tướng Võ Văn
Cảnh trong chức vụ TL/SĐ23BB và Đại Tá Lý Tòng Bá thay thế Thiếu Tướng
Lê Ngọc Triển, trong chức vụ TL/SĐ22BB. Riêng Đại Tá Lý Tòng Bá còn được
báo chí cho biết là em bà con với người vợ Việt Nam của John Paul Vann.
Điều này đã xôn xao trên báo chí và gây khó khăn không ít cho Tướng Ngô
Dzu. Cuối cùng, với sự đồng tình của TT Nguyễn Văn Thiệu và Đại Tướng
Cao Văn Viên, Tướng Ngô Dzu đã chấp nhận thay thế hai vị Tư Lệnh Sư
Đoàn, nhưng chỉ có Đại Tá Lý Tòng Bá nhận Sư Đoàn 23BB. Riêng Sư Đoàn
22BB, Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh Phó lên thay tướng Triển. Đại Tá Đạt là
niên trưởng (Khóa 5 – Hoàng Diệu) của Tướng Bá từ trường Võ Bị và cùng
Khóa Cao Cấp Thiết Giáp tại trường Saumur, Pháp năm 1955). Tướng Bá cũng
đã từng làm việc dưới quyền (cấp phó) của Đại Tá Lê Đức Đạt khi hai ông
còn ở Trung Đoàn 2 TG và TTHL Cơ Giới Bảo An/Vũng Tàu. Vì lý do tế nhị
này, nên ông cũng không muốn nhận Sư Đoàn 22BB, khi Đại Tá Đạt đang là
Tư Lệnh Phó. Vào khoảng 2 giờ sáng ngày 24/4/72, chỉ gần hai tháng
sau ngày nhận chức Tư Lệnh, Đại Tá Đạt hy sinh tại chiến trường Tân
Cảnh, khi BTL/SĐ22BB bị đại quân CS tràn ngập bằng chiến xa T-54 và đặc
công sau những trận địa pháo nặng nề và sử dụng hỏa tiễn Sagger AT-3 để
làm tê liệt các chiến xa và sức chiến đấu của lực lượng trú phòng. Dư
luận trong đơn vị cũng như báo chí cho rằng Đại Tá Đạt bị John Paul Vann
ganh ghét và không yểm trợ B-52 cho Sư Đoàn 22BB, khi luôn tìm cách bác
bỏ tin tức có sự xuất hiện chiến xa địch do BTL/SĐ22BB báo cáo lên Quân
Đoàn, nên đã mang đến sự thất bại nặng nề cùng cái chết oan khuất của
vị tư lệnh. Khi thấy tình hình vô vọng, Đại Tá Kaplan, Cố vấn trưởng
Sư Đoàn, đã liên lạc khẩn cấp yêu cầu Cố vấn trưởng Quân Đoàn bay lên
cứu ông và toán cố vấn. Khoảng 4 giờ sáng, ông John Paul Vann đích thân
lái trực thăng trinh sát OH-58 Kiowa đáp xuống một bãi đáp rất nhỏ bên
cạnh bãi mìn để bốc Đại tá Kaplan và các quân nhân trong toán Cố Vấn Mỹ.
Trước khi trực thăng đáp xuống, Đại Tá Kaplan đã đến báo cho Đại Tá Lê
Đức Đạt và yêu cầu ông cùng lên trực thăng ứng cứu của ông John Paul
Vann nhưng Đại Tá Đạt đã từ chối. Vị Tư lệnh SĐ 22 BB đã biết rõ tình
hình rất bi đát, nhưng ông vẫn không yêu cầu Trung Tướng Ngô Dzu cho
trực thăng bay lên cứu. Ông ra lệnh cho tất cả các quân nhân còn lại
trong căn cứ tìm cách thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Khi bắt tay
vĩnh biệt Đại Tá Tôn Thất Hùng và các sĩ quan, ông nói với mọi người:
“Là Tư lệnh, tôi phải ở lại với Tân Cảnh” (theo lời kể của Đại Tá Hùng
sau khi sống sót trở về, nhờ những người Thượng cứu giúp). Người ta đã
hỏi nhau, nếu Đại Tá Lý Tòng Bá nhận chức vụ Tư Lệnh SĐ 22BB, liệu cục
diện có đổi thay? Sư Đoàn 22 có phải thảm bại để Đại Tá Lê Đức Đạt đã hy
sinh oan uổng? Sau khi SĐ22BB bị thảm bại ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 23 BB
của Đại Tá Lý Tòng Bá nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên Kontum để kịp
thời ngăn chặn một lực lượng địch hùng hậu (cấp quân đoàn) của Mặt Trận
B3 do Tướng CS Hoàng Minh Thảo chỉ huy, tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy
Kontum và làm chủ Tây Nguyên. Lúc này việc di chuyển trên Quốc Lộ 14 từ
Pleiku lên Kontum đã rất khó khăn vì Cộng quân đã dùng một tiểu đoàn đặt
những cái chốt rất kiên cố trên đỉnh núi Chu Pao với rất nhiều ổ súng
đại liên, đại bác 75 ly, hỏa tiển chống chiến xa và phòng không. Đại Tá
Bá đến Kontum với Trung Đoàn 45, Trung Đoàn 53, và một chi đoàn chiến xa
M-41 thuộc Thiết Đoàn 8/KB. Khi đoàn quân của Trung Đoàn 45 bị nghẻn
lại ở Chu Pao, bị thiệt hại mà không thể nào tiến lên được. với sở
trường và kinh nghiệm của một sĩ quan Thiết Giáp kỳ cựu, Đại Tá Bá đã sử
dụng Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa M-41, được một đại đội của Tiểu Đoàn 4/45
tùng thiết, theo vết xe be leo lên đỉnh núi để bất thần tiêu diệt đè bẹp
các chốt kháng cự của Cộng quân, ngay sau khi hai chiếc trực thăng võ
trang của Phi Đoàn Thần Tượng 215, chỉ huy bởi Trung Úy Vĩnh Hiếu, rất
thông minh và gan dạ, bay sát mục tiêu, sử dụng hỏa tiễn đầu nổ đinh
(fletchettes), tác xạ chính xác vào các chốt kiên cố trong các hầm núi
đá, hổ trợ hữu hiệu cho quân bạn. Một trận chiến khó tưởng tượng nhưng
đã thành công với sự chỉ huy tài ba và gan dạ của anh Chi Đoàn Trưởng
trẻ tuổi, Đại Úy Lê Quang Vinh. Đến Kontum, việc đầu tiên là ông yêu
cầu được hoàn trả các đơn vị tăng phái gồm Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Liên Đoàn 6
Biệt Động Quân và một số đơn vị còn lại của Sư Đoàn 22BB, để được lấy
lại Trung Đoàn 44 BB, đang hành quân ở An Khê, do Quân Đoàn sử dụng làm
lực lượng trừ bị và bảo vệ BTL/Quân Đoàn. Theo ông, Trung Đoàn 44 là đơn
vị thiện chiến nhất của Sư Đoàn, và với những đơn vị cơ hữu sẽ dễ dàng
cho ông hơn về mặt chỉ huy. Hơn nữa các đơn vị tăng phái, dù thuộc các
binh chủng thiện chiến, nhưng đã quá mệt mỏi và tinh thần giao động sau
sự kiện Tân Cảnh và Căn cứ Charlie. Ngay từ quyết định đầu tiên này đã
là một quyết định rất sáng suốt của vị Tư Lệnh Chiến Trường. Vì chỉ sau
24 tiếng đồng hồ được không vận xuống Kontum để trám vào tuyến phòng thủ
Tây Bắc, cách thị xã Kontum 4 cây số, thay thế cho Liên Đoàn 6 BĐQ và
một đơn vị của SĐ22BB, lúc gần 5 giờ sáng ngày 15.5.72,Trung Đoàn 44 BB
đã mở đầu bằng một chiến thắng thật lẫy lừng, đánh bại lực lượng của Sư
Đoàn 320 CS cùng một tiểu đoàn xe tăng T-54, từ Tân Cảnh tràn xuống tấn
công trực diện vào tuyến phòng thủ của Trung Đoàn. Năm xe tăng bị bắn
cháy, hai chiếc bị bắt sống với tên đại đội trưởng. Địch tháo chạy ngược
về hướng Bắc, bị các oanh tạc cơ thuộc Phi Đoàn 530-Thái Dương (Pleiku)
và sau đó là B-52 dội bom tiêu diệt. Sau trận này, địch quân bị loại
khỏi vòng chiến hai Trung Đoàn 48 và 64 thuộc Sư Đoàn 320 và 15 chiến xa
T-54 của Trung Đoàn 2 TG. Ngay sáng hôm đó, khi khói lửa chưa tan,
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa mới nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II thay
Tướng Ngô Dzu, bay lên Kontum và cùng Đại Tá Lý Tòng Bá, dùng chiến xa
M-113 di chuyển đến tận trận địa, mừng chiến thắng, khen ngợi Trung Đoàn
44BB và gắn lon đại tá cho Trung Tá Trần Quang Tiến, Trung Đoàn Trưởng. Đúng
một tuần lễ, sau chiến thắng đầu tiên, vào ngày 21/5/72, toàn bộ Trung
Đoàn 44 được điều về “dưỡng quân” trong vòng đai thành phố, cũng là
tuyến phòng thủ cho BTL/Sư Đoàn. BCH/Trung Đoàn đóng trong thành Dakpha,
nằm ngay phía sau và chỉ cách Bệnh Viện 2 Dã Chiến một lớp hàng rào
phòng thủ, (phi trường Kontum nằm hướng nam khoảng 600 mét), được bảo vệ
bởi Đại Đội 44 Trinh Sát, cũng là lực lượng trừ bị. Tiểu Đoàn 3 và 4/44
phòng thủ vòng đai phía Đông, bên cánh phải BCH/Trung Đoàn. Riêng hai
Tiều Đoàn 1 và 2/44 do Thiếu Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Phó chỉ huy,
phòng thủ vòng đai phía Nam, bên kia bờ sông Dakbla. Nhưng chỉ hai ngày
sau, theo yêu cầu của John Paul Vann, Cố Vấn QĐ, Đại Tá Bá ra lệnh cho
Thiếu Tá Xuân cùng hai Tiểu Đoàn 1 và 2/44, tổ chức thành một chiến đoàn
đặc nhiệm, trang bị súng cá nhân và lựu đạn, tham dự một cuộc hành quân
hậu địch, mà chính cá nhân ông cũng thấy quá mạo hiểm. Sau khi B-52
đánh 2 box vào khuya hôm ấy, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm được trực thăng vận đổ
xuống phía Bắc, sau lưng phòng tuyến địch từ 10-15km. để bất ngờ mở một
cuộc càn quét địch từ Bắc xuống Nam, lấy QL-14 làm chuẩn hướng về
Kontum. Nhờ kế hoạch đánh lừa địch cùng với kinh nghiệm tuyệt vời của
các phi công thuộc Phi Đoàn Lạc Long 229, cuộc đổ quân an toàn và hoàn
tất lúc 9 giờ sáng. Nhưng ngay sau khi rời bãi đáp, lực lượng ta liên
tiếp đụng độ các toán hậu cần, thông tin liên lạc của địch. Bọn chúng
đang gánh cơm đi tiếp tế và giăng giây điện thoại. Đến khoảng 12 giờ
trưa, khi còn cách thị xã Kontum khoảng 10 cây số, sau khi nhìn thấy
khói lửa ngộp trời ở hướng thành phố cùng tiếng pháo nổ dồn dập không
dứt, Thiếu Tá Xuân nhận lệnh của Đại Tá Bá, bằng mọi cách, ngay cả việc
phải đạp trên đầu địch, để đưa lực lượng trở về BTL gấp. Những trận
đánh tốc chiến xảy ra, phải đạp qua phòng tuyến hung hiểm của địch nằm
đối diện với Trung Đoàn 45. Cuối cùng như một phép màu, Chiến Đoàn đã có
mặt tại Kontum sau 4 tiếng đồng hồ, chỉ có một thiếu úy và 13 binh sĩ
hy sinh, 5 thương binh đã mang về được. Đại Tá Bá ra đón đơn vị tại
tuyến phòng thủ với nỗi vui mừng và xúc động. Tiểu Đoàn 1/44 được giữ
lại phòng thủ BTL/SĐ, Tiểu Đoàn 2/44 về lại tuyến phòng thủ bên kia bờ
sông, khu vực Phương Hòa. Thiếu Tá Xuân trở về BCH Trung Đoàn. Ngày hôm
ấy, Cộng quân đã pháo kích liên tục vào thành phố hơn hai ngàn quả đạn
pháo đủ loại. Căn cứ BTL/SĐ bị hư hại nặng nề, nhưng rất may, chỉ có một
hạ sĩ quan chết và vài binh sĩ bị thương. Sáng ngày 23.5, Tướng
Hoàng Minh Thảo tung hai Sư Đoàn 2 và 10 cùng một đại đội chiến xa gồm
T-54 và T-59 tấn công vào phòng tuyến phía Đông thị xã. Lần này Hoàng
Minh Thảo áp dụng chiến thuật “nở hoa” với kinh nghiệm từ trận đánh Tân
Cảnh, mà chúng vừa thu được kết quả ngoài sự mong đợi. Không đụng vào
các tuyến đầu mà tìm cách thâm nhập đánh sâu vào vào đầu não của ta, Bộ
Tư lệnh Sư Đoàn. Chúng chọn một tiểu đoàn của Sư Đoàn 2 Sao vàng được
tăng cường một Đại Đội Chiến Xa gồm các xe tăng T-54 và T-59, làm nỗ lực
chính xâm nhập vào Bệnh Viện 2 Dã Chiến (đã di tản thương binh), nằm
phía trước cách thành Dakpha chỉ một hàng rào phòng thủ, nơi đặt BCH
Trung Đoàn 44. Thành Dakpha nguyên là bản doanh của BTL/Biệt Khu 24 nên
chúng tưởng lầm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB đang đóng ở đây. Một lần nữa
Trung Đoàn 44BB chứng tỏ sự dũng cảm và thiện chiến của mình. Khi đợt
tiền pháo vừa dứt, ba chiếc xe tăng T-54 đầu tiên ủi vào lớp hàng rào
phòng thủ để tấn công vào BCH Trung Đoàn, chỉ cách hàng rào chừng 50
mét, Đại Đội 44 Trinh Sát của Trung úy Đoàn Quang Mạnh (Đại Đội Phó tạm
thay thế Đại Úy Phan Công Minh vừa bị thương còn nằm trong quân y viện)
dùng M-72 chống tăng và XM-202 lân tinh chống biển người đồng loạt trực
xạ vào toán xe tăng và bộ binh địch. Địch hốt hoảng bỏ chạy, hai chiếc
tăng bị bắn cháy, trong đó có xe chỉ huy của tên đại đội trưởng. Lục
trong xác chết của tên này (Đại úy Vinh), trước ngực có đeo một chiếc
túi bằng da đựng bản đồ, một quyển sổ nhật ký và một lá cờ đỏ sao vàng
có thêu bốn chữ “Đơn Vị Anh Hùng”. Sau đó, Phòng 2 Sư Đoàn xác nhận
chính tên này đã chỉ huy đại đội chiến xa đánh chiếm căn cứ Tân Cảnh của
Sư Đoàn 22BB mới đây. Đại Đội 44 Trinh Sát chia từng toán nhỏ, tìm cách
vượt qua hàng rào phòng thủ, men theo các vách nhà bệnh viện để tiệu
diệt các xe tăng địch còn lại và hướng dẫn phi cơ oanh tạc. Tất cả tăng
và bộ binh địch đều bị tiêu diệt. Đại Tá Lý Tòng Bá có mặt tại
BCH/Trung Đoàn khi chiến trận còn đang tiếp diễn khốc liệt. Ông đựợc Đại
Tá Tiến, Trung Đoàn trưởng trao cho tập sổ tay và lá cờ của tên Đại Đội
trưởng xe tăng CS. Ông đến bắt tay khen thưởng, ôm Trung Úy Mạnh và một
số chiến sĩ Trinh Sát, rút tiền trong túi ra tặng những chiến sĩ vừa
bắn hạ xe tăng địch. Thái độ của ông đã làm nức lòng thuộc cấp. Một
đơn vị khác của địch xâm nhập vào trại Ngọc Hồi, khu gia binh và hậu cứ
của Thiết Giáp, đánh vào sườn phải BCH/Trung Đoàn, bị Tiểu Đoàn 3/44 của
Đại Úy Hồ Đắc Tùng đánh bật ra ngoài, sau đó hướng dẫn phi pháo tiêu
diệt. Pháo Đội Pháo Binh 155ly trú đóng phía sau BCH/Trung Đoàn đã phải
hạ tất cả nòng súng trực xạ liên tục, tiêu diệt địch quân từng đợt dàn
hàng ngang tấn công trước mặt. Một đại đội địch chiếm được kho quân tiếp
vụ và dành nhau ăn những hộp trái cây ngọt. Do đang đói nên hầu hết bị
say, bị lính quân y thuộc Đại Đội Quân Y của Y sĩ Đại úy Nguyễn Văn Oánh
bắt sống, một số đông đưa tay đầu hàng, xin được hồi chánh. Một lực
lượng địch hùng hậu khác đánh vào thành phố và chiếm được Tòa Giám Mục
Kontum. Tiểu Đoàn 4/44 của Đại Úy Võ Anh Tài và sau đó Tiểu Đoàn 2/44
của Đại Úy Nguyễn Xuân Phán, được đích thân Đại Tá Lý Tòng Bá chỉ định
tăng cường bao vây, giải tỏa khu vực, không xử dụng phi pháo, bằng mọi
cách phải chiếm lại khu nhà thờ và Tòa Giám Mục trong tình trạng không
bị hư hại. Trận chiến khá cam go này kéo dài gần hai ngày, cuối cùng
Tiểu Đoàn 2 và 4/44 đã tiêu diệt những tên địch cuối cùng và chiếm lại
Tòa Giám Mục. Ngày 30.5.72, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến Kontum
mừng chiến thắng. Khi trực thăng của ông vừa đáp xuống BTL trong căn cứ
B-12, Cộng quân đã “dàn chào” bằng mấy loạt pháo kích. Ông tươi cười
bình tĩnh, từ chối khi Đại Tá Bùi Hữu Khiêm TMT/ SĐ đưa cho ông chiếc áo
giáp. Tổng thống đã tuyên dương công trạng Sư Đoàn 23 BB, gắn sao Chuẩn
tướng thăng cấp đặc cách tại măt trận cho Tư Lệnh Lý Tòng Bá, gắn cấp
bậc thiếu tá cho 4 tiểu đoàn trưởng của Trung Đoàn 44BB và Chi Đoàn
Trưởng Chiến Xa 1/8 KB. Đây chỉ là tượng trưng, sau đó còn nhiều quân
nhân có công khác được thăng cấp đặc cách, trong đó có Thiếu Tá Ngô Văn
Xuân, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 44BB, là người chỉ huy trực tiếp hai
cuộc phản công và cuộc đánh hậu địch rất ngoạn mục. Trong cuộc tổng kết
thành tích Mùa Hè 1972, Sư Đoàn 23 BB được Bộ TTM xếp hạng nhất (trước
Sư Đoàn 1 BB: hạng 2, và Sư Đoàn Nhảy Dù: hạng 3) với phần thưởng
8.600.000- đồng. Thành tích tạo chiến thắng lớn, nhưng thiệt hại nhẹ
nhất về cả nhân mạng lẫn phần đất bảo vệ.
Chiến
thắng vẻ vang này tất nhiên thuộc công trạng tất cả chiến binh các cấp
của Sư Đoàn 23BB, đặc biệt là Trung Đoàn 44BB, Chi Đoàn 1/8 Thiết Kỵ, và
các đơn vị Không Quân yểm trợ (gồm các Phi đoàn trực thăng Lạc Long
229, Sơn Dương 235. Thần Tượng 215, Phi Đoàn khu trục Thái Dương 530 và
các Phi đoàn quan sát Sao Mai 114, Bắc Đẩu 118). Tuy nhiên B-52 của Hoa
Kỳ đã góp phần không nhỏ trong trong việc tiêu diệt phần lớn lực lượng
địch tham chiến hoặc đang ẩn nấp làm trừ bị. Nói một cách công bình hơn,
một Sư Đoàn 23 BB (không đủ Thiết Đoàn Kỵ Binh và các Tiểu Đoàn Pháo
Binh cơ hữu) không thể đánh thắng và làm tê liệt 3 Sư Đoàn của Cộng
quân, (được tăng cường 1 trung đoàn đặc công, 2 trung đoàn pháo, 1 trung
đoàn xe tăng và 6 tiểu đoàn phòng không), nếu không có các đơn vị Không
Quân VNCH và đặc biệt B-52 của Hoa Kỳ. Với công trạng này, vị Tư
Lệnh Sư Đoàn 23BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Kontum, Lý Tòng Bá, rất xứng
đáng để được vinh danh, được báo chí và dân chúng gọi là “Người Hùng
Kontum” Một nhân vật rất quan trọng khác có tính cách quyết định
chiến thắng Kontum, phải kể ông John Paul Vann, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn
II. Ông luôn có mặt bên cạnh TL Lý Tòng Bá, đặc biệt vào những thời điểm
cam go nguy hiểm nhất. Ông thường xuyên bay từ Pleiku lên ngủ đêm ở
BTL/SĐ. Ngoài việc gây tin tưởng cho Tướng Bá cũng như quân sĩ, ông còn
bàn thảo tỷ mỷ các kế hoạch phòng thủ, phản công và đặc biệt đáp ứng
những yêu cầu của Tướng Bá, dành quyền ưu tiên sử dụng tối đa B-52 cho
mặt trận Kontum. Mặc dù Tướng Lý Tòng Bá luôn minh định ông không
phải là người “nhà” của John Paul Vann. Giữa ông và ông Vann chỉ quen
biết và tôn trọng nhau từ khi ông Vann là Trung Tá Cố Vấn cho Sư Đoàn
7BB, thời Tướng Huỳnh Văn Cao là Tư Lệnh, và khi ấy ông Bá là Đại Đội
trưởng ĐĐ7 Cơ Giới M113. sau đó là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 2 Thiết
Giáp thống thuộc Sư Đoàn này, (mặc dù trước đó ông Bá rất bất bình John
Paul Vann về việc nhận xét và tuyên bố sai lạc trên báo chí Mỹ về Trận
Ấp Bắc, mà ĐĐ7-M113 của ông đã rất anh dũng chiến đấu, đạt nhiều thắng
lợi thay vì thất bại như ông Vann và vài ký giả người Mỹ khác đã rêu rao
tạo cho CS có cớ để tuyên truyền. Sau này John Paul Vann đã nhận ra sai
lầm và nhiều lần xin lỗi ông Bá). Tuy nhiên, qua nhiều sự kiện,
người ta thấy ông Vann đã đối xử rất đặc biệt với Tướng Lý Tòng Bá. Khi
nhận chức vụ Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB, ông Bá không thích người Cố Vấn Mỹ,
Đại Tá Robert Kellar. Vann liền thay thế Đại tá Kellar bằng Đại Tá John
Truby, nhưng Đại Tá Lý Tòng Bá muốn người làm Cố Vấn cho mình phải là
Đại Tá R.M.Rhotenberry, người đã từng làm cố vấn bên cạnh ông vào những
năm 65-66, khi ông làm Tỉnh trưởng/Tiểu Khu trưởng Bình Dương, mà ông
rất tâm đắc. Đại Tá Rhotenberry mãn nhiệm kỳ phục vụ tại Việt Nam và về
Mỹ đã lâu, vậy mà John Paul Vann tìm mọi cách đưa ông trở lại Việt Nam
để làm Cố Vấn cho Đại Tá Lý Tòng Bá. Ông nhận lệnh lên đường khần cấp và
đến Kontum chỉ 5 ngày trước cuộc tổng tấn công của quân Cộng Sản. Cũng
vì giữ lời hẹn ở lại đêm tại Kontum với Tướng Bá, vào buổi chiều sắp
tối ngày 9.6.72, từ BTL/QĐ II (thành Pleime-Pleiku) ông Vann tự lái trực
thăng bay lên Kontum, nhưng khi còn cách Kontum 10 phút bay, gần khu
vực Chu Pao, máy báy bị (bắn?) rớt. Ông đã chết với 2 quân nhân tùy
tùng. Ông là vị dân sự duy nhất được cử làm Cố Vấn Quân Đoàn. Người
Mỹ gọi ông là ông tướng dân sự (civil general), những sĩ quan Mỹ dưới
quyền ông và một số sĩ quan Việt Nam vẫn gọi ông là “Sir General!” Sư
Đoàn 23 BB có hai vị tư lệnh nổi danh vì đã tạo những chiến thằng vẻ
vang nhất. Tuy nhiên với tình hình chiến tranh ngày một leo thang (sau
khi Cộng Sản lợi dụng việc Mỹ rút quân về nước và cắt giảm tối đa mọi
viện trợ quân sự cho VNCH, đã ngày đêm xua đại quân và chiến xa các loại
vào chiến trường miền Nam), chiến thắng Kontum của Tướng Lý Tòng Bá, có
tính lớn lao, nổi tiếng hơn là những chiến thắng trước đó của Sư Đoàn
thời Tướng Trương Quang Ân làm tư lệnh. Tướng Trương Quang Ân đã hy
sinh tại chiến trường vào tháng 8/1968. Cuộc đời và cái chết của ông đã
tạo nhiều huyền thoại, được mọi người hết lòng ngưỡng mộ. Đám tang của
ông được cử hành vô cùng trọng thể. Có thể nói là một trong số đám tang
trọng thể nhất trong hàng tướng lãnh tử trận. Tướng Lý Tòng Bá thì
không bị chết, nhưng bị bắt tại chiến trường, ngay trước giờ thứ 25 của
cuộc chiến, khi ông đang làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25 BB. Điều đáng buồn hơn
là ông bị bắt bởi một đám du kích. Tướng Bá không rời đơn vị, không bỏ
rơi đồng đội, chiến đấu tới giờ phút cuối cùng khi nhiều thượng cấp của
ông đã đào tẩu. Ông bị tù đày, sĩ nhục, khốn khổ hơn 13 năm và sau đó
sang Mỹ theo diện HO, để bắt đầu cuộc sống tha phương lưu lạc, với bao
điều nhiễu nhương cay đắng. Không có đủ từ ngữ tốt đẹp để nói lên
lòng kính trọng và ngưỡng mộ đối với những vị tướng lãnh và những người
lính đã tự sát trước giờ nước mất nhà tan. Không có gì cao cả hơn khi
lấy cái chết để chứng minh trung liệt với tiền nhân và tổ quốc. Nhưng có
những trường hợp mà sự sống sót cũng là một can đảm không kém, cũng
đáng được kính phục. Cái sống của những vị anh hùng chưa kịp chết hoặc
không thể chết bởi còn ràng buộc bao trách nhiệm thiêng liêng khác, để
rồi bị giết như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Đại Tá Đặng Phương Thành, Trung Tá
Võ Vàng…, hoặc bị tù đày, khốn khổ và cả việc nhục mạ phỉ báng, không
chỉ của địch mà của cả một số cá biệt, những đồng đội, những người cùng
chiến tuyến, chỉ vì đôi điều bất như ý, bởi một con người thì không phải
là thánh nhân để được sự vẹn toàn. Xin cám ơn những cựu Thiếu Sinh
Quân, những cựu SVSQ Võ Bị, những chiến hữu Thiết Giáp cùng tất cả mọi
người đã đứng ra tổ chức và tham dự phủ kỳ, tang lễ cho Tướng Lý Tòng
Bá. Với những lễ nghi tượng trưng, nhưng là niềm vinh dự cuối cùng, rất
xứng đáng, dành cho cá nhân ông và cho cả gia đình. Xin đứng nghiêm
chào vĩnh biệt. Xin Tướng Tư Lệnh của chúng tôi yên nghỉ. Những trách
móc giận hờn của Tướng Quân đối với một vài cấp lãnh đạo, chỉ huy “bất
tài, thối nát”, những ngày tháng nhục nhằn dâu biển, cùng dư âm của bom
đạn chiến trường sẽ vĩnh viễn không còn theo Tướng quân về cõi vô cùng .
Phạm Tín An Ninh (một người lính thuộc Sư Đoàn 23BB)
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Apr/2015 lúc 7:41am
CHUYỆN THUỞ GIAO THỜI
Tiểu Tử
Tháng 3, rồi
tháng 4 năm 1975, thiên hạ chạy di tản rần rần
từ miền trung vào trong nam, rồi từ đất liền
« chạy » ra biển, nhốn nháo hỗn loạn chẳng
biết « trời trăng » gì hết, chỉ có một ý
nghĩ rõ rệt ở trong đầu là « Ở lại với
tụi nó là chết ! ». Vậy rồi giai đoạn di tản
đó chấm dứt vào ngày 30 tháng 4...
... Giữa
tháng 4, một thằng bạn gọi điện thoại
cho tôi, nói : « Mầy đừng đi di tản. Ở lại
đi ! Không có sao hết ! Tao bảo đảm ». Thằng
nầy làm lớn trong « Tổng Nha », nó nói « chắc như
bắp » ! Lại một thằng bạn khác - thằng này
người Pháp, làm việc ở sứ quán Pháp - nói trong
điện thoại, giọng rất bình thản : « Mầy
đừng đi đâu hết ! Mọi việc đều
đã thoả thuận trước rồi ! Yên tâm ! ». Riêng
tôi, tôi nghĩ : « Mình làm việc cho hãng dầu ngoại quốc
trực thuộc hãng quốc tế SIPC ( Shell International
Petroleum Company – Anh Quốc ) chắc không sao ! ». Vậy
là tôi quyết định ở lại...
... Ngày 30
tháng tư năm 1975 ! Việt cộng vào « đớp » hết,
công tư gì cũng đớp hết, thượng vàng hạ
cám gì cũng đớp hết. Họ gọi hành động
đó bằng một danh từ nghe cũng... văn
chương :« Tiếp Quản ». Không biết hai thằng bạn
tôi kể ở trên có... tức hộc máu hay không khi thấy
mình bị gạt dễ dàng như con nít ? Riêng tôi, tôi thấy
như tôi từ trên trời rơi xuống, thấy những
gì xưa nay mình học, mình hỏi, mình hiểu biết,
mình suy luận v.v... đều sai bét đối với
« cái gọi là cách mạng » !
Hãng dầu
tôi làm việc bị tiếp thu bởi... «ê-kíp » có bí số
K7. Những người nầy mặc đồ đen
đội mũ tai bèo đen. Mấy tay có vẻ « xếp
» mang túi dết ngang hông và bao súng lục nằm... sau
đít ! Họ chiếm kho dầu Nhà Bè và văn phòng trung
ương ở đường Thống Nhứt. Hai hôm
sau, có tin bộ đội vào kho Nhà Bè « vít » K7 ra ngoài, vì kho
dầu không thuộc quyền quản lý của mấy cha
K7. Vậy là trong cái tổ chức rất là... « cách mạng
» nầy, cái « đầu não » của công ty không còn dính với
cái thân mình là kho dầu nữa ! Phải nói thiệt : tôi làm
việc cho hãng dầu hơn 19 năm, đã đi thăm
viếng nhiều hãng dầu ở các quốc gia khác,
nhưng chưa thấy một tổ chức hãng dầu
nào... khùng như vậy !
Qua sáng
ngày thứ ba, tôi được chở xuống kho Nhà Bè
để hướng dẫn một ông tướng VC
đi viếng kho ( Có lẽ mấy tên « nằm vùng » đã
cho bọn « cách mạng » biết rằng tôi... rành kho dầu
này lắm ! ) Đến kho, tôi được « ông » bộ
đội xếp kho cho biết ông tướng là « xếp
» cục hậu cần. Tôi tưởng tượng sẽ
gặp lão ta với bộ quân phục thẳng nếp và một
ngực mề đai như thường thấy ở mấy
tướng các nước cộng sản !
... Xe ông
tướng đến. Bước xuống là một
người cao lớn mặc bộ đồ « xá xẩu
» tàu bằng lụa màu ngà, đội nón Panama trắng, miệng
ngậm ống đót có điếu thuốc đang cháy dở.
Được giới thiệu, ông ta không bắt tay tôi, chỉ
gật nhẹ đầu, nói : « Ta đi thôi ! ». Tôi lưu ý
ông ta đừng hút thuốc trước khi vào kho. Ổng
gạt bỏ mẫu thuốc nhưng vẫn ngậm ống
đót trên môi...
Kho Nhà Bè lớn
lắm. Ngoài bốn cầu tàu chiếm hết mặt sông,
trên bờ có khu bồn chứa và các khu nhà máy trộn nhớt,
nhà máy trộn hoá chất, xưởng sản xuất thùng
thiếc 20 lít đựng dầu hôi, kho châm dầu vào thùng
200 lít, nhà máy nhựa đường.v.v...
« Phái
đoàn » đi viếng gồm có ông tướng, hai người
hộ vệ và xếp kho. Vì kho dầu không làm việc, nên
tôi chỉ đưa họ đi... phớt phớt
vòng ngoài các khu nhà máy. Tôi có ý đợi họ đặt câu
hỏi, nhưng không nghe cha nào nói một tiếng. Sau nầy,
tôi mới biết rằng ngoài bắc không có những gì
chúng tôi có ở trong nam, cho nên họ không biết... khỉ
gì để mà hỏi !
Đến
khu bồn chứa, bỗng ông tướng chỉ một
cái bồn, hỏi : « Cái bể nầy bao nhiêu khối ? ».
Tôi trả lời : « Mười lăm ngàn m3 ». Hỏi : « Mỹ
nó làm cho các anh đấy à ? ». Trả lời : « Không có thằng
Mỹ nào vô đây hết ! Toàn là dân Việt Nam thực hiện
».
Nghe vậy,
lão ta cười khẫy : « Làm gì có ! Ở ngoài ta, trên 2000
khối là phải ông Liên Xô hay ông Trung Quốc thực hiện
cơ ! ». Cái cách thằng chả nghi ngờ lời tôi nói
đã chạm mạnh tự ái của tôi, đồng thời
cũng cho tôi thấy rằng miền bắc của mấy
chả nó dở ẹc hà ! Tôi nhấn mạnh : « Tất cả
ba mươi mấy cái bồn nầy, lớn nhỏ gì
cũng do nhà thầu thực hiện với thầy thợ
hoàn toàn người Việt ». Tôi đưa mấy người
đến xem cái bồn mới làm xong cách đây
mươi hôm. Đó là cái bồn lớn nhứt kho Nhà
Bè, 30000 m3, do nhà thầu Việt Nam EVS thực hiện, nó lớn
bằng nửa cái sân banh ! . Từ đó, mấy chả làm
thinh luôn cho đến về văn phòng để họp với
mấy anh em cấp chỉ huy cũ theo ý muốn của
ông tướng !
Sau khi nghe
mấy anh em lần lượt trình bày lý lịch, cấp bậc,
phần việc và lương bổng của mình, ông tướng
nói : « Các anh yên tâm : Đảng và Nhà Nước sẽ trả
lương các anh y như cũ. Cứ yên chí phục vụ
! ». Nghe giọng ông ta rất tin tưởng vào những gì ổng
nói, mình cũng thấy tin tưởng theo...
... Thời
gian sau, hãng dầu đường Thống Nhứt
được mang tên « Công Ty Xăng Dầu Khu Vực Hai
». Hỏi « Khu Vực Một » ở đâu thì được
trả lời « Chưa có, nhưng đã có Tổng Công Ty ở
Hà Nội » ! Cách mạng có khác !
Rồi là
« xếp thang lương », nghĩa là mỗi ngành mỗi
nghề đều được xếp cấp bậc
trên từng thang lương, từ đó lãnh lương mổi
tháng 2 kỳ, mổi kỳ nửa lương. Tôi
được xếp « kỹ sư bậc 2 trên 6 », nghe...
khoẻ re. Thang lương có 6 bậc mà mình nằm gần
trên đĩnh rồi, họ cũng biết... chấm
điểm đó chớ ! Ai dè khi lãnh lương mới...
té ngửa : mấy chả xếp thang lương ngược,
hạng nhứt là bậc 6 nằm trên hết, rồi tuột
lần xuống dưới chót là hạng một. Tôi bậc
2 trên 6, là hạng... áp chót ! Mẹ !...
Tôi lãnh 80
đồng tiền mới (Vậy là thằng cha tướng
Tổng Cục Hậu Cần đã nói láo ! ). Bực mình,
chạy đi gặp thủ trưởng, ảnh nói : « Trời
đất ! Bác Hồ chủ tịch nước mà chỉ
lãnh có 200 đồng. Còn anh, anh lãnh tới 80 đồng còn
muốn gì nữa ? ». Thấy thằng chả đem « Bác Hồ
» ra... làm chứng, tôi biết có cãi cũng vô ích. Rồi tôi
nhớ ra là anh tài xế cũ của tôi bây giờ lãnh 90
đồng, tôi... đánh đòn chót : « Vậy thôi anh cho tôi
làm tài xế, đi ! ». Thằng chả cười, thấy
như tôi sao quá khùng, nên vừa lắc đầu vừa trả
lời : « Đâu được ! Anh là Kỹ Sư đâu
làm tài xế được ! ». Tôi làm thinh, bước ra khỏi
văn phòng thủ trưởng mà thấy như mình từ
trên trời rơi xuống !
* * *
... Tôi « chịu
trận » với cái gọi là « cách mạng » hết ba
năm. Vượt biên thất bại hết ba lần, qua
lần thứ tư đi thoát, để bây giờ - ba
mươi mấy năm sau - ngồi viết mấy dòng nầy
nhân ngày 30 tháng tư thứ 37... mà thấy không phải tôi
đã từ trên trời rơi xuống, chính mấy thằng cha « cách mạng
» mới là từ trên trời rơi xuống !
Tiểu Tử
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/May/2015 lúc 9:03pm
Thượng Viện California thông qua nghị quyết về TPB VNCH
Thursday, April 30, 2015 6:55:37 PM
SACRAMENTO, California (NV) - Nghị
Quyết SJR 5, do Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn đề nghị, kêu gọi chính phủ
Mỹ cho phép thương phế binh VNCH định cư tại Hoa Kỳ, vừa được Thượng
Viện California thông qua hôm Thứ Năm, 30 Tháng Tư, thông cáo báo chí
của văn phòng nữ dân cử gốc Việt này cho biết.
Các thương phế binh VNCH đến
nhận quà tại chùa Liên Trì, quận 2, Sài Gòn. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty
Images)
Theo thông cáo, SJR 5 yêu cầu chính quyền liên bang tái thực hiện
Chương Trình Tái Ðịnh Cư Vì Lý Do Nhân Ðạo và Chương Trình Ra Ði Trong
Trật Tự. Sự tái thực hiện này sẽ cho phép thương phế binh Việt Nam Cộng
Hòa và con cái của họ đang sống ở Việt Nam được nộp đơn xin định cư tại
Hoa Kỳ.
Các chương trình này trước đây cho phép những người Việt Nam từng bị
tù trong các trại tập trung, người Việt Nam từng làm việc cho chính
quyền, các công ty, hoặc các tổ chức của Hoa Kỳ trước ngày 30 Tháng Tư,
1975, được phép định cư tại Mỹ. Tuy nhiên, nhiều thương phế binh không
nằm trong chương trình này, bởi vì họ không bị đưa vào các trại tập
trung, vì họ bị thương tật trước khi cuộc chiến kết thúc. Thành ra, họ
không đủ số năm bị tù để được tái định cư theo quy định của hai chương
trình này.
Hàng ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, còn gọi là Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, và gia đình họ vẫn còn đang sống tại Việt Nam, và thường
xuyên bị chính quyền Cộng Sản đàn áp, không có việc làm, không có nhà ở,
và con cái không được đi học, theo thông cáo.
Cũng theo thông cáo, để giải quyết vấn đề này, Thượng Nghị Sĩ Janet
Nguyễn đã tổ chức một cuộc họp báo vào Tháng Mười Hai, 2014, cho biết bà
dự định vận động các thành viên Quốc Hội Hoa Kỳ tái thực hiện Chương
Trình Tái Ðịnh Cư Vì Lý Do Nhân Ðạo và Chương Trình Ra Ði Trong Trật Tự
đối với thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa cùng với con cái của họ.
“Nghị quyết này chiếu một tia sáng vào một kẽ hở, mà trong đó, hàng
ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ quên. Ðây là những người đã
chiến đấu rất can đảm bên cạnh đồng minh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt
Nam,” Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn được trích lời nói. “Là một người tị
nạn, đến quốc gia này để trốn chạy sự đàn áp của chế độ Việt Nam Cộng
Sản, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng viện đã ủng hộ và cùng tôi thông
qua nghị quyết này.”
Hạ Viện California sẽ xem xét nghị quyết này trong những ngày tới. Và
nếu được thông qua, SJR 5 sẽ được chuyển đến tổng thống và phó tổng
thống Hoa Kỳ, lãnh đạo Ða Số Thượng Viện Hoa Kỳ, chủ tịch Hạ Viện Hoa
Kỳ, tất cả các thượng nghị sĩ và dân biểu liên bang của tiểu bang
California, theo thông cáo.
Ngoài ra, Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn dự định đến Washington, DC, để
đích thân gặp các thành viên Quốc Hội nhằm vận động cho SJR 5, cũng theo
thông cáo.
“Chúng ta mới chỉ vượt qua một chướng ngại với SJR 5, nhưng tôi rất
lạc quan, là nghị quyết này sẽ được lưỡng viện Quốc Hội California thông
qua,” Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn được trích lời nói. “Tôi sẽ tiếp tục
tranh đấu cho những người không có tiếng nói, và vẫn đang phải tranh đấu
cho tự do của họ ở Việt Nam, cho tới khi chính phủ Hoa Kỳ phải cho họ
một cơ hội định cư tại đất nước này.”
(Ð.D.)
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/May/2015 lúc 7:38pm
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/May/2015 lúc 9:34pm
Tôi không khó khăn nhận ra mẹ khi bà vừa bước ra khỏi trạm kiểm soát an
ninh phi trường. Một tay kéo chiếc va ly nhỏ, một vai mang chiếc xách
tay, mẹ thong dong như trôi theo dòng người. Dáng mẹ trông mảnh mai,
thanh nhã, linh hoạt dù rằng đã ở cái tuổi tám mươi. Tóc đã bạc phơ.
Chiếc áo sơ mi màu trắng như giúp khuôn mặt mẹ tươi tắn hơn ngày tôi gặp
mười lăm năm trước. Mẹ đưa mắt tìm kiếm. Tôi giơ tay vẫy. Bà mừng rỡ
vẫy lại. Tôi cười khi mẹ đến gần:
“Chào mẹ!”
Mẹ buông rơi chiếc va ly, mở vòng tay ôm ghì
lấy tôi. Tôi cũng ôm xiết mẹ mà sao không cảm nhận chút nồng ấm nào. Từ
khi chưa đầy một tuổi, ba mẹ tôi đã đành đoạn bỏ rơi tôi. Thôi nôi,
ngoại cúng kiến van vái. Lên ba, ông ngoại mất. Lên năm, bà ngoại lìa
đời. Cậu mợ tôi thừa hưởng gia sản nên… thừa hưởng luôn việc săn sóc
dưỡng dục tôi. Vì vậy mà khi khôn lớn, tôi hầu như quên hẳn mình còn đủ
cha đủ mẹ.
Tôi lái xe vào trung tâm thủ đô, chạy vòng vòng cho mẹ xem phố xá rồi
quẹo sang đường Constitution. Tôi chỉ mẹ xem đài tưởng niệm Washington,
tòa Bạch ốc và hứa một ngày khác sẽ đưa mẹ vào xem tận bên trong. Mẹ nói
mẹ muốn ưu tiên gặp em của mẹ, còn việc tham quan chừng nào cũng được.
Tôi cho mẹ biết cậu mợ đang chu du Âu châu, hai tuần nữa mới về. Sợ mẹ
hiểu lầm, tôi giãi bày:
“Cậu mợ ghi tên đi chơi trước ngày mẹ báo tin qua đây nên không hủy bỏ
được. Con đã xin nghỉ một tháng. Trong tháng đó mình sẽ đi một vòng sơ
khởi nước Mỹ. Mẹ sẽ gặp em trai mẹ vào tuần lễ thứ ba…”
Tôi ngưng nói khi thấy mẹ xoay mặt về khung cửa kính. Nhân lúc xe qua cầu, tôi cất cao giọng:
“Đây là sông Potomac. Đi xuôi dòng sẽ trông thấy một phần hình ảnh rất
đẹp của thủ đô. Nhà của con phía thượng dòng cách đây độ nửa giờ.”
Mẹ vẫn nhìn quang cảnh thành phố, chỉ có tiếng “thế à” hờ hững vang lên.
Tôi nhìn đồng hồ và mừng là đã tới giờ cơm chiều. Tôi nói nhỏ nhẹ:
“Suốt ngày đêm trên máy bay, chắc mẹ thèm cơm. Khu thương mại Eden của
người Việt vùng này có một nhà hàng nấu món canh chua cá bông lau, cá
kho tộ ngon lắm!”
Bà nói giọng mệt mỏi:
“Nói chung thì mẹ thèm một tô phở.”
Một cái gì nghẹn ngào đột ngột trào dâng trong tôi. Hai mươi năm tập kết
ra Bắc mẹ đã bị đồng hóa. Không chỉ thay đổi cả giọng nói, ngôn từ mà
lơ là luôn cả món ăn ưa thích của miền Nam. Tôi ngờ rằng bà không phải
là người sinh ra tôi…
Tôi đưa mẹ vào tiệm Phở Xe Lửa và gọi tô đặc biệt. Mẹ khen ngon hơn phở ở
Sài Gòn. “Nhưng vẫn thua phở Hà Nội”, tôi nhanh nhẩu tiếp lời. Mắt mẹ
thoáng chút ngạc nhiên rồi lặng lẽ quan sát xung quanh… Tôi cũng quan
sát bà. Tôi giống mẹ lạ lùng. Chắc chắn nhìn chúng tôi, không ai nghĩ
khác hơn là mẹ và con. Mà giống mẹ để làm gì khi tâm hồn chúng tôi không
có chút gì hòa điệu…
Tôi nhấn một chiếc nút trên trần khi xe sắp quẹo vào driveway và lái
thẳng vào garage. Trong khi tôi mở cóp nhấc xuống các hành lý, mẹ đi ra
phía trước đường. Tôi bước đến bên mẹ khi bà ngắm nghía ngôi nhà, trầm
trồ:
“Nhà của con đây hả? To và đẹp quá, ngoài tưởng tượng của mẹ. Quang cảnh cũng thật sáng sủa tươi mát.”
Tôi cười buồn:
“Chúng con mới mua năm ngoái và chắc cũng sắp bán…”
Giọng mẹ thảng thốt:
“Tại sao thế?”
Tôi nắm cánh tay mẹ dìu đi:
“Mẹ vào nhà nghỉ ngơi. Từ từ rồi mẹ sẽ biết…”
Tôi bấm số liên hợp và mở toang cánh cửa. Mẹ bước vào, đứng sững người
trên tấm thảm nhỏ mang chữ welcome. Dường như mẹ không tin những gì mẹ
đang thấy. Mẹ ngập ngừng bước đi, mắt dừng lại từng vật trang trí ở
phòng khách, phòng gia đình, miệng lẩm bẩm lời tán thưởng. Khi mẹ hướng
về khu bếp, tôi biết mẹ sẽ ở đây lâu hơn nên lặng lẽ trở ra ngoài mang
hành lý vào nhà. Khóa cửa xong, tôi đảo mắt tìm mẹ. Bà đang ở trong
phòng đọc sách, đứng lặng yên trước bàn thờ. Mẹ không nhìn các tượng
Phật rất đẹp tôi thỉnh tận Thái Lan. Mắt mẹ đang đăm đăm nhìn di ảnh của
Huy. Anh mặc áo tiểu lễ hải quân với dây biểu chương, trên một nắp túi
là chiếc huy hiệu hạm trưởng và bảng tên Lê Quang Huy. Bên kia là hai
hàng huy chương nhiều sắc màu khác biệt. Và Huy đang tươi cười…
Mẹ nói bằng giọng ngạc nhiên mà bình thản:
“Sao con không nói gì với mẹ?”
Tôi lắc đầu:
“Để làm gì? Mẹ có biết gì về ảnh đâu và chắc cũng không ưa ảnh!”
Mười lăm năm trước, khi về chịu tang ba tôi, tôi đã từ chối trả lời mọi
câu hỏi của mẹ. Tôi muốn cho thấy khi bà đã có can đảm bỏ rơi tôi thì
tôi cũng có can đảm coi như đời tôi không dính dáng gì tới bà. Mãi gần
đây, khi mẹ ngỏ ý muốn qua thăm chúng tôi, Huy khuyên tôi nhận lời, dù
gì bà cũng là người sinh thành ra mình. Tôi nghe lời khuyên nhưng chỉ
một mình tiếp đón mẹ. Huy chết bất thần vì cơn đột quỵ.
Mẹ nhìn khắp bàn thờ rồi quay phắt sang tôi:
“Sao không thấy con thờ ba con?”
“Thờ ba? Tại sao con phải thờ ba?”
Mặc dù đã tự nhủ, tôi vẫn không dằn được cơn bực tức bùng vỡ. Mẹ quay
đi, lặng lẽ thắp nén nhang cắm vào lư hương, nhìn Phật Bà, nhìn Huy rồi
thở dài lặng lẽ bước lên thang lầu. Tôi đã từng nghe nhiều tiếng thở dài
tương tự của mẹ trong suốt thời gian mười ngày về dự đám táng ba tôi.
Tôi đã cho bà thấy tôi không chỉ dửng dưng với người chết mà còn lạnh
lùng với cả người còn sống. Liệu có ai cư xử khác tôi khi suốt quãng đời
dài gần bốn mươi năm mà chỉ vài lần được nghe nhắc đến mẹ cha mình bằng
lối bông đùa.
Năm tôi lên mười bốn, sau trận Mậu Thân khói lửa khắp Chợ Lớn Sài
Gòn, một bữa, lần đầu tôi nghe cậu nhắc tới ba mẹ. Trong bộ đồ trận rằn
ri mang lon trung tá, cậu ra vẻ trịnh trọng: “Nè, Phượng! Con có biết là
suýt nữa con đã có dịp trùng phùng ba mẹ con không?” Trong khi tôi tò
mò lắng nghe, cậu tỉnh bơ tiếp: “ Nhưng vì cậu thấy họ không xứng đáng
làm bậc cha mẹ, cậu đã đuổi họ về mật khu rồi!” Tôi thường cười với mỗi
cợt đùa của cậu nhưng lần đó tôi mím môi muốn khóc.
Năm hai mươi mốt tuổi, khi tôi đưa Huy về nhà giới thiệu nhân buổi tiệc
mừng cậu thăng cấp tướng, cậu nói nhỏ vào tai tôi: “ Chà chà! Như vầy là
kẹt cậu rồi! Con mà chọn tên hải quân đó làm chồng thì cậu khốn khổ với
chị cậu. Tuy nhiên, nếu con… năn nỉ cậu, cậu cũng liều cho con làm… bà
thiếu tá.” Tôi vẫn cười thầm về chuyện này vì bốn tháng sau, sự thể đảo
ngược. Chính cậu lại là người phải “năn nỉ” tôi để cả gia đình được lên
tàu của Huy rời khỏi Việt Nam.
Chúng tôi thành hôn ở Mỹ. Huy trở lại đại học, tôi đi làm ngày đêm.
Rồi lần lượt hai đứa con ra đời. Huy ra trường đi làm. Tôi vào đại học.
Vất vả mà hạnh phúc. Tôi quá bận rộn để nhớ về quê cha đất tổ, cho tới
mười năm sau tôi mới lại nghe tin tức ba mẹ. Lại vẫn do cậu đưa tin. Cậu
tôi cho biết đã liên lạc được với chị của mình. Không lâu sau đó tôi
liên tiếp nhận được thư ba mẹ tôi bày tỏ lòng khao khát mong nhận được
thơ tôi và hình ảnh gia đình. Và tiếp đến là những lá thư mong mỏi tôi
về Việt Nam. Tôi nhận thư, tôi đọc, lòng ngơ ngẩn, bâng khuâng nhưng
không có chút hứng thú trả lời. Thậm chí nhiều năm sau, cái tin ba tôi
đau nặng cũng chỉ được đón nhận với lòng dửng dưng.
Huy bảo tôi nên về. Cậu mợ gọi điện bảo tôi phải về. Tôi thưa với cậu mợ
rằng tôi không có cha mẹ nào khác ngoài cậu mợ nhưng cậu mợ tiếp tục
thúc bách và giảng đạo lý. Tôi rủ cậu mợ cùng về. Cậu bảo cậu không muốn
giỡn mặt với chính quyền cộng sản. Cuối cùng tôi khăn gói một mình lên
đường. Thời điểm này chúng tôi còn nghèo nên Huy đành ở lại với hai con.
Nhưng đoạn đường quá xa để ba tôi không thể chờ. Ông vĩnh viễn ra đi vài
giờ trước lúc tôi bước vào ngôi nhà xưa. Dù vậy tôi vẫn còn kịp nhìn
mặt ba tôi. Nhìn chỉ một lần mà vẫn đủ để khuôn mặt già nua, khắc khổ,
hoàn toàn xa lạ đó theo tôi về tận xứ Mỹ. Thỉnh thoảng nhân một liên
tưởng về dòng họ ai còn ai mất, khuôn mặt của ông lại hiện ra cùng với
những tiếng thở dài của mẹ. Thế mà tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ đến
việc thờ phượng ông…
Mẹ nằm trong buồng riêng suốt đêm ngày, mãi đến tối hôm sau mẹ mới tươi
tỉnh hẳn. Tôi rủ mẹ đi ăn đồ biển. Mẹ ăn tự nhiên, ngon lành. Nếm đủ tôm
cua nghêu sò ốc hến. Luôn cả hào tươi. Lâu lắm mới có dịp ăn ngoài, tôi
cũng tận lực nuốt. Trên đường về nhà, mẹ hỏi:
“Cậu bảo con có hai thằng con trai. Chúng nó đâu mà mẹ chưa gặp?”
“Tụi nó đều đã lập gia đình. Mỗi đứa ở mỗi tiểu bang khác nhau, khá xa.
Đứa lớn ở Georgia, có hai con, đứa nhỏ ở Texas, đang chờ con đầu lòng.
Con đã sắp xếp để mẹ đến chơi với chúng nó, mỗi đứa vài ngày, sau khi mẹ
gặp cậu mợ.”
Mẹ nhìn tôi, dò hỏi:
“Con ở đây một mình sao?”
Tôi gật đầu:
“Vì vậy mà con có ý muốn bán nhà này về sống với mấy đứa nhỏ, luân phiên
mỗi đứa một thời gian. Tụi nó đang năn nỉ con về ở chung.”
Giọng mẹ ngập ngừng:
“Phải thú nhận rằng mẹ vừa trông thấy căn nhà này là mê ngay. Nếu con
bán thì bán cho mẹ. Mẹ con ta sẽ ở đây, mãi mãi tới ngày mẹ chết…”
Tôi đăm đăm nhìn mẹ. Tôi đã biết từ lâu là mẹ rất giàu, chỉ ngạc nhiên
về ý cuối. Nó đến quá bất ngờ như là một nhánh gai quẹt vào người. Tôi
nghe xót đau, khó chịu. Tôi không chuẩn bị việc này, cũng không muốn nó
xảy ra. Đầu óc tôi đông cứng. Chợt hình ảnh Huy hiện ra, miệng cười
cười. Ba tháng nay, từ ngày anh mất, khi tôi gặp điều gì khó xử là anh
lại hiện về. Nụ cười của anh luôn luôn giúp tôi tìm giải pháp. Tôi thấy
bao nhiêu phiền phức nếu cho mẹ ở chung. Tôi đã quen với cuộc sống không
có mẹ. Chỉ mới hai mươi bốn tiếng đồng hồ “có mẹ” mà tôi đã chịu đựng
biết bao gượng ép.
Mẹ nhìn tôi dò hỏi. Tôi nói:
“Con mới mất anh Huy. Con cần một thời gian yên tĩnh.”
Mẹ cũng cần có thời gian sắp xếp mọi việc ở Việt Nam. Năm tới mẹ trở qua sống hẳn với con. Con đồng ý chứ?”
Tôi không biết nói gì hơn. Tôi như nghe tiếng Huy văng vẳng: “Đừng làm
mẹ buồn!” Tôi cố nhìn vào bóng đêm loang loáng tìm hình bóng Huy nhưng
chỉ thấy ánh đèn đỏ vừa bật ở ngã tư…
Sau năm ngày dạo chơi phố xá và ngắm cảnh
Nữu Ước, chúng tôi dành hai đêm thử thời vận ở sòng bạc Atlantic City.
Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cả hai mẹ con thắng lớn. Chúng tôi về đến
nhà, tẩy rửa xong lớp bụi đường thì trời tối hẳn. Tôi thấy mệt mỏi nhưng
mẹ tỉnh bơ đề nghị để mẹ nấu ăn ở nhà. Tôi nói sẽ ăn ở nhà nhưng mẹ
khỏi nấu. Mẹ không tỏ gì ngạc nhiên khi tôi gọi thức ăn bằng điện thoại.
Bà ngồi thoải mái trong bộ ghế êm ái, xem truyền hình đưa tin thế vận
hội. Tôi sắp đặt chén đũa, khăn ăn và nước ngọt rồi ngồi xuống cạnh mẹ.
Chợt mẹ quay sang tôi, giọng ngập ngừng thiếu tự nhiên:
“Mẹ phải nói với con chuyện này. Em trai con muốn nhờ mẹ hỏi con giúp nó một việc.”
Em trai tôi? Tôi từ từ hình dung đứa em trai của mình. Tôi đã nhớ ra một
hình dáng hiền hòa thường quanh quẩn gần tôi. Cũng như cậu và mẹ, em
tôi nhỏ thua tôi năm tuổi. Nhưng nó khác với tất cả chúng tôi là đã
không chào đời ở miền Nam. Tôi nhìn mẹ chờ đợi. Giọng mẹ đều đều:
Đứa con gái út của nó học rất giỏi. Năm tới lên đại học. Nó muốn nhờ con
giúp cháu qua học bên này. Nó không muốn cho cháu ở nội trú. Nó xin cho
cháu ở với con. Cơ bản là con không phải tốn kém gì hết. Mẹ sẽ lo đi
chợ, nấu ăn cho cả nhà…”
Cơn giận chợt ứ lên ngực làm tôi khó thở. Tôi hít vào một hơi thật sâu.
Tôi biết là mở miệng lúc này tôi sẽ nói ra lời cay độc. Tôi nhìn ra
ngoài trời đang đổ mưa với những ánh chớp liên hồi. Tôi nhớ tới những
cơn mưa đầy sấm sét trong căn nhà thênh thang thuở lên mười. Thuở đó cậu
tôi đổi đi đơn vị xa và mợ theo cậu. Người giúp việc thì ngủ gần bếp,
xa căn buồng riêng biệt của tôi. Tôi đã vô cùng sợ hãi và từng ước ao có
được một đứa em. Bây giờ tôi đâu còn cần. Tôi nói chầm chậm:
“Thì ra mẹ qua đây không phải vì con mà vì tương lai cháu nội của mẹ!”
Bà nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
“Con nói gì lạ vậy. Tất nhiên mẹ qua đây là vì con, bởi vì mẹ muốn bù
lại thời gian ba mẹ bỏ bê con. Mẹ không hề vì cháu nội. Nó chỉ ngỏ lời
sau khi biết ý định của mẹ.”
Mẹ đưa tôi lá thư cầm sẵn:
“Đây là thư nó gửi cho vợ chồng con.”
Tôi hững hờ nhận. Mẹ tiếp:
“Thật ra nó cũng đã hỏi các thủ tục xin ở nội trú. Không có con ở đây,
con của nó vẫn qua đây học. Mẹ thấy điều quan trọng là có người ruột
thịt cận kề, coi sóc, nhắc nhở.”
Tôi cười chua xót, không còn ngăn được lời mai mỉa:
“Ruột thịt? Có là ruột dư với thịt thừa! Và mẹ đã từng cắt bỏ không thương tiếc!”
Mẹ nhìn tôi đăm đăm:
“Con vẫn còn giận mẹ đến thế sao? Lần con về, mẹ đã hết lời giải thích…”
“Con vẫn nhớ các lời giải thích đó: Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua
chỉ vì muốn góp phần giành độc lập, thống nhất đất nước. Thì đất nước đã
độc lập thống nhất, sao mẹ và cháu nội không ở Việt Nam mà hưởng.”
Mẹ buông tiếng thở dài. Tôi cũng chợt nhận ra mình vừa buông lời xỉa xói hỗn hào.
Tôi trầm giọng:
“Con xin lỗi. Hễ nhớ đến những ngày con bị bỏ rơi là cứ muốn nổi xung thiên…”
“Mẹ phải làm gì để được con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con nghĩ lại đi.
Ba mẹ đâu có gửi con cho ai xa lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột của mẹ.
Con lúc nào cũng nhận được trọn vẹn tình thương và chăm sóc…”
Tôi cố giữ giọng bình thường:
“Ba mẹ ruột của mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của
con, con bị bạn bè cười nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không cha không
mẹ!”
Nước mắt tôi tự dưng ứa ra, rơi dài xuống. Mẹ đứng lên, bước lại ôm choàng lấy tôi.
Tôi khóc nức nở trên vai mẹ. Khi muộn phiền đã dịu xuống, tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ:
“Mẹ không thấy là mẹ không công bằng sao? Lúc con ở cái tuổi rất cần sự
săn sóc của ba mẹ thì ba mẹ bỏ đi biền biệt. Còn bây giờ, khi mẹ muốn ở
gần con thì mẹ đã bước vào cái tuổi gần đất xa trời, cái tuổi mẹ cần con
chớ con không cần mẹ. Thật lòng mà nói, cho tới giờ phút này, con không
một mảy may cảm thấy chút gì thương yêu mẹ, thì nói chi thương yêu
cháu.”
Mẹ ôm mặt, thân hình thả rơi lên ghế. Tôi nghe tiếng nấc của mẹ và nghe
lòng chùng xuống. Tôi nói nhanh như sợ không còn nói được:
“Nhưng có điều chắc chắn là con cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là
mẹ của con. Chừng nào mẹ muốn ở với con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi,
mẹ cứ đi.”
Điều em con muốn, cháu con muốn, con khó mà nói được lời từ chối!
Mẹ vẫn ngồi yên, thút thít khóc. Đúng lúc tôi muốn ngồi xuống ôm lấy mẹ
thì tiếng chuông reo. Tôi thở hắt ra, bước về phía cửa nhận thức ăn mang
tới…
Rời San Francisco trên chiếc xe chở khách chúng tôi ôn lại những địa
điểm đã viếng thăm qua ba ngày ở vùng vịnh. Mẹ tỏ vẻ hài lòng đã được
chính mắt chiêm ngưỡng chiếc cầu nổi danh Golden Gate. Mẹ cũng yêu thích
cái công viên cùng tên với khung cảnh nên thơ thanh bình mà mẹ gọi là
hồ Tịnh Tâm. Hai ngày ở San Jose, ấn tượng nhất đối với mẹ là những hình
ảnh sinh động, huy hoàng và lạ mắt của vô số loài sống dưới nước hiển
hiện ngay trước mắt trong Monterey Bay Aquarium.
Khi chúng tôi về tới quận Cam. Cậu và các
con cháu đón chúng tôi ở bến xe, chỉ thiếu có mợ. Khi tôi thông báo mẹ
sẽ sang thăm gia đình cậu, cậu nói sẵn sàng gặp mẹ nhưng từ chối cho
chúng tôi tạm trú. Nhà cậu mợ rất rộng, nhiều buồng ngủ. Vợ chồng con
cái tôi mỗi khi qua Cali là ở nhà cậu mợ hà rầm. Cậu mợ hẳn phải đau
lòng khi lần này để tôi ở khách sạn chỉ vì… có mẹ!. Mợ không muốn chứa
mẹ trong nhà. Hai đứa em trai của mợ đều bị tập trung, một bỏ xác trong
rừng Yên Bái.
Mỗi ngày trong suốt một tuần, cậu lái xe đến khách sạn đón chúng tôi đi
viếng thăm hết nơi này đến nơi khác. Ngày đầu, cậu dành cho khu Little
Saigon. Mẹ thú nhận là rất ngạc nhiên về mức phát triển quy mô và sự
phồn vinh sang giàu của người Việt tỵ nạn. Những ngày kế dành cho danh
lam thắng cảnh. Có ngày chúng tôi bay khỏi thành phố đỏ đen Las Vegas về
phía Bắc để chiêm ngưỡng Grand Canyon vô cùng kỳ vĩ ngoạn mục.
Cậu thường dùng khoảng thời gian di chuyển để hỏi mẹ về gia đình và dòng
họ ở quê nhà. Cậu cũng kể về cuộc đời của cậu trong suốt nửa thế kỷ
không gặp chị. Tôi vô cùng thú vị được nghe hai chị em nhắc lại những kỷ
niệm thời họ sống bên nhau. Thỉnh thoảng cậu và mẹ “đụng” nhau về đề
tài chính trị thường là do cậu khởi xướng.
Một lần đang lái xe, cậu bỗng nhái cái giọng bắc của mẹ: “Thật đáng
tiếc! Nếu chị cả đừng… vớ phải cái ông trí ngủ nằm vùng thì giờ chị em
gặp lại dung dăng dung dẻ biết bao!”. Mẹ nở ngay nụ cười đáp trả: “Thì
cũng lỗi ở em. Phải chi em không làm tay sai cho Mỹ Ngụy”. Cậu gật gù ra
vẻ tán thưởng rồi bắt sang chuyện khác.
Hôm đứng trước trường đại học danh tiếng Standford, cậu cười nói: “Tham
quan trường này chị có nhớ đến những năm chị dạy khôngVào ngày thăm
viếng Getty Center, một công trình chi phí hàng tỷ đô la, vừa đồ sộ về
kiến trúc tân kỳ, vừa là viện bảo tàng nghệ thuật cổ vật hàng thế kỷ,
lại vừa quy mô về tổ chức, tất cả chi phí do nhà tỷ phú Paul Getty đài
thọ, cậu tôi bất ngờ hỏi mẹ: “Nghe đâu chị đang là tỷ phú đỏ. Ngày xưa
chị chống Mỹ cứu nước, ngày nay nhà tỷ phú Việt Nam đổi mới đã đóng góp
được gì để dựng nước?” Mẹ cười: “Chị đang cho xây Đại Nam Quốc Tự thứ
nhì. Hôm nào khánh thành chị sẽ mời em về dự”. Cậu cười ra vẻ đắc ý:
“Xin hỏi lần này chị đặt ông Hồ ngồi ở đâu?” Tôi nhớ vừa đọc tin tức gần
đây nói về ngôi chùa vĩ đại mới xây xong có đặt ba bức tượng từ thấp
lên cao: ************, Khổng Tử, Phật Thích Ca. Tôi lo âu chờ câu trả
lời. Mẹ nhởn nhơ: “Em về thì biết”.
Đêm chót trước khi rời Quận Cam trở lại
Maryland chúng tôi được cậu mời một bữa tiệc cá 7 món, đặc sản Cali. Khi
chúng tôi đến nhà hàng, tôi thật sự ngạc nhiên và vui mừng khi thấy có
cả mợ hiện diện. Mợ đứng lên vui vẻ chào hỏi và mời mẹ ngồi bên cạnh. Mợ
vốn hoạt bát, nên mẹ lúc nào cũng cười tươi. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh
phúc. Lúc chờ tính tiền cậu hỏi mẹ bao giờ về Việt Nam. Mẹ bảo còn lâu,
khoảng sáu tháng nữa. Và năm tới có thể là qua ở luôn. Cậu gật gù nhìn
mẹ rồi nhìn tôi. Tôi bật cười nhưng kịp hãm khi thấy mặt mẹ sa sầm…
Về Maryland, theo dự trù chúng tôi nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống
Georgia và Texas. Nhưng chỉ mới qua đêm, buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý.
Mẹ muốn về ngay Việt Nam. Tôi ngỡ ngàng. Nhưng tôi chợt hiểu ra. Câu
trêu chọc của cậu đã chạm tự ái mẹ. Xa nhau quá lâu, mẹ không quen tính
tình em mình. Cợt đùa, đốp chát vô tội vạ là thói quen của cậu. Hiểu cậu
thì không ai giận cậu. Không hiểu cậu, giận cậu thì ráng chịu. Cậu nói
đó rồi quên đó. Tuy nhiên tôi vẫn không muốn thấy cậu ngỏ lời xin lỗi
mẹ. Tôi cũng không có ý định van xin mẹ khoan vội về Việt Nam. Tôi biết
chắc nếu tôi năn nỉ, mẹ sẽ ở lại. Gần tháng qua tôi đã cảm thấy chút gì
gần gũi mẹ nhưng xem ra vẫn còn một bức vách vô hình ngăn cản sự thoải
mái, tự nhiên, thân mật. Thậm chí còn có cái gì khác nữa khiến tôi có
lúc bứt rứt, bực mình. Không có mẹ, tôi ngủ nghê, ăn uống thế nào lúc
nào tùy thích. Có mẹ, tôi phải hầu hạ, e dè, trông trước ngó sau. Mẹ ở
lại lần này, lần tới sẽ ở lại mãi mãi. Mà xem ra thời gian để xây đắp
tình mẫu tử chẳng còn bao nhiêu. Luật đời vốn trói buộc tôi vào kiếp nạn
mồ côi từ đầu đời. Có gặp lại cha thì chỉ khi cha mất. Gặp lại mẹ thì
mẹ lại bỏ đi. Thôi thì hãy coi mươi ngày bên mẹ đã là một hồng ân.
Phải mất một tuần tôi mới đổi được vé máy
bay. Trong tuần cuối đó, mẹ chỉ thích đi mua sắm. Mỗi ngày tôi đưa mẹ
vào một trung tâm thương mại khác nhau. Ăn thì mỗi bữa một nhà hàng khác
xứ. Mẹ đã thưởng thức các món ăn Mỹ, Nhật, Thái, Đại Hàn, Mã Lai, Nam
Dương. Đêm cuối cùng, tôi hỏi mẹ có muốn ăn phở lần chót ở Mỹ không, mẹ
cười bảo muốn ăn canh chua cá kho tộ. Tôi thấy chút ấm lòng…
Hôm đưa mẹ ra phi trường, chúng tôi im lặng suốt đoạn đường. Gửi xong
hành lý, tôi kéo chiếc va ly, tay kia nắm bàn tay mẹ bước chầm chậm về
trạm kiểm soát an ninh cá nhân. Khi gần đến dòng người ngoằn ngoèo chờ
qua trạm, mẹ dừng lại. Tôi nhìn mẹ dò hỏi. Ánh mắt mẹ ngập tràn âu yếm
mà giọng cất lên trầm buồn:
“Chắc mẹ sẽ không qua đây thăm con nữa.”
Tôi nghe xao xuyến nhưng vẫn lặng thinh. Lời mẹ êm như tiếng thở dài:
“Và khi mẹ chết, con cũng không cần phải về…”
Tôi đứng chết lặng. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cư xử quá tệ hại với
chính mẹ mình. Ý nghĩ trở thành đứa con bất hiếu khiến tôi buột miệng:
“Mẹ! Con sẽ về. Thế nào con cũng về. Cậu đã dạy con nghĩa tử là nghĩa tận.”
Bà vòng tay ôm lấy tôi thật chặt, giọng êm đềm:
“Còn đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lời cuối. Con hãy luôn luôn
ghi nhớ: “Chú như cha, cậu như mẹ”. Con gắng giữ sức khỏe. Thôi mẹ đi.”
Mẹ nắm chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào
má tôi. Tôi nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay
mặt bước đi. Tôi thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi:
“Mẹ!”
Bà quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười:
“Chào mẹ!”
Khuyết danh
------------- mk
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/Jun/2015 lúc 8:02pm
Cuộc trùng phùng bi thảm.
Phạm Tín An Ninh
Theo đoàn quân tiếp thu
Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và hầu hết các đồng chí của ông
ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị
đánh tan tác gần như phải xóa sổ trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung
xong, và đám bộ đội còn sống sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột
mất, Tây Nguyên, Vùng 2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ
trong vòng bốn mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài
Hà Nội cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ
quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút..
Từ
ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước
đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên
người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng
nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ
trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn
320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn
Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo
tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống
đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75
có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.
Hai
Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia
đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán
xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô
con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến
mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện
Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định
Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản.
Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở
họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến
được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em
trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên
sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.
Nhờ
có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư
sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng
khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân
đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là
thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán
bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.
Giữa
tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ,
sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối
cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.
Sư
Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi
Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây
tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung
cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian
quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền
Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc.
Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi
phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân
chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian
truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền
Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông
Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia
đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn
cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc
được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở,
phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn
một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch
rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định
đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được
tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.
Vợ
chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn
có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ
chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt
con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong
trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà
nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có
đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang
cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó,
nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi
dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.
Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù
không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí
hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai
biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để
nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.
Những
năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra
khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người
ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh
nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân (
tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối
vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những
người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả),
vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng,
chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán
chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời
gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.
Bé
Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ
cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn
tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần
mẫn, Phượng học rất giỏi.
Điều
may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng
xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và
người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp
lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách
Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã
con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp
thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công
việc.
Chưa
bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa
cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng.
Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều
này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu
nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông
chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé
ô-sin của nhà bà.
Ngày
xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và
thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy
quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới
thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số
tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ
tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều
lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế
thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà
“đổi mới tư duy”
Vốn
là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác
man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước
mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu
đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.
Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời
con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi
Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không
chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là
tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô
đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà
để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm
chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại
vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy
công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc
phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người
Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.
Đạt
có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội
gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”,
phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn
còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.
Bà
Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ
dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số
độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào
của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm
cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai
Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống
nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của
Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy
Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào
phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa
mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả
ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với
thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là
một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai
Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm
trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt
khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.
Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng
Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc
giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy
Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên
Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp
hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ
rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng,
tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm,
kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.
Tay
Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị
bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và
Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ
mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn
ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an
tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên
thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm
gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc
ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa
hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng
đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm
giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài
Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ
Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”
****
Trận
chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các
đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm
“tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này,
nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân
vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng
treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn
đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ
hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt
Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di
tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều
trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã
chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.
Ngày
2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của
cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng”
tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình,
những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp
vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm
gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã,
ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu
trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có
bất cứ một người thân quen nào.
Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị
ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được
người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những
người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu
tình hình hầu tìm một con đường sống.
May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn
mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương
của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ
cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn
lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi
chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết
mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin,
gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay,
làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.
Men
rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ
tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt,
tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền
hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ
xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai
xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há
hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng
ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng
đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông
đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải
thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên
Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.
Chỉ
hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc
tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi
nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất
của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh
người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào
bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều
bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có
tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi
năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước
lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của
mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con
mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên
gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp
nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình
diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng
vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh
niên đứng bật dậy, hét to:
-Tôi
là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt,
ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ
bằng chính khẩu súng của ông Đạt.
Bất
chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu
thanh niên vẫn tiếp tục:
-Khi
bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải
mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.
Tất
cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội
vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy
Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình
khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau
Khi
thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra
ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới
thốt ra lời:
-Anh
Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con
gái của em!
Ông
Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi
ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ
con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây
bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung
tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một
cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ
và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu
ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con
trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em
mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.
Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống
chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn
lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho
biết:
-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt
giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị
các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em,
mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.
Là
một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư
sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng
đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây
Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh
niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông
hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn
sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết
thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật
khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người
“bên thắng cuộc”.
Buổi
chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai
nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười
Vân giám đốc công an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất
cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời
nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt
đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của
chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ
nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay,
vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt,
nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với
đảng, với nhân dân.
Bà
Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông
chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện,
vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai
ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn
toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.
Không
khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để
mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai
Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong
ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm
màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết
sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng
như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.
Giữa
tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một
biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn
chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:
Mười
Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là
Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an,
âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài
gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi
khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột
xoàn các loại.
Ngày
1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên
Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân
Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí
Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Mười
Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau
một tuần tại trường bắn Long Bình.
Lần
đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một
ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở
người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và
vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về
chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!
Sau
đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong
đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị
bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an
Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã
Mười Vân.
Biết
không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban
điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười
Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân,
nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt,
tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau
nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.
Tất
nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông
vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông
Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi
nước.
Nhờ
tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại
Tây Đức.
****
Mùa
Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc
trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là
bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về
những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống
Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với
cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ.
Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu
ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai
tuổi.
Tôi
cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng khoan
hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về tội đồng lõa
và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau hai năm thụ án, do
chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng trại, đánh lén bằng cuốc trong
giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại
hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai
Chi đã khai hắn là tay chân đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng,
nên nhà cửa bị tịch thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù.
Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không
phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân
đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám
đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.
Về
sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo
lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao,
lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.