TRUYỆN HAY CHỌN LỌC
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2514
Ngày in: 23/Dec/2024 lúc 11:20am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC
Ngày gởi: 04/May/2010 lúc 8:35am
forum_posts.asp?TID=2273 - TRUYỆN NGẮN forum_posts.asp?TID=2273&PN=1 - 1 forum_posts.asp?TID=2273&PN=2 - 2 forum_posts.asp?TID=2273&PN=3 - 3 forum_posts.asp?TID=2273&PN=4 - 4 forum_posts.asp?TID=2273&PN=5 - 5 forum_posts.asp?TID=2273&PN=6 - 6
forum_posts.asp?TID=2507 - TRUYỆN ĐỌC forum_posts.asp?TID=2507&PN=1 - 1 forum_posts.asp?TID=2507&PN=2 - 2
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Trả lời:
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/May/2010 lúc 10:09am
http://www.authorstream.com/Presentation/vnlib-164961-chuyen-tau-luc-hoang-hon-nguyen-nhung-007-chuyentauluchoanghon-entertainment-ppt-powerpoint/"> <<<xin bấm vào
http://www.authorstream.com/Presentation/vnlib-164961-chuyen-tau-luc-hoang-hon-nguyen-nhung-007-chuyentauluchoanghon-entertainment-ppt-powerpoint/ - Chuyen Tau Luc Hoang Hon - Nguyen Nhung
By: http://www.authorstream.com/User-Presentations/vnlib/ - vnlib
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/May/2010 lúc 2:35pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=4rY4gsMokTMmiPtDJ1YvXS4r9nk91t2i - Bạc Tình <<xin bấm vào - View: 1636 |
?func=search&a=&b=&keyword=Thanh%20Mai - Thanh Mai |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/May/2010 lúc 6:46am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=hzSjCYMzw5HF0dGSXBwVUOZ5eI4uyBZV - Xin Hãy Thôi Mưa <<xin bấm vào - View: 705 |
?func=search&a=&b=&keyword=Hoài%20Yên - Hoài Yên |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/May/2010 lúc 6:37am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=It3hNUEvQYEV7MF0spi4HYwGNioGYFog - Mưa Saigon Mưa Cali <<<xin bấm vào - View: 816 |
?func=search&a=&b=&keyword=Anthony%20Hùng%20Cao - Anthony Hùng Cao |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/May/2010 lúc 10:33am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=zYSyAGfCJeZdjsV9VHx0DXCy57Rx7JmU - Một Nắng Hai Sương <<xin bấm vào - View: 814 |
?func=search&a=&b=&keyword=Huy%20Trầm - Huy Trầm |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/May/2010 lúc 11:41am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=3u27umcADR1WTAdgj7O1iMqgs7AsYzwQ - Viễn Tượng Mẹ <<xin bấm vào - View: 680 |
?func=search&a=&b=&keyword=Tình%20Mẹ - Tình Mẹ |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/May/2010 lúc 12:52am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=1noxTB9PWbalGxVCDqEqKcQfSP7TL6YB - <<xin bấm vào- View: 718 |
?func=search&a=&b=&keyword=Tiễu%20Thu -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/May/2010 lúc 7:49am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Ep8otdFK3jHUtcAvhbYfZAIPh9cYDBct - <<xin bấm vào - View: 791 |
?func=search&a=&b=&keyword=Hồ%20Thị%20Triệu%20Lan - |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/May/2010 lúc 5:13am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=YcyMHg9NlT76IOj0tJLpOycSpi85lObA - Báo Hiếu Cha <<xin bấm vào - View: 1249 |
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=search&a=&b=&keyword=Lê%20Xuân%20Quang - Lê Xuân Quang |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/May/2010 lúc 6:52am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=2dvewRidTjgHOXkrClPQ2BvQNxhqonhI - <<xin bấm vào - View: 9626 |
?func=search&a=&b=&keyword=Phạm%20Ðào%20Nguyên -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/May/2010 lúc 6:55am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=lN1JogbEvJ804ojRk2NSX7ONZ2k8TK96 - <<xin bấm vào
- View: 4981 |
?func=search&a=&b=&keyword=Phạm%20Thành%20Châu -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/May/2010 lúc 7:41am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=fYofSrDu9WxGZDUyfx7G5V34f94xVsTu - <<xin bấm vào - View: 788 |
?func=search&a=&b=&keyword=Trần%20Thị%20Diệu%20Tâm -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/May/2010 lúc 7:29am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=8yXG1Ka7cCe5rTwMgU1dOHUbITvROXTL - <<xin bấm vào - View: 922 |
?func=search&a=&b=&keyword=To%20Pa -
- View: 922 |
| |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/May/2010 lúc 6:53am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=RlXVSusA60DMCIZptyPyHRSVndL0HMxY - - View: 1381 |
?func=search&a=&b=&keyword=Trương%20Thị%20Kim%20Chi -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/May/2010 lúc 7:10am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=LcnkjDqXsKRDRCEMnkZjFSCdOWL1VnBy - - View: 938 |
?func=search&a=&b=&keyword=Ái%20Khanh -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/May/2010 lúc 6:55am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=pgThvR2RjTqQSU5biUFp9Clwyl50SDj8 - <<xin bấm vào - View: 756 |
?func=search&a=&b=&keyword=Việt%20Phương -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/May/2010 lúc 7:24am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=dSIfR2yWT2g0QbHmU9PAyaA0q6X9PUci - - <<xin bấm vào893
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/May/2010 lúc 8:07am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=MTCT6ski7QGtvENUvb98tQw9iUVE5LBH - Tình Muộn - Vie<<xin bấm vào -w: 781 |
?func=search&a=&b=&keyword= - |
781 | - View
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/May/2010 lúc 8:37am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=n2LqunAgiq5lSN3G87F93xT8qJujIX9v - (3 tập) <<xin bấm vào - View: 2568 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=561 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/May/2010 lúc 7:31am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=QiN9B0LzHxICDeXusLYxedJhpgYPASgj - - View: 1098<<xin bấm vào |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyễn%20Nhung -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/May/2010 lúc 7:27am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=i1qCMRg5Fz0Nupf0pjJdYQHmQxrJq4KP - <<<xin bấm vào - View: 5140 |
?func=search&a=&b=&keyword=unknown -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/May/2010 lúc 8:07am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=dh7Pg4t0dKDbgYjlfQD7xqp8x2Y4VgzE - <<xin bấm vào - View: 4945 |
?func=search&a=&b=&keyword=Võ%20Thị%20Xuân%20Hà -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/May/2010 lúc 9:03am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=GuWFb10IlkMZJGlGyupIl6aCQ4dcAkMW - -<<xin bấm vào View: 1987 |
?func=search&a=&b=&keyword=Vũ%20Thị%20Bích -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jun/2010 lúc 10:52am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=YB5qjX0J8fQM4246cIMTK8jYvGFZumhI - <<xin bấm vào - View: 11518 |
?func=search&a=&b=&keyword=Phan%20Lạc%20Phúc -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Jun/2010 lúc 8:29am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=DbDTszWbVBzfqc5ax6mqg1Pk59cdvygM - Theo Giòng Thời Gian <<xin bấm vào - View: 2306 |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyễn%20Thượng%20Chánh - Nguyễn Thượng Chánh |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Jun/2010 lúc 8:00am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=dfosPQwCtfpXKomYtVBezvlOiDEs2iwV - <<xin bấm vào - View: 6660 |
?func=search&a=&b=&keyword=Hoàng%20Tính -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Jun/2010 lúc 9:13am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Sve6dAWBxtlMuerbMhSZMkQYdtT2ZkrV - <<<xin bấm vào - View: 1582 |
?func=search&a=&b=&keyword=P.N.T. -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Jun/2010 lúc 7:21am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=m6aIOAOzyzS6AloUFpxVKgzbmfkltfMV - <<xin bấm vào: 2010 |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyen%20Dan - Nguyen Dan | /subscribe.mhtml">
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Jun/2010 lúc 4:49pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=bmepnsfbixWjYB4eqrz1NpS1L3c5YpQz - <<xin bấm vào - View: 1489 |
?func=search&a=&b=&keyword=Phước%20An -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Jun/2010 lúc 10:22am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=ameFGlpRnOqhxe9ejqNnMSRyORhXgkz8 -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=ameFGlpRnOqhxe
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Jun/2010 lúc 9:15pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=RAuNDAuP14Mn8j1OMiy8XrKDg7R82OnI - (2 tập) Nguyễn Ngọc Ngạn - Hồng Đào - Trung Tâm Thuý Nga- View: 3073 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Jun/2010 lúc 7:35am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=YvThk9VnMjeLrhBCZ0NFECJowCf3bJqz - (2 tập) Nguyễn Ngọc Ngạn & Nguyễn Cao Kỳ Duyên |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Jun/2010 lúc 7:43am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=LS5yUXpkCf2k91JBOAuv37xMKSWpOkbZ - (2 tập) Nguyễn Ngọc Ngạn |
http://www.gocong.com/forums/RTE_textarea.asp?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Jun/2010 lúc 10:31am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=gWdTvJrJpPjZwu5M2NzIzxGoXf4zRWfx - (2 tập) View: 3412 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Jun/2010 lúc 2:52pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=jDa0b27KsA3ZazCtFjDbUETaz0Y5s1dw - (2 tập) Nguyễn Ngọc Ngạn & Nguyễn Cao Kỳ Duyên View: 3450 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 - Nguyễn Ngọc Ngạn |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Jun/2010 lúc 10:13pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=68Q9J80QUMcxdAxq49GsXrWQoINRjhNg - (2 tập) Nguyễn Ngọc Ngạn & Hồng Đào View: 3419 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 27/Jun/2010 lúc 11:06am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=JWPJPxUWNFjYNhRbM1r1Qa40pPkBA5SK - ?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 - Nguyễn Ngọc Ngạn |
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Jun/2010 lúc 3:21am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=6AXf9tJLTnWALYDkXQqbTzG2l9TuoJpg - (2 tập) w: 2288 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jul/2010 lúc 5:27am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=XZkjYWarxpvTYLVWpke4nqP9ozHgTg4t - - View: 805 |
?func=search&a=&b=&keyword=Trần%20Quang%20Thiêu -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Jul/2010 lúc 5:25am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=i6bWdD8OZWgSluhLxw196Y24RtmIuYrq - Bà Cố <<xin bấm vào - View: 1572 |
?func=search&a=&b=&keyword=Dương%20Lãng%20Hà%20Tiến%20Nhất - Dương Lãng Hà Tiến Nhất |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Jul/2010 lúc 7:23pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=V0rNUIJOXWRSxyxVRfZou3yjRspK8AfT - Mặn Bờ Môi <<<xin bấm vào - View: 3973 |
?func=search&a=&b=&keyword=Song%20Thao - Song Thao |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Jul/2010 lúc 10:19pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Rc7DhMloQPJ96r3kyCT7FHaFyqL9Bc5T - chuyện buồn |
?func=search&a=&b=&keyword=Võ%20Thị%20Ðiềm%20Ðạm -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Jul/2010 lúc 3:40am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=QR93iZEFG70c78yXEt7bVwAvdXFvkd21 - - View: 2965 |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyễn%20Thị%20Ngọc%20Nhung -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jul/2010 lúc 9:01pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=AIHnc4YHYlxqW5VncBCO904TykGXQBXY - |
?func=search&a=&b=&keyword=Viêt%20Dương%20Nhân -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Jul/2010 lúc 8:16pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=rulTshHu6QmOuUoq5z2TVe1GFHoFRLt9 - - View: 4323 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 - Nguyễn Ngọc Ngạn | http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=rulTshHu6QmOuUoq5z2TVe1GFHoFRLt9 - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=rulTshHu6QmOuUoq5z2TVe1GFHoFRLt9
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Jul/2010 lúc 9:58pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=me1bJ2fiNoeumEmEelmCP2Emp1UuR8OH - ( View: 3678 |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=1128 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Aug/2010 lúc 5:19am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Xx78npsoiw2JlP3RofYGf8ZcOKO6lRl9 -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Xx78npsoiw2JlP3RofYGf8ZcOKO6lRl9
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Aug/2010 lúc 5:22am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=tjdMZGZFyTCx4UGvB5lfN7e3cX6Urm0b - Chiều Vắng - View: 1105 |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyễn%20Ngọc%20Tư - Nguyễn Ngọc Tư | http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=tjdMZGZFyTCx4UGvB5lfN7e3cX6Urm0b - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=tjdMZGZFyTCx4UGvB5lfN7e3cX6Urm0b
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Aug/2010 lúc 9:56pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=5Qe6L0w2SaPEgtaB9dPHODJxlV8jI3eZ - Người Tình Khói Sương - |
?func=search&a=&b=&keyword=Tê%20Vấn - Tê Vấn | http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=5Qe6L0w2SaPEgtaB9dPHODJxlV8jI3eZ - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=5Qe6L0w2SaPEgtaB9dPHODJxlV8jI3eZ
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Aug/2010 lúc 9:47pm
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tiểu Tử
Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris .. Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt. Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi .. trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh ! Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền .. Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ ! Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v.. chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên .. Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông: dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố .. Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông. Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu ! Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàng cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh: chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng .. Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu ! Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán. Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín. Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ : “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ ..” Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng ! Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên .. nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước .. có khi không nhớ ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước ! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia .. Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được ? Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá .. Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì “văn chương”: sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa: đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa .. Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh ! Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi .. làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt. Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một “kiểng” chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì .. sợ ma ! ) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước. Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẳn với thân cây mang đầy gai góc ! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây .. Đó ! Làng tôi đó ! Quê trân ! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương. .. Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang. .. Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội. .. Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng” ! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái ! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặn hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi. .. Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẩn thơ một cặp gái trai .. .. Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh ! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó ? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất. .. Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết ! Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai: tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu .. .. Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo -lúc đó nó được hơn hai tuổi- mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v.. dồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe: “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè !”. Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la: “Hai ! Hai !”. Anh ta ở truồng -lúc nào cũng ở truồng- bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhang .. Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cụ Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thong thả, tôi lon ton chạy theo song song ..
Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp !
Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường.
Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được -thấy rõ- hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự đám giỗ, đám tang .. Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được ?
http://ongvove.files.wordpress.com/2010/06/meganhhangrong.jpg - Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ .
Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc ..) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi.
Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí ..
Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả ? Ai dạy mầy hút thuốc, hả ? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi ? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc !”. Rồi mẹ chụp cây chỗi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa”. Mẹ vừa nói “Chừa nè !” vừa đập cây chỗi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè !” là một phát chỗi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chỗi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đắp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng: “Dạ .. con xin chừa ..”
Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã .. không chừa ! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng” .. Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chỗi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh ! Tôi hút ngoài đường ..
Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai ? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa !”. Rồi bỏ đi một nước !
Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi ..
*
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói “thương nước Pháp” mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa !”
Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy ..
Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa: “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn” ..
Tiểu Tử
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Aug/2010 lúc 10:02pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=EH5VwOotZU0ldwWjy9NCRY9gjnJkEDKJ - |
?func=search&a=&b=&keyword=Nguyễn%20Tấn%20Ích - Nguyễn Tấn Ích | http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=EH5VwOotZU0ldwWjy9NCRY9gjnJkEDKJ - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=EH5VwOotZU0ldwWjy9NCRY9gjnJkEDKJ
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 30/Aug/2010 lúc 10:37pm
Tình Cuối
PHAN KIM NHÀN . Việt Báo Thứ Năm, 12/6/2007, 12:02:00 PM |
Người viết: Phan Kim Nhàn
Bài số 2168-1960-736vb5061207
*
Tác giả sinh năm 1939 tại Saigon, cựu học sinh Yessin Đà Lạt, tốt nghiệp Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Saigon 1962. Qua Mỹ theo diện HO cuối năm 1989, tốt nghiệp Physchistric Technician 1992 tại Mission College/ CA, hiện đã nghỉ hưu tại San Jose. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của bà.
*
Phần đông các thi sĩ, nhạc sĩ đều làm thơ, viết nhạc ca tụng hay thương tiếc "Mối tình đầu", ít khi thấy ai nghĩ đến "Mối tình cuối". Có lẽ vì xã hội phong kiến của VN ta theo văn hóa Trung Hoa ngày xưa là "Phu xướng phụ tùy. Phu tử tòng tử" nên ép người phụ nữ vào chỗ không thể sống theo ước muốn của riêng mình được!
Nhưng ở xã hội bây giờ, hơn nữa ở xã hội văn minh như ở Mỹ này thì có khác. Cuộc sống rất là cởi mở, cha mẹ con cái tuy thương yêu nhau nhưng tôn trọng tính tự lập (18 tuổi là tự lập rồi) và tự do của nhau.
Nàng thấy rằng "mối tình cuối" cũng đẹp không thua gì "mối tình đầu" khi máu còn chảy về tim và quả tim còn đập là còn rung động theo cảm xúc của con người. Và con người càng lớn tuổi thì càng chín chắn hơn, đằm thắm hơn, tỉ mỉ hơn và lo lắng chu đáo cho nhau hơn vì họ quý từng ngày, từng giờ phút được sống với nhau trong cảnh muộn màng này.
Hôm nào trời trở lạnh là họ nhắc nhau phải mặc áo ấm khi ra đường, phải đội nón để che nắng gió vì tóc của chàng bị hói và rụng gần hết. Chăm sóc cho nhau từ món ăn thức uống sao cho bổ dưỡng mà không bị tăng huyết áp hay tăng cholestérol.
Mỗi sáng, họ cùng dắt tay nhau đi bộ quanh khu phố, vừa nói chuyện thân mật với nhau vừa vận động cơ thể cho khỏe mạnh. Cuối tuần cùng nhau đi hội "Cao Niên", khiêu vũ, hay gặp bạn bè, chuyện trò trao đổi tin tức với nhau. Cùng đi dự đám cưới con các bạn hay sinh nhật hay tham gia các công tác cộng đồng. Lâu lâu đi Réno hay Las Vegas do hội "Cao Niên" tổ chức cho người lớn tuổi. Đi thăm các con cháu, cùng nhau du ngoạn các thắng cảnh.
Cái sung sướng nhất của người già là không phải lo ngày mai phải thức dậy sớm để đi "cày", không phải lo nợ cơm áo hay nhà ở. Nhà thì có chính phủ cho tiêu chuẩn "Housing". Tiền thì hàng tháng có tiền SSI hay tiền hưu trí đủ sống một cách thoải mái. Lâu lâu có dư ra gửi về VN cho bà con hay bạn bè hay giúp đỡ kẻ cô nhi tật nguyền. Họ cũng đóng tiền vào quỹ "Tương Tế Việt Nam" để khi họ qua đời có tiền đủ làm "tang ma", không làm phiền đến con cháu phải lo.
Tất cả thì giờ của họ là lo thương yêu, chăm sóc lẫn nhau cho được sống lâu và hưởng phước cùng nhau cho hết cuộc đời còn lại này.
Nàng thì… sau khi bị "ly dị" ngoài ý muốn, nàng quá đau buồn, và cũng quá "xấu hổ" nữa. Bao lâu nay Nàng "hãnh diện vì đã chờ chồng 9 năm đi tù Cộng Sản, nuôi con và cho vượt biên 2 đứa lớn (1 ở Pháp và 1 ở Mỹ) và chờ đợi ngày chồng về. Tuy biết là vô hạn định, tuổi xuân trôi qua không luyến tiếc chỉ hy vọng một ngày nào đó được đoàn tụ gia dình trong hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc thật là khó tìm. Đến tuổi này rồi mà Nàng còn để cho vuột mất.
Có phải là Nàng đã quá tin chồng? Chồng Nàng đã từng nói với Nàng sau khi đi tù về: "Em là người đáng tôn thờ, đã chờ chồng và nuôi con." Lời nói như gió thoãng mây bay khi người thứ 3 xuất hiện nhất lại là người tình xưa thì Nàng đành chịu thua thôi. Nhiều người bạn an ủi Nàng, cho đó là "hết duyên, hết nợ rồi, hãy quên đi và vui sống".
Thời gian là một liều thuốc tiên, làm cho ta nguôi ngoai và cuộc đời luôn luôn vẫn tươi đẹp nếu ta biết nhìn đời bằng cặp mắt màu hồng. Nước mắt cũng là một liều thuốc rửa sạch những "cát bụi" vướng trong mắt ta và làm trôi đi những u buồn của cuộc đời này… Có lẻ Nàng ở hiền nên gặp lành và "Chàng" đã xuất hiện trong cuộc đời còn lại tưởng như bỏ đi của Nàng!
Chàng là một cựu sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đoạt chức "Vô địch bóng bàn VN" vào năm 18 tuổi, và sau đó đoạt chức "Vô địch bóng bàn Á châu, đánh đôi với danh thủ Mai Văn Hòa tại Nhật Bổn". Sau thành tích vang dội này, khi về nước, cả phái đoàn VN được Tổng Thống Ngô Đình Diệm vời vào dinh Độc Lập khen thưởng. Chàng đã từng đại diện cho VN đi tranh giải tại nhiều quốc gia trên thế giới và đã đoạt được 6 huy chương Vàng, 2 huy chương Bạc và 2 huy chương Đồng. Và xin nói nhỏ là Chàng đã từng là "Thần tượng" của Nàng khi Nàng còn trẻ. Các anh trai của Nàng là Vô địch bóng bàn Dalat và miền Trung; Phan Văn Thọ anh thứ tư của Nàng hiện ở Pháp, cũng nhờ Chàng dìu dắt mà đã một lần khoác áo đại biểu cho VN đi tranh giải tại Pháp và sau đó đã đi học khóa phi công tại Marakech và định cư tại Maroc; và Nàng cũng là Nữ Vô địch bóng bàn Dalat. Gia đình Chàng và Nàng rất thân thiết với nhau từ khi Nàng mới được 13 tuổi, Chàng đã coi Nàng như một cô em gái nhỏ.
Chàng đã đi tù Cộng Sản mất 8 năm. Khi trở về thì vợ và 3 con nhỏ đi vượt biên và bị mất tích, thật là quá thương tâm! Hai con trai lớn của Chàng, một ở Mỹ, một ở Pháp và cô con gái lớn nhất có gia đình ỏ VN. Một thời gian sau Chàng đã lập gia đình lại, có thêm hai con, và sau đó đã được đi Mỹ theo diện HO. Tới Mỹ thì xảy ra chuyện "ngả rẽ tâm tình", vì quá đau khổ Chàng đã "quyên sinh" nhưng không dứt được nợ trần!
Rồi một ngày đẹp trời Chàng và Nàng đã gặp nhau tại Hội Cao Niên sau mấy mươi năm xa cách…
Hôm ấy Nàng cùng chồng đưa một người bạn gái đến đây mong giúp người bạn bớt cô đơn nên đã giới thiệu bạn và "ông anh lớn" đồng cảnh ngộ thông cảm nhau tìm đến nhau để an ủi nhau… Đi chơi chung một thời gian, ý tốt của Nàng không được đền đáp mà chồng nàng và người bạn gái kia "chấp cánh bay xa" để nàng lại "cô đơn" một mình!
Biết được sự việc và lo sợ Nàng sẽ quẩn trí như mình lúc trước, Chàng đã gọi điện thoại khuyên can Nàng hết lời. Chàng nhiều lần ngỏ ý muốn gặp Nàng nhưng Nàng cứ khăng khăng "không muốn tiếp bất cứ ai", trốn lánh tất cả bạn bè; ngoài giờ làm việc chỉ thu mình trong nhà, chịu đựng sự đau khổ một mình… Cho đến khi các con tổ chức sinh nhật cho mẹ, đã mời tất cả bạn của Mẹ đến dự, trong số ấy có Chàng.
Chàng đã tặng Nàng lọ nước hoa "Lancôme" và khi Nàng hát bài "Mùa Xuân không còn nữa" thật buồn và rơi lệ thì Chàng cũng thông cảm mà rơi lệ… Và "hai tâm hồn lớn" ủa quên "hai tâm hồn đau khổ" đã gặp nhau rồi mà vẫn không tự biết.
Các con Nàng khuyên nhủ Mẹ nên tìm một người bạn cho vui… Nàng suy nghĩ và quyết định "tân trang nhan sắc" lại cho tươi tắn hơn… Chàng đã đến thăm Nàng sau khi được Nàng gửi tặng một băng c***ette với những bài hát "thất tình", "tình phụ" của Nàng và mang theo một quả "sầu riêng" thật to để chia sẻ nỗi buồn cùng Nàng.
Chàng mời Nàng đi dùng cơm tối tại Nhà hàng Thành Được. Là bạn của Chàng khi xưa, nên khi gặp nhau Thành Được đã chào "A! Chào Anh Chị", nhưng cả Chàng và Nàng, không ai buồn đính chánh. Chàng là người ít nói nhưng tâm sự với Nàng là: "Trong đời anh, chỉ có các cô, các bà mê tài anh mà tỏ tình, chứ anh không bao giờ nói trước hết". Nàng nghe vậy thì im lặng, tự ái của người phụ nữ không cho Nàng thốt lời gì.
Nàng tâm sự: "Trong đời em em rất ghét làm bếp vì vậy mà em nấu ăn dở lắm!" Chàng trả lời: "Anh biết nấu ăn".
Rồi một hôm Chàng phải đi Canada dự đám cưới con của một người bạn thân. Chiều cùng ngày đi làm về có lời nhắn trong máy: "Anh sắp lên máy bay đây. Em nhớ giữ gìn sức khỏe nghe." Qua ngày sau lại một lời nhắn nữa: "Anh đã dự xong tiệc cưới rồi. Trời Canada buồn quá!". Đến ngày thứ ba, Chàng gọi về và nói: "anh buồn muốn chết đi được. Muốn bay về ngay với em và… và Nhớ Em quá!" Đó là câu mà Nàng "chờ đợi" Chàng thốt ra lời.
… Và một đám cưới đã kết hợp đôi "trai tài gái sắc" mà "răng đã long và đầu đã bạc" trong "mối tình cuối" này nơi đất khách quê người. Dâu và rễ phụ là hai cặp bạn già cũng con cháu đầy đàn. Các con trai của Nàng đảm trách phần quay phim chụp ảnh để Mẹ có hình ảnh đẹp làm kỷ niệm. Tất cả bạn bè và con cái của Chàng và Nàng đều đến chung vui rất đông và chúc "cô dâu chú rễ Loan Phụng Hòa Minh, Sắt Cầm Hòa Hiệp". Những bản nhạc "Và con tim đã vui trở lại", "La vie en rose" đã được các bạn hát để tặng Chàng và Nàng. Các bạn NHS thân yêu của Nàng như Anh Chị Nguyên K 10, các chị Quới K 9, Hồng Loan K 11, Hồng Vân K, Kim Hồng (Huế), và vợ chồng em Phạm Ngọc Diệp K 29 đều có mặt để chung vui với Nàng.
Đám cưới của người Trẻ thì nhiều và thường tình trong thiên hạ. Đám cưới của người Già thật là "hiếm có". Quà cưới cho Nàng, Chàng không có ngọc ngà châu báu hay nhẫn xoàn, mà chỉ có "tấm lòng" và "chiếc huy chương vàng" (đoạt được tại Á vận hội Tokyo năm 1958) duy nhất còn lại, kỷ niệm "Vang bóng một thời" Chàng đã làm rạng rở nền Bóng bàn Việt nam khắp cõi trời Âu-Á. Phần Nàng cũng không có gì quý báu ngoài giọng hát nên đã hát tặng Chàng nhạc phẩm "Niệm khúc cuối" của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
…Dù cho mưa…xin anh đưa em đến cuối cuộc đời…
…Tình ơi dù sao đi nữa "Xin vẫn yêu anh… |
PHAN KIM NHÀN |
|
|
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 31/Aug/2010 lúc 6:43am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ lo cong
Tình Cuối
................
|
Quà cưới cho Nàng, Chàng không có ngọc ngà châu báu hay nhẫn xoàn, mà chỉ có "tấm lòng" và "chiếc huy chương vàng" (đoạt được tại Á vận hội Tokyo năm 1958) duy nhất còn lại, kỷ niệm "Vang bóng một thời" Chàng đã làm rạng rở nền Bóng bàn Việt nam khắp cõi trời Âu-Á. Phần Nàng cũng không có gì quý báu ngoài giọng hát nên đã hát tặng Chàng nhạc phẩm "Niệm khúc cuối" của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
…Dù cho mưa…xin anh đưa em đến cuối cuộc đời…
…Tình ơi dù sao đi nữa "Xin vẫn yêu anh… |
PHAN KIM NHÀN |
|
| |
Niệm khúc cuối
Tác giả : Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên
Trình bày: ca sĩ http://www.nhaccuatui.com/tim_kiem?by=casi&key=Tu%e1%ba%a5n+Ng%e1%bb%8dc - Tuấn Ngọc
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=M7SC5a_sZ3 - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=M7SC5a_sZ3
Dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời Dù cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy Có lá buồn gầy, dù sao, dù sao đi nữa tôi cũng yêu em
Tựa vai nhau, cho nhau yên vui, ấm áp cuộc đời Tìm môi nhau, cho nhau rã nát, rã nát tim đau Vừa đôi tay, ước muốn tù đầy, Tóc rối bạc màu dấu vết tình sầu Nhìn anh, nhìn em giây phút, muốn nói yêu em.
Xin cho tôi, tôi như cơn ngủ Ru em, đưa em một lần Ru em vào mộng, đưa em vào đời Một thời yêu đương.
Cho tôi xin, em như gối mộng Cho tôi ôm em vào lòng Xin cho một lần, cho đêm mặn nồng Yêu thương vợ chồng
Điệp khúc :
Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời Dù cho em, em đang tâm xé, xé nát tim tôi Dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời Cũng đã muộn rồi Tình ơi ! dù sao đi nữa xin vẫn yêu em
------------- mk
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Sep/2010 lúc 5:21am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=ic38HgCBwNO9RQ5LeR4lEWJW81cYFL7h - Thần Chết 3 Lần Xóa Tên <<xin bấm vào |
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=search&a=&b=&keyword=unknown - unknown |
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Sep/2010 lúc 5:47am
Cuối mùa nhan sắc
Nguyễn Ngọc Tư
Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa ghê lắm, vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta (nếu trúng số). Và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường phiêu bạt, ông tìm được cô đào Hồng.
Ông già Chín đi theo gánh chè của đào Hồng qua ba con đường. Già rồi, mắt mũi kèm nhèm, bốn mươi sáu năm, dễ dầu gì mà nhận ra nhau. Lòng cứ nghĩ, hình như lâu lắm rất quen nhau, nhất là cái giọng rao chè như hát, từ đôi môi đã héo queo cất lên, cong vút, ngọt ngào mà nghe mịn màng từng âm từng chữ. Ông Chín bàng hoàng nhận ra đào Hồng dù nhan sắc ngày xưa của bà không còn nữa, mặt nhăn nhúm, nám đen, cái cổ cao ngày trước bây giờ gần như đổ gục vì gánh cái gánh tâm tư mà cuộc đời chồng chất. Ông kêu hai tiếng: "Cô Hồng!" mà nước mắt rớt cái độp. Ông Chín nắm tay bà, biểu đi với ông, hỏi đi đâu, ông nói, về nhà Buổi chiều. Bà nói để bà lấy chút đồ, ông bảo khỏi, thì cuộc đời bà còn gia sản nào ngoài gánh chè oằn nặng trên vai, một cái chòi lá rách te tua cất trên ao bèo cuối hẻm.
Nhà Buổi chiều nằm ở tận cùng con hẻm Cây còng. Hẻm cụt. Nhà toàn người già, là chỗ trú ngụ cho những nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ hát bội một thời vang bóng. Tính ra, chỉ có ông già Chín Vũ là vô danh tiểu tốt. Nhưng ông là một trong những người sáng lập ra nhà Buổi chiều, tự ông còn đặt tên cho nó. Hỏi sao không gọi là Hoàng hôn hay Chạng vạng gì đại loại vậy, ông bảo, buổi chiều còn nắng, người nghệ sĩ còn có ý nghĩa sống trên đời. Nhà Buổi chiều nghèo, chi phí dựa vào kinh phí từ trên quận, từ lòng hảo tâm của bà con gần xa, cơm bữa nhiều ơi là nhiều rau mà ít xịu thịt. Vậy mà ai nấy đều vui, bởi cuộc sống trước đây của họ còn nghèo hơn, nghèo không thể tả, nghèo rớt mồng tơi. Người ở chùa, người bán vé số, người ngủ công viên, người hát rong, ít ai có nhà để về. Sum họp ở Buổi chiều, có khổ một tí mà còn được hát. Nghệ sĩ mà, miễn được hát, miễn hát mà có người nghe là sướng rồi.
Ðể kiếm chút đỉnh tiền phụ thêm thịt cá cho bữa ăn, ông già Chín đi bán vé số, vừa có tiền vừa tìm tung tích của anh chị em đang còn lưu lạc. Ðào Hồng lại gánh chè đi tận hang cùng ngõ ngách. Thấy mọi người ái ngại, đào Hồng bảo: "Cứ để em làm, em với anh Chín còn trẻ, còn sức khỏe..." Nói trẻ là trẻ ở trong nhà Buổi Chiều chớ ông Chín Vũ đã bảy mươi, đào Hồng cũng sáu mươi bốn. Buổi sáng, ông Chín gánh gánh chè đưa đào Hồng ra đầu hẻm, dừng dưới gốc cây còng già cóc già kiết, già tới mức nó hổng thèm trổ hoa nữa. Ông già trao đòn gánh lại cho bà, rồi đứng tần ngần nhìn bóng bà xa dần trên đại lộ, tiếng rao chè buổi sớm nghe ngọt lịm, vút cao. Sau lưng bà, còn thấy mấy tờ giấy gói bánh mì ố màu nước cà bay xà quần trên đường rồi sẵn gió đi tao tác. Ông già tạt vô quán càfê chú Tư Bụng, kêu: "Mấy đứa bưng cho tao năm trăm đồng trà nóng coi". Có người hỏi, sao bữa nay không uống càfê. ông Chín Vũ cười cười, lắc đầu, cười tiếp với cái vẻ không muốn nói mà thèm nói quá trời đi:
- Ðể dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.
Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:
- Già mà còn yêu.
- Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại, vẻ mặt sương sương không giận gì ai - Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình.
Cạn bình trà, ông già dằn tờ giấy bạc năm trăm dưới đít ly đứng lên xếp ghế lại ngay ngắn, từ tốn rút trong túi ra xấp vé số dày, trước khi đi ông quay đầu lại:
- Tối nay lại chỗ tao coi cải lương, nghe bây.
- Tối nay tuồng gì, chú Chín?
- Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền.
- Í tuồng đó hát rồi. Hát Nửa đời hương phấn đi.
- Bây nói sao tao chiều vậy, mà tuồng đó tao có nhớ miếng nào đâu.
- Chú cần gì nhớ, chú toàn đóng vai quân sĩ với người hầu không à. Có hát hò gì đâu.
Ông già cười khà khà, quay đi, cái lưng cong cong gù gù từ từ mịt mù.
Người trong hẻm không ai làm nghề viết văn nhưng đã biết mình nhớ cái gì khi đi xa nó, nhiều lắm, nhiều không thể kể, nhưng trong đó, chắc chắn nhớ tiếng hát là đà tỏa ra từ nhà Buổi chiều.
Những con người tính từng ngày qua để lắt lay thêm một tuổi nữa, vậy mà hát coi cũng ngon lành. Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống giành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mè. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Ðào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sải ngựa coi lạ hết biết. Có bữa bà lỡ ca rớt nhịp, ngồi than: "Kiểu này chắc tui sống hổng thọ quá". Bà con trong hẻm cười cái rần, "sống tới cỡ đó còn than hổng thọ nỗi gì". Ông già Chín không biết hát hò gì, chạy đi chạy lại, lúc thì nhắc cái ghế cho đào Phỉ, lúc thì trèo lên thay cái đèn đứt bóng tối thui, kêu quân sĩ đâu thì ông dạ, chỉ khi đào Hồng hát, ông mới ngồi nép vào đám bông lồng đèn nào đó lặng người đi, thấy đào Hồng nhớ đào Hồng, thấy đó mà nhớ đó.
Ông già Chín Vũ biết đào Hồng từ năm bà mới hai mươi mốt tuổi. Bây giờ hỏi gia cảnh ông ngày trước như thế nào, ông chỉ cười, không nói. Nụ cười nhẹ nhàng trôi trôi, chừng như ông không luyến tiếc gì. Nghe nói, hồi đó, nhà ông giàu có khét tiếng xứ Bạc Liêu. Ông là cháu nội đích tôn của hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng. Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người từ tấm bé. Bữa cúng đình ông mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi. Ông thương đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên. Người đâu mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta. Ðào Hồng chưa uống cạn ly trà ông đã hỏi thẳng, không cưỡng lòng được: "Vậy chứ cô Hồng có muốn lấy chồng chưa?". Ðào Hồng cười: "Tôi đã nguyện với Tổ cả đời theo nghiệp hát". Chín Vũ nghe vậy, thôi không nói nữa, nhưng vẻ mặt suy tính dữ lắm. Hôm sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi theo. Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không được lên sân khấu. Kêu quân sĩ thì ông dạ, kêu "bây đâu" ông cũng dạ, tối ngày lụi hụi kéo màn, dựng cảnh. Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày được nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát. Ông vẫn thường khì khịt bảo rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vông nem đó, thấy chưa. Có người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô nó nổi. Nghĩ lại, tỷ dụ có cái gọi là kiếp trước, hẳn kiếp trước ông Chín nợ bà Hồng cái gì đó, lớn lắm, nên kiếp này, ông trả hoài, trả không hết.
Ông Chín đã cùng đào Hồng đi qua những năm tháng cơ cực, đắng cay. Ðào Hồng có thai, ông bầu dọa đuổi, ông Chín đứng ra năn nỉ, biểu: "Em lỡ dại...". Ông bầu hỏi: "Của mầy à?". Ông Chín cười: "Dạ, của em chớ của ai". "Chắc không?". Ông bảo chắc mà lòng buồn rượi, đâu phải đứa nhỏ trong bụng đào Hồng là của ông. Ông biết ba đứa nhỏ là ai nhưng không tiện nói. Vì đào Hồng bảo: "Có biết, xin anh Chín cũng đừng nói, tội nghiệp, ảnh còn nhiệm vụ, còn công việc quan trọng phải làm". Cô hẳn yêu người ta lắm, nên một mực bảo vệ cho người ta. Sau nầy, con đào Hồng một tay ông giữ, ông bồng. Ông dạy nó kêu ông bằng ba, đào Hồng nhìn ông rơi nước mắt. Ðó là sự biểu lộ tấm thịnh tình đầu tiên mà đào Hồng dành cho ông suốt hai năm đi theo đoàn Kim Tiêu.
Không khí Sài Gòn bắt đầu khê đặc mùi chiến tranh, buổi sáng, ngồi quán uống càfê mà toàn nghe sặc sụa từ đám quân cảnh mùi thuốc súng. Cũng một buổi sáng, ông Chín bị cảnh sát gô cổ trói đem đi. Cái thời sao mà bất công, tai bay vạ gởi, quân cảnh thấy buồn bắt người chơi cho vui vậy. Tụi nó nghe có người tố cáo đoàn Kim Tiêu có Việt Cộng nằm vùng, coi đi coi lại không thấy ai có lý do vô đoàn lạ như ông. Tụi nó hỏi: "Vậy đang sống giàu có đi theo đoàn làm gì?". Ông mắc cười thiếu điều nhỉ nước đái, cái tụi nầy, mình nói mình lưu lạc tại vì mình thương đào Hồng chắc gì tụi nó tin, tụi nó có biết tình người là gì đâu. Mười ngày sau, ông được thả. Chỉ mười ngày thôi nhưng phải đợi đến nửa đời sau ông mới gặp lại đào Hồng.
Gánh hát rã nhanh, đào Hồng không đợi ông về. Nghe bà con bán đậu phộng, thuốc lá trong rạp kể lại, kép Thường Khanh bị quân cảnh bắt, đào Hồng ôm con bỏ trốn, ở lại, chỉ sợ vướng cô rồi lòng người cô yêu lung lạc. Ông Chín quay quắt đi tìm, mà người thì tản lạc đâu đâu. Nhiều lúc ông Chín tự hỏi, làm sao đào Hồng có thể sống nổi đến từng ấy năm mà không có ông đỡ đần một vai gánh mỏi.
Sau nầy, về nhà Buổi chiều, có đêm trăng sáng, ngồi bên rổ khoai lang luộc, đào Hồng có kể chuyện mình. Mọi người chung quanh đều sụt sùi, sao mà hoàn cảnh của nó y hệt mình vậy cà, hổng lẽ đời đào hát là phải vậy. Có người không lấy chồng cho thỏa nghiệp, có người như đào Hồng có con rồi, vì mê hát, vì chiến tranh mà gởi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa. Ông Chín Vũ ngồi rầu rầu, hậm hực. "Biết vậy hồi đó tui bóp mũi nó cho rồi". Ðào Hồng bảo: "Anh Chín đừng nói vậy em thương nó không hết chớ có trách nó bao giờ. Có lúc em nghĩ, con nó có nhìn em cũng không chịu, mình nghèo quá làm gì lo cho nó nổi hả anh?" Bà không bao giờ nhắc tới Thường Khanh như chưa từng quen biết con người đó trong cuộc đời. Nhưng những nỗi nhớ niềm thương chắc còn day dứt trong lòng làm cho bà quắt queo, tàn héo. Ông Chín giật mình, cái nhan sắc ngày xưa đã đi đâu mất biệt rồi, rồi tự nhủ lòng, mình nhớ cổ đâu chỉ vì nhan sắc, vậy thì thắc mắc, đau lòng làm chi.
Ðào Hồng là người duy nhất trong mấy chị em ở nhà Buổi chiều không bao giờ lên sân khấu mà chưa hóa trang, chưa son phấn. Những ngày mới về đây, biểu bà hát, bà lắc đầu. Ai tra gạn, bà không nói, bảy chị em ai cũng nghèo, có người có son phấn cũng không dám hỏi. Ông già Chín đi theo hỏi hoài, bà nói thiệt. Ông đập con heo đất, đi chợ mua cho bà thỏi son với hộp phấn bông mai. Xong còn kêu cô bán hàng gói lại, chít bông cho cẩn thận. Bà cảm động, nhưng vẻ mặt buồn hiu, "Anh tốt với tôi chi mà tốt hoài vậy?", làm cho ông Chín cũng buồn. Ông nghĩ: "Mình sống làm gì tới từng tuổi nầy mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là Hồng".
Trách thì oan, lắm khi ông cũng đâu hiểu được bà. Hồng vẫn thường soi cái gương cũ viền đồng có cán để cầm, mặt gương đã ố lấm tấm. Ông Chín thấy thương lắm, ông lén mua về tráo gương mới vào chỗ bệ cửa sổ rồi lấy cái cũ cất đi. Bà biết ngay là ông, bà giận lắm, mặt lạnh tanh: "Anh tài khôn làm gì, tui đâu có cần gương mới". Ông cố cãi: "Nhưng cái cũ nó mờ lắm...". "Mờ mờ tui mới thích", bà nạt ngang. Không biết tại sao bà lại có ý thích kỳ cục vậy.
Lần đó, ông già Chín buồn, buổi chiều thôi không còn đón bà ở đầu hẻm để gánh giúp gánh chè về nhà, mà ông vẫn thường nói, dù ngắn, ông cũng muốn đỡ đần cho bà một đoạn đời. Ông biết bà còn chờ một cái gì đó, mơ hồ lắm, tiếc là bà không tâm sự với ông. Nghĩ cho cạn, bây giờ đào Hồng cũng như ngày xưa thôi, người ta có khác gì đâu mà mình giận. Sống khép kín, ít nói, ít cười, ít biểu lộ nỗi lòng lên mặt. Chỉ trên sân khấu, đào Hồng mới thỏa thuê khóc, thỏa thuê cười, mà cười sang sảng như Thái hậu Dương Vân Nga vậy nghen. Cái cười mở lòng mở dạ người ta ra.
Cái bữa cả nhà Buổi chiều được xe hơi đón đi giỗ Tổ ở nhà hát thành phố, ông Chín giữ nhà. Hôm đó có ông già lại tìm đào Hồng. Ông già tóc trắng như mây, dáng thong thả, chậm rãi, cốt cách sang trọng thấy mà ham. Ông Chín hỏi ông già kia quen sao với đào Hồng, nghe trả lời cũng như không: "Tôi với cổ là người quen cũ. Không biết ngày xưa ông đã từng quen biết đào Hồng? Có à? Ừ, thì tôi hỏi ông nè, cái nhan sắc đó làm sao mà người ta quên được, ha? Vừa rồi tôi đọc báo, thấy người ta viết về nhà Buổi chiều, tôi mừng như vừa sống dậy, thể nào cũng gặp được cố nhân". Ông Chín ngồi tần ngần, day day cái chung trà trên tay, lòng bối rối nên nói chuyện trớ he: Ừ, tụi tui thấy vậy mà được lên báo hoài thôi" Ðến lúc khách từ giã về, ông Chín cũng không có biểu hiện gì là mình đã nhận ra người quen cũ. Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. Sương gió cuộc đời không làm gì được ông khi ông đã sống khác cuộc sống của những người nghệ sĩ ở đây, một cuộc sống không chia ly, khổ đau, dằn vặt. Ông Chín chờ hoài, sao không nghe ông Khanh nhắc tới chuyện ngày xưa ông và Hồng từng có một đứa con, người ta dễ quên vậy sao?
Khách chờ không được, từ giã về rồi, ông Chín ngồi chèm bẹp ngoài cửa rào, nghĩ, rồi mình sẽ mất cô Hồng một lần nữa, từng tuổi nầy còn để mất nhau mà coi được sao. Ông tự nhủ lòng, thôi, bà Hồng về ông không thèm nói lại đâu.
Không nói nhưng thèm nói, lương tâm biểu phải nói, ông Chín bảo: "Không biết cô Hồng còn nhớ Thường Khanh, ảnh mới lại đây kiếm cô" . Ðào Hồng vừa xổ mái tóc cỗi cằn xơ xác ra, lặng người, tay cầm rưng rưng cái đầu tóc mượn. Lâu lắm, bà mới lơ láo ngó lên, đôi mắt ráo khô "tôi đi giặt bộ đồ". Ra tới lu nước bà tựa người vào đó, mặt soi xuống nước bật khóc. Ước gì nước đừng trong như vậy để khỏi phải hiện lên một nhan sắc tàn phai. Không nhìn đằng sau mình nhưng bà biết, ông Chín đang chạy theo nhìn mình, bà nói khẽ: "Mai người ta tới đừng nói tôi ở đây nghen, tôi... tôi không muốn gặp". Ông Chín đứng đó, trong lòng vừa mừng (tại cô Hồng không muốn gặp chớ không phải tại tôi ích kỷ à nghen) vừa thắt thẻo thương bà, ông bảo: "Không tránh được hoài đâu, cô à, mà có gì phải tránh né nhau, người ta, sống ở đời cốt là ở tấm lòng".
Tránh làm sao được khi kịch bản cuộc đời đã bày ra một cảnh gặp nhau. Ông Khanh gặp bà Hồng ở đầu hẻm, lúc trời chạng vạng, khi bà quang gánh trở về. Nhìn thấy ông, bà mỉm cười, giở nón, bà hỏi: "Nghe nói ông tìm tôi?" Ông Khanh đứng chết lặng, ngẩn người ra, lòng ông đau đớn. Ðó không phải là cái nhan sắc mà ông nhớ thương, chờ đợi. Không phải đào Hồng, dứt khoát không phải đào Hồng mà ông đã ôm trong tay ấp trong lòng, đã từng che chở, bao bọc cho ông những ngày xưa cũ.
Có những vẻ đẹp không phải ai cũng nhìn thấy được. Ông Chín nói với bà Hồng như vậy, ông biểu bà đừng buồn, bà cười bảo: "Tôi có buồn gì đâu", nhưng nước mắt bà nhỏ xuống trong khe. Người ở hẻm Cây còng không thấy ông già sang trọng đi xe hơi tìm vào nhà Buổi chiều nữa.
Bắt đầu những cơn mưa mùa ràn rạt trên mái nhà, đập ầm ầm vào hai bên vách đóng bằng thiếc cũ. Không thấy bà Hồng gánh chè ra ngõ, không còn nghe tiếng rao ngọt ngào thánh thót mà buồn thiệt là buồn của bà, cũng không thấy ông già Chín Vũ ghé quán chú Tư Bụng uống năm trăm đồng nước trà.
Ðào Hồng bệnh nặng. Ông Chín thắt lòng khi biết trong người bà nhiều bệnh như vậy. Bà như trái bầu khô chỉ còn nhờ vào chút chờ đợi mỏng manh của tình yêu thời son trẻ làm cái vỏ cứng cáp ở bên ngoài. Rồi cũng từ ngày sự thất vọng xui cái vỏ thấm mưa nắng mục ruỗng đi. Bà nhắc tới cái chết hoài, đào Phỉ nạt, "tao sống tới từng tuổi nầy mà còn không chết, bây mà chết chóc gì"; Rằm tháng ba, như thường lệ là cữ hát của nhà Buổi chiều. Ðào Hồng ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Ông Chín vẽ chân mày, tô phấn thoa son cho bà rồi dìu bà ra ghế. Bà ngồi ghế mà hát. Bà hát cho Thái hậu Dương Vân Nga trước ngổn ngang nợ nước tình nhà, hát cho nàng Quỳnh Nga bên cầu dệt lụa, cho nàng Thoại Khanh hiếu thảo róc thịt nuôi mẹ chồng, cho nàng Châu Long tảo tần nuôi Dương Lễ, Lưu Bình ăn học và cho Tô Thị trông chồng hóa đá vọng phu...
Ðào Hồng hát đến lịm tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu gục đầu. Cái gánh nặng tâm tư này, không mang nổi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giường, bà đã hôn mê. Người ta hát vở cuối cho bà, cho một người nghệ sĩ chân chính. Ðào Hồng đã gặp lại rất nhiều người thân thuộc cũ, bà nghe con trai bà gọi má, nghe ba má bà nói lên lời tha thứ vì đứa con gái đã bỏ nhà theo nghiệp xướng ca, lời tha thứ bà chờ đợi ngót năm mươi năm ròng rã. Bà sung sướng trở về nhà thơ ấu, đi bắt chuồn chuồn đậu trên hàng bông bụt, cạnh mé mương...
Bông trang rụng ngoài sân.
... Có lần, ghé quán càfê chú Tư Bụng, tôi quen với ông Chín Vũ. Ông Chín người gầy nhom, nhỏ thó, nhưng tốt bụng, xởi lởi. Ông nói với tôi rằng bỏ cả đời đi theo đoàn hát cũng không uổng, bởi vì đời ông thực có ý nghĩa. Lần đầu tiên ông đóng được vai chính, người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng, phút lâm chung của người đàn bà suốt đời ông yêu thương, ông gọi: "Má ơi!" và thấy bà mỉm cười. Chỉ vậy thôi à.. Ừ chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn...
Ngôi nhà Buổi chiều dành cho nhưng người ở cuối mùa duyên sắc. Ở đó có một ông già nói rằng "...tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn..."
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Sep/2010 lúc 10:20pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=2BlUp2v8rx1WTfO1lWSDYIy2AveW9JN0 - - View: 1880 |
?func=search&a=&b=&keyword=Bùi%20Bích%20Hà - Bùi Bích Hà |
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=2BlUp2v8rx1WTfO1lWSDYIy2AveW9JN0 - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=2BlUp2v8rx1WTfO1lWSDYIy2AveW9JN0
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Sep/2010 lúc 4:32am
ĐÊM KINH DỊ Phương Lan
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=qAZ9Yt3O8TgSbZr0nIOZoGn7ywAIKrIk - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=qAZ9Yt3O8TgSbZr0nIOZoGn7ywAIKrIk
|
Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 20/Sep/2010 lúc 9:30am
Thiên sứ tình yêu
Mãi
sau này Bình mới biết, lúc đó, bác sĩ chẩn đoán anh chỉ còn sống nhiều
nhất là hai tháng nữa. Bình vô cùng đau đớn. Anh làm sao có thể bỏ được
Tú Na lại một mình trên cõi đời cùng hai đứa con trai nhỏ dại? Anh không
thể chết. Anh phải sống. Sống không phải chỉ cho mình mà là sống cho
vợ, cho con. Anh phải sống...
Mấy tuần lễ trôi qua, may sao,
Bình gặp một vị bác sĩ nổi tiếng và được ông chữa cho khỏi bệnh. Ba
tháng sau, sức khỏe của anh trở lại như xưa. Cả nhà tràn ngập trong
tiếng cười hạnh phúc.
Bỗng một hôm, Tú Na ngập ngừng nói với anh:
- Anh Bình, em muốn chúng ta chia tay. Điều này em định nói với anh từ lâu, nhưng khi đó anh đang bệnh nặng...
Bình lặng người đi, không tin vào tai mình. Anh hỏi:
-
Em sợ lây bệnh của anh phải không? Những ngày đó quả là rất đáng sợ,
nhưng giờ đây, bệnh của anh đã khỏi hẳn rồi, còn gì nữa mà em phải lo?
Tú Na lạnh lùng trả lời:
- Anh không biết đâu, 10 năm chung sống, tôi chưa hề có tình yêu với anh. Trong trái tim tôi chỉ có mối tình đầu mà thôi.
Bình khụy xuống:
-
Nếu biết có ngày hôm nay, anh thà chết luôn từ ngày mang bệnh thì có
phải chẳng bao giờ bị nghe câu nói này. Anh đã vì em mà sống, thế mà em
lại chưa một ngày yêu anh!
Từ ngày Tú Na bỏ đi, Bình không gặp lại cô. Anh
cũng không muốn can thiệp vào cuộc sống mới của cô. Trong sâu thẳm, anh
vẫn rất yêu Tú Na.
Một năm nữa qua đi. Một hôm, Bình gặp cô gái
trẻ, xinh đẹp tên là Tiểu Phiến. Không chỉ có nhan sắc, Tiểu Phiến còn
rất thông minh và độ lượng. Cô thường tới nhà Bình giúp anh lo liệu việc
nhà.
Một thời gian sau, Tiểu Phiến chủ động đề nghị kết hôn.
Bình lưỡng lự vì trong lòng anh chỉ có Tú Na, mặc dù cô đã vứt bỏ anh.
Cuối cùng, anh và Tiểu Phiến cũng tới Giáo đường tiến hành hôn lễ.
Hai
năm sau, Bình tình cờ gặp lại một người bạn học cũ. Bên tách cà phê,
hai người nói đủ mọi chuyện trên đời. Rồi người bạn chợt nhắc đến Tú Na:
- Tú Na là người tôi kính trọng. Đó là một cô gái khác thường... Bình lấy làm lạ, nghi hoặc hỏi:
- Cậu nói cái gì thế?
Người bạn nói tiếp:
-
Đúng lúc cậu bị bệnh thì Tú Na đã ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Nhưng
cô ấy đã bỏ điều trị để có tiền cứu cậu. Đến lúc không còn cứu vãn được
nữa thì cô ấy mới rời xa cậu. Lúc lâm chung, Tú Na đã dành trái tim của
mình để cứu một cô gái bị phù tim nặng. Sau khi khỏi bệnh, cô gái đó thề
sẽ nuôi dưỡng hai đứa con của Tú Na. Anh không cảm nhận được sự xuất
hiện của Tiểu Phiến rất bất ngờ sao?
Bình đau đớn nói trong nước mắt:
- Tú Na chết rồi sao? Không, không thể như thế được! Ai nói với cậu như vậy?
Người bạn thở dài:
- Tiểu Phiến, cô ấy vốn là của tôi...
-------------
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Sep/2010 lúc 5:45am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=nlDdYjr3BseJQt6ADR390RDf3k0Ra96B - (3 tập) |
?func=main&a=&b=&tacgiaID=4000 - - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=nlDdYjr3BseJQt6ADR390RDf3k0Ra96B
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Oct/2010 lúc 10:32pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Cr5pyhCqeuWYR3ONPkDOoLJh3843t1Bv - |
?func=search&a=&b=&keyword=Tây%20Ðộc - - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=Cr5pyhCqeuWYR3ONPkDOoLJh3843t1Bv
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 15/Oct/2010 lúc 4:50am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=FI38fHkWmqAHa0owaes4DFJoKjkGUiMd - |
?func=search&a=&b=&keyword=Trần%20Tường%20Vy - - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=FI38fHkWmqAHa0owaes4DFJoKjkGUiMd
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Oct/2010 lúc 7:23pm
Những hình ảnh đẹp
Anh tôi nằm bịnh viện Saint Camille đã được mười bữa. Chiều hôm qua, ảnh gọi điện thoại về nhà, nói: «Thằng tây nằm chung phòng ra nhà thương rồi, ngày mai chủ nhựt, mầy vô đây anh em mình nói chuyện chơi». Nghe giọng ảnh “có thần” nên tôi vui vẻ trả lời: «Dạ! Mai em vô. Vợ con em đi Mỹ, chớ không thì em cũng chở tụi nó vô thăm anh». Tôi nghe ảnh cười khịt: «Một mình mầy cũng đủ cho tao vui rồi…».
Phòng anh tôi là loại phòng hai giường ở lầu ba. Ông già người Pháp cỡ hơn tám mươi tuổi nằm chung phòng với anh tôi rất khó tánh. Ổng không thích có nhiều ánh sáng vào phòng nên volet cửa sổ lúc nào cũng chỉ hé lên một chút thôi. Thấy ổng quá già lại hay gắt gỏng nên mấy cô y tá cũng nhân nhượng, chỉ kéo volet lên cao trước giờ bác sĩ trưởng đi thăm bịnh nhân, rồi lại hạ thấp xuống, sau đó! Mỗi lần tôi vào thăm anh tôi, mặc dầu chúng tôi nói chuyện nho nhỏ với nhau, ổng cũng lăn qua trở lại thở dài. Có khi còn lấy gối bịt lỗ tai nữa!
Anh tôi nói: «Tao chưa bao giờ nghe nó… tằng hắng với tao một tiếng!» .
Ông Tây đó xuất viện, chắc anh tôi nghe… nhẹ lắm nên mới vội vã gọi tôi vào chơi, để nói chuyện mà không cần giữ gìn ý tứ gì hết!
Hôm nay, volet cửa sổ được kéo lên hết nên để lộ trời cao lồng lộng và phòng đầy ánh sáng… Thấy tôi, anh tôi vui vẻ nói: «Mừng quá! Hổm rày, cứ làm thinh, bực mình thấy mụ nội! Bữa nay, tụi mình nói chuyện tự do, cho nó đã!».
Tôi nhìn anh tôi mà thấy thương: mới ngoài sáu mươi mà đã già xọm. Bao nhiêu năm tù đày của VC đã ăn mòn cơ thể của ảnh đến nỗi từ khi ảnh qua Pháp sum họp với vợ chồng tôi, ảnh cứ bịnh lên bịnh xuống hoài. Cũng may là ảnh không có vợ con nên không có những cái lo của người có gánh nặng gia đình. Và cũng may là ảnh chỉ có một mình tôi là em đã có cuộc sống ổn định nên ảnh không phải cưu mang một đứa em nào khác.
Hai anh em tôi nói chuyện vui vẻ một lúc, bỗng anh tôi nhìn trời qua khuôn kiếng cửa sổ rồi nói: «Trời đẹp quá, Cu!».
Tôi còn đang ngẩn ngơ không biết ảnh nói với ai thì ảnh cười khịt khịt: «Mầy quên mầy hồi nhỏ tên là Cu hả? ».
Tôi bật cười: cả một trời dĩ vãng bỗng hiện về rất rõ, với những hình ảnh thuở nhỏ ở nhà quê, có bà mẹ một mình trồng rau trồng cải nuôi hai thằng con, đứa lớn tên Hai đứa nhỏ tên Cu… Tôi nhìn anh tôi mà nghe rưng rức ở trong lòng. Tôi “Dạ” như cái máy! Anh tôi nói: «Bác sĩ nói anh ra ngoài chút chút được».
Tôi lại “Dạ” nhưng vẫn còn thấy tôi đang ở quê tôi, ở trong cái nhà tranh vách đất có giàn bầu vắt lên mái tranh che sàng nước nằm bên góc bếp… Tôi nói “Vậy hả anh” mà vẫn còn đứng trong vườn rau của mẹ với mấy cây mít cây ổi cây xoài, vẫn còn nhìn cái giếng có cây cần vọt để kéo nước và cái gàu đeo lủng lẳng ở đầu cây sào dài… Tôi chỉ giật mình dạ lớn khi nghe anh tôi gọi: «Cu! Ê … Cu!».
Ảnh nhìn tôi, mỉm cười: «Tao muốn mầy đưa tao đi một vòng».
Tôi “Dạ” rồi vội vã bước ra cửa. Ảnh ngạc nhiên: «Đi đâu vậy?». Tôi trả lời: «Em đi lấy cái xe lăn!».
Ảnh bật cười: «Không cần xe lăn xe liếc gì hết. Mầy lại đây, tao chỉ cho».
Ảnh tằng hắng mấy tiếng rồi nói tiếp: «Mầy đỡ tao dậy cạnh giường. Đọ… Mầy xây lưng lại thụt sát vô cạnh giường ở giữa hai chân tao nè. Đọ… Rồi mầy rùn người xuống cho tao ôm cổ mầy. Mẹ… Mầy ăn thứ gì mà mầy lớn con quá hổng biết! Rồi! Tao ôm chắc rồi! Bây giờ, mầy choàng hai tay ôm hai bắp vế của tao đây, vừa xóc nhẹ để lấy trớn vừa đứng lên. Đọ… Như vậy, người mình gọi là ‘cõng’. Ở xứ nầy, tao chưa thấy ai cõng ai hết. Có lẽ người ta không biết cõng, mầy à!».
Tôi cõng anh tôi, nhẹ hều. Ảnh nói: «Hồi nhỏ, tao cõng mầy mòn lưng, mầy đâu có biết!».
Một xúc động bỗng dâng tràn lên cổ, tôi vừa nuốt xuống vừa siết chặt hai chân anh tôi như muốn ôm lấy hết con người của ảnh để cám ơn, cái con người đang nằm trên lưng tôi đây, cái người anh đã hy sinh suốt cuộc đời không chịu lập gia đình chỉ vì muốn nuôi thằng em ăn học cho đến nơi đến chốn! Ảnh đã cõng tôi trong thời tuổi nhỏ, về sau, ảnh vẫn tiếp tục cõng tôi - dù dưới hình thức khác - cho đến ngày tôi thành nhân ra đời. Biết bao giờ tôi cõng lại anh tôi suốt hai mươi mấy năm trời như vậy?
Chúng tôi ra hành lang. Gặp một cô y tá, cô ta vội nói: «Để tôi lấy cho ông một chiếc xe lăn!».
Tôi lắc đầu: «Khỏi cần! Cám ơn cô! Anh tôi muốn tôi cõng như vầy».
Cô ta mỉm cười bỏ đi, vừa đi vừa nhìn lại, vẻ ngạc nhiên. Anh tôi nói: «Mầy thấy không? Ở xứ nầy, người ta không biết cõng là gì!».
Thật vậy, đi dài dài theo hành lang, gặp ai cũng bị nhìn với một nụ cười như muốn nói “Làm gì ngộ vậy há!” Tiếng của anh tôi vẫn đều đều nho nhỏ bên tai: «Hồi đó, năm mầy ba tuổi là năm mầy bịnh hoài nên mầy cứ nhề nhệ nhề nhệ đeo theo má đòi ẵm. Chiều nào má cũng nói “Hai! Mầy cõng thằng Cu đi hàng xóm cho má nấu cơm coi!” Vậy là dầu tao đang tưới rau tao cũng quăng đó, cõng mầy đi vòng vòng. Hồi đó, lúc nào mầy cũng ở truồng, còn tao, dầu đã hơn mười tuổi, nhưng lúc nào cũng ở trần, chỉ khi nào đi học mới máng lên mình cái áo sơ-mi. Thành ra, khi cõng mầy tao thương ở cái chỗ là nghe con cu của mầy mềm mềm nằm gọn trên da lưng tao. Nhiều khi thương quá, tao xoay người lại hun mầy trơ trất làm mầy nhột mầy cười đưa mấy cái răng non nhỏ như hột gạo! Mầy coi! Vậy mà đã hơn năm mươi năm rồi chớ bộ!».
Tôi im lặng nghe anh tôi kể mà trong đầu thấy như đang nhìn ngay trước mắt cảnh thằng anh cõng thằng em đi quanh quanh để người mẹ rảnh tay lo nấu bữa cơm chiều… … Đẹp quá! Anh tôi lại nói: “Thiệt ra, tao đâu có cõng mầy đi đâu xa. Đi lòn lòn qua mấy liếp rau mấy bờ mía rồi qua lò bánh tráng của dì Sáu Lộc. Đứng xớ rớ một chút là dì Sáu hay chị Hai Huê con của dỉ cho một cái bánh tráng nướng thơm phức”.
Ngừng một chút, anh tôi hỏi:
“Mầy còn nhớ chị Hai Huê không?”
Tôi đáp: “Dạ có. Hồi đó, chỉ ra sư phạm rồi dạy tụi em ở tiểu học”.
Anh tôi tằng hắng: “Ờ! Chỉ đó! Má khen chỉ lắm, nói: con nhỏ dễ thương, đi làm có lương mà chỉ sắm có hai cái áo dài, hỏi nó thì nó nói nó để dành tiền cất một cái quán cho má nó ra bán bì bún ít cực hơn là xay bột tráng bánh”.
Đến đây thì tôi nhớ rõ cái quán của dì Sáu Lộc: Quán nhỏ nằm cạnh cây gõ trước lò bánh tráng. Bì bún ngon có tiếng. Có điều là dì Sáu không bán rượu đế mà cũng không cho khách hàng mang rượu đế đến quán! Dân nhậu phàn nàn thì dì Sáu nói: «Tôi ghét thứ đó lắm! Cũng tại ba cái đế đó mà ông nhà tôi ba ngù té xuống bàu chết không ai hay!».
Cái quán đó về sau giao cho vợ chồng cô cháu gái của dì Sáu trong nom và được cất rộng ra thành tiệm cà phê, người ta gọi là tiệm “Cây Gõ”...
Ở cuối hành lang bịnh viện là khuôn kiếng rộng. Nhìn xuống dưới thấy nắng đầy… Cây cỏ được cắt xén sạch sẽ đẹp mắt. Tia nước tưới vườn tự động quét qua quét lại coi mát rượi. Anh tôi im lặng nhìn một lúc rồi nói: «Hồi đó, chiều nào đi học về, tao cũng phải đi tưới vườn rau. Mới có mười tuổi mà tao mạnh lắm! Cái gàu nước lớn như vậy mà tao xách chạy bon bon. Phải nói là nhờ có cây cần vọt tao mới kéo nổi cái gàu ra khỏi giếng, chớ nếu kéo bằng sợi dây dừa thì chắc tao chịu thua».
Có lẽ sợ tôi quên nên anh tôi tả cây cần vọt. Tôi vẫn để ảnh nói vì tôi thấy ảnh đang sung sướng với những hình ảnh đẹp của quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách… Tiếng của anh tôi vẫn đều đều bên tai: «Cần vọt là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng dính chắc vào nhau bằng những thanh ngang coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó được chôn đứng cách giếng độ hai ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai thân tre. Bắc dính chắc trên cái cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng tầm vông dài xuống gần miệng giếng, đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu. Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp cho người kéo nước không phải ráng sức. Hay quá!»
Tôi nói đẩy đưa, cố ý để cho anh tôi nghỉ: «Dạ. Em còn nhớ cây cần vọt chớ! Hồi em lớn lên, em vẫn phụ anh tưới rau cho má, anh quên sao? Em còn nhớ hồi đó phần của em là lo tưới và châm sóc giàn bầu của má”.
Ảnh cười khịt khịt: “Ờ… giàn bầu. Trái dài lòng thòng, đi ngang phải cúi đầu để tránh...”
Rồi giọng của ảnh như vui lên: “Bầu luộc là món mà tụi mình ăn hằng ngày, mầy nhớ không? Bữa cơm nào cũng có bầu luộc, mẻ cá kho và một tô nước luộc bầu. Nước luộc bầu không có con tôm con tép gì hết, chỉ có chút muối, chút tiêu và mấy cọng hành… vậy mà tụi mình chia nhau húp ngon lành, hén Cu!”.
Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh anh em tôi húp nước luộc bầu, nhứt là cái cử chỉ của anh tôi khi ảnh đưa tô sành mẻ miệng, xây chỗ miệng tô còn lành, nói: “Húp ở đây nè, Cu!”. Cha ơi…! Sao mà nó đẹp!
Thấy gần trưa, tôi cõng anh tôi đi lần về phòng. Bỗng ảnh nói: “Ý! Má kêu kìa!”.
Rồi ảnh nghẻo đầu buông thõng hai tay! Tôi đang hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì gặp ông bác sĩ trưởng trong thang máy bước ra. Tôi vội vã gọi: “Bác sĩ! Bác sĩ! Ông coi dùm coi! Anh tôi bị gì rồi!”.
Bác sĩ rờ đầu rờ cổ anh tôi rồi lôi tôi chạy lại phòng trực y tá. Bác sĩ hướng vào trong nói “Cứu cấp”. Mấy cô y tá phóng ra đỡ anh tôi qua giường sắt có bánh xe rồi đẩy nhanh về phòng, theo sau là xe dụng cụ thuốc men. Vào phòng, một cô y tá đẩy nhẹ tôi ra ngoài, nói: “Ông đừng vào. Cảm phiền đứng đợi ở đây.” Rồi đóng cửa lại. Tôi tỳ người vào tường, nhìn quanh bối rối: hành lang trống trơn bỗng như rộng mênh mông…
Một lúc lâu sau mấy cô y tá mở cửa đẩy giường đẩy xe ra, nói chuyện tỉnh bơ. Đi sau cùng là bác sĩ trưởng. Ổng vỗ vai tôi, nói: “Không có gì hết! Chỉ bị xúc động mạnh thôi. Ông vào được rồi.”.
Tôi nói “Cám ơn” rồi thở dài nhè nhẹ như vừa trút một gánh nặng. Nhìn thấy tôi bước vào, anh tôi mỉm cười, mắt ảnh ngời sáng, nhưng ảnh vừa đưa tay ra dấu vừa nói: “Thôi! Mầy về đi! Để tao ngủ một chút”.
Nói xong, ảnh nhắm mắt mà trên môi vẫn còn nguyên nụ cười. Tôi biết: ảnh đang đi vào giấc ngủ với những hình ảnh đẹp!
Tôi bước ra, đóng nhẹ cửa lại. Hành lang dài tung hút. Chắc cũng đến giờ cho bịnh nhân ăn nên phảng phất có mùi đồ ăn. Tôi bỗng nghe thèm vị ngọt của nước luộc bầu mà anh em tôi chia nhau húp năm chục năm về trước, bây giờ sao vẫn còn nhớ. Và lạ thiệt! Nước luộc bầu quá tầm thường như vậy mà sao cũng mang đầy mùi vị của quê hương?
Tôi nuốt nước miếng…
Tiểu Tử
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Nov/2010 lúc 1:36am
MỘT NẮNG HAI SƯƠNG HuyTrâm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=SGPS7QBYceVWZewnCab3ctby3autFBxY - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=SGPS7QBYceVWZewnCab3ctby3autFBxY
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Nov/2010 lúc 4:47am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=erd09wEjRvsCM67dhmIcLeVZbMeI7H8b - - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=erd09wEjRvsCM67dhmIcLeVZbMeI7H8b - |
?func=search&a=&b=&keyword=Ben%20Nguyễn -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Dec/2010 lúc 9:41pm
THÈM
Tiểu Tử
http://www.ledinh.ca/Bai%20Le%20Dinh%20Tieu%20Tu.html - http://www.ledinh.ca/Bai%20Le%20Dinh%20Tieu%20Tu.html
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Dec/2010 lúc 9:41pm
http://vietnamlibrary.informe.com/c-truy-n-vi-t-ki-au-nguy-an-ng-c-ng-on-dt5096.html -
- Nguyễn Ngọc Ngạn
- http://vietnamlibrary.informe.com/c-truy-n-vi-t-ki-au-nguy-an-ng-c-ng-on-dt5096.html
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Dec/2010 lúc 5:19am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=qFs1BVtlXH4jtURBNnYl9zYNX8jd57al -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=qFs1BVtlXH4jtURBNnYl9zYNX8jd57al - Những Người Nuôi Mộng
?func=search&a=&b=&keyword=Bùi%20Bích%20Hà - Bùi Bích Hà |
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=qFs1BVtlXH4jtURBNnYl9zYNX8jd57al
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jan/2011 lúc 10:17pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=4rY4gsMokTMmiPtDJ1YvXS4r9nk91t2i -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=4rY4gsMokTMmiPtDJ1YvXS4r9nk91t2i -
?func=search&a=&b=&keyword=Thanh%20Mai -
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=4rY4gsMokTMmiPtDJ1YvXS4r9nk91t2i
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 14/Jan/2011 lúc 7:55pm
.
Một Tấm Gương
Tác giả: Minh Tạo
Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
- “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
Tôi hỏi tiếp:
- “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
- “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
- “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi. Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…
Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đở gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Jan/2011 lúc 11:08pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=XZkjYWarxpvTYLVWpke4nqP9ozHgTg4t -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=XZkjYWarxpvTYLVWpke4nqP9ozHgTg4t -
?func=search&a=&b=&keyword=Trần%20Quang%20Thiêu - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=XZkjYWarxp
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Jan/2011 lúc 10:34pm
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=ZobO60zg7lcQC0EXJfZj6FydSWgYnr8D - |
?func=search&a=&b=&keyword=Linh%20Vang - - http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=ZobO60zg7lcQC0EXJfZj6FydSWgYnr8D
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Jan/2011 lúc 1:51am
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=LrRC2s0UvdPcxBoUWexklIBtcwBqJV2V -
- http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=LrRC2s0UvdPcxBoUWexklIBtcwBqJV2V - : 1771
?func=search&a=&b=&keyword=Hồng%20Nga -
http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=LrRC2s0UvdPcxBoUWexklIBtcwBqJV2V
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Feb/2011 lúc 8:42pm
Mẹ đi lấy chồng
Tác giả Thu Trinh
Năm tôi lên bốn tuổi, bà tôi nói khi nào trời có cầu vồng thì mẹ tôi sẽ băng qua cầu về thăm tôi. Thương mẹ, tôi dặn bà nhắn với mẹ nếu cầu vồng gẫy khúc thì mẹ khoan về, tôi sợ mẹ té xuống cầu sẽ bị cá sấu cắn.
Bà ngồi đưa võng sau hè Hát ru cháu ngủ câu vè đắng cay "À ơi cháu ngủ cho say Mẹ cháu đi lấy chồng xa không về Con ai cha mẹ đề huề Cháu tôi mẹ nó lối về quên đi" Thân tôi có đáng tội chi Năm lên bốn tuổi mẹ đi lấy chồng “Trời mưa bong bóng phập phồng Mẹ đi lấy chồng con ở với ai” (1) Lời bà ru quá bi ai Nghe sao thấm thía cảnh ai giống mình Mẹ đi con ở một mình Đêm khuya trở lạnh ai người đắp chăn Ai người chăm sóc miếng ăn Ai đưa đi học, ai răn làm người Mẹ đi con vắng tiếng cười Chiều ra ngõ đứng trông trời ngóng mưa Cầu vồng sắp mọc hay chưa Vì mẹ đã hứa sẽ về thăm con Cầu treo gẫy khúc vẫn còn Cầu vòng gẫy khúc mẹ không đường về Bà ơi dắt cháu rời quê Để cháu tìm mẹ hỏi lời này thôi Chim ri mất mẹ đói mồi Nỡ nào mẹ vội bỏ con lấy chồng
****************
Tâm Sự Con Trẻ
Năm tôi lên bốn tuổi, một ngày mẹ tôi đi làm rồi đi luôn không về nữa. Mẹ chỉ để lại cho tôi một con chuột Mickey nhồi bông lớn và cho cha tôi một lá thư.
Đọc xong thư ba tôi như người điên, lồng lộn, đập phá, la hét, sau đó xách xe đi biệt mấy ngày tìm vợ. Chừng một tuần, hình như mẹ tôi đã liên lạc điện thoại về nhà, nói gì đó không biết nhưng ba tôi khóc. Những ngày tiếp theo, ông vùi mình vào trong men rượu để quên đời. Ngày nào ba cũng đi tới khuya, khi về tới nhà thì say bê bết không còn biết trời trăng mây nước gì cả.
Về phần tôi, bà tôi không hề nói cho tôi biết mẹ tôi đã đi đâu, bà chỉ nói mẹ tôi đi làm xa lắm. Nhớ mẹ, tôi khóc mỗi ngày không thôi. Bà đưa cho tôi con chuột Mickey, nói của mẹ cho. Giận lẫy, tôi đem ném con chuột ra xa. Ai cho gì tôi cũng không lấy, ai nói sao tôi cũng không ngừng khóc, tôi chỉ nức nở lập đi lập lại một câu “con muốn mẹ”.
Để dỗ cho tôi nín, bà nói khi nào trời có cầu vồng thì mẹ tôi sẽ băng qua cầu về thăm tôi, mẹ tôi sẽ mang về cho tôi rất nhiều quà. Lúc đó tuy nhớ mẹ và tha thiết mong gặp mẹ, tôi không khỏi rùng mình nhớ đến những con cá xấu mõm nhọn răng dài mà tôi thấy được trong sách hình. Thương mẹ, tôi nói bà nhắn với mẹ nếu cầu vồng gẫy khúc thì mẹ khoan về, tôi sợ mẹ té cá sấu sẽ cắn mẹ.
Sau vài tuần thì tôi không còn khóc lóc thảm thiết đòi mẹ nữa, thế nhưng lòng thương nhớ mẹ thì không bao giờ nguôi. Tôi đi tìm lại con chuột Mickey về ôm. Chiều chiều, tôi ôm chuột ra trước nhà đứng nhìn lên trời mong cho cầu vồng mọc để mẹ về thăm như đã hứa. Thế nhưng trời California quanh năm nắng ấm, những trận mưa thưa thớt hàng năm chỉ đếm được trên đầu ngón tay, tôi không bao giờ thấy có cầu vồng. Và cứ như thế tôi tiếp tục đợi năm này qua tháng kia, mẹ tôi không bao giờ về.
Vài năm sau đó, khi đã lớn hơn lên và đầu óc đã có nhận thức, tôi hiểu được chuyện cầu vồng mà bà tôi kể cho tôi nghe là chuyện không thực. Bà chỉ kể như vậy để dỗ cho tôi đừng khóc. Thế nhưng tôi vẫn đợi, vẫn mong một ngày nào đó mẹ tôi tay cầm quà mở cửa bước vào nhà, sau đó ôm tôi vào lòng và hôn lên má như lúc xưa mẹ thường làm mỗi lần về nhà trong ngày lãnh lương.
Sau khi mẹ bỏ đi, ba tôi đã sống cuộc sống bê tha như vậy cả năm trời. Ông quên hết mọi người chung quanh, quên con, quên luôn cả bản thân mình, sống như bóng ma. Chỉ có những chai rượu mới chính là những bạn thân của ông. Ngay cả công việc làm của mình ba tôi cũng không giữ được, ông bị đuổi việc.
Mãi hơn một năm ba tôi mới tạm nguôi đau đớn và muốn làm lại cuộc đời. Nghe rủ, ông theo bạn lên tận Alaska làm cho tàu bắt cua, một lần đi như vậy cả sáu tháng trời. Hết mùa cua, ông về.nhà nghỉ sáu tháng, chờ mùa sau đi tiếp.
Suốt sáu tháng làm việc và sống trên tàu đánh cua, ba không xài tiền cho mấy, lúc hết mùa ông đem hết cả lương mình về chia làm hai, một phần giao cho bà tôi để nuôi tôi, phần còn lại ông đem đổ vào những bar rượu, nướng ở các sòng bài Las Vegas, hay tiêu xài xả láng ở Việt Nam mấy tháng mới qua. Đời sống của ba tôi cứ tiếp tục như thế năm này qua năm kia. Ông không hề nhắc tới mẹ trước mặt tôi. Tuy tôi cảm nhận ba tôi thương tôi lắm, nhưng ông ít bày tỏ. Đã vậy, ông vắng nhà thường xuyên, chỉ ở với tôi một năm được một hai tháng, cho nên tình cảm giữa hai cha con tôi cũng không gắn bó nhiều.
Niềm hy vọng mẹ sẽ về có lẽ chỉ là hão huyền và vô vọng, thế nhưng tôi vẫn mong vẫn đợi. Món quà mẹ để lại cho tôi lúc ra đi tôi vẫn giữ. Con chuột Mickey giờ đã sờn lông cũ kỹ, màu trắng hai cánh tay đã ngả sang màu ngà vàng, áo mất nút không còn. Tôi để con chuột nhồi bông trên tủ áo, ngày ngày nhìn nó để nhắc nhở cho tôi nhớ tôi có một người mẹ ở đâu đó.
Tôi lớn lên trong tình thương của bà nội. Bà thương tôi lắm. Bà đã trông coi tôi từ ngày tôi mới sanh, lúc ba mẹ tôi còn ở với nhau. Khi mẹ tôi bỏ đi rồi, và nhất là từ lúc cha tôi đi làm xa vắng nhà, thì tình thương bà dành cho tôi càng tăng lên gấp bội. Có lẽ bà thương cho cảnh côi cút của tôi, có cha mẹ mà cũng như mồ côi. Hay cũng có thể bà thương tôi vì chỉ có hai bà cháu nương tựa nhau mà sống cho qua ngày. Tôi là nguồn an ủi duy nhất của bà. Bà tôi có hai người con. Người con lớn là ba tôi, người thứ hai là cô Ba, em ba tôi, nhưng cô Ba bận rộn làm ăn con cái nên hai ba tuần mới đến thăm bà. Thành ra, chỉ có tôi là người sớm hôm hủ hỉ bên cạnh bà.
Bà tôi tuy có tiền trợ cấp của chính phủ, cộng thêm tiền cha tôi đem về coi như cũng vừa đủ. Nhưng vốn tính cần cù, bà kiếm thêm tiền bằng cách nấu bánh tét, bánh đậu ra chợ bán. Bánh bà gói dĩ nhiên không bán được ở các chợ, bà bày rổ ra bán ở vỉa hè trước cửa các siêu thị Việt Nam, giống như những hàng bán bưng ở Việt Nam. Dĩ nhiên cảnh sát không cho phép bán hàng rong kiểu này. Những khi thấy cảnh sát tới, bà ôm rổ bánh chạy hấp tấp vào trong các quán trốn. Cũng có lần cảnh sát bắt được bà, cho giấy phạt và tịch thu hết bánh của bà. Nhưng sau đó thấy bà già cả, miệng móm mếu máo khóc, ông cảnh sát lại thương tình, xé giấy phạt và trả rổ bánh lại cho bà, chỉ cảnh cáo bà không được bán hàng rong vỉa hè.
Bà tôi nghỉ được vài tuần, đợi cho nguôi ngoai bớt sợ, sau đó lại đâu vào đấy, tiếp tục bưng rổ bánh lá ra vỉa hè trước chợ siêu thị ngồi bán. Thật ra bà tôi không phải là người duy nhất làm nghề bán hàng rong vỉa hè. Bà có nhiều bạn đồng nghiệp lắm. Nhiều cụ già Việt Nam lớn tuổi như bà cũng bày hàng bán như vậy. Người thì bán báo, người thì bán rau thơm, bán trái cây, tụ tập với nhau họ làm thành những nhóm bán rong chồm hổm nhỏ. Chủ nhân của các cửa hàng cảm thấy thương hại cho các cụ già, nên họ mắt nhắm mắt mở để cái chợ vỉa hè chồm hổm được tự do hoạt động trước cửa tiệm của họ. Tôi thương bà tôi lắm. Ông tôi chết đã lâu, bà chỉ có hai con là cô Ba và ba tôi. Cô Ba có gia đình ở gần đấy, nhưng đời sống cô cũng vừa đủ, không giàu có gì.
Ngày nào bà cũng dậy sớm để gói bánh và làm đồ ăn sáng cho tôi. Tới giờ đi học bà tiễn tôi ra tới tận ngoài đường, chờ cho tôi đi bộ khuất hút rồi mới về. Bà quay vào nhà nấu cơm, để sẵn trong tủ lạnh cho tôi chiều về ăn, sau đó đem thúng bánh đi xe bus ra cửa siêu thị ngồi bán.
Hình ảnh bà già quê mùa mặc áo bà ba theo kiểu miền quê Việt Nam ngồi bên cạnh rổ bánh lá mời khách qua lại mua làm tôi thương muốn rơi nước mắt. Bà tôi không cho phép tôi ra chỗ bà bán, sợ tôi mắc cở với bạn bè. Thế nhưng tôi không sợ mắc cở, nếu bà tôi đã có thể đi bán như vậy để nuôi tôi thì tôi càng cảm động và thương bà tôi nhiều hơn. Thỉnh thoảng, nếu đã làm bài xong, tôi ra phụ bà dọn hàng và đón bà về nhà. Bà không nói, nhưng qua ánh mắt rạng niềm vui và khuôn mặt hớn hở mỗi khi thấy tôi, tôi biết bà tôi mừng lắm.
Nơi khu phố Bolsa, trong khi người người ăn mặc đẹp đẽ qua lại dập dìu, xe cộ nhãn hiệu mắc tiền chạy như mắc cửi, thì bà tôi, đội nón lá chùm khăn quê mùa, ngồi bên vỉa hè mời khách qua đường mua bánh. Tôi nghĩ, đa số những người mua bánh của bà là vì thương hại hơn là vì lý do nào khác. Đôi khi có người chạnh lòng thương, gợi chuyện hỏi thăm, bà tôi chỉ cười nói “Con cháu tôi đi làm cả ngày, tôi ở nhà buồn, nên ra đây bán cho vui đấy mà, đâu phải nghèo nàn gì.” Bà tôi hiền lành, dễ thương thân thiện, riết rồi bà và đám bạn hàng trở thành những hình ảnh thân quen mỗi ngày trước cửa chợ.
Năm tôi khoảng mười tuổi, một lần chị Vân Anh con của cô Ba, lớn hơn tôi hai tuổi, kéo tôi ra bên cạnh lớp học nói khẽ thì thầm vào tai tôi một cách bí mật:
- Hôm qua trong giờ ăn chiều, chị nghe ba má chị nói chuyện, nhắc đến mẹ em. Nghe như chị hiểu họ nói mẹ em đi lấy chồng khác rồi chứ không phải đi làm xa. Mẹ em sẽ không về đâu.
Tôi đứng dựa lưng vào tường, lặng người không nói gì. Nước mắt tôi chảy ra. Chị Vân Anh nhìn tôi ái ngại. Một lúc sau chị vỗ vai tôi ra giọng kẻ cả:
- Đừng buồn. Mai mốt em lớn, chị sẽ dẫn em đi tìm mẹ.
Sau khi nghe chị Vân Anh tiết lộ tin bí mật, tôi trở nên thẩn thờ. Nguyên ngày hôm đó tôi không còn tâm trí gì học hành.
Đến bữa ăn chiều, tôi ngồi nuốt không nổi đồ ăn. Ngập ngừng mãi tôi mới hỏi bà tôi, muốn kiểm chứng những gì tôi mới nghe được. Bà tôi không trả lời đúng hay sai, chỉ hỏi tôi ai kể cho tôi nghe. Nghe xong bà ghạt đi, nói con nít nghe không đúng, chị Vân Anh chỉ ăn nói tầm bậy tầm bạ. Sau đó bà lảng sang đề tài khác và không hề nhắc tới chuyện đó nữa.
Ngày hôm sau chị Vân Anh lên trường gặp tôi tấm tức. Chị nói chị bị cô Ba phạt vì tội con nít đã dám nghe lén chuyện người lớn mà còn đi nhiều chuyện. Chị ức lắm, mím môi trợn mắt cam đoan với tôi những gì chị nghe được hoàn toàn chính xác:
- Mai mốt chị nhất định dẫn em đi tìm mẹ em để hỏi cho ra lẽ, ở nhà không ai nói thật cả.
Mấy tháng sau ba tôi về. Như thường lệ, ông chỉ hỏi han tới tôi qua loa, cho tiền, rồi đi la cà các quán cà phê hay quán bar với bạn bè mỗi ngày. Chắc bà tôi đã kể cho ba tôi chuyện tôi hỏi hôm nọ, cho nên một hôm ông dẫn tôi ra tiệm đồ chơi. Sau khi mua cho tôi một món mắc tiền, ông dẫn tôi ra công viên. Hai cha con ngồi trên ghế đá ném bánh mì cho chim bồ câu ăn. Ba tôi nói với tôi rằng khi nào tôi lớn hơn chút nữa, ba tôi sẽ kể chuyện mẹ tôi cho tôi nghe.
Tôi lại có thêm cái để đợi. Xưa nay tôi vẫn đợi cho mẹ về, bây giờ lại thêm đợi ba kể cho nghe chuyện của mẹ.
Phải đợi mãi đến năm tôi mười bốn tuổi ba tôi mới chịu kể cho tôi nghe. Ông dẫn tôi ra công viên như lần trước và kể cho tôi nghe câu chuyện mà tôi đã mong mỏi muốn biết bao nhiêu năm qua. Ba tôi nói, thật ra mẹ tôi đã bỏ gia đình đi lấy chồng khác. Mẹ tôi không muốn nuôi con nên chịu ký giấy cho ba tôi được toàn quyền nuôi tôi. Mẹ đi theo người yêu mới đến tiểu bang khác sinh sống và bao năm nay đã không liên lạc gì với chúng tôi. Lúc đầu mẹ có cho địa chỉ để ba tôi liên lạc, nhưng sau này thì dọn đi chỗ nào khác cũng không báo. Thư ba tôi gửi đi thì bị trả lại, điện thoại gọi thì số đã cắt không còn. Ba tôi nói ông cũng không buồn đi tìm, ông không cần sự cấp dưỡng con cái từ mẹ. Còn tôi, ông nói thêm, có người mẹ như vậy thì cũng nên quên đi coi như không có.
Sau khi nghe ba tôi kể câu chuyện, mắt tôi ráo hoảnh, tôi không khóc như tôi đã tưởng. Thật ra tôì đã chuẩn bị tư tưởng cho mình từ bao năm qua rồi. Bao năm, tôi đã đặt ra biết bao là giả thuyết trong đầu về sự ra đi của mẹ tôi. Nào là bà đã chết, nào là bà đã về lại Việt Nam, nào là bà là tội nhân bị truy lùng nên phải trốn tránh. Sự thật mà ba tôi kể cho tôi nghe đã không quá khủng khiếp như những lý do tôi đã nghĩ trong đầu. Ít ra, tôi biết mẹ tôi còn sống và có một đời sống bình thường trên xứ Mỹ.
Lúc đó tâm trạng tôi cảm thấy giải thoát hơn là đau đớn. Cuối cùng tôi đã biết sự thật về mẹ, tôi đã giải toả được câu hỏi mà tôi mang bên người trong suốt bao năm qua. Người khóc lúc đó không phải là tôi, mà là ba tôi. Nước mắt ông rơi rớt xuống ướt vai tôi. Tôi không biết những gọt nước mắt của ba tôi lúc đó là để thương cảm cho tôi, hay thương cảm cho chính mình.
Tôi an ủi ba tôi, nói tôi đã lớn và đã hiểu. Tôi khuyên ba nên bước đi bước nữa, ông nên làm lại cuộc đời, mười năm qua đi đã quá đủ cho ông để sống cuộc đời đơn độc như vậy.
Thật ra ba tôi không cần lời khuyên của tôi, mấy năm rồi đi qua lại Việt Nam ông đã có quen người đàn bà khác. Chỉ ít lâu sau ngày hôm đó, ba tôi đã bảo lãnh vợ mới qua Mỹ. Hai người dọn nhà ra ở riêng. Tôi vẫn ở với bà, ba tôi thường xuyên ghé thăm bà và tôi.
Càng lớn, tôi càng nhận thức được hoàn cảnh gia đình. Ba tôi đã có đời sống và gia đình riêng của ông. Mẹ tôi đã đi lấy chồng và có lẽ sẽ không bao giờ về nữa. Tôi đau đớn trong lòng, tự hỏi sao mẹ tôi đi lấy chồng lại không mang tôi theo. Có người mẹ nào trên đời lại bỏ con như vậy. Người ta có lấy chồng khác thì cũng vẫn nuôi con, vậy mà mẹ tôi nỡ bỏ tôi. Tôi thiết tha mong một ngày nào đó khi tôi lớn lên, tôi sẽ tìm được mẹ để hỏi mẹ tôi một câu hỏi, câu hỏi mà tôi vẫn ấp ủ trong lòng nguyên cả thời niên thiếu của mình, “sao mẹ nở bỏ con lấy chồng:?”
******************************
Nhật Ký Người Mẹ
Khi con tôi lên bốn tuổi, tôi rũ áo bỏ chồng bỏ con đi lấy chồng khác. Tôi là một người mẹ đáng nguyền rủa, nhẫn tâm và vô lương.
Ngày xưa vì không cam lòng sống cuộc đời gái quê xã cầu Xập, tôi đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi đời sống buồn tẻ quê mùa đó.
Tôi không biết đối với người khác, cái mã Việt Kiều của anh Bảo bảnh tới cỡ nào hay vóc dáng anh đẹp trai hào hoa ra sao, riêng đối với tôi, anh lúc đó là cơ hội vàng giúp tôi thoát khỏi đời sống miền quê tù túng và thấp kém. Bởi vậy anh Bảo đã chiếm được trái tim của tôi, một cô gái mới lớn miền quê vùng cầu Xập, ngay trong lần gặp mặt đầu.
Ở cái tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống và ước mơ, lại thêm có chút nhan sắc, tôi không cam tâm sống cuộc đời thôn nữ. Tôi không muốn nhìn đời mình trôi qua trong tẻ nhạt buồn bã, lấy chồng, sanh con, tiếp tục sống hết từ thế hệ này qua thế hệ kia như cuộc đời của mẹ và bà ngoại tôi trước đó.
Bao nhiêu trai trong vùng theo tôi, nhưng cô gái quê thanh xuân có chút nhan sắc chỉ mơ ước một ngày được thoát khỏi cái xã cầu Xập đầy tẻ nhạt và quạnh hiu. Thật ra tôi chẳng dám mơ ước xuất ngoại như bao người khác, tôi chỉ mong một ngày được vươn cánh bay tới Sài Gòn hoa lệ, sống cuộc đời nơi phồn hoa đô thị, người xe tấp nập, tiện nghi sẵn có.
Thế rồi sự xuất hiện của anh Việt kiều theo bạn về quê chơi đã vượt hơn khỏi những gì tôi mơ ước. Anh Việt kiều về vùng cầu Xập giống như một Bạch Mã Hoàng tử đến với nàng công chúa lọ lem vùng nông thôn quê mùa. Hoàng tử bạch mã mặc quần Jean Mỹ, áo hàng hiệu đắt tiền, chi tiền như nước, chàng như ánh nắng mùa xuân về rọi sáng cái thôn quê ảm đạm mà tôi tưởng tôi sẽ chôn chân đến mãn đời.
Tôi đã yêu anh Bảo say mê. Anh không đẹp trai, anh không cao ráo, nhưng anh có cái nhãn hiệu Việt kiều. Vậy là quá đủ, chỉ chừng đó thôi, anh đã đủ sức chiếm trái tim của tôi và đánh bại hết tất cả các anh chàng khác chung quanh.
Anh Bảo nói với tôi, ngay hôm mới gặp tôi trong đầu anh đã có ý tưởng tôi là người anh muốn lấy làm vợ. Đây thật đúng là loại tiếng sét ái tình mà người ta thường diễn tả. Một loại sét ái tình mà người đang yêu không cần biết đến lý do tại sao mình yêu.
Hai đứa chúng tôi nhanh chóng trở thành một cặp tình nhân đậm đà. Cái viễn cảnh một ngày được theo chồng về Mỹ, cộng thêm những lời vẽ vời của người yêu, tôi cảm thấy mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Niềm hãnh diện có người yêu Việt kiều khiến tôi mù quáng không đi tìm hiểu sâu xa bản thân và quá khứ của người mình yêu. Tôi không buồn biết tại sao anh Việt kiều này mỗi lần về nước thì ở đến năm sáu tháng mới quay về Mỹ.
Một cuộc tình kết hợp nhanh chóng được đi theo sau bởi một đám cưới cũng nhanh chóng như vậy. Chỉ trong vòng một năm, đám cưới của chúng tôi đã diễn ra. Anh Bảo bàn với tôi, nói hãy làm đám cưới nho nhỏ, để dành tiền về bên Mỹ làm đám cưới lớn. Tôi nghe lời anh nói cũng đúng, nên chỉ tổ chức một đám cưới đơn giản nho nhỏ. Tôi tuy có thất vọng vì đám cưới không được to lớn linh đình như lòng mơ ước, nhưng nó cũng không khiến tôi mất đi niềm hãnh diện. Đám trẻ nhỏ trong xã bu chật cửa nhà tôi tò mò xem đám cưới Việt Kiều.
Đám cưới đã tổ chức hơn một năm mà chẳng thấy anh Bảo đả động gì tới việc bảo lãnh vợ sang Mỹ. Tôi có hỏi thì anh lần lữa viện cớ trục trặc giấy tờ này giấy tờ kia. Anh về Việt Nam ở một lần mấy tháng, tôi hỏi anh sao không về Mỹ đi làm, anh nói anh làm thâm niên nên có nhiều ngày nghỉ phép, được về lâu chơi. Tôi tin anh, không cật vấn gì hơn, nhưng càng lúc càng nóng lòng muốn được sang Mỹ. Tôi ép anh mãi, giận dỗi, lẫy hờn, cuối cùng thì anh Bảo cũng chịu thua và làm giấy bảo lãnh vợ.
Tôi vui mừng khôn tả, giấc mơ của tôi đã trở thành sự thật. Tôi cuối cùng đã có thể thoát ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu miền quê để chuẩn bị bước vào đời sống mới nơi một quốc gia tây phương văn minh tiến bộ, tràn đầy tiện nghi vật chất và thú vui cuộc đời.
Thế nhưng niềm vui của tôi không kéo dài được bao lâu, ngày bước chân đến Mỹ là ngày tôi đương đầu với hiện thực. Anh Bảo không có gì như tôi tưởng. Anh không có tài sản, không có nhà cửa, không công ăn việc làm. Anh ở chung với mẹ trong một căn nhà thuê một phòng chật hẹp. Việc làm của anh không ổn định. Không học vấn cao, không bằng cấp, không nghề nghiệp chuyên môn, anh làm đủ mọi việc vặt vãnh mà anh có thể kiếm được, hết việc phụ xây dựng cho người chủ này, đến phụ kho khuân vác cho các siêu thị người Việt Nam kia. Chiếc xe anh làm chủ là một chiếc xe lâu đời cũ kỹ, sơn đã phai màu. Đi xe giữa đường nếu có đậu lại cũng không dám tắt máy, sợ tắt rồi thì đề máy không nổ nữa.
Nhà chỉ có một phòng, mẹ chồng tôi phải nhường căn phòng duy nhất cho con trai và con dâu, bà ra phòng khách ngủ. Thật ra mẹ anh Bảo mới là người đứng tên mướn căn nhà đó. Bà cụ có tiền trợ cấp của chính phủ, cộng thêm tiền trợ giúp mướn nhà, bà cụ cho con trai về ở chung, mẹ ở trong phòng, con trai ngủ ngoài phòng khách. Từ ngày có tôi sang, bà cụ không ngần ngại nhường luôn phòng mình cho vợ chồng tôi.
Tôi như người rớt từ trên cao xuống, cú sốc tâm thầm khiến tôi chới với. Tôi khóc thầm, tôi ủ rủ, tôi than thở riêng cho bản thân. Tôi chẳng quen ai để có thể thở than tâm sự. Tôi không cam lòng, tôi đã tìm đủ mọi cách để có được một cuộc sống đầy đủ vật chất. Tôi không cam lòng lại bước vào cuộc sống mới khác cũng không khác gì như cũ. Anh Bảo dường như áy náy trong lòng. Anh không ngừng an ủi tôi, khuyên tôi ráng chịu đựng, anh sẽ cố gắng kiếm việc nhiều tiền để tôi có một cuộc sống khá hơn.
Mẹ chồng tôi là người tốt bụng và dễ thương. Thấy tôi buồn bã, ít nói, ít cười, bà tưởng tôi nhớ nhà và nhớ Việt Nam nên an ủi tôi nhiều, cố gắng tìm mọi cách làm cho tôi nguôi ngoai.
Nhớ nhà và nhớ Việt Nam thì quả thật tôi có nhớ, nhưng chán chường và thất vọng vì hoàn cảnh sống mới chính là nguyên nhân khiến tôi bi thảm. Cũng may hàng xóm chung quanh đều là người Việt Nam nên tôi cũng thấy đỡ.
Hầu hết những căn nhà trong khu đường nhà anh Bảo đều là người Việt Nam. Nghe kể lúc trước khu này toàn là người Mỹ ở. Sau này, mỗi khi có một căn nhà dựng bảng bán, thì người vào hỏi mua lại là người Việt Nam. Riết rồi chỉ trong vòng mười năm, cả khu đều là người Việt Nam. Nghe nói chỉ còn hai căn nhà cuối đường là hai căn nhà cuối cùng có người Mỹ ở. Họ là hai cặp vợ chồng Mỹ già đã về hưu.
Tôi qua mấy tháng cũng không cần nói tiếng Mỹ, chung quanh tôi ai cũng người Việt Nam. Mỗi sáng, tôi thấy mấy cụ lớn tuổi rủ nhau ra trước sân tập Thái Cực quyền hay chí công gì đó. Trong ngày, nếu rảnh rỗi các cụ lại ghé nhà nhau chơi ngồi tán chuyện trong nhà ngoài ngõ. Thật ra tiếng Mỹ không biết nói, xe không biết đi, con cháu đi làm cả ngày, các cụ ở nhà sao lại không rảnh. Tôi còn nhận thấy đời sống ở xóm này chẳng khác gì đời sống ở Việt Nam, hàng xóm chung quanh chạy qua chạy lại gõ cửa nhà nhau chỉ để hỏi mượn chút nước mắm hay chút muối là chuyện mỗi ngày. Hàng xóm thân thiện như vậy, người mới từ Việt Nam qua như tôi cũng cảm thấy dễ ở.
Ở được một thời gian tôi quen được chị hàng xóm gần đó. Nghe tôi kể lể tâm sự, chị khuyên tôi nên chịu đựng, chừng nào tôi chưa có quốc tịch, anh Bảo vẫn có thể bỏ tôi và lúc đó tôi sẽ bị trả về Việt Nam.
Nghe thấy chữ bị trả về Việt Nam, tôi quả thật đâm sợ. Nếu bắt tôi phải quay lại xã cầu Xập lúc này, tôi thà ở lại Mỹ. Thứ nhất, nếu cả làng xóm thấy tôi quay về mà vẫn nghèo rớt mồng tơi như ngày xưa, họ sẽ cười tôi đến mất mặt. Còn nữa, nói gì thì nói, đời sống ở bên Mỹ vẫn nhàn nhã hơn ở Việt Nam nhiều. Nhà anh Bảo tuy nghèo thiệt, nhưng tiện nghi vật chất đầy đủ, tủ lạnh, tivi, microwave cái gì cũng có. Giặt và phơi quần áo đều bằng máy, tôi không phải ngày ngày mang đồ ra giặt ở bờ sông rồi căng ra phơi rào như lúc ở quê. Cơm thì cứ bỏ nồi cắm điện là có ăn. Đi đâu cũng đi bằng xe. Nói chung tôi không phải cực khổ lam lũ như những ngày trước nữa.
Sang Mỹ một thời gian ngắn thì tôi có mang và sanh con. Tuy đứa con ra đời là niềm vui của cả gia đình ngay cả bản thân tôi, tôi không khỏi không cảm thấy đứa bé sẽ cản bước chân còn đang bay nhẩy của tôi. Tôi còn quá trẻ để phải ngồi nhà mỗi ngày trông con, làm việc nhà. Mảnh trời xanh nước Mỹ còn quá cao và quá rộng cho bà mẹ trẻ chôn chân trong nhà làm bổn phận người mẹ. Mỗi ngày, tôi ôm con thơ vào lòng hát ru con ngủ, tình thương con dạt dào trong lòng. Tôi hôn con, nựng nịu con, nhưng mắt tôi không khỏi không nhìn ra cửa nơi xe cộ chạy dập dìu qua lại, trong đầu cố hình dung ra những bí ẩn nơi thế giới bên ngoài.
Anh Bảo khuyến khích tôi tập lái xe và đi làm. Anh nói, bên Mỹ đàn bà như đàn ông, ai cũng đi làm. Tôi đi làm sẽ giúp được kinh tế gia đình, chúng tôi sẽ có thể dọn ra riêng hay mướn căn nhà lớn hơn, và tôi cũng có tiền riêng tiêu xài hay gửi về cho gia đình ở Việt Nam. Thật ra anh Bảo không cần phải khuyến khích tôi làm việc đó. Xưa nay tôi vẫn có ý định đi làm một khi có điều kiện.
Người ta nói nước Mỹ là nước của cơ hội nếu mình chịu khó và cố gắng, điều đó quả thật là đúng. Con tôi chỉ được vài tháng thì tôi đã lấy được bằng lái xe và đi làm. Tôi đã có thể tự mình kiếm tiền. Biết lái xe, đi làm có tiền, có thể nói bập bẹ tiếng Mỹ để giao dịch hàng ngày, tôi như con chim mọc thêm cánh, con chim bắt đầu biết bay, thấy mảnh trời xanh trên đầư mình hình như cao hơn, rộng hơn.
Tôi đi làm để con ở nhà cho má anh Bảo trông coi. Bà cụ thương thằng bé thiết tha nên tôi rất yên tâm. Con trai tôi ngoan ngoãn lạ lùng, nó không phá và dễ dạy. Mẹ đi làm cả ngày nó chẳng khóc, ở nhà với bà suốt ngày. Tối đến khi tôi về nhà thì nó chạy ra cửa đón tôi mừng rỡ, đôi mắt to tròn của nó sáng lên niềm vui mừng. Nó ôm lấy chân tôi, dơ tay đòi bế. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất trong ngày của tôi, sau những giờ làm việc mệt nhọc bên ngoài.
Có tiền, tôi dư giả may sắm quần áo trưng diện, con người đẹp thêm ra. Anh Bảo nói trông tôi còn đẹp hơn cả lúc còn ở Việt Nam. Lại thêm là gái một con, thân hình nẩy nở, tôi như đóa nở rộ rực rỡ.
Trong khi đó, anh Bảo sau khi về Mỹ vẫn tiếp tục đi làm những công việc tạm bợ qua ngày như lúc xưa. Tiền lương anh đem về chỉ đủ cho hai vợ chồng tiêu xài, không đủ để mướn căn nhà khác lớn hơn. Cái đám cưới lớn linh đình mà anh hứa hẹn lúc ở Việt Nam dĩ nhiên chỉ là lời hứa xuông. Càng ở lâu, tôi càng cảm thấy anh Bảo không phải là một người ‘hùng” như ngày xưa tôi vẫn thường tôn sùng trong đầu. Với tôi, anh bây giờ là một người đàn ông tầm thường từ nhân dáng tới sự nghiệp. Một người không có tài cán, không có chí phấn đấu và không có được một việc làm vững chắc để nuôi vợ con. Tôi cảm thấy mình vừa thoát khỏi một cuộc đời bế tắc không lối thoát ở xã Cầu Xập, sang một cuộc sống bế tắc không lối tiến khác ở xứ người. Người đàn bà trẻ có nhan sắc lại một lần nữa cảm thấy chán chường và thất vọng.
Công việc làm đã giúp tôi hội nhập vào đời sống bên ngoài, và tôi đã rơi vòng tình ái với người khác. Anh Đức là ông chủ tiệm của tôi, chúng tôi đã yêu nhau. Tôi yêu anh Đức say đắm điên cuồng. Người yêu mới của tôi đã ly dị vợ. Anh có tiền, có tài sản, có cơ sở làm ăn. Anh hào hoa phong nhã, biết tình điệu lãng mạn, lễ tình nhân hay sinh nhật đều có hoa hồng và những món quà đắt tiền tặng tôi. Thế là tôi đã lao vào cuộc tình mới không đắn đo không suy nghĩ.
Chỉ trong vòng hơn một năm ngụp lặn trong tình yêu, chúng tôi muốn sống chung với nhau. Anh Đức muốn tôi bỏ chồng để lấy anh, tuy nhiên anh kèm theo một điều kiện, nếu tôi ly dị chồng lấy anh, tôi phải để con lại, không mang con theo. Anh Đức nói anh yêu tôi tha thiết và có thể làm bất cứ việc gì cho tôi nhưng anh chưa đủ rộng lượng để nuôi con người khác. Anh còn bàn tính cho tôi thấy kế hoạch của anh. Sau khi tôi đã ly dị chồng, anh sẽ đem tôi qua tiểu bang khác sống. Anh sẽ thành lập cơ sở làm ăn khác ở đó. Chúng tôi sẽ vứt bỏ hết quá khứ lại sau lưng để làm lại một cuộc sống mới và một thế giới mới của riêng chúng tôi.
Tôi đã sống trong dằn vặt đắn đo. Tôi đã suy nghĩ bao ngày nhức óc không lối thoát. Mỗi ngày ôm con tôi tự hỏi mình phải nên làm gì. Tôi nói anh Đức hãy cho tôi một thời gian, khi nào con tôi đi học thì tôi sẽ có quyết định. Thế nhưng tôi đã không có cơ hội chờ cho tới ngày con tôi đi học. Anh Bảo đã sinh lòng nghi ngờ và đã bắt đầu hạch sách tôi. Anh chưa bắt được quả tang tôi ngoại tình nhưng cảm giác của anh cho anh biết tôi đang làm điều đó. Anh bắt tôi nghỉ làm, đi kiếm việc khác.
Tôi và anh Đức đang yêu nhau say đắm, chúng tôi không muốn mất nhau. Ngoài ra, tài sản anh Đức nhiều, anh giầu quá, tôi muốn có được chúng. Tôi đã gặp một người đàn ông đúng như tôi mơ ước, tôi không đành lòng bỏ. Tôi không có đường lựa chọn. Anh Bảo ép tôi bỏ việc là ép tôi phải lựa chọn. Và tôi đã làm điều đó. Tôi quyết định sẽ bỏ gia đình đi theo anh Đức.
Vài tháng sau khi tôi lấy được bằng quốc tịch Mỹ, tôi quyết định ra đi. Tôi mua cho con tôi một con chuột Mickey nhồi bông lớn. Thằng bé xưa nay vẫn mê thích những sản phẩm về Mickey. Tôi để con chuột nhồi bông trên đầu tủ quần áo. Buổi sáng, tôi chuẩn bị đi làm như thường lệ. Con tôi ngày thường vẫn hay dậy sớm. Nó sáng nào cũng đi tìm tôi, chờ cho tôi ôm hôn rồi tiễn tôi ra tận cửa, sau đó dơ tay nói “bye bye”. Hôm đó trước khi đi, tôi ôm con trai tôi thật chặt trong lòng, nước mặt tôi rơi dàn dụa. Tôi cố che mặt không cho nó thấy, tôi hứa thầm với con rằng chỉ một hai năm tôi sẽ quay lại đón nó.
Thằng bế không hay biết gì, nó dơ tay nói “bye bye mẹ”. Tôi quay mặt đi, vội vã bước ra cửa. Tạm biệt con. Mẹ sẽ về đón con.
Lòng tôi đau như cắt. Tôi ra ngoài xe gục đầu lên tay lái xe khóc nức nở. Hôm đó tôi đi tới nhà anh Đức luôn không về. Trước khi đi tôi có để lại một lá thư cho anh Bảo giải thích việc tôi làm và xin lỗi anh. Nguyên tuần đó tôi không liên lạc gì với anh Bảo cả. Tôi chờ cho cơn đau của anh được dịu lại. Sau đó tôi liên lạc lại với anh để nói về chuyện ly dị. Tôi đã phụ lòng anh.
--------------------------------
Tôi ngồi núp trong xe, đeo khăn chùm đầu và cặp mắt kiếng to để không ai nhận ra mình. Tôi ngồi như vậy rất lâu chờ cho chuông nghỉ giải lao của trường reo. Rút cuộc chuông giải lao cũng vang lên, đám học sinh túa ra ngoài sân chơi. Tôi nhướng cổ tìm trong đám trẻ nhỏ đứa con trai mình. Cuối cùng tôi đã thấy nó. Con tôi đó, làm sao tôi không nhận ra. Năm nào tôi chẳng về tìm nó. Năm nào tôi chẳng viện cớ dẫn hai con nhỏ về California nghỉ mát, và rồi tìm cách đi tìm con trai.
Mẹ chồng tôi vẫn còn ở đấy, vẫn ở căn chung cư cũ kỹ ngày xưa. Tôi đậu xe cách nhà một khoảng đợi cho con đi học, rồi lái xe từ từ theo con tới trường. Con tôi vào trường rồi, tôi vẫn đậu xe ở ngoài đường chờ cho tới giờ nghỉ lao để được nhìn thấy con chơi đùa với chúng bạn. Đã bao năm, từ ngày ra đi, tôi chưa hề một lần về gặp nó. Tuy năm nào tôi cũng về, nhưng chỉ là để nhìn con từ xa. Tôi không có mặt nào đối diện với con tôi. Tôi đã bỏ nó đi. Lúc mới đi, tôi tưởng tôi sẽ đi một vài năm rồi sẽ về đón con, nhưng anh Đức đã không cho tôi làm như vậy. Rồi sau đó tôi lại sanh thêm con cho anh Đức. Anh Đức quá ích kỷ, anh chỉ muốn tôi thương yêu con của anh.
Tôi không dám về đối diện với con trai tôi. Tôi sợ nó sẽ hỏi tôi sao mẹ không đón con đi với mẹ. Tôi sẽ trả lời con sao đây? Có ai hiểu cho lòng tôi. Tôi biết người đời ai cũng sẽ nguyền rủa tôi là người đàn bà tham tiền, lăng loàn bỏ chồng bỏ con. Tôi chỉ xin con tôi hiểu một điều, tôi thương con tôi vô cùng, và mong con tôi sẽ tha thứ cho tôi.
------------------------------------------------
Năm nay tôi lại về lén trộm nhìn con. Thằng bé mau lớn quá. Mới có từ năm ngoái đến nay mà nó đã cao hơn cả cái đầu. Tôi ngồi trong xe nhìn con trong sân trường, nước mắt tôi ứa ra. Chỉ có một khoảng cách ngắn từ xe tới sân chơi, nhưng sao tôi thấy nó là cả một đại dương ngăn cách. Tôi thèm được chạy lại bên con và ôm nó vào lòng cho thỏa niềm thương nhớ. Tôi gọi thầm trong lòng con ơi, con ơi. Tôi mang tấm hình của con chụp lúc nó còn nhỏ ra coi. Tấm hình này tôi đã mang theo với tôi từ ngày tôi bỏ con đi. Ngày nào, khi không có anh Đức bên cạnh, tôi đều mang hình ra coi cho thoả lòng thương nhớ. Tôi hôn lên hình con mà không cầm được nước mắt.
Mấy năm nay gia đình tôi làm ăn khá giả, anh Đức mở thêm nhiều cửa tiệm nhỏ. Tôi đã để dành được tiền riêng cho mình, không cho anh Đức biết. Tôi mong rằng sau này tôi có thể đền bù cho con tôi những gì tôi nợ nó. Tôi không thể trả nợ cho con tôi bằng tình mẹ mà tôi nợ nó. Tôi chỉ có thể lấy tiền bạc đền bù.
*******************************
Kết Thúc
Đúng như cơ quan khí tượng tiên đoán, những đám mây đen từ ngoài biển đã kéo về che kín bầu trời và chẳng bao lâu thì cơn mưa nhẹ và nhỏ hột đã đổ xuống thành phố.
Bà tôi kéo tấm màn che cửa sổ nhìn ra ngoài trời lẩm bẩm:
- Sao lại có mưa vào tháng này, đúng là mưa trái mùa. Trái nắng trở trời chỉ làm cho người ta sinh cảm cúm.
Mưa không lâu, chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ thì tạnh.
Có tiếng chuông reo gọi cửa, tôi bước ra mở cửa. Trước mặt tôi là một người đàn ông Mỹ quần áo chỉnh tề. Người khách lạ hỏi để được nói chuyện với ba tôi và tôi. Sau khi nghe tôi xác nhận tôi là người ông muốn tìm, nhưng ba tôi thì không có ở đây, người đàn ông đưa danh thiếp tự giới thiệu mình là đại diện cho văn phòng luật sư, muốn hẹn hai cha con tôi lên văn phòng để gặp luật sư.
Ông chỉ giải thích với tôi vài lời ngắn ngủi:
- Tôi không được phép nói nhiều với cậu ở đây. Cha cậu và cậu khi gặp luật sư sẽ được nghe giải thích cặn kẽ hơn. Tuy nhiên, tôi có thể nói đại khái tổng quát. Cậu có một người mẹ ở tiểu bang xa, bà ta có một trương mục chứng khoán để tên cậu và hàng tháng vẫn bỏ tiền vào trương mục. Trước đây đã lâu, bà có nhờ văn phòng luật sư làm giấy ủy nhiệm để giao chương mục này cho cậu khi cậu được mười tám tuối. Mới đây, bà đã qua đời trong một tai nạn giao thông, nên luật sư mời cậu đến để thông báo cho cậu biết về trương khoản này. Chi tiết ra sao, cậu phải đợi luật sư nói cho cậu hay. Ngoài chương mục chứng khoán, mẹ cậu còn để lại trong hộp thư an toàn một quyển sổ nhật ký cho cậu. Tiền trong chương mục thì cậu phải chờ đến mười tám tuổi mới được tiếp nhận, nhưng quyển nhật ký của mẹ thì cậu có thể lấy về được bất cứ lúc nào.
Người đàn ông sau đó ra về. Ông ta đi rồi tôi vẫn đứng sững trước cửa, không biết nói gì. Tôi quay nhìn con chuột Mickey nhồi bông, mặt nó hôm nay sao khác lạ. Cái miệng nó vẫn nhếch lên thành hình vòng cung như mọi ngày, nhưng tôi không biết lúc đó nó đang cười hay đang khóc.
Tôi quay nhìn lên trời, mặt trời đã ló dạng sau những đám mây. Phía bên kia chân trời, bóng cầu vồng với bẩy màu rực rỡ không biết đã mọc lên từ lúc nào. Tôi nhìn mảnh cầu vòng không chớp mắt. Bao nhiêu năm chờ đợi, cuối cùng tôi đã thấy cầu vồng mọc. Tôi ngồi bệt xuống đất, với tay ôm con chuột Mickey vào lòng. Nước mắt tôi rơi ướt thẫm đầu con chuột. Tôi để cho mình được khóc tự do. Ngoài kia ánh cầu vồng vẫn rực rỡ cuối chân trời. Mẹ tôi đã về như đã hứa.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: giodocgocong
Ngày gởi: 18/Feb/2011 lúc 11:19am
SÀI GÒN MƯA VẪN RƠI
Phong Thu
Hạt Sương diễn đọc
http://music.forvn.com/show/455242.html -
------------- GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Mar/2011 lúc 10:29pm
VẾT SẸO
Lê Thúy Bảo Nhi
http://www.authorstream.com/Presentation/Mica-878878-v-t-s-o-l-th-y-b-nhi/ - http://www.authorstream.com/Presentation/Mica-878878-v-t-s-o-l-th-y-b-nhi/
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/Mar/2011 lúc 4:52am
KỶ NIỆM MÙ SƯƠNG Tác giả: Chu Sa Lan Diễn đọc: Phượng Dung và Nam Phong http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=673914 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Mar/2011 lúc 9:43pm
CÔ ÁO LỤA HỒNG
Tác Giả: Thạch Lam |
Thứ Ba, 15 Tháng 3 Năm 2011 19:36 |
Sự kinh nghiệm đã bảo cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất
Hiệp đi thong thả trong phố, mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá. Chàng vừa đi vừa nhìn đám người qua lại tấp nập dưới bóng nắng ấm của sáng mùa thu. |
Thỉnh thoảng, Hiệp đứng dừng lại trước một cửa hiệu bán đồ trang sức, anh ta sung sướng ngắm nghía những cái mũ phớt mềm mại, những dây lưng đẹp đẽ và những cà vát lụa nhiều màu rực rỡ.
Tuy không có tiền để mua những thứ đó, nhưng trông ngắm không cũng đủ cho Hiệp hưởng mấy cái vui thú của những cuộc đi chơi phiếm.
Nhất là những cuộc đi chơi của Hiệp lại còn có một mục đích khác nữa. Cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, anh ta thắng bộ, nói là đi chơi mát, nhưng chính thực ra chỉ cố để trông ngắm các thiếu nữ Hà thành.
Sự kinh nghiệm đã bảo cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất. Giờ các cô đi sắm sửa quần áo và phấn sáp, nước hoa, một công việc mà Hiệp cho là hợp với tính cách người thiếu nữ hơn cả.
Chính cái sung sướng của Hiệp là được trông thấy một cô thiếu nữ xinh xắn đứng chọn các hàng mẫu để may áo kiểu mới, hay là chọn các thứ phấn và nước hoa đựng trong những cái hộp đẹp đẽ.
Có khi chàng đứng lặng hàng giờ, hay suốt cả buổi sáng trước một cửa hiệu bán tơ lụa để nhìn các cô thiếu nữ mua hàng. Chàng nhìn những mái tóc đen nhánh che lấp vành tai hồng hồng và xinh xắn, những sợ tóc mai lơ thơ trên má phơn phớt, những tấm thân mềm mại hay những tà áo màu tha thướt.
Nếu có một cô nào tươi đẹp đi ra là Hiệp đi theo liền...Đi theo xa xa thôi, mà đi theo một cách kín đáo, không cho thiếu nữ biết. Có khi cứ như thế đi hết phố nọ sang phố kia, rồi đến khi thiếu nữ vào nhà, Hiệp ta còn đứng tẩn ngẩn ở ngoài hè... Nhưng rồi anh ta cũng thấy cái vô vị của sự đứng như thế không có lợi gì. Vì thiếu nữ có biết anh ta theo đâu, mà dầu có biết nữa, chắc cô ta cũng không để ý.
Nhiều lần, theo sau một cô thiếu nữ xinh xắn một thôi đường cũng khá mỏi chân, Hiệp chỉ muốn tiến lên tìm cách làm quen hay nói chuyện với thiếu nữ. Nhưng cái tính rụt rè làm cho Hiệp, khi sắp sửa nói, lại ngượng nghịu, tự thấy câu mình sắp nói không có ý nghĩa gì hết. Thành thử, dưới đôi con mắt ngạc nhiên của thiếu nữ, Hiệp lúng túng rồi lại lùi xuống giữ cái địa vị đi theo như cũ.
Đã nhiều lần Hiệp tự tức mình về cái tính rụt rè ấy. Chàng thấy những anh bạn tự nhiên gợi chuyện với một thiếu nữ chưa từng quen biết ở ngoài phố một cách rất dễ dàng: chàng lẩm bẩm tự cho mình là hèn, nhát, và nhất định lần sau thì sẽ can đảm và mạnh bạo hơn nữa.
Nghĩ như vậy, Hiệp thổi sáo ở giữa phố để lấy cái vẻ dung dị, không cần gì ai, mà chàng thấy các anh em bạn vẫn có, rồi rảo bước đi mạnh về phía bờ hồ.
Chợt chàng đứng dừng ngay lại: một thiếu nữ rẽ đầu xuống phố hàng Gai ra, vừa gặp Hiệp đưa mắt lên nhìn. Một luồng điện như truyền khắp từ đầu đến chân, Hiệp không nhìn thấy gì nữa, chỉ thấy đôi mắt đen nhánh của thiếu nữ và cái màu hồng của tấm áo. Thật chưa bao giờ Hiệp thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp như thế!
Anh ta cứ bàng hoàng đứng ngẩn người ra như phỗng, quên mất cả cái lễ phép tránh sang một bên để nhường lối cho thiếu nữ đi. Đến khi cô kia đưa cặp mắt ngạc nhiên nhìn anh ta lần nữa, mỉm cười như có ý chế nhạo rồi quay đi, Hiệp mới hoàn hồn, bước theo sau thiếu nữ.
Tấm áo lụa hồng phấp phới bay theo chiều gió, thiếu nữ có một cái dáng điệu mềm mại, khiến Hiệp lấy làm sung sướng rằng đã được gặp một người đẹp. Chàng nhất đinh lần này không để lỡ mất dịp tốt, vừa theo vừa nghĩ kế làm quen với thiếu nữ.
Có lẽ thiếu nữ cũng biết anh ta theo, nên thỉnh thỏang nàng quay lại nhìn Hiệp mỉm cười. Qua phố hàng Ngang, hàng Đường, chợ Đồng Xuân... thiếu nữ rẽ qua hàng Lược, rồi đứng dừng lại trên hè, ngơ ngác nhìn hai dãy phố như người tìm số nhà.
Cố thu hết can đảm trong người, Hiệp bước rảo đến trước mặt thiếu nữ. Chàng ngả mũ chào rất lễ phép:
- Thưa cô... thưa cô...
Thiếu nữ ngẩng lên nhìn Hiệp, lặng yên đứng đợi.
- Thưa cô... thưa cô...
Tự nhiên cái can đảm của Hiệp đi đâu mất cả, Hiệp thấy bối rối, mặt nóng bừng, quên mất không nói câu gì nữa...
Thấy cái vẻ lúng túng của Hiệp, thiếu nữ như có ý thương hại. Đột ngột nàng hỏi :
- Anh Tân đấy à?
Hiệp đứng ngây người ra một lát. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua trong óc Hiệp, một cách có thể thoát khỏi cái thời khắc ngượng nghịu, Hiệp liền liều trả lời :
- Vâng... chính tôi...
Thiếu nữ bỗng có vẻ vồn vã, ân cần, bước lại gần Hiệp, nói :
- Chết chửa! Thế mà tôi không nhận ra đấy. Trông bây giờ anh khác hẳn trước kia, nhớn hơn nhiều...
Rồi nàng chúm chím đôi môi đỏ :
- Mà từ độ ấy đến bây giờ, làm gì anh chẳng nhớn...thưa anh, hai cụ nhà ta vẫn được mạnh giỏi đấy chứ?
Đã chót thì phải chét, Hiệp ngập ngừng trả lời:
- Vâng cám ơn cô, thầy mẹ tôi vẫn được bình thường...
Hiệp hơi lo, chỉ sợ cô ta biết là nhầm không phải, thì thật là bẽn. Nhưng thiếu nữ như không để ý đến cái vẻ lúng túng của Hiệp, cứ điềm nhiên nói tiếp :
- Từ độ anh thôi học trở về, bà tôi vẫn có ý nhớ, thường nhắc đến anh luôn và cứ mong anh ra chơi. Chắc anh ở nhà quê cũng bận lắm đấy nhỉ?
Lần này Hiệp không còn lo nữa. Anh đoán già rằng chắc cậu Tân nào đó trước có ở trọ học nhà cô này, rồi về quê nghỉ, mà nghỉ cũng lâu nên bây giờ cô ta mới nhận nhầm được. Chàng vững dạ, mỉm một nụ cười rất xinh rồi nói :
- Vâng, khi ở nhà quê tôi cũng bận công việc lắm, chẳng đi đến đâu được. Nhớ bà và nhớ... cô quá, lắm lúc muốn ra hỏi thăm nhưng không sao mà rứt ra được...
Thiếu nữ đưa đôi mắt đen lánh nhìn Hiệp rồi thân mật trách :
- Anh thật tệ quá! Lên Hà Nội mà cũng không đến thăm em. Anh không nhớ đến em sao? Hay anh quên em rồi?
Thiếu nữ cúi xuống mỉm cười. Hiệp cảm động trong lòng, âu yếm và lấy giọng dịu dàng :
- Không, tôi không quên em...à, quên cô đâu... không bao giờ tôi quên được...
Chàng cảm động thật, cảm động vì đôi mắt trong của thiếu nữ, đôi mắt tình tứ ngây thơ. Càng trông Hiệp càng thấy thiếu nữ đẹp, nhất là cái miệng xinh xắn, có duyên, chúm chím như tinh nghịch.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Câu chuyện mỗi lúc thêm thân mật, như hai người bạn cũ gặp nhau. Hiệp đóng vai anh Tân nào đó thật là hoàn toàn, trả lời một cách kín đáo... Có khi Hiệp cũng ngập ngừng về một câu nói, nhưng thiếu nữ hình như vui mừng gặp người cũ, không để ý đến gì cả.
Đến lúc chia tay, anh ta đã biết rõ thiếu nữ là Lan, lưu học sinh trường nữ sư phạm. Anh ta lại biết cả số nhà ở hàng Lược và lại được cô hẹn đến chủ nhật sau đến cửa trường học đón cô đi chơi.
Lúc trở về, Hiệp thấy bước chân nhẹ nhàng như người bay. Anh sung sướng tự khen mình đã bỏ được cái tính rụt rè và cảm ơn thầm cái anh Tân nào đó đã cho anh cái dịp làm quen với một thiếu nữ xinh đẹp như thế.
Nhưng Hiệp vẫn có một điều lo: chàng chỉ sợ Lan biết chàng không phải là Tân thì thật rầy rà, chàng lo sợ nghĩ đến lúc Lan mời đến nhà chơi, tuy trong những lúc nói chuyện, Hiệp không thấy Lan đả động gì đến việc ấy cả.
Tuy vậy, Hiệp cũng nhất định nói thật cho Lan biết, một phần vì chàng biết trước không giấu được mãi, một phần vì chàng chắc rằng Lan đối với chàng cũng sẽ tha thứ cho cái sự giả dối bất đắc dĩ ấy.
Hôm ấy gặp Lan, Hiệp cảm động, hồi hộp, cầm tay Lan rồi lưỡng lự nói:
- Em Lan, anh có câu chuyện muốn nói với em...
Lan nhìn Hiệp, chớp mắt nhanh, như nghĩ ngợi một chút, rồi mỉm cười cũng nói:
- Anh Tân, em cũng có câu chuyên muốn nói với anh...
- Chuyện gì, em cứ nói đi.
- Không, anh nói trước.
Hiệp lại ngập ngừng:
- Câu chuyện của anh... em tha thứ cho nhé. Hôm ấy, anh đã nói dối em, vì anh...không phải là Tân!
Lan cười ròn vui vẻ, đáp:
- Em cũng không phải là Lan!
Thấy Hiệp mở to đôi mắt, ra dáng không hiểu, nàng tiếp thêm:
- Em không phải là Lan của anh Tân, mà của anh cơ! Nghĩa là... em biết anh không phải là Tân.
- Em biết?
- Vâng.
Hiệp ngơ ngác; chàng hỏi :
- Thế là làm sao? Anh không hiểu.
Lan lấy tay che miệng, giảng :
- Có gì đâu. Hôm ấy em thấy anh cứ lúng túng mãi, nên em mới giả vờ hỏi thế cho anh đỡ ngượng, chứ có anh Tân, anh Tiếc nào đâu. Hiệp chợt hiểu, vui vẻ cười.
Một lát, Hiệp sung sướng hỏi :
- Thế em biết anh? Em yêu anh?
- Lan đưa đôi mắt đen láy, ngây thơ nhìn Hiệp :
- Không, em chỉ biết anh theo em, chứ không quen biết anh bao giờ, nhưng em thấy anh cứ ấp úng mãi không nói được câu gì, em thương hại.
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Apr/2011 lúc 4:37am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=664106 - - - SƠN NAM
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=664106 -
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 02/Apr/2011 lúc 1:40pm
CON BẦN
Nhã Ca
Trời mùa đông ở Huế, lạnh cắt da thịt mà con Mận phải dậy từ ba giờ sáng. Bà chủ là cái đồng hồ tốt nhất. Nếu có bữa nào Mận ngủ quên thì cứ đúng giờ bà chủ tỉnh dậy, gọi:
- Con Bần dậy chưa, dậy, xắt chuối cho heo ăn.
Bần là tên cúng cơm của cha mẹ đặt cho. Nhưng Mận không hề biết cha mẹ mình là ai. Ông chủ nghe cái tên Bần, kỵ, sợ có cái nghèo trong nhà, nên mới sửa lại tên Mận. Bà chủ quen miệng, cứ gọi là con Bần. Tên Mận ngọt ngào thanh lịch đâu có hợp cho một con ở đợ.
Đâu chỉ có xắt chuối không thôi. Nấu cơm bằng củi ướt, thổi, khói xông hai con mắt đỏ lòm, sưng húp, nước mắt chảy ràn rụa. Hồi còn nhỏ, hai con mắt Mận luôn luôn có hai cục ghèn. Cậu chủ sợ lắm, hễ con Bần bưng cơn vô phòng học cho cậu là cậu gớm, không chịu ăn. Bà chủ lại chửi:
- Con quỉ, mi bưng cơm vô cho cậu thì phải rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, nghe. Xòe bàn tay coi.
Con Bần xòe tay, lúc nào cũng bị gõ mấy cây thước đau điếng.
- Đồ nhớp nhúa.
Nấu cơm hay cháo bữa sáng, xong rồi, tay nách một cái thau, đầu đội một cái thau nữa đựng quần áo dơ đi xuống sông giặt. Mùa đông khổ hết biết, nước lạnh như băng, xà phòng không có, giặt bằng trái mù u. Xát bọt mù u với cục đá lên quần áo, chà mòn nhám cả tay. Chưa kể mỗi ngày phải cầm cái búa bửa củi, rồi chẻ củi thành từng thanh nhỏ. Và để tiết kiệm, con Bần còn phải cầm cái cào đi cào lá khô đem về nấu nướng, bởi vậy, hai bàn tay của con Bần sần sùi, lúc nào cũng có vết đứt, trầy trụa, có khi mưng mủ, cả đêm đau nhức không ngủ được. Hai con mắt nó gần như bị bét nhèm, vì thổi ống khói cho củi cháy lên, nhất là mùa đông, lá cây, củi mục gì cũng ẩm ướt, hai con mắt nó bị um khói chín nhừ.
Mặt con bé buồn lắm, duy nhứt có đôi mắt tròn xoe, đen nhánh và cái mũi cao, kín đáo. Có lần, một ông thầy tướng tới coi cho cậu chủ, con Bần pha nước hầu, ông thầy ngó nó:
- Con ni thiếu niên tân khổ nhưng qua tuổi ba mươi, nó đổi vận hạn, giàu có lắm chơ không phải chơi mô Bà chủ cười nhạt, không tin. Cái thứ dân bần tiện này, nếu bà không nuôi, có đi ăn mày, ăn cắp mà sống, đôi khi cũng chết tấp trong bờ bụi, kiến bu rồi.
Con Bần thuộc lòng câu nói của ông thầy tướng để an ủi mỗi khi làm lụng cực quá hay bị mắng chửi, ăn đòn. Từ nhỏ tới lớn, con bé ăn đòn đếm không hết số. Và mỗi lần bà chủ giận là người mẹ của Bần bị đem ra biêu riếu. Theo lời bà chủ thì Bần là con hoang, mẹ gính nước thuê, không biết nhẹ dạ với ai mà có mang. Đẻ con ra nhưng nuôi không nổi, gặp năm đói đã bỏ con nhỏ đầu làng, trốn đi. On nhỏ bị kiến bu, người tím bầm. Ông chủ thương tình đem về nuôi, và bà chủ huấn luyện thành con ở.
- Cái thứ đó rồi cũng y như con mạ nó, đoảng hậu rứa thê!
Ăn toàn canh thừa cá cặn, lại ăn không đủ, mặc không ấm, năm mười sáu tuổi con Bần cũng lớn lên được, nhưng gầy nhom, nhìn thấy cả bộ xương. Có điều, không biết ai gây giống mà con Bần có cặp mắt đẹp quá, đen láy, hễ giương mắt nhìn ai là người đó không thể ngoảnh mặt làm ngơ, trừ bà chủ lòng sắt dạ đá. Bạn bè của cậu chủ tới chơi, thấy con Bần ngộ quá, cũng tấm tắc:
Coi con ở nhà mi ưa mắt lắm nghe. Con mắt nó đẹp quá.
Cậu chủ làm nghiêm:
- Nó là con ở, tụi bây đừng bắt thang cho nó leo.
- Làm ra vẻ ông cụ há. Thôi mi ơi, đã nói trong nhà gì đẹp bằng sen...
Con Bần ra đằng sau nhà, có cái lu nước mưa, cúi xuống soi mặt.Õ Trong lu nước, cặp mắt nó nhìn lại nó và nó cười. Có cả áng mây từ trên t.rời in trong đáy lu nước nữa. Nó đưa tay vọc, mắt nó tan, mây tan. Nó đứng sửng, muốn soi mặt mình lại lần nữa cũng không được. Nó thương đôi mắt nó lắm, ai đã cho nó hai con mắt đó vậy?
Nghe nói lúc xưa, Bần có người mạ, bỏ con mà đi. Bần đã một lần trốn nhà, muốn tìm mạ. Đi suốt mấy ngày qua làng bên, đói quá phải bò về, để lãnh đòn thí chết. Sau lần đó, gia đình chủ dọn lên thành phố, vì cậu chủ phải ăn học. Bần không còn hy vọng tìm ra mạ mình nữa.
Gia đình chủ chỉ có một cậu con trai. Năm đó cậu thi đỗ tú tài, nhà rấp rem muốn cưới vợ cho cậu. Ông bà chủ có một người bạn quen biết đâu hồi mới lên thành phố làm ăn mua bán, thường tới lui thăm viếng, coi bộ hạp ý hạp tình lắm. Nhà này có tới bốn chị em gái, nghe nói cô nào cũng giỏi giang. Vậy là hai nhà đi lại, sắp làm thông gia với nhau. Con Bần nghe chuyện, tò mò lắm, muốn biết mặt đứa con gái may mắn đó là ai. Khi gặp, nó thất vọng, vì cô gái đó không nhan sắc mặn mà, chỉ vì con nhà giàu có.
Lên thành phố ở, ông chủ bà chủ mãi mê chuyện làm ăn. Họ có một cửa hàng ở trên phố mà nhà thì ở Vỹ Dạ. Cậu chủ đi học bằng xe đạp, và mỗi lần trời mưa, dẫn xe về, cậu chủ đều bảo con Bần:
- Bần, xe tao nhớp quá, mày rửa sạch dùm tao.
Con Bần chùi rửa chiếc xe láng cóng. Cậu chủ thích lắm, tập cho con Bần biết đi xe đạp. Đạp chiếc xe đạp con Bần sướng rơn, coi sang trọng quá, đâu phải giống như con ở nữa. Nhưng biết đi xe đạp rồi, cậu Thanh sai suốt ngày, đi mua thuốc lá, đi bỏ thư, đi trả sách nhà bạn cậu. Lúc này nhà vắng người, cậu chủ muốn nói chuyện cũng chỉ nói chuyện với con Bần. Riết, có chuyện gì khẩn cấp cậu cũng nhờ Bần lọ Bữa nọ, cậu Thanh biểu:
- Bần, mi đưa cái thư tới nhà cô Trâm dùm tao chút được không?
Con Bần được ra khỏi nhà là mừng rồi. Nó hăng hái:
- Dạ được, cậu.
- Mi đừng vô nhà, nhà đó chó dữ lắm. Mi đứng đầu đường, chờ lúc cô nớ đi học, mi đưa thư là được.
- Tui nói mần răng?
- Nói của cậu Thanh là không có chuyện chi hết.
Vậy ra, cậu Thanh vợ đã đi hỏi mà còn trai gái. Mấy lần như vậy rồi, họ hẹn hò gặp nhau. Con Bần cũng lấy làm vui vì chứng kiến hai người, người nào cũng đẹp, xứng đôi vừa lứa lắm. Cậu chủ, bớt coi rẻ rúng con ở, vì lúc này, Bần cũng trổ mã, đẹp ra, mặc dù thân hình gầy nhom, nhưng cặp mắt đẹp lạ lùng. Cô Trâm còn phải khen:
- Con ở nhà anh có cặp mắt đẹp quá. Coi chừng anh...
Cô cười rúc rích. Thanh nghiêm mặt:
- Đẹp cũng là con ở. Em nói chi lạ rứa!
Lại trong nhà gì đẹp bằng sen, cô Trâm nhắc và cười khúc khích.
Bữa đó con Bần tủi thân lắm. Nó khóc một đêm sưng cả mắt. Sáng ra, cậu chủ nhăn mặt:
- Coi tề. Mi cứ ở nhớp nhúa, coi, hai cục ghèn dính nơi mắt tề...
Con Bần đưa vạt áo lau. Nước mắt nó lại muốn trào ra. Nó buồn cả tháng không hết.
Chuyện của cậu chủ, dù kín đến mấy cũng có lúc hở ra. Ba má cô Trâm tới tận nhà nói chuyện với ông bà chủ. Vậy là cậu chủ thất tình, những lúc không có ai, cậu chủ say mèm. Con Bần thương cậu chủ quá mà không biết làm sao cho cậu chủ bớt buồn. Nhiều bữa, thấy cậu ngồi trong phòng, nó gõ cửa. Cậu không mở mà còn đuổi đi. Cho tới chỉ còn một tháng nữa là đám cưới, cậu nhờ con Bần đi đưa thư nhưng con Bần không gặp được cô Trâm. Bữa đó, cậu uống rượu say mềm người. Nhà lại vắng, con Bần phải pha nước chanh đem vô cho cậu chủ.
- Cậu uống nước chanh cho giã rượu.
- Tao không muốn giã rượu chi hết. Mi đi kiếm cô Trâm về cho tau.
Cậu chủ lè nhè. Con Bần trố mắt nhìn. Cậu chủ cũng nhìn lại nó, rồi nó thấy mặt cậu chủ đỏ như trái lựu chín. Cậu vẫy:
- Bần, mi lại đây tao biểu.
Nửa muốn bỏ chạy, nửa lại muốn bước tới. Con Bần không biết trong bụng nó nghĩ ra làm sao nữa.
- Mắt mi đẹp rứa thê, Bần.
Cậu chủ ôm con Bần trong tay:
- Đúng. Nói đúng, mắt mi đẹp chi lạ.
Cậu cúi hôn thật nhẹ vào đôi mắt con Bần. Lần đầu tiên con Bần ngửi được hơi hướm đàn ông, nhất là cậu chủ, nó đã nhiều lần nhìn lén cậu tắm, cậu thay quần áo.
- Hun một cái nữa hí.
Cậu chủ đưa cái môi từ mắt xuống má, rồi từ má gắn qua miệng. Con Bần choáng váng, hết biết.
Rồi tay cậu mở từng khuy nút áo của con Bần ra. Bàn tay cậu điệu nghệ quá, đã có lần, con Bần leo lên cái thành tường ngoài cửa sổ, ngó vô phòng cậu, thấy cậu làm như vầy với cô Trâm, con Bần chết trân, mấy đêm sau không ngủ được. Giờ đây, chính cậu chủ đang làm với nó điều đó. Con Bần để yên.
Lần đó, lần tới và nhiều lần nữa, con Bần lén vô phòng cậu chủ. Còn không, cậu chủ cũng lén xuống bếp. Nó ngủ dưới bếp thì khua lắc khuya lơ, cậu chủ cũng mò xuống.
Năm đó ông bà chủ ăn Tết lớn. Nhà cửa được quét vôi mới, các màn cửa được thay lại hết. Vừa ăn Tết vừa chuẩn bị cho đám cưới cậu Thanh qua giêng. Con Bần cực khổ không còn chỗ than van. Thôi thì mua sắm, làm bánh mứt, lại vườn sau sân trước, ngày nào cũng phải quét dọn sạch sẽ. Bà chủ để ý từng li từng tí, trong góc vườn kiểm lại còn một vài lá khô là con Bần cũng bị lôi ra chửi. Chưa hết, sáng sớm tinh mơ không giặt giụa quần áo thì cũng phải đi gính nước. Bọn con gái đi ở quanh xóm thấy con Bần cực quá cũng phải bất bình:
- Không ở nhà ni thì ở nhà khác, sợ chi hè. Bắt con người ta làm việc hơn trâu nữa Đứa khác quá quắt hơn:
- Tụi bây đừng chọc vô tổ ong vè vẻ nghe. Trong nhà có cậu chủ đẹp trai rứa, tau, tau cũng ở không công nữa Con Bần không ham tranh cãi với chúng bạn. Nó chỉ lo làm sao gính cho nhanh để đầy lu trong bể ngoài. Làm việc quá đến nổi tối name vật xuống là nó ngủ như chết. Với lại bà chủ thức khuya làm bánh mứt, cậu chủ cũng không dám luông tuồng, sợ bể.
Mùng một Tết năm đó lần đầu tiên trong đời con Bần có được bộ quần áo mới. Ông chủ đã phải nói khó lắm bà chủ mới bằng lòng.
- Chó khôn đẹp mặt chủ nhà. Nó lớn rồi, năm nay khách khứa đông, bà cũng nên may cho nó một bộ đồ để coi cho được. Quần áo của nó rách rưới quá.
Bộ đồ bằng vải bông đối với con Bần là một vật vô cùng quí báu. Tuy vậy ba ngày Tết nó cũng không có thì giờ để ngắm nghía coi mình mặc đồ mới ra sao nữa. Con Bần đâu, pha trà. Con Bần đâu, tét bánh, con Bần đâu, lấy khay trầu ra têm. Chưa xong việc này con Bần đã bắt tay qua việc khác. Rồi rửa dọn, bữa nào con Bần làm xong thì trời cũng vừa hửng sáng.
Cho tới trưa mùng bốn, ông bà chủ đi chùa. Trong nhà cũng đi vắng hết. Con Bần dọn dẹp xong, mới đi ra vườn cầm cây chổi định quét mớ lá đem vào để dành nhúm lửa. Nó thấy lu nước nên dựng cây chổi ở một gốc cây rồi tới lu nước soi cái mặt mình coi. Lu nước trong veo, lợn lợn mấy con loăng quang nhào lên nhào xuống nhưng không làm rung động mặt nước. Con Bần còn nhìn thấy một mảnh trời và mấy cành lá in trong đáy lu nữa. Rồi nó nhìn thấy cái mặt của nó, nhìn thấy bộ đồ vải bông. Bộ áo quần đẹp quá, mua ở chợ mà mặc vừa khít. Nhưng coi mặt mũi nó tiều tụy quá chừng. Nó bèn lén lấy trong túi áo ra một miếng giấy màu đỏ xé từ một bao nhang để dành. Nó dấp nước, thoa nhẹ lên hai gò má, rồi xếp đôi một phần còn nguyên khác, cắn lên môi. Có vậy thôi mà khi soi lại trong lu, khuôn mặt con Bần đã thay đổi hẳn. Làm như hai con mắt nó đen hơn, long lanh, tình tứ hơn.
Nó giật mình khi thấy có hai cánh tay ôm qua người nó. Định thần lại thì ra cậu chủ. Nhìn vô lu nước, khuôn mặt cậu chủ bên cạnh khuôn mặt nó, cả hai cùng đẹp quá. Rồi chính cậu chủ làm tan cái hình ảnh quá đẹp đó đi. Cậu day cái mặt nó lại và siết chặt con Bần vào người cậu.
- Cậu ơi, đừng... đừng, cậu thả tui ra.
- Không thả. Bữa nay mày đẹp thiệt nghe. Đẹp ghê hè.
Một tay giữ vòng ôm, một tay cậu tốc cái áo con Bần lên.
- Cậu..đừng. Lỡ ai thấy....
- Không ai thấy mô. Tau nhớ mi quá. Thiệt, tau nhớ bất chết.
Cái quần của con Bần bị kéo trụt xuống. Nó cố vùng vẫy, dùng cả hai tay giữ lại.
- Cậu...đừng mà. Ai thấy là chết con, cậu....
Nó sửa lại quần áo cầm cáu chổi lên.
- Để tui mầm việc, cậu.. - Mận. Từ nay mày là Mận chớ không phải con Bần nghe. Con Bần nhà quê lắm, còn con Mận khác...
- Khác ra răng, cậu?
- Khác ri nì...
Cậu chủ giựt cái chổi vất xuống đất, ôm chặt con Bần, cái áo của con Bần lại bị tốc lên.
- Như ri mới là Mận. Mận nì. Nói thiệt, tau thương mi....Tao thương Mận nì...
Lúc bị đè nằm xuống đống lá, cái đầu con Bần còn đè lên cái chổi quét sân. Tay nó nắm chặt một mớ lá khô và nó thấy cái mặt cậu chủ đỏ rừ. Trong miệng cậu, mùi rượu xông ra. Thì ra, cậu đã uống rượu.
- Cậu đừng nói láo với tui mà tôi.
- Không, tau nói thiệt. Mi đẹp, mi mới đẹp nhứt.
Cậu chủ bỗng trở lại nhẹ nhàng. Cậu hôn lên đôi mắt của con Bần:
- Mận, em có đôi mắt đẹp nhứt, biết không?
Con Bần bị cành khô, đá sỏi châm vào mông vào lưng đau rát, nhưng trong lòng lại vô cùng thích thú, nó quên cả thân phận con ở của mình. Lần đầu tiên nó nghe tiếng em từ miệng cậu chủ gọi nó.
- Cậu à. Cậu đừng bỏ tui nghe. Tui.. Đang trìu mến, mơn trớn, cậu chủ bỗng thở dài:
- Tiếc mi là con ở, nếu không... Bần à...Mận, mày đừng cho ai biết chuyện này nghe. Tao..tao phải lấy vợ.
- Sao cậu không thương cô nớ mà cậu lấy. - Tao không biết.
- Cậu ngồi đây một chút nữa được không?
- Được.
- Mai mốt ông bà biết được chắc giết chết tui. Tui sợ lắm cậu ơi.
- Mày không nói, tao không nói, ai biết. Đừng sợ.
- Dạ.
Con Bần ngoan ngoãn. Cậu chủ đỡ nó lên.
- Tao vô nhà trước. Mày coi sửa lại tóc tai mới vộ Họ sắp về tới rồi.
- Cậu Thanh.
Con Bần kêu lên, vừa sung sướng vừa sợ hãi. Rồi nó đút cả bàn tay vô miệng để đừng bật ra tiếng kêu nữa. Cậu chủ không quay lại, đi một mạch.
Còn lại một mình, con Bần đứng lặng người một lúc rồi tới bên lu nước. Nó lại soi mặt mình. Nhưng không có khuôn mặt cậu chủ kề cận một bên nữa. Nếu không còn những cảm giác đau đớn trên thân thể thì nó nghĩ chuyện vừa rồi là nằm mơ thôi. Nó nhìn một lúc lâu khuôn mặt lẻ loi của nó, rồi nó giận giữ vọc tay vào lu nước. Cái mặt của nó tan ra theo từng lằn nước chưa kịp tụ lại thì nó đã đập tiếp. Đập cho nát mày ra, đập cho nát. Nó khóc một mình rồi ngồi xuống trên cái chổi.
- Bần. Bần. Cái con quỷ sứ đâu rồi, há, con tinh le le đi đâu rồi!
Nghe tiếng bà chủ, con Bần lật đật chạy vô.
- Mi làm cái chi mà áo quần tóc tai....Mi chui ở bụi mô ra rứa há con yêu bánh nậm...
Con Bần cúi đầu.
- Mi đã cơm nước cho cậu chưa, cái mặt rượng cả ngày, thấy cái mặt là muốn đạp cho một cái rồi. Cậu mô?
- Dạ cậu ngủ.
- Ngủ thì cũng thức cậu dậy biểu cậu ăn. Con ni vô hậu tế đợi rứa.
Cánh cửa phòng mở. Cậu chủ đi ra, không hề ngó tới con Bần:
- Chi mà ồn rứa mạ. Con ngủ, có dặn không được đánh thức...Ăn chi mà ăn cả ngày, mạ lo chi mà lo dữ...
Hai bàn tay cậu chủ bẻ lắc cắc. Tội nghiệp con Bần, nó đứng run rẩy trước mặt bà chủ. Hai bàn tay cậu chủ bẻ lắc cắc mà như đang luồng trong người nó.
- Cút xuống bếp mần việc đi, còn đứng trơ đó, con hà bá.
Con Bần chờ dợi làm sao một ánh mắt nhìn của cậu chủ mà không có.
Cho tới ngày cưới thì con Bần không còn một lần nào được cậu chủ đoái hoài... Mợ chủ, con nhà giàu, hách dịch lắm, hở mở miệng là mắng nhiếc:
- Cái con ở nhà anh mất dạy chi lạ, thấy nó là em nổi ma rồi...
- Đứa ở mà em chấp mần chi. Kệ nó.
- Thấy cái mặt ngó không sửa. Vừa nhớp vừa ngu như bò.
- Rứa nó mới làm con ở.
Câu chửi độc của mợ chủ không làm con Bần buồn, mà câu trả lời của cậu chủ làm con Bần đau điếng. Vậy mà mới đây thôi, trước ngày cưới, cậu chủ đã gọi nó là Mận. Em Mận. Con Mận khác với con Bần mà, chính miệng cậu chủ đã nói, từ nay, đối với cậu chủ nó là con Mận. Không Bần nữa đâu được. Nó vẫn chỉ là đứa ở. Một bữa, lên nhà trên chỉ mình cậu chủ, nó làm gan tới gần, gọi:
- Cậu chủ.
- Mi...thôi xuống dưới đi. Mau lên..Mi...
Đôi mắt cậu chủ ngó dớn dác. Con Bần lầm lũi quay lưng. Đêm nào nước mắt của nó cũng chảy ướt cả gối. Nó thề là sẽ quean cậu chủ, con người lòng lang dạ sói, có mới nới cũ. Từ ngày cưới vợ về, cậu chưa hề một lần ngó ngàng hay táy máy tới con Bần. Nhiều bữa nhà vắng, mợ chủ về nhà mẹ, con Bần trốn việc ra sau vườn, đứng bên lu nước, hy vọng cậu chủ ngang qua. Nhưng không có thêm một lần nào nữa. Nó lại tự hứa trong lòng, sẽ cố quên.
Con Bần cũng sẽ quên được thôi, nếu tháng sau, nó không cảm thấy khó chịu trong người. Một buổi sáng, đang giặt áo ở bến sông, nó nôn thốc nôn tháo. Không phải ăn trúng độc gì, mà tiếp theo những ngày sau đó, cứ thấy mùi cá kho là bụng nó cồn cào, nôn nao và ụa mữa. Con Bần biết là đã có mang với cậu chủ.
Nó sợ lắm. Mỗi ngày ra gính nước giếng, nó gặp nhiều con ở khác, kể nhiều chuyện. Con Cau, cũng bị Ông chủ làm có mang, bà chủ đánh đập quá, chịu không thấu đã thắt cổ tự tử trong nhà bếp. Con Mực không biết chửa hoang với ai, bị chủ nhà đuổi ra đường, vác cái bụng đi ăn mày, mùa đông, chết cóng trước cửa nhà người ta...Nó lo sợ và chờ những giờ giếng nước vắng hoặc ít người, nó mới ra thả gàu kéo nước. Múc nước lên mà nước mắt của nó rơi tong tong xuống giếng.
Chuyện con Bần có mang không dấu được lâu. Một buổi sáng, đang làm việc, con Bần phải chạy ra góc vườn để ụa mửa thì mợ chủ thấy. Không phải tình cờ gì đâu, mà mợ chủ đã nghi ngờ, để ý. Tối đó, cả nhà ngồi lại, kêu con Bần ra. Bà chủ lên tiếng.
- Bần. Mày có mang phải không?
- Con...
Con Bần run rẩy, hai đầu gối như muốn quỵ xuống.
- Khun hồn thì đừng có chối. Mi có mang với ai? Con Bần cắn răng lại. Nói là của cậu chủ, ai tin. Nó nghĩ tới những trận đòn thừa sống thiếu chết, nghĩ tới hình ảnh con Cau thắt cổ trên xà nhà...
- Có phải mi lẹo tẹo với thằng Mương bên nhà hàng xóm khôn, hí?
Thằng Mương cũng ở đợ. Nhà hàng xóm làm bún, phải mướn một thằng trai trẻ có sức để xay bột bằng cối đá. Con Bần rất sợ thằng này vì thằng này hoang lắm. Có lần, thấy con Bần, nó đứng bên hàng rào tuột quần ra, con Bần chạy bán sống bán chết. Mấy con ở trong xóm đều sợ thằng Mương này, có mấy con ba đá ngựa thượng tứ mới lẹo tẹo với nó.
- Dạ không phải cô chủ nờ. Con...
- Hừ, chỉ có cái thằng đó bạ mô xâu đó, mi mới thích xâu, mới chình ình cái bụng ra....
- Oan cho con, cô ơi.
- Vậy đứa mộ Đứa mô. Không noái tau đập cho chết.
Con Bần bị đến mấy trận đòn. Nó vẫn cắn răng. Sau, bà chủ đem cột nó ngoài vườn, lột áo cho dầm sương đêm. Cả người nó roi lằn ngang lằn dọc, đau đớn như bị lóc thịt xẻ da. Chỗ nó bị trói là góc vườn bên này, đối diện bên kia là lu nước mưa. Nó nhớ như in khuôn mặt của nó, của cậu chủ soi trong đó. Lu nước trong vắt với những con lăng quăng vùng vẫy mà không hề gợn được một lằn sóng nhỏ. Nó cũng vậy, còn yếu hơn con lăng quăng nữa.
Đã vậy mà đâu có yên, mợ chủ đa nghi, nửa đêm, ra vườn cầm đầu tóc con Bần xoáy trong tay, giựt mạnh.
- Mi phải khai ra, không tao giết chết. Mi ngủ với ai? - Dạ không biết.
- Con ngựa thương tứ. Mi ngủ với ai lại không biết. Không biết tao đập cho mi biết.
Mợ chủ, nhìn khuôn mặt đã thấy ác rồi. Khi cơn giận lên tới đầu, mợ chủ dữ như cọp. Giật tóc, tát vào mặt, lột quần con Bần ra rồi bôi đường bôi mỡ lên người con Bần.
- Cho muỗi nó cắn, cho kiến nó bu, đồ nặc nô.
Ông chủ, lòng nhơn từ hơn, sáng, ông dậy sớm, lén đem nắm cơm nguội cho con Bần ăn, dỗ dành:
- Con noái đại đi. Đứa mô mần con có mang con cứ khai ra, sợ chị Chơ con giữ trong bụng, bà chủ với mợ Thanh đánh chết con.
Con Bần khóc:
- Con noái thì mợ với bà chủ cũng đánh chết con.
- Răng đánh. Nói đứa mô rồi ông tính cho, bắt nó lấy mi.
Thấy con Bần cắn răng làm thinh, ông dỗ:
- Nói đi con. Nói đi, ông biết đứa mô là ông bắt nó cưới, ông cho tiền để nó cưới, chớ con mần thinh rứa là con sẽ khổ cho coi. Nói đi con.
- Con không nói được ông ơi. Con...thà con cắn lưỡi con chết.
Ông chủ thở dài bỏ đi. Con Bần bị cột ngoài vườn, trần truồng cho muỗi đốt và kiến cắn tới ngày thứ ba thì kiệt sức. Nửa đêm mắt nó nhìn lên trời, cả ngàn sao nhấp nháy mà nó chỉ thấy những lằn chớp xẹt qua sẹt lai. Lúc nó sắp ngất đi, gục mặt xuống thì có một bàn tay nâng mặt nó dậy, có người cho nó uống nước. Trong lúc mơ mơ màng màng, thần quách tá hỏa, nó cũng nhận ra khuôn mặt cậu chủ. Đầu nó lóe lên mấy tia sáng, nhưng rồi tắt ngúm liền. Nó rên:
- Cậu chủ ơi, tui chắc chết, không chịu thấu quá.
- Đừng noái nghe. Bần, mi đừng noái.
Con Bần đưa tay lên, muốn níu nhưng không đụng ai. Giọng cậu chủ.
- Họ đang sắc thuốc trục thai, bữa mơi bắt mi uống. Mi uống không?
- Không, cậu ơi. Không, cậu. Con của cậu mà. Cậu Thanh.
Bàn tay của nó đã được cậu chủ nắm.
- Suỵt, mi đừng noái lớn rứa. Tau trốn ra đây một chút thôi chớ không mợ mi nghi là mệt lắm. Mi không muốn trục đứa con.
Đang muốn ngất đi vì kiệt lực, con Bần cảm thấy hơi ấm từ tay cậu chủ đang dồn qua người nó, nó tỉnh dần.
- Không, cậu. Tui thương cậu. Tui thương cậu lắm.
Nước mắt nó chảy ràn rụa trên mặt như mưa ướt. Không thấy cậu chủ nói gì thêm. Con Bần nhìn lên trời, nó đã nhìn thấy rõ những choom sao rồi. Nó còn ngửi thấy mùi thơm của hoa nhài, hoa bưởi trong vườn nựa.
- Nếu cậu không muốn tui giữ con, cậu giết tui đi. Nì, cậu giết tui đi.
- Bần, lỡ rồi, thiệt tao mô muốn rứa, mi đừng trách tao...
- Tui mô có trách chi cậu. Cậu ơi, nhưng thà cậu giết tui đi. Thà cậu giết chớ đừng để người ta giết tui, tui hận lắm.
Nó nhắm mắt lại, chờ coi người đàn ông này làm sao để giết mình. Nó chỉ nghe một tiếng thở dài và giọng cậu chủ run run.
- Bần. Mi đừng tên Bần nữa. Mi đổi tên là Mận cho đỡ khổ nghe. Tao... tao có thương mi cách mấy cũng chịu. vậy...
Cậu chủ ngừng lại nuốt nước miếng mới nói tiếp:
- Vậy mi đi trốn đi rồi đẻ con. Tau có cặp xuyến cho mi...
- Thôi cậu ơi, ở mô mà cậu có đôi xuyến. Cậu ăn cắp của mợ phải không? Thôi, cậu ơi....
Con Bần khóc. Đây mới là giọt nước mắt thực tình thương cho cậu chủ và thương cho nó.
- Của ai mi không cần biết. Mi cầm và nhớ trốn đi càng xa càng tốt. Mi...
Con Bần nức nở:
- Con cậu thiệt cậu ơi.
- Tau biết. Nhưng tau chịu rồi. Tau thua gia đình rồi. Mai, họ bắt mi uống thuốc trục thai.. Con Bần ngước mắt nhìn cậu chủ. Đôi mắt nó vẫn còn đen láy, còn đẹp. Cậu chủ thấy nhói trong lòng khi cúi sát xuống nhìn đôi mắt của con Bần vẫn chưa hiểu gì cuộc đời.
- Cậu nói thiệt cho tui biết, cậu có thương tui không?
Có? Không? Lẫn lộn trong lòng cậu thanh niên Huế. Cậu cắn môi, gỡ trói cho con ở và bảo:
- Đi đi. Bần.
- Cậu chủ...
- Đi đi mà. Đi.
- Cậu ơi.
- Dặn nì. Đừng nói ra. Chết cũng không nói nghe chưa?
- Dạ.
Đôi mắt con Bần nhìn thấy tội làm sao. Cậu chủ không dám nhìn thẳng nữa.
- Cậu, cậu cho tui miếng nước. Miếng nước trong lu đằng nớ đó cậu. Bữa đó... cậu.. Cậu chủ hiểu con Bần định nói gì. Cậu đi lại cái lu nước, có cái gáo dừa móc trên một gốc cây. Cậu lấy xuống vục vô lu lấy đầy moat gáo rồi đem tới cho con Bần.
- Cám ơn cậu.
Nó uống một hơi cạn queo rồi vất cái gáo xuống đất. Giọng cậu chủ run run:
- Mận, mi đi đi. Khôn khéo trong nhà họ biết, Mận...
- Cậu...
Cậu chủ xoay lưng đi vào. Con Bần đứng nhìn theo. Bóng cậu chủ khuất. Con Bần cắn môi rồi bật khóc. Nó vừa khóc vừa chui qua cái lỗ hàng rào mà mới đây thôi, cậu chủ hay chui qua để đi hẹn với người yêu của cậu.
Tờ mờ sáng, chính mợ chủ là người xuống bếp sớm nhứt. Mợ chủ chăm chỉ sắc thuốc cho con ở uống. Linh tính người đàn bà cho biết là điều mình nghi ngờ chắc chắn không sai. Trong nhà, ai cũng tra khảo, đánh đập con ở, duy chỉ có Thanh là hoàn toàn im lặng. Mợ đã hỏi dò:
- Anh có nghi nó với ai không?
- Anh mần răng biết được.
- Em.. hừ, trong nhà này có hai người đàn ông...
Mợ chủ định nói hai người là chồng, là bố chồng nhưng kịp dừng lại. Cậu chủ hiểu, nhíu mày:
- Em ăn noái chi lạ rứa!
- Em...
- Hừ.
Cậu chủ quay lưng.
Thang thuốc sắc cũng phải mấy tiếng đồng hồ. Mợ chủ cẩn thận, chi li như vậy vì sợ thuốc sắc không đúng phân lượng uống vô không hiệu quả. Thôi thì ai nói chi thì nói, sư tử hà đông cũng được, ác nhơn ác đức cũng được. Không bịt cái mối họa này thì mối họa khác còn lớn hơn, tiếng tăm còn nhục nhãÕ hơn. Mợ chủ nhẫn nhục để lửa liu riu chờ.
Đến sáng, khi chén thuốc sắc xong, ra vườn thì không thấy con Bần đâu nữa. Ông chủ thở phào nhẹ nhõm cả người. Mợ chủ cầm chén thuốc chạy quanh nhà.
- Mần răng chừ. Nó bỏ trốn rồi.
Mợ chủ gọi cha chồng, mạ chồng, bù lu bù loa:
- Chắc có người mở trói cho nó chớ thắt nút kỹ lắm.
Mần răng chừ đây?
Bà chủ:
- Đừng để cho nó thoát.
Phải làm một cái gì để chặn lại. Mợ chủ quay quắt:
- Phải đuổi theo, tìm cho được nó.
Ông chủ chắp tay sau lưng, ngó đứa con trai đang thập thò ở cửa buồng, lắc đầu.
- Nó đi xa rôi. Biết mô mà tìm.
- Rồi mần răng. Bộ dứng trợn mắt mà ngó?
- Rứa không ngó, bà đi kiếm bắt đi.
Ông chủ chắp tay sau lưng, ngó mông lung ra cửa. Mợ chủ đi vô buồng lục tung tủ tìm mớ nữ trang. Thấy không mất gì, mợ chủ nhìn chồng:
- Răng anh đứng chết trân rưa.
Thanh mở lớn mắt ngó vợ:
- Rứa chừ anh biết mần chi chừ.
Đôi mắt người thanh niên ngây thợ.. vô số tội. Đôi mắt đã quá hiểu về cuộc đơi. Người vợ dí tay vào trán chồng.
- Anh hí, gớm lắm. Không phải tui nghi tầm bậy tầm bạ chi....
- Rứa em nghi ai? Tui hay bọ?
Người vợ cứng họng. Rồi không biết làm gì cho hả cơn giận, mợ chủ đi ra vườn cầm cái dao phay, phạt gãy phăng mấy cây chuối non. Mợ chủ biết, ít nhất, mợ cũng phải thay thế con ở dăm bữa nửa tháng xắt chuối cho heo ăn, chờ tìm nuôi một con ở mới.
Chiều hôm đó, bà chủ nói với ông chủ.
- Tui mất một đôi xuyến. Chắc...
Ông chủ trầm ngâm:
- Thôi được rôi. Để tui mua lại cho bà.
- Ông nghi ai?
- Vô lẽ bà nghi tui?
Họ ngồi vào bàn cơm. Cô con dâu mặt chằm vằm một đống, còn đứa con trai thì cúi đầu ăn, và lấy và để, không thấy nhai mà chỉ thấy nuốt.
- Mạ có mất chi không mạ?
Cô con dâu hỏi. Bà chủ bắt gặp cặp mắt của chồng nhìn, bà nói:
- Không. Không mất chi cả.
Cậu chủ ngừng ăn, lấy muỗng chan canh đầy bát, lúc đó, cậu mới ăn thong thả trở lại.
Ba mươi năm tám năm sau họ gặp nhau tại Mỹ.
Mùa Xuân năm đó, ông Thanh từ tiểu bang Minesotta bay về San José. Một phần ông muốn gặp lại bạn bè cũ, một phần muốn trốn băng giá. Ông đi một mình, người vợ tưởng ở với ông suốt đời, ông cũng đã chôn hai năm về trước. Hai vợ chồng không có con cái, họ sẽ không bỏ Huế nếu không có cộng sản xâm chiếm.
Đến San José, ông Thanh tìm gặp một gia đình bạn cũ, cũng người Huế. Siết bao vui mừng, chuyện mới, chuyện cũ gợi hoài không hết.
- Rồi anh có tính bước thêm một bước nữa không?
Người bạn hỏi ông Thanh.
- Ngót nghét sáu mươi rồi còn ngọ nguậy chi nữa, cụ.
Tiếng cụ không phải để chỉ tuổi tác. Tiếng cụ từ thủa còn học sinh, họ đã gọi nhau nghịch ngợm như vậy.
- Ở Mỹ khác rồi. Tám mươi người ta còn lấy vợ kìa.
Tụi này mới đi dự đám cưới chú rể bảy mươi tư, cô dâu bảy mốt. Đám cưới vui quá đáo để. Cô dâu thay ba bốn lượt áo mới, có nhảy đầm. Chú rể cô dâu dìu nhau lã lướt tango đàng hoàng nghe...
Chị vợ cười:
- Tối nay có buổi họp tất niên của một số bạn cũ, anh đi dự với bọn ni nghe. Chừ tự do rồi phải không? Nghe đồn hồi còn sống, chị bắt nạt anh lắm phải không?
Giọng Huế đậm đà, không pha trộn của vợ bạn làm Thanh nghĩ tới vợ. Trong cuộc sống, chị có khắt khe, ép buộc anh đủ điều, nhưng nghĩ cho cùng, chị vẫn không có gì lầm lỗi. Thương chồng, giữ chồng, lo cho chồng nên sợ mất chồng. Suốt mấy chục năm, Thanh chưa bao giờ đi đâu một mình mà không có vợ bên cạnh.
Tối hôm đó, Thanh ngồi cùng bàn với một cặp vợ chồng trẻ. So với ông Thanh là trẻ nhưng cũng ngót nghét trên ba mươi và dưới bốn chục. Người chồng còn dẫn theo một bà mẹ khó đoán được chính xác tuổi tác. Lúc mới gặp, ông Thanh ngờ ngợ, đôi mắt đen láy, tuy hai mí đã sụp và có nếp nhăn, nhưng hình như ông đã gặp đâu trong đời rồi. Không nhớ nỗi với mớ ký ức chằng chịt. Vì, mặc dù vợ canh rất kỹ, thỉnh thoảng ông vẫn có những mối tình vụng trộm, qua đường và không đi đến kết quả nào.
Sau khi bắt tay, ngồi xuống, người bạn giới thiệu:
- Đây là kiến trúc sư Thanh Mận, đây là chị Thanh Mận...
Người đàn ông trẻ tươi cười. Kìa nụ cười, sao làm ông Thanh chăm chú.
- Và đây là mẹ tôi.
Ông Thanh gật đầu chào người đàn bà đứng tuổi. Vợ người bạn nói:
- Anh Thanh Mận có hiếu lắm, lấy vợ rồi mà không rời mẹ một bước.
Người đàn ông trẻ hớn hở:
- Vâng. Tôi có một mẹ một con. Có được ngày hôm nay cũng là nhờ mẹ tôi....
Không hề có sự sắp đặt mà ngẫu nhiên thôi, Thanh ngồi cạnh người đàn bà rồi mới đến cặp vợ chồng bạn. Người đàn bà không thấy nói cười mà khuôn mặt nghiêm trang. Người bạn nói:
- Chị Thanh Bần đây thiệt là giỏi. Lớn tuổi rồi, qua Mỹ chị thành công hơn nhiều người trẻ. Hệ thống Bakery lớn nhất ở đây là do chị thành lập, nổi tiếng lắm.
Người con:
Thiệt đều do một tay mẹ tôi. Lớn tuổi rồi mà mẹ tôi hoạt động hăng lắm. Vợ tôi chỉ là thợ vịn...mẹ. Phải không em?
Người vợ có vẻ ít tuổi hơn chồng, cười tít mắt ngó mẹ chồng. Người mẹ cũng nhìn lại con dâu, nheo mắt. Ông Thanh giật mình ngớ người. Cặp mắt đen láy, tinh ánh với cái nháy nháy đó, ở đâu trong đầu ông, bật ra. Ông lại vừa nhìn thấy trên cổ tay gầy của bà Thanh Bần đeo một đôi xuyến méo mó, cũ kỹ.
Thanh Mận. Hai chữ không ăn khớp với nhau ghép thành một tên. Rồi Thanh Bần... Mận và Bần, hai cái tên của một con người năm xưa... Đôi xuyến mà bà đeo trong cổ tay, có phải là đôi xuyến năm xưa của người đàn ông trả tội.
Bàn tay của ông Thanh rung lên, không phải vì già yếu mà vì xúc động.
- Bà chi..... Chị là...
Khuôn mặt ngó thẳng, nghiêm nghị, lạnh lùng:
- Thưa ông, ông nói chi?
Giọng Huế, người xưa. Rõ ràng. Không lầm được... Ông Thanh nói khó ra lời:
- Thấy....thấy chi.....quen quá.
Người đàn bà vẫn giữ thái độ lịch sự mà xa cách:
- Thưa ông, có thể ông nhầm vì người giống người....
- Tôi là Huỳnh văn Thanh, chi...., chị là...
Nụ cười trên môi người đàn bà nhạt như nước ốc.
- Chắc là ông đã lầm, thưa ông. Từ nhỏ tới già, tôi chưa hề quen biết một người nào có tên đó.
Thanh ngượng ngùng. Cũng may, lúc đó có vài người bạn cũ nhận ra anh, réo gọi. Anh bị kéo tới bàn khác hàn huyên. Nhân cơ hội Thanh hỏi bạn hữu về người đàn bà tên Thanh Bần, họ nói:
- Chỉ biết bà Thanh Bần gốc Huế, vô Sài Gòn. Có thời bà giàu lắm, có cả chục căn phố cho thuệ Lúc di tản, nghe nói cũng đem theo được ít của cải nên lập nghiệp lại, thành công sớm. Kỳ thiệt, giàu có vậy mà tên Thanh Bần.
- Bà Bần có nhiều con cái không?
- Có chỉ một đứa. Một mà nên. Thằng cha có hiếu khiếp. Mẹ Thanh Bần, con trai lại Thanh Mận.
Lúc trở lại bàn, ba mẹ con vẫn còn ngồi đó. Nếu người đàn bà này là con Bần xưa thì đúng như truyện con bé Da Lừa đã đổi lốt. Người đàn bà này trông dáng dấp quí phái, ăn nói linh hoạt, cái áo da lừa là con Bần ngây dại, sợ sệt, ngu muội xưa đã bị ai đem đốt đi rồi. Ông Thanh bụng dạ thấp thỏm.
Người đàn ông trẻ đẩy cái dĩa thức ăn đã lấy phần sẳn về phía ông Thanh và mỉm cười. Ông Thanh lại giật mình. Ông nhớ lại, ông còn một tấm ảnh chụp năm ba mươi tám tuổi, tấm hình và người này y chang một khuôn mặt. Thanh nhìn người đàn bà. Ông dần dần nhận ra nhiều nét quen thuộc của con Bần, người ở nhà ông. Mấy chục năm qua, không phải là ông đã quên hẳn lầm lỗi thời còn trẻ. Ông vẫn thắc mắc không biết con Bần trôi dạt nơi đâu, sống chết như thế nào. Giọt máu đầu đời của ông, đứa con hoang của tội lỗi có lớn lên được thành người?.
Trước mặt ông là một người đàn bà trọng tuổi, nghiêm trang, quí phái, vậy cũng không thể nào lầm lẫn. Ông Thanh nhớ lại hồi nhỏ, khi ông thầy tử vi coi số cho, cho ông nhìn thấy con Bần đã buột miệng:
- Con này về sau ba mươi tuổi sẽ giàu có.
Nếu đúng như vậy thì Thanh Mận có thể là đứa con năm xưa của ông.Õ Và con Bần đã lột xác thành một bà chủ. Người đàn bà này còn hận ông bầm gan tím ruột, không muốn nhìn nhận ông nữa. Cũng phải thôi, khi xưa, Ông Thanh đâu dám nhìn nhận con Bần. Mặc dầu ông đã cứu Bần, cứu đứa con, nhưng ông đã xua đuổi họ ra khỏi cuộc đời của ông, không màng đến sống chết của họ. Bây giờ, bà Bần nói chuyện với ông Thanh còn hơn những người xa lạ.
- Năm Mậu Thân chị có ở Huế không?
- Dạ không. Có thì bị chôn sống rồi. Đời tôi bị chôn sống một lần mà không chết.
Giọng cay đắng quá. Ông Thanh tự rủa thầm mình, rồi nhát gan không dám hỏi tiếp nữa. Người đàn bà lặng thinh một hồi lâu, nói:
- Chắc anh không ở vùng nỉ
|
- Dạ thưa chị, tui ở tận Minesotta, xa lắm.
- Chị và các cháu cũng ở trên đó?
- Dạ không. Bà ấy chết cách đây hai năm rồi. Tụi này cũng không có con.
Đôi môi người đàn bà dãn ra mà không phải cười. Các nếp nhăn trên mặt cũng dãn ra một cách thoải mái. Người đàn bà này, nếu tuổi trên năm mươi, đúng là con Bần ở đợ năm xưa. Ông tính nhẫm, năm đó con Bần mười bảy tuổi, cọng ba tám năm thì đúng 55 tuổi.
- Xin lỗi, hồi ở Huế, chị Ở mổ
- Dạ cám ơn ông. Bị tui có hứa với mình là có chết cũng không được nói. Ông Thanh cảm thấy như mình đang bị điện giật. Lời đó được nhắc trong đầu ông: Có chết cũng đừng noái nghe Bần.
- Cậu..Cậu ơi.. Ông đã quay lưng đi vội vã, lúc đó suýt vấp phải lu nước mưa. Ở lu nước mưa đó, lần cuối cùng... Ông nhớ, ông đã tốc cái áo của con Bần lên và... Chuyện đó, đã qua ba mươi tám năm...
- Chi.....Nếu tôi đoán không lầm thì năm nay chị khoảng trên năm mươi, nhưng trông chị còn trẻ lắm.
Bà Thanh Bần, đúng là con Bần ở đợ năm xưa, đã tính gật đầu thì mối hận trong lòng sống dậy. Cũng may, nhờ lời đoán của ông thầy tử vi mà con Bần lãnh chịu bao nhiêu khổ đau, cũng cứ tin vào vận số và vươn lên. Kể cả đôi xuyến cậu chủ đưa, con Bần ngày xưa cũng không hề bán đi để xài trong lúc sanh đẻ. Đôi xuyến đeo trong cổ tay như đeo đôi vòng nhục nhã để nhắc nhở. Bởi vậy khi thành công, có cơ nghiệp, con Bần mời thầy về dạy học chữ, học sinh ngữ. Bà có thể thay đổi thành một người khác, nhưng mối hận tình xưa vẫn mang nặng trong lòng, và cái tên Thanh Bần không rời cuộc đời của bà nữa.
Người thanh niên tuấn tú, đẹp trai, con ông chủ không phải đã nói với con Bần xưa:
Đừng có noái. Có chết cũng không được noái ra nghẹ. Đến chết cũng không được nói, huống chi bà còn sống. Bà đứng dậy:
- Xin lỗi, tôi phải về.
Người con:
- Mẹ mệt rồi hả mẹ. Chúng con đưa mẹ về.
Bà cười, mắt không ngó ông Thanh nhưng cốt ý nói cho ông nghe:
- Tuổi già, ngồi lâu nhức mỏi cái lưng.
- Bác, Tết cháu mời bác tới nhà chơi. Mẹ cháu năm nào cũng nấu nướng. Bánh tét với dưa món của mẹ cháu ăn bứt hết dưa món ở đây.
- Năm nay mẹ làm biếng lắm, đâu có làm gì mà con dám mời khách.
Giọng nói nhạt nhẽo, thiệt vô tình, Một lối cấm cửa khách rất khéo.
Người đàn ông trẻ tuổi đưa tay cho Thanh bắt. Thanh nắm chặt bàn tay ấm áp, chắc nịch, thấy rất thân thuộc. Ông có cảm giác những mạch máu nhỏ li ti của người đàn ông trẻ đang đập cùng một nhịp với mạch máu trong lòng bàn tay ông. Mắt ông mờ đi như có một màng lệ mỏng che phủ. Rồi ông cũng buông tay ra và người đàn ông trẻ trung đi bên vợ, ôm vai mẹ dần ra khỏi cửa. Ông Thanh cảm thấy chân tay thừa thãi và chỉ còn biết nhìn theo cho tới lúc họ khuất dạng.
Trên xe trở về nhà, bà Thanh Bần ngồi băng ghế sau một mình. Qua chiếc kiếng chiếu hậu, bà nhìn thấy mớ tóc của bà cũng đã lẫn màu muối tiêu. Thời gian hình như cũng làm bạc màu hết kỷ niệm. Vậy mà gặp lại người xưa, giữa xứ lạ quê người, tim bà vẫn còn thổn thức.
Cậu chủ, người thanh niên đẹp trai năm xưa, nay cũng đã đứng tuổi. Bà đã cố gắng phấn đấu để dấu đi những lúc oán hận cũng như những lúc mềm lòng. Đôi mắt của ông Thanh, đã khác xưa nhiều quá, khi nhìn bà, bà thấy được sức chứa của ăn năn, hối hận.
Bà không biết nữa, giữ được hôm nay mà có giữ được ngày mai không? Mấy chục năm, người ta còn nhớ, vậy sao kỷ niệm mối tình hận của bà lại phai màu được!
Lúc xuống xe, đứng trong sân vườn bên hồ nước nhỏ chờ đứa con dâu mở cửa, bà lại nhớ tới khu vườn sau căn nhà cổ ở Huế. Lu nước mưa với cái gáo nước móc trên gốc cây bên cạnh. Gáo nước cậu chủ múc cho con Bần uống ngày nào, giờ đây nghĩ lại còn mát cả ruột gan. Và lu nước mưa, chẳng phải con Bần ngày xưa đã mơ ước được một lần nữa, soi hai khuôn mặt, mặt mình và mặt cậu chủ trong đó!
Trên đầu bà, một vừng trăng, một cơn gió. Phải, gió vừa lướt trên mặt bà, trên tóc bà, thổi tới một hơi xuân mát dịu.
Không có hạt bụi nào mà mắt bà bà xốn quá, rồi lệ ứa ra hai khóe mắt. Bà kín đáo đưa ngón tay lên quẹt, y như con Bần ngày xưa, khóc thầm và quẹt nước mắt bằng ngón tay trong góc bếp, bên lu nước hay khi trốn sau chuồng heo.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Apr/2011 lúc 2:43pm
Hương Cả Cọp
Tác Giả: Chu sa lan
Diễn đọc: Nam Phong
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=679376">
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=679376
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 25/Apr/2011 lúc 4:46am
đất lạnh tình nồng diễn đọc: Thanh Phương
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=152684 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 28/Apr/2011 lúc 4:12pm
Lòng Hối Cải
Người Nhựt Bản có kể một câu chuyện như sau:
Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ.
Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.
Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.
Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.
Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.
Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:
"Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi".
Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.
Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.
Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.
Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:
"Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?"
♦♦♦
Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói:
" Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ".
Nét đẹp quí phái nhất nơi lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình ảnh của sự phục thiện vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.
Nhưng bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được.
Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.
Tác giả Veritas
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/May/2011 lúc 6:59am
mùi hương thánh giá
tác giả: Trần Thu Miên do bạn Mercury sưu tầm
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=130055 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/May/2011 lúc 11:19pm
nhánh sông của biển tác giả: Quách Y Lành diễn đọc: Thanh Phương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=152690 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/May/2011 lúc 5:28am
em hiền như ma sơ tác giả: Vương Phan diễn đọc: Thanh Phương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=129647 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/May/2011 lúc 9:17pm
NGUYỆT HẠ
http://vnthuquan.net/user/cdq/truyen/Nguyet_Ha_A.wma - http://vnthuquan.net/user/cdq/truyen/Nguyet_Ha_B.wma -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Jun/2011 lúc 3:47am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=655006 -
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 05/Jun/2011 lúc 8:38pm
.
Những Chuyện Ngắn Hay
Bộ quần áo cũ Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội...ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm. Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nhẹ nhàng: -Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá. -Nhưng bố thích mặc bộ này! Tôi bắt đầu cau có: -Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê không chăm sóc bố. Ông già buồn rầu, lập lại: -Bố thích bộ quần áo này lắm. Tôi cũng cương quyết: -Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó. Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông minh mẫn như vậy: -Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó. Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ. Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, tôi nên xét lại trái tim mình đã.
Bệnh và Lười Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo. Tôi có la, nó ấp úng trả lời: -Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim. Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho được. Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt: -Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu. Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ. Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra. Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm: -Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích đó. Tui vỗ về: -Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm. Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa. Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày, uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức … Tình vợ chồng Chị thắc mắc: -Anh có còn thương em không? -Tại sao phải hỏi? -Từ ngày lấy nhau, mình hết thơ mộng, anh hết lãng mạn với em rồi. -Bận thấy mồ, còn lo cho con, nhưng anh chẳng thấy gì khác. -Em thấy khác! -Anh đi sửa cửa sổ đây. -Em ghét anh, anh giả bộ bận rộn. Trời bỗng đổ mưa, nước tạt vào nhà, may quá chồng chị vừa sửa xong cánh cửa.
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Jun/2011 lúc 8:58am
NGƯỠNG CỬA YÊU THƯƠNG
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=130063 -
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Jun/2011 lúc 12:01pm
Chuyện tình thời chinh chiến
Đầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn "Giòng Đời" trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc. "Giòng Đời" là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ. Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: "... Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay, ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam . Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được đọc bài "Giòng Đời" và sau đó, viết một bài chuyển ra ngoài với tên "Hồi Âm Giòng Đời"... Đây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước..." Bài "Hồi Âm Giòng Đời" đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.
GIÒNG ĐỜI... Duy Lạc.
Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Đó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách.
Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập "Luân Lý Giáo Khoa Thư" ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v... và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Đôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Đặng Thế Phong.v.v... đã thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi thanh niên. Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại. Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó. Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp "Đệ nhất niên" của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương Hộ.v.v... Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt.
Đã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Đôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một "message" ưng chịu kín đáo của thời đó.
Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư "Cô hàng xóm"
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn...
Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng "người Sàigòn" và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Đêm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc "Nhớ Chiến Khu", một bài ca tủ của tôi, "Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo..." Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho tôi. Rồi có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô cùng.
Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ "L'homme sans amour comme La Terre sans Lumière" mà tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng.
Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi. Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn...
Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư).
Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay biết.
Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi... Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Đức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh.
Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh "Đồn Lẻ Chiều Xuân" chú đã âm thầm bước thêm bước nữa để nếm mùi "một cảnh hai quê". Thật tội nghiệp!
Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sàigòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Đuợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm Đại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói: "Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị." Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: "Dạ vâng, tôi đoán thế." Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò: "Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?" "Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa." "Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?" Nga lắc đầu cười chua chát, "Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất là đối với anh ấy..."
Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga như "lội ngược giòng thời gian" tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối.
Hồi Âm "GIÒNG ĐỜI..." Nga Sàigòn.
Anh Duy thân mến,
Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Đặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt.... Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều... Cầm bằng như gió mang đi.
Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v... thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều... cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
- Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng
Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói:
- Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Đọc để xúc động vì "người ta" còn nhớ tới mình!
Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
- Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.
Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây rồi?!" Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến Khu". Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run ...vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, "mờ mịt" thì anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui quá" thành "vui góa". Và còn nhiều chữ độc đáo nữa...
Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là... Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy. Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:
- Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"!
Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.
Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý "người Sàigòn" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?
Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch" ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Giòng Đời", em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó.
Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!
Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!
Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặt biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Đó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.
Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy - con gái ông Xã Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Đằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!
Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biến nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cung sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.
Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!
Anh Duy yêu dấu, Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa! Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà "người ta" đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài "Giòng Đời" anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!"
Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Đa số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!
Khi miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa.. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?
Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
Đúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, "Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!" Đời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Đêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Đừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.
Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
Thân ái, Em gái anh, Nga
Tái bút: Để tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện. Em hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. Đọc thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ tâm tình của em.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Jun/2011 lúc 8:46am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=129645">
đường tình chưa dứt tác giả: Phùng Nhân diễn đọc: Thanh Phương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=129645
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Jun/2011 lúc 8:35am
ĐÀ LẠT TRỜI MƯA
Phạm Tín An Ninh
Hạt sương Khuya
http://music.forvn.com/show/455293.html -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Jul/2011 lúc 6:55am
HÀN MẶC TỬ
Bích Hà- Nguyễn Đình Khánh
http://music.forvn.com/show/447781.html -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Jul/2011 lúc 8:48am
thư gửi mẹ
tác giả: Thu Nga diễn đọc: Thanh Phương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=154235 -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Jul/2011 lúc 3:14pm
MÙA THU LÁ BAY
Quỳnh Dao
http://music.forvn.com/show/454926.html -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Jul/2011 lúc 7:43am
tình nghĩa
tác giả: Mộng Thu diễn đọc: Thanh Phương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=152688 - http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=152688
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 22/Jul/2011 lúc 9:25pm
MÀU HOA NGỌC LAN
Mầu Hoa Khế
|
Ở bên ngoài tiếng cô em nói vọng vào thật to " chị ơi có nhà không ? " , âm thanh xuyên qua cả cánh cửa sổ đang khép hờ .Đưa mắt nhìn ra khu vườn sau nhà , nhìn thấy cô em đang nhón gót ngắt cả nắm hoa ngọc lan thơm ngát trong tay . Tôi lẩm bẩm " con nhỏ này lần nào cũng bẻ bông của người ta " , tôi chạy vội ra sau vườn ngăn cản không thôi thì tội cho cho cây hoa ngọc lan của tôi chắc chẳng còn một bông hoa nào nữa . Tôi lớn tiếng : _ê sát thủ xin ngừng tay Nghe tiếng tôi thì cô em mới chịu ngừng lại , nhưng bàn tay còn có vẻ đầy luyến tiếc vì cây hoa ngọc lan của tôi thấp bé thế kia nhưng hoa lại nở thật nhiều . Màu hoa trắng ngà như màu sữa đã chen gần như hết màu lá xanh trên cây . Tôi bắt em gái mở tay ra nhìn những đóa hoa bị bứt ra khỏi cành mà thấy đau lòng làm sao . Tôi hăm he : _cái gì xin cũng điều chấp nhận , nhưng đừng hái hoa của chị Cô em trố mắt nói : _không hái thì hoa rụng hết uổng lắm Nhưng cô em đâu biết khi những xác hoa rụng xuống đất thì tôi đã cho vào nhiều cái túi bằng vải để cất giử trong phòng . Đứa em gái Út được mẹ tôi sanh ra khi tuổi của bà khá lớn , cho nên khoảng cách giữa tôi và em gái thật xa . Lúc em vừa chào đời thì tôi đã là một thiếu nữ của tuổi mười bảy . Tuổi vừa chớm biết rung động bởi hình bóng của một người và luôn cả màu sắc hương thơm của loài hoa ngọc lan . Cả hai cứ quyện chặt vào nhau , mãi mãi in đậm trong vùng ký ức được giấu kín trong tận cùng của trái tim . Cô em gái ra về , nhìn dáng thanh mảnh em đi cũng tóc mây xõa dài dịu dàng ôm kín bờ vai , tôi chợt thấy lại bóng dáng của chính mình ngày xưa đó khi trầm tư ngồi lại trong khu vườn với mùi thơm của hoa ngọc lan thoảng đưa trong gió bay ... ... Tôi từ Sài Gòn theo bà nội về thăm lại Huế sau hơn mười năm bỏ quê nhà ra đi . Thành phố Huế là nơi mà tuổi thơ của tôi thường hay đến chơi trong nhà của người cô . Đại gia đình của cô thật đông người , đôi khi tôi cũng bị lẫn vào giữa đám con cháu khi tuổi còn nhỏ , thật không biết phân biệt ra là con của ai ? . Nhưng lần này thì với cái nhìn đầu tiên của mấy ông anh họ , tôi thật sự đã có một dáng dấp riêng không lẫn vào ai được . Trong lần đi về miền biển vui chơi , tôi chỉ ngồi trên bãi cát dưới rặng thùy dương để mơ màng lắng nghe từng đợt sóng biển ào ạt tràn vào rồi nhẹ nhàng cuốn trở lại ra khơi . Ngoài kia tiếng cười nói của mọi người đang đùa giỡn với sóng nước , rộn rã lao xao dạt qua theo từng cơn gió thổi , âm thanh của đất trời du dương trầm bỗng đến độ làm cho cơn buồn ngủ kéo tới thật mau . Trong giấc ngủ tôi mơ hồ như có ai đang nhìn mình , theo giác quan nhạy bén tôi vụt bừng mở to mắt ra thì bắt gặp đôi mắt của anh đang nhìn tôi thật dịu dàng . Bị tôi bất ngờ bắt gặp , anh chớp mắt và quay mặt nhìn ra vùng biển đang xanh ngăn ngắt trong màu nắng chói chan tõa ra ánh sáng lóng lánh . Sau buổi đi chơi vùng biển tôi cũng chưa được biết tên của anh ,nghe họ gọi nhau bằng cái tên tự đặt để vui đùa mà thôi . Cho nên tôi chỉ biết anh là một trong những người bạn rất thân của mấy ông anh họ . Huế đang chuẩn bị cho ngày đại lễ Vu Lan của ngày rằm tháng bảy . Miền trung mưa nắng thất thường không ai đoán biết trước được nên mới vừa nắng chang chang , thế mà hôm đó tôi và cô chị họ đang chuẩn bị ủi áo dài lụa để ngày mai đến chùa Từ Hiếu lễ Phật thì cơn mưa bỗng ào ạt đổ xuống vào lúc nửa đêm , rồi cứ thế kéo dài ra cho đến sáng hôm sau . Cũng may là mưa bỗng nhỏ hạt chỉ còn như bụi bay . Hai chị em tôi đèo nhau trên xe gắn máy để đi đến chùa cho kịp giờ hành lễ . Chùa Từ Hiếu hôm đó con nhà phật tử kéo đến rất đông nhưng vẫn đi đứng trong sự trang nghiêm im lặng . Tôi tìm được một chỗ ngồi để nghe thầy thuyết pháp ở nơi một góc nhỏ , lòng đang thành tâm khấn nguyện chỉ xin bình an . Bỗng một giọng nói thật nhẹ bên tai : _ Từ An đang cầu xin chi rứa ? Tôi ngoái nhìn ra sau thì thấy anh đã ngồi sau lưng tôi tự lúc nào , quá bẻn lẻn tôi trả lời thật nhỏ _ An chỉ cầu xin được bình an thôi Thế là trong giờ thuyết pháp của thầy tôi chẳng nghe ra được gì cả , chỉ thấy má nóng rang hai tay lúng túng và cả con người như mất đi sự bình tĩnh khi biết anh ở sau lưng rất gần đến như cảm nhận được cả hơi thở của anh thật ấm . Cũng may chị họ tôi xuất hiện đúng lúc ra dấu cho tôi bước ra khỏi chánh điện . Chị nắm tay kéo tôi về phía cây hoa ngọc lan to cao cành lá rậm rạp trước sân chùa , những đóa hoa ngọc lan trãi đầy trên vuôn sân gạch đỏ còn đẩm ướt nước mưa suốt đêm qua . Tôi ngước nhìn lên cây màu hoa trắng mọc đầy chi chít , hoa cũng theo gió ngả rạp trên mái ngói màu cũ kỷ đóng bợn xanh rêu . Hoa ngọc lan như được thêu trên mái ngói đẹp tới ngẩn ngơ . Tôi bắt chước chị họ túm hai vạt áo lụa trắng cột lại với nhau , hai chị em vói tay , nhón gót chân vẫn không sao hái được một đóa hoa nào cả . Thì anh cứ luôn làm cho tôi thật bất ngờ . Chỉ cần một cái nhún người là anh đã nhảy tót lên cây rồi men theo cành cây anh nhảy qua thành tường vững vàng . Nơi đó hoa trắng trổ đầy trong lá xanh , anh cứ thế đưa tay hái lia lịa rồi quăng xuống bên dưới cho đầy cả vạt áo dài của hai đứa . Các chú tiểu chưa kịp xuất hiện để ngăn cấm ,thì anh đã nhảy xuống đất lẹ làng . Chúng tôi lúc đó vội vã kéo nhau đi ra khỏi chùa , không thôi thế nào cũng bị quở phạt về tội hái trộm hoa .
Anh vẫn thế , dáng điệu lúc nào cũng im lặng , có cười thì cũng chỉ mím môi .Anh to cao , có gương mặt thông minh đỉnh ngộ . Có bàn tay ngòi viết thuôn dài để gảy đàn guitar cho tôi nghe những tình khúc lãng mạn . Tình cảm cho nhau bằng ánh mắt nhìn và những hành động nuông chìu ân cần của anh . Suốt cả thời gian đó , Huế trong mắt tôi nhìn đẹp hơn thêm và thật nhiều bí ẩn lôi cuốn . Anh bạo dạn , bất chấp những ánh mắt chọc ghẹo tình nguyện chở tôi đi chơi khắp mọi nơi . Những nơi đến tôi đã biết khi còn bé , nhưng khi đi bên cạnh anh tôi cảm thấy lạ lùng và lòng chợt thấy bâng khuâng như cánh hoa tím dại giữa mênh mông đất trời. Cơn mưa Huế bỗng nhẹ nhàng rơi xuống khi chúng tôi đang đứng bên mái hiên của đền đài lăng tẩm cổ xưa .Khi anh đang kể cho tôi nghe câu chuyện tình buồn của Ngọc Hân Công Chúa . Anh giăng chiếc dù màu đen nhưng không còn kịp , đã để cho những hạt mưa lấm tấm trên mái tóc đen dài của tôi . Một tay cầm dù một tay đưa lên lau nhẹ trên mái tóc cho tôi , anh luống cuống để gió tạt chiếc dù bay ra khỏi bàn tay . Tôi và anh đứng trong cơn mưa chiều lất phất mà cảm xúc về câu chuyện tình dang dở giữa một nàng công chúa và một vị tướng quân vẫn còn đang váng vất . Mắt tôi long lanh , môi anh khờ dại . Và nụ hôn đầu ướt đẩm theo từng hạt mưa rơi giữa thành quách u buồn như điềm gở báo trước sẽ tái sinh lại một cuộc tình . Và tình yêu đó sẽ chết theo ngày tháng rêu phong ... Lần đầu tôi nhìn thấy đôi mắt anh đỏ hoe , ngấn nước mắt anh đã cố giử lại để đừng rơi xuống . Tôi với chiếc áo dài lụa màu xanh của hy vọng mong manh . Chúng tôi ngồi bên nhau trong dảy ghế chờ đợi nơi phi trường , vẫn nói với nhau bằng ánh mắt thầm kín giữa những người thân đưa tiễn tôi trở về lại Sài Gòn ...tôi đã gọi tên anh lần đầu tiên và đó cũng là lần sau cuối .
Đàn ông !... Nước mắt chảy trong lòng Không dâng lên khoé mằt Nhỏ vào tim quay quắt Chảy thầm lặng khoảng không Anh đứng đó lặng trông Chỉ cách một khoảng trống Giữa biển người xao động Như cách một dòng sông ... Trời trưa nắng rất nồng Phi trường dài mênh mông Không một cơn gió lộng Mà lạnh buốt mùa đông ... Em nhìn ra khung cửa Ánh mắt buồn rầu đưa Anh sầu lên vai áo Mắt lệ ứa như mưa Tình chỉ là chiếc lá Theo định mệnh cuốn xoay Tình chỉ là cơn say Của một ngày không đơị Bàn tay chừ chới với Tay ngày buồn trong tay Rã rời bàn tay vẫy Thế giới sầu là đây Nghẹn ngào em quay lưng Mắt anh buồn vô vọng Con tàu bay trên không Khoảng cách đời trống vắng... Có một người lẻ bóng Trong chiều nay ...chiều nay ... mhk ... Định mệnh của đất nước đã cuốn theo số phận của con người . Cuộc đời không êm trôi như dòng sông Hương khi anh cùng tôi ngồi trên con thuyền bé nhỏ để xuôi về Bến Ngự . Không ửng hồng như đóa sen nở muộn giữa hồ Tịnh Tâm . Không xôn xao như phố chợ Đông Ba . Mà sâu lắng như tiếng chuông Thiên Mụ vang vọng tiếng kinh buồn .Tất cả đã chìm sâu giữa cơn mưa chiều bên cổ mộ hoang liêu . Chỉ còn tôi vẫn giử mãi bên đời một mùi hương ngọc lan của mối tình đầu thơm ngát giữa hồn ...
Mầu Hoa Khế July 2011
|
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 15/Aug/2011 lúc 8:28am
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=676568 - - Nguyễn Ngọc Tư
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=676568 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 03/Nov/2011 lúc 3:56pm
Nửa Chừng Xuân-Khái Hưng http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1615&catid=196&page=1"> http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1615&catid=196&page=1 - http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1616&catid=196&page=1"> http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1616&catid=196&page=1 - http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1617&catid=196&page=1"> http://www.bayvn.com/forums/local_links.php?action=play&linkid=1617&catid=196&page=1 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
Print Page | Close Window
Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info
|
| | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | | |