Tình Khúc Kinh Kha
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7954
Ngày in: 10/Nov/2024 lúc 3:05pm Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Tình Khúc Kinh Kha
Người gởi: Hoa Hạ
Chủ đề: Tình Khúc Kinh Kha
Ngày gởi: 28/Apr/2012 lúc 11:19pm
Hoài Niệm ngày 15 tháng 5
Tháng Năm Hoa Phượng vẫn nở mà chàng đi mãi không về ...!!!
Em cúi xuống giọt buồn cho Anh đó, Khóc một lần, và chỉ một lần thôi Tình lỡ chia xa, mình cách ngăn rồi Anh nằm đó. Poncho buồn phủ kín Về với em sao lạnh lùng câm nín không hát ru bằng bài hát tuổi hồng Hay hoa dù rực nở giữa Bình Long Cho rào rạt niềm vui trên phiến lá Em cúi xuống một lần xin vuốt mặt Ngủ đi Anh trên đỉnh bình yên Để riêng em với bao nổi ưu phiền Và kỹ niệm tình đầu xin thắp sáng Làm lính miệt mài bỏ quên ngày tháng Dấu giày saut khắp nẻo chiến chinh mòn Về phép đôi lần rồi cách núi ngăn non Cho thương nhớ lệ mòn như giọt nến Em đợi em chờ sao anh lại đến Bằng lá Quốc Kỳ lịm kín đời Anh !!? Khăn sô buồn trên mái tóc em xanh Còn in dấu nụ hôn đầu trên đó ! Em cúi xuống áo Anh đầy máu đỏ Hôn trên môi giá lạnh một lần thôi !! Mãi mãi Anh ơi! Mình cách chia rồi Anh say ngủ trọn đời Em thao thức...
Sài Gòn, tháng 5 năm 1972.
(Trích từ Nhật Ký của HH)
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Trả lời:
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 28/Apr/2012 lúc 11:46pm
Đi tìm tác giả một bài Thơ:
Đồi Thanh, Mùa Thu 70
viết cho bé của Anh. Cô bé học trò có đôi mắt đẹp, rất buồn. Vâng, rất buồn và rất xa......NTĐ.
Hôm qua, nở Thu vàng Nhớ em lội suối qua rừng tìm em Đồi Thanh ngan ngát hương sim Nở muôn đoá tím, tím trên nền chiều Sim buồn nhớ gió hắt hiu Anh buồn như tiếng vượn kêu nhớ rừng Nhớ em ngồi đợi bên đường Nhìn mây bay khắp muôn phương chẳng về
Ừ thì, mây tụ mây đi Ừ thì tan hợp có gì đâu em?! Đêm nao giục tiếng Sầu Quyên Vầng trăng mỏng ngủ bên thềm lẻ loi. Chút dư hương chợt bồi hồi Bên cầu tơ liễu ngậm ngùi áo em Đây bông Hồng nở tim ta Còn xanh áo lụa đầu mùa đây em Còn xanh hạt lệ mai sương Tóc mây hãy nhẹ cài thêm đoá sầu Nghìn sau hoa có phai mầu Đợi nhau ta đứng bên cầu nước trôi Phải chi mưa gió đơn chiều Hái hoa tầm gửi thả theo gót người Phải chi đời chảy dòng xuôi Để Em ngồi đợi cuối trời nhớ mong Người đầu sông, kẻ cuối sông Trăm năm chung sống một dòng cách ngăn
Bài thơ nhỏ viết chưa xong Bởi người chinh chiến tang bồng còn đeo Một mai trang trắng tang bồng Đồi xưa có khách anh hùng trồng hoa Đồi Thanh vắng bóng em rồi Đồi Thanh có kẻ còn ngồi đếm mây Chiều đi nhưng chiều chưa say Rừng Thu đã rụng từng giây lá vàng
Nhớ em nằm mộng trên đồi Trong mơ bướm trắng một đôi bay về..
Bài Thơ "Đồi Thanh Mùa Thu 70" đăng trong Đặc san ĐA HIỆU trường VBQG- ĐL, và được một cô em K/15 CSĐD Sài Gòn chép lại, đem tặng cho HH với một câu thật buồn:
- Nè đọc đi, Anh Đ. làm thơ tặng chị nè...Em tiếc quá, cả hai người ai cũng yêu thật nhiều mà ai cũng tự ái thật nhiều......Ghét chị ghê...."
Dúi trang giấy vào tay HH, cô bé bỏ đi về phòng mình...
Đọc xong, HH nhìn xuống, dưới bài thơ không có ghi rõ tên tác giả..!!"
...Bởi thế, dù bao năm qua rồi, đôi khi nghĩ về Anh HH vẫn thầm hỏi: Phải Anh không? hay... Ai là tác giả của bài thơ?
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 12:32am
VIẾT CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG
Cố Đ/U .... N- T- Đ
ĐĐT Đại Đội 1- Tiểu Đoàn 2/7- SĐ5 -BB. KBC 4441. Đã anh dũng hy sinh trên chiến trường BÌNH LONG ngày 15 tháng 5 1972.
Hoa Hạ
http://youtu.be/cDlmJQzedRE - http://youtu.be/cDlmJQzedRE
Em muốn quên Anh mà không quên được vì mỗi lần hoa Phượng nở là Em lại nhớ mùa hè đỏ lửa 1972... Em
muốn viết đôi dòng về Anh mà không biết bắt đầu từ đâu bây giờ !! vì
đâu đâu cũng đầy kỹ niệm: Xứ Gò Công quê mình, trường Võ Bị Đà Lạt của anh, trường
CSYT của em... Em muốn ghi lại hết những gì Em đã nghĩ về Anh mà cũng
không biết phải ghi như thế nào!! Vì chuyện của Anh và em...không thể
ghi đôi dòng hay vài ba trang là đủ...!! Em muốn đốt cho Anh một ngọn
nến chúc mừng ngày Anh chào đời, như ngày xưa, nhưng Em chưa kịp thắp
lên cho Anh thì đã phải đốt cho Anh những nén hương tưởng niệm và những
giọt nước mắt chảy hoài không dứt....thì em làm sao quên đây !? Và năm
nay cũng thế, trước khi Em mừng sinh nhật lần thứ...67 của Anh, Em phải
đọc lại trong tim mình những dòng mà mãi mãi hoài hoài không bao giờ
quên được:
Vô cùng thương tiếc: Cố Đ/U........................
ĐĐT Đại Đội 1 - Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 BB. KBC 4441....
Vâng, Anh đã xa Em mà đi từ mùa Hè năm ấy...nhưng mãi đến bây giờ em vẫn chưa quên.
Ngày
xưa tôi có một tình yêu đầu đời rất buồn nhưng rất đẹp, mà ngày xưa tôi đã
đánh mất nó hay mãi mãi bây giờ tình vẫn còn đó, với tôi !!?
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 1:14am
2 * SẦU ĐÔNG
Hôm nay "Đà Lạt" về trường. Áo vàng cài alfa đỏ làm
đẹp mầu Võ Bị. Đứng trên lầu nhìn xuống, em chợt bàng hoàng, nhớ ngày
nào Anh đến tìm em. Nhưng bây giờ không phải của em, thiên hạ đi tìm
thiên hạ. Kỳ chưa !? Cớ chi mà khóc !! Em vụng về đưa tay áo lên lau rồi
chầm chậm đi về phòng. Khu nội khú vắng lặng, dãy hành lang chạy dài,
hun hút khuất mất bóng chàng trai Võ Bị đang đứng đợi người yêu.
Buồn quá, em mặc chiếc áo tím ngày nào và rời trường, đến thăm Anh.
Đường
NVT với hai hàng sao cao vút, và lá rụng thật nhiều. Đầy phố đầy đường
vì bây giờ trời Sài Gòn vừa mới sang Thu. Em muốn ngồi xuống nhặt hết
những chiếc lá sầu đó, nhưng không phải "Đếm bao lá vàng đốt thư tình
cũ" mà để đếm hết những nổi nhớ nhung trong lòng ...Em nhớ Anh đó !! Và
em ra đại lộ Hồng Bàng với hai dòng xe xuôi ngược, rộn ràng để thấy mình
càng cô đơn hơn. Giá mà ở đây có ruộng cho gió Đông về thổi nón em bay
như lần đó Anh đón Em đi học về.. ..chắc là em sẽ khóc lên vì..nhớ, và
nhớ thật đầy. Ôi con đường đi đến thăm Anh sao mà buồn hiu !!
x x
Ngày
xưa, cũng nơi nầy, có lần Anh dẫn em đi thăm mộ một người bạn. Sau khi
chắp tay khấn nguyện, hai đứa im lặng đi bên nhau giữa những ngôi mộ
trắng ngay hàng mà lòng thì buồn man mác...
Sau khi ngồi xuống trên một bãi cỏ Anh chợt hỏi em:
- Ph ơi, nếu có một ngày nào đó, Anh nằm đây, em có dám vào thăm Anh không? Nếu Anh chết. em cho Anh...cái gì?
Em mở to mắt nhìn Anh sững sờ rồi... oà khóc. Anh cười,nắm tay em kéo sát vào người Anh rồi nói:
-
Nín đi Bé, Anh ví dụ vậy thôi mà chứ Anh chết sao được mà chết, vì đêm
nào anh biết Em cũng cầu nguyện cho Anh. Vì Anh biết, kẻ ra đi thì đã an
phần mà người ở lại mới hứng chịu hết cả đau thương! Anh cũng biết, làm
lính trận đã khổ, mà người yêu của lính lại càng khổ nhiểu hơn phải
không, Bé? Bởi vậy, Anh hối hận là đã đưa Em vào thế giới đầy huyền
thoại của lính....
XX
Em cúi đầu đếm bước, gót chân hồng in trên nền cỏ xanh kỹ niệm và dư âm câu nói hôm nào còn văng vẳng đâu đây.
Vâng.
Anh đã đưa em vào thế giới đầy huyền thoại của Lính, của balô áo trận
với tháng ngày súng đạn di hành. Để có những đêm ngồi học mà nghe súng
nổ,mở cửa đếm hoả châu rơi như đếm nổi đoạn trường khi nghĩ rằng..."
người mình thương đang lâm trận !! " Mà súng đạn là thông số m, mà mạng
sống của Anh là hàm số Y, Y theo m theo X trên khắp các hàm số Parapol,
Hyperbol...làm sao em biết trước được có bao nhiêu ngày tháng đợi chờ để
yêu nhau hay mất nhau mãi mãi!! Em chỉ biết là chừng nào có phép Anh
về. Chừng nào đối diện với người yêu, mắt trong mắt, tay trong tay hay
gở vết đất bùn còn in trên áo trên giày...mới biết rằng người yêu mình
còn đó.
Nhưng em không nuối tiếc đâu Anh. Vì em đã yêu Anh bằng một tình yêu giống như bốn câu thơ mà ngày xưa Anh đã từng chép cho em.
" Anh chỉ có một tình yêu duy nhất Đem cho em, kèm với một tờ thư Em không nhận, cho tình Anh vụt mất Tình đã cho, không lấy lại bao giờ..."
- tặng cô bé. Thơ của Xuân Diệu chứ không phải của Anh đâu - NTĐ
Vâng.
Tình đã cho thì không lấy lại bao giờ Anh há? Em cũng vậy. Ngày xưa em
đã cho Anh mái tóc dài để Anh vuốt ve, thắt bính. Cho Anh những ngón tay
gầy, để ngón nầy Anh lồng nhẩn cưới trong ngày mình tính chuyện tương
lai... thì ngần ấy thứ bây giờ cũng vẫn của Anh. Và em còn cho Anh đôi
mắt buồn nhắm lại khi Anh đặt lên trên ấy nụ hôn đầu đời...để từ giây
phút ấy cho đến bây giờ trong tim nầy chỉ có mỗi bóng hình Anh trong đó.
Bây giờ ngần ấy thứ cũng là của Anh mà còn có thêm những giọt lệ nóng thắp sáng kỹ niệm tình đầu trong tận cùng tâm tưởng.
Tại
Anh đó. Em nghe nói tượng đồng đặt trước nghĩa trang Quân Đội linh ghê
lắm, ai bảo Anh nói gở cho bây giờ mình phải cách xa...
..." Nhắm
mắt, cho tôi tìm một thoáng hương xưa, cho tôi về đường cũ nên thơ, cho
tôi gặp người xưa ước mơ. Hay chỉ là giấc mơ thôi, cho tình đang chết
trong tôi, cho lòng nuối tiếc, nhớ thương suốt đời..."
Thơ: Thanh Tâm Tuyền. Nhạc: Phạm Đình Chương *** Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa Cho tôi về đường cũ nên thơ Cho tôi gặp người xưa ước mơ Hay chỉ là giấc mơ thôi Nghe tình đang chết trong tôi Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời.
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu? Em ở đâu? Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu.
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất Và tiếng hát và nước mắt.
Đôi khi em muốn tin Đôi khi em muốn tin Ôi những người, ôi những người Khóc lẻ loi một mình
***.
Anh
có nghe TT hát không Anh? người con gái khi mất người yêu thì buồn như
thế ấy ! Vậy mà Anh nở xa Em. Vậy mà Anh nở bỏ em bơ vơ trong ngôi
trường DD nầy, bỏ em một mình lạc lõng giữa dòng đời không người đưa
đón.
Nhưng có nhiều lúc Em tự an ủi : Thà rằng như thế, đành rằng
em vắng Anh mất anh trên cõi đời nầy mà Em là người yêu cuối, là hình
ảnh sau cùng anh giữ mãi trong tim... còn hơn là Anh đó em đây mà tình
yêu đã chắp cánh bay xa hay chia năm xẻ bảy. Anh biết không, có một hôm
em đi trực ca đêm về, thấy chị MP ngồi giữa phòng, vừa đọc vừa đốt những
phong thư xanh có cái dấu hiệu VB nho nhỏ, mà khóc nức nở.. Em vội chạy
lại can ngăn: - "Sao vậy, mấy cái thư nầy có tội gì đâu mà chị đốt nó ?
Có trách có hờn thì chị trách người tạo ra nó chứ !! Chị đốt nó nhưng
trong lòng chị không quên, chị thuộc lòng từng chữ Anh ấy viết cho chị
thì cũng vậy thôi... Chị đành lòng sao? Mấy cái dấu hiệu nầy dễ thương
muốn chết mà nở đốt nó đi à .."
Bé thương nó thì bé cứ giữ lấy đi, chị nhất định không thèm giữ nữa..."
-
Sau đó Em mới biết anh ấy không chỉ thương chị MP mà còn có ai đó
nữa..!! Và Em cảm thấy Em được hạnh phúc hơn chị nhiều, vì bây giờ trong
tim Anh chỉ có mình Em.
Anh có giận có cho là Em ích kỷ lắm
không? - Cho em xin lỗi, tại em thương Anh mà !! Và em nghĩ sự ích kỹ
nào bắt đầu bằng hai tiếng tình yêu cũng đều đáng được tha thứ, phải
không Anh?
Nhưng mà bây giờ... Anh với Em, Như hai tấm hình trong khung ảnh, Lưng kề lưng, nên không đối mặt bao giờ !! Chắc bởi thế, Nên chúng mình muôn thuở
Tình lỡ, tình xa, trong cõi mịt mờ !
x x
Bây
giờ Em lại ở đây. Ngồi một mình bên ngôi mộ năm xưa. Hôm xưa cỏ xanh mà
hôm nay chung quanh Em cỏ úa đã mọc đầy và những bông Cỏ May lung linh
như thầm đón chào người trở lai. Như Em đang thầm hỏi: Đ. ơi ! Giờ nầy
Anh đang ở đâu trên cái xứ BL xa lạ ấy..? Bạn Anh nằm xuống có mồ yên mã
đẹp, có Tổ Quốc ghi ơn, có lá Quốc Kỳ ủ ấm mảnh hình hài của đứa con
yêu... Còn anh thì sao? Hôm ấy trời Bình Long đang mưa hay nhiều nắng?
Ngày Anh đi có lá úa ngập đường hay Phượng Hồng rơi rụng, xác hoa hồng
phủ kín mồ người chiến sĩ vô danh".!!
Trời Sài Gòn lại mưa.
Mưa rơi, Lá rơi, Mưa Sài Gòn trên hàng sao bóng rũ, Mưa Bình Long, cơn mưa đạn tơi bời Tiển đưa Anh có lá Quốc Kỳ ấp ủ?!! Mãnh hình hài,Hay quấn vội Poncho? Tiển đưa Anh có bao dòng nước mắt? Cha mẹ, bạn bè, chiến hữu, với người yêu? Trong phút cuối ai gần trong gang tấc Vuốt mắt sau cùng hay chỉ có đạn mưa? Tiển đưa Anh có bao người lính chiến? Mặt đăm chiêu mắt rực lửa căm hờn !! AN Lộc - Bình Long với lời thề Tử thủ Hay chiến trận chưa tàn, nên xác lạnh cô đơn...!! Bình Long ơi! Khói lửa ngập trời... Sài Gòn ơi! Xin thôi mưa đừng rơi !!!!
Chiều
rồi, Em ngước mắt nhìn lên. Trời vẫn cao vẫn xanh thăm thẳm. Vài áng
mây mỏng trôi dật dờ và bông Cỏ May vẫn đong đưa theo gió, và rồi tinh
nghịch ghim đầy lên tà áo em. Lại khóc, vì bây giờ đâu còn có Anh ngồi
gở cỏ cho Em. Gần thi rồi, không biết Em có còn đến đây được nữa không!
Năm nay, Em vừa thi cuối năm vừa đi cứu thương ở Bình Dương. Căng thẳng
đến nhức đầu trên những chuyến xe Hồng Thập Tự tải thương binh về hậu cứ. Tiếng
còi xe vang lên lanh lảnh làm ngơ ngác, não lòng những ánh mắt trông
theo...
Sài Gòn tháng Năm 1972
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 1:34am
Vòng Hoa Cho Anh *3
Em cúi xuống ngắt một bông hoa dại Hương cay nồng gợi nhớ rất xa Kỹ niệm bày ra bộn bề mầu sắc Một tình yêu chưa kịp hẹn hò
Điều
hối hận đến suốt đời em là lần em nhờ H gửi dùm lá thư Em gửi cho Anh.
Và định mệnh chắc cũng đã sẵn dành cho Anh cho em từ đó.Chắc Anh trách
em lười gửi thư cho Anh mà nhờ người khác bỏ thư dùm... Không đâu, nhận
được thư Anh, em trả lời xong, nắn nót viết tên Anh bằng kiểu chữ thật
đẹp (mà chắc chỉ có một mình em là viết như vậy thôi :
k/g : SVSQ N...............
D/23 - VBĐL. KBC 4027.
Rồi
khi tan trường, Em đi vòng ngã sân sau đến bưu điện, chính tay Em bỏ
vào thùng thư với lời nói thầm: "Thư ơi! Đi cho mau nhé ". Rồi em mới
quay về nhà. Lần nào cũng thế, Anh tin không? (Cười gì? - em như vừa
trông thấy nét mặt của Anh với nụ cười thật tươi...). Duy nhất, chỉ
riêng một lần ấy, thư Anh đến với Em trong lúc Em vừa ngã bệnh. Cơn sốt
thương hàn kéo dài làm cho Em nghỉ học hơn một tuần rồi. Cũng hơn một
tuần rồi, Em chưa trả lời thư Anh, chắc trên đó Anh trông thư em lắm.
Ngày em đi học lại, cũng chưa khỏi hẳn, cơn nhức đầu làm Em ngại đi dưới
nắng Hè xứ Gò Công. Rủi về bệnh lại thì làm sao Em thi Lục Cá Nguyệt
cho được!! Bởi vậy đắn đo mãi, gần đến giờ về em mới nhờ H, ngồi kế bên
em, nhà ở Đường Chiến Sĩ 12, nên chắc chắn H phải về ngang bưu điện.
"Chút H về ngang qua Bưu Điện, bỏ dùm mình lá thư H nhé ".
Sáng hôm sau, khi bắt gặp ánh mắt dò hỏi của Em, H nói :
-
Lá thư chị nhờ Em gửi , Em để trong cặp da, hộp hồ sút nắp đổ tùm lum,
dính dơ nên em thay bao thư khác, đề địa chỉ gửi lên cho Anh Tư của em
rồi.
Em tròn mắt há miệng nhìn H đăm đăm không nói được tiếng nào !!. - Cam đoan với chị, Em không có đọc bên trong. Địa chỉ đó là của anh Tư Anh bà con cô cậu ruột với Em đó.
Má
ơi ! Em nghe mà chết điếng trong lòng. Vừa giận mình vừa buồn cười ra
nước mắt. Bao lâu nay đi học ngồi kế bên em gái của Anh mà em không
biết. H là em của Anh em còn biết nói năng gì nữa !! Chỉ nói được một
câu :
- Phải chi H trả lại Ph , Ph gửi lại cho anh Đ. thì hay hơn. Anh ấy sẽ giận Ph cho coi...
- Hỏng có sao đâu chị, em có viết thư nói chuyện với ảnh rồi mà
Em
biết được thư đó Anh sẽ giận em. Em biết Anh khó tánh, được lá thư kỳ
cục như vậy anh sẽ trách em nhiều. Anh sẽ nghĩ là Em không kín đáo, đem
chuyện mình kể lể bạn bè nghe, đã vậy còn không tôn trọng anh, đem thư
gửi cho Anh cho người khác đọc, dù người ấy là em họ của Anh!!
Nhưng
em biết nói gì bây giờ, tại em nhờ H nên mới ra cớ sự. Trả lời "lá thư
kỳ cục "đó Anh viết ngắn thôi, nhưng em biết Anh không vui dù Anh không
trách gì em. Em không biết H nói gì với Anh trong lá thư gửi chung với
em đó. Nhưng sau nầy, lúc anh mất rồi có người nói với Em là có người
nói cho Anh nghe Ba Mẹ em làm gì, và e rằng khi bên Anh bước đến, Ba Mẹ
em sẽ không chịu gả Em cho Anh... Nếu do đó mà mình xa nhau thì... Em
cũng buồn giận anh lắm. Chẳng lẽ quen nhau bao năm rồi mà Anh không hiểu
Em?
Em không tin như vậy. Anh đến nhà Em cũng vài lần rồi chứ đâu
phải hoàn toàn xa lạ, Ba Mẹ em biết Anh, biết cả việc Em yêu Anh mà hai
Người cũng không có ý kiến gì cả. Phần Anh thì em gái kế của Em học
chung với Em gái thứ 7 của anh, nên có lần Anh gửi về cho ĐT mấy tấm
ảnh, ĐT nhận xong vào lớp có cho các bạn cùng xem, có Loan em gái của em
xem nữa. Cầm tấm nào lên xem, Loan cũng nói: Tấm nầy tao thấy rồi, tấm
kia tao thấy rồi..." em anh ngạc nhiên hỏi Loan:
- Sao kỳ vậy, Anh Tư tao mới gửi về cho tao, tao chưa cho ai coi hết sao mầy thấy rồi vậy?
Loan trả lời tỉnh queo:
- Thì Anh mầy gửi về cho chị của tao, bả cho tao coi thì tao thấy rồi chứ sao mà kỳ. - Hoá ra là vậy.
Tình
cảm giữa những người trong hai gia đình tuy chưa thân nhưng mà không
lạ. Em cũng biết cả "chị Năm", - tại em gái thứ Năm của Anh còn lớn tuổi
hơn Em nữa đó, nên ngày xưa em vẫn thường gọi là chị Năm - Em vẫn nghĩ
rằng, cây có cội, nước có nguồn, em đã thương một dòng sông thì cũng mến
thương luôn cả cội nguồn của dòng sông đó.
Hình Anh đẹp lắm.Một
tấm mặc đồ dạo phố mùa Đông, đứng trên cầu thang, đầu đội bê rê đen, mặc
bộ đồ đen, Phía sau Anh viết: "Gửi Em hình ảnh mùa Đông mà mang Hoa
Phượng đỏ đi dạo phố thì.... đẹp lắm. Hôn Em nhiều." Có một tấm anh
chụp trong phòng, mặc bộ đồ kaki vàng, đầu không đội nón. Anh ngồi trên
bàn học tay cầm điếu thuốc, hình nào cười cũng thật tươi. Chỉ có tấm mặc
đồ Đại Lễ chụp làm giấy tờ thì không cười, thật nghiêm và thật đẹp.
Vậy tại sao mình xa nhau? Tại sao mình giận nhau?
Lúc đó thì em không biết.
Hay tại tuổi Anh tuổi Em gặp phải Ngũ Hành tương sinh tương khắc nên mình phải lỡ nợ lỡ duyên. Bây
giờ thì em biết rồi. Bây giờ Anh thật sự là Đông của Em rồi, thì dù có
tương khắc hay tương sinh, hay cách mấy sông mấy núi cũng là của em rồi
phải không Anh? Có lần Anh viết cho Em như thế nầy: "Đối với Em, Anh
là người đầu tiên, nhưng đối với Anh, Em là người sau cùng. Bởi vậy Anh
không có những quyết định vội vàng, vô trách nhiệm. Em phải nói cho Anh
biết tuổi thật của em chứ không phải tuổi trong khai sinh để tránh những
rắc rối về sau đó em ...". Cho nên khi biết tuổi Anh và Em là ngũ
hành xung khắc nên...Nhưng mà thôi, bây giờ không phải lúc Em ngồi trách
Anh, trách Em hay hờn định mệnh đã đem Anh xa Em nữa, chắc tại chúng
mình có duyên mà không có nợ nên mới sinh ra chuyện trái ngang như thế!
Có lẽ người lớn nghĩ đúng. Có con trai đi lính trong thời buổi chiến
tranh sôi động làm sao dám cưới vợ cho con mà hai tuổi xung khắc nhau...
Lỡ gặp cảnh tử biệt sinh ly cả hai đều phải khổ...nên những lá thư sau
cùng Anh viết cho Em buồn lắm.!!
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 4:08am
Mừng Sinh Nhật Anh
Trưa không học lang thang đường nắng cháy Trưng Vương nầy sao buồn mỗi bước em ? Trên trời cao mây trôi vẫn êm đềm Lòng phố nhỏ nghe mình bơ vơ lạ . Cầu Đúc buồn ai nước chia dòng lá Mấy nhịp sầu hiu hắt dưới nắng trưa Đây con đê gió nhẹ lã ngọn dừa Khung cảnh cũ chỉ mình em trở lại Quảng đường xưa mình cùng nhau chung bước Đi bên Anh lúng túng lần hẹn đầu . Nên nón bay, dù không phải qua cầu Anh nhặt hộ, đứng nhìn thương chi lạ . Ruộng cạn nước nên dính bùn dơ quá ... Bé coi chừng, bùn dính áo nghe em .." Đã dặn rồi, mà vẫn lấm áo em Nên cúi mặt cô bé ngồi e thẹn Xé giấy tập anh lau bùn cho bé Kẹo bạn cho, em nói nhỏ: "Mời Anh " Ăn đừng chê, kẹo nầy ở Gò thành Anh cười nói: "Kẹo Gò Công ngọt lắm" Rồi đổi nhẩn cho tình thêm sâu đậm Đưa Anh xem, tay đeo nhẩn đẹp không ? Tay trong tay tình yêu đã lên ngôi Mắt trong mắt sao lòng sầu giăng mắc Vì hết phép Anh trở về Đà Lạt Mai xa rồi tay chiến sĩ còn đâu Để chở che để hai đứa nguyện cầu Tình bé nhỏ học trò cùng Võ Bị ĐP
Gò Công ngày....tháng....năm 1970 Tặng Anh đó. Mừng sinh nhật lần thứ ....của Anh .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 29/Apr/2012 lúc 4:28am
Vòng Hoa Cho Anh * 4
..." Ph ơi, Anh sắp được về phép rồi, em có mừng không ? Có đón
Anh trong vòng tay chờ đợi hay lạnh lùng như mùa Đông băng giá ở đây
..."
Anh nghĩ kỳ quá nên lần phép đó mình không có nhau. Có ai mà
ngờ. Em cũng không ngờ mình đột ngột xa nhau (bây giờ cho đến cuối đời,
em không tìm ra được nguyên nhân tại sao mình lại giận nhau như thế thì
đến chết em cũng còn ngậm ngùi) .
Anh biết không đọc thư ấy em
mừng ghê lắm. Em đợi từng ngày để được gặp lại Anh. Để xem chiếc nhẩn
semaine em gửi anh Trí đem lên cho Anh, anh đeo có vừa ngón tay áp trái
không ? Còn chiếc của anh em đeo vào ngón giữa mà cũng còn rộng. Em định
anh về lần nầy em sẽ dẫn anh vô vườn sơ ri của Kim Sang bạn em chơi. Nó nói
rồi mà, chừng nào Anh Đ về tao cho hai đứa tụi bây mượn cái vườn sơ
ri của tao đó ... rồi hôm sau mình đi đâu .. tùy Anh, rồi hôm sau nữa
mình đi biển Tân Thành . Hay nếu Anh thích mình sẽ cùng nhau đi lại con đường
cũ của lần đầu mình đi bên nhau ...trong cái nắng của buổi trưa Hè. Lần
đầu tiên đi chơi với người yêu, ngồi bên Anh em run quá, lóng cóng thế
nào để nón bay xuống ruộng Anh phải lội bùn nhặt nón cho em ...
XX
Sáng
nay đạp xe đi đến bệnh viện BD để thực tập, dừng ở ngả tư đèn xanh đèn
đỏ, chợt thấy cây Phượng bên đường nở một chùm hoa đỏ thắm. Ơ ..mùa hoa
Phượng đã đến rồi sao? Tháng Năm đã lại về !! Ngày 15 tháng năm Anh nằm
xuống. Ngày 25 tháng năm: Sinh nhật của anh. Từ đó suốt cả buổi sáng Em
không làm được gì cả. Buồn hiu. Vậy là Em mất anh đúng một năm rồi. Vậy
mà em cứ ngỡ Anh mới vừa nằm xuống hôm qua. Và em vẫn còn nghe giọng Anh
nói vui vẻ pha chút ngạc nhiên :
- Em đúng là người yêu của Võ Bị đó.
-Sao vậy ? Bộ anh thấy Em võ biền lắm ha?
Anh lắc đầu cười :
-Hỏng phải võ biền, à em có biết khẩu hiệu của VB là gì không ?
- Không. Anh là dân "vỏ bí" thì Anh biết chứ em làm sao biết được ?
-
Nói cho nghe nè, khẩu hiệu của tụi Anh là TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY và ĐA
NĂNG ĐA HIỆU ...mà em thì ...sao học cái gì cũng giỏi hết vậy? Toán nè,
Lý Hóa nè, Pháp văn nè, Quốc văn nè ...cho tới cái môn Sử Địa khó nuốt
nhất mà em cũng hạng nhất nữa thì đúng là "đa năng đa hiệu "
Em ngạc nhiên hỏi :
-Sao Anh biết được ai nói cho Anh nghe vậy ?
- Cần gì ai nói ,đây nè .
-Trời ơi người ta để tận trong bìa tập mà cũng thấy nữa !!
-Tại
anh cầm tập của em xem coi cô bé học hành như thế nào, thấy toàn là
điểm tốt không hà, với lại thấy cái bìa tập sao mà dày dày ... Anh coi
thử coi có để thư cho Anh không ? Thư đâu hỏng thấy, thấy giấy khen
không hà ..
Hồi sáng cô Giám Thị vừa xuống phát nên chưa kịp cất nhưng em làm bộ nói:
- Em đem theo đặng ...đòi quà anh đó. Một tờ là một món nha. -
Sao em hỏng nói trước để anh tính coi có đủ tiền mua không chứ. Không
đủ thì trốn luôn không dám về ...Bây giờ lỡ rồi, hẹn kỳ phép sau nhen
Em ngồi làm thinh không nói, vì thật ra em đâu có định đòi quà của Anh đâu, Em chưa biết phải trả lời làm sao thì Anh nói:
- Thôi bây giờ Anh thưởng cho em cái nầy nhen. Vừa nói Anh vừa mở chiếc nhẩn đang đeo trên tay ra đưa cho em .
Em sửng sốt nhìn Anh chưa kịp nói gì hết thì Anh cầm tay trái của em lên và đeo vào ngón tay áp út . - Tại Anh học Nhu Đạo tập đánh võ nên nó bị móp . Đó
là một chiếc nhẩn bằng vàng 18k, không trơn như nhẩn cưới mà mặt hình
chữ nhật sau nầy em nghe có người gọi nó là nhẩn yên ngựa. Có lẻ lấy từ
"câu thơ yên ngựa" chăng? Em nhìn thấy nó hơi bị móp chút thật .
- Rộng quá ...để em đeo ngón nầy ..không thôi nó tuột mất ... Rồi em mở chiếc nhẫn semaine nhỏ đang đeo trên tay đưa cho anh ..
- Đổi cho Anh nè
Anh cầm lấy rồi đeo vào ngón út
Hai
đứa yên lặng ngồi bên nhau cùng nhìn ra hướng ruộng lúa. Đối với em đó
là giây phút thiêng liêng nhất của mối tình đầu. Nó như một lời thề
nguyện. Một trao đổi tâm hồn. Từ đấy tâm hồn em đã gói tròn trong lòng
nhẫn của anh. Còn vòng nhẫn của Em nó mong manh quá, bé nhỏ quá, không
biết có giữ được tâm hồn rộng mở của Anh không?
Đang đeo đuổi cái ý nghĩ riêng tư ấy bỗng Anh gọi Em :
- Ph !.
-Dạ
- Em ..có thương Anh không ?
Em
cúi nhìn chiếc nón lá dính bùn đã được Anh lau sạch, nhìn những mãnh
giấy bị xé nhỏ to bay trắng mặt nước ... chưa biết trả lời làm sao ..
- Đưa Anh xem tay đeo nhẫn có đẹp không? Rồi Anh cầm lấy tay Em bóp nhẹ, đặt lên trên đầu gối của Anh mà nhìn.
- Ph , em trả lời anh đi .Có thương Anh không ? Anh muốn nghe Em nói bằng tiếng nói của em thôi.
Em nhìn Anh qua làn tóc mỏng mà cười rồi gật đầu. Nhưng Anh cũng không chịu .
- Không, Em trả lời đi. Anh về phép lần nầy, chỉ muốn nghe em nói "có hay không" mà thôi.
Em
đã định cười nói hai tiếng "có ghét" rồi ! Nhưng chợt thấy nét mặt của
anh lúc đó sao mà nghiêm nghị quá. Anh đang nhìn em ánh mắt đầm ấm nhưng
có chút dỗi hờn. Em hiểu ngay rằng Anh không đùa. Đây cũng là giây phút
thiêng liêng quan trọng đối với Anh nên Em cũng nhìn thẳng vào đôi mắt
ấy mà nói nhỏ... "Dạ...có thương ". Anh cười. Em tiện tay hái một
bông hoa dại mầu tím. Anh cũng hái vài lá cỏ bóp nát trong tay rồi nói,
giọng thật nhẹ, thật buồn : -Nói "có thương" rồi thì đừng quên nhen.
Mà làm lính thì có gì để em thương đâu? Chắc theo thời gian rồi cũng
quên quá !! Phải không ?
Bỗng dưng lúc đó Em thật là buồn. Không
biết buồn vì câu nói của Anh, giọng nói Anh nói lúc đó sao mà nó buồn
quá, hay buồn khi nhìn bàn tay em đang đặt trên đầu gối của Anh. Bàn tay
nầy bé nhỏ yếu mềm biết có đủ sức giữ chân Anh lại bên đời Em mãi mãi
không? Bổng dưng Em muốn khóc, Em cố giữ không chớp để ngăn hai giọt
nước mắt sắp sửa trào ra, nhìn đăm đăm vào khoảng không trước mặt... Anh
bóp nhẹ tay em rồi nói:
Ph có đôi mắt...đẹp mà buồn quá.
Em
nhắm mắt, hai giọt nước mắt tràn ra. Anh xoay mặt em lại, hôn nhẹ lên
đôi mắt, lấy tay lau hai dòng nước mắt chảy dài. Rồi nói :
- Chiều rồi. Thôi mình đi về em.
Tại
Anh đó. Trong ngày thiêng liêng ấy mà anh xúi em quên thì trách gì bây
giờ mình không có nhau trong đời. Trách gì bây giờ mình mất nhau. Nhưng
Em thương Anh. Vì ngày đó Anh đã "tự thắng" để chỉ hôn lên đôi mắt Anh
khen đẹp mà buồn chứ không hôn lên nụ cười mà Anh khen dễ thương dễ mến.
Chắc lúc ấy Anh nghĩ là Em còn nhỏ, chuyện còn dài, thôi hãy để yên cho
cô bé học, đậu Tú Tài rồi hẳn hay, nên Anh nắm tay em đứng dậy, đưa tập
sách cho em, đội nón lên cho em rồi mình đi về. Đến đầu ngỏ nhà Anh,
Anh nói : - Thôi Ph. về nhà nhen . Ngày mai Anh lên Đà Lạt. Tối nay 7 giờ Anh sẽ đến nhà Em .
Theo
em, Anh phải ở ngành An Ninh Quân Đội mới đúng. Và không biết trên đời
nầy có ông sĩ quan nào cầu hôn hay "tỉnh tò" với người yêu một cách rất
"hình sự" như Anh không hén: - Có hay không ? - Không, em nói đi. May
là không phải lăn dấu tay hay đóng mộc đỏ cho nó đủ chứng cớ mà em cũng
đâu dám quên! Khi tội nhân "tự thú trước bình minh " Anh mới dở đòn
chiến tranh tâm lý mà "chiêu hồi" bằng một câu nghe buồn đứt ruột :
- Nói có thương rồi thì đừng quên nhen.
Em
lại đưa tay lên ngắm. Vậy là hết" bé " rồi sao ?, đã có hôn ước rồi. Vậy là phải
theo mẹ vào nhà bếp học nấu cơm làm cá để mai mốt làm dâu ...nhưng Ph
chưa muốn làm dâu đâu, Ph còn muốn học nữa mà. Có lần đọc truyện" Đôi
Mắt Trường Dược" Ph mê trường nầy quá sức. Nghe các Anh chị nói muốn vô
trường nầy phải giỏi Toán và Lý Hoá nên Ph gò mấy môn nầy kỹ lắm, mà bây
giờ phải nghỉ học "có chồng" sao? Mãi nghĩ lung tung như vậy về đến nhà
lúc nào cũng không hay. May quá! Ba Má đi làm chưa về, bằng không chắc
phải nói dối hôm nay con ở lại trường làm thêm bài tập !!
Ăn cơm xong, Em đang đứng soạn tập vở cho ngày mai thì Loan ở ngoài sân nói vọng vô:
- Chị hai sửa soạn có khách nghen, em mới thấy Anh Đ đạp xe vô nhà Anh T nè. Em
bước ra cửa nhìn sang thì thấy hai Anh đang ngồi dưới gốc cây Cherise,
trên một cái băng đá, quay lưng lại nhà Em. Mới 18 giờ 30 phút . Em
lấy sách Toán ra làm nhưng có vẽ được gì đâu. Nét mặt của Anh không là
hình tròn cũng không là hình tam giác đang quay mà là một nụ cười khi em
nói hai tiếng "có thương". Và con đường anh đang đi cũng không là một
hàm số Parabol hay hyperbol gì hết, anh và anh T đang chầm chậm qua
nhà em. Nhưng hai anh chưa vào, qua khỏi nhà một quãng ngắn rồi mới quay
lại bước vô.
Em chào Anh T. Anh nhìn em cười .
Anh T hỏi em : Bé Ph đang học bài hả ? Em Dạ rồi bước qua nhắc hai cái ghế ra khỏi bàn :
- Mời hai anh ngồi chơi .
Anh
T ngồi ngay xuống chiếc ghế ở đầu bàn (chắc anh ấy muốn đóng tròn vai
trò ông mai, để cho Anh ngồi bên kia với em cho dễ nói nhỏ) vì nhà Ba
Mẹ có ba gian, ngăn bớt một gian cho người bà con ở quê xuống chợ tị nạn
nên khi kéo ghế ra ngồi thì đụng với cái lưng tủ phía sau, nên muốn vô
ghế trong anh phải đi vòng qua đầu một cái bàn dài . Khi đi ngang qua
em, đang đứng xếp gọn lại tập vở, anh nói một câu thật nhỏ :
- Rán học đi nghen, đậu Tú Tài làm tiệc ăn khao. Hay đợi Anh ra trường, về làm tiệc lớn, dẫn em đi theo luôn.
Sau khi anh ngồi xuống kế bên anh T, em hỏi anh : - Anh Đ vừa nói câu gì đó, nói lại Ph nghe, chưa nghe. Anh lắc đầu : - Thôi. Anh nói một lần hà. Mà Ph hỏi vậy là đã nghe rồi đó . Ba
người ngồi nói chuyện nắng mưa đến 9 giờ tối thì hai anh ra về. Em đưa
hai anh ra khỏi cửa ngõ. Trăng lúc ấy đã lên trên ngọn Dương. Dưới ánh
trăng con đường Hàng Dương thật đẹp. Cả ba đứng cạnh cây Dương gần nhà
trên một bãi cỏ ướt sương. Cả hai nhìn trăng, nhìn cỏ, rồi nhìn nhau
không ai nói câu nào. Một lát anh T cười nói:
- Từ giã gì thì nói đại đi mầy ơi còn về ngủ, mai đi sớm nữa chứ !! Hai người làm tui cảm động khóc thét lên bây giờ .
Anh cũng cười rồi nói nói với em
- Thôi anh về nghen. Ph ở nhà rán học. Mai anh lên Đà Lạt, tới trường rồi anh viết thư về liền cho em hay. - Dạ, anh về. Nhớ viết thư liền nghen. - Ừ. Nhớ! Anh
đi năm bảy bước rồi mà còn quay lại, cười với em một cái thật tươi. Em
đứng nhìn theo cũng cười (đối với Anh nụ cười ấy chắc cũng dễ thương lắm
!)
Ngày đó ai cũng cười. Nụ cười nào cũng tươi cũng đẹp vậy mà đoạn cuối của mình lại đầy nước mắt.
Anh
về rồi em vào bàn mà có học được gì đâu. Cứ nhìn tay trái của mình,
ngắm chiếc nhẩn của anh. Viết câu nói nhỏ của anh vào tập. Đối với em đó
là một sự đính ước. Cuộc đời em từ đây đã gắn liền với ba chữ " NTĐ"
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:55am
"Anh Ơi, nước mất, mồ khô lạnh, Đời vắng anh rồi vui với ai?" Mượn tạm lời thơ, âm giai của thơ VHC tặng chị Hoa Hạ, người bạn cùng quê nhưng chưa quen. Thôi thì minh làm một cái đám giỗ nha chị Hạ.
Giỗ Tháng Tư.
Tháng tư chích vầng khăn tang
Giỗ tôi, giỗ bạn, giỗ ngàn anh linh.
Giỗ loài quỷ tạo chiến chinh,
Giỗ loài ma phá tan tành quê hương.
Giỗ anh giỗ chị tha phương.
Giỗ loài muối mặt trên đường “vinh qui”
Giỗ già chơi gái xuân thì,
Giỗ em mười một bán đì nuôi thân .
Giỗ con nhúng mặt vào phân
Giỗ thằng phách chó quên bần hàn xưa
Giỗ ai khúc ruột dư thừa
Tháng tư tang tóc cho vừa lủ NGU.
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 5:31pm
Cám ơn anh Năm đã chia sẻ nổi sầu riêng của Hoa Hạ bằng bài thơ buồn ...gọi là quà tao ngộ . Rất vui được quen biết với người bạn đồng hương . chúc anh cùng gia đình luôn an vui . Thân HH
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 6:18pm
Vòng Hoa Cho Anh * 5
Tình Chết Theo Mùa Đông
Nội trú của Em khu
B lầu 1 -Phòng 1 . Bàn của em sát cửa sổ nhìn xuống sân trường. Từ khi
trận chiến Bình Long càng ngày càng khốc liệt thì ngày nào cũng thế, SV
/CSĐD tụi em dù chưa ra trường nhưng năm thứ 2 và thứ 3 đều góp phần vào
việc cứu thương ở Bình Dương, đón thương binh từ Bình Long chuyển về
hậu cứ. Dạo nầy cuối năm nên cũng thi liên miên. Dạo nầy, em có có tâm
trạng lạ lùng lắm, buồn buồn mệt mõi, chán nản, ngẩn ngẩn ngơ ngơ ... đủ
thứ hết thường khi thì đâu có như vậy Có nhiều lúc thấy thương binh hấp
hối phải chuyển bằng HTT chạy về Tổng Y Viện Cộng Hòa hay những tuyến
đầu liên hệ thì ..em xỉu. Em cũng không biết tại sao !! Công tác nầy so
với trực đêm trại Cấp Cứu bệnh viện Chợ Rẩy hay khu Hồi Sức, Hậu Giải
Phẩu ... thì nhẹ nhàng hơn nhiều mà. Nhưng em cũng đã qua những nơi nầy dễ
dàng. Chị toán trưởng đề nghị cho em nghỉ đi cứu thương đi, gì mà vừa
thấy thương binh chết thì đã mặt mày xanh mét rồi làm sao cứu ai được.
Nhưng em không nghỉ . Em không muốn các bạn cùng khoá cho là em viện cớ
bịnh để ở nhà học bài chiếm giải thủ khoa. Ba ngày nữa em thi môn Bệnh
Lý Ngoại Khoa rồi, và hôm nay lại đến toán Thực tập của em đi Bình Dương. Bây
giờ còn sớm lắm. Đồng phục đã sẵn sàng, chỉ cần thấy xe vô cổng trường,
xách chiếc áo Blouse khoác vào là đi thôi nên em còn ở trên phòng học
bài. " Tụng " được chút nào hay chút đó. Đang ngồi học bài thì em nghe tiếng
chị Minh Nguyệt năm thứ 3 kêu em thất thanh :
- Ph ơi Ph , ...xuống đây lẹ lên .
Giật thót người em nhìn ra sân. Xe Bộ Y Tế chưa tới mà !! Em nhoài người ra cửa sổ nhìn xuống, thấy chị Minh Nguyệt ngoắc lia lịa :
- Xuống đây lẹ lên chỉ cho coi nè!
Khoác vội chiếc Blouse, em chạy nhanh xuống lầu. Chị MN đưa cho em tờ báo Sóng Thần, chỉ vào một nơi rồi nói :
- Nè, coi có phải Anh Đ. của Ph không ?
Em
đọc xong tái mặt. Đầu óc quay cuồng, trước mắt là một khoảng tối đen.
Mơ hồ em thấy có một bờ vai nào đó cho em gục vào và nhắm mắt lại. Nhưng
em không khóc. Mơ hồ em nghe tiếng ai nói "Nó có sao không vậy ?". Mơ hồ em cảm nhận tay ai vỗ vỗ lên lưng em. Mở choàng mắt, em nói với cô Giám Thị "Cô cho em mượn tờ báo " rồi em chạy lên lầu. Nghe có tiếng người nói theo .
- Xe tới rồi, mầy nghĩ luôn đi tao xin phép cho.
XX
Mở tờ báo ra em đọc lại lần nữa. Rồi lần nữa, có nhìn lầm không ? Những dòng chữ nầy viết về Anh đó sao?
Đau buồn thương tiếc :
Cố Đại Uý N...T...Đ ĐĐT ĐĐ1 - TĐ2/7 SĐ 5 BB - KBC 4441 Đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Bình Long ngày 15 tháng 5 năm 1972 .
Ba
chữ tên Anh đó. 15 mẫu tự thân thương em đã khắc ghi vào tim óc thì làm
sao mà lầm được. Em ngồi gục đầu xuống bàn chết lặng nhưng không khóc
được tiếng nào. Mắt ráo hoảnh. Chẳng lẻ em vô tình đến nổi, đón nhận cái
chết của anh mà không khóc được một tiếng nào hết sao? Nhưng không, em
không khóc tiếng nào thật mà, chỉ ngồi im lặng nhìn ra khoảng trống của sân
trường, tim nhói đau cơ hồ như muốn vở tung ra .. không biết đến bao lâu
thì Hà, vợ của NHS khoá 25 /VB đi ngang qua thấy, đến ôm vai em rồi hỏi
đùa :
- Làm gì mà ngồi buồn dữ vậy, bà Trung Úy ?
Bây giờ em mới nhìn Hà rồi nói .
- Anh Đ. chết rồi Hà ơi !
- Trời đất ơi, thật hả chị Ph?
- Thật mà. Báo đăng nè .
Đọc
xong Hà cầm tờ báo chạy về phòng mình. Lúc đó bổng dưng nước mắt em ràn
rụa từng giọt từng dòng không dứt được. Có ai đó đứng sau lưng ôm vai
em không nói gì cả ... thật lâu....
Em làm đơn xin nghĩ rồi về quê ngay sáng hôm đó.
XX
6
Lần thứ nhì em đến nhà Anh.
Nhưng bây giờ không có anh. Thấy em ĐT khóc. Hôm đó Thanh nói cho em nghe rằng: - "Hồi Anh Tư em quen với chị, tụi em mừng lắm .Vì lúc đó mới thấy ảnh vui vẻ, chứ mấy năm về trước lúc nào ảnh cũng buồn hiu, vui nhất là bữa mà lần đầu chị đến nhà chơi với Anh Tư em, rồi ảnh kêu em chở chị đi mua sơ ri về ăn đó. Lần đó, tụi em núp ở trong nhà sau nhìn trộm ra. Em thấy chị nói gì với ảnh mà ảnh cười ra tiếng luôn . Rồi ảnh nói gì đó mà chị cũng cười. Làm tụi em mừng lắm."
Thanh còn nói cho em nghe là ở nhà Ba Má chuẩn bị tráng sân, sửa nhà đặng làm đám cưới cho Anh tư. Rồi hết trơn rồi mà chờ hoài hỏng thấy ảnh cưới vợ.
Má mới hỏi ảnh :
- Sao hồi đó con nói ra trường rồi cưới vợ, mà ra trường cả năm nay rồi, hỏng thấy cưới ai hết vậy ?
Ảnh trả lời " Người ta còn đi học ở Sài Gòn mà cưới gì Má". Phải chi Anh Tư em có vợ, thì chắc ảnh hỏng chết. Em có ông cậu làm ở Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, hồi ảnh ra trường cậu em nói đem ảnh về Sài Gòn mà ảnh hỏng chịu. Ba Má anh em ai nói cũng không nghe. Vậy chớ Ảnh cưới vợ, Chị nói to nói nhỏ thế nào ảnh cũng nghe mà về Sài Gòn thì đâu có chết .
- Anh Tư em nói, cất mấy bộ đồ ở Đà Lạt, để đi học mặc. Vài tháng nữa ảnh về Sài Gòn học Anh Văn, rồi đi Mỹ học cái gì đó ...........
Hôm ấy lần thứ nhì Em đến nhà anh. Em chỉ đến có một mình không có Anh đi đón em và tiếp em là cô em gái thứ 7 của Anh. Thanh và em nói chuyện thật nhiều. Đúng hơn là Thanh kể cho em nghe về Anh thật nhiều. Thanh cho em xem tập thơ và Tùy Bút anh viết hồi còn đi học Đệ Nhất B5 trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Và trên tập thơ mỏng thôi, của nhà thơ nào đó em quên tên rồi, Anh có đề dòng chữ là: "Để nhớ lại quảng đường đổ nắng, lòng bâng khuâng đi bên ...kỷ niệm ấy suốt đời tôi nhớ mãi ...nhớ mãi" bên dưới ký tên "N T Đ".
Em không biết anh viết những dòng chữ đó lúc nào - vì anh không có ghi ngày. Cho ai, vì anh đã qua vài mối tình rồi mới yêu em, nhưng bây giờ đó là bút tích của Anh, em cũng thấy đớn đau thật nhiều và em cũng đã từng nhớ mãi thương hoài kỷ niệm quãng đường dài giữa trưa nắng cháy .
Tuỳ Bút anh viết buồn quá . Em biết tâm hồn anh rộng mở. Yêu Tổ Quốc, yêu quê hương, Anh thương gia đình, mến từ con đê bờ ruộng . . - ."Anh sinh ra đã thấy chiến tranh thì dù có chết vì chiến tranh Anh cũng mãn nguyện. Nếu Anh có chết, xin em đừng khóc, Cờ Tổ Quốc mầu vàng đẹp lắm, ba sọc đỏ ba miền dân tộc phủ lên hình hài của đứa con Tổ Quốc, thế là Anh mãn nguyện lắm rồi ..."
Hết trung học, anh đã chọn Võ Bị để dừng chân . Bốn năm học làm lính, quân trường Võ Bị với những kỹ lụât sắt thép đã nung đúc tâm hồn Anh gắn bó với quê hương, với chiến trường, với đồng đội, với những nỗi vui niềm buồn những nhọc nhằn nơi tuyến đầu lửa đạn ...thì anh đâu có chịu về Sài Gòn ! Khi các bạn của anh đang gian nan ngoài giới tuyến !! Nếu như lúc ấy Anh có cưới vợ, và người ấy là em thì anh cũng không về đâu vì Anh đã dặn em là "Chờ Anh ra trường, về làm tiệc lớn rồi dẫn em theo luôn mà .." Phải không Anh .?
Hôm đó Thanh cũng kể cho em nghe : "Mấy lần phép sau nầy, về nhà Anh Tư em buồn lắm. Có lần, cũng mới cách đây vài tháng nè, Anh Tư em về phép, về đến nhà ảnh bỏ ba lô xuống, nói :
- Em lấy đồ ra giặt dùm Anh đi. Rồi ảnh lấy xe đạp đi đâu mất tiêu. Chiều mới về, chị coi, ảnh dựng chiếc xe đạp vô vách, ảnh đi, chiếc xe ngã cái rầm mà ảnh lại võng nằm luôn, hỏng thèm dựng nó dậy nữa đó. Nằm trên võng hút thuốc hoài, hết điếu nầy sang điếu khác (chắc chiếc võng mà em đã ngồi nói chuyện với Thanh hôm đó) rồi Anh Tư hỏi em: - Lúc rày em có qua nhà chị Ph không ?
Em nói em cũng có qua nhà chị, chơi với Loan.
- Em có gặp Ph không ? - Em cũng có gặp chị ấy vài lần nữa. - Ph có hỏi gì anh không ?
- Không. Gặp em chị ấy chỉ cười hà, không có hỏi gì Anh hết .
Rồi Thanh nói tiếp:
"Chị biết không, em nghe anh Tư em hỏi chị như vậy , em tưởng là Anh với chị hết giận nhau rồi . Chứ tánh của anh em kỳ lắm . Ảnh mà giận ai rồi thì khỏi có nhìn đến mặt hay hỏi đến tên đi . Hồi trước ảnh thương chị kia, rồi hai người cũng giận nhau. Sau chị kia tìm đến nhà, hỏi thăm ảnh (lúc đó anh Tư đang ở nhà của bà con trên Sài Gòn) Ảnh ra trả lời là: "Đây là nhà của bà con của N T Đ, để bà con NTĐ ra tiếp cô".
Rồi ảnh bỏ lên gác nằm luôn, chừng nào chị đó về mới xuống
.Bởi vậy, nghe anh Tư hỏi thăm chị, em mừng quá, mới hỏi ảnh:
- Bộ Anh Tư với chị Ph hết giận nhau rồi hả ?
- Ảnh làm thinh không nói gì hết, nằm hút thuốc hoài ...rồi ảnh lên Bình Dương, bây giờ nghe tin ảnh chết rồi ..."
Thanh kể mà Thanh khóc. Em ngồi nghe còn khóc nhiều hơn .
XX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 6:46pm
7
Tháng Năm và Tôi
25 tháng 5...1972
Em thắp cho Anh 27 ngọn nến. Em đốt lên trong tim em một niềm tin. Hôm nay là sinh nhật của Anh.Sinh nhật cuối cùng của một đời người đã sinh ra và lớn lên trong một nước đang oằn mình., đớn đau vì chinh chiến.
Thanh kể mà Thanh khóc. Em ngồi nghe mà đứt từng đoạn ruột. Bây giờ em hiểu Anh thật nhiều. Bây giờ em hiểu tại sao ngày ấy Anh lại viết cho Em một câu " vô cùng Phi Lý" như vậy. Đọc câu ấy Em giận Anh tím mặt tím mày...Em như trên Trời mới rớt xuống. Em không tin là thật lòng anh viết cho em - Em không tin , một người như Anh mà...như vậy sao? Mời cách đây không lâu ,em vừa đọc lá thư với những lời dễ thương như thế nầy:
"...Ph ơi ! Đêm nay rằm , trăng Đà Lạt thật sáng , thật buồn ,làm sao Anh quên được vầng trăng 14.Trăng lên muộn trên hàng Dương , bên người thương , sương dâng gợi một nổi nhớ thương không rời , niềm thương ấy bao giờ quên , hở em?..." ... rồi bây giờ lại viết cho em câu nầy :..." Anh nghe nói có dạo , Em và Trí thương nhau , có phải không?..." Trời ơi !! Anh có điên không vậy?? Phải thư nầy chính anh viết cho em đó không mà kỳ vậy?? Một anh Đ. khó tánh ,tế nhị , chững chạc..mà viết cho em câu " cực kỳ là kỳ cục ". phi lý đến vô cực vô cùng " như thế nầy sao.? Đêm đó em không học. Ngồi đọc lại hết những lá thư Anh viết cho em , từ cái thư " làm quen " cho đến cái sau cùng em vừa nhận được. Thật tình là Em không thể nào hiểu được nguyên nhân.
Lúc đầu em đã định là " làm thinh " luôn , không cần phải viết cho Anh câu nào nữa hết .Mặc kệ Anh .Em không thèm nghĩ đến anh nữa, cứ coi như chưa hề biết đến anh trong đời nầy...nhưng cũng không được .Em ấm ức. Em phải viết cho Anh lá thư sau cùng mới được ,rồi ra sao thì ra..
XX
_ "....Không lẽ Anh chơi với bạn mà không biết bạn? Không lẽ anh yêu em mà Anh không tìm hiểu Em? Và nếu có ai đó nói gì với Anh thì không lý gì mà anh không có cái nhận xét của riêng mình ? Anh đã từng viết cho em là " Đến nhà ai , anh chỉ cần nghe tiếng động ở sau nhà thì cũng biết là mình nên ở hay nên về và có nên đặt chân đến lần nữa không...mà lại hỏi em một câu như vậy sao?
Hay là anh đã quên cái ngày đầu tiên mà Em biết Anh? -Nếu Anh có quên thì em nhắc cho anh nhớ nè :
Chiều mùng một tết Mậu Thân năm 1968 , em đang ngồi với Loan trên chiếc xe honda dựng trước sân nhà Loan năn nỉ em cho nó lấy xe đi chơi với bạn , nhưng em không cho vì tối rồi , ba má đi chúc tết chưa về , nhà chỉ có hai chị em. mầy đi nữa rồi bỏ tao một mình ở nhà , tối thui , sợ ma lắm..."
Bổng Loan khều em nói :
"Chị coi hai ông nào ăn mặc giống nhau ghê.".
Em nhìn ra đường ,có hai ông thanh niên đang từ ngả ba đường đi về phía nhà em. Một người cao lớn , một người gầy hơn, thấp hơn chút ,dáng dong dõng cao, nhưng bên ngoài thì giống nhau thật : Hai cái đầu hớt cua giống nhau. Hai cái áo chemise dài tay giống nhau. Hai cái quần tây mầu vàng kem giống nhau.
- " ờ há. sao ăn mặc giống nhau dữ vậy há? ủa mà sao lại qua đường đi về phía nhà mình kìa.".
Đến chừng hai người dừng lại ngoài rào, em mới nhận ra. cái ông lớn hơn kia là Anh T. Em của cô C.T. Hoa , dạy em học năm lớp Năm, nhà ở ngay đầu đường. còn ông kia thì không quen.
Cái ông tên T. hỏi em :
-Có Tuyết ở nhà không vậy Ph ?
- Dạ không , Cô Út của P không có ở đây.
- Tuyết đi chừng nào về?
- Dạ cô út của Ph không có ở với ba mẹ P nữa , cô ấy lên Sài Gòn đi học ở trển luôn rồi...
Thấy khách chưa chào để đi mà ngày Xuân ngày tết ai lại kẻ đứng bên trong người ở ngoài rào nói chuyện ,kỳ quá nên Ph mới mời :
- Hai ông muốn hỏi thăm cô Út của Ph hả? Mời hai ông vào nhà chơi.
Thấy khách đi vô Loan mừng quá lấy xe dong mất. Em vô nhà mở cửa mở đèn lên , nảy giờ hai chị em còn ở ngoài sân đứng chờ Ba Mẹ về )
Khách đến nhà không trà thì thuốc , sau khi mở hộp bánh ra rồi, em lấy gói thuốc Ruby của ba để lên dĩa. Chết chưa , mời thuốc mà không có cái hộp quẹt thì làm sao bây giờ.?.Lỡ để ra rồi làm sao lấy cất vô? nên em che miệng cười rồi nói : " Mời hai ông hút thuốc , nhưng mà..nhưng mà.. hỏng có cái hộp quẹt "
Hai ông phì cười, mỗi người lấy trong túi quần ra một cái hộp quẹt để lên bàn.Từ đầu đến giờ , cái ông khách lạ không nói tiếng nào. Bây giờ mới nói một câu :
- Ph nói chuyện...tự nhiên quá đi.
Anh T. xé gói thuốc ra , mỗi người đốt một điếu thuốc. Em nói chuyện mà cứ gọi bằng ông, và hai ông cứ tủm tĩm cười.Anh T. nói :
-.Tụi nầy cũng chưa lớn lắm mà , Ph gọi ông hoài nghe già quá. Thôi gọi bằng Anh đi. chắc cũng đáng tuổi Anh của Ph. Từ đó em mới kêu hai Anh bằng anh? Một lát sau Ba em về. Em nói với Ba là Anh nầy là em của cô Hoa , nhà ở đầu đường mình đó Ba. Anh đến hỏi thăm cô Út. Em đứng lên ra chiếc xích đu ngồi , cho Ba ngồi nói chuyện với hai anh...một lát thấy hai anh từ giã và..ra sân chào em đi về.
XX
Đó, buổi gặp đầu tiên của mình là như vậy đó. Chắc anh không quên lúc ấy em cũng kêu anh T. bằng Ông? và đó cũng là lần đầu tiên Em nói chuyện với Anh T. dù rằng nhà em , cách nhà Anh T. chỉ có hai ngôi nhà mà thôi.
Năm đó em mới vừa lên 17 tuổi. Từ lúc quen đến lúc xa nhau , cần có bao lâu mới gọi là " qua một mối tình?" hở Anh? Vậy cái dạo mà anh nói đó là dạo nào? chẳng lẻ em biết yêu từ năm 12, 13 ,14..tuổi? Hơn nữa , Em và anh T. đâu có ai là diễn viên điện ảnh, ca kịch hay cải lương gì đâu mà đóng kịch hay đến nổi anh không nhận ra cảnh " hai cố nhân gặp lại nhau sao? " Được thế em cũng xin ghi danh học điện ảnh chắc thành công lắm !! Và chắc anh không quên, ai là người đã đem chiếc nhẩn semaine của em - Chiếc bằng vàng 18k , em đã đo theo ni tay của Anh vì em muốn anh cũng đeo chiếc nhẩn của em trao vào ngón tay áp út .Chiếc bằng bạch kim nhỏ xíu Anh đeo không vừa.
Lúc trước ,em có gữi cho anh hai tấm ảnh, em viết rằng :
" Gửi anh hình ảnh của em , để Anh mang em theo anh trên khắp nẻo đường anh đi , dù có êm đẹp như đường phố cao nguyên hay gian nan đường chiến trận.- Em của Anh " Nhưng bây giờ thì thôi - Anh cứ đi con đường của Anh.Em đi đường Em. Em chỉ xin Anh nhớ một điều : Ngày xưa anh quen em trong lúc anh đang buồn, thì bây giờ và mãi mãi , chừng nào có buồn hãy nhớ đến em. Con trai ai mà không bay bướm , Anh cũng cứ bay nhảy đi. Chừng nào mỏi cánh, dừng chân lại nếu cũng còn nhớ đến " Bé Ph ngày xưa " thì đừng quên Em, anh nha.,Em sẽ chờ đợi Anh dù bao lâu cũng được .."
Em của Anh Ph
Và đó là lá thư sau cùng Em gửi cho Anh. Từ đó, em không gửi cho Anh dòng chữ nào nữa.Tuy em rất giận Anh nhưng em vẫn thương Anh và chờ đợi Anh. Vì em không tin Anh thật lòng viết ra câu ấy !
Nhất định là phía sau câu nói đó còn có một nguyên nhân nào khác.Tại sao từ khi Anh hỏi tuổi của Em rồi thì những lá thư sau đó Anh viết cho em buồn lắm vậy? Tại sao Anh mới vừa báo tin cho Em là Anh sắp sửa về phép...mà Anh không về? không đến gặp em? dù rằng lúc đó mình không giận hờn chi hết? Để cho những tháng cuối cùng trên quân trường Võ Bị, Anh với cái giá lạnh giá rét của Lâm Viên, Em với những tháng ngày buồn tênh trong tỉnh nhỏ quê mình..
Tại tuổi mình là tứ hành xung nên ba Mẹ không bằng lòng? Hay tại cuộc chiến càng ngày càng leo thang , càng khốc liệt mà những người mang nặng nghiêp nhà binh như Anh thì.." đời trai như chiến sĩ Kinh Kha một lần đi..mấy người được trở lại.? nên Anh không muốn em vì yêu anh mà phải vấn lên đầu vành khăn tang trắng?? ..Chắc là Anh nghĩ , Em còn nhỏ tuổi, giận hờn nhiều thì sẽ mau quên .? Nếu đúng là Anh nghĩ như thế thì..." Ông tướng " của tôi " ơi ! Anh đã đi sai rồi một nước cờ tàn trên chiến trường tình cảm...vì mãi đến bây giờ Em cũng chưa quên..
XX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 8:54pm
8 * Tháng Năm Và Tôi ( TT)
Từng ngọn rồi từng ngọn nến.
Từng giọt rồi từng giọt nước mắt của em rơi.
Đ. Ơi ! đêm nay Em đốt hết 27 ngọn nến nầy mà viết cho Anh. Bầu trời khuya ngoài kia im lìm, khu nội trú vắng lặng.Các bạn em đã ngủ chỉ có mình em - Đối diện với tấm hình của Anh trong khung ảnh -bên ánh nến lung linh mà mừng sinh nhật lần thứ 27 cho Anh..
Nếu ngày đó Anh không nói là " Nói có thương rồi thì đừng quên nghen. mà làm lính thì có gì để cho em thương đâu theo thời gian rồi chắc cũng quên..." thì bây giờ em cũng không quên.
Mai nầy em có quên được không? Em chưa biết, nhưng bây giờ thì Em nhớ Anh thật nhiều. Lúc còn sống Anh đã yêu Em như thế nào , thì đến lúc chết chắc cũng còn như vậy, vì Anh biết tuy em giận Anh nhưng vẫn còn yêu Anh. Tuy em không viết thư cho Anh nhưng tuần nào Anh cũng nghe tên hai đứa trong chương trình Nhạc yêu cầu của Đài tiếng nói Quân Đôi.
.Có lần Em nhận được thư Anh gửi cho Em, viết rất ngắn chủ ý cho em biết là Anh cũng có nghe chương trình đó, nhưng sao Anh không giải thích cho Em biết lý do nào Anh viết như vậy? Anh gây ra cớ sự thì anh phải " nhận lỗi " với Em chứ? hay ít ra cũng phải làm hoà, hay xin lỗi Em với em , " thôi mình huề em nha , " nên em cũng không trả lời thư Anh. Con gái nhiều tự ái mà...
sau đó em viết thư cho Hoàng Vân em nói Vân đọc tên hai đứa ít thôi , đừng làm nhiều quá mà Ba Mẹ rầy và cái xứ Gò Công nhỏ lắm , nhưng Vân không nghe cứ tuần nào cũng chọn hai ba bản nhạc hay nhất trong chương trình Nhạc Yêu Cầu mà cho tên hai đứa vào... Nghĩ cũng vui , Anh biết không em và Vân quen nhau cũng ngộ lắm ,( Hoàng Vân là Thảo Trang , xướng ngôn viên Đài Phát thanh Quân đội , phụ trách chương trình nhạc yêu Cầu và " Mẹ Việt Nam '" ) cuối tuần , em ra Gia Định thăm bà cô thứ hai , Nguyệt cũng ra cư xá Lữ Gia lấy tiền của người nhà gửi cho. Hai đứa đi chung xe , Nguyệt nói với Em mầy có muốn gặp Thảo Trang chương trình nhạc yêu cầu không , cô bé bắc kỳ mà cũng vui vẻ dễ thương lắm, Nhà của Thảo Trang ở số 10M nè..để tao kêu cửa cho, vô chơi với Trang đi chờ tao nói chuyện với người nhà chút rồi về trường. Mà Trang dễ thương thật , vừa nghe Nguyệt nói em là thính giả của chương trình NYC thì cười toe ngay , mời em vào nhà chơi. Vừa bước vào nhà , em thấy có ảnh một SVSQ/VB để trên bàn học - Chợt bắt gặp một hình ảnh thân yêu ở một nơi xa lạ như thế nầy em nhớ anh lạ lùng nên cứ đứng nhìn..Thảo Trang hỏi em : " Bồ có quen với người nầy hả "
- Không , người nầy thì Ph không quen, nhưng mà hình ảnh nầy thì Ph quen lắm.
- A !vậy là Ph có người yêu là VB?
Em gật đầu. TT nói liền : Vậy mình là người nhà nhé ,Anh mình học khoá 25 , còn anh ấy học khoá mấy? tên gì? nói đi xem có cùng khoá không?
Em nói Anh học khoá 23 tên NTĐ thì Thảo Trang reo lên :
A vậy " Bé Ph và một người khoá 23/VBĐL " là....bồ sao?.
Thế là từ đó đâm ra thân nhau. Mỗi khi em ra Gia Định thăm cô đều ghé Lữ Gia thăm Hoàng Vân. và cũng từ đó không cần yêu cầu nhạc tuần nào hai đứa cũng có tên.
Một hôm , Em được thư của Vân gửi về trường , bảo với em là " nhờ Vân đọc tên hai người quá trời nhiều nên có cô giáo Nhã nào đó , nghe nhạc yêu cầu rối cả ruột lên , Nhã viết thư cho Vân , xin địa chỉ của bé Ph. Vân cho địa chỉ rồi , Vân nghĩ Ph cũng nên gặp Nhã để xem lại tình cảm của người ta như thế nào ( em không cho Vân biết em và anh đang giận nhau ).Vài ngày sau , Em nhận được thư của Nhã gửi từ Bình Long về.
XX
Nhã là con gái miền Bắc , di cư và sống trong Nam đã lâu. Học Sư Phạm Sài Gòn. Chọn nhiệm sở là Bình Long. Nhã quen Anh trước Em. xông vào Đại gia đình của Anh trước Em , Yêu Anh trước Em, và tình yêu ấy chẳng những Nhã thể hiện trong chiếc áo len mầu da bò Nhã đan tặng cho Anh mà còn không cần dấu diếm hay che đậy gì cả. Cả nhà Anh không ai lạ gì Nhã và trong những lá thư đầu Nhã gửi cho em, Nhã cũng nói với Em là :
- Nhã Yêu Anh Đ. , chứ Anh Đ. không có thương Nhã , Anh chỉ coi Nhã như em gái thôi ,nhưng mà Nhã yêu anh nên cũng thương bé Ph là người đã được anh thương..."
Trời đất ! lần đầu tiên trong đời em mới nghe một người là Nhã nói như vậy. Cho nên em chỉ trả lời Nhã bằng một nụ cười. Y như anh ngày xưa , Nhã khen em :
- Ph có nụ cười dễ mến . Nhã là con gái mà cũng còn mê huống gì là anh Đ. không yêu Ph sao được? .(???).. Qua Nhã em biết thêm được rất nhiều điều về Anh.
Gặp nhau ,Nhã nói 10 câu em chỉ cười chưa nói được tiếng nào. Nhã lên phòng nội trú của em chơi, rủ em đi xem ci nê đi chợ Sài Gòn ăn bún riêu bún ốc , và lần nào cũng đón Taxi đưa em về đến tận trường...làm cho em đâm ra nghi ngại, không biết thật tâm hay...là một thủ đoạn rất " Bắc Kỳ " ...vì em thấy em cũng bình thường. Đối với Anh, em chỉ có cái ưu điểm là con gái miền Nam, là người Gò Công đã sống và lớn lên như Anh , trong biển mặn quê mình , và dĩ nhiên , dưới mắt của mỗi người, người mình yêu bao giờ cũng nhất !!
Cho nên khi nghe Nhạc yêu cầu ,có tên anh , tên em chung trong bản nhạc Nhã đã xin Vân địa chỉ của em mà viết thư làm quen và Nhã cũng đã tìm đến trường CSĐD gặp em, xem bé Ph. mặt mày dài ngắn ra sao mà được anh thương.
Khi chiến trường An Lộc đã im tiếng súng.Nhã về Sài Gòn và có đến trường tìm em, kể cho em nghe về cái chết của Anh.
XX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 9:18pm
9 * Tháng Năm Và Tôi ( TT)
Khi chiến trường An Lộc đã im tiếng súng. Nhã về Sài Gòn và có đến trường tìm em, kể cho em nghe về cái chết của Anh.
Hôm ấy, em tiếp Nhã tại cái bàn học nầy, Nhã đã kể lại cho em nghe :
-.." Nhã gặp anh ấy ở Bình Long. Hôm trường học bị pháo, nhà nhà, công sở đều bị cô lập. Thức ăn cạn, Anh ấy qua trường tiếp tế đồ hộp cho bọn Nhã. Ph biết không, gặp anh ấy tức cười lắm, râu tóc ra dài chả giống ai hết trơn..
- Ph biết không, nếu anh Đ. không ra khỏi hầm thì anh ấy không chết. Anh ấy bị bắn sẻ. Bị thương không nặng lắm nhưng máu ra nhiều quá, không có thuốc men, không có dụng cụ cấp cứu nên Anh ấy mới chết. Chết mà còn tỉnh lắm, trước lúc chết, còn dặn lính là đừng cho gia đình hay kẻo Ba Má buồn tội nghiệp...và lính của ảnh đã chôn ảnh trước cổng Tiểu Khu Bình Long...nhưng bây giờ chắc không còn tìm được nữa, tất cả đều bị san bằng. !!
Gặp lại ảnh ở Bình Long, bạn Nhã tưởng anh ấy là người yêu của Nhã, chọc phá anh thì Anh Đ. đính chính liền:
- Xin đừng hiểu lầm, Nhã là người quen ngày xưa, bây giờ đã là em gái. Đối với tôi, người quen mà tôi đã nhận là em gái, thì không bao giờ là người yêu được".
- Ph xem, Anh ấy nói vậy làm Nhã "quê" ghê.
Chợt Nhã thấy chiếc nhẫn yên ngựa của Anh mà Em đang đeo trên ngón tay giữa trái , vì lúc ấy em đang ngồi trên bàn, lưng dựa vô tường, hai tay ôm lấy đầu gối, còn Nhã thì ngồi trên cái ghế của em. Nhã nhìn chăm chú, một lát sau Nhã nói:
- Lúc trước, Nhã thấy Anh Đ. có đeo một chiếc giống y như của Ph vậy đó."
Em xoay tròn chiếc nhẫn trong tay (vì rộng) rồi nói :
- Thì chiếc nầy là của Anh đang đeo trên tay rồi đưa cho Ph mà Ph cũng có đưa lại cho anh một chiếc khác.
Nhã nói liền: Hôm đó Nhã thấy ở ngón áp út trái của Anh Đ. có đeo một chiếc vòng semaine nho nhỏ.
- Ừ, chiếc đó của Ph đưa cho anh đó. Sau khi đổi nhẫn, lần phép kế anh về không thấy anh đeo chiếc semaine nơi ngón út, anh nói là ngón út thì rộng mà đeo ngón áp thì chật nên Ph đo theo ni của chiếc nầy rồi gửi cho Anh T. đem lên Đà Lạt sau, vì lần đó anh về phép bằng máy bay khứ hồi nên lên ĐL trước, Anh ấy còn cất một chiếc nữa của Ph bằng bạch kim.
- Vậy thì đến lúc chết Anh Đ. cũng còn thương Bé Ph dữ lắm đó.
Nhã nói mà giọng hơi buồn.- Lần đầu tiên em mới thấy Nhã buồn -
Rồi Nhã kể tiếp:
-Lúc đầu gặp lại Anh Đ. lính của ảnh tưởng Nhã là Ph nên nói
-Cô là cô Ph hả? Trung Uý Đ. ký tên có chữ Ph ngoài sau nữa. Ổng lính mà lãng mạn lắm nhen ."
Hôm em đến nhà anh, Thanh có nói cho em nghe: "Được tin Anh Tư em bị thương không đáng chết mà lại chết. Má em khóc kể, nói chị Ph học nghề nầy mà Anh em bị thương không ai săn sóc, thiếu thuốc, thiếu men, thiếu máu mà chết....." Đó là ý nghĩ của Bác mà cũng là sự ray rức triền miên của em khi nghe Nhã kể chuyện về Anh.
Những lần đi cứu thương em chỉ có cái cảm giác bồn chồn, nao nao khó tả... khi săn sóc cho thương binh từ Bình Long về. Nhiều quá anh ơi! Những người đang oằn quại trong đau đớn! Em thầm cầu nguyện rằng trên mặt trận nào đó, đừng có khốc liệt như thế nầy, anh của Em sẽ được an lành trong vòng tay của đấng thiêng liêng che chở. Chưa bao giờ em dám nghĩ "Có khi nào em gặp lại Anh ở đây không !" Em chỉ nhớ đến Anh với hình ảnh mùa Đông mà mang hoa Phượng đi dạo phố chứ chưa bao giờ dám tưởng tượng anh đang đau đớn như thế nầy. Vì em cho rằng, em cầu cho anh bình an, Em nghĩ về Anh với những hình ảnh đẹp, những chúc phúc chúc may...thì anh sẽ được may được phúc và những gì tốt đẹp sẽ đến với Anh nhiều hơn.
Còn vài tháng nữa Anh ra trường, thì mình giận nhau.
Còn một năm nữa Em ra trường, thì mình mất nhau.
Từ ngày Anh ra trường, rồi đi về đâu, em không biết. Có lần em nhận được thư anh viết cho em:
"..Sư Đoàn của anh ngon lành lắm. Sư Đoàn đầu tiên được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Đó, Ph thấy không? Anh cũng đã chọn mầu kiêu hùng hoa Phượng đỏ..."
Tại sao lần đó anh viết thư cho em mà không ghi địa chỉ? Rồi hồi thư Em biết gửi vào KBC nào đây? - Làm sao em biết được sư đoàn nào được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương? Em biết hỏi ai bây giờ? Lên Sài gòn rồi em ít gặp Thanh lắm, Em không nghĩ là Thanh biết chuyện Anh và em giận nhau. Cũng giống y như anh, giận ai rồi em cũng không hỏi đến tên không nhìn đến mặt, chỉ âm thầm buồn bã một mình. Em biết rằng Anh vẫn yêu em. Em tin rằng ngày nào đó Anh sẽ về với Em, sẽ đến nhà gặp em khi ra trường. Em giận anh mà cũng yêu anh lắm, và em sẽ chờ anh như em đã viết trong là thư sau cùng. Em đã tự hứa với lòng rằng, chừng nào Anh cưới vợ, lúc đó Em mới tin rằng mình vĩnh viễn mất nhau.
Chữ ký của anh em đã nhìn rất nhiều lần rồi. Trung bình mỗi tuần một lần mình gửi thư cho nhau. Cũng không phải ít, mỗi tuần em nhận hai lá thư từ cao nguyên gửi về phố nhỏ. Rất ít khi 10 ngày em chưa viết hay chưa nhận thư anh, nhưng thật tình chữ ký anh ghép tên em và tên anh thì em chưa thấy. Ước gì bây giờ em được thấy.
Ước gì bây giờ Anh đi tìm em như ngày xưa.
Ước gì bây giờ anh đứng đón em ở Ao Trường Đua, quê mình rồi cùng đi trên quãng đường trưa nắng cháy...
Ước gì bây giờ anh cầm tay em mà cười "Thôi mình huề em há, Em nhỏ mà cũng lớn gan lớn mật quá đi, Anh xin đầu hàng cô bé vô điều kiện. Mình chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh nầy nghen em. !!"
Ôi tháng Năm.
Tháng sinh nhật của anh, tháng tiễn biệt anh với những cánh Phượng đầu mùa, với mùa Hè đỏ lửa Bình Long - An Lộc. Hãy nở nữa đi những cánh Phượng vĩ rực mầu lửa máu. Mầu đỏ Alpha võ bị. Mầu Sư Đoàn được ân thưởng Bảo Quốc Huân chương. Cũng như em đêm nay đã mở hết tâm hồn nghĩ về Anh, tưởng niệm anh trong ngày sinh nhật sau cùng. Chỉ còn mười ngày nữa thôi thì Anh tròn 27 tuổi. Bốn năm quân trường, mấy trăm ngày sống trong lửa đạn, mấy thác mấy ghềnh in vết chân anh. Em đã sợ lắm khi nghe nói đến những địa danh Khe Sanh, Hạ Lào, Charlie, hay Quảng Trị ...mà bây giờ Anh lại nằm đây!!
Từng ngọn rồi từng ngọn nến. Đêm nay em đốt hết 27 ngọn nến nầy, viết thư cho riêng anh.
Phượng ơi ! Nở nữa đi. Nở cho thật nhiều, đầy cây, đầy cành. Rồi từng cánh, từng cánh rụng, xác Phượng hồng phủ kín mồ đất mới thay những giọt lệ nầy, em khóc tiển anh đi...
XX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:02pm
Vòng Hoa Cho Anh * 10
Những Lá Thư Không Gửi
1
Anh thương nhớ,
Sau mấy tháng ròng học "rớt viết cầu thang" (- có nghĩa là trốn ra cầu thang ngồi học cho nó yên tĩnh, mệt mỏi quá ngủ gục, viết rớt lăn long lóc theo cầu thang từ đứa ngồi trên đầu cầu thang xuống đến đứa ngồi ở dưới chân cầu!"). Hôm nay, chỉ còn hai hôm nữa là em sẽ thi lý thuyết. Nghĩa là em của Anh đã đậu kỳ thi thực hành rồi đó. Anh có mừng cho em không? Anh có ủng hộ cho em không? Chắc là không quá, nên em bắt thăm thi thực tập nhằm môn khó nhất trong ba môn thi: (Nhi, Nội, Ngoại) + với môn căn bản là Nghệ Thuật Điều Dưỡng mà sinh viên nào bắt buộc cũng phải thi qua..
Lại thở dài ...
Trời già cũng cay nghiêt thật,! Em học NTĐD, học cứu thương mà người thương bị thương không được ai cứu !! Chết vì thiếu thuốc men, thiếu phương tiện, thiếu dụng cụ cấp cứu, thiếu cả bàn tay chăm lo săn sóc của người thương !!
Anh biết không, Bài thực hành thứ 2 : Kéo Traction Au Zénit. Mấy đứa thi chung phòng thấy lá thăm Nhi Khoa của em tụi nó le lưỡi : "Chúc mầy may mắn. "Em soạn dụng cụ và thực hành, vừa làm vừa trả lời mấy câu hỏi của Huấn Luyện Viên. Cổ quay em như quay dế.
- Nảy giờ trả lời nghe ngon quá sao còn có câu hỏi cuối cùng không làm luôn ! Cổ cười. " Thôi dẹp đồ đi." Thế là thoát nạn. Mồ hôi ướt cả lưng áo !!
Giống ngày xưa ghê Anh há, Bé Ph lại viết thư kể lể chuyện học hành cho ông lính NTĐ nghe trên giấy trắng học trò với dòng chữ nghiêng nghiêng mầu mực tím. Bây giờ em cũng sẽ kể cho Anh nghe những nỗi vui buồn đến với em, cho em, cho Anh chúng mình cùng cô độc nhưng không cô đơn. Từ ngày 25 tháng 5 năm 1973 đến nay, em đã nghĩ ra được điều đã làm em ấm ức, tức tối nặng trĩu trong lòng, em không còn giận Anh nữa. Nhất là hôm em thấy chị Mỹ Phụng vừa khóc vừa đốt thư..thì em hiểu là bất cứ bất hạnh nào cũng có thể xảy ra.
Thanh nói rằng lần phép sau cùng anh hỏi thăm em đó, vài tháng sau thì Anh mất. Anh mất mà mang theo hình ảnh của Em trong tim - Trọn vẹn - Anh mất mà còn đeo trên tay chiếc nhẫn của Em như một dấu ấn sắc son lời hẹn ước..!! Em xin cám ơn Anh đã cho em tình yêu cuối cùng đúng như lời Anh viết cho em hôm xưa : " Đối với em Anh là người đầu tiên , nhưng đối với Anh , Em là người sau cùng... "
Em lại khóc nữa rồi, nhưng đó là những giọt nước mắt của một chút " Hạnh phúc buồn "...Phải không Anh?
Em của Anh
TB : Viết đến đây em đã định lấy tập ra học bài rồi, nhưng phải kể thêm cho Anh nghe cái nầy mới được: Chị Loan vừa đi chơi với bồ về , kêu lên..
- Trời ơi coi phòng mình nè tụi bây.
- Sao? Dơ quá hả? kệ nó, mai Chủ Nhật rồi mấy cổ hỏng có kiểm nội trú đâu. Cúc vừa nói vừa cắm cúi viết..
- Dơ cái gì mà dơ. Tao tưởng khi về leo lên thang lầu phải lượm viết lăn nhóc hết rồi chứ...phòng có 6 đứa hà, mà gần thi rồi sao không đứa nào chịu học hết vậy? Mấy phòng kia tụi nó học bò lăn bò càng ra kìa..
- Kệ nó. Nó là dân gạo sum sê hoa lá cành ai bì cho nỗi , học nhiều ra trường bỏ túi hết cũng uổng.
-Tao mà ra trường nầy được, không thèm ở Sài Gòn , về tỉnh nào nhỏ nhỏ " làm Điều Dưỡng Trưởng.." ngồi văn phòng ký giấy tờ..khoẻ re."
- Mầy nói nghe bắt ham, làm như BYT đào tạo ba năm để cho tụi mình ký giấy tờ thôi ha? Vậy học một năm đủ rồi, cam đoan chữ ký của tao đẹp nhất nước..."
Cả phòng vừa ăn quà chị Loan đem về vừa cười ầm lên. Có tiếng của Bạch Mai bên kia phòng vọng sang :
- Mấy con quỷ sứ, gì mà um sùm vậy? không học thì cũng để yên cho người khác học với chớ..."
- Đứa nào muốn đọc diễn văn thì rán tụng đi. Tao giỡn kệ tao ai kêu nghe..
- Đồ vô duyên
- Ừ Cái phòng 1 khu B nầy nó vô duyên vậy chứ...hỏng có ế, đứa nào cũng có bồ hết trơn..
Vậy đó Anh, vui không? Con gái mà cải vã cũng dữ dội mà thương nhau cũng thật đầm ấm., cũng có những chiều những tối cô đơn thang lang tâm sự với nhau..như Em với Cúc. trong đêm noel năm 1972 - Năm anh vừa nằm xuống đó. Bây giờ gần thi rồi , em phải học bài đây mai mốt rảnh em sẽ kể cho Anh nghe.
Gần 22 giờ rồi, chuyến bay đêm cô độc sắp sửa bay qua. Vậy mà hai đứa kia đi chơi cũng chưa về.
Vậy mà Chẩn. vẫn ngồi đọc tiểu thuyết đang đến hồi gay cấn, vậy mà Cúc. Vẫn chăm chú viết nhật ký và em, em thì viết thư cho Anh... thì đúng là cái phòng nầy vô duyên chứa toàn là những vị khó ưa nhất. Mai mốt xa nhau rồi dễ gì tìm lại được những đêm như thế nầy nữa.? Có những cái tầm thường đơn giản nhưng sẽ không bao giờ quên. Em cũng sẽ không bao giờ quên những lời của Hoàng Vân nói giọng thật xúc động: Được tin Vân lập tức nhắn tin cho Ph liền, liên tiếp hai ngày sáng & chiều : "Hoàng Vân nhắn cho....N N.Ph, SV năm thứ 2 /CSĐD -Sài Gòn : Tr/Uý N...T....Đ đã hy sinh tại An Lộc ngày 15 tháng 5 năm 1972..." những chân tình như thế nầy làm sao quên được? Em sẽ không bao giờ quên được !!
Quân trường của Anh ngày đó..có vui vậy không?
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:06pm
Những lá thư không gửi * 2
Đ. thương mến,
"Nhớ em nằm mộng trên đồi Trong mơ bướm trắng một đôi bay về "
Giấc ngủ đêm qua của em không có buớm trắng một đôi mà chỉ có...Anh về
thăm em. Giật mình thức dậy, Em như còn thấy hình bóng Anh mặc bộ
treilli xanh, đầu để trần không có nón. Anh đứng bên cửa sổ đường Nguyễn
Văn Thoại, kế bên tủ áo của Em, hút thuốc. Rồi Anh quay lại, tựa lưng
vào thành cửa sổ nhìn sang giường em. Trên tay điếu thuốc vẫn còn đang
cháy đỏ. Anh đứng như thế, không nói một câu nào...!! Rồi Anh ném điếu
thuốc qua cửa sổ, đi ra cửa phòng. Tất cả chỉ là yên lặng. Là ánh mắt
anh nhìn, là làn khói thuốc mỏng bay lên...Anh không nói với Em một điều
gì cả. Giật mình thức dậy em lạnh cả tay chân. Trời còn khuya lắm vì
khu nội trú vắng lặng, dưới đường cũng vắng lặng. Em thao thức luôn đến
sáng.
Đó là giấc mộng hay chính Anh đã về thăm Em? Sao anh cũng không nói gì
với Em hết vậy? Sợ thì cũng có sợ, nhưng em vẫn muốn nghe Anh nói với
em, một câu gì đó. Anh về trong ngày em mãn khoá !!Ô.. Hay quá. Anh sẽ dự
lễ Mãn Khoá của Em. Nhưng em chưa đốt thiệp mời mà, và em cũng sắp đốt
đây, nhưng mà cũng...không có cái hộp quẹt...Nhất định là em sẽ mua một
cái hộp quẹt. Cái Zippo có hình anh lính chiến, để dành làm kỷ niệm.
Anh biết không, bài thơ ĐỒI THANH, MÙA THU 70 là do Đào Khoá 15/ CSĐD cầm đến:
- Tặng chị nè
Đọc xong em nói: "Hay quá, Ở đâu vậy? Thơ của em hả?"
- Đâu có, em đâu biết làm thơ...em chép lại. Bài thơ nầy được đăng trong
Đặc San ĐA HIỆU trường Võ Bị Đà Lạt. Em nghĩ chắc của anh Đ.tặng chị
dù tác giả chỉ viết tắt ba chữ NTĐ ."
Bài thơ được Đào chép lại viết trên một trang giấy học trò, không ghi tên.
-Đào cho chị mượn quyển Đa Hiệu đó đi.
-Em đâu có, hôm qua về Phan Thiết em đọc được ở nhà bạn em và chép lại
cho Chị, vì em nghĩ là của anh Đông viết cho chị chứ không ai khác ,
nhiều bài hay lắm chị ơi. Trước khi về phòng Đào vẫn còn nhắc lại "Em
tiếc quá, cả Anh Đông lẫn chị, ai cũng yêu thật nhiều mà ai cũng
..........Em ghét chị .!!..."
Biết nói gì nữa bây giờ. Anh mất hơn một năm rồi, mãi đến bây giờ em mới
thấy được anh.!! Rõ ràng từng nét mặt, từng nét môi, từ ánh mắt thân
quen...cứ y như là anh đối diện với Em vậy.
Cứ cho là Anh về thăm Em đi, vậy là Anh đến với Em rồi ha. Vậy là mình huề, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh của anh và Em.
Thôi thì, kiếp nầy mình không trọn, nếu còn thương nhau thì hẹn kiếp sau. Anh nhá.
Nội trú đêm mãn khoá 14/CSĐD
Em của Anh
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:16pm
Những lá Thư Không gửi * 3
Ba Tháng Tạ Từ * Nhạc Thanh Sơn
Người ơi thắm thoát niên học hết rồi Chúc nhau cạn lời giây phút ly bôi Ngày mai tan trường mình không chung lối Thương nhau nhiều biết gửi về mô Kỷ niệm cũ tan vào hư vô Cầm tay bốn mắt thương cảm nỗi sầu Tiễn đưa bùi ngùi phút cuối như nhau Đời không bao giờ hợp nhau mãi mãi Thương yêu rồi nỡ đành biệt nhau Để nhung nhớ muôn vạn ngày sau Thôi nhé, từ đây cách xa trong đời Vẫn buồn theo tháng ngày trôi Nụ cười khô héo trên môi Mỗi lần, thấy phượng nở tim xao xuyến Bạn bè đâu chỉ ta một mình Nỗi buồn này đành câm nín Rồi đây, có những khi buồn não lòng. Cố nhân biền biệt có nhớ nhau không. Ngoài kia hoa phượng rụng rơi tơi tả Dư âm làm sống lại đời ta Dù ngăn cách nhớ hoài ngày qua
Anh thương nhớ,
Nhạc hay mà buồn quá !!
Và Kỳ thi mãn khoá 14 / CSDD đã chấm dứt, ba ngày nặng nề liên tiếp thi sáng thi chiều đã qua. Thêm ba ngày nữa để thanh toán thau đồ dơ tuần lễ chưa giặt, phơi, phóng, ủi quần áo vì tủ đồ đã trống không. Rồi sắp xếp lại bàn học, thư từ bạn bè... Vừa ý nhất và mến thương nhất là hộp thư của Anh. Cùng cỡ cùng mầu, những phong thư xanh với cái dấu hiệu Võ Bị, chỉ lẻ loi một phong thư mầu trắng, nhắc nhở em một sự chia xa, day dứt, ngậm ngùi.
Bây giờ thì Em rảnh lắm. Sáng xuống trại bệnh 4 giờ. Trưa về nội trú. Hết nợ sách đèn nên tự do ngủ. Ngủ li bì bỏ những đêm thức trắng với cà phê đen. Tối trùm mền đọc sách, nghe nhạc hay lẩn thẩn viết lưu bút cho nhau. Ba năm học sắp hết rồi, sống chung thì cải vã, gần xa rồi thì lại thấy mến thấy thương nhau
Từ chiếc radio nhỏ giọng ai ca thật dễ thương bài "Mười Thương" làm em nhớ có lần Em đã hỏi Anh :
"Bây giờ anh phải nói thiệt, tại sao anh lại thương em?
Anh đã trả lời..
..."Em hỏi cái gì mà ác quá vậy? Làm sao anh trả lời đây?
- Thương là tại..." thấy thương "chớ còn tại làm sao nữa? Tại em là bé Ph chứ không là ai khác, vậy thôi! Hay tại cuộc đời của anh nó lận đận nhiều rồi nên Anh không thích những người con gái sống theo nếp sống mới, sôi động ồn ào nhưng mà rỗng, không để lại cho anh một nhắc nhớ nào như tà áo trắng ngây thơ hay chiếc áo bà ba tím mầu chung thủy. Anh chỉ thích những người con gái, gặp một lần còn muốn gặp lần thứ hai. Bé có nụ cười dễ mến làm cho anh thương chăng? Anh không biết. Anh chỉ biết là sau khi gặp Ph, ở nhà Ph đó, về Đà Lạt rồi mà Anh cứ nhớ nhớ cái ánh mắt ấy, cái nụ cười ấy và câu nói thật tự nhiên :
-"Mời hai Ông hút thuốc, nhưng mà...hỏng có cái hộp quẹt "
Cho nên mỗi lần cầm đến cái hộp quẹt thì Anh lại nhớ em. Bao nhiêu đó đủ chưa? Thôi anh không nói nữa, kẻo em lại la Anh: "Anh Đ.lại tán dóc nữa rồi." - Anh em mình mà, nịnh nhau chi há Bé ?
Lá thư ấy em đã đọc đến thuộc lòng từng cái chấm câu từ cái dấu phẩy, và đó cũng là một trong những lá thư dễ thương nhất của Anh. Anh là lính mà em thấy anh chẳng giống lính chút nào, chưa bao giờ em thấy anh mặc treilli, đội nón trận ra làm sao?? Vậy mà cũng là Người yêu của lính đó chứ !!...hihih..
Anh cũng ác lắm. Chỉ với hai câu nói của anh thôi : "....Ph ơi đêm nay rằm, trăng Đà Lạt thật sáng, thật buồn làm Anh nhớ ......... niềm thương ấy bao giờ nguôi hở em??" và "Nói có thương rồi thì đừng quên nghen". Kẻ dặn đừng quên thì bây giờ chắc đã quên rồi. Người đã hỏi thì bây giờ đang yên lành say ngủ, để cho người nghe bao ray rức nhớ thương. Biết đến bao giờ mới lãng quên???
Nhưng thôi .....Kỷ niệm đơn sơ mà để nhớ một đời Một phút gặp thôi rồi nhớ nhung trọn kiếp. Người đã xa em thật rồi sao lòng cứ mãi vấn vương...
Em của Anh.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:33pm
Những Lá Thư Không Gửi
* 4
Đ. thân thương,
Hôm nay - 14 tháng 9 năm 19..., là ngày em chọn nhiệm sở. Chờ các vị ngoài Bộ Y Tế vô công bố những nơi đang có yêu cầu Cán Sự Điều Dưỡng, các tân khoa 14 sẽ lên chọn nhiệm sở theo thứ tự hạng đã đậu khi thi tốt nghiệp.
Em nhìn quanh giảng đường, mới hôm nào thật đông vui, rộn rã tiếng cười trong những ngày trang hoàng, giăng biểu ngữ tập tành văn nghệ...cho buổi lễ mãn khoá mà bây giờ vắng quá! Chỗ nầy em mới vừa treo lên hình ảnh một cô Điều Dưỡng với chiếc nón trắng thật xinh, tay cầm cây đèn cầy... trong ánh mắt hài lòng của cô H., nhìn chùm dây mầu còn đung đưa lóng lánh những kim tuyến, em như còn nghe giọng hỏi của cô Giám Học: "Ph ơi leo được hông vậy, cái thang cao lắm đó coi chừng té nhen..."Hỏng sao mà cô, em nhỏ con chắc được mà.". Miệng nói cứng mà trong lòng run lắm - Ai biểu xui xẻo, học nhằm khoá đầu tiên theo chương trình Cán Sự Y tế của Mỹ, nên năm đầu trai gái học chung hai mươi mấy môn căn bản, năm thứ 2 mấy anh trai tách ra về viện Y Tế Công Cộng, còn con gái thì học chuyên ngành Điều Dưỡng, nên lễ mãn khoá không có con trai để leo trèo làm mấy cái việc nầy. Hôm ấy, khi chiếc váy ngắn 6 mảnh và cái áo trắng ngắn tay đã vàng bởi mồ hôi cùng năm tháng được thay bằng đồng phục trắng CS, giày vớ trắng tinh, quỳ xuống thay chiếc nón Sinh Viên bằng chiếc nón Cán Sự Điều Dưỡng, trắng muốt. Đứng lên, đã là những tân khoa 14/ CSĐD diễn hành trên sân khấu sắp xếp đội hình, trước mặt quan khách và người thân, em đã long trọng đọc lời Tuyên Thệ:
"... Trước di ảnh của cô Florence Nintingale và toàn thể quý vị quan khách trong hội trường, chúng em xin long trọng tuyên thệ..." .................."
Tay trái cầm đèn, tay phải áp vàp ngực rồi đưa thẳng ra phía trước: Xin thề! Xin thề! Xin thề!
Giây phút ấy sao thiêng liêng đến rợn người, sao cảm động muốn khóc. Ánh nến bập bùng, đi trong tiếng trống rộn ràng của bản nhạc "Lên Đường", diễn hành trở ra, và sẽ ra đi mang trong tim ngọn lửa thiêng nầy làm hành trang, mang lời thề ấy về tỉnh lẻ. Chúng em đã thề là sẽ:
Lấy tình thương băng bó vết thương Đem nhân ái trải lên giường bệnh
Hôm đó không gian như ngưng đọng. Cả hội trường tối đen để chỉ còn những ánh nến của 40 tân khoa 14, giây phút ấy làm sao quên, cái nón mới gọn gàng xinh xắn nhưng sao bỗng thấy oằn vai trách nhiệm.
Mai đây chúng mình sẽ về đâu? Có mấy đứa ở lại Sài Gòn? Mấy người đi tỉnh lẻ. Ai làm Trưởng Trại, ai Giám Thị hay Điều Dưỡng Trưởng cho một tỉnh nhỏ xa xôi!!
Hôm qua cô H gọi em lên văn phòng hỏi em: "Em có muốn ở lại trường làm Huấn Luyện Viên không? Danh sách của Bộ sẽ không có trường Sài Gòn, nhưng nếu em ở lại, cô xin".
Thật bất ngờ mà cũng thật cảm động, nhưng em chưa nghĩ là mình sẽ ở lại đây . Em xin cô 20 phút suy nghĩ. Hồi xưa anh không chịu về Sài Gòn bây giờ em ở lại làm chi? Nếu anh ở đây học Anh văn rồi đi Mỹ học cái gì đó, thì em sẽ rất biết ơn cô.
Bây giờ em cũng là Huấn Luyện Viên, nhưng không muốn ở lại Sài Gòn....
XXX
Kể từ hôm nay, Bé Ph ngày xưa của Anh đã trở thành cô giáo. Người lớn rồi Anh há, mai đây đất Cần Thơ xa lạ sẽ đón nhận bước chân ngập ngừng của cô giáo mới -21 tuổi đời em đã lớn chưa?
Trường em học là trung tâm Y Tế lớn nhất miền Nam, hàng năm có ba lớp CS (năm thứ 1, thứ 2, thứ 3) và hai lớp Tá Viên Điều Dưỡng, mỗi lớp học một năm là xong chương trình nên Hà, vợ của NHS vào sau em mà ra trường trước Em. Hôm Hà ra trường em đang ở vào những tháng cuối cùng năm thứ ba.
Vừa tan học, từ lầu 2 đi xuống, ngang qua thư viện, em nghe tiếng kêu: "Chị Ph ! Chị Ph ơi " quay lại em thấy Hà đi đến - Hà nói: Nảy giờ em qua phòng nội trú kiếm chị mấy lần rồi mà hỏng thấy...để mời chị qua đây dự Lể Mãn Khoá của em". Rồi Hà nắm tay em kéo đi..." Hà ra trường rồi khoẻ quá, không biết chừng nào mới đến phiên Ph đây".
Hà giới thiệu:
- Đây là Ba Má Em. Đây là Anh Tư, anh chồng của em. Anh ấy là NCC cũng một khoá 23/ VBĐL với anh Đ. đó.
Em nhìn sang: Một người sắc diện trung bình, vui vẻ, mặc thường phục, anh ấy đang học Anh văn để rồi chắc cũng đi Mỹ học cái gì đó như anh nói ngày xưa.
Anh C hỏi em :
- Đ. chết rồi Ph có hay không?
- Dạ có. Ph cũng có đi đến nhà thăm anh, nhà ở chợ, chứ nhà ở trong quê thì Ph không biết.
Em lại thở dài.
Hà nói với em:
- Bây giờ chọn nhiệm sở đâu giờ chị? Giúp ý kiến cho em đi.
Em cười nói đùa : - Nếu muốn khoẻ thân thì về tỉnh, nếu muốn dễ đi theo diện Ưu Tiên Một thì ở Sài Gòn, rồi mai mốt anh S ra trường đi đâu thì Hà đi theo.
Hà đập lên vai em:
- Chị nầy chỉ giỏi chọc em thôi.!!
- Được đi theo diện Ưu Tiên một là một hạnh phúc đó chứ, không muốn phải không?
Cuối tháng em về nhà, chừng lên Sài Gòn đi cùng xe với Anh ấy. Lúc qua phà Mỹ Lợi, và đứng chờ xe qua, Anh C gặp và nói chuyện với ai đó, chừng lên xe Anh C với Em: - Anh ...(tên gì em nghe không được vì ồn quá) cũng là bạn của Đ. học khoá 23 ĐL đó Ph. Anh ấy bị thương ở chân, giải ngũ rồi...!! Cuộc chiến nầy khốc liệt quá anh há, kẻ nằm xuống người thành phế nhân....!!
Năm đó, lớp em nhiệm sở Sài Gòn chỉ tập trung cho hai bệnh viện Chợ Rẩy và Chợ Quán, ngoài ra về Cần Thơ là nhiều nhất: 5 đứa về làm Huấn Luyện Viên trường Cán Sự Cần Thơ - có em - và 14 đứa về bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa Cần Thơ.
Khoá 14 của Em không có nhiệm sở cho một Quân Y Viện nào cả. Được tin Em chọn làm Huấn Luyện Viên cho Trường Cán Sự Phong Dinh, Đào cô bé tặng Em bài thơ Đồi Thanh mùa Thu 70 đã viết thư trách em :
"Ngày xưa chị mơ áo trắng dấu thập hồng ra trường làm việc cho Quân Y Viện, bây giờ chị mê bụi phấn mang nghiệp "bắt bẻ" học trò?!! Em ghét chị...".
Hồi xưa anh thích có vợ là cô giáo ngoan hiền. Bây giờ em cũng đã là cô giáo rồi đó. Anh có vui không? Cô giáo của một trường Điều Dưỡng chuyên nghiệp - Phong Dinh. Vừa lòng chưa , Anh yêu?
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 10:45pm
* 5
Phong Dinh , ngày...tháng...năm...
Đ. Thương mến,
Bây giờ em lại kể tiếp cho Anh nghe nữa đây. Sau khi nhận Sự Vụ Lệnh, 5 đứa cùng về trường Cán Sự Phong Dinh hẹn nhau ngày 1 tháng 10 sẽ cùng đi nhận nhiệm vụ cho vui. Khuya hôm ấy Ba em và chú tài xế đi Cần Thơ, từ quê đến Cần Thơ phải qua hai cái Phà Mỹ Thuận và phà Cần Thơ, qua không biết bao nhiêu là cầu, cái lớn cái nhỏ. Đường xa hơn trăm ki lô mét mới đến cổng bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa. Con đường Hoà Bình còn rớt lại vài cánh Phượng cuối mùa.
Ba xách vali nặng trĩu hành trang đưa con gái vào tận cổng trường nửa như lưu luyến nửa chắc cũng muốn quan sát nơi ăn chốn ở của con mình ra làm sao cho yên bụng. Nhìn cảnh tay bắt mặt mừng của 3 chị khoá 13 và của các bạn (vì em là đứa trình diện sau cùng) chắc Ba cũng an tâm nên nói:
- Thôi con vô trường đi, Ba về kẻo tối quá đi đường nguy hiểm lắm.
- Dạ Ba về bình an nha. Nếu Ba có đi họp ở Cần Thơ thì nhớ thăm con, mua cho con một bao Nghêu nhen.
Ba cười vỗ vỗ tay lên vai em rồi đi ra cổng. Đang rơm rớm nước mắt nhìn theo Ba thì bị các bạn chọc. "Ơi cô giáo rồi mà còn khóc nữa sao?"
Tại Anh đó. Ngày xưa anh hay gọi em là Bé nên bây giờ em cũng vẫn chưa lớn.
Thương Ba vừa đến chưa kịp nghĩ ngơi đã vội quay về, may là xe Ba được qua phà theo Ưu Tiên Một mà gần 8 giờ đêm mới về đến nhà...
Anh biết không, đây là Trung Tâm Huấn Luyện Y Tế dự định là sẽ được phát triển lớn nhất miền Tây, bây giờ vừa mới được thành lập, gồm ba hệ: Cán Sự Điều Dưỡng, Tá Viên Điều Dưỡng, thoát thân từ trường TV Hộ Sinh cũ. Lúc đó chỉ mới có khoá 1 sắp bước lên năm thứ 3 và khoá 2 Cán Sự cũng sắp sửa thi lên lớp - Khoá 3 đang tuyển sinh. Ban giảng huấn hệ nào dạy theo hệ đó nên trường CS tính luôn anh Giám Học và năm cô giáo mới vừa chẳn chục người, cho nên mỗi HLV phải gánh 2 môn cho hai giai đoạn.
Phần Em là: Giai đoạn 1: Sáng dẫn SV năm thứ 2 xuống bệnh viện TKN thực tập Nội Khoa chiều về dạy lý thuyết Phòng Mổ cho năm thứ 2 và thứ 3.
Giai đoạn 2 : Sáng dẫn năm thứ 2 và thứ 3 thực tập về Phòng Mổ và chiều về anh Giám Học đưa cho em một cuốn sách về Phòng Mổ, bảo em soạn cho ảnh hai bài thi cho năm thứ 2 thi cuối môn và năm thứ 3 - Khoá 1 - thi ra trường. Vậy là lao đầu vào công việc quên cả nhớ Anh. Nhưng anh biết không, phòng nội trú của em nằm trong trung tâm TKN,, nhìn qua trường Cán Sự là một cây Phượng vĩ to sầm cho nên mỗi năm lòng em lại buồn man mác khi chùm phượng hồng đầu tiên hé nụ cho đến cánh phượng cuối cùng vừa rơi rụng xuống sân.
Năm nay, kỹ niệm ngày Anh mất, em không tìm được một đoá Quỳnh hương nào nên đã nhớ Anh bằng bình hoa Cúc tím và một trái Sầu Riêng. Văn phòng nhỏ lắm, bàn của mỗi HLV được kê sát vào nhau, không có chổ nào để em đặt tấm ảnh của Anh như ba năm trên nội trú Sài Gòn.
Em có một khung ảnh rất đơn sơ chỉ là hai tấm kiếng ghép lại để vừa hai tấm ảnh 9 x 12. Ban ngày em xoay tấm ảnh của em ra ngoài, đêm đêm ngồi học em quay cái hình của anh ra. Bởi vậy nên em mới có mấy câu thơ:
Em với Anh như hai tấm hình trong khung ảnh Lưng kề lưng nên không đối mặt bao giờ Chắc bởi thế nên chúng mình muôn thuở
Tình lỡ, tình xa trong cõi mịt mờ...
Anh biết không, Có lần Nhã lên nội trú của em chơi, Nhã cầm tấm hình của em lên xem rồi nói: "P chụp hình sao buồn quá!". Chợt Nhã xoay qua bên kia thấy hình của Anh. Nhã nhìn một lúc rồi nói tiếp: "Anh Đ. không có cho Nhã tấm ảnh nào hết". Em không biết bây giờ Nhã ở đâu, vì sau lần từ Bình Long về Sài gòn, Nhã không đến trường nữa. Từ đó hai đứa vắng tin nhau
Anh yêu,
Anh biết không, về đây em cũng có rất nhiều chuyện để kể cho Anh nghe lắm, mà không có dịp để viết, mà hình như, từ khi về trường Cần Thơ với khung cảnh mới, tư tưởng của em cũng gần như cô đọng lại, bên cạnh đó còn có bổn phận mới, công việc mới, làm em hết cả ngày giờ.
Hôm nay, sinh nhật Anh, trên bàn của em một bình hoa nhỏ chỉ có hai bông Hồng, một trắng một đỏ thẳm.
Tặng Anh đó.
Ngỡ mình đã mất trong nhau Nhưng mưa Thu kết hoa đầu còn thơm Đêm về tay vuốt sợi buồn Nghe câu tình nhớ nghe sầu lên ngôi Ngở tình đã chết trong tôi Nhưng trên đỉnh nhớ mây trời còn bay Ngở tình đã cuối cơn say Ly cà phê đắng mới vơi nửa chừng Ngở mùa đã chớm sang Thu Nhưng hoa Phượng thắm trên cành còn rung
Và rồi người lại trong tôi Tình đơm nụ biếc nhánh rời nhánh xa... Theo buồn tuổi nhỏ trôi xa Sau lưng cây cỏ bổng già thiên thu
Em của Anh
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 8:50am
Những láThư Không Gửi
Sài Gòn đêm Noel 1974
Đ. thương nhớ,
Những tưởng đã xa lắm rồi ngày tháng cũ, ngôi trường Sài Gòn nầy đã trở thành "Trường Xưa", Vậy mà Em lại về đây, ngồi trong ngôi trường Điều Dưỡng nầy, dù không phải khu B quen thuộc với cái bàn bên cửa sổ thân thương mà ba năm dài tấm hình của anh vẫn ở nơi đó. Nhưng cũng là khung trời cũ, để đêm nay, đêm Giáng Sinh 1974, Em lại ngồi kể chuyện cho Anh nghe.
Anh biết không, ngày Em ra trường, Đào khoá 15 trách Em là "ngày xưa chị mơ áo trắng, dấu thập hồng ra trường làm việc cho Quân Y Viện. Bây giờ chị mê bụi phấn, mang nghiệp bắt bẻ học trò, Em ghét chị...". Hồi đó Em không biết, trường Điều Dưỡng không bao giờ có nhiệm sở là Quân Y Viện cả, vì là một trường dân sự mà, chỉ cung cấp nhân viên cho bệnh viện và các Trung tâm y tế thôi, Quân Y có ngành quân y lo...
Ấy vậy mà nhờ em "mê bụi phấn" nên có dịp làm việc cho Quân Y Viện Phan Thanh Giản đó Anh. Ngày đó bên trường quân y đào tạo các khoá."C2" cho lính (không biết em có nhớ sai không), bên ấy thiếu giảng viên nên qua xin Trung Tâm Y Tế viện trợ cho vài cô giáo. Anh Giám Học bảo em soạn bài qua đó dạy về Hậu Giải Phẩu (săn sóc bệnh nhân sau khi mổ) Khi chiếc xe trường Cán Sự đưa em và anh Giám Học ngừng ở sân Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Em ngỡ ngàng lẫn xúc động nhìn quanh, lớp học cũng khá đông, trẻ trung vui vẻ cũng có mà già dặn với những nếp ưu tư cũng nhiều.. !!
Có ông sĩ quan nào đó nói với anh Giám Học:
- "Mời anh vào, khoá học đang chờ"
"Mời cô nầy nè, cô giáo đó"
- Ô là la...cô giáo đây hả?. Cô giáo dạy xong rồi chắc lính tôi ... thi rớt hết.
Hai ông đàn ông nheo mắt cười với nhau !! Em mắc cỡ bỏ đi nhanh vào lớp học...
Trong đám áo trận xanh rì chỉ lẻ loi một chiếc áo trắng của em. Đứng trên bục giảng em như quay về cái ngày ấy năm 72... Nếu chiến trường năm đó có bao nhiêu đây lính để cứu thương thì anh đâu có mất!! Phải chi ngày đó em được lạc vào chiến trường Bình Long, cũng như bây giờ em đang "lạc" vào khoá học nầy mà góp phần "trang bị" cho các lính quân y ra chiến trường. Ngày ấy bao nhiêu thương binh đang đau đớn họ ngóng trông, đợi chờ bóng dáng người lính cứu thương mà không ai đến được với họ- trong đó có Anh của Em. Và em đã nói hết những gì cần làm, bằng cả con tim và khối óc của mình, để giúp họ dành lại sinh mạng cho một người đang mông lung giữa sự sống và cái chết... Em ao ước, giá có một phép mầu nào đó cho em sang tất cả những gì em học được, em cũng sẵn sàng...!! Đến giờ giải lao, ông sĩ quan ban nãy nói với em:
- Đến giờ dạy cuối, Cô soạn giùm 5 câu hỏi thi và cho câu trả lời vào riêng bao thư dán kín lại giùm, mãn khoá tụi tôi sẽ chấm thi luôn.
Không biết cuối khoá có ai bị vướng mắc gì với cái môn của Em không? Em có giúp được họ điều gì không anh há !! !!
Một tuần sau....
Khi những người lính khoá C2 trẻ có già có, đang cố gắng căng đầu ra dùng thời giờ quý giá của mình từ nhiều chiến trường về hậu phương để học cứu thương. Thời giờ của họ là vàng bạc. Bao nhiêu bài như thế mà phải học trong một thời gian thật ngắn, thì ở đây, lại như thế nầy :
Một hôm, bước vào lớp, chỉ có các em nữ là ngồi ngay ngắn còn các nam sinh viên thì một cậu đang quay lưng ra sau nói chuyện với bạn, người thì ngồi trên bàn, người thì đang hút thuốc...người mới vừa nhẩy cửa sổ vô...có tiếng em nữ nói "Ê cô vô kìa..mau lên...", "Ê V. Bỏ thuốc đi , cô kìa....". V vẫn bình tỉnh hút thêm vài hơi nữa rồi mới ném thuốc đi "Từ từ chứ mậy... Làm gì dữ vậy?"
Đứng trên bục giảng, với hình ảnh khoá C2 hiện lên trong đầu, những người cần học mà không được học.. đàng nầy..Cơn giận của em bốc lên... Em nói :
"Tôi biết, có rất nhiều em trong khoá Cán Sự nầy tuổi đời hơn hẳn tôi. Có gia đình có vợ con rồi nữa. Nhưng khi ở ngoài đường, ở ngoài chợ thì chúng ta bình đẳng, được hiến pháp và pháp luật bảo vệ như nhau. Nhưng đây là trường học . Và với cái áo Huấn Luyện Viên nầy,đứng trên bục giảng nầy, tôi là Cô của các em, tôi có trách nhiệm " dạy dỗ " các em. Mời các em đứng lên. Ai không muốn học cứ tự do đi ra ngoài...".
Bắt đầu va chạm với thực tế của cuộc đời rồi phải không Anh?...
Vài tháng sau thì em về Sài Gòn học Khoá Bổ Túc hậu tốt nghiệp Huấn Luyện Viên - Khoá 7 của Bộ Y tế Sài Gòn. Khóa học vừa kết thúc ngày hôm qua. Cùng học với em có các anh chị từ các trường Huế, Nha Trang, Cần Thơ, Biên Hoà, Sài Gòn, Caritas và Cơ Đốc. Vừa mới làm Cô thì lại được làm học trò!! Anh thấy vui chưa?
Anh yêu,
Không hiểu sao, về đây em lại nhớ anh "lắm thế", (Em nhớ cả những lời thư anh "sửa lưng" em: - Mình người miền Nam, anh muốn em dùng những ngôn từ của người miền Nam... lắm thế gì cơ là của miền Bắc..nghe xa lạ lắm không thân quen chút nào.." - Đúng là anh Đ.khó tánh thật.!! .); Em cũng nhớ là em còn nợ anh chưa kể cho anh nghe chuyện đêm Noel năm 72 và bây giờ em kể đây..Anh có muốn nghe không? .hay là anh lại nói: - " Anh buồn ngủ quá rồi , mà cũng hết giấy nữa , thôi hẹn em thư sau nhen "......
Chiều Noel năm đó, ( năm 1972) sau khi ăn cơm xong , Em lên phòng nằm trên giường nghe radio, nhìn xuống đường Nguyễn Văn Thoại, ngắm hai dòng xe xuôi ngược.. Ngó vô phòng thấy mấy đứa bạn lăng xăng sửa soạn đi chơi phố với người yêu...chỉ có Cúc và em đang trùm mền nằm nhắm mắt...
Lần lượt, từng đứa, từng đứa rời phòng đi hết rồi. Em buồn quá lấy hộp thư của Anh ra, úp ngược xuống, đọc lại từ cái đầu tiên đến cái cuối cùng ...em nằm im lặng..hồn lịm đi trong nỗi nhớ mênh mông. Bỗng em nghe Cúc thở dài.
- Buồn quá há Ph ?
Em cũng vẫn nằm im không xoay người lại : - Ừ, tao cũng buồn quá... Nó tung mền vùng ngồi dậy nói :
- Đi Ph ! Tao với mầy đi chơi nằm đây một hồi nữa chắc tao tự vận mất. - Nói gì nghe ghê vậy mậy. Đi thì đi.
Thế là hai đứa mặc hai cái áo mầu tím, rời trường. Ra ngã sáu uống ly đậu xanh rồi vòng về nhà Thờ Cha Tam ở công viên Văn Lang .cũng gần nửa đêm rồi.!!
Em hỏi nó:
- Anh Luân đâu không vô rủ mầy đi chơi nằm đó rồi than buồn.!!
- Ảnh có rủ mà hỏng biết sao tự nhiên tao nói hôm nay tao về quê. Còn mầy, cứ lấy thư ảnh ra đọc hoài dù sao đi nữa ảnh cũng chết rồi...quên đi mầy ơi, tìm đối tượng khác mà thương cho đỡ khổ....
- Mầy nói sao nghe dễ quá vậy !! Tao chưa quên được vì bây giờ tao hiểu anh nhiều hơn trước. Tao biết được những gì mà trước kia tao chưa biết, hay không biết... Cúc cười : - Phải chi hồi đó mà mầy biết thì bây giờ mầy đâu có đi với tao... - Ừ...chắc vậy quá!!
Đến công viên Văn Lang, hai đứa tìm hoài không có một băng đá trống nào nên đến gốc cây ngồi xuống. Một chút thôi, có hai ông thanh niên đến ngồi kế đó.
- Xin phép hai cô cho tụi tui được ngồi đây cho vui nha.
- Bãi cỏ gốc cây của nhà nước ai ngồi đâu thì ngồi chứ đâu phải của riêng tụi tui đâu mà xin.!!
- Hai cô vui tánh quá hen. Hai cô tên gì nhà có ở gần đây không? Chắc đi chơi chứ không có Đạo...
- Nhà tui ở dưới quê xa lắm, nghe nói Sài gòn có đèn ngọn xanh ngọn đỏ đẹp lắm nên lên đây coi. Mà đẹp thiệt, chớp tắt hay quá.. mê coi nên lạc đường hỏng biết đường về, ngồi đây nghỉ chân nè...
- Hai cô tên gì? nhà ở đâu nói đi tụi tui chỉ dùm cho, đường Sài Gòn nầy tụi tui rành dữ lắm
- Tui tên bé Hai còn nhỏ nầy tên Bé Ba...trước khi đi má tui có dặn rồi , lở lạc đường thì kiếm mấy ông phú lít có cái còi mà hỏi , đừng hỏi bậy bạ người ta dẫn đi mất đó...
- Mà hai ông làm gì...mà rành đường Sài Gòn dữ vậy?
- Tui tên Tý , thằng nầy tên Tèo...hai đứa tui phát progamme tuồng cải lương, sáng nào cũng ngồi trên xe đánh trống chạy cùng Sài Gòn hết mà hỏng rành sao được. Cô ở đâu tui dẫn về giùm cho.
- Vậy sao? Tui mê cải lương dữ lắm đó. Mai nhớ chừa cho tui vài tờ nghen. Nhà tui ở dưới dán ảnh nghệ sĩ nhiều lắm: Hùng Cường nè, Bạch Tuyết nè thanh Nga, Út Bạch Lan...nhóc hết trơn...
Hai anh thanh niên cứ tủm tĩm cười còn em và Cúc cũng đang đau bụng vì nín cười..Em giục nó
-Thôi đi về Bé Ba. Khuya rồi mầy.
- Hai ông Tý Tèo ngồi chơi vui vẻ hen.
Em nói nhỏ với Cúc :
- Đừng về ngả trước . Đi cổng sau chợ Rẩy đi Cúc.
- Ủa hồi nảy cô nói cô hỏng biết đường về mà...sao bây giờ đi nhanh quá vậy...
Em với Cúc vẫn cắm cúi bước nhanh.
- Hai cô, tụi tui thành thật muốn làm quen mà. Tui tên Minh học Kiến Trúc còn thằng nầy tên Thái học Khoa Học.
- Tui không biết, hồi nảy ông nói tên Tý Tèo phát Progamme tuồng cải lương thì giờ tui cũng biết vậy thôi hà.
- Tui xin lỗi mà, tại thấy hai cô nói chuyện vui quá. Bây giờ muốn được biết tên hai Cô.
Đến cổng sau của trường, Cúc nói : - Tôi tên Cúc, bạn tôi tên Ph. Hai đứa tui học năm thứ 3 trường nầy nè. Thôi chào hai ông nghen. Ý Quên , cảm ơn hai ông nhờ có hai ông mà ngang qua nhà xác tui đỡ sợ ma...
Về đến phòng hai đứa lăn ra giường cười cho đã. Mấy đứa kia đi chơi về Cúc còn kể lại cho tụi nó nghe nữa.
Sáng hôm sau, khi cô Giám Thị vừa kêu "Cúc, Ph. năm thứ 3 ..có người kiếm kìa..." lập tức 4 đứa nó vổ tay la to: "Bé Hai bé Ba đâu, có hai anh chàng Tý Tèo kiếm kìa."
- Đứa nào chạy xuống nói giùm là bé Hai bé Ba về quê luôn rồi không lên đây nữa...
- Uổng thế.!!.Hỏng lấy Progamme tuồng cải lương vìa đọc sao...hihi...!!
Vui hông Anh?
Nếu không có bạn bè an ủi : Mầy cứ như vậy làm sao thi cuối năm nay nỗi, toàn những môn nặng ký không đó; nếu Không có những mẫu chuyện cỏn con làm duyên con gái như thế, thì làm sao em qua nỗi những tháng năm rầu rĩ nầy...
Đ. thương mến Lễ nửa đêm rồi đó anh. Chuông nhà thờ vang lên rộn rã trong chiếc radio ngày nào. Đêm nay những người có Đạo thức trắng. Đêm nay em cũng thức trắng cầu Chúa lòng Lành sẽ ban nhiều Bình An cho Anh và gia đình
Em của Anh.
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 10:17am
Vòng Hoa Cho Anh * 15
Khoảnh Khắc Hoa Quỳnh Nở
Mùa Xuân năm ấy bất ngờ mà Anh đến với em, với cô bé vừa mới lên 17 tuổi hồn nhiên trong áo trắng học trò. Sau đó anh T. đã một mình đến nhà xin địa chỉ của em để về Đà Lạt liên lạc thư từ cho vui...miệng anh ấy dẻo đeo nói mãi chừng nào em ghi cho mới chịu. Nhưng người xin không gửi mà trao cái địa chỉ đó cho Anh. Một tháng sau em nhận được một phong thư xanh có cái dấu hiệu nho nhỏ: Người gửi là " nguyenthanhdong" - Anh viết vậy đó , không bỏ dấu. Em cho Địa chỉ rồi em cũng quên, một hôm đi học ngang nhà Cúc, nó thấy chạy ra kêu :
- Ê Ph. mầy có thư nè..
Lúc đưa ra lá thư đầy bụi Cúc cười nói: - 'Nó nằm trên đầu tủ hơn 10 ngày rồi, sao mầy không ghé lấy , đi học tao cũng quên luôn."
Nếu Cúc quên luôn thì bây giờ em đâu biết NTĐ là ai, anh há.Và lâu rồi em cũng không gặp anh T. Bây giờ nếu gặp lại em sẽ tặng anh ấy một bó hoa, vì nhờ Anh ấy mà Em có được một mối tình đầu thật đẹp, đồng thời em cũng sẽ tặng anh ấy " mười lăm củ " vì em cũng đã khóc hết nước mắt vì cái tình yêu đầu đời đó. Lần sau cùng gặp nhau đến bây giờ đã hơn bốn năm rồi...Em cũng vẫn chưa quên..
Hình như nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có viết một câu tương tự như thế nầy :
" Nếu xa cách đưa tới lãng quên thì tình yêu khi có mặt dù nồng nàn đến đâu cũng không đáng được gìn giữ, xa cách không thể là một trở lực hay một hủy diệt, trái lại xa cách còn làm cho tình yêu lớn lao và toàn vẹn hơn nữa, vì đời người bao giờ cũng vậy. có những ước muốn không thành tựu, ước muốn đó thời gian qua cầu làm thành những ngậm ngùi trong quá khứ, khiến cho tâm hồn con người còn mãi những bâng khuâng... "
Lại khóc. Nhưng không sao, cứ khóc nữa đi vì cuộc đời không có nước mắt như mùa Hè không có hoa Phượng như mùa Đông không có gió heo may.
Hôm kia vừa thi xong, sáng nầy thì làm lễ mãn khoá Hậu tốt nghiệp HLV, và chị Vân Anh Huấn Luyện Viên của trường Cán Sự Huế, trước khi về qua nội trú từ giả mấy đứa em, chị nói: "Về ngoải chị có nhớ đến khoá 7 HLV /1974 BYT chị sẽ nhớ đến Ph , với cái tài nằm lăn trên giường mà viết - Thức thì thức suốt đêm, ngủ thì ngủ li bì...ngày đầu vô đây , chị với chị Hoàng gặp em đang lơn tơn cầm muổng dĩa xuống phòng ăn cơm, chị bảo với chị ấy: - " Gớm sao học trò trường nầy nhỏ nhỏ không há...", dè đâu sáng hôm sau, trong buổi học đầu tiên lại thấy cô bé cầm tập vở từ khu nội trú bước vô, quét bàn mở quạt lau bảng lấy phấn...hoá ra lại là cô giáo học chung với mình !
- Hihi em dân nội trú mà chị.Thổ địa trường nầy ba năm chứ ít sao ? ít nhất cũng phải biết nằm mà viết. , hôm nào nếu có dịp đi Huế em sẽ ghé trường phá chị nè, nhớ dẫn em đi chơi nữa hén. Cho ăn cái cơm hến cơm sò gì mà vừa ăn vừa khóc đó nhen
- Còn Ph có nhớ tụi ni răng hè ..úi chu choa ơi chắc quên mất hỉ..?
- Chị không quên mô! Chị đã hứa là sẽ về " kiểm duyệt" xem đám em trai của chị ai " chửa vợ " thì chị làm mai cho em mà...!!
Cả bọn cùng cười ồ lên.
Đêm khuya rồi, mà cũng hết giấy nữa , em dừng bút nhen - ngày xưa anh cũng hay nói như vậy đó -
Mai em sẽ trở về trường Cần Thơ và em sẽ đi học Anh văn. Vì em có ông dượng -chồng của bà Dì ruột làm ở Bộ Y Tế, hôm em ra nhà thăm dì, dượng ấy bảo em nếu đang công tác ở Trường thì học Anh văn đi, có bằng Proficency rồi dượng giúp cho qua Nhật học 6 tháng, rồi qua Mỹ học một năm rưởi nữa "học cái gì đó " như anh vậy...Lấy cái bằng gì cũng được, học cái gì cũng xong, miễn được đi học là vui rồi...!! Anh há?.
Tặng Anh nè
Khoảnh Khắc Hoa Quỳnh Nở
Gom nắng Hạ ươm hồng nổi nhớ
Giếng linh hồn nổi lá mộng lênh đênh Người đi cuối bãi đầu ghềnh Đốt tương tư thảo quên bao ưu phiền Em về đem hết niềm riêng Kết thành thuyền mộng thả dòng sông mơ Sông Tương nước chảy lững lờ Đưa thuyền em đến bến bờ có Anh
" Hoa chanh nở giữa vườn chanh " ( NB) Ướp hương lên mái tóc xanh lời thề Tình mình đẹp tựa trăng quê Cách xa xin ánh trăng thề chia đôi
Người đi nửa mảnh trăng soi Nửa vầng thắp sáng tình tôi với người Tiễn Anh không tiễn dặm trường Đưa Anh chỉ có Quỳnh hương ngậm ngùi..
Trong khoảnh khắc đoá Quỳnh chợt nở Chút hương thầm gợi nhớ người ơi !!
Em của Anh
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 10:54am
Vòng Hoa Cho Anh * 16
Thương Hoài Tờ Thư Cũ
Những lá thư viết từ cao nguyên lạ về phố xưa , lộ vắng gió lạnh buồn ...
" - Thôi không biết , em mắc đền anh đó tuần một lần thư sao trể hẹn thư em ?
- Tại ra trường dạo phố mãi mê xem ... quên mua giấy , hết mực rồi không thư được " ....."
*Chiều dạo phố gái cao nguyên môi hồng má thắm Anh không nhìn , cúi mặt nhớ người thương Đừng giận anh nghen , thôi anh sẽ xin thường mua giấy mực , viết thật nhiều cho em đó
* Đừng hờn nữa nha, người yêu bé nhỏ Mận ở đây nhiều nhưng anh thích sơ ri thôi Nếu có ăn, em nhớ cắn làm đôi Cho anh một nửa ,..chúng mình thương nhau nhất "
*Niềm thương đó bây giờ anh quên mất Lớp học buồn em đếm lá thu bay Đếm lá rơi như đếm tháng năm dài Người đã mất sao thương hoài tờ thư cũ .?!
Gò Công, ngày...tháng..........năm..
Lần ấy hơn nữa tháng trời em chưa nhận được thư anh . Lần ấy anh bảo là " anh vừa đi xa trường để học nhảy dù nên không viết thư cho em được ...lần ấy anh còn hứa là sau khoá học anh sẽ được nghĩ phép, chừng nào về Gò Công anh sẽ kể cho nghe nhiều chuyện vui lắm . !!....
Em cũng vừa ở Gò Công trở quaCần Thơ nè , mua cho mấy đứa bạn vài ký sơ ri và một hủ mắm tôm chua ...em lại nhớ anh nói " Cái gì của quê hương mình dù đơn sơ đến đâu cũng thấy thật đẹp thật mến thuơng !!
Sau khoá học Huấn Luyện Viên nầy, Về lại trường Cần Thơ em chính thức thay anh Gíam Học dẫn SV năm thứ hai và thứ 3 thực tập ĐD Phòng Mỗ - Vậy là em sẽ còn được trở về Bộ YT học khoá tu nghiệp về Phòng Mỗ nữa khi bộ Y Tế mở khoá chuyên khoa nầy. Anh ngạc nhiên lắm sao. Tụi em cũng là dân " Đa năng đa hiệu " mà !! Là CSĐD cái gì cũng phải biết, Nội, Ngoại ,Nhi, Nhiễm , kiêm cả Sản khoa, Phòng mỗ, Tai Mũi Họng, đều phải học qua và khi nào ra trường, tuỳ theo nhu cầu mà sẽ có những khoá học bổ túc hậu tốt nghiệp: Huấn luyện viên, Phòng mỗ, tai mũi họng ...cho đúng chức năng và nhiệm vụ mình đang phụ trách .
Bây giờ thì sáng Em dẫn học trò thực tập, chiều về trường dạy lý thuyết. Tuần lễ ba ngày chiều chiều đạp xe dọc đường Hoà Bình đến Hội Việt Mỹ học Anh Văn, hay ghé chợ mua bánh Cống, bánh xèo ..!! Anh biết không xuống đây em mới biết cái bánh Cống đó, nghe tên thì lạ nhưng ăn rồi thấy nó cũng giống giống như cái bánh Giá của mình , mà bún ở đây thì to lắm, cọng bún gì mà gần bằng cọng " bánh tằm " ở quê mình ..Dưới quê mình sợi bún nhỏ xíu, mịn màng và món bún bánh Giá thì tuyệt anh há ! Bún bánh giá là món ruột của em cùng với món bún tôm chua - món ăn quê hương Gò Công mà bà HTH Từ Dũ đã " mua chuộc " được cảm tình của các quan triều Nguyễn, sau nầy đến Vua cũng còn mê ...về đây em học được cách làm món mắm tôm chua nầy rồi ..
Ngày tháng cứ thế êm ả trôi qua với em trong cái xao động, rối ren của chiến trường từ quân khu 1 chạy dài về Quảng Trị tất cả những nơi chốn ấy đã thực sự không còn có Anh. Vùng 4 chiến thuật thật an bình ..
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 11:46am
Vòng Hoa Cho Anh * 17
Nhưng có thật bình yên không Anh .!!.....Thành phố Cần Thơ đã bị Pháo Kích !!
Lúc Sáng, Em đang đứng dán bảng phân công trực của khoá 2 /CS, em nghe có tiếng hỏi :
- Cô là cô giáo? - Dạ - Cô là cô giáo của mấy cô học trò nầy? - Dạ phải, có chi không Bác Sĩ?
- Trời đất ơi tui tưởng Cô là học trò chứ. Cô giáo gì mà nhỏ xíu vậy?
Anh biết không, mấy chị nhân viên thì cười hả hả, còn mấy đứa học trò thì bụm miệng cười.... làm em tức muốn khóc vậy đó.
- Cô bao nhiêu tuổi rồi cô Ph. ?
- Dạ 21, hay 22 hay 30 tuổi gì làm Huấn Luyên Viên cũng được mà Bác Sĩ? Đâu có nghe Bộ Y Tế cấm cô giáo... hỏng được nhỏ tuổi đâu...?
- 1 - 0 rồi bác sĩ Khải ơi.!!
Lúc ấy BS Thể cũng vừa bước vào phòng tiếp liệu:
-Thôi BS ơi ông chọc một hồi cô giáo khóc thét lên mất công học trò dỗ lắm đó.
- Đâu được nà , BS Khải chọc cô giáo khóc thì BS Kh phải dỗ chứ sao lại bắt học trò dỗ cô giáo !!
Tại anh đó. Anh cứ kêu em là " Bé" cho nên mãi đến bây giờ em cũng chưa lớn.!! Em đã tính bỏ ra ngoài rồi, dân phòng mỗ mà. dạn ăn dạn nói nhất bệnh viện, làm sao em dám tranh luận với họ. Nhưng BS Khải cười :
- Thôi bây giờ nói chuyện đàng hoàng nghe cô giáo: Bác Sĩ Trưởng Khoa nhờ tui nói lại với cô giáo là BS chấp nhận lời đề nghị của Cô, sau mỗi cas mỗ lớn cô cứ họp học trò ngoài phòng họp, sẽ có inter nào phụ mỗ trả lời và giải đáp thắc mắc về bệnh lý của các em...
- Ngay bây giờ hả BS? Cám ơn BS nhiều...
Anh biết không vài ngày trước, CT bị pháo kích, hình như hơi xa chứ không phải ở thị xã. Em không rõ ở đâu nhưng đã có một bầu không khí căng thẳng bao trùm lên thành phố. Ban đêm đã có lệnh giới nghiêm và bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa, Khoa Ngoại đông hẳn lên., BV nầy có bốn phòng mổ mà làm việc liên tục không phút nào ngừng nghĩ.
Hôm qua em đang ngủ vì chưa đến giờ làm việc buổi chiều thì Nguyệt, nhân viên phòng mổ, lên phòng gặp em :
- Trời! Giờ nầy cô giáo ngủ hả? Pháo kích vô hồi hôm bây giờ bệnh ở cấp cứu nằm la liệt, còn OR thì mổ liên tục tui làm hết nổi rồi, cô vô đứng phụ đi. Bây giờ hai chân tui tê cứng đi mà hỏng biết mình đi trên chân ai nữa. Đêm hôm qua cas trực của con Xuân còn te tua hơn nữa, vô ra liên tục sáng đêm luôn-Xuân là bạn của em, cùng khoá 14 /CSĐD
- Rồi, chị về trước đi. Ph thay đồ xong xuống liền...
Mặc vội bộ đồ xanh phòng mỗ em qua trường báo cho anh Giám Học hay là em xuống tăng cường cho nhân viên bệnh viện rồi băng ngả cấp cứu vào OR. Trước mắt em...từ hành lang cho đến trong phòng cấp cứu chật ních những người ...mỗi giường 2,3 người...nằm cả trên băng ca xếp dài ngoài hành lang qua OR chờ mỗ : Cắt bỏ tay , chân., làm Parage......vv và vv...
- Dữ vậy sao...!! Trời ơi lần đầu tiên em mới thấy nhiều như vậy.!! Nhân viên phòng mổ , nhân viên phòng xét nghiệm , nhân viên hậu giải phẩu...chạy tới chạy lui, ai cũng đều khẩn trương , gấp rút...
Thấy em đi vô , BS Thể la to.
- Trời cô giáo nở lòng nào ở trển ngủ hồi hôm đến giờ cô không xuống phụ tụi tôi...gần chết rồi nè....
- Em đâu có phận sự ở đây BS, tụi em ở bên trường mà, đang lo soạn bài thi ra trường
- Thi cử gì nữa cô ơi, họ đánh nhau rầm rầm mấy tháng nay rồi, không biết chừng nào đến mình đây...!!
Nói vậy nhưng em cũng mặc áo choàng, mang mask , đội nón...và rửa tay, bước vào cas mỗ thay dùm cho chị Nguyệt. Lần đầu tiên tên em chính thức đứng trong một ê kíp mỗ và lưu vào sổ phúc trình của OR.
Anh à ,
Ông BS Th nói : " Họ đánh nhau rầm rầm mấy tháng nay rồi , hỏng biết chừng nào đến mình ..." em lẩn thẩn tự hỏi :-.sao vậy hả Anh? em không biết gì hết, từ ngày đó đến giờ cái radio bị em bỏ quên, hôm trước đem ra ... pin bị chảy hết rồi. Ở đây an toàn lắm mà ! hay đó chỉ là sự bình an của một ngọn núi lửa ?..hay...có những cái yên bình đến " lạnh lùng, khó thở " phải không Anh? ..chứ trong thành phố nầy em vẫn còn đi học, vẫn thấy Phượng về ..và nếu không có một hai lần pháo kích chết và bị thương nhiều như hôm ấy ...thì dễ quên là đang có chiến tranh - ít ra trong thành phố nầy -..
"…không có chiến tranh ..." nghe sao mà dễ thương quá !!Miền tây không sôi động như ở ngoài kia thôi, chứ thỉnh thoảng nghe tin vài trận đánh ở đâu dưới các quận xa, thỉnh thoảng nghe tin " mấy ổng " về đấp mô giật mìn ở quốc lộ .. mà cũng nhiều lần thấy những đám tang...phủ lá Quốc Kỳ chầm chậm qua phố một sự hiện diện đến đau lòng của chiến tranh chứ không có làm sao được ! sao Ba lại dặn em như vậy nhỉ !!
" Ừ mà mấy hôm nay có giới nghiêm nữa
...Ừ mà hôm trước mới vừa được thư Loan, nó hỏi em ở đó bình yên không có đánh nhau không? Nó còn nói " Ba dặn chị nếu có gì thì cứ ở đâu ở đó đừng chạy lung tung nguy hiểm lắm, có gì chờ Ba qua.".. cả nhà lo cho chị không biết cái thân ốm yếu của chị có chạy giặc nỗi không ? Hôm đó em về thăm nội, Bà Nội nhắc chị nữa đó. Nhắc chị mà cũng chửi chị -" Bà già " coi vậy mà chửi một câu văn hoa lắm nghe .:.
" Hồi đó mỗi lần hè cái cây Phượng nầy nó nở thì có con Ph nó về nó ở với tao , mấy năm nay rồi , cây Phượng nầy nó nở mà nó đi luôn rồi không về ở với tao nữa , thôi tao kêu thằng tư Giêng vô đốn cho rồi ..."
Sắp bước sang tháng Năm rồi , hàng Phượng vĩ đường Hoà Bình , hàng phượng vĩ ở bến Bắc Cần Thơ đã nở tung toé ...cây Phượng vĩ to sầm ở chân Cầu Cái Khế mỗi lần đi học lại ngang qua, cây Phượng vĩ ở gốc trường Cán Sự mỗi lần qua văn phòng em cũng phải ngước mắt nhìn một chút, ...mầu đỏ nhức tim đau óc ..mầu đỏ alfa rực rỡ kiêu sa ..và đớn đau như Bình Long An Lộc ..!! Chắc chừng nào trên đời nầy không còn cây Phượng vĩ nào nữa hết thì mới quên được chăng? Mai nầy em có lập gia đình không? Người ấy là ai, em cũng chưa biết. Nhưng em mong là người có học, có hiểu biết và nhất là phải biết quý trọng dĩ vãng của vợ mình...!!
Hôm qua chủ nhật,chị T Loan về Sài Gòn để ghé Caritas mượn bộ áo truyền thống của cô Tổ Điều Dưỡng, chuẩn bị cho khoá 1 CS Cần Thơ ra trường, Duyên thì về Sa Đéc..chỉ có chị Yến, em và Nguyệt ở lại nội trú...bổng chị Yến hỏi :
Lưỡng mộc thì mộc chiếc, lưỡng kim thì kim khuyết, lưỡng thổ thì thành non.." vậy còn lưỡng hoả thì sao tụi bây?
- Bộ chị hỏi tuổi đặng có chồng nữa hay sao? giờ nầy mà còn lưỡng gì nữa..? Lưỡng hoả thì cháy nhà chứ sao giờ
- Hoả thì năm bảy thứ hoả, chị phải hỏi cho kỹ coi ảnh bốc hoả gì , hoả dầu xăng dầu hôi thì lấy mềm mà chụp, hoả cây hoả củi thì lấy nước tưới lên không thôi cháy lan cháy nhà rán chịu
Làm em nhớ lần trước về thăm nhà, em hỏi Ngoại.." nếu con lập gia đình với người có tuổi Mùi..lớn hơn con nhiều tuổi...Ngoại thấy được không? - Em đinh ninh là Ngoại sẽ nói ờ được đó nhưng không dè Ngoại nói “Thôi , hỏng được nghe con..chọn người khác đi.”
"Ủa sao kỳ vậy Ngoại, hợi mẹo mùi tam hạp mà Ngoại?
“Không có hạp đâu con ơi, tử biệt sanh ly đó.."
Từ đó em ra nhà sau thì Ngoại theo sau ngăn : "Đừng nghe con " , em ra ngoài trước Ngoại theo ra ngoài trước: "Thôi nghe con.". thấy Ngoại can ngăn quyết liệt quá em mới nói:
"Con hỏi Ngoại vậy thôi chứ chưa có gì đâu mà, Ngoại yên tâm đi. Con bị tứ hành xung rồi nên bây giờ con sợ lắm...Ngoại đừng lo...”
Anh thân thương ,
Gần đến sinh nhật của anh nữa rồi. Hôm sinh nhật vừa qua của em, em nhận được một tấm thiệp chúc mừng, chỉ có một đoá Hồng mầu rose - Một đoá thật to từ trong nhuỵ hoa có một em bé gái rất dễ thương nhoài người ra bắt một con bướm bé xíu và một bài thơ bằng tiếng Anh :
" For you on your Birthday There' s only one You "
x x
To bring you warm wishes And let you know, too There are many nice people But there' s only one you
Đó Anh thấy chưa , em đã nói là em sẽ kể cho Anh nghe hết những nỗi vui buồn của em mà, nhất định không dấu gì cả , vì đến bây giờ em cũng chỉ có anh là thân thương nhất. Nhưng viết đến đây em cũng buồn lắm, vì em biết và em tiếc là mình không thể làm một Kiều Nguyệt Nga suốt đời tang chế thờ phụng Lục vân Tiên. Vì bên em cũng còn có gia đình, vì em đang sống trong xã hội nầy với những cuốn hút của nó. Em biết là em sẽ mất một cuộc tình đẹp nhất, ước gì nó là cuộc tình duy nhất của em? Hạnh phúc thay cho những ai yêu chỉ một lần và cùng người yêu đi trọn cuộc đời..phải không anh?
XXX
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 1:59pm
Mắt rưng mờ di ảnh, Lệ thấm nhòa thơ xưa. Lời anh còn văng vẳng, Tình ơi đành quên chưa?
Chia sẽ nỗi niềm cùng chị Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 8:26pm
Vòng Hoa Cho Anh * 18
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 & Tôi
Sáng hôm đó em đang ở phòng mỗ. Khi Anh Gíám Học hốt hoảng, đẩy cửa Phòng Mỗ vào tay cầm theo cái Radio...tất cả yên lặng nghe và tất cả..ngơ ngác.! Cứ như trên trời rơi xuống !! Chấm dứt rồi.sao?..hết chiến tranh rồi à?? em ngồi trên băng đá , đầu óc trống rỗng...đặc cứng như một khối sắt vô tri...văng vẳng tiếng hát của ai phát ra từ chiếc radio nghe thật buồn bài con thuyền Không Bến : " Đêm nay thu sang cùng heo may .........trong đêm bao la thuyền mơ bến nơi đâu ?? "
Bổng hai toán học trò của em nhốn nháo lên..."Cô ơi ! Mấy cô mấy anh chị ở trường đi hết rồi Cô...Cô đi không?
- Đi đâu??
- Đi về quê, cô Nguyệt cô Yến cô Loan...mấy cô về nhà hết rồi.
Em hốt hoảng nhảy xuống đất nhìn ra sân..từng tốp từng tốp người...các học trò của trường, bốn khoá ...họ bỏ trường về nhà...Họ mặc đồ thường chứ không yểu điệu tha thướt trong những chiếc áo dài nữa...Em đi như chạy về Trường...nội trú vắng hoe..đi đâu bây giờ !! Ba dặn là đừng đi lung tung mà..nhưng ở lại với ai??? muốn khóc quá.!! Thay vội bộ thường phục( cũng là cái quần tây và chiếc áo chemise, em làm gì có quần đen áo bà ba mà mặc !! ) lấy vội tiền bạc và một ít giấy tờ em ra bến xe...nhưng !!
Làm sao đi đây? Toàn bộ bến xe đông nghẹt những người và người. Họ tranh nhau lên xe, tranh nhau trèo cả lên mui của những chiếc xe lame đi ra Phà Hậu Giang. Phà không chạy. Muốn đi phải qua sông Hậu. Sông Hậu lớn thế kia mà đi bằng những chiếc ghe nhỏ tròng trành thế nầy? Không được. Em sợ lắm, vừa đi vừa khóc thút thít em quay về trường (đi bộ) lên đến phòng đóng cửa chặt lại..
Chiều đã xuống ...một mầu đen thăm thẳm bao trùm căn phòng nhỏ vì em không dám mở đèn ...
Phòng nội trú bây giờ chỉ có mình em?? có lẽ lúc nầy em mới cảm nhận được đầy đủ hai chữ bơ vơ..và Không biết ba em có bị làm sao không..??
Bổng có tiếng gõ cửa..
Giật thót người em chui sâu vào góc giường ...cắn chặt môi nín khóc..!! trời ơi mấy ổng tới rồi sao?? Làm sao bây giờ !!
Im lặng một chút rồi có tiếng anh Giám Học : Anh Hậu nè , còn cô nào trong đó không?
Từ trên giường em bay xuống đất...mở cửa như thể chậm một giây anh Giám Học sẽ biến mất… khóc như mưa..
-Ủa Ph em còn ở đây sao?
-Em về không được anh Hậu ơi..làm sao qua phà qua sông...xe nào cũng đầy những người là người...
Anh Giám Học an ủi :
- Thôi đừng khóc nữa, chắc không sao đâu...mình chỉ là dân y tế thôi mà. Em ăn cơm chưa? Học trò bỏ trường về hết rồi không có nấu cơm thì..để anh nói chị A ( vợ anh - đang là Điều Dưỡng Trưởng B/V Thủ Khoa Nghĩa) cho em ăn cơm bệnh viện đỡ vậy..đi, bây giờ anh đưa em xuống Bệnh Viện.
Em mặc lại đồ Phòng Mỗ xuống OR ..ở đó dù sao cũng trong trung tâm bệnh viện...Ở đó có bạn em, Xuân, Mai ,Đào ba đứa cùng khoá 14 trường Sài Gòn . Sinh hoạt trong bệnh viện hình như không thay đổi lắm ..nhưng trong ánh mắt ai cũng đầy âu lo...và trán ai cũng hằn những ưu tư...
XXXXX
* Ba đi về rồi !
Em ngồi yên, bất động trông theo dáng Ba, cái lưng hơi tôm của Ba hình như còng xuống nhiều hơn ngày thường. Trông Ba buồn quá. Như già đi hơn chục tuổi !! Ba dặn em cứ ở yên đây đi, mà con cũng không nên về quê, Ba nghĩ con ở đây có lợi cho con hơn...Tuy không hiểu nhưng nhìn mặt Ba em như cảm thấy có điều gì nghiêm trọng lắm..Em lo lắng hỏi Ba :
Ba. Rồi... Ba có làm sao không ba? Ba chỉ lắc đầu không nói...Và em cũng đâu có ngờ đó là lần sau cùng em gặp Ba để rồi...hơn 7, 8 năm sau Em mới lại thấy Ba lần nữa !!
XXXX
Hôm ấy là hôm nào? Em không nhớ là buổi chiều của ngày nào nhưng ,hình như chưa đến ngày giỗ Anh.
Sau khi Ba về rồi em nghe lời Ba đốt hết thư từ của gia đình, bạn bè thân sơ..đốt cả thư anh !! . Hộp thư gần trăm lá thân yêu của em.! Ôi đau lòng quá !! Quãng đời đẹp nhất của em có anh ..từ từ biến thành tro bụi..nhưng em chựng lại, không nỡ đốt ba tấm hình của anh..Trong hình anh nhìn em cười tươi quá, làm sao em nỡ đốt cháy niềm vui của mình đây ? Cỏn bốn cái alpha đỏ của bốn năm Võ bị nữa? Mầu đỏ mới kiêu hùng làm sao...? em lặng đi một lúc...lấy miếng ngói bể đào một lổ đất nhỏ , em gom hết tro tàn của những lá thư chôn xuống đất, sát gốc cây Phượng của trường Cán sự... Bỏ luôn bốn cái alpha xuống , nhưng rồi em nghĩ : mảnh nhung đỏ sẽ tan, nhưng cái dấu alpha bằng kim loại không tan vào lòng đất ! Em lại..lấy lên..phủi bụi và đem trở về phòng...
xxxx
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 9:03pm
Vòng Hoa Cho Anh * 19
Tình Khúc Kinh Kha
Cuộc chiến ở Việt Nam đối với Em đã chấm dứt ở An Lộc . Từ đó, Em không dám đụng đến cái Radio, không còn hồi hộp theo dõi tình hình chiến sự vì đâu còn có anh làm chinh phu cho em là chinh phụ ngóng trông !! ... Vì hồi đó vừa khóc vừa học bài, thi cuối năm thứ 2 với những môn thi dồn dập. Năm thứ ba với những trại thực tập "nặng ký ", với kỳ thi ra trường. Còn thời giờ đâu mà nghĩ ngợi đến chiến tranh? Và Vùng bốn chiến thuật thật an lành. Chiến tranh chỉ có trong những bài nhạc, trong những quán cà phê và Chiến tranh đối với em chỉ còn là thơ của Chinh phụ ngâm khúc :
Chinh phụ ngâm diễn Nôm I Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm tầng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây Chín tầng gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh Nước thanh bình ba trăm năm cũ Áo nhung trao quan vũ từ đây Sứ trời sớm giục đường mây Phép công là trọng, niềm tây sá nào Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa Bóng cờ tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng II Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu Ngòi đầu cầu nước trong như lọc Ðường bên cầu cỏ mọc còn non Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên Nhủ rồi tay lại trao liền Bước đi một bước lại vin áo chàng Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San Múa gươm rượu tiễn chưa tàn Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay III Hà Lương chia rẽ đường này Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương Quân đưa chàng ruổi lên đường Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng? Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng Hàng cờ bay trong bóng phất phơ Dấu chàng theo lớp mây đưa Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp lại về buồng cũ gối chăn Ðoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một mầu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Em đã lên đến cao điểm của nỗi sầu tử biệt nên đối với em còn nỗi buồn nào hơn thế nữa? Và bây giờ biết có ai không, cũng như em sẽ phải nát lòng trước cảnh tử biệt sanh ly nầy? Chung quanh em những gương mặt chìm một nửa sau vành nón lá, Em cũng vậy. Cúi mặt vẽ vu vơ trên cát mà chờ đợi. Lần đầu tiên trong đời em có mặt trong một cuộc mít tinh để nghe xét tội một người mà đối với một bên là ác ôn, là có nợ máu với nhân dân, và đối với một bên là một vị anh hùng, đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho quê hương cho mầu cờ, sắc áo.
Với em , người ấy như thế nào? Không có nợ nần gì với em cả. Em không hề biết ông, và cũng như nhiều người hiện có mặt trong đây đều không hề biết đến ông.. Họ cũng như em theo lệnh "Tất cả trường của Trung Tâm Y Tế, từ thầy cô đến các học trò đều có mặt tham dự. "
-Ổng kìa Ph.!! trời ơi còn trẻ quá ..
- Nghe nói là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện - không chịu buông súng đầu hàng nên bị bắt...
Em nhìn ra cổng..Trước mắt em là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn .
Khoảng cách tuy xa nhưng cũng đủ để thấy Ông đang bình thản đi vào. Trước mặt em là một vị Đại Tá không giày saut áo trận, bình dị trong bộ áo bà ba đen ung dung đi giữa nghi thức áp giải mà như đi trong tiếng nhạc quân hành. Có lẽ tuổi khoảng chừng trên dưới bốn mươi, người vừa tầm, gọn gàng, nước da hơi xanh, cái xanh của thiếu nắng. Đầu trần không nón sắt thấy rõ mái tóc cắt cao như sẳn sàng hứng hết mọi tai ương của định mệnh. Một định mệnh dành cho người thất thế, sa cơ. Vừa đi ông vừa đảo mắt nhìn quanh, hình như hơi mĩm cười rồi tiến sâu vào trong khán đài, một vị trí cuối cùng của một đời ngang dọc.
Em lẩn thẩn tự hỏi : Không biết Ông xuất thân từ trường nào? quê Ông ở đâu mà bây giờ dừng lại ở đây? Em lại nhớ đến cái chết của Anh. Anh đã đổ ra hết đến giọt máu cuối cùng, rồi nằm xuống, lính chôn anh trước cổng tiểu khu Bình Long ... rồi tất cả đều bị san bằng dưới cơn mưa pháo. Đời trai như chiến sĩ Kinh Kha một lần qua sông Dịch, nhưng mỗi người sang sông bằng một cách khác nhau, và Không biết "VỢ ÔNG" - em muốn gọi bằng hai tiếng thân thương "vợ ông" chứ không muốn gọi bằng chức vụ -. Vâng, chỉ có vợ ông bây giờ chắc đứt ruột từng cơn !! Em đưa mắt nhìn quanh cố tìm, nhưng không thấy người đàn bà nào đang khóc như em nghĩ. Dưới gốc sân vận động, phía ngoài vòng rào lại là một cây Phượng vĩ đang nở bông đỏ thắm, trên cây có vài đứa trẻ hiếu kỳ leo lên nhìn vào ...
Cuộc xét xử đã bắt đầu, nhưng em không nghe được gì cả, em ở xa khán đài lắm nên không trông thấy Ông nữa. Và em bỗng nhớ bài Thơ "NHỚ RỪNG" của Thế Lữ
Nhớ Rừng
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú)
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Ta biết ta chúa tể muôn của loài Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị, Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa Nơi ta không còn được thấy bao giờ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
1936 THẾ LỮ
Và Cuối cùng,điều gì phải đến cũng đã đến....
** Một tràng đạn nổ dòn chát chúa vang lên như tiếng sấm ...
Và mưa..!!. Mưa của trời đất, mưa trong lòng người thân và mưa của cây phượng cuối sân vận động vào một sáng sang Thu
xxxxxx
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoàng Dũng
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 10:50pm
Từng chữ bồi hồi trong nét thơ
Những trang nhật ký với thương chờ
Anh đi để lại tình hoa mộng
Năm tháng nghẹn ngào lịm giấc mơ
Xin chia sẻ cùng chị Hoa Hạ , đọc từng chữ mà
lòng bồi hồi xúc động cho mối tình tuyệt đẹp của thời trai khói lửa ….
Hoàng Dũng
.
------------- Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 01/May/2012 lúc 11:25pm
Vòng Hoa Cho Anh * 20
Anh thân yêu,
Lịch sử đã sang trang . Quảng đời đẹp nhất của em cũng đã đóng lại. Lâu lắm rồi em cũng không viết cho anh. Trường Cán Sự Điều Dưỡng Cần Thơ cũng đã thay tên, trở thành "Trường Bổ Túc Y Dược Trung Cấp". Từ đó Em cũng đã cuốn theo dòng đời mà trôi nổi, lênh đênh theo "nhu cầu công tác " nhưng
Chưa bao giờ Em thôi nhớ về Anh Dẫu trong mơ hay giữa ngày vội vã Những cái mất bây giờ thành xa lạ Cố giữ cái còn theo nắng Hạ mưa Đông
Ba tấm hình của anh, em chưa đốt nhưng cũng không giữ được, lần đó em đem về phòng cất trong bìa của quyển nhật ký. Đám giỗ đầu của Ngoại, em về đem theo định để lại nhà luôn, chung với nhiều lá thư của em viết cho anh mà không gửi - vẫn dán kín lại và dán cả tem - Những lá thư em viết trong trại bệnh, trong những cas trực đêm rỗi rảnh hay những lúc bất chợt nghĩ về Anh mà không có quyển Nhật ký Lần ấy gồng gánh đem về nhà đủ thứ...nào ngờ qua phà đón xe (hồi ấy đi xa là cả một sự khó khăn em bị giựt mất hai túi xách...mất cả quyển nhật ký, mất hết thư từ và hình của Anh !! Mất hết rồi. Em ngồi tiếc ngẩn tiếc ngơ.!!
Anh biết không, hồi mới ra trường chỉ số lương tập sự là 350 , vừa mới bổ túc văn bằng TT và giấy tờ để nhập ngạch lên 380 thì "đổi đời" lương hướng toàn bộ bị giảm chỉ còn lãnh 1/2 lương. Em sống một mình gói ghém lắm thì tạm đủ, muốn giúp Mẹ thay Ba nuôi con dại và ba đấng sinh thành: Cha ruột và Ba Mẹ chồng, tất cả gia đình hơn 10 người chỉ trông vào hai mẹ con.
Loan có chồng. Yến bệnh chết. Mấy đứa em từ thứ 5 trở xuống chẳng đứa nào thi đậu nổi cái bằng trung học, ba thằng em trai học không được nữa và đi thanh niên Xung Phong.Tội nghiệp thằng Út! Thằng em trai út thấy Mẹ lên thăm, ôm khóc như mưa, đêm đó hai mẹ con ngủ chung trong chiếc vạt nhỏ, láng sát bìa rừng, phần muỗi cắn, phần thì nó cứ ôm cứng lấy Mẹ ...đòi bỏ về ..ngủ gì được hai mẹ con khóc đến sáng. Và nó cũng chỉ được đi thăm duy nhất có một lần ...
Ba em từ hôm thăm em ở Cần Thơ về đến nhà là đã tập trung đi đâu mất luôn không biết tin tức đâu mà thăm nuôi,...Hơn năm sau gia đình mới có tin về: Ba em đang ở trại Vĩnh Phú Hà Nội. Hơn bảy năm trời ...mà gia đình, đại diện là Mẹ chỉ đi ra Hà Nội thăm Ba được có một lần.Vâng, một lần duy nhất. Lần đó có người thăm thân nhân ở chung trại với Ba, gặp Ba, Ba nhắn được có một câu - "Chị nói vợ tôi rán đi thăm tôi một lần, rủi có chết cũng còn nhắm mắt .." Vì hơn ai hết, Ba hiểu vắng Ba bao nhiêu nhọc nhằn bươn chãi vì sinh kế, nuôi cha mẹ, nuôi con ...đã trút xuống đôi vai của Mẹ. Mẹ đang là cô giáo của trường tiểu học thị xã, bị điều về tận một quận cách đó hơn 12 km. ngày ngày đạp xe đi dạy trong cái nóng của miền Nam, hay trong cơn mưa tầm tã và trong cơn gió lồng lộng vùng ven biển thổi giật từng cơn .
Bao nhiêu đồ đạc trong nhà cứ tuần tự thay Mẹ thay các con mà đi thăm Ba trong những chuyến được gửi đồ. Trong xóm có người quen ra Hà Nội thăm chồng, Mẹ năn nỉ đem dùm cho Ba một gói nhỏ lương thực nhờ vậy mà thím gặp được Ba. Thím Năm vừa nói vừa khóc: Anh Ba ảnh ốm nhách đen thui tui nhìn không ra. Ảnh bịnh nặng lắm chị có cái gì bán được bán hết đi thăm ảnh ...nhất định chị phải thăm ảnh một lần mới được. Và với sự giúp đỡ ít nhiều của bè bạn, lối xóm , và cái gì bán được bán hết. Mẹ cùng vài người bạn chung "xuồng" ngược lên miền Bắc ...ra tới Vĩnh Phú thăm Ba.
Chưa thăm thì buồn nhưng chưa khóc. Thăm về rồi khóc bảy ngày chưa nguôi .
Đó Anh, đại khái nếp sinh hoạt gia đình em là như thế.
Và cả nhà dấu Ba, không dám cho Ba hay Loan đã chết. Loan - bạn của ĐT em gái anh đó, nó cũng chết rồi. Chết năm 1978. Hôm đó, em vừa được điện khẩn của má cho hay Ngoại chết, vừa về đến đầu ngõ thôi thì gặp ông Nội, Nội mếu máo nói với em: "Con mất thêm một đứa em nữa rồi hay chưa con?". Trong đầu em lại nghĩ đến một trong ba đứa em trai đi thanh niên xung phong, chứ không ngờ lại là nó. Đứng ngẩn người ra, nhìn trong nhà đông nghẹt những người...
Ông ngoại mất bữa trước thì hôm sau đến nó ..nhà hai người chết ..nó chết tức chết tưởi ...chết luôn đứa con trong bụng, có thai gần 7 tháng rồi ...nguyên nhân tại sao? Thôi hôm nào sẽ kể cho anh nghe sau vậy. Và em thật sự hãnh diện vì Mẹ. Mẹ em thật đáng hoan hô. Bao nhiêu khó khăn tủi cực mà ngày Ba về vẫn còn căn nhà để nương náu dù chỉ có bốn bức vách tường ,trong ruột trống không.
Loan mất, Mẹ em cứ ấm ức, cứ muốn nghe Loan nó nói tại sao nó chết tức chết tối như vậy, nên nghe ai nói chỗ nào coi bói hay, hay gọi hồn giỏi, Mẹ cũng lén đi tìm tới. Có lần xuống đến Kiểng Phước, bà nầy coi hay đến nổi ...họ kéo nhau đi ngồi chờ từ sáng đến trưa mới đến lượt mình ...Bị cấm, bà thay đổi chiến thuật, không coi ở nhà mà đến tận nhà thân chủ, may quá lần đó có em về. Mẹ rước lên nhà "gọi hồn" Loan về. Em nghe "nó" nói mà nổi gai ốc. Dù không tin em cũng phải tin.Nó "về " thật anh ạ. - Anh nên nhớ là em đi xa nhà bỏ xứ đã lâu rồi, và trước lúc cả nhà nói chuyện với bà ấy, không có em, vừa từ nhà sau lên chưa kịp ngồi xuống chiếu thì nó hỏi em : - "Chị hai , chị về nhà hồi nào vậy ? " !! Hỏi vài ba câu xong, em chợt nhớ đến Anh, nên em hỏi thử nó : - " Ở dưới Em có gặp anh Đ. không ?
Nó suy nghĩ một chút rồi lắc đầu: - Không em không gặp ảnh .mà anh ấy chết trước em ...lâu lắm rồi mà ?? nếu là "giả tạo" thì sẽ không thể nói được câu nầy .. Má kêu em ra ngoài rồi nói hay con gọi thử xem coi Đ. có về không? Đơn giản lắm chỉ cần con nói rõ họ tên và năm mất bả đi tầm về ...có hay không biết liền
Em còn đang lưỡng lự thì mấy đứa em xúi "Kêu đại đi, được không trúng trật gì cho chị khỏi ấm ức, mai mốt muốn kêu cũng không biết làm sao mà gọi ... bả đi nhiều nơi khó kiếm lắm - "Kêu thì kêu. Em đốt ba cây nhang khấn tên họ cùng năm anh mất ... Rồi viết ra giấy đưa cho bà ấy .. Xem xong, bả đốt đi ...và nhắm mắt lại..
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 02/May/2012 lúc 12:35am
Xem xong bà ấy đốt miếng giấy đi và nhắm mắt lại...hai tay chắp lên ngực miệng đọc cái gì không nghe được.. Em hồi hộp nhìn chăm chăm... bà nhắm mắt, rồi lắc đầu... rồi..nhắm mắt...
Bỗng bà lấy ba cây nhang nữa, đốt và khấn nguyện gì nữa đó...trán em lấm tấm mồ hôi, tay lạnh ngắt... bây giờ mà... bà ấy mở mắt ra và kêu tên em: "Ph ơi " một cái chắc em té xĩu liền...
Bổng bà nói (mắt còn nhắm):
- Người nầy là binh gia phải không? Má em nói: - Phải rồi. Bà nói tiếp: - Không phải thường, làm người trông coi mà. Chết mất xác mà, không tầm được...!! Đi rồi, không còn ở đây. ...Ổng dẫn một đoàn người đông lắm...đông lắm...họ đi lên núi hết rồi. Không gọi về được đâu...Rồi bà thoát ra..
Em thở một hơi dài không biết để thoát cái hồi hộp ra khỏi ngực hay buồn vì không gặp được Anh ! Em không tin cũng không được. Trong tờ giấy em chỉ ghi ngắn gọn: "N. T.Đ. mất ngày mùng 3 tháng 4 năm Nhâm Tý Âm lịch" không thêm một chi tiết nào nữa..Vậy mà... Kể ra cũng hay khi bà tầm được anh là lính, ( binh gia ) mà còn là cấp chỉ huy ( người trông coi )..chết mất xác..và dẩn đầu một đoàn người đông lắm.. đông lắm...
Anh mất ngày 15 tháng 5 năm 1972 tức là (ngày mùng 3 tháng 4) năm Nhâm Tý -Tháng Ất Tỵ ngày Bính Ngọ, như vậy em nghĩ : Chắc anh mất nhằm giờ Mão vì Anh tuổi Dậu mà Tý Ngọ mão Dậu là tứ hành xung... !!
Hồi xưa anh đã nói rồi: "Người đi thì đã yên phần, người ở lại mới hứng chịu hết đau thương..". Em mở cửa sổ nhìn ra đường , con đường hàng dương ướt sũng nước, cây dương gần nhà lấp lánh nước mưa...và em như thấy Anh với nụ cười thật tươi ngày nào...
- Thôi Anh về nhen. Ph ở nhà rán học nghen. Mai Anh lên Đà Lạt. Tới trường rồi Anh viết thư về liền cho em hay... - Dạ Anh về. Nhớ viết thư liền nhen. - Ừ, nhớ ! Anh đi năm bảy bước rồi mà còn quay lại, cười với em một cái thật tươi !!
Em đứng đó mùa mưa về vương mắt Con đường dài, lá thấp dưới hàng mi Mưa trên vai, mưa lạnh gót chân hài Mưa qua Phố thương ngày chưa tiếng khóc
Trường ngói đỏ năm xưa còn đi học Tóc buông mềm hoa tím ngỡ ngàng thơm Giấy trắng mực xanh tay nhỏ ngón hồng Mùa mưa đến áo bay trong giọt nắng
Có những mùa mưa đi về trên lối vắng Cô học trò má thắm bỗng bâng khuâng Ôi vòng tay ôi đôi mắt ngại ngần Đường tình ái kết bằng hoa mới nở
Quân trường xa đợi chờ trong hơi thở Hoả châu vàng trút nhớ sáng tàn đêm Ba lô bạc mầu ai khắc đậm tên em Về khu chiến qua miền quen lửa đạn
Có những mùa mưa, mưa đổ về suốt sáng Thành phố âm thầm như dáng đồi non Vòng kẽm gai đau buốt, đá sỏi tròn Em thao thức lệ mòn như giọt nến
Mùa mưa đi, rồi mùa mưa lại đến Duyên không thành còn thương nhớ nhiều không? Tiễn người đi sầu giăng tím cả lòng Em đứng đó, mùa mưa về vương mắt
HH
Anh thân yêu, Thôi như vậy em cũng mừng. Em cũng chúc cho Anh rũ sạch nợ trần, tu hành đắc đạo, nhưng vui nhất là anh được siêu thoát Lời nguyện cầu của em đã được đấng thiêng liêng chấp nhận "Mong cho Anh luôn được an lành thanh thản trên đỉnh bình yên".
Anh thân thương,
Quyển nhật ký đã mất, hình Anh em cũng không thể tìm lại được nhưng nếu em biết vẽ chân dung, em có thể họa lại dễ dàng, . Và bây giờ em vẫn có thể viết lại quyển hồi ký ghi lại hết những gì quan trọng đã xãy ra trong quá khứ, chắc chắn, nó không có được những tâm tư những xúc cảm chân thành như nguyên thuỷ, nhưng vẫn gói ghém hết tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng em. Còn thư Anh thì em đã đọc thuộc lòng những lá "dễ thương" nhất. Anh tuy lãng mạn nhưng rất đứng đắn, viết thư cho em tuy rất chân thành, trìu mến nhưng lịch sự, không dùng những từ ngữ thái quá bao giờ.
Từ ngày anh đính ước với em bằng chiếc nhẫn của anh và bằng câu dặn dò: "Chờ Anh ra trường về làm tiệc lớn dẫn em đi theo luôn", thì đêm đó sau khi chia tay, về đến trường Anh gửi thư cho em, Anh đã thay tiếng "Ph mến" bằng tiếng "Ph yêu" hay "Em yêu của Anh", Anh cũng đã thay tiếng bé Ph bằng tiếng Em của Anh.. và chấm dứt những câu hỏi bằng: Phải không em yêu?...Rồi kết thúc lá thư bằng hai tiếng "Hôn em".
Bởi vậy nghe nhạc Nhật Trường Em nhớ Anh thôi là nhớ... và nghe bài hát "Tình Thư Của Lính", "Tâm Sự Người Lính Trẻ", hay "Sắc Hoa Mầu Nhớ" của Nguyễn Văn Đông ...em mới thấy hết cái lãng mạn của ông lính NTĐ...
Cám ơn Anh, Đ. ơi, em cám ơn Anh đã cho em một tình yêu cuối cùng thật đẹp. Để em có được một tình yêu đầu đời không thể lãng quên. Em như nghe Anh trả lời: "Mình là người Gò Công mà!", hồi đó anh hay nói như vậy lắm.
Ngày xưa trai Gò Công và gái Đà Lạt đã tạo ra thiên tình sữ "Đồi Thông Hai Mộ" có một không hai. Chàng trai trong thiên tình sử nầy là người Gò Công lên Đà Lạt học trường Võ Bị...
Vâng, mình là người Gò Công, mà Trai Gò Công thành thật chung tình, gái Gò Công hiền hoà chung thủy. Tình người Gò Công mộc mạc đơn sơ nhưng nồng thắm như những trái sơ ri chín đỏ, có những bông nho nhỏ tím buồn....thì dù có xa nhau đến đâu cũng không làm sao quên được.
Và Em đã không quên, ba mươi năm sau em cũng vẫn chưa quên..
XXXXx
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 02/May/2012 lúc 1:11am
Vòng Hoa Cho Anh * Hết
Và Em đã không quên, ba mươi năm sau em cũng vẫn chưa quên..
Em đến nhà Anh lần thứ ba.
Vâng, ba mươi năm sau.... Em đến thăm anh lần thứ ba.
Năm đó mừng gia đình đoàn tụ sau bao nhiêu biến động thăng trầm, gia đình em được đoàn tụ - gặp nhau hết không thiếu một người nào dù ở Việt Nam hay về từ nước Mỹ. Như một sự sắp đặt của Định Mệnh, đó lại là tháng Năm, còn hai ngày nữa là đến kỷ niệm 30 năm ngày anh mất và sinh nhật lần thứ 57 của Anh. Như có một động lực nào vô hình mà mạnh mẽ lắm thúc giục em phải làm... Em hỏi thăm đứa em thứ Tám: - Em nói em học chung với Đan Tâm, em gái anh Đông hả Oanh?
- Dạ, hồi đó nó với em học chung, nhà nó ở dưới kia kìa. Đường xuống Lăng Hoàng Gia. - Đi, em chở chị xuống đó nha. - Chi vậy? - Đi thăm gia đình ảnh, ngày mai là ngày giỗ của ảnh mà.
Sau khi ra chợ mua một trái sầu riêng và thêm một ít trái cây (như hàng năm em vẫn làm như thế có thêm bình hoa tím nữa), một bó nhang trầm để kỹ niệm ngày anh mất, viết trên tấm thiệp một dòng "Em thắp cho anh ba mươi nén hương để kỷ niệm ba mươi năm ngày anh nằm xuống"... và một giỏ hoa hồng đủ mầu, trên.tấm thiệp thứ 2 kèm theo ghi vài chữ: Em đốt cho anh 57 ngọn nến để mừng sinh nhật lần thứ 57 của anh."
Rồi hai chị em đi xuống đến nhà Đan Tâm, Em gặp Bác gái. Bác thật là phúc hậu nước da trắng người điềm đạm không mập không ốm, hơi thấp và tóc cũng bạc trắng. Sau khi hỏi thăm đôi điều và sau khi nghe em nói là xin bác cho em đốt nén nhang thăm anh thì bác hỏi:
- Cô là gì của nó mà thăm nó?
- Dạ Con là bạn của anh Đông. Con ở xa lắm lâu lâu mới về quê một lần, con nhớ là sắp đến ngày giổ anh nên nhân dịp về quê con đến thăm anh Đông.
- Nó chết đâu có đem xác về được đâu...thờ là thờ vậy thôi, con muốn thăm nó thì ra nhà ở Bình Xuân, bàn thờ của nó ngoài đó. Còn đây là nhà của em nó thôi.
Rồi Bác chỉ đường cho em đi đến nhà ngoài Bình Xuân. Nhìn Bác em nhớ anh mà cũng thương Bác quá, thương cái cảnh tre già khóc măng non. Em rươm rớm nước mắt nhớ lời Thanh nói "Nghe tin ảnh chết. Má em khóc kể chị học nghề nầy mà anh Tư bị thương không ai cứu...", và anh ơi, em thấy Bác cũng quay mặt đi.
Em cám ơn Bác, chào Bác đi về.
Oanh nói với em:
- Đi nữa hông chị? Nhà ở Bình Xuân thì em không biết, thôi bây giờ mình về đi, mai chị đi với anh Năm.
Nhưng em đâu đợi được đến ngày mai, như có một cái gì đó lạ lùng lắm thúc giục em phải đi liền và đi tức thời, không đợi được. Em về rủ thằng em thứ Năm nó cũng biết Anh và nó đồng ý chở em đi ra Bình Xuân.
Từ Chợ Gò Công, qua Lăng Hoàng Gia xuôi ra bắc Cầu Nổi, gần đến bến phà bên tay phải là đồn Bình Thạnh Đông, chưa tới đồn, phía bên tay trái có con lộ đất đỏ nho nhỏ, dọc hai bên đường rải rác có những cây Phượng hồng đang đua nở... đó là con đường vào Bình Xuân, nhà của anh.
- Đây nè chị hai, chắc cái tiệm nầy, mình vô hỏi thăm rồi gửi xe luôn.
T hỏi cô chủ tiệm:
- Cô ơi phải con đê nầy vô nhà của Đan Thanh Đan Tâm ...không cô?
- Nhà của Ông Nghệ phải không? Ba Đan Tâm... Dạ đúng rồi. Anh đi vô bờ đất đó rồi qua cái đê cao đó. nhà của Đan Thanh ở dưới mé sông.
Em và T xin gửi chiếc xe ở đây rồi xách đồ đi theo lời chỉ, đi theo bờ nhỏ băng qua hai ba thửa ruộng săm sắp nước, trước mặt là con đê cao và đứng trên bờ thấy nhà anh ở sát bờ sông Soai Rạp. Nhìn qua bên kia sông là phà Cầu Nổi lên Sài Gòn.
Trước mặt em là căn nhà gạch có khoảng sân tráng xi măng rất rộng, tay trái là một cây rơm và rải rác có vài cây ăn quả lẫn cây kiểng, nhà bếp nằm vô trong và sát bờ sông.
Em và T hồi hộp đi vô nhà. Cửa nhà trên đóng kín, chỉ có gian bếp là cửa mở.
T gõ cửa.... và một người đàn ông khoảng trên dưới 60 ra chào. Em hỏi :
- Thưa anh, đây có phải là nhà của Ba Mẹ Đan Thanh Đan Tâm Không anh? Anh gật đầu và nói - Phải. Cô là ai? - Dạ em là bạn của Đan Thanh và Anh Đông. Sáng nay em có thăm Bác và gặp Bác ở nhà Đan Tâm. Em được Bác chỉ đường vô đây để thăm anh Đông
Khi nghe nói em có ý định đốt nhang thăm Anh thì anh Ba từ chối - anh ấy là anh thứ ba của anh tên là H trước kia là giáo sư dạy ở Sài Gòn.Trong nhà chỉ có mình anh , không thấy Đan Thanh. Anh nói Thanh đã có chồng và đang sống trên Sài gòn. Anh không tin là ba mươi năm sau bạn gái của anh vẫn còn có người nhớ mà đi thăm anh nên ảnh cứ nói hoài. "... Lâu quá rồi... Bạn nó thì thôi vô số biết ai là ai...". Em chới với định từ giã ra về rồi, trong lòng thì thật buồn lắm , nhưng biết sao hơn Em nói: - Anh Ba nói vậy thì thôi, em xin chào anh Em về. Anh cho em nhắn lời thăm Đan Thanh và nói giúp dùm em là em có đến thăm Thanh và anh Đông mà không gặp. Thưa anh Ba em về, cho em kính lời thăm Bác gái mai em đi xa rồi chắc không có dịp về nữa.
Em vừa đứng dậy thì bổng Anh ấy nói..
- Cô nói vậy thì...thôi để tôi đưa lên nhà cho cô thăm nó... Anh đi trước, ra ngoài sân mở cửa nhà trên mời em vào bằng cổng chính .. Em nói với anh Ba:
- Năm nào đến ngày giỗ anh Đông em cũng có chừng nầy trái cây, không có chi nhiều anh nhận cho em vui.....
XXX
Trước mặt em là một bàn thờ như mọi cái bàn thờ của người dân Việt gỗ nâu đánh verni có chạm cẩn ốc sa cừ, phần trên thờ Phật, bàn bên dưới để hai chân dung người quá cố. Một cái hình em đoán là của bác trai và một khung hình.....Anh đây sao? Trong hình là một thanh niên với chiếc áo chemise trắng, hình chụp lại không lâu nhưng đã hơi mờ....
Nghe kể lại, Đại Uý Lộc đã dẫn quân chạy băng băng vô rừng không một phút giây ngừng nghĩ với một quyết tâm lạ lùng "Phải vào An Lộc" mới được. Còn em, hôm ấy em cũng làm theo một mãnh lực thôi thúc trong lòng, phải đi Bình Xuân, em phải đi đến nhà Anh ngay hôm nay không đợi đến ngày mai được, ngày mai em phải về CT và sẽ không có dịp nào như thế nầy nữa...Và bây giờ hơn ba mươi năm mình đã gặp lại nhau!! Không phải, em đã đến thăm anh. Nhưng hình nầy... không giống anh của cái thời có em. Tấm ảnh nầy chụp lại một hình thời trung học, rất trẻ, phong độ, nho nhã của một thư sinh trói gà không chặt chứ không phải một sĩ quan chỉ huy Đại Đội của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Em hỏi Anh Ba :
- Bàn Thờ của Bác trai ở đâu Anh Ba? Anh H trả lời
- Bàn thờ của nó chung với ba đó.
Anh H đem cho Em một ngọn đèn dầu nhỏ để đốt nhang. Em xếp hai tấm thiệp, cặp đèn cầy trắng, xếp giỏ hoa hồng trước tấm ảnh của Anh. Anh H đứng ỡ đầu một cái bàn dài nhìn Em đốt hết một bó nhang, cắm từng cây vào tất cả chỗ thờ trong nhà, số còn lại Em đến bàn thờ chính khấn nguyện rồi ghim hết vào lư hương.
Mùi trầm hương bốc lên nhanh, lan tỏa...... Anh lặng lẽ nhìn Em đứng bên bàn thờ, bất động nhìn đăm đăm khung ảnh của Anh. Anh lặng lẽ nhìn Em tựa đầu bên hông bàn thờ mà khóc, âm thầm, đau đớn. Chiếc khăn tay em lau bụi khung hình của Anh hôm nay, Em sẽ giữ mãi để kỷ niệm ngày mình đối diện với nhau.... Em nhìn Anh thêm lần nữa rồi quay ra, xuống nhà sau.
Anh H vẫn còn ngồi đó, trên đầu một cái bàn dài và nhìn Em. Em cười nhẹ khi đi ngang qua anh Ba mà nước mắt còn ướt mi.
Ngồi xuống bàn Anh H ngập ngừng:
- Có những chuyện mà nếu bây giờ mình không làm, không nói thì sau nầy sẽ hối hận.
Em nhìn anh ấy ngầm hỏi. Anh H nói tiếp:
- Tôi thành thật xin lỗi cô.Lúc đầu tôi đã không phải với cô. Tôi không nghĩ và cũng không ngờ được...
- Không có gì đâu anh, anh e ngại cũng đúng thôi... Em hiểu mà ...
Em nói với anh H:
- Hình của anh Đông còn trẻ quá, hình như chụp hồi còn trung học...
- Vậy chứ đâu có dám để mấy tấm hình kia...đốt hết rồi...
"Đốt hết rồi". Em đốt hết rồi, gia đình của Anh cũng đốt hết rồi... Chân dung của Anh bây giờ chỉ còn trong tim của những người yêu thương Anh. Nhưng Anh chưa tan biến đâu, không mất đâu. Em vẫn còn thấy Anh rõ lắm mà...
Thay lời kết
Khi viết lại chuyện riêng của mình vào đây, HH chỉ có một ý nghĩ, một ước nguyện duy nhất là đem Anh - đem tên tuổi Anh về với đại gia đình mình- Diễn đàn Hội Thân Hữu của quê hương Gò Công - và Anh sẽ được đồng hương thân thương đón nhận... Đây cũng là nhà Anh - là trại gia binh của Anh mà !! Ngày xưa HH là người yêu của anh, là vị hôn thê của Anh nên chỉ có mình HH là có thể làm được chuyện nầy, thực hiện mong ước cuối cùng giúp Anh mà thôi.
Anh hiền lành dễ thương thế nầy sao cái chết của Anh lại tàn khốc như vậy hỡ Trời! Anh không những chết một lần mà năm bảy lần, rồi tan biến vào hư không... HH không cam tâm, không đành lòng, không muốn Anh không cửa không nhà, không có cả mảnh Quốc Kỳ phủ ấm như Anh đã từng viết: "Nếu anh chết xin em đừng khóc, cờ tổ quốc mầu vàng đẹp lắm, ba sọc đỏ ba miền dân tộc, phủ lên hình hài của đứa con, thế là anh mãn nguyện lắm rồi.".
Bây giờ Anh đã bằng lòng chưa? Người tình trong cõi hư vô của cô học trò mang tên loài hoa đỏ - Hoa của mùa Hè khói lửa 1972 - hoa có mầu đỏ alpha Võ Bị, mầu của sư đoàn được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Bây giờ Em đã đem Anh về với quê hương Gò Công, với mầu cờ, sắc áo, với đồng đội của Anh và với "Sư Đoàn ngon lành lắm" của Anh rồi đó.
... Anh đi nhen Em... Dạ Anh đi đi, đi về cõi hư không đầy huyền thoại của Anh, nhưng ở nơi đây sẽ muôn đời giữ mãi, muôn đời lưu lại dấu chân anh..
Kỷ niệm 40 năm ngày mất & sinh nhật lần thứ 67 của
Cố Đ/U Nguyễn Thành Đông
ĐĐT Đại Đội 1- Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 BB - KBC 4441
(-Trích từ Nhật Ký của Hoa Hạ-)
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: hoangngochung
Ngày gởi: 02/May/2012 lúc 4:33am
------------- hung0989077120@ahoo.com
|
Người gởi: hoangngochung
Ngày gởi: 02/May/2012 lúc 4:37am
Rất cảm ơn Diễn đàn Gò Công !
------------- hung0989077120@ahoo.com
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/May/2012 lúc 10:13am
Như dòng thác đổ trên từng chữ.
Và một bông hoa nở giữa đời !
Hỏi nước Việt
Nam còn nước mắt ??
Xin rơi một giọt xuống dùm tôi…
Mặc Thủy
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 03/May/2012 lúc 2:55am
Mắt rưng mờ di ảnh, Lệ thấm nhòa thơ xưa. Lời anh còn văng vẳng, Tình ơi đành quên chưa?
Chia sẽ nỗi niềm cùng chị Hoa Hạ
Nam map
................
Từng chữ bồi hồi trong nét thơ
Những trang nhật ký với thương chờ
Anh đi để lại tình hoa mộng
Năm tháng nghẹn ngào lịm giấc mơ
Xin chia sẻ cùng chị Hoa Hạ , đọc từng chữ mà
lòng bồi hồi xúc động cho mối tình tuyệt đẹp của thời trai khói lửa ….
Hoàng Dũng
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu
Như dòng thác đổ trên từng chữ.
Và một bông hoa nở giữa đời !
Hỏi nước Việt
Nam còn nước mắt ??
Xin rơi một giọt xuống dùm tôi…
Mặc Thủy
|
Xin cảm tạ chân tình của các anh Nam map, Hoàng Dũng, Mặc Thủy... Sự thân thương chào đón người về của mykieu cùng với những dòng thơ chia sẻ của các nhà thơ đã làm cho HH cảm nhận được nắng tháng Năm năm nay nồng ấm hơn nhiều . HH cũng rất cảm động được đón nhận Vòng Hoa của anh Hoangngochung đặt xuống tưởng niệm đứa con của quê hương Gò Công ! Đa tạ .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/May/2012 lúc 3:38pm
Cho một người nằm xuống
Nhạc : TRỊNH CÔNG SƠN Ca sĩ : KHÁNH LY
http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=anh%20n%E1%BA%B1m%20xu%E1%BB%91ng%20sau%20m%E1%BB%99t%20l%E1%BA%A7n%20%C4%91%C3%A3%20%C4%91%E1%BA%BFn%20%C4%91%C3%A2y&source=web&cd=3&sqi=2&ved=0CFMQtwIwAg&url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DFEZXrAgvnlA&ei=XDSkT6H5IqeRiQe634yPCQ&usg=AFQjCNG_AiqvbY08bsAjlUc0qRsIGdktjg&cad=rja - Hát cho một người nằm xuống - YouTube Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây Đã vui chơi trong cuộc đời nầy Đã bay cao trong vòm trời đầy Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời Ru anh ngủ vùi, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn Đất ôm anh đưa vào cội nguồn Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không!
Bạn bè còn đó anh biết không Anh? Người tình còn đó anh nhớ không anh? Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên Khi bóng anh như cánh chim chìm xuống.
Vùng trời nào đó anh đã bay qua? Chỉ còn lại đây những sáng bao la Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ.
Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du Đứa con xưa đã tìm về nhà Đất hoang vu khép lại hẹn hò Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên Những sớm mai, lửa đạn những máu xương chập chùng Xin cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang...
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 06/May/2012 lúc 10:18pm
Bình Long Của Những Ngày Xưa Ơi...!!
" Sao còn treo buộc trái ngang Sao còn dạo lại khúc đàn năm xưa " - *Đông Quyên
Quá khứ xa rồi, không phải chỉ ngày hôm qua Còn đọng lại trong chiếc lá vàng rơi trước cửa Không chỉ là vầng trăng chỉ còn một nửa Mà ở trong tim của triệu con người Cũng không là nụ cười buồn đọng trên môi Thay nước mắt muộn màng lăn trên má Dõi mắt trông theo cánh chim khuất nẻo chân trời Xót cho một thời đã mất Thương cho những nổi đau Đây không phải chỉ một lần em khóc Giọt nước mắt cho em Giọt nước mắt cho Mình Không oán hờn chỉ một phút lặng thinh Để chiếc lá vàng đưa em về quê cũ Để ngắm đường Hàng Dương không còn bóng rũ Ngắm biển Gò Công muôn kiếp vẫn đỏ lòng Để nhận ra rằng trời đã sang Đông Thu ra đi không để lại gì cho năm tháng Một thời đã yêu và một thời tiếc nuối Dĩ vãng buồn còn đọng đến hôm nay Không phải đớn đau mà chỉ tiếng thở dài Người đi mãi và một người trông theo mãi ...
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 06/May/2012 lúc 10:50pm
Ghi lại nơi đây vài hình ảnh về những người con thân yêu của Tổ Quốc đã
nằm xuống và kính tặng những Quả Phụ của chiến trường BÌNH LONG * AN LỘC
trong mùa Hè đỏ lửa 1972
Hoa Hạ
Cũng Nơi Đây, Bình Long
http://thuvientoancau.org/VinhDanhQLVNCH/AN/CungNoiDayBinhLong.wma - http://thuvientoancau.org/VinhDanhQLVNCH/A...DayBinhLong.wma
Thơ: Trạch Gầm
Nhạc: Nguyễn Văn Thành
Cũng nơi đây hắn, ta cùng nhận lịnh Diệt tổ đề lô nằm cạnh bên sườn Hai thằng cắn răng bò qua bao xác Xác bạn, xác thù trộn lẩn đau thương
Cũng nơi đây… ta cứu người con gái Gởi trực thăng di tản về Bình Dương Trực thăng nổ khi vừa rời mặt đất Ta điếng hồn như vừa nuốt phải xương
Cũng nơi đây… ta bắn thằng Việt Cộng Một viên M79 vào hông Bởi quá gần đạn không kịp nổ Ta lại phải nuôi nó mấy tháng ròng
Cũng nơi đây… ta bò ra ao rau muống Quơ đại ít về nấu bát canh tươi Rau dính tóc tai bay mùi thum thủm Ngập dưới ao… có mấy chục xác người
Cũng nơi đây … ta đắp mồ cho bạn Vừa quay lưng xác bạn lại bật tung Mổi thước đất cài trăm ngàn mãnh đạn Ta, sống nhăn, hóa kiếp… gọi anh hùng
Ta trở về đây… xin hôn mặt đất Tắm bao máu hồng của bạn bè ta
Cũng nơi đây… ta đắp mồ cho bạn Vừa quay lưng xác bạn lại bật tung Mổi thước đất cài trăm ngàn mãnh đạn Ta, sống nhăn, hóa kiếp… gọi anh hùng
Ta trở về đây… xin hôn mặt đất Tắm bao máu hồng của bạn bè ta
Trạch Gầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 06/May/2012 lúc 11:07pm
Lặng Lẽ Mưa Thu
Thu về trong những giọt mưa Rơi trên mái lá buổi trưa quê nhà Chim bay gãy cánh đường xa Đưa Anh về với Mẹ già con thơ Buồn buồn em hát ầu ... ơ ... Ru con bằng những đợi chờ xa xăm Giọt mưa dỗ giấc em nằm Hương Cau thơm nhẹ môi em ngọt ngào Thôi đừng ngủ với chiêm bao Bao nhiêu thương nhớ chảy vào lời ru .
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 06/May/2012 lúc 11:30pm
Vọng Nguyệt
Se sắt lạnh, thu về chưa nhỉ ? Bình Long ơi ! thương nhớ biết sao nguôi Khe khẻ, nhẹ thôi, gió lay lắc ngọn dừa Như ai đó... đang vuốt ve làn tóc rối Nửa bản tình ca, nửa vầng trăng đợi! Nửa bên này gọi nhớ nửa bên kia? Tơi tả rụng giọt nắng chiều hiu hắt Khúc nhạc buồn, tím cả hoàng hôn Em buồn thiu giữa dòng đời trăm ngã " Là người ở lại đâu có gì vui ? "
Em ráng quên chùm sơ-ri hoa tím Quên những ngày hai đứa có nhau Ừ! Anh há ! Thu lại về trên tóc In nửa vầng trăng, ghi nửa câu thề Nửa bản tình ca, một lời hẹn ước .. Mất anh rồi còn rất ít ngày vui Hoa tím rơi... hoa tím buồn trên tóc Chàng không về, nỗi nhớ cũng mồ côi
Lưng trời vằng vặc trăng soi Đèn khuya hắt bóng lẻ loi một mình
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 7:47am
Người đi rồi, em cam phận lúc đầu xanh, Quê hương đau, nhục bỏ không đành. Anh phủi nợ đời em nghiệt ngã, Giật mình tỉnh giấc mộng tàn canh...
Nhói lòng tặng chị Hoa Hạ mấy câu. Năm Mập
|
Người gởi: Huy-Tưởng
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 8:40am
[QUOTE=Hoa Hạ] Vòng Hoa Cho Anh * 19
Em đã lên đến cao điểm của nỗi sầu tử biệt nên đối với em còn nỗi buồn nào hơn thế nữa? Và bây giờ biết có ai không, cũng như em sẽ phải nát lòng trước cảnh tử biệt sanh ly nầy? Chung quanh em những gương mặt chìm một nửa sau vành nón lá, Em cũng vậy. Cúi mặt vẽ vu vơ trên cát mà chờ đợi. Lần đầu tiên trong đời em có mặt trong một cuộc mít tinh để nghe xét tội một người mà đối với một bên là ác ôn, là có nợ máu với nhân dân, và đối với một bên là một vị anh hùng, đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho quê hương cho mầu cờ, sắc áo.
Với em , người ấy như thế nào? Không có nợ nần gì với em cả. Em không hề biết ông, và cũng như nhiều người hiện có mặt trong đây đều không hề biết đến ông.. Họ cũng như em theo lệnh "Tất cả trường của Trung Tâm Y Tế, từ thầy cô đến các học trò đều có mặt tham dự. "
-Ổng kìa Ph.!! trời ơi còn trẻ quá ..
- Nghe nói là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện - không chịu buông súng đầu hàng nên bị bắt...
Em nhìn ra cổng..Trước mắt em là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn .
Khoảng cách tuy xa nhưng cũng đủ để thấy Ông đang bình thản đi vào. Trước mặt em là một vị Đại Tá không giày saut áo trận, bình dị trong bộ áo bà ba đen ung dung đi giữa nghi thức áp giải mà như đi trong tiếng nhạc quân hành. Có lẽ tuổi khoảng chừng trên dưới bốn mươi, người vừa tầm, gọn gàng, nước da hơi xanh, cái xanh của thiếu nắng. Đầu trần không nón sắt thấy rõ mái tóc cắt cao như sẳn sàng hứng hết mọi tai ương của định mệnh. Một định mệnh dành cho người thất thế, sa cơ. Vừa đi ông vừa đảo mắt nhìn quanh, hình như hơi mĩm cười rồi tiến sâu vào trong khán đài, một vị trí cuối cùng của một đời ngang dọc.
Em lẩn thẩn tự hỏi : Không biết Ông xuất thân từ trường nào? quê Ông ở đâu mà bây giờ dừng lại ở đây?
Thuở xa xưa, những Quân-trường danh tiếng như Trường Võ bị Đà-lạt, Trường Võ-khoa Thủ-đức, Trường Chiến tranh chính trị Đà-lạt, Trường Sĩ-quan Không-quân Nha-Trang, Sĩ-quan Hải-quân Nha trang, Các chàng trai xuất thân từ những Quân-trường này là người trong mộng của các cô. Nhưng có một Quân-trường mà các cô chắc ít khi biết đến là Trường Hạ-sĩ-quan Đồng-Đế và đó cũng chính là nơi xuất thân của Đại Tá Hồ-Ngọc-Cẩn.
Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 - 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị phía cộng sản bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.
Thiếu thời
Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại miền tây. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc gia Việt Nam. Thuở nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường thiếu sinh quân. Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 trường thiếu sinh quân như sau:
Trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu, ở Gia Định Trường thiếu sinh quân đệ nhị quân khu ở Huế Trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu ở Hà Nội Trường thiếu sinh quân Móng Cái dành cho sắc dân Nùng Trường thiếu sinh quân đệ tứ quân khu ở Ban Mê Thuột Trường thiếu sinh quân Đà Lạt của quân đội Pháp Trường thiếu sinh quân Đông Dương của quân đội Pháp, ở Vũng Tàu
Ông được thu nhận vào lớp nhì trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho.
Khi Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu di chuyển từ Hà Nội vào, sát nhập với trường đệ nhất quân khu ở Mỹ Tho. Niên học 1954-1955, trường bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Ông học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt văn là ông Nguyễn Hữu Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào mà ông lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của ông được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của ông chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi.
Binh nghiệp
Năm 17 tuổi ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, về vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau ba tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.
Theo quy chế dành cho các thiếu sinh quân thời đó, một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau ông là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.
Chiến tranh tại miền Nam tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ quốc phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Ông được nhập học và tốt nghiệp khóa sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy.
Sau khi ra trường, ông theo học một khóa huấn luyện biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 42 biệt động quân "Cọp ba đầu rằn". Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương Thiện, Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cà Mau (An Xuyên). Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu gan dạ nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận lên đến trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 42.
Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn 42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn 1 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh vùng sông Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông được thăng thiếu tá. Năm 1968, ông là người có nhiều huy chương nhất quân đội.
Năm 1970, ông được thăng trung tá và rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc. Cuối năm 1973, ông được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện.
Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, xuất thân khóa 2 Sỉ Quan hiện dịch trường Ðồng Ðế .Trong các chức vụ Ðại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân , Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, ông nổi tiếng là một cấp chỉ huy can đảm, có biệt tài điều quân chiến đấu, nhất là trong trận đánh giải tỏa An Lộc năm 1972 và Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện. Trong biến cố 30-4-1975 ông đã chiến đấu chống quân xâm lược cộng sản đến viên đạn cuối cùng, nhất định không chịu quy hàng địch quân , bị địch bắt được xử bắn tại Cần thơ .
------------- mhth
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 7:41pm
( Hình minh họa chụp trên màn hình qua internet)
[QUOTE=Huy-Tưởng]Trích dẫn nguyên-văn từ Huy-Tường:
Nàng sơn-nữ trong vũ-khúc Mường-Luông năm xưa đây mà
Trích dẫn nguyên-văn từ Hoa-Hạ:
Trời ui cái vũ khúc Mường Luông đó...từ năm xửa năm xưa nào mà...anh Huy Tưởng còn nhớ sao??...
" Đường lên núi rừng sao...hải hùng..." mà có người chưa quên..." nể " thiệt.!! Cám ơn anh nhiều lắm.
* Kể chuyện Hoa Hạ nghe nhé:" Hồi xưa thật là
xưa đó, có một ông vua đem quân Bắc tiến, đánh đuổi quân Thanh, sau khi
chiến thắng trở về, vua thấy một nàng sơn-nữ xinh tươi đang ca múa trong
ca khúc Tiếng hát Mường Luông, Vua định làm giống như vị vua trong bản
nhạc Hoa trinh nữ ( lúc đó bản nhạc nầy chưa ra đời)nhưng năm đó vua bị
trượt vỏ chuối, vua buồn. Năm sau, bãng hổ đề danh, lại thấy nàng cùng
niên-khóa nhưng lại là kẻ Anh người Pháp. Sau đó, vua lại khoác chinh-y
rồi giòng thời-gian cứ trôi đi..trôi đi... cho đến bây giờ!!"
Ngày tôi đi, trường xưa chưa có phượng
Chỉ có liêm vàng tơi-tả rụng ngoài song
Nhưng trong tôi, phượng vẫn thắm trong lòng
Vẫn sắc nhớ, màu thương và kỷ-niệm
Huy-Tường
Trường xưa nay đã xa rồi Lối xưa đã khép dòng đời rộng thêm Hè về Xuân đã ra đi Hồn Thu gợn nhớ bạn, trường, lớp xưa Lá rơi từng chiếc thở dài Mưa rơi ướt cánh hoa vàng năm nao Chuyện xưa luống những ngậm ngùi Gió Đông đưa đẩy ... cánh Phượng hồng bay xa ..
Hoa Hạ.
Vật đổi, Sao dời
Đường xưa khép lối
Trăng khuyết, Đông về
Cánh Phượng bay xa
Phượng bay xa, anh giữ chẳng bay xa
Anh ấp-ủ, như những ngày xuân mộng...
Huy-Tường
Chào Hoa Hạ
Bất chợt thấy hình của
người mình từng biết( nhưng chưa quen ) và nhớ lại đêm lửa trại tại
trường Nam năm đó nên cảm hứng viết mấy câu chứ đâu dám múa bút trước
mặt thi-sĩ, chúc Hoa-hạ luôn vui mạnh, và cám ơn Lan Huỳnh đã đưa bức
ảnh của hai người lên mạng.
Huy-Tường
********
Chào anh Huy Tưởng
Cám ơn những câu thơ thật nên thơ của Anh. Chúc vui..
Cám ơn những dòng tư liệu chia sẻ của Anh .Chúc Anh cùng gia đình luôn bình an và hạnh phúc
Thân
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 8:16pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Nam Map
Người đi rồi, em cam phận lúc đầu xanh, Quê hương đau, nhục bỏ không đành. Anh phủi nợ đời em nghiệt ngã, Giật mình tỉnh giấc mộng tàn canh...
Nhói lòng tặng chị Hoa Hạ mấy câu. Năm Mập
|
Một Chút Thôi...
Ngang qua Cầu Đúc nhớ Người Bổng dưng tôi lại đánh rơi nổi buồn
Ngở Mình vẫn ở bên tôi Ngở tình ta vẫn xôn xao ngọt ngào Nhớ người làm đẹp mầu son Tưởng như hai đứa vẫn còn có nhau Tôi quên ... người đã xa rồi Trăm cay đắng bổng làm đau điếng người
Nhớ người nhớ một chút thôi Thương người thương cả ngậm ngùi xuân xanh
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 9:10pm
Nếp Sống Tử Thủ
Kéo
dài với những tháng ngày phong tỏa, chiến binh tử thủ An Lộc và số đồng
bào còn kẹt trong vùng lửa đạn nhiều khi đã chia xẻ với nhau tất cả
những thứ gì có thể ăn, để mà tiếp tục sống. 1 túi cơm sấy cũng phải
chia làm nhiều phần để cùng nhau tiếp tục...chờ pháo kích và chiến đấụ
Có những khoảng thời gian người "tử thủ" trông mong những cánh dù tiếp
tế như những chứng tích duy nhất cho sự liên lạc giữa hậu phương và mặt
trận. "Hàng" đến, có khi là 1 bao gạo, 1 con heo quay, 1 thùng thuốc lá,
mấy chục ký bánh mì hay có khi là những thùng đạn khẩn thiết cho sự
đứng vững của thị trấn nàỵ
Thực
phẩm tươi và rau cỏ hầu như không được tìm thấy tại An Lộc trong suốt 2
tháng trời tử thủ ban đầụ Lúc đầu người ta còn chia xẻ với nhau 1 số
thịt tươi của 1 vài trại gà, mấy con bò bị đạn pháo kích chết. Nhưng tất
cả nguồn cung cấp này chỉ có thể kéo dài trong 2 tuần lễ là nhiềụ Những
ruộng rau muống ở một vài khu vực trong thành phố khô cằn vì các cơn
nắng cháy Bình Long, mùa mưa khởi sự vào đầu tháng 5 đem đến 1 chút sinh
khí cho thành phố này trong những ngày tử thủ thứ 40 trở đị Nước mưa
làm rau muống đâm chồi trên các vũng lầy ở quanh thành phố. Nhưng rau
muống cũng là 1 trong các đầu mối bắt nguồn cho sự bi thảm. Ở An Lộc
chết có đủ kiểu, đủ cách và tử thần rình rập ở mọi khoảng không gian lẫn
thời gian. Có những người đã chết khi đi hái rau, người ta đã hái rau
từ những ao đầy xác người chết vì chiến trận.
Xác quân CSBV tùng
thiết (bộ binh theo bảo vệ chiến xa), xác thường dân chết vì pháo kích
và xác chiến binh VNCH tử thủ đã ngã gục cho sự đứng vững của An Lộc. Ao
rau muốn Ấp Thánh Mẫu là 1 điển hình; rau mọc kín tới bờ ao, lẫn lộn
với xác người đã sình thối, cũng chỉ đủ cung cấp cho binh sĩ trong vài
ngày là đã cạn nguồn.
Đêm 13/6/72, chúng tôi ngủ nhờ hầm Tướng
Hưng. Đây là 1 căn hầm khác có lối đi thông qua hầm trung tâm hành quân.
Tướng Hưng ít khi nào ngủ tại hầm riêng; ông hầu như làm việc 20 giờ 1
ngày với các bản đồ hành quân và một dọc máy truyền tin chằng chịt. Ông
"lên máy" hầu như vào mọi lúc. Ông liên lạc với từ cấp trung đội trưởng
trở lên để biết rõ tình hình và từng vị trí một, nhất là những khi có
chiến xa CSBV xuất hiện trong thành phố.
Đôi lúc ông tướng này
thiếp đi ngay trên bàn làm việc, nếu không, ghế bố tại TOC sẽ là nơi ông
chợp mắt trong khoảng vài tiếng đồng hồ 1 ngàỵ Cả 1 ngày mệt mỏi với
những giây phút căng thẳng chạy đua với thần chết, đêm xuống tất cả
chúng tôi ngủ mê man bỏ quên mọi chuyện, quên những tiếng đạn nổ từng
chập và đàn muỗi đói vo ve như sáo thổi dưới căn hầm hỏa lò.
Đã
từng được nghe nói trước khi vào An Lộc, thức giấc lúc 7 giờ sáng, chúng
tôi hỏi Đại úy Quí, "Ở đây không có đánh răng rửa mặt gì hết, phải
không ?." Ông trả lời 1 cách ỡm ờ: "Chắc vậỵ" Ấy thế mà 2 ông Dương
Phục, Anh Thuần vẫn xin đâu được 1 ca nước nhỏ thường thì chưa đủ cho 1
người súc miệng, 3 chúng tôi rửa mặt chung bằng số lượng nước quí giá
nàỵ Mấy người lính tử thủ nói với chúng tôi: "Bây giờ là thần tiên rồị
Hồi tháng 4, tháng 5 nước uống khiếm không ra, nói chi cái công tác vệ
sinh cá nhân xa xỉ."
Nguồn cung cấp nước ở An Lộc là mấy cái
giếng ở khu phố chợ và con suối ở ngoại ô thành phố. Lính tử thủ hàng
ngày xách các can xăng đi tìm nước cho mình và cho đồng độị Có lần 1 sĩ
quan tham mưu của Tướng Hưng chết trong khi đi tìm đường suối tắm, Tướng
Hưng đã "cạo" mấy ông sĩ quan thuộc Bộ Tư lịnh suốt ngày :"Ai cho mấy
ông di tắm, không tắm đâu có chết, mấy chục ngày rồi tôi có tắm lần nào
đâu, đâu có sao".
14/6/72, 1 ngày tử thủ mới lại bắt đầụ Sự yên
lặng kỳ lạ của 1 thành phố chết vây kín khoảng không gian nhỏ bé đã
khiến cả vạn con người uổng tử.
Sự yên tĩnh thê lương không kéo
dài lâu, chúng tôi đang đứng ở phòng khách trống mái của Tướng Hưng, mấy
người lính đang "chế" cơm chiên Dương Châu bằng gạo sấy và thịt hộp.
Những tiếng xé gió vụt ngang và những tiếng nổ ầm ầm liên tiếp. Không
còn ai ở ngoài, trong khoảnh khắc mọi người biến hết vào trong các hầm
chìm hầm nổị
Dứt 1 loạt tiếng nổ, chúng tôi theo chân mấy anh em
sư đoàn 5 ra khỏi hầm; họ cười nói huyên thuyên chẳng màng gì tới đợt
pháo vừa nổ, có lẽ sự chịu đựng lâu ngày tạo cho họ thêm nhiều thói quen
mớị
Tôi hỏi người lính đang luôn tay đảo cơm trong cái chảo gang :
- 82 hay 107?
- Hoả tiển đấỵ Trúng hầm thì cũng tiêu luôn. Tụi nó có thứ đầu đạn xuyên hầm nổ chậm, ngoài sân nhiều lỗ lắm, lúc nào ra coị
Người lính trả lời nhưng mắt vẫn không rời chảo cơm thơm phức.
Câu
chuyện chưa dứt, Đại úy Quí xuất hiện với nón sắt áo giáo nhưng cởi
trần, 2 tay ông truyền nhau 1 vật gì trông không rõ. Ông nói: "Miểng
văng tới tận đây còn nóng hổi, các anh coi".
Sau
đợt pháo chào buổi sáng của quân CSBV, chúng tôi sửa soạn xuống phố chợ
để thăm 2 đơn vị anh hùng trung đoàn 8 BB và liên đoàn 81 Biệt Cách Dù.
Quí dặn dò: "Áo giáp nón sắt, ba lô để lại để chạy pháo cho lẹ." Anh em
chúng tôi băng qua mấy dãy nhà đổ nát, bắt đầu vào con dường đất đỏ Hàm
Nghi, đã trông thấy khu phố chợ, cũng vẫn là 1 cảnh hoang tàn đổ nát. Y
viện An Lộc đây rồi, không ai còn có thể nhận ra nơi đây đã từng là 1
bệnh viện nếu không có tấm bảng lỗ chỗ vết đạn treo lủng lẳng từ trên 1
đầu trụ xi măng có hàng chữ "Phòng nhận bệnh.."
Anh em tử thủ kể
lại cho chúng tôi rằng trong những ngày máu lửa của Bình Long có đến 600
người đã chết tại bệnh viện này, kể cả thương binh, đồng bào bị thương
đang được chữa trị cũng như những người lánh nạn tìm sự an toàn ở dấu
hiệu quốc tế hồng thập tự. Cộng quân pháo kich dã man vào khu nhà thờ và
nhà thương với mục đích rõ rệt, giết hại thật nhiều người để An Lộc hỗn
loạn, binh sĩ mất tinh thần hầu chúng có thể dứt điểm An Lộc một cách
mau chóng.
Bộ chỉ huy trung doàn 8 BB đặt tại 1 trong các cao ốc
đang xây dở trên đại lộ Hoàng Hôn hay đường Trần Hưng Đạo cũng vậy,
chúng tôi đến thăm nơi này giữa lúc Đại tá Mạch Văn Trường đang gắn lon
Đại úy đặc cách mặt trận cho Trung úy Đào Lâm Tòng, 1 đại dội trưởng
xuất sắc của tiểu đoàn 3/8. Trung úy Tòng sáng 14/6/72 đã giải tỏa đồi
100 phía Đông Bắc An Lộc và cắm hiệy kỳ tiểu đoàn 3/8 trên đồi nàỵ
Ngày
13/6, Biệt Cách Dù giải tỏa đồi Đồng Long ở vòng đai Bắc An Lộc và lá
quốc kỳ VNCH phất phới tung bay trong nắng sớm sau 68 ngày Cộng quân
chiếm cứ cao điểm 148 m nàỵ Cũng vào ngày 13/6 các chiến sĩ Biệt Động
Quân gan dạ đã giải tỏa sân bay L.19 ở Tây Bắc An Lộc. Những chiến tích
này khiến cho tất cả địch quân bị đẩy lui ra xa thành phố An Lộc và là 1
khởi điểm vàng son cho sự đứng vững của thành phố nàỵ
Đại tá
Mạch Văn Trường, Trung đoàn trưởng trung đoàn 8 (sau này là Tư lệnh phó
sư đoàn 5 BB) và Thiếu tá Hoàng Trung Liêm, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
52 pháo binh đã tiếp đón chúng tôi thật ân cần; họ xúc động vì sự có mặt
của chúng tôi tại An Lộc. Đại tá Trường và Thiếu tá Liêm hướng dẫn
chúng tôi đi quanh khu vực Bộ chỉ huy trung đoàn, từ 4 con đường xung
quanh rải rác 15 chiếc T54 và PT76, cái thì đứt xích, lật nghiêng, cái
thì văng cả pháo tháp nằm ngang ngửa trên mặt lộ. Duy có 1 điểm giống
nhau, tất cả cùng nám đen và bắt đầu hoen rỉ.
Lâu ngày chưa có ai
để tâm sự, Đại tá Trường miên man kể chuyện chiến trận cam go từ khi
trung đoàn được trực thăng vận vào An Lộc ngày 11/4/72 và chịu đựng 4
trận tấn công biển người với chiến xa yểm trợ. Đại tá Trường "thú thật"
cả đời đánh giặc chưa khi nào dự trận nào khủng khiếp như trận này và
đây cũng là lần đầu tiên phải đương đầu với chiến xa địch. Trung đoàn từ
Tri Tâm lên An Lộc ngày 1/4/72 nhận chuyên trách nhiệm phía Bắc An Lộc,
lo luôn "tổng tiền đồn" cho sư đoàn 5. Không đầy 48 giờ sau, quân BV mở
cuộc tấn công biển người đầu tiên vào An Lộc với từng đoàn chiến xa
tiến nhanh như vũ bão vào thành phố. Trước cuộc tấn công đầu, địch bắt
đầu "pháo tập" (trận địa pháo) vào thành phố từ 7/4 và kéo dài liên miên
trong những ngày sau đó.
Trận đánh ngày 13/4, lần đầu tiên chạm
chiến xa địch và đương đầu với quân số đông đảo của địch quân, binh sĩ
mất tinh thần thấy rõ. 20 phút sau đứt liên lạc với bộ chỉ huy là xe
tăng BV xuất hiện. Biệt Động Quân và Địa Phương Quân chịu không nổi cũng
rút luôn vào thành phố.
Tất cả mọi người chiến đấu được đều ra
tuyến, M72 được xử dụng tối đa, cối 81 chần từng thước vuông một trên
đường tiến quân địch, tùng thiết địch bỏ chạy, bộ binh BV phía sau không
tiến lên được, xe tăng BV chỉ còn cách đậy nắp tiến một mình và làm bia
nhắm cho M72 hủy diệt. Trận tấn công đầu thất bại, địch lui binh và
tiếp tục trận địa pháo vào thành phố.
Đại tá Trường, xuất thân
khóa 12 Võ bị Đà Lạt, tốt nghiệp tham mưu cao cấp, bởi vậy ông rất tôn
trọng nguyên tắc chỉ huy tham mưu khi cầm quân. Sau trận đánh 13/4, lính
chết và bị thương được đưa lui về phía sau để đại đội 52 quân y đảm
trách và khỏi làm xuống tinh thần binh sĩ. Tuy vậy, ông cho biết là sau
trận tấn công thứ hai ngày 15/4 ông không còn áp dụng "cẩm nang" này
nữa, An Lộc chỗ nào cũng bị pháo, người đưa về quân y cũng không săn sóc
được có khi lại gia tăng tổn thất khi di chuyển. Bởi vậy ông ra lịnh
đơn vị nào lo cho đơn vị ấy băng bó lấy và chôn cất tại chỗ.
Qua
trận 13/4/72, cấp chỉ huy cũng như binh lính có thêm kinh nghiệm đánh
chiến xa và không còn "khớp" như trước. Đại tá Trường và các sĩ quan của
ông thấy rõ là sẽ diệt hết chiến xa địch nếu phân tán được chiến xa và
bộ binh địch, cứ mỗi đại đội bộ binh thì có 4 chiến xa địch đi kèm. Làm
tan rã bộ binh, xe tăng địch sẽ dễ dàng bị hủy diệt.
Bởi thế ông
pháo binh "nhà nghề" Hoàng Trung Liêm được giao phó dọn 1 bãi pháo binh
trên con đường địch sẽ đi qua để vào tuyến trung đoàn 8. Sau nhiều giờ
nghiên cứu, Thiếu tá Liêm chọn chỗ, tập trung hỏa lực súng cối và chờ
đợị
Ngày 15/4/72, CSBV lại tiến vào An Lộc như lần trước với bộ
binh và chiến xa, không may mắn cho họ là đã đi vào đúng "bãi pháo", bộ
binh dịch chạy tán loạn và chiến xa không còn ai "tùng thiết." Xe tăng
địch lại làm nước liều đậy nắp tiến lừng lững vào trung tâm thành phố,
binh sĩ VNCH từ dưới hố nhảy lên phóng M72 từ sau đích xe tăng và biến
cả khối thép khổng lồ thành những con "cua rang muốị"
Cũng từ
trận này, 1 số binh sĩ được Đại tá Trường cho xử dụng súng chống chiến
xa B40, B41 tịch thu được của quân BV, chỉ cần 1 phát là chiến xa địch
cháy phừng phừng, lính CSBV nhảy từ trong xe ra, da thịt cháy vàng như
bị thuị
Đại tá Trường nói tiếp: "Nếu bộ binh và chiến xa của tụi
nó phối hợp được với nhau, An Lộc này chắc chắn đã thất thủ. Tại mặt
trận này chúng tôi khôg có 1 xe tăng nào cả, chỉ có lèo tèo vài chiếc
commando-car V100, nội pháo kích không cũng bị hư hạị"
( Chuyện Bên Lề Cuộc Chiến An Lộc - PNN )
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/May/2012 lúc 5:04am
Đêm buồn em ngó lên trời Sao ơi sao hởi, sao rơi phương nào?
Một sao: mái tóc em dài Hái sơ ri tím anh cài tóc em Hai sao : lần hẹn đầu tiên Đi qua cầu Đúc, ngắm con kinh Hàn Ba sao duyên nợ dở dang Em không lỗi hẹn anh không quên thề Bốn sao chậm miếng trầu cau Bởi người theo bước Kinh Kha sang Tần Năm sao: tại bởi trời xanh Cho em hoá kiếp mõi mòn vọng phu Sáu sao là chuyện nắng mưa Lời thương muốn nói đâu còn ai nghe ...!!
"Dẫu sao em cũng theo chồng Chuyện ngày xưa để trong lòng chi em?" *Đông Quyên
Dù lòng không muốn nhớ mong Tại Sơ Ri tím " hương thầm " còn thơm Quên? lòng em vẫn muốn quên Tại Kinh Hàn vẫn lớn, ròng người ơi..! Chưa quên được dáng anh buồn Đường xưa còn đó An Hoà còn đây Nếu xưa em không..theo chồng Chờ anh chờ đến héo hon vườn trầu
Nợ tình vay trả trả vay Biển tình vẫn hát mãi bài tình ca
Hương Sơ Ri
Gò Công bé nhỏ xứ sơ ri Lưu luyến lòng người phút biệt ly Lá xanh ước vọng thời đôi tám Hoa thắm mầu môi, ngỡ ai cười Lúng liếng đồng tiền lung linh nắng Đường về quê cũ chợt... xa xôi Sương rơi lạnh buốt hồn cô lữ Đường chiều thơ thẩn một mình thôi
Hoa Hạ
Ghi chú: (* : Thơ Đông Quyên)
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Huy-Tưởng
Ngày gởi: 10/May/2012 lúc 10:21am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Hoa Hạ
Nếu xưa em không..theo chồng Chờ anh chờ đến héo hon vườn trầu
Hoa Hạ
|
Bởi xưa sợ héo vườn trầu
Em đi bỏ lại hàng cau ngậm-ngùi.
Huy-Tường
------------- mhth
|
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 10/May/2012 lúc 12:04pm
Chiều giữa rừng
đọc lá thư em,
Poncho mưa
nhõ giọt buồn tênh.
Mực tím thấm,
chan hòa nước mắt,
Chử không ra
chử vẫn hiểu em…
Thư rằng….
Gò Công ngày…
tháng… năm 1970
Anh thương,
Nhận được thơ
anh cả tuần rồi bây giờ mới viết hồi âm. Mấy tờ bô luya mỏng manh không chịu nổi
những giọt nước mắt của em anh biết không? Anh ơi, sao buồn ơi là buồn, cứ ngày
nào đêm nào cũng trông anh về, tin chiến trận đưa về mỗi ngày làm em phát nôn,
em cuống cuồng lên, không ngủ được. Mấy nhỏ bạn hỏi em sao lúc nầy gầy guộc ra,
em trả lời bởi vì ăn chay, cầu trời khẩn phật cho anh bình yên nơi chốn tử sanh
nên ốm chớ sao bây giờ…
Anh ơi bây giờ
anh ra sao? Trong rừng sâu có bóng hồng nào để cho anh vui không? Hay vẫn cô
đơn như những ngày không em...
Hôm qua tan
trường về, đạp xe ngang quán da ua bà hai, thấy tụi bạn lao xao, nhớ anh càng
nhiều. Mới đó mà đã mấy năm rồi, ngày mình tình cờ ngồi chung bàn trong quán nầy…
Trong thơ anh
nói thèm ngọt, anh về lẹ đi để em nấu món chè Tàu Thưng đường phèn cho anh ăn mát
lòng nha anh...
Hay là 2 đứa
mình dẫn nhau ra Chú Cưng để ăn món cơm thố trú danh xứ mình, anh há…
………………………………….
Đẫm lệ chờ
anh,
Em…
Em ơi anh đã
về,
Hết rồi cuộc đam
mê,
Kiếp sau mình
gặp lại
Cùng nhau kết
hẹn thề… Năm Mập.
Không bao giờ mua được tình xưa, chị Hoa Hạ ơi... Chúc chị vui, kiếp sau đầu thai làm con trai, cùng nhau đi trận cho nó vui, chớ làm con gái nữa thì lại còn chia ly, phải không chị?
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/May/2012 lúc 7:48pm
Bầu trời hôm xưa buồn. Thật buồn Gió nhẹ thôi và mây cũng quên trôi Mưa dịu dàng mà lòng vẫn cứ vui Mình cùng ngắm pho tượng đồng buồn hiu hắt ...
Bầu trời hôm nay xanh đến là... xanh Sao trong lòng cứ như cỏ úa Trở lại chốn xưa chỉ còn một đứa Đâu nửa vầng trăng ? đâu nửa câu thề ?
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 11/May/2012 lúc 8:53pm
Cổng tiểu khu Bình Long năm xưa
Cô giáo Nhã có nói với HH :" Lính của anh Đông chôn ảnh trước cổng
tiểu khu Bình Long để mai mốt người nhà lên dễ tìm thấy xác mà đem về
Quê..."
.Nhưng anh đâu có chết một lần mà còn nhiều lần nữa rồi tan biến vào hư không.!
Sau
trận chiến, tất cả đã được san bằng. Tất cả chỉ còn đọng lại trong ký
ức của mỗi người và tâm tình của mỗi người rồi cũng sẽ nổi trôi theo
cùng
năm tháng ... qua đi. Chỉ có một người là còn giữ mãi : " Nói có thương
rồi thì đừng quên nhen . Nhưng làm lính thì đâu có gì để em thương, chắc
theo thời gian rồi cũng sẽ quên ..."
Tay se se ngọn tóc sầu
Người đi tình cũng như mầu khói sương
Cầm bằng như lá bên đường
Như con nước chảy như hương phấn nhòa
Tiễn người đi dưới cơn mưa
Gối tay tôi khóc để đưa tiễn Mình
Xin gửi lại một chút tình đã mỏi
những xôn xao chờ đợi được gần nhau
Đêm buồn thăm thẳm ngàn sao
Trăng buồn dấu mặt sau làn mây đưa
Thương ai thương mấy cho vừa
Nhớ ai mà gió buồn hiu một mình
Gửi theo gió chút hương thầm ngày cũ
Để đêm về trời thẳm thẳm .....chung đôi ...!!
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/May/2012 lúc 11:57am
Thay lời kết
Khi viết lại
chuyện riêng của mình vào đây, HH chỉ có một ý nghĩ, một ước nguyện duy
nhất là đem Anh - đem tên tuổi Anh về với đại gia đình mình- Diễn đàn
Hội Thân Hữu của quê hương Gò Công - và Anh sẽ được đồng hương thân
thương đón nhận... Đây cũng là nhà Anh - là trại gia binh của Anh mà !!
Ngày xưa HH là người yêu của anh, là vị hôn thê của Anh nên chỉ có mình
HH là có thể làm được chuyện nầy, thực hiện mong ước cuối cùng giúp Anh
mà thôi.
Anh hiền lành dễ thương thế nầy sao cái chết của Anh
lại tàn khốc như vậy hỡ Trời! Anh không những chết một lần mà năm bảy
lần, rồi tan biến vào hư không... HH không cam tâm, không đành lòng,
không muốn Anh không cửa không nhà, không có cả mảnh Quốc Kỳ phủ ấm như
Anh đã từng viết: "Nếu anh chết xin em đừng khóc, cờ tổ quốc mầu
vàng đẹp lắm, ba sọc đỏ ba miền dân tộc, phủ lên hình hài của đứa con,
thế là anh mãn nguyện lắm rồi.".
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/May/2012 lúc 12:10pm
Tự Tình Khúc
Bây giờ lòng tôi lạnh Như mùa Đông võ vàng Bây giờ lòng tôi úa Như lá buồn miên man
Trời vào Thu rồi đó Mưa rơi đầy ngoài song Nghe chừng như rét mướt Len chầm chậm vào lòng
Xưa... mơ làm Chức Nữ Cho chàng làm Ngưu Lang Chờ đàn chim Ô Thước Đón tôi về bên chàng
Lòng tôi sao buồn quá ! Nhơ nhớ hoài không nguôi Nghe quanh mình tiếng lá Rơi rơi và rơi rơi.
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
Kỷ niệm 40 năm ngày mất
Cố Đ/U Nguyễn Thành Đông
ĐĐT Đại Đội 1- Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 BB - KBC 4441 Đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Bình Long
ngày 15 tháng 5 năm 1972 .
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Nam Map
Ngày gởi: 15/May/2012 lúc 6:04am
Năm mập xin 1 phút cúi đầu tưởng niệm anh linh của anh Đông đã 1 lần VỊ QUỐC VONG THÂN.
Anh không chết đâu anh Đông ơi, Non nước xục xôi tại ý trời. Cuộc chơi xấp ngửa, dân ngơ ngác, Mai anh sống lại chở che đời.
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/May/2012 lúc 6:07pm
TỔ QUỐC GHI ƠN !
http://bp1.blogger.com/_aH1bx2ubVuk/R0UVl4zTDSI/AAAAAAAAA9Y/VmR9V5nAglY/s1600-h/vobidalat.jpg">
Ngày 15 tháng 5 năm 2012 Kỷ niệm 40 năm ngày mất
Cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG
ĐĐT Đại Đội 1- Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 BB - KBC 4441 Đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Bình Long
ngày 15 tháng 5 năm 1972 .
--- -------
"Chiều dạo phố gái cao nguyên môi hồng má thắm Anh không nhìn , cúi mặt nhớ người thương ... Mận ở đây nhiều nhưng anh thích sơ ri thôi..."
"... hoa dù rực nở giữa Bình Long ... Ngủ đi Anh trên đỉnh bình yên.... Anh say ngủ trọn đời Em thao thức..." Cổng tiểu khu Bình Long năm xưa
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 15/May/2012 lúc 10:55pm
" Cũng nơi đây … ta đắp mồ cho bạn Vừa quay lưng xác bạn lại bật tung Mổi thước đất cài trăm ngàn mãnh đạn Ta, sống nhăn, hóa kiếp… gọi anh hùng
Ta trở về đây… xin hôn mặt đất Tắm bao máu hồng của bạn bè ta
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 16/May/2012 lúc 7:31pm
Cho Hoa Hạ
tôi mang đời tu hú,
đậu trên nhánh đoạn trường !
gọi tên người thiên cổ,
trong ngậm ngùi khói sương…
mặc thủy
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 18/May/2012 lúc 12:07pm
Cô Gái An Lộc
TG: Phạm Đào Nguyên
Nhớ đến hai câu thơ
" An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích,
Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân."
Hai
câu thơ trên không phải được viết ra từ một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng,
hay của một vị quan to tước lớn có trọng trách ghi vào quân sử hào hùng
của binh chủng Biệt Kích Dù, mà được viết ra từ người con gái sinh ra
lớn lên tại thị xã An Lộc.
Cô đã gặp người thương, người yêu
trong chiến trận, và cô đã yêu thiết tha bằng trái tim nồng nàn của
mình. Tình yêu thương ấy dành riêng cho người chiến binh của binh chủng
Dù, đã đi vào lịch sử của Tổ Quốc VN mến yêu qua hai câu thơ, đánh dấu
một thời chinh chiến điêu linh.
Những đợt pháo kích kinh hoàng
rót vào thị xã An Lộc như những trận mưa bom, bão đạn cả ngày lẫn đêm,
tỉnh lỵ hầu như tê liệt. Thủ phủ tỉnh Bình Long đang nằm trong cơn mưa
pháo dưới sức nóng đầu hè. Từng đoàn người tỵ nạn lũ lượt từ phía tây
kéo về, kẻ bị thương, người rách rưới, chìm hẳn giữa cơn mưa pháo.
Cộng
quân đang vây khốn thị xã An Lộc. Nhà cửa sụp đổ lần hồi, phố xá trở
nên tiêu điều. Đợt tấn công đầu tiên khoảng đầu tháng 4, năm 1972, sau
chiến thuật tiền pháo hậu xung. Nhưng quân Việt cộng đã bị quân đội
Trung đoàn 5 VNCH đánh bật, những chiếc xe tăng của cộng quân cháy ngấu
nghiến giữa ban ngày. Những người lính trẻ đang cố thủ và làm chủ tình
hình An Lộc. Dân, lính bị thương những đợt đầu rất nhiều, thế mà những
người lính dường như coi thường cái chết, họ không hề sợ chết là gì.
Niềm tin, và hạnh phúc của họ là giữ vững An Lộc, giữ bình yên hay an
toàn cho Sài gòn. Mất An Lộc, Sài gòn sẽ bị đe dọa, mà nào người dân Sài
gòn có cần biết đến; họ an hưởng cảnh phồn hoa đô hội trong thanh bình.
Thanh niên thanh nữ đang ôm nhau ca hát, múa nhảy trong các vũ trường.
Những người giàu có, an hưởng hạnh phúc gia đình, ăn sung mặc sướng.
Nhưng ở đây, những người lính ngày đêm vần vũ với pháo đạn rền vang, đói
khát liên miên vì chiến trận. Họ đem sinh mạng của mình ra tranh, giữ
từng tấc đất, để che làn đạn xâm lăng cho Sài gòn bình an và hạnh phúc.
*
Bọn
cộng quân hình như là những thằng ngố, thằng ngốc, xe tăng cứ ngông
nghênh xông vào thị trấn giữa ban ngày để rồi bị bắn cháy rụi, chết khộ
Tiếng hò hét vui mừng của những người lính trẻ khoái chí khi chận được
bước tiến của quân thù. Nhìn những xe tăng trúng đạn khi chúng ồ ạt tiến
vào thị xã sau đợt pháo nặng.
Thì ra người tài xế bị xích chân
trên xe để những người lính cộng quân không đường trốn chạy, một chính
sách tàn ác và vô nhân đạo của cộng sản bắt buộc những người trẻ chết
một cách cuồng tín. Cả tháng trời, tiểu khu Bình Long chìm trong maù
lửa, gia đình Bình nằm trong hầm nghe tiếng người nói, tiếng chuyện trò,
gia đình Bình vững lòng, chứng tỏ cộng quân chưa chiếm được thị xã này.
Cả tháng trời ròng rã nằm trong hầm, gia đình Bình bị đói, nhưng nhờ có
giếng nước trong nhà nên không chết khát. Rồi một sáng sớm lặng im
tiếng pháo, ông Châu bò ra khỏi hầm nhìn cửa nhà tan hoang, ông bảo hãy
bỏ chạy về Bình Dương bằng mọi cách. Được bước nào hay bước nấy, chỉ
mong gia đình rời khỏi An Lộc mà thôi.
Chúng ta phải ra đi, để
chiến trường trống cho anh em lính họ chiến đấu dễ dàng. Đi từng đợt
một, để khỏi chết chùm. Đợt đầu, ông và An, đứa con út đi trước. Đợt
hai, Dương là con trai dẫn mẹ và Bình ra ngỏ chùa, tránh khỏi các căn cứ
quân sự là được. Đài BBC cứ loan những tin xấu, An Lộc chỉ có mất vì
lực lượng cộng quân quá đông, gấp mấy lần bên VNCH, chỉ mang lại chán
chường thất vọng, và lo lắng cho lính cho dân thêm mà thôi. Nhưng người
lính một lòng không nao núng, họ quyết tâm tử thủ An Lộc, giữ vững vòng
đai cho đô thành Sài gòn.
Hơn một tháng qua cộng quân cắt đứt
quốc lộ 13. Niềm hy vọng sau cùng là chỉ có binh chủng Dù sẽ giải vây
được An Lộc. Hy vọng mỏng manh ấy đã làm sống lại niềm tin trong lòng
người An Lộc. Họ chờ đợi đoàn quân Dù đến cứu viện. Binh chủng Nhảy Dù
là lực lượng cứu tinh của đồng bào khắp bốn vùng chiến thuật, và bây giờ
cứu nguy riêng cho An Lộc. Ba và An đã rời thị xã được một ngày. Mẹ,
Dương và Bình định ngày sau chạy, nhưng từng đợt mưa pháo bay đến, cầm
chân họ.
Hôm đó có hơn 7000 trái, từng thước đất, từng trái pháo.
Trái vô nhà thương, trái vào trường học, còn xóm chợ đã tan tành. Rồi
căn nhà trúng pháo bị sụp, hầm sụp Bình nằm trong đống gạch ngói vụn đổ
nát tan hoang. Bình không còn biết gì nữa. Dương kéo mẹ ra khỏi căn nhà
đổ nát trong tiếng kêu gào thảm thiết não lòng của mẹ.
Dương dẫn
mẹ chạy sau đợt pháo kích phủ đầu nặng nề đó. Bà bị thương nhẹ. Nhà sập,
bà Mai nghĩ rằng Bình chết trong đống gạch đổ kia rồi.
*
Bình
vừa đậu tú tài một, là thi vào sư phạm. Học xong cái bằng sư phạm hai
năm để về làm cô giáo làng tại thị xã An Lộc được một năm. Người con gái
mang tên Bình, nên cái gì cũng bình thường, như ước mơ của cha mẹ nàng.
Học hành trung bình, nhan sắc trung bình, thơ văn trung bình, ăn nói,
cử chỉ bặt thiệp trung bình, và thi cử cũng đỗ bình, nhưng tình yêu lại
đến không bình thường.
Cả gia đình là giáo chức, ông Châu giáo sư
trung học đệ nhất cấp. Trước kia ông là giáo viên tiểu học, sau đậu
bằng tú tài hai, được đồng hóa vào ngạch trung học. Ông dạy thêm giờ, và
có thể dạy thêm ở các trường tư. Mẹ nàng, bà Mai là giáo viên công
nhật. Nghề giáo là nghề thanh bạch không giàu có, nhưng không nghèo, đủ
sống là được rồi. Ông Châu thường nói vậy.
Những năm sau 70, đồng
lương công chức nhỏ dần theo vật giá leo thang, nhưng đời sống đạm bạc
của nhà giáo ở tỉnh lẻ giúp gia đình ông Châu sống đủ. Bà Mai mở thêm
gian hàng bán tạp hóa lẻ trong hiên, vì lúc nào cũng có người ở nhà.
Sáng thì Bình đi dạy cùng ba, chỉ cách nhà một đoạn ngắn, chiều mẹ đi
dạy cũng gần nhà nên cuộc sống tạm đủ đầy, chỉ có một điều lạ là Bình
chưa có bạn trai.
Hồn nàng cứ lãng đãng trời mây, có lẽ nàng mơ
ước một cuộc tình ở cõi trăng sao, mà người trong mộng là ai nàng chưa
hề biết đến. Ở đây có hiếm chi người theo đuổi, sẵn sàng dang rộng vòng
tay để chào đón tình yêu của Bình, mà nàng được quyền chọn lựa. Xứ núi
rừng có một bóng hồng vừa có học, vừa có nghề, Bình đắt giá lắm kia mà.
Vài anh chàng giáo làng dạy cùng trường, vài ông giáo trẻ trung học
trong thị trấn, thêm vài anh chàng sĩ quan của trung đoàn V thường tới
lui thăm viếng.
Mẹ khuyên Bình chọn một chàng nào đó cho có bạn
trai với người ta, đã hai mươi rồi còn chờ gì nữa, nhưng Bình cứ ấm ứ
hoài. Bình dạy lớp Ba rất dễ, nên nàng đề nghị ba mẹ mở thêm quán cà phê
bán buổi sáng, và buổi chiều từ 6 giờ đến 9 giờ tối. Ba nàng phản đối,
nhưng mẹ nàng khuyến khích, cuối cùng ông giáo Châu cũng đồng ý.
Không
phải Bình không ưa giáo làng, nhưng có nhiều anh giáo làng cứ nói rằng,
chiến tranh đã đến lúc kết thúc, và những anh chàng lính trận sẽ thất
nghiệp dài dài thời hậu chiến, cùng lắm các anh sĩ quan thì chỉ xin vào
ngạch giáo viên công nhật là cùng. Chỉ có giáo viên, công chức có ngạch
trật đàng hoàng, sau này đủ điều kiện lo cho gia đình, vợ con? Ngay hồi
còn sư phạm, một số các anh đã lộ vẽ tự mãn vì ngạch trật của mình
thường hay nói muốn "cộng chỉ số," với phe con gái.
Từ đó, trong
lòng Bình nảy sinh những ý tưởng không mấy đẹp với những anh chàng coi
trọng nghề nghiệp mà không hề nghĩ đến quốc gia, dân tộc. Không có nước
thì làm sao có nhà? Không làm nghề giáo thì làm nghề khác vậy, có gì
phải lọ Bổn phận làm người, làm con dân một nước nhiễu nhương chinh
chiến mà không ra sức giữ thì chỉ là loại người ăn hại, phường giá áo
túi cơm mà thôi. Nàng đâm ra thích cái khí phách hiên ngang, kiêu hùng
của những người lính trận. "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn
buồn le lói suốt trăm năm?" Nàng vẫn chưa tìm thấy được anh chàng lính
trận trong mộng hiện rả Cô bé cứ ngông nghênh như đang chờ đợi một bóng
hình?
*
Quán nước của cô giáo Bình rất đông khách, chỉ bán
cà phê, nước ngọt, có khi buổi sáng được cả ngàn đồng. Buổi tối cũng
vậy, những bản nhạc của Trần Thiện Thanh, Phạm Duy qua giọng ca Thanh
Thúy thì trời ơi, làm đẹp đời đẹp người. Vào đây ngồi nghe nhạc, được cô
giáo mời chào, thì ấm lòng người chiến sĩ xa nhà biết bao. Vả lại cô
Bình bình thản quá làm bao chàng hy vọng ngẩn ngợ Biết bao chàng đã đặt
tên cho quán nước là "Quán Chiêu Phu," hay quán Bình An, là tên hai chị
em nàng. An cô bé mới 15, xinh và nhí nhảnh hơn chị. Ít ai để ý tới An
vì còn bé, chỉ còn có Bình là tới tuổi đi tìm tình yêu. Bình với nụ cười
rực rỡ thời con gái, rất nhiều anh chàng mong được lọt mắt xanh của
nàng. Thời gian êm đềm trôi qua, gia đình làng xóm ở thị trấn An Lộc
đang sống trong những ngày hạnh phúc an lành của vùng đất mới có những
kế hoạch đang phát triển của tỉnh mới. Tháng 4 năm 1972, năm Mậu Thân,
năm tai ương không những dẫy đầy trên vùng đất An Lộc, mà còn biết bao
nơi chốn đau thương khác trên mảnh đất thân yêu, làm ai ở đây cũng lo sợ
ưu phiền.
hình minh họa sưu tầm trên internet
*
-Đại ca, anh kiếm gì vậy, chúng nó hở, bị thương hở?
-Anh nghe có tiếng người rên, tiếng đàn bà con gái, không phải Việt cộng? Giúp anh một tay đi ?
-Anh làm đi, em coi chừng, mới vừa xáp lá cà vô đây, lu bu lại bị đớp vô duyên, em canh, anh kiếm.
-Kiên,
nè coi kìa, thấy chưa, "Cứu nhất nhân đắc vạn phúc," phụ với anh, ê
Bản, Tâm tới giúp tay. Tiếng nói yếu ớt đứt quãng của con gái từ trong
đống gạch vọng ra, "l..à. m... phước...," làm các anh vui mừng hơn.
Tiếng kêu cứu gần hơn, "..tôi.... đây.
-Nghe rồi, biết rồi, chờ
một chút. Thế là cả ba nhào lại gở gỗ, vứt gạch và một lúc nhìn thấy cô
gái với những vết maù bê bét khô, dính vùi vào những vết trầy đã lâu
trên mặt, trên tay chân.
-Nhờ có bờ giếng, chứ nếu không, cô đã chết rồi.
Cả
ba đã cùng nhau lôi cô ra, và trước hết Hiển hỏi, "Cô kiểm soát thử
chân tay có cử động được không, có chỗ nào đau không?" Xong rồi, dang ra
nghe tụi bay, dồn đống bị một quả, là rồi đời. Nhớ kêu y tá vào đây cho
anh.
-Cô rờ đầu, rờ chân thử chỗ nào đau, coi tay chân lại một
lần nữa đị Các anh nắm tay dắt cô đi thử, vừa đói khát cả tháng nay, và
vừa sợ. Không còn làm chủ được chân tay, Bình mệt lả, tai điếc, đầu ù,
nên cô ngã quỵ không đi nổi, khi cả ba vừa thả tay. Hiển chúi tới nắm áo
giữ cô lại.
-Thôi, ngồi xuống đây kiểm soát lại tay chân, có
nước lạnh đây, cô hãy uống một chút cho khỏe. Đã ốm yếu, đói khát cả
tháng, nên thân hình Bình ốm teo như chú mèo mướp. Nước da xanh mướt, vì
sợ vì đói. "Bình khát.. nước," nàng nói thật nhỏ. Cô không còn đủ sức
dơ đôi tay. Bình gật đầu, hoặc lắc đầu chứ không thể nói nhiều được. Đôi
mắt thất thần nhìn Hiển như ngầm nói lời cảm ơn.
Một người lính
bị thương cánh tay trái vì mãnh đạn được dẫn tới, và anh y tá lẽo đẽo
theo sau, cùng vào chỗ của Bình. Một phần vách nhà còn lại, làm chỗ dựa
lưng cho Bình và người thương binh được băng bó xong. Không thể ở lại đó
nữa, vì các anh đang bận rộn tiến quân, phải đánh phá vào, để bắt tay
với anh em của trung đoàn ở tiểu khu Bình Long. Các anh phải đi tiếp. Bỏ
Bình ở lại là không đành lòng, nên Hiển đề nghị bồng Bình sang bệnh
viện. Anh đi sau cùng với người thương binh, trong khi anh em trong
trung đội mở đường. Anh thương binh vẫn lăm lăm cầm chặt tay súng, tỉnh
queo đi bên cạnh.
Ngôi nhà thương đã tiêu điều, không biết bệnh
nhân đi đâu mất hết, chỉ còn một số xác chết mà thôi, họ di tản đi đâu
rồi. Hiển đưa Bình một bao gạo sấy và bảo, "Giờ các anh không thể giúp
em được nữa, các anh phải làm bổn phận của các anh. Hãy ngồi yên trong
hầm bỏ trống này ở bệnh viện, an toàn hơn là ở nhà em. Phòng tuyến phía
ngoài bệnh viện được thực hiện.
Thế rồi cả tuần, khi có thể được
là Hiển trở lại thăm Bình, mang cơm sấy, nước lạnh cho Bình và một vài
người bị thương nằm đó. Bệnh viện không còn ai cả, nghe nói họ di tản ra
ngoài chùa để băng bó cho dân. Quân y của lính Dù băng bó xong, họ lại
ra đi.
Từ khi được Hiển bồng nàng trên tay từ nhà đến bệnh viện,
Bình đã cảm thấy một sức hút trầm ấm đầy tình người, đầy nghị lực trong
Hiển. Lần đầu tiên tỉnh trí, nhìn sâu vào mắt Hiển, Bình ước ao, và thèm
được vòng tay anh. Anh là định mệnh của đời nàng.
Anh đi rồi,
Bình trằn trọc không yên, lắng nghe tiếng súng xa gần. Nàng rộn ràng lo
lắng cho anh, và mộng mị vu vợ Bình chỉ mong đêm qua nhanh, sáng đến mau
để biết chuyện gì đã xảy ra, và anh có còn trở lại thăm Bình? Bình hồi
phục rất nhanh, nhờ sự săn sóc, hỏi han, và cơm nước của các anh em Dù.
Nằm một mình trong hầm, Bình cầu Trời khẩn Phật cho nàng đừng gặp ma, và
cầu xin cho Hiển bình an.
*
Ngày đó mãi mãi đi vào ký ức,
với giọng nói vui vẻ, nhỏ nhẹ của anh. Bình ngồi nghe anh hỏi tên, nói
chuyện đời lính, chuyện quê hương, và chuyện trời mây. Trong anh toát ra
một sức sống mãnh liệt, một niềm tự tin và lòng thương người bao la.
Bình không nhớ và hiểu anh nói gì, vì tim nàng đang bồng bềnh giữa
khoảng trời mây, như cơn sóng nhấp nhô giữa biển khơi. Nhưng cần gì
hiểu, nàng chỉ muốn nghe giọng nói của anh, nhìn anh thật gần mà thôi.
Bình chỉ muốn được nói với anh rằng, Bình yêu anh, và anh cũng sẽ yêu
Bình. Hiển, anh là tất cả, hào hùng, can đảm và đầy lòng nhân ái. Người
lính Dù ấy có đủ các đức tính cao quý để Bình yêu.
Bên anh, Bình
thấy mình nhỏ bé, được che chở, và an toàn. Bên anh là cả một trời bình
yên! Cả hai tuần anh đóng quân giữ chốt này, cho đại đội tiến vào giải
vây đồng đội, nên cả hai thường được chuyện trò. Chưa ai mở lời yêu ai,
nhưng giữa Bình và anh, ai cũng hiểu rằng sự liên hệ của nhau đã ngày
càng thắm thiết hơn. Cả hai không ai nói lời nào, vậy mà nó thiết tha
làm sao! Vắng anh, Bình lo lắng khôn cùng. Một lần, anh cầm bàn tay đau
của Bình để hỏi han, rồi anh quên không buông, và Bình cũng ... quên
không giật về, tình cảm đã chuyền từ bàn tay sang bàn tay, ấm áp làm
sao. Thì ra, cả hai đều hiểu rằng họ là một, và hai trái tim đang cùng
nhịp đập. Trong tay anh, Bình nghe ấm lòng, và hạnh phúc biết bao! Sự im
lặng bao trùm, Bình bị thu hút bởi những điều anh chưa nói.
Đợt
hai hay đợt ba, Bình không biết, không nhớ, cộng quân tấn công tiếp, lực
lượng Dù đang đụng độ mạnh với giặc. Đơn vị anh bây giờ đang đánh lớn,
và lần cầm tay nhau, là lần cuối trong đời Bình có anh. Ước gì lúc đó
Bình cả gan, ôm anh, hay hôn anh để nói lời cảm ơn, hay nói hết lòng
mình yêu anh. Anh ra đi bên tuyến hào, trong đợt pháo và giao tranh
quyết liệt như những lần trước. Tại sao? Bình ngẩn ngơ dại khờ khi nhìn
thấy xác anh. Mất anh là mất tất cả bầu trời, thế gian còn lại với Bình
bây giờ là vô nghĩa.
"Hiển ơi, em đi tìm anh trong mưa pháo, và
tại sao em lại đi tìm anh lúc này, vì Bình sợ." Linh tính báo cho nàng
một chuyện không lành đã xảy rạ Một cuộc tình không hẹn, đã chia xa,
vĩnh viễn không còn thấy lại nhau. Bạn anh, đồng đội anh chôn anh vội
vàng trong sân trường tiểu học. Bình ngồi bên cạnh, nhìn nấm mồ, nàng đã
xuất khẩu thành thơ. Nàng hẹn hò với chính mình rằng sau này, Bình sẽ
gặp anh hàng ngày trong sân trường tiểu học, chúng ta sẽ có hàng ngàn
lời để nói cho nhau. Trên nấm mộ anh, nàng viết hai câu thơ bằng tất cả
sự biết ơn, kính phục và lòng thương cảm dạt dào.
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân!
Quê
hương VN của tôi hiếm có niềm vui, và tràn đầy nước mắt. Từng lớp người
bỏ ra đi vĩnh viễn vào lòng đất quê hương. Bình đã khóc hết nước mắt,
tiếc thương cho mối tình đầu thật đẹp, với đầy ắp mộng mợ
Cuộc
tình chợt đến chợt mất của Bình và Hiển đã đi vào thiên thu, như hai câu
thơ đã đi vào dòng lịch sử. Còn ai biết tên anh, chỉ có nàng. Tên anh
đã chìm vào quên... nhưng hai câu thơ bất hủ đã mãi mãi là một lời biết
ơn với các chiến sĩ Dù. Họ đã vĩnh viễn là niềm yêu thương và kính phục
vô bờ của bạn, của tôi, và nhất là của người dân An Lộc và của riêng
Bình.
Sưu tầm trên internet
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 22/May/2012 lúc 9:38am
Trận An Lộc Bình Long (Mùa Hè Đỏ Lửa 1972)
Năm 1972, phải chăng để dò dẫm, Bắc
Việt đã tung ra một cuộc tổng tấn công
được coi là có tính toán rất kỹ lưỡng
về mặt chiến lược. Cũng rất quan
trọng, vì lần đầu tiên họ dùng chiến xa
của Nga Sô tập trung tấn công một cách ào ạt.
Bất chấp hiệp ước Genève và không cần
biết đến vùng phi quân sự giữa hai miền Nam và Bắc, địch tung mũi dùi tấn công đánh thẳng từ
phía Bắc xuống Nam, và gặp phải sự kháng cự
mãnh liệt. Một mũi dùi tấn công khác từ biên
giới Campuchia đánh qua phía Kontum, Pleiku, làm cho các tiền
đồn đều lâm vào tình trạng bị
động. Áp lực đè nặng vùng nầy đến
độ phải đưa sư đoàn bộ binh từ
Ban Mê Thuột lên để tiếp viện.
Ở mặt trận phía Bắc, địa phương
thành lập từng bộ phận lưu động
nhỏ để dễ điều động, nhưng
cũng vì thế mà trở thành khó chỉ huy và hậu
quả là tuyến phòng thủ bị vỡ. Thành phố
Quảng Trị thất thủ ngay sau đó, các đơn
vị tranh nhau chạy về Huế. Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV,
được gởi ngay ra Huế với nhiệm vụ
tái lập trật tự tại đây.
Hai sư đoàn tổng trừ bị, SĐND và SĐ/TQLC,
đến giờ nầy vẫn còn ở Sàigòn,
được đặt dưới quyền xử
dụng của tướng Trưởng. Sư Đoàn 21
Bộ Binh ở Vùng Đồng Bằng Cửu Long
được đặt trong tình trạng báo động,
dự trù sẽ được bốc ra Huế.
Bất thình lình địch quân tấn công vào An Lộc, bao
vây thị trấn nầy, đe dọa SàiGòn vốn
chỉ cách đó khoảng 100 cây số. Tình hình lúc bấy
giờ hết sức căng thẳng, chỉ cần trể
nửa giờ nữa là không kịp ngưng chuyến
đi ra Huế của SĐ21BB để chuyển
hướng cho sư đoàn nầy tới thẳng An
Lộc, nhằm bảo vệ vòng ngoài cho thủ đô
SàiGòn.
Tôi theo BTL tiền phương sư đoàn đến
đóng quân ở Căn cứ Lai Khê, sư đoàn thiết
lập Trung tâm Hành quân để trực tiếp chỉ huy
các đơn vị Dù đang tham chiến tại Bình Long.
Vào Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, chiếm xong quận Lộc
Ninh, Việt Cộng đã mở cuộc tấn công
biển người, với chiến xa T-64 lần
đầu tiên xuất hiện tại vùng nầy. Chúng bao
vây và cô lập Thị trấn An Lộc thuộc tỉnh
Bình Long, trong đó có Chuẩn tướng Lê Văn Hưng,
Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh.
Đại tá Lê quang Lưỡng, Lữ đoàn
trưởng LĐIND, điều động các Tiểu
đoàn Dù đánh từ Lai Khê lên Chơn Thành. Tại đây
Tổng Thống và Trung Tướng Đống đáp trực
thăng xuống, ra lệnh Chiến Đoàn Dù nhảy vào
tiếp ứng An Lộc. Sau khi được lệnh,
Đại tá Lưỡng thay vì nhảy trực thăng
thẳng vào Thị Trấn, (theo lời ông kể lại
qua điện thoại) Đại tá cho trực thăng
vận xuống Đồi Gió ở phía Đông của
Thị Xã An Lộc.
TĐ6ND đã dùng chiến thuật thần tốc bất
ngờ đánh trúng ngay đầu não chỉ huy (hay đài
quan sát), Thiếu tá TĐP Bằng, K16, dẫn 2 Đại
đội do Trung úy Ngô Xuân Vinh tự Vinh “Con”, và Tuấn
nhảy xuống đầu tiên. Trung úy Tuấn và Vinh
điều động binh sĩ xung phong thần tốc
tiêu diệt địch trong một “Lô cốt” duy nhất
mà chúng đã đặt Bộ Chỉ huy, khiến chúng
chạy tán loạn. Nơi đây có rất nhiều hầm
hố bằng những tản đá xếp lại; vì
đất rất cứng, toàn đá sạn, rất khó dùng
sẻng đào hầm. Sau đó 2 Tiểu đoàn 5 và 8 cùng
Pháo binh được đổ trực thăng xuống
cùng với BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Chiến đoàn
Trưởng Lê Quang Lưỡng quyết định cho
TĐ6ND ở lại giữ cao điểm nầy, đích
thân đại tá dẫn 2 tiểu đoàn 5 và 8 cấp
tốc đi ngay đêm đó để vào An Lộc,
trấn an các đơn vị đang bị bao vây lâu ngày.
Tiểu Đoàn 8 dẫn đầu hướng về
Thị Trấn An Lộc; TĐ5ND của Trung tá Nguyễn
Chí Hiếu, TĐT, và Thiếu tá Lê Hồng, TĐP (sau bị
thương Ngoạc Lùn lên thay), cho tiểu đoàn đi
theo đội hình quả trám bảo vệ phía sau.
ĐĐ51 của Sĩ (sau bị thương Trung úy
Nguyễn Tiến Việt lên thay) đi trước,
tiếp theo là ĐĐ50 của Đ/U Từ Khánh Sinh;
bọc hậu có ĐĐ52 của Lê Hữu Chí, K20ĐL;
cánh trái là ĐĐ53 của Dũng, K22ĐL ( vài ngày sau
Dũng bị thương, Hồ Tường lên thay);
bảo vệ sườn phải ĐĐ54 của
Nguyễn Văn Dũng (sau bị thương Trung úy
Dương lên xử lý). Khi vào gần tới Thị
trấn thì địch chận đánh đại
đội đi chót của Chí Bệu. Trung tá Hiếu
điều động ĐĐ53 bọc lại tăng
cường giúp Chí đánh bật địch ra. Kế
đó Tiểu đoàn tiếp tục đi về
hướng Đông Nam An Lộc thanh toán các ổ chốt
và bảo vệ an ninh tại phía Bắc Xa Cam. TĐ8ND lo
thanh toán các ổ chốt và bảo vệ an ninh ở phía Nam thị xã An Lộc.
TĐ6ND ở lại Đồi Gió để vừa làm
lực lượng tiếp ứng bên ngoài, vừa ngăn
chận địch chiếm lợi thế cao có thể
dùng làm đài quan sát hay bộ chỉ huy trực tiếp
nhắm vào Thị Xã.
Lúc bấy giờ các đơn vị bị bao vây đã
lấy lại tinh thần vì có đơn vị thiện
chiến Nhảy Dù vào yểm trợ. Sáng hôm sau, Đại
tá Lưỡng cho TĐ8ND bung ra lục soát về phía Tây
Thị Trấn, nhưng địch quân pháo kích nhiều quá
nên TĐ8ND chuyển về hướng Nam. TĐ5ND cũng ra tiếp ứng nhằm mở rộng vòng vây,
để có bãi tiếp tế bằng thả dù. Nhờ có
tiếp tế đầy đủ nên tinh thần các
đơn vị bị vây vẫn còn vững chắc.
Vào đêm 30/4/72, để kỷ niệm ăn mừng
lễ Lao Động 1/5, địch bắt đầu
tập trung tổng tấn công vào An Lộc, chúng hạ
quyết tâm nuốt gọn các đơn vị đang
kẹt bên trong: Như LĐ1ND Nhảy Dù, Liên Đoàn 81
Biệt Kích Dù, SĐ5BB, SĐ21BB,...nhưng các đơn
vị bên trong An Lộc đã kiên cường chống
trả mãnh liệt. Tuyến của BCH/SĐ5BB của
Tướng Lê Văn Hưng bị lung lay, Đại tá
Lưỡng điều động cấp tốc
ĐĐ/TS1ND lên lấp chỗ; sau đó, ông tăng
cường thêm TĐ5ND để đẩy lui bảo
vệ Tướng Hưng.
Ngoài ra ông còn dùng 4 khẩu súng cối 81 ly (xạ thủ
là những chuyên viên của TĐ1PB) bắn yểm trợ
rất hữu hiệu. Ngay đêm đó, 2 trung đoàn
địch đang hung hăn xung phong vào thì bị mấy
loạt bom B52 xóa sạch, sáng hôm sau có mười mấy
tên sống xót quờ quạng chạy bậy vào khu
TĐ8ND và bị đẩy lui; chúng hốt hoảng
chạy đâm đầu vào khu vực TĐ5ND, một anh
thượng sĩ thường vụ đại đội
hăng máu dẫn lính ra thanh toán, nhưng anh đã hy sinh sau
khi tiêu diệt toàn bộ địch. Các đơn vị
trong An lộc đều rất kiên cường. Nhất là
các chiến sĩ Biệt kích, theo lời Hùng, K21ĐL,
TĐP thuộc SĐ5BB kể lại, thì chính anh đã
mục kích sự gan dạ và tài điều khiển
của Đại tá Phan Văn Huấn, Khóa 10 ĐL làm Liên
Đoàn trưởng, và Tr/T Lân, LĐP. Họ đã tổ
chức các cuộc đột kích đêm, từng tổ 3
người lợi dụng đêm tối len vào ổ
địch, đặt chất nổ hoặc phá các kho
địch. Đôi khi còn tiến sâu vào vòng trong để
sát hại cấp chỉ huy địch bằng cận
chiến. Những cái can đảm, hào hùng của họ
đã lọt vào mắt của một cô giáo còn kẹt
lại An Lộc. Chính cô đã làm nên hai câu thơ lịch
sử để ghi nhớ công xả thân vì nước
của chiến sĩ Biệt Kích Dù:
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị Quốc vong thân!
Thấy địch tập trung quân số bao vây thị
trấn đông quá, Đại tá Lưỡng đã phải
dùng 15 phi tuần B-52 đánh vào các khe suối, mà khi đi
vào An Lộc, ông thấy rất nhiều hầm hố
dọc theo hai bên bờ, các vị trí pháo của
địch, và ngay tuyến cận phòng (cách quân bạn không
quá một ngàn thước, thật hết sức táo
bạo và liều lĩnh, giống như trường
hợp B-52 đã giải vây cho các TĐ 7 và 8 tại Hạ
Lào). Khiến địch gần như tịch ngòi, các phi
cơ quan sát Mỹ báo cáo địch chỉ có một phần
ba lực lượng còn khả năng chiến
đấu, sau khi hứng chịu 15 phi tuần B-52. Đánh
thêm 8 phi tuần thì An Lộc gần như được
yên tỉnh.
Trước khi Chiến Đoàn Dù vào An Lộc, các
đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 BB của
tướng Hồ Trung Hậu đã ngày đêm hứng
chịu những đạn pháo liên tục của
địch. Phía Tây Quốc lộ 13 gần Tàu Ô là Tiểu
đoàn của Võ Công Danh, phía Đông Chơn Thành có Trung
đoàn của Đ/T Nguyễn viết Cần, SĐ21BB,
đang ở phía Bắc Chơn Thành, ông đã điều
động các binh sĩ trực thuộc cố gắng
chọc mũi dùi vào giải vây An Lộc. Nhưng
Đại tá Cần đã hy sinh vì một viên đạn
pháo cay nghiệt! Ông nguyên là TĐT TĐ11ND, một sĩ
quan tài giỏi, tánh tình hiền hậu, biết lo cho kẻ
dưới, nên thuộc cấp ai nấy đều
mến phục.
Có lần khi TĐ11ND đóng quân ở vườn Tao
Đàn, bảo vệ an ninh vòng ngoài phủ Tổng
Thống. Một đêm nọ, ông cùng 2 ĐĐT Bạch
và Nuôi đến ăn uống tại nhà hàng Tour D’Ivor.
Bỗng có hai Quân cảnh Mỹ đến hỏi giấy,
vì thấy ông cao ráo, trắng trẽo, mũi lỏ
giống hệt người Hoa Kỳ. Ông tự ái không
đưa, chỉ nói mình là TĐT/TĐ11ND và bảo hai
người ngồi chung là đại đội
trưởng thuộc cấp. Họ không tin còn có cử
chỉ hỗn láo, định còng tay, Nuôi và Bạch
thấy TĐT mình bị hạ nhục, nên tức giận
đứng lên tính can thiệp, Hai Quân cảnh hiểu
lầm rút súng ra, Bạch nhanh tay hơn, rút súng bắn
chết hai quân cảnh Mỹ để tự vệ! Ba
người vội xuống xe Jeep chạy về
vườn Tao Đàn và ra lệnh báo động, các xe Quân
cảnh Mỹ có gắn súng đại liên rượt theo
bao vây. Sợ động tới dinh Độc Lập, nên
các anh chạy về Trại Hoàng Hoa Thám, đoàn xe Jeep có
gắn đại liên của Mỹ rượt theo tới
trước cổng trại. Tướng Đống
biết chuyện nên ra lệnh hễ Mỹ xông vô thì
cứ bắn, lính Tổng Hành Dinh đem súng ra dàn
trước cổng. Sau đó cấp trên của Mỹ
gọi họ rút về để điều tra kỹ
lưỡng rồi sẽ tính.
Khi nhân chứng nói tại Quân Cảnh Mỹ hỗn láo và
rút súng ra trước, mọi việc được dàn
xếp ổn thỏa: Trung tá Cần bị ra bộ binh,
Nuôi và Bạch bị phạt một năm nhốt ở
Quân Lao.
Trở lại trận đánh An Lộc,dân và lính đã
thụ động co rút dưới hỏa ngục do
từ trên trời xuống trong hơn 2 tháng; pháo kích không
phải từng cơn, từng giờ, từng loạt;
pháo đầy trời như mưa; pháo ào ạt như
gió; pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng
đường như Mậu Thân, pháo không đi từng
luồng như hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn
lẫn như mây bay giăng giăng che kín cả bầu
trời An Lộc. Nhờ Đại tá Lưỡng rút kinh
nghiệm trận Hạ Lào, canh giờ địch
thường hay dùng biển người tấn công, ông xin
mấy P*** B-52 rải thảm cách vòng rào phòng thủ không
quá 1000 thước, cả Trung đoàn địch đang
hung hăng tấn công, bỗng bị cuốn mất trong
đám bụi mù, nhờ vậy Bình Long được yên
tỉnh mấy ngày.
TĐ6ND, sau khi bị tổn thất nặng tại
Đồi Gió (chỉ còn 180 người) rút về Lai Khê
tái bổ sung và huấn luyện cấp tốc tại
chỗ, được trực thăng đổ hai
đại đội của Ngô xuân Vinh (tự Vinh Con) và
Nguyễn văn Nghiêm, trưởng ban 3 kiêm nhiệm xử
lý chức vụ Tiểu đoàn phó thay thế Thiếu tá
Bằng (bị thương mắt tại Đồi Gió),
nhảy xuống Tân Khai, phía Nam Thị Trấn, đánh
bật lên Xa Cát, Xa Cam, các bộ đội địch lâm
vào cảnh lưỡng đầu thọ địch (trong
đánh ra, ngoài đánh vào), nên trở tay không kịp, bị
lính Dù hốt sạch. Tiểu Đoàn 6 Dù bắt tay
được với TĐ8ND tại cửa ngõ vào An
Lộc, như vậy coi như Bình Long đã
được thoát hiểm.
Cũng nên kể lại trường hợp của
trại Tống lê Chân, vì pháo binh trong An Lộc bị tê
liệt do các cuộc pháo kích dữ dội của quân
Bắc Việt, Quân đoàn III đã thả pháo binh 155 vào
trại để từ đây bắn yểm trợ cho
Bình Long. Tiểu Đoàn 92/BĐQ/Biên Phòng của Đại
úy Ngôn (Ngôn, Khóa 21 Đà Lạt, là người hùng ở
Tống lê Chân, trong 1 năm anh được thăng
cấp 2 lần, chính Tổng Thống ra lệnh thả lon
Trung tá bằng máy bay xuống tưởng thưởng cho
anh) đã tuần tiểu lục soát tiêu diệt toán nghiên
cứu chiến trường của Cục R, họ đã
bắn chết một Thượng tá có trách nhiệm tìm lý
do tại sao cuộc tấn công hỗn hợp chiến xa
và Bộ binh của chúng vào An Lộc bị thất bại
nặng nề.
CSBV bại trận, không chiếm được An Lộc
bằng những chủ lực vô cùng hùng hậu, vì vậy
Hiệp Định Ba Lê được chúng bằng lòng ký
kết (Ngôn sau nầy bị chết trong trại tù VC). Khi
đóng tại căn cứ Sư đoàn 5 BB ở Lai Khê,
tôi có gặp Biệt đội Tác Chiến Điện
Tử Sư đoàn 21 Bộ binh, họ rủ nhậu bia
với rắn “Ri Cá”! Tôi thấy anh em Sư Đoàn 21 ôm ra
từng bao cát, trong đó đựng những con rắn
ngọ nguậy trông thật ghê khiếp. Họ làm thịt
tại chỗ; vì sợ mất mặt màu áo binh chủng,
tôi cố uống nhiều bia để lấy can
đảm, rồi mới dám ăn, lúc tài xế chở
về doanh trại bên SĐND, nhớ tới động
tác ngọ nguậyï của rắn ri cá, nên buồn nôn,
khiến bụng sạch bóc luôn!
Anh em Biệt Đội TCĐT/SĐ21BB thật là hào
sảng chịu chơi, họ mới gặp tôi lần
đầu mà đã mua từng chồng két bia để
đãi, nhất là những con rắn, đã vất vả
đem từ Bạc Liêu xa xăm lên. Có lẽ họ thích
nét hào hùng của lính Nhảy Dù, cũng có thể trong đó
có anh tài xế của vị Biệt đội
trưởng tiền nhiệm đã kể lại, lúc
trước tôi đã mời lại nhà đãi cơm canh
chua cá bông lau và còn cho anh 40 lít xăng để lái xe về
Bạc Liêu.
Trích từ " Hồi ký Một Cánh Hoa Dù"
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 22/May/2012 lúc 4:30pm
ĐỜI LÍNH
Chia buồn cùng Hoa Hạ
xin nghiêng mình ca ngợi những Anh hùng huyền thoại An Lộc Bình Long 1972
Từng tấc đất, rừng cao su bụi cỏ
Máu dân lành thắm đỏ đến ngàn sau !
Chủ nghĩa chi ? xây bởi xác đồng bào ?
Giết giết giết tạo thiên đường cộng sản !
Pháo giặc lập loè, Bình Long kiên dũng
Gìn giữ quê hương, bảo vệ dân lành
Vào cõi đạn bay ngập trời lửa đỏ
Lòng như không, chân vững bước quân hành
Kinh Kha, cùng Tần Vũ Dương thuở trước
Vào chiến trường, dũng sĩ vẫn còn run !
Sao sánh được những chàng trai giữ nước ?
Sống hiên ngang khi chết, chết anh hùng !
Bốn công trường 5,7,9 Bình Long
Rơi tan tác như Mùa Thu lá đổ
Xác giặc, xe tăng nằm đầy giữa phố
Chết oan khiên, hồn vất vưởng núi rừng
1972
“ An Lộc địa, sử ghi chiến tích ”
“ Lính Cộng Hoà, vị quốc vong thân ”
1975
Cái cách thua của bậc anh hùng
Như Tướng Hưng, như Hồ Ngọc Cẩn
Muôn đời sau mãi mãi vẫn anh hùng
Cao Thệ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/May/2012 lúc 9:47pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu
Cho Hoa Hạ
tôi mang đời tu hú,
đậu trên nhánh đoạn trường !
gọi tên người thiên cổ,
trong ngậm ngùi khói sương…
mặc thủy
|
Anh Hùng An Lộc.
http://www.hoivanhoavn.org.uk/9-2011/gif09llisallindsay.gif">
Anh Hùng An Lộc *
Hồn linh oan tiếng hú Tức tửi khóc đoạn trường Anh Hùng danh thiên cổ Vang tiếng khắp muôn phương
thylanthảo
------------- mk
|
Người gởi: cao the
Ngày gởi: 23/May/2012 lúc 7:48pm
CHIẾN TRƯỜNG XƯA
Rừng xanh vang tiếng hú
Oan ức gọi đoạn trường ???
Tang bồng chưa sạch nợ
Khóc cười cùng gió sương !!!
Cao Thệ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/May/2012 lúc 10:48pm
Những dòng thơ thật hào hùng , lay động lòng người, dù chuyện xảy ra đã 40 năm qua ! MyKieu xin mượn bài "Chiến sử nghìn năm vẫn nhớ anh" của nhà thơ Thy Lan Thảo ..... Kính dâng Hồn Thiêng Sông Núi miền nam VN . Kính dâng Anh Linh các anh hùng vị quốc vong thân của QL VNCH Kính dâng Anh Linh các anh hùng vị quốc vong thân tại chiến trường Bình Long , An Lộc Đặc biệt, kính dâng Anh Linh Người Con Xứ Gò, cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG hy sinh tại chiến trường An Lộc, Bình Long ngày 15-5-1972 .
Cám ơn nhà thơ Thy Lan Thảo. Chân thành chia sớt nỗi niềm cùng Hoa Hạ nhé .
MK
CHIẾN SỬ
NGHÌN NĂM VẪN
NHỚ ANH
* Ngưỡng mộ chiến sĩ Liên Đoàn 81
Biệt Cách Dù
An Lộc nghìn năm quân sử vẫn
Khuyên son chói rạng Biệt Cách Dù
Lòng ta ngưỡng mộ trang anh kiệt
Gửi chí bình sinh với núi sông
Có những người trai quên tuổi trẻ
Sống trong sương gió rất kiêu hùng!
Một thuở non sông buồn ứa máu
Độc hà chia cắt lấy giang san
Cộng quân nhuộm đỏ trời phương Bắc
Cuồng vọng tham tàn hướng đất Nam…
An Lộc buồn hiu vương khói súng
Giặc tràn hung bạo phá an lành
Cô giáo bỏ trường, dân bỏ xứ
Tiếng than khốc hận thấu trời xanh.!
Giặc về như kiến, như lang sói
Thế yếu quân Nam
tử thủ thành
Máu hận ướt đầm bên thép súng
Anh hùng đâu kể sử lưu danh…
Tráng sĩ Kinh Kha sang sông Dịch
Yến tiệc tưng bừng Thái Tử Đan
Chiêu đãi anh hùng trăm thức quý
Người đi…kỳ vọng của giang san…
Người đi sử sách nghìn trang viết
Một kiếm lên đường trĩu nặng vai
Ân tình đãi ngộ trang anh kiệt
Quên lấy thân làm chuyện tương lai.
Đâu biết ngàn năm sau hậu thế
Tiễn Kinh Kha không rượu má đào
Anh hùng Biệt Cách vô An Lộc
Hào khí nghiêng trời…gió xuyến xao !
Kinh Kha xưa lén đâm bạo chúa
Để trả ân tình Thái Tử Đan
Biệt Cách Dù nhảy saut An Lộc
Thỏa chí tang bồng đã trót mang!
Cộng quân tràn ngập khắp nẻo đường
Súng, pháo, tăng…trời đất mờ sương
Tưởng chừng như kiến không vào lọt
Biệt Cách Dù phá trận Đương Dương
Trực thăng quạt cánh ngang đầu giặc
Bất kể phòng không đan kín trời
Thiên thần Biệt Cách vô ngay trận
Từng tổ tam tam đánh để đời…
Giữ một lời nguyền thề sát Cộng
Tay ghìm thép súng bám theo
thành
Từ trong lòng địch hiên ngang quá
Tấc đất nào không nhuộm máu anh,,..!
Từng trang tráng sĩ yên say giấc
Giữa chiến trường rực lửa máu tươi
Kinh Kha ngã xuống, Kinh Kha tiến
Biệt Cách Dù danh trấn muôn đời
Lũ giặc cuồng man đền nợ máu
Bỏ thành, bỏ súng, mắt kinh hoàng
Triệu Tử Long chiếm thành An Lộc
Đâu cần yến tiệc Thái Tử Đan!!
Máu đẫm chiến bào, im tiếng súng
Nhà tan, cửa nát, xác bạn thù
Tìm đâu tiếng chó vui mừng chủ
An Lộc hoang tàn hận thiên thu
Hào khí ngang trời không lui bước
Dáng anh kinh khiếp lũ cuồng man
Vì ai? Súng gãy quân tan tác
Lửa mắt ngời đau trước lệnh hàng..
Hơn hai mươi năm vẫn nhớ anh
Quốc sử ai mài kiếm dưới trăng?
Nuốt hận âm thầm anh đâu dễ
Quên bờ sông Dịch, bước quân hành…
Thương cảm về anh, gợi ý thơ
Mùa xuân người vẫn đợi trông chờ
Một ngày phục hận anh so kiếm
Trả mối thù xưa…thỏa ước mơ
thylanthảo
______ ___________________
~::Trích Dẫn nguyên văn từ HOA HẠ
" An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân !
Hai
câu thơ trên không phải được viết ra từ một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng,
hay của một vị quan to tước lớn có trọng trách ghi vào quân sử hào hùng
của binh chủng Biệt Kích Dù, mà được viết ra từ người con gái sinh ra
lớn lên tại thị xã An Lộc.
Cô đã gặp người thương, người yêu
trong chiến trận, và cô đã yêu thiết tha bằng trái tim nồng nàn của
mình. Tình yêu thương ấy dành riêng cho người chiến binh của binh chủng
Dù, đã đi vào lịch sử của Tổ Quốc VN mến yêu qua hai câu thơ, đánh dấu
một thời chinh chiến điêu linh. ...... Bạn anh, đồng đội anh chôn anh vội
vàng trong sân trường tiểu học. Bình ngồi bên cạnh, nhìn nấm mồ, nàng đã
xuất khẩu thành thơ. Nàng hẹn hò với chính mình rằng sau này, Bình sẽ
gặp anh hàng ngày trong sân trường tiểu học, chúng ta sẽ có hàng ngàn
lời để nói cho nhau. Trên nấm mộ anh, nàng viết hai câu thơ bằng tất cả
sự biết ơn, kính phục và lòng thương cảm dạt dào.
An Lộc địa sử ghi chiến tích Biệt Kích Dù vị quốc vong thân !
Quê
hương VN của tôi hiếm có niềm vui, và tràn đầy nước mắt. Từng lớp người
bỏ ra đi vĩnh viễn vào lòng đất quê hương. Bình đã khóc hết nước mắt,
tiếc thương cho mối tình đầu thật đẹp, với đầy ắp mộng mợ
Cuộc
tình chợt đến chợt mất của Bình và Hiển đã đi vào thiên thu, như hai câu
thơ đã đi vào dòng lịch sử. Còn ai biết tên anh, chỉ có nàng. Tên anh
đã chìm vào quên... nhưng hai câu thơ bất hủ đã mãi mãi là một lời biết
ơn với các chiến sĩ Dù. Họ đã vĩnh viễn là niềm yêu thương và kính phục
vô bờ của bạn, của tôi, và nhất là của người dân An Lộc và của riêng
Bình.
Sưu tầm trên internet "
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 25/May/2012 lúc 2:00am
Kỷ niệm sinh nhật lần Thứ 67 của
Cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG
ĐĐT ĐĐ 1- TĐ 2/7 SĐ 5 BB - KBC 4441
Ngày qua
ngày ...
Tháng tiếp tháng ...
.....Rất nhiều lần mặt trời ở trên
cao Vô tình đốt thiêu ngày bằng nắng gắt Khiến tóc em vốn đen huyền một
thuở Nay chỉ còn là màu nắng xác xơ
Có nhiều lúc gió heo may thẫn
thờ Thổi vào hồn em nỗi cô đơn giá lạnh Gió đâu biết chẳng còn Anh bên
cạnh Để chiều buồn mình khẻ nép gần nhau
Cũng đã có lắm khi, Em khóc một mình Vòng tay ôm lấy tim mình đang nức nở Nước mắt cạn, mà buồn còn dang
dở Bởi có mấy khi biển lặng sóng bình yên ?
Cũng bởi tại em đâu phải con
thuyền Sinh ra để hoà mình vào biển cả Trách làm gì đời còn nhiều nghiệt
ngã Giữa vui buồn chỉ còn lại nổi cô đơn.
* Góp Vào Thu Một Nổi Buồn - Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/May/2013 lúc 10:15am
THỤC ĐẠO NAN
Lý Bạch
Y hu hy
Nguy hồ cao tai
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên
Tàm tùng cập Ngư phù
Khai quốc hà mang nhiên
Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế
Bất dữ Tần tái thông nhân yên
Tây đương Thái bạch hữu điểu đạo
Khả dĩ hoành tuyệt Nga Mi điên
Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử
Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu
Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
Viên nhứu dục độ sầu phan viên
Thanh nê hà bàn bàn
Bách bộ cửu chiết oanh nham loan
Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
Dĩ thủ phủ ưng toạ trường than
Vấn quân tây du hà thời hoàn
Úy đồ sàm nham bất khả phan
Đản kiến bi điểu hào cổ mộc
Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian
Hữu văn tử qui đề dạ nguyệt
Sầu Không san
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên
Sử nhân thính thử điêu chu nhan
Liên phong khứ thiên bất doanh xích
Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích
Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi
Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi
Kỳ hiểm dã nhược thử
Ta nhĩ viễn đạo chi nhân
Hồ vi hồ lai tai
Kiếm các tranh vanh nhi thôi ngôi
Nhất phu đang quan
Vạn phu mạc khai
Sở thủ hoặc phi thân
Hoá vi lang dữ sài
Triều tị mãnh hổ
Tịch tị trường xà
Ma nha doãn huyết
Sát nhân như ma
Cẩm thành tuy vân lạc
Bất như tảo hoàn gia
Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên
Trắc thân tây vọng trường tư ta
******
Ôi! Ghê quá! Hiểm, cao là bấy
Thục, khó đi hơn chạy lên trời
Tàm, Ngư mở nước bao đời
Từ khi mờ mịt đất trời mang mang
Đã bốn vạn tám ngàn năm đấy!
Khói bếp chưa thông ải đất Tần
Phía Tây, Thái Bạch chắn ngang
Vượt Nga Mi chỉ bằng đường chim bay
Đất núi lở vùi thây tráng sĩ
Sau, thang trời, cầu đá liền nhau
Trên là một ngọn núi cao
Sáu rồng uốn lượn cùng chầu vầng dương
Dưới, dòng suối cuộn cuồn, thác nhảy
Sóng dội lên, nước chảy ngược dòng
Hạc vàng mỏi cánh, đừng hòng
Vượn sầu, khỉ tủi, khó lòng chuyền leo
Đèo Thanh Nê ngoòng ngoèo hiểm hóc
Trăm bước đi, ngoặt dốc chín lần
Chạm Sâm, đạp Tỉnh, ngại ngần
Tạm ngồi vỗ bụng thở than, mệt lừ
Anh sang Tây bao giờ trở lại?
Đường chon von, chỉ ngại trèo cao
Cây già, chim quạ thương sầu
Mái bay theo trống, nối nhau trong rừng
Lại nghe tiếng quốc chùng dưới nguyệt
Núi cùng đồi rậm rịt quạnh hiu
Đường đất Thục, khó đi nhiều
Khó đi hơn cả đường leo lên trời
Mới nghe thấy, rợn người, tái mặt
Núi cách trời gang tấc mà thôi
Thông khô treo ngược sườn đồi
Suối bay, thác đổ, liên hồi chen nhau
Đá rung chuyển nát nhàu sườn núi
Như ngàn cơn sấm dội hang sâu
Hiểm nguy ôi biết dường bao!
Đường xa, khách có quản nào quanh queo
Núi Kiếm Các cheo leo cao ngất
Ải một người, đối mặt muôn người
Nơi cửa ải, kẻ trông coi
Nếu không thân, sẽ thành loài sài lang
Buổi sớm đến, tránh đàn cọp dữ
Đêm tối sang, trốn lũ rắn dài
Mài răng hút máu ghê thay!
Giết người như chặt cành gai dễ dàng
Đất Cẩm Thành tuy rằng vui thật
Nhưng chẳng bằng sớm được về nhà
Đường Thục khó, khó bao là
Ngóng về Tây, chỉ biết là thở than!
Người Dịch : Nguyễn Lãm Thắng
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 14/May/2013 lúc 10:37am
Kỹ Niệm 41 năm ngày mất
Cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG
ĐĐT ĐĐ 1- TĐ 2/7 SĐ 5 BB - KBC 4441
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/May/2013 lúc 3:20am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Hoa Hạ
Kỹ Niệm 41 năm ngày mất
Cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG
ĐĐT ĐĐ 1- TĐ 2/7 SĐ 5 BB - KBC 4441
Hoa Hạ
|
http://trangvhntnguoncoi.wordpress.com/2013/05/01/to-quoc-ghi-on-anh-hung-vi-quoc-vong-than/ - http://trangvhntnguoncoi.wordpress.com/2013/05/01/to-quoc-ghi-on-anh-hung-vi-quoc-vong-than/ - - Anh Hùng Vị Quốc
------------- mk
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 15/May/2014 lúc 8:17am
Kỹ niệm 42 năm ngày mất của : Cố Đại Úy NGUYỄN THÀNH ĐÔNG ĐĐT ĐĐ1- TĐ 2/7 SĐ 5 BB KBC 4441
Bông Cúc Trắng
" ...Chiều cuối năm, bên hiên nhà em, một bông hoa âm thầm, Bông cúc trắng nhìn theo chút nắng, trên lối đi nhớ những gì, khi mùa đông đã qua rồi, khi mùa đông đã xa rồi. Trong đời người có ai muốn mùa đông ở lại có ai muốn mùa xuân không đến nữa, Bông cúc nở ngoài kia không trắng nữa. Em bước vào mùa xuân, nhẹ hơn gió, sớm hơn rạng đông. Tình yêu đó ấm hơn lửa nồng. Phố em qua chưa đông ...chưa đông ... Bước chân em thong dong, thong dong. Đôi lúc bàng hoàng thấy chính đời mình vừa thay lá mới, Xin nghĩ về đời tôi, hạt mưa rớt xuống cho đời vui Là tia nắng khuất bên kia đồi, Sẽ nuôi cho cây xanh cây xanh, Sẽ vì người thật tình thật tình Sẽ hát điều gì với những bạn bè gần gũi của tôi, với những nụ cười là đóa hồng tươi.
Chiều cuối năm mong em về thăm, Cành bông trắng trong ngần, Bông Cúc trắng ở đâu cũng trắng, Như dáng em trước sân trường Như là em giữa phố phường Như mọi khi hát trong vườn, trong cửa nhà nếu như có cành mai cành đào, nếu như có cụm hồng hay cúc trắng, sẽ thấy đời nhẹ vui như bé hát. Xin nghĩ về đời tôi, hạt mưa rớt xuống cho đời vui, Là tia nắng khuất bên kia đồi Sẽ nuôi cho cây xanh cây xanh sẽ vì người thật tình thật tình, sẽ hát điều gì với gió biển trời về giữa đời ai, gió hát ngày ngày từng khúc nhạc vui, Cúc trắng dịu dàng nở giữa mùa xuân..."
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 27/Aug/2015 lúc 10:54am
Người Vợ Lính Ở Thủ Đức –
Giao Chỉ
Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ.
Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn Thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường Bộ Binh Thủ Đức. Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào Thiếu Sinh Quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.
Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường Bộ Binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính.
Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong Dinh Tỉnh Trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính.
Chồng của cô là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.
Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân Thiếu Sinh Quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường Bộ Binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt Động Quân và các sư đoàn Bộ Binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.
Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu Giang và Tiền Giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể Sư Đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho Quân Đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của Sư Đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc Sư Đoàn 9 đưa một trung đoàn nào coi cho được. Trung Tá Hồ ngọc Cẩn dẫn Trung Đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng Nhẩy Dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của Tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có Bộ Binh của Trung Đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông Trung Đoàn Trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của Nhẩy Dù, Trung Đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa.
Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính Cộng Sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.
Giây phút cuối của Chương Thiện
Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:
“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là Dinh Tỉnh Trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Cộng quân cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng Cộng quân vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình“.
“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”
Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
”Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”
Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Theo: Giao Chỉ, San Jose.
Hình chụp ông bà Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.
Nguồn : TVTC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 24/Sep/2015 lúc 8:35pm
Đọc Thơ Trạch Gầm
Cô Tư Sài Gòn
May 2, 2015 | by:TVVN |
Vậy là tới ngày 30 tháng 4 của tròn 40 năm. Và là ngày Sài Gòn đầu hàng. Và là ngày Sài Gòn chờ đợi bị xóa tên.
Hôm nay xin ghi một số câu thơ của thi sĩ Trạch Gầm, tức là chiến binh Nguyễn Đức Trạch của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để tưởng niệm 40 năm.
Thi sĩ đã viết cho các chiến hữu đã hy sinh vì Tổ Quốc qua bài “Lời Trước Nghĩa Trang”, trích:
Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến,
Được cái hơn mầy nhìn thấy quê hương.
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương…
Hay qua bài thơ “Xa Lạ” của Trạch Gầm:
“Em cho phép,
Nhưng không bao giờ em biết
Một ngày thôi, một ngày thật của ta
Ta đã khóc tan hoang, khóc hết sức thật thà
Không khóc vì em mà vì những đứa làm lính
Bài học đầu hàng
Ta không bao giờ tính
Ta đếm lại vết thương thành sẹo bên mình
Có thể với em, ta lẩn thẩn vô tình
Nhưng với quê hương, ta không vô tình thế được.”
Hay là từ bài thơ “Ráng Chịu”:
…
…Trang nhật ký người lại thêm nước mắt
Ráng chịu te tua, ráng chịu tận cùng
Bọn ta sống, sao Quê Hương lại mất
Xót xa nầy… còn ráng chịu nổi không.
Và tới những câu hỏi không ai trả lời, Trạch Gầm viết qua bài “Tự Hỏi”:
Giờ trách ta ôi một thân vô dụng
Gác kiếm mòn cả vách đá thời gian
Người tức giận đến cành hông tức bụng
Vậy thôi ư … mà cứ ngỡ ngang tàng.
.
Nơi đất người một mình ta ngồi nhớ
Từng hạt mưa … từng mảnh nắng quê hương
Người có còn như xưa không người hỡi
Đôi tay ngà đòi túm gọn gió sương.
Hay la qua bài “Nói Với Trạch Gầm” thi sĩ tự dặn dò:
Nếu có nát… nát tim gan phèo phổi
Chớ tâm hồn… đừng có nát biết không
Những thằng em mầy đã từng đánh đổi…
Tuổi hai mươi… cho tình nghĩa Núi Sông…
Hay là bài thơ “Điểm Danh” được Trạch Gầm ghi là để “Nhớ Cô Khưu Ngọc Sang, Người Thầy Võ Trường Toản kính,” trong đó học trò tâm sự:
Thế hệ em mang những điều cô dạy
Đốt từng trang trên chiến địa điêu tàn
Thằng chăm học cũng như thằng phá phách
Cùng gánh gồng bao nghiệt ngã lầm than
.
Năm chục năm rồi Cô có còn giở sổ
Nhớ đám học trò Võ Trường Toản của Cô
Những thằng nhỏ thuở má hồng môi đỏ
Còn lại bao nhiêu… sau cuộc chiến mịt mờ…”
Hay là qua bài “Nhắc Chuyện Cũ… Nói Chuyện Nay” Trạch Gầm nói về những bạn cùng lứa tuổi đi theo Việt Cộng:
Đã cầm súng thì không hèn mầy nhỉ
Mầy đập tao thì tao lại đập mầy
Tao trầy vi thì mày cũng tróc vảy
Dân miền Nam mình ngậm đắng nuốt cay
.
Nhắc chuyện cũ chơi mầy ngồi ngẫm thử
Tết Mậu Thân, mày còn lại mấy thằng
Năm Truyện, Sáu Khâm, thằng 5, thằng 9 (1)
Bọn bắc lùa mày vào lửa thiêu thân
Thua rồi, nhưng nhìn lại những kẻ thắng trận, lòng anh xót xa và rồi nôi giận khi nhìn thấy mất dần đất và biển về tay giặc Tàu. Trạch Gầm mắng bộ đội qua bài “Bộ Đội Của Nhân Dân”:
Là bộ đội của nhân dân, sao mày đi bảo vệ.
Một lũ đầu trâu hút máu Đồng Bào.
Một lũ đầu trâu hiến đất cho Tàu.
Tác quái lộng hành giam người Yêu Nước.
Tổ Quốc lâm nguy sờ sờ trước mắt.
Non nước đang cần Bộ Đội Nhân Dân.
Vá… rất đang cần những thằng từng thề.
Quyết tử cho Tổ Quốc Quyết Sinh.”
Hay là, khi Trạch Gầm kể lại những ngày tháng Tư 1975, qua bài “Nhật Ký Tháng Tư” trích:
Hai ba tháng Tư… ta ngược Đồng Nai
Sương ôm mặt sông lau sậy thở dài
Địch xua quân tràn giữa đêm vắng lặng
Ta chỉnh pháo… và thây giặc chồng thây
.
Ta lạc mấy ngày trong lòng đất địch
Gọi đã khàn hơi chẳng thấy bạn bè
Thằng nào cũng đang giữ từng tấc đất
Đâu có thì giờ để cứu ta ra
.
Hai tám tháng Tư… ta ra lộ Một
Gặp ông tướng vùng thị sát thăm dân
Ông nói lung tung, ông thề sống chết
Ông nói xong rồi, ông bay biệt tăm
.
Hai chín tháng Tư… Biên Hòa xơ xác
Ta về Sài Gòn ngang qua nghĩa trang
Ta đứng nghiêm chào bạn ta đã chết
Như tự chào mình – nát cả tim gan.
.
Ba mươi tháng Tư… ta ôm mặt khóc
Trên cầu Sài Gòn – cạnh phố Hùng Vương
Mười năm binh đao… mười ngày kết thúc
Ta, còn nguyên, mà… mất cả Quê Hương!
.
Vậy là tròn 40 năm. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ?Trạch Gầm với những dòng thơ viết từ tim máu.
Nguồn : TVTC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 24/Sep/2015 lúc 11:19pm
Mực mồng tơi màu tím
Chỉ tim tím thôi mà
Nhưng sao còn nhớ quá !
Những tháng ngày đã xa
Và còn đây, ven đường
Chùm hoa dại đưa hương
Đậm đà hơn,sắc tím
Nhớ Người quá đi thôi
Nhớ áo Em mầu tím
Của tháng ngày xa xôi
Đã xa rồi xa mãi
Hoa Lục Bình nổi trôi...
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Mar/2016 lúc 9:16am
NGƯỜI TỬ TRẬN 3 LẦN:
CỐ THIẾU TÁ “BẮC ĐẨU” NGUYỄN NGỌC BÍCH
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Thiết Đoàn 18 KB được lệnh tăng cường cho chiến trường Quảng Trị, phía bắc sông Thạch Hãn. Một quả pháo 130mm của địch quân CSBV đã rơi ngay chiếc Thiết vận xa M-113 của Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích Bích và ông đã tử trận. Ngày 27/4/1972, thi hài cố Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Bích được di tản về Mỹ Chánh, Quảng Trị bằng quân xa GMC, đến Cầu Ga thì quân xa chở thi hài ông bị trúng đạn hỏa tiễn tầm nhiệt AT-3, ông tử trận lần thứ nhì.
Đồng đội đã đóng cho ông một chiếc áo quan tạm thời thứ hai và tiếp tục di tản. Ngày 30/4/1972, quân xa sang sông bị mắc lầy và xe ông trúng đạn pháo kích một lần nữa, ông tử trận lần thứ 3 trước khi thi hài ông được đưa về với gia đình!
https://www.youtube.com/watch?v=pL5vsycjt7A
Cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh nghe được câu chuyện thương tâm này, đã cảm kích và sáng tác bài hát BẮC ĐẨU để tặng người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Thiết Kỵ QL-VNCH Nguyễn Ngọc Bích. BẮC ĐẨU là danh hiệu truyền tin của cố Thiếu Tá
Về Bắc Đẩu Nguyễn Ngọc Bích: Cố Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp Khóa 18/SQTB Thủ Đức và Khóa 13 Sĩ Quan Căn Bản Thiết Giáp. Ông là Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 218 thuộc Thiết Đoàn 18 Kỵ Binh QL/VNCH. Đơn vị ông đã từng lập công trong trận tái chiếm căn cứ Alpha trên chiến trường Kampuchia và đã được trao tặng huân chương Anh Dũng Bội Tinh Nhành Dương Liễu.
Mòi nghe Nguyễn Hồng Nhung và Lâm Nhật Tiến trình bày “BẮC ĐẨU” của Trần Thiện Thanh trong ASIA 61
[MEDIA=youtube]id=P1tkVT061ew;list=RDP1tkVT061ew;t=38[/MEDIA]
Nhạc và lời: Trần Thiện Thanh
Trình bày:
Nguyễn Hồng Nhung
Lâm Nhật Tiến
Người bỗng trở thành vì sao Bắc Đẩu,
lẻ loi tinh cầu đêm đen không dấu
Cây “Cầu Gà” nhỏ anh qua anh qua
Vì sao Bắc Đẩu trôi dạt đêm mưa,
người xa cách người, nước mắt tiễn đưa
đã thấy xót xa một lần anh đi
đã thấy xót xa từ ngày hôm qua
Đây thinh không thiên thần lên tiếng hát,
chiêu hồn người từ hỏa ngục dương thế .
Kìa bầu trời Ngọc Bích đã thênh thang …
Ôi …lời mời gọi anh bước chân sang .
Xin muôn năm như vì sao sáng đó
Hỡi người định mệnh là vì sao lẻ .
Dậy đi Bắc Đẩu!
Dậy đi Bắc Đẩu
Bừng mắt dậy soi sáng thiên thu.
Người tên “Bắc Đẩu” chết trận hôm nao?
Một áo quan đóng vội một chuyến cuối phiêu du …
“Có thấy dấu chiến xa của người của hôm qua ?”
“Có thấy chiếc mũ đen của người lạc trong đêm?”
Người tên “Bắc Đẩu” chết trận La Vang, liệm xác ba lần …
Ngọc bích cũng tan chỉ còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi …
Cuộc đời vài mươi năm
Người vội về xa xăm
[Tặng anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngọc Bích]
Nguồn //baovecovang2012.wordpress.com/page/130/?app-download=blackberry
Hoa Hạ Sưu tầm
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 18/Mar/2016 lúc 9:56am
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Tôi đã cắt mấy cẳng chân nát bấy. Xuơng vỡ ra nhiều mảnh vụn. Thịt da tơi tả trông như miếng giẻ rách, bầy nhầy lẫn lộn đất cát và mấy sợi gân trắng hếu. Tôi thấy không tài nào giữ được những cẳng chân ấy. Chiếc cưa dây Gigli tôi dùng đi dùng lại nhiều lần, giờ đây không chịu nổi nữa. Tôi kéo cưa được mấy cái là đứt tung ra, văng cả máu lên mặt. Trong tủ y cụ tôi chỉ còn có hai sợi chót. Sau khi thay, tôi chỉ còn một sợi độc nhất để dành. Sợi dây cưa Gigli rất dễ sử dụng. Cưa mau lại đỡ mệt hơn cưa tay thường. Tôi phục người nào đó đã sáng chế ra sợi dây cưa này. Tiện lợi vô cùng, vì nó chỉ là những sợi dây thép gồ ghề soắn lại với nhau nên luồn lách chỗ nào cũng được.
Trong tình trạng hiện tại, tôi quí sợi dây cưa này lắm, nó giúp tôi làm việc mau lẹ còn dành thì giờ mổ nhiều người khác. Thiếu nó thì những trường hợp thiết đoạn tứ chi tôi đành bó tay. Tôi cố gắng làm việc cho thật nhanh để thương binh khỏi phải chờ đợi và nhất là tránh phơi mình lâu ở chỗ không an toàn.
Mọi nghi thức trong phòng mổ đều được giản dị hoá đến mức tối thiểu. Chúng tôi chỉ cần một đôi găng tay. Mọi người trong toán mổ đều mặc áo giáp, đầu đội nón sắt để thay thế áo choàng mổ. Có như vậy chúng tôi mới yên lòng làm việc vì bên ngoài Việt Cộng vẫn pháo tới đều đều. Máy phát điện đã bị pháo kích hư từ đêm hôm qua. Tôi phải mở rộng cửa sổ để có đủ ánh sáng làm việc. Chiếc bàn mổ phải luôn luôn xoay ngang, xoay dọc, lộn đầu lộn đuôi tùy thuộc nơi mổ là ngực, bụng, đầu hay chân tay để có đủ ánh sáng mặt trời rọi vào chỗ mổ. Phòng hấp ngưng hoạt động vì không còn điện nữa. Các dụng cụ giải phẫu đều được khử trùng bằng cách đốt bằng rượu cồn hay ngâm rửa trong nước sà bông gọi là surgical soap.
Mặc áo giáp mổ vừa nặng vừa nóng. Trong phòng mổ kín mít, không máy lạnh, chỉ có một cái cửa sổ thông hơi nên đứng một lúc mà mồ hôi vã ra như tắm. Tôi bị mất nước nhiều quá thành ra mau mệt. Nước bây giờ quý hơn vàng, khó kiếm ra. Phòng mổ bây giờ không còn một giọt nước. Những khăn mổ đã dùng rồi, dính máu không có nước giặt được chị Huyền gom lại vứt thành đống sau phòng trực y tá. Ngay đến nuớc rửa vết thương còn không có lấy nước đâu ra giặt đồ.
Ngay những ngày đầu của cuộc chiến, tôi đã tiên liệu tình trạng này. Nhưng tôi thực không ngờ trận đánh kéo dài mãi không dứt và hình như hiện giờ mới chỉ là khởi đầu. Tuần trước tôi đã ra lệnh cho Thượng Sĩ Lý chỉ huy các nhân viên phòng mổ thu gom tất cả các chai nước biển đã dùng rồi, đổ đầy nước vào, đem đi hấp để dự trữ hàng dẫy dài mấy trăm chai dọc theo tường phòng mổ.
Mặc dù chúng tôi dùng rất dè sẻn, chỉ để rửa các vết thương, số nước đó cũng chỉ được một tuần sau là hết. Cũng may tôi xuống dưới kho lớn đã đổ nát tìm được 6 gallon phisohex và hai thùng hydrogen peroxide. Không có nước pha, tôi đành rửa các vết thương bằng phisohex nguyên chất.
Phòng mổ bây giờ thật xơ xác hoang tàn, nền nhà dơ bẩn vì không có nước lau đã lâu. Dưới chân bàn mổ từng vũng máu đông đen xì hôi hám. Không khí ngột ngạt khó thở, không thể nào tiếp tục làm việc được nữa. Bệnh viện đã bị cô lập. Muốn liên lạc với các giới chức có thẩm quyền để xin trợ giúp chỉ còn có một cách đích thân đi bộ tới tận các bộ chỉ huy. Nhưng trong tình thế này tôi không tin là họ có thể giúp được cho bệnh viện một chút gì. Tôi tự nghĩ, có sao làm vậy, đến đâu hay đến đó, hết sức mình thì thôi.
Khoảng 5 giờ chiều, Bác Sĩ Nam Hùng ở phòng cấp cứu xuống cho tôi hay có 5 người bị thương bụng cần mổ gấp, tôi nghe vậy mệt xỉu luôn.
Dù ở trong thời bình với đầy đủ phương tiện, tôi có làm suốt đêm đến sáng, chưa chắc một mình tôi có thể giải quyết xong số thương binh đó. Huống chi, trong tình trạng hiện nay, với một số nhân viên cố định, đã làm việc suốt ngày không nghỉ. Tôi nghĩ không tài nào làm hết nổi. Không biết trận chiến còn kéo dài đến bao giờ. Tôi phải giữ sức khỏe cho nhân viên và cho tôi để có thể tiếp tục làm việc trong những ngày sắp tới. Nếu phung phí sức khỏe làm việc trong một ngày để rồi sau đó kiệt sức nằm bẹp một chỗ thì thật là người bất trí.
Lại còn vấn đề cá nhân nữa. Không ai lo cơm nước cho chúng tôi. Chúng tôi phải tự túc lấy. Sau vài ca mổ trong giờ xả hơi tôi tạt qua phòng nhắp vội một hai nắp bi đông nước cho đỡ khát, ăn vội mấy thìa cơm sấy với thịt hộp cho qua cơn đói. Các nhân viên phòng mổ khác chắc cũng được bạn bè giúp đỡ nên họ cũng chưa đến nỗi kiệt sức lắm.
Tuy nhiên trong tình trạng hiện tại, không điện nước, không đèn đuốc, thì dù có tinh thần cao cách mấy cũng không thể nào làm được. Lại thêm Việt Công vẫn tiếp tục pháo kích suốt ngày. Đạn pháo rơi bên trường trung học trước bệnh viện, bên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5, bên Ty Công Chánh sau bệnh viện rồi rơi vào ngay cả bệnh viện khiến cho chúng tôi đứng mổ không yên. Mọi người đều cố làm thật nhanh để còn đi tìm chỗ núp.
Những vội vã trong lòng không biểu lộ ra nét mặt. Ai nấy đều có cái vẻ ngoài điềm tĩnh để làm việc. Có thể nói sợ quá hoá lỳ. Vì thực ra đâu còn cách nào khác. Tuy nhiên mỗi lần nghe tiếng rít của đạn bay qua đầu hay tiếng hú của hoả tiễn thì những dấu hiệu kinh sợ mới thấy hiện ra trong ánh mắt mệt mỏi của mọi người. Riêng tôi, mỗi lần như vậy thì cảm giác sợ hãi làm co thắt các bắp thịt đến buốt nhói ở tim. Khi nghe thấy tiếng đạn nổ rồi, thấy mình không hề hấn gì mới yên lòng làm việc tiếp.
Càng ngày Việt Cộng càng pháo nhiều, tinh thần mọi người ở đây thật căng thẳng. Sống tính từng giờ, chết không biết lúc nào. Chúng tôi như những con chim đã bị tên, thấy cây cong là sợ: một tiếng xiết chân, một tiếng chép miệng, một tiếng thắng xe, tiếng xao động của mái tôn cũng làm cho chúng tôi giựt thót mình. Bao giờ tôi cũng có cảm tưởng là có một trái đạn treo trên đầu mình sẵn sàng nổ bất cứ lúc nào.
Tôi nhận thấy không tài nào làm hết những vết thương bụng đó được. Tôi chọn xem người nào nhẹ nhất tôi làm trước. Những người nặng và những người mất máu nhiều không có hy vọng sống sót sau khi mổ, tôi chỉ cho truyền nước pha với trụ sinh rồi giao cho số mệnh.
Trong số những người bị thương bụng không mổ, chỉ có hai người sống sót, một cô gái và một người lính cao lớn tên Ba. Tiếc thay anh Ba sống được hai tuần thì một đêm kia, phòng hậu giải phẫu bị trúng một trái 61 ly. Người đàn bà nằm ngay chỗ trái đạn nổ cùng với đứa con không việc gì, trái lại anh Ba bị một mảnh nơi cẳng chân trái. Một tuần sau anh chết vì bị phong đòn gánh.
Trong ánh sáng lờ mờ của buổi chiều, trong không khí ngột ngạt oi bức tanh mùi máu của phòng mổ, tôi, Thiện, Xòm cố sức làm việc. Tôi cố khâu những vết thủng ruột non. Tôi thấy khó thở quá, mồ hôi chảy ròng ròng trong thân làm tôi thấy ngứa ngáy khó chịu. Thỉnh thoảng tôi lại phải nghiêng đầu dơ vai lên quẹt mồ hôi ở mặt từ trán chảy xuống.
Bây giờ không còn như mấy ngày trước nữa mà mong có người đứng bên lau mồ hôi cho mình. Trong hoàn cảnh khó khăn tôi đã hình thành một triết lý sinh tồn là cứ hết sức chú ý vào công việc mình làm, không cần để ý tới thời gian và những phiền toái chung quanh. Bởi vậy cuộc mổ chiều hôm đó tuy cực nhọc khó khăn rốt cuộc rồi cũng xong.
Tôi mệt lả người. Trong lúc Thiện, Xòm đẩy bệnh ra phòng hậu giải phẫu, tôi bước ra ngoài cho dễ chịu một chút. Tôi không dám hít mạnh vì không khí bệnh viện hiện giờ chẳng trong lành, thơm tho gì. Cho tới nay gần 300 xác người nằm sấp lớp dưới nhà xe và sân sau của bệnh viện. Những xác chết đó có từ ngày đầu của cuộc chiến, đến nay gần mười ngày mà chưa được đem đi chôn. Buổi chiều mùa hạ nóng bức cùng với mùi tử khí của những xác người đã bắt đầu trương phình làm cho không khí đặc quánh, thật khó thở.
Bệnh viện có một nhà xác chứa được hai xác. Khi tôi tới làm việc ở tỉnh này được chừng ba tháng, thì dự án nới rộng nhà xác của tỉnh đã được thông qua và bắt đầu. Một ông thượng sĩ an ninh của tỉnh thì thầm với tôi :
- Bác sĩ đừng chê tôi dị đoan, nới rộng nhà xác là điều tối ky, vì chắc chắn sẽ có nhiều người chết lắm. Để rồi bác sĩ coi tôi nói có đúng không. Trước kia làm ở tỉnh Chương Thiện cũng vậy. Chỉ vài tháng sau khi nới rộng nhà xác là vô số người chết tới.
Lúc đó tôi gật đầu cho ông ta vừa lòng, nhưng trong bụng bán tín bán nghi. Nay thì thấy ông thượng sĩ già này có lý.
Thoạt đầu những người tử nạn đều được tẩm liệm vô hòm đàng hoàng, có cả quốc kỳ phủ quan tài cùng hương đèn đốt cháy suốt ngày đêm. Trung đội chung sự không đem đi chôn được vì pháo kích và khu nghĩa địa không được an ninh vì ở xa, ngoài vùng kiểm soát của quân mình, nên xác chết cứ để lại tại bệnh viện.
Khuya, sau khi mổ xong, đi xuống phòng ngủ, tôi không dám nhìn ra phía nhà quàn với hàng quan tài có những ánh nến leo lét cháy. Cứ trông thấy là tôi lạnh người dựng tóc gáy rảo bước cho mau.
Dần dần người chết quá nhiều, bất cứ nơi nào có xác chết là họ thu về đem thảy vào nhà xác bệnh viện. Mới đầu giới hạn ở nhà quàn, sau lan ra nhà xe, tới sân sau, rồi tới ngang hông văn phòng Ty Y Tế ngay trước trại ngoại khoa. Có xác quấn poncho, có phiếu chứng tử đính kèm, nhiều xác để trần mặc áo giáp, xác nằm xấp, nằm nghiêng, co chân co tay, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Có xác nằm bình thản như người ngủ. Có xác trương phình, bụng căng cứng, bóng như bụng ễnh ương, chảy nước vàng, rữa nát vì để quá lâu, phơi nắng suốt ngày đã biến màu thành đen sạm như chì. Xác của người lớn, của trẻ con, của quan, của lính, của dân nằm lẫn lộn, xông lên mùi hôi thối suốt nửa tháng trời. Ruồi nhặng bu đầy trên mặt mũi, trên những vùng nước rỉ ra từ những thân thể sắp rữa nát.
Để ngăn ngừa ruồi muỗi sinh sản, có người đem rắc bột DDT lên những xác chết. Hành động này về phương diện vệ sinh, trên lý thuyết thì rất đúng. Nhưng đứng ở một nơi nào khác kia, ở một thời điểm nào kia, chứ thực tình tôi vẫn phân vân tự hỏi tại đây nó có tốt không ? Trong nhất thời, tôi cho là tai hại quá.
Ruồi nhặng bị xua đuổi khỏi chỗ ở của nó liền quay vào tấn công bệnh viện. Khắp chỗ nào cũng có ruồi nhặng. Chúng lì lợm đậu lên đầu lên mặt tôi, lên mặt những thuơng binh mệt mỏi nằm ngủ quên. Tôi đưa tay vuốt mặt ngửi thấy mùi hôi thối của xác chết kinh tởm đến lợm giọng. Tệ hơn nữa hiện giờ chẳng kiếm đâu được nước mà tắm rửa. Tôi lấy một cục bông gòn thấm alcool lau qua cho đỡ bẩn. Mùi hăng nồng của alcool quả thực đã làm tôi thấy sạch sẽ hơn, dễ chịu hơn được một chút.
Lại nữa, mùi DDT trộn với mùi của xác chết xình thối hợp thành một mùi khủng khiếp không tài nào ngửi được. Có những xác ruồi bu đen suốt từ đầu đến chân, tôi trông thấy mà nôn nao trong ruột muốn ói.
Mấy ngày sau, anh Châu kiếm đâu được ít thịt heo đem kho tầu mang đến cho tôi nhưng tôi không thể ăn được. Cứ đưa miếng thịt lên miệng lại nghĩ tới đống thịt rữa nát chỉ cách mình không xa là mấy, đành phải bỏ xuống. Ấn tượng đó cho đến cả tháng sau, lúc dọn sang bộ chỉ huy tiểu khu mới hết.
Sau khi không thể chịu được những xác chết đó nữa, chúng tôi trình sự việc lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5. Một vị đại tá được chỉ thị lo việc này. Đó là Đại Tá Điềm nguyên Tỉnh Trưởng Long Khánh hồi tôi còn ở Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh đóng ngay tại tỉnh này. Không hiểu sao tôi lại gặp ông ở đây. Đích thân ông dẫn một tốp lính cùng 10 lao công đào binh để hốt xác đem lên xe cam nhông đưa đi chôn. Nhưng khi Đại Tá Điềm ra lệnh xong vừa quay về là lính, lao công đào binh cũng trốn luôn. Ai cũng ghê tởm không dám làm công việc khênh hàng trăm xác rữa nát hôi thối lên xe.
Ở sân trường học, ngay phía trước cửa bệnh viện, một chiếc xe ủi đất của Ty Công Chánh đang đào những hố thiệt lớn. Tiếng máy nổ khác thường làm mọi người chú ý. Ai cũng thắc mắc không hiểu họ đang làm gì. Mới đầu, tôi tưởng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn cho làm thêm công sự chiến đấu, sau mới biết là đào hố chôn tập thể. Xe phải đào tới gần một ngày mới xong.
Buổi chiều chừng 5 giờ, một xe GMC dẫn 10 lao công đào binh cùng 5 người lính sang bệnh viện. Xe de đít quay vào đám xác. Lần này có lệnh của Đại Tá Điềm là ai trốn chạy sẽ bị bắn tại chỗ. Chính nhờ nghiêm lệnh này công việc đã được tiến hành tương đối chu đáo và có hiệu quả. Một trung sĩ to con, mặt sát khí đằng đằng cầm súng M.16 đứng chỉ huy.Mấy người lao công đào binh đi kiếm bao nylon gạo sấy để làm bao tay hì hục khênh từng xác vất lên xe.
Nước vàng hôi thối từ những xác chết chảy ròng ròng. Bắt họ làm công việc này thật tội nghiệp. Nhưng nếu không bắt buộc thì làm sao giải quyết nổi gần 300 cái xác đó. Sau khi chất lên được gần một xe, nhìn lại thấy số xác người như không suy chuyển một chút nào, mấy anh lao công đào binh đã bắt đầu nản, xuống tinh thần. Phần vì mệt mỏi, phần vì tiếp cận ngay những cái xác đang rữa nát hôi thối đó, họ đều xin dừng tay nghỉ mệt và một anh đề nghị lấy xe ủi đất ủi tất cả các xác đó vào một đống sau bệnh viện rồi đổ xăng đem đốt. Nhưng giải pháp này không được chấp thuận. Vì mùi khét lẹt của gần 300 cái xác đó xông lên thì chắc không ai chịu nổi.
Bỗng một người lính la lên :
-Có thằng trốn.
Hai người lính liền đi lục soát tìm kiếm. Lợi dụng mọi người không chú ý, ba người nữa chạy vội ra tính leo rào trốn khỏi bệnh viện. Một cuộc rượt bắt diễn ra. Anh trung sĩ phải bắn mấy phát chỉ thiên mới bắt lại được ba người, còn một người trốn mất luôn. Bắt được anh cho mỗi người một báng súng vô ngực, buộc phải quay lại làm tiếp. Anh hăm dọa :
- Tụi bay mà bỏ chạy nữa tao bắn bỏ nghe.
Một người lao công đào binh mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm chiếc áo ka ki bạc màu, nhăn nhó qua hàng nước mắt :
- Hôi thối quá làm sao tụi em làm được.
Anh trung sĩ nạt lại:
- Bộ tao đứng canh tụi bay ở đây không ngửi thấy mùi sao. Ráng làm cho xong rồi về.
- Khênh người sống còn đỡ, khênh người chết sình nặng quá muốn hụt hơi luôn. Trung sĩ cho tụi em nghỉ một lát để thở.
- Được, cho tụi bay nghỉ 5 phút.
Mấy lao công đào binh ngồi ngay xuống thềm xi măng văn phòng Ty Y Tế nghỉ xả hơi. Mặt người nào người nấy phờ phạc có lẽ phải hít thở mãi những mùi xú uế từ những tử thi để lâu ngày. Một người trông hãy còn trẻ, chừng 20 tuổi mặt mũi có vẻ thông minh ngồi dựa vào tường than thở.
- Từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa bao giờ tao phải làm một việc cực khổ khốn nạn như thế này. Cực đéo chịu được, thà chết sướng hơn.
Tôi cho người đi kiếm mấy cặp găng tay đã dùng rồi đưa cho họ mang để họ làm việc dễ dàng hơn là dùng những bao nylon gạo sấy.
Hết 5 phút xả hơi, họ lại được lệnh tiếp tục khênh xác lên xe. Đầy xe rồi tài xế liền lái ra hố chôn tập thể. Họ lại khênh xác vứt xuống hố. Tới 8 giờ tối mới xong được hai xe. Họ làm liên tục như thế trong hai ngày mới thanh toán hết số xác trong bệnh viện. Chiếc xe ủi đất phải đào thêm hố nữa dài theo sân của trường trung học mới đủ chỗ chôn. Ngoài ngã ba Xa Cam dọc theo vườn cao su, trung đội chung sự tiểu khu còn đào thêm một hố chôn tập thể khác khá lớn. Tôi nghe nói hố đó chứa chừng gần một ngàn xác.
Giờ đây mồ mả mọc lên như nấm rải rác khắp thành phố. Những tấm bia bằng gỗ pháo binh, bằng giấy carton được mấy người bạn đồng đội viết nguệch ngoạc tên họ người chết và cắm lên vội vã. Họ phải làm thật lẹ vì rất nguy hiểm khi phơi mình quá lâu trên mặt đất. Đạn pháo kích có thể rơi xuống bất cứ lúc nào.
Trước cửa nhà Tiểu Khu Phó, hai người đang đào hố chôn bạn, gần xong thì bị ngay một trái 105 ly. Chẳng một ai sống sót. Sẵn hố đã đào, người ta liền vùi tất cả chung vào một lỗ. Thành ra những ngưòi lính ấy đã tự tay đào lỗ chôn mình. Mấy anh lao công đào binh cũng bị tử nạn đang khi vứt xác xuống hố. Thi thể họ cũng được vùi chung với những xác mà họ mới vừa khênh xuống.
Người ta kể chuyện, vì có những vụ như vậy nên mỗi lần đào hố chôn, họ lại đào rộng ra một chút để nếu có bất hạnh xảy ra thì có sẵn hố tự chôn mình luôn. Thật là bi thảm nếu quả thực là như vậy. Không biết chuyện đó có thật hay không.
Từ khi giải quyết xong mấy trăm xác chết đó, bệnh viện thấy dễ thở hơn được một chút. Tuy nhiên hàng ngày, trung bình có từ 3 đến 5 xác do các nơi đem tới. Trung đội chung sự vì vậy cứ cách ngày lại phải tới bệnh viện gom xác lại đem đi chôn. Công việc cứ tiến hành đều đều như vậy, nên không còn sự ối đọng cả mấy trăm xác chết như trước nữa.
Ở đây không phải chỉ chết một lần, mà hai lần, có trường hợp tới ba lần. Pháo trúng mồ, thân xác bị cầy nát lên, được chôn lại, bị pháo trúng nữa, thịt xương rữa nát văng vãi tứ tung, hôi thối khửng khiếp. Đó là truờng hợp của một nữ y tá thuộc phòng y tế công cộng chẳng may bị tử thương, được bạn bè đem chôn tại bờ tường phía sau bệnh viện, đã bị chôn hai lần như vừa kể ở trên. Và đó cũng là trường hợp của bốn quân y tá mà tôi là người nói chuyện với họ lần cuối cùng dưới làn cây trứng cá trước cửa văn phòng Milphap.
Khi tôi từ phòng mổ đi xuống trại ngoại khoa, nửa đường gặp một nhóm quân y tá đang đứng nói chuyện với nhau. Trông thấy tôi, binh nhất Út tươi cười chào hỏi :
- Bác sĩ làm việc có mệt không ?
Tôi đứng lại nhập bọn với họ, trả lời :
- Mệt lắm, nhưng cũng phải cố gắng, còn nước còn tát. Thế các anh em có chỗ núp an toàn không, ăn uống cơm nước ra sao ?
- Thưa bác sĩ, nhờ có gạo sấy do thả dù tiếp tế nên cũng không bị đói. Chúng em cứ hai người chung một hố cá nhân đào dọc tường sau của trại nhi khoa, cho đến bây giờ thì may mắn chưa có ai bị hề hấn gì cả.
- Thế thì tốt lắm, nhưng không nên đứng khơi khơi giữa trời như thế này làm gì, nguy hiểm lắm..
Nói xong, tôi liền tiếp tục đi xuống trại ngoại khoa, mở khóa vào trong phòng ngả lưng định nằm vài phút để lấy lại sức. Vừa nằm chưa ấm chỗ tôi chợt nghe một tiếng nổ rất gần ngay trong bệnh viện, không to lắm, mảnh đạn, đất đá văng lên mái nhà nghe rào rào. Tôi đoán là đạn súng cối 61 ly. Vì đã có kinh nghiệm và đã quá quen với pháo kích rồi nên nghe tiếng nổ là tôi có thể đoán trúng được là loại đạn gì. Tôi nghĩ thầm loại này thì nhằm nhò gì chỉ như gãi ghẻ mà thôi. Tôi chẳng thèm để ý, định bụng nằm trên giường như thường, chẳng cần phải chui xuống gầm giường như mọi khi nữa
Đang suy nghĩ miên man, thì có tiếng gõ cửa gấp rút, rồi tiếng trung sĩ Lạng trưởng trại ngoại khoa nói vọng vào :
- Xin mời bác sĩ ra ngay cho. Có bốn y tá của mình bị thương nặng!
Tôi vội ngồi bật dậy, đi ra ngoài, khoá cửa lại cùng trung sĩ Lạng chạy ra phía đầu trại ngoại khoa, ra tới sân trước văn phòng Milphap tôi thấy một nhóm đông đang xúm xít săn sóc bốn người bị thương nằm dưói đất.
Tôi khám thật nhanh thấy ba người kia đã chết vì vết thương quá nặng ở đầu, bụng. Còn có binh nhất Út thấy có vẻ tỉnh táo nhưng mặt mày xanh mét vì mất máu, vì đau. Tôi ra lệnh cho y tá khênh Út vào văn phòng Milphap, đặt anh ta trên chiếc bàn, rồi bắt đầu khám lại kỹ càng hơn. Tôi thấy một vết thương do mảnh đạn xuyên vào phổi phải. Không có tiếng thở phế bào. Chắc máu ra nhiều trong phổi. Tim đập rất yếu. Chắc chắn bệnh nhân cần phải được thông phổi ngay. Nhưng những dụng cụ thông phổi nay đã hết. Nên tôi đành phải dùng valve Heimlitz là một hình thức thông phổi mà không cần bình nước vì valve chỉ cho phép đi một chiều tức là máu ra được nhưng không khí không vào được do hai lá cao su khi thở ra thì nó mở ra, khi hít vô thì nó tự động đóng lại theo sức ép của không khí.
Tôi biết vết thương này không đơn giản. Chắc chắn nó đã gây hư hại nhiều cho những cơ quan bên trong. Tôi chắc Út khó có thể qua khỏi được nếu không được di tản kịp thời. Nhưng với tình trạng hiện nay, tản thương là điều không thể có được. Tôi nghĩ đến nước này chỉ đành phó mặc cho trời mà thôi.
Sau khi truyền nước biển xong tôi dặn mấy người bạn Út canh chừng trong đêm nay. Ngày mai nếu may mắn có chuyến tản thương sẽ cho Út ưu tiên đi trước.
Tôi đi vòng qua đống rác lớn cuối trại nội khoa, ra phòng cấp cứu. Qua hành lang giữa trại, tôi thấy thương binh nhiều quá, nằm bừa ra cả lối đi. Tôi phải len chân lần từng bước. Ra tới cửa chính giữa, nơi được dùng làm phòng cấp cứu. Một cảnh tượng đau lòng hiện ra. Chừng 30 thương binh nằm đầy ra ở dưới đất. Một vài người có bang ca, còn phần đông nằm ngay trên sàn gạch dơ dáy, đầy bông băng vấy máu. Một bàn kê sát vách tường trên đó để đầy các thứ thuốc sát trùng, các thứ thuốc chích, cạnh đấy là những thùng băng đã được khui sẵn. Sáu y tá luôn tay làm việc băng bó. Bác sĩ Nam Hùng, bác sĩ Tích đã khám vết thương từng người rồi ra chỉ thị cho y tá, cái nào rửa sạch băng lại, cái nào cần giải phẫu thì chuyển xuống phòng mổ. Tôi đến gần bác sĩ Tích, anh nhìn lên lắc đầu thở ra. Tôi hiểu ý nói :
- Nhiều quá phải không anh Tích ?
Bác sĩ Tích gật đầu mệt mỏi đáp :
- Tôi với anh Hùng làm từ sáng tới giờ mà vẫn không hết. Nghe nói họ sẽ còn mang tới nữa.
- Trời! lấy chỗ đâu cho thương binh nằm. Ở đây đầy rồi. Dưới trại cũng hết chỗ chứa.
Bác sĩ Tích ngao ngán lắc đầu :
- Mấy thằng khiêng cáng viên dông hết rồi. Tụi nó mất tinh thần, tên nào tên ấy lờ quờ không muốn làm gì cả.
- Mình bận làm việc không hở tay đâu để ý được tụi nó. Giá có thêm người đứng ra chỉ huy, tụi nó sợ, làm việc, thì đâu có ối đọng khổ sở như thế này.
Tôi đi thăm một lượt, may mắn không có ai cần phải mổ lớn cả. Phần đông đều bị thương ở tay chân. Có nhiều người bị gãy xương, được các bạn đồng đội băng bó giữ im tạm khúc xương bị gãy bằng những cành củi khô hoặc bất cứ vật gì mà họ kiếm được.
Một điều tôi lấy làm lạ là bị thương đau đớn như thế mà không có ai kêu la. Khi các y tá xức thuốc rửa những vết thương trầy trụa, họ chỉ suýt soa nhăn mặt cắn răng chịu đựng chứ không như những ngày thường.
Trong số những người bị thương, có mấy người dân vừa đàn bà vừa trẻ con. Một đứa trẻ cụt cả hai chân lên tới đầu gối, nằm gối đầu trên một chiếc hộp đựng băng, dơ đôi mắt lờ đờ nhìn tôi miệng mấy máy một cách yếu ớt:
- Nước, nước, cho con hớp nước.
Sắc mặt nó vì bị mất máu nên xanh mét, da môi khô, cánh tay trái bị băng gần hết. Một sợi giây vòng qua cổ treo cánh tay trước ngực thành một góc 90 độ.Tay kia cũng đuợc giữ im để truyền nước biển. Thân hình nó thành ra ngắn ngủn một cách thảm hại. Vệt nước mắt khô còn in trên má. Mắt nó ráo hoảnh, nó không còn nước mắt để mà khóc. Nó nhìn để mà nhìn, đôi mắt dường như vô cảm giác. Tôi nghĩ nó đã quá mệt, tê dại không còn biết đau đớn là gì nữa. Nó bây giờ chỉ còn là một sinh vật, sinh vật “vô tri”. Cạnh đấy một người đàn bà bị thương ở má phải tóc bê bết máu nằm gục đầu trên đống băng vấy máu. Vết thương của bà ta đã được băng bằng một băng cá nhân nhà binh khá lớn che gần hết khuôn mặt chỉ để hở một con mắt tím bầm, sưng vù, thỉnh thoảng cố nhướng lên mà không được. Bà ta nằm rên nho nhỏ.
Phía góc phòng, một người lính bị thương ở đầu, bị quấn băng kín mít, chốc chốc lại la lên :
- Trời ơi khát nước quá, ai cho tôi miếng nước.
Kêu xong anh ta lại nằm yên như không có gì xảy ra cả. Mọi người đều bận rộn, không ai lấy nước cho anh, vì thực ra cũng khó mà kiếm được nước trong lúc này. Tôi yên trí không lo anh bị chết khát, vì chai nước biển treo bên cạnh vẫn còn nhỏ đều đều từng giọt thẳng vào mạch máu.
Tôi nhìn những người y tá làm việc băng bó như máy. Không hiểu họ có nghĩ gì không. Suốt 20 năm chiến tranh, chết chóc bị thương xảy ra quá thường như cơm bữa, khiến người ta dường như không còn xúc động trước những cái chết của đồng loại. Tôi đã nhận ra được điều này ngay từ hồi tôi còn là một sinh viên y khoa thực tập tại khu ngoại khoa bệnh viện Chợ Rãy. Hôm ấy người ta khênh vào hai mẹ con bị thương. Tôi săn sóc khâu vá vết thương của người mẹ. Tôi hỏi :
- Vì sao chị bị thương vậy ?
Người đàn bà đáp :
- Bị máy bay bắn lầm trong khi cả nhà tôi đang ăn cơm. Hiện giờ chồng tôi và đứa con út bị chết vẫn còn để nằm ở nhà.
Điều làm tôi kinh ngạc nhất là giọng nói thản nhiên, gần như vô cảm giác, không một chút xúc động, không một giọt nước mắt, dường như bà ta đang nói về cái chết của người chồng, người con nào đó không phải của bà ta. Tôi cứ tưởng bà ta phải gào thét lên, khóc nức nở hay tỏ ra đau đớn lắm khi nhắc tới cái chết của chồng con. Nhưng thực sự đã trái lại, và điều này làm tôi chợt hiểu là chiến tranh đã làm chai đá lòng người.
Tuy nhiên cũng còn may, chiến tranh chưa hủy diệt hết tất cả tình cảm của con người vì sau này, trong những lần hành quân đụng địch, tôi đã bắt gặp được những tiếng khóc thổn thức, những tiếng kêu thảng thốt của những binh sĩ khi nghe tin một người bạn đã gục ở tuyến đầu. Thành ra về một phương diện nào đó, đau khổ quá mức làm cho tê dại đi cũng là một phản ứng tốt để người ta có thể sống còn được.
Tôi tiến dần ra phía ngoài cửa. Nơi đây quả là một địa ngục trần gian. Người sống người chết nằm lẫn lộn với nhau. Một người lính nằm dựa vào chân cột hành lang mắt nhắm nghiền. Một bên má có một vết thương còn rỉ máu. Cánh tay trái băng kín treo trước ngực. Khắp người anh chỗ nào cũng đầy những vết thương nhỏ. Anh nằm gác chân lên cái xác mà anh tưởng là một người bạn, thỉnh thoảng anh đập chân thì thào :
- Lấy tao hớp nước mày.
Có lẽ anh ta đã mê loạn rồi chăng? Gần đấy một người bị thương ở cẳng chân, nằm gối đầu lên đùi một người bị thương ở đầu dường như đang ngủ mê mệt. Tôi tới gần xem, người bị thương ở đầu đã chết từ bao giờ. Tôi bỗng nghe một tiếng gọi yếu ớt
- Bác sĩ !
Tôi quay đầu lại, đưa mắt tìm kiếm xem tiếng nói từ đâu. Một cánh tay gầy khô như khúc xương mệt mỏi vẫy tôi. Tôi nhận ngay ra Điểu Thoul, một lính Địa Phương Quân người Thượng đang nằm sát chân tường gần cửa phòng bác sĩ Chí. Tôi tới gần cúi nhìn vào hố mắt sâu hoắm của anh ta. Điểu Thoul giờ chỉ còn là bộ xương. Hắn quá yếu đuối không còn nhúc nhích gì được. Điểu Thoul bị thương ở bụng thủng ruột già. Tôi đã mổ làm hậu môn nhân tạo cho anh ta. Mấy ngày trước tôi đã cho tản thương, khênh ra khênh vào mấy lượt nhưng rốt cuộc không đi được, rồi chắc bị bỏ nằm ở đó.
Tôi ngồi xuống bên anh ta, một mùi hôi thối xông lên. Chung quanh chỗ nằm chảy đầy be bét toàn là phân. Cái túi nylon đựng phân buộc ở hậu môn nhân tạo mấy ngày nay không được thay, phân đầy tràn ra ngoài, những con bọ nhỏ bò lổn ngổn trông thấy mà nổi gai ốc. Tôi nói :
- Để tôi gọi người thay túi nylon cho anh chịu không ?
Điểu Thoul không nói gì, hai giọt nước mắt chảy dài trên đôi má hóp. Thường ngày cũng vậy, Điểu Thoul ít khi nói lắm. Bị đau nhức hay khó chịu trong mình chỉ biết ứa nước mắt khóc mà thôi. Tôi hỏi :
- Đói không, tôi cho người chuyển xuống trại nhé ?
Điểu Thoul gật nhẹ đầu. Sau đó tôi nhờ anh Xòm, thượng sĩ Lỹ làm sạch vết thương rồi khênh hắn xuống trại hậu giải phẫu.
Trước cửa sổ phòng bác sĩ Chí, ba xác nằm bình thản ngay lối đi. Xa hơn nữa, trước cửa phòng nha khoa hai xác nằm sóng đôi được đậy bằng một tấm tôn cong queo thủng lỗ chỗ vì bị mảnh đạn chừa ra hai cặp chân tím ngắt sưng mọng nước. Những thây đó đã bắt đầu hôi, mùi tử khí làm cho mọi người ngột ngạt khó thở.
Tôi thấy cô Bông, điểu dưỡng trưởng của bệnh viện, đang loay hoay băng bó một cách khó khăn cho một người lính bị thương ở đùi. Cẳng chân bị ngắn lại bị vẹo về một bên. Tôi hấp tấp bước lại :
- Khoan hãy băng, người này bị gãy xương đùi, làm bậy bạ bị kích xúc dễ chết lắm. Cô chờ tôi một chút, tôi đi lấy nẹp Thomas, trong khi chờ đợi cô cho truyền một chai Ringer và chích một syrette Morphin cho bớt đau.
Nói xong tôi rảo bước về phòng mổ, ào vô kho lục được một chiếc nẹp mang ra. Tôi hỏi người lính :
- Anh thấy đã bớt đau chưa ?
Anh ta gật đầu nhè nhẹ. Tôi vẫy trung sĩ Trọng :
- Lại đây giúp tôi một tay. Anh bợ nhẹ chân này lên để cô Bông đặt nẹp vào.
Tôi nắm lấy cổ chân người lính, hơi kéo nhẹ nhàng vừa nâng lên cao. Người lính nhăn mặt kêu đau. Tôi vừa giữ chân vừa vỗ về anh.
- Chịu khó một chút sắp xong rồi.
Năm phút sau, chúng tôi băng bó và giữ im xong. Trên trán người lính còn lấm tấm mấy giọt mồ hôi. Anh đã can đảm cắn răng chịu đau khiến chúng tôi làm việc được mau chóng dể dàng. Tôi thấy cô Bông có vẻ mệt. Bây giờ là 8 giờ tối. Tôi biết cô và Trọng đã làm việc không ngừng từ suốt sáng tới giờ. Đầu tóc cô bơ phờ. Chiếc áo bà ba bằng lụa xanh màu lá chuối non và chiếc quần đen đều vấy máu.
Chúng tôi làm việc dưới ánh sáng bập bùng của ngọn đèn biến chế làm bằng một chai thủy tinh đựng dầu lửa, nút chai được đục thủng một lỗ để bấc đèn chui qua. Ngọn lửa có nhiều khói khét lẹt. Tôi nói với hai người :
- Chắc hết bệnh rồi. Mình có thể đi nghỉ được.
Cô Bông đưa tay quẹt mấy giọt mồ hôi trên trán nói :
- Bác sĩ đi nghỉ trước đi. Tôi đi kiếm chút nước cho thằng bé nằm kia uống.
Tôi vội dặn cô :
- Coi chừng đấy, mấy người khác thấy được, họ nhao nhao lên đòi, cô không có nước đâu mà cho.
Cô Bông mỉm cười hiểu ý nói :
- Tôi biết mà, bác sĩ yên trí đi nghỉ đi...
Trích từ [Trận An-Lộc 93 ngày đêm tử chiến]
Nguồn TVTC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 30/Apr/2016 lúc 8:37pm
ĐỜI LÍNH
Lời tác giả: Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.
Anh ạ! Tháng Tư mềm nắng lụa,
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn,
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi,
Em mở lòng xem lại vết thương,
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm,
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê,
Hay sương thành lệ tra vào mắt,
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.
Sau khi đọc bài thơ này của nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng thảng thốt. Đã 37 tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt. Bốn mươi mốt năm về trước, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã lớm chớm bạc, “cùng một lứa bên trời lận đận”, sau cơn Đại Hồng Thủy tháng tư năm 75, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: “Thằng thì đang còng lưng trong các Shop may tại Santa Ana Cali, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở Tân Tây Lan, thằng thì đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài gòn”(trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình, chúng tôi đã làm gì cho Tổ Quốc?
Trước năm 75, tôi là người lính trong hàng ngũ Quân Đội Miền Nam, với cấp bậc thấp nhất là thiếu úy, với chức vụ nhỏ nhất là trung đội trưởng, ngoài số lương đủ sống mà tôi lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía “triều đình”. Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên, tôi không hề có một mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ, và tôi cũng không muốn tiếp tục một hành trình “Việt Nam Cộng Hòa kéo dài”. Tôi viết như để thắp hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay tại hải ngoại này.
Mùa Hè năm 1972, người miền Nam thời ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam. Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 là năm quân đội của hai miền Nam-Bắc dốc sức đánh một trận chiến sinh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong. Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Ban Sử Địa thuộc Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành, tin tức chiến sự từ các mặt trận gởi về dồn dập, lúc đó bạn bè tôi lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được hỗ trợ bằng tiếng hát ma quái Khánh Ly đã làm băng hoại chán chường cả một thế hệ thanh niên thời đó. Ngoài ra, còn khá nhiều những bài ca những tiếng hát đã đâm thấu lòng người “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, anh trở về hòm gỗ cài hoa, trên trực thăng sơn màu tang trắng…”. Tại sao trong một đất nước đang có chiến tranh mà có những điều kỳ lạ này xuất hiện. Điềm Trời báo trước chăng?.
Chính quyền miền Nam sau đó ra lịnh tổng động viên, tất cả các nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ những người xuất sắc. Lúc đó những gia đình có tiền của, họ chạy đôn chạy đáo lo cho con cái của họ chui vào chỗ này chui vào chỗ nọ, miễn sao khỏi ra mặt trận. Đối với họ, chuyện ngoài mặt trận là chuyện của ai khác, không liên quan gì đến gia đình họ. Hằng ngày họ xem TV thấy cảnh khói lửa ngập trời, người chết hàng hàng lớp lớp, họ coi đó là chuyện ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới họ. Còn tôi thì ngược lại, tôi muốn ra mặt trận càng sớm càng tốt, hình như định mạng đã an bài cho tôi. Trong bài “Đại Bác Ru Đêm” của Trinh Công Sơn có một câu rất “độc”, “đại bác đêm đêm dội về Thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”, tôi chính là người phu quét đường đó. Tiếng đại bác đã làm lòng dạ tôi nôn nao, tôi muốn ra mặt trận để chia lửa với những người bạn cùng thời với tôi, để chịu chung khổ nạn với đồng bào tôi, trong những ngày tháng điêu linh nhất của đất nước. Tiếng đại bác đã ầm ĩ trong lòng tôi, kéo dài mãi từ ngày đó cho tới tận bây giờ.
Thế rồi cũng đến phiên tôi nhập ngũ, giã từ Trường Văn Khoa với Đại Giảng Đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, thôi nhé giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn. Tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ nên đã đưa một số ra thụ huấn ngoài Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của miền Nam được tập trung vào hai quân trường này, miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, Khóa 4/72 toàn là các sinh viên các trường đại học tụ họp về đây, chúng tôi làng xoàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết, tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có Trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì sự huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự thành một người lính thực thụ là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng một cơ thể gang thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp. Trong 5 tuần lễ đầu tiên vào trường, gọi là giai đoạn “huấn nhục”, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi tuân phục sự chỉ huy điều động của các huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ mọi hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy không được đi… các huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm tới chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần lễ huấn nhục, ai vượt qua được, sẽ tham dự lễ gắn Alpha, để chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan. Ngày quỳ xuống Vũ Đình Trường để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào vì đã lập một kỳ công là tự chiến thắng chính mình để trở thành một người lính, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa.
Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà Xập, cầu Bến Nọc… cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài đại đội vượt sông, đại đội di hành dã trại… Cuối cùng điều mà chúng tôi mong đợi từ lâu, đó là ngày làm lễ ra trường, tất cả chúng tôi trong quân phục Đại Lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường, rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh Viên Sĩ Quan chỉ huy buổi Lễ: “Quỳ xuống các Sinh Viên Sĩ Quan”, sau khi đọc các lời tuyên thệ và được gắn lon chuẩn úy, tiếng thét chỉ huy lại cất lên một lần nũa: “Đứng lên các Tân Sĩ Quan”. Trong số chúng tôi có người muốn ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã đánh đổi bằng biết bao mồ hôi gian khổ sao kể xiết.
Ngày hôm sau chúng tôi tụ họp lên hội trường để chọn đơn vị, tới phiên tôi lên chọn có một điều làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư Đoàn 7 cho gần Sài Gòn, bỗng cái ông thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng bèn đưa ra lời bàn: “Chuẩn úy nên chọn về Sư Đoàn 9 vì vùng trách nhiệm nhẹ hơn, Sư Đoàn 7 trách nhiệm vùng Cái Bè Cai Lậy rất nặng nề”. Oái oăm thay ngày hành quân đầu tiên của tôi là vùng Cái Bè, bởi lẽ đơn vị tôi tăng cường cho Sư Đoàn 7.
Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn 9 tại Vĩnh Long. Sư đoàn này có 3 trung đoàn: 14,15 và 16. Tôi được đưa về Trung Đoàn 14. Tôi lại mang vác ba lô về Trung Đoàn 14 đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài Gòn qua Ngã Ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt, chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, ngay tại đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe cái tên Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao, ở giữa đồng tháp mười lại có một nơi dân cư sinh sống bằng nghề nông rất trù phú. Đám tân sĩ quan chúng tôi sau khi trình diện trung đoàn trưởng thì được giữ lại Bộ Chỉ Huy vài hôm để tập làm quen với cách làm việc của nơi này. Sau đó Ban Quân Số phân chia về các nơi. Vị sĩ quan Quân Số hỏi có chuẩn úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận. Nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này trong lòng không có một chút oán thù nào về phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một trung đoàn Bộ Binh có 3 tiểu đoàn và 1 Đại Đội Trinh Sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các tiểu đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh Sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn gặp nhau nữa. Đại Đội TrinhSát cho người lên dẫn tôi về trình diện đại đội trưởng, lúc đó đơn vị đóng ở ngoài căn cứ của trung đoàn. Trung úy đại đội trưởng có biệt danh là Đại Bàng, dáng người cao to trông rất dữ dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giong nói gầm gừ trong họng, tất cả đều toát ra một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện (trong đó có tôi). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân phong quân kỷ: “Chuẩn Úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Đại Bàng”. Ông ta nhướng mắt nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng (mãi về sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi ông ta phán cho tôi một câu nhớ đời: “Anh về làm trung đội phó Viễn Thám”. Trời đất, tôi nghĩ thầm, cái bằng tốt nghiệp của tôi là trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm trung đội phó là sao nhĩ? Lúc đó tôi không biết rằng làm trung đội phó là còn may, các sĩ quan về sau nữa có khi còn làm trưởng toán Viễn Thám, thiệt là chết dở.
Đai đội lúc đó có khoảng trên trăm người, được chia làm 2 Trung Đội Trinh Sát và 1 Trung Đội Viễn Thám. Các sĩ quan trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất ngầu, uống rượu như điên đồng thời nói năng rất bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn, phần lớn họ là gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều là tất cả những người lính này đều đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật quân đội chăng? Sau một thời gian sống gần gũi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phác, rất tôn trọng nghĩa tình, một khi họ quý trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, họ hoàn toàn không dễ sợ như tôi nghĩ lúc đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa đại đội tề tựu đông đủ, Đại Bàng đưa tôi ra giới thiệu trước đại đội, rồi bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! Tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp hồn như thế này bao giờ đâu, cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng, bây giờ nghĩ lại tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắc lưỡi bực mình của Đại Bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại Bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:
– Chuẩn úy tốt nghiệp trường sĩ quan nào vậy?
Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, bởi vì khi ông xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đáp:
– Tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Ông ta bèn xáng cho tôi một câu nhớ đời:
– Vậy mà tôi tưởng chuẩn úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân chứ!
Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông ta đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là Sinh Viên Sĩ Quan trong Thủ Đức, chúng tôi coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên mắng là Nữ Quân Nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi buồn lắm, hình như tôi bị quăng vào môi trường sống không phù hợp với mình, một nơi chốn mà tôi chưa từng biết bao giờ, bởi lẽ trước nay tôi chỉ là anh học trò, bấy lâu chỉ làm bạn với sách vở, với bạn bè với trường lớp. Bây giờ giữa chốn ba quân này, tôi bỗng nổi bật lên như cái gì đó không giống ai. Lúc đó, tôi nhớ Ba mẹ tôi ở nhà, và tôi nghiệm ra một điều rằng, ăn chén cơm của Ba Mẹ tôi sao mà sung sướng quá, bởi lẽ Ba Mẹ chớ hề sỉ nhục tôi, còn khi ra đời, ăn chén cơm của người đời sao đầy cay đắng, tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72. Anh ta là người trí thức có bằng cử nhân Chính Trị Dinh Doanh, thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh ta thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài dở khóc dở cười, không sao quên được. Chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ, thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, nhưng tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông mà xối lên người. Tắm một hồi, tôi cảm giác có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, và xầm xì bàn tán chuyện gì đó, rồi bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có tên lính lên tiếng: “Sao chuẩn úy không xuống tắm như tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! Sao da của chuẩn úy trắng nõn như da con gái vậy?”. Tôi ngượng điếng người, máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, có cái ông thượng sĩ già đứng gần, còn đớp cho tôi thêm một nhát: “Ý cha! cái bàn chân chuẩn úy sao mà đẹp quá, bàn chân này có số sung sướng lắm đây!!!”. Thiệt là khổ cho cái thân học trò của tôi, hết làm Nữ Quân Nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt là chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy. Hậu Mỹ là nơi đã tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng Đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa sạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi là bắt đầu nai nịt lên đường, súng đạn ba lô trên vai để tham dự cuộc hành quân thường ngày, bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đấu gối, rồi khi qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế quần áo ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo tụi tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông rất kỳ quái.
Khi ở quân trường tôi tưởng nỗi gian khổ của người lính là cao nhất, sau khi ra đơn vị tôi mới thấy được rằng, nỗi khổ quân trường chỉ là khúc dạo đầu, không thấm thía gì so với ngoài thực tế. Vùng Hậu Mỹ là vùng lúa sạ nên rất ít bờ ruộng, khi đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất ruộng người dân họ cày xới lên từng tảng to nhỏ như trái dừa, ngổn ngang lỗ chỗ, và nước lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế để đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên rút bàn chân lên thật khó nhọc, mặt trời rọi ánh nắng gay gắt, mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có đệ tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, họ phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối… Người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không hề nghe một lời than van nào hết, họ cắn răng lại mà cam chịu, có than van cũng không ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo ra vắt, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật xuống đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết, lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn, đời lính sao mà khổ quá!
Theo Đặc San Cư An Tư Nguy (câu này là châm ngôn của Trường Bô Binh Thủ Đức) phát hành tại San Diego, thì quân trường này đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn sĩ quan đã tử trận và không dưới 10 ngàn người đã trở thành phế binh thương tật. Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của sĩ quan mới ra trường, và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính, khi đóng quân phòng thủ đêm, trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt trung đội trưởng không có bạn nữa mà chỉ có phía bên kia. Cho nên lính dễ chết thì trung đội trưởng cũng dễ chết y như vậy, súng đạn vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế. Vậy mà tôi còn làm Trung đội phó, không biết nói sao nữa.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn Úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh một hồi rồi bỗng thấy làm lạ sao thấy Chuẩn Úy Thắng im lìm không có lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính Truyền tin nói với Chuẩn Úy Thắng: “Đại Bàng kêu chuẩn úy lên trình diện gấp.” Chuẩn Úy Thắng bỏ đi một đoạn, thì lính Truyền Tin lại bảo tôi: “Đại Bàng muốn gặp Chuẩn Úy Châu”. Tôi cầm ống nghe áp vào tai, thì nghe Đại Bàng chửi xối xả, giọng Ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do Chuẩn Úy Thắng quá sợ nên không dám tấn công, ông hét lên bảo tôi: ” Nè! Chuẩn Úy Châu, tôi giao trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không?”. Tôi nghe mà sợ muốn “té đái”, run lập cà lập cập, rồi trả lời ông xin tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi vói tay lấy khẩu súng trường của người lính bên cạnh, miệng chỉ kịp kêu lớn: “Tất cả theo tôi”. Lúc đó tôi “quíu” quá, nên không nhớ bài bản chiến thuật nào mà tôi từng học ở quân trường, tôi xông lên vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa). Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo tôi. Phía người anh em bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, tưởng tôi bị điên, bèn lập tức tháo lui, trong lúc vội vã họ còn quăng lại tặng tôi mấy cây súng nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút, ai cũng tưởng tôi gan dạ, chứ đâu biết rằng tôi làm thế vì quá sợ ông xếp của mình. Thiệt là khôi hài. Đại Bàng kéo quân lên ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một sĩ quan nào lập chiến công “khùng điên ba trợn” như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy lại cho Chuẩn Úy Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau đó tôi được điều qua các trung đội khác, phụ trách công việc tạm thời cho các trung đội trưởng đi phép hay bị thương… Một điều may mắn cho tôi, (hay Trời đãi kẻ khù khờ), khi tôi nắm quyền tạm thời đó, những trận đánh mà tôi tham dự tôi đều hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp. Đại Bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ ái ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi. Đại Bàng sau đó được thuyên chuyển qua một đơn vị khác và một Đại Bàng mới đến thay thế. Ông trung úy mới đến này có dáng dấp thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, khiến tôi rất có cảm tình. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, Đại Bàng cũ giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho Đại Bàng mới được biết. Sau khi điểm mặt 3 trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một trung đội phó, rồi đưa ra một nhận xét làm sửng sốt mọi người: ”Đây là một tay sĩ quan xuất sắc, một tay chơi tới bến… “. Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại Bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình và cũng không hề muốn bươn chải về phía trước. Đối với Đại Bàng mới, ông ta lấy làm lạ là phải, bởi vì ông cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải là mấy ông trung đội trưởng, sao lại là cái ông trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Tôi cũng không ngờ, cái lời nhận xét đó đã đẩy tôi vào một khúc ngoặt khác, đầy hung hiểm chết người.
Một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại Bàng mới cất nhắc lên làm trung đội trưởng thực thụ. Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải “động não” đến cao độ cho công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp chỉ huy, chính điều đó đã đẩy trung đội tôi vào nơi tử địa. Khi đại đội tiến quân vào nơi nguy hiểm, trung đội tôi được lịnh đi đầu, và khi rút quân từ nơi đó, trung đội tôi được lịnh bao chót. Khi tấn công tôi được giao chỗ khó gặm nhất, và khi phòng thủ trung đội tôi được nằm ở vị trí nặng nề nhất. Người ta thường nói: “Nhất Tướng công thành vạn cốt khô”, tôi không phải là Tướng, chỉ là một sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều đến nỗi, tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại Bàng dành cho tôi, mà trung đội tôi phải gánh chịu những tai ương này. Ông ta rất quý mến tôi, ông chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời, có món nào ngon ông sai đệ tử đi mời tôi đến cùng ăn với ông, có huy chương nào quý giá, ông cũng ưu tiên dành cho tôi. Ông quý tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu ông cứ sử dụng tôi như vậy, trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống nổi, khi xua quân đi hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà toàn là những nơi đầu sóng ngọn gió. Vậy mà tôi sống, mới kỳ.
Khi về đơn vị này, tôi có được một sự may mắn là đơn vị lưu động khắp các tỉnh Miền Tây. Khởi đầu của tôi tại Cái Bè-Cai lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển… Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, từ Tuyên Nhơn kéo qua Tuyên Bình, có một chỗ tận cùng tên Bình Thạnh Thôn, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của đồng bằng Sông Cửu Long. Từ nơi này chúng tôi ngồi thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng Ngự, và chính cái lúc băng ngang này, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh sợ nhất, đi suốt 1 ngày với xe thiết giáp, tôi không thấy một cây cỏ nào mọc nổi ngoại trừ loại cây bàng (một loại cây họ cỏ dùng dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng chạch, tóm lại không có 1 sinh vật nào sống nổi trong vùng này, đừng nói chi đến con người. Vùng đầm lầy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm đến ghê rợn. Rời Mỹ Tho, chúng tôi băng ngang Sông Tiền bởi phà Mỹ Thuận, rồi băng ngang Sông Hậu với phà Cần Thơ, xuôi theo lộ tới Cái Răng–Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền – Cầu Nhím, tôi ngạc nhiên trước một vùng đất giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lềnh trên mặt sông để đến điểm tập trung giao hàng đi các nơi, nhà cửa ở miệt vườn mà trông rất bề thế. Rồi chúng tôi đến Phong Phú-Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai – Cờ Đỏ, sự trù phú không sao kể xiết, có khi chúng tôi ngồi Tắc-ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, 2 bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ, không hề có nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng có xe máy cày đậu trước sân. Tuy nhiên vào sâu hơn nữa, chúng tôi cũng gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm -Thát Lát, dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa hoang phế, trông rất âm u rợn người.
Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm, vừa thích thú vừa buồn rầu. Mỗi khi hồi tưởng về một thời chiến trận, tôi đều nhớ về nơi ấy. Cuộc chiến đã ngừng 37 năm qua, vậy mà tôi chưa hề một lần nào trở về lại nơi chiến trường xưa, để thắp một nén hương tưởng mộ những đồng đội của tôi đã nằm xuống nơi này.
Mùa Khô năm 74, đại đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu. Khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất nơi đây. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả (sau này tôi được biết đây là vùng nước nổi, khi nước từ Biển Hồ tràn về, thì không có bờ ruộng nào chịu đựng nổi, nên người ta cứ để trống trơn như vậy, ruộng của ai người đó biết). Trên cánh đồng lại có rất nhiều gò nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi Trung đội tôi rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm 1 gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho tất cả dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ, rồi tôi phóng 3 khinh binh vào lục soát, sau một hồi thấy không có gì, họ khoát tay cho cả Trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi, sau khi bố trí xong, tôi thấy trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát, và có vài đìa cá, lính tráng lội ùa xuống xúm lại tát đìa, khi đìa cạn, cá lộ ra lội đặc lềnh như bánh canh. Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng kéo tới kéo vào gò trú ẩn cũng vừa đủ.
Đêm tới, chờ trời tối hẳn, Đại Bàng ra lịnh kéo cả đơn vị ra đồng trống để đóng quân đêm, vì vị trí ban ngày đã bị lộ. Đêm đó chúng tôi không ngủ được gì cả, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc, lùng sục chỗ đóng quân của chúng tôi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có 1 đoàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân. Lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói họ kéo nhau đi tát đìa, trời đất, tát đìa mà kéo một đoàn xe bò như thế này ư! Chiều đến, không biết họ đi đến đâu, mà khi kéo xe về, xe nào cũng đầy ắp cá, họ chứa lủ khủ trong thùng trong chậu lớn, sau đó họ kéo ra bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng Ngự
Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo bờ rạch, có tên là Rạch Cái Cái. Khi vào đến nơi tôi lại đứng trố mắt ra nhìn, nhà gì mà kỳ dị như thế này. Người dân họ cất nhà cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn, tôi biết ngay là họ phải cất nhà như thế để sống cùng với lũ. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất, tiếng bình dân gọi là hóc-bà-tó. Đây cũng là vùng đất tranh chấp giữa hai bên, chiến trận nổ ra liên miên, nên người dân họ sống rất là tạm bợ. Cả xã có vài ngàn người mà chỉ có vài người biết đọc biết viết. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa, hay ghe hàng bông (rau quả), được chở tới từ Hồng Ngự. Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào nhà chơi, chủ nhà rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượi đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn giấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi ăn với khoai lang hay bắp luộc.
Lúc đầu tôi thấy sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã hãi nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình mệt nghỉ, được đưa về một nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là đã đời, chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong tôi linh cảm điều gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào những nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.
Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường 1 chi đoàn thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hằng ngày, chúng tôi ngồi trên xe thiết giáp hành quân lục soát nơi này nơi nọ, vẫn yên bình, không hề có tiếng súng. Rồi cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó, bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân. Đi đến các điểm đã được chỉ định sẵn trên bản đồ, đi đến chỗ này lục soát, không có gì lại đi đến chỗ khác. Cuối cùng đoàn xe đến 1 điểm, bất chợt đoàn xe dàn hàng ngang ngoài ruộng, hướng về mục tiêu là một bờ vườn rậm rạp. Lính Trinh Sát tụi tôi được lịnh xuống xe, tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi tiến về phía bên trái của đội hình đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng: ”Tất cả tản ra mau, đi túm tụm như vầy dễ ăn đạn lắm!”. Không ngờ lời nói của tôi “linh như miễu”. Đạn phát nổ vang trời dậy đất, tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu ở đâu chảy xuống mặt tôi thành dòng, tôi ra lịnh bắn trả xối xả, nếu không phía bên kia họ thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im lặng, lúc đó tôi mới rảnh rờ rẩm khắp người xem mình bị thương nơi đâu. Tôi giật mình kinh ngạc và cảm thấy hết sức lạ lùng, bởi vì tôi bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn súng tiểu liên AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng ngắn tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng tứ tán lên mặt lên cánh tay, nên máu tuôn ra thành dòng là vì thế, song phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi, máu tuôn ra khá nhiều nhưng không nguy hiểm. Viên đạn thứ 2, mới thật là ghê rợn, viên đạn bắn trúng vào cái bóp tôi để trên túi áo trái, ở phía trước trái tim, viên đạn quậy nát cái bóp, tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn lại, nằm yên trong đó, có lẽ viên đạn được bắn ra trong khoảng cách quá gần, làm viên đạn không đủ sức xuyên phá. Lúc đó tôi sợ lắm, bởi vì tôi nghĩ phải có một phép lạ thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi, chứ trên đời này hiếm có ai bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn mà còn sống như tôi vậy
Cũng ngay lúc ấy, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: ”Thiếu úy ơi! cứu em! “ Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước mặt, cách tôi chừng dăm ba thước. Thông thường các sĩ quan trung đội trưởng có 2 người lính đệ tử, 2 người này có nhiệm vụ lo chỗ ăn chỗ ngủ và lo mang vác đồ đạc cho ông Thầy. Những người lính đệ tử của tôi thường đối với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết vì tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn Trung đội xung trận, 2 người lính này theo sát để bảo vệ cho tôi. Hôm nay, một trong hai người đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó từ ngày ấy cho đến bây giờ. Vậy mà 37 năm đã trôi qua, tôi chưa có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhang nói lời cảm tạ. Anh ta là Hạ Sĩ Nguyễn Văn Đồng, một cái tên vừa bình thường vừa vô danh, nằm lẫn khuất đâu đó trong một triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh tức tưởi này.
Sau khi tôi bị thương, tôi giao Trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn Úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài, leo lên xe thiết giáp ngồi nghĩ và ngó vào trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn Úy Tường dàn đội hình hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: ”Đừng làm thế, Tường ơi!“. Sau đó, trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn Úy Tường bị trúng đạn chết tại mặt trận, mắt vẫn mở thao láo, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. “Tường ơi! Vĩnh Biệt!”
Không biết sao đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái rất lâu. Rồi tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không có cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước mỗi ngày dâng cao cả gang tay, đến lúc này đây mới thấy lúa sạ là một loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì cây lúa cũng dài nhằng ra 5-6 mét, tôi chưa nơi nào cây lúa lại kỳ dị như vậy. Rồi đến lượt cá Linh tràn về, cá nhiều đến nỗi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lềnh lên cả một khúc sông, và kỳ lạ một điều nữa là người dân ở đây thà ăn mắm ăn muối chớ họ không ăn cá linh, họ nói họ thấy cá Linh cả đời nên tự nhiên họ đâm ngán tới cổ. Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chổ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng chúng tôi trông thật ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Vào hôm đó toán của thầy trò chúng tôi đi tới một cái gò còn khô ráo.
Đêm đó như thường lệ tôi ngủ dưới một mái lều, tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình. Ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức, tôi cũng vậy, tôi tưởng lính gác báo động nên vội ngồi dậy ngay. Tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vắng vặc một em bé gái khoảng 13-14 tuổi đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội vàng nằm xuống kéo mền trùm kín đầu. Sáng hôm sau, tôi thấy chỗ tôi ngủ nằm kề bên 1 cái bàn thờ bằng gỗ xiêu vẹo mục nát. Tôi bèn rảo bước vào xóm để hỏi thăm về cái gò này, được người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng, đem vô xóm bán dạo. Một hôm em cũng chèo ghe ra đồng như hàng ngày, sau đó súng đạn nổ ran, em bị đạn lạc chết trên gò, em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm hiện về khóc lóc thảm thiết, dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái bàn thờ gỗ để nhang khói cho em. Câu chuyện thật tội nghiệp. Ở nơi chốn tên bay đạn lạc này,đời sống người dân khốn khổ không sao kể xiết,nếu họ muốn đi đến một nơi chốn an lành khác, họ cũng không biết đi đâu, mà nếu có đi cũng không biết lấy gì mà sống.
Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận, vậy mà có một lần tôi đã phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ. Chuẩn Úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi khoảng một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Tôi nhớ hồi tôi mới ra trường trông đã rất chán, anh chàng này trông còn chán hơn tôi nữa. Mặt của Hà còn đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ngậm kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống, vừa uống vừa chắc lưỡi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe súng nổ anh ta nhắm chặt mắt, bịt kín lỗ tai, và mặt mày thì tái mét. Anh ta về làm phó cho tôi, làm giọng “chảnh”, tôi hỏi anh ta một cách xách mé: “Sao ông nhát như vậy mà xin về Trinh Sát”. Anh ta bèn phân trần, anh ta đâu có xin xỏ gì đâu. Ban Quân Số thấy không có ai tình nguyện nên chỉ định bừa, dè đâu trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, còn phải để ý đến anh ta nữa chứ, anh ta có biết gì đâu, thiệt khổ. Càng về sau các sĩ quan rơi rụng dần dần, Chuẩn Úy Hà cũng được đưa lên làm trung đội trưởng. Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Cả đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một trung đội nữa vỗ vào mặt chính diện, trung đội tôi thọc vào bên cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra 1 trái hỏa tiển B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng ngay vào người Hà. Tội nghiệp Hà chết không toàn thây. Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà Hà ở Sài Gòn để mang dùm quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình của anh ta. Hà mất được chừng một tháng, thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi bèn ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đính anh ta. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi, rồi hỏi dồn dập:
– Sao cái hôm em Hà nó chết, mà cháu lại không về đưa đám tang em?
Tôi lúng túng trả lời:
– Thưa, lúc đó chúng cháu đánh nhau tưng bừng, làm sao cháu bỏ đơn vị mà về cho được.
Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngất ngất, lúc đầu ông bà còn lấy tay lau nước mắt, lúc sau thì để mặc, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Tôi kinh hoàng ngồi chết điếng, tôi chưa bao giờ gặp phải một trường hợp bi thương tột độ đến như vậy. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Cha mẹ nào có con ra mặt trận, coi như đã chết nửa linh hồn, đêm ngày sống trong hốt hoảng lo âu, mong ngóng con mình, mãi về sau tôi mới nghiệm ra được điều này. Nghe ông bà than khóc một hồi, tôi không chịu đựng nổi nữa và tôi cũng không nói một lời phân ưu gì nữa hết, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này. Rồi tôi nghĩ đến tôi, đến Ba Mẹ tôi, trong lòng tôi bỗng xộc lên một nỗi buồn khủng khiếp. Tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình, tôi buồn lắm. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi quá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này đây. Tôi chợt nhớ đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cha mẹ Hà, lúc đó bỗng nhiên tôi thương Ba Mẹ tôi vô cùng. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.
Cuối cùng vào tháng 2 năm 75, tôi bị thương một lần nữa tại mặt trận Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh Xá Tiểu Đoàn 9 Quân Y tại Vĩnh Long. Tại bịnh xá, tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột, tôi linh cảm có điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-75, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy. Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng trên Quốc Lộ 4, tôi nhìn về hướng Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm khác, có tên gọi là “Mạt Lộ”.
Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.
NĐC
Nguồn: Thư Viện Toàn Cầu
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 20/May/2016 lúc 7:37pm
Năm Xưa Tháng Cũ Tôi… Đợi Chờ
– Diễm Xưa
Khi viết những dòng này lòng đắn đo, ái ngại vì phải dùng chữ “tôi” nhưng vì là chuyện thật của đời mình nên không còn cách nào khác phải dùng chữ tôi “đáng ghét” để kể lại những gì đã trải qua trong những năm xưa tháng cũ.
Ðời tôi cũng như những người con gái kháccắp sách đến trường trong khi chiến tranh bùng nổ khắp quê hương, cảnh đau thương tang tóc diễn ra hằng ngày. Cũng vì sống ở Sài Gòn – thành phố nhộn nhịp, bình an, không có vẻ chiến tranh – nên niềm ưu tư chính của tôi là họïc chứ không mấy quan tâm đến thời cuộc
Năm 1973, ba tôi làm việc tại hãng thầu rác căn cứ Long Bình mà chủ là một người thân trong dòng họ. Ba tôi vì là cháu ruột nên được tin cậy cho trông coi người làm. Vì đi về xa xôi nên quyết định mua một căn nhà ở Biên Hòa, ở gần Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III để đi làm gần hơn. Căn nhà ở ngay mặt đường Quốc Lộ 1 nên mở tiệm phở để mợ tôi có việc làm đỡ buồn. Mấy tháng sau, bán nhà ở Sài Gòn dọn về Biên Hòa ở. Vì mở tiệm muộn màng nên không được đắt khách như những tiệm phở chung quanh. Buổi sáng, đa số là sĩ quan và lính trong quân đoàn ra ăn phở, sinh hoạt cũng nhộn nhịp và dễ sống tuy không được vui như Sài Gòn.
Khi đông khách, hai chị em phụ thu tiền và bưng phở. Khách là lính cũng có lúc ngỗ nghịch trêu ghẹo nhưng không muốn quen với ai vì tôi nghĩ tất cả đã có vợ rồi, họ chọc ghẹo cho vui mà thôi. Cũng vì quán phở đó mà sau này tôi quen một người. Lần đầu tiên đến ăn phở với một người bạn vào buổi chiều tối. Hai người ngồi ăn khá lâu. Khi tính tiền nhìn anh tôi tưởng là thầy giáo hay công chức, khuôn mặt rất trẻ, ít nói và có vẻ sống về nội tâm. Ðặc biệt anh chẳng tỏ vẻ gì chúù ý đến tôi, anh móc túi lấy tiền trả, nhìn tôi rất lạnh lùng. Cũng vì lạnh lùng, chẳng nói một câu nên làm tôi chú ý. Thế rồi thỉnh thoảng anh lại ra ăn phở, chỉ buổi chiều, buổi sáng chẳng biết anh đi đâu.
Mấy tuần sau, vào lúc xế trưa, lúc quán đang vắng khách, chẳng có ai, chợt thấy một người bước vào, mợ tôi ra tiếp. Ở trong nhà nhìn ra thấy quen quen nhưng vì bận đồ lính nên chưa nhận ra là ai. Hôm đó lại ăn hai tô nhưng ăn không hết (sau này anh cho biết vì quán hơi ế nên ăn ủng hộ). Khi ra tính tiền mới biết là người tôi quen, tưởng là thầy giáo ai ngờ lại là phi công. Lòng tôi bỗng thấy dửng dưng và mất hẳn cảm tình với anh vì từ lâu, qua kinh nghiệm những người bạn gái cùng lứa, hay trước tôi mấy lớp đã từng là người tình và cũng là nạn nhân nhận xét: Mấy ông phi công hào hoa phong nhã nhưng lại rất “đểu“. Khi học ở trường Trần Hưng Ðạo, tôi thấy vừa tan trường, đã có mấy ông phi công chờ sẵn, đón đi chơi, ai nấy đều mơ ước được ngồi ôm eo mấy ông lính tàu bay ấy, nhưng rồi có mấy khi trọn vẹn, đa số bị dở dang, bị bỏ rơi phũ phàng. Bạn bè cho biết như thế nên tôi có ấn tượng xấu về những người phi công như anh.
Từ hôm ấy, không thấy anh ra ăn nữa, cũng không thấy ghé vào ban đêm như lúc trước. Tôi tưởng anh đọc được tâm tư và những suy nghĩ xấu về người phi công của tôi, anh tránh né, không thèm đến. Mãi sau này mới biết anh không còn ở Biên Hòa mà đã ra Ðà Nẵng, anh đi chẳng một lời giã từ. Hóa ra anh cũng chẳng để ý gì đến tôi.
Khoảng hơn tháng sau, anh ghé thăm vào buổi chiều, đi cùng với người bạn. Anh không bận đồ bay nên trông dễ thương hơn, tôi có cảm tình hơn. Anh ngồi nói chuyện rất bình thường, không có vẻ gì tán tỉnh hay khoe khoang. Hỏi ra mới biết anh đi phép về thăm gia đình. Thế rồi, mỗi tháng anh về phép một lần, lần nào anh cũng ghé thăm tôi, anh chẳng mua quà mà cũng chẳng tặng tôi gì hết, đi xa về mà chẳng biết điều, anh có vẻ còn xa cách lắm. Anh cũng chẳng mời tôi đi chơi, đi ăm tiệm hay đi xem phim lần nào. Tôi nghĩ ở ngoài Ðà Nẵng – nơi tôi đã từng sống khi còn ấu thơ – một thành phố lớn với nhiều cô gái đẹp đa tình, người phi công chiến đấu như anh chắc phải có ít nhất là vài cô bạn gái nên anh có vẻ nhạt nhẽo với tôi. Cũng vì vậy vừa ghét… vừa thương.
Từ đó, những ngày phép ngắn ngủi hàng tháng đưa tôi đến gần anh hơn, hình ảnh của anh đã lén chui vào con tim của tôi lúc nào không biết. Thật là “Ghét của nào, Trời trao của ấy“.
Khi Ðà Nẵng mất, chưa thấy anh về, tôi hơi lo, sợ anh bị kẹt lại. Nhưng phi đoàn anh đã về Biên Hòa rồi lại dời về Phi Trường Tân Sơn Nhất. Buổi trưa ngày 26 tháng 4 năm 1975, bất chợt anh về ghé thăm tôi. Anh chào ba mợ tôi rồi ra dấu theo anh ra phía sau nhà, anh cho biết anh sẽ phải đi qua Thái Lan vì phi trường đang nằm trong tầm pháo kích của Cộng Sản nên không hoạt động được. Qua bên đó, bay về ném bom yểm trợ. Ðể cho phi công an tâm chiến đấu nên cho gia đình đi trước. Gia đình anh không ai muốn đi, ba mẹ anh già rồi lại đông con nên không muốn đi đâu nữa, mấy đứa em còn nhỏ, đi chẳng ai lo. Anh đề nghị đưa tôi đi trước, anh sẽ bay qua vào giờ phút chót.
Lúc ấy, tôi linh cảm như sắp mất nhau vì nghĩ anh qua Thái Lan chắc gì anh sẽ về. Tôi xúc động bật khóc, lắc đầu nói: – Anh đi đi, em không đi đâu.
Anh có vẻ ngạc nhiên khi nghe tôi trả lời, hình như hiểu được sự lo lắng, e ngại của tôi nên anh nói: – Em đi trước, anh sẽ đi sau, cùng đi có vợ con của nhiều người trong phi đoàn…
Nhưng tôi vẫn lắc đầu vì… tôi không muốn mang tiếng đi theo trai, có gì thiên hạ chê bôi, xấu hổ. Tôi không chịu đi, định nói anh hỏi ý kiến ba mợ tôi xem như thế nào thì bà Hồng Hà, chủ hãng thầu chạy xe hơi đến, vào nhà thúc dục lên xe ngay về Sài Gòn, Việt Cộng đang pháo kích, Biên Hòa sẽ bị mất trong đêm nay. Tôi và gia đình vội vàng lên xe, bỏ anh ở lại đi sau.
Thế rồi vận nước đen tối ập đến, nước mất nhà tan, anh kẹt lại vì không vào được phi trường. Lòng tôi buồn bã vì nghĩ cộng sản sẽ giết anh chết trong những ngày sắp tới, tôi khóùc cho số phận của mình vì nếu anh đi hay kẹt lại, tôi đều mất anh. Lúc ấy tôi thấy thương anh thật nhiều vì anh sắp phải hứng chịu sự trả thù của Cộng Sản, anh như tử tội đang chờ ra pháp trường.
Nhưng rồi tôi cảm thấy an tâm vì những điều dự đoán đã không xảy ra. Tôi và gia đình trở về Biên Hòa, anh cũng thế.
Tháng 7 năm 1975, theo như thông báo của nhà cầm quyền, tôi tiễn anh đi “học tập“ hai tuần. Trên chiếc xe đạp cọc cạch, anh chở tôi đến nơi trình diện ở sân nhà Thờ Tân Mai. Ðến nơi thấy có đông người đang chờ đợi, vợ con ra tiễn đang nói chuyện. Tôi từ giã anh đi về lòng buồn bã nhưng tự an ủi, hai tuần cũng không bao lâu, rồi anh sẽ về. Buổi chiều anh lại đến nhà tôi, ai cũng ngạc nhiên hỏi: – Sao chưa đi?
Anh nói không có xe đón, ngồi chờ mãi đến 4 giờ chiều nên cho về, mai trình diện tiếp. Ngày hôm sau cũng thế, sáng tiễn anh đi, chiều anh lại về, kéo dài cả tuần. Sáng thứ Bảy, vẫn phải đi trình diện nhưng tôi hy vọng là sẽ không đi vì đó là ngày cuối tuần. Tôi dặn anh: – Nếu không có xe đón như mấy ngày trước, anh nhớ về sớm để tham dự lễ cưới chiều nay.
Tôi đinh ninh anh sẽ trở về và sẽ cùng tôi dự lễ cưới của cô em gái nhưng gần tối vẫn chưa thấy. Khi vào nhà thờ tham dự lễ cưới, đó ngày vui của gia đình, của em tôi, đáng lẽ có được niềm vui lớn nhưng tôi lại buồn vì anh đã ra đi.
Tôi vừa đi thăm anh về, lần đầu tiên sau 5 tháng chia xa. Anh gầy và xanh sao vì thiếu dinh dưỡng. Cộng Sản nhốt anh ở trại Phú lợi. Nhìn anh tôi thấy lòng quặn đau, nước mắt chảy dài trên đôi má, những tháng tù đày kham khổ làm anh thay đổi quá nhiều, đau đớn nhất là mang thân phận của người tù, đó là điều không bao giờ ngờ. Gia đình anh đã dọn về Lâm Ðồng, phá rừng làm rẫy để sinh sống, tôi hoàn toàn không biết tin tức và cũng không cách nào liên lạc. Anh còn một người chị nhưng sẽ bán nhà đi về Phương Lâm hay Ðịnh Quán. Như vậy gia đình anh kể như bó tay, không lo cho anh được. Anh như người mất hẳn gia đình, cô đơn chịu đựng những cay đắng, đen tối nhất của cuộc đời, do đó, vì thương anh, tôi đã đi thăm.
Hai tuần sau anh đi, tôi ngây thơ chờ anh về nhưng chẳng thấy, thời gian kéo dài, lúc ấy mới biết bị lừa. Thế rồi tin đồn học xong mười bài chính trị sẽ được về, chẳng biết từ đâu ra nhưng lại đem đến cho tôi và nhiều người có người thân đi cải tạo niềm hy vọng mới. Ba tháng trôi qua, niềm hy vọng tiêu tan khi nghe công bố chính sách 3 năm dành cho các người tập trung cải tạo.
Nhiều đêm thao thức suy nghĩ thấy mình thật dại, có cơ hội ra đi nhưng lại bỏ lỡ, để bây giờ anh phải đi tù và tôi cô đơn sống với gia đình. Cộng sản vào, lúc ấy mới nhìn thấy rõ tai họa, có người uất hận tự tử, nhiều người sống chết đi vượt biên, gia đình phân ly, có nhiều người đến bến bờ tự do hoặc chết tức tưởi dưới lòng biển cả hay bị bắt lại tống vào tù.
Có lúc tôi tự hỏi sao anh không rủ ai đi mà lại rủ tôi, điều đó chứng tỏ trong lúc nguy biến, anh vẫn nghĩ đến tôi, vẫn muốn tôi cùng anh thoát khỏi những tai họa của cuộc chiến. Bây giờ, tất cả đều đã lỡ, tôi và anh đành hứng chịu những khó khăn của cuộc sống do chính sách trả thù của cộng sản. Vì thương anh tôi quyết định sẽ lo cho anh và chờ đợi đến khi anh được về.
Như vậy, tôi tuy còn độc thân nhưng vô tình đã gia nhập vào tập thể những người vợ tù cải tạo . Những lần đi thăm nuôi, trong lúc chờ các anh ra, có nhiều bà hỏi tôi :– Cô đi thăm ai?
Tôi trả lời không ngại ngùng: – Ði thăm chồng.
Có người hỏi thăm: – Chị có mấy cháu rồi?
Tôi khựng lại không biết trả lời sao đành nói thật: – Dạ chưa có cháu nào.
Trong suốt ba năm, tôi không bỏ một lần thăm nuôi nào, hễ có thư về là tôi chuẩn bị đi, gần nhất là ở Phú Lợi, Bình Dương, khá xa là trại Hóc Môn, Thành Ông Năm, xa nhất là trại Kàtum, Tây Ninh. Bây giờ anh đang ở trại Suối Máu.
Khi đi, hoặc ba hay mợ tôi đi cùng. Tôi nghĩ anh bị bỏ đói trong tù, thiếu dinh dưỡng nên cố đi thăm để được nhìn thấy anh, mang cho anh ít quà và thức ăn, tôi muốn chứng tỏ dù anh ở trại nào, xa cách mấy, vì thương anh, tôi sẽ đến thăm, mang đến cho anh niềm vui và niềm tin là tôi vẫn chờ đợi anh.
Thời điểm đó, nhà cầm quyền chủ trương đưa dân đi vùng kinh tế mới, những ai không có việc làm nên tình nguyện đi trước. Ai cũng lo sợ vì đi là mất nhà, mất hộ khẩu, không về thành phố được nữa. Vì vậy ba tôi mới thành lập một tổ hợp may gia công, nhận quần áo của Công Ty May Mặc Ðồng Nai. Ai muốn vào tổ hợp phải bỏ tiền ra mua một cái máy may. Vì sợ đi vùng kinh tế mới nên nhiều người hưởng ứng. Ba tôi làm tổ trưởng, tôi làm thư ký. Nhờ vậy khỏi bị đi đâu mà còn kiếm tiền đủ chi tiêu trong tháng.
Phần tôi, khi lãnh lương, tôi dành một phần phụ với gia đình, số còn lại đi mua thức ăn, thuốc men để dành chờ đi thăm nuôi. Vì thiếu dinh dưỡng, lại phải làm việc nặng, nhất là trong rừng sâu, anh bị bệnh sốt rét và sạn thận. Có lẽ anh bị đã lâu nhưng anh dấu không cho tôi biết sợ tốn tiền mua thuốc nhưng vì nặng quá nên anh viết thư về nên tôi vội vàng kiếm mua thuốc gởi cho anh.
Tôi chờ đợi anh tưởng rằng chỉ là chuyện riêng tư không liên lụy đến ai, nhưng hàng xóm vẫn có người dèm pha, bàn lùi. Có người nói với ba mợ tôi :– Sao ông bà lại để con gái mình chờ đợi người không có tương lai? Không biết ngày về?
Có người lại nói: – Con gái chỉ có một thời, qua rồi là ế, chẳng ai thèm lấy. Chờ đến bao giờ? Ông bà thấy chỗ nào vừa ý gả cho rồi…!!!
Hoặc có người nói: – Chưa là vợ chồng, chẳng ràng buộc gì nhau, chờ người tù làm gì, hãy nghĩ đến tương lai, hạnh phúc của mình trước.
Tôi nghe kể lại thấy họ nói cũng… đúng nhưng tôi hiểu lý do nào họ dèm pha như vậy vì gia đình họ có con trai cũng cùng lứa tuổi với tôi, họ nói thế để tôi nản lòng mà thay đổi ý định không đợi chờ nữa, muốn tôi trở thành con dâu… của họ. Nhưng cuộc hôn nhân vội vàng chưa có tình yêu chỉ là sự ráp nối sống chung giữa hai người một cách gượng ép, lấy đâu có hạnh phúc. Tình yêu tôi đã dành cho người tôi thương, người tù không tuyên án, không có ngày về. Tôi yêu anh không phải vì anh là một phi công và tôi cũng không thể bỏ rơi anh vì anh là người tù. Tôi yêu tâm hồn và phong cách của anh, của một người mà tôi tin tưởng sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi, sẽ che trở, bảo bọc và yêu tôi tha thiết.
Ba mợ tôi cũng thương anh nhiều nên dù ai nói gì cũng bỏ ngoài tai, để tôi toàn quyền chọn lựa và quyết định tương lai. Ba mợ ủng hộ tôi chờ anh nhưng lo xa nên có lần ba tôi hỏi: – Con chờ anh ấy, có khi nào con nghĩ mai này, khi được về, anh ấy lại không cưới con làm vợ không?
Nghe vậy, lòng tôi hoang mang lo lắng nhưng nghĩ chắc chẳng bao giờ có chuyện đó vì anh đâu đến nỗi tệ bạc như vậy. Tôi hiểu ba tôi muốn nói gì, vì sợ tù quá lâu mới được về, lúc đó tôi đã lớn tuổi, nhan sắc đã tàn phai, sợ anh chê “già” đi lấy người khác. Mặc dù tôi không tin chuyện ấy sẽ xảy ra nhưng biết đâu, thời gian làm thay đổi cuộc đời, thay đổi lòng người. Dò sông, dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người.?
Tôi suy nghĩ chốc lát rồi trả lời: – Nếu như vậy thì kể như con làm phúc cho anh ấy.
Ngay cả mấy thằng bộ đội, thấy tổ hợp có nhiều đàn bà, con gái nên vào nhà tìm cách làm quen. Sau khi đến chơi nhiều lần, không rõ ai tiết lộ, tụi nó biết tôi còn độc thân, đang chờ một người tù cải tạo, liền tán tỉnh tôi. Có một người tên Dũng, thiếu úy gởi cho tôi một lá thư, tôi mở ra đọc cho cả tổ hợp may nghe, ai nấy cười đau cả bụng. Chữ xấu, sai chính tả nhiều, khoảng trình độ lớp hai, lớp ba mà cũng đòi viết thư tình.
Nhưng kỳ cục và bực mình nhất là trường hợp bạn của anh. Người bạn học cùng trường năm nao, vì thi rớt tú tài nên đi lính Không Quân. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, lấy băng đỏ quấn vào cánh tay theo kẻ thù. Tưởng rằng được trọng dụng, ai ngờ thời gian sau bị phế thải về nhà ngồi chơi. Lần đầu tiên anh đến ăn phở đã đi cùng người bạn ấy. Nay anh đi tù, người bạn ấy lại để ý, tìm cách chinh phục tôi. Vì quen biết từ lâu nên thỉnh thoảng đến nhà chơi, thấy mấy sợi dây điện cũ lòng thòng, ngỏ ý với ba tôi nên thay, để vậy nguy hiểm, có thể bị điện giật hay chạm điện cháy nhà. Ba tôi do dự chưa dứt khoát, người bạn ấy đã đi mua dây điện… tình nguyện đến, leo lên trần nhà bụi bặm, nóng nực, mồ hôi nhuễ nhoại thay hết dàn dây điện mới. Tưởng rằng làm giúp như vậy, ba tôi mang ơn phải đối đãi tử tế, hy vọng sẽ dành được nhiều cảm tình của tôi.
Thấy tôi vẫn thờ ơ, lạnh lùng, có lần người bạn ấy nói: ”Mấy thằng phi công đi tù mút chỉ, chẳng có ngày về. Nhất phi nhì pháo mà…” Câu nói ấy làm tôi càng ghê tởm, anh em nay gọi bằng thằng, thay vì hỏi thăm, cầu xin được về sớm, lại nguyền rủa đi tù mút chỉ, không có ngày về. Câu nói ấy ngụ ý đừng chờ nữa, đâu có ngày về mà chờ, hãy quên đi mà xây dựng tương lai mới hạnh phúc mới. Nhưng làm sao sánh với người tôi thương, với sự nhận xét của tôi, người bạn của anh đã phản bội anh em khi trở cờ theo Cộng Aản, không còn xứng đáng là anh em nữa. Nay lại âm mưu “cướp“ người yêu của bạn mình..
Cũng vì câu “nhất phi nhì pháo“ mà tôi nhận ra được giá trị lớn lao của người phi công. Các anh đã gieo nhiều kinh hoàng cho Cộng Sản nên nó mới thù như vậy. Tôi hối hận vì đã hiểu lầm vì chỉ nghe có một phía, của những người bạn không được may mắn trong cuộc tình với người phi công. Còn nhiều người được hạnh phúc với những chàng trai mang đôi cánh sắt thì họ đâu có nói gì. Tôi nghĩ, người thanh niên khi bước vào đời, nhất là đời quân ngũ, ai cũng có một ước mơ cho tương lai của mình, rất nhiều người đã mong ước trở thành người phi công nhưng mấy ai đạt được.
Người tôâi thương ít khi nói với tôi về đời lính của anh, về máy bay anh đang lái, về những vui buồn trong những ngày ở quân trường hay trên chiến trường, tôi chỉ biết anh đã đi du học ở Hoa Kỳ hai năm rồi trở về tham chiến. Những ngày anh đi bay ở Ðà Nẵng, anh cũng chẳng nói gì nhiều. Chỉ một lần duy nhất, anh bị tai nạn nhẹ, phi cơ đi về đáp đêm, sân ướt, chần chừ không dùng dù đuôi, thắng gấp quá nên bể bánh, máy bay văng ra khỏi phi đạo, lún sâu xuống bãi cỏ. Anh thật khiêm nhường, đến với tôi bằng con tim và tấm lòng của người thanh niên hiền hòa, cũng vì thế, nay nước mất nhà tan, anh chẳng còn là phi công nữa, mang thân phận người tù, tôi vẫn thương, vẫn yêu, có lẽ còn nồng đậm hơn trước .
Ðã hơn ba năm, không một hy vọng nào được về, tôi nghĩ chắc con lâu dài, chưa biết bao giờ.Nhưng tôi nhất định sẽ chờ đợi, tương lai, hạnh phúc của tôi tùy thuộc vào anh, khi nào anh về, sẽ đắp xây hạnh phúc. Sáng nay nhận được thư, ngoài những thăm hỏi gia đình như mọi khi, anh khuyên tôi …. đi lấy chồng, đừng chờ anh nữa.
Anh viết :- Thương anh, em đã chờ và thăm nuôi hơn ba năm qua, ơn ấy suốt đời anh không bao giờ quên. Nếu em đã là vợ, anh sẽ xin em đợi chờ. Nhưng anh với em chưa có gì ràng buộc nhau, em có quyền quyết định tương lai của em, con gái chỉ có một thời, đừng để quãng đời đẹp nhất phôi pha theo thời gian. Anh đã không mang được hạnh phúc đến cho em và anh không còn xứng đáng để em đợi chờ nữa. Anh khuyên em nên đi lấy chồng…
Ðọc xong, tôi bàng hoàng vì không bao giờ nghĩ anh sẽ khuyên như thế. Tôi tủi thân ngồi khóc như sắp mất người yêu. Tôi có cảm tưởng như bị anh phụ tình, tàn nhẫn bỏ rơi. Tôi bỗng thấy bực mình và giận anh vì đã viết những câu thật phũ phàng. Cả đêm trằn trọc thao thức không ngủ được, lẽ nào mối tình của anh với tôi tan vỡ. Hôm sau, tôi lấy thư ra xem, đọc đi, đọc lại nhiều lần bỗng nhận ra anh thật cao thượng, vì thương tôi, không muốn tôi chôn vùi cuộc đời son trẻ, anh không muốn tôi khổ vì anh nhưng dễ gì tôi quên anh để tìm một hình bóng khác, hạnh phúc khác. Tôi biết anh vẫn thương tôi nhưng phải đau lòng viết những câu như thế vì không biết bao giờ mới được về.
Tôi viết thư trả lời: – Anh yên chí, em sẽ chờ đợi đến khi anh về.
Mấy tháng sau, có người bạn của anh được về, anh nhờ mang về cho tôi một lá thư trong đó có đoạn: – Sau nhiều lần suy nghĩ anh rất hãnh diện vì chỉ là người bạn, em đã thủy chung đợi chờ và lo cho anh hơn bốn năm nay. Tuy nhiên hạnh phúc không nằm trong tầm tay, ngày về không phải do mình định đoạt, anh thấy tương lai thật đen tối, xa thẳm, để em đợi chờ mãi thật tội nghiệp. Anh khuyên em … xem như anh đã chết vì cơn bạo bệnh . Anh không trách gì em vì anh là người chịu ơn và đã bó tay không mang lại hạnh phúc cho em. Anh mong em nên suy nghĩ lại, quên anh và đi lấy chồng, đừng chờ anh nữa.
Anh có tật viết vòng vo rồi mới vào chủ đề chính, cuối cùng mới biết anh muốn nói gì. Ðọc xong, thấy thật buồn vì nghĩ anh hiểu lầm lòng thủy chung của tôi nên vội viết thư trả lời: – Anh ơi, anh bảo em quên anh để đi lấy chồng nhưng em cố quên lại càng nhớ anh thêm. Em sẽ đợi anh, đừng khuyên em như vậy .
Bẵng đi một thời gian, anh lại khuyên tôi lần nữa, anh viết: – Anh không đem lại hạnh phúc cho em thì anh sẽ vui với hạnh phúc em có, anh chấp nhận mất em để em có hạnh phúc….
Lần này tôi nhất định trả lời dứt khoát để anh hiểu tôi vẫn đợi anh: – Anh ơi, đừng khuyến khích em lấy chồng vì em đã có chồng rồi, chồng của em là anh đấy. Em sẽ chờ anh cho dù phải đợi 5 năm, 10 năm, 20 năm…, anh đừng phụ lòng em.
Từ đó, anh không nhắc lại cũng như khuyên tôi thêm một lần nào nữa. Ở trại Suối Máu, ba tháng được thăm một lần, mỗi lần 15 phút. Như vậy, một năm, tôi với anh chỉ gặp nhau được một giờ. Ôi định mệnh sao khắc nghiệt thế, xa nhau và xa nhau mãi. Gia đình anh lúc này cuộc sống đã tạm ổn định, ba anh về Biên Hòa thăm ba mợ tôi và hỏi thăm tin tức về anh. Biết tôi vẫn chờ đợi, ba anh rất cảm động và xem tôi như con … dâu. Ba anh xin phép mời tôi về trên ấy chơi một tuần cho khuây khỏa. Tôi nhận lời cùng đi vì tôi biết gia đình anh rất thương tôi, mấy đứa em của anh cũng thế.
Thời gian cứ lạnh lùng trôi, đã gần 5 năm anh đi tù, lúc này cuộc sống khó khăn hơn. Tổ hợp may giải tán vì hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn, bị trả lại. Tôi và gia đình phải xoay trở cách khác. Ðã ba tháng rồi, không nhận được thư, tôi lo lắng sợ anh bị bệnh không có thuốc hay có chuyện gì bất thường đã xảy ra. Một số người đi thăm về cho biết đã có nhiều đợt chuyển trại nhưng chưa biết đi đâu. Như vậy, chắc anh không còn ở Suối Máu nữa, anh bị chuyển đi nhà tù khác.
Tuần sau, tôi vui mừng vì nhận được thư anh. Anh cho biết đang ở trại Tống Lê Chân, đường đi xa lắm, nhớ đừng lên thăm, chờ khi nào trại thuê xe cho thăm tập thể hãy đi. Hỏi ba tôi Tống Lê Chân ở đâu, ba tôi nói ở tỉnh Bình Long, gần biên giới Căm Bốt, cách Biên Hòa cả trăm cây số. Ðó là nơi trước đây đã xảy ra nhiều cuộc đánh nhau đẫm máu, cộng sản chết rất nhiều. Tôi nghe nhưng chẳng biết gì vì đó là những địa danh tôi chưa hề nghe qua.
Tôi sốt ruột vì sợ anh không còn thuốc uống, bệnh lại nặng thêm. Ba tháng qua, tôi dành dụm mua được khá nhiều đồ ăn khô, hai hộp thuốc sạn thận Piperazine của Pháp rất đắt tiền, khoảng 20 viên thuốc sốt rét . Năm 1971, ba tôi bị đau sạn thận. Tôi đã chứng kiến ông đau quằn quại, lăn lộn từ giường xuống đất, lúc nào cũng đau y như bị thương nặng vậy. Chịu không nổi, phải vào bệnh viện, sạn trong thận nhiều quá nên phải cắt mất một trái thận. Tôi nghĩ anh cũng thế, tôi nghiệp khi đau đớn chẳng ai lo, chẳng ai chăm sóc cho anh. Xin phép ba tôi đi thăm nhưng không cho,ba tôi nói anh đã dặn đừng đi thì cứ chờ.
Hai tuần sau, có một chị ở cùng phường với tôi đi thăm chồng ở Tống Lê Chân về. Biết tin tôi hỏi thăm. Chị lắc đầu khuyên đừng đi vì phải đi bộ vào xa lắm. Tôi nghĩ chị đi được thì tôi cũng … đi được nên xin chị chỉ đường. Chị nói thấy rất dễ đi: – Từ Sài Gòn đi lên Bình Long, đến cây số 101 xuống, đi vào đường đất đỏ là đến trại nhưng rất xa. Ði nhớ mang theo chiếc xe đạp để chở đồ. Về xin phép, ba tôi suy nghĩ một lát rồi đồng ý, nói tôi sứa soạn ngày mai đi.
Chiều hôm sau, lên Sài Gòn, mua vé xe, thuê nhà trọ ngủ một đêm. Ba tôi mang theo chiếc xe đạp như đã dặn, nhưng trước khi lên xe, đổi ý để lại vì sợ để trên mui, cồng kềnh, hàng hóa đè lên làm hư . Chuyến xe đò cũ kỹ chuyển bánh, tôi thấy vui vui vì sẽ được gặp anh, mang đến anh sự bất ngờ. Xe chạy ngang qua nhiều phố nhỏ, tôi không biết tên. Là người con gái, chưa bước vào đời, chưa đi xa nhiều nên thấy chỗ nào cũng lạ, cũng giống nhau. Ðến khoảng quá trưa, xe đến cây số 101, chúng tôi xuống. Khi chiếc xe lăn bánh để lại hai bố con tôi chơ vơ giữa đường. Chung quanh là rừng thưa, cây không cao lắm nhưng nhiều lá vàng. Lúc này đang mùa hè nóng nực, trời xanh ngắt pha với từng cụm mây trắng bay lững lờ. Không có ai ngoài bố con tôi, có cảm tưởng như bị rơi xuống một vùng hoang dã chưa có ai đặt chân đến.
Chúng tôi băng qua đường, đi vào sâu một đoạn, thấy có một cái chòi nhỏ vắng vẻ chơ vơ bên lề. Ðến nơi mới biết là chỗ sửa xe đạp. Người đàn ông khoảng 40 tuổi ngồi cô đơn chờ khách. Ba tôi hỏi thăm, ông ấy lắc đầu nói :– Bác đi thăm cải tạo, còn xa lắm, không đến được chiều hôm nay.!!
Ba tôi nghe thế hỏi tiếp: – Từ đây vào trại xa bao nhiêu?
Ngưởi thợ sửa xe trả lời: – Khoảng 30 cây số.
Tôi bàng hoàng đâu ngờ xa thế, cứ tưởng khoảng hai ba cây số thôi.
Ba tôi hỏi: – Ðường khá rộng, xe hơi chạy được, có xe nào chở khách vào đó không?
Ôâng ta lắc đầu: – Không có, dân ở đây đi xe đạp, chẳng có xe nào vào ngoại trừ thỉnh thoảng xe của công an chở đồ tiếp tế vào trại hay xe ben đi chở cây mà thôi.
Hai bố con nhìn nhau, không biết tính sao. Tiến tới đi bộ 30 cây số, lùi thì kẹt cứng, chẳng có xe về, tối nay lang thang không biết ngủ ở đâu hay lại nằm bờ nằm bụi ở gốc cây, xó rừng nào cho qua đêm. Nhưng như vậy nguy hiểm lắm. Thú rừng và cả những người xấu nữa, biết đâu xui xẻo gặp thì tai họa không lường trước được.
Ðang phân vân lo lắng, ông sửa xe nói: – Bác và chị đi vào khoảng 10 cây số, đến xã Ðồng Nơ, vào trạm y tế gặp cô Phượng xem cô ấy có giúp gì được không. Bác và chị phải mất thêm một ngày đường nữa mới đến trại.
Ðành chịu vậy. Chúng tôi cám ơn và đi theo đường xe đất đỏ thỉnh thoảng tung bụi mù khi cơn gió đến. Lúc này ba tôi mới hối hận vì đã để cái xe đạp tại nhà trọ, vì vác túi quà càng đi càng thấy nặng, giá có cái xe, buộc vào đấy, dắt xe đi nhẹ nhàng hơn. Tôi phụ vác với ba tôi nhưng chẳng đi được bao xa đã thấy mệt vì trời nóng bức, muốn chuyển mưa nên mồ hôi ướt đẫm, đi một đoạn khoảng trăm thước lại ngồi nghỉ. Nhìn ba tôi thân già khi ôm, khi vác túi quà đi từng bước mệt mỏi trên con đường dài vô tận, lòng tôi đau xót. Vì thương tôi, thương anh ấy mà vất vả, cực khổ như thế. Ba tôi chỉ còn một trái thận, lúc nào cũng thấy mỏi lưng. Nay đi xa, lỡ trái thận còn lại bị đau nữa thì biết làm sao!!! Còn tôi, chưa bao giờ đi bộ xa như hôm nay. Thật là bế tắc, tiến thoái lưỡng nan, không lẽ bỏ cuộc.
Càng đi càng thấy đường xa, càng mệt mỏi, đã gần hai tiếng rồi mà chưa thấy bóng người, chưa gặp được ai. Con đưởng đất đỏ nhiều chỗ lồi lõm, nhưng vũng nước cạn khô. Bước đi là bụi đỏ bay lên, nhuộm đỏ cả quần áo. Chúng tôi cố gắng, chậm bước, hy vọng sẽ tìm được chỗ ngủ trọ đêm nay trước khi trời tối. Ðến xế chiều, mới thấy mấy căn nhà nho nhỏ chỉ to hơn cái chuồng heo của nhà tôi. Nhà ở thưa thớt, lợp bằng lá. Ði một quãng nữa thấy tấm bảng cắm bên đường: Xã Ðồng Nơ. Thỉnh thoảng lại thấy có căn nhà cháy rụi, tôi bỗng thấy tội nghiệp cho những người dân nghèo, cơ nghiệp chỉ có thế mà lại cháy mất. Sau này tôi mới hiểu, dân bị lùa đi vùng kinh tế mới, bị nhà nước lừa bịp, đem con bỏ chợ, nhiều người không sống nổi nên đốt nhà tự vẫn hay tìm trở về thành phố, ở lang thang, kiếm sống qua ngày, trở thành bất hợp pháp vì công an đã cắt hộ khẩu, không có quyền cư trú tại thành phố nữa.
Bỗng ba tôi vui mừng nói: – Sắp đến rồi, hình như có bóng người ở phía trước?
Ði tiếp thấy nhiều nhà và có vẻ như gần đến. Bỗng có một cô gái băng qua đường, ba tôi gọi hỏi thăm cô Phượng làm việc ở trạm y tế. Cô ấy vui vẻ trả lời: – Chị Phượng là chị của cháu. Bác và chị đi theo cháu, ở gần đây thôi.
Nói gần mà cả mấy trăm thước, hai chân tôi vừa đau, vừa mỏi rã rời. Ðến nơi, cô gái vào nhà nói to: – Chị Phượng ơi, có khách Sài Gòn ghé thăm.
Một cô gái, trạc tuổi tôi, trong nhà bước ra, tay bắt mặt mừng, nói giọng bắc, nắm lấy tay tôi: – Chào bác, chào chị, mời bác và chị vào nhà.
Tôi ngẩn ngơ trước sự tiếp đón niềm nở và đầy tình người của cô Phượng. Cả buổi chiều đi bộ lo lắng, nay thấy cử chỉ thân thiện của Phượng làm tôi yên tâm và xúc động. Tuy chưa bao giờ biết nhau nhưng Phượng xem bố con tôi như người thân trong nhà. Phượng hỏi: – Bác và chị đi thăm ai?
Ba tôi trả lời: – Ði thăm cải tạo.
Cô Phượng giải thích: – Cháu hỏi vì trong đó có hai trại, một trại tù hình sự và một trại cải tạo.
Ba tôi hỏi tiếp: – Từ đây vào còn xa không?
Phượng nhìn chúng tôi ái ngại trả lời: – Còn xa lắm, khoảng một ngày đường nữa. Bác và chị tối nay ngủ tại đây, cháu nấu cơm cho bác và chị ăn, sáng mai mới đi được.
Nghe thế ba tôi nói: – Chúng tôi cám ơn cô rất nhiều. May gặp cô, có cho ở nhờ đêm nay là quá tốt rồi, ăn uống để chúng tôi tự lo liệu.
Phượng lắc đầu: – Bác đừng lo, chẳng mấy khi bác và chị ghé vào đây. Cháu mời bác và chị cùng ăn một bữa cơm thanh đạm với cháu, chẳng đáng gì, bác đừng lo nghĩ.
Nghe thế, tôi cảm động, nước mắt muốn trào ra. Ai ngờ trong rừng hoang xa thẳm, một vùng đất lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân đến, nghèo nàn, thiếu thốn, buồn thiu lại có một cô gái giàu lòng bác ái và đón tiếp người xa lạ như người thân trong nhà. Thời buổi gạo châu củi quế, mua gạo từng ký, cuộc sống ở vùng kinh tế mới hết sức khó khăn hơn, bữa no, bữa thiếu vậy mà cô Phượng sẵn sàng mời chúng tôi dùng cơm.
Ăn xong, thấy cô làm bánh, ba tôi hỏi: – Cô làm bánh để ăn hay bán?
Phượng nhìn chúng tôi trả lời: – Cháu làm để má cháu bán, kiếm thêm tiền chứ lương không đủ tiêu!!
Ba tôi cảm động nói: – Ở đâu cũng vậy, làm cho nhà nước rồi cũng phải xoay trở thêm.
Phượng nói: – Cháu bận tay, bác và chị đi nghỉ cho khỏe, lấy sức mai còn đi khá xa.
Sáng sớm hôm sau, hai bố con dậy sớm, chuẩn bị đi vào lúc trời còn mát nhưng Phượng không cho, cô cản lại nói: – Bác và chị không thể đi sớm, phải đợi trời thật sáng vì heo rừng, có khi có cả cọp nữa vẫn lảng vảng ở vùng này, nguy hiểm lắm. Ở đây, không ai dám đi làm sớm đâu.
Nghe thế chúng tôi khựng lại, đành ngồi chờ. Ðến khoảng 8 giờ, Phượng dẫn chúng tôi ra ngoài đường, đến một sạp bán chuối và bánh, giới thiệu người đàn bà đang ngồi bán là mẹ của cô, chúng tôi chào, hỏi thăm, ngỏ lời cám ơn. Tôi mua hai nải chuối chín để ăn đồng thời mở hàng cho bà.
Phượng đưa chiếc xe đạp cô đang đi cho ba tôi rồi nói: – Cháu cho bác mượn chiếc xe đạp để chở đồ cho đỡ nặng, khi nào thăm xong trả lại cháu.
Hai bố con tôi sững sờ, kinh ngạc trước quyết định của Phượng. Thời buổi khó khăn này, đối với rất nhiều gia đình, cái xe đạp là cả một gia tài, là phương tiện di chuyển và chở đồ đạc. Ðối với người không quen biết, không biết từ đâu đến, lần đầu tiên biết nhau đã dám cho mượn hết sức dễ dàng. Lỡ gặp người gian tham, lấy xe đi mất thì sao?
Ba tôi lưỡng lự nhưng sợ phụ lòng tốt của cô nên nói: – Cám ơn cô rất nhiều, đã cho ở nhờ lại còn cho mượn xe. Tôi hứa thăm xong sẽ đem trả lại cho cô.
Phượng vui vẻ trả lời: – Bác yên chí, cứ lấy đi, cháu giúp bác và chị cũng như giúp cho anh ấy thôi. Bác và chị vào thăm, chắc anh vui lắm, tôi nghiệp các anh, vì thời cuộc đổi thay nên mới khổ như vậy.
Ba tôi hỏi Phượng: – Từ đây vào đấy đi như thế nào.?
Phượng dặn chúng tôi: – Bác và chị đi khoảng quá trưa sẽ thấy hai ngã rẽ, bác rẽ phải vào con đường thứ hai rồi đi mãi sẽ đến trại.
Ba tôi hỏi tiếp: – Cô Phượng đã vào chỗ đó chưa?
Phượng trả lời: – Dạ có, cháu vẫn thường vào chích ngừa cho mấy anh.
Nghe thế chúng tôi yên chí. Phượng đưa chúng tôi đi một đoạn đường rồi trở về đi làm. Chúng tôi đi tiếp đoạn đường còn lại. Càng đi càng xa, trời bắt đầu nóng, ba tôi dắt xe, tôi phụ đẩy phía sau, ban đầu còn nói chuyện, sau mệt nên mạïnh ai nấy đi. Thỉnh thoảng thấy đường rẽ nhưng bị cỏ cây mọc che gần hết, mãi rồi ba tôi lùng bùng không biết rẽ vào đường nào. Giá có người qua lại hỏi thăm thì chắc ăn hơn, nhưng từ sáng đến giờ chẳng gặp ai. Tôi và ba tôi băn khoăn lo lắng, hay bị lạïc rồi. Giữa rừng hoang vắng lặng, chơ vơ chỉ có hai bố con, lỡ có chuyện gì hay tai nạn xảy ra biết làm sao đối phó. Tôi mệt một thì ba tôi mệt mười, tuổi già sức yếu chưa bao giờ lặn lội đi xa như thế. Không bao giờ cuộc đời mình có lúc lại lang thang trên con đường đất đỏ ở khu rừng vắng lặng như hôm nay, tôi nghĩ thú rừng đang rình rập chung quanh, chưa biết lúc nào nhào ra cắn, hoặc sui sẻo gặp cướp thì chắc chết hết, không ai biết. Nghĩ thế nên đâm ra hoảng sợ, chân bước đi mà lòng lo lắng, tôi không dám nói gì vì sợ ba tôi cũng lo thêm.
Ði một quãng rồi lại nghỉ, lúc này đã gần trưa, mặt trời sắp đứng bóng, không đói, chỉ thấy khát. Nước mang theo uống gần hết, cứ tình trạng này, đi mãi chưa đến, hai bố con tôi lấy nước đâu mà uống. Ðã qua hai ngã rẽ, có dấu bánh xe hơi nhưng phân vân không biết đúng hay sai. Ðang đi thêm một đoạn nữa thì thấy một người đàn ông mặc quần đùi, trên người áo lính đã bạc màu, tay cầm cái rựa băng ngang qua đường. Thấy bóng người ba tôi mừng quá, không cần biết họ là người tốt hay xấu, vội dơ tay ngoắc và gọi lớn: – Ông ơi, cho tôi hỏi thăm.
Người đàn ông tí nữa thì đi vào rừng, nghe gọi vội đứng lại trả lời: – Bác hỏi gì vậy.?
Ba tôi chạy đến gần nói :– Tôi đi thăm con tôi ở trong trại cải tạo, bây giờ không biết đường nào vào, nhờ ông chỉ dùm.
Người đàn ông trạc 40 tuổi trả lời: – Bác đi quá rồi, đường này đi vào sông Sài Gòn, vào trại hình sự, còn mấy anh cải tạo thì phải rẽ cách chỗ này mấy trăm thước.
Ba tôi cám ơn, quay trở lại. May quá, nếu không gặp ông này thì hai bố con lạc luôn, không bao giờ đến. Ði vào ngã rẽ như đã dặn, mặt trời đã nghiêng hẳn xuống, lúc đó khoảng 3 giờ chiều, vẫn chưa thấy trại đâu cả. Hai bên đường cỏ cây có đoạn thưa thớt, có đoạn rậm rạp kín mít . Hai chân tôi đau nên không đi dép nữa, tôi lấy cái cây, một đầu hai nải chuối, đầu kia hai chiếc dép, gánh trên vai đi chân đất thấy thoải mái hơn. Ði khoảng nửa tiếng nữa, bỗng nghe tiếng chặt cây từ xa, ba tôi tỏ vẻ vui mừng nói: – Chắc đến rồi con ơi, nghe nhiều tiếng chặt cây, chắc mấy anh ấy đang phá rừng?
Tôi cũng nghe nhưng chưa tin, biết đâu dân thường thì sao? Ði một đoạn nữa, bỗng thấy mấy anh đang chặt cây, lố nhố trong rừng.
Có anh dừng lại, chạy ra đường hỏi: – Bác với chị đi đâu?
Nhìn người đàn ông gầy gò, đen đúa, gấu áo rách tả tơi, mồ hôi ướt đẵm cái áo lính cũ kỹ, tôi hình dung người tôi thương chắc cũng giống như thế.
Ba tôi trả lời: – Ði thăm cải tạo.
Lúc này có thêm mấy anh nữa, mỗi người một cái rựa to, chạy đến hỏi thăm vồn vã: – Bác và chị đi thăm ai??
Ba tôi nói tên, các anh trả lời: – Anh L cháu biết, có ở trại này.
Nghe thế hai bố con tôi mừng rỡ vì sắp đến nơi. Không còn lạc nữa.
Lúc đó, tên công an đến đuổi các anh vào làm việc, hắn hỏi ba tôi vài điều rồi nói: – Bác với chị đi vào trại, cách đây khoảng 2 cây số, trình giấy tờ, sẽ có người lo, giải quyết cho anh ấy ra thăm. Bác đi mau kẻo trời tối.
Chúng tôi đi tiếp, các anh cải tạo đứng nhìn theo. Các anh bị đọa đày trong rừng sâu, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài đã lâu nên khát khao gặp lại hình ảnh những người thân, những người dân ngoài xã hội. Tôi không ngờ nó nhốt các anh trong rừng xa thăm thẳm như vậy, có ai biết vào thăm. Mà có trốn cũng không biết đường nào về nếu không có người dẫn đường.
Khi đến khu vãng lai, thấy có mấy căn nhà lợp bằng tranh, to, rộng rãi, trông khá đẹp. giữa là một cái sân đất bằng phẳng khá rộng, có những vườn bông hoa đủ màu, trông rất quy cũ và thơ mộng.Tôi đã đi thăm nhiều trại nên biết những gì có được hôm nay tại khu vãng lai này là mồ hôi, công sức của các anh chứ công an nó đâu có làm. Bắt làm nhà cho nó ở thì đúng hơn.
Ba tôi gặp công an trực trại, trình giấy tờ. Tên cán bộ dẫn chúng tôi vào trong nhà nói: – Bác và chị nghỉ ở nhà này. Có bếp nấu ăn, có giường để ngủ. Ngày mai trại sẽ cho anh ra thăm.
Nói rồi nó bỏ đi. Vào nhà đã thấy có một bà già đang ngồi nhai trầu, hỏi thăm mới biết bà đi thăm con, đang chờ xe của trại tiếp tế lương thực lên rồi quá giang về. Hóa ra vì thương con bà đã lặn lội đoạn đường xa thăm thẳm như bố con tôi, bà đã đến trước, đã gặp con. Ôi, lòng mẹ bao la như biển Thái Bình là thế.
Ðang nói chuyện với bà thì thấy mấy anh chặt cây hồi chiều đi về. Ngang qua, ai cũng dơ tay vẫy chào. Các anh gầy gò, đen đủi vì phơi nắng, dáng đi thất thểu, mệt nhọc.
Sáng hôm sau, các anh lại đi ngang qua khu vãng lai để chặt cây nữa, những cánh tay gầy gò vẫy chào chúng tôi. Tôi nhìn kỹ nhưng không thấy ai quen. Một lát, thấy một tên cán bộ đi trước, tay cầm cuốn sổ, phía sau có một người đi theo. Từ xa, nhìn màu áo quen thuộc, tôi biết là anh. Tên cán bộ bắt ba tôi ký vào sổ, nó nói:
— Nếu anh ấy trốn, bác chịu trách nhiệm.
Nói rồi nó bỏ đi vào trại.
Anh chào ba tôi và nhìn tôi mỉm cười, có lẽ anh không ngờ chúng tôi đi thăm. Anh hỏûi thăm gia đình, công ăn việc làm. Ba tôi kể chuyện đi thăm. Thấy anh còn mạnh khỏe, tôi vui lắm. Anh cho biết bệnh sạn thận đã gần như khỏi sau khi ăn 18 quả dứa tôi gởi vào. Chỉ còn sốt rét thôi.
Có một người Thượng đi xe đạp với cái thúng to buộc sau xe hỏi có mua thịt heo rừng không.? Ba tôi ra xem và mua mấy lạng. Anh và ba tôi ngồi nói chuyện, tôi đi nấu cơm. Ðây là lần đầu tiên trong 5 năm, tôi được thăm lâu nhất, trại cho cả ngày, đó là điều không ngờ vì vẫn tưởng chỉ được một hai tiếng là cùng. Ðây cũng là bữa cơm anh ăn chung với bố con tôi sau năm năm xa cách. Ðây cũng là lần đầu tiên sau 5 năm, tôi với anh được ngồi bên nhau, nói chuyện mà không có cán bộ đứng kè kè bên cạnh. Người anh gầy gò, ốm yếu. Ai cũng giống nhau. Anh cho biết làm ở đội nông nghiệp, lúc nào cũng thấy đói,ăn xong rồi cứ tưởng như chưa ăn. Làm việc nặng, đi xa nên mệt nhưng còn đỡ hơn mấy anh ở đội lâm sản, đi lấy cây, chặt tre nắng nôi, xa xôi, vác về cực lắm.
Anh cho biết ở đây có hai trại, mỗi trại khoảng 300 người, làm đủ thứ việc, dọn rẫy trồng bắp, lúa, đậu phọng, khoai mì rau muống… nhưng vì cán bộ không kinh nghiệm và cải tạo không biết làm nên cơn mưa đầu mùa xuống, cứ ngồi chờ cơn mưa to hơn mới gieo. Ðến khi thấy rẫy của người Thượng bắp mọc cao cả gang tay rồi mới hoảng hồn về ra lệnh trồng. Vì vậy cỏ mọc cao hơn lúa, hơn bắp, làm không xuể, mất mùa. Trại thông báo phải tự túc lương thực, được nhiều ăn nhiều, được ít ăn ít, kiểu này chắc đói đến nơi.
Ba tôi hỏi có hy vọng chừng nào được về, anh cho biết đã có nhiều đợt về nhưng không nhiều, còn anh thì không biết bao giờ..!!! Có thể nay mai, có thể vài năm nữa, không biết đâu mà đoán.
Hôm sau, anh trở vào trại, hai bố con đi về. Nghĩ đến đoạn đường dài mà ngao ngán nhưng lòng tôi rất vui vì đã gặp anh như ý nguyện. Lúc về mau hơn vì không có gì nặng. Cô Phượng thấy chúng tôi về mừng lắm, có lẽ cô tưởng mất xe rồi vì gần ba ngày không thấy bố con tôi trở lại. Hôm sau ba tôi hỏi thăm đường ra tỉnh Bình Long thăm bà cô đã lâu không gặp. Bố con tôi ghé nhà người quen một ngày nữa mới về. Như vậy, đi về mất cả tuần lễ, mợ tôi ở nhà lo lắng, không biết truyện gì xảy ra.?
Trước khi đi, anh có nhờ ba tôi nuôi dùm một con sáo, tưởng rằng thời gian ngắn sẽ về. Ai ngờ anh đi biền biệt. Vì con sáo trở thành niềm vui trong lúc nhàn rỗi nên ba tôi nuôi và chăm sóc cẩn thận. Lâu lâu mua thịt về nấu ăn, ba tôi cũng cho chim ăn vài miếng. Thế rồi mấy năm sau, chim biết nói và cũng khá khôn. Nó nói nghe rõ lắm. Nhưng không biết ai trong tổ may dạy nó lúc nào mà mỗi khi tôi xuống bếp, ra sau vườn, thấy tôi con chim nói: “Diễm ơi, khổ chưa. Diễm ơi, khổ chưa”. Nó nói tỉnh bơ trong khi tôi vừa buồn cười vừa tức vì vô tình nó khơi nỗi đau khổ đeo đuổi mấy năm nay. Lần thăm này, ba tôi khoe với anh con sáo đã biết nói. Nhưng khi đi thăm về thì con sáo gần chết vì mợ tôi quên không cho nó ăn. Con sáo đói, lấy mỏ cạy lồng để chui ra nhưng cuối cùng cái mỏ trên bị gãy. Ba tôi về, tiếc quá, đút cho nó ăn nhưng vẫn không cứu được.
Hai tháng sau, khoảng 2 giờ chiều, lúc đó tôi đi học may ở Tam Hiệp về, gần đến nhà thì thấy chú Mến đang đi ngược chiều vội đứng lại. Chú Mến bán hàng ở ngoài chợ, thùng hàng đặt trên chiếc xe đạp, bán xong, gấp lại, đi về rất tiện. Mỗi lần thấy tôi, chú nói: – Cô ơi, chú sắp về rồi. Tôi mỉm cười vì biết chú ấy nói để tôi hy vọng, đừng nản chí chứ làm sao chú biết ngày về của anh ấy. Ðã hàng trăm lần chú nói với tôi như thế và cũng chẳng bao giờ thành sự thật. Hôm nay, chú đứng lại chờ tôi, khi đến gần chú nói với nụ cười thật tươi: – Cô ơi, chú về rồi, thật đấy.
Tôi nhìn chú Mến, chào và nói diễu: – Bao nhiêu lần rồi có thấy gì đâu?
Chú Mến nói tiếp: – Thật mà, cô về xem, chú về rồi.
Tôi không tin, lên xe đạp đi về.
Khi đến con đường Quốc Lộ 1, tôi xuống để dắt xe băng qua đường như mọi lần vì nhà tôi ở bên kia đường, nhìn qua thấy ba tôi và anh đang đứng ở trước cửa, lòng tôi bỗng vui hẳn lên. Chú Mến nói đúng, anh đã về, anh về vào lúc chẳng ai ngờ. Tôi lấy tay dụi mắt, tưởng như nằm mơ nhưng anh, người tôi thương yêu, đợi chờ hơn 5 năm qua nay đang đứng đón tôi và đã thực sự may mắn sống sót trở về.
Hai tháng sau, chúng tôi chuẩn bị đám cưới. Thiệp mời được gởi đến hàng xóm, bà con thân thuộc ở Sài Gòn, Thủ Ðức và các tỉnh xa. Những người hàng xóm sau một thời gian dèm pha tưởng tôi không đủ kiên nhẫn đợi chờ đến khi anh về nhưng thấy tôi một lòng nhất quyết nên ai cũng theo dõi xem mối tình lận đận này sẽ đi về đâu, chung cuộc như thế nào? Nay, nhận được thiệp cưới, họ vui vẻ chúc mừng. Chuyện của tôi đợi chờ… người tù cải tạo hầu như ai cũng biết nên khi anh về, nhiều người tò mò đến xem, hỏi thăm.
Chỉ còn một tuần nữa là đám cưới, ngày vui nhất của đời con gái đi lấy chồng. Cả gia đình đang chuẩn bị cho ngày vui ấy. Nhưng đột nhiên tôi bị sốt, người mệt mỏi rã rời, nặng đến nỗi phải đi nhà thương Ðồng Nai. Bác sĩ khám vẫn chưa biết bệnh gì, chỉ truyền nước biển và chờ kết quả xét nghiệm. Lòng tôi buồn vô hạn, chưa bao giờ bị bệnh mà tôi mệt như thế, miệng đắng ngắt, sức lực như mất gần hết, giọng nói thều thào vì đuối sức. Có lẽ nào định mệnh lại oan nghiệt chia lìa chúng tôi. Hơn 5 năm đợi chờ mỏi mòn, mong một ngày anh về, nay anh về thì tôi có thể… sẽ ra đi vĩnh viễn. Anh lên thăm, nhìn tôi buồn vời vợi.
Sau này nghe ba tôi kể, ba tôi quá buồn, nằm dài trên sàn nhà, còn anh ngồi trên ghế suy tư, lo lắng. Hai bố còn bàn nhau bây giờ đã quá muộn, không thể hồi báo được, sợ đám cưới này thiếu cô dâu vì đang nằm ở bệnh viện. Biết đâu bà con thân thuộc xa gần lâu ngày không gặp, về thay vì tham dự đám cưới lại dự đám ma. Biến ngày vui trở thành tang tóc. Theo dự trù, chiều thứ Sáu anh chịu Phép Rửa Tội, chiều thứ Bảy Lễ Cưới, ngày Chủ Nhật Ðám Cưới; hôm nay thứ Tư, tôi còn nằm đây, ở nhà thương. Tôi tủi cho thân phận đen tối, kém may mắn của mình. Những ước mơ ấp ủ bao năm qua, mong một ngày đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc lứa đôi nay sắp tan thành mây khói. Nghĩ vậy, tôi đau lòng, tủi thân nằm khóc.
Tôi biết càng khóc thì bệnh của tôi càng nặng thêm. Nghĩ ngợi, lo lắng nhiều chẳng có ích gì trong lúc này nhưng không sao dằn lòng được. Tôi cố ngồi dậy, đọc kinh xin Thiên Chúa và Ðức Mẹ cho tôi qua khỏi cơn hoạn nạn để trở về nhà càng sớm càng tốt kẻo mọi việc lỡ làng . Sáng hôm sau, tôi thấy đỡ mệt, căn bệnh có triệu chứng thuyên giảm. Ngày thứ sáu bỗng thấy người dần dần ấm lại và thèm ăn. Bác sĩ khám cho về mặc dù chưa khỏi hẳn.
Chiều hôm ấy, còn ốm dở, sợ đứng lâu không được nên ba tôi không cho đi tham dự lễ rửa tội của anh. Tôi tiếc lắm vì đó là sự kiện trọng đại của đời anh lại thiếu tôi, không được chứng kiến. Ngày hôm sau thứ Bảy, miệng đắng ngắt, đi chưa vững nhưng cũng phải đi làm tóc, trang điểm lại sơ sơ để làm cô dâu. Buổi chiều mưa không lớn nhưng kéo dài dai dẳng. Từ nhà tôi đến nhà thờ khoảng 100 thước, vì trời còn lất phất mưa, không dám đi bộ, người còn yếu sợ trúng mưa nên ba tôi nói gọi xe xích lô chở chúng tôi. Hóa ra, ngày vu quy, vô tình xe hoa chở cô dâu chú rể là chiếc xích lô, có ai ngờ lại như vậy.
Xe chạy đến cổng nhà thờ. Ðường vào bị dốc nên xe khựng lại, không lên được. Anh tài xế nhảy xuống định ra phía trước nắm càng xe kéo lên, chưa kịp kéo thì đuôi xe nhổng lên, đầu xe gục xuống, tôi với anh tí nữa ngã ra khỏi xe, may anh níu lại. Lúc này mà ngã xuống đất, quần áo cưới bị ướt, dính bùn bẩn hết thì không biết làm sao. May không bị gì, đành lấy dù che đi bộ băng qua sân vào nhà thờ. Lúc này đã trễ 5 phút, Cha và mọi người đang đứng chờ.
Tôi với anh, sau bao năm chờ đợi, trong tiếng kèn rộn rã vui tươi của đội kèn đồng mở đầu Thánh Lễ, cùng nắm tay nhau tiến bước lên lãnh nhận phép Hôn Phối, tuyên hứa thủy chung, thương yêu nhau trọn đời. Số người tham dự đông hơn mọi ngày vì họ biết chúng tôi đã lận đận lại còn muộn màng hơn những đôi tân hôn khác, có lẽ họ đã cầu nguyện nhiều cho chúng tôi.
Thời gian trôi qua mau, thấm thoát đã 26 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm thử thách trong cuộc sống nhưng chúng tôi vẫn có nhau, bên nhau và thật nhiều hạnh phúc. Ðồng hồ thời gian vào thời điểm các anh đi tù hình như sắp hết pin nên chạy quá chậm, làm tôi cũng như các chị đợi chờ mòn mỏi. Bây giờ thì lại chạy quá nhanh, đã bước vào tuổi ngũ tuần, mái tóc không còn đen tuyền như trước nữa mà đã bạc màu.
Nhìn lại năm xưa tháng cũ đợi chờ người tù cải tạo, tôi không hiểu sao mình lại vượt qua được, nó như một cơn ác mộng, một quãng đời kinh hoàng đầy ưu tư, lo lắng. Tất cả nay đã trở thành kỷ niệm, ăn sâu vào ký ức, không bao giờ quên, những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui.
Oklahoma.
Diễm Xưa.
Nguốn Thư Viện Toàn Cầu
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 08/Sep/2017 lúc 8:15am
Kỹ Niệm 45 năm ngày mất
Cố Đ/U NGUYỄN THÀNH ĐÔNG
ĐĐT ĐĐ 1- TĐ 2/7 SĐ 5 BB - KBC 4441
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 09/Sep/2017 lúc 4:03am
https://youtu.be/oRf88sxAtxg - https://youtu.be/oRf88sxAtxg
CHÚT TÌNH CHO BIỂN
Quang Bình
Tiềng hát Thái châu
Ɓiển đó, mà sao уên lặng quá,
ai đi ai ở ai buồn hơn
Ɓiển đó, chỉ còn ta vơí đá
người đi ta ở chẳng ai vui
Ɓiển đó, đèn thuуền ai mờ tỏ,
cánh dừa ghê đá bóng đơn côi
Ɓiển đó nhấp nhô con sóng nhỏ
cô đơn ta bước dạo trên đường
Ɗẫu biết ngàу chia taу
sẽ đến sao lòng ta cứ mãi miên mang
Ϲuộc vui nào mà không tàn,
mộng ước ngàу mai em trở về
Mông ước một ngàу em trở lại,
và thôi mỗi cánh chim baу
Đứng bên nhau, giữa trời biển vắng
Ϲhút tình nầу xin gởi lại người xưa
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 13/Sep/2017 lúc 10:07pm
Nụ Cười – Bửu Uyển
September 13, 2017 | by Ban Tu Thư
Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết: “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa, trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo… sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo: “Em còn nhớ anh không?”. Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”.
Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một thiếu úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó… mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi: “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”.
Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”.
Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi: “Anh ạ,mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây, dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa, ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”.
Đạo như chợt tỉnh, ông lảo bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.
Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày, Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.
Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.
Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.
Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.
Một buổi chiều khi đi lao động về, nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.
Vào một buổi sáng Chúa Nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em: Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.
Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: Đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.
Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai: Một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy… thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài!
Vào một sáng Chúa Nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi. Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.
Nhưng chúng tôi chờ mãi… đã ba, bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà, Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.
Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“Anh nhớ không, ngaỳ Chúa Nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông thượng tá công an ngồi ở đó. Chi vội vã đứng lên giới thiệu: “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh”. Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo cấp bậc thiếu úy. Chi biết Đạo ngõ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay: “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cười, rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sài Gòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Cam Bốt”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói: “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần… Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”.
Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sài Gòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một đại úy Công Binh Việt Nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi: “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?”. Tôi trả lời ngay: “Của vợ con cho đó!”.
Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Ti Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.
Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi: “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”.
Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “Anh Đạo yêu quý của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm!“.
Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu thượng tá công an của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.
Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!”. Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất!
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi: “Thưa anh, đây là Chi, vợ em”. Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.
Tôi đã được nghe, được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.
Nguồn Thư Viện Toàn Cầu
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 21/Sep/2017 lúc 10:21am
Cô Y Tá – TT Đại
September 21, 2017 | by Ban Tu Thư
rong các trại cải tạo của tôi ở miền Bắc Việt Nam thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, đều được thiết lập sâu trong rừng già. Lý do là vì công tác chính của các cải tạo viên là chặt giang (một loại tre rừng rất lớn) để làm giấy, mà giang chỉ có trong rừng già. Khi bước chân đến một trại cải tạo mới nào, chúng tôi cũng được Cán bộ Trưởng Trại đón tiếp bằng câu: “Tội các anh đều ‘đáng chết’ vì có ‘nợ máu’ với nhân dân, nhưng nhờ Đảng và Nhà Nước Cách Mạng khoan hồng nhân đạo, nên cho các anh còn được sống đấy!”. Câu nói này được các cán bộ quản giáo thường xuyên nhắc lại. Mục đích để làm gì? Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì đối với một tội phạm thì “tội chết” (tử hình) là tội nặng nhất, nên căn cứ vào đó thì dù chính sách của Đảng và Nhà Nước Cách Mạng có đối xử với tù binh cải tạo tồi tệ đến đâu chăng nữa, thì so với “tội chết” vẫn còn là khoan hồng nhân đạo! Hơn nữa, Đảng lại còn huấn luyện được mội đội ngũ cán bộ luôn luôn thi hành chính sách một cách nghiêm túc, không để tình cảm cá nhân xen vào.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, đó là có cán bộ đã dám nương nhẹ tay khi áp dụng chính sách của cấp trên trao phó. Ở đây tôi muốn nói đến một cán bộ cấp nhỏ ở trại cải tạo của tôi ở tỉnh Hoàng Liên Sơn vào năm 1978. Đó là cô y tá ở trại này. Cô chỉ là loại y tá sơ đẳng, giống như y tá nông thôn ở miền Nam, chỉ được học chuyên môn chừng ba tháng, nghĩa là chỉ biết điều trị những bệnh thông thường như cảm sốt, nhức đầu, đau bụng… và biết chích và băng bó sơ qua thôi.
Cô tên là Nữ, tôi không biết họ cô là gì, thuộc dân tộc thiểu số Mường, chừng khoảng 25 tuổi. Cô là một phụ nữ độc nhất trong trại cải tạo gồm hơn 600 cải tạo viên và khoảng chừng 30 cán bộ tham mưu, cán bộ quản giáo và bộ đội bảo vệ.
Đáng lẽ cô phải được mọi người chú ý, nhưng không, dường như ai cũng lơ là đối với cô. Lý do là vì cô sinh ra đời với một ngôi sao xấu, nghĩa là nhan sắc cô quá tầm thường. Nước da cô nâu xậm, đôi môi thâm dầy, khi cười thì để lộ ra hai cái răng cửa to quá khổ, che lấp các răng khác. Răng cô mầu nâu lợt, có lẽ có thời cô nhuộm răng đen, nhưng khi gia nhập bộ đội thì không có cơ hội nhuộm răng nữa, lại cũng không có thuốc tẩy trắng răng. Tóc cô thuộc loại tóc rễ tre, cứng và rất khó chải cho mượt. Mình cô mặc bộ đồ kaki bộ đội, phát sao mặc vậy, nghĩa là chẳng có sửa cho bó sát vào thân hình. Chân cô đi đôi dép lốp, để lộ hai ngón chân cái to tướng, hướng vào nhau như giống người Giao Chỉ thủa xưa. Gót chân cô thì nứt nẻ, có lẽ do đi bộ nhiều. Cô không có dáng yểu điệu của một thiếu nữ thời son trẻ, vì cô sinh ra ở bộ lạc Mường nên ngay từ mhỏ đã phải lội suối băng rừng, nếp sống đó đã tạo cho cô một thân thể lực lưỡng khác thường. Đó là những yếu tố không hợp với nhãn quan của đàn ông, nên họ đều lơ là đối với cô.
Tên cô là Nữ, nhưng một số các cán bộ miền Bắc nói ngọng nên gọi cô là “Lữ”. Cô chấn chỉnh họ:” Tên tôi là Nữ sao lại đổi thành “Lữ” hả? Họ cười lớn và trả lời: ”Gọi tên thế nào hiểu được thì thôi, có đẹp đẽ duyên dáng gì mà làm bộ làm tịch như thế!”. Cô yên lặng không trả lời, có lẽ cảm thấy xót xa cay đắng lắm, vì bất cứ vấn đề gì, họ cũng đem cái diện mạo xấu xí của cô ra mà châm biếm!
Đối với các cải tạo viên thì lúc đầu cũng không có cảm tình đối với cô. Lúc buổi tối chuyện trò với nhau trong lán, có anh cải tạo nói:
– Con mụ đó có cho không, tao cũng không nhận!
– Nếu gặp con đó ở giữa rừng, có lẽ tao cũng co giò mà chạy cho thoát thân! Một anh khác thêm vào.
Tôi cố gắng can thiệp: “Nhan sắc phụ nữ là thứ Trời cho, chẳng may cô có một diện mạo xấu xí, thì đáng thương hại hơn là chê bai ruồng rẫy như vậy! Một anh lên tiếng: ”Nhưng cô ta lại còn khó khăn, bệnh nặng đến mấy cũng không cho nghỉ lao động!”
Tôi cố bào chữa cho cô một lần nữa: ”Đó là lệnh của trưởng trại, vì chỉ tiêu mỗi cải tạo viên là 40 cây giang, mỗi cây trị giá 4 hào, vị chi là 16 đồng, khẩu phần mỗi cải tạo viên là 2 hào một ngày, nếu cho nghỉ thì lấy gì mà bù vào số tiền sai biệt 15 đồng 8 hào!
Thêm một anh nữa chất vấn rằng: “Tại sao mỗi lần cải tạo viên đến khám bệnh, con mụ đó bắt anh em chúng ta phải đứng nghiêm cách xa ba bước rồi khai bệnh. Nếu không có ống nghe bệnh, thì cũng phải thò tay ra bắt mạch chứ, đằng này không, dường như nó sợ đụng chạm vào người bệnh nhân!”.
Câu chê trách này khiến tôi không thể bênh vực được, nhưng tôi nghĩ có thể có uẩn khúc gì đây!
Còn về thuốc men cô cấp phát thì anh em cũng phiền trách dữ lắm:
– Cảm sốt ư? Cô gói cho ba viên “Xuyên Tâm Liên”!
– Đau bụng ư? Cũng ba viên Xuyên Tâm Liên!
– Ngộ độc ói mửa vì cải thiện bậy bạ ư? Cũng Xuyên Tâm Liên!
Điều này cũng không thể kết án cô được vì cấp trên chỉ cấp cho cô một thứ thuốc độc nhất là Xuyên Tâm Liên để trị bệnh cho cải tạo viên.
Tôi còn nhớ một đêm tôi bị cảm sốt không ngủ được nên sáng sớm tôi xin khám bệnh. Cùng khám bệnh với tôi hôm đó là Bác Sĩ Thiếu Tá Long. Anh bị đau bụng tiêu chảy cả chục lần trong đêm. Tôi nhường anh khám trước vì anh bệnh nặng hơn tôi. Anh đứng nghiêm cách ba bước theo quy định và lên tiếng: ”Tôi bị tiêu chảy cả đêm nên mất sức lắm!”
“Tiêu chảy là cái gì? Cô y tá hỏi vì cô không hiểu tiếng miền Nam. Tôi vội lên tiếng thông dịch: ”Tiêu chảy là ‘đi tháo dạ‘ đó cô!”
Cô gói cho anh Long ba viên Xuyên Tâm Liên. Anh cầm lấy rồi phàn nàn rằng: ”Tôi đã học Y khoa ở Sài Gòn bảy năm, lại đi tu nghiệp một năm ở Hoa Kỳ, thêm kinh nghiệm sáu năm chữa bệnh trong các bệnh viện dã chiến, tôi chưa thấy thuốc nào chữa được bách bệnh như Xuyên Tâm Liên của cô!”
Phản ứng tức thời của cô Nữ là giật phắt gói thuốc trên tay anh Long lại và nói: ”Không lấy thì thôi, còn lý sự nữa!”
Anh Long bèn xuống nước nói: ”Nếu không cho thuốc thì xin cô cho phép tôi nghỉ lao động hôm nay vì tiêu chảy suốt đêm nên sức yếu lắm !”
Cô đáp: “Còn lý luận được là còn đủ sức lao động! Đi làm !!!”
Anh buồn bã đi ra sân tập họp với các bạn để sửa soạn đi lao động.
Đến phiên tôi khai bệnh, tôi nói vắn tắt là bị cảm sốt. Cô gói cho tôi ba viên Xuyên Tâm Liên. Tôi cầm lấy và để tỏ thái độ bất bình của tôi đối với cử chỉ vừa rồi của cô với Bác Sĩ Long, tôi quay ngoắt đi thẳng ra sân tập họp đi lao động!
Cô gọi tôi lại và hỏi rằng: ”Sao anh không xin phép nghỉ?”. Tôi đáp: ”Anh Long bị bệnh nặng hơn tôi nhiều, thế mà cô còn không cho nghỉ, thì tôi xin làm gì cho mất thời giờ!”.
Có lẽ hối hận vì cử chỉ sống sượng với anh Long nên cô nói: “Thôi được, tôi cho anh nghỉ hôm nay, nhưng khi bớt sốt thì anh giúp dọn dẹp phòng khám bệnh này nhé!”.
Tôi không ngờ sự “hờn mát” của tôi mà lại có hiệu quả tốt như thế, nên nhận lời ngay !
Cô rót cho tôi một cốc nước vối để uống thuốc, rồi chỉ vào cái chõng (giường nhỏ bằng tre) ở góc phòng và nói :” Uống thuốc rồi nằm nghỉ ở đó, khi nào đỡ sốt thì hãy dọn dẹp”.
Thuốc Xuyên Tâm Liên là loại thuốc tễ, làm bằng thảo mộc, viên đen xì, chỉ có công hiệu về cảm sốt thôi, nên đúng bệnh của tôi. Uống thuốc vào, tôi ngủ một giấc cho đến 2 giờ chiều mới thức dậy!
Thấy cô Nữ đang ngồi ở bàn, tôi hỏi: ”Sao cô không đánh thức tôi dậy?”.
“Thấy anh ngủ ngon nên tôi để yên cho anh lấy lại sức”. Cô đáp.
Tôi lấy chổi quét dọn phòng khám bệnh, rồi sắp xếp các vật dụng cho có ngăn nắp. Thấy hôm nay cô dễ dãi nên tôi bạo miệng chất vấn cô rằng:” Tại sao mỗi lúc khám bệnh, cô đều bắt anh em cải tạo chúng tôi đứng nghiêm chỉnh cách cô ba bước, như thế nghĩa là thế nào?”.
Cô đáp ngay:” Vì ngụy quân các anh là các thành phần nguy hiểm!”.
“Nguy hiểm ra sao? Xin cô cho biết?”. Tôi hỏi tiếp.
Cô nói dằn từng tiếng: “Nghĩa là ngụy quân các anh đã ăn gan uống máu các chiến sĩ cách mạng mỗi khi họ bị bắt, anh đã rõ chưa?”.
“Nhưng chính mắt cô có được thấy như thế không?”. Tôi thắc mắc.
Cô đáp: ”Tuy tôi không được chính mắt nhìn thấy cảnh này, nhưng tôi được học tập và trong buổi học tập có nhân chứng là một chiến sĩ cách mạng đã vượt Trường Sơn vào giải phóng miền Nam. Anh chiến sĩ đã kể lại rằng trong một trận chiến thắng được một đồn của ngụy quân ở vùng Vàm Cỏ Đông, anh vội vàng vào giải cứu các chiến sĩ cách mạng đã bị bắt mấy tuần trước và bị giam ở đồn này. Nhưng đến lúc tìm gặp được thì hỡi ơi, họ chỉ còn là những xác chết và xác nào cũng giống nhau, nghĩa là bị mổ bụng lấy mất lá gan, và cổ còn in những vết răng, chứng tỏ các anh ấy bị hút máu trước khi chết. Như thế ngụy quân các anh còn chối nữa sao?”
Tôi nói với giọng chua xót: ”Đấy chỉ là luận điệu tuyên truyền. Nếu đúng như vậy thì tại sao trong lúc học tập cải tạo đói khổ như thế này, chúng tôi không “ăn thịt” lẫn nhau mà còn, như cô thấy đấy, nhường nhau từng miếng sắn, chặt giúp cho nhau từng cây Giang để đỡ cho những người đau yếu!
Cô yên lặng không trả lời vì những lời tôi nói, cô đã được mục kích tận mắt!!! Từ đó trở đi, cô đã đổi hẳn thái độ, không còn bắt anh em cải tạo mỗi khi khám bệnh phải đứng nghiêm cách cô ba bước nữa, mà cô còn sờ trán, bắt mạch để định bệnh. Chính bản thân cô còn vào sâu trong rừng để tìm một số lá cây, rễ cây có tính chất dược thảo theo kinh nghiệm của cô, để phụ với Xuyên Tâm Liên trong việc trị bệnh cho cải tạo viên.
Những loại lá rừng này nhiều khi rất hiệu nghiệm trong việc chữa trị như trường hợp bị “vắt” cắn. Vắt là một loại đỉa rừng sống trên cây, chỉ bằng phân nửa đỉa ruộng. Mỗi khi ngửi thấy hơi người đi qua là nó buông mình rơi xuống bám vào thân thể người ta, nhưng không hút máu ngay, mà chui vào chỗ nào ấm nhất như háng, nách hay bụng rồi mới hút máu. Đặc điểm của vắt rừng khác với đỉa ruộng là khi hút máu xong, vết thương vẫn tiếp tục rỉ máu.
Cô Nữ đã biểu diễn việc chữa trị các vết thương rỉ máu này bằng cách cô lấy một nắm lá mà cô gọi là “lá tầu bay”, cô nhai nát rồi “nhổ toẹt” vào lòng bàn tay cô, rồi cô nhón lấy từng chút một, chia cho các cải tạo viên và chỉ cho họ đắp vào các vết bị vắt cắn. Thật là thần diệu, máu cầm lại tức thì!
Cô còn lấy một số “lá tầu bay” còn tươi giơ ra cho mọi người nhận biết và nói rằng: ”Chỗ nào có xuất hiện vắt, thì chỉ trong vòng 10 thước, thế nào cũng có loại “lá tầu bay” này. Các anh cứ việc tự hái lấy, nhai nát rồi đắp vào chỗ vắt cắn là cầm máu ngay, đừng có đợi đến chiều tối về trại xin khám bệnh, thì máu chảy quá nhiều, mất sức lắm!”. Thật đúng là “Trời sinh, Trời dưỡng”. Khi Trời đã để một tai biến xảy đến với con người, thì thế nào Trời cũng sinh ra cách trị liệu, chỉ tiếc rằng con người không biết đến mà thôi!
Cô còn nhờ những cán bộ đi phép mua giùm cô củ gừng, củ nghệ, cây lá lốt, tía tô, kinh giới… để cô trồng thành một vườn thuốc nhỏ do chính cô chăm sóc. Chẳng bao lâu cô tạo được cả một tủ thuốc thảo mộc. Ngoài thuốc Xuyên Tâm Liên được cấp phát để trị cảm sốt, còn các bệnh khác như đau bụng, tiêu chảy, ho, nhức đầu, ghẻ lở, đau mình… cô đều có thuốc tự chế để điều trị cả!
Đúng là cô vừa đóng vai một người thầy thuốc (physician), vừa đóng vai một nhà bào chế thuốc (pharmacist) để lo chữa trị cho hơn 600 cải tạo viên chúng tôi! Đáng lẽ công tác này phải có chừng cả chục người: Bác sĩ, dược sĩ, y tá mới đảm đương nổi, mà nay chỉ có một mình cô đơn độc gánh vác!!!
Chúng tôi phục cô quá và đổi hẳn thái độ đối với cô. Ai nấy đều tỏ ra kính cẩn và biết ơn cô.
Gặp cô ở đâu, mọi người đều chào hỏi lễ phép: ”Chào cô Nữ, cô vẫn được mạnh giỏi chứ!”.
Cô niềm nở đáp lại: ”Vẫn được bình thường, còn các anh thì sao?”
Đó là một niềm an ủi lớn lao đối với chúng tôi trong suốt thời gian cải tạo, thiếu thốn đủ mọi điều!
Ngoài những thiếu thốn về vật chất như đói kém, chẳng bao giờ được ăn đủ no, mà khẩu phần chỉ có sắn với mắm chược (một loại mắm cá thối), chỉ có ngày mồng một Tết Nguyên Đán mới được ăn cơm; chúng tôi còn có những thiếu thốn về tinh thần như xa gia đình, xa những người thân thích. Sống ở nơi “thâm sơn cùng cốc”, hàng ngày chỉ làm bạn với rừng già và quản giáo, chỉ nghe được những tiếng “khỉ ho, cò gáy”, mà không hề nhận được tin tức gì về xã hội bên ngoài. Chúng tôi trở nên đói khát cả tin tức nữa, thèm khát tin đến nỗi hàng đêm chúng tôi phải đem những giấy gói thuốc “Xuyên Tâm Liên” của cô y tá đến chỗ ngọn đèn dầu lạc lờ mờ ở cuối lán, cố ghép lại với nhau với hy vọng là thấy được tin tức gì ở bên ngoài. Nhưng những mảnh giấy gói thuốc này vốn cắt ra từ tờ báo, chỉ to bằng nửa bàn tay, lại “đầu Ngô, mình Sở” chẳng ăn nhập gì với nhau cả, vì cô y tá phụ trách khám bệnh cho tới 10 đội, nên mỗi đội chỉ nhận được vài ba gói thuốc mà thôi, may lắm thì được vài tin tức như quảng cáo, thi đua, anh hùng lao động, chẳng liên quan gì đến mình cả, nhưng vẫn ráng đọc để cho đỡ nhớ mặt chữ! Mang tiếng là học tập cải tạo mà có bao giờ thấy được sách báo gì đâu, chỉ toàn là lao động chân tay thôi! Nghĩ lại ngày xưa, thời còn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, sách báo tràn ngập, mình chỉ chọn những sách báo hay mới đọc, còn không thì liệng đi. Bây giờ cảnh ấy chỉ còn thấy trong giấc mơ thôi!
Một hôm tôi bị đau răng. Số là chiếc răng khôn (wisdom tooth) ở hàm dưới của tôi lại mọc trong thời gian tôi cải tạo, mà nó lại mọc bất thường, nghĩa là mọc vào chỗ chiếc răng hàm kế bên và đội chiếc răng hàm này lên, khiến mặt tôi sưng húp! Tôi cầu cứu đến cô Y Tá Nữ. Cô không có kinh nghiệm về việc làm của nha sĩ, nên cô đề nghị nhổ. Tôi đành phải chấp nhận giải pháp này vì đau quá không chịu nổi!
Cô lấy sợi chỉ chập đôi lại, rồi cột vào chân chiếc răng khôn đang mọc nửa chừng của tôi. Cô bảo tôi nhắm mắt lại, rồi cô giật mạnh. Sức cô quá mạnh, nên không những làm chiếc răng khôn tung ra, mà còn kéo theo cả chiếc răng hàm kế cận ra khỏi miệng, đồng thời máu cũng tuôn vọt ra đầy miệng. Cô vội vàng lấy chiếc khăn tay trắng của cô đưa cho tôi để đắp vào vết răng vừa nhổ và cấp tốc đi tìm phương tiện cầm máu. Một lát sau cô mang lại một mớ thuốc lào và đắp vào vết thương của tôi. Chừng 10 phút thì máu cầm lại. Tôi đem chiếc khăn tay đầy máu ra ngoài chum nước mưa để giặt. Nhưng vì không có xà bông nên giặt không sao sạch được! Tôi đem trao lại chiếc khăn còn vết máu và nói: “Xin lỗi cô, vì thiếu xà bông nên không sạch được!”. Cô cười đáp: “Xà phòng là một thứ xa xỉ phẩm nên ở đây không có, ở quê tôi họ dùng quả “bồ hòn” thay cho xà phòng cũng tốt lắm! Thôi giữ nguyên cái khăn này để làm kỷ niệm lần đầu tiên tôi đóng vai trò nha sĩ đấy!”.
Một buổi chiều khi chặt giang về, quản giáo ra lệnh tập họp điểm danh thì thấy thiếu anh Bác Sĩ Long. Anh Long có tính thích lao động một mình. Nhóm gồm ba Bác Sĩ Phát, Tâm và Lộc có mời anh gia nhập nhưng anh từ chối. Nhóm tôi cũng mời anh, nhưng anh cũng không nhận lời. Tôi có nói với anh rằng: ”Lao động chặt Giang trong rừng già này cần phải gia nhập nhóm vì ngộ lỡ có tai nạn xảy ra thì còn có người giúp đỡ”. Nhưng anh đáp: “Sống chết đều có số Trời, nếu đến ngày tận số thì có gia nhập đến ba nhóm cũng thế thôi!”.
Anh Đại Úy Khương báo cáo: ”Buổi trưa tôi còn thấy anh Long chặt Giang ở sườn núi phía trái suối nước”.
Quản giáo ra lệnh cho anh Khương và tôi trở lại tìm kiếm. Sau chừng nửa giờ xục xạo ở sườn núi phía trái, chúng tôi kiếm được anh Long. Anh đã ngất đi, mặt tái xanh. Kiểm soát thì thấy chân phải anh bị sưng lên vì một vết rắn cắn. Chúng tôi cấp tốc khiêng anh về trại. Quản giáo chỉ thị chúng tôi khiêng anh lên phòng cô Y Tá Nữ. Bắt mạch thấy nhịp tim rất yếu, cô biết tình trạng nguy kịch, nên nói với anh bộ đội bảo vệ: ”Anh mang súng theo tôi vào rừng để kiếm “lá kỵ rắn” thì mới có thể cứu được!”. Anh bộ đội từ chối phắt ngay: ”Buổi tối mà vào rừng già thì chỉ làm mồi cho thú dữ thôi! Nếu là chiến sĩ cách mạng thì tôi sẵn sàng đi với cô. Đằng này là một tên tù ngụy quân mà cô lại bảo tôi hy sinh tính mạng cho nó sao!”.
Thấy nhờ không được, túng thế, cô bèn nói với tôi: ”Anh đi với tôi được không?”. Tôi đáp: ”Sẵn sàng, nhưng cô phải xin phép chú quản giáo của tôi trước đã”. Cô nói với quản giáo, lúc đầu chú còn ngần ngừ nhưng vì thấy tình trạng nguy kịch của anh Long nên chú đồng ý. Cô bèn thắp sáng chiếc “đèn bão” và đưa cho tôi cầm, còn cô thì xách con “dao quắm” chặt giang của tôi. Tôi vội nói: ”Cô cầm đèn đi, để tôi cầm dao quắm cho, lỡ có gì nguy hiểm xảy ra thì tôi còn bảo vệ cô chứ!”. Cô đáp: ”Anh yếu đuối như thế này thì bảo vệ bản thân anh cũng không xong, còn nói bảo vệ ai nữa!”. Nhìn thân hình vạm vỡ của cô, tôi thấy cô nói đúng.
Chúng tôi đi thẳng vào trong rừng. Cô không đi theo đường mòn mà đi vào những bụi rậm với lý do là nơi nào có rắn sinh sống thì nơi ấy hay có “lá kỵ rắn”. Lùng sục chừng một tiếng đồng hồ mà cô không tìm ra “lá kỵ rắn”. Bỗng nhiên có tiếng động ở phía trước, dưới ánh đèn bão, tôi thấy xuất hiện một con lợn rừng đồ sộ chừng hơn 200 ký xông thẳng đến phía chúng tôi. Tôi hoảng sợ định bỏ chạy, nhưng lúc đầu lỡ nói cứng là bảo vệ cô, mà nay lại chạy thì còn ra thể thống nào nữa! Đang lúc tôi còn đang lưỡng lự, thì bỗng thấy cô Nữ lao thẳng về phía trước, tay vung dao quắm, miệng thì hét lên. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng hét của cô vang dậy cả núi rừng, khiến cho con lợn rừng chưa giao chiến mà đã chạy rồi! Cô quay lại nhìn tôi, thấy tay tôi cầm đèn còn run, khiến ánh sáng chao đảo. Cô trấn an: ”Nó chạy rồi, đừng sợ nữa!”. Tôi đáp: ”Tôi sợ cả tiếng hét của cô nữa!”. Đi chừng nửa giờ nữa, cô kiếm được lá kỵ rắn. Cô hái một mớ lá, rồi chúng tôi cấp tốc trở về trại. Về đến nơi, một phần “lá kỵ rắn” cô bỏ vào miệng nhai nát, rồi đắp lên chỗ rắn cắn của anh Long; phần còn lại, cô cho vào nồi sắc lấy nước. Chừng nửa giờ sau, thuốc nấu xong, tôi cậy miệng anh Long để cô đổ từ từ từng chút một vào miệng ảnh.
Nhờ trong uống ngoài thoa, nên chỉ chừng một giờ sau, tôi thấy tay Bác Sĩ Long cử động, rồi mắt từ từ mở ra. Tôi nói nhỏ vào tai anh: ”Cô Nữ đã cứu sống anh đó!”. Anh chưa nói được, nhưng gật đầu tỏ vẻ cảm động lắm!
Ngay sáng sớm, tôi vội đi báo với quản giáo là chúng tôi đã cứu sống được Bác Sĩ Long. Quản giáo khen ngợi tài chữa bệnh của cô Nữ, nhưng đối với tôi thì chú ra lệnh xếp hàng vào đội của tôi để sửa soạn đi lao động. Cô Nữ vội vàng can thiệp: ”Cả đêm anh ấy với tôi, lúc thì đi tìm “lá kỵ rắn”, lúc thì lo chữa trị cho anh Long, có chợp mắt được chút nào đâu, nhờ đồng chí cho anh ấy được nghỉ lao động hôm nay”. Nhưng quản giáo nhất định giữ nguyên lập trường: “Đây là anh ấy tự nguyện giúp anh Long, chứ tôi có ép buộc gì đâu! Phải đi làm vì không có ai chặt Giang thế cho anh ấy cả!”. Thế là tôi vẫn phải đi lao động, mặc dầu cô Nữ đã hết lòng xin.
Mùa hè năm 1978, thời tiết rất nóng, một tai họa lại xảy đến với trại cải tạo của chúng tôi. Đó là một số anh em cải tạo viên bị mắc bệnh sốt rét rừng. Đây là một loại sốt rét cấp tính, mỗi ngày lên ba cữ sốt nóng rồi rét run, và chỉ chừng ba tuần lễ sau là “lên đồi”, tiếng riêng của chúng tôi để chỉ việc đem đi chôn. Có một thủ tục ở trại cải tạo là không bao giờ để xác chết ở trong trại quá một ngày. Nếu chết ban ngày thì ngay nửa đêm hôm đó là phải đem đi chôn. Đám tang tù cải tạo thật là thiểu não. Thi thể người chết chỉ có một cái quần đùi và một cái áo mong manh. Không có quan tài, đến chiếu để bó xác chết cũng không có nữa. Dưới ánh đèn bão chập chờn, thi thể được cho vào một cái võng để khiêng đi. Theo lệnh cán bộ chỉ huy đám tang thì không được chôn ở dưới thung lũng mà phải lên trên sườn núi mà đào huyệt. Vì đất ở sườn núi lẫn với đá nên rất khó đào. Huyệt mới đào chưa đầy một thước thì cán bộ đã ra lệnh cho vùi thi thể xuống và lấp đất lại. Chúng tôi có đóng một cái cọc để đánh dấu mộ phần, nhưng chỉ vài ngày sau đi lao động ngang qua thì thấy vung vãi chung quanh vài mảnh quần áo của người quá cố. Thì ra đêm đến, heo rừng đã đánh hơi được xác chết nên đã đào lên để ăn. Thế cũng xong một kiếp người!
Cô y tá có trình với trưởng trại để xin thuốc ký ninh (quinine) trị bệnh sốt rét. Mặc dù trưởng trại có làm văn thư xin, nhưng không được cấp phát vì thời gian năm 1978 xảy ra cuộc chiến tranh với nước Cộng Sản láng giềng Cam Bốt ở miền Nam nên mọi việc đều phải ưu tiên cho cuộc chiến này.
Bệnh sốt rét là một bệnh có thể trị được, nhưng vì không có thuốc ký ninh, nên cải tạo viên nào mắc phải là coi như lãnh án tử hình.
Thật không may cho tôi, chính tôi lại bị bệnh sốt rét rừng này! Một ngày lên ba cữ sốt nóng rồi sau đó lại rét run, nên chỉ chừng một tuần sau là tôi chỉ còn da bọc xương. Tôi không buồn về việc mắc bệnh nan y này, mà coi đây là một sự giải thoát khỏi kiếp tù đầy! Tôi dặn dò ba anh bạn thân cùng tổ gồm Đại Úy Khương, Thiếu Tá Thiệt và Trung Tá Bách là khi tôi chết thì chỉ cần mặc cho tôi cái quần đùi và chiếc áo may-ô, còn quần áo còn lại thì chia cho ba người. Ba anh chỉ nhìn tôi mà ngậm ngùi gạt nước mắt vì các anh đều bất lực trước bệnh sốt rét! Các anh chỉ biết đỡ tôi lên phòng y tế và khẩn khoản xin cô y tá chữa giùm. Nhưng không có thuốc ký ninh thì cô cũng bó tay chịu thua, như cô đã bó tay đối với hơn 30 cải tạo viên trong trại đã ra đi vì bệnh sốt rét này! Cô cho biết ở Khu Tư (Thanh Hóa), là nơi cô sinh trưởng, có loại ớt rừng đặc biệt, tuy rất hiếm, có thể chữa trị được bệnh sốt rét, nhưng ở đây, cô đã khổ công đi tìm mà không thấy! Nhưng cô cũng an ủi tôi là cô sẽ cố công đi sâu vào những nơi hiểm hóc trong rừng già, may ra kiếm được chăng?
Cô Nữ săn sóc tôi rất tận tâm, hàng ngày cô lấy nửa phần cơm của cô hòa với nước, và nấu cháo cho tôi ăn. Ngửi mùi cháo, tôi thèm lắm, nhưng chỉ ăn được vài muỗng là tôi lại ói ra. Hàng ngày sau khi đi lao động về, ba anh bạn thân cùng tổ lại lên thăm tôi. Nhìn sắc diện tôi ngày một kiệt lực, các anh không ngăn được nước mắt!
Chừng một tuần lễ sau, một buổi tối, vào khoảng 9 giờ, tôi lên cơn sốt nặng chừng hơn 40 độ C, cô Nữ cuống lên, chỉ biết lấy khăn ướt mà lau mặt cho tôi để hạ nhiệt. Bỗng cô đứng lên và nói lớn: ”Tôi phải cố công ngay bây giờ, tìm cho được cây ớt rừng mới thôi!”; Tôi vội vàng ngăn lại: ”Ban ngày cả mấy tuần nay, cô đã đi tìm mà có thấy đâu! Nay đang đêm mà cô đi một mình vào rừng sâu thì nguy hiểm lắm!” Cô đáp: ”Tôi nghĩ rằng, Trời thấy tôi hết lòng, chắc chẳng nỡ phụ tôi đâu!”. Thế là cô thắp sáng cây đèn bão và một tay cầm dao quắm, một tay cầm đèn rời khỏi phòng khám bệnh. Tôi vội vã la lớn lên :” Đừng đi, cô Nữ ơi! Nguy hiểm lắm!”. Nhưng cô đã quyết ý nên đi thẳng luôn. Tôi vội vã ngồi dậy, định chạy giữ cô lại, nhưng mới đi được một bước thì tôi quỵ xuống vì kiệt lực, không còn đi nổi nữa! Tôi đành phải bò lại cái chõng tre, rồi nằm chờ đợi cô về.
Rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua. Tôi nhìn chiếc đồng hồ nhỏ ở trên bàn, đã mười hai giờ đêm mà không thấy cô trở về, một giờ sáng cũng không thấy nữa. Tôi tự nhủ thầm: “Nếu cô có mệnh hệ gì thì thật là ân hận cho tôi! Mạng tôi đã an bài rồi, sao cô lại phải liều lĩnh như thế!”. Ba giờ sáng cũng không thấy cô trở về nữa, khiến tôi càng lo sợ thêm cho số phận cô. Đến bốn giờ sáng thì thấy tiếng động ở cửa và cô Nữ hiện ra!
”Ối Giời ơi! Cô đã trở về!” Tôi kêu lên mừng rỡ!
Nhìn cô quần áo rách tả tơi, đầu tóc rối bù, mặt và hai tay bị gai rừng đâm làm rướm máu.
“Cô không bị thương chứ!”. Tôi hỏi.
Cô giơ cao một bó rễ cây và nói: ”Không sao! Đúng là Trời không phụ tôi nên tôi đã kiếm được một bụi ớt rừng rồi và đào lấy một mớ rễ. Cả một bụi ớt lớn, ở trong hang đá cách đây chừng hơn 10 cây số. Tôi đã ghi dấu để sau này đi lấy tiếp”.
Cô chẳng nghỉ ngơi gì cả, đi thẳng ra chum nước mưa để rửa rễ ớt và cho vào nồi để sắc thuốc. Chừng hơn một giờ sau, cô đem bát thuốc rễ ớt rừng cho tôi uống.
Cô nói: ”Cố uống thật nóng và uống thật từ từ để tránh bị mửa ra!”. Uống xong bát thuốc, mồ hôi tôi vã ra như tắm.
Tiếp đó, cứ một ngày tôi uống bốn bát thuốc sắc rễ ớt rừng. Cơn bệnh sốt rét rừng của tôi từ từ bớt. Đang một ngày lên ba cữ sốt nóng rồi rét run, nay rút xuống hai cữ một ngày, rồi một cữ một ngày. Nhưng phải hơn một tháng, tôi mới dứt được căn bệnh sốt rét, vì rễ ớt rừng không công hiệu mạnh như thuốc ký ninh. Cô Nữ mừng lắm, vì không những cô cứu được mạng sống cho tôi, mà từ đó các cải tạo viên nào bị sốt rét, cô cũng đều cứu được cả.
Nhưng riêng tôi thì tôi cứ nghĩ mạng sống con người là do số Trời đã định, dù có muốn chết cũng không được và lúc này tôi cảm thấy thấm thía câu thơ trong truyện Kiều:
– ”Người dù muốn chết, Trời nào đã cho”.
Ngay khi được tin tôi đỡ được bệnh sốt rét, thì một buổi sáng đẹp trời, quản giáo đến gặp tôi ở phòng khám bệnh. Chú nói với cô Nữ: ”Tên này gần hai tháng nay vẫn ngày hai bữa sắn mà chẳng lao động sản xuất được gì cả! Đúng là tên “ăn hại đái nát”, ngày mai hắn phải trở lại đội của tôi để đi lao động chặt giang”.
Cô Nữ ngăn lại: ”Anh ta bị bệnh sốt rét, chứ có phải lười biếng gì đâu! Nay mới dứt bệnh, nhưng còn yếu lắm, chưa có thể lao động nặng được đâu!”
– ” Tôi đã quyết định, hắn phải đi lao động sản xuất ngay ngày mai!”. Chú quản giáo ra lệnh.
Cô Nữ đáp: ”Nếu làm theo ý đồng chí thì chỉ vài tuần sau, đồng chí lại mất công đi chôn anh ấy thôi!”.
– ”Thế thì cô tính sao?” Chú quản giáo hỏi.
Cô Nữ đề nghị: ”Nếu đồng chí đồng ý, tôi sẽ lên nói với thủ trưởng cho anh ta tạm thời làm việc ở đội rau xanh. Chừng một tháng khi bình phục hẳn thì sẽ trở lại đội của đồng chí”.
Quản giáo hằn học nói: ”Thôi thế cũng được!”.
Thế là sau đó tôi được gia nhập đội rau xanh. Đội này gồm có 15 người gồm 9 ông đại tá già và 6 người còn lại cũng đều ốm yếu cả. Nhiệm vụ của đội này là chăm sóc vườn rau xanh của trại. Trông coi đội này là một quản giáo “non choẹt”, khoảng chừng 20 tuổi, nhưng rất lắm điều!
Mỗi buổi sáng, chúng tôi phải gánh phân và nước tiểu từ 10 lán cải tạo viên và 2 lán cán bộ đem ra suối để pha chế. Phân này được chú quản giáo gọi là “phân bắc”, phải được pha chế đều với nước suối để đem đi tưới rau. Tôi gánh hai thùng phân ra tới suối, múc nước đổ vào rồi dùng chiếc gáo dừa để khuấy cho đều. Sau đó gánh phân đến vườn rau trong trại để tưới. Tưới rau xong thì phải xới đất và nhổ cỏ cho đến trưa. “Phân bắc” rất tốt cho rau xanh. Nhìn những luống rau muống xanh biếc, những luống rau dền đỏ tía, những giàn mồng tơi xanh rờn, những giàn mướp nặng chĩu quả, chúng tôi thèm lắm, nhưng đâu có được ăn vì tất cả phải dành cho cán bộ. Tôi còn nhớ một hôm giàn mồng tơi bị hái đi vài đọt do ai đó “cải thiện”, quản giáo giận lắm, họp cả đội rau xanh lại để tìm thủ phạm. Sau cả tiếng đồng hồ kiểm thảo mà không kiếm ra thủ phạm, quản giáo đi đến kết luận: ”Một con sâu làm rầu nồi canh” và chú dùng biện pháp trừng phạt cả đội bằng cách bắt chúng tôi nhịn ăn bữa sắn buổi chiều. Đêm đó cả đội đói meo, chúng tôi cằn nhằn lẫn nhau và quyết định từ đây về sau tất cả phải khắc phục sự thèm muốn để tránh tai hoạ cho cả đội.
Mỗi buổi trưa, cả đội được dừng tay nghỉ chừng nửa giờ để ăn sắn. Tôi xin phép quản giáo cho ra suối rửa tay. Chú từ chối ngay: ”Không được! Phải tranh thủ thời gian!”. Tôi thấy một bác đại tá già ra hiệu cho tôi, bác lấy tay chùi vào đám cỏ để chỉ cho tôi đó là cách làm vệ sinh trước khi ăn trưa. Tôi làm theo, đúng là “nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc”. Khác với đội chặt Giang của tôi, tuy có nặng nhọc thật, làm việc “chảy mồ hôi, sôi nước mắt”, nhưng được cái tự do. Chỉ khi nào chặt đủ chỉ tiêu 40 cây giang một ngày mới phải về trình quản giáo để được “nhiệm thu”. Đằng này ở đội rau xanh, chú quản giáo “non choẹt” này luôn luôn ở kè kè bên cạnh, chửi mắng hạch sách đủ điều. Tôi thấy các bác đại tá đều giữ thái độ im lặng và đôi khi thở dài về hành động của chú quản giáo quái ác này! Tôi biết các bác đại tá này, bác thì từng làm trung đoàn trưởng, điều hành cả ngàn binh sĩ trong tay, “ hét ra lửa, mửa ra khói” một thời; bác thì làm đại tá tỉnh trưởng, trông coi cả trăm ngàn dân chúng, “tiền hô, hậu ủng”. Thế mà nay lại bị một anh chàng “non choẹt”, chỉ đáng anh binh nhì làm “tà lọt” cho mình, mà lại la mắng, hành hạ đủ điều! Đúng là các bác đã lâm vào hoàn cảnh “lên voi xuống chó”! Tại sao lại có tình trạng như vậy? Chú Quản giáo trẻ này không phải thuộc thế hệ cha anh đã phải vượt Trường-sơn vào Nam chiến đấu, tức là không phải chịu gian khổ trong việc “ giải phóng miền Nam” mà tại sao chú lại đối xử với những tù binh cải tạo như có một “mối thù truyền kiếp” như vậy? Tôi chợt nhớ đến lời cô y tá Nữ cho biết là cô phải học tập chính trị hàng tuần. Thì ra đây là một chính sách của các lãnh tụ Đảng và Nhà Nước Cách Mạng bắt các bộ đội chiến đấu, cán bộ hành chánh, cán bộ chuyên môn và cả người dân tại những thôn xóm ở thôn quê cũng như các tổ khu phố ở thành thị, đều phải học tập để quán triệt chính sách của Đảng và Nhà Nước Cách Mạng. Chính sách này cốt yếu tạo ra lòng căm thù của đồng bào miền Bắc đối với cái gọi là “ngụy quân, ngụy quyền” ở miền Nam. Hơn thế nữa, Đảng còn khơi dậy lòng căm thù giữa những nông dân miền Bắc với nhau qua phong trào “Cải Cách Ruộng Đất”. Phong trào này đã biến những nông dân vốn dĩ hiền lành chất phác, trở nên hung hãn trong những cuộc “đấu tố” ở miền quê, đầy máu và nước mắt.
Những chính sách sắt máu này đã được Đảng đưa vào sách giáo khoa để đầu độc cả những tâm hồn ngây thơ trong trắng của học sinh. Như thi sĩ Tố Hữu đã cổ động phong trào Cải Cách Ruộng Đất, làm dấy lên lòng căm thù giữa các nông dân trong “Bài ca tháng Mười”:
Giết! Giết! Giết! Bàn tay không ngừng nghỉ,
Để ruộng đồng thêm tốt, lúa thêm xanh,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch,thờ Xít-ta-lin bất diệt!
Chính sách căm thù này có đặc điểm là dân tộc Việt được học tập để căm thù chính dân tộc mình! Chính sách căm thù này đã được, trong một thời gian, đưa vào sách giáo khoa, vào trường học, vào nền giáo dục ở miền Bắc, để thay đổi cả một nền Văn hoá, biến một số đồng bào miền Bắc, đang từ một dân tộc hiếu hòa, trọng đạo đức, trở thành một dân tộc hiếu chiến, giả dối và coi bất cứ phương tiện nào đưa đến thành công, đều là phương tiện tốt cả! Mẹ Âu-Cơ luôn luôn dạy dỗ đàn con Lạc Hồng là phải yêu thương lẫn nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nếu có hiềm khích lẫn nhau, thì tìm cách hóa giải mối bất hòa và dành tài sức để đoàn kết mà chống giặc ngoại xâm:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!
Cũng với nhà thơ Tố-Hữu, người đã làm tới phó thủ tướng trong chính quyền cách mạng và ủy viên Bộ Chính tTrị của Đảng Cộng Sản Việt Nam, còn khơi động phong trào tôn thờ lãnh tụ ngoại bang, mà quên đi cội nguồn dân tộc. Nhà thơ đã khóc trước cái chết của Stalin, lãnh tụ Cộng sản Liên-xô, trong bài thơ “Đời đời nhớ Ông” :
“Ới Ông Xít-ta-lin ơi!
Nghe tin Ông mất, Đất Trời còn không?
Thương Cha, thương Mẹ, thương Chồng,
Thương Mình thương một, thương Ông thương mười!”
Nhà thơ còn đưa Stalin lên hàng thần tượng để tôn thờ:
“Yêu biết mấy, nghe con tập nói,
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin!”
Và thật sự ra Stalin là ai? Đó là một tên đồ tể của Liên Sô, người đã ra lệnh giết cả triệu người trên toàn thế gìới, cũng như đã ra lệnh tập trung cả triệu người trong các “Gulag”, một loại trại lao động khổ sai, ở vùng Tây Bá Lợi Á (Siberia), một vùng hoang vu lạnh lẽo ở nước Nga. Chính Đảng và Nhà Nước Cách Mạng đã sao chép lại cái gọi là Gulag này và đặt cho một cái tên văn hoa là trại Học Tập Cải Tạo ở Việt Nam.
Trong khi các vị Anh Hùng Liệt Nữ giống nòi Việt như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê- ợi, Nguyễn Huệ…sao không tôn thờ, mà lại chọn những người ngoại bang sắt máu như Stalin, Mao Trạch Đông, những người mà cả thế giới đều lên án, thì ở Việt Nam, trong hai thập niên 1960 và 1970 lại có đất dung thân, được tôn thờ và hình ảnh được treo khắp nơi trên đất nước Việt!
Khi Đảng và Nhà Nước Cách Mạng tạo ra những chính sách hận thù dân tộc đối với đồng bào cùng trong một nước, họ có biết đâu rằng hận thù sẽ chồng chất, sau này khó giải quyết được. Họ tưởng rằng họ đặt ra vài trại tù binh kiểu mẫu như trại Phú Sơn, rồi mời các phóng viên ngoại quốc đến chứng kiến cảnh chính quyền cách mạng đối xử nhân đạo với tù binh đúng theo quy ước quốc tế Genève về tù binh thì mọi việc đều ổn thỏa cả. Còn những trại ở trong rừng sâu núi thẳm như những trại ở tỉnh Hoàng Liên Sơn, vắt sức lao động của tù binh để làm nên của cải vật chất cho cách mạng, coi mỗi trại tù binh cải tạo như một đơn vị phát triển kinh tế, bắt tù binh làm việc chặt giang 7 ngày một tuần, mỗi ngày từ 6 giờ sáng tới 5 giờ chiều, với chỉ tiêu là 40 cây Giang một ngày, mỗi cây Giang trị giá 4 hào, tổng cộng là 16 đồng, mà khẩu phần sắn của mỗi cải tạo viên chỉ đáng 2 hào một ngày, lại còn đối xử tồi tệ với tù binh để trả thù, thì nào ai biết được! Nhưng ở đời chẳng có gì có thể dấu được vĩnh viễn. Rồi ra con cháu và hậu duệ của những người tù binh cải tạo biết được, thì tự động lại dấy lên một mối hận thù chống lại Đảng và Nhà Nước Cách Mạng.
Mới ở đội rau xanh được chừng ba tuần, tôi đã xin với cô Nữ cho tôi được trở lại đội cũ chặt Giang. Cô ngạc nhiên hỏi :” Sao anh không ở đội rau xanh đủ một tháng để hồi phục sức khỏe”. Tôi nói dối rằng:” Tôi nhớ các bạn cũ nên muốn trở về”.
Nghe tin tôi trở về đội chặt giang, các bác đại tá buồn lắm. Lý do là vì trong ba tuần lễ ở đội rau xanh, cứ mỗi buổi tối nghỉ ngơi ở trong lán, tôi lại kể chuyện mua vui cho các bác nghe. Chuyện tôi kể là truyện “Tam Quốc Chí” rất hợp với sở thích của các bác. Nay đang đến hồi gây cấn mà tôi lại bỏ đi! Một bác đề nghị: “Thỉnh thoảng cậu nhớ trở lại đây thăm chúng tôi và kể tiếp tục nhé!”. Một bác khác tiếp lời: “Truyện đang kể đến hồi:
‘Khổng Minh cao đoán đường Hoa Dung,
Vân Trường vì nghĩa, tha Tào Tháo.’
Cậu nhớ lấy để mà kể tiếp tục”.
Tôi nói cho các bác an tâm: “Thế nào có dịp, tôi cũng trở lại thăm và hầu chuyện các bác”. Nhưng tôi biết điều đó không thể thực hiện được, vì nội quy của Trại cấm các cải tạo viên không được liên hệ với đội khác, nếu vi phạm sẽ bị “tù kỷ luật”.
Về Đội cũ, các anh em đều vui mừng chào đón tôi. Các anh đều nói tôi là người “trở về từ địa ngục” vì bị bệnh sốt rét rừng, không có thuốc ký ninh mà vẫn sống sót! Anh Đại Úy Thạch Sơn nói: ”Hàng đêm nhớ anh quá! Anh đang kể truyện “Đông Châu Liệt Quốc” rồi mắc bệnh, làm gián đoạn đã gần hai tháng nay rồi, mời anh tiếp tục kể mua vui cho chúng tôi đi!”. Anh bạn tôi, Đại Úy Khương phản đối: ”Anh ấy bị bệnh nan y, mới bình phục trở về, chưa giúp đỡ được gì, đã bắt phải hầu chuyện rồi!”. Anh Sơn hăng hái đáp: ”Tôi sẽ chặt ủng hộ anh hai cây Giang!”. Một số anh khác cũng hứa chặt giúp tôi một cây Giang. Thế là không thể đừng được, tôi lại tiếp tục kể chuyện hàng đêm. Đúng là “mồm miệng đỡ chân tay”.
Thời gian lại lặng lẽ trôi qua, nhưng cái hạn của tôi chưa hết, đúng là “họa vô đơn chí”. Mới chừng chưa đầy một tháng sau, một buổi đi chặt Giang, tôi bị con gì chích ở mắt cá chân phải. Mới đầu chỉ thấy ngứa, nhưng qua hai ngày sau, chân tôi sưng phù lên như chân voi, phải chống gậy mới lết đi được! Quản giáo tôi giận lắm, chú nói: ”Tên này đúng là ‘phường ăn hại đái nát’, mới lao động trở lại chưa đầy một tháng lại giở chứng rồi!”.
Các bạn tôi lại dìu tôi lên phòng khám bệnh để làm phiền cô y tá. Sau khi khám sơ qua, cô Nữ kêu lên: “Con vật cắn anh thuộc loài ‘nhện kịch độc’. Nó làm chân anh không những sưng, mất cảm giác, mà còn trở nên bầm tím từ mắt cá chân lên đến quá đầu gối rồi. Nếu vết bầm tím lên đến bụng thì hết thuốc chữa. Phải chở đi bệnh viện để cắt ngay chân phải đi, thì mới có thể cứu sống được!”. Tôi chưa kịp có phản ứng gì thì cô đã vội vàng đi trình thủ trưởng.
Một lát sau cô trở về, mặt có vẻ buồn. Cô nói: ””gày mai tôi sẽ nhờ xe trâu chở anh ra quốc lộ rồi anh và tôi sẽ quá giang xe nhà binh đến bệnh viện Việt Trì, ở đó bác sĩ sẽ cắt phần chân làm độc của anh. Phải làm gấp, không chất độc sẽ lan lên đùi. Tôi trả lời làm cô vô cùng sửng sốt: ”Cám ơn cô, nhưng tôi sẽ không đi đâu hết. Đây là một dịp để giải thoát thân tù tội của tôi!”. Cô giận dữ nói: ”Anh có biết xin được cho anh đi bệnh viện cắt chân, tôi phải chịu những thiệt thòi nào không? Thủ trưởng cho rằng tôi đã phạm một lỗi quá lớn lao là “không ý thức được tinh thần cách mạng, không phân biệt đâu là bạn đâu là thù, nên tinh thần phục vụ tuy có, nhưng đặt không đúng chỗ”. Tôi cố gắng xin ông cho tôi được chở anh đi bệnh viện. Ông cho biết ông sẽ đồng ý, nhưng đổi lại, tôi sẽ bị phạt kỷ luật là biết sai phạm mà cứ tiến hành, do đó sẽ bị ghi vào hồ sơ là suốt đời không thể trở thành Đảng viên được và cũng không được đề nghị lên cấp trong vòng 10 năm. Tôi đã chấp thuận ngay hình phạt kỷ luật này để cứu anh. Nay anh trả lời như thế, làm tôi cảm thấy thua thiệt cả đôi đàng. Một đàng bị kỷ luật nơi thủ trưởng của tôi; một đàng bị chính anh từ chối nên không thể cứu anh được!”.
Tôi kêu lên: ”Tôi có nhờ cô đâu mà sao cô lại hy sinh lớn lao như vậy? Thân tù tội đã không có ngày về, lại thêm cưa chân nữa thì sống để làm gì? Lại mang tiếng là “phường ăn hại đái nát”, thêm gánh nặng cho người khác!”. Tôi biết đối với các cán bộ miền Bắc, việc trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản là một mơ ước, vì đó là một thứ “siêu công dân”, được đi trên “chính lộ” để dẫn đến quyền cao chức trọng, còn các công dân khác chỉ là loại “phó thường dân”, đi bên lề đường, suốt đời chỉ là người thừa hành, sai phái của các Đảng viên. Do đó, tôi ngạc nhiên khi thấy cô hy sinh cả mơ ước này vì mạng sống của tôi.
Cô nói gằn từng tiếng: ”Nhưng tôi không muốn anh chết!”. Giọng cô đượm đầy nước mắt, và cô không muốn tôi thấy cô khóc trước mặt tôi, nên cô bỏ đi.
Còn lại một mình, tôi ân hận vì đã to tiếng với một người tốt như cô, lại vừa ngậm ngùi cho số kiếp không may của mình!
Buổi chiều cô trở lại và nói: ”Anh nhất quyết không đi cắt chân cũng được, nhưng còn nước còn tát. Tôi có một cô bạn y tá làm việc ở đồn biên giới Lạng Sơn cách đây chừng hơn 30 cây số. Tôi định ngày mai lên đó để xin thuốc bê-ni (penicillin) để tiêm cho anh đây. Thuốc này rất hiếm, nhưng nếu anh chưa đến ngày tận số thì may ra họ có, và tôi có thể xin được!”
Ngày mai cô xin phép thủ trưởng cho nghỉ hai ngày. Cô không đi ra quốc lộ để xin quá giang xe, vì xe chỉ đi về miền xuôi, chứ không đi ngược lên biên giới. Cô đã mạo hiểm, chỉ với một gói lương khô, một chai nước mưa và một con dao quắm để hộ thân, mà cô dám len lỏi đi tắt đường rừng một mình để tới đồn biên giới Lạng Sơn.
Vào buổi tối ngày thứ hai, tôi đang nằm thiếp đi trên chiếc chõng tre, thì cô trở về. Cô đánh thức tôi dậy và hân hoan nói: ”Trời đã không phụ tôi nên cô bạn tôi đã có thuốc bê-ni, tôi đã hối lộ chút tiền nên đã xin được 8 hũ thuốc”. Nói xong cô đưa gói giấy đựng thuốc cho tôi xem. Tôi nhìn kỹ thì thấy đó là loại penicillin của Liên Sô, nhưng đã hết hạn (expired) từ tháng 6 năm 1975, mà nay đã là tháng 9 năm 1978, nghĩa là đã quá hạn hơn 3 năm rồi! Tôi không cho cô biết điều này và tôi cảm thấy mừng là nếu bị phản ứng vì thuốc quá hạn thì đó là điều mong ước được giải thoát thân kiếp đọa đầy của tôi!
Cô đi lấy ống chích và ra chum nước mưa để rửa vì có lẽ cả năm nay chưa dùng tới. Sau đó, cô dùng ống chích hút lấy chút nước mưa trong chum, rồi bơm vào một hũ penicillin, tiếp theo cô lắc mạnh cho tan hết bột penicillin. Cô nói: ”Tôi tiêm cho anh đây, chịu khó đau một chút nhé!”. Tôi thản nhiên vén tay áo cho cô chích. Khi chích, tôi thấy mặt cô hơi tái, vì có lẽ hai ngày nay cô đi đường tắt len lỏi trong rừng già để đến đồn biên giới Lạn Sơn, chắc cực khổ lắm!
Tôi nói: ”Cám ơn cô nhiều, giờ đây cô cần nghỉ ngơi, ăn uống cho lại sức để mai còn làm việc”. Cô nghe lời tôi và rời khỏi phòng khám bệnh.
Cô đi rồi, tôi nằm xuống chõng nghỉ ngơi. Chừng 10 phút sau thì thuốc ngấm, tôi cảm thấy sốt nóng dữ dội. Tôi biết bị phản ứng vì thuốc quá hạn, nhưng không thông báo cho ai biết, vì tôi coi đây là dịp cho tôi được giải thoát! Nhưng kỳ lạ thay, chừng một giờ sau cơn sốt lui dần và tôi ngủ thiếp đi. Đúng là số Trời chưa cho tôi chết!
Sáng sớm ngày mai, cô Nữ lại thăm tôi và hỏi về công hiệu của thuốc bê-ni. Tôi nói thuốc rất tốt. Thế là cứ mỗi ngày sau đó cô chích cho tôi một hũ penicillin . Thật là thần diệu, vết sưng biến chân phải của tôi thành chân voi, nay dần dần xẹp xuống, và đồng thời mầu tím bầm của chân đã chuyển sang mầu nâu. Bấm vào chân, tôi đã có cảm giác thấy đau. Hai tuần sau, tôi đã có thể đi lại được, không phải chống gậy nữa!
Cô Nữ lại định gửi tôi cho đội rau xanh một tháng để hồi sức, nhưng tôi xin trở lại đội chặt iang. Cô sợ tôi không đủ sức lao động nặng, nhưng tôi nói các bạn trong đội sẽ chặt giùm một phần lớn cho tôi trong thời gian tôi đau yếu.
Thế là tôi lại trở về đội cũ. Các bạn tôi đều nói tôi là người trở về từ địa ngục lần thứ hai.
Thời gian lại trôi qua, và chừng một tháng sau, đang nửa đêm, bỗng có tiếng còi thổi ré lên đánh thức các trại viên dậy và có lệnh ra sân tập họp để chuyển trại. Những trại cải tạo chặt Giang như trại tôi thì thường chỉ 10 tháng hay tối đa là 1 năm, khi nguồn cung cấp giang đã cạn, đều phải chuyển sang một khu rừng khác, cách xa chừng 40 hay 50 cây số, để lập trại khác, ngõ hầu để có nguồn cung cấp giang mới. Mỗi lần chuyển trại như vậy thì thay đổi tất cả nhân sự, từ Trưởng trại, cán bộ quản giáo, bộ đội bảo vệ và dĩ nhiên cả y tá. Mọi lần chuyển trại trước, tôi đều coi bình thường, vì thân tù tội đi đâu cũng được! Nhưng lần này tôi cảm thấy lo buồn quá đỗi, vì tôi phải xa ân nhân của tôi rồi! Vì đi đột ngột vào lúc nửa đêm như thế này thì làm sao tôi có thể chào từ biệt cũng như ngỏ lời cảm ơn cô Nữ!
Trong ánh sáng lờ mờ của bó đuốc cắm giữa sân, tôi thấy các bạn tôi đều vội vàng gói ghém quần áo và dụng cụ để sửa soạn lên đường. Tôi lại thấy quản giáo cũ bàn giao đội tôi cho quản giáo mới. Riêng tôi thì tôi cứ đứng thẫn thờ một mình, mặc cho các bạn tôi gói ghém giùm quần áo cho tôi. Bỗng nhiên tôi thấy một bóng người tiến nhanh lại phía tôi và khi tới xát gần thì một giọng nói quen thuộc: ”Chúc anh đi được mạnh khỏe và bình an nhé!”. Thì ra là cô Nữ! Cô đặt vào tay tôi một cái gói, tôi sững sờ chưa kịp trả lời thì cô đã vội vã đi mất hút vào bóng đêm, vì sợ có người trông thấy! Tôi mở cái gói ra thì thấy đó là một nắm cơm được gói với cái khăn tay còn in vết máu mà cô đã nhổ răng cho tôi khi xưa! Như vậy là cô đã biết việc chuyển trại này vào chiều hôm trước, nên đã nhịn phần cơm của cô mà gói cho tôi đây! Tôi cảm động và ân hận quá vì đã không nói được một lời cám ơn đối với cô. Đúng lúc đó thì quản giáo mới ra lệnh cho chúng tôi lên đường. Tôi loạng choạng bước theo các bạn cải tạo của tôi, cứ theo ánh đuốc mà đi vào rừng sâu.
Cuộc chuyển trại từ nửa đêm hôm trước, cho tới 2 giờ chiều hôm sau, khi tới một khu rừng mới, cũng bên bờ suối nước, thì được lệnh dừng lại. Trưởng trại mới xuất hiện, ông ra lệnh cho 10 đội gồm chừng 600 cải tạo viên: ”Cho các anh nghỉ 2 tiếng đồng hồ rồi sửa soạn lập trại mới!”
Đây là một khu rừng già dường như chưa có chân người đặt tới, mà dụng cụ chỉ có dao quắm và mấy cái cưa, không có đến một cây đinh, mà phải xây dựng 12 lán, gồm 10 lán cho cải tạo viên và 2 lán cho cán bộ. Nhưng nhớ tới việc lập trại trước, nhờ có 6 anh cải tạo, nguyên là sĩ quan công binh, tốt nghiệp kỹ sư xây dựng ở Hoa Kỳ, các anh dùng cưa để làm mộng, ghép những cây rừng làm sườn nhà, không cần đến một cây đinh, mà đã tạo được những căn nhà tranh khá vững chắc, chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng!
Khi được lệnh ngừng chân và cho nghỉ 2 tiếng, các bạn tôi đều nằm lăn ra dưới gốc cây mà ngủ, vì đêm trước ra đi lúc nửa đêm nên có ngủ được đâu! Riêng tôi thì đầu óc suy nghĩ miên man nên không sao chợp mắt được! Tôi nghĩ đến mẹ tôi là người đã nuôi nấng, săn sóc tôi từng li từng tí, mà đến lúc tôi trưởng thành, có điều kiện để báo hiếu, thì người lại ra đi vĩnh viễn. Tôi nghĩ đến cô Y Tá Nữ là người đã cứu tử tôi, đã săn sóc tôi hết lòng, mà nay lâm vào cảnh cách biệt như thế này, thì làm sao tôi có thể trả ơn trời biển cho cô được! Tôi lại nghĩ đến hoàn cảnh của đất nước tôi, một đất nước đã bị tàn phá bởi chiến tranh cả mấy chục năm trường! Nay hòa bình vừa trở lại, nhưng những người lãnh đạo Đảng và nhà nước cách mạng lại thi hành một chính sách gây hận thù với cái mà họ gọi là ngụy quân và ngụy quyền ở miền Nam. Tôi nghĩ rằng sự căm thù chồng chất giữa những đồng bào cùng trong một nước như thế này thì bao giờ mới hóa giải được! Mấy người đã hành xử được như cô Y Tá Nữ “lấy Tình Thương xóa bỏ Hận Thù”. Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy đau lòng quá và tự nhủ một mình qua làn nước mắt: ”Cám ơn cô Nữ đã dạy cho tôi một bài học, thế nào là lòng Thương Yêu của con người đối với con người, nhất là đối với đồng bào cùng trong một nước!!!”.
TT Đại
Nguồn TVTC
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 28/May/2018 lúc 5:56pm
NHỮNG BÌNH LUẬN CÓ TRƯỚC KHI vÒNG HOA CHO ANH HOÀN THÀNH
Hôm nay trong lúc lục tìm tài liệu cũ, chợt HH bắt gặp những dòng nầy .Lòng vui mừng khôn xiết ..nên HH đem về đây như châu về hợp phố lưu lại huyền sử một cái tên ...
Jun 14 2006, 02:25 PM
Thầy Tâm Vô Lệ của tvvn org đã viết
1/ Báo KBC Hải Ngoại sẽ cho đăng Bút Ký này vào số Tái Ra Mắt KBC Hải Ngoại tháng 8 năm 2006.
2/ Xin hỏi chị HH có thể giữ mục "Em Gái Hậu Phương" cho KBC hay không? Mục này nhằm thu thập các lá thư (kể cả thư tình) viết cho chiến sĩ ngày xưa, cũng như là tâm tình của giới trẻ ngày nay về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đây là một vinh dự chẳng những cho chị HH mà còn cho TVVN, đã được thế hệ đàn anh ngỏ lời yêu cầu góp tay. Các đàn anh cho rằng hội viên HH của TVVN "thật sự có một tấm lòng" với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. "
Khi viết lại chuyện riêng của mình vào đây, P chỉ có một ý nghĩ là đem Anh - đem tên tuổi Anh về với đại gia đình mình. Đây là nhà Anh - là trại gia binh của Anh mà! "
3/ Kính nhờ nhà văn Linh Bảo làm "chủ bút" xem xét lại toàn bộ Hồi Ký trước khi giao cho KBC.
Kính
xxxx
Kính chào admin P324530
Thật là một bất ngờ mà Admin đã đem đến cho HH. Xin cám ơn admin đã quan tâm chia xẽ và đáp ứng nguyện vọng "đem tên tuổi anh về với nhà của Anh, với trại gia binh của Anh". Thành thật cám ơn Admin cùng Ban Quản Trị và Điều Hành huvienvietnam.com
Đề nghị của admin PL xin trả lời qua PM.
Kính
HH
xxxx
Xin gởi điện thư về p324530@hotmail.com. PM đang bị chuột đen cắn phá
Kính
xxxx
Đã nhận được thư của chị HH từ Gia Nã Đại. Cám ơn chị nhiều Sẽ báo cho các anh bên KBC biết.
Đây là thư... tình của (Đại Cô Cô) nhà văn Linh Bảo:
:" Truyện hay. Không cần sửa gì cả, để nguyên văn phong của tác giả. Chỉ bỏ bớt một vài chữ thừa. Vấn đề là người Nam và người Trung (như Linh Bảo), phải học từng chữ dấu hỏi hay ngã. Ví dụ NGHỈ dấu hỏi là nghỉ ngơi. NGHĨ dấu ngã là suy nghĩ. Điên cái đầu !!!
Tác giả là người Nam mà viết rất giỏi. Phần nhiều đều đúng. LB chỉ phải tra Tự Vị cho chắc ăn, gần trăm chữ mà thôi.
Lần sau kiếm vị nào Bắc Cờ mà sai nhé. LB tra tự vị gần ...oải ba sườn !!! Bà già 81 tuổi rưởi rồi. Xin để cho ...mồ yên mả đẹp nghe ....cưng !!!
LB
Kính nhờ Ban Tu Thư mang truyện này vào Phòng Đọc Sách.
_________________
thuvienvietnam.com 14291 Euclid St D109 Garden Grove CA 92843 714-657-3916
taoLe2003
Thượng Khách
Joined: Jan 01, 2006
Posts: 89
Location: Midway City, California
Posted: Tue Jun 13, 2006 8:27 am Post subject:
Tôi có bàn chuyện với nhà thơ TVL và nghĩ rằng nên đổi tựa đề thành "Mang Anh Về Với Gia Đình", thì có ý nghĩa hơn. Được nhà văn Linh Bảo khen "truyện hay" thì HH nên coi đấy là một điều rất vinh dự và rất đáng hảnh diện.
taole2003
xxxxx
HoaHa
Bạn
Joined: Mar 13, 2006
Posts: 109
Posted: Tue Jun 13, 2006 4:47 pm Post subject:
xxxxxx
Hoa Hạ xin kính chào nhà văn Linh Bảo
và Ban Quản trị & điều hành thuvien VN ,
HH không biết nói gì hơn là xin nhận tấm lòng ưu ái của Ban Quản Trị và Điều hành đã dành cho HH - qua tên tuổi của đứa con mới tìm về nhà.
HH cũng rất hân hạnh được nhà Văn Linh Bảo làm " Chủ bút " cho tác phẩm của mình , cám ơn bậc tiền bối đã rộng tay mà giữ gần như nguyên vẹn chỉ bỏ bớt vài chữ dư thừa hay những lỗi chính tả HH đã mắc phải.
Vâng ,..HH cũng thấy cái tựa đề bây giờ cũng không được thích hợp lắm (vì lúc đầu HH chỉ muốn tâm sự với anh thôi - như ngày xưa vẫn vậy !) Nếu được nhà văn Linh Bảo đặt dùm cho , chọn dùm một cái tên ,hay tiền bối cũng đồng ý đổi thành " Mang Anh Về Với Gia Đình " và đở đầu cho tác phẩm nầy của HH thì thật là vạn hạnh.Kính mong tiền bối nhận lời.
Xin chân thành cám ơn Admin 6, Bac taole , Huynh yeuthuong đã góp ý và khích lệ HH.
Kính
Hoa Hạ
“Sư trúc tâm hư nhi hữu tiết; hiệu mai cốt thiết khả sinh xuân”
user posted image
xxxx
LinhBao
Tình Nguyện Viên
Joined: Dec 16, 2005
Posts: 1311
Location: Westminster, California
Posted: Wed Jun 14, 2006 3:38 am Post subject:
~::Trích Dẫn Từ HoaHa::~
Nếu được Linh Bảo , chọn dùm một cái tên , ay cũng đồng ý đổi thành " Mang Anh Về Với Gia Đình ".......
LB nghĩ "Về Với Em" là đủ. Nếu chưa có sách nào mang tên ấy.
"Bây giờ Em đã đem Anh về với mầu cờ, sắc áo, với đồng đội của Anh và với 'Sư Đoàn ngon lành lắm' của Anh rồi đó. "(đoạn kết)
" Em" đây là tất cả !
Hỏi cho vui, trả lời cho phải phép, nhưng tác giả nên tự quyết định.
LB
xxxxx
Jun 20 2006, 11:35 AM
hoanvu
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
Joined: Jan 26, 2006
Posts: 738
Posted: Wed Jun 14, 2006 4:25 am Post subject: Re: Trên Đỉnh Bình Yên
~::Trích Dẫn Từ HoaHa::~
Theo tôi nghĩ, nên đặt tên cho bài viết này là " Những Cành Hoa Cho Anh".tượng trưng cho bạn bè của anh và của HoaHa luôn nhớ đến Anh.... Tại sao?
Vì cô HoaHa đã mang Anh về với đại gia đình QLVNCH bằng những bài viết vinh danh Anh tại đây (TVVN). Chúng ta đã vào đọc và bộc lộ những cảm xúc chân thành, chia xẻ những cảnh ngộ của chính tác giả và dù sau này có mang Anh đi đến đâu thì cũng vẫn những dòng tâm tư đó chiếm ngự trong lòng người đọc và nghiêng mình tri ân. Những điều đó chính là "Những Vòng Hoa Cho Anh". Đôi lời thô thiển, mong các vị tiền bối rộng lượng..
Thân mến.
_________________
Việt Nam, Quê Hương Muôn Thuở
lethy44
Khai Quốc Công Thần
Joined: Dec 19, 2005
Posts: 753
Location: Xứ Tuyết
Posted: Sun Jun 18, 2006 5:14 am Post subject: Re: Vòng Hoa Cho Anh
~::Trích Dẫn Từ HoaHa::~
VÒNG HOA CHO ANH
Viết cho người nằm xuống
Cố Đ/U Nguyễn Thành Đông
ĐĐT ĐĐ 1 - TĐ 2/7 SĐ 5 BB
KBC 4441
..........Hôm ấy, em tiếp Nhã tại cái bàn nầy, Nhã đã kể lại cho em nghe:
.." Nhã gặp anh ấy ở Bình Long. Hôm trường học bị pháo, nhà nhà, công sở đều bị cô lập. Thức ăn cạn, Anh ấy qua trường tiếp tế đồ hộp cho bọn NhüHR> .......................
Chào HH
1. Hình như câu nầy bị thiếu một phần. HH có thể thêm vào dùm càng sớm càng tốt để Lê Thy đưa vào Phòng Đọc Sách cuối tuần nầy.
2. HH đã quyết định tựa truyện là như thế nào, xin cho biết luôn
Cám ơn HH nhiều...Tiện đây xin chúc mừng TVVN có thêm một cây bút viết Hồi Ký rất hay.
Lê Thỵ
Ban Tu Thư/Thuvienvietnam.com
XXXX
Hoa Hạ xin chào" tiền bối " Lethy
Vì mới vào thuviện không được bao lâu nên HH cũng chưa biết phải xưng hô thế nào cho phải. Hình như cái anh chị trong đây gọi Nhà văn Linh Bảo và Lê thy là Đại cô cô - Vậy xin phép cho HH cũng gọi như vậy luôn nha.
Vâng ,câu ấy thiếu một chút HH viết cho tròn câu để liền lạc hai phần bài như sau :
Hôm ấy, em tiếp Nhã tại cái bàn nầy, Nhã đã kể lại cho em nghe:
.." Nhã gặp anh ấy ở Bình Long. Hôm trường học bị pháo, nhà nhà, công sở đều bị cô lập. Thức ăn cạn, Anh ấy qua trường tiếp tế đồ hộp cho bọn Nhã. Gặp lại anh ấy , bạn Nhã tưởng anh là người yêu của Nhã nên chọc phá Anh..... "
Còn về tựa bài thì Hoa Hạ đã suy nghĩ dựa theo sự giúp ý của nhà văn Linh Bảo , nhà thơ Tâm Vô Lệ , bác taole và Bác Hoanvu , mà sửa lại là " VÒNG HOA CHO ANH " Bác Hoanvu đề nghị là " Những vòng hoa cho Anh " ,HH thật rất xúc động vì bác chẳng những đã chia sẻ với HH mà còn tri ân Anh bằng vòng hoa của Bác , nhưng HH thấy nó" rộng lớn " quá !! HH không dám nhận. Chỉ mong bài viết nầy được xem như bông hoa đầu tiên trong vòng hoa thân tình ấy mà HH đại diện cho nhiều người , đặt xuống cho Anh , và rồi , tuỳ tâm tư tình cảm của mỗi người vào đây chia sẻ , như bác hoanvu , có thể anh cũng sẽ nhận được nhiều bông hoa nữa....Phải không Đại cô cô?
Cám ơn Đại cô cô nhiều ,Kính chúc Đại cô cô và Ban tu thư luôn khoẻ mạnh và thư viện sẽ luôn vững tiến.
Kính
HH
xxxx
BanTuThu1
Tình Nguyện Viên
Joined: Jan 23, 2006
Posts: 15
Posted: Mon Jun 19, 2006 1:15 am Post subject:
Kính chị Hoa Hạ,
Coco lethy44 bận việc nên không vào TVVN để đọc bài trả lời của chị nhưng coco có dặn dò em theo dõi để đem bài vở vào Thư Viện Đọc Sách. Cám ơn chị đã trả lời nhanh chóng. Em sẽ đem bài của chị vào đó ngày hôm nay theo những điều chị ghi.
Thư viện mình có 2 bà già gân là nhà văn Linh Bảo (8 bó) và cô lethy44 (6 bó 3 chiếc). Vì vậy nhà văn Linh Bảo được gọi là ĐẠI Coco còn cô lethy44 là COCO ngắn gọn.
Em rất mong được đọc thêm những bài viết của chị, nhất là về những đoạn đời, những sinh hoạt của các anh hùng không tên tuổi trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà.
Kính chúc chị vạn an và như ý
BTT-1
xxxx
HoaHa
Bạn
Joined: Mar 13, 2006
Posts: 109
Posted: Mon Jun 19, 2006 9:51 pm Post subject:
Xin chào BanTuThu1
Món quà quí giá nhất mà HH nhận được ở đây là tấm lòng của các bậc tiền bối và các anh chị em hội viên trong thư viện dành cho HH.Hoa Hạ mãi nhớ và sẽ cố gắng không phụ lòng tất cả huynh đệ tỷ muội trong đây.
Điều Hoa Hạ muốn nói đầu tiên là thư viện đã tạo điều kiện cho HH được học hỏi rất nhiều qua những khoá học liên tục được tổ chức trong đây. Hồi trước Hoa Hạ cũng đã vào đây một lần , với tên là PL và làm quen các anh chị trong Chào nhau thân ái bằng bốn câu thơ :
Ngày mai trắng xoá bụi đời
Hoa phai sắc thắm sương cài tóc xanh ,
về đây tìm lại chuyện mình
gói trong giấy trắng tâm tình hôm nay..
( Trích trong nhật ký Hoa Hạ )
Nhưng HH chưa kịp đăng hồi ký lên thì không làm sao vô được thư viện nữa...!! bẳng đi một thời gian lâu...Bây giờ HH mới vào được...
Được viết là một niềm say mê của HH từ hồi còn đi học , và cái môn" không bao giờ vắng mặt "của HH là môn Quốc văn Hh sẽ cố gắng viết ,mong nhận được sự hướng dẫn giúp đở của Đại CôCô Linh Bảo , của CôCô LêThy44 và tất cả các Anh chị em trong thư viện nầy
Được viết là một niềm say mê của HH từ hồi còn đi học , và cái môn" không bao giờ vắng mặt "của HH là môn Quốc văn Hh sẽ cố gắng viết ,mong nhận được sự hướng dẫn giúp đở của Đại CôCô Linh Bảo , của CôCô LêThy44 và tất cả các Anh chị em trong thư viện nầy
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 20/Apr/2019 lúc 6:13pm
Ngọc Phương Nguyên
17 tháng 4 ·
Thân tặng những ai đã biết được nỗi sầu ly biệt ...
Mình đi mình để tim Mình
Treo trên đầu núi...em nhìn Mình nghen.
Tim em trong ánh trăng thề
Trăng lồng bóng núi anh kề bên em .
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
Người gởi: Hoa Hạ
Ngày gởi: 10/May/2019 lúc 6:03pm
Vòng Hoa Cho Anh * 1
* Những Lá Thư Không Gửi * 8
TIỂN BIỆT ANH HÙNG HỒ NGỌC CẨN .
Đông thương nhớ,
Cuộc chiến Việt Nam đối với Em đã chấm dứt ở An Lộc. Từ đó, Em không dám đụng đến cái Radio, không còn hồi hộp theo dõi tình hình chiến sự vì đâu còn có ai làm chinh phu cho em là chinh phụ ngóng trông !! Vì hồi đó vừa khóc vừa học bài, cuối năm thứ 2 với những môn thi dồn dập. Năm thứ ba với những trại thực tập "nặng ký " với kỳ thi ra trường. Còn thời giờ đâu mà nghĩ ngợi đến chiến tranh? Và Vùng bốn chiến thuật thật an lành. Chiến tranh chỉ có trong những bài nhạc, trong những quán cà phê và Chiến tranh đối với em chỉ còn là thơ của Chinh Phụ Ngâm Khúc :
" Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"
Em đã lên đến cao điểm của nỗi sầu tử biệt nên đối với Em còn nỗi buồn nào hơn thế nữa? Và bây giờ biết có ai không, cũng như Em sẽ phải nát lòng trước cảnh tử biệt sanh ly nầy? Chung quanh Em những gương mặt chìm một nửa sau vành nón lá, Em cũng vậy. Cúi mặt vẽ vu vơ trên cát mà chờ đợi. Lần đầu tiên trong đời có mặt trong một cuộc mít tinh để nghe xét tội một người mà đối với một bên là ác ôn, là có nợ máu với nhân dân, và đối với một bên là một vị anh hùng, đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho quê hương cho mầu cờ, sắc áo.
Với Em , người ấy như thế nào? Không có nợ nần gì với Em cả. Em không hề biết Ông, và cũng như nhiều người hiện có mặt trong đây đều không hề biết đến Ông.. Họ cũng như Em đều tuân theo một lệnh truyền : - "Tất cả 3 trường của Trung Tâm Y Tế, từ thầy cô đến các học trò đều phải có mặt tại Sân vận Động Cần Thơ tham dự.
-Ổng kìa Phượng! trời ơi còn trẻ quá ..
- Nghe nói là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện - không chịu buông súng đầu hàng nên bị bắt...
Em nhìn ra cổng..Trước mắt Em là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn .
Khoảng cách tuy xa nhưng cũng đủ để thấy Ông đang bình thản đi vào. Trước mặt Em là một vị Đại Tá không giày saut áo trận, bình dị trong bộ bà ba đen, ung dung đi giữa nghi thức áp giải mà như đi trong tiếng nhạc quân hành. Có lẽ tuổi khoảng chừng trên dưới bốn mươi, người vừa tầm, gọn gàng, nước da hơi xanh, cái xanh của thiếu nắng. Đầu trần không nón sắt thấy rõ mái tóc cắt cao như sẳn sàng hứng hết mọi tai ương của định mệnh. Một định mệnh dành cho người thất thế, sa cơ. Vừa đi Ông vừa đảo mắt nhìn quanh, hình như hơi mĩm cười rồi tiến sâu vào trong khán đài, một vị trí cuối cùng của một đời ngang dọc.
Em lẩn thẩn tự hỏi : Không biết Ông xuất thân từ trường nào? quê Ông ở đâu mà bây giờ dừng lại nơi đây? Em lại nhớ đến cái chết của Anh. Anh đã đổ ra hết đến giọt máu cuối cùng, rồi nằm xuống, lính chôn Anh trước cổng tiểu khu Bình Long ... rồi tất cả đều bị san bằng dưới cơn mưa pháo. Đời trai như chiến sĩ Kinh Kha một lần qua sông Dịch, nhưng mỗi người sang sông bằng một cách khác nhau, và Không biết "VỢ ÔNG" - em muốn gọi bằng hai tiếng thân thương "vợ ông" chứ không muốn gọi bằng chức vụ - Vâng, chỉ có vợ ông bây giờ chắc đứt ruột từng cơn !! Em đưa mắt nhìn quanh cố tìm, nhưng không thấy người đàn bà nào đang khóc như Em nghĩ. Dưới gốc sân vận động, phía ngoài vòng rào lại là một cây Phượng vĩ đang nở bông đỏ thắm, trên cây có vài đứa trẻ hiếu kỳ leo lên nhìn vào .
Cuộc xét xử đã bắt đầu, nhưng Em không nghe được gì cả, Em ở xa khán đài lắm nên không trông thấy Ông nữa. Em bỗng nhớ bài Thơ "NHỚ RỪNG" của Thế Lữ
XXX
Và Cuối cùng,điều gì phải đến cũng đã đến....
Một tràng đạn nổ dòn chát chúa vang lên như tiếng sấm ...
Và mưa..!!. Mưa của trời đất, mưa trong lòng người thân và mưa của cây phượng cuối sân vận động vào một sáng sang Thu
Hoa Hạ
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|
|