Print Page | Close Window

THƠ TRẦN VĂN LƯƠNG

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Chuyện Linh Tinh
Forum Discription: Nói chuyện linh tinh về đủ mọi điều ...
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2180
Ngày in: 03/Feb/2025 lúc 11:45pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: THƠ TRẦN VĂN LƯƠNG
Người gởi: mykieu
Chủ đề: THƠ TRẦN VĂN LƯƠNG
Ngày gởi: 17/Dec/2009 lúc 8:46am

Được sự đồng ý của tác giả,
Xin gửi đến cả nhà bài thơ buồn "Bơ vơ cánh nhạn"

mk


Dạo:

Người theo cánh én xa bay,
Bơ vơ cánh nhạn chân mây gọi buồn.





   Bơ Vơ Cánh Nhạn

Nắng đọng úng trời xanh,
Chim chung cành bẽn lẽn,
Rụt rè câu ước hẹn,
Thèn thẹn lén nhìn nhau.

Trên lối mộng ngày sau,
Vụn mây sầu lảng vảng.
Tuổi xanh theo ngày tháng,
Lãng đãng lặng lờ qua.

Phượng trút mấy lần hoa,
Nhạt nhòa đôi bóng nhỏ.
Đường yêu vừa mới tỏ,
Đà bén ngõ phân ly.

Anh vướng bận mùa thi,
Em kiên trì ngóng đợi.
Trăng khuya dù diệu vợi,
Nẻo tối vẫn hoài mong.

Anh đỗ đạt vừa xong,
Một lòng lo du học.
Em đêm đêm trằn trọc,
Nhìn lá khóc mờ sương.

Tiễn anh đến phi trường,
Buồn thương lên gió bão.
Anh nhìn em áo não,
Khẽ bảo:  - Ráng chờ nhau!

Nhưng đất nước, ngờ đâu,
Ngập đầu trong kiếp nạn.
Dân vầy đoàn chạy loạn,
Nát bể cạn rừng sâu.

Từ đó mất tin nhau,
Gót em sầu lạc lõng,
Chốn quê nhà gượng sống,
Tuyệt vọng gắng chờ anh.
                 x
             x      x
Rồi tuế nguyệt qua nhanh,
Tay quen vành mắt ướt.
Sau bao năm nguyện ước,
Em đến được phương này.

Nào biết khổ chia tay,
Chẳng bằng ngày gặp lại.
Chuỗi tiền oan nghiệp trái,
Dằng dặc mãi không thôi.

Em đứng đó đơn côi,
Nhìn xuân vui cánh én.
Đau lòng em cố nén,
Lệ vẫn nghẹn ngào tuôn.

Em gom vụn tình buồn,
Nhém kẽ hồn nứt rạn.
Anh bên đời có bạn,
Em cánh nhạn bơ vơ.

    Trần Văn Lương
       Cali, 12/2009

:



-------------
mk



Trả lời:
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Dec/2009 lúc 5:06am
CryCryCryCryCryCry
 
huhuhuhuhuhu


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Jan/2010 lúc 4:30pm


Xin gửi thêm một bài thơ buồn của anh TRẦN VĂN LƯƠNG
mk



Dạo:
      Cuối đường nhung nhớ, ca dao vỡ,
      Tròn kiếp tang thương, uất hận chìm.




                Ca Dao Vỡ

       Con sông nhỏ bặt tiếng chèo,
Mây quay quắt nhớ, trăng leo lét chờ.
        Lá thu mất cội xa bờ,
Lênh đênh ngõ sớm, bơ vơ lối chiều.
       Ruộng còm cỏ áy đìu hiu,
Nương khuya hoa dại chắt chiu giọt buồn.
        Người ngồi đếm tuổi hoàng hôn,
Nào hay nắng chết trong hồn từ lâu.
        Hương xuân mấy độ phai màu,
Chăn đơn nhện vá, vách sầu đèn chong.
         Thời gian nặng gánh lưng còng,
Môi khô nhấp cạn sương đông mấy bầu.
        Qua rèm vội vã bóng câu,
Thân chim cằn cỗi, vóc Ngâu dạn dày.
        Nợ người chưa trả, thêm vay,
Ơn đời gánh mãi, vai gầy buốt đau.
        Giơ tay ngắt đọt rau sầu,
Thẫn thờ nhìn vết chân sâu não lòng.
         Cau già vắng ngọn trầu không,
Vườn quê nửa kiếp long đong ngóng chờ.
        Tay run, chân mỏi, mắt mờ,
Vụng về dệt mãi khung mơ một đời.
                              x
                        x          x
         Tiếng ca nhung lụa rã rời,
Lưa thưa nốt nhạc cuối trời quắt queo.
         Trăm năm mộng ước bọt bèo,
Câu thơ vay mượn mốc meo đầu giường.
         Tháng ngày ém chặt vết thương,
Bước chân cô lữ đoạn trường lần đi.
         Mây mù khóa nẻo thiên di,
Con trăng lộn kiếp tìm chi chốn này.
         Hai tay bát nước mắt gầy,
Năm canh từng giọt rót đầy biển Đông,
         Cho đau thương chảy ngược dòng
Về khơi sống lại con sông hững hờ,
        Cho đàn dế nhỏ ngu ngơ
Bên bờ Thạch Hãn vững chờ đêm tan.
         Ba mươi năm lẻ lầm than,
Gót chân giặc vẫn dẫm tàn quê hương.
         Đêm đêm trên cổ chiến trường,
Vong hồn tử sĩ khóc thương quê nhà.
         Bập bềnh khắp nẻo phong ba,
Đâu là xác bướm, đâu là hồn Châu?
         Bao năm bóng tối dãi dầu,
Gương xưa lệ máu hằn sâu mấy hàng.
                              x
                        x          x
         Lập lòe đốm lửa nghĩa trang,
Xác ca dao vỡ cuối đàng ngổn ngang.
         Trên lưng mộ cỏ chớm vàng,
Lang thang nửa mảnh khăn tang khóc người.

                 Trần Văn Lương
                    Cali, 1/2010





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Mar/2010 lúc 5:13pm
 
 
 
Thơ anh bao giờ cũng buồn !
mk
 
 
 
 

Dạo:
      Mênh mang một nẻo đường trần,
Trăm năm biết tạm dừng chân mấy lần.




        Có Những Trạm Dừng Chân

           (Để nhớ đến một ngôi làng nhỏ bé trên đất Pháp,
St-Félix de l'Héras, một trong những trạm
dừng chân thật ngắn ngủi và tình cờ trong đời.
  Tặng anh Claude và Vi-Khải-Đức, đánh dấu
một chuyến du lịch dài đầy kỷ niệm khó quên)

 

 


Đường rẽ uốn cong vòng tia mắt mỏi,
Bánh xe vương đá sỏi cũng chậm dần,
Người tình cờ ghé chỗ tạm dừng chân,
Ngôi làng nhỏ chưa một lần biết đến.

Đồng cỏ dại, bướm hoang lười bắt chuyện,
Nắng trưa hâm ấm tiếng trẻ con cười.
Lùm cây còi, ao nước rỗi nằm phơi,
Người ngắm cảnh, cảnh nhìn người lặng lẽ.
            
          *               
    *   *          
              
Mảnh ký ức đã khô cằn nứt nẻ,
Vẫn dọc ngang những lối rẽ một thời,
Từng dấu chân, từng đốm lửa tàn hơi,
Từng bến đỗ, từng góc đời hiu hắt.

Có những chốn, ba thu là chớp mắt,
Phút xa rời, hồn quay quắt quặn đau.
Có những nơi, lòng muốn lướt qua mau,
Nhưng định mệnh lau chau ghì trói chặt.

Khi tiếng khóc chào đời chưa kịp tắt,
Vườn Thiên thai đã mất lối quay về.
Trời lữ thứ lê thê,
Chân thất thểu đường quê hương tạm bợ.

Tuổi thơ ấu, cánh cửa đời hé mở,
Vòng tay mẹ hiền che chở ngày đêm,
Tiếng võng trưa đưa giấc ngủ bình yên,
Theo năm tháng, lớn lên cùng cây cỏ.

Hồn chập chững ươm mơ màu phượng đỏ,
Tìm rong chơi khắp ngõ ngách mùa Xuân.
Nắng sân trường vẽ lối trạm dừng chân,
Tia mắt liếc thay dần cho sách vở.

Mộng đầu tan vỡ,
Gót thư sinh bỡ ngỡ bước hành quân,
Đạn thù nổ vang rân,
Chuyện sống chết, mặc số phần may rủi.

Rồi tháng tư buồn tủi,
Mắt căm hờn nhìn sông núi đau thương,
Sa cơ buông súng giữa đường,
Thân chiến bại kiếp đoạn trường đầy đọa.

Trên đất Bắc, đêm gông cùm vật vã,
Chốn rừng sâu, ngày vất vả khôn ngưng,
Nhọc nhằn uất hận oằn lưng,
Đây có phải là trạm dừng chân cuối?

Nhưng Trời thương mở lối,
Thoát trại tù, lặn lội vượt biên,
Sóng dữ triền miên,
Kẻ tới bến, người oan khiên đáy biển.

Đảo tị nạn, buồn giăng thay lưới nhện,
Mất quê hương, chịu lắm chuyện đau lòng.
Bước đường cùng, lận đận tiếp long đong,
Thân tứ cố lặng trông chờ mưa đổ.

Cuối chặng đường gian khổ,
Lần mò đến chỗ tạm dung.
Đôi mắt mờ, cuộc sống mới mông lung,
Vận nước đổi, mấy ai lòng không đổi!

Trên đất lạ, mong manh ngày chết vội,
Tiếng thiên thu về hối thúc liền tay.
Thân sống sót nơi đây,
Hồn trụ mãi trong tháng ngày đánh mất.

Có những trạm dừng chân giờ đã khuất,
Vẫn lập lòe trong mắt ướt chiều thu,
Vẫn lang thang trong sương nhớ đục mù,
Vẫn tha thiết như lời ru của mẹ.

Chưa khô dòng lệ trẻ,
Đã mấp mé tuổi già,
Chân mệt mỏi lê la,
Biết đâu là hiện tại.

Nhìn quá khứ, tim sượng sùng tê tái,
Vọng tương lai, lòng quằn quại phân vân.
Từ giã chốn dừng chân,
Hồn lại rách thêm một lần không vá
 
*
*  *
 
Đường thiên lý bóng chiều hôm giục giã,
Người chạy đua với nắng vã trên đường.
Bóng hoàng hôn tô đậm nỗi vấn vương,
Màn đêm xuống, lối sương về lặng lẽ.

Rồi mai mốt bên góc đời quạnh quẽ,
Nhớ về ngôi làng bé nhỏ hôm nay,
Khách có buồn nghe tròng mắt cay cay,
Nhìn tấm ảnh trong bàn tay run rẩy.

Đời lữ khách trăm năm rồi cũng vậy,
Hành trình dài, biết mấy trạm dừng chân.
Dẫu mai kia, trong bóng tối mộ phần,
Chắc gì chẳng chỉ là lần tạm ghé.
  
 
 
                          Trần Văn Lương
                                  Cali, 3/2010
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Apr/2010 lúc 6:28pm
 
 
 
Thơ Anh bao giờ cũng dạt dào Tình Người.
mk là đàn em khá xa của Anh , nhưng vẫn tràn cảm xúc của "người-cùng-thời" .
 
"Long đong dăm cánh bèo lưu lạc,
Ngơ ngác tìm nhau chặng cuối đời."
 
mk
 
 
 
Dạo:

    Bóng chiều đã gác đầu non,
Mai kia gặp lại biết còn mấy ai.


Vườn Hội Ngộ

                                  (Tặng các bạn IB VT-NT nhân ngày họp mặt 46 năm.
                                        Cám ơn anh chị Đinh Bá Hồ & Lữ Thanh Cư
                                              đã bao lần biến tổ ấm của mình thành
                                      một "Vườn Hội Ngộ" đầy ắp tình nghĩa bạn bè)


Lảng vảng mây đen ép thật gần,
Mảnh vườn nằm đợi khách phân vân.
Ngày vui hội ngộ, trời không nắng,
Sao cánh chim xa chẳng ngại ngần.

Bóng người đà thấp thoáng trong sân,
Văng vẳng tiếng cười trộn bước chân,
Tóc trắng lặng nhìn nhau rạng rỡ,
Bùi ngùi vẫn ngỡ thuở còn Xuân.

Ngày tháng qua tay vụt tít mù,
Xa rồi những gặp gỡ phù du,
Năm nao thổn thức câu hò hẹn,
Thoáng chốc nay đà bén sáu thu.

Đường đời dù cách biệt sơn khê,
Kiếp sống tha phương có não nề,
Đâu đó chợt nghe lời réo gọi,
Tung tăng hối hả vội quay về.

Nghẹn ngào những nét mặt già nua,
Xúm xít quanh thầy cũ bạn xưa,
Khóe mắt rưng rưng thừa giọt lệ,
Thấm buồn con phố lẻ chiều mưa.

Đong đưa chút hiện tại trên cành,
Mặc suối thời gian chảy lạnh tanh,
Mái tóc mong manh chừ trắng xóa,
Vẫn còn chưa thỏa chuyện ngày xanh.

Vất vả lênh đênh ngược lối trần,
Ngõ về hoài niệm cũng gian truân.
Bao năm đất khách dần quen bước,
Nhưng đến tìm nhau được mấy lần?

Tạm dừng chân sống lại ngày thơ,
Cái tuổi học trò nặng ước mơ,
Ký ức phai mờ, lòng bỏ ngỏ,
Trăm năm thương nhớ mãi không bờ.

Thẫn thờ chưa nói được tròn câu,
Bóng tối xăm xăm phủ kín đầu.
Giây phút quên sầu sao ngắn ngủi,
Mai rày biết gửi nhớ về đâu.

Dàu dàu hụt hẫng phút chia tay,
Hẹn gặp ngày sau, mắt chớm cay,
Thầm sợ tương lai đầy bất trắc,
Ai người biết chắc sẽ còn đây!

Một mai vườn cũ có buồn không,
Có trách câu "xa mặt cách lòng",
Có vẫn một mình trong bóng tối,
Ngậm ngùi ôm ấp nỗi chờ mong.
                      x
                  x        x
Long đong dăm cánh bèo lưu lạc,
Ngơ ngác tìm nhau chặng cuối đời.

            Trần Văn Lương
                Cali, 4/2010










-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/May/2010 lúc 7:37pm
 
 
 
Vài nét về Thi Sĩ Trần văn Lương
 
 
Lê Minh giới thiệu: 
 
Tháng Tư đen gần kề, nhất là  sau 35 năm, cộng đồng  Việt tại hải ngoại khắp nơi đang sửa  soạn ngày  đau buồn của miền Nam Việt  Nam . 
Ba mươi lăm năm qua, lòng người dân Việt vẫn  chưa nguôi.
Trong số những người này có thi Sĩ Trần Văn Lương. Chưa một lần quay trở lại quê hương, nhưng Ông đã ghi lại phần lớn hiện thực  bộ mặt thật  quê  nhà trong những vần thơ dành riêng cho thời gian  đen tối trong lịch sử Nam Việt Nam. 
Trước khi  mời quí  vị  ngẫm nghĩ  về  30/4 qua vần thơ của Thi sĩ Trần Văn Lương, chúng  tôi hân hạnh đước giới  thiệu đôi hàng về  tác giả. 

Ông Trần Văn Lương tốt nghiệp cử nhân Văn Khoa ban Hán văn tại đại học Đà Lạt (VN) vào khoảng cuối thập niên 1960. Ông được mô tả là một trong số ít người tinh thông về Hán Văn còn sót lại trong thời đại chúng ta. Quí vị cũng cho thể thưởng  thức văn tài của người thi sĩ đa tài này trong bài khoản luận về “Mùa Thu Trong Văn Thơ Cổ Điển Trung Hoa”  trong trang nhà
http://www.leminh.us/ - www.leminh.us
http://www.leminh.us/?p=39#more-39 - http://www.leminh.us/?p=39#more-39 http://www.leminh.us/?p=41 - http://www.leminh.us/?p=41

Như chúng ta, Thi sĩ Trần Văn Lương  đến Hoa Kỳ tỵ nạn  từ 1975. Dù  tinh thông hán học và triết học, nhưng khi định cư  tại Quận Cam, ông đã theo đuổi ngành học thuần túy về khoa học tại Đại học Long Beach và tiếp tục học vấn đến cấp bằng tiến sĩ về khoa học. Hiện này ông  là một  trong những khoa học gia  xuất sắc của công ty Boeing tại Thành phố Anaheim.
 
Xin mới quí vị độc giả thưởng thức vần thơ 30/4 của Tiến sĩ Trần  Văn Lương, cũng như  phần diễn dịch qua Anh Ngữ của nhà giáo Hoàng Đình Thắng, cử nhân Văn Chương Anh Văn của Đại Học Đà lạt năm 1968,  ông  cũng là bạn cùng phân khoa với thi sĩ  Lương.
Hiện này ông Thắng đang dậy môn Văn Chương Anh cho một trường trung học tại   San Jose, California.
 
Lê Minh.
 
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=158608 - http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=158608
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/May/2010 lúc 7:45pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu

 
 
 
Vài nét về Thi Sĩ Trần văn Lương
 
 
Lê Minh giới thiệu: 
.......
.......
Xin mới quí vị độc giả thưởng thức vần thơ 30/4 của Tiến sĩ Trần  Văn Lương, cũng như  phần diễn dịch qua Anh Ngữ của nhà giáo Hoàng Đình Thắng, cử nhân Văn Chương Anh Văn của Đại Học Đà lạt năm 1968,  ông  cũng là bạn cùng phân khoa với thi sĩ  Lương.
...
 
Lê Minh.
 
 
 
 
 
 
 
 
Mời vào link dưới, trang 1 :
 
http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2456&PN=1 - http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2456&PN=1
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Jul/2010 lúc 5:15pm
 
 

Dạo:
    Đêm đêm trong nghĩa trang hoài niệm,
    Người xé khăn tang liệm bóng sầu.




                Ca Dao Cũ

      Ngày xưa nắng đỏ, mưa hồng,
Mây xanh, gió tím, phượng nồng dấu chân.
      Tan trường áo trắng mờ sân,
Hoàng hôn lối hẹn tóc ngần ngại bay.
      Bên người chửa ấm vòng tay,
Hoang mang đã sợ đến ngày mất nhau.
      Sân ga lạnh nhớ con tàu,
Khói hờ hững xõa, sương dàu dàu bay.
      Rượu đầy mà chẳng dám say,
Ngại khi tỉnh giấc, vòng tay mất người.
      Ngờ đâu thế sự đổi dời,
Cánh chim thoắt đã cuối trời phiêu du.
      Âm thầm nén chặt ba thu,
Bơ vơ ngõ tối, hoang vu lối ngày.
                          x
    Vườn khuya trăn trở gót giày,
Tim quay quắt nhớ, lòng day dứt tìm.
    Lạnh lùng gió bạt đường chim,
Con sông chín khúc, bóng chìm khúc nao.
    Phòng đêm bối rối nghẹn ngào,
Hờn trăng đáy cốc, khóc sao đầu giường.
    Đèn khuya rũ liệt chán chường,
Mặc chăn gối cũ dựa gương chờ người.
    Trong tranh, tố nữ rã rời,
Vô tri mà cũng vẽ vời bể dâu.
    Ngoài song vùn vụt vó câu,
Ai vui sáu nẻo, ai sầu một nơi.
    Mượn lời sưởi ấm lệ rơi,
Ngờ đâu lệ lại thấm lời lạnh căm.
    Khối sầu muốn xẻ làm trăm,
Dao cầm chẳng vững, cắt nhằm nỗi đau.
    Khăn tang chít tạm đã nhàu,
Lang thang giọt máu bạc màu tìm vui.
    Đêm đen cánh bướm ngủ vùi,
Lao xao giấc mộng, sụt sùi cơn mơ.
    Trăng treo bến cũ đợi chờ,
Nào hay thuyền đã neo bờ bến xa.
    Lá khô hỏi cội tre già,
Câu ca dao cũ bôn ba chốn nào.
    Chân trần nhẵn lối chiêm bao,
Cơn mê kéo mãi, hư hao một đời.
    Môi nhăn nhúm rách nụ cười,
Trên sông hoài niệm, bóng người về đâu.

                  Trần Văn Lương
                    Cali, 7/2010
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Jul/2010 lúc 8:41pm
 
 

Dạo:

        Đêm đen sao mãi kéo dài,
Để người mắt trắng bước hoài dưới trăng.





    月 下 遊 魂
日 殀 冬 漙 葬 夕 陽,
月 扶 人 影 入 寒 霜.
愁 雲 黑 面 沈 深 水,
病 鳥 乾 聲 寓 廢 堂.
國 土 無 端 為 賊 土,
家 鄉 一 旦 變 他 鄉.
風 嗥 懦 月 拋 人 影,
路 上 狂 郞 怨 夜 長.
          陳 文 良



Âm Hán Việt:


          Nguyệt Hạ Du Hồn

Nhật yểu, đông đoàn táng tịch dương,
Nguyệt phù nhân ảnh nhập hàn sương.
Sầu vân hắc diện trầm thâm thủy,
Bệnh điểu can thanh ngụ phế đường.
Quốc thổ vô đoan vi tặc thổ,
Gia hương nhất đán biến tha hương.
Phong hào, nọa nguyệt phao nhân ảnh,
Lộ thượng cuồng lang oán dạ trường.

                Trần Văn Lương




Dịch nghĩa:

        Hồn Ma Lang Thang Dưới Trăng

Ngày chết yểu, sa mù mùa đông mai táng mặt trời chiều.
Trăng dìu bóng người đi vào sương lạnh.
Khuôn mặt đen đủi của áng mây buồn chìm trong nước sâu ,
Tiếng kêu khan kiệt của con chim bệnh ở nhờ căn nhà bỏ hoang.
Đất của tổ quốc vô cớ thành đất của giặc,
Quê nhà một sớm bỗng biến thành quê người.
Gió gầm, trăng nhát sợ (bèn) vất bỏ bóng người,
Trên đường đi, chàng điên oán trách đêm (sao) kéo dài.


Phỏng dịch thơ:

    Hồn Ma Lang Thang Dưới Trăng

Ngày chết yểu, sa mù chôn nắng tối,
Trăng đưa người lạnh lẽo lối sương loang.
Áng mây chì chìm đáy nước mênh mang,
Tiếng chim bệnh chốn nhà hoang khản đặc.

Đất nước cũ bỗng dưng thành đất giặc,
Quê nhà xưa chợt thoắt hóa quê người.
Gió thét vang, trăng bỏ bạn giữa vời,
Gã điên bước, trách trời sao mãi tối.

                    Trần Văn Lương
                        Cali, 7/2010



Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
    Đêm bất tận, trăng bỏ người, đường về hun hút.
    Nước đó ư? Nhà đó ư? Ai điên? Ai tỉnh?
    Hỡi ơi!
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 05/Aug/2010 lúc 8:15pm
 
 
Đau Ngày Tháng Rụng
 
 
 
Dạo:
      Tuổi đời chất mãi chồn tay,
Xót ngày tháng rụng, cay cay mắt chiều.





 Đau Ngày Tháng Rụng


Đêm vuốt mòn trăng,
Dăm thằn lằn chắt lưỡi.
Con nhện già rách rưới,
Buồn vá lưới thời gian.

Mây tối lang thang,
Ngỡ ngàng trông hướng gió.
Đèn lay lay bóng cỏ,
Sầu phố nhỏ lăn tăn.

Chân bước nhọc nhằn,
Lưng hằn trăm dấu vọt.
Kiếp người bèo bọt,
Dĩ vãng lót đường rong.

Cô gái nhỡ chưa chồng,
Thầm mong ai lạc lối,
Mắt rà lên tóc rối,
Giận dỗi trách chiều hoang.

Con sóng ngáng đò ngang,
Vỡ toang trên ghềnh đá.
Hạ tàn rơi lả tả,
Lá vất vả chờ thu.

Giọng hát âm u,
Gượng ru đời viễn xứ,
Gập ghềnh đường lữ thứ,
Quá khứ trốn xa dần.

Tuế nguyệt xoay vần,
Người phân vân giữa chợ.
Chuyến tàu say tiếc nhớ,
Làm lỡ phút đăng trình.

Xác chết lạnh trơ mình,
Lời kinh chưa kịp tụng.
Bầy quạ què lúng búng,
Ăn vụng chốn đồng không.

Hoa héo đắm bờ sông,
Sương đông oằn lau lách.
Bóng ai còn đậm vách,
Người đã cách ngàn khơi.

Cơn địa chấn rời,
Sỏi đá rơi lầm chỗ.
Rung rinh tòa miếu đổ,
Tượng gỗ khổ chia tay.

Mái ấm hôm nay,
Mai đây thành gác trọ.
Nỗi buồn xưa đứng đó,
Cau có chuyện vơi đầy.

Cung nhạc đắng, lời cay,
Đau đau ngày tháng rụng.
Con trâu già vô dụng,
Khóc sũng vũng bùn khuya.

       Trần Văn Lương
           Cali, 8/2010



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Aug/2010 lúc 8:46pm
 
 
 
Dạo:
        Chỉ nửa đường ly biệt,
        Mà ngàn kiếp tiếc thương.


      Chỉ Nửa Con Đường

      Hạ hồng, nắng hực trời xanh,
Sao đêm tối vẫn vây quanh kiếp nghèo.
      Trót mang số phận bọt bèo,
Anh đâu tính chuyện leo trèo với cao.
      Nhìn sao băng, dạ nao nao,
Một câu thề ước có nào dám mơ.
      Chút tình trúc mã ngây thơ,
Đành câm nín giấu, hẹn chờ kiếp sau.
      Thân tằm trăn trở cơn đau,
Tơ ươm chốn cũ, áo dâu nhà người.
      Vật vờ đón bóng quạ rơi,
Hỏi làn tóc nhỏ một thời về đâu.
      Mắt quầng dõi vết sao Ngâu,
Đường chim đứt đoạn, nhịp cầu gãy đôi.
      Ai đem gió rải lưng đồi,
Cho cây lá chết bồi hồi xa nhau.
      Em đi, nắng tếch theo tàu,
Sân ga từ đó ảm màu hoàng hôn.
      Rong rêu dẫn bước cô hồn,
Loanh quanh bến vắng đếm dồn bóng câu.
      Bơ vơ đứng giữa nương trầu,
Lá tươi ai hái, gốc sầu ai ôm.
      Em xuôi theo ngọn gió nồm,
Anh canh gió bấc, chiều hôm dãi dầu.
      Áo quê nắng hấp bạc mầu,
Đàn sai dây nắn mãi câu phụ tình.
      Ngày lênh đênh, tối linh đinh,
Đêm mong tiếng trống, biết mình còn say.
      Mảnh tình vướng víu trên tay,
Tần ngần vất xuống, lại loay hoay tìm.
      Lối xưa giậu đã lên bìm,
Bên thành giếng cổ xác chim mấy hàng.
                        x
                    x      x
      Xưa không dám mượn đò ngang,
Để nay giọt lệ trễ tràng tiếc thương.
      Đưa nhau chỉ nửa con đường,
Nửa vui em tới, nửa đoạn trường anh lui.
      Một cơn sóng gió dập vùi,
Nơi xưa có kẻ vẫn ngậm ngùi nhìn đêm.

Trần Văn Lương
(Cali, 8/2010)

 

 






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Aug/2010 lúc 7:56pm
 
Thân chào Lê Tua,
Tua vui lòng cho mk mang bài thơ của anh Trần Văn Lương vào mục này nhé .
Bài thơ thật cảm động , tâm lý Người Già VN chúng ta chưa thích ứng với xã hội Mỹ : khi già vào nhà dưỡng lão
 
              " Bố vẫn muốn sống đời bên con cháu,
                Dẫu cơ-hàn, mà rau cháo có nhau. "
 
Ông Cụ (nhân vật chính trong bai thơ) suy nghĩ :
           "Bố tự biết như ngọn đèn sắp tắt,
        Nên cố tình bẳn gắt mấy ngày qua.
        Nếu chẳng may phải theo gót ông bà,
            Con cũng đở xót xa giờ đưa tiễn. "
 
nhưng, kinh nghiệm bản thân mk , chuyện con cháu "khổ" vì Cha Mẹ "bẳn gắt" lúc tuổi già, và nỗi niềm thương yêu , đau lòng khi Cha Mẹ ra đi vĩnh viễn không liên quan gì với nhau.
Dù Cha Mẹ già khó khăn nhiều bao nhiêu, lúc Cha Mẹ quy tiên, con cái vẫn muôn vàn khóc thương.
 
Cám ơn Lê Tua đã cho đọc DĐ một bài thơ hay và cảm động.
mk
 
http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2778 - http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2778
 
 
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ tuavanle

XIN MỜI THƯỞNG THỨC MỘT BÀI THƠ THẬT CẢM ĐỘNG CỦA MỘT NGƯỜI GIÀ PHẢI NÓI LÀ RẤT ĐỘC ĐÁO, TÀI TÌNH VÀ XUẤT SẮC TUYỆT VỜI .
 
 
 
HAI CÂU ĐẦU:
          Đêm bệnh-viện, sầu tơi trên tóc trắng,
          Người già nằm, bóng hạc lắng chiều sương,
DẠO: Lòng không muốn sống xa nhà
          Nhưng trời bắt tội tuổi già biết sao!
 
 (Kính mến gửi về Chú, ngậm-ngùi đánh dấu ngày mà Chú, vừa tới tuổi 90, phải vào nhà dưỡng-lão, mặc dù con gái Chú rất thiết-tha muốn được đưa Chú về nhà.)
 
          Đêm bệnh-viện, sầu tơi trên tóc trắng,
          Người già nằm, bóng hạc lắng chiều sương, 
          Mắt ngu ngơ như nắng lỡ độ đường,
          Nhìn con gái dựa bên giường gà gật.
 
Đầu ngật ngầy váng vất,
Thương con mình tất bật ngược xuôi,
Mấy ngày qua luôn túc-trực không rời,
Đến tối mịt mới về nơi tổ ấm.
 
          Bàn tay già chầm chậm,
          Thờ thẩn nắm tay con.
          Từ rãnh mắt xoáy mòn,
          Giọt thương cảm lăn tròn theo vết cũ.
 
                                         X
                                   X        X
 
 Khuya rồi đó, sao con chưa về ngủ,
 Chuyện tuổi già, con ủ-rũ làm chi.
 Chín mươi rồi, Bố chưa bị cất đi,
 Mình may mắn, có gì mà áo-não.
 
         Hãy để Bố vào ở nhà dưỡng lão,
         Như mọi người vừa khuyên bảo sáng nay,
         Vì một mai khi rời khỏi nơi đây,
         Khó khăn sẽ theo tháng ngày dai dẳng.
 
 Bố không muốn mình trở thành gánh nặng,
 Để cho con phải lo lắng miệt mài
 Đời con còn nhiều trách-nhiệm trên vai,
 Đâu có thể chực-chầu hoài sớm tối.
 
         Thân gầy còm yếu đuối,
          Sao kham nổi đường xa.
          Thêm việc sở, việc nhà,
          Chuyện con cái, dễ gì mà vất bỏ.
 
 Người già thường cau-có
 Nằm liệt giường, càng khó tính gấp trăm.
 Dù cho con chẳng quản ngại nhọc nhằn,
 Nhưng chịu đựng tháng năm dài sao thấu.
 
          Bố vẫn muốn sống đời bên con cháu,
          Dẫu cơ-hàn, mà rau cháo có nhau.
          Bao năm qua mất Mẹ , bấy năm sầu,
          Bố gượng sống với niềm đau-lẻ-bạn.
 
 Buồn nhớ lại ngày vượt biên hoạn-nạn,
 Bỏ quê nhà, chấp-nhận vạn gian-truân,
 Chết trong tay đã nắm chặt chín phần.
 Mạng sống chỉ ngàn cân treo sợi nhỏ.
 
         Con thuyền khốn khổ,
         Sóng gió tả-tơi,
         Phút chót đã kề nơi,
         Lối định-mệnh, ai người sống sót.
 
Tưởng chỉ được nhìn Mẹ, con lần chót, 
Nhưng Trời thương cho trót-lọt qua đây,
Trong khi bao người biển cả vùi thây,
Giờ sao nữa, chẳng mảy-may tiếc rẻ.
 
         Bố chỉ hận mình không còn sức khỏe,
         Đở đần con việc lẻ-tẻ hôm mai,
         Để chiều về, con bớt phải loay-hoay,
         Được yên nghỉ sau ngày dài kiệt sức.
 
Khi bị đẩy vào trong phòng hồi-lực,
Bố biết mình gần tới lúc xuôi tay.
Dù thoát nạn hôm nay,
Đời cũng phải rẽ ngay vào lối ngoặc.
 
        Bố tự biết như ngọn đèn sắp tắt,
        Nên cố tình bẳn gắt mấy ngày qua.
        Nếu chẳng may phải theo gót ông bà,
        Con cũng đở xót xa giờ đưa tiễn.
 
 Mai kia rời bệnh-viện,
Con đừng bịn-rịn xót xa,
Hãy nghe lời y-tá dặn ngày qua,
 Mà đưa Bố thẳng ra nhà dưỡng lão.
 
        Cuộc sống mới dù là mưa hay bão,
        Bố không buồn,tự bảo vẫn còn may,
        Vì biết rằng, chỉ quanh-quẩn đâu đây,
        Con cháu Bố đang vui vầy hạnh-phúc.
 
 Rồi sẽ có những buổi chiều hun-hút,
Bố nặn dần từng phút ngóng người thân.
Nhưng rủi con chẳng tới được một lần,
Bố cũng hiểu, đừng bận tâm ray-rứt.
 
        Bố không ngại chặng cuối đời khổ cực,
        Nhìn thấy con hạnh-phúc, Bố vui lòng.
        Tuổi đã nhiều, phận Bố thế là xong,
        Con phải sống cho chồng, cho con cái.
 
 Hứa với Bố, con sẽ không buồn mãi,
Nếu mai này, khi Bố phải ra đi,
Mà con không kịp đến lúc phân-kỳ,
Nói cùng Bố lời chia-ly vĩnh-viễn.
 
                              X
                         X      X
 
         Đêm trơn giấc, người con rời bệnh-viện,
         Đôi mắt già quyến-luyến vọng đưa chân.
         Trong ký-ức phai dần,
         Khuôn  mặt những người thân vùng hiển-hiện.
 
               Lòng chợt thoáng bùi-ngùi khi nghĩ đến
               Phút lên đường, theo ước-nguyện ba-sinh,
               Chân bơ-vơ trong tăm tối một mình,
               Mò mẫm lối hành-trình về thiên-cổ.
 
                                  TRẦN VĂN LƯƠNG 


 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Sep/2010 lúc 5:28pm
 

Dạo:
        Trăng xua bóng lẻ qua cầu,
Màn đêm đã xuống, về đâu hỡi người.


Cóc cuối tuần:

            Giọt Buồn Cuối Nẻo

Mây héo quắt như mặt người luống tuổi,
Lọn khói chiều vờn đuổi muỗi vườn sau,
Lớp rêu xưa đã mấy độ thay màu,
Chim mất tổ mổ sầu trong nắng muộn.

Sương hôm cuồn cuộn,
Cỏ băng đường, luống cuống chạy quanh.
Cơn gió bấc lạnh tanh,
Mưa lá vỡ tan tành trên mộ chí.

Đường thiên lý người miệt mài quên nghỉ,
Có dừng chân thì cũng chỉ phút giây,
Nhưng rồi khi bóng tối át màu mây,
Lại lê lết chốn đọa đày quen thuộc.

Đời giong ruổi dẫu trăm ngàn trói buộc,
Chẳng còn chi khi hết cuộc chơi này.
Phút quay về, cay đắng vốc tràn tay,
Đôi mắt trũng ứa đầy men tiếc nuối.

Lối vô định, chỉ riêng mình lặn lội,
Gói hành trang là một chuỗi nhớ thương.
Máu oan khiên rơi rớt đỏ bụi đường,
Trên sỏi đá, đóa đoạn trường rộ nở.

Những khuôn mặt giữa hành trình gặp gỡ,
Cũng chỉ là ảo ảnh ở trong tim,
Những nỗi vui lòng háo hức kiếm tìm,
Thành bọt sóng nổi chìm trong trí nhớ.

Mênh mang chiều phố chợ,
Giày thủng vớ lang thang.
Tròng mắt đục hoang mang,
Lỡ làng kinh cứu độ.

Cổng Thiên đàng xiêu đổ,
Người hết chỗ quay về.
Bóng đêm dài dai dẳng lê thê,
Nghe thương nhớ tái tê ngày tháng cũ.

Nhớ tiếng hát mẹ ru từng giấc ngủ,
Nhớ giọng cười của lũ trẻ trong thôn,
Nhớ những chiều lặng ngắm nắng hoàng hôn,
Rồi chợt thấy lòng buồn không duyên cớ.

Nhớ sân trường phượng nở,
Chân ngại ngùng, ôm sách vở theo nhau,
Nắng hè trưa như rót lửa trên đầu,
Môi lắp bắp mãi nửa câu hò hẹn.

Nào ngờ mây đen sực đến,
Cánh bèo mất bến ra khơi.
Gió đông về, lá rách tả tơi,
Trôi trôi mãi trên dốc đời trơn tuột.

Đất lạ ấm sao lòng nghe giá buốt,
Một kiếp người đà mấy cuộc ra đi.
Gập ghềnh nẻo chia ly,
Chân lữ thứ biết khi nào quay lại.

Trăm năm nữa, ánh mặt trời vẫn mãi
Về đùa chơi cùng cỏ dại nơi đây,
Nhớ hay chăng có một kẻ lưu đày,
Đã vĩnh viễn vùi thây trong bóng tối.

Gót lữ hành mệt mỏi,
Đường đời một lối loanh quanh.
Khi nắng chiều bỏ ngỏ trời xanh,
Hương lá thắm cũng đành phai dưới cội.

Hành trang cũ vơi dần theo bước vội,
Chốn quê nhà vẫn vời vợi quan san.
Đàn chim xưa nay rã cánh tan đàn,
Vườn vĩnh cửu ngút ngàn bia mộ mới.

Trời cao thẳm, tiếng kêu cầu chẳng tới,
Người cuối đường chới với khóc vu vơ,
Đáy mắt sâu tắt ngúm lửa mong chờ,
Ve áo bẩn, mờ mờ dăm dấu lệ.

            Trần Văn Lương
                    Cali, 9/2010
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Oct/2010 lúc 7:49pm
 
 
Dạo:

      Sắn bìm trói tự thiên thu,
Trăng rơi, gió lặng, rùa mù lên mây.



Cóc Thiền cuối tuần:

        盲 龜
淒 風 嫋 嫋 擾 漁 燈,
月 淡 盲 龜 繹 葛 藤.
白 眼 茫 茫 千 古 惑,
癡 心 冷 冷 萬 年 冰.
秋 雰 久 掩 庭 前 樹,
俗 客 難 尋 畫 裏 僧.
風 息 月 輪 沈 靜 海,
盲 龜 忽 搨 翅 高 陞.
            陳 文 良




Âm Hán Việt:


            Manh Quy

Thê phong niệu niệu nhiễu ngư đăng,
Nguyệt đạm, manh quy dịch cát đằng.
Bạch nhãn mang mang thiên cổ hoặc,
Si tâm lãnh lãnh vạn niên băng.
Thu phân cửu yểm đình tiền thụ,
Tục khách nan tầm họa lý tăng.
Phong tức, nguyệt luân trầm tĩnh hải,
Manh quy hốt tháp sí cao thăng.

              Trần Văn Lương





Dịch nghĩa:

              Con Rùa Mù  (1)

Gió thê lương nhè nhẹ quấy rối ngọn đèn câu,
Trăng nhạt, con rùa mù (đang) gỡ những dây leo chằng chịt.
Đôi mắt trắng man mác một nỗi mê mờ thiên cổ,
Con tim ngu si mang cái lạnh của tảng băng vạn năm.
Sương thu (đã) che kín từ lâu cây bách trước sân,  (2)
Khách tục khó mà tìm ra được vị tăng trong bức tranh. (3)
Gió ngừng, mặt trăng chìm trong đáy biển im lặng,
Con rùa mù chợt chắp cánh bay cao.





Ghi chú:

(1) Tỳ kheo Thích Minh Châu , Đức Phật Của Chúng Ta  (Trang nhà Suối Nguồn Hạnh Phúc của chùa Vinh Phúc Quan Độ : http://suoinguonhanhphuc.com/InfoShow.aspx?InfoID=351 - http://suoinguonhanhphuc.com/InfoShow.aspx?InfoID=351 ) :

"
...
Trong kinh Tương Ưng V, đức Phật đã dạy: "Ví như này các Tỳ kheo, một người quăng một khúc gỗ có một lỗ hổng vào biển lớn. Tại đấy có con rùa mù, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần. Các ngươi nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo. Con rùa ấy, sau mỗi trăm năm, nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc cây có một lỗ hổng hay không?"

"Năm khi mười họa may ra có thể được, bạch Thế Tôn, sau một thời gian dài".

"Ta tuyên bố rằng còn mau hơn, này các Tỳ kheo, là con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có lỗ hổng ấy. Còn hơn kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ, để được làm người trở lại. Vì cớ sao? Vì rằng ở đấy không có pháp hành, chánh hành, thiện nghiệp, phước nghiệp. Ở đấy, này các Tỳ kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau, và chỉ có kẻ yếu bị ăn thịt.." (Tương Ưng V, 485)

"Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được làm người. Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh đẳng giác, thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là Pháp và Luật này do Thế Tôn thuyết giảng, chiếu sáng trên đời." (Tương Ưng V, 450 - 460).
...
"

(2)  Vô Môn Quan, tắc 37, Đình Tiền Bách Thụ.

Một ông tăng hỏi Thiền Sư Triệu Châu:
  - Ý của Tổ Sư (Đạt Ma) từ Tây sang là gì ? ( Hán : Như hà thị Tổ Sư Tây lai ý ?)
Triệu Châu đáp:
  - Cây bách trước sân  (Hán: Đình tiền bách thụ tử).

Lời bình của Vô Môn Huệ Khai :
    Nếu nhằm vào lời đáp của Triệu Châu mà thấy được thì trước không có Thích Ca, sau không có Di Lặc (Hán: tiền vô Thích Ca, hậu vô Di Lặc)

(3) D.T. Suzuki, Thiền Luận, quyển Thượng, bản dịch tiếng Việt của Trúc Thiên, tr. 501-503:

"
...
      Quan tướng quốc Bùi Hưu khi còn làm thứ sử Tây An có lần đến viếng một kiểng chùa, vào chánh điện dâng hương cúng Phật. Chủ chùa tiếp đón. Bùi thấy trên tường có một bức họa bèn hỏi hình ai. Ông chủ chùa bảo đó là chân dung một cao tăng. Bùi hỏi: "Chân dung đây còn cao tăng đâu?"
      Tăng chúng không đáp. Bùi lại hỏi: "Trong đây có Thiền nhân nào không?"
      Đáp: "Gần đây có một người đến ở chung, hiện lo việc tạp dịch, ông ta có vẻ là người Thiền lắm".
      Bùi nói: "Xin mời ra cho tôi hỏi thăm chút được không?"
      Ông sư mới (*) liền được thỉnh ra trước mặt quan tướng quốc.
      Bùi vừa thấy liền hớn hở lên tiếng ngay:
      "Hưu tôi có một điều muốn hỏi, ngặt chư vị đây không đáp, vậy thỉnh đại nhân ban cho một lời".
      Sư  hỏi: Mời tướng công cứ hỏi.
      Hưu lặp lại câu nói trên: "Còn cao tăng đâu?"
    Sư hét chát chúa:
        - Bùi Hưu ?
        - Dạ !
    Sư lặp lại câu hỏi: Còn cao tăng đâu?
    Bùi Hưu tức khắc dưới câu phản vấn nhận ra ý chỉ Thiền như bắt được ngọc kế châu.
...
"

(*) Hoàng Bá Hy Vận, pháp từ của Bách Trượng Hoài Hải và là thầy của Bùi Hưu sau này.




Phỏng dịch thơ:

        Con Rùa Mù

Lửa chài theo gió rét buồn lay,
Trong lưới, rùa mù gắng trở xoay.
Chấp trước, lòng si thêm lạnh lẽo,
Mê mờ, mắt trắng mãi loay hoay.
Thân cây bách cũ, sương đà khuất,
Mặt vị tăng xưa, khách chửa hay.
Gió lặng, trăng khuya chìm đáy biển,
Rùa mù chợt chắp cánh cao bay.

                  Trần Văn Lương
                      Cali, 10/2010



Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :

      Gió tan, trăng lạnh, rùa mù bay vút lên trời. Có cảnh này ư ?
      "Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách" (sai một ly, trời đất liền xa cách) (**), nhưng may mắn lại có "Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, đản mạc tắng ái, đỗng nhiên minh bạch" (đạo lớn không khó, cốt đừng so đo lựa chọn, chỉ cần không thương ghét, thì mọi sự sẽ sáng rõ) (**).
      May mắn thay con rùa mù đã thoát khỏi đám dây leo chằng chịt trói chặt mình từ muôn thuở!

(**) Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán.


(NGUỒN : DA-LIST FORUM)


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 28/Oct/2010 lúc 9:31am
 
 
 
Dạo:
    Gió dồn lá chết đầy tay,
Mùa thu áo vá đêm nay nhớ gì?



      Mùa Thu Áo Vá


Ai máng vội áo mùa thu lên lá,
Cho rừng không kịp vá vết sầu loang.
Đường quên mưa, cỏ úa chết thành hàng,
Sương cố quận ngỡ ngàng rơi đất lạ.

Núm hoa dại thở dài trong kẽ đá,
Con suối nghèo cãi vã với rong rêu.
Sao lơ thơ như muối rắc không đều,
Mây mất gốc lều bều trôi vất vưởng.

Trong thanh vắng, tiếng ai cười gắng gượng,
Chặng cuối đời vẫn bướng bỉnh tìm vui,
Cơn đau xưa ngày mấy bữa chôn vùi,
Tim mắc nghẽn một nùi mơ ước dở.

Chốn tạm trú, thân nửa thầy nửa thợ,
Gót thu mòn lối chợ chẳng người quen,
Nắng chưa nồng đã nhượng lối đêm đen,
Tri kỷ chỉ một ánh đèn cô quả.

Hoài đợi sáng, hồn chai lì hóa đá,
Trót phai màu, lá hối hả ra đi.
Trăm năm sau, đất mộ cũ phẳng lì,
Kiếp sống tạm có còn chi dấu vết.

Hơi thu tàn mỏi mệt,
Lá xa cành vẫn lê lết tìm nhau.
Nhưng người xưa khi nhắm mắt lên tàu,
Là biết đã đại dương sầu cách biệt.

Dĩ vãng chết, nhưng lòng chưa chịu chết,
Vẫn âm thầm lần theo vết chim bay,
Vẫn run run chắt mãi giọt nắng ngày,
Vẫn đeo đuổi bóng mây chiều hư ảo.

Ra đi trong gió bão,
Bao thu rồi manh áo cũ chưa thay,
Nhìn mũi chỉ đường may,
Chua xót nhớ bàn tay gầy của mẹ.

Trong đáy mắt như ruộng đồng nứt nẻ,
Còn lăn tăn chút cặn lệ dư thừa.
Tuổi xế chiều, trời ít nắng nhiều mưa,
Trang giấy lẻ đã dần thưa nét chữ.

Hoa ngả ngớn bán rao câu tình tự,
Nhưng phận người lữ thứ dám nào mua.
Đêm ôm chăn thao thức đợi chuông chùa,
Chỉ nghe tiếng thở than mùa ly biệt.

Đĩa dầu con cạn kiệt,
Mài miệt bóng ma chơi.
Đôi môi thâm đã nửa kiếp quên lời,
Cơn điên loạn, khẽ nhếch cười cay đắng.

Biển xưa lặng, niềm đau xưa chẳng lặng,
Xuân không về, lòng mãi vắng hương mai.
Ngày ngắn dần, gượng nán lại dằng dai,
Đêm lấn lướt, cố kéo dài bất tận.

Chim mất tổ, xót xa chiều lận đận,
Sương xa người, luẩn quẩn đáy vực sâu.
Gió đuổi nhau tê buốt nhánh cây sầu,
Quạ vất vả đỡ nhịp cầu uất hận.

Con trăng già nén giận,
Nhìn đèn màu dọa dẫm ánh sao câm.
Lá rắc tựa mưa dầm,
Thu luống cuống cổi lầm manh áo vá.
 

                Trần Văn Lương
                  Cali, 10/2010










-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Dec/2010 lúc 6:52pm
 

Dạo:
        Xa nhau cuối độ thu tàn,
Trăm năm giọt lệ trễ tràng còn vương.



            Phải Chi Ngày Đó...

         (Nhân cái chết của một người không quen biết)

 

 


Ngụm khói vỡ lau mặt người trắng bệch,
Mẩu thuốc tàn cấn lệch nửa vành môi.
Chiều lao chao, chân vấp váp liên hồi,
Đường nghĩa địa, nắng lôi thôi buồn tẻ.

Ngôi mộ mới nằm im lìm quạnh quẽ,
Người thẫn thờ lặng lẽ đứng trầm ngâm,
Sau ánh mắt lặng câm,
Nỗi hối hận vẫn âm thầm lấp ló.
                        x
                    x      x
Em yêu dấu, phải chi ngày xưa đó,
Anh biết rằng sẽ có cảnh hôm nay,
Thì chúng mình đã chẳng phải chia tay,
Chẳng gánh chịu lắm đọa đày cách trở.

Ba năm cơm đường cháo chợ,
Anh quắt quay khổ sở đêm ngày,
Tự mắng mình quên hạnh phúc trong tay,
Chân khờ dại miệt mài theo ảo vọng.

Ba năm thả mồi bắt bóng,
Ngông cuồng mơ biển rộng trời xa,
Để giờ đây, lòng chua xót nhận ra,
Thiên đường chính là mái nhà duyên nợ.

Anh đã trách oan em làm đổ vỡ,
Những gì mình gây dựng thuở hàn vi,
Đâu biết rằng giọt nước cuối tràn ly,
Là kết quả của những gì đi trước.

Phải chi anh biết được,
Rằng suốt ngày em xuôi ngược đó đây,
Trở về nhà khi anh đã ngủ say,
Cũng vì bởi tương lai bầy con nhỏ.

Phải chi anh hiểu rõ,
Lý do làm em cãi cọ cùng anh,
Thì nhà mình đâu lâm cảnh chiến tranh,
Khi hai đứa khăng khăng giành phần thắng.

Nhìn cha mẹ oang oang lời cay đắng,
Đàn con rụt rè như rắn mùng năm,
Níu tay nhau, rón rén kiếm chỗ nằm,
Mắt ti hí lén thăm dò cuộc chiến.

Việc phải đến cuối cùng rồi đã đến,
Anh lạnh lùng đề xướng chuyện chia tay,
Bao ân nghĩa sâu dày,
Vì nông nổi, phút giây đành tan rã.

Rồi mỗi người mỗi ngả,
Đàn con tất tả theo em.
Anh một mình, cuộc sống mới dần quen,
Mừng tưởng sẽ chóng quên ngày tháng cũ.

Nhưng qua những chuỗi đêm dài mất ngủ,
Nhìn ánh đèn, ủ rũ nhớ người thân,
Đếm tháng năm theo lá úa rơi dần,
Anh chợt thấy mình sai lầm nghiêm trọng.

Ôm gối lẻ, lòng thẹn thùng với bóng,
Thoáng ngậm ngùi nghĩ đến mộng đoàn viên,
Thầm mong câu tha thứ của vợ hiền,
Mơ vực dậy chút tình duyên đã chết.

Nhưng đau đớn, trời xanh kia khắc nghiệt,
Anh bàng hoàng khôn xiết lúc nghe tin,
Em đơn côi một tối bỏ gia đình,
Bỏ con cái, đăng trình về chốn ấy.

Phải chi anh biết vậy,
Thì đã không lần lữa bấy lâu nay,
Để khi anh chua xót muốn giãi bày,
Thì em hỡi, tiếc thay đà quá trễ.

Anh xớ rớ một mình trong tang lễ,
Họ hàng xem anh như kẻ qua đường,
Mỉa mai nhìn những giọt lệ tiếc thương,
Đang lã chã cuối chặng đường hối lỗi.

Anh nào dám mong gia đình thứ tội,
Vì dù cho sám hối đến bao lần,
Cũng không sao chuộc lại được một phần,
Những sai sót, lỗi lầm anh mắc phải.

Xưa trót lỡ gây nên điều oan trái,
Phút giây này, đành trọn hái buồn đau.
Chỉ khi mình đã vĩnh viễn mất nhau,
Mới hiểu được thế nào là ly biệt.
                        x
                    x      x
Gió lạc bước rên từng hồi thê thiết,
Nghĩa trang nhờ, người mỏi mệt lang thang.
Cành cây khô, trong tiếc nhớ trễ tràng,
Nhẹ rải xác lá vàng trên mộ mới.

            Trần Văn Lương
                Cali, 12/2010
 
 
(Nguồn : DĐ VĐH-DL )
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Jan/2011 lúc 5:02pm
 
Dạo:
    Tiếng cười còn đọng bên sông,
Con đò thiên cổ đã giong chốn nào.



  Đò Đêm Bỏ Bến

(Tiễn người đã ra đi trong một đêm về miền vĩnh cửu)

Mây về quẩn bến sông,
Nghẽn tắt nắng chiều đông.
Nhánh rong già trốc cội,
Bối rối đợi bên dòng.

Lung linh ánh điện màu,
Nhạc cũ gói niềm đau.
Nhớ nhung nào thúc giục
Người lục tục tìm nhau.

Nhịp bước nhỏ khoan thai,
Hương ca quyện gót hài,
Vòng tay dài chợt ấm,
Tóc lũ quấn mềm vai.

Đêm rộn rã tiếng cười,
Rượu mời chửa kịp vơi,
Bóng ai đà vội vã,
Lén từ giã cuộc chơi.

Đò thiên cổ chực chờ,
Người bước xuống bơ vơ,
Lệ đôi bờ tuôn đổ,
Đường cố thổ mịt mờ.

Lành lạnh gió âm ti,
Ai oán khúc từ ly,
Não nề câu vĩnh biệt,
Thê thiết lúc phân kỳ.

Nhàn nhạt phấn trăng treo,
Đò khuya lặng lẽ chèo.
Cánh bèo xuôi nẻo giác,
Ngơ ngác bến nhìn theo.

      Trần Văn Lương
          Cali, 1/2011





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Jan/2011 lúc 9:47pm
 
Dạo:

      Lạnh lùng kiếm sĩ vung tay,
Xác người chỗi dậy, loay hoay trở về.





          活人劍
雪 雨 綿 綿 折 樹 枝,
安 然 劍 士 看 寒 屍.
風 吹 峻 嶺 殘 雲 散,
月 照 孤 江 冷 霧 彌.
一 擊 師 頭 雖 易 落,
千 年 祖 意 又 難 知.
劍 鋩 閃 閃 穿 屍 頸,
死 漢 囬 生 漸 漸 離.
              陳 文 良


Âm Hán Việt:


        Hoạt Nhân Kiếm

Tuyết vũ miên miên chiết thụ chi,
An nhiên kiếm sĩ khán hàn thi.
Phong xuy tuấn lĩnh, tàn vân tán,
Nguyệt chiếu cô giang, lãnh vụ di.
Nhất kích, sư đầu tuy dị lạc,
Thiên niên, tổ ý hựu nan tri.
Kiếm mang thiểm thiểm xuyên thi cảnh,
Tử hán hồi sinh, tiệm tiệm ly.

        (Trần Văn Lương)




Dịch nghĩa:


            Kiếm cứu sống người  (1)

Mưa tuyết liên miên làm gãy cành cây,
Kiếm sĩ bình thản đứng nhìn cái xác chết lạnh.
Gió thổi qua đỉnh núi cao, làm tan đi đám mây tàn,
Trăng chiếu trên giòng sông cô độc, sương lạnh đầy khắp.
Một nhát kiếm, đầu của thầy tuy dễ rụng, (2)
(Nhưng) ngàn năm, ý của Tổ sư vẫn khó biết được. (3)
Mũi kiếm lóe lên xuyên qua cổ họng xác chết,
Kẻ chết (bỗng) sống lại, chầm chậm rời đi (4).




Ghi chú:



(1)  Bích Nham Lục, tắc 12 : Động Sơn Tam Cân

Lời Thùy của Viên Ngộ :
      Đao giết người, kiếm cứu sống người. Đó là phong quy của thượng cổ và cũng là điều quan yếu của ngày nay. Nếu luận về giết thì không tổn hại đến một sợi lông. Nếu luận về cứu thì phải tan thây mất mạng. Vì thế nên có lời: Con đường đi lên, ngàn thánh không truyền, người học mỏi mệt như con vượn đuổi bắt bóng. Vậy hãy nói: Nếu đã là không truyền thì tại sao lại có lắm công án nhì nhằng như thế này? Người mắt sáng hãy thử nêu lên xem.



(2)

      i)  Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 7, truyện Nham Đầu Toàn Khoát Thiền Sư

Sư  (Nham Đầu) hỏi tăng :
  - Từ đâu đến?
Tăng đáp:
  - Tây Kinh.
Sư hỏi:
  - Sau loạn Hoàng Sào, còn thu được kiếm không?
Tăng đáp:
  - Thu được.
Sư đưa đầu ra phía trước nói:
  - Đây!
Tăng nói:
  -  Đầu Thầy rụng rồi!
Sư cười ha hả.
Ông tăng này sau đến Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
  - Từ đâu đến?
Tăng đáp:
  - Từ Nham Đầu đến.
Tuyết Phong hỏi:
  - Nham Đầu nói gì?
Tăng kể lại những câu vấn đáp cũ.
Tuyết Phong bèn đánh cho 30 gậy và đuổi ra.


      ii)  Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 7, truyện Đức Sơn Tuyên Giám Thiền Sư

Long Nha hỏi Sư (Đức Sơn) :
  - Khi người học mang kiếm Mạc Da tới để lấy đầu Thầy thì làm sao?
Sư đưa đầu ra phía trước nói:
  - Đây!
Long Nha nói :
  - Đầu rụng rồi!
Sư cười ha hả.
Long Nha sau đến Động Sơn, kể lại chuyện trên. Động Sơn hỏi:
  - Đức Sơn nói gì?
Long Nha đáp:
  - Đức Sơn không có lời gì cả.
Động Sơn bảo:
  - Đừng nói là không có lời gì, hãy đem cái đầu đã rụng của Đức Sơn cho lão tăng xem.
Long Nha chợt tỉnh ngộ, bèn làm lễ sám hối.
Có một ông tăng khác kể lại với Sư (Đức Sơn), Sư bảo:
  - Cái lão già Động Sơn không biết tốt xấu. Cái gã này chết đã lâu, cứu lại mà làm gì.


(3)  Một câu hỏi rất được hay dùng trong các cuộc vấn đáp về Thiền là:
   
- Ý của Tổ sư từ Tây sang là gì ?  (Như hà thị Tổ sư Tây lai ý? )



(4)  Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 7, truyện Nham Đầu Toàn Khoát Thiền Sư

Có một ông tăng từ Thiền hội của Giáp Sơn đến Thạch Sương. Vừa bước qua cửa, ông tăng bèn nói:
  - Không xét  (Bất thẩm)!
Thạch Sương bảo:
  - Không việc gì phải thế, xà lê!
Tăng nói:
  - Thế thì trân trọng!

Ông tăng lại đến Sư (Nham Đầu), cũng như trước nói:
  - Không xét  (Bất thẩm)!
Sư chỉ hư một tiếng.
Tăng nói:
  - Thế thì trân trọng!
Và quay đầu ra đi. Sư bảo:
  - Tuy là hậu sinh, nhưng cũng đảm đương được.

Ông tăng trở về kể lại mọi sự cho Giáp Sơn.
Giáp Sơn thượng đường nói:
  - Ông tăng vừa về từ Nham Đầu và Thạch Sương đâu, xin ra đây nói chuyện.
Ông tăng kể lại tất cả.
Giáp Sơn hỏi:
  - Đại chúng có hiểu không?
Trong chúng không ai trả lời.
Giáp Sơn nói:
  - Nếu không ai nói được thì sư núi này chẳng tiếc đôi lông mày mà nói vậy!
Bèn tiếp:
  - Thạch Sương có đao giết người, nhưng không có kiếm cứu người. Nham Đầu vừa có đao giết người vừa có kiếm cứu người.



Phỏng dịch thơ:

              Kiếm Cứu Người

Mưa tuyết nặng, bóng cây già ngã quỵ,
Nhìn xác người, kiếm sĩ vẫn bình tâm.
Gió non cao về quét sạch phù vân,
Bóng trăng lạnh, sương đêm dầm ướt đẫm.

Câu thưa hỏi, đầu thầy rơi mấy bận,
Ý Tổ sư, tường tận có mấy ai.
Ánh kiếm bay xuyên thấu cổ thi hài,
Xác sống dậy, loay hoay rời chốn cũ.

                    Trần Văn Lương
                        Cali, 1/2011



Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :

        Đẹp thay tấm lòng từ bi tha thiết như lão bà của Nham Đầu!
        Đao giết người, kiếm cứu người. Hừm, nhưng cứu để làm gì?
        Hỡi ơi! Lão tăng tội lỗi.


(Nguồn : DĐ VDH DL )


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Jan/2011 lúc 9:20pm
 
Xin gửi đến đễn đàn : Thụ Nhân anh (Trần Văn Lương) & Thụ Nhân em(Khách Sạn Ngàn Sao) .... giao lưu !
Mời đọc cho vui những ngày sắp Tết Tân Mão .
mk
 
 
"Kính anh Lương!

Xin cảm ơn anh đã cho thưởng thức một bài thơ chữ Hán hàm chứa một ý tưởng rất uyên thâm. Quả là 'cóc' thiền như anh vẫn khiêm nhường nói. Xưa nay KSNS vẫn rất mến phục tài năng thiên phú xuất chúng của anh trong thi ca. Từ sự mến mộ đó, KSNS đã có đôi lần tạm dịch bản chữ Hán của anh. Và đây một lần nữa, xin được phỏng dịch bài Hoạt Nhân Kiếm, kèm theo một lời bàn ở cuối.
 
 

Kiếm cứu người

Dạo:

Từ tốn cư sĩ thày lay,
Người bỗng tỉnh ngộ loay hoay trở về.

Phỏng dịch:

Tuyết rơi trĩu nặng cành cổ thụ,
Nhìn xác người kiếm sĩ điềm nhiên,
Gió tung đỉnh núi tan mây mỏng,
Trăng soi sông vắng mù triền miên.
Lời thầy mới mở tuy dễ lọt,
Nghìn năm ý tổ thật uyên nhiên,
Kiếm nhọn loang loáng cổ người chết,
Tử thi sống lại di chuyển dần.

KSNS (Kiếm Sĩ Ngàn Sao)
Isle of Man, Jan 2011.
 
 

Lời bàn của Kiếm Sĩ Ngàn Sao (biệt hiệu do chị Ai Cơ ưu ái tặng cho 6 năm về trước - Xin cảm ơn chị):

Có phải chăng lời nói cũng như nhát kiếm; dùng nó để giết người thì dễ, cứu người thì khó?

 
DDa.o kha? dda.o phi thu*o*`ng dda.o
Danh kha? danh phi thu*o*`ng danh (La~o Tu*?)  "
 

(nguồn : DĐ VDH-DL)

 



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Feb/2011 lúc 10:27am
 
Khai Bút Đầu Năm
        Tân Mão


Tết nhất phải đi cày,
Vành mi rách lại cay.
Tương lai hoài lấn cấn,
Quá khứ vẫn loay hoay.
Nợ nước vay mờ mắt,
Thù nhà vắt lọi tay.
Sầu dai nhai trệu trạo,
Lảo đảo ngỡ mình say!

      Trần Văn Lương
Cali, Mùng Một Tết Tân Mão,
              2/3/2011
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Feb/2011 lúc 11:44am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu

 
Khai Bút Đầu Năm
        Tân Mão


Tết nhất phải đi cày,
Vành mi rách lại cay.
Tương lai hoài lấn cấn,
Quá khứ vẫn loay hoay.
Nợ nước vay mờ mắt,
Thù nhà vắt lọi tay.
Sầu dai nhai trệu trạo,
Lảo đảo ngỡ mình say!

      Trần Văn Lương
Cali, Mùng Một Tết Tân Mão,
              2/3/2011
  
 
 
 
 
Anh Lương mến,
Hôm nay cho phép CR tiếp bài thơ của anh , cho anh Lương quên nổi buồn tha phương ... anh nhé


Mùng một ngỡ ta say
Tháng hai trời gía lạnh
Tình bạn tay trong tay
Dù nay mình viễn xứ
Nỗi nhớ vẫn loay hoay
Ước gì con nước Việt
Về với mẹ thôi cày

Thanh Hương
 
 
 
 
 
Tiếp lời anh Lương và Carole cũng tập Khai Bút Đầu Năm nhé.
 
 
Đi cày là có phước!
Biết bao người mơ ước!
Được đi cày dài dài
Hơn ở nhà gánh nước!
 
Nhưng nước nhà ơi, ai gánh nổi
Bao năm chưa đủ lòng hối lỗi
Nhớ lại ngày xưa ta từng làm...
Nước mất nhà tan, bao tội lỗi...
 
Vì vậy...
 
Anh có say đâu! Ối anh Lương!
Nợ nước, thù nhà , vẫn vấn vương
Ngày qua tháng lại lòng ấp ủ
Nhà, dạ sao quên! Nước nhớ thương!
 
Quản Mỹ Lan
Mồng Một Tết Tân Mão...... 
 
 
(nguồn : DĐ VDH-DL) 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Feb/2011 lúc 10:03am
 





Dạo:
     
Xuân kia vẫn khuất chân trời,
Sao hoa vội nở, mặc người trong đêm.




      望 春

灝 灝 冬 霖 漫 草 田,
桃 花 老 鳥 待 新 年.
鰥 猴 戴 影 峯 頭 噭,
病 藻 含 霜 水 畔 眠.
壯 士 窮 途 屍 滿 地,
英 雄 末 路 恨 滔 天.
春 暉 未 到 花 狂 放,
鳥 死 寒 矑 望 故 園.
            陳 文 良

Âm Hán Việt:


              Vọng Xuân

Hạo hạo đông lâm mạn thảo điền,
Đào hoa lão điểu đãi tân niên.
Quan hầu đái ảnh phong đầu khiếu,
Bệnh tảo hàm sương thủy bạn miên.
Tráng sĩ cùng đồ, thi mãn địa,
Anh hùng mạt lộ, hận thao thiên.
Xuân huy vị đáo, hoa cuồng phóng,
Điểu tử, hàn lô vọng cố viên.

              Trần Văn Lương




Dịch nghĩa:

                      Ngóng Xuân

Mênh mông mưa dầm mùa đông làm ướt sũng ruộng cỏ,
Hoa đào và con chim già (cùng) đợi năm mới.
Con khỉ góa vợ đội bóng mình gào khóc trên đầu núi,
Rong rêu bệnh hoạn ngậm sương nằm ngủ ven bờ nước.
Tráng sĩ cùng đường, xác (nằm) đầy đất.
Anh hùng cuối nẻo, nỗi hận ngập trời.
Nắng xuân chưa đến (mà) hoa đã điên cuồng nở,
Con chim chết, (nhưng) tròng mắt lạnh (vẫn) ngóng về vườn cũ.





Phỏng dịch thơ:

                  Ngóng Xuân

Mưa Đông lạnh đầm đìa trên xác cỏ,
Con chim già, cánh đào nhỏ chờ Xuân.
Đầu non cao, khỉ góa khóc vang rân,
Rong rêu úa lịm dần bên bến đục.

Tráng sĩ sa cơ, xương nằm chen chúc,
Anh hùng mạt lộ, oán ngút trời xanh.
Xuân chưa sang, hoa vội thắm rực cành,
Con chim chết, mắt buồn canh lối cũ.

                      Trần Văn Lương
                Cali, Xuân Tân Mão, 2/2011


Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :

    Xuân chưa sang, hoa đã nở. Con chim già kia chết làm sao nhắm mắt được, hỡi ơi!
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Mar/2011 lúc 9:27am

 


Dạo:
        Đã bao mùa cỏ dại,
        Người vẫn mãi chờ trăng.

Cóc cuối tuần:

      Đêm Cắt Cỏ Chờ Trăng

        Chiều gom nắng lẻ ra đi,
Khối sầu thức giấc rầm rì nói năng.
        Một mình cắt cỏ chờ trăng,
Muỗi mòng lớp lớp nhì nhằng bên tai.
        Thiên thai cửa đóng then cài,
Dòng sông hoài niệm miệt mài chảy quanh.
        Vườn không gió rúc lạnh tanh,
Dăm đàn khỉ nhỏ tập tành ăn chơi.
      Ruộng đồng nứt nẻ tả tơi,
Bơ vơ cò mẹ cuối trời đợi con.
        Lập lòe đốm lửa đầu non,
Nửa câu hò hẹn mỏi mòn thiết tha.
        Mong manh lọn khói sau nhà,
Đơn côi một ánh đèn ma gọi hồn.
        Nhìn đom đóm dạ bồn chồn,
Mông lung tiếng súng giữ đồn đêm xưa.
        Quê hương từ độ máu mưa,
Dung nhan héo úa như dưa chợ chiều.
        Lối hoàng hôn bặt tiếng tiêu,
Bên bờ sông lạnh cánh diều đứt dây.
        Nghĩa trang phố xá mọc đầy,
Mộ bia vô chủ lất lây dọc đàng.
        Tang thương nhuộm đỏ xóm làng,
Hoang mang tóc trắng lang thang không nhà.
        Ngỡ mình bước giữa quê cha,
Nào hay giờ đã xót xa đất người.
        Nhởn nhơ bầy thú nói cười,
Hai tròng mắt lạnh ngời ngời ánh dao.
        Xênh xang hồng tía trên cao,
Xương khô đáy vực thét gào ai hay.
        Phép mầu biết chỗ nào vay,
Nỗi hờn vong quốc biết ngày nào tan.
                              x
                        x        x
        Sương khuya lắng, giọt sầu lan,
Lam nham sắc cỏ, nhặt khoan dấu giày.
        Ngậm ngùi nhìn gió đuổi mây,
Mới hay trăng cũ đêm nay không về.
               

                  Trần Văn Lương
                    Cali, 3/2011


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 11/Apr/2011 lúc 12:50am
 
 

Dạo:
Xuân kia vẫn khuất chân trời,
Sao hoa vội nở, mặc người trong đêm.

Cóc cuối tuần:

望 春

灝 灝 冬 霖 漫 草 田,
桃 花 老 鳥 待 新 年.
鰥 猴 戴 影 峯 頭 噭,
病 藻 含 霜 水 畔 眠.
壯 士 窮 途 屍 滿 地,
英 雄 末 路 恨 滔 天.
春 暉 未 到 花 狂 放,
鳥 死 寒 矑 望 故 園.
陳 文 良


Âm Hán Việt:

Vọng Xuân

Hạo hạo đông lâm mạn thảo điền,
Đào hoa lão điểu đãi tân niên.
Quan hầu đái ảnh phong đầu khiếu,
Bệnh tảo hàm sương thủy bạn miên.
Tráng sĩ cùng đồ, thi mãn địa,
Anh hùng mạt lộ, hận thao thiên.
Xuân huy vị đáo, hoa cuồng phóng,
Điểu tử, hàn lô vọng cố viên.
Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

Ngóng Xuân
Mênh mông mưa dầm mùa đông làm ướt sũng ruộng cỏ,
Hoa đào và con chim già (cùng) đợi năm mới.
Con khỉ góa vợ đội bóng mình gào khóc trên đầu núi,
Rong rêu bệnh hoạn ngậm sương nằm ngủ ven bờ nước.
Tráng sĩ cùng đường, xác (nằm) đầy đất.
Anh hùng cuối nẻo, nỗi hận ngập trời.
Nắng xuân chưa đến (mà) hoa đã điên cuồng nở,
Con chim chết, (nhưng) tròng mắt lạnh (vẫn) ngóng về vườn cũ.

Phỏng dịch thơ:

Ngóng Xuân

Mưa Đông lạnh đầm đìa trên xác cỏ,
Con chim già, cánh đào nhỏ chờ Xuân.
Đầu non cao, khỉ góa khóc vang rân,
Rong rêu úa lịm dần bên bến đục.

Tráng sĩ sa cơ, xương nằm chen chúc,
Anh hùng mạt lộ, oán ngút trời xanh.
Xuân chưa sang, hoa vội thắm rực cành,
Con chim chết, mắt buồn canh lối cũ.


Trần Văn Lương
Cali, Xuân Tân Mão, 2/2011

Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
Xuân chưa sang, hoa đã nở. Con chim già kia chết làm sao nhắm mắt được, hỡi ơi!
 
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/Oct/2011 lúc 9:15pm



Dạo:

      Trách ai lỡ gọi thu về,
Lê thê sắc lá, não nề tiếng đêm.



      Lỡ Gọi Thu Về

Rừng quen nếp cũ gọi thu về,
Rặng lá say màu đứng ủ ê.
Khói rách não nề ôm gió muộn,
Nắng già luộm thuộm quét đường quê.

Bóng vạc lê thê ngược bước chiều,
Nát lòng bỏ lại mái nhà xiêu.
Cố quận tiêu điều, cây đổi gốc,
Trằn trọc đêm mơ một bóng diều.

Dập dìu đất lạ ánh sao rơi,
Tóc trắng lơ ngơ chặng cuối đời.
Lếch thếch lưng đồi, trăng lấm bụi,
Sương ngàn lủi thủi bám ngày rơi.

Đốm lửa trên môi tắt vội vàng,
Nỗi buồn biệt xứ mãi mênh mang.
Lang thang gót giẫm màu hoa rụng,
Tiếc nuối chi chăng cũng lỡ làng.

Kiến vàng mất tổ lụy mo cau,
Quay quắt chia nhau một mảnh sầu.
Ngắm lá thay màu, tim quặn thắt,
Đêm dài siết chặt khối buồn nâu.

Phượng đỏ năm nao đã nhạt dần,
Đất người, hoa tím lót mềm chân.
Ngại ngần kỷ niệm tìm nơi ẩn,
Một trận Ngâu xưa tạnh mấy lần.

Âm thầm cánh nhạn trốn ra khơi,
Từng chuỗi hoàng hôn vắng tiếng cười.
Chim chết theo người, ai có biết,
Trên bờ ly biệt máu còn tươi.

Dăm bóng ma trơi nổi vật vờ,
Lời kinh đưa tiễn trổi vu vơ.
Nấm mồ đắp vội chờ nhang khói,
Le lói trong mây đốm nguyệt mờ.

Thẫn thờ thao thức đợi chiêm bao,
Chăn gối nhăn nheo cất tiếng gào.
Mộng ước nôn nao chèn giấc ngủ,
Đêm dài lệ đỏ, mắt xanh xao.

Quạ lẻ cây cao cất tiếng sầu,
Nghẹn ngào lá đáp lại từng câu.
Nhịp cầu sớm gãy ngày chia cách,
Lữ khách trăm năm lỡ chuyến tàu.

Dàu dàu cỏ dại ngóng sương sa,
Hiu hắt thôn khuya một tiếng gà.
Côi cút trăng tà soi giếng cạn,
Chim trời thiếu bạn ngại đường xa.

Biển động, hồn ma cũ nhấp nhô,
Ngậm ngùi quê mẹ biết nơi mô.
Thân cô, thế bạc, thôi đành mặc,
Dằng dặc bao năm chẳng nấm mồ.

Cây khô trần trụi đứng ê chề,
Nhìn xác lá vàng, tỉnh giấc mê.
Đêm tối rầm rì câu sám hối,
Ăn năn trót lỡ gọi thu về.

        Trần Văn Lương
            Cali, 10/2011











-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Nov/2011 lúc 6:26pm


Đông Điệp

(thơ Trần văn Lương)


Dạo:
    Bao năm giông gió miệt mài,
Người ra đi chẳng còn ai trở về.
 
Cóc cuối tuần:
 
     冬 蝶
 
冬 林 葉 久 殘 ,
百 蝶 越 寒 關 .
遠 路 多 風 雨 ,
春 來 沒 一 還 .
    
 
 
Âm Hán Việt:
 
 
        Đông Điệp
 
Đông lâm diệp cửu tàn,
Bách điệp việt hàn quan.
Viễn lộ đa phong vũ,
Xuân lai, một nhất hoàn.
      Trần Văn Lương
 
 
Dịch nghĩa:
 
          Bướm Mùa Đông
Rừng mùa Đông lá đã héo tàn từ lâu,
Hàng trăm con bướm vượt qua cửa ải lạnh.
Đường xa nhiều mưa gió,
Xuân đến, chẳng có một con nào (sống sót) trở lại.
 
 
Phỏng dịch thơ:
 
                Bướm Đông
 
       Rừng Đông lá trọn héo vàng,
Trăm con bướm nhỏ bàng hoàng xa quê.
       Dặm trường giông gió lê thê,
Còn ai sống sót trở về ngày Xuân !

                  Trần Văn Lương
                    Cali, 11/2011
 
 
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :

         Ra đi hàng trăm, nhưng chẳng còn ai sống sót để trở về khi mùa Xuân tới.
        Than ôi! Thương thay đàn bướm Việt!




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Dec/2011 lúc 5:50pm

Dạo:
    Trên dòng mộng mị thuyền trôi,
Thiên  thu  gang  tấc,  xa  xôi  nẻo  về.
 
Cóc cuối tuần:
 
 
       Trên Dòng Sông Mị 
 
Dòng Mị Thủy, chiếc thuyền câu ngơ ngác,
Bến Châu Trầm, lác đác vụn xương nâu,
Rừng Cửu Ly, tráo trở lá thay mầu,
Đồi Vĩnh Hận, đầu lâu phơi chật đất.
 
Bóng đèn khuya gà gật,
Người già váng vất hom hem.
Ánh mắt đục lên men
Len lỏi lối đêm đen mờ ảo.
 
Hạt sương mặn lách luồn qua cổ áo,
Mảnh hồn say chợt tỉnh táo phút giây,
Để thấy mình mang kiếp sống cỏ cây,
Lây lất giữa chuỗi tháng ngày vô vọng.
 
Thân tàn tạ, hồn hư hao lạnh cóng,
Có còn chăng dòng máu nóng trong tim.
Cơn đau tưởng lắng chìm,
Đêm nay chợt vươn mình trỗi dậy.
 
Quá khứ đành đã vậy,
Tương lai rồi biết cậy vào đâu.
Quê hương xưa vẫn ngun ngút khói sầu,
Người chết cũng nghe máu trào phẫn nộ.
 
Quê cha đất tổ,
Thành hang ổ sài lang.
Từng tấc đất thôn làng,
Ngoại bang dần chiếm trọn.
 
Dù tuổi già sức mỏn,
Lửa quốc thù luôn nhóm mãi trong tâm.
Mảnh lòng son như hứng mũi dao đâm,
Khi đất nước thêm một lần Bắc thuộc.
 
Đôi mắt đỏ bừng lên như ánh đuốc,
Xót dân mình rày lắm cuộc đau thương,
Kẻ tù đày xiềng xích giữa quê hương,
Kẻ tất tả tìm phương xa lánh nạn.
 
Ai thấu được nỗi hờn căm vô hạn,
Khi nhớ về bè bạn đã ra đi.
Mộ rừng hoang, cỏ chen chúc xanh rì,
Năm tháng tận, chẳng còn chi dấu vết.
 
Kiếp sống thừa sắp hết,
Cái chết hẹn lần qua,
Thăm thẳm bóng quê nhà,
Xót xa tà áo trận.
 
Đèn vụt tắt, lòng người thêm khốn quẫn,
Mơ hồ nghe tiếng thét hận toàn dân,
Dòng máu hùng cuồn cuộn khắp châu thân,
Văng vẳng khúc nhạc quân hành thúc giục.
 
Vụt nhổm dậy, giọng ca già khản đục,
Lê tấm thân gầy guộc đến be thuyền,
Rồi mạnh dạn tiến lên,
Chìm khuất dưới làn nước đêm băng giá.
                            x
                       x        x
Bờ sông vắng, lượn sóng buồn rỉ rả,
Mây vầy đoàn, lừa khóa kín trời đông.
Quạ từng bầy đáp xuống chiếc thuyền không,
Đang trôi nổi trên dòng sông mộng mị.
 
Chốn ngàn thu yên nghỉ,
Người chắc còn nghĩ đến quê hương,
Nơi dân lành, trong tủi nhục đau thương,
Chờ đợi mãi, nhưng vầng dương chẳng tỏ.
 
Đồi Vĩnh Hận, mộ dày hơn kiến cỏ,
Rừng Cửu Ly, cây tróc vỏ khô cằn,
Bến Châu Trầm, gió quạt héo vành khăn,
Dòng Mị Thủy, xác người lăn đáy nước.

                 Trần Văn Lương
                   Cali, 12/2011
 
 
 
Ghi chú về các địa danh trong bài:
        Sông Mị Thủy, bến Châu Trầm, rừng Cửu Ly và đồi Vĩnh Hận..., tất cả đều nằm trong vùng đất mà ông Rod Serling gọi là "The Twilight Zone".






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 19/Jan/2012 lúc 3:54pm


----- Forwarded Message -----
From: Luong V. Tran <tran ..... >

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần cuối năm Tân Mão.
Kính chúc quý anh chị một năm Nhâm Thìn an khang thịnh vượng và vạn sự như ý.
 
Dạo:
       Xuân sang thiếu cánh mai vàng,
Xanh xao mắt trọ, mênh mang giấc sầu.
 
 
 
Cóc cuối tuần:
 
 
 
Mơ Một Cành Mai
 
Đèn mờ như ảo giác,
Nhếch nhác vách tường câm,
Khu dưỡng lão tối sầm,
Già âm thầm ngóng Tết.
 
Bao năm dài đợi chết,
Sống cách biệt người thân,
Ao ước được một lần,
Đầu Xuân nhìn mai nở.
 
Con từ lâu đã hứa,
Dù cách trở đường xa,
Sẽ mang đến tặng cha,
Cành hoa hằng mong mỏi.
 
Ngày ngày không dám hỏi,
Vẫn gắng gỏi trông chờ,
Đêm đến lại thẫn thờ,
Mắt khờ căng giọt tủi.
 
Thân khuya giờ thui thủi,
Biết tàn lụi giấc mơ.
Nhưng giây phút không ngờ,
Pháo giao thừa chợt vẳng.
 
Mở choàng đôi mắt trắng,
Hồn tím lặng ngỡ ngàng:
Chiếc bình cũ trên bàn,
Mai vàng ai đã cắm!
 
Nhìn màu hoa rực thắm,
Môi ướt đẫm quên lời.
Nỗi đau đớn một đời,
Dần vơi theo tiếng nấc.
 
Thầm trách mình say giấc,
Lỡ mất dịp gặp con,
Chốn ngàn dặm nước non,
Đến giữ tròn câu hứa.
 
Run run lần chỗ dựa,
Lẩy bẩy ngửa vòng tay,
Ôm cứng lấy bình mai,
Cửa tuyền đài vụt hé.
                x
          x          x
Nhá nhem căn phòng bé,
Tia nắng lẻ đầu Xuân,
Lúng túng chậm thay dần,
Ánh đèn sân mới tắt.
 
Xác người già lạnh ngắt,
Nằm co quắp giữa phòng,
Tay siết chặt vào lòng,
Chiếc bình bông trống rỗng.

        Trần Văn Lương
          Cali, 1/2012



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Feb/2012 lúc 8:13pm

Cố Quận Hàn Lư
(Nhà Tranh Chốn Cũ)



Dạo:
        Mẹ già thiên cổ đăng trình,
Nhà tranh trống vắng một mình ngóng Xuân.
 
 
 
Cóc cuối tuần:
 
 
         (Kính dâng Hương Linh , đánh dấu
          cái Tết đầu tiên không còn còm cõi
          một mình ở quê nhà để mòn mỏi nhớ
          thương đợi chờ thằng con bất hiếu của )
 
 
   故 郡 寒 廬
 
日 短 風 淒 黑 夜 長,
寒 廬 慈 母 待 春 香.
家 亡 國 破 心 如 火,
子 散 孫 離 髮 若 霜.
異 獸 狂 奔 吞 越 土,
癡 狐 怯 伏 獻 南 疆.
冬 遲 老 母 歸 西 路,
春 夜 空 廬 獨 望 暘.
             
 
 
 
 
 
Âm Hán Việt:
 
 
         Cố Quận Hàn Lư
 
Nhật đoản, phong thê, hắc dạ trường,
Hàn lư, từ mẫu đãi xuân hương.
Gia vong, quốc phá, tâm như hỏa,
Tử tán, tôn ly, phát nhược sương.
Dị thú cuồng bôn, thôn Việt thổ,
Si hồ khiếp phục, hiến Nam cương.
Đông trì, lão mẫu quy Tây lộ,
Xuân dạ không lư độc vọng dương.
              
 
Trần Văn Lương
 
 
 
Dịch nghĩa:
 
        Nhà Tranh Lạnh Nơi Chốn Cũ
 
Ngày ngắn, gió lạnh lẽo, đêm đen dài,
(Trong) nhà tranh lạnh,  mẹ hiền ngóng đợi hương mùa Xuân.
Nhà mất, nước tan, lòng (mẹ) như lửa,
Con phân tán, cháu lìa xa, tóc (mẹ) tựa sương.
Thú lạ điên cuồng chạy, nuốt đất đai Việt,
Cáo ngu hèn nhát phục xuống, dâng hiến bờ cõi Nam.
Mùa Đông trôi chậm, mẹ già về Tây phương,
(Cho nên khi)đêm Xuân (tới thì) chỉ còn có căn nhà tranh trống vắng đợi mặt trời mọc.
 
 
 
 
Phỏng dịch thơ:
 
        Nhà Tranh Chốn Cũ
 
Đêm lấn chân ngày, gió khóc than,
Nhà tranh, mẹ gắng đợi Đông tàn.
Cháu con lạc lõng, sương dầm tóc,
Làng xóm tan hoang, lửa đốt gan.
Thú lạ cuồng điên vày đất nước,
Chồn ngu khiếp nhược hiến giang san.
Xuân chưa tới, mẹ về thiên cổ,
Trống vắng nhà tranh vọng nắng ngàn.
                 Trần Văn Lương
        Cali, Xuân Nhâm Thìn, 1/2012
 
 
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
    Bao nhiêu đời mẹ sẽ phải qua đi trước khi nước nhà thấy lại được nắng Xuân?
    Hỡi ơi!






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Mar/2012 lúc 10:04pm

Dạo:

       Mai kia nắng trở về đây,
Biết chăng lữ khách chiều nay không còn.

 
Cóc cuối tuần:
 
 
Chiều đua Với Nắng 
 
 
Đường thon thon nét bút,
Lộ trình dài, hun hút bóng xe thưa.
Người nôn nao vớt vát ánh dương thừa,
Cố đến đích khi ngày chưa tắt nắng.
 
Cánh đồng hoang bằng bặn,
Cây khô lẳng lặng giật lùi.
Con bò khờ cặm cụi lui cui,
Bòn vét chút ngọt bùi trong cỏ áy.
 
Bon bon xe chạy,
Nóng nảy nắng về xa.
Hai kẻ không nhà,
Cùng bôn ba chung lối.
 
Trời chông chênh sụp tối,
Giật mình bối rối nhìn quanh.
Đường thiên lý lạnh tanh,
Người chán nản nhẹ quành ra ngõ vắng.
 
Chiều chạy đua với nắng,
Dù ai thắng ai thua,
Cũng là chuyện vui đùa
Vô ích tựa giữa mùa thu đếm lá.
 
Con chim nhỏ lạnh lùng trên tảng đá,
Mỉa mai nhìn người khách lạ băn khoăn.
Chốn trần gian vốn đã sẵn nhọc nhằn,
Sao vẫn mãi lăng quăng mua phiền khổ.
 
Kiếp sống tạm, khác nào manh áo cũ,
Mặc lâu rồi, cũng phải giũ quăng đi.
Người dù may, ít gặp cảnh sinh ly,
Nhưng tử biệt trước sau gì cũng đến.
 
Đời mỗi người mỗi bến,
Đã lên bờ, quyến luyến cũng bằng không.
Hãy để mặc con sông
Đưa định mệnh đi về trong tĩnh lặng.
 
Dòng lịch sử bao năm dài đằng đẵng,
Chốn phù du, nào kẻ thắng người thua,
Nào công hầu, nào giặc cướp, nào vua,
Ai thoát được lời thiên thu réo gọi ?
                         x
                     x       x
Đêm luống cuống, mây vật vờ trôi nổi,
Sương mệt nhoài, gió rối thổi miên man.
Ảo vọng vỡ giòn tan,
Người hoang mang dụi mắt.
 
Dĩ vãng đà khuất mặt,
Bằn bặt nẻo tương lai.
Chỉ còn đây thân xác cũ rạc rài,
Gượng lê lết trên lối dài hiện tại.
 
Trăm năm nữa, nắng kia còn trở lại,
Người hôm nay mãi mãi sẽ không còn.
Họa còn chăng một nấm đất cỏn con,
Cùng mảnh đá đã mòn phai nét chữ.

             Trần Văn Lương
                 Cali, 3/2012






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/May/2013 lúc 7:36pm

Dạo:
       Chùa hoang lặng lẽ đưa chân,
Sau lưng một chuỗi phong trần dở dang.
 
Cóc cuối tuần:
 
   
 
,
.
,     
.       
,
.
,      
.
                  
 
Âm Hán Việt:
       
               Tịch Mịch

Ẩn ẩn lam bàng ảm nguyệt băng,
Lãnh trù phá tượng tống du tăng.
Đao đao lão điệp tầm thanh cốc,
Lịch lịch tàn sương mộc phế lăng.
Ác ác sô kê ngâm bí kệ,
Ngao ngao thạch khuyển phệ cô bằng.
Kinh khai trác thượng vô nhân độc,
Không ốc, hàn phong, bán tức đăng.

                  Trần Văn Lương
 
 

Dịch nghĩa
:
 
                   Yên Lặng

Lờ mờ bên cạnh chùa con trăng buồn rầu đổ xuống (chết),
Bếp lạnh và (pho) tượng vỡ tiễn đưa ông tăng hành cước lên đường.
Con bướm già đau đáu đi tìm hang động xanh tươi,
Sương tàn tí tách thấm trên lăng tẩm đã bỏ phế.
Eo óc con gà bện bằng rơm ngâm nga câu kệ thần bí,
Oang oang con chó đá sủa (để dọa) con đại bàng cô độc.
Cuốn sách kinh mở ra trên bàn không người đọc,
Nhà trống, gió lạnh, ngọn đèn đã tắt một nửa.
 
 
Phỏng dịch thơ:
 
 
                 Tịch Mịch
 
Chùa đổ nát, vết trăng tà ảm đạm,
Cảnh điêu tàn cùng khách tạm chia tay.
Con bướm già tìm hạnh phúc quắt quay,
Sương lất phất quét phai màu mộ cũ.
 
Ngâm nga kệ, gà rơm xua giấc ngủ,
Dọa chim trời, chó đá sủa miên man.
Quyển kinh không người đọc mở trên bàn,
Đèn lụi tắt, gió tràn qua vách trống.

                  Trần Văn Lương
                    Cali, 05/2013
 

Lời than của Phi Dã Thiền Sư :

    Ngôi chùa bỏ phế, ông tăng hành cước ghé tạm một đêm rồi ra đi,
    để lại một quyển kinh còn mở dở và một ngọn đèn tắt nửa chừng.
    Than ôi, kiếp người chẳng giống thế ru ?






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 20/Jun/2013 lúc 11:35pm


Dạo:
     Phố lạ chiều mưa,
     Chân đưa lạc lối.
     Mắt già bối rối,
     Đêm tối người thưa.
 
Cóc cuối tuần:
 
    Mưa Chiều Qua Phố Lạ
 
    Đường trơn trượt, ánh đèn thưa thớt,
    Cọng mưa dài lướt thướt bay quanh.
       Lao chao chiếc bóng độc hành,
Ngõ về chốn trọ lạnh tanh tiếng giày.
 
    Tiếng chuông thấm qua mây nghèn nghẹn,
    Tháp giáo đường thèn thẹn đứng yên.
        Từ ngày vắng bóng con chiên,
Cửa im ỉm đóng, Chúa quên lối vào.
 
    Chim đói rét quơ quào nẻo vắng,
    Phố mệt nhoài ngóng nắng hoàng hôn.
        Xôn xao lá khóc cội nguồn,
Miên man gió rít, dập dồn mưa sa.
 
    Văng vẳng khúc tình ca réo rắt,
    Kỷ niệm còm héo hắt co ro.
        Mưa xưa làm lỡ chuyến đò,
Nay về bới chuyện hẹn hò trách nhau.
 
    Mảnh đời cũ bàu nhàu chắp vá,
    Có khác gì xác lá chiều nay.
        Nợ đời ít trả nhiều vay,
Oan khiên nghiệt trái chất đầy hành trang.
 
    Mộng ước mãi lỡ làng dang dở,
    Cõi nương nhờ trắc trở đổi thay.
        Chưa vui trọn hết nắng ngày,
Bóng đêm thoắt đã chực ngay bên mành.
 
    Giọt mưa tát bầm xanh nét mặt,
    Hơi lạnh vầy tím ngắt thịt da.
        Hoang mang ánh mắt xa nhà,
Ngu ngơ lẩm nhẩm lời ca năm nào.
 
    Người lúp xúp chân cao chân thấp,
    Nước ngập trời biết nấp vào đâu.
        Hai tay che vội mái đầu,
Nhưng sao che được nỗi sầu dần lan.
 
    Mưa vẫn trút, nước tràn quáng lối,
    Lữ khách già bối rối loay hoay.
        Nhìn con phố lạ ngủ say,
Thầm hay có kẻ đêm nay lạc đường.

                  Trần Văn Lương
                      Cali, 6/2013






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Jul/2013 lúc 7:49am

Dạo:
       Lang thang gần đất xa trời,
Cuối dòng trăn trở, tiếng cười lạnh căm.
 
Cóc cuối tuần:
 
 
   Cuối Dòng Trăn Trở
 
Đêm nghe vẳng tiếng trời xa réo gọi,
Ánh đèn mờ, trơ trọi tách trà vơi.
Môi nhăn nheo lúng búng hạt kinh rời,
Bài ca vắt cạn lời không chịu tắt.
 
Nỗi buồn quen giấu mặt
Gặm mảnh hồn què quặt đến tang thương.
Xót xa quên con phố mất tên đường,
Se sắt nhớ mùi hương mưa nắng cũ.
 
Cây nghiệp chướng lại đâm chồi trổ nụ,
Xốn xang nhìn tô cháo lú còn nguyên.
Bao năm qua tội nghiệt vẫn chưa đền,
Thân mang nặng kiếp thiên thần gãy cánh.
 
Vân vê vành tai lạnh,
Mẩu thuốc tàn, khói đặc quánh vàng tay.
Tiếng chuông chiều lành lạnh, mắt cay cay,
Gió âm phủ lay lay tờ nắng cuối.
 
Vở kịch đời gian dối,
Hạnh phúc hờ múa rối trêu ngươi.
Cơn đau đớn rã rời,
Chợt chua chát bật cười thay tiếng khóc.
 
Quá khứ nhạt, kỷ niệm còi nheo nhóc,
Bám theo người lăn lóc nhặt oan khiên. 
Trăng héo úa tật nguyền,
Thui thủi ngoài hiên treo ảo vọng.
 
Đất mồ xưa lạnh cóng,
Hồn không nhà lọng cọng bước tìm nhau.
Câu thơ vay ngâm mãi đến bạc màu,    
Ai biết được kiếp sau còn có thực ?
 
Tâm sự ứa tràn lan đau giấy mực,
Gối chăn thừa buồn bực trách đèn khuya.
Gặp một lần rồi mãi mãi cách chia,
Nẻo thương nhớ, mộ bia hoài như mới.
 
Bình minh đến chỉ để chờ đêm tới,
Và xuân sang cũng để đợi đông về.
Chốn dương trần lầm giong ruổi chán chê,
Ngoảnh mặt lại, bóng quê nhà xa lắc.
 
Gương soi nửa mặt,
Bần thần tưởng gặp người quen.
Thờ thẫn vạch đêm đen,
Bơ vơ một ánh đèn le lói.
 
Cành cây khô tập nói,
Chuyện thiên thu dở dói thêm phiền.
Trót bập bềnh trong chuỗi mộng triền miên,
Nên lận đận giấc điên dài không tỉnh.
                         x
                    x        x
Gió phượng lắng, vạt nắng hè lính quýnh,
Con ve già buồn tính chuyện trăm năm.
Giây phút cuối nhọc nhằn,
Day dứt mãi lời ăn năn chưa trọn.

                  Trần Văn Lương
                     Cali, 7/2013








-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Aug/2013 lúc 10:19am

Dạo:
     Lòng hoa sâu nhỏ ngủ say,
Giật mình mở mắt lung lay đất trời.
 
 
Cóc cuối tuần:
 
 
  
,
. 
,
.
         
 
 
           Tiểu Trùng

Nhị lý miên hoàng khuyển,
Nguyệt trầm, yên vụ quyển.
Tiểu trùng nhãn hốt khai,
Mã thượng càn khôn chuyển.

         Trần Văn Lương
 
 
 
Dịch nghĩa:
 
         Con Sâu Nhỏ

Con sâu "Hoàng khuyển" nằm ngủ giữa nhụy hoa, (*)
Trăng chìm, sương khói cuộn.
Con sâu nhỏ chợt mở mắt,
Ngay lập tức đất trời xoay chuyển.
 
 
Ghi chú:
 
(*) Tương truyền rằng Tô Đông Pha có dịp đọc 2 câu thơ của Vương An Thạch như sau:
           Minh nguyệt sơn đầu khiếu,
           Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
 
Nghĩa đen (theo ông nghĩ) là:
           Trăng sáng kêu đầu núi,
           Con chó vàng nằm trong lòng hoa.
 
Ông cho là không đúng vì trăng sáng làm sao lại kêu ở đầu núi và con chó vàng sao lại nằm ở trong lòng đóa hoa được. Do đó, ông bèn sửa chữ khiếu ra chữ chiếu, và chữ tâm ra chữ âm để thành:
 
      Minh nguyệt sơn đầu chiếu,
      Hoàng khuyển ngọa hoa âm.
 
Nghĩa là :
      Trăng sáng chiếu trên đầu núi,
      Con chó vàng nằm ở dưới bóng hoa.
 
         Ông lấy làm đắc ý cho đến khi ông bị đổi tới một chỗ ở miền nam nước Tàu thì ông mới biết là mình lầm. Ở đó, ông được người ta cho biết là có một loài chim tên là Minh nguyệt và một loài sâu tên là Hoàng khuyển. Té ra ông đã sửa bậy hai câu thơ của Vương An Thạch, vốn có nghĩa là:
           Con chim Minh nguyệt kêu ở đầu núi
           Con sâu Hoàng khuyển nằm giữa đóa hoa.
 
        Đây là một giai thoại văn chương khá lý thú, nhưng không biết thực hư thế nào.
 
 
Phỏng dịch thơ:
 
      Con Sâu Nhỏ
An giấc giữa lòng hoa,
Sương khua ánh nguyệt nhòa,
Sâu khuya vùng mở mắt,
Chấn động khắp sơn hà.
        Trần Văn Lương
          Cali, 08/2013
 
 
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
         Quả có lý này ư ? Quả có lý này ư ?
         Nếu một hạt bụi bay mà gom được cả trời đất lại và một đóa hoa nở làm cả thế giới mở ra (nhất trần cử đại địa thâu, nhất hoa khai thế giới khởi--- Bích Nham Lục, tắc 19) thì chuyện con sâu nhỏ mở mắt nhìn làm rung chuyển cả trời đất đâu có gì là lạ.
         Ghê gớm thay sự chấn động của giây phút giác ngộ !
         Ơ hay, lão tăng nói mơ gì vậy ?






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Nov/2013 lúc 5:15am

Dạo:        

Thu về lá chết nào hay,
Vô tình cưỡi gió tung bay khoe màu.
 

Cóc cuối tuần
:

 
 
Lá Chết Nào Hay
 

Thu ngốn dần nắng hạ,
Khói chiều tất tả triền non.
Quán bên đường èo uột héo hon,
Mái tranh nát mỏi mòn chờ viễn khách.
 
Thời gian hờm trên vách,
Lạnh lùng tí tách từng giây.
Chén sầu con dốc mãi vẫn đầy,
Ma dĩ vãng sa lầy hư giấc ngủ.
 
Vườn vô chủ, gốc tầm xuân trổ nụ,
Lũ bướm già lụ khụ đến lăng xăng.
Đàn chó điên quen bắng nhắng sủa xằng,
Con ếch nhỏ cắn răng chìm đáy giếng.
 
Tảng đá vỡ nghẹn ngào im tiếng,
Ngán ngẩm đời sao lắm chuyện dây dưa.
Chút mộng mơ nay cũng lạy xin chừa,
Phương trời ấy nắng mưa gì cũng mặc.
 
Tay sượng sùng vuốt mặt,
Sương thu lắc rắc nhão bờ vai.
Mái tóc phai theo cơm áo miệt mài,
Hồn vắt mãi được vài câu thơ tẻ.
 
Gió luồn song khe khẽ,
Tưởng như bước mẹ chợ về.
Hơn nửa đời bỏ xứ xa quê,
Người năm cũ ra đi còn mấy kẻ.
 
Đã hết thời son trẻ,
Lời tự tình giờ thỏ thẻ ai nghe.
Biết tìm đâu lại tiếng võng trưa hè,
Tiếng phượng đổ, tiếng ve buồn phố nhỏ.
 
Chân nứt nẻ giẫm mòn thêm lối cỏ,
Tự hỏi tình người còn có hay không.
Núi chông chênh, chim chóc chóng lạt lòng,
Lau sậy cũng bỏ bờ sông cát lở.
 
Lời kinh đêm nức nở,
Mong manh hơi thở ngàn xưa,
Con trăng đen giở thói lọc lừa,
Giăng vội tấm màn thưa che mắt thánh.
 
Bầy kên kên gãy cánh,
Tranh nhau từng nhánh cây khô.
Cánh đồng hoang chi chít vạn nấm mồ,
Vẳng tiếng khóc mơ hồ từ đáy ngục.
 
Trống lên đường thúc giục,
Mây ùn, gió rúc, rừng lay.
Lá lìa cành còn khoe sắc tung bay,
Vô tình có nào hay chiều đã tắt.

                Trần Văn Lương
                  Cali, 10/2013





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Jan/2014 lúc 6:01am


Dạo:
      Mùa đông đến đã từ lâu,
Sao người vẫn mãi ôm sầu ruổi giong.
 
Cóc cuối tuần:
 
 
  Đông Đến Đã Từ Lâu
 
Rừng chết, cây khô chỏi nắng tà,
Buồn nhìn tự hỏi phải đông qua,
Hay là định mệnh đem tang tóc,
Bày vẽ cho thêm nhọc tuổi già.
 
Trời xa, chim mỏi cánh đo đường,
Thăm thẳm mịt mù nẻo cố hương.
Lạ lẫm phố phường, chân lết chậm,
Áo chiều lấm tấm vụn sầu vương.
 
Thê lương khói xám quyện lưng đồi,
Quấn quýt vật vờ chẳng chịu thôi.
Đom đóm sụt sùi theo tiếng suối,
Lập lòe trên lối rẽ đơn côi.
 
Ngày ngắn nên đời cũng chóng qua,
Nét xuân năm cũ sớm phai nhòa.
Bướm già ôm xác hoa thề thốt,
Lạnh buốt bên song một giấc ngà.
 
Cánh vạc phương xa đuối giữa vời,
Vẫn hoài gắng gượng vượt trùng khơi.
Sương rơi ướt ngõ về hun hút,
Côi cút trong đêm một bóng người.
                       x
                  x        x
Hỏi mùa đông đã đến hay chưa,
Mà mãi nghe lòng nhắc chuyện xưa.
Xác dẫu khô cằn như cát đá,
Mắt còn lã chã giọt sầu đưa.
 
Trên mảnh khăn tang lạnh quấn hờ,
Vết buồn năm trước vẫn trơ trơ,
Bàn thờ nhỏ máu hai hàng nến,
Khóc kẻ ra đi chẳng đến bờ.
 
Lữ khách về đây đứng thẫn thờ,
Ngậm ngùi tiếc nhớ chuỗi ngày thơ.
Con đò quen đã lơ người cũ,
Liễu rũ đường xưa cũng hững hờ.
 
Bơ vơ gà gáy giữa chiều tan,
Ngơ ngác dừng chân, lệ kéo màn.
Lầm tưởng xóm làng xưa réo gọi,
Hoang mang mắt dõi bóng mây tàn.
 
Chút nắng muộn màng đã cạn khô,
Trăng vơi soi bóng úa trên hồ.
Miên man con sóng vô tình vỗ,
Lố nhố ven thôn chục nấm mồ.
                       x
                  x        x
Đối vành gương vỡ mắt nhìn nhau,
Thảng thốt đôi bên một ánh sầu.
Thấp thoáng bóng đầu lâu trắng xóa,
Thầm hay đông đến đã từ lâu.

             Trần Văn Lương
                Cali, 1/2014



-------------
mk



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info