Print Page | Close Window

MỘT THỜI ĐỂ NHỚ

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12949
Ngày in: 28/Dec/2024 lúc 11:59pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
Người gởi: Lan Huynh
Chủ đề: MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
Ngày gởi: 12/Oct/2021 lúc 11:07am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/10/mot-thoi-e-nho.html - Một Thời Để Nhớ...

https://1.bp.blogspot.com/-HLR40CmAv7g/YNdL2q_C90I/AAAAAAABX7U/ftpfEeCJuvI1ddJwCI9ZPaoZoV2EbYYxwCLcBGAsYHQ/s800/ch%25C4%2583%25CC%2580n%2Bl%25C6%25B0%25CC%2589a.jpg">

Chẳng cần nội dung ra sao, ý nghĩa nói gì. Miễn sao cảm thấy hay độc lạ là được, chủ trương vui là chính.

Những bài đồng dao tưởng chừng như vô nghĩa, ngây ngô. Nhưng nó lại ăn sâu vào tiềm thức cho mỗi người chúng ta. Một thuở sống trong một đất nước tự do, thanh bình, một thời để nhớ.

Sau đây là một số bài hát, bài đồng dao của tuổi thơ, mà các em thường hay hát :

“Ngày xửa ngày xưa, có con mẹ bán dưa, bả cưa cái cẳng, bả nắn cái nồi, bả nhồi cục bột, bả lột miếng da, bả ca vọng cổ, bả nhổ cây bông, bả trồng cây chuối, bả muối con cá, bả đá trái banh, bả sanh thằng nhỏ, cái đầu đó đỏ, cái đít diu diu”.

“Bà Ba bả bán bánh bò bông, bả bẻ bông bụp, bị bắt bỏ Bót ba bốn bữa, bả buồn bực, bả bể bầu”.

“Trời mưa lâm râm, cây trâm có trái, con gái có chồng, đàn ông có vợ, đàn bà có con”.
“Cô dâu chú rể làm bể bình bông, đổ thừa con nít, bị đòn nứt đít”.

“Tò te Rô-be đánh đu
Tạc-zăng nhảy dù
Zô-rô bắn súng
Chết cha con ma nào đây
Thằng Tây hết hồn, thằn lằn cụt đuôi”

“Ngày xửa ngày xưa
Có mẹ bán dưa
Mẻ ngồi mẻ địt
Có ông bán thịt
Ổng ngồi ổng hửi
Có bà bán bưởi
Bả ngồi bả chửi
Có ông đi ghe
Ổng ngồi ổng nghe”
“Ngày xửa ngày xưa
Có con mẹ bán dưa
Mẻ cưa cái cẳng
Mẻ nắn cái nồi
Mẻ nhồi cục bột
Mẻ lột miếng da
Mẻ ca vọng cổ
Mẻ nhổ cây bông
Mẻ trồng cây chuối
Mẻ muối con cá
Mẻ đá trái banh
Mẻ sanh thằng nhỏ
Cái đầu đo đỏ
Cái đít vàng khè
Con mẹ bán chè – mẻ sợ chè ế
Con mẹ bán khế – mẻ sợ khế chua
Con mẹ bán cua – mẻ sợ cua bò
Con mẹ bán cò – mẻ sợ cò bay
Con mẹ bán khoai – mẻ sợ khoai sùng
Con mẹ bán mùng – mẻ sợ mùng rách
Mẻ đi bán chạch – sợ chạch nhảy sông
Mẻ bán chà bông – sợ chà bông Trung Quốc
Mẻ bèn bán guốc – guốc mộc ai xài
Mẻ liền bán xoài – sợ xoài phun thuốc
Mẻ bán chùm ruột – bà bầu đâu thèm
Mẻ bán cà rem – bán ế chảy nước
Mẻ bèn bán thuốc – thuốc giả tràn lan
Mẻ bán khăn quàng – hàng ế đầy chợ
Mẻ đi bán phở – bán ế nhà phải ăn
Mẻ định tự tử bằng xăng – không chết vì xăng pha nước
Mẻ nhảy sông tự vận – không chết vì mẻ biết bơi
Mẻ đi chơi bằng xe đò – xe đụng… Mẻ chết

Chuyện tạm đến đây là hết!”

“Ông già quét nhà
lượm được đồng điếu
giắt ở lỗ tai
để mai đi chợ
đi mua dây nhợ
về buộc lồng chim
đi mua cây kim
đem về vá áo
đi mua con sáo
hót cho vui nhà
đi mua trái cà
để dành làm dưa
đi mua con cua
đem về làm chả
đi mua con cá
kho tiêu chặt đầu
đi mua miếng trầu
về nhai nhóp nhép
đi mua con tép
đem về nấu canh
đi mua trái chanh
đem về vắt nước
đi mua cây lược
đem về chải đầu.”

“Cúc cụt đuôi ai nuôi cúc lớn? Cha mẹ già, cúc bỏ cúc đi....

Tuổi thơ ngày ấy rất hồn nhiên, dễ thương, dễ mến làm sao! Không điện thoại, không Facebook, Zalo, không game online. Chỉ biết vui đùa, tắm mưa, trèo cây hái trái tắm sông, thả diều ngoài đồng lúa, hái hoa bắt bướm.

Giờ chỉ còn là kỷ niệm, là nuối tiếc, biết bao giờ trở lại thời hoa mộng đã qua, thời lên năm lên ba, của “Những ngày xưa thân ái, xin gửi lại cho ai”.


Sưu tầm



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Trả lời:
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Oct/2021 lúc 8:34am

Còn Một Chút Gi Để Nhớ



https://lh3.googleusercontent.com/-iGANbNldeqA/YWRT6VfL5uI/AAAAAAAAxrY/EBMq93pU51AltUO22t8GHo2SbTnpeSF7QCLcBGAsYHQ/image.png">





          Tui dám cá với Bạn là dù ngày xưa Bạn đỗ ba cái bằng Trung Học rồi thêm hai cái Bằng Đại Học nhờ trí thông minh và tài nhớ  dai đến cỡ nào thì khi đến tuổi sáu mươi sự thông minh nhạy  bén của Bạn cũng suy giảm và trí nhớ của Bạn cũng có vấn đề. Đứa con của Bạn chỉ Bạn sử dụng computer Bạn làm trước quên sau nó bèn chán nản nói thôi Bố Mẹ cần gì thì gọi con làm cho. Rõ khổ. Đã vậy mà cái thằng từng ở tù chung với mình, từng hai đứa bị còng chung một cái còng mà mình cũng quên mất tên nó. Tên nó trùng với tên truyện bằng tranh giải trí của con nít trong Báo Tuổi Thơ mà cũng không nhớ. Nghĩ mãi từ sáng tới chiều chợt đánh đét một tiếng. À ! Thì ra thằng Chương Còm ! Rồi thì dọn cơm ra lấy chén quên lấy đũa., vội vàng trở lại thì quên mất mình muốn lấy thêm cái gì,.  đứng gần một phút trời trồng mới nhớ. Có phải là triệu chứng của Alzheimer ? Yên chí không phải đâu , tuổi già ấy mà. Vậy muốn nhớ thì phải làm gì ?

          Ngày xưa trí nhớ của Bạn tuyệt đỉnh thuộc lòng từng câu thơ trong Truyện Kiều, nhớ từng công thức toán học hay hoá học mà Thầy Cô còn cho Bạn cách nhớ bằng thơ văn trong Toán Giải Tích như :

                Tìm sin lấy đối chia huyền
                Cosin ta lấy kề huyền chia nhau
                Còn tang ta hãy tính sau
                Đối trên kề dưới chia nhau thấy liền

          Rồi học sử địa, để nhớ cái Biển Baltique tận trời Bắc Âu có hình dáng Bà Tiên, ông Thầy nói phải nhớ là Biển Bà Tiên, Bà Tiên viết tắt BT có cùng chữ tắt với Baltique cho dễ nhớ. Rồi học chữ Hán thì Thiên trời, Địa đất, Nhơn người. Phụ cha, Mẫu mẹ, Sư thầy, Cô cô, Bá bác, Thúc chú, Huynh anh.....Rồi qua tiếng Pháp Ma soeur chi tôì, Mou mềm, Long dài...Năm khi mười quạ, cinq quand dix corbeaux. Chiều chiều chim vịt kêu chiều. soir soir canard parler soir.....Bạn nào thông minh hơn thì đơn giản hoá bài học những ý chính đế khi làm bài cho dễ nhớ mà tán thêm ra...

          Nhưng tuổi già thì khó nhớ nếu không có phương pháp. Tui dám chắc mười Bạn có đến chín không nhớ đến Bảng số xe hay Bằng Lái Xe. Bằng lái xe của tui mang số 3529124. Một cách nhớ đầy văn hoá là tui làm thơ như sau :
               BA NĂM lưu gót Sài gòn
               HAI mùa xoài CHÍN vẫn còn nhớ thương
               MỘT đời lắm chuyện tai ương
               HAI lần dang dở đau thương BỐN mùa
Thấy chưa ! Bạn có thể qua thơ dễ nhớ hơn thấy không ?
 
          Năm 1995, tui mua chiếc xe Van cà tàng nhưng dealer vẫn cho đăng bộ xin bảng số mới. nên nó có số 3 đầu. Bảng số là 3MCG500. Tui bèn cho nó cái tên để không quên là BA MẦY CHO GÁI NĂM TRĂM. Còn Bà Xã  thì mua xe Camry mới tinh cũng cho số 3 đầu mang số 3SVM095. Để nhớ tui cho  Bả câu thiệu BA (giờ) SÁNG VẪN MÒ KHÔNG CHịU NGỦ. Năm 2005 tui đối xe Van mới Sienna nó mang bảng số 5BMO985 , NĂM BÀ MỘT ÔNG CHẾT TỚI NƠI (chết tới nơi là 985). Năm 2018 con gái tặng cho chiếc Camry SE mới mang bảng số 8BTC 599, tui phán TÁM BÀ THỊT CHÚ NẰM CHỜ CHẾT (nằm chờ chết là 599). Năm nay mới bán cái nhà ở Arizona tui mua chiếc Lexus LS 430 second hand đi đăng bộ nó cũng cho bảng số mới 8RBV939. Số nầy thật dễ nhớ và cũng đúng với tình trạng sinh học của tuối tác. ông TÁM RỜ BƯỞI VỢ CHIN QUÁ CHÍN (chín quá chín là 939) . Tui thứ Tám còn vợ thì đã trên 70 không chín thì cũng rục. !

          Tin tui đi ! Bạn thử theo kiểu của tui bảo đảm không quên Bảng Số Xe hay Bằng Lái. Hay là làm thơ số an sinh xã hội để nếu có mất thì đi khai báo làm lại cái mới không bị trục trặc. Số An Sinh Xã Hội tui cũng làm thơ cho dễ nhớ nhưng là tính riệng tư nên không thể đưa lên đây được.

          Máu tếu của mấy cô nàng ca ve ở các Vũ Trường còn kinh dị hơn tui nhiều. Bước vào Vũ Trường tui đặt gói thuốc lá PALL MALL của Mỹ lên bàn tán tỉnh em Phòng Anh Lạnh Lẽo Môi Anh Lạnh Lùng. Cô nàng móc gói CAPSTAN đáp liền Cho Anh Phát Súng Thì Anh Ngũm. Nhưng nàng khác dễ thương hơn đưa cho tui gói SALEM Sao Anh Làm Em Mệt Mà Em Làm Anh Sướng rồi nàng chỉ chữ 20 Filter Cigarettes Made In USA đọc tiếp 20 Phút Im Lặng Thì Em Rên, Chỉ Một Giây Anh Rờ Em Tê Tê Em Sướng Mà Anh Đưa Em Một Ngàn Uổng Sao Anh ?

           Uổng thiệt đó em ơi. Rờ chỉ một giây thôi mà tốn tới một ngàn. Gói thuốc lá Capstan có 20 đồng, vậy là anh mất tớí 50 gói hút cả tháng chưa hết ! ./-

             Mạch Vạn Niên


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Oct/2021 lúc 2:49pm

Trò Chơi Trẻ Con Khu Đakao Trong Thập Niên 1950: Chơi Tạt, Ðánh Ðáo, Ðánh Trỏng


Đánh%20quay%20–%20Wikipedia%20tiếng%20Việt

Chơi Tạt


Ðây là trò chơi rất thịnh hành trong mùa nắng. Khởi sự chơi thì mỗi đứa chơi phải bỏ ra một số “tiền” bằng nhau (sẽ nói rõ về “tiền”ở bên dưới), tất cả được đặt vào giữa một cái ô hình vuông có cạnh độ 5 tấc, vẽ ra ngay trên mặt đường. Sau khi đặt “tiền” xong, đầu tiên là thi thảy mức để định thứ tự chơi. Mỗi đứa chơi đứng bên cạnh cái ô, lần lượt thảy miếng chàm (sẽ nói rõ về “chàm” bên dưới) của mình về phía đường mức là một lằn gạch, cách cái ô độ 15, 20 mét. Thứ tự chơi của từng đứa sẽ được quyết định bởi khoảng cách từ miếng chàm tới đường mức, gần nhứt thì được chơi trước nhứt, xa nhứt thì đi chót. Ai thảy miếng chàm của mình qua khỏi đường mức thì đương nhiên là đi chót. Như vậy, sau khi thi thảy mức, mọi người đều tề tựu về phía đường mức, và thứ tự chơi đã được quyết định. Theo thứ tự nầy, mỗi người sẽ lần lượt tạt, nghĩa là thảy cái chàm của mình, sao cho nó lướt trên mặt đường về phía cái ô, nhằm mục tiêu là cái đống “tiền” được xếp ở giữa ô. Dĩ nhiên cuộc chơi chấm dứt ngay sau khi tất cả đống “tiền” đã bị tạt văng ra khỏi cái ô. Vì thế, ngay cả đứa được xếp thứ nhì trong thứ tự chơi cũng có thể không được tạt, nếu đứa chơi đầu tiên đã tạt văng ra ngoài khỏi cái ô tất cả số “tiền”. Trong thời gian các đứa chơi thay nhau tạt, chỉ có một đứa không được đứng ở phía đường mức, mà tiếp tục đứng bên cạnh cái ô, đó là anh chàng nào xui xẻo, bị đi chót. Nhiệm vụ của tên nầy là sắp xếp lại cái đống “tiền” nếu có người nào tạt trúng nó. Số “tiền” văng ra khỏi phạm vị cái ô là thuộc về người tạt trúng. Số “tiền” còn nằm bên trong cái ô sẽ được tên nầy phụ trách sắp xếp lại vào giữa cái ô. Sau khi mọi đứa, kể cả đứa đi chót, đã tạt xong, mà một phần hoặc toàn bộ số “tiền” vẫn còn trong ô, thì tất cả lại tiếp tục tạt nữa, nhưng lần nầy thì từ phía ngược lại của đường mức, và thứ tự chơi cũng thay đổi, người nào có miếng chàm ở cách xa cái ô nhứt (sau khi tạt lần đầu từ đường mức) thì được tạt trước nhứt. Thông thường thì sau lần chơi nầy số “tiền” sẽ không còn ở trong ô nữa. Và như vậy là chấm dứt một lần chơi. Sau đó lại đặt “tiền,” lại thi thảy mức và bắt đầu một lần chơi mới. Như đã mô tả ở trên, muốn tham gia trò chơi tạt nầy phải có hai điều kiện, có chàm và có “tiền”. Ðiều kiện thứ nhứt không bắt buộc lắm, vì nếu mình không có miếng chàm riêng của mình mà có một đứa khác đồng ý cho mình cùng sử dụng miếng chàm của nó thì mình vẫn có thể tham gia trò chơi được. Tuy nhiên ít có trường hợp nầy lắm vì thứ nhứt là đâu có khó khăn để kiếm miếng chàm mà phải đi mượn, thứ hai là mình phải thật quen tay với miếng chàm của mình thì khi thảy mới bảo đảm được kết quả tốt. Sự ăn thua trong trò chơi nầy rõ ràng là nằm trong hai khả năng: cái tài thảy mức và cái tài làm sao tạt cho trúng cái đống “tiền”. Cả hai cái tài nầy đều là kỹ thuật vận dụng miếng chàm. Thảy mức thật ra cũng chính là một mặt của kỹ thuật tạt, nhưng thay vì tạt là nhắm vào đống “tiền”, thì thảy mức là nhắm vào cái đường mức. Cái khác nhau giữa hai kỹ thuật nầy là khi tạt thì phải tính sao cho khi miếng chàm đến mục tiêu thì nó vẫn còn đủ sức để hất tung đống tiền, trái lại, khi thảy mức, thì phải tính sao cho khi miếng chàm khi đến gần mục tiêu (tức là đường mức) thì nó không còn sức di chuyển nữa, hay nhứt là làm sao cho miếng chàm ngừng lại khi nó vừa tới sát đường mức. Thảy mức rất quan trọng vì nó tạo cơ hội cho mình được chơi trưóc, khi đống “tiền” còn nhiều, còn lớn và dễ tạt trúng hơn. Còn tạt thì chính là nguyên nhân trực tiếp của thắng hay bại. Tạt giỏi là làm sao cho miếng chàm của mình, sau khi rời khỏi tay mình, chạm vào mặt đường, không bị xốc lên, lăn lóc, mà tiếp tục luớt nhẹ nhàng trên mặt đường, nhắm đúng vào giữa cái đống “tiền” và còn đủ sức để hất tung càng nhiều càng tốt số “tiền” ra khỏi cái ô. Nếu miếng chàm bị xốc lên hay lăn lóc thì hướng đi của nó sẽ dễ bị lệch, không đánh trúng vào mục tiêu. Sức dùng để thảy miếng chàm cũng phải được tính toán, tùy theo khoảng cách giữa đường mức và cái ô. Ngoài ra cũng phải ráng làm sao cho miếng chàm của mình, dù có trúng mục tiêu hay không, tiếp tục đi xa nhứt về phía bên kia cái ô, để phòng khi còn có cơ hội tạt ngược trở lại (vì “tiền” vẫn còn, như đã nói ở trên), thì mình được tạt đầu tiên. Cách nhắm cũng rất quan trọng, miếng chàm của mình phải trúng vào ngay giữa đống “tiền” thì mới có thể hất tung toàn bộ đống “tiền” để thắng lớn, chớ nếu chỉ trúng vào một bên hay một góc của đống “tiền” thì khó mà “ăn” nhiều được. Có kỹ thuật tốt không cũng chưa đủ, phải có dụng cụ tốt nữa thì mới mong đạt được kết quả tốt. Vì thế phẩm chất của miếng chàm cũng rất quan trọng. Tuy không có một quy định nào về hình dáng và kích thước của miếng chàm, nhưng nói chung, tốt nhứt là miếng chàm phải vừa tay mình, không lớn quá, không nhỏ quá, không nặng quá, không nhẹ quá. Lớn quá hay nặng quá thì khó mà thảy xa được, và cũng khó mà canh cho đúng mục tiêu. Nhỏ quá hay nhẹ quá thì khi trúng mục tiêu lại có khi không “ăn” lớn được. Ngoài ra miếng chàm phải được mài cho láng ở mặt dưới để có thể lướt thật tốt trên mặt đường. Và thông thường miếng chàm phải bằng đá xanh cho đủ cứng, không bị bể khi chạm vào mặt đường. Việc “chế tạo” một khối đá xanh (thường bọn tôi phải đi ra mấy khu có đường rầy xe lửa mới lượm được mấy cục đá xanh nầy; đá xanh là tiếng nôm na, tên khoa học của nó là đá hoa cương, một loại phún xuất thạch) thành một miếng chàm thật tốt cũng mất rất nhiều công phu và thời gian. Ngược lại nó chính là niềm hãnh diện của mình, cũng như các hiệp khách ngày xưa quý thanh gươm, hay mấy anh cao bồi Mỹ quý khẩu “ru lô” của họ vậy. Và cũng chính vì vậy mà ít ai chịu đi mượn miếng chàm của người khác (mất mặt quá) và cũng ít ai chịu cho người khác mượn miếng chàm của mình (rủi nó hư thì sao ?). Về “tiền” thì có ba loại: nút khoén (tức là nắp các chai nước ngọt, còn gọi là nút phéng), bao thuốc lá, và giấy hình. Vì thế thật ra có ba loại chơi tạt: tạt nút khoén, tạt bao thuốc hay tạt hình. Luật chơi thì hoàn toàn giống nhau, như đã mô tả ở trên, chỉ có đối tượng ăn thua là khác nhau. Hai loại “tiền” đầu tiên thì phải chịu khó bỏ công đi lượm về và chuẩn bị. Loại “tiền” thứ ba là loại duy nhứt phải bỏ tiền thật ra mua. Nút khoén thì sau khi lượm về phải cạy bỏ lớp mốp ở bên trong đi, xong rồi dùng búa hay đá dập cho chúng dẹp và phẳng ra, nhưng phải tránh không làm mất cái hình vẽ sơn ở trên mặt vì chính các hình đó quyết định về trị giá của “tiền”. Các loại nắp chai nước ngọt thông thường như nước cam, bạc hà, xá xị có giá trị thấp nhứt, mỗi cái chỉ tính một đơn vị. Các loại nắp chai ít gặp hơn như sođa, nước suối Perrier, hay xi rô, bia 33, có giá trị cao hơn, có cái tính ba, có cái tính năm đơn vị. Bao thuốc lá thì sau khi lượm về cũng phải được chuẩn bị cho thành “tiền”. Ðầu tiên là bóc bỏ lớp giấy kiếng bên ngoài (nếu vẫn còn, thường thì không còn) và lớp giấy bạc bên trong. Xong rồi khéo léo mở banh bao thuốc ra cho nó thành một tờ giấy mà không bị rách, sau đó xếp nó lại thành hình chữ nhựt, ngang khoảng 4 cm, dài khoảng 6 cm, với phần mặt bao có tên hiệu thuốc lá ra bên ngoài và ở phía trên. Cũng giống như nút khoén, bao thuốc lá có giá trị khác nhau tùy theo hiệu thuốc. Các bao trị giá kém nhứt, chỉ tính một đơn vị, là các bao thuốc thông thường như Mélia, Bastos xanh, Bastos đỏ. Trị giá cao hơn là các bao hiệu Capstan, Cotab. Cao hơn nữa là các bao Con Mèo (Craven “A”), hay Lính Thủy (Navy Cut), hay Lucky, hay Lạc Ðà (Camel). Loại “tiền” chót, giấy hình, thì phải ra chợ Ðakao hay chợ Tân Ðịnh để mua. Ðó là các tấm giấy carton mỏng có in hình màu của các truyện tranh vẽ như Zorro, Tarzan, vv. Các tấm carton nầy hình chữ nhựt, chiều ngang độ 2 tấc, chiều dài độ 3 tấc, chia làm 30 ô vuông, mỗi ô đều có in hình màu. Mua các giấy nầy về, bọn tôi cắt ra theo các ô chia sẳn, mổi ô với hình trên đó được tính một đơn vị. Loại “tiền” nầy thì tất cả đều có giá trị ngang nhau. Trong ba loại trò chơi tạt nầy, loại tạt hình là loại sinh sau đẻ muộn và kém phổ biến nhứt vì nó đòi hỏi phải bỏ tiền thật ra mua. Ngoài ra, cũng vì nó kém hấp dẫn nhứt, chỉ bỏ tiền ra mua là có, không đòi hỏi công phu đi lùng kiếm, lục lạo, và hên xui, may rủi. Các bạn cứ thử tưởng tượng xem khi bọn tôi may mắn tìm được một cái nắp chai Perrier, hay môt cái bao thuốc Camel thì bọn tôi sướng biết là chừng nào. Rồi còn cái công chuẩn bị cho các thứ đó trở thành “tiền” nữa, cực hơn nhiều nhưng cũng khoái hơn rất nhiều.

Ðánh Ðáo

Trò chơi nầy thường ít khi có trên bốn đứa trẻ, mỗi đứa bỏ ra một số “xu” bằng nhau. “Xu” có thể là tiền xu thật, loại đồng một xu màu xanh xám, bằng kẽm, tương đối dễ bể, do chính quyền thuộc địa Pháp phát hành, lúc đó vẫn còn lưu hành (vào đầu thập niên 1950, một xu lúc đó có thể mua được một miếng kẹo da trâu), nhưng cũng có thể là tiền điếu, bằng đồng thau, do Nhà Nguyễn phát hành, lúc đó không còn xài được nữa. “Xu” cũng có thể là nút khoén (từ thông dụng tại Miền Nam để chỉ cái nấp bằng kim loại của các chai nước ngọt, chai bia, vv.)

Có hai thể loại của trò chơi nầy, một có lỗ và một không có lỗ. Khi chơi thì chọn một khúc lề đường có mặt đất phẳng, không có cỏ. Ðầu tiên là đào một cái lỗ (nếu chọn chơi có lỗ), đường kính sao cho các đồng xu có thể lọt vào gọn gàng, sâu chừng hơn một phân thôi, ngay bên dưới cái lỗ sẽ gạch một đường dài chừng hơn một mét, sau đó gạch một đường nữa, song song với đường thứ nhứt và cách đường nầy chừng hai mét.

Trước khi bắt đầu chơi thì thi thảy mức hay “oánh tù tì” để định thứ tự chơi. Bắt đầu chơi thì đứa đi đầu tiên sẽ cầm hết cả xấp tiền xu đã góp lại, đứng tại đường gạch thứ nhì, ném tất cả về phía đường gạch kia. Nếu chơi có lỗ, thì mục tiêu sẽ là làm sao ném cho các đồng xu rớt vào trong lỗ, càng nhiều càng tốt, vì tất cả các xu lọt vào trong lỗ sẽ thuộc về người ném. Số xu không lọt vào lỗ sẽ nằm rải rác trên mặt đất, chung quanh cái lỗ, hoặc cũng có khi văng ra xa hơn. Bây giờ các đứa còn lại sẽ bàn với nhau, và sau đó sẽ chỉ vào một trong các đồng xu đó. Dĩ nhiên, đó là đồng xu ở vào vị trí mà cả bọn tin là khó chọi trúng nhứt. Ðó sẽ là mục tiêu cho đứa đang chơi. Trong trường hợp có mấy đồng xu nằm dính chùm với nhau, thì mấy đồng đó đương nhiên là mục tiêu, bọn còn lại bị tước mất cái quyền chỉ định mục tiêu. Ðứa đang chơi sẽ dùng một đồng chọi của riêng nó, nhắm chọi cho trúng cái đồng xu mà đối phương đã chỉ định, hoặc cái đống tiền xu nằm dính chùm với nhau. Trong trường mục tiêu chỉ định, nếu nó chọi trúng thì nó sẽ “ăn” hết tất cả các xu. Nếu nó chọi trật hay trúng một đồng xu khác thì phiên chơi của nó chấm dứt, và đứa có thứ tự kế tiếp sẽ bắt đầu chơi. Trong trường hợp mục tiêu đương nhiên (đống xu dính chùm) thì đứa chơi phải dùng đồng chọi của nó chọi thế nào cho tất cả các đồng xu đó rời ra hết. Nếu làm được vậy, nó sẽ “ăn” hết, nếu không thì phiên chơi của nó chấm đứt. Ðứa được đi kế sẽ gom tất cả xu lại, đi tới đường gạch ở đầu kia và bắt đầu chơi. Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến khi tất cả các xu đã được “ăn” hết.

Trong trò chơi nầy, “võ khí cá nhân”, tức là đồng chọi, rất quan trọng, góp phần định đoạt thắng bại. Bọn tôi mỗi đứa đều phải tự chế tạo đồng chọi. Thông thường nhứt là các đồng chọi bằng chì. Ðể “chế tạo võ khí cá nhân” nầy, bọn tôi phải chịu khó đi tìm tòi, lục lọi ở mấy bãi rác, tìm cho được mấy miếng chì vụn vặt, tốt nhứt là mấy cái ngàm thắng xe đạp. Bỏ tất cả vào một cái lon sửa bò, bọn tôi đốt cái lon cho nóng lên để cho chì chảy ra thành nước (các bạn đã hiểu tại sao bọn tôi chọn chì rồi phải không, lý do đơn giản là vì chì có độ nóng chảy rất thấp, dễ “luyện kim,” phải không các bạn?). Trong khi đó, thì bọn tôi đào một cái lỗ trên mặt đất, chổ có đất sét là tốt nhứt, vì dễ đào, và dễ “thiết kế” cái lỗ theo ý muốn của mình. Ðường kính của cái lỗ lớn nhỏ là tùy theo mình muốn đồng chọi của mình bao lớn. Ðộ sâu của cái lỗ thường khoảng một phân thôi. Khi chì đã chảy ra thì kiếm một miếng vải cầm cái lon lên (cho khỏi phỏng tay), đổ nước chì vào trong cái lỗ, canh sao cho vừa đủ, để khi nguội lại mình sẽ có một đồng chọi có bề dày vừa ý mình. Sau khi chì đã nguội và đông đặc lại, thì moi đồng chì ra khỏi lỗ, và bắt đầu tiến trình hoàn tất đồng chọi, bằng cách mài cạnh và mặt của nó cho láng. Thế là mình có được một đồng chọi hoàn toàn vừa ý mình. Sau đó là bắt đầu tập luyện để chọi cho chính xác, muốn chọi đồng nào là trúng đồng đó. Ðến đó thì mình đã cảm thấy sẳn sàng “ra trận” rồi.

Ðánh Trỏng

Trò chơi nầy về sau tôi được biết là trẻ con ngoài Bắc cũng có chơi và gọi là đánh khăng. Dụng cụ để chơi rất đơn giản, gồm có hai khúc cây, một dài độ ba bốn tấc gọi là cây tán, một ngắn độ hơn một tấc thôi gọi là con trỏng. Lý tưởng nhứt là cả cây tán và con trỏng đều làm bằng củi đòn, một loại củi thân tròn và rất thẳng, đường kính độ dưới hai phân, màu đỏ, chụm mau cháy và có độ nóng cao, loại củi nầy tương đối mắc tiền nên không phải nhà nào cũng có khả năng mua về để chụm lửa. Nếu không có được củi đòn thì tìm mấy nhánh cây me, hay cây ổi cũng rất tốt, có điều là sẽ tốn công nhiều hơn trong việc chế biến chúng.

Ở xóm Ðakao của tôi thì luôn luôn chỉ chơi bốn đứa chia làm hai phe, mỗi phe hai đứa. Chổ chơi thì phải rất rộng nên dĩ nhiên địa điểm lý tưởng của bọn tôi là bãi đất trống gần vựa củi của Ông Tư. Ðể chuẩn bị chơi thì đầu tiên là đào một cái lỗ dài độ hơn hai tấc, bề ngang chừng ba phân, sâu cũng chừng ba phân. Kế đó là gạch một đường mức cách phía trước cái lỗ chừng hai mét. Ðể ấn định thứ tự chơi thì mỗi phe cử ra một đứa để “oánh tù tì”. Phe nào thắng thì được chơi trước. Phe đó sẽ cử ra một đứa để chơi, đứa kia chỉ đứng ngoài quan sát. Phe còn lại thì cả hai đứa đều đi ra phía đằng trước; vị trí đứng của tụi nó xa hay gần đường mức hoàn toàn do tụi nó quyết định. Mục tiêu của tụi nó là đón bắt con trỏng do đối phương phóng ra.

Trò chơi nầy đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật khác nhau vì cách chơi lần lượt thay đổi theo tiến trình của cuộc chơi, càng về sau càng khó. Ðầu tiên là vít, là lối chơi dễ nhứt, đứa nào cũng chơi được hết. Khi chơi lối nầy thì con trỏng được đặt nằm ngang trên miệng lỗ, phía đằng đầu của lỗ, cây tán được cầm bằng hai tay, đầu kia đặt vào trong cái lỗ, bên dưới con trõng, đứa đang chơi sẽ dùng hết sức để vít con trỏng cho nó bay lên khỏi mặt đất, tối thiểu là phải qua khỏi đường mức và làm sao cho đối phương không bắt được nó. Nếu đối phương bắt được con trỏng thì phiên chơi của phe đang chơi chấm dứt liền lập tức. Phe đang chơi, lần nầy thì cả hai đứa, sẽ di chuyển ra phía trước để đón bắt con trỏng. Phe đối phương thì lại cử ra một đứa để bắt đầu chơi. Nếu đối phương không bắt được con trỏng, thì một đứa sẽ đi tới chổ con trỏng rớt xuống, lượm con trỏng lên và ném về phía cái lỗ, lúc đó cây tán đã được đứa đang chơi gát nằm ngang trên miệng lỗ. Mục tiêu của đối phương là làm sao ném cho con trỏng trúng vào cây tán. Nếu ném trúng thì phe đang chơi bị chấm dứt phiên chơi liền. Nếu ném không trúng nhưng con trỏng nằm cách cái lỗ một khoảng ngắn hơn chiều dài của cây tán thì phe đang chơi cũng bị chấm dứt phiên chơi liền. Nếu ném không trúng mà con trỏng nằm xa cái lỗ thì đứa đang chơi sẽ cầm cây tán lên, đi tới chổ con trỏng đang nằm và bắt đầu dùng cây tán đo khoảng cách từ đó về tới cái lỗ, đếm xem được bao nhiêu chiều dài cây tán, con số nầy sẽ là điểm của phe đang chơi, và thông thường, ở xóm Ðakao tôi, số điểm để thắng cuộc chơi là một trăm điểm.

Sau lối chơi vít là lối chơi tán. Bắt đầu lối chơi nầy, đứa chơi phải cầm cả cây tán lẫn con trỏng trên một tay. Sau khi hô lớn số điểm đã có được và cách chơi sắp diển ra (thí du: mười hai, tán) thì đứa chơi sẽ ném con trỏng lên cao, chờ cho nó rơi xuống ngang tầm tay, dùng hết sức tán cây tán thật mạnh vào con trỏng cho nó bay vút về phía trước. Nếu tán hụt, hay tán trúng nhưng quá nhẹ khiến cho con trỏng không bay vượt qua khỏi đường mức thì phiên chơi sẽ chấm dứt liền. Nếu tán trúng và đủ mạnh để con trỏng bay xa khỏi đường mức thì phe đối phương sẽ có mục tiêu là chận bắt con trỏng trên không trung. Nếu phe đối phương bắt được con trỏng thì phiên chơi của phe đang chơi cũng sẽ chấm dứt liền. Nếu không bắt được thì một đứa trong phe đối phương sẽ đi lượm con trỏng lên và ném về phía cái lỗ. Ðứa đang chơi sẽ nhắm vào con trỏng đang được ném trả lại và cố gắng tán cho trúng nó. Nếu nó tán trúng thì lần nầy phe đối phương không được quyền đón bắt con trỏng nữa. Nó sẽ đi tới chổ con trỏng rớt xuống và bắt đầu đo khoảng cách từ đó về cho tới cái lỗ, cộng vào điểm phe nó đã có sau lần chơi vít. Nếu nó tán hụt và con trỏng rơi xuống cách cái lỗ một khoảng ngắn hơn chiều dài cây tán thì phiên chơi của phe đang chơi cũng sẽ chấm dứt liền. Nếu nó tán hụt nhưng con trỏng rơi xuống cách xa cái lỗ thì nó được quyền đo khoảng cách từ đó về cái lỗ để tính điểm, cộng vào điểm phe nó đã có sau lần chơi vít.

Lối chơi kế tiếp là chặt. Bắt đầu lối chơi nầy, con trỏng được gát vào đầu trước của cái lỗ, nữa phần sau của con trỏng nằm trong cái lỗ, nữa phần trước nằm ngóc đầu lên ở ngoài cái lỗ. Sau khi hô lớn số điểm đã có và cách chơi sắp diển ra (thí du: ba mươi sáu, chặt) đứa đang chơi sẽ dùng cây tán chặt vào cái đầu của con trỏng đang ngóc lên, làm sao cho con trỏng bắn lên cao khỏi mặt đất, chờ khi con trỏng rơi xuống ngang tầm tay, sẽ dùng cây tán đánh mạnh vào con trỏng cho nó bay vút về phía trước. Luật lệ cũng y như lối chơi tán vừa kể trên. Nếu thoát được đối phương lần nầy nữa thì phe đang chơi, sau khi tính thêm điểm, sẽ chuyển sang lối chơi chót gọi là gánh.

Lối chơi nầy rất khó. Khởi sự chơi thì đứa đang chơi phải để cây tán nằm vắt vẻo trên vai trái, bàn tay phải cầm con trỏng. Sau khi hô to điểm đã có và lối chơi sắp diển ra (thí dụ: sáu mươi lăm, gánh), đứa chơi co chân phải lên, luồn bàn tay phải xuống dưới chân phải, liệng con trỏng lên cao, hạ chân phải xuống đất, bàn tay phải chụp cây tán trên vai, và vừa lúc con trỏng rơi xuống ngang tầm tay, nó dang hết sức tán thật mạnh vào con trỏng cho nó bay vút về phía trước. Luật lệ cũng y như lối chơi vừa rồi. Nếu lại thoát được lối phương lần nầy nữa thì phe đang chơi, sau khi tính thêm điểm, và nếu vẫn chưa đủ một trăm điểm, sẽ trở lại lối chơi vít.

Khi một phe đã đạt đủ số một trăm điểm thì phe kia phải chịu thi hành hình phạt, gọi là chạy u một khoảng đường đo bằng ba lần tán. Chạy u là vừa chạy vừa phải thổi u u, mà khi thổi u u như vậy thì phải nín thở nên không thể chạy xa được. Nếu ngưng thổi u u mà chưa chạy xong khoảng đường đó thì lại bị phạt thêm một tán nữa. Ðể kiểm soát việc thi hành hình phạt nầy thì phe thắng không có cách nào khác hơn là cũng phải chạy kèm theo phe thua. Dĩ nhiên phe thua thì được quyền thay phiên nhau để chạy tiếp phạt.

(Nguồn: Đakao trong tâm tưởng, của chính tác giả dưới bút hiệu Vĩnh Nhơn. Hamilton, Ontario, Canada: Hoài Việt xuất bản, 2008. Tr. 80-86, 92-99).


Lâm Vĩnh Thế



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Oct/2021 lúc 2:02pm

Nhớ Cà Phê Lá Me Bay

Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)

ca%20phe%20la%20me%20bay%2003

1.

Ngày xưa, những năm 70 nhiễu nhương, loạn lạc lại trúng vào thời sinh viên của bọn tôi ở Sài Gòn. Dù đa số trong bọn đều là con nhà nghèo hay chỉ trung lưu, nhiều bạn phải đi dạy kèm mới đủ tiền mua cours mà học, nhưng bọn tôi lại khá phong lưu, rộng rãi ở cái khoản cà phê.

Chỗ đóng đô, quán hẹn quen thuộc thì lu bù, phồn tạp. Khi có tiền thì ra cà phê Hân hay Duyên Anh trên đường Đinh Tiên Hoàng, Đakao là gần trường Văn Khoa nhất, đi bô ra quán dưới cơn mưa nhỏ lại càng thú vị. Lý do nữa là Hân có băng nhạc Paul Mauriat tuyệt vời, Duyên Anh có cô sinh viên cùng ban triết với bọn tôi làm thu ngân, biết bao chàng say đắm! Còn khi thong thả cả hai khoản tiền bạc và thì giờ, cả bọn kéo đến cà phê Hồng ở đường Pasteur, Tân Định. Quán có chị Hồng, chủ quán, tóc để dài thật liêu trai, cà phê thật đắng, nhỏ giọt thật chậm để khách lãng đãng thả hồn theo khói thuốc và nhạc họ Trịnh. Còn những vết ố trên tường cứ ngang ngang nhau, như thể tất cả khách trước sau đến quán đều dửng dưng có cùng một cỡ xương sống mỏi mệt, chán chường thời thế và thân phận.

ca%20phe%20la%20me%20bay%2001Còn những ngày cạn túi, bọn tôi vẫn ung dung – thường xuyên ung dung – ra cà phê lá me. Cho đến ngày nay, nằm ngay trung tâm của quận trung tâm thành phố là Quận Nhất, ở trước mặt nhà thờ Đức Bà, ngã ba đường Đồng Khởi ngày nay (đường Tự Do/Catinat xưa cũ) với đường Nguyễn Du vẫn luôn là khu vực hào nhoáng bậc nhất của Sài Gòn hoa lệ, có mặt toàn những khách sạn, nhà hàng, văn phòng thương mại, ngân hàng… nguy nga, sang trọng. Vậy mà thời đó, ở ngã ba này, trên một quãng vỉa hè chỉ là sàn xi măng xấu thô, chỗ cao chỗ thấp thuộc đường Nguyễn Du, dưới tán lá những cây me già chợt xuất hiện một hàng cà phê lộ thiên, không bảng hiệu, thuộc hạng bình dân, xập xệ hết cỡ.

Tượng Đức Mẹ đứng giữa hoa viên phía trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, lúc nào đó liếc mắt sang phía phải, thấy cái quán nghèo mạt ở giữa khu phố quá giàu có, hẳn Mẹ không khỏi chép miệng thương xót: “Tội nghiệp, các con ở nhầm chỗ mất rồi!”.

Quán xập xệ đến mức chỉ bày ra những bô bàn ghế gỗ tạp cũ mèm, vừa nhỏ vừa thấp. Bàn chỉ đủ ngồi 3-4 người, ghế đẩu thì mặt ngồi vừa đủ cho bàn tọa người vóc trung bình, không nên mập và dĩ nhiên, loại ghế đẩu cao chỉ 25cm này làm gì có lưng tựa.

Thường thì bọn tôi hay gọi cái quán cóc, pha cà phê vớ ngon không kém cà phê phin này là “cà phê Nguyễn Du”, “cà phê lá me”, có khi hú nhau thật vắn tắt “Ra lá me nhé!”, “Tụi nó  ngồi chỗ lá me đấy!” cũng đủ hiểu. Nhưng, có tên nào khó ưa, được mời cà phê chùa còn ngầm ý phân biệt, xếp hạng cái quán cả bọn sắp kéo đến, hỏi kháy “Cà phê hả? Ghế thấp hay ghế cao?”, thì đượng nhiên cà phê lá me thuộc hạng “ghế thấp”, khỏi tranh cải.

Quán lá me xập xệ, bần dân đến nổi bọn con trai ngầm chia xẽ nhau một điều kiêng kỵ, tránh không bao giờ rủ mấy nữ nhóm viên hiếm hoi trong nhóm cùng đến quán. Con gái nhà người ta nết na, đằm thắm và thanh tân hết mực. Cứ nhìn các nàng trong áo dài raglan kiêu sa, trang trọng là mình đã phải làm nghiêm, cố nói năng cho đúng mực đàng hoàng và tôn trọng, có rủ đi uống nước thì cũng phải lựa quán xá sang trọng cỡ La Pagode, Hân, Duyên Anh, Cafetaria, Bố Già… mới xứng với các nàng. Ngược lại. làm sao có thể rủ người ta đến cà phê lá me, ngồi lê lết vỉa hè như dân lãng tử bụi đời, vừa khó coi vừa mất giá tiểu thư?

2.

ca%20phe%20la%20me%20bay%2002Dù sao mặc lòng, ngày giờ này đã nửa thế kỷ trôi qua, hễ ngồi nhắc với nhau về quán cà phê lá me đường Nguyễn Du ngày xưa là nhiều người trong bọn tôi đã như sống lại với cùng những kỷ niệm  sâu lắng, những hình ảnh, chuyện đời vui buồn lẫn lộn của thời trai trẻ, tất cả từng ghi khắc ở nơi này. Đối với riêng chúng tôi, kỳ diệu là cái quán mộc mạc, không tên tuổi ấy lại là một kho báu lưu giữ những giá trị sâu sắc, vừa về thời gian, sử tính vừa về tinh thần, tình cảm và cảm xúc trong đời sống. Sâu xa hơn, ở tuổi đời xế bóng, một khi bao năm qua tâm hồn đã khô hạn ít nhiều bởi ảnh hưởng của những thói bươn chãi đến ích kỹ, vun quén cá nhân, khôn vặt, thực dụng, thô lổ…, chẳng qua là để có thể tồn tại trong tình cảnh thiếu thốn, khó khăn mọi mặt trong nước hoặc cuộc sống một thời lưu vong, chưa thể hội nhập ở nước ngoài, đám bạn già chúng tôi ngày nay cùng thừa nhận rằng những ngày được sống trong tâm thức lãng mạn, phóng dật của thời kỳ Cà Phê Lá Me viết hoa ấy mới quý giá và đáng sống làm sao!

Cái thời mà ở một quán cóc lề đường Nguyễn Du, những buổi chiều gió hiu hiu vừa đủ làm rụng lá me, những chiếc lá nhỏ xíu bay lạc vào tách cà phê, tách trà bình dân, rẻ tiền của bọn sinh viên nghèo.

 Cái thời mà những cơn gió lớn làm rụng hạt những cây sao trên đường Trần Quang Khải, những cái chong chóng tím tím, đỏ đỏ ấy xoay tít trên trời, bay lạc vào những căn gác gỗ tồi tàn, nhỏ như  lỗ mũi, nơi cả bốn, năm tên sinh viên cùng trọ học. Nghèo nàn, đạm bạc qua ngày, cảm thụ lãng mạn, hơi hoang tưởng…, ngoài ra thì không có gì cấm được đám thư sinh, hàn sĩ ấy nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương lai, dự phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà mình đang dùi mài, tích lũy từ ngôi trường cổ kính bao năm?

Rồi tốt nghiệp cử nhân, ra trường, ai nấy tứ tán đi làm chỗ này chỗ nọ, cố gắng thực hiện các dự phóng riêng hay chung mà ngày nào đã từng tranh cải, bàn luận, ra quyết định chọn lựa… ở cái quán cà phê cóc đơn sơ ấy. Thời sinh viên lãng mạn, đầy hoa mộng coi như đã khép lại tuy cũng có một số người ghi danh tiếp, làm luận án cao học nhưng cũng không thường xuyên đến trường nữa. Cũng có nghĩa là từ đó, bạn bè ít có cơ hội gặp nhau ở trường, để có thể rủ nhau đi cà phê, dĩ nhiên là trở lại cà phê lá me.

Tôi nhớ, chính vào những lúc tụ tập ở cái quán cóc lá me đơn sơ ấy, ngoài những tâm sự thậm thụt, tán dóc vu vơ, nhiều lúc bọn tôi còn bàn đến những vấn đề nghiêm chỉnh về hoạt động chung của nhóm, cả về những chuyện định hướng cả cuộc sống và tương lai của mỗi anh em, như: nên học chuyên về triết Đông hay triết Tây, làm tiểu luận cao học đề tài nào, cùng đào sâu nghiên cứu tư tưởng triết gia nào, quyết định lập nhóm nghiên cứu và ra tờ báo, cần ghi danh thêm bên luật hay chính trị – kinh doanh, không nên nhận tiền tài trợ của tổ chức T.…

3.

Ngoài chuyện từng làm chứng nhân cho những kế hoạch hoạt động, dự phóng tương lai của đám sinh viên bọn tôi, cà phê lá me còn lưu giữ cả những chuyện tình thật đẹp hoăc thật tội nghiệp.

ca%20phe%20la%20me%20bay%2004Như có một tên bạn, học cùng ban Triết đông phương như tôi nên rất thân và hiểu nhau. Năm đó, người trong mộng của hắn, như lời tình ca mượt mà “Hỡi người tình Văn khoa…” của Phạm Duy, phải là một tiểu thư yểu điệu thục nữ, áo dài tha thướt, trang trọng rất Á Đông, đằng này lại là một cô nàng vốn học trường đầm, vào Văn Khoa là ghi danh ban Anh văn, cái ngành học à la mode nhất trường thời đó, hay mặc jupe bó đùi rất gợi cảm.

Kẻ thất tình lầm lạc buồn quá là buồn nên đã được tôi và vài các bạn đồng môn khác dẫn đi cà phê để an ủi, khuyên lơn. Gặp lúc cả đám đều cạn túi, bọn tôi chỉ có thể kéo nhau ra cà phê lá me, bình dân, ít tốn. Vậy mà lại hay!

Bên tách cà phê pha vớ, anh bạn thất tình mới bộc bạch nguồn cơn, rằng hắn rất cảm kích khi được bạn bè chia xẽ nỗi buồn riêng tư, nhưng hắn còn đặc biệt cám ơn bạn bè hơn nữa khi bọn tôi đã dẫn hắn ra cà phê lá me bình dân, rẻ tiền, thay vì là một quán sang trọng, mắc tiền khác, Hân ở Đa Kao chẳng hạn. Lý do là, khi còn mê mãi theo đuổi người đẹp trường Tây, hắn từng phải tiện tặn từng đồng từng cắc, nhịn ăn nhịn uống để có tiền mời người đẹp đi uống nước và đã vài lần hắn chọn sân khấu cho màn diễn lấy lòng người đẹp là cà phê Hân cho gần trường.

Rốt cuộc, anh sinh viên nghèo mạt, si mê người đẹp, thật tội là chỉ đưa cô nàng đi uống nước hạng sang có vài lần là đã đi đứt một tháng lương dạy kèm, đành ăn mì gói thay cơm dài dài, hỏi sao có thể lọt vào mắt xanh của người đẹp cho được?

Khi đó, để an ủi kẻ thất tình, run rủi bạn bè chỉ đưa hắn đến cà phê lá me bình dân, bụi bậm mà lại hay, vì như đã thấy, tâm hồn đầy sầu, hận của hắn đã lấy lại thăng bằng kha khá. Và khi bạn bè không đưa hắn đến cà phê Hân hay một quán sang trọng nào khác là đã tránh cho hắn khỏi bị những nơi này gợi lại niềm đau của mối hận tình – cả nỗi tủi thân nữa.

Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)

(Tàn năm 2016)

Trích tập tản văn LÃNG ĐÃNG VỚI CÀ PHÊ&NHẠC – PhamNga2017


https://petruskyaus.files.wordpress.com/2021/10/ncplmb1.jpg">

Ngày chủ nhật 10-10-2021, trong kết quả cuộc thi viết chủ đề “Sài Gòn, ngày… tháng… năm… ” do fanpage An Group tổ chức (từ 16/6 đến 30/8/2021), tản văn NHỚ CÀ PHÊ LÁ ME BAY (Phạm Nga) đã đạt giải Nhì.
Bài này đã được chọn đăng trên PKAUS website năm 2017, nay mời các bạn thưởng thức bản vidéo/radio của bài.


https://www.youtube.com/watch?v=LWDfpIGyirc - Sài Gòn Nhớ, Sài Gòn Thương #25 - MC Xuân Hiếu & BTV Chí Cường | An Group    <<<<<



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Oct/2021 lúc 9:43am
https://huongduongtxd.com/xabong-vietnam.pdf - Trương Văn Bền và Hãng Xà Bông Việt-Nam    <<<<<


TRƯƠNG%20VĂN%20BỀN:%20Cập%20nhật%20tin%20tức%20mới%20nhất%20|%20Bestie.vn


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Oct/2021 lúc 1:58pm
https://huongduongtxd.com/trochoidandan.pdf - Tìm Về Tuổi Thơ Qua Trò Chơi Dân Gian - Di Hân - Hà Phương    <<<<<


Trở%20về%20tuổi%20thơ%20dữ%20dội%20với%2022%20trò%20chơi%20“ngày%20ấy”…%20|%20Bài%20viết%20|%20Foody.vn


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Oct/2021 lúc 11:33am
https://huongduongtxd.com/timhieuchucula.pdf - Tìm Hiểu Chữ "Cù Là" - Trang Nguyên     <<<<<


Dầu%20cù%20là%20Mac%20Phsu%20vang%20bóng%20một%20thời%20tái%20xuất%20-%20VnExpress%20Kinh%20doanh


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 29/Oct/2021 lúc 9:28am

https://www.youtube.com/watch?v=c5lfarLaNdA - SÀI GÒN 1950 - 1975    <<<<<


SÀI%20GÒN%201950%20-%201975%20-%20YouTube


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Oct/2021 lúc 2:22pm
https://huongduongtxd.com/nhongnhongcuoingua.pdf - Nhong Nhong Cưỡi Ngựa "Bình Kho" - Nguyễn Dư     <<<<<


Trò%20chơi%20&quot;đáo%20đĩa&quot;%20trong%20lễ%20hội%20&quot;Cô-Tre&quot;%20hàng%20năm%20tại%20làng…%20|%20Flickr


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Nov/2021 lúc 1:17pm

Sài Gòn – những vòng xoay ký ức

Kỳ 6 : Ngã sáu “Nỏ thần” và ngã bảy ‘Bình dân’

TTO – Từ ngã sáu Cộng Hòa đi xe máy khoảng 5 phút là đến ngã sáu Nguyễn Tri Phương. Và rồi cũng bằng thời gian ấy theo đường Ngô Gia Tự sẽ gặp một ngã bảy rộng lớn, quen gọi là ngã bảy Lý Thái Tổ.

Ngã%20sáu%20Nguyễn%20Tri%20Phương%20–%20Wikipedia%20tiếng%20Việt


Ba vòng xoay này nằm liền kề nhau, tạo thành một tam giác như kết nghĩa “vườn đào” lý thú.

“Ngã sáu Nỏ thần” – đường vào Chợ Lớn

Tôi thích gọi đó là “ngã sáu Nỏ thần” vì mỗi lần qua đây dù đi đường nào cũng trông thấy từ xa chiếc cột trắng cao vút, nơi đặt tượng An Dương Vương mặc giáp trụ hiên ngang, cầm một cây cung lớn. Ông như vừa bước ra từ quyển tập đọc sử ký lớp 1 thời của chúng tôi. Quyển sử có kể chuyện và vẽ hình An Dương Vương xây thành Cổ Loa và chế tạo nỏ thần để chống quân Tần xâm lược. Chúng tôi mê những trang sử Việt đầu đời qua những câu chuyện và hình ảnh hào hùng như thế.

Sau này đến châu Âu, tôi nhận ra tượng đài An Dương Vương được thiết kế đồng dạng tượng đài Trafalgar ở London và Vendome, Paris. Tuy nhiên, tượng đài anh hùng nỏ thần ở Sài Gòn vẫn mang ấn tượng và câu chuyện khác biệt. Nó được đặt ở một giao lộ, giáp ranh giữa Sài Gòn và Chợ Lớn. Khi “trấn giữ” các giao lộ chính yếu ở Sài Gòn, tượng đài An Dương Vương cùng các tượng đài Phù Đổng Thiên Vương, Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Hãn, Phan Đình Phùng… đã làm gia tăng niềm tự hào dân tộc bất khuất và nhắc nhở bài học cảnh giác trước những kẻ ngoại xâm hung hãn.

Thuở nhỏ, từ xóm Bàn Cờ tôi thường theo mẹ vào Chợ Lớn để mua hàng đều qua bùng binh ngã sáu. Ngồi trên xích lô máy, tôi hớn hở nhìn cảnh hai bên đường khác lạ. Khắp nơi treo la liệt những bảng hiệu vừa ghi chữ Việt, vừa ghi chữ Tàu.

Trên đường Nguyễn Tri Phương có hẳn một dãy phố chuyên bán trái cây các loại, nổi bật là sầu riêng. Mẹ tôi gọi đó là khu “La Cai”, cái tên nghe là lạ. Hóa ra đó là từ biến âm của “Lacaze” – tên đường từ thời Pháp. Về đêm, từ ngã sáu ra đến La Cai là khu nhậu nhẹt hải sản và ăn khuya. 

Đến mùa Trung thu và tết, từ đường Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo, quận 5) đổ về đây là hai dãy sạp hàng sáng đèn lung linh. Người Sài Gòn thích dạo chợ đêm “La Cai” để mua bánh kẹo, lồng đèn, trà sen và đủ loại quà tặng sản xuất ở “Hong Kong… bên hông Chợ Lớn”!

“Đặc khu bệnh viện” và “xóm sinh viên”

Từ ngã sáu Nguyễn Tri Phương, các con đường tỏa ra khá nhiều bệnh viện và cơ sở y tế. Có lẽ vùng này là nơi có mật độ người đi chữa bệnh cao nhất Sài Gòn. Phía La Cai nằm san sát bên nhau là các nhà thương tư của các bang hội người Hoa như Y viện Quảng Đông (nay là Bệnh viện Nguyễn Tri Phương), Triều Châu (An Bình) và Phúc Kiến (Nguyễn Trãi). Trong các nhà thương này đều có đền miếu cổ cầu an bình cho những người quá vãng.

Trong khi ấy, trên đường Nguyễn Chí Thanh, Bệnh viện Chợ Rẫy đồ sộ là cơ sở y tế lớn nhất ở miền Nam cho đến tận bây giờ. Đi về phía nhà thờ ngã sáu – tên chính thức là nhà thờ Thánh Jeanne d’Arc, gặp Bệnh viện lao Hồng Bàng (Phạm Ngọc Thạch), Trung tâm Truyền máu và Bảo sanh viện Hùng Vương. Đối diện bên kia đường, những năm gần đây có thêm Bệnh viện Đại học Y Dược rất bề thế.

Ngã%20bảy%20Lý%20Thái%20Tổ%20-%20Wikiwand


Ngã bảy “bình dân” và hàng phố dân dã

Kể ra “xóm sinh viên” còn tỏa ra nhiều nhánh quanh khu Ngã bảy Lý Thái Tổ. Bản thân giao lộ ngã bảy là nơi tiếp giáp các quận 1, 3, 5, 10 rất thuận tiện cho đi lại. Tại đây có hằng hà các xóm lao động và con hẻm để sinh viên và người nghèo tá túc giá rẻ. 

Những năm 1960, trước khi dọn về Bàn Cờ, gia đình tôi thuê nhà trong một con hẻm nhỏ ở đường Vĩnh Viễn. Đầu hẻm có một cây si cổ thụ trông rất cổ quái nên mỗi lần vào hẻm tôi lại nổi da gà. Sau Tết Mậu Thân 1968, vùng này có thêm các xóm lao động “nhà lầu” là chung cư Sư Vạn Hạnh, Ấn Quang, Minh Mạng, Nguyễn Kim, Nhựt Tảo, Nguyễn Thiện Thuật.

Trong khi ấy, ngã bảy Lý Thái Tổ còn là cửa ngõ ra vào dễ dàng nhiều chợ búa lớn nhỏ. Phần lớn là chợ vỉa hè hay chợ lòng đường như chợ Nguyễn Tri Phương, Bà Hạt, Nhựt Tảo, Bàn Cờ, Vườn Chuối. Khoảng trước năm 2000, từng có một chợ cá khổng lồ nằm ở giao lộ Lý Thái Tổ và Trần Quốc Toản (bây giờ là đường 3-2). Đi cách chợ nửa cây số, mọi người vẫn ngửi thấy mùi tôm cá hừng hực khó quên! Những năm 1980, trên đường Lý Thái Tổ ra đời chợ hoa Hồ Thị Kỷ, nguyên là khu tạm cư của dân tị nan từ Campuchia trở về.

Nói chuyện thức ăn, phải kể khu ngã bảy có nhiều phố ẩm thực tấp nập của người Sài Gòn. Các loại chè xôi dân dã, bún nước lèo, bánh canh, bánh xèo và hủ tiếu, mì bò viên, cháo Quảng… đều có mặt ở các chợ và ngõ hẽm. Sau năm 1954, người Bắc di cư vào mở ra những hàng quán nổi tiếng như phở Tàu Bay, Tàu Thủy, Nghi Xuân và bánh mì Hòa Mã, bánh mì Hà Nội, thạch chè Hiển Khánh…

Mặt khác, ngã bảy còn là khu phố chuyên bán các mặt hàng gia dụng và dịch vụ gia đình. Trước nhất là ba con phố “cặp kè” nhau, bao gồm “phố đồ gỗ, giường tủ” trên đường Ngô Gia Tự, “phố mành cửa và sơn nhà” ở đoạn Lý Thái Tổ – Sư Vạn Hạnh. Và rồi “phố màn cửa, chăn gối” ở đầu đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ). 

Xoay quanh ngã bảy còn có “phố vỏ xe hơi” và “phố photocopy – đánh máy” ở đoạn Lý Thái Tổ, gần cư xá Đường sắt. Có lẽ “phố vỏ xe hơi” là cánh tay nối dài của bến xe Petrus Ký, hay còn gọi bến xe Đà Lạt nay không còn nữa, từng nằm ở đoạn Lê Hồng Phong hướng ra Việt Nam quốc tự. 30 năm trước, ở góc Nguyễn Đình Chiểu – Nguyễn Thiện Thuật đã mọc thêm “phố hàng cưới” rất đình đám.

Rạp hát, bệnh viện một thời vang bóng

Ngã bảy Lý Thái Tổ còn là nơi quy tụ nhiều bệnh viện, rạp hát, trường học rộn ràng nhiều năm tháng. Gần gũi với xóm tôi là Bệnh viện Nhi Đồng trên đường Sư Vạn Hạnh và Bệnh viện Bình Dân ngay cạnh cư xá Đô Thành đều là những cơ sở y tế ra đời cuối những năm 1950. Ở góc đường Nguyễn Thiện Thuật – Phan Thanh Giản thuở xưa còn có một tòa nhà mang tên Viện Bài lao. Riêng con đường Cao Thắng ở đoạn hướng ra Bệnh viện Từ Dũ có một loạt nhà bảo sanh tư mang tên Đức Chính, Đức Huệ, Cô Mười. Hơn 70 năm qua, bao nhiêu đứa trẻ đã chào đời từ những cơ sở y tế này?

Gần Viện Bài lao là rạp hát Long Vân khá lớn nhưng đều toàn ghế gỗ. Giống như rạp Đại Đồng ở góc Cao Thắng – Phan Thanh Giản, rạp Long Vân thường chiếu “pẹcmanăng” hai phim một lúc. Giá vé hai rạp thuộc loại xoàng, khách vào xem lúc nào cũng được. Rạp Long Vân những năm gần đây đã bị phá bỏ, xây mới thành Nhà văn hóa Sinh viên. Còn rạp Đại Đồng thì hóa thành sân khấu kịch Sài Gòn hay diễn kịch ma. Về phía đường Trần Nhân Tôn có rạp hát xưa mang tên Thanh Chung, bây giờ gọi là rạp Vườn Lài. Xóm Vườn Lài nằm sau Nhà máy giày Bata (Hiệp Hưng), từng là “xóm đèn đỏ” nơi nhiều khách “mua hoa” tìm đến.

Cuộc sống vật đổi sao dời, bút mực nào viết hết được những góc yêu dấu của Sài Gòn từ những phố phường sang trọng đến những xóm nghèo, bình dân…

Cả bệnh viện Đại học Y Dược và Trường Y khoa Sài Gòn đều được xây trên đất của Tòa thị chính Chợ Lớn thời Pháp. Hai ký túc xá Ngô Gia Tự (khi xưa là Đại học xá Minh Mạng) và ký túc xá Nguyễn Chí Thanh đều ở gần đó. Thuở sinh viên, những năm 1980, tôi có không ít lần “đi học ké” trường Y và thường la cà vào gặp bạn bè trong các ký túc xá. Khi làm báo Tuổi Trẻ, là phóng viên giáo dục, tôi càng năng lui tới cái “xóm sinh viên” đông nhất và cũng “nghịch” nhất ngay giữa nội thành.


Phúc Tiến



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Nov/2021 lúc 10:17am

Dầu "Bác Sĩ Tín" không biết có ai còn nhớ không.

Dầu%20Bác%20sĩ%20Tín:%20Mùi%20bà%20đẻ%20đặc%20trưng%20|%20Hồ%20sơ%20-%20Phóng%20sự%20|%20PLO

 Dầu "Bác Sĩ Tín" không biết có ai còn nhớ không.

Dầu bác sĩ Tín chính là tiền thân của dầu khuynh diệp OPC “mẹ bồng con” ngày nay, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín có một thời lừng lẫy suốt từ cuối thập niên 1940 đến năm 1975, không nhà nào mà không thủ sẵn vài chai.
Mua dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín trúng xe hơi Austin
Từ hồi còn học bên Pháp, trong luận án tốt nghiệp bác sĩ của mình, ông Bùi Kiến Tín đã nêu vấn đề của dân tộc ông. Ông có một ước ao được góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh. Làm sao 20 triệu dân hiện tại có sức khỏe tốt để nâng dân số lên 50 triệu cho đúng với tầm cỡ lãnh thổ? Dân Việt Nam lúc đó không có đủ tiền để mua thuốc Tây. Đông dược rất tốt nhưng sản xuất chưa đúng với phương pháp khoa học, chưa hiệu quả. Và ông muốn thay đổi thực tế này. Khi sản xuất và bán thuốc, trên các loại dầu gió, dầu nóng xoa bóp và dầu cù là, BS Tín đều cho dán logo là ảnh một anh lực sĩ Việt Nam nâng cả đất nước Việt Nam lên.
Trước khi sản xuất dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín, ông Bùi Kiến Tín khởi nghiệp ở Quy Nhơn, làm các loại thuốc ho, bổ huyết, thuốc trị táo bón. Bà Hòa tích cực tham gia cùng chồng ngay từ những ngày này. BS Tín nói cần một cái nồi đồng thật lớn để nấu thuốc thì bà liền nhận nhiệm vụ đi kiếm cho ra cái nồi như thế, bà đi về quê ngay lúc đám giỗ ở một nhà thuộc tộc họ Bùi thì gặp ông Bùi Thuyên, người nghèo nhất tộc, là cha ruột nhà thơ Bùi Giáng. Nghe chuyện, ông Bùi Thuyên gợi ý cho bà mượn cái nồi: “Nhà tôi có cái nồi không lớn lắm nhưng mà nó cũng lớn”. Như vậy, sự nghiệp làm thuốc của BS Tín khởi thủy xem ra lại có dây mơ rễ má với “thi sĩ điên” Bùi Giáng.
Dầu gió được BS Tín bào chế có công thức đặc biệt bao gồm các loại dầu tràm, dầu bạc hà, dầu hương nhu… và không thể thiếu tinh dầu khuynh diệp. Đây là loại tinh dầu có mùi rất đặc trưng, người bình dân quen gọi “mùi bà đẻ” bởi nó được các “bà đẻ” cực kỳ ưa chuộng, theo ông Lê Hữu Sanh, người năm xưa làm thư ký riêng của BS Tín, thì khi bắt tay sản xuất dầu khuynh diệp, ông chủ mình lúc đó chú ý tới những nhà sản xuất hương liệu của Hà Lan với các loại hương liệu làm nước hoa, sau đó ông phát hiện ở Bồ Đào Nha có sản xuất Eucalyptus là tinh dầu khuynh diệp. Độ tinh khiết của nó đạt đến 99,9%, khử được tất cả loại độc tố có hại cho da.
Và hôm nay chúng ta lại nhớ về ông chủ với nhiều điều “huyền thoại”, ngoài cách giao việc rất độc đáo, đó là ghi âm lời dặn với những điều mục 1, 2, 3, 4… vào băng c***ette, soạn bằng miệng cả những bức thư, những văn bản bằng tiếng Pháp cho thư ký đánh máy ra, ông Lê Hữu Sanh còn nể phục những sáng kiến và năng lực của ông Bùi Kiến Tín khiến ông phải nhiều phen bật ngửa: “Nhiều người nghe qua đều nói ông ấy nghĩ chuyện điên rồ nhưng với tôi, ông ấy là một người tài hiếm có”, ông Sanh kể trong những năm 1950, BS Tín từng nêu ý tưởng triển khai khu Disney Land sao cho giống y chang Disney Land của Mỹ ở khu đất rộng 290 ha tại Biên Hòa nhưng dự án này dở dang vì thời cuộc.


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Nov/2021 lúc 1:29pm

Nhà sách Khai Trí xưa – Kỷ niệm của cậu học trò ăn cắp sách

Hoatinhthuong


Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.

Nếu tôi nhớ không lầm, đó là vào khoảng giữa năm 1959 hay 1960, báo chí đăng tin về một cậu học sinh khoảng chừng 14 -15 tuổi, gương mặt thông minh đĩnh ngộ và câu chuyện ở nhà sách Khai Trí (báo chí giấu tên và cũng không cho biết trường cậu bé học, thật ra cậu là học sinh trường Pétrus Ký).

Thời chúng tôi còn học trung học, tức dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sách tiếng Việt ít nên muốn thi đậu bắt buộc phải dùng sách tiếng Pháp, như Toán hình học, Toán đại số, Toán vật lý… Học lớp Đệ tứ (lớp 9 bây giờ) mà làm hết cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs gồm 1.144 bài thì nhất, đi thi trung học chắc ăn như bắp.

Ông%20Nguyễn%20Hùng%20Trương%20và%20Nhà%20sách%20Khai%20Trí%20%28Nguyễn%20Ngọc%20Chính%29%20|%20Thanh%20Thúy

Thời ấy các tiệm sách lớn như Khai Trí chẳng hạn không có nhân viên bảo vệ mặc đồng phục ngồi gác ở cửa như bây giờ, mà có các nhân viên giả làm khách hàng, trông nom, ngăn chặn những người muốn ăn cắp sách.

Buổi sáng hôm ấy, cậu học sinh này cứ lang thang mở coi hết cuốn này đến cuốn khác ở chỗ các giá sách tiếng Pháp. Việc lấm lét nhìn tới nhìn lui của cậu bé khiến nhân viên trông coi khu sách tiếng Pháp nghi ngờ. Lúc cậu đi ra, họ giữ lại, sờ ngực áo cậu và lôi ra một cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs quý giá đã nói ở trên.

– Tại sao cậu ăn cắp sách?

Cậu bé tái mặt không nói nên lời. Chiếc phù hiệu trên ngực áo cậu cho biết cậu học trường Pétrus Ký, một trong bốn trường trung học công lập lớn nhất rất nổi tiếng tại Sài Gòn lúc bấy giờ: Gia Long, Trưng Vương, Pétrus Ký, Chu Văn An.

– Hừ, học sinh trường Pétrus Ký mà ăn cắp sách! Tôi gọi cảnh sát đến bắt để cậu chừa cái thói đó đi!

Họ lôi cậu bé tới chỗ quầy thâu tiền của cô thâu ngân viên, nhờ cô giữ cậu giùm rồi đi gọi cảnh sát. Cậu bé sợ hãi khóc như mưa như gió:

– Lạy chị, nhà em nghèo không có tiền mua sách, chị nói với chú ấy tha cho em đừng gọi cảnh sát…

Cậu bé khóc quá khiến cô thâu ngân viên cũng thấy mủi lòng:

– Ba má em làm gì mà nghèo?

– Ba em chết, má em quét chợ An Đông…

– Mẹ quét chợ An Đông mà con học Pétrus Ký? Em học đến đâu rồi?

– Dạ thưa quatrième année. Chị tha cho em, nếu cảnh sát bắt, đưa giấy về trường em bị đuổi học tội nghiệp má em…

– Các em quen với tiếng Pháp lắm phải không?

– Dạ.

– Bởi vậy nên mới lấy trộm sách Pháp. Bằng bấy nhiêu mà đã học lớp Đệ tứ, sắp thi Trung học là giỏi lằm. Nhưng chú ấy đã đi gọi cảnh sát thì biết làm sao…

Cậu bé sợ quá lại khóc…

Từ đầu đến giờ có một ông đã lớn tuổi, ăn mặc lịch sự vẫn đứng theo dõi câu chuyện. Thấy cô thâu ngân nói thế, ông bảo cô ta:

– Thôi được, cuốn sách giá bao nhiêu để tôi trả tiền. Học trò nghèo mà, lấy một cuốn sách, lỡ bị đuổi học tội nghiệp…

Cô thâu ngân viên chưa biết giải quyết thế nào thì đúng lúc đó ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách mà mọi người vẫn gọi là ông Khai Trí, từ ngoài đi vô.

Sài%20Gòn%20xưa:%20Chuyện%20về%20nhà%20sách%20Khai%20Trí%20-%20Trí%20Thức%20VN

Ông Khai Trí (trái).

Thấy chuyện lạ, ông dừng lại hỏi chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách lên coi sơ qua rồi nói:

– Phải học trò giỏi mới dùng tới cuốn sách này chứ kém không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…

Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp, viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:

– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, cô ấy sẽ lấy cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…

Ông bắt tay, cám ơn ông khách lần nữa rồi đi vào trong.

Ba năm sau, nghe nói cậu bé đậu xong Tú tài phần II, được học bổng du học nước ngoài, hình như sang Canada.

Thời gian qua đi. Một năm sau biến cố lịch sử 1975, nhà sách Khai Trí bị tịch thâu, mới đầu người ta đặt tên là nhà sách “Ngoại văn”, sau đó đổi thành nhà sách “Fahasa” (viết tắt của 3 chữ “Phát hành sách”), hiện nay lại đổi lần nữa thành nhà sách “Sài Gòn”. Hồi ấy nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá, sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường, nhiều người đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực… Kho sách 60 tấn bị tiêu hủy.

Ông Khai Trí bị đi cải tạo. Sau khi được thả, ông sang định cư bên Hoa Kỳ. 10 năm sau, cùng 2.000 đầu sách quý, ông Khai Trí ở Mỹ về Việt Nam một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Sách ông lại bịch tịch thâu hết cả. Phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả…

https://petruskyaus.files.wordpress.com/2016/12/nguyen-hung-truong-4.jpg">

Ông Khai Trí những năm cuối đời.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu. Ông buồn bã nói:

– Chắc… năm 3.000 thì họ trả…

Ông Khai Trí mất năm 2005 tại Sài Gòn.

Một buổi chiều, người ta thấy một “ông già” khoảng ngoài 70 tuổi, ăn mặc theo lối Việt kiều, đứng ngắm trước cửa nhà sách Sài Gòn với nét mặt buồn buồn rồi bước vào hỏi thăm các cô bán sách về ông Khai Trí, các cô nói hình như ông đã mất cách đây đến hàng chục năm. “Ông già Việt kiều” lại ra đứng ngắm trước cửa tiệm sách hồi lâu, lấy khăn giấy lau nước mắt, chắp tay hướng lên trên trời khẽ vái ba vái rồi đi. Không ai biết ông ta là ai cả…



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Nov/2021 lúc 9:42am

Thuốc lá điếu của thời VNCH






Cách đây hơn 1OO năm có một số loại thuốc lá điếu từ nước ngoài nhập vào Sài Gòn phục vụ nhiều tầng lớp và những người lính..., lúc này nhu cầu sử dụng thuốc lá điếu ngày càng tăng, ngày 8-7-1929, một nhóm các nhà tư bản người Pháp qua Công ty Hàng hải và Vận tải Sài Gòn (Compagnie Saigonaise de Navigation et de Transport) thuộc Công ty Vận tải Đường sông Nam Kỳ (Compagnie des Messageries Fluviales de Cochinchine) đã ra văn bản chính thức thành lập Công ty vô danh với tổng số vốn 6 triệu frăng được chia làm 60.000 cổ phần để lập một nhà máy sản xuất thuốc lá điếu theo công nghệ Âu Tây, đây là nhà máy thuốc lá đầu tiên của Đông Dương mở rộng sự thu hút đầu tư của tư bản nước ngoài (BAT của Anh, Ford, Rockefelle của Mỹ), năm 1932, số vốn đã tăng gấp 3 lần (18 triệu frăng).

Lúc mới thành lập, nhà máy có công suất 100.000 bao/ngày, đến năm 1932 đã tăng 4 triệu bao/tháng; 1939: 44.800.000 bao/năm. Lãi năm 1938: 1.134.000 fran 1941: 4.729.000 fran, công ty này sau có tên là hãng thuốc lá MIC nằm trên đường Nguyễn Hoàng ở khu vức Chợ Lớn xưa, sản phẩm của hãng nầy nhắm vào giới trẻ, trung lưu, và gồm các mặt hàng như: COTAB, Mic EXTRA, RUBY, khoảng gần cuối thập niên 60 cho ra thêm các sản phẩm như CAPSTAN không đầu lọc, rồi PRESIDENT, CAPSTAN loại có đầu lọc gói bìa cứng. đến năm 1975 đã có hơn 100 triệu bao hàng năm mang đậm dấu ấn của hãng thuốc lá MIC.

Ngoài hãng MIC ở miền Nam Việt Nam còn có hãng thuốc lá BASTOS, hãng thuốc JUAN BASTOS nằm trên đường Tôn Thất Thuyết, Quận Tư, sản phẩm của hãng nầy được giới thiệu vào miền Nam Việt Nam vào năm 1936, sản phẩm của Bastos nhắm vào giới bình dân vì đa số là loại thuốc lá sợi đen, gồm có Melia vàng, Melia trắng loại hơi nhẹ, Bastos xanh và Bastos đỏ. Khoảng giữa thập niên 60 Melia vàng ngưng sản xuất, qua đầu thập niên 70 hãng Bastos làm thêm các mặt hàng có đầu lọc như Bastos DELUXE, Melia trắng có mùi vị bạc hà được đóng gói bằng bìa cứng, còn loại Melia xanh là loại thuốc đen đầu lọc được đóng gói bằng giấy thường. Hãng Bastos cũng cung cấp cho Quân Tiếp Vụ sản phẩm của mình đó là BASTOS trắng có dấu hiệu con CHUỒN CHUỒN.

Sau ngày "phỏng giái" dân Miền-Nam cho nên có bài hát chế theo giai điệu bài "PHỎNG GIÁI": “Mở nắp nồi cơm, chúng ta cùng lấy chén bới...” Đoạn kết là: “Miền Bắc hút thuốc Lào, miền Trung hút thuốc Rê, miền Nam Sa-mít, cáp-tăng, con mèo” .., một thời gian sau ngày đánh tư sản hai hãng thuốc lá này bị cộng sản tịch thu và được quốc hữu hóa và đổi tên thành Nhà máy thuốc lá Sài Gòn và Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội thuộc Liên hiệp Thuốc lá miền Nam, sau đó bọn này lấy phần chế biến của Miền-Nam đem ra Bắc và sau này ở miền Bắc có hai Nhà máy Thuốc lá có tên "Thăng Long và Bắc Sơn", ngoài ra, còn có một số nhà máy thuốc lá khác ở Thanh Hóa, Nghệ An nhưng các nhà máy này cho sản lượng thấp và cực tệ, trình độ khoa học kỹ thuật và thiết bị còn lạc hậu so với Miền-Nam khi đó.

- Ngày hôm nay nếu ai còn đang hút thuốc lá mà sản xuất tại Thăng Long và Bắc Son chính là ngày xưa các "ANH" ăn cắp của người miền Nam đem ra Bắc đấy rồi sau này nói là tự mình chế biến và sản xuất.

Sài Gòn Xưa


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Dec/2021 lúc 1:31pm
https://huongduongtxd.com/vailay.pdf - Vái Lạy - DoDuyNgoc    <<<<<

Tháng%20cô%20hồn%20đi%20chùa%20thắp%20hương%20thế%20nào%20mới%20chuẩn?


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Dec/2021 lúc 1:11pm


Tân Định & DaKao những ngày xưa cũ

Trần Đình Phước





… Ai về Tân Định xóm tôi Cho tôi nhắn nhủ đôi lời nhớ thương Xa rồi những sáng mù sương Hoàng hôn nhạt nắng giáo đường thánh ca Tôi quỳ hồn bỗng mưa sa … (Bích Vân, Đakao.)

Hình trên: Chợ Tân Định - Đường Đinh Tiên Hoàng (đường này hình chụp lúc còn là đường Cường Để). Bên trái là Đại Học Nông Lâm Súc, cạnh ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Hồng Thập Tự.



Cho đến bây giờ, dù đã xa Tân Định và Dakao nhiều năm, nhưng trong tôi hai cái tên Tân Định và Dakao lúc nào cũng là một nỗi nhớ khôn nguôi. Chúng cứ thôi thúc tôi hoài. Đã bao năm qua, tôi muốn tìm về chốn này, để sống lại với kỷ niệm thuở học trò, mà tình yêu khi đó, chỉ biết, đôi mắt nhìn nhau cũng đủ rồi. Tôi cứ hẹn đi, hẹn lại, nhưng vẫn chưa bao giờ thực hiện được ước mơ này. Rồi một dịp tình cờ đưa đến, vào tháng 5/2010, tôi đã toại được ý nguyện. Tôi đã có hai tuần lễ đi qua, đi lại trên những con đường kỷ niệm của Tân Định và Dakao.

Điều làm tôi rất đỗi ngạc nhiên và thích thú là tên nhiều con đường trong khu vực này vẫn như cũ.

Thật vậy, sau 1975, một số tên đường của thành phố Saigon thân yêu đã bị đổi bằng những cái tên khác. Nay được thấy lại các tên đường ở khu Tân Định và Dakao không bị thay đổi nhiều, trong lòng tôi bỗng nhiên dâng lên một sự xúc động mãnh liệt và niềm sung sướng vô cùng.

Mời các bạn cùng tôi tìm về những con đường kỷ niệm của khu Tân Định và Dakao với những bồi hồi, rung động khó quên của thời niên thiếu và không bao giờ phôi pha, dù năm tháng có qua đi.

Trước hết, xin bắt đầu là Cầu Kiệu với con đường Hai Bà Trưng đi về phía Saigon. Khoảng đường này bên tay phải có hẻm vựa gạo, bác sĩ khám mắt tên Kính, tiệm bán bông cườm, thuốc cam Hàng Bạc và tiệm cà phê Hải Nàm. Phía bên phải có hẻm bán chó, tiệm trà Phật Tổ và tiệm bán xe đạp Đoàn Văn Thẩm.

Quẹo trái ở ngã ba là đường Trần Quang Khải. Phía tay trái là con đường nhỏ dẫn vô hẻm có tiệm bánh cuốn Thanh Trì ngay đầu ngõ, đối diện là Hảng Sáo Công Ty, rồi tới trường Việt Nam Học Đường và trường Văn Lang số 51 Trần Quí Khoách do thầy Ngô Duy Cầu làm Hiệu trưởng. Thầy mất đúng ngày 30/4/1975. Đối diện trường Văn Lang là Cư Xá Kiến Ốc Cục Tân Định, dành cho công chức. Đi vào phía trong là chùa Vạn Thọ và một số chùa nhỏ khác. Phía tay phải là quán cơm Cây Điệp, kế bên là hãng gạch bông Vân Sơn. Nhìn sang bên đường là trường Trung Học Tân Thạnh của thầy Phan Út. Trước khi vào cổng trường, phải đi ngang bảo sanh viện Ngô Liêng. Bảo sanh viện này mang luôn tên bà.

Đi tiếp khoảng hai trăm thước sẽ gặp một ngã tư. Đường Bà Lê Chân bên tay phải. Ngay góc đường Bà Lê Chân là quán cơm tấm của vợ chồng con trai nghệ sĩ Bảy Nhiêu. Đối diện là đình Phú Hoà, nơi các đoàn hát bộ và cải lương tập dượt. Nằm trên đường Bà Lê Chân phía bên trái có nhà in Bùi Văn Tạ, bảo sanh viện Hà Đông Hà. Trước mặt có con đường mang tên Mã Lộ. Con đường này chạy ngang phía sau chợ Tân Định. Phía đầu đường Bà Lê Chân là ngã ba Hai Bà Trưng và Bà Lê Chân. Nằm ngay góc là Y Viện Tân Định.

Từ đình Phú Hoà nhìn sang bên kia đường là đường Trần Nhật Duật. Xe chè Huỳnh Thị Ngà nổi tiếng một thời, nằm ngay góc ngã tư đường Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật. Đường này chạy dài tới khu nông cơ cũ. Trên đường Trần Nhật Duật có bốn con đường nhỏ đâm ngang qua. Thứ tự như sau: Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí Khoách và Trần Khánh Dư. Riêng hai đường Đặng Dung và Trần Khánh Dư thì chạy dài được đến đường Trần Khắc Chân, còn gọi là xóm Cầu Mới. Trên đường Trần Nhật Duật, hẻm số 21 có tiệm ảnh Nguyễn Kỳ nổi tiếng một thời trong giới học sinh, thích chụp hình chân dung, nhà số 10 là trường Huỳnh Thị Ngà.

Bà Huỳnh Thị Ngà là một phụ nữ giỏi và đảm lược. Bà biết chèo chống và điều hành ngôi trường Huỳnh Thị Ngà, mà kế bên có nhiều trường trung học tư thục khác, lúc nào cũng sẵn sàng cạnh tranh với trường của bà. Nhờ thế trường của bà mới có thể tồn tại hơn hai mươi năm. Bà mất khoảng cuối năm 1992 tại tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ). Đối diện trường Huỳnh Thị Ngà, xéo về đường Đặng Dung là nhà giáo sư khiêu vũ, phía trước nhà có cây me to. Cách đó vài căn là nhà giáo sư Pháp văn Huỳnh Văn Mĩ. Thầy Mĩ nổi tiếng về dạy Pháp văn và là một trong những võ sư sáng lập môn phái Hàn Bái Đường. Không nghe nói về vợ thầy, chỉ thấy thầy đi chợ một mình, hai tay xách cái gà mên. Thầy qua đời ở Nam Cali năm 2004, hưởng thọ 93 tuổi. Học sinh trường Huỳnh Thị Ngà rất nể sợ thầy. Trong giờ của thầy dạy, không em nào dám hó hé vì thầy Mĩ rất nghiêm và khó. Ngoài ra, thầy cũng là thầy dạy cô hiệu trưởng Huỳnh Thị Ngà hồi nhỏ.

Bây giờ trở ngược ra đường Trần Quang Khải đi về phía Dakao. Trước khi đến một ngã năm, phía bên phải là phòng nha khoa của một đôi vợ chồng. Vợ là Nha Sĩ tên Hạnh. Chồng là Không Quân Thiếu Tá Nha Sĩ Dương Quảng Định (Trung Tâm Giám Định Y Khoa Không Quân). Đi thêm khoảng ba mươi thước gặp một depot rác nhỏ. Đối diện là chỗ cho thuê sách, tiểu thuyết và truyện hiếm hiệp Đức Hưng, kế bên là tiệm hàn gió đá Sáu An. Cách đó vài căn là nơi chuyên sản xuất xích lô đạp và xe ba bánh có tên Ngọc Quế.

Khi đến ngã năm, bên tay trái là đường Trần Khắc Chân, nhìn xéo về phía tay phải là đường Nguyễn Phi Khanh. Căn nhà nằm ngay góc đường của ông Bùi Ngọc Phương. Ông tự phong cho mình là vua dầu hỏa Việt Nam và dự định ứng cử Tổng Thống VNCH. Nếu đi ngược chiều trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngã ba đầu tiên là đường Huyền Quang, có đình Sơn Trà. Đường Huyền Quang mang tên một vị sư. Con đường dài khoảng hai mươi thước, đi hết đường Huyền Quang, quẹo trái là Chả cá Lã Vọng.

Ngã ba kế tiếp là Lý Văn Phức, có một depot rác rất lớn, nơi mà các công nhân vệ sinh đưa rác về đây, trước khi các xe lớn đến chở đi tái chế và phế thải. Cuối đường là quán cà phê bà Chi, mà các bài viết về cà phê Saigon đều nhắc đến. Quẹo trái gặp rạp hát Casino Dakao, tiệm may Cao Minh và tiệm thạch chè Hiển Khánh. Đối diện là nhà hàng Pháp tên Casino, tiệm bán quân trang Quế Anh và kế bên là tiệm Phúc chuyên làm con dấu, thêu cờ và huy hiệu. Nếu quẹo phải sẽ gặp Đền Thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo.

Đoạn đường Trần Quang Khải từ đây ra đến đường Đinh Tiên Hoàng tuy không dài lắm, nhưng có rất nhiều cửa hiệu buôn bán. Phía bên phải, ta thấy có Pharmacy Duyệt, rồi đến bảo sanh viện Chung Nam Quế. Nơi đây các bà bầu khu Dakao và Gia Định thường đến để khai hoa nở nhụy. Nhà kế bên là nhà của bà thầy bói mập, chuyên môn coi bói bài, tiếp đó có hai tiệm bán phụ tùng và sửa xe Honda, rồi cà phê Ngọc Dung số 77 Trần Quang Khải, của hai chị em tên Ngọc và tên Dung.

Đi thêm một chút nữa sẽ gặp Đình Nam Chơn. Trước đình có thờ hình ông cọp. Bên trái cổng vào trong sân đình có cây đa to, có lẽ đã trên trăm tuổi. Thêm vài bước nữa cũng có một Phật đường nhỏ, thuộc Giáo Hội Phật Đường Nam Tông, được gọi tên là Minh Sư Đạo Quang Nam Phật Đường. Kế bên là tiệm vàng Bảo Thành, cũng nổi tiếng về bánh Trung Thu, giò lụa, giò thủ và bánh mứt. Trước 1975, bà Bảo Thành là chủ thầu các bãi giữ hai bánh lớn nhất Saigon như: Trường Đại học Luật khoa ở đường Duy Tân, Nha Xổ số Kiến Thiết ở đại lộ Thống Nhất, rạp hát Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, và dọc theo hai bên đường Lê Lợi. Cách một căn là tiệm cơm Tàu có tên Dân Thiên, với các món mì xào dòn và cơm chiên Dương Châu tuyệt vời.

Tiếp tục phía bên trái. Đầu tiên là chi cục cảnh sát Tân Định. Kế bên là đình Công Thành Ban, chuyên trình diễn hát bộ. Trước đình cũng có thờ một ông cọp, kế bên là một ngõ hẻm, đi ra được đường Trần Khắc Chân. Sau đó sẽ đến một dãy phố, có tiệm quay Ronéo Lửa Hồng, nơi đây quay ronéo và photocopy bài vở cho các học trò và thầy cô giáo. Ngoài ra cũng bán nhạc quay roneo sẵn, giá rất bình dân. Cách đó vài căn là một tiệm hòm. Có tiệm may Của, rồi đến nhà bà con với ông chủ rạp hát Văn Hoa. Nổi tiếng ở đoạn này là tiệm cầm đồ bình dân có tên là Kim Ngân. Bà chủ lúc nào cũng trang điểm lộng lẫy như các cô đào cải lương Thanh Nga hay Bạch Tuyết sắp lên sân khấu trình diễn. Nơi đây lúc nào cũng đông khách vì tiệm cho cầm và chuộc đồ với giá tương đối dễ thở và thủ tục thì đơn giản hơn so các nơi khác.

Cách khoảng mười căn nhà, bên trái có một con hẻm lớn, nổi tiếng nhất vùng Tân Định - Dakao. Đó là hẻm xóm Vạn Chài. Đây là địa điểm quy tụ anh hùng hào kiệt tứ xứ. Mỗi lần có hành quân cảnh sát để bắt thanh niên trốn quân dịch thì xe cộ, súng ống rầm rộ, ca nô, thuyền nhỏ chạy dài dọc theo sông cầu Bông, đèn pin chiếu pha sáng cả một vùng. Cuối cùng kết quả chẳng đi đến đâu, vì thanh niên trốn quân dịch đã nhảy xuống sông, lặn qua bên phía Gia Định, hoặc trốn trong các con hẻm sâu, tối tăm, chằng chịt. Lực lượng kiểm soát cũng không muốn vào chỗ này, vì không an toàn cho lắm. Đặc biệt, trong hẻm có một trường trung tiểu học tư thục mang tên Văn Hiến do Thầy Phan Ngô làm Hiệu trưởng. Thầy cũng từng ra ứng cử và đắc cử Nghị viên thành phố Saigon.

Ra khỏi hẻm, quẹo trái là ngay rạp hát Văn Hoa. Rạp hát này đã từng một thời là một rạp hát sang trọng của Saigon vì có trang bị máy lạnh, màn ảnh rộng và giá vé vào cửa cũng tương đối bình dân. Rạp Văn Hoa chiếu đủ các loại phim. Những lúc chiếu phim mới và hấp dẫn, bà con sắp hàng rồng rắn, kéo dài tới ngõ xóm Vạn Chài. Khán giả nào không muốn sắp hàng, không muốn chen lấn đổ mồ hôi, để bị rách quần, rách áo hoặc bị rạch bóp, thì có thể mua chợ đen, đôi khi phải trả gấp đôi.

Cũng nên nói thêm ở đây, cạnh bên rạp hát Văn Hoa là một quán cà phê cũng đã đi vào lịch sử của cà phê Saigon. Đó là cà phê Văn Hoa. Quán được trang bị dàn âm thanh tối tân, nhạc ngoại quốc hấp dẫn luôn luôn mới nhất, chỗ ngồi thanh lịch, vị trí thuận lợi và do hai chị em ruột là bà con với ông bà chủ rạp Văn Hoa đứng bán. Cô chị có tên TBD và cô em có tên TBH. Hai chị em đều là nữ sinh trường trung học Huỳnh Thị Ngà. Lúc nào đi học, cả hai cô đều mặc đồ đầm rất xinh xắn. Trông giống búp bê không tình yêu. Nghe đâu cũng có khối anh đến uống cà phê thường xuyên mỗi ngày, trong số đó có anh là ca sĩ một ban kích động nhạc nổi tiếng về bài hát Sunday Morning. Ngày nào anh ta cũng đến quán ngồi đồng, vừa thưởng thức cà phê, vừa trồng cây si cô em TBH. Gia đình cô TBD hiện ở Montréal, còn gia đình cô TBH từ Montréal chuyển về Pleasanton (California) vì phu quân cô có công việc làm thích hợp ở đây.

Đoạn đường còn lại, phải nhắc đến một quán cơm xã hội, chuyên phục vụ cho giới bà con lao động, xe ba gác, xe xích lô, công tư chức và học sinh, sinh viên nghèo. Giá rất bình dân, chỉ duy nhất năm đồng. Thức ăn gồm ba món, thay đổi mỗi ngày. Cơm ăn thoải mái, ăn cho đến khi nào no thì thôi. Ngoài ra, còn được tặng thêm một trái chuối tráng miệng và ly trà thơm, nóng bốc khói.

Sau đó phải kể thêm hai tiệm bán xi măng, gạch, cát và đá cha truyền con nối là Tấn Phát và Tâm Long. Nay chỉ còn tiệm Tâm Long tiếp tục, địa chỉ số 8 Trần Quang Khải, có lẽ cửa hàng đã hơn nửa thế kỷ. Một chút nữa thì bỏ sót tiệm may áo dài tương đối nổi tiếng là Phương Luân và hiệu ảnh Ngọc Chương ở kế bên. Hết đường Trần Quang Khải thì gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Quẹo trái sẽ gặp một quán bán thịt gà, thịt vịt và thịt heo quay. Cạnh đó là một tiệm chuyên sửa xe Vespa và Lambretta. Nhìn sang bên kia đường là tiệm may áo dài Thanh Châu. Tiệm mang tên người con gái lớn nhất. Tiệm may Thanh Châu rất nổi tiếng, chuyên may áo dài cho các ca sĩ và áo cưới cô dâu. Hiện nay tiệm may Thanh Châu vẫn còn và có rất nhiều khách đến may mỗi ngày. Kế bên là tiệm bán và đóng giầy Đông Hưng.







Bên kia đường Trần Quang Khải là đường Nguyễn Huy Tự. Phía tay phải có chợ Dakao. Trước khi tới chợ Dakao, sẽ gặp một gánh chè chỉ bán đậu đen. Bà bán chè, người miền bắc di cư. Bà chỉ bán vào buổi chiều. Chè đậu đen bà nấu, hạt rất dẻo, hương vị ngọt đậm đà. Thú vị nhất là ngồi chồm hỗm ăn chè nóng dưới cơn mưa lất phất của Saigon, vì không có ghế cho khách. Một con đường chạy ngang chợ Dakao là đường Trương Hán Siêu. Bên trong có đền thờ Phan Chu Trinh và quán bánh cuốn tráng hơi, mang tên Tây Hồ. Bà chủ bánh cuốn có tên là bà Cà. Bà khởi nghiệp năm 1960, bằng một cái quán xập xệ, một ít bàn ghế thấp lè tè và mấy tấm bạt cũ để che mưa. Bên phải có Tín Nghĩa Ngân Hàng. Khi chiều đến, có quán cháo lòng, mà bà chủ rất khó tánh. Bà luôn luôn ưu tiên bán trước cho nam giới, còn nữ giới thì bà cho đợi mút chỉ cà tha. Cô hay bà nào không chờ được thì đi kiếm chỗ khác. Nếu thắc mắc, khiếu nại thì bà sẽ từ chối, không bán. (Hình trên: Đường Hai Bà Trưng - nhà thờ Tân Định).

Đường Nguyễn Huy Tự rất ngắn, khoảng chừng ba mươi thước. Chấm dứt khi đụng đường Nguyễn Văn Giai. Chạy thẳng là Viện Nhu Đạo Quang Trung của Thượng Tọa Thích Tâm Giác. Nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Đối diện với Viện Nhu Đạo Quang Trung là một ngôi chùa lâu đời của người Hoa, mang tên chùa Ngọc Hoàng. Đặc biệt, trong chùa có một cái hồ lớn và sâu. Nhà chùa thả rất nhiều rùa, có những con sống đã vài chục năm trở lên.

Đường Nguyễn Huy Tự, quẹo trái là đường Bùi Hữu Nghĩa. Có một cây cầu sắt cũ. Nếu quẹo phải sẽ gặp đường Nguyễn Văn Giai. Trên đường Nguyễn Văn Giai số 57 - 59 có LỚP TOÁN LÝ HÓA MINH TRUNG, chuyên dạy Luyện Thi Tú Tài 1 & 2 do Giáo sư Trần Văn Trung làm Giám Đốc. Đi hết đường Nguyễn Văn Giai sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn sang phía bên kia đường là đường Huỳnh Khương Ninh. Bên trái là rạp hát Asam, nay đã xây thành chung cư và tiệm thuốc tây Lịch Cường. Pharmacy mang tên của Dược Sĩ Tống Lịch Cường. Đầu đường Huỳnh Khương Ninh, có xe bánh mì Bảy Quan với bánh mì thịt dăm bông và ba tê rất độc đáo. Trên con đường này còn có trường trung học Huỳnh Khương Ninh.

Ngoài ra cũng phải kể thêm hai quán cà phê đã đi vào gia phả cà phê Saigon trước năm 1975. Quán thứ nhất là cà phê Hân mà tất cả mọi thứ đều làm bằng inox từ phin, muỗng, tách đựng đưòng, đựng sữa. Quán thứ hai là cà phê Duyên Anh. Quán mang tên nhà văn Duyên Anh, nhưng hoàn toàn không dính dáng đến nhà văn này. Cô bé ngồi tính tiền tên Q. có nụ cười xinh xinh, đôi mắt tròn, đen láy và tóc dài thắt bím rất dễ thương. Cô làm cho bao nhiêu đấng anh hùng mê mệt. Cô cũng còn là đề tài cho các chàng thi sĩ tài tử đến vừa thưởng thức cà phê, vừa làm thơ sầu mộng.

Khu Dakao có thể kể thêm những con đường tên vẫn như cũ là: đường Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai trường trung học công lập Trưng Vương, Võ Trường Toản và hồ bơi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tân An Đình.

Đường Nguyễn Thành Ý, đường Phan Kế Bính có Hội Văn Hoá Bình Dân do ông Huỳnh Văn Lang Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái làm Chủ Tịch, đường Mạc Đĩnh Chi với Billards Trường Cang, nhà hàng Trường Cang, Hội Việt Mỹ và Ty Cảnh sát Quận 1, đường Trần Cao Vân, Phan Tôn, Phan Ngữ, đường Phùng Khắc Khoan với tư gia Đại Sứ Hoa Kỳ. Đường này cũng là một con đường đẹp, có nhiều lá me bay của Saigon.

Cuối cùng trở về khu Tân Định. Xin chỉ ghi ra những con đường không bị đổi tên là: Nguyễn Văn Mai nối hai đầu đường Hai Bà Trưng và đường Huỳnh Tịnh Của. Một đường nữa là Đinh Công Tráng, với món bánh xèo nổi tiếng, các trường (Tân Thịnh, Les Lauries, Văn Minh) và tiệm chụp hình Duy Hy.

Ngay góc Hai Bà Trưng và Đinh Công Tráng là tiệm thuốc Kính Tiên. Phía đối diện là trường Thiên Phước, nhà thờ Tân Định và cách nhà thờ Tân Định khoảng hơn mười thước là cà phê Thu Hương danh tiếng một thời.

Ngoài ra, cũng xin kể thêm đường Pasteur. Nơi đây có nhiều tiệm phở, có quán cà phê Hồng và có viện Pasteur chiếm một chu vi rất rộng, có bốn con đường bao quanh, với những cây cổ thụ to đến nỗi năm, sáu người ôm vẫn không xuể. Ngay ngã ba Nguyễn Đình Chiểu và Pasteur, có một cái mả đá rất lớn được xây bằng đá ong đã bị giải tỏa, nhìn đối diện là đường ngõ hẻm vô trường Anh Văn Khải Minh.

Xin phép được dừng ở đây. Hy vọng các bạn đã tìm lại được một chút hương xưa của ngày tháng cũ năm nào. Một lần nữa Tân Định & Dakao mãi mãi trong tiềm thức của chúng ta.


Trần Đình Phước (San José, California)


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Dec/2021 lúc 1:22pm



Trần Phan





Ngày trước 75 hầu hết ca sĩ hát Tân nhạc bằng giọng Bắc ngoại trừ quái kiệt Trần văn Trạch hát giọng Nam qua bài: Chiều mưa biên giới của Nguyễn văn Đông được ban nhac Pháp Hòa âm:

Chiều mưa biên giới anh đi DỀ đâu?
Sao còn đứng ngóng nơi DANG đầu.

Giọng trầm ấm của quái kiệt Trần văn Trạch nghe mộc mạc rất dễ thương.

Còn nữa : Ban thoại kịch KIM CƯƠNG phát âm toàn giọng Saigon qua tác phẩm Lá sầu riêng được khán giả 3 miền tán thưởng nhiệt liệt.Trong Lá sầu riêng Kim Cương vai cô Diệu nói giọng Sài Gòn, hát giọng Saigon bài Duyên Kiếp do nhạc sĩ Lam Phương viết nhạc nền :

Anh ơi nếu mộng không thành thì sao.
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm.

Ngày nay, sau 45 năm Bắc Nam thống nhất tìm lại giọng Saigon xưa e rất khó.

Nghe tiếng "Dạ" sao mà thương đến lạ. Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ "dạ" khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ "vâng". Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ "vâng". Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói "vâng!" là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt.

Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ "dạ" vào mỗi câu nói:

''Mày ăn cơm chưa con ?

- Dạ, chưa!"

"Mới dìa/dzề hả nhóc?

- Dạ, con mới!"…

Cái tiếng "dạ" đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó "thương" lạ.....dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng "dạ" là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẵng hay...

Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói:

"Từ bữa đó đến bữa nay", còn người Sài Gòn thì nói: "Hổm rày", "dạo này"…

Người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ "ghê" phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng "ghê" đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là "nhiều" là "lắm". Nói ''Nhỏ đó xinh ghê!", nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy. Lại so sánh từ "hổm nay" với "hổm rày" hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ "hổm rày, miết…" là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất miền Nam chung mà.

Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem… "Nhỏ đó dễ thương ghê!", "Nhỏ đó ngoan!"… Tiếng "nhỏ" mang ý nghĩa như tiếng "cái" của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi "nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên" thì cũng như "cái Thuý, cái Uyên, cái Lý" của người Hà Nội thôi.

Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu "Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề… nhìn phát bực!" Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi: "Ê, nhóc lại nói nghe!" Hay gọi người bán hàng rong: "Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!"… "Ê" là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người SàiGòn.

Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường quên mất từ "bán", chỉ nói là:

"Cho chén chè, cho tô phở"…

"Cho" ở đây là mua đó nghen.

Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này:

"Lấy cái tay ra coi!"

"Ngon làm thử coi!"

"Cho miếng coi!"

"Nói nghe coi!"…

"Làm thử" thì còn "coi" được, chứ "nói" thì làm sao mà "coi" cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ "coi", cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà.

Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi:

"Mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?"

– Mà "dzậy ta" cũng là một thứ "tiếng địa phương" của người Sài Gòn à.

Người Sài Gòn có thói quen hay nói:

"Sao kỳ dzậy ta?"

"Sao rồi ta?"

"Được hông ta?"…

Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà...hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.

Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… "bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!"

Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang "màu sắc" riêng.

Người Sài Gòn có cái kiểu gọi "Mày" xưng "Tao" rất "ngọt". Một vài lần gặp nhau, nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô mà còn rất ư là thân thiện và gần gũi. Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài Gòn. Cách xưng hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó... tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như "cậu cậu - tớ tớ" của miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.

Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy "tụi nhỏ" sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng "con" ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn "ưa" tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như đa phần dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước lượng tuổi của người đối diện.

Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì:

“Dì ơi dì...cho con hỏi chút.....!"

Còn lớn hơn thì dĩ nhiên là "Bác ơi bác..." rồi.

Những tiếng mợ, thím, cậu,..... cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím.

Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng "con" chứ không phải "cháu cháu" như một số vùng khác.

Cái tiếng "con" cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền. Nói tiếp chuyện xưng hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này :

Ông đó = Ổng
Bà đó = Bả
Dì đó = Dỉ
Anh đó = Ảnh
Chị đó = Chỉ
Cô đó = Cổ

Còn nữa:

Ở bên đó = Ở bển
Ở trong đó = Ở trỏng
Ở ngoài đó = Ở ngoải
Hôm đó = Hổm.

Nói chung, khi cần lược bỏ chữ "đó", người ta chuyển thanh ngang hoặc thanh huyền thành thanh hỏi. Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng... ngộ nghĩnh dzậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất miền Nam - Sài Gòn á nghen. Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo... số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm... Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào.

Thành ra có cách gọi: Chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng... Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng "anh-chị-em" đôi khi được....giản lược mất luôn, trở thành: "Hai ơi Hai, em nói nghe nè..." và "Gì dzạ Út ?"... Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ "Út ơi...con nhờ chút!" hoặc với mấy chị tôi thì "Hai ơi Hai... em nói nghe nè!".

Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều khi làm người miền khác nghe hơi... rối. Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc trưng của cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Kinh Thành, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước miền Nam, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái "chất Sài Gòn" chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn.

Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng "Dạ!" cùng những tiếng "hen, nghen" lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương...


Trần Phan


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Jan/2022 lúc 4:07pm
http://batkhuat.net/Document/van-xuaroidiem.pdf - Xưa rồi diễm     <<<<<

Ghim%20của%20Painturous%20trên%20What%20The%20Pho%20|%20Thiệp,%20Bài%20hát,%20Instagram


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Jan/2022 lúc 1:50pm

Tết đến xuân về, Hoài niệm sài gòn xưa.


mailto:truongson.uit@gmail.com?&subject=%5bTDC%5d%20Tết%20đến%20xuân%20về,%20Hoài%20niệm%20sài%20gòn%20xưa. -

Cứ mỗi năm qua đi chúng tai lại chào đón 1 cái tết với bao niềm hân hoan chờ đón, sum họp, quây quần. Cầu mong những điều thật tốt đẹp trong năm mới. Và nó càng ý nghĩa hơn so với những người làm ăn xa nhà. Mong mỏi một dịp để có thể đoàn tụ bên gia đình. Và những cái tết cũ đã qua là những kỷ niệm, hồi ức của bao thế hệ.

  • 11-05-2021 https://tindiachan.com/22-hinh-thuc-lua-dao-pho-bien-tren-mang-xa-hoi - 22 HÌNH THỨC LỪA ĐẢO PHỔ BIẾN TRÊN MẠNG XÃ HỘI
  • 31-10-2021 https://tindiachan.com/ke-nhap-vai - Kẻ nhập vai
  • 18-12-2021 https://tindiachan.com/su-ton-tai - Sự tồn tại

Em đứng chờ tôi trước song thưa

Tôi đi qua đầu ngõ

Hỏi nhau thầm xuân đã về chưa…

Khi những câu hát ngân nga trong cái nắng ấm nhè nhẹ những ngày cuối năm, thì người Saigon biết rằng Tết đã về tràn ngập khắp phố phường. Ai đó đã từng nói rằng, cuộc sống càng hiện đại, Tết lại càng mất đi niềm vui. Phải chăng trong nhịp sống hối hả của hôm nay, cái Tết của Saigon xưa luôn hiện về trong tâm trí những con người mang đầy tâm tư hoài niệm. Tết Saigon xưa có gì mà khiến biết bao nhiêu người tương tư đến thế? Mời quý vị cùng tìm hiểu Tết Saigon xưa qua những hình ảnh hiếm hoi dưới đây.

Saigon Feb 1967 – Chợ hoa Tết Đinh Mùi – Tòa nhà góc Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế – Vélo Solex

Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cho rằng, tết Bắc – Trung – Nam, mỗi miền đều có mỗi đặc trưng khác nhau. Tết trong Nam mộc mạc sơ sài, không như tết ở miền Bắc và miền Trung giữ nhiều phép tắc và kiêng cử,… Tuy có sự khác biệt về phong tục và văn hóa, nhưng trong tâm trí của người Việt, tết là mùa đoàn viên, là dịp để đoàn tụ gia đình, để tưởng nhớ, cúng bái ông bà tổ tiên,…

Saigon là nơi đất lành chim đậu, là nơi hội tụ của người dân tứ xứ đến học tập, làm việc và đinh cư. Vì vậy, tết nơi đây cũng là sự kết hợp của văn hóa nhiều vùng miền hòa vào dòng chảy của nhịp sống và con người Saigon làm nên một mùa xuân độc đáo, khác biệt nhưng vẫn mang đậm bản sắc dân tộc.

Những ngày giáp tết

Hằng năm, cứ mỗi lần thấy mấy bác hàng xóm tay cầm thùng vôi, tay cầm cây chổi là người ta bắt đầu cảm nhận không khí Tết đang tràn về. Quan niệm người xưa cho rằng, đầu năm mới, nhà cửa có sạch sẽ thì mới đón rước Phúc Lộc vào nhà. Thế là bắt đầu từ giữa tháng Chạp, người ta đã bắt đầu chuẩn  bị sơn phết tường cổng, dọn dẹp nhà cửa, đánh lại bộ lư đồng, thay cát trên bàn thờ để chuẩn bị cho ngày lễ rước ông Táo về trời và đón ông bà tổ tiên và ăn Tết cùng.

Phụ nữ Saigon những ngày giáp Tết cũng phụ giúp trang trí lại cửa nhà bằng cách mua vài ba bức tranh giấy về treo lên tường, khiến ngôi nhà thêm tươi mới. Những người có điều kiện hơn, thường mua mấy bức viết chữ nhũ vàng Ngũ Phúc Lâm Môn, Hiệp Gia Bình An, Phước Lộc Thọ trên những tờ giấy hồng của mấy ông người Hoa ngồi viết ở chợ về dán trước cửa.

Tết Ất Mùi – Lễ vật cúng ông Táo bày trên mâm, 3 con cá chép sống trong bình

Từ sau ngày 23 tháng Chạp, tức sau ngày đưa ông Táo về trời, không khí chuẩn bị tết rộn ràng hơn hẳn. Các mẹ, các chị đi chợ về luôn kèm theo mấy thứ củ quả để làm mứt đón Tết. Rồi cứ sau bữa cơm chiều, mẹ bắt đầu bày cóc, me, khoai, cà rốt,…ra gọt vỏ. ngâm vôi rồi sên với đường đến khi khô lại rồi hôm sau mang phơi là có ngay mấy hũ  mứt ngon lành đón tết.

Các khu chợ Saigon thường ngày đã đông người, đến những ngày giáp Tết lại nhộn nhịp và đông vui hơn hẳn. Có thể nói Tết bắt đầu từ chợ, các cửa hàng bày bán đủ thứ mặt hàng. Từ sạp nhỏ đến hàng lớn, chất đầy hàng hóa Tết. Nào là mứt bánh, lạp xưởng, rượu tây rượu ta, nước ngọt, bia, hoa nhựa, hoa giấy, hoa tươi, khăn trải bàn, chén đĩa, áo quần, veston, áo dài, áo đầm,…không thiếu bất cứ thứ gì. Ai muốn đi mua sắm thì đến chợ Bình Tây, ai muốn đi thăm thú thì đến chợ Bến Thành. Hai khu chợ đặc trưng của Saigon mỗi dịp Tết đến. Nếu chợ Bình Tây nổi tiếng với hàng hóa đa dạng phong phú với giá cả phải chăng thì chợ Bến Thành lại là khu vực của những gia đình có điều kiện với những mặt hàng chất lượng và giá cả không hề rẻ.

Chợ Hoa Tết đông vui và nhộn nhịp ngày Tết

Từ ngày 27 trở đi, học sinh bắt đầu được nghỉ học, công nhân viên chức cũng được nghỉ làm. Những đứa trẻ con trong xóm bắt đầu tụ nhau lại, Người về quê, kẻ về nhà, nhà nhà lúc này đều rộn ràng tiếng cười nói. Đến tối 28, người ta bắt đầu dựng một nồi bánh chưng lớn trước nhà để nấu bánh. Cả nhà quây quần bên nồi bánh, nói chuyện rôm rả, cười đùa bên nhau để nhắc về chuyện xưa, chuẩn bị đón một cái tết bên cạnh gia đình.

Đi chùa cầu nguyện

Thăm chùa ngày Tết, cầu mong một năm mới bình an đã trở thành một điều quen thuộc của người Saigon. Sau giao thừa, người ta thường tập trung đến Lăng Ông Bà Chiểu, chùa Ông hoặc chùa Bà,… để cầu may mắn, cầu bình an, cầu tình duyên, cầu gia đạo,… Những hờn giận trong năm cũ đều được cho qua bằng một cái nhoẻn miệng cười dành cho nhau. Thế là năm mới, mọi thứ đều mới mẻ và tuyệt vời.

Đi lễ chùa đầu năm mới để cầu mong những điều tốt đẹp.

Ngoài đi chùa cầu nguyện, người Saigon xưa còn có tục đi coi bói đầu năm để xem vận mạng năm nay của họ sẽ ra sao. Cách thức xem bói của người Saigon xưa rất đa dạng: xem bói bằng hoa mai, bằng quẻ xăm,… Đặc biệt, xem bói tuồng là một hình thức độc đáo của vùng đất Saigon vốn có nhiều gánh hát rạp hát.

Thăm viếng người mọi người

Người xưa quan niệm rằng: Mồng một tết Cha, mồng hai tết Mẹ, mồng ba tết Thầy. Tết với người Saigon xưa ngoài là dịp sum họp với gia đình, thì còn là dịp để thăm viếng những người thân quen. Người Saigon vốn chăm chỉ, hăng say làm việc. Nhịp sống Saigon vội vã khiến nhiều người không có lấy thời gian rảnh rỗi để thăm viếng nhau. Tết là thời gian thích hợp nhất để mọi người đến nhà, gặp mặt nhau, ôn lại đôi ba chuyện cũ và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp trong năm mới.

Chợ Hoa ngày tết

Tết Saigon không thể thiếu hoa. Từ những ngày giáp Tết, hoa từ các nhà vườn ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức,… và cả những tỉnh miền Tây đều được tập trung về Saigon để bán và trang trí khắp các đường phố. Đủ loại cây cảnh như mai, cúc, sanh, si, lan, vạn thọ,… với đủ màu sắc, đủ kiểu dáng lung linh dưới ánh nắng ấm áp của mùa xuân Sài Gòn luôn thu hút ánh nhìn của những vị khách du xuân. Một trong những dấu ấn đặc biệt nhất của ngày Tết Sài Gòn đó chính là đường Hoa Nguyễn Huệ. Đi chợ hoa Nguyễn Huệ trong những ngày Tết cũng phải chen chúc nhau bởi hàng trăm loài hoa đang đua nhau khoe sắc, tỏa hương thơm ngát như đang gột rửa tâm hồn con người sau một năm bộn bề và mỏi mệt để đón mừng một năm mới hạnh phúc và tốt đẹp hơn.

Múa lân ngày tết

Nếu múa lân ở miền Trung và miền Nam chỉ được biểu diễn vào dịp tết Trung Thu, thì ở Saigon, múa lân ngày Tết cũng chính là một món ăn tinh thần không thể thiếu nhất là ở khu vực người Hoa sinh sống. Kỹ thuật múa lân thời kỳ đó đã đạt đến một trình độ cao. Chủ nhà thường treo thưởng ở vị trí rất cao và khó khăn để thử thách những nghệ nhân múa lân – sư – rồng phải vận dụng kỹ thuật để lấy được. Kỹ thuật Thanh Long Bạch Hổ lúc ấy được nhiều người khen ngợi và tán thưởng. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã khắp nơi cũng góp phần tạo nên một mùa xuân Saigon rộn ràng và độc đáo.

Tết của thời hiện đại Saigon vắng hoe. Những người xa xứ thì về quê ăn tết với gia đình. Người Sài Gòn lại chọn cách đi du lịch thư giãn sau một năm vất vả. Sài Gòn nhộn nhịp hằng ngày bỗng trở nên vắng lặng và êm đềm. Cũng chính vì vậy, câu hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa” vẫn cứ luôn vang vọng mãi tron tâm trí của những người Sài Gòn xưa để nhớ về những mùa xuân tươi đẹp trong một miền ký ức xa xôi không thể quay về.

ρнáσ иổ đì đùng khắp các thôn xóm mỗi dịp Tết đến.
Cậu bé bịt tai xem ρнáσ иổ.

Pháo tép dây nổ giòn giã trong những ngày tết

Ngày 8 tháng 8/1994, Thủ tướng chính phủ Võ Văn Kiệt đã ký Chỉ thị số 406-TTg, về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Kể từ sau Chỉ thị này, từ năm 1995 đến nay không khí Tết trầm lắng và lặng lẽ hơn. Đêm giao thừa, các miền quê im lìm trong giấc ngủ vì không còn tiếng pháo thúc giục mong chờ. May mắn các thành phố còn có pháo hoa, nhưng lại mang cái không khí tập nập xe cộ với khói bụi vì nhiều người đổ ra đường xem pháo hoa có khi mệt mỏi hơn là vui. Và chỉ những ai sinh từ năm 1994 trở về trước mới từng được nghe đến tiếng pháo Tết thực sự.

Đêm giao thừa, thay vì nô nức ra đường để đến những tụ điểm bắn pháo hoa, người Việt nhà nào cũng tự sắm cho mình đôi ba bánh pháo. Khi kim đồng hồ điểm thời khắc giao thừa, mỗi nhà không ai bảo ai đều mang pháo ra trước cửa nhà mình đốt. Tiếng ρнáσ иổ cứ thế giòn giã khắp các ngõ xóm, liên tục, liên hồi không dứt, trẻ con cũng thế mà thức cho đến gần sáng chạy đi khắp xóm xem nhà nào đốt pháo.

Ngày mùng một tết đầu năm mới, nhà nào cũng treo trước cửa một dải pháo tép. Nhà này châm lửa đốt xong thì lại đến nhà khác đốt tiếp, tiếng ρнáσ иổ cứ thế lan truyền khắp cả khu phố. Bọn trẻ con trong khu phố, thường không đợi cho đến khi đám khói của ρнáσ иổ tan, chúng nô đùa ùa ra để nhặt những tép pháo, những đoạn pháo lép.

Được một lúc sau, những đứa trẻ sẽ mang những viên pháo lép đó chạy đến một góc sân, chúng buộc những viên pháo vào một que nhang đang cháy dở và đợi cho đến khi ρнáσ иổ rồi cười thích thú. Việc đó cứ lặp đi lặp lại cho suốt 3 ngày tết.

Bấm vào hình để xem clip

Những ngày mùng 1, mùng 2 tết, khắp các con đường trong làng, trong phố đều là những xác pháo đỏ. Người người mặc áo đỏ, nhà nhà khoác lên mình những câu đối đỏ, con đường con phố cũng mang màu đỏ của xác pháo. Hình ảnh tết hiện lên đậm đà mà rộn ràng vui tươi.

Rộn ràng tiếng pháo kèm múa lân trong những ngày tết xưa

Tiếng pháo tết có lẽ chỉ kết thúc sau tháng giêng, tháng 2, khi mọi người quay lại nhịp sống thường ngày. Còn sau tết, lại đến những ngày hội làng, tiếng pháo vẫn tiếp tục nổ đì đùng trong tiếng hân hoan, tiếng lễ hội, tiếng hát, tiếng dò hô của những người đi chơi lễ.

Kí ức này, giờ với những đứa trẻ đã lớn chỉ còn là hoài niệm. Cảm giác về những hình ảnh đỏ hồng của những đoạn pháo tép, về những tiếng nổ đì đùng và cái mùi của khói pháo khi tan vẫn còn vô cùng đậm nét.

Ngày tết, trong cái lãng đãng của tiết trời xuân, của cái rét vô cùng nhẹ nhàng, của những bộ quần áo mới, nồi bánh chưng đang sôi, những lời chào câu thăm hỏi đầu xuân không thể thiếu được tiếng nổ đì đùng, rộn ràng của những bánh pháo. Những hình ảnh ấy, giờ là kỉ niệm để kể cho con, cháu chúng ta về một thời tết xưa rộn ràng khác với ngày nay như thế nào.

Mỗi thời đại một khác, chúng ta hoài niệm về pháo không phải là cố gắng để mang tiếng pháo quay lại thời hiện đại này, mà đơn giản chỉ là chúng ta yêu thương hơn những kỉ niệm đẹp trong ngày tết của chính chúng ta ở trong tuổi thơ mình.

Trẻ con xúm lại cùng người lớn chiêm ngưỡng Pháo
Tiệm bán đầy đủ các loại pháo hoa, ρнáσ иổ.
Đại lý pháo với đủ loại pháo

Nguồn: thoixua.vn



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Jan/2022 lúc 1:51pm

Tết đến xuân về, Hoài niệm sài gòn xưa.


mailto:truongson.uit@gmail.com?&subject=%5bTDC%5d%20Tết%20đến%20xuân%20về,%20Hoài%20niệm%20sài%20gòn%20xưa. -

Cứ mỗi năm qua đi chúng tai lại chào đón 1 cái tết với bao niềm hân hoan chờ đón, sum họp, quây quần. Cầu mong những điều thật tốt đẹp trong năm mới. Và nó càng ý nghĩa hơn so với những người làm ăn xa nhà. Mong mỏi một dịp để có thể đoàn tụ bên gia đình. Và những cái tết cũ đã qua là những kỷ niệm, hồi ức của bao thế hệ.

Em đứng chờ tôi trước song thưa

Tôi đi qua đầu ngõ

Hỏi nhau thầm xuân đã về chưa…

Khi những câu hát ngân nga trong cái nắng ấm nhè nhẹ những ngày cuối năm, thì người Saigon biết rằng Tết đã về tràn ngập khắp phố phường. Ai đó đã từng nói rằng, cuộc sống càng hiện đại, Tết lại càng mất đi niềm vui. Phải chăng trong nhịp sống hối hả của hôm nay, cái Tết của Saigon xưa luôn hiện về trong tâm trí những con người mang đầy tâm tư hoài niệm. Tết Saigon xưa có gì mà khiến biết bao nhiêu người tương tư đến thế? Mời quý vị cùng tìm hiểu Tết Saigon xưa qua những hình ảnh hiếm hoi dưới đây.

Saigon Feb 1967 – Chợ hoa Tết Đinh Mùi – Tòa nhà góc Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế – Vélo Solex

Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cho rằng, tết Bắc – Trung – Nam, mỗi miền đều có mỗi đặc trưng khác nhau. Tết trong Nam mộc mạc sơ sài, không như tết ở miền Bắc và miền Trung giữ nhiều phép tắc và kiêng cử,… Tuy có sự khác biệt về phong tục và văn hóa, nhưng trong tâm trí của người Việt, tết là mùa đoàn viên, là dịp để đoàn tụ gia đình, để tưởng nhớ, cúng bái ông bà tổ tiên,…

Saigon là nơi đất lành chim đậu, là nơi hội tụ của người dân tứ xứ đến học tập, làm việc và đinh cư. Vì vậy, tết nơi đây cũng là sự kết hợp của văn hóa nhiều vùng miền hòa vào dòng chảy của nhịp sống và con người Saigon làm nên một mùa xuân độc đáo, khác biệt nhưng vẫn mang đậm bản sắc dân tộc.

Những ngày giáp tết

Hằng năm, cứ mỗi lần thấy mấy bác hàng xóm tay cầm thùng vôi, tay cầm cây chổi là người ta bắt đầu cảm nhận không khí Tết đang tràn về. Quan niệm người xưa cho rằng, đầu năm mới, nhà cửa có sạch sẽ thì mới đón rước Phúc Lộc vào nhà. Thế là bắt đầu từ giữa tháng Chạp, người ta đã bắt đầu chuẩn  bị sơn phết tường cổng, dọn dẹp nhà cửa, đánh lại bộ lư đồng, thay cát trên bàn thờ để chuẩn bị cho ngày lễ rước ông Táo về trời và đón ông bà tổ tiên và ăn Tết cùng.

Phụ nữ Saigon những ngày giáp Tết cũng phụ giúp trang trí lại cửa nhà bằng cách mua vài ba bức tranh giấy về treo lên tường, khiến ngôi nhà thêm tươi mới. Những người có điều kiện hơn, thường mua mấy bức viết chữ nhũ vàng Ngũ Phúc Lâm Môn, Hiệp Gia Bình An, Phước Lộc Thọ trên những tờ giấy hồng của mấy ông người Hoa ngồi viết ở chợ về dán trước cửa.

Tết Ất Mùi – Lễ vật cúng ông Táo bày trên mâm, 3 con cá chép sống trong bình

Từ sau ngày 23 tháng Chạp, tức sau ngày đưa ông Táo về trời, không khí chuẩn bị tết rộn ràng hơn hẳn. Các mẹ, các chị đi chợ về luôn kèm theo mấy thứ củ quả để làm mứt đón Tết. Rồi cứ sau bữa cơm chiều, mẹ bắt đầu bày cóc, me, khoai, cà rốt,…ra gọt vỏ. ngâm vôi rồi sên với đường đến khi khô lại rồi hôm sau mang phơi là có ngay mấy hũ  mứt ngon lành đón tết.

Các khu chợ Saigon thường ngày đã đông người, đến những ngày giáp Tết lại nhộn nhịp và đông vui hơn hẳn. Có thể nói Tết bắt đầu từ chợ, các cửa hàng bày bán đủ thứ mặt hàng. Từ sạp nhỏ đến hàng lớn, chất đầy hàng hóa Tết. Nào là mứt bánh, lạp xưởng, rượu tây rượu ta, nước ngọt, bia, hoa nhựa, hoa giấy, hoa tươi, khăn trải bàn, chén đĩa, áo quần, veston, áo dài, áo đầm,…không thiếu bất cứ thứ gì. Ai muốn đi mua sắm thì đến chợ Bình Tây, ai muốn đi thăm thú thì đến chợ Bến Thành. Hai khu chợ đặc trưng của Saigon mỗi dịp Tết đến. Nếu chợ Bình Tây nổi tiếng với hàng hóa đa dạng phong phú với giá cả phải chăng thì chợ Bến Thành lại là khu vực của những gia đình có điều kiện với những mặt hàng chất lượng và giá cả không hề rẻ.

Chợ Hoa Tết đông vui và nhộn nhịp ngày Tết

Từ ngày 27 trở đi, học sinh bắt đầu được nghỉ học, công nhân viên chức cũng được nghỉ làm. Những đứa trẻ con trong xóm bắt đầu tụ nhau lại, Người về quê, kẻ về nhà, nhà nhà lúc này đều rộn ràng tiếng cười nói. Đến tối 28, người ta bắt đầu dựng một nồi bánh chưng lớn trước nhà để nấu bánh. Cả nhà quây quần bên nồi bánh, nói chuyện rôm rả, cười đùa bên nhau để nhắc về chuyện xưa, chuẩn bị đón một cái tết bên cạnh gia đình.

Đi chùa cầu nguyện

Thăm chùa ngày Tết, cầu mong một năm mới bình an đã trở thành một điều quen thuộc của người Saigon. Sau giao thừa, người ta thường tập trung đến Lăng Ông Bà Chiểu, chùa Ông hoặc chùa Bà,… để cầu may mắn, cầu bình an, cầu tình duyên, cầu gia đạo,… Những hờn giận trong năm cũ đều được cho qua bằng một cái nhoẻn miệng cười dành cho nhau. Thế là năm mới, mọi thứ đều mới mẻ và tuyệt vời.

Đi lễ chùa đầu năm mới để cầu mong những điều tốt đẹp.

Ngoài đi chùa cầu nguyện, người Saigon xưa còn có tục đi coi bói đầu năm để xem vận mạng năm nay của họ sẽ ra sao. Cách thức xem bói của người Saigon xưa rất đa dạng: xem bói bằng hoa mai, bằng quẻ xăm,… Đặc biệt, xem bói tuồng là một hình thức độc đáo của vùng đất Saigon vốn có nhiều gánh hát rạp hát.

Thăm viếng người mọi người

Người xưa quan niệm rằng: Mồng một tết Cha, mồng hai tết Mẹ, mồng ba tết Thầy. Tết với người Saigon xưa ngoài là dịp sum họp với gia đình, thì còn là dịp để thăm viếng những người thân quen. Người Saigon vốn chăm chỉ, hăng say làm việc. Nhịp sống Saigon vội vã khiến nhiều người không có lấy thời gian rảnh rỗi để thăm viếng nhau. Tết là thời gian thích hợp nhất để mọi người đến nhà, gặp mặt nhau, ôn lại đôi ba chuyện cũ và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp trong năm mới.

Chợ Hoa ngày tết

Tết Saigon không thể thiếu hoa. Từ những ngày giáp Tết, hoa từ các nhà vườn ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức,… và cả những tỉnh miền Tây đều được tập trung về Saigon để bán và trang trí khắp các đường phố. Đủ loại cây cảnh như mai, cúc, sanh, si, lan, vạn thọ,… với đủ màu sắc, đủ kiểu dáng lung linh dưới ánh nắng ấm áp của mùa xuân Sài Gòn luôn thu hút ánh nhìn của những vị khách du xuân. Một trong những dấu ấn đặc biệt nhất của ngày Tết Sài Gòn đó chính là đường Hoa Nguyễn Huệ. Đi chợ hoa Nguyễn Huệ trong những ngày Tết cũng phải chen chúc nhau bởi hàng trăm loài hoa đang đua nhau khoe sắc, tỏa hương thơm ngát như đang gột rửa tâm hồn con người sau một năm bộn bề và mỏi mệt để đón mừng một năm mới hạnh phúc và tốt đẹp hơn.

Múa lân ngày tết

Nếu múa lân ở miền Trung và miền Nam chỉ được biểu diễn vào dịp tết Trung Thu, thì ở Saigon, múa lân ngày Tết cũng chính là một món ăn tinh thần không thể thiếu nhất là ở khu vực người Hoa sinh sống. Kỹ thuật múa lân thời kỳ đó đã đạt đến một trình độ cao. Chủ nhà thường treo thưởng ở vị trí rất cao và khó khăn để thử thách những nghệ nhân múa lân – sư – rồng phải vận dụng kỹ thuật để lấy được. Kỹ thuật Thanh Long Bạch Hổ lúc ấy được nhiều người khen ngợi và tán thưởng. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã khắp nơi cũng góp phần tạo nên một mùa xuân Saigon rộn ràng và độc đáo.

Tết của thời hiện đại Saigon vắng hoe. Những người xa xứ thì về quê ăn tết với gia đình. Người Sài Gòn lại chọn cách đi du lịch thư giãn sau một năm vất vả. Sài Gòn nhộn nhịp hằng ngày bỗng trở nên vắng lặng và êm đềm. Cũng chính vì vậy, câu hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa” vẫn cứ luôn vang vọng mãi tron tâm trí của những người Sài Gòn xưa để nhớ về những mùa xuân tươi đẹp trong một miền ký ức xa xôi không thể quay về.

ρнáσ иổ đì đùng khắp các thôn xóm mỗi dịp Tết đến.
Cậu bé bịt tai xem ρнáσ иổ.

Pháo tép dây nổ giòn giã trong những ngày tết

Ngày 8 tháng 8/1994, Thủ tướng chính phủ Võ Văn Kiệt đã ký Chỉ thị số 406-TTg, về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Kể từ sau Chỉ thị này, từ năm 1995 đến nay không khí Tết trầm lắng và lặng lẽ hơn. Đêm giao thừa, các miền quê im lìm trong giấc ngủ vì không còn tiếng pháo thúc giục mong chờ. May mắn các thành phố còn có pháo hoa, nhưng lại mang cái không khí tập nập xe cộ với khói bụi vì nhiều người đổ ra đường xem pháo hoa có khi mệt mỏi hơn là vui. Và chỉ những ai sinh từ năm 1994 trở về trước mới từng được nghe đến tiếng pháo Tết thực sự.

Đêm giao thừa, thay vì nô nức ra đường để đến những tụ điểm bắn pháo hoa, người Việt nhà nào cũng tự sắm cho mình đôi ba bánh pháo. Khi kim đồng hồ điểm thời khắc giao thừa, mỗi nhà không ai bảo ai đều mang pháo ra trước cửa nhà mình đốt. Tiếng ρнáσ иổ cứ thế giòn giã khắp các ngõ xóm, liên tục, liên hồi không dứt, trẻ con cũng thế mà thức cho đến gần sáng chạy đi khắp xóm xem nhà nào đốt pháo.

Ngày mùng một tết đầu năm mới, nhà nào cũng treo trước cửa một dải pháo tép. Nhà này châm lửa đốt xong thì lại đến nhà khác đốt tiếp, tiếng ρнáσ иổ cứ thế lan truyền khắp cả khu phố. Bọn trẻ con trong khu phố, thường không đợi cho đến khi đám khói của ρнáσ иổ tan, chúng nô đùa ùa ra để nhặt những tép pháo, những đoạn pháo lép.

Được một lúc sau, những đứa trẻ sẽ mang những viên pháo lép đó chạy đến một góc sân, chúng buộc những viên pháo vào một que nhang đang cháy dở và đợi cho đến khi ρнáσ иổ rồi cười thích thú. Việc đó cứ lặp đi lặp lại cho suốt 3 ngày tết.

Bấm vào hình để xem clip

Những ngày mùng 1, mùng 2 tết, khắp các con đường trong làng, trong phố đều là những xác pháo đỏ. Người người mặc áo đỏ, nhà nhà khoác lên mình những câu đối đỏ, con đường con phố cũng mang màu đỏ của xác pháo. Hình ảnh tết hiện lên đậm đà mà rộn ràng vui tươi.

Rộn ràng tiếng pháo kèm múa lân trong những ngày tết xưa

Tiếng pháo tết có lẽ chỉ kết thúc sau tháng giêng, tháng 2, khi mọi người quay lại nhịp sống thường ngày. Còn sau tết, lại đến những ngày hội làng, tiếng pháo vẫn tiếp tục nổ đì đùng trong tiếng hân hoan, tiếng lễ hội, tiếng hát, tiếng dò hô của những người đi chơi lễ.

Kí ức này, giờ với những đứa trẻ đã lớn chỉ còn là hoài niệm. Cảm giác về những hình ảnh đỏ hồng của những đoạn pháo tép, về những tiếng nổ đì đùng và cái mùi của khói pháo khi tan vẫn còn vô cùng đậm nét.

Ngày tết, trong cái lãng đãng của tiết trời xuân, của cái rét vô cùng nhẹ nhàng, của những bộ quần áo mới, nồi bánh chưng đang sôi, những lời chào câu thăm hỏi đầu xuân không thể thiếu được tiếng nổ đì đùng, rộn ràng của những bánh pháo. Những hình ảnh ấy, giờ là kỉ niệm để kể cho con, cháu chúng ta về một thời tết xưa rộn ràng khác với ngày nay như thế nào.

Mỗi thời đại một khác, chúng ta hoài niệm về pháo không phải là cố gắng để mang tiếng pháo quay lại thời hiện đại này, mà đơn giản chỉ là chúng ta yêu thương hơn những kỉ niệm đẹp trong ngày tết của chính chúng ta ở trong tuổi thơ mình.

Trẻ con xúm lại cùng người lớn chiêm ngưỡng Pháo
Tiệm bán đầy đủ các loại pháo hoa, ρнáσ иổ.
Đại lý pháo với đủ loại pháo

Nguồn: thoixua.vn



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Feb/2022 lúc 1:54pm
Ò e rô be đánh đu!


Bài%20hát%20Auld%20Lang%20Syne%20“ò%20e%20rô%20be%20đánh%20đu…”%20|%20MediaOnline%20Magazine


Tui nhớ hồi tui 8, 9 tuổi, tía tui làm nghề tay trái là ký giả chuyên phê bình tuồng cải lương cho trang kịch trường báo Tiếng Dội của ông Trần Tấn Quốc ở thủ đô Sài Gòn.

Hồi đó gánh cải lương nào có tuồng mới dựng thường về rạp Vĩnh Lợi của thầy Năm Tú gần chợ Mỹ Tho để hát phúc khảo. Hát phúc khảo là tổng dượt lại. Thầy tuồng tức soạn giả coi lại từng cảnh, từng màn, nên thêm chỗ nào; bớt chỗ nào để vở tuồng được hay hơn. Tuồng hay, sau về rạp Nguyễn Văn Hảo ở đường Trần Hưng Ðạo, Sài Gòn hát tất ăn khách hơn; hát được nhiều suất hơn, hát lâu hơn. Hát phúc khảo cũng là dịp để đào kép hiểu tích, thuộc tuồng. Có vậy, nghệ sĩ mới nghĩ ra cách diễn xuất như thế nào để lấy được nước mắt của bà già trầu ở chợ Cầu Ông Lãnh hay mấy em bán mì ở chợ Nancy. Mà muốn có ai chỉ ra được cái hay, cái dở của tuồng tích không ai bằng ký giả kịch trường. Ðó là nghề của chàng.

Rồi những lời khen tặng của ký giả kịch trường sẽ in trên báo nhằm lăng-xê trước cho vở hát, được bầu gánh cho in ra giấy quảng cáo để xe ngựa đi phát ra, dụ khị bà con đi coi hát tối nay.

Sau khi cánh màn nhung khép lại, vãn tuồng rồi, soạn giả mời ký giả đi ăn cháo khuya. Hai người lai rai ba sợi, rượu vô lời ra, nhắc nhỏ nhau nghe, kêu thêm thắt chỗ nầy mà bỏ chỗ kia. Còn bài lên báo là hổng có cái vụ chê; chỉ có khen. Vì giết kẻ thù chớ giết bạn đành sao!

Chính vì thế mà soạn giả rất trọng vọng ký giả kịch trường. Mời ổng đi xem hát hai ghế thượng hạng. Ghế ngồi chính giữa, gần xịt bên sân khấu. Kép lấy hơi lên gân cần cổ để xuống vọng cổ tới sùi bọt mép mình còn nhìn thấy nữa đó!

Những lần như vậy, má kêu tía phải dắt tui theo. Mãi sau nầy lớn lên, tui mới hiểu má tui làm vậy là để bắn tiếng cho mấy cô đào thinh sắc là tía tui đã vợ con đùm đề rồi, sẽ không dám rủ rê tía tui đi “ăn chè” bất tử.

Tám giờ tối mới mở màn. Coi chưa hết màn đầu là tui buồn ngủ híp hai con mắt. Kèn thổi tò te, trống của dàn nhạc Tây nó đánh rầm rầm, đang mơ màng giấc điệp, ke chảy đầy mồm, bỗng giựt mình thức giấc. “Ò e Rô Be đánh đu, Tạc Zăng nhảy dù, Zô Rô bắn súng” là tui biết màn nhung đã khép lại rồi. Tuồng đã vãn. Mình thức dậy, đi về!

Sau nầy bèo dạt hoa trôi tới nước Úc này đây, đêm giao thừa đi nhậu, tui gặp lại bản “Ò e Rô Be đánh đu”. Té ra nó là dân ca “Auld lang syne” xứ Scotland.

Hồi chưa có dịch, mỗi chiều cuối năm, tui thường lang thang thả bộ ra pub (quán rượu) ở Footscray chỉ cách nhà tui khoảng 10 phút đi bộ, nhậu. Lúc đó còn đi cày, mệt thiệt nhưng tiền bạc cũng hơi rủng rỉnh.

Tui lại quầy mua bia để uống chơi, ngồi tán dóc để học thêm chút đỉnh tiếng đường phố của bọn Úc đá cá lăn dưa.

Người ta nói hổng có sai mà. Muốn giỏi tiếng Úc hãy học trên giường với con vợ Úc. Nếu không có con nhỏ Úc nào chịu làm vợ mình hết ráo thì nên học ở quán nhậu hàng đêm. Không phải tốn tiền học phí; chỉ phải tốn tiền bia. Tốn tiền nhiều chừng nào bụng bự và tiếng Úc mau giỏi chừng nấy.

Chính vì nghe cái giọng tiếng Úc lơ lớ, tá lả như xổ tràng đạn đại liên M60 của tui, con nhỏ Úc gốc Ý phục vụ bia bọt, “sexy” vì em cổ nhũ, mắt xanh mỏ đỏ nó rất khoái nói chuyện với tui.

Nhưng năm rồi nè, dịch bùng phát dữ dội, tiểu bang Victoria (trong đó có thủ phủ Melbourne của tui) mông xừ Thủ hiến Daniel Andrews ra lịnh đóng cửa quán nhậu một lèo tới 112 ngày.

Chiều chiều không đi nhậu tán dóc được với em, ở nhà cuồng cẳng, cuồng chân. Tui nhớ cái không khí ồn ào của quán nhậu vui hết biết chiều cuối năm mà buồn biết bao trong tấc dạ.

Giao thừa năm nay được thằng cha Thủ hiến tiểu bang xả cảng, tui vội vác càng tôm đến quán để gặp lại người xưa.

Em nháy mắt với tui rồi hỏi xỏ: “Bộ sút chuồng hả?”. Tui trả lời: “Tại nhức đầu!”. Em có vẻ lo lắng: “Nhức đầu sao đi nhậu?”. Tui trả lời: “Tui sung lắm! Nhức đầu là con vợ của tui”.

Em đặt trước mặt tui một ly bia đầy bọt. Tui ngửa cổ làm một hơi nghe cái ót, cạn hết nửa ly. Xong, tui kể cho em nghe câu chuyện tựa đề Thượng đế cho con hỏi như vầy nè:

Thượng đế ra lịnh: “Adam, ta muốn con làm một chuyện rất quan trọng này cho ta”. Adam đáp: “Tâu Thượng đế! Ngài muốn con làm gì?”. “Ði xuống thung lũng”. Adam hỏi lại: “Thung lũng là gì?”.

Thượng đế cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Qua sông”. “Sông là gì?”. Thượng đế lại cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ði qua ngọn đồi”. “Ðồi là gì?”. Thượng đế lại cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ở phía bên kia của ngọn đồi, con sẽ tìm thấy một cái hang cỏ mọc um tùm”. “Hang là gì?”. Thượng đế cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Trong hang, con sẽ tìm thấy một con nữ”. Adam hỏi: “Nữ là gì?”.

Thượng đế lại kiên nhẫn cắt nghĩa cho Adam nghe, rồi nói: “Ta muốn con sản xuất bé bi”. “Làm thế nào để con làm được chuyện đó?”. “Trời ạ!”. Thượng đế thở hào hển. Sau đó, ngài thở dài và đem hình ảnh con ong, con bướm ra làm giáo cụ trực quan để cắt nghĩa cho Adam nghe. Adam rất thích cái chuyện đó. Nên Adam háo hức xuống thung lũng, băng qua sông, qua đồi và chui vào một cái hang. Nơi đó Adam tìm thấy một con nữ. Một lúc sau, Adam quay lại và hỏi: “Tâu Thượng đế, nhức đầu là gì ạ?”.

Con nhỏ phục vụ bia bọt khoái chí cười hí hí. Tui bèn ướm lời: “Ðêm nay em có nhức đầu hông?”. Nó thè lưỡi nói: “Hổng dám đâu!”.



Trong lúc tui đón Giao thừa trong quán nhậu thì dân Úc lại túa ra đường xem bắn pháo bông. Mèo chuột ôm nhau hun hít và cười vui như con nít.

Khi nửa đêm ập đến, năm 2021 đáng để quên, lùi vào lịch sử. Màn bắn pháo bông đêm giao thừa dài 12 phút, nổi tiếng trên toàn thế giới tại cầu cảng Sydney, thủ phủ của tiểu bang New South Wales đông dân nhứt Úc Châu bắt đầu.

Mọi năm cả triệu người bu lại để xem bừng sáng pháo bông nói lời tạm biệt năm cũ. Nhưng năm rồi con Delta gây chết người nhiều quá. Năm nay con biến thể Omicron lây lan dữ quá, dân Sydney không còn xúm lại chùm nhum một đám. Tụi nó đổ ra đầy bãi biển Bondi. Vì nơi đó thông thoáng hơn; nguy cơ lây nhiễm cũng thấp hơn.

Rồi sau đó, những cảnh tượng hùng vĩ tương tự lần lượt nổ tung ở Adelaide, thủ phủ tiểu bang Nam Úc, Darwin thủ phủ lãnh thổ Bắc Úc và Perth, thủ phủ tiểu bang Tây Úc vì khác múi giờ.

Không chịu thua kém Sydney, bầu trời đêm Melbourne cũng bừng sáng pháo bông.

Úc này cũng vui! Cưới vợ là đặt dấu “on bon phi nan” cho đời sống độc thân tự do. Chấm dứt những ngày vui. Những ngày muốn làm gì làm. Giờ làm bất cứ cái gì cũng phải xin phép. Nghĩa là bắt đầu một cuộc đời nô lệ. Vậy mà cũng có một thằng Úc cho rằng mình là một người may mắn mới cưới được một con vợ thổ dân. Ðêm Giao thừa, nó dắt con vợ mới ra đứng giữa đường. Hai đứa ôm nhau xà nẹo. Chụp hình rồi post lên facebook khoe với bàn dân thiên hạ là tao vừa bị con vợ tao tuyên án chung thân.

“Ò e Rô be đánh đu”, thiệt là ngu như một con kangaroo!


Đoàn Xuân Thu


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Feb/2022 lúc 9:12am
Những Rạp Ciné Bình Dân ở Sài Gòn
https://aihuubienhoa.com/images/file/FuV7viVK2QgBAmFK/rap-vancam.png">RAP%20VANCAM
Nhân đọc một số những bài viết về những rạp ciné ở Sài Gòn thời trước 1975 của một số bạn post trên SS, tôi xin đóng góp một bài viết kỷ niệm về những rạp ciné bình dân.
Lúc còn nhỏ, nhà tôi ở Phú Nhuận ngay gần góc ngã tư Võ Di Nguy và Chi Lăng, tôi thường lén bố mẹ đi coi phim ở hai rạp Văn Cầm và Cẩm Vân. Hai rạp gần như đối diện với nhau trên đường Võ Di Nguy và thuộc hạng bình dân giá khoảng 5 đồng chuyên chiếu thường trực hai phim, sau này hình như lên giá 50 đồng, tôi không nhớ rõ. Rạp Cẩm Vân chuyên chiếu phim Ấn Độ như phim “Sữa Rừng thay Sữa Mẹ”, tôi nhớ phim Ấn Độ nào cũng có màn ca hát nhẩy múa giống như xem cải lương của Việt Nam, chẳng hạn lúc hai bên đang đánh kiếm tới hồi quyết liệt thì hai bên ngừng lại ca hát một hồi rồi mới đánh tiếp.
Tôi thường xem ở rạp Văn Cầm nhiều hơn. Có thể nói rạp Văn Cầm rất tệ và dơ nhưng bù lại phim ở đây được chọn lọc hay hơn những chỗ khác. Chủ rạp lâu lâu cho chiếu nhiều phim chỉ dành cho người lớn thí dụ như phim “Angelique” với cô đào Pháp Michelle Mercier có nhiều màn khỏa thân nóng bỏng. Đi xem phim ở đây bị rệp cắn là chuyện thường đôi khi còn có chuột chạy ở dưới chân. Một điều tôi không bao giờ làm là bỏ chân không lên ghế vì lúc thò chân xuống mò mẫm đôi giầy hay dép của mình vì lỡ đụng chân xuống đất là có thể bị chuột cắn hay dính nước tiểu của những tiểu tử làm biếng không chịu đi vô “toa lét” vì phim đang đến hồi hấp dẫn. Chưa kể nhiều khi khán giả đang xem phim thì có những mẩu thuốc lá vẫn còn cháy của những tên ba trợn từ đằng sau búng lên phía trước rớt xuống làm phỏng đùi những ai đi xem phim mà mặc quần xà lỏn. Cho nên đi xem ciné ở những rạp bình dân luôn luôn phải mặc quần dài vừa tránh không bị rệp cắn vừa không bị phỏng vì thuốc lá. Phim chiếu ở những rạp bình dân thường thường là phim cũ đã chiếu ở những rạp lớn như Rex, Eden v.v.. sau một thời gian mới về những rạp bình dân. Vì phim cũ nên hay bị đứt phim mà không hiểu sao những lúc phim bị đứt toàn là vào những đoạn gay cấn. Mỗi lần như vậy là khán giả đập ghế rầm rầm lên. Vì vậy có nhiều ghế bị hư và rớt cả ra ngoài. Tôi đã nhiều lần vào rạp mầy mò trong bóng tối tìm chỗ ngồi thấy ở giữa có chỗ trống nên mừng quá, hí hửng len lỏi qua hàng ghế đầy người ngồi, lúc đến nơi mới biết chỗ đó hổng, không có ghế, đành phải chửi thề đi ra. Ngoài ra rạp bình dân không có máy lạnh chỉ có quạt máy nên không khí rất oi bức và nhà tiểu thì còn kinh hoàng nữa, bước vào thì mùi khai nồng nặc và lớp nhớp ở dưới chân. Những rạp như Kinh Thành, Casino Dakao, Cao Đồng Hưng cũng thuộc hạng bình dân những không đến nỗi tệ như rạp Văn Cầm. Ở trong khu rạp Kinh Thành có tiệm bám kem cây rất ngon, đôi khi ba tôi hay cho tụi tôi đi ăn mì ở tiệm “Tân Định Mì Gia”, ăn xong ghé vào rạp Kinh Thành mua kem cây đem về ăn. Kem cây tức là cà rem có cắm cái cây để cầm ăn, có đủ mùi vị như mãng cầu, đậu xanh, dừa, lá dứa.
Khi lớn vào trung học, lâu lâu tụi tôi “cúp cua” đi xem ciné ở những rạp khá hơn như Rex, Eden, Casino Sài Gòn v.v.. Những rạp này có máy lạnh và chiếu phim mới và chỉ chiếu thường trực một phim và giá thì mắc hơn. Không biết được ai chỉ dẫn nhưng tụi tôi thường không mua vé mà thường đứng lẩn quẩn gần chỗ người soát vé. Chỉ cần ông ta nhìn tụi tôi và gật nhè nhẹ là tụi tôi hiểu ý và tụi tôi cứ đi theo những người đi trước đã mua vé giả bộ là cùng nhóm và ông soát vé không nói gì thì coi như xong, nếu ông ta chặn lại hỏi vé thì phải ra quầy mua vé đàng hoàng. Nếu ông ta không chặn lại thì khi vào trong rạp thì một lúc sau, ông ta sẽ bấm đèn pin đi vô tìm tụi tôi và tụi tôi đưa tiền cho ông ta, thông thường chỉ bằng một nửa giá regular. Như vậy có lợi cho cả hai bên, chỉ có chủ rạp là thiệt thôi. Không phải rạp nào cũng làm được, rạp Rex là không bao giờ vì người soát vé hình như là người nhà của ông Ưng Thi. Rạp Eden là nổi tiếng về chuyện này đến nỗi chủ rạp đuổi những người soát vé rất nhiều. Thông thường chỉ có học trò không có tiền mới làm cái trò này và thường là vào ngày trong tuần dễ hơn là cuối tuần đông người, chủ rạp cho nhiều người soát vé nên họ kiểm soát lẫn nhau. Đi xem ciné kiểu này tụi tôi gọi là đi coi phim “nháy” tức là nháy mắt với ông soát vé để được giá rẻ. Một điều rất lạ là những ông soát vé rất hay, dù trong rạp tối đến đâu và tụi tôi ngồi chỗ nào ông ta cũng tìm thấy để đòi tiền. Rạp Eden đặc biệt có thêm một tầng lầu ở trên kín đáo cho những đôi tình nhân ngồi hú hí mà không sợ những người chung quanh để ý. Ngoài ra còn có rạp Vĩnh Lợi là nơi nổi tiếng có dân BD hay đến và rạp Lê Lợi thì chuyên chiếu phim của Pháp cũ như La Piscine, Quelqu’un Derriere la Porte, Le P***ager de la Pluie,.. Rạp Văn Hoa Đa Kao cũng là rạp ́tụi tôi hay coi phim nháy, tụi tôi đã được coi phim Lệ Đá và Vết Thù Trên Lưng Con Ngựa Hoang ở đó. Tôi nhớ có một lần tụi tôi đang đứng chờ để nháy thì có một cặp từ hướng cà phê Văn Hoa băng qua đường và đi về hướng người soát vé. Người đàn ông dáng cao gầy để râu tóc dài lởm chởm và anh ta mặc bộ đồ quân phục màu đen và chân mang dép bình trị thiên trông rất ngầu. Vai áo anh có mang phù hiệu của một con hổ và chiếc dù. Đi với anh là một cô gái trông thuộc loại hippy bụi đời. Anh nắm tay cô ta và đi thẳng vào rạp, tôi không thấy anh ta mua vé và cũng không thấy ông soát vé nói gì. Có lẽ ông ta biết là lính "Lôi Hổ" thuộc thứ dữ nên không dám nói gì.
Sau này có rạp mini Rex A và B, hai rạp này nhỏ nhưng thuộc hạng sang, máy lạnh để tối đa, giá vé khoảng 400 hay 500 đồng. Tôi nhớ đặc biệt là ghế ngồi là ghế da rộng đủ cho hai người – lý tường là cho đôi tình nhân ngồi với nhau. Tôi đã xem phim La Valse Dans L’ombre ở đây với một người bạn trước khi anh đi trình diện ở Trung Tâm 3. Ở Mỹ, tôi đã đi xem ciné ở nhiều rạp nhưng chưa có rạp nào có thể nói sang bằng mini Rex ở Sài Gòn. Tuy vậy, một điều tôi thích là ở Mỹ tất cả những restroom đều ở ngoài chứ không ở trong chỗ khán giả đang coi phim nên mỗi khi một người cần đi restroom, những khán giả khác không bị phiền lụy. Ở Sài Gòn, khi một người đi restroom thì phải đi xuống phía trước nơi restroom của đàn ông và đàn bà ở hai bên của màn ảnh. Mỗi lần cửa restroom mở ra, ánh đèn từ phía trong lại loé ra ngoài làm giảm sự chú ý của khán giả lúc xem phim.
Tôi muốn viết thêm về những rạp ciné hay theater ở Mỹ đều chiếu phim theo xuất hay giờ chứ không chiếu thường trực và không bao giờ bán vé quá lố nên không bao giờ có vấn đề mua vé xong vào rạp không có chỗ ngồi phải đứng như ở Sài Gòn. Tôi nhớ ngay cả rạp Rex là rạp thuộc hạng khá ở Sài Gòn vậy mà mỗi khi có phim hay là thiên hạ dành giựt nhau để mua vé ở quầy có khi mua được vé xong là người tơi tả và mất cả đồng hồ nữa vì dân ta không chịu sắp hàng cho có trật tự. Có lần tôi mua vé để xem phim Daring Doberman thật vất vả, lúc vô trong rạp mọi người đứng đầy rạp ở giữa những hàng ghế cũng vì chủ rạp bán vé quá tải. Ở Mỹ bây giờ mua vé online không phải sắp hàng, tới nơi chỉ đưa smartphone ra là xong.
FB



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Mar/2022 lúc 1:22pm

Đài truyền hình số 9

Vưu Văn Tâm

Đài truyền hình Việt-Nam (THVN) hay đài truyền hình Sài-Gòn được phát hình trên băng tần số 9 nên thường được gọi là đài truyền hình số 9 hay nôm na là đài số 9 để dễ dàng phân biệt với đài truyền hình dành cho quân đội Hoa-Kỳ phát hình ở băng tần số 11 (AFVN, Armed Forces Vietnam Network). Đài THVN phát hình những chương trình thuần túy Việt-Nam, đài AFVN phát hình những bộ phim truyền hình của Hoa-Kỳ và luôn thu hút đông đảo khán giả lớn nhỏ, từ giới trí thức cho đến lớp bình dân.







Thoạt tiên, trụ sở thu hình dùng chung cơ sở của Trung tâm Điện ảnh Quốc gia trên đường Thi Sách. Không lâu sau đó, nhà đài được chuyển về nơi bề thế hơn trên đường Hồng Thập Tự. Chương trình ngày càng được cải tiến phong phú hơn, và được phát hình mỗi ngày từ sáu giờ chiều đến mười hai giờ đêm với nhiều tiết mục dành cho thiếu nhi, người lớn bên cạnh những tin tức, phóng sự trong ngày.

Ở lứa tuổi con nít, thằng Tám say mê đắm đuối mấy chương trình dành cho thiếu nhi như ban Tuổi Xanh, chương trình Lê Văn Khoa, Xuân Phát, ban thiếu nhi Hoa Thế Hệ, ban Trường Giang hay chương trình Đố vui để học vào mỗi chiều chủ nhật. Tám cũng ham coi ké mấy chương trình dành cho người lớn như ca nhạc, cải lương, thoại kịch được chiếu luân phiên trên sóng truyền hình. Thằng Thi ở lớp 4/10 có mái tóc quăn tít và dựng đứng như mồng con gà trống, cộng thêm cái mỏ dày hay chu ra nhưng nhìn hết sức có duyên, nhất là mỗi khi nó mang vô lớp một xấp tờ chương trình phát hình (khổ A3) của tuần tới phát cho bạn bè coi lấy thảo.















Mấy cô, mấy chị mê mệt mấy vở thoại kịch có nội dung lâm ly, bi đát của ban Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng với sự góp mặt của hầu hết nghệ sĩ, kịch sĩ nổi tiếng. Các mẹ, các bà khoái coi những tuồng cải lương hồ quảng của các gánh Minh Tơ, Huỳnh Long, v.v.. vào mỗi tối thứ tư và loại tuồng tích xã hội hay hương xa của mấy gánh hát đại ban như Thanh Minh Thanh Nga, Dạ Lý Hương, Kim Chung, v.v.. được phát hình vào mỗi tối thứ bảy cuối tuần. Những chương trình ca nhạc Hoàng Thi Thơ, Tiếng hát đôi mươi của ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Tiếng Tơ Đồng (mà mấy đứa trong xóm hay nghịch ngợm gọi là Tiếng tơ già), Phạm Mạnh Cương, v.v.. có riêng rẽ một lớp khán giả yêu chuộng.







Đám nhóc tì đam mê mấy bộ phim ngoại quốc dài đăng đẳng như “The wild wild west” (mà tụi nhỏ hay phiên âm thành “Quai quét”), “lỗ tai lừa” (Star Trek), “Astro boy”, “Batman”, v.v.. Chúng gặp nhau sau mỗi buổi cơm chiều, thường kháo nhau nội dung, diễn biến của những thước phim tối hôm qua được xem trên ti-vi và mơ ước sau này, khi lớn lên được làm anh hùng trừ gian, diệt bạo. Có đứa khéo tay, chỉ với vài nét phấn trắng đã tạo nên trên nền ciment hình ảnh các nhân vật Astro boy, Batman một cách sống động và tài tình.

Những chương trình văn nghệ thường kéo dài đến khuya lơ, khuya lắc vì bị gián đoạn bởi những tiết mục thông báo tin tức, bình luận, phóng sự đặc biệt, v.v.. Đội ngũ nam, nữ xướng ngôn viên với gương mặt sáng sủa, nhiều thiện cảm, sở hữu một giọng nói dễ nghe, dễ hiểu và rất dễ đi vào lòng người. Tám vẫn nhớ cô Mai Liên (*) thường đọc mục tin tức lúc tám giờ tối và chú Trần Nam (*) đảm trách chương trình bình luận mỗi đêm lúc chín giờ. Giọng nói của chú ấm áp, truyền cảm và diễn tả cảm xúc theo nội dung từng bản tin. May mắn là cho đến bây giờ mọi người vẫn có thể nghe được giọng đọc của chú trong chương trình phóng sự “ngày quân lực VNCH, 19 tháng 6 năm 1973” trên đĩa hình (DVD) hay trên hệ thống youtube.

Ngày còn ấu thơ, Tám rất thích nghe giọng nói của chú và mơ ước sau này được giống như chú, được đọc những bản tin trên đài vô tuyến truyền hình hay được góp tiếng trên làn sóng điện. Nhưng dòng thời gian chuyển hướng, chiến cuộc xoay chiều đã làm đổi thay mọi thứ, ít ra là cái ước mơ nhỏ bé của thằng bé lên mười đã không bao giờ trở thành hiện thực.

Tám còn nhớ như in hình ảnh mở đầu chương trình “Quê hương mến yêu” của thi sĩ Bàng Bá Lân là một dòng sông uốn khúc rợp bóng dừa xanh, có lẽ nước chảy ngược hướng nên cô lái đò đã cố công chống chèo mà chưa đi hết khúc sông. Nền nhạc của đoạn phim là tiếng hát cô Thái Thanh thổn thức bài ca “Tình hoài hương” của nhạc sĩ Phạm Duy, “quê hương tôi có con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên đồng ruộng vắn” ..

Thằng bé yêu thích văn chương, đam mê sách vở, thường được thầy cô gọi lên đọc những đoạn văn hay những bài thơ cho cả lớp ngày nào, giờ đây tóc đã điểm sương và bước chân đã đi xa vùng quê hương nhiều kỷ niệm dấu yêu. Dẫu biết thời gian không thể trở lại và không bao giờ là liều thuốc tiên như nhiều người vẫn bảo, nhưng sao Tám cứ luyến lưu hoài ảnh hình những ngày xa xưa đó, những con đường Sài-Gòn rợp lá me bay và những vòng xe học trò lăn tròn trên con dốc cũ.

13.12.2021

(*) Cô Mai Liên đứng ở bìa phải, chú Trần Nam đội khăn đóng, đứng thứ sáu trong hình đính kèm, đếm từ bên phải qua.



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Mar/2022 lúc 12:27am
https://huongduongtxd.com/buudiensaigon.pdf - Bưu Diện Saigon -Trang Nguyên     <<<<<
SAIGON%201955%20-%20LA%20GRANDE%20POSTE%20-%20Bưu%20điện%20trung%20ương%20Saigon…%20|%20Flickr


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Mar/2022 lúc 12:30am
https://huongduongtxd.com/vemienquakhu.pdf - Mời Người Lên Xe Về Miền Quá Khứ    <<<<<

Mời%20người%20lên%20xe,%20về%20miền%20quá%20khứ”%20–%20Phần%201:%20Sài%20Gòn%20năm%201955%20-%20Nhạc%20Vàng%20%20Bolero


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Mar/2022 lúc 11:54am

Xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho năm 1958

(chuyện hoài niệm, nên đọc chậm)

Kinh Bồng (Trần Công Bình)

Năm đó tôi chuẩn bị vào lớp Năm (*), dịp hè ngoại lên Sài gòn đón tôi về Mỹ Tho, đi bằng xe lửa.

Cái rộn rạo háo hức của cậu bé sáu tuổi, tò mò, lạ lẫm với chiếc xe lửa được đi lần đầu tiên trong đời làm tôi cứ ngủ chập chờn, chỉ  mong sao cho màn đêm qua, trời mau  sáng. Khi bên ngoài cửa sổ  còn lờ mờ, ngoại đã gọi tôi dậy, một tay xách nãi, một tay nắm chặt tay tôi đi về hướng Chợ An Đông.

Đến khoảng đất trống cách xa nhà lồng chợ, ngoại ngồi chồm hổm xuống bãi cỏ, vạch giỏ  lấy miếng cau gói trong miếng lá trầu nhét vào cái ống ngoái têm trầu để thưởng thức cử trầu sáng. Tôi  nhìn lại đoạn đường rầy mình mới chạy lon ton vượt qua. Nó im lặng, thẳng băng, sắt lạnh như hai con rắn dài chạy mút từ phía Sài gòn đến hướng Chợ Lớn, rồi đi đâu nữa không biết. Nhưng hôm nay, trên toa xe, tôi sẽ biết nó chạy đi đâu, để rốt cuộc sẽ về Chợ Mỹ (Mỹ Tho) như ngoại tôi nói.

Ngoại tôi chưa kịp nhai hết miếng trầu thì tiếng còi tàu rú lên như bò rống kéo dài liên tục ba hồi, xé tan cái không khí yên tĩnh của buổi bình minh. Ngoại tôi nhổ toẹt cổ trầu, móc túi lấy cái khăn nỉ đỏ chùi miệng, tiếp tục nắm chặt tay tôi, chuẩn bị lên tàu.

Mấy bà bạn hàng, khách thường xuyên đi tàu đã nhanh chóng đứng đợi thành hàng ngang cách đường rầy cả thước. Ngoại tôi cẩn thận, dẫn tôi đứng sau họ một đổi để giữ an toàn. Từ phía Sài Gòn, cái đầu máy đen ngòm, ống khói tàu đen kịch, nhả từng ngụm khói , trong khi nguyên một con tàu, như con rồng khổng lồ , đen thui, xình xịt chạy đến. Thét lên tiếng rống cuối cùng, xe lửa từ từ ngừng lại.Khi cái thanh quây dính từ bánh lớn của  đầu máy xe lửa với bánh nhỏ ngừng hẳn, hành khách lần lượt lên tàu.

Ngoại tôi bợ  tôi ngang hông, giữ lưng, đưa từng bước để tôi đi lên bậc thang , xong kiếm một chỗ trống trên dãy ghế cây kéo tôi ngồi xuống. Tàu chưa chạy, nhưng tôi đã không chịu ngồi yên nhìn vào bên trong tàu mà  quỳ lên ghế, ló mặt ra cửa sổ dòm cảnh trí bên ngoài. Với tư thế đó, tôi miệt mài với khung cảnh bên đường trong suốt chuyến hành trình…

Cảm giác ấn tượng nhất trong ký ức tuổi thơ đó là lúc tàu đi qua cầu Bến Lức. Gần đến cầu, tàu đi hơi chậm lại một chút như “lấy hơi” để lên dốc cầu, sau đó còi thét lên inh ỏi, rồi thì xình xịt, xình xịt , gập ghềnh vang tiếng kêu theo từng nấc của thanh ray trên cầu. Ôi, cái nhịp điệu đều đặn ấy sao mà lạ lẫm, nó ăn sâu vào  bộ óc non nớt của tôi cho đến ngày nay. Chạy ngược với toa xe lửa là các thanh dầm cầu sắt với các bù lon to tổ bố vút qua cửa sổ. Còn bên dưới tàu thì chiếc cầu trống huơ trống hoắc, chỉ có hai đường ray chạy dọc, nhìn xuống thấy cả lòng sông sâu thẳm đục ngầu phù sa …

Bến cuối của xe lửa là Chợ Mỹ Tho. Đến chợ, tôi được ngoại dẫn bộ đi ra Cầu Quay ăn hủ tiếu Mỹ Tho sát cầu, rồi mới lại bến xe ngựa đi về Chợ Gạo,nhà của ngoại.

(*): lớp 1 bây giờ

Share this:



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Mar/2022 lúc 8:22am

Đakao Ngày Tháng Cũ: Xóm Faucault

Lâm Vĩnh-Thế

    Tôi sinh ra tại Nhà Bảo Sanh của Bác sĩ Khải (mà người dân địa phương lúc đó gọi là Nhà thương Ông Khải) tại Bà Chiểu (xã Bình Hòa, Gia Định) nhưng sau một tuần thì Ba tôi rước hai mẹ con tôi về nhà tại Đakao.  Do đó, tôi lớn lên tại Sài Gòn và sống trọn 40 năm (1941-1981) trong khu Đakao trước khi rời Việt Nam đi định cư tại Canada vào tháng 9-1981.  Bước vào tuổi 80 này, rất may mắn, trí nhớ tôi vẫn còn khá tốt và bài viết này được viết ra để chia xẻ với các bạn những điều tôi còn nhớ được về khu Đakao của những ngày tháng cũ, của các thập niên 1940-1950-1960.

Nguồn%20gốc%20tên%20gọi%20địa%20danh%20ở%20Sài%20Gòn:%20Bí%20ẩn%20tên%20gọi%20Dakao

Bản Đồ Khu Đakao Trước 1975

    Ngôi nhà nơi tôi đã sống và lớn lên mang số 54 của con đường nhỏ và ngắn có tên Pháp là Rue Faucault.  Sau năm 1954, trong thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, tên đường được đổi sang tên Việt là đường Nguyễn Phi Khanh, và tên đường này vẫn còn được giữ nguyên cho đến ngày hôm nay.  Con đường này, như các bạn thấy trong bản đồ bên trên, đi từ ngã ba của hai con đường chánh của khu Đakao là đường Đinh Tiên Hoàng (trước 1954 có tên Pháp là Albert 1er) và đường Hiền Vương (trước 1954 có tên Pháp là Mayer) cho đến ngã tư, nơi gặp nhau của 3 con đường là đường Trần Quang Khải (trước 1954 có tên Pháp là Paul Bert), đường Trần Khắc Chân (trước 1954 có tên Pháp là Général Mangin), và đường Trần Văn Thạch (trước 1954 có tên Pháp là V***oigne).  Các con đường trong khu Đakao đã được tôi kể lại khá tỉ mỉ trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng, ở Phần 1 – Những con đường ở Đakao, từ trang 6 đến trang 46.[1] 



Đường Nguyễn Phi Khanh chỉ dài độ 500-600 mét và gồm phần lớn là nhà ở.  Số nhà trên đường Nguyễn Phi Khanh được khởi đầu từ phía ngã ba với đường Đinh Tiên Hoàng và đường Hiền Vương (hay phía Đakao), bên tay phải là số chẳng và bên tay trái là số lẻ, vì vậy có thể coi phía đó như là đầu đường, và phía ngã tư với các đường Trần Khắc Chân, Trần Quang Khải và Trần Văn Thạch (phía Tân Định) là cuối đường.  

Trọn con đường chỉ có chừng 3-4 căn nhà được sử dụng làm nơi làm ăn buôn bán mà thôi.  Từ phía đầu đường, căn nhà đầu tiên bên tay trái là tiệm cà phê Thái Chi nổi tiếng của khu Đakao (tiệm này chỉ có mặt từ sau năm 1954 vì hai vợ chồng chủ nhân là người Bắc Di Cư).  Ngó xéo qua bên kia đường là một tiệm bán mì, hủ tiếu của người Hoa (không có bảng hiệu).  Cách đó độ 30-40 m, bên kia đường là nhà của Cụ Ba La (một người Bắc Di Cư) có gắn một tấm bảng nhỏ có ghi hàng chữ như sau:  Ba La – Tử Vi, Bói Dịch.  Qua khỏi ngã ba với đường Lý Văn Phức (trước 1954 là đường Lesèble) độ chừng 50 mét, cũng bên tay trái là tiệm Ô Mai Bắc Việt, ngó xéo qua phía bên kia đường (về hướng cuối đường) độ chừng 10 mét là tiêm cơm tấm cũng rất nổi tiếng của Bà Ba Liên (cũng không có bảng hiệu), và sau hết, qua khỏi ngã ba với đường Huyền Quan, cũng bên tay tái, gần cuối đường là phòng mạch và hốt thuốc Bắc của Y Sĩ Điều.

    Giống như các con đường khác trong khu Đakao, đường Nguyễn Phi Khanh cũng có một số đường hẻm nhỏ, một số là hẻm cụt và một số giúp đi thông qua được đến các con đường nằm chung quanh là các đường Trần quang Khải, Lý Trần Quán (trước năm 1954, có tên Pháp là Barbier) và Lý Văn Phức.

    Từ đầu đường vào khoảng 40-50 m, phía bên tay phải, ngó xéo qua tiệm cà phê Thái Chi, là con hẻm đầu tiên, bề ngang rất hẹp, có lẻ độ chừng 1,5 m thôi.  Ở ngoài đầu đường hẻm nhỏ này, nhìn từ ngoài đường vào, bên tay phải là cái tiệm bán mì, hủ tiếu đã nói ở trên, mà bà con lối xóm thường gọi là tiệm Xẩm Mập vì bà chủ người Hoa tương đối mập mạp; bên tay trái là một căn nhà khá lớn, mặt tiền khá dài, và là một vựa bán sỉ gà vịt cho các bạn hàng của Chợ Đakao và Chợ Tân Định.  Đường hẻm này là một hẻm cụt, chỉ dài độ 20 m, bên trong chỉ có ba căn nhà nhỏ của ba gia đình người Hoa: 1) Chú Hải là thợ mộc, chuyên đóng bàn ghế; 2) Chú Chiêu có một xe bán nước ngọt;[2] và 3) Một chú có một xe mì bán dạo mà tôi không biết tên, chỉ gọi là Ba con Muối.[3]

    Đi thêm độ chừng 30-40 m về phía cuối đường, phía bên trái có một con hẻm cụt nữa.  Trong hẻm cụt này là một vài gia đình lao động nghèo người Việt mà tôi chỉ còn nhớ gia đình của Chú Hai Hòa thợ sơn.  Hàng năm, cứ đến gần Tết thì Mẹ tôi đều nhờ Chú đến quét nước vôi cho căn nhà của gia đình tôi.  Chú Hai Hòa có nhiều con trong đó có thằng Nghĩa cùng học chung với tôi tại Trường Nam Tiểu Học Đakao.  Đối diện bên kia đường cũng có một con hẻm nhỏ, bề ngang chỉ độ hơn 1 m thôi, cũng là hẻm cụt, trong đó chỉ có một căn nhà nhỏ mà chủ nhà có mở một lớp học cho các trẻ con trong xóm học để chuẩn bị xin vào Lớp Chót của hai Trường Tiểu Học Nam và Nữ của khu Đakao.  

Hẻm kế tiếp, cũng phía bên tay trái, là hẻm số 37, cũng là một hẻm cụt.  Hẻm này khá rộng, xe hơi có thể chạy vô được, mặt hẻm tráng xi măng rất tốt, bên trong hẻm có 2 dãy nhà đâu mặt nhau.  Tôi còn nhớ được một vài gia đình đã sống trong hẻm này: 1) nhà Thầy giáo (tôi không còn nhớ tên) dạy Lớp Nhứt B của Trường Nam Tiểu Học Đakao; 2) nhà gia đình anh Phan Thanh Liêm về sau là một Giáo sư Đệ nhị Cấp dạy môn Triết; và 3) nhà gia đình Giáo sư Lương Lê Đồng, Hiệu Trưởng Trường Trung Tiểu Học Tư Thục Huỳnh Khương Ninh nổi tiếng của khu Đakao.  (Sau ngày 30-4-1975, Giáo sư Đồng trở thành vị Giám Đốc đầu tiên của Sở Giáo Dục Thành phố ************).

Cách đó không xa lắm, là hẻm số 45.  Hẻm này khá rộng, và có lẽ là con hẻm quan trọng nhứt của đường Nguyễn Phi Khanh vì có nhiều chi tiết rất đáng nhớ.  Vào trong độ 15 m thì hẻm chia ra hai nhánh; một nhánh là một ngõ cụt, đi thẳng vào sâu thêm độ 20 m nữa thì hết; một nhánh rẽ phía tay phải, nhánh này khá hẹp, đi quanh co và sau cùng thông ra được một con hẻm khác rộng hơn nhiều dẫn ra đường Lý Văn Phức, đối diện với cổng sau của Đất Thánh Chà (sang thập niên 1950, Đất Thánh Chà bị giải tỏa và trở thành cư xá cho nhân viên Sở Vệ Sinh của Thành phố Sài Gòn).  Trong phần đầu của hẻm này, trước khi đến chỗ chia làm hai nhánh, phía tay trái là bức tường bên hông của ngôi biệt thư lớn số 43, phía tay phải có một một dãy nhà nhỏ độ 3-4 căn, trong đó có một căn là của gia đình Anh Nê.  Anh Nê là một người Pháp lai tên là René Robert, có vợ Việt và đã quyết định ở lại Việt Nam sau khi Quân Đội Viễn Chinh Pháp rút về nước, và đổi sang tên Việt là Trần Văn Nên, nhưng bà con lối xóm cứ quen gọi là Anh Nê.  Anh là một vận động viên xe đạp nổi tiếng, đã từng nắm giữ chức vô địch về môn đua nước rút trong một thời gian.  Trong nhánh ngõ cụt có hai gia đình người Bắc, một gia đình chuyên làm các đồ hàng mã, gia đình kia thì có một người con trai về sau là một nam ca sĩ nhi đồng rất nổi danh mà báo chí Sài Gòn lúc đó gọi là thần đồng Quốc Thắng.[4] Ngay tại chỗ ngõ hẻm này chia làm hai nhánh có một ngôi nhà khá lớn của một gia đình rất đông anh em, trong đó có 2 người con trai rất nổi tiếng: 1) Giáo Sư Cỗ Tấn Luông của Trường Trung Tiểu Học Tư Thục Huỳnh Khương Ninh được mọi người trong xóm kính mến, và 2) Đại Tá Cỗ Tấn Tinh Châu, một sĩ quan cao cấp của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến rất nổi tiếng, đã từng là Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 (1963), với chức vụ sau cùng là Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát (tháng 4-1975).[5, 6] 

Cách hẻm số 45 độ hơn 20 m, phía bên kia đường, có một con hẻm nhỏ giữa hai căn nhà số 48 và 50.  Hẻm này chạy dài suốt bên hông của căn phố số 50, và ăn thông sang được đường Paul Bert.  Sang khoảng đầu thập niên 1950, những gia đình sống trong các căn phố bên đường Paul Bert đã cho xây một bức tường gạch cao ngăn không cho qua lại nữa, và con hẻm này biến thành một hẻm cụt, và đương nhiên trở thành một phần đất của căn nhà số 50.  Sang cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, phần đất đó được làm thành một phòng để cho gia đình đứa con trai út trú ngụ.

Tiếp tục đi về hướng cuối đường thêm một khoảng độ gần 100 m, đối diện với ngã ba với đường Lesèble thì có một đường hẻm nữa, bề ngang độ hơn 2 m, ăn thông qua đến đường Paul Bert.  Lúc còn nhỏ, khi Mẹ tôi sai tôi đi công việc gì bên đường Paul Bert thì tôi thường dùng hẻm này để đi cho mau.  Hẻm này cũng không còn nữa từ giữa thập niên 1950 vì đã có một căn nhà được xây lên ngay tại đó.  Cách đó độ 50 m, cùng một bên đường cũng, có một con hẻm tương tư, cũng thông qua đường Paul Bert và sau đó cũng bị xây tường ngăn lại.  Bên kia đường, kế bên tiệm Ô Mai Bắc Việt cũng có một con hẻm cụt rất nhỏ.  

Đối diện với tiệm cơm tấm của Bà Ba Liên cũng có một hẻm khá rộng nhưng là hẻm cụt.  Trong hẻm này có một gia đình của một bà quả phụ có ba người con, một người con trai lớn, và hai người con gái nhỏ.  Tôi không còn nhớ gì nhiều về hai người con gái đó, nhưng tôi không bao giờ quên người con trai lớn.  Đó là Anh Nhứt, Nguyễn Văn Nhứt, người hiền lành, đẹp trai, cao lớn, mãnh khảnh, học rất giỏi, tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Sài Gòn vào năm 1965.  Nhưng không ngờ Anh lại quá vắn số, vừa ra trường, và, theo luật thời bấy giờ, bị trưng tập vào quân đội (Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Quân Đoàn III) với cấp bậc Trung Úy và chỉ một thời gian ngắn sau đó thì tử trận, cùng với Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn, trong một trận phục kích ở Dầu Tiếng vào tháng 10 năm 1965.[7, 8, 9] Cả xóm Nguyễn Phi Khanh đều xúc động nghe tin Anh tử trân, nhứt là thương cảm cho bà mẹ góa của Anh đã phải chịu thêm cái đau đớn mất đứa con trai duy nhứt.  

Con hẻm cuối cùng của đường Faucault, cũng năm bên tay trái, cách hẻm vừa nói trên độ 50 m là con hẻm rất nhỏ, đi vòng vo và sau cùng nối vào một con hẻm khác rộng hơn ăn thông ra đường Barbier.  Ngay đầu con hẻm rộng của đường Barbier này có một ngôi biệt thự khá lớn về sau, khoảng cuối thập niên 1950 hay đầu thập niên 1960, trở thành Trường Mẫu Giáo Mạnh Mẫu khá nổi tiếng.

    Con đường Faucault tuy nhỏ và ngắn, xóm Faucault tuy nhỏ bé nhưng lại là một phần của khu Đakao vốn là một trung tâm văn hóa khá quan trọng của thành phố Sài Gòn mang nhiều màu sắc có thể gọi là “địa linh nhơn kiệt.”

    Trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng, phần Đakao: Một Trung Tâm Văn Hóa, các trang 122-127, tôi đã đề cập đến các ngôi đình trong khu Đakao [10], trong đó có Đình Sơn Trà, nằm gần cuối đường Faucault, ngay ngã ba với Đường Huyền Quan, (trước 1954, đường Huyền Quan có tên Pháp là Génibrel), một con đường rất nhỏ, và rất ngắn, nối liền hai con đường Faucault và Barbier.



    Sau đây là phần tôi ghi lại kỷ niệm tuổi thơ của tôi về Đình Sơn Trà trong cuốn sách Đakao Trong Tâm Tưởng:

“Trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngay ngã ba với đường Huyền Quan, gần ra tới ngã ba với đường Trần Quang Khải, cũng có một ngôi đình lớn là đình Sơn Trà.  Ðình nầy chỉ nhỏ hơn đình Nam Chơn thôi, phía trước và dọc theo cạnh đường Huyền Quan là hàng rào cây sống.  Trước mặt tiền của điện thờ cũng là một sân đất lớn và, cũng như đình Nam Chơn, đây là nơi dựng rạp trong các dịp cúng kỳ yên.  Chính tại ngôi đình nầy tôi đã được mẹ tôi cho đi theo để coi những vở tuồng hát bội nổi tiếng của thời đó như tuồng San Hậu, Huê Dung Ðạo, Thần Nữ Dưng Ngủ Linh Kỳ, Trãm Trịnh Ân…, với các cô đào hát bội một thời vang bóng như Cô Năm Ðồ, Cô Cao Long Ngà … Tôi còn nhớ mãi cái không khí ngột ngạt của các đêm hát bội tại đây.  Rạp bằng vải bố, che không cao lắm, bên trong rạp rất chật, và nóng bức.  Sân khấu bằng gổ cũng không cao lắm, và gần như lúc nào cách bài trí cũng giống nhau, dầu là cảnh nhà dân, nhà quan, hay cung vua, cũng chỉ thấy có một cái bàn với hai cái ghế để ở hai bên, cả bàn và ghế đều có tấm phủ mầu sắc đẹp.  Ngay đưới sân khấu, chỉ có hai hay ba hàng đầu là để ghế, các hàng còn lại toàn là băng gổ.  Ngay trước cái ghế ở chính giữa hàng ghế đầu có để một cái trống lớn, và người ngồi ở cái ghế đó thỉnh thoảng cầm cây chầu đánh vào trống mấy cái thùng thùng.  Về sau lớn lên tôi mới biết đó là một vị chức sắc trong đình có nhiệm vụ “cầm chầu” để làm cái việc đánh giá cách trình diễn của các nghệ sĩ trên sân khấu.  Thỉnh thoảng người đi xem cũng tham gia vào việc tán thưởng các nghệ sĩ bằng tiền, họ kẹp tiền vào các cây quạt xếp bằng giấy và liệng quạt lên sân khấu.  Ðoàn hát luôn luôn có người phụ trách đi lượm các cây quạt, gở tiền ra và mang quạt không trả lại cho khán giả.” [11]

    Ngoài tính cách “địa linh” của ngôi đình Sơn Trà cổ kính (có lẽ đã được xây dựng từ đầu thế kỳ 20, đến nay đã có mặt trên dưới một trăm năm), xóm Faucault lại cũng là một vùng đất tương đối có thể gọi là “nhơn kiệt” vì đã sản sinh ra một số nhân vật có tiếng tăm trong lịch sư cận và hiện đại của Miền Nam, cũng như một số khá đông các vị khoa bảng tập trung trong một khu đất thật nhỏ trong xóm.

    Đối diện với căn nhà nơi gia đình tôi sinh sống (số 54) là một căn nhà xưa rất lớn, mang số 47.  Đó là nhà từ đường của gia đình ông Nguyễn Văn Của.  Ông Của là một nhà tư bản Việt có quốc tịch Pháp, chủ nhân nhà in và nhà xuất bản lớn tại Sài Gòn là Imprimerie de l’Indochine (1917-1944), và về sau là Giám Đốc – Chủ Nhơn (Directeur – Propriétaire) của tờ nhựt báo tiếng Việt lớn và sống lâu năm nhứt của Sài Gòn thời bấy giờ (1907-1944) là tờ Lục Tỉnh Tân Văn.[12] Người con trai trưởng của ông Của là ông Nguyễn Văn Xuân, vì có quốc tịch Pháp, đã được gởi đi du học Pháp từ nhỏ, tốt nghiệp Đại Học Bách Khoa nổi tiếng của Pháp (Ecole Polytechnique), gia nhập quân đội Pháp, và trở thành sĩ quan gốc Việt đầu tiên thăng cấp Thiếu Tướng (Général de Brigade, tướng hai sao) vào năm 1947,[13] với cấp bậc sau cùng là Trung Tướng (Général de Division, tướng ba sao) từ ngày 4-5-1949 [14]  Ông là vị Thủ Tướng đầu tiên của Chính phủ Trung Ương Lâm Thời được thành lập vào ngày 2-6-1948 [15] với cả quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ, và quốc ca (là bản Thanh Niên Hành Khúc, gốc là bản Tiếng Gọi Sinh Viên do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác từ năm 1941) được các chính phủ Miền Nam sử dụng cho đến ngày 30-4-1975. 

https://petruskyaus.files.wordpress.com/2022/03/dakao-ngay-thang-cu-04.jpg">

Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân (1892-1989)

    Hai mươi năm sau, cũng có dính líu đến ngôi nhà số 47 này lại là một vị tướng lãnh nổi tiếng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).  Một người trong dòng họ của ông Của, được cử làm quản gia, trông nom ngôi nhà từ đường này, có một người con gái lập gia đình với một sĩ quan QLVNCH, tên Nguyễn Viết Thanh, lúc đó còn mang cấp bậc Đại Úy.  Năm 1968, vị Đai Úy đó nay là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh Quân Đoàn IV.  Ngày 2-5-1970, lúc 1 giờ 40 trưa, trong khi đang thị sát mặt trận tại biên giới Việt-Miên, ông đã tử nạn khi phi cơ trực thăng của ông đụng với một trực thăng Cobra của quân đội Mỹ.  Ông được truy thăng lên Trung Tướng.  Tướng Thanh chính là vị tướng đứng hàng thứ ba trong bốn vị tướng lãnh nổi tiếng thanh liêm của VNCH: “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng.” [16] 

https://petruskyaus.files.wordpress.com/2022/03/dakao-ngay-thang-cu-05.jpg">

Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh Quân Đoàn IV (1931-1970)

    Cũng chính ngay kế bên ngôi nhà số 47 này, cả 2 hai bên đường, trong một khoảng diện tích độ chừng vài chục mét vuông thôi, phía bên trái là đến căn nhà mang số 51, và bên phải là đến căn biệt thự mang số 56, trong hai thập niên 1950 và 1960 đã có đến 6 vị đỗ Tiến sĩ, một mật độ về khoa bảng có thể nói là vô cùng hiếm có cho bất cứ vùng đất nào trong cả nước.  

Nhớ lại Khoa Thi Hội năm Mậu Tuất (1898), đời Vua Thành Thái, có 5 thí sinh của tỉnh Quảng Nam, cùng đậu Tiến sĩ, khiến nhà vua đã khen và ban tặng tấm biển với 4 chữ Ngũ Phụng Tề Phi [17] (có nghĩa là Năm chim phụng cùng bay).  Đó là các cụ Phạm Liệu (1873-1937), cụ Phan Quang (1873-1938), cụ Phạm Tuấn (1852-1917), cụ Ngô Chuân (1873-1899), và cụ Dương Hiển Tiến (1866-1907), nhưng đó là thành tích của cả một vùng đất rất rộng là tỉnh Quảng Nam.  Trong trường hợp này, chúng ta có được 6 vị Tiến sĩ trong một khu xóm chỉ rộng vài chục mét vuông thôi.  Căn nhà số 51 của một gia đình họ Ngô có được 3 vị Tiến sĩ:  1) Người con trai trưởng là Tiến sĩ Y Khoa Ngô Thiên Khai; 2) Người con gái lớn là một Tiến sĩ Nha Khoa, tôi không còn nhớ tên, và 3) Người con trai út là Tiến Sĩ Y Khoa Ngô Đình Chiến (bạn học cùng khóa với Trung Úy Nguyễn Văn Nhứt đã đề cập bên trên).  Ngôi nhà số 56, của Dược Sĩ Bùi Văn Sách là chủ nhân của nhà thuốc Tây Diệu Tâm tại trung tâm Sài Gòn, ngay ngã tư đường Bonard (sau 1954 là đường Lê Lợi) và đường Charles de Gaulle (sau 1954 là đường Công Lý), thì có được hai người con gái lớn đều là Tiến sĩ Y Khoa.  Và sau hết là ngôi nhà số 54, tức là nhà của gia đình tôi, thì có Anh Tư của tôi, Anh Lâm Vĩnh Tế, đậu Tiến sĩ về Hóa Lý (Ph. D. in Physical Chemistry) tại Đại Học Montréal,thuộc tỉnh bang Québec, Canada vào năm 1967.  

    Kể rộng thêm ra về con người của xóm Faucault, thì ngoài các vị đã kể bên trên, còn phải kể đến vài người sau đây:

  • Ngôi biệt thự số 36, ngó ngang qua con hẽm số 37 đã kể bên trên, là nhà của một vị Tiến sĩ Y Khoa là Bác sĩ Nguyễn Văn Đính, về sau cũng bị trưng tập vào quân đội, và trở thành Trung Tá Y Sĩ của Hải Quân QLVNCH.; phu nhân của Trung Tá Đính là một Giáo sư của Đại Học Khoa Học Sài Gòn
  • Trên đoạn đường Faucault, từ đầu đường đi vào khoảng độ hơn 100 m, phía bên số chẳng, là nhà của ông Lê Văn Tịnh, Thủ môn nổi tiếng của Đội Tuyển Bóng Tròn Miền Nam thời Pháp thuộc.  Chính tên của ông về sau đã được sử dụng như một tỉnh từ hay trạng từ để chỉ những thủ môn xuất sắc của các đội bóng tròn ở trong Nam: “tay đó giữ guôn “tịnh” lắm đó.”  

    Tóm tắt lại, xóm Faucault nhỏ bé của tôi đã cống hiến cho Miền Nam một số công dân với những đóng góp trong các lãnh vực sau đây: 

  • Về chính trị: 1 vị Thủ Tướng Chính phủ
  • Về quân sự: 2 vị Trung Tướng, 1 vị Đại Tá (TQLC), 1 vị Trung Tá (Hải Quân)
  • Về khoa học: 8 vị Tiến sĩ: 6 Y Khoa, 1 Nha Khoa, 1 Hóa Học
  • Về giáo dục: 1 Giáo sư Đại học, và 3 Giáo sư Trung học
  • Về thể thao: 2 vận động viên nổi tiếng: 1 bóng tròn, và 1 xe đạp

Thay Lời Kết:

    Xóm Faucault của tôi thời tôi còn nhỏ cho đến tuổi trưởng thành nay không còn nữa.  Năm 2015, tôi có dịp về thăm lại quê hương, trong thời gian ở Sài Gòn, tôi thuê phòng tại một khách sạn nhỏ trên đường Đặng Dung, nhờ đó, tôi đã có được cơ hội đi bộ một vòng khá lớn, mất khoảng gần 2 giờ đồng hồ trong khu Tân Định – Đakao, qua các con đường Đặng Dung, Trần Quang Khải, Nguyễn Phi Khanh, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Huy Tự (Chợ Đa Kao), Phạm Đăng Hưng, Phan Đình Phùng, và sau cùng là Hai Bà Trưng; sau khi qua khỏi Chợ Tân Định, tôi quẹo phải vào đường Bà Lê Chân, ra lại đường Trần Quang Khải và trở về đường Đặng Dung.  Tôi đã đi bộ suốt con đường Nguyễn Phi Khanh (tức là đường Faucault cũ ngày xưa), từ cuối đường đến tận đầu đường, đi thật chậm để nhìn cho thật kỷ nhà cửa hai bên đường, và tôi đã cảm thấy thật buồn vì gần như không còn nhận ra được căn nhà nào của những thập niên 1940-1950-1960 nữa hết, ngay cả ngôi nhà số 54, nơi tôi đã sống 40 năm từ khi sinh ra năm 1941 cho đến khi rời Việt Nam đi định cư tại Canada năm 1981, cũng đã thay đổi hoàn toàn khiến tôi không còn nhận ra được nữa.  Không phải chỉ có đường Nguyễn Phi Khanh đã thay đổi, mà tất cả những con đường tôi đã đi qua kể trên, đều như vậy hết.

    Với thời gian, bất cứ ở quốc gia nào, các thành phố, các thị trấn, các khu phố, đều phải trải qua những thay đổi.  Đó là một quy luật tự nhiên, không thể tránh được, của sự phát triển về mọi mặt, nhứt là về kinh tế, của các đô thị.  Điều đáng buồn là tại Việt Nam, tai Sài Gòn, hiện nay người ta chỉ nghĩ đến những cái lợi trước mắt về kinh tế, và hoàn toàn không đếm xỉa gì đến các giá trị lịch sử và văn hóa của các kiến trúc cổ kính, đặc biệt là các ngôi đình.  Trong khu Đakao, xóm Faucault của tôi, Đình Sơn Trà, cùng với một số ngôi đình khác trong thành phố, đang trở thành nạn nhân của sự phát triển kiểu bừa bãi đó, như trong bài viết sau đây đã nói khá rõ:

“Là nơi linh thiêng, nhưng hiện nay nhiều ngôi đình, miếu hàng trăm năm tuổi ở TP HCM đang bị “xà xẻo” để làm nơi kinh doanh, buôn bán.” [18]

và với tấm ảnh mới của Đình Sơn Trà như sau:

https://petruskyaus.files.wordpress.com/2022/03/dakao-ngay-thang-cu-06.jpg">

Đình Sơn Trà đã trở thành cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng

    Hình ảnh của xóm Faucault của tôi trong khu Đakao, của những ngày tháng cũ, nơi tôi đã sống nửa cuộc đời, với biết bao kỷ niệm vui buồn vẫn còn sống động trong ký ức của tôi, một lão niên đã bước vào tuổi “bát tuần,” đang thật sự phai tàn dần, và sẽ vĩnh viễn đi vào lịch sử của một vùng đất mang đậm tính văn hóa của Miền Nam. 

Viết xong ngày 15-12-2021

Hamilton, Ontario, Canada  

 GHI CHÚ:

  1. Vĩnh Nhơn.  Đakao trong tâm tưởng.  Hamilton, Ont.: Hòai Việt, 2008. 
  2. _________, sđd, tr. 67-70.
  3. _________, sđd, tr. 58-63.
  4. Tiểu sử về thần đồng Quốc Thắng (thập niên 50-60), tài liệu video, có thể truy cập tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.youtube.com/watch?v=LLTrq9PG8Ow - https://www.youtube.com/watch?v=LLTrq9PG8Ow
  5. Cỗ Tấn Tinh Châu.  Thủy Quân Lục Chiến VNCH bắt sống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa năm 1959, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://aihuubienhoa.com/a5183/tqlc-giu-hoang-sa-co-tan-linh-chau - https://aihuubienhoa.com/a5183/tqlc-giu-hoang-sa-co-tan-linh-chau
  6. Đại Tá Cỗ Tấn Tinh Châu, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu.com/dt_cotantinhchau.htm - http://www.generalhieu.com/dt_cotantinhchau.htm
  7. Trần Đoàn.  Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2 ND, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://svqy.org/2015/2-2015/ysitruong/ysitruong.html - https://svqy.org/2015/2-2015/ysitruong/ysitruong.html
  8. Lê Văn Châu.  Những quân y sĩ QLVNCH tử trận đầu tiên, tài liệu trực tuyến, có thể đọc tòan văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://dongsongcu.wordpress.com/2016/06/14/nhung-quan-y-si-qlvnch-tu-tran-dau-tien/ - https://dongsongcu.wordpress.com/2016/06/14/nhung-quan-y-si-qlvnch-tu-tran-dau-tien/
  9. Nguyễn Văn Khôi.  Đời lính chiến, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.tvvn.org/doi-linh-chien-nguyen-van-khoi/ - https://www.tvvn.org/doi-linh-chien-nguyen-van-khoi/
  10. Vĩnh Nhơn, sđd, tr. 121-127.
  11. Vĩnh Nhơn, sđd, tr. 123-124. 
  12. Lâm Vĩnh Thế.  Lục Tỉnh Tân Văn: một trong những tờ báo sống lâu nhứt của Nam Kỳ trước năm 1945, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:  https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/07/luc-tinhtan-van-mot-trongnhung-to-bao.html - https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/07/luc-tinhtan-van-mot-trongnhung-to-bao.html
  13. Nguyễn Văn Xuân (trung tướng), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Xu%C3%A2n_%28trung_t%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 - https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Xu%C3%A2n_(trung_t%C6%B0%E1%BB%9Bng)
  14. Đoàn Thêm.  Hai mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân.  Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản, [1979], tr. 54.
  15. Đoàn Thêm, sđd, tr. 44.
  16. Lâm Vĩnh Thế.  “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng,tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/12/nhut-thang-nhi-chinh-tam-thanh-tu-truong.html - https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2016/12/nhut-thang-nhi-chinh-tam-thanh-tu-truong.html
  17. Ngũ Phụng Tề Phi, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_Ph%E1%BB%A5ng_T%E1%BB%81_Phi - https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_Ph%E1%BB%A5ng_T%E1%BB%81_Phi  
  18. Hữu Công.  Đình miếu trở thành lò bánh mì, trung tâm thể hình, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vnexpress.net/dinh-mieu-tro-thanh-lo-banh-mi-trung-tam-the-hinh-2203085.html - https://vnexpress.net/dinh-mieu-tro-thanh-lo-banh-mi-trung-tam-the-hinh-2203085.html


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Apr/2022 lúc 12:17pm

https://www.youtube.com/watch?v=C0wLGKmA4zs - Ký Ức "CẦU BA CẲNG" Cầu Đi Bộ Đầu Tiên Ở Saigon Với Hình Dạng Thiết Kế Độc Đáo | Góc Hoài Niệm Xưa   <<<<<


Ký%20Ức%20"CẦU%20BA%20CẲNG"%20Cầu%20Đi%20Bộ%20Đầu%20Tiên%20Ở%20Saigon%20Với%20Hình%20Dạng%20Thiết%20Kế%20Độc%20%20Đáo%20|%20Góc%20Hoài%20Niệm%20Xưa%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Apr/2022 lúc 11:24am

https://www.youtube.com/watch?v=eV98dNet3yA - Ký ức Đakao của một cựu học sinh trường Võ Trường Toản ngày xưa, nghe     <<<<<

Ký%20ức%20Đakao%20của%20một%20cựu%20học%20sinh%20trường%20Võ%20Trường%20Toản%20ngày%20xưa,%20nghe%20hay%20%20cực%20|%20NAMDUONGTV%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Jul/2022 lúc 11:59am

Đoạn Đường Yên Đổ – Champagne
Tuổi Ấu Thơ của Tôi

Đoạn%20Đường%20Yên%20Đổ%20Thân%20Thương%20&%20Tuổi%20Ấu%20Thơ%20Êm%20Đềm%20-%20Truyện%20-%20Hồi%20Ký%20-%20Tùy%20%20Bút%20-%20Tạp%20Ghi%20-%20Hưng%20Việt

 (Thân tặng những ai đã từng quen thuộc với con đường Yên Đổ thân yêu và những ai đã từng đi ngang qua đây, dù chỉ một lần.) 


Mỗi người đều có một con đường kỷ niệm để nhớ và một dòng sông thơ ấu để yêu thương. Riêng tôi, con đường Yên Đổ nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, nơi tôi trải qua thời niên thiếu êm đềm cùng với những người thân yêu và bạn bè thì không bao giờ tôi có thể quên được. Dù bây giờ tôi đang ở cách xa con đường ấy cả nửa vòng trái đất. Dù cuộc sống căng thẳng từng giờ, từng ngày. Phải đối phó với bao nhiêu khó khăn trước mặt, tưởng chừng như có thể xoá nhoà tất cả những gì mà đôi lúc mình muốn nhắm mắt để quên đi. Tuy nhiên, con đường Yên Đổ vẫn mãi mãi nằm trong tiềm thức của tôi.


 Đường Yên Đỗ tên cũ là Champagne, tên mới là Lý Chính Thắng. Con đường bắt đầu từ ngã ba Hai Bà Trưng (Paul Blancy) và chấm dứt ở Công Trường Dân Chủ hay Ngã Sáu,Sài gòn. Nếu nhìn xéo một chút về phía tay trái, nằm phía bên kia đường là Ty Cảnh Sát Quận Ba.

Trong pham vi bài viết này. Xin mời quý vị cùng tôi chỉ đi trên một khoảng ngắn của đường Yên Đổ. Từ phía ngã ba đường Yên Đổ và Hai Bà Trưng đến ngã tư Yên Đổ và Công Lý (Mac Mahon, De Lattre De T***igny, Gal De Gaulle) mà thôi.!

Xin được bắt đầu phía bên trái trước.

Đầu tiên sẽ gặp trường trung học tư thục Vạn Hạnh của Thầy Thích Đức Nghiệp. Đây là một cái Villa cũ với những hòn non bộ đen xì và những cây to nhiều tuổi. Đặc biệt, có một cây Sung rất già, cho trái chín, màu rượu chát rất hấp dẫn học sinh vào những giờ ra chơi và tan học. Trái sung nhiều hột, ăn chát chát, ngọt ngọt và không ngon lắm! Sau này trường Vạn Hạnh sửa lại thành cư xá cho Mỹ thuê, lúc nào cũng có quân cảnh (MP) Mỹ cầm súng M16 đứng gác trước các ống cống lớn bằng xi măng đổ đầy cát trong đó. Bà con đi bộ ngang qua phải đi xuống lề đường.

Căn nhà số 5 là của hai chị em Dược Sĩ Cư và Huệ. Đi tiếp là một hẻm nhỏ. Tiệm hàn gió đá ở phía trước. Bên trong có sáu căn nhà được xây bằng gạch. Kế bên là trường tiểu học tư thục mang tên nhà thơ trào phúng của Pháp La Fontaine, số 7 đường Yên Đổ do Thầy Đốc là Hiệu Trưởng, con trai thầy tên Mạnh. Trường La Fontaine có lẽ là một trong những trường tiểu học tư thục đầu tiên ở vùng Tân Định? Lúc ban đầu trường gồm ba cấp lớp: Năm, Tư và Ba. Lớp Năm và Tư học tại trường La Fontaine, còn lớp Ba do Thầy Mười dạy thì mướn một phòng nhỏ ở đầu xóm Chùa trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, gần đường Đặng Dung. Đa số các trẻ em trong vùng đến tuổi đi học đều bắt đầu học ở trường này. Một số em tiếp tục học tại trường, còn các em khác được cha mẹ chuyển sang trường tiểu học công lập con trai Tân Định và trường tiểu học con gái Đồ Chiểu.

Cách vài căn là một Villa của thầy giáo dạy kèm tiếng Pháp. Ông là người Việt, nhưng mang quốc tịch Pháp. Trong sân nhà ông có trồng mấy cây Vú Sữa Bạch rất sai trái. Dù trẻ con rất thích, nhưng không đứa nào dám leo hái trộm, vì đàn chó Berger của ông rất dữ. Thỉnh thoảng chúng rủ nhau liệng gạch vô nhà cho chó sủa, hay nhấn chuông điện gắn trước nhà phá cho bỏ ghét. Nghe tiếng chuông reo. Ông tưởng khách đến thăm, nên đi ra mở cửa. Nhìn qua, nhìn lại chẳng thấy bóng dáng ai! Bọn con nít thấy ông, thì ùa chạy như ong vỡ tổ. Chúng cùng cười và la lớn từ xa “Ông Tây sình đi ăn xin, lọt thùng đinh”. Ông lẩm bẩm chửi thầm trong miệng “Con nhà không ai dạy!”

Nghệ%20An:%20Trồng%20vú%20sữa%20làm%20cảnh%20không%20ngờ%20cho%20quả%20bán%20hàng%20chục%20triệu%20%20đồng/vụ%20-%20Đài%20phát%20thanh%20và%20truyền%20hình%20Nghệ%20An

Mỗi khi mùa vú sữa chín. Bà chủ sai người làm công hái xuống cho vào thúng, rồi đem để trước nhà rao bán cho ông đi qua, bà đi lại với giá cũng ngang ngửa chợ trái cây Tân Định. Bà con lại có dịp rêu rao “Giàu mà còn ham kiếm bạc cắc lẻ.”

Sau đó là hẻm số 21. Đây là một con hẻm tương đối lớn. Xe hơi du lịch chạy vào được. Trong hẻm có một trường tư thục. Lúc đầu lấy tên là Võ Trường Toản. Sau đổi thành Nguyễn Huệ. Hẻm có một cây khế, một cây li Kê Ma già, trái có ruột màu vàng, còn gọi là trái hột gà. Khi ăn thường dính màu vàng như nghệ đầy miệng, nhìn thấy kỳ kỳ. Nằm đối diện với trường Nguyễn Huệ là một Villa trồng đủ loại cây ăn trái, nhiều nhất là Mận và Lý. Nghe đâu là nhà của một viên chức cao cấp trong chính quyền. Nếu quẹo trái đi ra phía đường Hai Bà Trưng. Trên đường đi sẽ gặp một cây Thị rất già cho trái chín màu vàng chanh, tiết ra mùi thơm nhẹ nhàng.

Người ta đồn cây Thị này có nhiều ma. Vào ban đêm các ma ông, ma bà, ma cô, ma cậu, ma con nít với quần áo trắng từ trên cây leo xuống. Tóc xoã dài tới chân với hai con mắt đỏ rực như hai cục than hồng, lè những cái lưỡi màu đỏ chói, dài hơn cái đòn gánh. Chúng đi tới, đi lui, nhe hai hàm răng trắng toát, cười ghê rợn vào những đêm không trăng sao. Thỉnh thoảng các Ma còn rình bắt những ai đi làm về khuya ngang qua đây. Sau đó đè nạn nhân xuống nhét đất sét đầy miệng. Sáng ngủ dậy ú, ớ kêu cứu. Do đó, khi có việc cần phải đi ngang cây Thị. Bà con nhắm mắt, ba chân, bốn cẳng, cắm đầu, cắm cổ, nín thở phóng cho thật nhanh.


Nếu quẹo phải thì đi ra đường Huỳnh Tịnh Của (tên cũ là Monceaux). Con đường này trồng toàn  cây Mặc Nưa dùng để nhuộm vải cho ra màu đen rất bền. Trái mặc nưa lúc còn sống màu xanh giống như trái táo, còn lúc chín thì màu đen. Khi rớt xuống đất, người đi bộ đạp lên làm đen cả lề đường rất nhơ nhớp. Trong ruột trái mặc nưa có nhiều hột giống như hột gạo. Ăn bùi bùi, béo béo, deo dẻo. Học sinh trường Tân Định thường lượm đem đập lấy hột ăn.

Băng qua đường Huỳnh Tịnh Của là xóm Hầm Sỏi. Đầu ngõ có một máy nước bốn vòi. Nơi đây ồn ào suốt ngày đêm. Những người gánh nước mướn, coi máy nước như là của riêng mình. Họ tự cho phép mình được quyền ưu tiên hứng. Bà con thắc mắc là họ sẵn sàng dùng đòn gánh, móc thùng xỉa xói, hăm he như muốn ăn tươi, nuốt sống.Vì thế! Để tránh lạc đạn, phiền phức. Ai ai cũng né dân đầu nậu phông tên chuyên nghiệp này. Tránh voi không hổ mặt người. Xin được hai chữ bình an. Chờ đến khi nào họ cho hứng thì lúc đó mới dám hứng.

Kế bên là căn gác nhỏ của ông Ba Cạo. Ông hớt tóc với giá bình dân và cũng là nhạc công cho một ban nhạc Bắc ở xóm Chùa, Tân Định chỉ trình diễn trong các đám tang, có cả phần khóc mướn. Hôm nào có ai đến thuê ban nhạc, thì hôm đó ông tạm nghỉ hớt tóc để trở thành nhạc sĩ đờn gáo và đờn cò. Con nít gặp ông hay đưa ngón tay trỏ lên miệng kéo qua, kéo lại “Ò, e, con ma đánh đu.Tạc Zăn nhảy dù. Ông Ba Cạo bắn súng.”

Hầm Sỏi, một thời nổi tiếng về du đãng ở vùng Tân Định. Các băng nhóm quanh vùng khi nghe đến tên đều kiêng nể. Trong xóm Hầm Sỏi, có nhiều con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo với nhiều miếu đền. Hẻm đi ra được đường Công Lý, trường Anh Văn Khải Minh và trở ra hẻm Đỗ Phong Thuần gặp cổng trước của trường Tiểu Học Tân Định bên kia đường.


Trở về lại đường Yên Đổ sẽ gặp tiệm may Huỳnh Lộc chuyên may áo dài. Sau đó đến tiệm Ngọc Diệp bán đồ dùng cho học sinh và văn phòng phẩm. Kế tiệm Ngọc Diệp là nhà ông PQK. Em trai ông tên PQH. Cả hai ông đều là triệu phú, được xem là vua Hàng Hải Việt Nam vì có nhiều tàu. Có cả tàu buôn đi ngoại quốc. Ông Kh..từng là Chủ Tịch Hội Cựu Học Sinh Trường Bưởi (Chu Văn An.) Ngoài ra, ông cũng là một nhà sưu tầm đồ cổ nổi tiếng. Không hiểu sao cả hai anh em ông cùng bị kẹt lại Sài gòn, để rồi lâm vào cảnh tù tội?

Kế bên là phòng mạch của Bác Sĩ Hoàng Minh Mậu tốt nghiệp từ ngoại quốc về.

Một tiệm thuốc Tây tên Sông Gianh, một Pharmacy khác tên Hồng Duyệt của Dược Sĩ T… khi đó mới ra trường. Cô chủ nhà thuốc luôn luôn bận áo dài màu thiên thanh. Nhiều người tưởng cô là chiêu đãi viên Hàng Không Việt Nam biệt phái đến đây làm thêm. Hiện nay, Dược Sĩ T… có một Pharmacy thuộc loại tầm cỡ ở San José. Ngoài thuốc tây ra tiệm còn bán đủ các thứ khác giống như các cửa hàng của Mỹ: Drug Stores, Walgreens, Rite-Aid. Đây cũng là một trong những tiệm thuốc Tây đầu tiên của Thung Lũng Hoa Vàng. 

Nằm kế bên tiệm thuốc là nhà của Luật Sư Ngô PT. Ông là một Luật Sư kỳ cựu của Luật Sư Đoàn Sài Gòn. Sau đó đến nhà Đại úy T…Quận Trưởng Hóc Môn. Ông nuôi những con ngựa đua thuộc loại chiến, từng thắng những giải đua ngựa lớn ở trường đua Phú Thọ. Cạnh bên là một Villa kiểu Pháp, mà lúc nào cũng kín cổng, cao tường được quét vôi màu trắng như Toà Bạch Ốc, cùng với những giàn bông giấy đủ màu sắc đan quyện chằng chịt vào nhau rất thẩm mỹ..

Đến đây là gặp đường Huỳnh Tịnh Của. Vừa qua khỏi đường Huỳnh Tịnh Của là một căn nhà rất lớn của ông bà chủ xe đò người miền Bắc mới di cư vào Nam. Năm 1955, vào buổi trưa. Một chiếc xe Dodge đã đâm thẳng vào nhà ông bà. Người ta nói, có lẽ tài xế say rượu, nên bị lạc tay lái? Sự việc xảy ra chớp nhoáng trong tích tắc, khiến bà chủ xe đò thiệt mạng oan uổng! Tiếp theo, là một con hẻm rất nhỏ chỉ đủ cho một người dắt xe gắn máy ra vào. Hẻm này có nhà của danh hài Phi Thoàn. Phía ngoài hẻm là tiệm may áo quần phụ nữ tên Thẩm Mỹ số 77 YĐ. Sau 1975 là tiệm chè Yên Đổ nổi tiếng một thời.

Cạnh bên là một tịnh xá nhỏ mang tên Ngọc Diệp, số 81 Yên Đổ. Bây giờ tịnh xá được xây dựng lại rất bề thế, khang trang hơn. Có lẽ nhờ tiền cúng dường của chư bá tánh từ nước ngoài gửi về? Phải kể thêm tư gia Bác Sĩ Trần Quang Diệu. Ông cũng là một Sĩ Quan Cao Cấp của Cục Quân Y/VNCH. Bước thêm khoảng mười mét sẽ gặp trụ sở Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế nằm ngay góc ngã tư đường Yên Đổ và Công Lý.

Bây giờ xin được trở lại đầu đường Yên Đổ phía tay phải.

Trước tiên là quán cà phê bình dân Hải Nàm do một người Hoa làm chủ. Nơi đây, từ sáng sớm tới chiều, bà con lao động đến nhâm nhi ly cà phê xây chừng được pha bằng vợt, thưởng thức dầu châu quẩy, bánh tiêu, bánh bao, hủ tíu mì, xíu mại và trà Thái Đức. Khách thích ngồi đưa cả hai chân lên chiếc ghế đẩu. Vừa ngồi, vừa rung đùi, vừa tán gẫu,vừa hít hà, thả hồn theo khói thuốc rê  Gò Vấp, thuốc lào Cái Sắn, 888, 555, Mélia vàng, Ruby Queen, Quân Tiếp Vụ, Basto đỏ và xanh…Kiểu ngồi này còn gọi là kiểu ngồi nước lụt. 

Kế cà phê Hải Nàm là tiệm may Văn Minh, mang tên người con trai lớn của ông chủ. Các con ông bà đều học giỏi và thành công. Con gái lớn là Dược Sĩ làm chủ tiệm Thuốc Tây góc Hai Bà Trưng và Trần Quang Khải.

Hai tiệm làm cửa sắt và máng xối nằm cách nhau, số 4 và số 8 đường Yên Đổ là Đức Kính và Đức Vượng. Tuy có cùng tên Đức đứng đầu, nhưng hai tiệm hoàn toàn không có bà con thân thuộc gì với nhau hết! Tiệm sản xuất cà rem cây có tên là Bạch Tuyết thì nằm giữa hai tiệm làm đồ sắt, số 6 đường Yên Đổ. Sáng sớm những người bán kem dạo, tụ họp để lấy kem. Sau đó chia nhau đi bán ở các trường học và xóm lao động quanh vùng, tạo nên một khung cảnh ồn ào và huyên náo. Sau này ông bà chủ chuyển sang làm đại lý bán xe Honda. Con trai duy nhất của ông bà tên Tr. qua đời vì bệnh nan y. Bạn thân của anh là một nhà sư tu xuất và cũng là nhà thơ nổi tiếng có mấy bài thơ được phổ nhạc làm bà con say mê. Ông tình nguyện hy sinh đứng ra thay thế, tiếp tục săn sóc vợ con người quá cố cho tròn tình nghĩa bạn bè.

Bên cạnh là giò chả Nhiên Hương. Tiệm này có bà con họ hàng thân thiết với giò chả Phú Hương ở đường Hiền Vương. Ông chủ tiệm giò chả Phú Hương mỗi cuối tuần đều đi thăm trường đua Phú Thọ, để xem giò, xem cẳng các con ngựa đua và cung cấp cỏ nuôi chúng. Kiếm được bao nhiêu tiền từ giò chả, bánh trái, ông cũng đầu tư vô đây để trang bị cho trường đua Phú Thọ càng ngày càng quy mô hơn. Nghe đâu sang đến Canada. Ông không bỏ được nghề chăn nuôi ngựa, tiếp tục sự nghiệp xây dựng trường đua. Làm được đồng nào, xào hết đồng nấy. Bây giờ thì hoàn toàn khuynh gia, bại sản. Đúng là“Cờ bạc là bác thằng Bần.”

Những thanh niên làm công cho tiệm giò chả không cần tập tạ, tập thể thao. Vậy mà, tay chân anh nào, anh nấy bắp thịt cũng nở cuồn cuộn như lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án. Chắc là nhờ họ giã và bằm thịt hàng ngày? Vào mỗi dịp Tết, tiệm giò chả Nhiên Hương khách hàng ra vào nườm nượp. Giò Chả ra lò đến đâu là hết ngay đến đó. Vì thế! Khách dự định biếu xén ai, thì phải đặt trước Tết cả tháng.

Hai tiệm giặt ủi Phước và tiệm may Trường ở kế bên. Diện tích cả hai tiệm rất khiêm nhường. Cạnh đấy là một vựa củi lớn.Về sau trở thành Salon Mayer bán xe hơi mới và cũ do ông chủ rạp hát Moderne tên Th. làm chủ. Người ta thắc mắc “Sao ông không đặt tên là Salon Yên Đổ hay Champagne?”

Tiếp đến là cửa hàng bán xi măng, gạch, cát, đá tên Hà Thân. Tiệm có một cây Nhãn rất nhiều trái. Trẻ em trong vùng thường kéo nhau tới hái, bất kể sống hay chín. Hái riết cây nhãn bị tàn phai không còn nhan sắc. Con trai thì dùng hột nhãn làm đạn bắn với ná dây thun, hay chơi đánh giặc: chọi qua, chọi lại. Đôi khi các chiến sĩ nhóc bị trúng đạn nhãn sưng đầu, sứt trán và lỗ mũi ăn trầu. Về nhà còn bị ba má đánh thêm đòn. Riêng, mấy cô thì lấy hột nhãn đem khoét thành cà rá đeo tay, chơi trò “Đám Cưới Đầu Xuân.” trao nhẫn nhãn cho nhau. Hột nhãn màu đen, ruột màu trắng. Đem nấu chè ăn ngon và thơm. Tiếp theo là tiệm bán phụ tùng và sửa chữa máy may tên Phước Lai.

Bây giờ tới con hẻm số 32. Nơi đây chỉ có bốn căn nhà. Hẻm này rất rộng. Xe hơi có thể ra vào được dễ dàng. Con nít ở các xóm chung quanh thường rủ đến chơi u bắt mọi, đá banh, đá cầu, đánh đáo, tạt hình, tạt lon sữa bò, công xi đờ ghe… Đặc biệt, là chơi đập vách tường ăn tiền, vì hai bên là hai căn nhà với vách tường xây bằng gạch. Kết quả vách tường của hai căn nhà rỗ nát như “Dấu Đạn Thù Trên Tường Vôi Trắng”, bởi đồng năm cắc bằng nhôm màu trắng có hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm của lũ nhóc thi nhau đập liên tục từ sáng cho tới chiều vào những hôm được nghỉ học.

Căn nhà đầu tiên số 32/1 là của ông NVL.., Trưởng Ty Tiểu học Sài gòn. Ty tiểu học nằm trong khuôn viên trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt, trên đường Phan Đình Phùng .Quận 1. Vào thời đó chức vụ Trưởng Ty rất oai. Ông đi làm có tài xế riêng đưa đón trên chiếc xe hơi hiệu Traction màu đen mà lúc nào cũng láng coóng. Người ta thường thấy bác tài trong khi chờ xếp, thường lấy khăn ra lau tới, lau lui, lau riết xe trở thành bóng lộn. Ông Bà có nhiều con: hai con trai tên T.. và Tr..học hành bình thường, cô con gái đầu lòng tên D. Cô lập gia đình với anh Đ… là con trai trưởng của ông bà Đồng Hồ, chủ tiệm tạp hoá trong xóm Cù Lao – Yên Đổ. Cô giáo D…dạy môn Vạn Vật lớp Đệ Thất và Đệ Lục trường Trung Học Công Lập Võ Trường Toản. Học sinh nào đã từng học cô, dù bây giờ đã rời xa trường nhiều năm cũng không thể quên được cô. Nhất là điểm cô cho học sinh thì khỏi chỗ chê!

Xin tiếp đến tiệm thuốc đông y của Đông Y Sĩ Trần Gia Viên, chuyên bán thuốc cao đơn hườn tán, thuốc tễ, dầu Nhị Thiên Đường, dầu Cù Là, dầu Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín, cam thảo, táo Tàu, nhân sâm, thục địa…kể cả bắt mạch và bốc thuốc. 

Kế bên là lò bánh mì Thuận Thái. Nơi đây, vào ngày 14 tháng 05, năm 1971. Tay vợt bóng bàn nổi tiếng của Việt Nam Cộng Hoà là Mai Văn Hoà đã thiệt mạng trong một tai nạn giao thông rất thương tâm. Chiếc xe Lambretta hai bánh do anh lái bị một chiếc xe vận tải lớn đè lên, khiến anh chết liền tại chỗ. Tay vợt MVH  từng chiếm những thứ hạng cao về môn bóng bàn trên các thao trường quốc tế. Anh còn được xem là cái máy đỡ banh số một thời đó. Trong khi giao đấu. Dù đối phương đánh, đập, líp, tiêu cách nào. Anh cũng đều hốt gọn như trở bàn tay. Trái banh được đưa qua, đưa lại nhiều lần. Chờ khi đối phương lơ là, mất cảnh giác. Lúc đó, anh sẽ tặng cho đối thủ một cú tiêu thần sầu, chính xác và chớp nhoáng như mũi tên xẹt. Bao nhiêu danh thủ bóng bàn thế giới đã cười đau, khóc hận vì sự cò cưa, kẹo kéo, cù nhầy, kiên nhẫn và gan lì của anh.

Nhà ông Cò Tây nằm sát bên tiệm bánh mì. Trước nhà có trồng một cây trứng cá. Ông cho rào kẽm gai từ dưới đất lên đến giữa thân cây. Mục đích làm trẻ con không thể nào leo lên hái được. Tuy nhiên, chúng canh me khi ông đi vắng. Một đứa dùng chiếc dép cũ liệng lên cây. Những trái trứng cá chín mọng màu đỏ rớt rụng đầy dưới đất. Cả đám quỹ sứ hè nhau chạy tới thi nhau lượm. Vừa bỏ trong túi áo, vừa cho vô miệng ăn nhồm nhoàm một cách thích thú. Trái Trứng Cá chín rất nhiều hột, vị ngọt và mùi thơm thoang thoảng tuổi học trò với nhiều nỗi buồn vu vơ. Sau 30/04/1975 gia đình ông Cò được đi định cư ở Pháp.

Kế tiếp là phở bắc Việt Hương mà hồi nhỏ con nhà nghèo, nên anh em tôi cứ mỗi buổi trưa thay phiên ra mua một đồng nước phở cho thật nhiều tương, nước mắm rồi đem về nhà cùng chia nhau chan lên cơm ăn thay canh. 

Rồi đến tiệm may Xuân Liên chuyên may áo dài đám cưới. Hai ông bà có một cô công chúa rất xinh. Lấy tên con gái đặt cho tên tiệm mình. Ông cũng là một thầu khoán tên tuổi chuyên đấu thầu các công trình xây dựng lớn. Sau khi ông bà dọn đi nơi khác, chủ mới đến cũng mở nhà may đặt tên là Phương Mai cũng chuyên may áo dài.

Tiếp tục đi sẽ gặp phòng mạch của Bác Sĩ Trần Đình Ngân. Phòng mạch chỉ mở được vài năm, thì ông mất vì bệnh ở tuổi rất trẻ. Sau khi ông mất. Bác Sĩ BV đến tiếp tục. Ông còn trẻ, cao ráo, đẹp trai. được rất nhiều nữ bệnh nhân ái mộ đến khám bệnh, dù chỉ bị cảm mạo sơ sài, hay bệnh giả đò. Miễn sao được Bác Sĩ đặt ống nghe đo áp huyết và nhịp đập của “Con tim không chịu ngủ yên” là bệnh tan biến ngay. Đặc biệt, với bệnh nhân nghèo thì Bác Sĩ BV. khám hoàn toàn miễn phí và còn cho họ cả thuốc. Ông từng là Dân Biểu Quốc Hội và Chủ Tịch Phù Luân Hội (Lions Club) Sài gòn, có biểu tượng là hình con Sư Tử. Hội này quy tụ toàn những doanh gia và các tai to, mặt lớn thời đó. Về sau, ông lập gia đình với một quả phụ chuyên về sửa sắc đẹp. Ông di tản trước 30/04/1975. Nghe đâu ông đang ở Houston (TX).

Ở đây có một cái hẻm nhỏ số 58, gồm hai mươi bốn căn nhà cất bằng cây, mái ngói. Mỗi tháng có một thư ký Chà Và cầm sổ đi thu tiền mướn nhà. Trẻ con thường chạy theo sau lưng la“Chà Và Ma Ní tí te. Cái bụng thè lè, con mắt ốc Bươu.” Chính giữa hẻm có một cái Giếng, Người ta còn gọi là Xóm Giếng.thêm một cây Mận, một cây Vú Sữa Tím ở xóm trên, một cây mãng cầu, một cây li kê ma ở xóm dưới và bốn cầu tiêu hầm. Trong xóm có bốn lò “Bánh Cuốn Tráng Hơi” của bà Thi, bà Thọ, Bà Triển và Bà Tỵ. Các bà đều từ miền Bắc di cư vào Nam. Bốn lò bánh cuốn vừa bán lẻ cho bà con trong xóm và các xóm lân cận, vừa bỏ mối cho các bạn hàng ở các chợ: Tân Định, Phú Nhuận, Đa Kao và Bà Chiểu. Mặc dù, thời đó nấu bằng củi, nhưng trải qua bao nhiêu năm chưa hề xảy ra tai nạn nào về lửa củi, hay suýt gây ra hoả hoạn. Rồi sau này tiến bộ hơn, các bà chuyển sang dùng dầu hôi hiệu con Sò được đựng trong thùng hai mươi lít. “Bánh Cuốn Tây Hồ” do Bà Cà, còn có tên là Bản làm chủ, nằm trong đền thờ chí sĩ Phan Chu Trinh. Đa Kao đã đến đây thọ giáo với Bà Thọ một thời gian, trước khi xuống núi khởi nghiệp bánh cuốn tráng hơi. Hiện nay Bánh Cuốn Tây Hồ phát triển thành mấy tiệm ở Sài gòn do các con bà làm chủ và không hề có chi nhánh nào ở nước ngoài.

Hẻm xóm Giếng có thể kể thêm một nhân viên làm cho trường Đại Học Luật Khoa Sài gòn. Tên ông là HĐM. Chức vụ chỉ là thư ký đánh máy tầm thường. Tuy nhiên, năm nào trước mùa thi Luật, hay sau khi có công bố kết quả thi cử. Xóm Giếng xuất hiện nhiều xe gắn máy của sinh viên đang học ở đây. Họ ào ào đến tìm ông với gương mặt hớn hở. Trên tay không quên cầm theo chút quà cáp để biếu ông. Có lẽ bàn tay ông đã giúp cho họ trong khả năng mà ông có thể làm được?

Cạnh phòng mạch bác sĩ BV  là trường dạy lái xe hơi Yên Đổ. Kế bên là nhà in NMH. Ông chủ nhà in tướng oai vệ. Đi đâu cũng tự lái chiếc xe màu xanh, hiệu Simca. Tay phải xách theo cặp da như sắp đi tham dự hội nghị quốc tế. Ông rất có uy tín, nên được các Cha Cố, các Thầy tin cậy. Cô con gái lớn của ông là nữ sinh Trưng Vương tên NKT. Cô là thi sĩ tuổi học trò. Thơ của cô được đăng thường xuyên trên các báo Ngôn Luận, Chính Luận, Văn Nghệ Tiền Phong… Đặc biệt, thi sĩ học trò NKT chỉ sáng tác các bài thơ ca ngợi Lính, và chỉ tặng riêng cho các anh SVSQ Trường Võ Bị Đà Lạt. Do đó, cô còn có thêm biệt danh là “Người Tình Alpha Đỏ.” Cô lập gia đình với một SVSQ tốt nghiệp trường này. Khi mãn khoá, chàng chọn binh chủng Mũ Nâu.

Người hùng của nhà thơ cũng từng theo học “Đại Học Máu”nhiều năm. Còn cô em kế của nhà thơ tên NPN cũng là nữ sinh Trưng Vương. Dáng đẹp hơn chị, với gương mặt trái xoan, tóc để dài, được nhiều chàng trai theo đuổi. Cuối cùng, cô chỉ thích được “Ôi Phi công danh Tiếng Muôn Đời và Nhìn Xa Phi Trường Việt Nam … Đi không ai tìm được xác rơi” Nên một chàng phi công trực thăng ở Sư Đoàn 4 Không Quân tên NĐD, đẹp trai giống như tài tử Đại Hàn nổi tiếng Chơi Xong Dông nhà trong hẻm Cù Lao, số 60 Yên Đổ đã chiếm được “Trái Tim Mùa Đông” của nàng, để lại bao nhiêu cây xi hát bài “ Em Đưa Tôi Sang Sông.”

Nhà in NMH nằm ở dưới lầu. Phần trên lầu là nhà của song thân một sinh viên khoá 16 Võ Bị Đà Lạt tên TTT, phục vụ tại Sư Đoàn 4 Không Quân. Hai cô em gái kế trông thật duyên dáng và dễ thương là D.A và D.H… Không có anh lính hào hoa nào“Gõ Cửa Trái Tim” được hai nàng. Có lẽ các nàng ngại đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo, nên không dám đi trên con đường dài này? Cũng có thể các cô lo sợ, chẳng may các anh kẹt tiền đem bán đi cái quần của mình, xong các anh đi lom khom thì khốn khổ đời em?

Bây giờ phải kể đến một tiệm tạp hoá của người Hoa nằm ngay đầu hẻm 60 và 62 tên Quảng Đức Long rất lớn trong vùng. Bà con gọi bà chủ là thím Xẩm Bài Bà goá chồng và tần tảo nuôi các con. Tiệm bán mọi thứ hàng hoá, thực phẩm thiết dụng hàng ngày cho bà con lao động. Bà Quảng Đức Long phúc hậu và rất tốt với mọi người. Bà sẵn sàng bán thiếu cho bất cứ ai gặp khó khăn không cần làm sổ sách. Khi nào có tiền trả cũng được. Hình như ai ai cũng đều trả sòng phẳng và đúng hẹn. Bà có hai đứa con trai tên Xí và Ngầu. Khi đến tuổi quân dịch. Không muốn cho con làm lính kiểng, lính ma, hoặc chạy chọt được miễn dịch, nên bà đã bỏ ra một số tiền lớn để lo cho hai cậu đi bằng đường bộ sang Cam Bốt. Rồi từ đó, có đường dây đưa sang Hồng Kông. Cô con gái tên Xây Dùng, đẹp người, đẹp nết. Tuổi ngoài ba mươi, mà vẫn còn ca bài “Sầu Lẻ Bóng.”

Từ ngoài đầu hẻm 60, phía bên trái là tiệm thuốc Tây Nguyễn Huy do Dược Sĩ Nguyễn Huy làm chủ. Tướng ông cao lớn như người ngoại quốc với vầng trán cao, hai con mắt lồ lộ. Sau năm 1975, bà con trong vùng vẫn còn gặp hai ông bà một thời gian. Nhưng sau đó, thì nghe tin đồn là cả hai ông đều mất tích trong“Chuyến Tàu Hoàng Hôn.” ngoài biển khơi.

Nếu đi thêm khoảng mười thước là gặp một cây me lớn ở phía trước nhà Luật Sư ĐXQ… Ông tốt nghiệp Cử Nhân Luật tại Đại Học Luật Khoa Hà Nội khoá đầu tiên vào năm 1930. Các con ông bà đều công thành danh toại. Hình như họ không nối nghiệp theo ngành của ông mà lại chọn theo ngành Y. Con gái ông là Bác Sĩ tốt nghiệp ở Mỹ và chồng cũng là Bác Sĩ đang hành nghề ở Nam Cali.

Quẹo trái là hẻm 62, còn gọi là xóm nhà Đèn, vì đa số dân trong xóm là người sinh quán ở Quảng Bình, miền Trung. Tất cả chuyên làm về điện. Họ kéo vô Nam lập nghiệp và rủ rê nhau cùng vào đây sinh sống. Hẻm này đi ra được đường Công Lý và chùa Vĩnh Nghiêm. Hai ca sĩ thần đồng Phương Mai, Phương Dung của ban tạp lục Tùng Lâm và nhạc sĩ “Xích lại gần em tí nữa đi em” Mặc Thế Nhân cũng ở trong con hẻm này.

Hẻm 60 rất dài. Giữa xóm có một hẻm nhỏ là hẻm xóm Vựa Gạo, đi ra được đường Hai Bà Trưng. Cuối hẻm 60 là một ngã ba giáp với sông Cầu Kiệu. Chiều chiều con nít rủ nhau ra đây tập lội, ôm thân cây chuối bì bà, bì bõm dưới sông. Có hôm gần mười em đứng trên cầu Kiệu. Đợi người đi bộ qua đông, rồi chúng cùng đếm: Một, Hai, Ba. Tất cả “pờ lông dông” xuống sông, làm nước bắn tung toé, ướt cả người đi đường.  Bà con không làm gì được chúng, chỉ còn nước chửi “Đồ Cô Hồn Sống, thế nào có ngày tụi bây cũng sẽ bị Ma Da rút.”

Trong hẻm 60 có một tiệm giặt ủi quần áo không tên. Từ ngoài đường đi vào, tiệm nằm phía tay trái. Ông bà có một con gái và năm con trai. Trong số đó có một người con nổi tiếng trong giới giang hồ, võ lâm thời đó là VĐK, tức S.. Đảo. Tướng người cao ráo, đẹp trai, có nét ngạo mạn và oai hùng. Thống lĩnh khu vực Ông Tạ, bảo kê nhiều sòng ru lết và vũ trường. Anh được nhiều phụ nữ ưa thích. S.. Đảo bị bắn chết trước một vũ trường ờ Quận 1, Saigon. Lúc anh đang lui cui, cúi xuống xem bánh xe mô tô bị ai đâm lủng. Sau này, được biết thủ phạm bắn anh là Phạm Bá …có tật ở chân. Sau 30/04/1975 Phạm Bá.. bị tử hình và bị xử bắn tại trường bắn Thủ Đức vì tham gia nhiều vụ cướp dùng súng giết người.

Anh còn có một em trai là VĐC…, một tay vợt bóng bàn có hạng của đội Quân Vận bị một đàn em thân tín của Đại Ca Thay là Lâm Chín ngón đâm chết trong khám Chí Hoà. Người em khác của anh là Sĩ Quan thuộc Binh Chủng Dù đã hy sinh trong một trận đánh ác liệt tại đèo Lao Bảo. Em nhỏ nhất tên VĐT.. cũng đã mất. Người em cuối cùng là VĐH mất ngày 29 tháng 07, năm 2014…Có thể xem đây là Ngũ Hổ Tướng của vùng Tân Định.

Cũng cần phải thêm một nhân vật đặc biệt là TNP… Anh tốt nghiệp khoá đầu tiên Trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Gương mặt có một chút rỗ hoa, nhưng bù lại ăn nói rất có duyên và có tài kể chuyện tiếu lâm, ai nghe cũng thích. Ngoài ra, anh còn có thêm một giọng hát tuyệt vời và cao vút. Nhất là bài Mexico, anh hát chẳng thua gì danh ca Cao Thái vào thời đó. Nhờ những ưu điểm này mà “Cô Láng Giềng” tên L..là nữ sinh xinh đẹp trường Thiên Phước đã theo chàng bỏ cuộc chơi rất sớm.

Người anh ruột của anh là TNG thổi kèn Trumpet rất hay. Bài hát chuyên trị duy nhất mà anh thường xuyên thổi vào mỗi đêm là Cầu Sông Kwai (The Bridge on the River Kwai.) Mỗi khi tiếng kèn của anh vừa vang lên, thì cùng lúc đó xướng ngôn viên của Đài Phát Thanh Sài Gòn cũng vừa cất tiếng “Bây giờ đã là mười giờ đêm. Xin bà con, cô bác vui lòng vặn Radio vừa đủ nghe, để khỏi làm phiền lòng hàng xóm đang cần yên tĩnh, để nghỉ ngơi.”

Hẻm 60 còn gọi là xóm Cù Lao rất rộng. Xe cam nhông lớn đi vào đươc. Ngay đầu hẻm có một máy nước bốn vòi. Nơi đây có một khoảng đất rộng, tự nhiên biến thành một cái chợ nhỏ hoạt động sáng, trưa, chiều tối. Nào là: xôi, bánh bèo, bún riêu, sữa đậu nành, sâm bổ lượng, nước mía, khô mực, hủ tiếu mì, bò viên, khô mực, hột vịt lộn, thuốc lá lẻ, bắp nướng mỡ hành, ốc gạo, ốc len xào dừa, đậu xanh, đậu đỏ, bánh lọt, chè đậu đen, bông cỏ, hột é, khoai mì chà bông, rau trái, hoa quả…sửa xe đạp, sửa gắn máy, hớt tóc bình dân. Đặc biệt, mấy bàn bán vé số “Kiến Thiết Quốc Gia” rất hấp dẫn và lôi cuốn bà con. Ai ai cũng ôm giấc mơ trở thành triệu phú để đổi đời.

Hàng tuần, vào mỗi chiều Thứ Ba. Họ đón chờ kết quả do các em thiếu nhi quay số được tổ chức tại Rạp Thống Nhứt, hay còn gọi là Rạp Norodom, nằm trên Đại Lộ Thống Nhứt kế Toà Đại Sứ Anh Quốc và đối diện Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Nếu trúng gió, thì coi như góp một viên gạch nhỏ xây dựng nước nhà. Cùng đồng ca bài Khoẻ Vì Nước, Kiến Thiết Quốc gia của Nhạc Sĩ Hùng Lân, hay chế ra thành khoẻ vì nước, bánh ướt tôm khô.

Và một bài hát khác đã đi sâu vào tận hang cùng, ngõ hẹp mà hình như hầu hết mọi người đều biết là: “Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia”của Nhạc Sĩ Trần Văn Trạch, mà báo chí còn đặt cho ông thêm một biệt danh là “Quái Kiệt.”

Kiến thiết quốc gia. Giúp đồng bào ta. Xây đắp muôn người. Được nên cửa nhà.

Tô điểm giang san. Qua bao lầm than. Ta thề kiến thiết. Trong giấc mộng vàng.

Triệu phú đến nơi. Năm mươi đồng thôi. Mua lấy xe nhà. Giàu sang mấy hồi.

Kiến thiết quốc gia. Giúp đồng bào ta. Ấy là thiên chức của người Việt Nam.

Mua số mau lên. Xổ số gần đến. Mua số mau lên. Xổ số… gần… đến

(Nhạc Sĩ Trần văn Trạch -1952)

Nơi đây, cũng là bến đậu của các bác xích lô, ba bánh và Honda ôm chờ đón khách. Lâu lâu cũng xảy ra tình trạng lời qua, tiếng lại, rồi đưa đến ẩu đả vì giành giật khách hay chạy phá giá.

Nằm cạnh bên nhà thuốc Nguyễn Huy là chỗ cho mướn xe xích lô máy của ba má anh Th.., nhân viên thuế vụ ở Gia Định, có em trai tên Kh..là sĩ quan TQLC, cũng thuộc  dân chơi thứ thiệt. 

Cách một căn là giang san của ban kích động nhạc Les Vampires rất nổi tiếng vào thập niên 60, 70 với Tòng thổi Saxo, Hồng Hải chơi trống. Kế đến là nhà số 74 YĐ của nữ tài tử Mai Trâm và Đạo Diễn Vĩnh Noãn. Cô Mai Trâm là một trong những vai nữ chính của phim“Chúng Tôi Muốn Sống.” Cô có hai công chúa tên Mai D.. và Mai V..cũng xinh đẹp, duyên dáng như mẹ, được nhiều thanh niên trong vùng ngắm nghé. Nhưng chẳng anh nào lọt được vào mắt xanh hai nàng. 

Kế bên là nhà ông thầu khoán. Ông có một công tử tên Kh.. là bạn của N..Thịt Bò, Hai Bà Trưng ,Tân Định,cũng thuộc loại “ham vui hơn ham học.”

Về sau, gia đình cô Mai Trâm bán lại cho vợ chồng nghệ sĩ Việt Hùng và Ngọc Nuôi. Ở được một thời gian Việt Hùng và Ngọc Nuôi lại bán cho chị Sáu Nh.. Chị người miền Nam, ăn nói nhỏ nhẹ, vóc dáng có da, có thịt. Luôn Luôn đeo cặp kính trắng gọng vàng ra vẻ trí thức. Chị cho sửa căn nhà thành một “Tiệm Phở Hạng Sang.” Tiệm phở của chị tuyển chọn nhân viên chạy bàn rất trẻ, cao ráo, xinh đẹp và có thể thi hoa hậu được. Đa số khách đến ăn phở là dân áp phe, giới văn nghệ sĩ, giới có chút tiếng tăm. Đôi khi cũng có các quan chức trong chính quyền. Còn như  thợ thuyền, lính lác, thư ký công nhật …với đồng lương ba cọc, ba đồng, thì chỉ ăn phở trong mơ, hay hàm thụ mà thôi! Đành chấp nhận an phận, thủ thường xơi cơm nấu ở nhà, xực quà do vợ mua cho chắc ăn . Nếu hôm nào đầu óc bừng bừng lên tới não và thèm Phở quá! Không thể nào nhịn được, thì chỉ dám thưởng thức loại Phở Bình Dân gồm bánh phở và nước lèo lỏng bỏng mỡ màng ở các địa danh như: Tân Bình, Lăng Cha Cả, Xóm Mới, Gò Vấp, Ngã Ba, Ngã Năm, Bệnh Viện Cộng Hoà, Cây Da Xà, Xóm Mả Lạng, hay qua Cầu Hàn tuốt bên kia Tân Thuận, cuối đường Trịnh Minh Thế. Đa số các tiệm phở ở đây đều thiếu vệ sinh, nhơ nhớp, kèm theo môi trường rất độc hại và không an toàn. Thực khách ăn vào dễ bị trúng độc vì phở có pha nhiều bột ngọt, hàng the, thuốc tẩy và hoá chất bán đầy rẫy ở chợ Kim Biên. Khi đó phải đi súc ruột ở bệnh viện nằm ngay góc ngã ba đường Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan ,Quận 3, Sài gòn, gần trường Colette  để chữa trị cho kịp thời. Nếu không điều trị sớm, thì dễ làm thiu tô cơm nguội ở nhà. Chưa kể gia đình có thể tan nát, vợ con nheo nhóc vì chê cơm nguội,ham ăn phở ngoài đường.

Muốn thưởng thức tiệm phở chị Nh.. phải có quen biết trước, hoăc qua sự giới thiệu của những khách đã từng đến đây, thì may ra mới được tiếp. Còn lạ quắc, lạ queo thì coi như “Vô phận sự – Xin miễn vào – Cảm ơn.” Hầu như khách đã vào đây ăn một lần. Khi ra về, thực khách đều tấm tắc khen Phở Ngon. Không nghe ai phàn nàn, phê bình, hay chê gì hết! Có lẽ được các em bưng phở săn sóc, phục vụ tận tình, chu đáo từ A đến Z? Đúng là“Vui lòng khách đến – Vừa lòng khách đi !”

Chị Nh.. kết bạn với nhiều người đàn ông có chức, có quyền đương thời. Mục đích chỉ dựa hơi và dán “Lá bùa hộ mệnh” trước cửa tiệm để buôn bán được dễ dàng, không bị gây rắc rối, phiền nhiễu. Người tình già nhân ngãi, non vợ chồng cuốí cùng của chị là một Sĩ Quan Huấn Luyện Viên Thể Dục,Thể Thao và Võ Thuật ở một đơn vị đóng cách Sài gòn khoảng 30 cây số. Chàng cao lớn, oai vệ, đẹp trai. Lúc đó, chị mua một chiếc Mustang màu đọt chuối đời mới nhất tặng chàng, để cho chàng le lói với đời và giữ chân chàng khỏi lông bông, lang bang đi lạc quên đường về. 

Sau ngày 30 tháng 04, năm 1975, chàng bị kẹt, nhưng chị vẫn giữ một lòng chung thủy. Đi thăm nuôi, tiếp tế ông rất đều đặn. Chị Nh.. qua đời vì ung thư ngực lúc tuổi ngoài năm mươi. Thời gian cuối đời chị thường đi lễ chùa, ăn chay, tụng kinh sám hối và làm từ thiện. Hy vọng kiếp sau chị sẽ có đời sống yên bình và nhẹ nhàng hơn.

Qua khỏi tiệm phở chị Nh..là một Villa của người Trung Hoa. Bà con thường gọi là nhà ông Xi Na (China) với những cây bông sứ già cho bông trắng và vàng rất thơm. Sau đó đến một vựa gạch, cát, đá, xi măng, rồi đến con hẻm 82. Hẻm đi ra được đường Công Lý. Trong hẻm cũng xuất hiện một tiệm Phở cũng thuộc loại hạng sang do bà Đ..làm chủ. Bà có dáng người mảnh khảnh, nước da trắng đẹp, tóc búi tó củ hành, giọng nói dịu dàng dễ gây cảm tình.

Từ ngoài đầu hẻm đi vào tiệm phở phải đi qua tiệm may HaiVe chuyên may nón lưỡi trai rất nổi tiếng. Một thời, muốn được gọi là dân chơi Sài Gòn thì phải đội nón do Hai Ve sản xuất. Bây giờ, chủ tiệm Hai Ve than thở thấu trời mây! Không còn nhiều khách đến đặt may nón nữa! Vì khi ra đường, bà con phải đội nón bảo hiểm, còn gọi là“Nồi Cơm Điện.” Đi thêm vài thước, quẹo phải có một ngõ hẻm nhỏ đi ra được hai hẻm 62, 60 Yên Đổ và đường Huỳnh Tịnh Của nối dài. Nếu tiếp tục đi khoảng mười thước sẽ gặp tiệm phở của bà Đ..phía bên phải, ngay cua quẹo ra được cư xá Công Lý.

Mặc dù, nằm tuốt trong hẻm sâu, nhưng tiệm phở của bà Đ..cũng nổi tiếng không thua kém gì tiệm phở của chị Nh… Nhân viên phục vụ ở đây cũng đông, được tuyển lựa kỹ càng. Tiêu chuẩn phải xinh đẹp. Biết cách ăn nói, săn sóc và niềm nở với khách hàng. Muốn vào thưởng thức cũng đòi hỏi có sự quen biết trước, hoặc thông qua người thân tín giới thiệu. Đúng là thời buổi nào “Quen biết cũng vẫn hơn.”

Những lúc khách bên này đông, bên kia ế, thì chị Nh..và bà Đ..sẵn sàng cùng nhau hổ tương, tác chiến hợp đồng. Mặc dù, kinh doanh cùng một mặt hàng tương tự. không cần phải bỏ vốn đầu tư nhiều. Chỉ dùng  vốn trời cho do các nhân viên tự nguyện đóng góp vào. Nhưng giữa chị Nh.và bà Đ…chưa bao giờ xảy ra những xích mích, tranh chấp và cạnh tranh nghề nghiệp để đi đến mất lòng, rồi oán thù nhau.

Sau này cần phát triển, khuếch trương mạnh hơn. Bà Đ..cho ra đời thêm một tiệm Phở Đặc Biệt. Đó là Villa số 71A HTC của một ông lớn, nằm sâu trong hẻm rộng xe hơi chạy vào được, rất yên tỉnh, gần bên là nhà may Nguyễn Hà. Nhờ chút “hơi hám” của ông chủ nhà mà tiệm phở mới của bà không ai dám đến quấy rầy hay bắt chung tiền mãi lộ. T

Tiệm Phở mới rất đông khách vì sang trọng hơn, nằm đối diện với Villa của một sĩ quan cao cấp, số 80 HTC. Ông này cặp bồ với một cô đào cải lương nổi tiếng, khiến bà vợ Hoạn Thư nổi cơn ghen tam bành làm ùm lên. Kéo theo đám để tử của ông đi đánh ghen ì xèo. Nhân dịp này, báo chí Sài gòn tha hồ thêu dệt chuyện gia đình của ông Quan Sáu, mà gốc gác to hơn cây cổ thụ trồng trong Dinh Độc Lập, hay còn gọi là Phủ Đầu Rồng. 

Giờ đây, ông đang hưởng tuổi già ở một thành phố của Bắc Cali. Thỉnh thoảng ông ngồi tâm sự bên ly cà phê đắng với các chiến hữu về thời quá khứ vàng son, tiền hô hậu ủng của mình ở một Trung Tâm Thương Mại lớn của vùng này. Ông thở dài và nói “Bây giờ, nếu có theo Trời Theo Phật thì “Qua” cũng không còn gì để tiếc nuối.

Riêng, cô đào cải lương vẫn còn ở Việt Nam. Qua những năm tháng thăng trầm, bềnh bồng, ba chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh vì nghiệp dĩ. Bây giờ, tuổi đời cô cũng đã ngoài bảy mươi. May mắn, cô có cuộc sống ổn định và dư giả. Cô thường đi viếng các chùa chiền, thăm các cô nhi viện, giúp đỡ các nghệ sĩ già neo đơn, khó khăn không còn con cháu lo lắng, săn sóc. Lâu lâu cô cũng được mời thuyết giảng về Căn Nghiệp và Nhân Quả ở đời.

Sau năm 1975. hai tiệm phở của Bà Đ..không còn nữa ! Gia đình bà vẫn tiếp tục sống ở hẻm 82. Sáng sớm bà và chồng hay đi lễ ở nhà thờ Tân Định. Trên tay lúc nào cũng lần xâu chuỗi hạt màu đen.

Có một điều dân chúng trong vùng rất ngạc nhiên! Một thời gian dài buôn bán ồn ào, đình đám, ì xèo và nổi tiếng nhất Sài Gòn. Nhưng cả ba tiệm Phở vùng Yên Đổ, Tân Định không bị chính quyền Phường, Quận và Thành Phố để mắt hỏi thăm sức khoẻ, hoặc bị làm khó dễ. Nếu hôm nào có tổ chức hành quân cảnh sát đến xét “Môn Bài Kinh Doanh” thì hôm đó cả ba tiệm hình như đã được báo động cùng treo bảng xin cáo lỗi “Tiệm tạm đóng cửa vài ngày đề sửa sang. Khi nào mở lại sẽ thông báo đến quý khách.”

Nhân dịp nghỉ giải lao bất đắc dĩ này. Nhân viên không được phát lương. Vì quen ăn xài lớn, nên thiếu thốn, phải đi mượn tiền với phân lời cắt cổ “xanh xít, đit đui.” Buồn chán, nhàn rỗi không biết làm gì, nên ban ngày tụ họp lại giải trí cờ bạc như: bài cào, tứ sắc, cắc tê, dì dách, cá ngựa. Tối đến cùng kéo nhau đi xem đại nhạc hội, hát bộ, cải lương. Có vài nhân viên còn đi viếng núi Bà Đen, núi Cấm, núi Châu Thới, núi Chứa Chan, núi Sam, núi Sập, hay miếu Bà Chúa Xứ  ở tận Châu Đốc để xin xăm, bói quẻ. Cầu mong Thánh Thần phù hộ cho tiệm phở mau mở lại và đông khách hơn, để có tiền trả nợ, sắm quần áo, mua phấn son, trả tiền mướn nhà và cung phụng cho đám giang hồ bảo kê.

Chiến dịch hành quân chỉ làm chiếu lệ cho lấy có. Vài hôm sau, cuộc bố ráp chấm dứt thì đâu cũng vào đấy! Ba tiệm phở cùng hạ bảng tạm đóng cửa xuống, và tái khai trương trong tưng bừng, rầm rộ nhằm gỡ gạc lại những ngày đóng cửa bị thất thu.

Sau hết, xin nói về một Villa lớn rất đẹp với hoa, lá, cây, trái, hòn non bộ và nuôi nhiều chó. Đó là cơ ngơi của ông Đội Có. Ông rất giàu gồm: nhiều đất đai, nhà cửa cho mướn. Các bất động sản của ông nằm đối diện với chợ Phú Nhuận, mà bên cạnh có xe nước mía nổi tiếng. Hẻm Đội Có mang tên ông đã có từ trước năm 1975. Hẻm đi ra được đường Chi Lăng và ngược ra được xóm cầu Mới,Tân Định. 

Có lúc là Billards A Đ, tên cháu gái của ông. Cô là nữ sinh trường Marie Curie. Về sau dẹp Bida, mở cà phê nhạc rất đắt khách, vì nhạc hay, mới nhất và dàn âm thanh sống động. Hiện nay, Villa không còn nữa. Con cháu được hưởng quyền thừa kế đã đem bán và chia phần. Villa này bị đập phá hoàn toàn và một công trình xây dựng về Cứu Hoả đã được mọc lên.

Xin phép được dừng ở đây! Còn nhiều chi tiết không thể nào nhớ hết! Xin bà con Tân Định và bất cứ ai có cảm tình với con đường Yên Đổ thân yêu. Hãy vui lòng bổ túc đoạn đường còn lại như: Xóm Lách có quán bán thức ăn chay chỉ bán vào ban đêm, xóm Bến Tắm Ngựa, hẻm cư xá Kiến Thiết Công Lý có Phở Cô Lan, xóm Bắc Kỳ hẻm 288 có phở Bà Dậu chính hiệu 100%, không giá, không rau sống, không bột ngọt và cũng không mở chi nhánh ở bất cứ đâu, kể cả ở nước ngoài. Hiện nay do con trai bà tên Bình, tuổi Ất Dậu tiếp tục làm chủ. Mặc dù, Bà Dậu tiêu diêu nơi miền tiên cảnh đã lâu, nhưng có rất nhiều tiệm Phở ở hải ngoại đều quảng cáo trên các phương tiện truyền thông là phở của họ là phở Bà Dậu chính gốc trước năm 1975, do chính tay bà Dậu chế biến theo công thức gia truyền từ nhiều đời. Có lẽ các chủ nhân còn quyến luyến dư âm ngày tháng cũ, hay vì danh tiếng của tiệm phở này?

Ngoài ra, còn kể thêm hẻm Hàng Không Việt Nam mà đa số nhân viên làm cho Air Việt Nam hay Nha Căn Cứ Hàng Không Tân Sơn Nhất cư ngụ, chùa Vĩnh Nghiêm nằm dưới chân cầu Công Lý, gần trường Tiểu Học Sao Mai. Hai viện bào chế Vanco và TVT của Dược Sư Trương Văn Chôm, Cảnh Sát Cuộc Đặng Văn Bắc, Cư Xá Yên Đổ, Trung Tâm Đắc Lộ, Sở Mục Súc Đô Thành Sài gòn hay còn gọi là Sở Thú Y, số 254 Yên Đổ – Quận 3. 

Cứ mỗi buổi sáng cho xe đi bắt các chú chó chạy rong ngoài đường. Tài xế lái xe rất chậm, rảo quanh các ngả đường của thành phố. Đứng hai bên cửa tài xế là hai nhân viên tay cầm cây thòng lọng. Mắt lúc nào cũng láo lia, láo lịa nhìn hai bên lề đường. Khi thấy một em chó nào đang “Ôi ta buồn. Ta đi lang thang bởi vì đâu”, hoặc đang chui rúc đầu trong thùng rác kiếm ăn. Nhanh như chớp, hai chàng nhảy ngay xuống xe. Với thao tác chuyên nghiệp, thành thạo. Trong tích tắc, em chó đã bị thòng lọng thắt vào cổ, không kịp la ú ớ, và bị ném rất nhanh vào trong cũi sắt. Em được đem về Sở Thú Y nhốt tạm, chờ chủ nhân đến đóng tiền chuộc và chích ngừa. Sau vài ngày không đến chuộc thì các em sẽ được cho đi đầu thai kiếp khác.

Cuối cùng, là một ngôi chùa Miên nằm dưới chân cầu Trương Minh Giảng nhìn ra phía đường Kỳ Đồng có Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế với hang đá lớn lộ thiên rất linh ứng, được nhiều bà con không phân biệt tôn giáo đến cầu nguyện, xin được Ơn Trên ban phước lành và phù trợ.

Xin chào đoạn đường Yên Đổ “Kỷ niệm Ấu Thơ của tôi”. Bây giờ, nhiều người cũ một số đã đi vào miền miên viễn, một số về quê hay lập nghiệp nơi phương trời khác. Thay vào đó là những người hoàn toàn xa lạ dọn đến. Nhà cửa, hàng quán, các kiến trúc cũ đã được xây dựng mới.

Một thời gian nữa, các dấu tích ngày xưa sẽ biến mất hẳn.Và tất cả chỉ còn đọng lại trong ký ức tuổi thơ mà thôi!

Trần Đình Phước



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Aug/2022 lúc 3:18pm

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2022/08/tieng-long-sai-gon-le-van-sam.html - Tiếng Lóng Sài Gòn 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsB4uwk_PxwAd55NZDVlA3OFom40MmcrJwKFXlkn7domvqU9N6_Rkrb02XbKcFyIuk_igvJFV-Q8RvAF7Ek3e5hxqwfkQTL98cuxBNkK9s6Njh7mJnuSoO_-85vvPi70dmBV1NxfkDrBlDOGsu2YNQ2YQg2vU4SvPHK3NSyaEncFDT7_mv0scJqcVgHA/s966/15118265190_1d53b9ea8e_b.jpg">

Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời "tiếng lóng" khác đến thay thế. 

Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.

Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành tiếng lóng "sức mấy" để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám".
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn thời chiến, quê hương chiến tranh buồn phiền; "sức mấy" đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt "tính tính tè tè, tè ti tè ti té", làm cho đường phố càng náo loạn hơn.

Trước đó cũng từ bài ca "Diễm xưa" của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng lóng "xưa rồi Diễm ơi", mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe không muốn nghe thêm nữa.

Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà/Tour Ivoire, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng lóng "Cai gà", gọi cảnh sát là "mã tà", vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành "mã tà".

Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: "gác-dang" tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang.  

Cũng như nói "de cái đít" tức lùi xe en arrière; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: pour-boire âm bồi gọi "tiền boa", sau này chế ra là "tiền bo". 

Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là "con cò", còn nếu gọi "ông cò" là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi "thầy cò" tức là các ông chữa mor***e các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói "cò mồi" là tay môi giới chạy việc, "ăn tiền cò" thì cũng giống như "tiền bo", nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới. 

Thời kinh tế phát triển, đi xe auto gọi là đi "xế hộp", đi xe ngựa gọi là đi "auto hí ", đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là "xe điếc", đi nghỉ mát Cap Saint Jacques = Vũng Tàu  gọi là "đi Cấp".  

Đi khiêu vũ gọi là "đi bum", đi tán tỉnh chị em gọi là đi "chim gái", đi ngắm chị em trên phố gọi là "đi nghễ", gọi chỉ vàng là "khoẻn", gọi quần là "quởn", gọi bộ quần áo mới là "đồ día-vía". 

Ði chơi bài tứ sắc các bà gọi là "đi xòe", đi đánh chắn gọi là "múa quạt", đi chơi bài mạt chược các ông gọi là "đi xoa", đi uống bia gọi "đi nhậu", đi hớt tóc gọi đi "húi cua". 

Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài Gòn, đó là "đi đầu dầu", tức các chàng trai ăn diện "đi nghễ" với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là "hết sẩy", quê mùa chậm chạp gọi là "âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".

Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lão đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù tình", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai, gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của mình.

Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng "hia mão", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. 
"Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.

Ðào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi " tức uống café thiếu ghi sổ...

Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi "nhật trình". 

Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu", các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là "luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện tình cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải".  

Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư". 

Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Ðó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ", "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư. 

Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là "vòng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". 

Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, đạo đức giả, gọi là "Ðoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé...  

Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời. 

Thời Mỹ đến thì một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu 3 cẳng" thì thật không biết do đâu? 

Có lẽ cầu 3 cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Ðó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám". Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". 

Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy kia dẫn em dâu là ca sĩ Khánh Ngọc qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô. 

Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà", "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi". 

Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. 

Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lý do không rõ ràng để trốn việc.  

Ðể tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100 USD là "vé", đi ăn cơm bình dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...


Lê Văn Sâm



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Aug/2022 lúc 9:00am

HÁT BỘI VỀ LÀNG

Hát%20bội%20Miền%20Nam%20và%20thêm%20hát%20bội%20Bình%20Định%20—%20Tiếng%20Việt

Hôm đó, mới năm giờ chiều, cả xóm chợ An Nhơn nghe tiếng trống chầu “thùng!… thùng!… thùng!…”. Cái trống chầu để trước trường học, ngay đầu ngõ vô rạp hát An Nhơn. Bên cạnh có để mấy tấm tranh, trong đó có một tấm vẽ hình hai ông kép đang đánh nhau, một ông mặt đỏ cầm thương, ông kia mặt rằn có hàm râu quai nón đen hù, dễ sợ, cầm đại đao.

Tiếng trống vừa trổi lên thì mấy đứa con nít chạy u tới để coi đánh trống và coi mấy tấm hình hát bội, rồi bàn nhau “về xin tiền má, tối nay đi coi hát!”

Ở nhà ông nội mấy con, cô Năm nghe tiếng trống đã nôn nao, nấu cơm, ăn sớm. Cô Năm biểu ba chạy xuống nhà cô Năm Xây để rủ cổ đi coi hát. Cô Năm Xây đồng ý liền. Ba trở về nhà đã thấy cô Năm Thái, nhà ở phía bên kia đường, ngay đầu hẻm vô nhà ông nội mấy con, đang qua rủ cô Năm mấy con đi coi hát! Ba chị em bạn này rất thân nhau, thường rủ nhau đi ra Sài Gòn mua hàng, mua giày và chụp hình ở Photo Mỹ Lai, đường Bonard, tức là đường Lê Lợi bây giờ. Ngộ cái là cả ba cô đều thứ năm: Năm Nu, Năm Xây và Năm Thái.

Cái rạp hát An Nhơn này nhỏ xíu, nằm chen giữa nhà dân, chỉ có ba căn, cột cây, lợp ngói, ở ngoài ngó vô không thấy gì ra vẻ rạp hát. Chỉ có khác là mặt tiền có xây một cái phòng bán giấy. Vậy mà hầu như tháng nào cũng có đoàn hát về, khi thì hát bội, khi hát cải lương, khi hát xiệc, hát bóng.

Bữa đó nhằm tối thứ Bảy, ba được theo cô Năm đi coi hát bội. Ba ưa coi hát bội lắm. Ba thích nhứt là nghe nhạc hát bội, càng nghe càng thấy hay, vì mỗi cảnh đều có bản nhạc diễn tả được tâm lý, tình cảm của nhơn vật đang diễn. Cảnh triều đình thì nhạc trang nghiêm, cảnh mẹ già nhớ con thì nhạc êm dịu, nỉ non, cảnh chiến trường thì nhạc dồn dập, phấn khởi, thúc giục, v.v… Nghe riết rồi quen, rồi ghiền. Thiệt tình mà nói, ba coi hát bội là để nghe đờn ca, múa hát, chớ họ la hét om sòm bằng chữ Nho, ba có hiểu gì đâu? Nhưng nhìn họ biểu diễn bằng điệu bộ, sắc mặt, giọng nói thì biết được họ muốn gì. Phùng mang, trợn mắt một hồi là có đánh nhau, chắc chắn!  Tuy nghe không rõ, không hiểu từng lời, nhưng ba cũng nắm được toàn bộ câu chuyện của vở tuồng.

Tám giờ tối mới hát, nhưng mới bảy giờ thì khu rạp hát đã rộn rịp rồi. Ngõ vô rạp hát là khoảng đất nằm giữa trường học và Công Sở, có trồng một hàng cây sao cao lớn. Dọc theo tường trường học và dài theo hàng sao, nhiều người đã dọn hàng ra bán. Hàng để trên bàn thấp, thường là hột vịt lộn, khô mực, chuối nướng, chuối sấy, mía ghim, chùm ruột muối, trái cóc, ổi, nước đá xi-rô, sữa đậu nành, chè đậu xanh, bánh tráng nướng, bánh cam, bánh chài, đậu phộng nấu, đậu phộng rang, v.v… Quan trọng nhứt là hàng cháo trắng hột vịt muối và hàng cháo vịt. Người ăn lúm xúm ngồi trên những ghế thấp kiểu “ghế ăn chè” để dọc theo mấy cái bàn cây thấp chủm. Trai trẻ quanh vùng nhơn dịp này, dầu không coi hát cũng kéo nhau ra rạp hát chơi, ăn vặt, nói chuyện với nhau rất vui vẻ.

Quang cảnh từ ngoài ngó vô coi cũng hay hay: trên mỗi cái bàn đều có để một cái đèn dầu leo lét, hàng, quà bày đủ màu sắc, người mua, kẻ bán nói chuyện xôn xao.

Trước rạp treo một cây đèn măng-sông sáng choang, đang có nhiều người sắp hàng mua giấy. Ba chị em cô Năm đã gom tiền đưa cho chị Năm Thái là người lớn hơn hết để mua giấy ngồi gần nhau. Ba dòm tấm bảng ghi giá tiền, đọc được:

              – Thượng hạng            50 xu
              – Hạng nhứt                 40 xu
              – Hạng nhì                   30 xu
              – Ngồi giàn                  20 xu
              – Trẻ em                      nửa phần tiền.

Cỡ nào là trẻ em? Tùy anh hay chị xét giấy định, cho nên thường xảy ra cãi cọ giữa người đi coi hát và người xét giấy.  

Mua giấy rồi, bốn chị em đồng bước vô rạp. Có một tấm màn lớn màu xanh dương che sân khấu. Trước tấm màn có treo một cái đèn măng-sông soi sáng khắp cả rạp. Ba để ý thấy ghế thượng hạng chỉ có 3 hàng, mỗi hàng 6 cái ghế gõ có lưng dựa, để ngay chính giữa, gần sân khấu. Ghế hạng nhứt để tiếp theo sau ghế thượng hạng. Ghế hạng nhì sắp ở hai bên. Ngoài ra là giàn, tức là những tấm ván dài đóng từng bực từ thấp lên cao, sát vách và hai bên rạp.

Bốn chị em vô ngồi ghế hạng nhứt. Cô Năm Thái nói “Mình con gái, phải nhường cho người lớn ngồi thượng hạng. Mình ngồi thượng hạng người ta nói mình làm phách”.

Trong rạp người ta nói chuyện ồn ào, trong lúc ở hậu trường ban nhạc trổi liên tục. Lại thêm mấy chị bán mía ghim, đậu phộng vừa rao, vừa chen lấn nhau để mời mọc.

– “Leng keng! Leng keng!”  Chuông rung ra hiệu sắp hát. Khán giả im bặt vài giây, rồi tiếp tục nói chuyện.

– “Leng keng! Leng keng!” “Mời mấy chị bán mía ghim, đậu phộng ra ngoài. Mấy chị còn nán lại vài phút để ai muốn mua thì lẹ lẹ lên!”

– “Leng keng! Leng keng!” Màn kéo lên. Cảnh triều đình có ngai vàng, cột rồng đầy đủ. Ban cổ nhạc tấu một bài, ba không biết bài gì, nghe hay quá.

Tiếp theo là ba hồi trống Long Phụng, rồi vua chẫm rãi bước ra, điệu bộ rất oai vệ. Vua ngồi lên ngai, sửa vạt áo cho ngay ngắn, vuốt chòm râu đen, quạt quạt mấy cái, rồi cất tiếng:

“Ngôi trời sửa trị
“Trẫm, tước hiệu Minh Vương! …

– “Thùng!” Trống chầu đánh lên một tiếng để khen kép đóng vai vua.

Hát bội có cái ngộ là mỗi nhơn vật bước ra sân khấu đều “xưng tên” để tự giới thiệu cho khán giả biết diễn viên đang đóng vai trò nào trong vở tuồng.

Ba khoái nhứt là coi mấy ông tướng từ trong cánh gà bước ra, tướng đi dũng mãnh, múa một đường thương, hoặc đao, hoặc siêu, hòa theo tiếng nhạc rộn ràng, tiếng kèn tò le thúc giục, rồi đứng trụ lại, dõng dạc xưng tên!

Cho tới anh hề đóng vai chủ quán, khi mở màn cũng tự giới thiệu:

              “Như tôi nay cất quán cheo leo mé lộ
              “Để phòng khi chi độ bộ hành
              “Cha tôi xưa vốn thiệt Quán Manh
              “Tôi nối nghiệp, đặt tên là Quán Mỏng
              “Nhà không vách cũng không có chõng
              “Có mấy cái bàn để bán cheo leo
              “Khách bước vô đủ thấy tôi nghèo
              “Xin trả tiền mặt chớ đừng ăn chịu!  

Trở lại tuồng hát bội. Lâu quá, ba không nhớ là tuồng gì, nhưng có thể tóm tắt sự tích như sau:

Dưới thời vua “Minh Vương”, trong nước đang thái bình, thịnh trị. Bỗng có giặc phương Bắc xâm lăng. Vua sai một tướng tài của triều đình cầm quân đánh giặc. Trong lúc quân, tướng triều đình kéo ra biên ải thì ở trong triều bọn gian thần làm phản, khiến vua phải bỏ kinh đô lánh nạn, được các trung thần xả thân hộ giá. Đúng là “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”, nghĩa là nhà nghèo mới biết con có hiếu, nước loạn mới biết tôi trung. Ở kinh đô xảy ra nhiều cảnh nhiễu nhương: mẹ già trông con, vợ trông chồng, bọn gian hùng được thế ức hiếp chúng dân … Nhưng rồi tướng triều đình dẹp xong giặc, trở lại kinh đô, bắt bọn gian thần trị tội, rước Hoàng Thượng hồi loan, nhân dân lại hoan ca thái bình như trước.

Chuyện chỉ có vậy mà người soạn tuồng sắp đặt rất hay, màn nào coi cũng không chán.

Ông nội mấy con ngồi nhà đọc sách, nghe tiếng trống chầu đánh thưởng liền liền, biết là ban hát bội này hát hay lắm. Đêm đó ông Hương Giáo cầm chầu. Hễ đào kép nào hát ông cho là “khá”, ông đánh một tiếng “Thùng!” Ai hát hay, ông đánh hai tiếng “Thùng!… Thùng!…” Gặp đào kép nào hát hoặc múa hay quá, hoặc lời văn hay quá, ông đánh liền ba tiếng “Thùng!… Thùng!… Thùng!…” thì thường có vài khán giả ngồi ở ghế thượng hạng hoặc hạng nhứt kẹp tiền vô cây quạt rồi thảy lên sân khấu để thưởng. Có người trong cánh gà bước ra lượm quạt, gom tiền thưởng, rồi trả quạt lại cho vị khán giả sành điệu. Nghe nói đào kép hay có khi được thưởng tới hai đồng bạc một đêm.

Có một cái lệ của hát bội cũng hay hay. Đó là khi tuồng hát gần kết cuộc, còn chừng ba bốn màn nữa, thì ban hát “thả giàn”: cửa vô rạp mở rộng, ai muốn vô coi thì vô, khỏi mua giấy. Khi thả giàn thì bọn thanh niên và trẻ con nãy giờ chơi lẩn quẩn theo mấy hàng quà lại kéo vô đứng đầy rạp.

Vãn hát, mọi người lần lượt ra về. Một số còn nán lại ăn cháo vịt, cháo trắng hột vịt muối, cháo trắng tôm khô, củ kiệu. Anh bán quán trong tuồng hát cũng ra ăn cháo, ngồi chung với anh kép chánh đóng vai tướng trung hồi nãy. Còn anh kép “Thừa Tướng” ngồi ăn hột vịt lộn mà cái mặt cũng còn thấy ghét!

Ba theo mấy chị Năm đi thẳng về nhà, không ghé ăn cháo, vì trời đã khuya lắm rồi, ai nấy buồn ngủ quá chừng.

Ban hát bội này diễn tại rạp An Nhơn bốn đêm rồi dọn đi. Sau bữa hát chót, bà con ở chợ An Nhơn xôn xao bàn tán chuyện một cô gái trong làng lén bỏ nhà theo kép hát bội. Dưới bến đò, bà Bảy bán trầu cau lại có chuyện nói với bà Ba bán cá:

– Chị Ba ơi! Chị có hay chuyện con Lành bỏ nhà đi theo kép hát bội không?

– Ối! Sáng nay ngoài chợ người ta đồn rùm, ai mà không hay. Mà con Lành là con nhà ai vậy hả chị?

– Con Lành nhà ở gần Bộng Dầu đó! Nó mồ côi cha mẹ, ở với ông Hai Minh, kêu ông Hai bằng bác đó! Con nhỏ nhu mì, dễ thương hết sức, ai dè lại trốn nhà, theo kép hát, hư thiệt là hư!

– Mà nó theo ai vậy chị Bảy?

– Nghe nói nó theo thằng Sửu.

– Thằng Sửu nào vậy chị?

– Cái thằng kép đóng vai Triệu Tử Long đó! Tối, nó giồi phấn, vẽ mặt, bận quần áo hát bội vô, đội mão coi lịch sự hết sức. Mà tiếng của nó tốt, múa hát cũng hay, không nói ra chớ nhiều đứa con gái mê nó lắm! Còn con Lành nghe nói bốn đêm nó đi coi hát đủ bốn.

– Chèn đéc ơi! Mà cái thằng kép Sửu gì đó, nó bao nhiêu tuổi, có vợ con chưa vậy hả chị Bảy?

– Ai mà biết! Mà thằng đó hả chị, ban đêm coi nó lịch sự vậy, chớ sáng ra nó xấu hoắc hà, chị Ba ơi! Sáng bữa nào tôi cũng thấy nó ra ăn cháo huyết của chú Keo, mặt mũi nó đen đúa, lại bị lác đồng tiền trên cổ nữa, vậy mà con Lành mê cái nỗi gì không biết nữa!

– Chị nhắc tới chú Keo. Mà chú Keo nấu cháo huyết ngon quá hả chị? Có hai xu một tô mà có gan, có lòng, lại có mấy miếng dầu chao quảy, để thêm mấy cọng gừng non, rắc tiêu, bỏ thêm hành lá …

– Nghe chị nói mà tôi phát thèm!

Trong lúc bà Bảy, bà Ba nói chuyện thì mấy bà, mấy chị đang chờ đò cũng bàn vô, mỗi người một câu về chuyện cô Lành theo kép hát Sửu. Một bà già thở ra, ứ hự một cái, rồi nói:

            “Trồng trầu thả lộn dây tiêu
            “Con theo hát bội, mẹ liều con hư!

Đò cặp bến, ai nấy lần lượt cắp thúng, quảy gánh xuống đò. Trời xanh ngắt, nước trong leo lẻo, chiếc đò êm đềm trôi qua phía An Lộc.

Coi hát bội quen rồi cũng ghiền lắm. Nhà ở gần rạp hát nên ba thường được đi coi hát. Có những tuồng coi đi, coi lại cũng còn hay, như mấy tuồng này:

            – Trảm Trịnh Ân
            – Thần Nữ Dưng Ngũ Linh Kỳ
            – Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu
            – Tiêu Anh Phụng Loạn Trào
            – Ngọc Kỳ Lân Xuất Thế
– v.v…

Lúc đó ba còn nhỏ xíu mà có những màn hát bội làm ba nhớ hoài. Thí dụ như cảnh một ngưới con cõng mẹ chạy giặc, băng qua một khu rừng. Bà mẹ khát nước, người con để mẹ ngồi trên một tảng đá, chạy xuống suối để lấy nước. Bà mẹ đang ngồi ca, than thở, thì trong bụi có cái đầu cọp ló ra, làm ba sợ quá! Rồi con cọp nhảy ra vồ người mẹ, tha tuốt vô rừng sâu, làm ba sợ muốn khóc luôn! Hoặc cảnh “Ngọc Kỳ Lân xuất thế”, pháo nổ một cái “đùng”, Ngọc Kỳ Lân miệng ngậm pháo bông, múa may rất ngoạn mục!

Thường thì cảnh hai tướng đánh nhau, đánh theo “quy ước” của hát bội, không phải đánh võ thiệt. Nhưng có lần ông Tám Thưa, một thầy dạy nghề võ, đóng vai Quan Vân Trường. Ông Tám Thưa hóa trang giống hệt hình “Ông” ba thấy thờ trong Chùa Ông. Ông Tám cầm Thanh Long Đao, múa một đường siêu tuyệt vời. Ông “loan” siêu nghe tiếng gió vù vù, tưởng như tên bắn cũng khó lọt vô mình ông được. Ai nấy coi đều thán phục.

Nhắc tới ông Tám Thưa, ba lại nhớ tới ông Bảy Phúc, nhà ở sau nhà ông nội mấy con, cũng là một  thầy dạy “nghề”.  Năm 1945, những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ông Bảy tập luyện võ nghệ cho đám thanh niên trong làng, thay vì chỉ tập đi “một! hai!” như nhiều làng khác.

Nói chuyện về hát bội, ba lại nhớ tới những buổi cúng đình. Có thể nói ở trong làng vui nhứt là mấy ngày Tết, kế đó là những ngày cúng đình. Đình An Nhơn lúc đó tọa lạc dưới vòm cây cổ thụ. Trước Đình có sân rộng, có trồng một hàng sao cây to, bóng mát. Bên kia đường là một khoảng đất rộng, mùa mưa trồng lúa, mùa nắng trồng thuốc lá hoặc đồ rẫy: bầu, bí, khổ qua, dưa leo, khoai mỡ, cà chua, cà tím, v.v…

Rằm tháng Tám âm lịch là ngày cúng đình. Trước đó, Ban Hội Tề cùng với vài vị tai mắt trong làng và Ban Trị Sự Hội Đình đã nhóm họp, bàn việc cúng đình.

Người ta dựng trước sân đình một cái “võ” rộng rãi, cột tre, lợp lá dừa nước, sân khấu đối diện với bàn thờ Thần, cốt ý để Thần coi hát. Trước sân khấu có sắp ghế, hai bên có đóng giàn, đủ chỗ ngồi cho vài trăm khán giả. Năm đó trúng mùa thuốc lá, tiền quỹ của Đình còn dư khá, Đình rước hát bội tới hát ba ngày, ba đêm liền.

Ngày đầu tiên là lễ “thỉnh Sắc”, tức là thỉnh “sắc lịnh” của vua Tự Đức ban năm 1852, phong Thần cho “Thành Hoàng bổn thổ”, có câu “ĐẠI CÀN QUỐC GIA NAM HẢI TỨ VỊ TÔN THẦN”, chứng tỏ Đình An Nhơn thờ bốn vị thần. Thường ngày, Sắc vẫn thờ ở Công Sở, tới ngày cúng mới thỉnh Sắc đưa về Đình. Sắc vua đựng trong một cái hộp bằng gỗ trầm, đặt trên một cái kiệu sơn son thếp vàng, hai thanh niên ăn mặc chỉnh tề khiêng xuống Đình. Có mấy vị hương chức áo dài, khăn đóng đi theo “hộ Sắc”. Đoàn thỉnh Sắc đi chẫm rãi theo tiếng trống và tiếng chiêng, cứ ba tiếng trống là ba tiếng chiêng tiếp theo:

– “Thùng!… Thùng!… Thùng!…”

– “Beng!… Beng!… Beng!…”

Dân làng nghe tiếng chiêng, trống thì biết ngày mai cúng đình, ai ai cũng sắp đặt để đi cúng và coi hát bội luôn thể.

Theo bản Lý Lịch Di Tích Đình An Nhơn thì Thần Đình An Nhơn là một bà Thái Hậu (mẹ đức vua) và ba vị công chúa gốc ở Trung Hoa. Lúc giặc Nguyên chiếm đất Trung Hoa thì các vị này chạy lạc đến biển Nam Hải vào năm 1276. Bốn vị này không chịu đầu hàng quân giặc nên đồng nhảy xuống biển trầm mình tuẫn tiết. Từ biển Nam Hải, thi thể bốn vị trôi lần qua bờ biển Bắc Trung Phần Việt Nam, cuối cùng tấp vào xã Hưng Cần, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đồng bào cư ngụ tại đây vớt bốn thi thể lên, quần áo còn đủ, chỉ mất một chiếc hài (giày), bèn tâu báo với triều đình. Vua Trần Thánh Tôn phái Khâm Sai cử hành lễ an táng rất trọng thể. Từ đó, hồn thiêng bốn vị hiển hách oai linh, nên đồng bào lập đền thờ “Đức Thánh Mẫu”. Một chiếc hài trôi lạc vào làng lân cận. Dân chúng nơi đó vớt hài lên và lập một đền thờ gọi là đền thờ “Đức Thánh Mẫu Phủ Giày”. Từ đó địa phương này có tên là “Phủ Giày”.

Từ năm 1776 đến năm 1801, chúa Nguyễn Phúc Ánh nhiều phen tẩu quốc, mượn con kinh tắt xã An Nhơn thoát nạn Tây Sơn. Đến khi lên ngôi năm 1802, vua sai vị Tổng Trấn Gia Định thành là Đại tướng Đoàn Hùng và Quận công Nguyễn Văn Trương đến lập đền thờ tại An Nhơn Xã, nơi Đức Thánh Mẫu hiển linh. Sử tích của bốn vị thần này có chép lại trên một tấm bảng sơn đỏ, chữ vàng, để trong chánh điện Đình, và có in ra phát cho khách viếng Đình.

Tối hôm thỉnh Sắc, ban hát bội hát “xây chầu”. Ba có đi coi xây chầu một lần, ba không hiểu cái gì hết, nhưng nghe tiếng trống, tiếng đờn và kèn “tò le” cũng thích!

Ba ngày cúng đình vui lắm. Trước sân đình, tràn qua bên kia đất rẫy, người ta bày bán đủ thứ quà vặt. Cũng những món ăn bình dân như hột vịt lộn, khô mực, khô hố, rượu đế, rượu thuốc, chuối nướng, chuối sấy, chuối chiên, mía ghim, chùm ruột muối, mứt chùm ruột, mứt me, trái cóc, ổi, mận, nước đá xi-rô, xá xị “Con nai”, chè đậu, bánh tráng nướng, bắp nướng, bắp nấu, đậu phộng nấu, đậu phộng rang, v.v…, không thể kể hết. Người nhà luân phiên nhau bán suốt ngày đêm vì hát bội cũng hát suốt ba ngày, ba đêm luôn.

Coi hát khỏi mua giấy, ai muốn vô coi lúc nào cũng được. Còn ghế trống thì ngồi, chỉ chừa hai hàng ghế đầu cho Ban Hội Tề và các vị nhân sĩ, hào phú trong làng. Hết ghế thì ngồi giàn, giàn chật hết thì đứng. Coi tới đói bụng thì về ăn cơm rồi trở lại coi tiếp. Người đi cúng đình, đi coi hát, tới lui nườm nượp. Cũng có người bận việc, chỉ đi cúng, không coi hát. Có thể nói không có nhà nào không đi cúng đình, vì ai cũng tin tưởng nhờ thần thánh phò hộ cho nên làng An Nhơn được thanh bình, yên ổn, ai nấy lo làm, lo ăn, ít lo trộm cướp.

Những vị chức sắc chia phiên nhau cầm chầu suốt cả ba ngày đêm. Không có điện, không có mi-cờ-rô, nên đào kép phải rán sức mà hát lớn, người cầm chầu phải thưởng chầu đúng lúc cho đào kép họ vui.

Về việc cúng đình, từ Bắc chí Nam nhiều sách vở đã tả kỹ, đầy đủ và hay lắm, nên ba chỉ nhắc sơ cho mấy con biết qua một khía cạnh đặc sắc của phong tục Việt Nam.

Trở lại cái rạp hát An Nhơn. Ngoài hát bội, đôi khi có đoàn hát cải lương về. Hát cải lương dễ hiểu hơn, ít nói chữ Nho. Lại hay có những màn “mỹ thuật” đánh phép, phi thân bay lên cao, hoặc đấu “boa-nha” (poignard), v.v… Hấp dẫn nhứt của hát cải lương có lẽ là bài ca vọng cổ! Có thể nói không có vọng cổ thì không phải là cải lương!

Ngoài hát bội và cải lương, lâu lâu cũng có đoàn xiệc “Lạc Hồng” về An Nhơn diễn. Đoàn này có nhiều màn ảo thuật rất hay. Diễn viên hầu hết là người Bắc. Ba và các bạn học của ba ưa đi coi đoàn hát xiệc này lắm.

Rạp An Nhơn cũng có “hát bóng”. Lúc đó An Nhơn chưa có điện, đoàn hát bóng này có máy đèn riêng. Chiếu phim câm, vì thời đó chưa có “hát bóng nói”, cũng chưa có phim màu. Nhơn vật trong phim đi cà giựt, cà giựt. Phim câm, nhưng có tiếng động như tiếng kèn xe hơi, tiếng xe lửa chạy xình xịt, Tây kêu là “cinéma sonore”, tức là hát bóng có âm thanh lồng vô. Cái đoàn hát bóng này nghèo quá! Chỉ có hai ba phim chiếu đi, chiếu lại. Mỗi lần tới An Nhơn hát chừng hai ba đêm, kiếm một mớ bạc cắc, rồi dọn đi êm!

Đặc biệt, có lần Đoàn Xiệc thú Tạ Duy Hiển về dựng lều ở miếng đất trống, chỗ cái đồn đất gần Gò Vắp ngó qua. Đoàn Tạ Duy Hiển này có những màn diễn thú với ngựa, voi, gấu, cọp, khỉ thật là đặc sắc. Tới màn cọp nhảy vòng lửa thì có kéo rào sắt ngăn cách chỗ thú biểu diễn và khán giả. Ông Tạ Duy Hiển mặc áo dài gấm, đội khăn đóng màu vàng, cầm roi điều khiển cho ba con cọp vừa gầm gừ, vừa nhảy qua vòng lửa cháy rực. Lại có những màn “đu bay” trên cao xem thật rùng rợn.

Người Việt Nam mình cũng ngộ, không có môn nào mà mình không học được, và làm được, chẳng kém các nước khác. Chỉ tiếc là mình nghèo quá, khó tranh đua với người …


Tiền Vĩnh Lạc



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Aug/2022 lúc 8:58am

https://www.youtube.com/watch?v=XJDTReEVdeU - Những Chiếc "XÍCH LÔ ĐẠP" Ngày Ấy | https://www.youtube.com/watch?v=XJDTReEVdeU -  Một Nét Đẹp Riêng


Chiếc%20xích%20lô%20chở%20mùa%20xuân%20Tác%20Giả:%20Thanh%20Thương%20Hoàng%20-%20ĐỌC%20TRUYỆN%20-%20Ái%20%20Hữu%20Biên%20Hòa


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Aug/2022 lúc 3:04pm



Song Thao





1 - Gỏi Đu Đủ :

Tôi bị gỏi đu đủ bò khô nắm cẳng, cho tới bây giờ. Đĩa đu đủ bò khô đầu tiên tôi ăn là ở cổng trường Dũng Lạc, bên hông Nhà Thờ Lớn Hà Nội, khoảng đầu thập niên 1950. Ngày đó trước cửa trường có nhiều hàng quà vặt, điểm đặc biệt là hầu hết người bán là đàn ông.

Ừ thì là trường con trai nhưng sao người bán lại cùng dòng giống, chuyện cho tới nay tôi vẫn cứ thắc mắc.

Ông nào cũng có tên không phải do cha mẹ các ông ấy đặt. Bánh mì giò chả có ông Lý Toét, ông Đại Quấy bán cái chi chi tôi quên béng mất. Nhưng ông được tôi mến mộ nhất, ngày nào cũng dúi cho ông ấy ít tiền là ông bán món đu đủ bò khô thì lại không có tên.

Tay ông cầm cái kéo cắt thịt bò dập tanh tách không ngừng, như một cách rao hàng.

Khi có khách, hai tay đó cầm hai chai, một nước tương đen đen, một dấm trắng có pha chút ớt hồng hồng xịt lia lịa xuống chiếc đĩa nhôm đu đủ bò khô có vương chút rau thơm rau răm xanh xanh trên mặt. Chỉ nhìn hai cánh tay khua khua đã thấy nước bọt túa ra đầy miệng.

Tôi đã chết mệt với món đu đủ bò khô từ những ngày non dại đó.

Cho tới ngày nay tôi vẫn…non dại.

Vẫn mê món đu đủ bò khô. Vào nhà hàng nào có bán là tôi ít khi bỏ qua.

“Bệnh” này bắt nguồn từ những ngày Hà Nội nhưng nặng thêm từ khi di cư vào Sài Gòn, khi nếm mùi gỏi đu đủ của ông già áo đen trước cửa tiệm nước mía Viễn Đông nơi góc đường Lê Lợi và Pasteur.

Thời sinh viên, đậu chiếc xe Goebel hai màu vàng và cam bên lề, anh chàng tuổi trẻ ngày đó nhào vào hàng ông già áo đen, bưng chiếc đĩa nhôm ra ngồi trên yên xe đắm đuối với cái vị mằn mặn, chua chua, cay cay, nồng nồng không thể có trong các món ăn khác.

Đĩa gọi đĩa, thường phải ít nhất hai đĩa mới dứt áo ra đi được. Có những ngày nặng túi, hai đĩa còn chưa ra đâu vào đâu, hai đĩa tiếp nữa mới…đủ. Còn tiếc rẻ húp hết nước trong đĩa. Báo hại bữa cơm chiều đó sao thờ ơ uể oải khiến bà già đưa mắt dò hỏi.

Anh bạn trẻ tuổi Phạm Công Luận, quen trên giấy bút nhưng chưa bao giờ giáp mặt, nhắc nhớ tới ông già áo đen của thời đó.

“Những anh chị tôi, lứa tuổi nay đã bước vào tuổi 60, 70 rất quen thuộc với hàng bò khô, nay gọi là gỏi khô bò của ông già áo đen bán trên đường Pasteur.

Họ vẫn nhớ những buổi chiều chưa tắt nắng của Sài Gòn nửa thế kỷ trước, tan trường Sư Phạm, trường Luật là phóng xe ra ngay góc ngã tư Lê Lợi – Pasteur, ngồi trên xe gọi mấy đĩa khô bò đu đủ cùng một lúc.

Từ xa đã thấy bóng ông chủ xe khô bò, luôn luôn bận áo đen nên chết tên.

Phải canh làm sao để ăn được gỏi khô bò của “ông già chemise noire” hay “ông già áo đen” này dù khu đó có tới bốn người bán gỏi khô bò đu đủ bào. Không mấy ai biết tên gì, chỉ gọi biệt danh như vậy”.

Món khô bò đu đủ bào ngon như thế nào phải nghe ông tổ sư ẩm thực Vũ Bằng tán :

“Có ai một chiều nào nhàn tản trên con đường Pasteur, ở ngã ba Lê Lợi, có thấy hàng toán người tề tựu ở trước chùa Chà như dự một cuộc mết tinh vĩ đại? Không, họ không phản đối gì hết mà cũng chẳng yêu cầu gì hết. Khẩu hiệu của họ căng lên ở trong lòng: họ ăn, họ uống, và uống và ăn để làm thỏa mãn cái dạ dầy nhiều đòi hỏi. Có người đứng ăn; có người ngồi ghế ăn; có người ngồi ở xe máy dầu gác chân lên hè để ăn; có người ngồi xổm trên hè để ăn; lại có người hãm xe hơi lại, thò đầu ra ngoài kêu ăn. Họ ăn gì vậy? Ăn bánh tôm; ăn bì bún; ăn bánh mì phá lấu; ăn ốc; ăn bánh canh giò heo; nhưng muốn gì thì gì, món được người ta thưởng thức nhiều nhất, nồng nhiệt nhất và thành tín nhất vẫn là món đu đủ bào, rưới rất nhiều giấm ớt lên trên. Ở cái đất quanh năm nắng chói như đây, tạng người ta nhiệt lắm, lòng lúc nào cũng cứ xót như cào: ăn cái món ấy vào mát ruột. Các ông ưa quá, mà các bà các cô lại ưa hơn; ăn một đĩa rồi lại muốn ăn đĩa thứ hai, thứ ba…thứ sáu. Chính tôi đã thấy có một bà ăn chơi sơ sơ một lúc sáu đĩa như thế rồi xuýt xuýt xoa xoa, chảy cả nước mắt nước mũi mà có vẻ như vẫn còn thèm ăn nữa. Ờ, cái món đu đủ bào trộn giấm ớt đó là gì vậy? Thưa, đó là khô bò. Đu đủ bào, trên đặt mấy miếng khô bò, tưới giấm ớt rồi rắc mấy lá ngò lên trên đó, chỉ giản dị có thế thôi, vậy mà ăn vào…phải biết! Ngon chết người đi được!”.

Cái món ngon chết người đi được này là món ta hay món tầu, nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi.

Tác giả Lưu Khâm Hưng có vợ người Tàu thắc mắc. Ông cũng nghĩ đây không phải là món của người Hoa nên hỏi vợ cho chắc ăn. Ai ngờ bà vợ trả lời tỉnh queo:

“Hồi đó đi học ăn hoài, dường như món này của người Tàu. Mấy xe bán gỏi đu đủ khô bò ở Chợ Lớn đều do mấy ông Tiều bán. Bởi vậy ăn gỏi khô bò đâu có chan nước mắm mà là chan nước tương pha giấm ớt”.

Thiệt hôn? Cái món làm say đắm nhiều người Việt này là một món ngoại lai sao?

Tác giả Minh Lê trong bài “Gỏi Khô Bò” đã cất công tìm kiếm.

Theo ông, thành phần chính của món ăn hớp hồn này là đu đủ và bò.

Đu đủ có gốc ở châu Mỹ, được mang sang trồng tại châu Á từ đầu thế kỷ 19.

Trong từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhode, xuất bản năm 1651, chưa có từ đu đủ. Nhưng trong cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1895, từ “đu đủ” đã có ở trang 327, chứng tỏ khi đó đu đủ đã khá phổ biến ở Việt Nam.

Về thịt bò, dân Việt chuộng nuôi trâu hơn nuôi bò. Nhưng tới năm 1915, cụ Phan Kế Bính đã liệt kê trong cuốn “Việt Nam Phong Tục”:

“Về thứ đồ ăn thì nhất là hay dùng những thịt trâu, bò, dê, lợn, gà ,vịt, chim, ếch, tôm, cá, cua, ốc..v..v..mà thịt lợn là thứ cần dùng hơn hết”.

Tác giả Minh Lê viết:

“Vậy vào thời điểm cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, điều kiện “cần và đủ” cho gỏi khô bò đã có, chuyện còn lại là khoảng năm nào và có ở đâu trước?

Nói về miền Bắc, tôi “chộp” được câu này:

“Hà Nội 1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi…bây giờ phố xá Hà Nội có những món ngon mới, như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và giấm, “lạp chín chương”, ăn vào thấy đủ vị cay chua mặn chát.

Tác giả Nguyễn Duy Hảo, bút hiệu Ba Lăng, ăn gỏi khô bò từ 1948:

“Thú thật là tôi không được biết rõ món đu đủ bò khô có từ bao giờ và nguồn gốc của nó cũng như do ai sáng chế ra món ăn đáng nhớ này. Riêng cá nhân tôi đã được thưởng thức món quà đặc biệt này từ năm 1948 tại cổng trường tiểu học Hàng Than Hà-Nội”.

Khô bò có cách chế biến giống với món phá lấu chiên của người Tiều nhưng người Tiều ăn phá lấu với cơm chứ không làm gỏi đu đủ. Ngoài khô bò, xì dầu là dấu ấn của người Hoa. Nhưng đu đủ bào và đậu phọng lại tương tự như món tam maak hung của người Lào và món som tam của người Thái. Không biết có nên kết luận là một người Việt nào đó đã kết hợp hài hòa các món trên để chế ra món gỏi đu đủ khô bò thần sầu mà tôi là một đệ tử không.

Tôi đã một phen thất vọng với món som tam của Thái Lan. Trong một lần tới Bangkok vào cuối năm 2019, trước khi có dịch covid, tôi đã háo hức thử món gỏi đu đủ phổ biến của Thái Lan. Tới Thái Lan mà không thưởng thức som tam, một di sản văn hóa ẩm thực của đất nước hiền hòa này là một thiếu sót to lớn. Món này được bán khắp các nhà hàng và xe bán rong tại Bangkok. Tôi order và thích thú chờ đợi. Cô hàng khá xinh bắt đầu chế biến. Nhìn mà chóng mặt với cái tay thoăn thoắt vứt nguyên liệu vào một chiếc cối. Đu đủ xanh, đậu đũa, xoài xanh, cóc Thái, cà chua, chanh, nước mắm, đậu phọng, tỏi, tôm khô, đường thốt nốt và ớt. Hình như có cả ba khía nữa. Đĩa gỏi được tôi khới khới cố ăn vài miếng rồi chịu thua.

Cay xé lưỡi, cũng chua chua, chát chát, mặn mặn, ngọt ngọt nhưng đó là một thứ hầm bà lằng giã nát trong cối. Nhìn đĩa gỏi dở dang mà không dám nói năng chi. Lỗi tại tôi không biết tiếng Thái. Nếu biết som có nghĩa là chua và tum có nghĩa là giã thì tôi đã không tốn vài chục baht!

Som tum là một hóa thân tồi của gỏi đu đủ khô bò của ta. Cái miệng đã nếm qua gỏi khô bò sẽ không bao giờ rời được cái vị chua chua, cay, ngọt, mằn mặn bùi bùi của món ăn đường phố hấp dẫn này.

Vét hết những sợi đu đủ, nhai xong những miếng khô bò nho nhỏ, người sành điệu phải húp cho bằng hết phần nước còn sót lại. Đây là một hậu vị, kết thúc hoàn chỉnh một thức ăn làm mê mệt những cái miệng sành sỏi.

Tôi bao giờ cũng dành miếng gan nướng sém cạnh bùi, béo, cho những miếng cuối cùng.

Chính miếng gan này đã gọi đĩa thứ hai, rồi thứ ba, thứ...

Hình như đã lậm món ăn dân dã nhưng ngon chết người này thì chẳng bao giờ có thể rời xa được.

Không lẽ lại ví cái nghiện gỏi đu đủ khô bò này với mấy ông hít tô phe ôm ấp nàng tiên nâu nhưng tôi e rằng cả hai đều chung một quyến rũ.

Phạm Công Luận, người tương đối trẻ, sống thời nay nhưng miệt mài đi tìm những dấu vết xưa của Sài Gòn đã có duyên gặp được anh Nguyễn văn Tuynh, con trai của ông già áo đen.

Anh Tuynh, người phụ cha bán đu đủ bò khô suốt 9 năm trước khi đi quân dịch, nhớ lại:

Sài Gòn thời ấy không có nhiều hàng quán cầu kỳ như bây giờ. Không chỉ giới bình dân, giới có học không câu nệ phải ăn hàng quán sang trọng mắc tiền.

Do đó các xe bán hàng ăn trên lề đường rất đông khách, có đủ cả sinh viên, thầy cô giáo, tiểu thương, công tư chức và quân nhân.

Anh Tuynh tiết lộ cách làm khô bò của ông già áo đen:

“Nhà tôi làm khô bằng lá lách bò, thịt thì bằng thịt ở má bò vì má bò có gân nên vừa mềm vừa dai, khi chín tới ăn rất thơm ngon. Lá lách bò dài như miếng gan heo, luộc chín, khứa từng khứa để khi xào nấu thì gia vị thấm vào bên trong mới ngon. Xong đem xào với sả, ngũ vị hương, muối, đường, gừng (để khử mùi nồng của lá lách bò) rồi đổ nước vào cho ngập mặt, đun hơn một giờ cho sệt lại. Sau đó vớt ra cho vào chảo chiên. Qua ba công đoạn luộc, xào rồi lại chiên nên mới có miếng sém cạnh, vừa bùi vừa giòn, ngon vô cùng”.



2 - Nước mía Viễn Đông:

Khu nước mía Viễn Đông thời của chúng tôi là một khu ăn hàng số một ở Sài Gòn. Ngày đó chúng tôi tấp vào ăn, thấy có đủ các…bộ môn: gỏi khô bò, hủ tiếu, bò viên, bánh cuốn, bò bía, phá lấu.

Người bán tấp nập, người ăn cũng tấp nập. Thấy khu bán hàng quà vặt này đông vui, chẳng ai trong chúng tôi thắc mắc. Nhưng nay anh Tuynh cho biết chính cha anh, ông già áo đen bán gỏi bò khô là người đứng ra tổ chức khu ăn uống nhộn nhịp được đặt tên không chính thức là “bến nước mía Viễn Đông”.

Bến nằm trên đường Pasteur, khúc từ đường Tôn Thất Đạm đến Lê Lợi. Cha anh Tuynh đã từng dừng xe bán ở trường Chu văn An, góc đường Lê Thánh Tôn và Tạ Thu Thâu quanh chợ Bến Thành và đều bị đuổi chạy trối chết.

Khi ông tới bán ở góc đường Pasteur và Lê Lợi, xế cửa hàng nước mía Viễn Đông, cảnh sát ở bót Lê văn Ken cũng đuổi.

Sau khi bàn bạc với các bạn hàng cùng bán tại địa điểm này, ông đến bót Lê văn Ken xin thành lập một “bến” tập trung buôn bán, đóng thuế đàng hoàng.

Ông sẽ là người thu thuế nộp lại cho cảnh sát. Vậy là khu ăn hàng của Sài Gòn thành hình.

Có bốn người bán gỏi bò khô, tất cả đều là dân di cư. Ngoài ông già áo đen, còn có các ông Thung, ông Chiếu và ông Dần. Tôi luôn luôn là khách trung thành của ông già áo đen, chưa bao giờ biết các ông khác. Ông bác sĩ Lê văn Lân ngày đó có một bài thơ về “bến” Viễn Đông mang tên “Quà Rong” được nhiều người biết.

Người đi trăm nhớ ngàn mong
Người về còn nhớ quà rong năm nào
Đầu đường nghe thoáng lời rao
Là tha hồ biết quà nào rẻ ngon
Dăm bông, thịt nguội, mì giòn
Hai đồng một ổ bà con mua giùm
Anh ơi, nước mía Viễn Đông
Hai ly chưa đã, mát lòng em luôn
Thêm đĩa bò bía chấm tương
Ăn kèm phá lấu, em thương anh nhiều
Ốc sò, muối ớt, chanh tiêu
La ve, củ kiệu càng nghèo càng ham
Cóc chua, tầm ruột, ổi dầm
Thua gì xoài tượng, mới dầm đã chua.

Bài thơ đã ghi lại một thời Sài Gòn nhộn nhịp ăn uống xôn xao. Có điều tại Bến Viễn Đông có tới bốn ông bán gỏi bò khô mà ông bác sĩ không nhắc tới món này. Thiệt là một người đãng trí!

Tôi phải nói thêm là, những ngày hoa mộng đó, chúng tôi thường không bỏ về sau khi vét hết vài đĩa gỏi bò khô mà còn một chuyện luôn luôn chẳng bao giờ đãng trí. Đó là phải xếp hàng uống bằng được một ly nước mía Viễn Đông. Ly nước mía mát lạnh, vắt thêm trái tắc, uống vào tới đâu biết tới đó. Đó là một kết thúc hoàn hảo cho một buổi rong chơi với quà rong.

Tôi muốn kết thúc bằng một tiết lộ nho nhỏ.

Bà chủ nước mía Viễn Đông hiện sống ở thành phố Montréal chúng tôi.

Tôi có gặp bà một lần, chưa tiện hỏi về cửa hàng nước mía huyền thoại ngày đó thì mất liên lạc với bà.

Thiệt đáng tiếc! Tiếc như gan ruột cồn cào khi nhớ lại những ngày hoa mộng đẹp đẽ đó.


Song Thao


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Aug/2022 lúc 9:27am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2022/08/nhung-ky-uc-ve-cuoc-song-sai-gon-xua.html - Những Ký Ưc Về Cuộc Sống Sài Gòn Xưa Trước 75: Cho Tôi Lại Ngày Nào…

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEga0Bb3CJaEq572n_E7uvloUz6odgRUETTVEJCxgIj3Wj0xw_KITxcZnkdzI53QuZRGvqBhKOUSgbcrDCr1wzxdigR0Iwp95wdO1usMv2ngxOYm77q300J7dgTtGpql6izun8umRZdw0INcLgZ0k_WUBhZHaQgI4aYXZJ0wpARQsNPDnFHEaDonCEOLIA/s624/nhung-ky-uc-01%20%281%29.jpg">

Trước 1975 tại Sài Gòn (Và chắc chắn là tại cả miền Nam), nếu tôi nhớ không nhầm, tất cả các loại xe hơi đều bị bắt buộc phải phết sơn màu vàng lên 1/3 phía trên của mặt kính 2 đèn trước, với dụng ý ngăn các bác tài khi pha đèn ban đêm sẽ làm bớt chói mắt người hay xe chạy ngược chiều. Lại nữa, nơi các ngã tư gần mọi bệnh viện đều có treo bảng “Cấm nhấn còi” để giúp các bệnh nhân ở đó được nghỉ ngơi thực sự. Rồi các xe đỗ trên các phố cũng đều phải tuân theo bảng “Ngày chẵn lẻ”.

Tất cả xe taxi – Lúc đó là loại 4 chevaux – đều sơn tuyền một màu xanh hoặc nửa vàng nửa xanh, nhằm giúp khách nhận biết từ xa để gọi mà không nhầm với mọi thứ xe chạy “dù” khác. Của đáng tội, thời ấy còn lạc hậu, tôi còn nhớ mỗi khi ngồi trong xe mà muốn mở cửa bước xuống, thì người ta đã không tìm thấy tay nắm đâu cả mà phải cầm vào một sợi dây thép căng hết bề ngang cánh cửa để kéo thật mạnh. Ấy thế mà những chiếc taxi cũ kỹ ấy vẫn đã làm nên một phần chân dung Sài Gòn thuở ấy. Chúng phải có phần đèn hộp bắt chết trên mui xe, mà về đêm, hộp đó sẽ sáng lên.

Xe buýt cũng phải sơn một màu đặc trưng để dễ phân biệt với các loại xe đò chạy tuyến dài. Ví dụ như khi đó, tại gần khu Bà Quẹo, vẫn có bến xe buýt vàng (Gọi là tô-buýt vàng) mà nếu muốn cầm lái, tức là khi họ rong ruổi mà ngồi sau lưng họ sẽ là sinh mệnh của mấy chục người vô tội, các bác tài phải trải qua bao nhiêu năm mướt mồ hôi mới giật được bằng chuyên dụng. Từ 18 – 20, anh đã có thể học và thi lấy bằng xe 4 chỗ; sau đó vài ba năm, mới lên được một hạng, rồi cày vô-lăng thêm vài năm nữa, mới cho sờ tới xe tải nhẹ dưới 1 tấn, lại phải thêm vài niên, mới đủ sức lên xe tải lớn hơn chứ chưa nói là cho phép lái xe chở khách. Còn muốn lấy dấu “khửa” để lái xe đò thứ thật, tài xế ít nhất cũng đã trên dưới 40, tức là vào độ tuổi hết “máu” mất rồi, chả còn mấy hứng thú gì trong chuyện nhấn ga vượt ẩu.

Chuyện đó cũng rõ ràng hệt như chuyện nơi các ngã tư, mọi loại xe đều phải dừng sau “đường đinh”, là phần kẻ vạch sơn trắng dành cho người đi bộ. Anh cứ thử đỗ sai làn, hay vượt vạch kẻ xem?

Ngày ấy, người ta còn nhớ vẫn có cụm từ “Nhà thuốc gác” để chỉ các pharmacie bán thường trực, khác với “nhà thuốc Tây” chỉ mở cửa vào một số giờ cố định trong ngày và dù là “gác” hay không, trước tiệm nào cũng phải có một hộp đèn vuông có in hình một chữ thập treo lồi hẳn ra ngoài mặt tiền – Chữ thập này không nhất thiết phải nguyên màu sơn đỏ khi đèn tắt, mà có thể là màu xanh lá cây sẫm nữa, nhưng dứt khoát khi thành phố lên đèn, từng hộp đèn mang ký hiệu quy định ấy cũng phải sáng lên, cho khách đi từ xa biết chỗ mà tìm tới. Tôi nhớ, khi ấy gần như tất cả đều là nhà thuốc tư, mà hình như tiệm nào cũng đều có cửa sắt kéo cả. Còn tiệm nào bán thuốc Bắc thì đều có chữ “Đường” ở cuối tên (Vĩnh Sanh Đường, Thiên Hòa Đường, Thông Tán Đường, Tín Nhân Đường) rất đặc trưng kiểu người Hoa như trong các phim quyền cước, với các ô ngăn kéo đựng thuốc đã sấy khô nằm sau quầy, từ sát đất chất lên tới trần nhà, còn trên mặt quầy thì nào là cân, là bàn dao cầu, là các vuông giấy dầu hay giấy bản màu vàng có in sẵn chữ Nho trên đó. Nó cũng đặc trưng như khi người ta đi trên phố, thấy nhà nào có treo trước cửa kính của mình một cái ống đèn hình trụ đứng với hai màu trắng đỏ, mà khi cắm điện vào, thấy các vạch hai màu ấy quay theo hình trôn ốc vĩnh cửu, là biết nhà ấy mở tiệm uốn tóc cho phái đẹp.

Người ta khi rủ nhau mở tiệm vàng là phải có chữ “Kim” đứng đằng trước tên tiệm (Kim Hưng, Kim Xuyến, Kim Hoàng, Kim Thẩm, Kim Ngân, Kim Hoa…) giống như mở tiệm vải là phải có chữ “Tân” (Tân Hòa, Tân Hương, Tân Mỹ…) hoặc các tiệm hủ tíu mì, qua mấy chục năm đánh chết cũng phải có chữ “Ký” ở đuôi (Phát Ký, Huỳnh Ký, Sanh Ký, Nguyên Ký…) trước khi kết bằng hai từ “Mì gia” mà nếu gọi đủ, phải là “X ký mì gia” gì đấy thì nghe mới ra mùi Trú khách.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhZ6G0qG3hTCIncfX7dUhjviBeibTD_jKYe8O-wMglPjC7-mnkuMEsw7oXoU16ucf-JASc46f5xKyuPh28lHuBrixJVigSgN4d6QwecUbFLFou6-4LSL4pQZCq3RbCpWAhWXIjW3OW4om6cPn3KfDVub0hveeQE2HnV0FzJYpHAZA-vkgY-Ltg8Kl8vWg/s624/nhung-ky-uc-05.jpg">

Những cái tên làm người ta nhớ nôn nao, như Trưng Vương hay Gia Long là giúp nghĩ ngay tới những tà áo dài trắng (và tím) tinh khôi trước mọi cổng trường nữ sinh. Như Võ Trường Toản hay Pétrus Ký là quần xanh áo trắng quanh các cánh cổng thép nan hoa, che từng khuôn viên mấy trường nam sinh luôn rợp bóng phượng đỏ ối cả mùa Hè. Còn Colette hay Saint-Exupéry là phải nhớ ra, các bức tường dài quét vôi màu đỏ không thể lẫn vào đâu được của mấy ngôi trường Tây chắc chắn là dành cho con nhà giàu, mà số thầy cô người Pháp dạy ở đó chiếm đến một nửa. Họ sống ở mấy tòa nhà sơn màu cà-phê sữa thanh nhã, mặt tiền có kẻ ô, cao 4-5 tầng, gọi là “khu chuyên gia” nằm quanh khu sân quần trên đường Bà Huyện Thanh Quan, gần ngã tư Phan Đình Phùng thuở ấy.

Kỷ niệm với bản thân tôi ở trường Saint Ex là thầy Alain Pesqué cao tới 1,85m, rất đẹp trai, dạy Math Moderne ngày xưa, tức là dạy Tân Toán học, khác với Math Cl***ique, là Toán Cổ điển. Còn là thầy Albert Moreau dạy Sử Địa thế giới (Khi đó học sinh học cả Sử Địa Việt Nam, do thầy cô người Việt dạy, và Sử Địa năm châu do thầy người Pháp dạy), ông có biệt tài xuất chúng là không cần dùng compas, mà vẽ Quả đất bằng phấn ngay trên bảng, trăm cái đều tròn xoe như nhau hệt đúc khuôn. Còn là thầy Jean Baud chỉ cao có 1,68m mà tát rất đau, khi học trò quên vở Science Naturelle (Vạn vật học). Còn là cô Stéphanie Meyer dạy Français cũng khẻ tay đau điếng người khi trò không thuộc bài, trong khi phía Văn chương Việt lại có một cô giáo khác. Phải đi qua tất cả những thầy cô ấy tại Saint Exupéry suốt 2 năm 6ème hay 5ème trước khi sang Marie Curie, vào 4ème.

Ký ức không hề mờ nhạt nơi những gì chính mình biết, hoặc chỉ biết loáng thoáng nơi các trường Tây khác, dù chính cống hay chỉ “giả cầy”, như Fraternité (Gọi là trường Bác Ái) trên đường An Dương Vương ngày đó, như Aurore (Rạng Đông) mà tôi đi hết tiểu học trên phố Phan Đình Phùng, như Couvent Des Oiseaux hay Jean Jacques Rousseau. Ký ức càng không mờ nhạt đi khi mình đi qua thời tiểu học vào những năm 1950 – 1960, học chung với hai anh em nhà Tạ Thạch và Tạ Thái, con ông Tạ Ký lúc đó là thầy giáo dạy Toán tại trường Pétrus Ký, mà cũng là một nhà thơ, cùng trong làng cầm bút và là bạn với bố tôi. Nếu để đo về độ khá giả của gia đình bạn bè học cùng trường, tôi sẽ không quên mất Lê Thị Đạt, vẽ rất đẹp mà học cũng rất giỏi, con bà chủ tiệm bánh mì Hà Nội nức tiếng phố Nguyễn Thiện Thuật; hay Trần Thu Trang, con bà chủ tiệm bánh mứt Bảo Hiên Rồng Vàng khét tiếng nơi phố Gia Long – Cửa Bắc.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhGHB6oC7WmmN7I1TkorC7nlF9zv3NJlv4MtpStomhrUp63e7nKWF4W0lwSmirH4l56TyzcnpjbaKcn55wPtU-RiMgXDMJRZxnuOfPU8c3tXJJPD5PYTyIBc2TNWgZNhrumiUr7iqXvY6wXG8V7FCqhZfLcqlrihL4GuY9X2pxSzZnHu0eZ0bW8kLrDg/s624/nhung-ky-uc-06.jpg">

Những kỷ niệm ấy đến giờ vẫn nồng nàn như tên các rạp hát, cứ nhớ đến Rex là phải nhớ Omar Sharif, Julie Christie hay Géraldine Chaplin trong Docteur Zhivago; nhớ tới Eden là nhớ Đại Sát Tinh với Vương Vũ, Tiêu Dao và Điền Phong; nhớ Việt Long là nhớ Django không cầu nguyện của Franco Nero; hay nhớ Victorama Quốc tế là nhớ Liz Taylor, Richard Burton cùng Rex Harrison trong Cléopâtre. Nhớ từng lần ngồi xe taxi cùng ông bô mình ra khu trung tâm, ăn bò kho ở tiệm bà Phạm Thị Trước hay nhai nhồm nhoàm bánh pâté-chaud ở nhà hàng Xinh Xinh, rồi khi lớn hơn, chạy xe đạp ra phố Lê Lợi, ngồi chơi cùng thằng bạn nghèo để bán giúp nó từng tờ nhạc Tinh Hoa Miền Nam hay từng quyển nhạc in ronéo lem nhem, bày trên cái sạp bằng tre gấp, dựng trước cửa rạp Mini Rex hay trước cửa tiệm bán đồ lưu niệm Vân Anh khét tiếng thuở nào. Nhớ rằng mình vẫn sướng hơn bao bạn bè cùng trường, còn có cha mẹ đầy đủ, được ăn học tử tế, biết chút ít ngoại ngữ dắt lưng, trong khi chúng nó phải từ trường tốt, lui về trường nghèo vì cha mẹ hết tiền. Và chúng nó phải kiếm sống hàng ngày, bán nhạc, bán sách cũ quanh khu Khai Trí, bán thuốc lá trước cửa rạp Casino mà không ít lần, mình đi xem phim lại thấy chúng vất vả đứng đó, chìa tay thu tiền từ từng điếu thuốc thơm bán lẻ.

Nhớ từng ngày ngồi nhìn thành phố lên đèn trong tuổi thanh niên, qua ô kính cửa La Pagode hay Givral, nhất định lắc đầu khi mấy thằng bạn lớn hơn, huých khuỷu tay vào cạnh sườn mình, chìa cho mình từng điếu More màu nâu thon dài. Mà cũng không cưỡng mãi được, tuổi 22 là biết cầm điếu thuốc Bastos Luxe đầu đời.

Nhớ cả tiệm Cảnh Hưng cho thuê sách nằm đối diện trường Rạng Đông mà bà chủ tiệm, và nhất là ông chồng bà ấy, thuộc vanh vách từng tựa sách nằm ở đâu, ngăn kéo nào, tầng kệ nào trong bát ngát cả chục nghìn quyển chất chật cứng cả mặt tiền tiệm. Nhớ những tối thầm đọc Duyên Anh và Kim Dung trong màn, nhớ cả lần ngu ngốc hỏi ông già nghĩa của từ “Đốn mạt” là gì khi đọc trộm quyển Anh hùng đốn mạt của Nguyên Vũ để bị xơi đòn quắn đít. Nhớ cả những bạn văn lẫy lừng của ông già mình ghé nhà chơi, như Nguyên Sa, Vũ Hạnh, Minh Quân, Võ Phiến và cả Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn.

Nhớ cả những cây xăng có vòi bơm bánh xe, gắn đứng giữa hai trụ xăng, phải lấy tay mình quay cây kim hơi về số theo ý muốn rồi từ tốn ngồi xuống, mở nắp vòi, lắp đầu bơm vô để cho nó tự bơm, khi nào nghe kêu cái “keng”, đủ hơi, là máy tự động ngừng. Rồi nhớ cả chiếc Vélo Solex của ông già mình, do đi nhiều quá, bị xóc trên yên cũng quá nhiều qua các ổ gà, ông đã bị sai cột sống.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi_2nPgKRpHT1e_Ow-jqM0HUVnqNN5-JL6ytxg0Xxd3J1ecsBEv0RcherJhBevsnqqs8M5m_Bi7Dccth1W9xL03fBBF8ukBIIEJsu4QhMKSnQrK3a7kWxYFh0oD3__qKRUHaelnpr0UOprkbc2NpeY8O6mZzrPSDKXoLb4K9SjBPMSggzMyaTGPzqUHWg/s624/nhung-ky-uc-08.jpg">

Nhớ những château d’eau (Tháp nước xây bằng bê-tông) là đặc trưng của Sài Gòn thuở đó mà theo thời gian, chúng biến mất theo các ngôi nhà cao tầng. Nhớ các vòi nước phun, người ta ra đó giặt quần áo hay gánh nước vào từng đôi thùng tôn vuông mà quẩy về nhà. Rồi nhớ cả mùi thuốc phiện mà ông Tư thợ mộc, làm liên gia trưởng hồi ấy, đêm đêm vẫn thầm đốt bên bàn đèn, loang qua cửa sổ nhà bên mà vào nhà mình. Nhớ những mầu áo cũ, cặp kính cũ của vài cô bạn trẻ đầu đời. Nhớ cả làn lông măng sẫm mầu nằm trên mép của Khánh Ly, mặc áo dài, đi chân đất, hát nhạc Trịnh tại sân trường đại học.

Bà Mai Liên đọc chương trình thời sự trên màn hình chiếc TV National 19 inch; bà Túy Hồng với các vở kịch trồi lên từ ngày cũ; bà Kiều Hạnh với chương trình Tuổi xanh; ông Lê Văn Khoa với chương trình Thế giới của em; ba bốn anh em nhà họ Phạm với ban Hợp ca Thăng Long; tòa soạn tờ Bách Khoa của ông Lê Ngộ Châu trên phố Phan Đình Phùng; các bức minh họa kiệt xuất của họa sĩ Phạm Tăng, rồi các bức vẽ chân dung tuyệt tác theo kiểu cubisme của họa sĩ Tạ Tỵ; vở kịch Khói lửa Kinh thành của Lâm Ngữ Đường qua bản dịch của Vi Huyền Đắc. Nhớ cả dáng gầy của nhà văn Nguyễn Ngu Í khi ngồi uống cà-phê với bố tôi để cùng tranh luận không bao giờ có hồi kết về một thứ tiếng Việt kiểu mới do ông ấy sáng tác. Nhớ từng nốt nhạc mà ông bác Phạm Duy đàn lên từ bài Giọt mưa trên lá… Và nhiều nữa. Nhiều nữa như từng chữ quá tuyệt trong bài Back To Soriento mà ông ấy đã chuyển lời. Nhớ cả từng bức ảnh đen trắng của 2 bậc thầy Nguyễn Cao Đàm và Trần Cao Lĩnh.

Nhớ từng chiếc bánh tôm trong tiệm kem Mai Hương trên phố Lê Lợi, từng ly nước mía Viễn Đông nơi góc phố Pasteur, từng trang báo Salut Les Copains với Stone và Éric Charden hay Sylvie Vartan trên đó. Nhớ bài Le seul bébé qui ne pleure pas hay Laisse aller la musique thấm đầy tính tự sự trên từng cuộn băng c***ette Anna quen gọi nôm na cho dễ nhớ. Nhớ cả cái bóng ma đi lang thang trong nghĩa địa mà người ta dàn dựng trên TV với giọng đọc rền rĩ “Tôi chết vì ma túy” nghe rợn cả tóc gáy ngày ấy. Nhớ bộ ria mép của Trần Quang dẫu nó không dày và trứ danh như của Omar Sharif…. Nhớ cái đầu trọc của Yul Brynner trong The Magnificent Seven (Bảy tay súng oai hùng), và nhớ dáng gầy không giống ai của Audrey Hepburn cùng cái cằm nổi tiếng với hố lõm vào của Kirk Douglas… Nhớ mang máng cả những người thực ra chẳng cần nhớ làm gì như Hoàng Đức Nhã, người đã tìm đủ cách để rũ sổ bố tôi từ Nha Báo chí Phủ Tổng thống.

Tại sao tôi đang ở trong những ngày này, mà lại không nhớ gì mấy về chúng cả, để cứ phải ăn mày vào một thời từng quá cũ và xa? Tại sao bây giờ, mình cứ nhớ chỉ về những bức bối thực tại, mà lại phải bấu rất đau vào chuỗi ngày cứ ngỡ đã phôi pha rất lâu?… Tại sao?

Đâm ra lại như nghe loáng thoáng đâu đây, giai điệu buồn bâng khuâng từ bài Kỷ niệm: “Cho tôi lại ngày nào, Trăng lên bằng ngọn cau, Me tôi ngồi khâu áo, Bên cây đèn dầu hao… Cha tôi ngồi xem báo, Phố xá vắng hiu hiu, Trong đêm mùa khô ráo, Tôi nghe tiếng còi tàu…”. Để thấy mình hệt như một con ốc bò thầm trên đường trăng.


Trịnh Anh Khôi


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Sep/2022 lúc 1:09pm
CÂU HÁT ĐƯA EM

Tuyển%20tập%20các%20bài%20Hát%20ru%20con%20Nam%20bộ,%20Dân%20ca%20nam%20bộ%20cho%20con%20dễ%20ngủ%202022

Ngoài Bắc gọi là hát ru: người mẹ hát để ru cho con ngủ. Trong Nam kêu là hát đưa em: hai chị em cùng nằm trên một chiếc võng, con chị đưa võng và hát dỗ cho em ngủ.

Sau đây là một vài câu hát đưa em thường nghe ở làng An Nhơn từ sáu, bảy mươi năm về trước:

      Chiều chiều vịt lội, cò bay
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.

      Vô rừng bứt một sợi mây
Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn.

      Đi buôn không lỗ thì lời
Đi ra cho thấy mặt trời, mặt trăng.

      Má ơi! Con vịt chết chìm
Con thò tay vớt nó, cá lìm kìm cắn con!

      Má ơi! Đừng đánh con đau
Để con bắt ốc, hái rau má nhờ.

      Má ơi! Đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi.

      Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà?
      Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo!

      Con mèo, con mẽo, con meo
Ai dạy mầy trèo, mầy chẳng dạy tao?

      Má mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.

      Ví dầu bầu bí nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.

      Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.

      Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Trông về quê mẹ chín chiều ruột đau.

      Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai.

Áo vá vai, vợ ai không biết
Áo vá quàn mới thiệt vợ anh.

      Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.

      Trồng trầu thả lộn dây tiêu
Con theo hát bội, mẹ liều con hư.

      Chuột kêu chút chít trong hang
Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay
      Mẹ hay mẹ hỏi: Đi đâu?
Nói: Đi hốt muối cho mèo ăn cơm! 

      Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi.
      Khó đi, mẹ dắt con đi
Con thi trường học, mẹ thi trường đời.

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc?
Dốc nào dốc bằng dốc Nam Vang?
Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ
Còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai?

      Đố anh con rít mấy chưn?
Cầu Ô mấy nhịp? Chợ Dinh mấy người?

      Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim.

      Gió đưa, gió đẩy, về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
                      (về giồng ăn dưa).

      Một mình lo bảy, lo ba
Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.

      Còn duyên, kẻ đón người đưa
Hết duyên, đi sớm về trưa một mình.

      Ví dầu nhà dột, cột xiêu
Muốn đi cưới vợ, sợ nhiều miệng ăn!

      Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ.

      Con thơ tay ẵm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.

      Con mèo, con chuột có lông
Ố́ng tre có mắt, nồi đồng có quai

Bậu nói với qua bậu không bẻ mận, hái đào
Chớ mận đâu mà bậu bọc, đào nào bậu cầm tay?

      Đến đây dầu đói giả no
Dầu khôn giả dại đặng dò ý em.

Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy
Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
      Anh viết thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.

      Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngàn ngày nhớ ơn.

      Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây.

      Má ơi, đừng gả con xa
Chim kêu, vượn hú, biết nhà má đâu?

      Trắng da vì bởi phấn giồi
Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.

       Thôi thôi buông áo em ra
Để em đi bán, kẻo hoa em tàn.

      Hoa tàn vì bởi mẹ cha
Hoa búp không bán, để tàn ai mua.

Nói đẩy đưa cho vừa lòng bạn
Chớ sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu.

      Thiếp than phận thiếp còn thơ
Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình.

      Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Con tằm đỏ chín, con dê đỏ mùi.

      Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Đợi mẹ đi về có bánh em ăn.

      Cu kêu ba tiếng cu kêu
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè.


Tiền Vĩnh Lạc



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Sep/2022 lúc 2:02pm

12 con giáp

12%20con%20giáp%20là%20gì?%20Thứ%20tự,%20tên%20và%20tuổi%2012%20con%20giáp%20-%20META.vn

        Tuổi Tý, con chuột lông xù
Cắn gà, cắn vịt, chạy ù xuống hang
        Tuổi Sửu, con trâu kình càng
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về
        Tuổi Dần, con cọp quá ghê
Bắt người ăn thịt, tha về non cao
        Tuổi Mẹo là con mèo ngao
Hay quấu, hay quào, ăn vụng thành tinh
        Tuổi Thìn, rồng ở Thiên đình
Làm mưa, làm gió, ẩn mình trên mây
        Tuổi Tỵ, rắn ở bộng cây
Nằm khoanh trong ổ, có hay điều gì.
        Tuổi Ngọ, ngựa ô đen sì
Ỷ mình chạy giỏi ngại gì đường xa.
        Tuổi Mùi là con dê chà
Giống nai, có gạc, râu ria bùm xùm.
        Tuổi Thân, con khỉ ở lùm
Chuyền qua, chuyền lại, té ùm xuống sông.
        Tuổi Dậu, con gà vàng lông
Có mỏ, có mồng, lại gáy ó o.
        Tuổi Tuất là con chó cò
Nằm khoanh bên lò, mặt mũi lọ lem.
        Tuổi Hợi, con heo ăn hèm
Đóng chuồng mà nhốt, chẳng thèm thả ra!

Tiền Vĩnh Lạc



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Sep/2022 lúc 3:20pm

Sài Gòn Xưa Và Nay

http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonXuaVaNay-F.asp - La Source (French)

BLOG ĐI DU LỊCH CỦA MỘT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở CHÂU Á
- Les Voyages de Camille


Trước/Sau: Sài Gòn Trong Tranh Từ 1900 Đến 2020

Ngày 13 Tháng 8 Năm 2020
Khi tôi xem các bài báo trên trang Saigoneer, tôi nảy ra ý tưởng tái tạo những bức ảnh giống hệt hồi đó. Tôi đã dành hàng giờ để chọn những bức ảnh hấp dẫn tôi, tìm những nơi chúng đã được chụp; Sau đó, tôi lưu ảnh vào điện thoại và các địa điểm trên bản đồ, trước khi đi dạo ở Sài Gòn để tìm kiếm những góc chụp giống nhau hoặc cùng bầu không khí.

Giữa những truyền thống được bảo tồn và những biến động của đô thị, bài tập này cho phép tôi khám phá một khía cạnh khác của thành phố và kết nối lại với cuộc sống hàng ngày của tôi, mang đến cho nó một không gian hoàn toàn mới.

Tôi phải nói rằng tôi khá hài lòng với kết quả! Thật tò mò về việc các tòa nhà và cách sống vẫn còn nguyên vẹn như thế nào sau ngần ấy năm. Tôi hy vọng bạn tận hưởng cuộc hành trình xuyên thời gian này nhiều như tôi thích làm nó. Chúc bạn thăm khám tốt!

Đến năm 1904, toàn bộ Sài Gòn chỉ giới hạn trong khu vực mà chúng ta biết ngày nay là Quận 1. Ngoài khu vực trung tâm thành phố được quy hoạch cẩn thận và khu phố thương mại sầm uất Chợ Lớn (Chinatown), các khu vực ngoại thành của thành phố đã mọc um tùm với những đầm lầy và những thảm thực vật trải rộng.

Trong bộ sưu tập ảnh đen trắng này mà tôi không thể tìm thấy tên của các nhiếp ảnh gia, Sài Gòn vào đầu thế kỷ hiện ra rất hoang  và hoang sơ bởi quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, chính vào thời điểm này, các kế hoạch đầu tiên của chính quyền Pháp nhằm chế ngự thiên nhiên hoang dã ở miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như tuyến đường sắt xuyên Đông Dương nối Hà Nội với Sài Gòn.

Các sông Sài Gòn đã không thay đổi nhiều trong khoảng thời gian 116 năm: vẫn còn những con thuyền tam bản , một loại thuyền sử dụng cho cá hoặc là một nhà nổi. Mặt khác, các ngân hàng đã phát triển rất nhiều và tiếp tục được khai thác, có thể thấy dưới đây với việc xây dựng ba tòa tháp mới ở phía trước Quận 1.

Tôi không tìm được địa danh của bức ảnh gốc, nhưng tôi không thể không vẽ song song với nhiều lò gạch có thể tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long , phía nam Sài Gòn , đặc biệt là ở tỉnh Bến Tre. Những chiếc lò gạch này dùng để nướng ... gạch! Những viên gạch được tạo hình từ đất sét khai thác bên bờ sông, trước khi được tỉ mỉ xếp ra từng viên một bằng tay trong những chiếc lò khổng lồ này. Đôi khi phải mất một tuần để làm đầy một lò nướng, những viên gạch có thể chạm tới mái nhà, và sức chứa của chúng có thể lên đến 19 tấn! Việc nấu nướng kéo dài khoảng 25-30 ngày và ngọn lửa được duy trì nhờ vào vỏ của hạt gạo, ít tốn kém hơn nhiều so với củi hoặc than. Sau khi nung, tro được dùng để làm phân bón và những viên gạch nung kỹ được để nguội trước khi đưa ra khỏi lò nung. Rõ ràng là phương pháp nấu ăn truyền thống này vẫn còn nguyên vẹn.

Vào thời điểm đó, Việt Nam đã bị chìm sâu trong bốn thập kỷ dưới sự thống trị của thực dân Pháp, những người đã chia đất nước như chúng ta biết ngày nay thành ba bảo hộ: Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam), An Nam (miền Trung Việt Nam) và Nam Kỳ ( miền nam Việt Nam). Vào đầu những năm 1920, trung tâm Sài Gòn là một khu phố hoang sơ với những con đường sạch sẽ và những cửa hiệu lộng lẫy. Bất chấp sự hào nhoáng và hào nhoáng của Sài Gòn như những bức ảnh này thể hiện, sự giàu có và tiện nghi chỉ được người Pháp và một bộ phận nhỏ người Việt Nam tham gia vào chính quyền thuộc địa đánh giá cao.

Loạt ảnh đáng kinh ngạc này được chụp bởi nhiếp ảnh gia người Pháp Ludovic Crespin vào đầu những năm 1920. Nó cung cấp cái nhìn sâu sắc vô giá về Đông Dương thuộc Pháp vào thời điểm đó, và thật buồn cười khi thấy rằng các tòa nhà hầu như không thay đổi. 'một ngón tay cái.

Các Tòa thị chính hoặc trụ sở của Ủy ban nhân dân thành phố ************ là một phong cách Beaux-Arts cung điện, được xây dựng bởi kiến trúc sư người Pháp Paul Gardès từ 1902 đến 1908. Nó được ngày nay được chiếu sáng bởi các dịch vụ của ánh sáng của thành phố Lyon. Rất tiếc là không mở cửa cho khách tham quan, nhưng thật khó để không đi ngang qua khi đến thăm thành phố, vì nó nhìn ra đại lộ Nguyễn Huệ rộng lớn.

Tòa nhà của Tổng Bí thư Nam Kỳ trước đây ở góc đường Đồng Khởi và Lý Tự Trọng cũng vẫn còn nguyên vẹn.

Các Nhà thờ Notre-Dame de Sài Gòn được xây dựng bởi người Pháp 1877-1880 và đánh dấu sự khởi đầu của đường Đồng Khởi, mà đi xuống sông. Nó hiện đang được tu sửa và sẽ mở cửa trở lại cho những người thờ phượng và du khách vào năm 2021.

Bức ảnh này được chụp tại ngã tư đường Catinat, nay là Đồng Khởi và Mạc Thị Bưởi. Trên con phố nổi tiếng này, nhiều thương hiệu đề cập đến di sản thuộc địa Pháp , chẳng hạn như nhà hàng Le Bourgeois (nº132), khách sạn Catina Sài Gòn (nº109), hoặc chuỗi cà phê Katinat tại nº91 (tòa nhà đã đóng cửa với Ngay bên dưới).

Biến động tại ngã tư đường Đồng Khởi (đường Catinat cũ) và Lý Tự Trọng (đường Lagrandière cũ). Khu vực này hiện đã tập trung nhiều cửa hàng, nhà hàng, quán cà phê ... và là một trong những ngã tư sầm uất nhất của trung tâm thành phố. Để hiểu rõ hơn về điều này, hãy trải nghiệm dành một chút thời gian trên sân thượng của Cộng Cà Phê nằm ở tầng 1 với tầm nhìn ra lối đi, nó gần như tuyệt đẹp!

Một góc nhìn khác của Tòa thị chính, của một nhiếp ảnh gia giấu tên, vào năm 1938-39. Kể từ đó, một bức tượng ************ khổng lồ nằm cạnh một em nhỏ trong công viên, như để quan sát thành phố.

Jack Birns là một nhiếp ảnh gia người Mỹ, người đã chụp ảnh ở một số nước châu Á vào năm 1947-48 thông qua hợp đồng với LIFE . Loạt ảnh đen trắng này ghi lại sự xâm nhập của thực dân Pháp vào đời sống truyền thống Việt Nam, tạo ra sự phân đôi thị giác thú vị.

Các đài phun nước cũ trên đường Nguyễn Huệ Avenue đã được di chuyển hơi xa Town Hall, và hiện đại hóa rõ ràng.

Bên phải, đại lộ Lê Lợi cũ với các băng rôn thông báo chiếu phim bằng tiếng Pháp; ở bên trái, cùng một đại lộ, không có chút quyến rũ nào và đang được xây dựng hoàn chỉnh trong nhiều tháng ...

Dành thời gian cho một ly cà phê vẫn là một phần của cuộc sống hàng ngày ...

Bộ ảnh đầu tiên này được thực hiện bởi Thomas W. Johnson, một trợ lý tuyên úy làm việc tại Bệnh viện dã chiến cấp 3 Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào những năm 1960.

Các năm mới Việt Nam, Tết , là ngày lễ nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Hàng năm vào tháng Giêng đến tháng Hai (các ngày thay đổi theo âm lịch), người Việt cắm hoa trang trí nhà cửa và kinh doanh. Tại Sài Gòn, dọc theo các con kênh của quận 14 và 15 ở phía nam thành phố, người ta có thể ngạc nhiên trước những điểm trưng bày hoa và cây ăn trái được đưa lên bằng thuyền từ đồng bằng sông Cửu Long. đất đai màu mỡ.

Có rất nhiều điều không thay đổi! Bạn có biết rằng giấc ngủ trưa là thiêng liêng ở Việt Nam? Sau bữa trưa, mọi người đều di chuyển chậm, nhân viên trải chiếu dưới bàn làm việc và tài xế taxi cũng làm như vậy, với phương tiện trong tầm tay! Chiếc mũ lưỡi trai thay thế cho chiếc salacot (mũ bảo hiểm thời thuộc địa) và chiếc mô tô thay thế chiếc xe kéo, nhưng có vẻ như đôi giày vẫn vô dụng!

Khách sạn đầu tiên ở Việt Nam, khách sạn Continental ở Saïgon được xây dựng vào năm 1878-1880 bởi Pierre Cazeau, một nhà công nghiệp người Pháp. Khách sạn sau đó sẽ được tân trang lại vào năm 1892, được bán đi, đổi tên nhiều lần trong Chiến tranh Việt Nam, được trùng tu hoàn toàn từ năm 1988 đến năm 1989 và cuối cùng mở cửa trở lại vào năm 1989 với tên gọi Khách sạn Continental.. The Continental nói riêng đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và chính trị của Sài Gòn thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh Việt Nam, nó có biệt danh là Đài phát thanh Catinat , vì đây là điểm hẹn của các phóng viên, nhà báo, chính trị gia và doanh nhân nói về chính trị, tin tức kinh tế và các vấn đề thời sự. .

Nếu mặt tiền của khách sạn không thay đổi, chúng ta có thể ghi nhận những công trình mới bao quanh nó, chẳng hạn như trung tâm mua sắm Parkson Saigon Tourist Plaza và Vincom Center ở phía sau.

Công việc vất vả của những người quét rác trên đường phố Sài Gòn dường như sẽ chỉ còn là chuyện của phụ nữ vào năm 2020 ...

Một món ăn vặt hàng ngày khác trên đường phố Sài Gòn là những gánh hàng rong .

Bên trái, bộ ba phụ nữ trong ngày Chủ nhật đẹp nhất đang đi bộ trên vỉa hè đường Lê Lợi trong trang phục áo dài (trang phục truyền thống của Việt Nam), đeo kính râm và kiểu tóc hợp thời trang. Ở bên phải, ba cô gái trẻ trong trang phục hiện đại đeo mặt nạ (Covid yêu cầu). Mặc áo dài bây giờ chỉ dành cho các dịp lễ, tết, thật tiếc! Chúng ta có đồng ý rằng phụ nữ có nhiều tầng lớp hơn vào những năm 1960 không?

Ảnh của George Muccianti với khung cảnh của Bưu điện Trung tâm Sài Gòn , được xây dựng từ năm 1886 đến năm 1891 bởi Bưu điện Pháp, vào thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp. Khung kim loại tráng lệ của bưu điện chính ở trung tâm thành phố được thiết kế bởi Gustave Eiffel. 

Loạt phim sau đây do quân nhân Hoa Kỳ Bruce Baumler thực hiện vào năm 1965.

Hình ảnh ngôi đền Hindu tráng lệ thờ nữ thần Mariamman trên đường Trương Định. Được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bởi các thương gia Tamil từ quầy Pondicherry của Pháp đến định cư tại Sài Gòn. Hầu hết họ phải chạy trốn khỏi Việt Nam trong chiến tranh và sự thất thủ của Sài Gòn. Được chính quyền đóng cửa vào năm 1975 để làm kho, sau đó được trả lại để thờ vào năm 1993 nhờ các cuộc đàm phán ngoại giao giữa Ấn Độ và Việt Nam. Lưu ý rằng cấu trúc phía trên của ngôi đền đã được thêm vào từ năm 1965.

Bức ảnh này được chụp ở đường Phan Bội Châu gần chợ Bến Thành nổi tiếng . Được xây dựng từ thời Pháp thuộc, nó đã thường xuyên được cải tạo, nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên . Ngày nay nó là chợ du lịch nhất trong thành phố và có rất nhiều đồ lưu niệm để thương lượng, các quầy bán trái cây, rau, cá và thịt, nhưng cũng có các quầy hàng nhỏ để nếm thử nước trái cây tươi, một bát ph hoặc hải sản.

Một góc nhìn khác từ Nhà hát lớn Sài Gòn phía khách sạn Continental bên phải và cửa hàng bách hóa Eden trước đây ở bên trái, nay đang được cải tạo mang thương hiệu Vincom.

Bức ảnh của một nhiếp ảnh gia giấu tên về khách sạn lịch sử 5 * , được thiết kế bởi một doanh nhân Trung Quốc vào năm 1925, theo phong cách của các khách sạn ở Côte d'Azur. Giống như khách sạn Continental, nó sẽ đổi tên nhiều lần nhằm xóa ký ức thuộc địa.

Những bức ảnh này được chụp vào năm 1966 bởi quân nhân Mỹ Rich Krebs, người đã vô tình lưu giữ ký ức tập thể của một thế hệ cư dân Sài Gòn trong chuyến thăm của ông.

Công viên Chi Lăng trên đường Đồng Khởi giờ đã trở thành một khán đài nhỏ xíu trước Trung tâm thương mại Vincom Center hoành tráng. Tôi đặc biệt tự hào vì đã có thể tái tạo bố cục của bức ảnh gốc 🙂Đối với giai thoại nhỏ, tôi dừng lại và tự nhủ "thật may mắn, có một chiếc xe đạp!" Nó sẽ thay thế cho hai chiếc xe tay ga thời bấy giờ ”và trong lúc chuẩn bị chụp ảnh, một tài xế taxi Grab đã lao qua mũi tôi với tốc độ tối đa và tôi đã phản xạ đúng!

Tại ngã tư Lê Lợi và Nguyễn Huệ trước Tòa thị chính: Đường Lê Lợi hiện đang được cải tạo, điều này lý giải cho việc giao thông hầu như không tồn tại so với thời trước.

Nhiếp ảnh gia Việt Nam Nguyễn Thành Tài từng làm việc cho hãng thông tấn Hoa Kỳ United Press International (UPI). Những bức ảnh đen trắng của ông là một sự thay đổi so với các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông trong Chiến tranh chống Mỹ. Vào năm 1967, một người phụ nữ mời những người qua đường món bún thịt nướng cho một bữa trưa ngồi nghỉ . Bên phải, một người phụ nữ trong tư thế tương tự đang bán đồ uống và kem.

Sài Gòn phát triển đô thị không phải đều tốt. Trái ngược với các dự án xây dựng mới đang được triển khai, thành phố dường như không bao giờ trở thành một dự án hoàn thiện và tiếp tục bỏ lại những cư dân nghèo nhất. Trong bức ảnh do Dave Teer chụp giữa năm 1967 và 1969, chúng ta nhận ra những ngôi nhà sàn đáng tiếc vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay trên sông Sài Gòn. Đây là những ngôi nhà không đạt tiêu chuẩn, những khu ổ chuột thực sự, được làm từ gỗ hoặc tre, với mái lợp bằng tấm kim loại đơn giản.

Nhiếp ảnh gia Brian Wickham đã đến Sài Gòn vào năm 1968 và 1969, cho ra đời hơn một trăm bức ảnh về các địa điểm khác nhau trong thành phố, cả nổi tiếng và xã hội. Điều này thể hiện việc băng qua đường Nguyễn Du của một nhóm học sinh. Tôi không thể tìm thấy vị trí chính xác nơi bức ảnh được chụp, vì vậy tôi chỉ phát hiện ra cùng một bảng quảng cáo trên đường và chờ ai đó băng qua!

Ảnh chụp khác về các mái nhà ở Quận 1 này so sánh sự đa dạng về kiến ​​trúc của Sài Gòn : nhà ống, nhà nhỏ cạnh nhau lợp ngói hoặc thiếc, những tòa nhà chọc trời hiện đại...

Quân nhân Hoa Kỳ Darryl Henley đóng quân tại Việt Nam vào cuối những năm 1960, và đã chụp bức ảnh Đại lộ Nguyễn Huệ này. Tòa nhà trung tâm đã trở thành một biểu tượng của thành phố, được đổi tên thành The Cafe Apartments tại 42 Nguyễn Huệ. Mỗi tầng là nơi tập trung hàng loạt cửa hàng, quán cà phê, nhà hàng ... rất sành điệu và được giới trẻ Việt thường xuyên lui tới.

Trong một vài bức ảnh chụp vào những năm 1969-70, cựu binh quân đội Hoa Kỳ D. Hoag đã chụp được một Sài Gòn hỗn loạn và mát mẻ .

Tôi không biết tòa nhà này được sử dụng để làm gì ở góc đường Pasteur và Nguyễn Du, nhưng ngày nay nó là một trường mẫu giáo đầy màu sắc , ở số 178/1 đường Pasteur.

Các chợ đường phố bán đồ lưu niệm trên đại lộ Nguyễn Huệ đã nhường chỗ cho các cửa hàng thời trang cao cấp như Chanel và Cartier.

Loạt ảnh sau đây là một bộ sưu tập lưu trữ hiếm hoi được tìm thấy một lần nữa trên trang Saigoneer, một tập hợp các kỷ vật cá nhân của khách du lịch, binh sĩ nước ngoài và thậm chí cả phóng viên ảnh.

Nhiếp ảnh gia giấu tên này cho chúng tôi xem một khu chợ tạm trên vỉa hè đường Lê Lợi . Khu này đang được sửa chữa lớn nên hầu như không còn người bán hàng rong nào nữa, chỉ còn lại một số quầy hàng.

Một cảnh quay khác về con đường Đồng Khởi nổi tiếng  năm 1979.

Ảnh nhà sách khác này được chụp vào năm 1979 ở phố Thị Như 1979. Chưa tìm được không khí ở cùng một con phố, tôi lại có cảm hứng với phố sách (Nguyễn Văn Bình), nằm sát Bưu điện Trung tâm. Con phố đông đúc này có các hiệu sách nhỏ và quán cà phê dễ chịu, nơi bạn có thể đọc sách trong yên bình, một thiên đường yên bình giữa lòng thành phố.

Khi đến Sài Gòn năm 1990, Catherine Karnow đã được cha cô, nhà sử học Stanley Karnow, giới thiệu về những huyền thoại địa phương như Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong 25 năm qua, cô tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh gia tại Việt Nam với những kết quả ngoạn mục. Instagram của cô ấy: @catherinekarnow

Bức ảnh này cho thấy sự bảo tồn của một số tòa nhà từ thời Pháp thuộc: ngôi nhà màu vàng xinh xắn ở số 93-95-97 đường Đồng Khởi này hiện là một nhà hàng ăn ngon phục vụ ẩm thực Việt Nam, Nhà hàng Vietnam House.

Một góc nhìn khác về khách sạn Continental. Quán cà phê Givral nổi tiếng trước đây ở góc phố không còn tồn tại ngày nay...

Những bức ảnh này được nhiếp ảnh gia người Đức Hans Peter Grumpe chụp trong những chuyến thăm Sài Gòn từ năm 1991 đến năm 1993. Mặc dù thành phố thiếu nét quyến rũ trong những năm này, nhưng trung tâm của cuộc sống hàng ngày dường như không có nhiều thay đổi: những người bán hàng rong với những món hàng hiệu, những người làm tóc du lịch, những nhóm bạn trò chuyện, những gánh hàng rong ... tất cả những gì chúng ta vẫn thấy hàng ngày trên đường phố Sài Gòn, và thực tế là tất cả sự quyến rũ của nó!

Bằng chứng là sự so sánh này chứng tỏ rằng việc ăn một bát phở ngoài đường vẫn là một điều bất hủ trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam! Sự khác biệt duy nhất là những chiếc ghế đẩu bằng nhựa màu xanh và đỏ đã thay thế cho những chiếc ghế gỗ.

Cũng giống như cắt tóc trên đường! Trong khi phụ nữ thích đến các tiệm làm tóc thì nam giới vẫn tiếp tục sử dụng những thợ cắt tóc lưu động . Được rồi, tôi phải thành thật với bạn… Tôi chụp bức ảnh này ở Hà Nội năm ngoái, bức tường là bức tường bao quanh Văn Miếu.

Như một phần thưởng, một loạt ảnh mà tôi không tìm thấy ngày tháng hay tác giả, nhưng vì chúng đều là những tòa nhà hàng đầu của thành phố, tôi tự nhủ rằng tôi vẫn sẽ đưa chúng vào trong này (dài ) danh sách.

Mặt tiền tráng lệ màu vàng của Bưu điện Trung tâm Sài Gòn , được xây dựng từ năm 1886 đến năm 1891,  dường như vẫn được bảo tồn.

Lấy cảm hứng từ kiến ​​trúc của Petit Palais ở Paris, Nhà hát Thành phố Sài Gòn được xây dựng vào năm 1900. Theo mô hình Gothic, mặt tiền của tòa nhà được trang trí bằng các dòng chữ và phù điêu (giống như Tòa thị chính). Trong chiến tranh Việt Nam, nhà hát này là trụ sở của quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Rất tiếc, Nhà hát Opera không mở cửa cho khách tham quan, nhưng bạn có thể tham dự buổi biểu diễn xiếc Việt Nam của đoàn Lune Production vào mỗi buổi tối. Giá cả khá cao (từ 700.000 VND hoặc 26 €), nhưng chất lượng của các chương trình văn hóa được cung cấp là đáng kinh ngạc.

Một góc nhìn khác về khách sạn Majestic hùng vĩ.

Cảm ơn bạn đã đi xa đến thế này, tôi thực sự hy vọng bạn thích cuộc hành trình xuyên thời gian này!
 

 

 

http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonXuaVaNay-F.asp - La Source (French)

______________


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Sep/2022 lúc 8:06am
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/F_SaiGonKhungTroiQuaNhieuKyNiemCuaMotThoiXaXua.asp - SAIGON - Khung trời quá nhiều kỷ niệm của một thời xa xưa    <<<<<
Vài%20ảnh%20Sài%20Gòn%20xưa%20gợi%20nhớ%20một%20khung%20trời%20kỷ%20niệm%20-%20Hình%20ảnh%20Việt%20Nam%20xưa%20%20&%20nay


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2022 lúc 12:14pm
http://gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12949 -
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN

Sống lại những năm 60 với chùm ảnh giao thông ở miền Nam Việt Nam

https://www.cochinchine-saigon.com/sai-gon/ - Sài Gòn
1 phút đọc
QUẢNG CÁO
https://www.cochinchine-saigon.com/song-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam/ -
- https://www.facebook.com/sharer/sharer.php?u=https%3A%2F%2Fwww.cochinchine-saigon.com%2Fsong-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam%2F - - - - - https://mewe.com/share?link=https%3A%2F%2Fwww.cochinchine-saigon.com%2Fsong-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam%2F - - - https://mix.com/mixit?url=https%3A%2F%2Fwww.cochinchine-saigon.com%2Fsong-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam%2F - - - https://api.whatsapp.com/send?text=S%E1%BB%91ng%20l%E1%BA%A1i%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4%83m%2060%20v%E1%BB%9Bi%20ch%C3%B9m%20%E1%BA%A3nh%20giao%20th%C3%B4ng%20%E1%BB%9F%20mi%E1%BB%81n%20Nam%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20https%3A%2F%2Fwww.cochinchine-saigon.com%2Fsong-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam%2F - - - - https://mail.google.com/mail/?ui=2&view=cm&fs=1&tf=1&su=S%E1%BB%91ng%20l%E1%BA%A1i%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4%83m%2060%20v%E1%BB%9Bi%20ch%C3%B9m%20%E1%BA%A3nh%20giao%20th%C3%B4ng%20%E1%BB%9F%20mi%E1%BB%81n%20Nam%20Vi%E1%BB%87t%20Nam&body=Link:https%3A%2F%2Fwww.cochinchine-saigon.com%2Fsong-lai-nhung-nam-60-voi-chum-anh-giao-thong-o-mien-nam-viet-nam%2F - - - - - - -
-

Nhìn lại khoảng thời gian những năm 60 của thế kỉ trước, hình ảnh những con người Việt nghèo khó ở miền Nam https://www.cochinchine-saigon.com/?s=Vi%E1%BB%87t+Nam - Việt Nam . Cùng với đó là những chiếc xe đạp, xe hơi chở khách, xe đò, xe lam, những bức ảnh cho chúng ta thấy các phương tiện giao thông ở Việt Nam hồi những năm 1960 rất đa dạng. Nhưng đó là những con người sống thật nhất, không có cảnh chen lấn xô đẩy như cuộc sống hiện tại.

  • Ca%20Từ%20Trịnh%20Công%20Sơn
    https://www.cochinchine-saigon.com/ca-tu-trong-am-nhac-trinh-cong-son/ - Ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn
  • https://www.cochinchine-saigon.com/tim-lai-nha-trang-ngay-ve-cua-co-nhac-si-pham-duy/ - Tìm lại “Nha Trang Ngày Về” của cố nhạc sĩ Phạm Duy
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2022 lúc 12:16pm
http://gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=12949 -
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN

Sống lại những năm 60 với chùm ảnh giao thông ở miền Nam Việt Nam


Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN
Sống%20lại%20những%20năm%2060%20với%20chùm%20ảnh%20giao%20thông%20ở%20VN


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2022 lúc 3:30pm

https://www.youtube.com/watch?v=_HHabXdcR04 - Người đặt tên cho đường phố Sài Gòn trước năm 1975     <<<<<


Người%20đặt%20tên%20cho%20đường%20phố%20Sài%20Gòn%20trước%20năm%201975%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Sep/2022 lúc 3:22pm

https://www.youtube.com/watch?v=8MxoXGtYafQ - Gánh hàng rong trên đường phố Sài Gòn     <<<<<

Những%20Gánh%20Hàng%20Rong%20trên%20đường%20phố%20Saigon%20năm%20xưa%20-%20Bộ%20Ảnh%20Nhân%20Văn%20-%20Bộ%20%20Ảnh%20-%20Nhật%20Báo%20Văn%20Hóa%20Online


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Sep/2022 lúc 2:48pm
http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Nho%20Chiec%20Den%20Khi%20Da%20Thkg.mp3 -      <<<<<<

Lịch%20sử%20trăm%20năm%20của%20những%20chiếc%20đèn%20pha%20ô%20tô


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Sep/2022 lúc 8:29am
http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Dai%20Phat%20Thanh%20Sai%20Gon-%20Chuong%20Trinh%20Thi-Nhac%20Giao%20Duyen-Thuc%20Vu.mp3 - Đài Phát Thanh Sài Gòn- Chương Trình Thi-Nhạc Giao Duyên-Thục Vũ.mp3    28200   <<<<<

Nhạc%20sĩ%20THỤC%20VŨ%20%281932-1976%29%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Sep/2022 lúc 1:00pm

https://www.youtube.com/watch?v=2UNvLrkFUbI - Giang hồ chợ Cầu Muối      <<<<<


Vì%20sao%20chợ%20Cầu%20Muối%20lại%20nhiều%20giang%20hồ?


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Oct/2022 lúc 3:34pm

http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Sau%20nu%20Ut%20Bach%20Lan.mp3 -   2111 (24-Jul-2019)       <<<<<

Tiếc%20thương%20Sầu%20nữ%20Út%20Bạch%20Lan!%20-%20Vĩnh%20Long%20Online



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Oct/2022 lúc 12:56pm

Kỷ niệm: Sài Gòn, gánh hàng rong và lời rao

Muôn%20vàn%20lời%20rao%20trên%20đất%20Sài%20thành

Nhớ khi xưa đường phố, hẻm nhỏ Sài Gòn thỉnh thoảng lại vang lên những lời rao:

– Ai ăn tàu hủ hôn

– Chè đậu xanh nấu đường, hột vịt lộn hôn

– Chè đậu xanh nước dừa đường cát hôn

– Xôi đâu xanh, xôi bắp đây 

– Ai cơm rượu hôn

– Báo mới đây, tin chiến sự nóng hổi đây

– Vé số đây, vé số chiều xổ đây

Tui sống gần sông rạch nên có dịp thưởng thức cả những lời rao của các cô bán xuồng vàm. Đằng sau mấy lời rao có âm điệu trầm bỗng, ngân nga là những phận người. Nghe rao, tui có thể đoán là hôm nay họ vui hay buồn, khỏe hay mệt, đắt hay ế… Thương nhứt là những hôm trời mưa tầm tả, lời rao như ẩn chứa một chút tủi, một chút lo. 

Thỉnh thoảng còn có mấy ông bán chiếu, bán chổi lông gà, mua ve chai tham gia vào giai điệu đường phố. Cũng có nhiều người dùng ám hiệu chứ không dùng lời rao như tiếng gõ của ông bán hủ tíu, tiếng còi của ông thiến heo, tiếng trống bỏi của ông nhuộm quần áo, tiếng lắc xắc của ông đấm bóp giác hơi… 

Tính tui hay thương người lại thích ăn quà vặt nên bữa nào có xu trong túi là tui hay ủng hộ. Tui có gian mở hàng nên mấy cô mấy bà hay kiếm tui, thậm chí xúi tui ăn chịu từ từ trả cũng được. Cũng may là tui nhớ dai chứ ăn chịu mà quên trả thì tội cho người ta lắm. Mà cũng nhờ đó mà trong thời kỳ ốm đói, tui tuy có ốm nhưng cũng không đến nỗi đói. 

Bây giờ Sài Gòn lời rao thưa vắng dần. Thỉnh thoảng có mấy người rao bằng loa:

– Trung tâm công nghệ hóa màu vừa cho ra đời một sản phẩm, đó chính là keo dính chuột. Keo dính chuột không độc hại với môi trường, đặc biệt có thể tái sử dụng nhiều lần với độ bền và thời gian lâu nhất mà không một loại hóa chất nào có thể so sánh được. Keo dính chuột còn có thể bẫy được các loại côn trùng như ruồi, muỗi, kiến, gián, và các loại côn trùng khác…Phương pháp sử dụng được ghi trên bao bì. Đề nghị đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, đề phòng giả mạo. đê ngoài tầm tay của trẻ em…

– Bánh mì Sài Gòn đặc ruột, thơm bơ…

Cũng là lời rao nhưng mà nó đều tăm tắp, không hấp dẫn, không biểu cảm như lời rao từ nỗi niềm thoát ra ngoài cửa miệng. 

Ký ức tuổi thơ ngoài đùa vui với bạn bè còn có mùi hương hoa cỏ, tiếng côn trùng rả rích, ngọn gió mát rượi từ mé sông… không thể không nhắc đến những lời những lời rao trầm bổng và dáng ai nhẫn nại với gánh hàng rong trong hẻm nhỏ liêu xiêu.


Trần Hữu Hiệp



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Oct/2022 lúc 12:34pm

https://www.youtube.com/watch?v=MHFIJBxqT5s - Giai thoại kỳ thú về những ngôi chợ nổi tiếng Sài Gòn xưa   <<<<<


SAIGON%20-%20CAU%20ONG%20LANH%20|%20TommyJapan1%20|%20Flickr



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Oct/2022 lúc 3:31am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2022/10/men-et-oi-dien-ta-kieu-nam-ky-nguyen.html - "Mèn Đét Ơi!" - Diễn Tả Kiểu Nam Kỳ

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhCNRLT70GjpynxpoBEl3lOdqAUHxKY32WjmcVbH_bTGnMRCixHZQawNrX6ow_rgpHSX2qP3OsF2d8i2tnuqfjD2ZuoELGyQotQAzypuMygq1HvYTVfaDQBCjECHgtdtD1rP0UXbcGj8-Ws5yj9BzMywSZaDkbyY4kDJk9ywRvO2W9uWcehBJzGoHNr_Q/s754/me%CC%80n%20%C6%A1i.jpg">

MÈN ĐÉT ƠI!...

Diễn tả kiểu người Nam Kỳ. 

Người Nam Kỳ có nhiều cách diễn tả biểu cảm rất ngộ. Thí dụ như cần rốt ráo thẳng luôn, dứt khoát, không e ngại, chẳng lòng vòng thì kêu là "nói đại", "làm đại", "nói phứt cho rồi".

Chữ đại trong Hán Việt có nghĩa là to lớn, nhưng qua miệng dân Nam Kỳ thành biến nghĩa qua nhanh, gọn, rốt ráo, không rào đón trước sau.

"Kinh xáng mới đào

Tàu Tây mới chạy

Thương thì thương đại

Đừng nghi đừng ngại

Bớ điệu chung tình"

Thương đại là thương liền đi, thương mau lẹ, thương nhanh đi, đừng chần chờ gì hết. 

Đọc Hồ Biểu Chánh thấy hành động nhanh gọn còn diễn tả trong chữ "phứt", phứt hoặc phức là chữ đệm thôi.

Thí dụ: thôi phứt cho rồi, nói phứt cho rồi, lãnh lương nên đem trả phứt cho dì, con đi phứt cho rồi, tôi muốn chết phứt cho rồi, mướn phứt một chiếc xe hơi, gả phứt nó cho rồi, xin từ chức phứt cho rồi,...

Phứt có nghĩa là liền đó đa, gả phứt là gả chồng cho con liền.

Mà nhớ nè, cha nào được gả phứt coi chừng rước đồ mắc dịch về nhà đó nghen.

"Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi 

Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm 

Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể 

Cưới vợ có chừ về thổi lửa queo râu." 

Người Nam Kỳ mô tả thơm tho bằng từ “thơm phức”.

Thơm phức là thơm dữ lắm, thơm lừng, thơm thất kinh. Hoa lá thơm phưc, dầu thơm phức, xà bông thơm phức, da thịt đờn bà cũng thơm phức.

Mờ đạo nghĩa, ân tình, ân nghĩa, lòng dạ, tiết tháo cũng thơm phức.

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân.

Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ”

Ông Bình-nguyên Lộc thì cái trân quý nhứt của đời ông là ”thổ ngơi thơm phứt hồn ma cũ” của đất Sài Gòn.

Xin chép vài ba câu thơ của ông Bình-nguyên Lộc cho bà con Nam Kỳ mình ôn cố tri tân, đặng để lòng mà nhớ mà thương, rồi có thương mới có ý thức về xứ sở của mình.

“Ghe ơi, vài bữa ghe về

Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?

Mùi đất nước ruộng bùn phảng phất

Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu

Năm năm, bao cuộc bể dâu?

Phút giây in lại như hầu hôm qua”

Có thơm phức thì phải có đối nghịch nó, là thúi hoắc.

Có những người bề ngoài coi tốt đẹp, còn bề trong thì thúi hoắc. Nhơn cách mờ bị gán cho hai chữ “thúi hoắc” thì tiêu tán đường. 

Lâu lâu về xóm, đụng ngay mấy bà “Tám”, ta nghe mấy bả la lên những tiếng vầy nè: “Mèn đét ơi! Mày trổ giò lớn xộn, giống thằng cha mày quá, cưới vợ được rồi đa” 

Thống kê những tiếng “ngộ” đó như sau: 

- Chèn đét ơi!

- Mèn đét ơi !

- Trèn đét ơi!

- Mèn ơi!

- Chèn ơi!

Chèn đéc quỷ thần thiên địa ôn hoàng hột vịt lộn ơi!

Bạn biết mèn đét hay chèn đét là chữ có nghĩa gì không? Đó là câu “Trời đất ơi!” đó.

Hiểu một cách nôm na thì những câu”chèn đét ơi!” là nói trại từ “Trời đất ơi !”, là một cách nói trại từ, nói kiêng, kỵ húy ông Trời, không dám kêu đích danh ông Trời. 

Tim trong thư tịch Nam Kỳ xưa thời Phan Thanh Giản thì không thấy những chữ chèn ơi đó, trong văn Hồ Biểu Chánh cũng không thấy, ông Hồ Biểu Chánh viết câu kêu lên là “Trời ơi!”, thí dụ đoạn văn sau trong “Ông Cử”:

(Trích đoạn): “Cách một lát, một đứa trẻ ở dưới mé sông đi lên, tay lắc chuông leng keng, vai vác một tấm băng đỏ lói. Ði tới cái băng chỗ ông Cử và Ba Sang ngồi, đứa nhỏ ấy dựng tấm bảng một bên, rồi ngồi gần Ba Sang mà nghỉ chơn. 

Ba Sang không biết chữ, không hiểu tờ giấy đỏ dán trên tấm bảng ấy nói chuyện gì, kêu vỗ vai thằng nhỏ mà hỏi: "Em rao bán giống gì vậy em?“

Thằng nhỏ cười đáp: "Trời ơi! Anh này quê quá! Bảng rao hát cải lương, chớ bảng giống gì! Anh không thấy hình đó sao? Hình đó là hình cô đào nhứt trong gánh, tối nay thủ vai Bàng Quý Phi cụp lắm“.

Ba Sang với lấy tấm bảng, cầm coi cái hình, khen cô đào xinh đẹp, rồi kêu ông Cử mượn đọc, coi những hàng chữ in trên đó nói cái giống gì vậy“. (Ông Cử, 1936)

Những câu “chèn ơi”, ”mèng đét ơi” xuất hiện ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ những năm 1960, xuất phát từ những người Nam Kỳ miệt Lục Tỉnh Miền Tây bình dân chạy giặc về Sài Gòn, nó là tiếng lóng. 

Trong văn Bình Nguyên Lộc ta không thấy những từ mèn đét ơi. 

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Nam Kỳ nhưng không rặc Nam kỳ như Hồ Biểu Chánh, trong văn ông này vẫn lộn chữ kiểu Bắc Kỳ, trong “Đò dọc” của Bình Nguyên Lộc ta tìm ra từ “gầy khô đét” kiểu Bắc, đáng lẽ ra là “Ốm khô queo khô quắt”. 

Hồ Trường An là nhà văn xài “mèn đét ơi” nhiều nhứt.

Xin hãy đọc hai đoạn trích sau:

(Trích) “Mèn đéc ơi, thằng nhỏ coi giống hịt thằng Bảy Huỳnh Kim Báu quá trời quá đất!... Chèn ơi, nụ cười nó giống nụ cười tía nó quá chừng chừng!”

(Trích)” Trong những thửa ruộng sâm sấp nước, ốc bươu, ốc lác bắt đầu giao hoan, cua đồng bắt đầu sanh sản. Chèn ơi, giữa mùa mưa, chẳng những loại nghêu, sò, ốc, hến, cua, còng mài miệt giao hoan, xôn xao sanh sản mà lũ cá chài, cá úc, cá mè vinh trong sông cũng mê tơi kết trứng thụ tinh”

Miệng thì "mèng đéc ơi?" thì tay phải quơ, tay vỗ đùi đen đét, mắt phải biểu cảm mới ra cái nghĩa nha hôn, các bạn đạo diễn nhớ cái khúc này làm cho trúng à, không thì chớ có ra Nam Kỳ à. 

Túm lại, mèn đét ơi đã thành di sản đặc trưng Nam Kỳ, nghe riết thành quen, nó để lại trong lòng người Nam Kỳ bao nhiêu cảm xúc, nghe thấy vui, xa thấy buồn.

 

NGUYỄN GIA VIỆT



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Oct/2022 lúc 9:47am

https://www.youtube.com/watch?v=h7WMRt-aMIk - Hủ tiếu Cả Cần món ngon Sài Gòn hơn nửa thế kỷ     <<<<<

bánh%20bao%20cả%20cần%20sài%20gòn


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Oct/2022 lúc 9:30pm

https://www.youtube.com/watch?v=PVstE2KEEOo - Anh Bảy Chà Hynos vang bóng một thời     <<<<<

Thương%20nhân%20đứng%20sau%20kem%20đánh%20răng%20anh%20Bảy%20Chà%20Hynos%20vang%20bóng%201%20thời:%20Từ


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Oct/2022 lúc 5:53am
https://www.youtube.com/watch?v=U6hoMHT0JOs -

- <<<<<Bộ%20ảnh%20đẹp%20về%20Sài%20Gòn%20xưa,%20trước%20năm%201975%20-%20Hình%20ảnh%20Việt%20Nam%20xưa%20&%20nay

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Oct/2022 lúc 5:55am

https://www.youtube.com/watch?v=To7CowTPh7U - Những Hình Ảnh Cổ Xưa Nhất Về Sài Gòn - Chợ Lớn ( 1860-1880 )        <<<<<

Những%20Hình%20Ảnh%20Cổ%20Xưa%20Nhất%20Về%20Sài%20Gòn%20-%20Chợ%20Lớn%20%28%201860-1880%20%29%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Oct/2022 lúc 11:33am
https://www.youtube.com/watch?v=tiffmEEVhIY">

Những cây cầu nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975 | Ký Ức Sàigon   <<<<<<

Những%20cây%20cầu%20gắn%20với%20lịch%20sử%20của%20Sài%20Gòn


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Nov/2022 lúc 4:02pm
https://www.youtube.com/watch?v=Jij3YD0Q7uQ">

Chạnh lòng khi tìm về 17 RẠP CINÉ xưa ở Chợ Lớn | Sài Gòn <<<<<


Chạnh%20lòng%20khi%20tìm%20về%2017%20RẠP%20CINÉ%20xưa%20ở%20Chợ%20Lớn%20|%20Sài%20Gòn%20xưa%20và%20nay%20-%20%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Nov/2022 lúc 4:49pm

https://www.youtube.com/watch?v=gXkvsmJIxeg - Xe gì phổ biến ở Sài Gòn trước 1975? | Ký ức Sài Gòn   <<<<<<

Sài%20Gòn%20xưa%20và%20Câu%20chuyện%20về%20những%20chiếc%20Xe%20Lam


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Dec/2022 lúc 1:18pm

Xóm Nhỏ Thời Thơ Ấu


Hẻm 58 – Đường Yên Đổ – Tân Định

Trần Đình Phước

– Kính dâng lên hương hồn song thân, các ông bà, cô chú bác, và các bạn cùng trang lứa. Những người đã đến và ra đi vĩnh viễn từ con hẻm này. 

– Thân tặng các bạn đã từng có một tuổi ấu thơ, trong những con hẻm nhỏ thân yêu của thành phố Sài Gòn.

https://petruskyaus.files.wordpress.com/2022/12/xom-nho-01.jpg">

Dù đã bao nhiêu năm rời xa nơi đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm. Nhưng, ký ức về tuổi thơ không thể nào nhạt nhoà trong tôi! Xin có vài hàng ghi lại về môt con hẻm nhỏ ở vùng Tân Định. Đó là hẻm 58, nay là hẻm số 52, còn gọi là Xóm Giếng.

Hẻm nằm trên đường Yên Đổ (tên cũ là Champagne, và tên mới là Lý Chính Thắng.) Đối diện với đường Huỳnh Tịnh Của (Monceaux). Hẻm cách đường Hai Bà Trưng (Paul Blanchy), khoảng hơn một trăm thước, đi ra được hẻm 60 Cù Lao. Phía cuối xóm, cách một cái giậu, được xây bằng gạch xi măng, đi ra được đường Hai Bà Trưng. Trước kia, hẻm 58 là một nghĩa trang. Một người Việt mua, cất thành hai mươi bốn căn nhà gỗ, lợp ngói âm dương, để cho bà con lao động thuê. Sau vài năm, vì hoàn cảnh khó khăn, nên bán lại cho một công ty Ấn Độ. Mỗi đầu tháng có một anh thư ký Chà Và, giọng nói lơ lớ, cái bụng phệ, và hai con mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen, đến gõ cửa từng nhà để thu tiền mướn phố. Mỗi khi thấy ông.Trẻ con trong xóm, thường lấy ngón tay cái để lên trên mũi, rồi ngoắc bốn ngón tay còn lại, cùng chọc:” Chà Già, Ma Ní, tí te. Cái bụng thè lè, con mắt ốc bu. Hù!Hú!Hu!”

Xin được giới thiệu Xóm Giếng của tôi như sau: 

Từ ngoài hẻm đi vào:

Bên trái là phòng mạch Bác Sĩ Trần Đình Ngân, tốt nghiệp ở ngoại quốc về. Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau khi ông mất. Bác Sĩ VB đến tiếp tục. Bệnh nhân của Bác Sĩ VB  đa số là phụ nữ. Có lẽ ông đẹp trai, cao ráo, dáng người hào hoa, phong nhã. Đặc biệt, đối với bệnh nhân nghèo. Ông đều giúp đỡ tận tình, chẳng những không lấy tiền, mà còn cho thêm thuốc mang về nhà. Ngoài ra, Bác Sĩ VB cón là Chủ Tịch Phù Luân Hội Sài Gòn và Dân Biểu Quốc Hội VNCH.

Bên phải là tiệm may Xuân Liên, cũng là tên con gái duy nhất của ông bà chủ. Cô có gương mặt trái xoan, đẹp, thùy mị và học giỏi. Sau này tiệm may Xuân Liên sang lại cho một phụ nữ gốc Huế, được đổi tên thành Nhà May Phương Mai. 

Hẻm 58 có một cây Mận cho trái to và ngọt. Một cây Vú Sữa với trái cũng to, màu tím. Khi mùa mận và vú sữa đến. Con nít trong xóm thường lén leo lên hái, hoặc dùng dép, guốc, gạch liệng lên cây. Khi những trái mận, vú sữa rớt xuống đất. Cả đám cùng nhau chạy đến giành giựt. Mạnh thì được, yếu thì thua. Chưa kể là quần áo bị nhàu rách, dính đầy đất cát. Có em còn bị “lỗ mũi ăn trầu, cái đầu xỉa thuốc.”

Cuối xóm có bốn cầu tiêu thùng. Cứ ba đêm, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi đến dọn vệ sinh. Tên thật của ông không ai nhắc đến. Bà con trong xóm thường gọi ông là ông Đổ Thùng. Miệng ông lúc nào cũng nhai trầu bỏm bẻm và thường say xỉn. 

Chính giữa xóm là một cái Giếng. Vì thế hẻm còn được gọi là Xóm Giếng. Cái giếng nằm cạnh cây mận, phía trước nhà số 58/10. Đó là nhà ông bà Tám Phùng. Ông bà có tất cả mười một người con thứ tự như sau: Tánh, Thu, Xuân, Bé, Phụng, Huệ, Mai, Hường, Quang, Hiền và Liêm. Khoảng giữa thập niên 60. Ông bà thầu đóng thùng cho một cơ quan Hoa Kỳ để chuyển hàng về nước. Nên tạo công ăn việc làm cho bà con trong xóm. Nam, phụ, nữ, ấu đều được thuê tháo, đóng, gói thùng. Những lúc cần thùng gấp. Đèn điện sáng suốt đêm, chuyện trò huyên thuyên.Tiếng búa, tiếng đinh nện rầm rập như hò kéo gỗ, nhưng không thấy ai khiếu nại hay than phiền gì hết!

Một gia đình đông con thứ hai là nhà ông bà Tư Bụng – 58/22. Các con của ông bà được đặt tên rất có vần, tựa như thơ: Hồ, Sơn, Hải, Hà, Lâm, Chung, Thủy. Theo bà con lớn tuổi trong xóm cho biết. Ông bà sinh đứa con gái đặt tên Chung là coi như khoá sổ, không tiếp tục sanh nữa. Nhưng năm sau, bể kế hoạch, thêm người con gái út ra đời là Thủy.

Xóm Giếng có bốn gia đình làm bánh cuốn tráng hơi. Vừa bán lẻ cho bà con trong xóm và các xóm lân cận, vừa bỏ mối cho bạn hàng ở các chợ Tân Định, Đa Kao và Phú Nhuận:  Bà Thọ (58/5), Bà Tỵ (58/6), Bà Thi (58/12) và Bà Trỉển (58/24). Cả bốn bà đã lần lượt, cùng hẹn gặp nhau dưới suối vàng mở Câu Lạc Bộ Làm Bánh Cuốn Tráng Hơi. Trong bốn bà tráng bánh cuốn, chỉ có nhà bà Thọ có cối xay bột bằng đá. Chồng bà và các con thay phiên nhau xay cho khách, để về làm bánh xèo, bánh bèo…Riêng ba bà kia phải nhờ nơi khác xay.

Muốn tráng thành một cái bánh cuốn. Phải trải qua nhiều công đoạn và kỹ thuật. Bắt đầu từ chọn gạo thích hợp, ngâm nước trước. Sau đó xay thành bột. Nhưn bánh cuốn gồm: hành tím, củ sắn, nấm mèo, tóp mỡ. Gạo không đúng, pha nước nhiều, pha không đúng cách, đến khi tráng sẽ không ra được bánh. Nếu nhưn băm không nhuyễn, lúc cuốn lại bánh sẽ rách. Tay mà lọng cọng, khi lấy bánh từ khuôn trong nồi ra, sẽ rơi xuống bếp lửa. Khuôn được làm bằng tre hay kim loại, cuốn vòng tròn theo miệng nồi.Vải bọc khuôn thường dùng loại Popeline ba trái đào. Thời đó chỉ nấu bằng củi. Nên luôn luôn phải thật cẩn thận. Lơ đễnh một chút là có thể gây ra hoả hoạn. Sau khi tráng bánh cuốn xong. Củi lửa được dập tắt, còn lưu lại một ít than vụn. Than này được bán lại cho những người quạt bánh tráng, bán bắp nướng, bán hột vịt lộn…Sau này không còn dùng củi, chuyển sang nấu bằng dầu hôi, nên đỡ vất vả hơn.

Bà Cà, còn có tên là bà Bản là chủ bánh cuốn Tây Hồ – Đa Kao, đã từng đến đây học nghề, trước khi mở quán bánh cuốn bình dân ở đền thờ Phan Chu Trinh từ năm 1960. Sau năm 1975. bánh cuốn Tây Hồ chuyển ra đường Đinh Tiên Hoàng, góc Huỳnh Khương Ninh, nằm đối diện xe bánh mì Bảy Quang. Bà Cà mất năm 2005. Hiện nay hai người con gái và một con trai phát triển thành ba tiệm bánh cuốn Tây Hồ. 

Căn nhà ông bà Thọ – 58/5 tuy nhỏ. Nhưng vào năm 1954 đã chứa được bốn gia đình. Trong số đó có gia đình ông bà Dậu và con trai tên Bình, tên gọi ở nhà là Dậu, vì tuổi con Gà (Ất Dậu – 1945). Một thời gian sau. Ông bà Dậu dọn qua xóm Lách. Sau đó chuyển sang hẻm số 288. Còn được gọi là hẻm Bắc Kỳ Di Cư. Có lẽ, hầu hết bà con trong hẻm đều đi cư từ miền bắc vào?  Phở Bà Dậu – Công Lý bắt đầu từ đây. Khởi nghiệp với một chiếc xe nhỏ, hai cái bàn cũ kỹ, vài cái ghế thấp lè tè, được che bằng tấm bạt nylon, núp dưới tàn cây trứng cá. Phở bà Dậu có hương vị đặc biệt và bí quyết riêng so với các nơi khác, nên khách kéo đến thưởng thức mỗi ngày một đông hơn. Giá bán một tô phở không thuộc loại bình dân, nên đa số khách đến thưởng thức đều khá giả, có thêm một số khách từ phương xa nghe tiếng đến ăn cho biết.

Bà Dậu Công Lý và Bà Cà Bánh cuốn Tây Hồ đã mất. Tuy nhiên, các con của hai bà vẫn tiếp tục sự nghiệp Phở và Bánh Cuốn tại Sài Gòn. Hai bà không có con cháu đang sống ở nước ngoài! Nếu như ở nhiều nơi. Chúng ta thấy các nhà hàng treo bảng hiệu và quảng cáo Bánh Cuốn Tây Hồ và Phở Bà Dậu chính gốc. Đó chỉ là bắt chước tên. Có lẽ! Các chủ nhân thấy hai cái tên này có tiếng tăm, nên tự động đặt tên cho quán mình, nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách, và nhân tiện nhắc lại một chút kỷ niệm về ăn uống của Sài Gòn trước năm 1975.

Một căn nhà khác là nhà ông bà Tư Đun – 58/21. Ông hành nghề hớt tóc ở hẻm 32, đường Yên Đổ, kế bên nhà thuốc Đông Y Trần Gia Viên và lò bánh mì Thuận Thái. Đồ nghề của ông gồm: một cái ghế, một cái kiếng, một cái thùng nhỏ đựng tông đơ, kéo, dao cạo, chai xịt nước, cái khăn lông và một sợi dây nịt bằng da để mài dao cạo. Vào dịp tựu trường hay sắp Tết, khách hàng của ông rất đông. Ngoài 80 tuổi, ông vẫn chưa chịu nghỉ. Ông mất năm 2010, lúc chín mươi chín tuổi rưỡi. Ông thích chơi số đề và thường chọn con số 11(con chó nhỏ.) Hôm nào ra số 11 là coi như 100% ông trúng. 

Nếu ra con chó lớn 51 và 91 thì ông lầm bầm, tiếc hùi hụi. Vợ ông, bà Tư khô mực, bán đủ các loại khô. Bắt đầu từ sáu giờ chiều cho đến nửa đêm về sáng, trước hẻm 60 – Cù Lao. Bà chọn khô mực rất kỹ. Con nào, con nấy đều đáng đồng tiền bát gạo. Khô được nướng trên than hồng. Sau đó, dùng búa đập khô trên cục đá hình tròn, giống như cái thớt. Rượu Đế Gò Đen chính hiệu con nai vàng. Các con khô được treo lủng lẳng rất hấp dẫn. Rượu được bày trên một cái bàn nhỏ, được chứa trong các chai loại một lít. Khách của bà hầu hết là dân lao động. Ban ngày lo đi cày. Chiều tối về ghé lai rai vài chung lấy sức, quên đi một ngày mệt nhọc. Cuối tuần rủng rỉnh thì chơi vài xị cho quên sầu đời! Sau đó về nhà la lối vợ con, rồi đi ngủ. Bà Tư đã mất. Hiện nay sự nghiệp khô mực, do hai con gái bà vẫn còn độc thân quán xuyến. Bàn khô mực của bà Tư Đun, tính ra đã trên nửa thế kỷ. Cục đá dùng đập khô mực vẫn bền bỉ, chịu đựng theo thời gian. Có lẽ, nó được xếp vào loại đồ cổ.  

Một gia đình nữa, mà bà con lối xóm và các xóm chung quanh kiêng nể là gia đình bà Chín Thủng – 58/4. Bà Chín cùng hai con gái là Lùn và Queo, hành nghề gánh nước mướn, chuyên cung cấp nước cho các xe bán hàng ăn uống trong vùng và một số nhà trong xóm. Nhà bà có mấy chục đôi thùng loại hai mươi lít, dùng đựng dầu hôi, hiệu con gà. Tất cả xếp dọc theo máy nước, chưa kể là những thùng móp, méo, thùng rác cũng được gia đình bà đem sắp hàng. Tự cho mình chiếm lãnh độc quyền máy nước một vòi, nằm ở đầu hẻm 60 – Cù Lao. Lúc nào cũng dành ưu tiên hứng trước. Chỉ nhường lại cho thiên hạ, khi phải quảy gánh đi giao nước. Ai cự nự, yêu sách, lý sự, đòi hứng trước là cả gia đình bà nhào tới. Hai tay cầm đòn gánh khua như múa võ Sơn Đông, miệng chửi thề, đập thùng, khiến ai ai cũng xếp re. Vì thế, để tránh đụng chạm, nhiều người phải chờ đến ban đêm mới dám ra hứng.

Sau này, nhiều gia đình trong xóm được gắn vòi nước vô trong nhà, nên ít ai thuê gia đình bà bỏ nước nữa! Từ đó công việc gánh nước mướn của gia đình bà Chín bị ảnh hưởng. Các con bà chuyển sang bán rượu bình dân trước mái hiên nhà. Khách nhậu ngồi trên bộ ván nhỏ. Vài cái bàn và các chiếc ghế xập xệ đặt choán cả lối đi. Bà con trong xóm không ai dám lên tiếng, vì ngán những cái miệng dữ dằn của gia đình này. Các anh xích lô, ba bánh, xe ôm, thợ nề, thợ mộc, mua ve chai…thường kéo đến nhậu từ sáng cho đến tối. Say quá, nên xả súp bắp ngay đầu hẻm, làm ô uế cả xóm. Chưa kể lúc quá say, hát hò, rượt đuổi con nít và phụ nữ đi ngang qua chạy có cờ. Đôi khi cùng bàn nhậu, lời qua tiếng lại. Ai cũng cho mình đúng, người khác sai. Thế là xảy ra ẩu đả, làm ồn ào, mất trật tự, náo loạn cả xóm. Phường, khóm phải đến giải quyết và cảnh cáo. Im im được vài ngày. Rồi đâu cũng vào đó! 

Quán nhậu vẫn tồn tại cho đến ngày nay, do cháu nội gái bà tiếp nối. Một cháu nội trai của bà tên Ngh.., tức Ngh.. chó, cầm đầu  một đám đàn em ở cầu Kiệu, chuyên săn bắt chó từ trong thành phố, ra đến ngoại ô, và các vùng lân cận, để cung cấp cho các quán cờ Tây. Chó kiểng, chó đẹp thì cho chủ nhân chuộc theo luật giang hồ. 

Đối diện nhà bà Chín Thủng là nhà ông bà Sáu Hạnh – 58/8. Căn nhà nằm cạnh một khoảng đất trống, sát bên cái giếng. Con nít trong xóm thường kéo đến đây chơi: bắn đạn, tạt lon, tạt hình, đá banh, đánh đáo, năm mười, bắt cú, giựt khăn, u bắt mọi, nhày dây, nhảy lò cò, đá cầu, đánh bông vụ… Nên la hét, ồn ào. Do đó, ông Sáu thường lấy vòi nước ra xịt, làm ướt đất, không thể nào chơi được. Đôi khi đang lum khum kè đạn vô lỗ, đang lừa banh, chuẩn bị sút, hay đang quất bông vụ. Thình lình, ông Sáu xuất hiện, tay ông lẹ làng tịch thu các chiến lợi phẩm. Dân chơi con nít chỉ biết lo bỏ của chạy lấy người. Sau đó, đứng từ  xa. Đếm một, hai,ba. Cùng la:” Ông Sáu Già, Bẹt Cà Na. Chết thành Ma. Là Lá La.!”Lâu lâu, ông phục kích chộp được một em nào chậm chân. Ông lôi xềnh xệch, đem tới nhà méc cha mẹ. Thế là em bé nạn nhân bị cha mẹ đánh đòn, để cho ông Sáu mát lòng, hả dạ. Có trường hợp đang lôi gần đến nhà. Các em cắn vào tay ông Sáu. Bị đau quá, nên ông buông tay ra. Thế là! Em thoát nạn. Ông chỉ còn nước, đứng chửi thề, đưa tay lên trời và hứa hẹn. Lần sau các con sẽ không bao giờ thoát tay QUA đâu! Có thể nói ông Sáu là hắc tinh, là hung thần của con nít xóm Giếng. Bây giờ ông đã đi xa! Lâu lâu nhắc lại về ông, cũng thấy một thoáng chút bùi ngùi! 

Con trai duy nhất của ông bà Sáu Hạnh là Trưởng Hướng Đạo Việt Nam kỳ cựu, Nguyễn Hiếu Trung . Đạo Trưởng Đạo Bến Nghé, thuộc châu Gia Định. Lúc đó, hầu hết thanh thiếu niên trong xóm đều được khuyến khích tham gia hướng đạo với sự giúp đỡ của Trưởng Trung và các Trưởng khác trong Đạo Bến Nghé. Nhưng thời gian sau rơi rụng dần. Có lẽ hơi tốn kém, mất thời giờ, cha mẹ không thể nào lo xuể vì phải tìm kế sinh nhai. Tuy nhiên, nhờ phong trào Hướng Đạo, mà đã thay đổi được một số trẻ em trong xóm, được sống tốt, đàng hoàng. biết lễ phép và có tấm lòng tha nhân. 

Hiện nay vẫn còn vài em, ngày xưa tham gia hướng đạo, đang còn tiếp tục cuộc chơi HĐ, để giữ lửa cho phong trào. Trưởng Trung có giọng hát rất hay, cao vút, thuộc ca đoàn nhà thờ Tân Định. Sau này, gia đình chuyển vô cư xá Nha Căn Cứ Hàng Không, nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất. Hai ông bà cũng có nhiều con: Nga , Hoàng, Long , Lân, Phụng…

Xin viết thêm ở đây. Gia đình cua rơ xe đạp Nguyễn Văn Châu đã từng thuê căn gác nhỏ của số nhà 58/8, để trú ngụ. Cua rơ Nguyễn Văn Châu đã làm rạng danh nền thể thao nước nhà, mà cho đến nay, chưa có bất cứ tay đua xe đạp nào của Việt Nam làm được như ông “Thành tích lẫy lừng và vang dội của ông là trong cùng năm 1961. Ông đoạt chức vô địch xe đạp nước rút Á châu ở Đông Kinh và Vô địch Đông Nam Á Vận Hội ở Ngưỡng Quang.” 

Bây giờ tay đua Nguyễn Văn Châu đã ngoài 80 tuổi. Hiện ông phụ con trai, bán bánh bèo bì, bánh canh và cơm tấm trên đường Hai Bà Trưng, dưới dốc cầu Kiệu, gần thuốc cam Hàng Bạc, hướng về phía chợ Tân Định. Quán cũng tương đối đông khách, nhờ ngon, giá bình dân và tiếng tăm của tay đua vô địch Nguyễn Văn Châu hồi xưa, còn lại một chút dư âm.

Tiếp đến số nhà 58/17 của ông bà Yến. Vì ông bà có hai người con gái tên Yến: Yến chị và Yến em. Cô Yến chị lập gia đình rất sớm. Yến em đẹp hơn, có chồng là Đại úy Địa Phương Quân tên H.. tử trận ở Long An. Yến em là quả phụ ở tuổi chưa đầy ba mươi. Với sắc đẹp dễ nhìn, có nhiều người muốn đi tới. Nhưng Yến em ở vậy thờ chồng nuôi con. Hiện nay đã là bà ngoại. Ba của hai cô Yến là ông HĐM  là thư ký trường Đại học Luật Khoa Sài Gòn. Năm nào cứ sắp đến mùa thi là sinh viên thường ghé thăm, tặng quà cho ông. Chắc là có bàn tay ông đã giúp đỡ gì đó cho họ? 

Bà Yến bán hủ tiếu bò kho bình dân. Bà con trong xóm kéo đến ăn đông vào buổi sáng, vì giá rất rẻ. Người nào đi làm, sau khi ăn xong, mua bỏ vào gà mên mang theo ăn trưa. Bếp nấu của bà nằm phía sau, gần sát bên xóm Giậu. Đặc biệt, bà rất mát tay. Ai đau yếu, tứ thời cảm mạo. Dù đêm hôm, mưa gió. Bà cũng sẵn sàng đến nhà để cạo gió, cắt lể. Đồ hành nghề của bà là đồng xu nhỏ bằng bạc để cạo, cái móc tai để lể và lọ dầu cù là Mác Xu để thoa. Nhiều người nhờ bà, khỏi tốn tiền thuốc men hay đi bác sĩ. Sau đó, họ đến ăn ủng hộ bò kho của bà.

Cháu ngoại bà tên Trung, con gái đầu lòng của chị Hảo (con gái thứ hai của bà), đang bán chè bình dân trước hẻm. Chỉ bán vào ban đêm từ 8 giờ đến khoảng nửa khuya. Lúc đầu rất ế ẩm. Bây giờ tiếng tốt đồn xa. Ngon và rẻ. Khách kéo đến ăn nườm nượp, ngay cả những người nước ngoài cũng đến thưởng thức. Hôm nào ế ẩm thì các công nhân làm vệ sinh đêm,  hay không nhà được cô Trung đãi chè miễn phí. Chỉ quán chè xập xệ, mà nuôi các con đều học thành tài.

Căn nhà tiếp theo số 58/23. Nhà ông bà Đĩnh hay còn gọi là Chung. Nhà toàn là con gái. Ông bà chỉ có một quý tử tên Chung. Ông bà rất nuông chiều cậu quý tử này. Anh Chung muốn bất cứ gì cũng được ông bà tối đa thoả mãn. Vùng Yên Đổ, có lẽ anh Chung là người chạy Lambretta màu đỏ trắng đầu tiên. Đi lính anh cũng là lính kiểng. Quanh năm suốt tháng đều thấy tà tà ở Sài Gòn. Anh là dân chơi thứ thiệt, nhưng không mang tai, mang tiếng. Tứ thứ ăn chơi trên cõi đời ô trọc, anh đều tham gia tới nơi, tới chốn. Năm nay, tuổi đã ngoài bảy mươi. Con cái anh đều thành công. Không đứa nào noi gương anh. Đúng là “Hổ phụ sanh. Nhưng, Hổ không tử.“ 

Kế bên là căn nhà 58/24 của ông bà Triển. Gia đình ông bà kiếm thêm thu nhập nhờ hai bàn đá banh tay. Con nít trong xóm và các xóm lân cận đến chơi từ sáng đến tối. Hai con trai chủ nhà tên Tân và Mậu có cú lừa banh tuyệt cú mèo. Lừa tới, lừa lui, lừa xuôi, lừa ngược. Khi thấy đối thủ hơi lơ là, không cảnh giác, bèn đưa ngay một cú “dít” ngọt xớt như cơm sườn vào lỗ, làm bể thùng nước lèo đối phương. Thế là bên ngoài khán giả con nít vỗ tay tán thưởng rầm rộ. Muốn chơi đá banh bàn, phải bỏ đồng năm cắc có hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào lỗ ở phía dưới, nằm giữa bàn. Sau đó giựt mạnh thì banh mới xuống. Có nơi chủ bàn để năm trái banh, có nơi bảy hay chín trái. Luôn luôn là số lẻ. Kết thúc những trận đá banh. Hầu hết các đấu thủ, quần áo, mặt mũi dính dầu nhớt tùm lum.Về nhà không thể nào giấu cha mẹ được. Đương nhiên là bị đòn!

Kể thêm một căn gia đinh chuyên làm bìa lịch cho các công ty, hãng xưởng, dùng làm quà quảng cáo cuối năm – số 58/11. Do anh Phú làm chủ. Vì làm lịch, nên bà con gọi anh là anh Phú Lịch. Mỗi năm gia đình anh chỉ cần làm vài tháng là dư sống cho suốt năm. Vào mùa làm lịch đến. Bà con trong xóm có thì giờ rảnh, thường được anh thuê để phụ. Kẻ dán hồ, người cắt bìa, đục lỗ. Nếu tay nghề cao hơn thì được giao phụ trách mạ chữ vàng. Làm thâu đêm, suốt sáng để cung cấp cho kịp thời cho khách hàng. Xích lô, ba bánh vô ra nườm nượp để chuyển lịch vừa làm xong.

Căn nhà tiếp theo – 58/14 của ông ba Hoá. Ông chuyên môn ráp kiếng gió xe và lót cao su đệm cửa cho xe hiệu Peugeot. Lúc đầu, ông làm cho Sàigòn Xe Hơi Công Ty, nằm trên Đại Lộ Thống Nhất, đối diện Nhà Thờ Đức Bà – Sài Gòn, hay còn được gọi là Vương Cung Thánh Đường. Về sau, ông xin nghỉ ở đây, để làm tại nhà. Các chủ xe thường tìm đến nhà ông làm, vì giá rẻ và không phải chờ lâu. Ông bà không có con. Nên, nhận ba đứa con của người em, về làm con nuôi và cho ăn học đàng hoàng. Nhưng, chẳng đứa nào ra cơm cháo gì hết! 

Và căn nhà cuối cùng là nhà của vợ chồng anh Chính – 58/22. Anh là võ sư Thái Cực Đạo. Cựu quân nhân Không Quân VNCH. Các con anh đều được học võ từ nhỏ. Anh bắt các con anh tập miệt mài: đấm, đá, giựt cùi chỏ, lên gối vào bao gạo, nhét đầy vải vụn. Anh hy vọng các con sẽ nối nghiệp võ của mình. Anh qua đời ở San José, vì căn bệnh ung thư, khi tuổi ngoài 50. Con trai đầu lòng của anh là Võ Sư Nguyễn Thạc. Hiện mở võ đường Thái Cực Đạo, mang tên Thanh Long, thuộc thành phố Milpitas – miền bắc California. Số võ sinh đến thọ giáo rất đông. 

Chuyện hẻm 58 – Xóm Giếng cũng giống như muôn ngàn con hẻm nhỏ bình dân của Sài Gòn trước kia. Sáng, trưa, chiều, tối với những tiếng rao hàng lanh lảnh: bánh giò, bánh chưng, bánh cúc, bánh gai, bánh xu xê, khoai mì chà bông, huyết heo luộc, xôi nếp than, bánh bèo, bánh ít trần, bánh ướt, chuối xào dừa, chuối chiên, chuối nấu, cốm dẹp, chè đậu xanh bột bán, chè thưng, chè táo xọn, chè hột me, bắp nấu, me ngào, bánh tráng kẹo, bánh bò, bánh da lợn, bánh căn bà ba, ốc gạo, ốc len xào dừa,…Tiếng thu mua zàng zụng, pạc zụng, ve chai, quần áo cũ, tủ giường cũ, đồ sắt, đồ đồng, đồ nhôm, hằm bà lằng bán hôn !…Ngoài ra, còn tiếng lóc cóc, có nhịp, có điệu của các xe mì bình dân, gõ trên hai miếng tre, vào giữa đêm thanh vắng.

Trẻ con thích nhất là tiếng rao của ông bán kẹo kéo:” Ông Tây mà lấy bà Đầm. Thấy hàng kẹo kéo, chạy ầm ra mua. Ông thì bảo bà mua. Bà thì bảo túa lua hết tiền,” hay” Cô kia, vừa thấp, vừa lùn. Ăn đồng kẹo kéo, nó đùn cô cao.” 

Xóm Giếng, hay các xóm nhỏ ở Sài Gòn không khác nhau là bao nhiêu! Thanh thiếu niên dễ bị cám dỗ, sa đoạ bởi nhiều thói hư, tật xấu và tệ đoan xã hội. Từ đó sinh ra lêu lổng, đàn đúm, kết bè, kết đảng, bỏ học và phạm tội. Rồi sau đó vào tù, ra khám. Thanh thiếu niên xuất thân nơi đây, khó có cơ hội và điều kiện, để tiến bước trên đường học vấn. Cha mẹ thì lao động chân tay, chữ nghĩa kém cỏi, không có thì giờ gần bên con cái, để dạy dỗ và săn sóc. Quanh năm, suốt tháng, quần quật chạy toát mồ hôi, mới lo được miếng ăn cho gia đình, thì làm sao có thể lo được cho con cái mình được cái chữ, cái nghĩa với đời! Tuy nhiên, vẫn có một số em đã vượt qua được nghịch cảnh của gia đình. Cố gắng, chăm chỉ học hành trong hoàn cảnh khó khăn. Tránh xa mọi sự lôi kéo đưa đến hư hỏng. Nên thoát khỏi vòng dây oan nghiệt này! và tìm được chỗ đứng trong xã hội! 

Còn rất nhiều điều để viết về con hẻm số 58, Yên Đổ.  Xin được phép dừng ở đây! Xin cầu chúc những người Xóm Giếng cũ đã đi xa. Giờ này, họ đang sống an bình nơi cõi vĩnh hằng như: ông bà Cả, ông bà Hai Miên, ông bà Ba Hoá, ông bà Tư Bụng, Ông Tư Đen, Ông bà Tư Đun, ông bà Năm Quí, ông bà Sáu Báu, Ông bà Sáu Lộ, ông bà Sáu Chái, ông bà Sáu Hạnh, Ông bà Bảy Lô, Ông bà Tám Phùng, Ông bà Chín Thủng, ông bà Mười Lác, ông bà Thọ, ông bà Triển, ông bà Thi, ông bà Tỵ, ông bà Đội Phổ, ông bà Yến, ông bà Sĩ, ông bà Chung, ông Hai On, bà Hai Mập, bà Ba Thông, bà Tư bún Tàu, Bà Năm Đủ, ông Năm Tỵ, ông Bày Bò, bà Bảy Long, bà Tám Xuân, anh Tánh, anh Hồ, anh Hà, anh Lâm, anh Sơn, anh Tụ, anh Thành Ba Lù, anh Thành mập, Chị Lùn, chị Viễng, Chị Nguyệt, chị Bé, chị Ba… 

Hầu hết các căn nhà trong xóm đã đổi chủ mới. Được xây dựng lại thành các căn phố lầu. Chỉ còn lại khoảng vài căn trước kia giữ dáng dấp cũ. Bây giờ, xóm Giếng không còn khoảng đất trống cho trẻ em vui chơi như ngày xưa. Cái Giếng cũng đã lấp, cây cối đã bị chặt bỏ hết. Người lớn tuổi đã theo Trời, theo Phật, theo Ông Bà về bên kia thế giới. Một số khác đã giã từ con hẻm đi nơi khác lập nghiệp, hoặc đang sống tha phương nơi xứ người. 

Cuối cùng. Xóm Giếng chỉ còn trong nỗi nhớ khôn nguôi mà thôi! 

Xin được chào Xóm Giếng thân yêu của tôi!

Trần Đình Phước 

(San José, California)



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Dec/2022 lúc 9:59pm

https://www.youtube.com/watch?v=9Ownonfokx4 - Đức tính ân cần của người Sài Gòn     <<<<<<

Đức%20tính%20ân%20cần%20của%20người%20Sài%20Gòn%20|%20tach%20ca%20phe



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Jan/2023 lúc 7:00pm
https://petruskyaus.files.wordpress.com/2023/01/saigon-nhung-con-hem-nho-01.jpg

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Jan/2023 lúc 7:07am
https://www.youtube.com/watch?v=xlYiSlIdm28 -

Tết Sài Gòn xưa trước năm 1975 - Những hình ảnh quý hiếm - < - < - <

Tết%20Sài%20Gòn%20xưa%20trước%20năm%201975%20-%20Những%20hình%20ảnh%20quý%20hiếm%20|%20Go%20Vietnam%20✓%20-%20%20YouTube

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Mar/2023 lúc 2:07pm

https://www.youtube.com/watch?v=1_rNT_0CE_4 - -   <<<<<<

Xe%20Xích%20Lô%20Máy%20Ở%20Miền%20Nam%20Việt%20Nam%20Trước%201975%20-%20YouTube



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Mar/2023 lúc 9:18am

Những biểu tượng của Sài Gòn trong ký ức tuổi thơ của tôi

Tuy không phải sinh ra ở Sài Gòn nhưng tôi sống ở Sài Gòn khi còn rất nhỏ khoảng 2 hay 3 tuổi. Đến khi trí óc tôi có thể ghi nhận những hình ảnh và sự kiện chung quanh mình thì ngày nay những thứ đó không còn thấy nữa. Tất cả chỉ còn là những kỷ niệm và bây giờ đối với tôi  đó là những kỷ niệm đẹp.

 

XE CHIẾU BÓNG THÙNG

https://www.ngo-quyen.org/images/file/qt4gR15H2QgBAFA3/image001.jpg">image001

 

Lúc tôi 6 hay 7 tuổi, tức là khoảng năm 1950, 1951 thì thời đó chưa có TV. Điện ảnh Việt Nam còn trong trạng thái phôi thai, các rạp chiếu bóng thì chỉ chiếu các phim nói tiếng Pháp và lâu lâu tôi mới được ba tôi dẫn đi xem. Nhưng tôi rất mê các phim hoạt họa và phim diễu của Charlot. Vì thế dù chỉ được má tôi cho 5 cắc cho buổi học sáng và 3 cắc cho buổi học trưa, tôi cũng ráng để dành vài cắc chờ chú có xe chiếu bóng thùng đến để bỏ tiền xem những phim mình ưa thích.

 

Chú này đi một chiếc xe đạp chở ở phía sau porte-bagage một cái thùng sắt mà hai bên hông và phía sau thùng có đục những cặp lỗ để khán giả con nít đặt hai mắt vào xem phim chiếu từ một máy chiếu phim quay tay  đặt phía trước thùng. Ngoài những phim hoạt họa hay phim Charlot, chú còn chiếu phim phong cảnh đẹp trên thế giới. Lúc đó chú sẽ “thuyết minh” cho các khán giả con nít tên của thắng cảnh và đặc điểm của chỗ đó.

 

Có khi không đủ tiền xem hát tôi và một thằng bạn hùn lại để mỗi đứa xem một con mắt. Khi tới pha cụp lạc trong phim chúng tôi cũng biết vỗ tay tán thưởng.

 

CHÚ BÁN KẸO KÉO

KẸO%20KÉO%20NGÀY%20XƯA


“Cô kia chồng bỏ chồng chê,

“Ăn cây kẹo kéo chồng mê tới già”

 

Con nít thường thích ăn kẹo. Tôi cũng không là ngoại lệ. Mỗi khi nghe chú người Bắc bán kẹo kéo rao hàng bằng hai câu thơ trên thì dù đang bắn bi hay tạt lon với các bạn, tôi cũng bỏ cuộc chơi chạy ra bỏ vài cắc để dành để mua một khúc kẹo kéo.

Trên một tấm gỗ cột ở cái porte-bagage của chiếc xe đạp là một bao vải đưng một khối kẹo kéo thật to. Sau khi bỏ tiền vào túi chú bán kẹo kéo, mở miệng bao ra lấy tay nắm phần đầu khối kẹo và kéo ra thành một khúc dài và nhỏ đoạn bún tay cắt một đoạn kẹo giao cho khách. Người khách nhỏ tuổi sẽ tiếp lấy ngậm một phần kẹo vào miệng để thưởng thức vị ngọt lịm bên ngoài rồi cắn đứt phần đó ra để nghe vị béo của các hột đậu phọng bên trong.

Khi nào không có tiền mua, nhìn mấy đưa bạn đang mút những khúc kẹo kéo béo ngọt mà tôi thèm đến chảy nước miếng.

 

SƠN ĐÔNG MÃI VÕ
Hội%20Ái%20Hữu%20Petrus%20Trương%20Vĩnh%20Ký%20Úc%20Châu

Con nít có tính hiếu kỳ, thuở nhỏ tôi cũng vậy. Tôi mê những màn quảng cáo thuốc cao đơn, hoàn tán, thuốc trị đau nhức hay xổ lãi, dầu cù là hay nhổ răng dạo có kèm những màn xiệc, ảo thuật hay múa võ.

 

Nhưng hấp dẫn nhứt là màn con khỉ mặc quần áo đỏ cỡi xe đạp chạy vòng vòng hay những màn phóng dao. Giữa những màn đó, người ta đem sản phẩm ra rao bán hay mời một người trong đám khán giả vào thử thuốc hay nhổ răng.

Còn màn tôi phục nhứt là vận nội công chặt bể một chồng gạch. Nghe nói xuất xứ của nghề Sơn Đông mãi võ là từ môn phái Bắc Thiếu Lâm ở tỉnh Sơn Đông bên Trung Quốc. Ban đầu, là những võ sĩ đi rong biểu diễn võ thuật để xin tiền như chúng ta trông thấy trong các phim bộ võ thuật Hồng Kông. Sau khi du nhập vào Việt Nam nghề đó trở thành bán thuốc dạo có biểu diễn vỏ thuật rồi dần dà trở thành như  một gánh hát lưu động diễn đủ trò như nói trên.

https://www.ngo-quyen.org/images/file/Xo72SF5H2QgBAOM1/image004.jpg">image004

Màn “đứng tim” nhứt là phóng dao. Một thiếu nữ đẹp đứng dang tay trước một tấm bảng gỗ. Đứng trước cô vài thước là một người đàn ông lần lượt phóng những con dao cắm vào bảng gỗ sát thân người của thiếu nữ. Ai cũng khen tài phóng dao của người đàn ông nhưng không quên phục sự can đảm của cô thiếu nữ.

Khán giả con nít chúng tôi hào hứng vổ tay từng chập cho những màn gay cấn.

 

GÁNH NƯỚC PHÔNG TÊN

Thuở%20Sài%20Gòn%20xài%20nước%20phông-tên

“Trăng đêm nay dìu dịu cả không gian.
Tôi với em đi gánh nước cạnh đình làng”

 

Thời thơ ấu, bài vọng cổ Gánh Nước Đêm Trăng của Viễn Châu với giọng ca “não ruột” của Út Trà Ôn từ nhà bên cạnh vọng sang lúc ban đêm làm tôi thao thức không ngủ được trong căn gác nhà tôi ở quận 4. Nhưng đó là cảnh gánh nước giếng ở vùng quê, ở Sài Gòn khi tôi còn nhỏ thì ở các khu lao động có những vòi nước công cộng mà người dân gọi là phông tên nước âm từ tiếng Pháp fontaine.

Tôi còn nhớ mỗi đêm tôi phải mang hai thùng thiếc, loại thùng dầu ăn đã dùng hết dầu, đục bỏ nắp thùng rồi đóng một cán gỗ để gánh hay xách, ra chỗ phông tên sắp hàng đợi đến lượt mình hứng nước.

 

https://www.ngo-quyen.org/images/file/UotTSV5H2QgBAN4s/image005.jpg">image005

 

Sở dĩ má tôi sai tôi sắp hàng hứng nước ban đêm vì ban ngày người lấy nước đông hơn, hàng thùng chờ hứng nước có khi dài cả trăm thước. Khi hứng nước xong thì người chị họ tôi (ở dưới quê lên ở nhà tôi để đi học) gánh về.

Phông tên ở khu vực nhà tôi nằm trên đường Tôn Đản gần ngả tư Tôn Đản và Đỗ Thành Nhân (nay là Đoàn Văn Bơ). Ở đây có những tay anh chị làm “đầu nậu” bắt chúng tôi phải nhường cho gia đình họ lấy nước trước.

 


 

Từ ngữ “Marie phông tên” xuất xứ từ những vòi nước công cộng này để chỉ những người phụ nữ giúp việc nhà cho những  gia đình giàu có.

Cái nhiệm vụ sắp hàng chờ hứng nước ở phông tên được tôi vui vẻ  thi hành vì  là con nít nên “khoái” thức đêm chơi.

 

CHIẾC XíCH LÔ MÁY VÀ BÀ NGOẠI TÔI

Ký%20ức%20Sài%20Gòn:%20thao%20thức%20tiếng%20xích%20lô%20máy

 

Tôi còn nhớ, khi còn nhỏ, có những buổi chiều một chiếc xích lô máy dừng trước cửa nhà tôi với tiếng kêu quang quác của những con gà. Đó là những lần bà ngoại tôi từ Trà Vinh lên thăm gia đình người con gái đầu lòng là má tôi.

 

Lần nào cũng vậy, bà đem lên những bao gạo, những con gà và những đòn bánh tét. Và đối với tôi, quan trọng nhứt là những đòn bánh tét, mùi nếp thơm, vị nhân đậu xanh với một cục mỡ ở giữa thật là béo ngậy, hấp dẫn.

 

Vào thời đó, xe xích lô máy rất thông dụng trong việc di chuyển nhứt là để chuyên chở các hành khách có hành lý cồng kềnh khá nặng. Những người dưới quê lên Sài Gòn tiếp tế cho gia đình, khi bước xuống xe đò ở bến xe lục tỉnh lúc nào cũng gọi một xe xích lô máy để chở mình và đồ đạc về nhà người thân.

 


 

Bây giờ ở Sài Gòn, xích lô đạp còn tồn tại một ít, trang trí hoa hoè để chở khách ngoại quốc hay xập xệ để chở đồ cho bạn hàng các chợ. Còn xe xích lô máy thì đã biến mất có lẽ vì quá ồn ào và ô nhiểm nên bị cấm lưu hành.

 

Trước 1975, tôi thường gặp quái kiệt Trần Văn Trạch với mái tóc dài bất hủ ngồi xe xích lô máy chạy quanh các đường phố Sài Gòn chắc là để tìm nguồn cảm hứng cho những bài hát hài của ông.

 

Lúc còn học tiểu học, tôi thích các cuốn tập hiệu xích lô máy vì các trang giấy trắng và láng.

 

MÔ TÔ BAY

Hiện nay một đoàn xiệc nổi tiếng khắp thế giới là đoàn Cirque Du Soleil của Canada. Người sáng lập ra đoàn xiệc này là Guy Laliberté. Ban đầu, ông ta và một vài người nữa lập thành một nhóm nhỏ chỉ biểu diễn ngoài đường phố ở Montréal. Về sau, ông ta quy tụ thành một gánh xiệc lớn biểu diễn khắp nơi trên thế giới. Dieexnvieen của đoàn xiệc nà đa số là người Nga, Trung Quốc và Mông Cổ. Ông ta giàu đến nổi dám bỏ ra vài triệu để lên phi thuyền du lịch trên không gian và mua một cái đảo ở Thái Bình Dương.

 

Lúc còn nhỏ tôi được ba má tôi dẫn đi xem xiệc mô tô bay. Khán giả lên cầu thang đứng trên một sàn gỗ quanh một tường thành hình cầu đường kính 7, 8 mét ghép lại bằng những mãnh gỗ. Một người biểu diễn chạy một chiếc mô tô quanh vách thành tròn từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thắp. Có khi người ấy buông hai tay hay đứng trên yên xe để chạy quanh như vậy. Màn trình diễn làm khán giả toát mồ hội lạnh.

 

Một trong nghệ sĩ mô tô bay nổi tiếng là danh ca Bạch Yến (tên tuổi cô gắn liền với bản nhạc Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương).

 

https://www.ngo-quyen.org/images/file/wrbCSl5H2QgBAPBV/image008.jpg">image008

 

Lớn lên, học vật lý tôi mới hiểu sở dĩ xe mô tô và người lái không bị trọng lực làm rơi xuống là nhờ sức ly tâm và tốc độ càng cao thì sức ly tâm càng lớn làm bánh xe hít chặt vào thành khối cầu.

 

Ngày nay, xiệc mô tô bay đã mai một chỉ còn một vài đoàn ở miền Bắc và miền Tây nước ta.

 

XE NGỰA

 

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

 (Thăng Long thành hoài cổ-Bà Huyện Thanh Quan)

 

Tôi ở quận 4, gần ngả tư Tôn Đản và Đỗ Thành Nhân nơi có chợ chồm hổm Cầu Cống. Thuở nhỏ, mỗi sáng tinh sương, còn nằm trên giường tôi đã nghe tiếng lốc cốc của chân xe ngựa từ xa tiến dần tới rồi ngừng lại. Những chiếc xe ngựa từ dưới đường Tôn Thất Thuyết chạy lên đón khách và bạn hàng ở chợ Cầu Cống để chở sang chợ Cũ và chợ Bến Thành.

 

https://www.ngo-quyen.org/images/file/FzlIS15H2QgBAPEQ/image009.jpg">image009

Xe ngựa tại bến chợ Cũ


Xe ngựa chở khách còn có tên là xe thổ mộ (mã đất) vì khoang xe do ngưa kéo để hành khách ngồi có mái vòm như một ngôi mộ. Mã phu (người đánh xe ngựa) ngồi trên càng xe để dành tối đa chỗ cho hành khách, một tay cầm cương, một tay cầm roi. Hai bên hông xe có chỗ để hành lý của khách hay treo quang gánh của bạn hàng. Tôi thường được má tôi dẫn qua chợ Cũ ăn cơm thố bằng xe ngựa.


https://www.ngo-quyen.org/images/file/i4KzS15H2QgBALJn/image010.jpg">image010 Xe ngựa quảng cáo phim Ấn Độ cho rạp Thành Chung

Nhưng tôi thích nhứt là những chiếc xe ngựa được các đoàn hát cải lương thuê để quảng cáo cho các tuồng hát hay các rạp chiếu bóng mướn để phổ biến một cuốn phim đang hay sắp chiếu. hai bên hông xe có những áp phích (bảng quảng cáo bằng hình vẻ tên tuồng hay phim cũng như hình các diễn viên). Tiếng trống từ xe ngựa dồn dập, thúc giục bọn trẻ chúng tôi chạy theo xe để lượm những tờ chương trình người ta quăng xuống đường.

Ngày nay tìm đâu những hình ảnh đó?

 

CÁNH DIỀU THỜI THƠ ẤU

 

Ngày tôi còn nhỏ, thành phố Sài Gòn không quá đông dân như ngày nay. Quận 4 của tôi còn nhiều đồng ruộng nhìn mút mắt. Tôi thường đi vô ruộng để bắt dế đá, bắt cá thia thia và nhứt là để thả diều.

Vài trang giấy tập hay một tờ giấy bóng màu, hai đoạn tre chuốt nhỏ, một ít cơm nguội và một cuộn dây là tôi có thể làm một con diều. Muốn thả cho diều bay lên thì phải làm dây lèo cho đúng và phải chạy một đoạn đường đồng thời thả lần dây ra. Nhờ gió nên diều lên cao nhưng đôi khi  gió mạnh quá diều bị đứt dây bay mất. Cũng có lúc diều tôi bị diều khác “câu” vì diều đó có dây chắc hơn.

https://www.ngo-quyen.org/images/file/1QcaTF5H2QgBAM9G/image011.jpg">image011

 

Ngày nay, dân số thành phố lên trên 10 triệu người, đất đai không còn chỗ nào trống, ở đâu cũng là “đất vàng”. Nghe nói có chỗ 1 mét vuông giá 350 triệu đồng (khoảng 15 ngàn đô, mắc hơn cả New York và Tokyo) thì còn chỗ đâu để thả diều. Trò chơi trẻ thơ này chỉ còn ở vùng quê.

Cánh diều trẻ thơ của tôi chỉ còn trong ký ức.



Tùy bút Huỳnh Công Ân



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2023 lúc 2:03pm

NGƯỜI SÈ GOÒNG GIỜ Ở ĐÂU ? (PHẦN 1)


https://tusachonline.files.wordpress.com/2015/03/19.jpg">1 Cũng tình trạng giống như Hà Nội, sau 1954, số người xưa cũ Hà Nội lãng phai dần.  Vì lý do này hay lý do khác, thời thế thế thời, nên đã có biết bao thay đổi xảy ra. 

Tuy đường phố Hà Nội vẫn như cũ, thậm chí các bảng hiệu đắp xi măng chưa kịp tẩy xóa hết, nhưng chắc chắn những con người đã từng sinh sống và làm ăn ở đó không còn trụ lại nhiều.

Hà Nội vẫn còn làng nhàng những ký ức ngày trước, có thể người ta đôi khi còn nhắc đến cà phê Nhân ở phố Cầu Gỗ, gánh phở Tư Lùn ngoài rào trường Nguyễn Trãi, hay hàng bánh tôm bà Béo ở Bờ Hồ, song đích thực tìm lại được những người đó hẳn là quá khó.

Sè Goòng cũng không tránh được sự nhốn nháo do thời cuộc đẩy đưa.  Những ngày cuối tháng Tư 75, người Sè Goòng thất sắc, ào ào rủ nhau chạy loanh quanh.  Người lên Lăng Cha Cả, kẻ vào Tân Sơn Nhất, anh chạy ra Bạch Đằng, chị vào trong Tân Cảng, đông, rất đông, thi nhau leo rào vào khuôn viên tòa Đại sứ Mỹ ở Thống Nhất.  Lúc ấy chưa hẳn tất cả nắm rõ sự tình đầu đuôi, nhưng ai cũng cố tìm cho mình, cho gia đình một sinh lộ mà không biết vì sao nữa.

Để rồi những phút cuối cùng đám đông ê chề thất vọng vì không sao leo lên được một chiếc trực thăng, một con tàu lớn hay nhỏ, một khoang phi cơ, đành ngơ ngác quay về, coi như chịu trận.  Kết thúc cuộc chiến tranh, đầy đường của cải vứt tràn.  Chẳng ai buồn nhặt, hốt, vì tất cả xem như không còn giá trị đích thực.

Lềnh khênh vứt khắp nơi nào là quần áo trận, giày, vũ khí, va ly Samsonite, xe Honda, Vespa, xe đạp, thậm chí cả ô tô, vì chủ nhân đã bỏ đi đâu đó, hay ê chề chẳng còn muốn vác về lại nhà.  Trải qua nhiều tháng năm tiếp theo, người Sè Goòng tự ên tìm cho mình một phương cách đi khỏi thành phố.

Người trở lại quê, người dấm dúi sắm thuê thuyền vượt biển, hay bị chuyển về sống các vùng kinh tế mới.  Người cũ Sè Goòng thưa thớt dần, có người ra đi biền biệt 40 năm, có người lâu thật lâu không thấy quay về thành phố, để rồi chẳng một ai biết rõ hiện giờ họ ở nơi đâu ?

Thản hoặc đôi khi bất chợt có người từ đâu đến hỏi thăm về một cư dân nào đó đã sống ở phố này, nhà này, thì cũng ít ai biết để cung cấp một vài tin tức cỏn con.  Đại để chỉ kháo với nhau “ hình như nhà ấy dọn đi rồi “, hay tỏ ra không biết gì cả.

Bây giờ, nếu có một người Sè Goòng nào đã lâu không về thăm lại thành phố chắc sẽ ngạc nhiên và lạ lẫm biết bao.  Bởi vì Sè Goòng thật sự thay đổi hoàn toàn khác.  Phố xá rộng ra, nhà cửa cao lên, cầu treo cầu vượt nhằng nhịt, đường cao tốc tràn đầy, thậm chí các tên đường cũng nghe lạ hoắc.

Đối với khách, giờ muốn hỏi thăm hẻm ông Cọp, hay đường này đường kia mang tên ngày trước, có khi sẽ phải đón nhận sự hờ hững, vì những người tuy mang tiếng là cư dân thành phố hiện giờ, nhưng họ không nghe, không biết vì họ hoàn toàn là người mới đến sau 75.

Hiện người ta đã quen với những tên Trần Đình Xu, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Văn Tần để đâu còn nhớ đến có một thời đó là đường Trương Minh Giảng, Trần Quí Cáp, Hiền Vương v.v…  Thậm chí, nếu người ở thành phố cũ giờ có muốn tìm lại những nơi thân quen, xưa đã gửi gấm nhiều kỷ niệm thì cũng khó, hay không còn thấy lại được.  Bến đò Thủ Thiêm, thương xá Tax, hành lang Eden, hiệu sách Xuân Thu, nhà sách Vĩnh Bảo, nhà hàng Brodard, Pagode, chợ Vườn Chuối, chợ Cầu Kho, chợ Thiếc, tất cả đều phế mất, đổi tên, hay quên bẵng, còn nói chi những cái tên nghe thân yêu như Cây Mai, Da bà Bầu, Cây Quéo thì lại càng bặt vô âm tín.

Có người đặt câu hỏi vậy thì người Sè Goòng giờ ở đâu ?  Lớp họ đã ra đi khắp các phương trời, hoặc gửi thân nơi biển cả, sau những lần “ đường đi không đến “, hoặc là họ gặp nạn bị cướp, hiếp và bắt mất tích từ những năm nảo năm nào từ bọn hải tặc, để giờ không còn rõ họ sống chết ra sao.

Một số trải năm tháng cơ cực tuổi đời đã phủi tay từ giã trần gian trở về với cát bụi, yên nghỉ giấc thiên thu, hay vẫn còn nán sống nơi những miền nào đó ngay trên đất nước.  Có người chợt một hôm nào được hỏi “ hồi xưa ở Saigon, anh/chị làm gì, sống ra sao thì cũng nghe người ấy thờ ơ, dường như mình không phải là người Sè Goòng cũ “.

Nước phèn, đồng ruộng, dầm mưa giãi nắng đã làm cho bao sắc nét của Saigon biến đi.  Tóc trở nên cứng còng, da đen nhẻm và tay chân nhiều vết chai cứng.  Đối với họ, chắc Saigon là một dư âm xa tít tắp, dù họ còn đang sống ngay trên quê hương mình mà vẫn thấy lạc lõng làm sao.

Nhiều người cũng quên mất xuất xứ, bởi vì cuộc sống “ ngày bán mặt cho đất, tối bán mặt cho trời “, rồi trải qua bao phũ phàng sóng gió, chính họ cũng đánh rơi cái căn cước sống một thời ở Sè Goòng đi và chỉ còn mang máng thấy hình như mình đã bị gạc ra ngoài sổ sách của nơi cũ.

Thản hoặc có một hôm nào bất chợt được làm một chuyến trở lại chốn trước kia, họ cũng sẽ ngơ ngẩn tự hỏi có phải đây là Sè Goòng cũ chăng !  Tôi thuộc vào hàng ngũ một trong những người như thế.

Theo trí nhớ và hiểu biết của tôi, dân nước tôi đã có đến 3 lần sống chuyển vùng, suốt từ thế kỷ 20 đến giờ.  Đầu tiên là những người được nhà nước Phú Lang Sa gọi mời đi “ tân thế giới “.  Họ được tuyển mộ làm phu cho các đồn điền cao su do người Pháp mới mở khắp miền Đông Nam Bộ.

Có người tham gia một mình, có người đem theo cả vợ con, có ngưởi rủ rê nhau cả làng, cả họ vào sống chung cho có tình đông hương, đồng khói.  Bố tôi là một trong những người được mộ đi khai phá, cạo mủ ở nơi đồn điền mới lập đó.

Dần dần những địa danh Xa Cam, Xa Cát, Bù Đăng, Bù Đốp, Hớn Quản, Bà Rá, Lộc Ninh, Quản Lợi kéo dài thành một chuỗi liên hoàn tài sản và nguồn lợi khổng lồ cho những quan tham gia việc mở đường đi lập nghiệp bày ra.

Những người phu như thế có thể sẽ lưu cữu mãn đời với cái nghề bạc bẽo, bán thân cho sốt rét ngã nước, chết dấm chết dúi và bị lãng quên đi.  Một số lanh tay lẹ chân, có óc tháo vát, thông minh, khéo léo thì nhẫn nhục làm, tích cóp dần đồng ra đồng vào và thoát ra về Sè Goòng đổi đời sống kiểu khác.

Dần dần họ thành những hạt giống, ăn nên làm ra, đầu tư vào một số ngành nghề : guốc mộc, chạm trỗ, đồ gỗ, buôn bán để gây cơ sở và lôi kéo bà con, quen biết, người làng vào sinh sống đông thêm cho có bè có bạn.  Có những khu phố rặc toàn người Bắc, như quanh quanh các con đường gần chợ Bến Thành, họ sống với nghề kim chỉ, rao mời tơ lụa Hà Đông, sản xuất bánh kẹo, bán hàng ăn, chụp ảnh, cũng để lại được ít tiếng tăm và sự tin cậy.

Cũng từ những bước đầu tiên đó, họ lập hội tương tế để cưu mang nhau, hoặc để tựu họp vào các ngày lễ truyền thống của làng, chia sẻ với nhau niềm vui nỗi buồn nơi đất mới.  Họ lấy tên làng làm danh xưng của hội, hoặc họ lấy tên miền để gọi cho hội có vẻ bề thế hơn.  Có một dạo người ta  nghe các tên như Giác Quang tương tế, Bắc Việt tương tế, Phù Lưu tương tế, Vũ Bản tương tế (hay cái tên riêng biệt Nhà sách Vĩnh Bảo chẳng hạn).

Đến khi người Pháp thua trận Điện Biên Phủ phải rút đi, hiệp ước Geneva chấp thuận chia đất nước thành 2 miền, chờ 2 năm sau sẽ có tổng tuyển cử thì lại một phen nhốn nháo di cư.  Người Hà Nội có 300 ngày để chọn lựa nơi sinh sống của mình.

Tiếng là tự do chọn lựa muốn ở đâu thì ở, nhưng khi có bóng dáng chính trị đổ xô vào thì chuyện đi hay ở không dễ dàng như ta tưởng.  Càng gần ngày hết hạn thì con đường 5 càng có những trạm kiểm soát gắt gao.  Người ta dùng tình cảm ràng buộc nhau, hoặc ve vãn, hoặc gây khó khăn để hạn chế bớt số người gánh gồng rủ rê nhau tếch.

Những chuyến tàu há mồm, những chuyến vận tải cơ bay dồn dập, người ta choàng cho sự kiện đó cái tên “ di cư 54 “, hẳn nhiên cũng không khỏi bị kèm theo hay đánh giá mỉa mai, như chỉ có tứ Công mới bỏ quê hương đất nước như thế.  Người ta gói gọn 4 Công để ám chỉ : Công giáo, Công An, Công chức và Công nợ.

Ai nói cứ nói, ai dèm cứ dèm, nhưng một đi là cứ đi.  Có người cũng vì tiếc căn nhà mới tậu hay còn thân nhân đau ốm thì ở lại, cứ tự nhiên.  Lại một lần Sè Goòng giang tay ra đón, thu vén nơi ăn chốn ở, điều tiết việc ổn định gia cư.  Những địa danh mới được đặt ra như Cái Sắn, Hố Nai, Tầm Vu, Gia Kiệm hoặc những cái tên kèm một loạt chữ Tân đứng đầu (Tân Bùi, Tân Hà, Tân Phát v.v…)

Bẵng đi 20 năm trôi theo nhau, chiến tranh vẫn ùng oàng, nhưng vết thương dần dần kín, tuy cái sẹo thì không sao xóa được.  Người Sè Goòng hào hiệp, bao dung, khó giúp nhau lấy thảo.  Những ngày đầu còn rải rác khích bác, cà khịa nhau, chọc trêu nhau kiểu “ Bắc Kỳ dzốn, ăn rau muống… “, thế nhưng chẳng mấy chốc đã hòa tan vào nhau đến đỗi lằn ranh ngăn cách tự dưng bị lu mờ.

Người Sè Goòng chính thống không còn hiềm khich mà thậm chí người mới nhập cư cũng thấy mình bị loãng ra và loáng thoáng hình dáng Sè Goòng đã ngự trị trong người lúc nào chả biết nữa.  Có người cũng đã tập dẻo giọng trêu đùa nhau : cô Hai, chèn ui, cô ngộ chi ngộ ác, giờ mà nghe cô câu dzọng cổ, chắc tui uên mất đường dzìa, cô ui !…

(còn tiếp)

https://tusachonline.wordpress.com/category/do-thanh/ - Đỗ Thành



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2023 lúc 2:04pm

NGƯỜI SÈ GOÒNG GIỜ Ở ĐÂU ? (PHẦN 2)


https://tusachonline.files.wordpress.com/2015/03/113.jpg">1 Có thể từ bản chất dễ dãi, ít câu mâu và sẵn lòng giúp đỡ, nên người Sè Goòng chủ động chóng xóa đi bờ vực ngăn cách giữa người Nam và Bắc Kỳ. 

Cuộc di cư hàng triệu người có làm xáo trộn phần nào cuộc sống yên ả của miền Đồng Nai, Bến Nghé, bước đầu cũng có xảy ra dăm ba cuộc xô xát cỏn con, thế nhưng vốn tính mau hòa hợp, lằn ranh trên tự nhiên khép gần lại và xóa bỏ hồi nào không hay.

Thậm chí những gia đinh định cư nơi Tân Mai, Cái Sắn, Dốc Mơ, Tầm Vu lần lần còn được chính bà con sở tại cưu mang, giúp dựng lên những căn nhà, hay chỉ vẽ cho đường đi nước bước trong việc mưu sinh, hoặc phục hồi các nghề truyền thống.

Một dạo, loại chiếu Bát Tràng, gỗ Vụ Bản hay bánh gai Hàng Than cũng đã chen chân vào sinh hoạt ẩm thực và đời sống của miền Nam.  Những cánh đồng cò bay thẳng cánh lần lần xóa đi những lằn ranh chia cách và mặc nhiên trở thành tình nghĩa đồng bào thương yêu và lo lắng cho nhau.

Đất lành chim đậu, cái nắng Sè Goòng làm nhạt phai chuyện nói móc, xỏ xiên nhau, cơn mưa sông Tiền sông Hậu làm phai đi giọng nói cưng cứng miền ngoài.  Sự tiếp xúc tự nhiên làm cho tình làng nghĩa xóm tự ên kết tụ, lòng người miền Nam hào phóng vốn dĩ đã quen.

Người Bắc Kỳ hết còn lạ về nghĩa cử truyền thống miền Nam, nhà nào ở miệt vườn cũng đều đặt sẵn cái khạp chứa nước và cái gáo dừa có cán ở đầu hè để trưa nắng bạn làm đồng ngoài kia từ ruộng bước lên có ngay hớp nước uống vô dễ thấy mát ngọt mà tan đi nỗi mệt nhọc.

Sinh hoạt hằng ngày khiến cho người hai miền càng ngày càng sát lại gần hơn, chẳng mấy chốc sự ghẹo trêu nhau bị mất đi hồi nào cũng chẳng biết.  Rồi tình cảm nảy sinh, gió mát trăng thanh, những bữa nhậu, những câu hò, vọng cổ làm cho ruột gan nhau thấm đậm tình người.

Cuộc di cư hàng triệu người một sớm một chiều bỗng tan đi chớp nhoáng.  Đã có những cuộc tình đẹp thiệt đẹp nảy sinh, trai Bắc chọn gái Nam vì các cô hiền từ, ngoan, biết chiều chồng, giỏi bếp núc, và có giọng hò, thả câu lý, ca vọng cổ mượt mà hết xảy.  Ngược lại anh trai Nam chọn chị Bắc vì cái nết hay lam hay làm, chịu đựng, hi sinh, sẵn sàng gánh vác công lênh nhà chồng như chính nhà mình.

Chả thế mà chiều chiều đã có những chiếu rượu dưới gốc cây ô môi để nghe các cô em Nam Bộ rỉ rả câu tình lang lả lướt, và khối anh Bắc cũng mon men học bằng được món luyến láy của cách nói lối để vào câu vọng cổ dạ lang hay vọng cổ hoài lang rất ngọt ngào.

Ai dám cả quyết lòng mình không rung động khi nghe các nường thỏ thẻ gọi mời : anh Hai ui, có mệt dzô nghỉ chút cho phẻ, gồi đi típ. Và giữa bộn bề của cuộc sống, ai chẳng sẽ chùng lòng khi nghe câu lửng của cô em : nếu có thương nhau, anh dzìa thưa cha thưa mẹ, đừng để em mỏi mòn chờ đợi nhe anh.

Báo sao các ông nhà thơ, nhà văn không thấy mình rạt rào vì đất nước Sè Goòng ?  Ta đã từng ngẩn ngơ vì câu hát nghe như giọng hò văng vẳng : Nhà Bè nước chảy chia hai; ai dzìa Gia Định, Đồng Nai thì dzìa.  Hoặc : nắng Saigon em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…

Cho đến nay, dù vật đổi sao dời thì mỗi lượt có dịp đi ngang Kẻ Sặt, Phương Lâm, Lâm Hà, Bình Phước ta vẫn còn bắt gặp dấu ấn của một thời người Bắc chuyển vùng vào sinh sống trong Nam.  Ở những địa phương đó ít nhiều họ cũng góp phần vào dựng xây kinh tế và nét văn hóa đặc thù của cái nôi sông Hồng nơi mảnh đất đã rộng tay đùm bọc, cưu mang.

Có nhiều người đơn giản nghĩ rằng đề cập đến Sè Goòng là chỉ khoanh vùng vào một địa giới cỏn con cũng đổi thay tên gọi trải qua thời thế.  Chẳng hạn có người đã nhắc tới tên Sài Côn của một vương triều nào đó, có người ám chỉ vùng đất mới được khai phá vòng vòng quanh những khu phố được dựng xây từ những năm cuối thế kỷ 18, sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ.

Riêng với tôi, Sè Goòng không chỉ hẹp như vậy, bởi vì tuy địa danh Saigon được khoanh vùng trong tâm tưởng là như thế, nhưng khi nói về người Sè Goong giờ ở đâu thì ta phải hình dung ra cái nghĩa rộng lớn vô cùng.

Bởi vì nhiều người vì lẽ này hay lý nọ giờ không còn ở lại nơi đất nước mà phiêu bạt khắp các nơi thì trong trí óc họ Sè Goòng là tất cả, là Bến Tre, Cà Mau, Long Khánh, Bạc Liêu, là bến Bạch Đằng, cầu Ba Cẳng, là Phước Tỉnh, Phú Xuân v.v… và v.v… của những đêm hồi hộp nằm ém chờ chạy ồ ra biển, hay ngay cả Tân Sơn Nhất đĩnh đạc lên chuyến bay ra đi.

Trong những cuộc chuyển vùng bất đắc dĩ đó, phải nói cuộc tháo chạy 75 là vô cùng bi thảm.  Dư luận rêu rao lên án về một sự phản bội gì đó, về những sự khiếp sợ không rõ ràng, bởi vì chính thực những người xô đẩy nhau trốn chạy, hay đành ở lại cũng không hiểu nguyên do đã có lúc khiến họ hãi đến vậy.

Bây giờ có người xa Saigon đã 40 năm tròn, có người vẫn đi về năm một vài bận, nhưng Sè Goòng vẫn nằm đâu đó trong suy nghĩ của từng cá nhân.  Con số hằng triệu người phân rải rác ở khắp nơi, chỗ nào mở rộng lòng nhân từ giơ tay cứu vớt họ, tạo cho họ một cơ hội sống, giúp họ lập lại cuộc đời từ bước đầu.

Thấm thoắt giờ đã hình thành thế hệ 2 hoặc 3 của những người ra đi đó.  Nơi đất tạm dung, họ đã có cuộc sống ổn định, con cái học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm, có tư hữu, có đóng góp công lao mọi mặt vào dòng chính.  Một vài nơi họ còn lưu lại nhiều dấu tích về một nền văn hóa của dân tộc vì họ nghĩ rằng các vật thể này nói lên lòng biết ơn của họ với quê hương tạm dung.

Phần lớn họ đã thành công dân của nước sở tại, thụ hưởng mọi quyền lợi như dân dòng chính.  Có thể đời sống họ có khác đi, họ Tây hơn, Mỹ hơn, Úc hơn, song một phần hồn của họ vẫn chưa sao quên đi SAIGON của một thời đã sống.

Đối với họ SAIGON vẫn là một ký ức chưa phai nhạt.  Người ta có thể đùa gọi trệu tên của miền đất hồi nào, hoặc Sè Goòng, hoặc Sài Ghềnh, hoặc Sầu Thành, hay gì gì khác, nhưng nhất định lảng vảng những chiều thứ bảy tay trong tay dạo phố, lần đầu tiên trao nụ hôn tình, hay một lần chờ đón nhau nơi cổng trường thì chắc chắn họ vẫn chưa quên.

Có một điều lạ khiến người viết băn khoăn là bất kỳ cuộc di dân chuyển vùng nào cũng bắt nguồn từ phía Bắc dồn vào Nam mà ít khi thấy ngược lại.  Kể cả từ khi phong trào mộ phu đi tân thế giới, khổ chứ có sướng gì đâu thì việc ra đi vẫn là từ con đường ấy.

Phải chăng vì Sè Goong có một sự vẫy gọi âm thầm nào đó mà không ai có thể dùng lời lẽ để phân tách ra được.  Thôi thì cứ biết thế đi, vì dẫu có sao thì SAIGON vẫn là một phần của giải đất hình chữ S kia mà.

ĐỖ THÀNH



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Mar/2023 lúc 10:06pm

SÀI GÒN CỦA TÔI (Đ.Văn)

4750%201%20SG%20CuaToiLyThuyY

Sài Gòn vẫn rất dễ thương,

Cái tên dù lạ con đường vẫn quen...

4750%202%20SGcuaToiLyThuyY

      Tôi hay “viện dẫn” hai câu thơ của mình mỗi khi phải hồi âm một cánh thư xa nào đó, thường là câu hỏi “Sài Gòn bây giờ ra sao?”

      Thật ra trong cảm nhận của tôi, Sài Gòn vẫn thế. Bởi dù trải qua nhiêu bao biến cố thăng trầm, thì Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, thủ đô trong những trái tim miền Nam ngày nào vẫn không bao giờ thay đổi.

      Sài Gòn của một thời tôi mới lớn, những “con đường tình ta đi” Duy Tân, Trần Quý Cáp, Tú Xương, Công Lý. Những chiều bát phố Lê Lợi, Tự Do. Những rạp cine. Món bánh tôm hẻm Casino (Sài Gòn).

      Những xe bò viên Nguyễn Thiện Thuật. Bánh mì thịt trước chợ Trương Minh Giảng, gỏi đu đủ - khô bò - nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur)…

      Sài Gòn của tôi “sáng nắng chiều mưa”. Mưa như được lập trình sẵn. Hoặc chiều hoặc sáng, có khi… cùng giờ nên người Sài Gòn có thể nhởn nhơ bát phố khi “cơn mưa qua”, rất ít khi mưa như… đòi nợ, điều này những năm gần đây hình như thay đổi, mưa dầm và mưa… mất trật tự, người Sài Gòn vốn quen kiểu “xưa” chẳng biết đâu mà lần! Nắng Sài Gòn không quá gắt. Có lẽ nhờ thế nên mới chợt mát chỉ qua màu áo lụa Hà Đông.

4750%203%20SGCuaToiLyThuyY

      Sài Gòn của tôi có những ngôi trường đi vào thơ và nhạc như Văn Khoa, Luật, Gia Long, Trưng Vương, những con đường địa chỉ báo như Lê Lai, Phạm Ngũ Lão… Hồn đất và hồn người quyện nhau hồn hậu, chân tình.

      Sài Gòn của tôi quốc vương Cam-bốt từng du học, người Sài Gòn chê hàng Thái, không thèm xài Colgate vì đã có kem Hynos “anh yêu em, anh yêu luôn kem” xịn hơn.

      Sài Gòn của tôi trẻ - luôn luôn trẻ. Không phải vì thiếu phố cổ hay người Sài Gòn không thích “ra vẻ cụ” mà vì Sài Gòn luôn luôn mới, hồn nhiên và dễ thương, không điệu đà, kệch cỡm.

      Sài Gòn của tôi còn nhiều hơn thế. Không diễn tả hết dù văn hóa cách mấy. Chỉ giản dị như lời hát “Sài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!” Không lớn lao gì, kỷ niệm chỉ chứa đầy ngăn cặp học trò. Sự ồn ào sống động, dễ thương của vùng đất và con người. Đi xa, cứ về đến cầu Sài Gòn hay cầu Bình Điền là coi như đến nhà.

     Như bạn bè cùng trang lứa, tôi giữ Sài Gòn như giữ chính cuộc đời mình. Khóc một ngày khi thương xá Tam Đa bị thiêu rụi. Thức một đêm khi Eden bị đập bỏ. Có thể thay vào sẽ là một tòa nhà đẹp hơn, nhưng Eden của ngày nào:

“Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm

Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm

Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím

Anh quen rồi, không lạnh - lính mà em!”

Thì không bao giờ còn nữa !!!

       Vẫn biết có những sự đổi thay tốt hơn, đôi khi cần thiết, nhưng sao vẫn thấy chạnh lòng. Hơn sáu mươi năm hãnh diện làm “dân Sài Gòn”.

      Bỗng chợt giật mình tự hỏi, có khi nào người ta phù phép để Sài Gòn biến mất không nhỉ? Có khi nào Vương Cung Thánh Đường, chợ Bến Thành, bưu điện Sài Gòn, một sớm mai thức dậy người Sài Gòn ngơ ngác hay tin sẽ trở thành trung tâm thương mại, cao ốc chọc trời…

Ôi! Sài Gòn của tôi !!!

      Tôi vẫn nói vui rằng mình giữ lại “Sài Gòn xưa”. Từng tên đường, góc phố, giữ lại những buổi chiều hẹn hò: “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” và giữ lại mãi mãi,những dấu yêu xưa!

      Và rồi lại buốt tim khi nghĩ đến một ngày nào “Sài Gòn của tôi” sẽ chỉ còn là hoài niệm. Vô tình ai đó sẽ tìm thấy trong những trang sách hằn dấu thời gian ở một hiệu sách cũ.

Sài Gòn ơi !!!

      Tôi gặp lại họ rất tình cờ, trong một… tiệm sách cũ, nơi thường lưu lại những gì mà ta còn nhớ hay đã quên.

      Những trang giấy đã không còn nguyên màu trắng. Những dòng chữ như cũng nhạt theo năm tháng. Nhưng hình ảnh, dù phôi pha, thì nụ cười, ánh mắt cũng gợi nhớ một thời ta đã sống. Thời mà tên tuổi họ trên môi người hâm mộ Nghệ thuật thứ bảy, và họ được gọi một cách trang trọng là tài tử minh tinh.

      Chưa xa lắm nhưng cũng đủ để quên những gì không muốn nhớ. Khi mà muốn xem phim người ta không thể làm gì khác hơn là đến rạp, và cứ có phim hay là rạp chật như nêm… Và rạp hát nào cũng treo đầy ảnh minh tinh tài tử, không phải Hồng Kông, Hàn Quốc như bây giờ mà toàn Việt Nam. Tôi say mê điện ảnh, dù chưa tới tuổi “đến rạp một mình” và yêu họ, dĩ nhiên…

      Dạo đó chưa có những chương trình giao lưu, tài tử điện ảnh, ca sĩ tân nhạc cũng chưa phải “chạy sô” như bây giờ. Họ coi nghệ thuật như cứu cánh của đam mê và cả cuộc sống thực tế, nghề tay trái hầu như không có.

      Chẳng ai nghe nói Thẩm Thúy Hằng phải đi… biểu diễn tân nhạc để kiếm thêm, cũng không thấy Kiều Chinh tham gia chương trình “đại nhạc hội”. Họ cũng chẳng đóng cùng lúc hai, ba phim như các diễn viên “đắt khách” bây giờ. Dù đó là những tên tuổi lớn của điện ảnh Sài Gòn thuở ấy, những tên tuổi mà lứa tuổi 40, 50 hôm nay, nếu yêu điện ảnh khó mà quên được.

      Một Kiều Chinh tuyệt vời trong “Hồi Chuông Thiên Mụ”, Thẩm Thúy Hằng với “Người Đẹp Bình Dương”, Kiều Nguyệt Nga - Thu Trang trong “Lục Vân Tiên”, Túy Phượng diễm kiều với vai Công chúa của “Thạch Sanh - Lý Thông”… Tôi yêu nét thùy mị của Thu Trang, vẻ sắc sảo của Kiều Chinh, và nét đẹp duyên dáng Thẩm Thúy Hằng. Nam tài tử có La Thoại Tân, Anh Tứ, Lê Quỳnh, Anh Sơn, Đoàn Châu Mậu, Tâm Phan, Huy Cường, Trần Quang… Vân Hùng chuyên đóng kịch với kỳ nữ Kim Cương, thỉnh thoảng cũng “lên phim”. Rất nhiều, thời nào thì nghệ thuật cũng cần rất nhiều. Dù trong số họ không phải ai cũng đến được vinh quang, và để hoàn thành tác phẩm nghệ thuật, không chỉ có diễn viên chính.

      Tình cờ gặp lại họ trong tiệm sách cũ. Nơi mà quá khứ lẫn với hiện tại, nơi mà thời gian chừng như bất lực, tôi thấy chút vui pha lẫn ngậm ngùi khi bắt gặp Lê Hoàng Hoa thời “mới làm quen với máy quay”, một Lê Mộng Hoàng hơn ba mươi năm về trước vẫn nhăn nhó… như bây giờ. Nụ cười Kiều Chinh và ánh mắt Thu Trang vẫn còn đó.

      Một thời tôi đã lớn lên cùng với tên tuổi họ. Rồi tất cả bỗng như không còn, bỗng như chưa từng có. Người ta trôi theo nhịp sống bằng những cách khác nhau, và lưu giữ hay xóa đi dĩ vãng tùy thuộc mỗi người. Có điều chắc chắn rằng những gì đã có thì vẫn còn đâu đó, và ta sẽ gặp khi tình cờ một lúc nào đó đảo ngược được thời gian…

Và… thời gian đã đảo ngược với tôi, trong một tiệm sách cũ… Tình cờ !!!

Lý Thụy Ý



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Mar/2023 lúc 3:14pm

CÓ MỘT SAIGON RẤT RIÊNG

https://lh3.googleusercontent.com/-ZA0XFJS3iXk/YMIfH4tk4AI/AAAAAAAAxB8/oTRvfdMo6vYWHib0IP048Ji43zmVGGAlwCLcBGAsYHQ/image.png">


“Hồi 54, cả trăm ngàn dân di cư mang theo đủ loại kiểu sống bó trong luỹ tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ.
Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xoà đón nhận.


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Mar/2023 lúc 3:22pm
NHỮNG CHIẾC XE MÌ CỦA QUÁ KHỨ

ĐIỂN%20TÍCH%20TẦU%20TRÊN%20XE%20MÌ%20+%20Cái%20ghế%20sắt%20xếp%20mặt%20gỗ%20của%20xe%20mì%20Tàu%20-%20%20vietnamngaymai.com

Sài gòn từ khi hình thành là nơi đất lành chim đậu, là nơi giao thoa các nền văn hoá khác nhau. Đó không chỉ là nơi hội tụ của người Việt từ ba miền Nam, Trung, Bắc mà còn là nơi đón nhận nhiều phong tục, lối sống của nhiều dân tộc khác nhau trên thề giới nữa. Đặc biệt là văn hoá ẩm thực. Ở Sài Gòn ta có thể thưởng thức món gan ngỗng béo ngậy của Pháp, món lẩu chua cay của Thái, mắm bò hóc và chè Kampuchia, món sushi của Nhật, món piza của Ý, món cari của Ấn, món nướng của Hàn, món soup rau của Địa Trung Hải, món cháo ếch của Singapore, món Dim sum Hồng Kông...và đặc biệt không thể không nhắc đến những món ăn của người Hoa Chợ Lớn.
Đó là những chiếc xe thường xuất hiện vào lúc xẩm tối, bên vỉa hè, nơi góc chợ, chỗ có đông người qua lại. Đó là những chiếc xe chuyên dụng, chỉ dùng để bán hủ tíu, mì. Trên chiếc xe này được trang bị đầy đủ như một quán ăn, có bếp đốt bằng than củi, có chỗ xài bình ga, lửa xanh lét phì phì, có nồi nước lèo hai ngăn to bự chảng, một bên để trụng hủ tíu, mì, ngăn còn lại chứa nước lèo sôi sùng sục. Nước lèo thường được hầm với xương, củ cải trắng, mực, tôm khô, có nơi còn có cả sá sùng. Bên trên có tủ kiếng chia ngăn để thịt, rau hành. Đặc biệt luôn luôn bên cạnh thùng nước lèo có mặt một cái vịm bằng gốm, trong chứa mỡ nước và những miếng mỡ heo thái hạt lựu đã được thắng vàng. Tôi có mấy người bạn làm nghề này bảo rằng thứ làm cho tô mì ngon hay dở đều nằm trong cái vịm thắng mỡ này. Theo họ thì cái này không chỉ chứa mỡ mà còn được gia cố thêm bột nêm, bột ngọt và bí quyết riêng của mỗi xe mì. Trụng xong mì hay sợi hủ tíu, bỏ vào tô, cho thịt, xá xíu, hành, rau, lúc đó múc một muỗng mỡ vào rồi mới chế nước lèo lên. Không có cái muỗng mỡ này, tô mì ăn lạt nhách. Hơn nữa, nồi nước lèo nếu nêm nếm gia vị nhiều quá sẽ mau thiu, không thể để lâu được. Còn cái vịm mỡ gia vị đó thì để bao lâu cũng chẳng hư. Âu đó cũng là kinh nghiệm gia truyền.
Ngoài những xe mì cố định, còn có xe mì lưu động. Đó là những chiếc xe nhỏ hơn, trang bị gọn hơn, ít khi có tranh kiếng, nếu có cũng vẽ đơn giản, sơ sài hơn. Ông chủ xe thường là tuổi trung niên, mặc cái áo thun ba lỗ, vai vắt khăn. Bên cạnh thường có những đứa bé cầm hai thanh tre đã lên nước nâu bóng gõ theo nhịp điệu muôn đời không đổi sực ..tắc, sực...tắc. Tiếng gõ vang một góc đường, một con hẻm giữa đêm gợi cho ta thèm muốn một bát mì nghi ngút giữa đêm, giúp cho người đi chơi khuya về có bát mì ngon, giúp kẻ lỡ đường với số tiền ít ỏi qua cơn đói. Bởi những xe mì lưu động này bán giá rất bình dân, tuy vậy cũng có những xe mì lưu động rất ngon không khác gì những xe, những quán cố định.
Tô mì hay hủ tíu thường được ăn cùng với xá xíu, những miếng thịt heo nạc màu đỏ xắt mỏng ăn thơm thơm mùi ngũ vị hương, ngòn ngọt của mật ong phết lên lúc quay lúc nướng. Cũng có mì hủ tíu ăn với cật, gan heo và con tôm hồng hào hấp dẫn. Còn có mì hoành thánh, sủi cảo chấm tương ớt hoặc nước tương. Bỏ vào miệng cảm được cái mềm mại của bột, cái dai dai béo béo đậm đà của thịt, cái ngọt lừ của nước lèo, tất cả hoà thành một hương vị đặc biệt khó quên. Người Hoa Chợ Lớn có người Tiều, người Quảng, người Hẹ, Phúc Kiến, người Hải Nam...Người vùng nào cũng có người làm nghề bán hủ tíu mì. Nhưng riêng tô hủ tíu mì của người Quảng thường có miếng bánh tráng mỏng nho nhỏ chiên vàng ươm, trên có một vài con tôm nhỏ để nguyên chân cắng, râu càng. Cắn miếng bánh dòn rụm, húp thêm niếng nước lèo, đưa thêm vài sợi mì, ngon!
Tô mì ngon ngoài nước lèo ngọt, đậm đà, thịt chế biến giỏi còn có yếu tố quan trọng là sợi mì phải dai, ăn đến muỗng cuối cùng, mì vẫn không nhão nát. Mì được làm từ bột mì, thêm màu vàng óng của nghệ hoặc phầm màu và nghe đâu phải có tro tàu sợi mì mới dai ngon. Có loại sợi mì nhỏ như sợi bún, cũng có loại to dẹp, ngon dở tuỳ khẩu vị mỗi người mà lựa chọn. Khi trụng mì cũng là một kỹ thuật. Có nơi trụng bằng nước sôi, xong lại qua một lượt nước lạnh, rồi trụng sơ lại nước nóng lượt nữa mới cho vào tô. Trụng như thế sợi mì sẽ dai lâu mà không nát. Mì được khoanh từng vắt nhỏ dáng tròn tròn như hột vịt. Có người muốn ăn no, thường kêu ba hoặc bốn vắt một tô. Nhìn tô mì đầy nhóc thấy ớn. Cũng có đôi chỗ bán mì tươi, kéo mì tại chỗ thành những sợi dài, kiểu mì này cũng ít nơi bán vì rất mất thì giờ chở đợi.


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Apr/2023 lúc 10:14am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/04/huong-sai-gon-toi-yeu-sai-gon-ang-chi.html - Hương Sài Gòn & Tôi Yêu Sài Gòn 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfYHKmMDRBIV9brj3cDNY74s3KFQHx14r5bFo6tSYtmxDZDxydDkgZw7C5JwSmN1qjbEPALt95X78HGbT8od6MuzXxZ11X2bPzaxZocqJbZNGIjOqr3LG0rez5k5KpzDBfuaNBbGcmPniItVc9K0kGcUqM-VydzLu_Mkr3YP-QK9-xt-niRiwd_jG5mw/s1366/saigon.jpg">

Hương Sài Gòn, không phải cô gái tên Hương ở SG! Mà là cái Hương vị Sài Gòn.

Tôi là dân Bắc Kỳ 2 nút, chẳng có gì liên quan đến SG, cũng chẳng liên quan đến những người SG là Bắc Kỳ 9 nút đã ở SG từ trước 75.

Tôi thường xuyên đi SG làm việc, làm ăn buôn máy tính những năm 2006-2009, trước đó từ năm 2000 cũng hay có những chuyến du hí SG vào dịp cuối năm nghỉ hè.

Kể cả sau này sống gần 2 năm ở SG trước khi qua Thái cho nên cũng biết ít nhiều về SG.

Có những lúc một tuần bay vào SG đến 4 lần. Nhưng có một điều tôi không thể diễn tả nổi là mỗi lần dù từ ga tàu, bến xe hay sân bay vào đến SG thì lòng rất rộn ràng một cảm xúc khó tả, cảm xúc của năng động, vui vẻ, hiếu khách, bụi bặm đời thường...

Tôi yêu những ly café SG đen đá, tôi yêu cả những tiếng rao hủ tiếu gõ, tiếng rao tẩm quất đêm đêm vang lên trong những con hẻm nhỏ.

Tôi yêu mùi cá nướng rộn ràng ngậy béo.

Tôi yêu cả mùi thuốc bắc ở những khu phố người Hoa cạnh chợ Lớn.

Tôi yêu nhũng cơn gió bên cạnh sông SG hay những bờ kênh vào chiều tối.

Tôi yêu nụ cười người SG trong nắng vàng của Miền Nam luôn nhiệt tình với khách. Nó khác hẳn với sự bon chen của xứ Bắc nơi tôi sinh ra.

Tôi yêu cả những gánh hàng rong nơi có những giọng ca nhạc Vàng không chuyên nhưng say đắm lòng người... Và yêu cả những cơn mưa bất chợt của xứ sở Miền Nam.

Tôi đã trót yêu cái Hương Sài Gòn bởi tính cách tôi có một thứ gì giống thế!...

Xin được nhớ đến Sài Gòn và gọi tên Sài Gòn chứ không phải tên gọi nào khác bởi đơn giản, mỗi khi tới SG tôi lại thấy xốn xang...

25/05/2020

******

Tôi Yêu Sài Gòn

Tôi đã từng viết hai bài "Hương Sài Gòn" và "Tản mạn Sài Gòn, Hà Nội" để nói lên cái Hương vị không thể lẫn vào đâu của SG mà tôi đã trót yêu, trót nhớ.

Và cũng để nói lên sự khác biệt trong cách sống chân tình, mộc mạc, dễ gần, hiếu khách của người SG.

Hôm nay, tôi kể một chuyện nữa về SG.

Khi tôi còn nguyên cơ nghiệp, đi SG làm ăn, thăm thân nhân dường như là cơm bữa. Ăn nhậu, hát hò, vui chơi đủ cả. Ấy là lúc mình có tiền, có quan hệ thì dễ lắm, ai cũng có thể tiếp đãi mình tốt nếu mình không làm điều gì tồi tệ.

Nhưng bắt đầu từ cuối 2010, khi tôi mất tất cả từ tiền tài đến gia đình, bước chân đi mang bên mình hai chữ "Phản động" thì mảnh đất tôi nương náu chính là Sài Gòn.

Thời điểm đó tôi chẳng có tiền, chẳng có nhà và chẳng có xe. Người thân cũng chẳng có. Nhưng Sài Gòn với cơm bụi bình dân, trà đá miễn phí, tình người thuong mến, không soi mói ...

Thật dễ sống! Sài Gòn chính là mảnh đất ấm áp tình người che chở cho tôi những tháng ngày cơ cực nhất của cuộc đời.

Các bạn có biết, 3/4 cuốn sách "Những sự thật cần phải biết" đã được viết ở Sài Gòn trong xóm trọ nghèo ở Bình Thạnh, hoặc ngay ở quán Internet công cộng đường Lê Quang Định với bữa cơm 7k đến 10k... đôi khi thiếu nợ cô chủ quán tuần sau mới trả.

Vậy mà cô chẳng cáu gắt với thằng Bắc Kỳ nghèo khổ, mà ngược lại đôi khi còn cho thêm miếng canh khổ qua cho đời bớt... Khổ quá!

Đấy! tình người SG là thế, Sài Gòn là thế. Tôi đã yêu Hương Sài Gòn, thích cái tính ăn ra ăn, chơi ra chơi của SG.

Và nhờ SG bao bọc những lúc hoạn nạn, tôi mới có tự do ngày hôm nay, mới có sách "Những sự thật cần phải biết"...

Cảm ơn Sài Gòn! và tôi yêu Sài Gòn! Mãi mãi là như vậy...

Đặng Chí Hùng

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Apr/2023 lúc 1:34pm
https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE -

-



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Apr/2023 lúc 1:35pm
https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE">

Chia sẻ: 60 NĂM NHỚ LẠI... SÀI GÒN 1962 - Nhạc VỀ QUÊ -   <<<<<<

Hoài%20niệm%20đẹp%20về%20Tết%20Sài%20Gòn%20xưa


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Apr/2023 lúc 11:48am
https://huongduongtxd.com/monngonthoithuong.pdf - https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE -

- - < - < - <

https://www.google.com/url?sa=i&url=https%3A%2F%2Fwww.pinterest.com%2Fpin%2F344243965278463885%2F&psig=AOvVaw2AOu2KSJUcKc5O_un-TlgG&ust=1681836285763000&source=images&cd=vfe&ved=0CBMQjhxqFwoTCJj-78Wusf4CFQAAAAAdAAAAABAE -

-


Huyềnh%20thoại"%20bánh%20xèo%20Đinh%20Công%20Tráng%20-%20chợ%20Tân%20Định%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/May/2023 lúc 7:30am
C https://www.youtube.com/watch?v=EOMs-WOmhic&pp=ygVKIEPDkk4gQUkgTkjhu5ogxJDhur5OIEPDgUkgR-G6oEMgLSBNxIJORyAtIFLDiiAoIEdBUkRFLSBNQU5HRVIgKSBOxIJNIFjGr0E%3D - òn ai nhớ cái Gạc-Măng-Rê (Garde-manger) năm xưa https://www.youtube.com/watch?v=jvB1ylJIqBE -

- - < - <

Cái garde-manger (gạc măng rê), nếu dịch ra chữ thuần Việt, có thể gọi là cái chạn bát (giọng Bắc), hoặc cái tủ bếp (giọng Nam). Có lẽ loại tủ này xuất hiện ở Việt Nam từ những năm Pháp thuộc, nên người Việt gọi vật dụng thân thuộc này bằng một cái tên rất Pháp :

- Gạc măng rê.

Từ những năm giữa thế kỷ 20, hầu như gia đình người Việt nào cũng có một cái gạc măng rê.

Đó là đồ nội thất bằng gỗ được đặt trong nhà bếp dùng để cất trữ thực phẩm, gia vị, dụng cụ nấu nướng,…

Ở Việt Nam, nó được thiết kế thành một dạng tủ kệ chia nhiều tầng, nhiều ngăn, dùng để đựng bát đĩa, xoong, nồi, thức ăn.

Gạc-măng-rê thường có bốn chân và nhô cao khỏi mặt đất. Để tránh các loại kiến, gián bò lên đồ ăn, người ta thường đặt chén nước (thường là bằng sành sứ) dưới 4 chân tủ.



st



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 06/Jul/2023 lúc 11:29am
Quê hương tuổi thơ

Khám%20phá%20với%20hơn%2098%20hình%20ảnh%20quê%20hương%20tuổi%20thơ%20mới%20nhất%20-%20Tin%20Học%20Vui

Khám%20phá%20với%20hơn%2098%20hình%20ảnh%20quê%20hương%20tuổi%20thơ%20mới%20nhất%20-%20Tin%20Học%20Vui

Khám%20phá%20với%20hơn%2098%20hình%20ảnh%20quê%20hương%20tuổi%20thơ%20mới%20nhất%20-%20Tin%20Học%20Vui

Những%20Hình%20ảnh%20Quê%20Hương,%20đất%20Nước,%20Con%20Người%20Việt%20Nam%20đẹp%20Nhất



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Jul/2023 lúc 11:04am

Gánh hàng rong gây thương nhớ một thuở Sài Gòn


Trong muôn mặt của Sài Gòn trước 1975, hình ảnh những người lao động lam lũ trên đường phố luôn là để tài sống động. Không đến nỗi phải "bán mặt cho đất bán lưng cho trời" nhưng họ cũng đã đổ biết bao mồ hôi công sức để có được bát cơm.

Lảnh lót tiếng rao

"Ai... bánh canh không?, Ai... cháo lòng không?". Tiếng rao thật lớn nhưng êm tai. Người Sài Gòn không thể quên được một dạo những người bán hàng rong được ví như chiếc đồng hồ chính xác nhất. 9 giờ sáng là "Ai tàu hủ không?", đến 10 giờ là "Ai chè đậu xanh bột bán nước dừa đường cát không?".


Cứ thế, suốt ngày mỗi người một giờ, mỗi món ăn một thời điểm chính xác đến độ người dân không cần xem đồng hồ. Không ai cảm thấy khó chịu mà ngược lại, hôm nào vắng họ là cảm thấy nhớ nhung.

Trong bức ảnh "Gánh bánh canh giữa phố Sài Gòn", chị bán hàng có gương mặt phúc hậu, đang nghiêng vành nón, một tay cầm tô, mắt nhìn vào nồi bánh canh đang tỏa hơi nóng bốc lên. Đôi quang gánh của chị đơn sơ, giản dị. Một đầu là nồi bánh canh khá lớn. Đầu còn lại, trên tấm nia là thùng nước rửa tô, một vài chiếc tô sạch.
Hoài%20niệm%20về%20một%20Sài%20Gòn%20rất%20xưa:%20Khi%20cả%20quê%20hương%20nằm%20trên%20đôi%20vai%20gầy

Khách hàng của chị là một chàng trai mới lớn. Kẹp đôi đũa trong tay, cậu cầm muỗng múc nước lèo húp một cách ngon lành. Tất cả hoạt cảnh êm đềm đó diễn ra trên đường phố.

Món%20mía%20hấp,%20mía%20lạnh%20"đặc%20sản"%20ở%20Sài%20Gòn

Một bức ảnh khác, cũng đôi quang gánh nhưng người phụ nữ này bán mía ướp lạnh. Chị là một cô gái còn trẻ. Chiếc nón lá chị móc vào đầu sau của gánh. Ở đầu trước, một tủ kính nhỏ trong đó có một mảng nước đá, xung quanh chất đầy những khúc mía đã róc sạch vỏ.

Một ngày với chị không phải chỉ bấy nhiêu mía trong tủ kính mà "hàng dự trữ" còn đầy ở đầu gánh phía sau. Bởi thế không lạ gì khi thấy chị oằn lưng với đôi quang gánh.

Đường phố Sài Gòn trước 1975 không đông đúc như bây giờ nên sự xuất hiện của những người bán hàng rong không gây trở ngại nào mà ngược lại còn điểm tô thêm cho sắc thái của Sài Gòn.

Bánh%20Tráng%20Dừa%20Mạch%20Nha%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn

Bánh tráng kẹo trên đường Tự Do (Quận 1, TP.HCM) nay là Đồng Khởi (Ảnh tư liệu)
Một người đàn bà đứng tuổi với gánh bánh tráng kẹo rong ruổi trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), một trong những con đường lớn ngay giữa lòng trung tâm thành phố. Chị người Quảng Ngãi, nơi có món ăn dân dã độc đáo này. Một chiếc bánh tráng nướng và kẹo mạch nha được kéo thành từng mảng phủ kín lên trên, rất ngon và đậm chất quê hương.

Ngày nay có khác hơn. Cách bán buôn không nhọc nhằn như trước nhờ vào những công cụ trợ giúp. Tuy nhiên đồng tiền họ kiếm được cũng không kém phần cay đắng.
Câu%20chuyện%20kỳ%20lạ%20về%20bà%20cụ%20bán%20khô%20ở%20bờ%20kè

Xe mì trong ảnh nếu còn đến nay cũng phải gần 100 năm. Chiếc xe cũ kỹ. Trong thân xe là lò nấu nước, thùng nước lèo cùng củi than dự trữ. Mì được chứa trong những ngăn kéo.

Ký%20ức%20về%20gánh%20hàng%20rong%20một%20thuở%20trên%20đường%20phố%20Sài%20Gòn%20xưa

Nghề nấu mì và xe mì là sản phẩm của người Hoa du nhập vào Việt Nam, sống với người Việt cùng với bao vui buồn đã trở nên quen thuộc.

Trước 1975, những chiếc xe mì này thường cố định ở một vị trí nào đó. Nó là một phần không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của người dân. Từ người lao động đến anh thương gia, ai cũng cần một bát mì khi đói lòng.



Ngoài phục vụ khách tại chỗ, nhiều xe mì còn có người đi vào tận các hẻm đông dân cư trên tay cầm hai thanh tre gõ vào nhau tạo thành tiếng kêu thay cho lời rao chào hàng. Dần dần tiếng gõ ấy trở nên quen thuộc và tên gọi "mì gõ" có từ dạo ấy.

Ở một chiếc xe đẩy tay khác, những con mực khô được treo ở trên cao thành hàng dài. Người bán hàng đang ngồi chờ khách. Xe bán mực khô này xuất hiện khá nhiều ở Sài Gòn vào những năm 1960 - 1970 và vắng dần, đến hôm nay rất khó tìm thấy.
Máy%20ép%20mía%20bằng%20tay%20và%20bằng%20điện%20-%20Xe%20nước%20mía%20siêu%20sạch%20Việt%20Nhật


Khách đến tự do chọn cho mình con mực ưng ý rồi đưa cho người bán nướng. Qua bếp than hồng, mùi thơm của mực bốc lên. Mực chín được cho vào chiếc cối quay vài vòng. Con mực tơi ra và chỉ cần xé chấm với tương thì không còn gì bằng.

Trước sự phát triển của công nghệ hiện đại, ít người còn nhớ đến xe nước mía quay bằng tay. Xe nước mía xưa được đóng bằng gỗ, không đẹp như bây giờ.

Ép mía bằng 2 trục nối với tay quay cũng bằng gỗ. Người bán nước mía thời bấy giờ thường là đàn ông mới có sức để quay bởi phải dùng 2 tay và thêm một chân mới quay được vòng tua ép mía.

Hàng rong bây giờ vẫn còn nhưng không như xưa. Đôi quang gánh và tiếng rao lảnh lót gần như đã vào dĩ vãng. Tiếng gõ "lốc cốc" của mì gõ cũng im ắng. Mì vẫn còn bán, mực vẫn còn nướng và nước mía vẫn ngọt như xưa nhưng những chiếc xe ấy trở thành huyền thoại. Với bây giờ, tất cả đều là kỷ niệm trong ký ức người dân Sài Gòn.




-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jul/2023 lúc 9:51am

Xe ngựa trên lối xưa – hồn quê cũ
Xe%20thổ%20mộ%20ở%20Thuận%20An,%20Bình%20Dương

Đã từ lâu, chiếc xe thổ mộ đã gắn liền với những phiên chợ sáng chiều của người dân quê Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một.. Nó không những là phương tiện đi lại thuận tiện, mà với dáng vẻ độc đáo, chiếc xe đã tạo cho khung cảnh đồng quê Nam Bộ trở nên duyên dáng và có “hồn” hơn !

Xe thổ mộ là loại xe ngựa chở khách, có hai càng bằng gỗ, do một con ngựa kéo. Tại sao nó có tên là thổ mộ? Có người giải thích vì xe có mui cong nhỏ, trông giống cái gò mã nên được gọi là “thổ mộ”. Lại có người cho rằng, nó bắt đầu từ tên xe là “thảo mã”. Lâu ngày đọc trại ra thành “thổ mộ” (theo Paulus Của).

Lại có ý kiến giải thích nó có nguồn gốc từ chữ “Tombeau” của Pháp đọc trại thành thổ mộ; điều này, cụ Vương Hòng Sển trong cuốn “Tự Vị Tiếng Việt miền Nam” đã bác bỏ và cho biết rằng, người Pháp họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là tombeau cả mà gọi là Boîte d’allumettes (hộp quẹt), có lẽ vì cái hình dáng nhỏ nhắn của nó như cái hộp quẹt chăng?

Có thể ban đầu, khi người Pháp mới sang, họ dùng xe ngựa để kéo pháo. Giống ngựa họ đem từ châu Âu, châu Phi sang. Ngựa giống này cao to, có khả năng kéo nặng được. Lần lần, có nhiều con không thể kéo pháo được nữa, chúng bị dạt ra để kéo đồ vật lặt vặt, kể cả kéo cỏ cho những con kéo pháo ăn. Chính vì thế mà có tên xe là “thảo mã” (xe ngựa kéo cỏ), lâu ngày đọc thành thổ mộ?

Cho dù nó có nguồn gốc thế nào, thì cái tên thổ mộ đã được người dân Nam Bộ gọi đã khá lâu, ít nhất là vào thời điểm sau khi quân Pháp đến chiếm đóng Nam Kỳ.

Người đánh xe ngựa được gọi là “xà ích”, theo nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì “xà ích” là tiếng có nguồn gốc từ Philippines. Những người đánh xe ngựa (xà ích) vốn là những nông dân chất phác, phóng khoáng cởi mở. Họ nhanh chóng tiếp thu một phương tiện giao thông mới, cải tiến nó thành một loại xe chở khách có vóc dáng nhỏ, gọn, phù hợp với đường sá của nông thôn miền Nam.

Hình thức xe cũng khá thẩm mỹ. Tuy giản dị với mái vòm cong cong, nhỏ nhắn nhưng khi di chuyển trên đường làng thì trông rất hài hòa với những ụ rơm, lũy tre làng của phong cảnh đồng quê.

Để hành nghề xe ngựa, việc quan trọng nhất là phải biết chọn ngựa. Lựa chọn ngựa bắt đầu từ màu lông, xái ngựa, tuổi (xem răng), mõm (mõm nhọn kén ăn hơn mõm bằng). Sau đó là huấn luyện.

Việc huấn luyện ngựa do những vị cao tuổi học tập và truyền lại từ sách” Mã Kinh” của Tàu. Có người kỹ lưỡng hơn thì lại coi thêm mạng theo ngũ hành: mạng của người cần phải hợp với mạng của ngựa! Ví dụ: người mạng Thổ chọn ngựa ô; mạng Thủy chọn ngựa Kim (hoặc khứu) lông nâu nhạt; mạng Mộc chọn ngựa Kim than (ngựa trắng điểm đen); mạng Hỏa chọn ngựa Vang (lông đỏ ). Thời trước, xe thổ mộ
cũng hoạt động theo luật định.

Ai muốn hành nghề xà ích đều phải qua một cuộc thi khảo hạch để nhà chức trách cấp bằng chứng nhận. Người lái xe phải đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, trước khi thi phải thuộc 36 ký hiệu giao thông trên đường y như thi lái xe bây giờ vậy. Bởi vì lúc đó, xe thổ mộ chẳng những chở khách xuôi ngược ở các vùng nông thôn ngoại thành, mà nó còn chở hàng hóa và khách vào tận các chợ Bến Thành, Cầu Muối…

Vì thế, người xà ích phải hiểu biết luật giao thông đường bộ và có tay nghề cao để bảo đảm an toàn giao thông. Trên xe phải có chuông, nút ấn chuông được đặt bên cạnh chỗ ngồi của người xà ích. Xe chạy khi trời tối phải có đèn lái ở hai bên, hai cái đèn có hình dáng là hai cánh tay người cầm hai chân đèn. Quy định này do người Pháp đặt ra. Đèn được đốt cháy bằng khí đá, nó chẳng soi sáng được bao nhiêu,
cốt để cho người đi đường thấy có xe ngựa mà tránh!

Dưới gầm xe phải có bao đựng phân ngựa, không để ngựa phóng uế bừa bãi ra công lộ. Xe ngựa nào không thực hiện đủ những quy định trên sẽ bị “phú lít” xử phạt ngay. Xem thế ta thấy xe ngựa ngày xưa cũng khá văn minh!

Có người nói rằng, lúc trước xe ngựa khi chạy trong thành thị thì xà ích che đi một phần cặp mắt của ngựa, chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ 2 đến 3 mét; mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tâm mà chạy “lạc hướng” dễ gây tai nạn.

Mỗi xe thổ mộ được trang bị một “bộ nhíp” giảm xóc. Tất cả các loại xe như xe bò, xe ngựa kéo, xe lừa của ta từ trước đó chưa hề biết đến cái nhíp giảm xóc bao giờ.

Cùng với sự tồn tại của chiếc xe ngựa là những nghề phụ thuộc theo nó như: nghề xén tóc và xén lông cho ngựa, nghề đóng móng sắt ngựa, nghề đóng thùng xe… Nghề đóng móng sắt do người châu Âu du nhập vào. Ngựa xứ ta trước đó chưa hề đóng móng sắt.

Thời gian khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở vùng Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một có hơn 1000 chiếc xe thổ mộ. Có lẽ nó là phương tiện di chuyển công cộng trên bộ đầu tiên ở nước ta, sau đó mới đến các loại phương tiện khác. Cũng như nhiều nghề khác, nghề xà ích cũng có tính cha truyền con nối . Ở khu Tân Định xưa, có con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, đó là đường xe thổ mộ chạy. Xe thổ mộ cũng có bến như xe buýt hiện nay.



Ngoài ra, ở khu vực kênh Nhiêu Lộc (khu vực gần chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay) có một khu vực gọi “Bến tắm ngựa”, đây là nơi xà ích thường cho ngựa xuống tắm mát nghỉ ngơi sau thời gian dài rong ruổi mệt nhọc trên các ngã đường.
Xe%20thổ%20mộ%20ở%20Thuận%20An,%20Bình%20Dương

Đối với người dân Sài Gòn-Gia Định và các vùng lân cận, những chiếc xe mui vòm khum cong như những nấm mộ xuôi ngược trên những con đường đất đỏ, (sau được rải đá rồi tráng nhựa); với hình ảnh những chú ngựa nhỏ con, gõ móng lốp cốp trên mặt đường nhựa, cùng với nhạc cổ leng keng ngày trước là một phương tiện chuyên chở rất gần gũi và thân thiện, nhất là đối với bạn hàng các chợ và người bình dân đi lại từ nơi này sang nơi khác.

Trong những ngày giáp Tết, xe thổ mộ càng đẹp và rực rỡ hơn vì rực vàng hoa vạn thọ, hoa huệ, cúc… từ các vùng Gò Vấp, Bà Điểm đổ vào bán ở các chợ nội thành.

Mỗi cổ xe thổ mộ đang chạy như là một bản hợp tấu giàu âm điệu. Âm điệu nền là tiếng vó ngựa lộc cộc giòn giã nện xuống đường.Tiếng khua lốc cốc của cây ví (thanh thép nằm giữa trục bánh xe). Tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng “cốc keng” ngân vang mà rời rạc từ cái chuông xe. Và cuối cùng là lâu lâu lại trỗi lên tiếng hý dài của con tuấn mã sung mãn đầy sinh lực! Tất cả như một bức họa mỹ thuật toát lên nhiều âm thanh của một bản hòa tấu sinh động, và bức họa đó đã thực sự đi vào dĩ vãng, đi vào lịch sử một vùng quê xưa…

Tôn Thất Thọ
ĐÁNG NHỚ






-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jul/2023 lúc 11:18am

Chuyện tình Ông + Bà Sài Gòn

SAIGON%20-%20Cầu%20Ông%20Lãnh%20|%20manhhai%20|%20Flickr

Chuyện rằng từ thuở xa xưa
Ông bà ta đã dây dưa ái tình
Bởi thế nên tục truyền rằng:
Ông Lãnh, Ông Tạ, Ông Đồn
Ba người bạn thiết sớm hôm một nhà
Ông Lãnh bản chất thiệt thà

Sổ%20tay%20cẩm%20nang%20du%20lịch%20núi%20Bà%20Đen%20-%20Nóc%20nhà%20Nam%20Bộ%20chi%20tiết


Thầm yêu nét đẹp mặn mà Bà Đen
Nhưng nào ông dám bon chen
Sáng đêm chong đèn nhung nhớ thiết tha
Ông Đồn bản tánh nguyệt hoa
Chờ Ông Lãnh kẹt, cà rà Bà Đen

Cầu%20Thị%20Nghè/Chợ%20TÂN%20ĐỊNH/%20Hiền%20Vương%20Sài%20Gòn%20thưa%20vắng%20ngày%20Chúa%20Nhật%20-%20%20YouTube


Hai người xả láng một phen
Sinh ra bé gái đặt tên Thị Nghè
Ông Lãnh nghe nói, thuê ghe
Đi thăm cho biết Thị Nghè ra sao

Vì%20sao%20có%20địa%20danh%20Ngã%20ba%20Ông%20Đồn

Ngó gần nó cũng bảnh bao
Nhìn xa nó cũng hao hao Ông Đồn
Bà Đen từ dạo sinh con
Vốn đã đen sẵn nay còn hơn xưa


Ông Đồn nhìn vợ hết ưa
Bỏ lên Long Khánh say sưa miệt mài
Bà Đen ngẫm nghĩ chán thay
Cũng đi lên núi đêm ngày thở than
Thương cho đứa cháu lầm than
TP%20Hồ%20Chí%20Minh:%20Chợ%20Hóc%20Môn%20mở%20cửa%20trở%20lại%20sau%20gần%20một%20tháng%20dừng%20hoạt%20động

Ông Lãnh hào hiệp cưu mang đem về
Buồn cho cuộc sống ê chề
Một già một trẻ bốn bề cô đơn
Ông bèn thẳng xuống Hóc Môn

Chợ%20Bà%20Điểm%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn

Cưới luôn Bà Điểm để chôn cuộc đời
Qua bao vật đổi sao dời
Bà Đen ở vậy cho vơi nỗi lòng
Chỉ còn Ông Tạ lông bông

Cầu%20bông%20-%20Một%20trong%20những%20cây%20cầu%20đầu%20tiên%20tại%20đất%20Gia%20Định%20xưa


Bạn bè lấy vợ nên chồng đã lâu
Cô Giang sắp sửa ăn trầu
Cô Bắc cũng đã từ lâu theo chồng
Ông bèn đi xuống Cầu Bông
Hỏi thăm Bà Chiểu có chồng hay chưa

Chợ%20Bà%20Hom%20Mới%20%28Quận%20Bình%20Tân%20-%20Sài%20Gòn%29%20sau%20ngày%20cách%20ly%20-%20YouTube

Bà Chiểu nghe nói bèn thưa:“Chỉ còn Bà Quẹo là chưa có chồng
Bà Điểm tay bế tay bồng”
Buồn tình, Ông Tạ phải lòng Bà Hom

Lăng%20Cha%20Cả%20ở%20đâu?%20Những%20hình%20ảnh%20về%20một%20góc%20Sài%20Gòn%20xưa



Ông bèn bao cuốc xe ôm
Về lăng Cha Cả lo hôn lễ liền
Phụ rể có cậu Bảy Hiền
Nữ trang Chú Hỏa bạc tiền thiếu đâu


Bà Hạc thì làm phụ dâu
Chú Ía bưng quả, buồng cau, khay trầu
Bà Hom tròn mối duyên đầu
Thương cho Bà Quẹo âu sầu đắng cay

Chùa%20Bà%20Đanh%20Hà%20Nam%20và%20những%20truyền%20thuyết%20linh%20thiêng

Ế chồng mấy chục năm nay
Chỉ vì cái tội thích hay làm tàng
Buồn cho nghiệp chướng bẽ bàng
Bà đành an phận chẳng màng hơn thua

Mặc cho thế sự ganh đua
Bà liền xuống tóc vô chùa Bà Đanh
Bỏ ngoài tai việc chúng sanh
Cam đành vui thú tu hành điền viên

So%20sánh%20triết%20học%20Bà%20la%20môn%20%28Triết%20học%20Ấn%20Độ%29%20và%20đạo%20lý%20Phật%20giáo%20-%20Chùa%20%20Bửu%20Châu%20-%20Giáo%20Hội%20Phật%20Giáo%20Việt%20Nam

Buồn nhất là ở Phú Yên
“Ông Chừ” hổng có tình duyên mặn mà
Tự trách số phận “con gà” (mắc dây thun)
Ông qua Cam Bốt cưới “Bà La Môn”
Tuổi em thì cũng sồn sồn
“Vệ Sa” “Sát Đế” một bồ Hindu
Ngẩn ngơ vào một chiều thu
Ông ra Thiên Mụ khấu đầu đi tu

TH/ST





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jul/2023 lúc 9:40am

Nước mía Sài Thành xưa.

may%20ep%20mia%20bang%20tay%20Viet%20Nhat%20hoat%20dong%20on%20dinh%20va%20ben%20bi

Nước mía là thứ nước giải khát ngon, bổ rẻ và được ép nguyên chất từ mía tươi.

Ngày xưa mấy xe nước mía thường dùng tay để ép mía, bánh xe như vô lăng lái tàu, tay người ép mía phải khỏe mới ép được hết nước ra khỏi những cây mía dài.

Bây giờ hiện đại, các loại máy ép nước mía giờ toàn dùng điện. Khi ép mía người ta thường thêm tắc vào cho thơm và át bớt vị ngọt gắt cổ của thứ nước đường nguyên chất đó. Miếng tắc chua chua vào để hãm vị ngọt khó chịu đó lại và để … thơm hơn. Bản thân người biết uống nước mía thường có thói quen vắt nhiều tắc.

Càng chua càng ngon. Nhưng nước mía cũng phải ngọt ngon thì vắt nhiều tắc mới ngon. Gần đây nhiều nơi có món mía dâu, mía cam, vị chua của dâu hay cam xay chung với nước mía lạ miệng và phần nào làm dịu bớt cái gắt của mía đường. Nhưng gì cũng vậy, vị ngon nguyên thủy vẫn là thứ không thể thay thế được.

Nước mía ngon phải có màu vàng đậm, tung bọt. Vài nơi thường dằn thêm vài hạt muối cho đậm đà. Có nơi thêm nước chanh muối hay tắc muối. Mía ngọt nên uống phải có đá để làm mát dịu cái vị gắt của đường…

Có lẽ ở miền Nam vì nóng quanh năm nên phổ biến hơn miền Bắc. Tuổi học trò đứa nào cũng phải biết nước mía.

Thứ giải khát không đắt tiền và kén chọn khách hàng. Hồi xưa khi còn học cấp 1 chiều nào mẹ cũng mua cho một bịch nước mía chỉ 500 đồng, hút rột rột khi ra khỏi cổng. Ngon hơn nước ngọt nhiều. Ngon hơn cả mấy bịch xirô đá màu xanh đỏ bán nhan nhản ở trước trường.


Ly Lê





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Jul/2023 lúc 1:10am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/07/nho-lai-mon-ngon-sai-gon-ngay-truoc.html - Nhớ Lại Món Ngon Sài Gòn Ngày Trước 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8GXzGY9G8qitCsXPLbVMmK96Eub8TieqWswB6DA1SVDw26zYGJzeB8QjWSVJb1bXptI3QaCGCIDyo6TW8i6rwgWr-WkN3j0SwntOp1qqVU1FtlS3dVCLKykvc29HynZ2CGtCaF2xEwjO3MU4SH8fkqz1G34HAUPIeV_weAOLpvmcbEAsj0BPbao4z3lbV/s700/ph%C6%A1%CC%89.png">

Có nhà văn nào đó cho rằng khi viết về ẩm thực bụng phải đói mới “lột tả” hết cái ngon của món ăn.

Tôi rất tâm đắc với ý kiến này. Hồi còn trong trại tù cải tạo, cái bụng lép kẹp lúc nào cũng sôi ùng ục, tôi và vài người bạn tù có “tâm hồn ăn uống” vẫn thường kể cho nhau nghe những món khoái khẩu của mình. Ăn “hàm thụ” sao mà ngon thế. Phải nói ngon gấp nghìn lần ăn… thực thụ!

Thời cải tạo qua đi nhưng thời điêu linh lại kéo tới. Vào thời đó, cái để đút vào mồm chỉ toàn khoai mì chạy chỉ với bo bo, còn được mệnh danh là… cao lương. Ngồi nhấm nháp cao lương mà cứ tức anh ách. Ai đó đã khéo chơi chữ mà đặt tên, mỉa mai không khác gì cái món “mầm đá” của ông vua ngày xưa!

Nhưng rồi cũng qua đi cái thời ăn để mà sống, người ta bỗng nhớ đến thời… sống để mà ăn ở Sài Gòn hoa lệ ngày nào.

Theo tôi, một trong những món ngon đó phải kể đến phở. Mặc dù phở có xuất xứ từ miền Bắc nhưng phở Sài Gòn thường ăn kèm với giá, ngò gai, húng quế vẫn ngon hơn phở Hà Nội thiếu hẳn các loại rau thơm mà lại không có giá. Vào đến Sài Gòn ngày xưa có con đường tên Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), một đầu là đường Tự Do (Catinat), đầu kia là đường Hai Bà Trưng (Paul Blanchy). Tiệm Phở Bắc được bán trong khuôn viên nhà thờ Hồi Giáo này, nên có tên là Phở Turc.

Sài Gòn 1954, lúc người Bắc mới vào Nam, những tiệm Phở Bắc hãy còn đếm được trên đầu ngón tay. Ðó là mấy tiệm Phở Thịnh đường Gia Long, Phở Turc đường Turc, Phở Minh đường Pasteur và Phở 79 ở đường Frère Louis (sau này đổi tên thành đường Võ Tánh và đến 1975 lại đổi thành Nguyễn Trãi thuộc quận 1).

Ngay bên hông rạp Casino có một hẻm nhỏ, đi vào hẻm đó là một dẫy nhà, đa số là nhà dân Bắc Kỳ di cư sớm, từ những năm 1920. Tiệm Phở Minh nằm ở dãy nhà đó.

Phở Minh có cả phở bò lẫn phở gà nhưng đặc biệt hơn cả còn có bài thơ do thi sĩ Trần Rắc đề tặng. Bài thơ được cắt chữ, đóng khung kính, treo trên tường. Bài thơ Ðường Luật có 4 câu đầu như sau:

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành,
Trần Minh Phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn,
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh.

Thi sĩ Trần Rắc chính là ông chủ tiệm giày Trần Rắc đường Lê Thánh Tôn, gần Khám Lớn Catinat năm xưa. Tiệm giầy Trần Rắc, và cả mấy tiệm giầy ở đường này, đều có cửa sau đi vào hẻm “ẩm thực” Casino.

Việt Nam ta đúng là… ra ngõ gặp nhà thơ. Ðến như ông chủ tiệm giày cũng có thể làm thơ về phở chứ chưa dám nói đến Tản Ðà là người viết nhiều về nghệ thuật ăn uống!

Trên đường Mạc Ðĩnh Chi (M***iges), gần bên hông Tòa Ðại Sứ Mỹ, còn có phở Cao Vân, dù tiệm phở này không nằm trên đường Trần Cao Vân (Larclause) cách đó không xa. Theo tôi, phở Cao Vân (25 Mạc Ðĩnh Chi) chỉ thuộc loại “thường thường bậc trung” nhưng được nhắc tới cùng với phở Minh vì Cao Vân cũng có một bài thơ ca tụng phở của thi sĩ Tú Mỡ được viết bằng sơn ngay trên tường.

Trong các món ăn Quân Tử Vị
Phở là quà đáng quý trên đời

Chủ của phở Cao Vân ngày nay là một ông cụ Bắc Kỳ hom hem theo năm tháng. Ông không còn đứng ra nấu phở nhưng chiều chiều thường ngồi nhậu lai rai với các “chiến hữu” để hưởng nhàn!

…Trên đường Pasteur có Phở Hòa, khá nổi tiếng. Ban đầu, lúc khai trương năm 1960, tiệm phở này mang tên Hòa Lộc. Có lẽ sau này khách ăn cứ gọi tắt là Hòa nên Hòa Lộc biến thành Hòa theo kiểu gọi tên một chữ cho dễ nhớ thường thấy ở các tiệm phở (?). Phở Hòa chỉ chuyên loại phở bò, nếu vào đây mà tìm tô phở gà thì không có. Khách phải chịu khó ra đường Hiền Vương (bây giờ đổi tên là Võ Thị Sáu), đến tiệm Hương Bình, “chuyên trị” phở gà.

Nói đến phở Sài Gòn tại khu vực trung tâm, phải nói đến tiệm Phở 79, ngay tại số nhà 79 trên đường Võ Tánh. Khoảng năm 1952, tiệm Phở 79 mở cửa, khi đó nền nhà của tiệm còn thấp hơn mặt đường. Chỉ vài năm sau tiệm phát đạt, chủ nhân mua hai nhà bên cạnh, mở lớn thành tiệm Phở 79 khang trang và có thể nói là một trong những tiệm phở sạch nhất Sài Gòn thời đó.

Trường Sinh ngữ Quân đội có chi nhánh ở đường Nguyễn Văn Tráng rất gần với Phở 79 tại khu vực Ngã Sáu Sài Gòn. Ðám giảng viên chúng tôi thường xuyên ăn sáng, ăn trưa và cả ăn tối mỗi khi “ứng chiến” tại trường.

Phở tại đây được đánh giá là… “ăn được.” Nếu ai “ăn không được” thì chịu khó đi thêm vài bước ra Ngã Sáu, nơi đây có đủ các món ăn chơi thuộc loại bình dân, từ phở, hủ tíu cho đến mì và có cả xe… bánh mì mua về trường nằm gặm trong những đêm ứng chiến!

Gần ngã tư Phú Nhuận có phở Quyền trên đường Võ Tánh (thuộc quận Phú Nhuận), cách cổng phụ của Tổng Tham Mưu chừng 100 mét. Tôi thường ghé ăn nơi đây mỗi khi về trụ sở chính của trường sinh ngữ trong Tổng Tham Mưu. Nước phở ở đây rất đậm đà, vị ngọt là của xương ống chứ không phải vì bột ngọt. Phở Quyền còn có cả món “tái sách tương gừng” được xếp vào loại… trứ danh.

Con cháu của một số gánh phở nổi tiếng Hà Nội đã vào Nam lập nghiệp năm 1954, trong cơ hội lịch sử này có phở Tàu Bay. Vốn là quán phở do ông nội mở vào 1950 ở Hà Nội, khi di cư vào Nam, ông chủ quán được người bạn thân tặng cho chiếc mũ bay. Ông thường xuyên đội nó, khách thấy lạ, gọi ông “Tàu Bay” rồi chết tên thành tên quán.

Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ ngày nay vẫn bán và khách quen ngày nào vẫn chịu khó mò đến đây để tìm lại hương vị đặc thù. Phải nói Phở Tàu Bay rất… hiếu khách. Gọi thêm nước béo, nhà phở đem ra cả tô chứ không bằng chén nhỏ như những tiệm khác. Tô đặc biệt của Tàu Bay lại là tô “Xe Lửa,” bánh và thịt trên mức hậu hĩnh.

…Kể từ khi người Bắc di cư vào Nam, tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tíu, vốn là món “đặc sản” của miền Nam. Các tiệm hủ tíu nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ tíu Thanh Xuân đường Tôn Thất Thiệp (gần chùa Chà Và), hủ tíu Phạm Thị Trước ở đường Lê Lợi (khúc gần Pasteur), hủ tíu Gà Cá ở đường Hàm Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ tíu Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực…

Có người đến hủ tíu Phạm Thị Trước gọi thêm bánh pâté chaud ăn kèm, cũng giống như hủ tíu Gà Cá. Tuy nhiên, mỗi tiệm hủ tíu đều có hương vị riêng khiến một khi khách đã “kết” thì khó đi ăn nơi khác. Hủ tíu Sài Gòn sáng nào cũng đông người đến thưởng thức, không cần đợi đến những ngày cuối tuần.

Thường thì hủ tíu có bánh mềm, chỉ riêng hủ tíu Thanh Xuân hay Mỹ Tho thì thêm bánh dai, nấu khô hay nước, tùy theo ý thích của khách. Chỉ nhìn dĩa rau dọn lên trước thì cũng thấy bắt mắt: giá, hẹ, rau cần tàu, tần ô và vài cọng xà lách. Thêm vào đó, mùi nước lèo xông lên như đập vào khứu giác thực khách làm cho bụng cứ gào thét…

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEirFTCijKyV8Z_snq_8qoxjix9ad5OPQxb4Bu3i6oXT5aTOfRnHRIffxc4YP0AFEuhhYnLKL3aVUkrpHPjgIR8Y7kihwurtNMWU70LC3ckXFTJki2N98V0wWTl0-j9Tic4sUCKmkU180ct3GhvCaiViSaE5_HZxPyTLlBuNuUf_dxbw85Omryv9InHIxNPI/s560/hu-tieu-my-tho.jpg">
Hình internet

Người bồi bàn bưng mâm ra để tô hủ tíu trên bàn, mùi nước lèo xông lên mũi, nếm thử “nghe” được mùi thơm của nước lèo, thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay. Hủ tíu Thanh Xuân thì phải có rau tần ô, rau cần tàu, giá sống. Hủ tíu Phạm Thị Trước hay Thanh Thế cũng thế, nhưng không có rau tần ô. Riêng hủ tíu Gà Cá thì chỉ có giá sống.

Tuy nhiên, các thứ hủ tíu nếu thiếu vài miếng tóp mỡ và cải bắc thảo thì hình như thiếu mất cái gì đó. Nước lèo vừa ngọt của xương, vừa béo của chất tủy từ ống xương, thoang thoảng chút mùi của con mực, tôm khô, hào khô và củ cải. Những thứ ấy quyện vào nhau thành một thứ nước lèo hấp dẫn. Hủ tíu bình dân thì có những xe hủ tíu bán dạo. Từ mờ sáng cho đến khi màn đêm buông xuống, nghe tiếng rao… lòng thấy nao nao!

***

Ðối với tôi, một món cũng thuộc loại “khoái khẩu” ở Sài Gòn là… bánh mì thịt nguội, trong đó có cả jambon, xúc xích, patê ăn kèm với sốt mayonaise và đồ chua! Bánh mì thịt nguội ăn sẽ ngon hơn nếu bạn có thì giờ ngồi nhẩn nha tại tiệm: các loại thịt bày trên đĩa trắng tinh kèm thêm một cục sốt bên cạnh dao, nĩa sạch bóng. Bẻ một miếng bánh mì còn nóng, trét sốt lên trên rồi một lớp patê, sau đó cắt một miếng jambon… đưa vào miệng. Tuyệt cú mèo!

Một trong những tiệm bán bánh mì thịt nguội có tiếng ở Sài Gòn từ năm1954 và còn tồn tại đến ngày nay là Hòa Mã. Tiệm Hòa Mã nằm trên đường Cao Thắng, gần khu vực Bàn Cờ, nơi có những địa điểm nổi tiếng như Kỳ Viên Tự, Tam Tông Miếu, Trường Aurore, Cư Xá Ðô Thành, Nhà Bảo Sanh Ðức Chính…

  

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjJxCH0c7va8P_-XbOilgfzolgepvlmKMIqnabco9Yh0XTGTMgdSQ9DdnRVfFkFBFANLnASXqqK2CSslcz2A6YjspCDEzTyYSVuUtp2lTOTLsd__kSguZUpnHCyo8zrU9-TfH-DX0WG537-m2iVkKf1u72p1jee7d7xtj3FXKPRqREshtmgH8pTor0ax7ql/s444/hoa%CC%80%20ma%CC%83.jpg">

Ngày nay, Hòa Mã không khác xưa là mấy. Hòa Mã cũ kỹ, bảng hiệu phai màu theo năm tháng vì đã tồn tại hơn 50 năm kể từ ngày mở cửa. Nhiều người nói chủ nhân Hòa Mã là người đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn… Tiệm Hòa Mã gọi ổ bánh mì thịt của mình là cát-cút, dùng theo tiếng Pháp c***ecroute, bữa ăn lót dạ, bữa ăn nhẹ. Những năm 60, giá bán một ổ bánh mì Hòa Mã là 3 đến 5 đồng, ổ lớn có bơ tươi thì 7 đến 10 đồng.

…Xe bánh mì Tám Lự gần chợ Bàn Cờ chỉ bán từ sẩm tối đến đêm khuya. Một ổ bánh mì Tám Lự dài cỡ 4 tấc, hai gang tay, tối ăn vào no đến sáng. Bánh mì ngon, ngoài pâté chả lụa, pâté foie, bơ Bretel còn thêm dưa leo, ngò, hành lá, nước tương, muối tiêu, ớt xắt. Ngày xưa khách chỉ cần nói: “Cho một tàu lặn hay một tiềm thủy đĩnh đi, anh Tám!” là khách sẽ có ngay một ổ bánh mì nóng giòn, thơm phức.

Nếu muốn sang hơn thì lên bánh mì Pâté Tòa Ðô chính trên đường Nguyễn Huệ hoặc tiệm bánh Hương Lan trên đường Tự Do hay ngồi Thanh Bạch đường Lê Lợi (gần bệnh viện Sài Gòn). Chỉ cần gọi đĩa bánh mì thịt nguội kèm theo một ly cà phê sữa đá là đủ no cho đến trưa. Thanh Bạch vẫn là nơi lý tưởng để vừa ăn sáng vừa ngắm cảnh người Sài Gòn sửa soạn cho một ngày mới.

…Sài Gòn xưa có hai tiệm Thanh Bạch, một ở đường Lê Lợi, bên rạp xi-nê Vĩnh Lợi. Tiệm Thanh Bạch thứ hai ở đường Phạm Ngũ Lão, trong dẫy phố trệt dưới tòa soạn nhật báo Sài Gòn Mới năm xưa. Ngoài bánh mì ốp-la, ôm-lết, thịt nguội, Thanh Bạch có bánh mì bò kho, hủ tíu và đặc biệt là món suông. Bún suông dùng xương heo để nấu nước lèo, và đặc biệt ở đây là dùng tôm tươi lột vỏ, bỏ đầu, bằm nhuyễn sau đó vo lại thành sợi dài (như sợi bún). Nước lèo ở đây rất trong, ăn kèm với rau sống…

Nhà hàng Tài Nam trên đường Ohier (Tôn Thất Thiệp) nổi tiếng với món đuông chà là chiên bơ rất ngon nhưng cũng rất mắc tiền. Theo nhà văn Sơn Nam, vua chúa cũng còn thèm “con đuông chà là,” tên chữ là “hồ đa tử.” Hồ đa là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang thường mọc miền nước mặn Nam bộ, giống như cây cau kiểng. Cây dừa rừng có “củ hũ,” tức đọt non, đến mùa sau Tết thường xuất hiện con đuông, giống như con nhộng. Ðuông ăn đọt dừa non nên to, mập và thường được bắt trước khi nở thành bướm.

Sơn Nam viết: “Ðem đuông nướng trên vỉ sắt, cho héo, rồi ăn, chấm với nước mắm nhĩ nguyên chất. Con đuông béo ngậy vì tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là.”

… Vùng Thanh Ða (Bình Thạnh) nổi tiếng khắp Sài Gòn với món cháo vịt, gỏi vịt. Vào buổi tối người Sài Gòn hay ra bán đảo Thanh Ða trước là để đón những luồng gió mát từ sông Sài Gòn thổi vào và khi về, ghé mấy quán cháo vịt, gọi thêm đĩa gỏi vịt ăn kèm. Nếu là “bợm nhậu” thì gọi thêm chai bia Con cọp BGI để… đưa cay. Nếu ngại ra Thanh Ða thì trên đường Hồng Thập Tự cũng có khu bán cháo vịt thuộc loại… “ăn được.” Thịt vịt tại đây khá mềm, nhai kỹ thấy ngọt và đặc biệt không thấy mùi hôi vốn có của thịt vịt. Có thể họ tuyển loại vịt chạy đồng nên không hôi (?).

Ðinh Công Tráng là một con đường nhỏ gần nhà thờ Tân Ðịnh nhưng cũng đi vào lịch sử ăn uống của Sài Gòn với món bánh xèo. Bí quyết của bánh xèo nằm ở kỹ thuật pha bột, sao cho khi chiên lên, bánh giòn tan khiến người ăn có thể cảm được cái thú nghe miếng bánh đang được nhai dưới hai hàm răng. Lớp bột gạo pha chút nghệ khi đổ vào chảo dầu tạo nên một tiếng “xèo” khiến ta hiểu được tại sao lại gọi là… bánh xèo!

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTqCOvlldMf1E8zDjjOm_QM9JcPMxhjLyyDDBspY1Z6rkDB5uTGCQD42Le5BDNu9SvuxtLvvzz57LczKETdnyB3FTFM8M23lfY5dk52wX8SiTkll1v8_ddSxv2Oxmf3TeETd-2XC-5bqrtyxL77ifvBdHi23VC6ERMgiKnNDDw0oFlRf_uZnrgoL8rY70h/s275/ba%CC%81nh%20xe%CC%80o.png">

Ngày nay, đường Ðinh Công Tráng trở thành “đường bánh xèo” nhưng người sành ăn thì chọn quán bên tay trái, nếu đi từ đường Hai Bà Trưng vào. Quán không tên nhưng người ăn vẫn nhớ vì nó đã đi vào “bộ nhớ” của người Sài Gòn từ bao năm nay. Những quán đối diện bên kia đường trông có vẻ lịch sự hơn, sạch sẽ hơn nhưng vẫn chịu cảnh vắng khách vì là kẻ… hậu sinh.

Khu Ða Kao có tiệm bánh cuốn Tây Hồ (127 Ðinh Tiên Hoàng), gần chợ Ða Kao, quận 1, nổi tiếng. Tại đây, mỗi bàn có để sẵn một thẩu nước mắm và một chồng chén nhỏ để khách tùy nghi sử dụng, thêm nhiều hay ít ớt bằm theo sở thích riêng của từng người. Tuy nhiên, có khách lại thích chan luôn nước mắm vào đĩa để bánh cuốn thấm nước mắm, đậm đà hơn.

Chả quế và giò lụa được cắt thành miếng lớn, để riêng trong một đĩa nhỏ. Khách có thể chỉ ăn bánh cuốn nhân thịt mà không đụng tới đĩa giò chả, như vậy người phục vụ nhìn vào đĩa chả còn nguyên mà không tính tiền. Nếu cần, có thể gọi thêm đĩa bánh tôm hoặc bánh cuốn không nhân.

Sài Gòn cũng có bánh cuốn Thanh Trì kiểu Bắc, mỏng như tờ giấy, ăn với “ruốc” (chà bông) và nước mắm phải kèm với vài giọt cà cuống mới là “sành điệu”! Còn bánh ướt là kiểu bánh cuốn bình dân ở Sài Gòn, cũng ăn kèm với bánh tôm chiên, giò, chả và rau, giá. Những xe bánh ướt được đẩy đi khắp Sài Gòn, có cả nồi hấp nên lúc nào bánh cũng nóng và người bán bao giờ cũng chan nước mắm vào đĩa thay vì chấm kiểu “thanh cảnh” như bánh cuốn Thanh Trì.

Lại nói thêm, đường Albert (vào thời Ðệ Nhất Cộng Hòa đổi tên thành Ðinh Tiên Hoàng) khá dài nên dọc theo con đường này có nhiều địa chỉ ẩm thực nổi tiếng. Tiệm ăn Chez Albert (lấy tên theo con đường), Cà phê Hân, Mì Cây Nhãn (tên đặt theo cây nhãn hồi đó còn trồng trước sân), Thạch chè Hiển Khánh (nơi sưu tầm rất nhiều thơ ca tụng thạch chè)… Tôi chắc chắn còn bỏ quên khá nhiều điểm ăn uống khác nữa trên con đường này.

Ở góc đường Tôn Thất Ðạm và Hàm Nghi, trước kia vào thập niên 30 có một quán cháo cá nổi tiếng một thời. Buổi chiều cho đến gần khuya, khách đến ăn rất đông, nhất là khi cải lương, hát bội, hát bóng vãn hát. Theo Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Tạp Pín Lù, quán cháo cá này của người Tàu, gốc Quảng Ðông, “cha truyền con nối suốt bốn năm thế hệ, trót trăm năm chớ không phải chơi…” Cháo tại đây nấu bằng gạo tấm hầm với cá, xương heo và thịt tôm hùm để thành một thứ hồ sền sệt khiến “người đau mới mạnh dùng không sợ trúng thực, người mệt mỏi ăn vào cảm thấy nhẹ bụng, mau tiêu. Tô cháo cá Chợ Cũ quả là một ‘tô thuốc tráng thần’…”

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeAgdn9LVRMFp1YTnTjeoVeI_-XTwcD_0kp033T5K7OEWP6jBDKSDNB2MUv1ZNeerSwm8acrf73FZRevt__3AWo9LckK9H19Tq-fN4P4XRmRaC-GWoCYvjhS-AIHMI9SCzamHXwAQUDBDXAW0BVLVSV_HQAAIonrM6NDUBzCKS6OWnkKdd5xlUziRj_dUY/s640/m%C3%A2m%20ch%C3%A1o%20c%C3%A1.JPG">
https://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2017/09/ngon-lanh-chao-ca-voi-rau-tan-o-va-xoai.html - Ngon Lành Cháo Cá Với Rau Tần Ô và Xoài Sống (nguoiphuongnam52.blogspot.com)

Cháo nóng hổi bốc hơi nghi ngút. Vừa thổi vừa húp xì xụp mới thấy được cái thú vị của món cháo cá Chợ Cũ. Thịt cá giòn, thơm, lẫn lộn hương vị của hành, tiêu, gừng và có thể ăn với “dầu chá quẩy.” Thú thật, tôi là người thích thịt hơn cá nhưng thỉnh thoảng được thưởng thức món cháo cá vẫn thấy ngon đến toát mồ hôi!

Có một tiệm cháo giò heo khá nổi tiếng trong ngõ đường Phan Ðình Phùng (ngày nay là Nguyễn Ðình Chiểu). Tiệm không có tên, chuyên bán cháo từ 6 giờ tối tới một, hai giờ sáng. Khách của tiệm này đa số là khách chơi đêm, khách đi nhảy, khuya về đói bụng đến ăn tô cháo nóng.

Tôi lại nhớ đến món phá lấu ở góc đường Lê Lợi-Pasteur, nơi đây còn có xe bò bía và nước mía Viễn Ðông. Bán phá lấu là một chú Tàu và “cửa hàng” của chú chỉ vỏn vẹn một cái khay tròn, trên đó bày đầy đủ nội tạng heo: lòng, dồi, gan, bao tử, ruột non, ruột già, tim, phèo, phổi… Trông thật hấp dẫn, ngửi thơm phức và ăn vào thì giòn tan. Phá lấu nói chung có vị hơi ngòn ngọt, gan thì bùi bùi, lòng thì hơi dai dai nhưng khi nhai kỹ mới thấy ngon… thấu trời xanh!

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj0f_Z5qNfff1KFpPIQ4nj1zkAX7qpD2kBn1xlfAAtF2D6mtX0xqtA6A-4RcMhTWoWSoTmzrD_bu7f07vNNcLPwuFeo5XDVzOcpk8wohz9q4736AqSeM4GzGTE7TniWjxbmN_Z8Kl_Zq7wzn-nVozJ7B0GvCwqQXpoVXkcgUTG3CArkEWaXgX3LGIhU_SXE/s275/images.jpg">
Hình internet

Nghệ thuật làm phá lấu chắc chỉ mấy chú ba mới đáng hàng sư phụ. Phá lấu làm tại nhà cũng ướp húng lìu, ngũ vị hương nhưng không thể nào so sánh với phá lấu góc nước mía Viễn Ðông. Từng miếng phá lấu được ghim sẵn bằng tăm, chấm với tương đỏ trộn tương đen. Khách ăn xong chú Ba chỉ nhìn tăm mà tính tiền nhưng tuyệt không bao giờ sai. Quá bộ vài bước là xe nước mía tươi mát đang chờ… để kết thúc một chuyến ăn hàng bên lề đường.

Gần nước mía Viễn Ðông có xe thịt bò khô của ông Năm (theo tên gọi của khách quen) và sau 1975 ông dời về đường Tự Ðức (nay đã đổi tên là đường Nguyễn Văn Thủ) thuộc khu Ða Kao.

Dân chơi Sài Gòn thường xếp hạng: “Ăn quận 5, nằm quận 3, xa hoa quận 1” nên viết về món ngon Sài Gòn mà bỏ qua khu vực Chợ Lớn là cả một thiếu sót lớn. Dọc đường Trần Hưng Ðạo nối với đường Marins (Ðồng Khánh) thuộc địa phận quận 5 có những nhà hàng, tửu lầu nổi tiếng một thời như Arc-en-Ciel, Ðồng Khánh, Á Ðông, Bát Ðạt.

Theo tôi, Chợ Lớn nổi tiếng hơn cả là đường Lacaze mà người Việt hay gọi trại là La Cai, tức đường Nguyễn Tri Phương sau này. Khu La Cai có mì vịt tiềm hầm thuốc bắc, một trong những món “tủ” của người Hoa. Bên cạnh đó còn có những tiệm hủ tíu mang tên Mỹ Tiên, Cả Cần và tiệm bánh bao Bà Năm Sa Ðéc.

Ðêm đến có các quán sò huyết dọc theo lề đường. Khách bình dân ngồi ăn nhậu thoải mái giữa dòng xe cộ ồn ào bên ánh đèn nê-ông từ các nhà hàng, vũ trường sang trọng của Chợ Lớn “by night”!

…Thôi thì đời người có lúc hưng lúc tàn, cũng như vận nước có khi thịnh khi suy. Viết lại món ngon Sài Gòn chỉ để thỏa mãn kiểu “ăn hàm thụ”như đã nói ở trên. Giờ có cho ăn thực thụ chắc cũng chẳng thấy ngon như thời còn trai trẻ.

Tất cả chỉ còn là… hoài niệm!

Nguyễn Ngọc Chính


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Jul/2023 lúc 8:51am

Qua và Bậu trong văn thơ Nam Bộ

Bậu%20là%20gì?%20Ý%20nghĩa%20từ%20Bậu%20của%20người%20Nam%20Bộ%20ít%20ai%20biết%20đến
Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua

Qua, bậu là đại từ xưng hô của lứa đôi đặc trưng của miền Trung và nhất là Nam Việt Nam. Cho dù ngày nay hai từ ngữ này không còn được thông dụng trong dân chúng miền Nam: từ bậu hầu như tuyệt đối không dùng nữa và từ qua còn được sử dụng một cách giới hạn. Nhưng trong thơ văn cũng còn được dùng hai từ ngữ này và không giới hạn ở các văn thi sĩ vùng Đồng Nai - Cửu Long.

Qua và bậu trong văn thơ được dùng với nghĩa rất thân mật. Qua là đại từ, ngôi thứ nhứt, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (cô, chú, bác, anh, chị). Khi dùng chung với bậu nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc của người con trai xưng với người yêu. Bậu cũng là đại từ, ngôi thứ hai, nghĩa là người vợ hay người yêu hay người con gái được mến chuộng. Nghĩa cuối cùng trong thời kỳ lẽo đẽo đi chinh phục:

Bậu sang phà Rạch Miễu Qua lẽo đẽo theo sau ...

(Phải lòng con gái Bến Tre, Luân Hoán/Phan Ni Tấn)

Ngày xưa từ bậu cũng được dùng gọi người con trai trẻ tuổi như trong hai câu trích từ Lục Vân Tiên ở dưới, hay trong bài vè “Bậu lỡ thời” của vùng Kiên Giang. Hai đại từ xưng hô qua, bậu đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam, cả đến trong văn chương. Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Biểu Chánh đã ghi dấu tích cho chúng ta: ...Dân rằng:

"Lũ nó còn đây, Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành"...

(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu) ... Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:

- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...

(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925)

Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:

"Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua".

Qua, bậu là đại từ xưng hô của người dân, phương Nam“, hai từ ngữ này đối với người Việt dường như vô nghĩa, đã là từ ngữ xưng hô thân mật của miền đất mới.

Gốc của từ "qua" theo Lê Ngọc Trụ là do chữ wá (hay đọc đúng hơn là u_á) đọc theo giọng Triều Châu của chữ "ngã" tức là "tôi". Nguyên Nguyên có đặt sự liên hệ từ qua với tiếng Mường và tiếng Nhật nhưng có lẽ nên chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu "qua" đã là "tôi" từ âm Triều Châu thì "bậu" cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình Nguyên Lộc có đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu "pa_u" hay "pấu" (giọng đọc khác nhau tùy vùng) là vợ, một danh từ bình thường và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như "cha pấu", "cha pa_u" (vợ tôi) "deo pa_u" (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt "tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê ...".

Từ ngữ ghép này chỉ là một danh từ ghép. Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là "bậu" và bậu trở thành đại từ ngôi thứ hai. Qua, Bậu là từ ngữ Triều Châu được việt hóa hoàn toàn, giống như nhiều trường hợp tương tự như từ "va" (nó, hắn, anh đó, thằng cha đó, ông đó) là do giọng Triều Châu "i_a" của từ Hán Việt "tha", thí dụ "i_a mứng" = tha môn (họ, chúng nó).

Nhưng ở đây cũng cần phải ghi vài sự khác biệt giữa từ gốc Triều Châu và từ việt hóa qua, bậu.

Sau đây là bảng so sánh: Từ ngữ Triều Châu Sau khi việt hóa u_á, wa (cả hai ngôi thứ nhứt) tôi, dùng xưng hô với mọi cấp bực, không có ý nghĩa tình cảm đặc biệt

1) tôi, ta, (cô chú, bác, anh, chị) chỉ dùng xưng hô với cấp dưới;

2) anh, dùng xưng hô với vợ, với người yêu, với người con gái trong thờ kỳ tán tỉnh.

Cả hai cách dùng với ý nghĩa thân mật pa_u (không ngôi thứ) bậu (ngôi thứ hai) vợ, thường không có ý nghĩa thân mật mình, em yêu, nàng (người con gái ở thời kỳ tán tỉnh), với ý nghĩa thân mật. Xưa cũng dùng để một gọi người trai trẻ hơn mình. Từ những từ ngữ Hoa với một ý nghĩa rất thông thường như mọi từ ngữ khác, khi được việt hóa, qua, bậu trở thành những từ ngữ của tình cảm, của thương yêu, của lứa đôi với nghĩa chính xác và súc tích. Qua, bậu tiêu biểu cho ngôn từ việt hóa ở phương Nam, trong đó bên cạnh tiếng Hoa còn phải kể tiếng Pháp, tiếng Miên, tiếng Mã Lai v.v. Từ ngữ việt hóa gốc Hoa phần nhiều được sử dụng giới hạn ở phương Nam là vì điều kiện chung sống, hội nhập nơi đây. Mặc dù số từ ngữ việt hóa (từ Hoa ngữ, từ Miên ngữ) rất nhiều nhưng đi vào ca dao, đi vào văn chương mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ qua và bậu.

Trong ca dao miền Nam những bài có từ ngữ "bậu" chiếm giữa 2 - 3 phần trăm. Nếu ta lưu ý với hàng trăm, hàng ngàn đề tài của ca dao thì số lượng này rất cao. Một sự tình cờ ?: Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ra 4 câu đố bằng ca dao vào dịp trung thu 1955, trong đó có 2 bài ca dao có chữ bậu (Qui Tâm: "Dưới bóng cờ cứu khổ"). - Hộ Pháp Phạm Công Tắc có thông lệ ngày hôm sau những dịp đại lễ đến bao lơn đền thánh đưa ra câu đố để tín đồ tụ họp ở Đại Đồng Xã tìm giải đáp – Theo thời gian hai từ anh, em thay cho qua, bậu trong xưng hô lứa đôi. Dù cho một số người cầm bút hoặc vì nuối tiếc hoặc vì tìm thấy trong hai từ qua, bậu một ý nghĩa thi vị vẫn sử dụng trong nhiều tác phẩm sáng tác sau này nhưng muốn tìm lại dấu vết quê hương phương Nam liên quan tới hai từ này không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc văn của một số văn thi sĩ Nam Bộ mới có hương vị thực sự của qua, bậu của thời khái phá miền Nam. Từ qua tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không "thân mật" một cách đa dạng như từ bậu.

Sau đây vài thí dụ trong những bài đã sưu tầm:

1. Bậu trong tâm tình nhớ thương:

Ngó lên Hòn Kẽm
đá dừng Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)

Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời
Canh hai vật đổi sao dời
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.

2. Bậu trong trách móc:

Bên kia sông, ai lập kiểng chùa
Tân Thiện Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?


3. Bậu trong trêu chọc:

Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.

4. Bậu trong sự hóm hỉnh:

Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập, "qua", "bậu" đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ dược xác định rành rẽ hơn từ gốc. Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam (kể từ sông Gianh) vì ở đây số người Việt và người Hoa thuở ban đầu hầu như tương đương. So với những vùng khác của đất nước, tỉ số người Hoa rất cao. Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập, đã một thời đóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện viễn thông trong lịch sử hội nhập miền Nam, đã trở thành dĩ vãng.

Phan TấnTài





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Jul/2023 lúc 10:33am

https://vuthethanh.com/2023/06/09/mon-an-di-vang-2/ - Món ăn dĩ vãng

CHÁO%20LÒNG%20MIỀN%20TÂY%20-%20CAO%20LỖ%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn


Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Vũ Thế Thành

Xe cháo huyết… đêm

1%20Xe%20Bán%20Cháo%20Lòng%20Kèm%20Nồi%20Nấu%20Giá%20Rẻ%20Đặt%20Tại%20Xưởng%20-%20Món%20Miền%20Trung

Mùa đông năm 1975, Sài Gòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng lạnh. Chiều xuống là… nhậu. Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ, hoang mang với hiện tại và nghi ngờ ở tương lai. Vô vài xị với bè bạn cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp về nhà, tấp vô xe cháo huyết gần trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…

Cháo huyết ngon, ngon từ cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm và dai, với vài khoanh quẩy mỏng dính, cho ớt bằm thiệt cay, ấm lòng say xỉn. Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô. Cháo đã ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế!

Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa tô. Phải ăn tới năm tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo, kêu một tô, cho ớt thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.

Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để xe cháo lại cho vợ chồng người con trai. Thằng con vẫn nhận ra khách quen, bàn tay múc cháo của nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn!

Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… Xây cất nhiều, cảnh đổi thay, chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…

Năm nay Sài Gòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…

Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…

Quán cháo lòng… chiều

Gọi là quán cho bảnh, chứ đó chỉ là cái sạp, ngó xéo sang chợ Đa Kao ở đường Nguyễn Huy Tự. Quán chỉ bán buổi chiều, từ hai giờ đến năm giờ là vãn.

Bà chủ quán trạc ba lăm, chưa chồng, chảnh… Khách chiều bả, chưa thấy bả chiều khách bao giờ. Mặt lạnh, dễ quạu, ít cười. Ít không có nghĩa là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với… đàn ông.

Cháo lòng là phải đủ bộ: Huyết, tim, gan, phèo, phổi… Huyết không có gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm của ông già Tàu, nhưng tim gan phèo phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày. Dồi làm mới… tuyệt! Khúc dồi to như ống nước, và chỉ nhồi thịt, không biết bả làm cách nào mà chiên giòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi. Khách thích, muốn mua dồi về nhậu, không bán! Mua cháo và dồi, cũng không bán! Chảnh thế đó!

Cháo hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như cháo huyết hầm tôm khô mực khô nói trên. Cháo lòng ăn với hành củ tím thái mỏng, ngâm dấm, ớt bằm…

Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng, trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu cho cả tháng đây?

Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ (600gr)… mang về nộp cho bà già gọi là… trả hiếu (để tối về còn có cơm nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (ba gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút. Sữa hộp, làm phòng lab nên nhà nước “bồi dưỡng độc hại” mỗi tháng một hộp.  “May” quá,  bà già tôi không biết uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy hàng ra chợ trời hồi đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa Kao) thu gom… Đắt rẻ một chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…

Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm, xuân thu nhị kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm… Coi như trên đời không có protein. Bỏ hết! Nhịn hết! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình người điên đảo… Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao ngủ được, sức đâu mà chịu nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của ngày mai khi bước chân vào cơ quan…

Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy. Thời hậu chiến, người ta cho rằng, trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái như thế, còn sống sao thì tùy. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu, sáng chiều mặc áo blouse, nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burette… Tối về đi “cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học nhiều hơn. Hồi đó chưa có… lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa phần là con cán bộ từ rừng, trình độ quá yếu, dạy phải hạ thấp, hạ thấp nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hoi. Có vài em rất giỏi, nhưng lại rớt. Học tài thi phận, cái phận lý lịch buồn từ trong nhà ra tới ngoài đời. Mấy em bây giờ ở đâu?

Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng… người thế này?

Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ chảnh, nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ hai giờ chiều, đang dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả:

  • Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…
  • Ngộ cái gì?
  • Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huỵch toẹt ra. Chị coi được mắt, làm đồ mồi ngon, sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…

Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu… bla… bla…

Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên bỏ nhỏ bà chủ, Hôm nay tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên của chị quá xá. Chị bán cho tui một tô, không lấy cháo, chỉ lấy lòng và dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy… Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.

Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người khác sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi… đạo đức không? Thế giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn, giây phút nào vui đây?

Advertisements
Report this ad

Năm 84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa Kao. Giữa thập niên chín mươi, trở lại quán cũ, thì người khác ngồi bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi…

Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Lúc đầu định viết Món ăn dĩ vãng, viết hết đủ món, viết một lần cho xong, nhưng mới tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, thấy mỏi tay… Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn… đọc. Mà dù không còn người đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào đâu.

Còn gỏi khô bò, còn sò lông, còn bia lên cơn, còn rượu Cây Lý… Những thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần, thật gần… tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết bài này.

Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá!



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Jul/2023 lúc 10:40am

https://vuthethanh.com/2023/06/09/mon-an-di-vang-2/ - Món ăn dĩ vãng

CHÁO%20LÒNG%20MIỀN%20TÂY%20-%20CAO%20LỖ%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn
CHÁO%20LÒNG%20MIỀN%20TÂY%20-%20CAO%20LỖ%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn
CHÁO%20LÒNG%20MIỀN%20TÂY%20-%20CAO%20LỖ%20ở%20TP.%20HCM%20|%20Foody.vn

Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Vũ Thế Thành

Xe cháo huyết… đêm

1%20Xe%20Bán%20Cháo%20Lòng%20Kèm%20Nồi%20Nấu%20Giá%20Rẻ%20Đặt%20Tại%20Xưởng%20-%20Món%20Miền%20Trung

Mùa đông năm 1975, Sài Gòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng lạnh. Chiều xuống là… nhậu. Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ, hoang mang với hiện tại và nghi ngờ ở tương lai. Vô vài xị với bè bạn cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp về nhà, tấp vô xe cháo huyết gần trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…

Cháo huyết ngon, ngon từ cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm và dai, với vài khoanh quẩy mỏng dính, cho ớt bằm thiệt cay, ấm lòng say xỉn. Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô. Cháo đã ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế!

Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa tô. Phải ăn tới năm tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo, kêu một tô, cho ớt thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.

Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để xe cháo lại cho vợ chồng người con trai. Thằng con vẫn nhận ra khách quen, bàn tay múc cháo của nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn!

Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… Xây cất nhiều, cảnh đổi thay, chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…

Năm nay Sài Gòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…

Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…

Quán cháo lòng… chiều

Gọi là quán cho bảnh, chứ đó chỉ là cái sạp, ngó xéo sang chợ Đa Kao ở đường Nguyễn Huy Tự. Quán chỉ bán buổi chiều, từ hai giờ đến năm giờ là vãn.

Bà chủ quán trạc ba lăm, chưa chồng, chảnh… Khách chiều bả, chưa thấy bả chiều khách bao giờ. Mặt lạnh, dễ quạu, ít cười. Ít không có nghĩa là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với… đàn ông.

Cháo lòng là phải đủ bộ: Huyết, tim, gan, phèo, phổi… Huyết không có gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm của ông già Tàu, nhưng tim gan phèo phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày. Dồi làm mới… tuyệt! Khúc dồi to như ống nước, và chỉ nhồi thịt, không biết bả làm cách nào mà chiên giòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi. Khách thích, muốn mua dồi về nhậu, không bán! Mua cháo và dồi, cũng không bán! Chảnh thế đó!

Advertisements
Report this ad

Cháo hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như cháo huyết hầm tôm khô mực khô nói trên. Cháo lòng ăn với hành củ tím thái mỏng, ngâm dấm, ớt bằm…

Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng, trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu cho cả tháng đây?

Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ (600gr)… mang về nộp cho bà già gọi là… trả hiếu (để tối về còn có cơm nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (ba gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút. Sữa hộp, làm phòng lab nên nhà nước “bồi dưỡng độc hại” mỗi tháng một hộp.  “May” quá,  bà già tôi không biết uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy hàng ra chợ trời hồi đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa Kao) thu gom… Đắt rẻ một chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…

Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm, xuân thu nhị kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm… Coi như trên đời không có protein. Bỏ hết! Nhịn hết! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình người điên đảo… Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao ngủ được, sức đâu mà chịu nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của ngày mai khi bước chân vào cơ quan…

Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy. Thời hậu chiến, người ta cho rằng, trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái như thế, còn sống sao thì tùy. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu, sáng chiều mặc áo blouse, nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burette… Tối về đi “cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học nhiều hơn. Hồi đó chưa có… lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa phần là con cán bộ từ rừng, trình độ quá yếu, dạy phải hạ thấp, hạ thấp nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hoi. Có vài em rất giỏi, nhưng lại rớt. Học tài thi phận, cái phận lý lịch buồn từ trong nhà ra tới ngoài đời. Mấy em bây giờ ở đâu?

Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng… người thế này?

Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ chảnh, nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ hai giờ chiều, đang dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả:

  • Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…
  • Ngộ cái gì?
  • Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huỵch toẹt ra. Chị coi được mắt, làm đồ mồi ngon, sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…

Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu… bla… bla…

Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên bỏ nhỏ bà chủ, Hôm nay tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên của chị quá xá. Chị bán cho tui một tô, không lấy cháo, chỉ lấy lòng và dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy… Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.

Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người khác sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi… đạo đức không? Thế giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn, giây phút nào vui đây?

Advertisements
Report this ad

Năm 84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa Kao. Giữa thập niên chín mươi, trở lại quán cũ, thì người khác ngồi bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi…

Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì những người muôn năm cũ. Họ là phần ký ức nhỏ trong một quãng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Lúc đầu định viết Món ăn dĩ vãng, viết hết đủ món, viết một lần cho xong, nhưng mới tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, thấy mỏi tay… Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn… đọc. Mà dù không còn người đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào đâu.

Còn gỏi khô bò, còn sò lông, còn bia lên cơn, còn rượu Cây Lý… Những thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần, thật gần… tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết bài này.

Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá!

Vũ Thế Thành (trích “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ”,

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Aug/2023 lúc 7:36am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/08/ban-con-nho-khong-tiem-chap-pho-va-hang.html - Bạn Còn Nhớ Không? Tiệm Chạp Phô Và Hàng Xén Năm Xưa

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBNSfkDFhz9z9zXXNYVqISEGE5ZyZdhfPGlo-v2NN9IV0yaGHohwwpiBBoAGRUCgpfpJt-QwU2ximcn7iD7GHb2I5MWkNXtTTPYAmeHXF-NB6huabgadXclm4IKmZKth5VdwMlZb2mdrvNqWMTUYk_HPnbltze8fmlB695i3bp8UX1CgzJ2x_cpJl9j1XT/s671/ha%CC%80ng%20xe%CC%81n.jpg">
Tiệm hàng xén

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeLOIsiPos3B1UWul1xcgpqNw4WfrvEZMELilJMjIwNZ4f96OZgX8Ln4ePczYJ-EhMgNYbw6mRmyH8C-ntCi-3chTiTwc92dYEWNF1whfIMvNrgalFMWbxx5lWHNNpw0SlcbX_lcxwCVGnSyrjlA3WlE4_lR7cJAyxFmCviNvAZ_2AXJCa8mQDAoGxvReX/s697/cha%CC%A3p%20ph%C3%B4.jpg">
Tiệm chạp phô
 

Cùng bán đồ "hằm bà lằng xí mấu" nhưng Nam Kỳ mình phân biệt rõ hai tiệm: “chạp phô” và "hàng xén".

Đây là hai tiệm bán đồ vật dụng khác nhau. 

1-Tiệm chạp phô là tiệm bán đồ ăn khô như bánh, kẹo, đồ dùng hàng ngày như: gạo, đường, nước mắm, nước tương, muối, bột ngọt, gia vị, mì gói, kim chỉ, dầu hôi, đèn hột vịt, đậu xanh, đậu phộng, la-ve, nước ngọt...

 

2-Tiệm hàng xén là tiệm hầu như không bán đồ ăn, họ bán nhiều về chén bát, nồi ơ soong chảo, siêu nồi sắc thuốc Bắc, dao, thớt, thùng đựng nước, lò dầu, chổi, tượng Phật, tượng Thần Tài, Ông Địa, Bồ Tát Quán Âm, vải bạt, kẽm buộc, ni lông...

Nói chung là kể ra sẽ không chính xác vì tiệm chạp phô có thể bán vài thứ món hàng của tiệm hàng xén nhưng tiệm hàng xén thì không bán đồ ăn của tiệm chạp phô.

Dân miền Nam, Sài Gòn Chợ Lớn cố cựu, ai mà hỏng biết đó mấy cái tiệm chạp phô hay hàng xén ở tận hang cùng ngõ hẻm các khu nhà bình dân, xòm người lao động...

*”Đường tương chao, đậu hũ dưa leo, ai chưa ăn chưa phải... là nghèo...!”

Những tiệm như vậy ở Sài Gòn, Chợ Lớn và khắp cả Lục Tỉnh miền Tây được gọi là tiệm “chạp phô”.

Thiệt ra hàng xén và chạp phô đều có tên tiếng Quảng Đông là hàng hoá đủ loại, tạp nham tùm lum tùm la...

Ngày xưa, mấy tiệm chạp phô và hàng xén trong xóm mà chủ là người Hoa nó luộm thuộm lắm, chứ không được như mấy tiệm tạp hóa bây giờ sạch sẽ ngăn nắp hơn nhiều...

Cái kiểu buôn bán của người Hoa, tính ra họ rất tâm lý và biết cách kinh doanh, vui vẻ, sẵn lòng bán thiếu những thứ nhỏ nhặt mà ta dùng thường ngày thiết thực như một "siêu thị" nhỏ. Đúng ra tiệm chạp phô có “ưu điểm” hơn siêu thị. Đố ai ra siêu thị và kiếm từng món nhỏ lẻ như mua 1 cây kim may, 1 cây đèn cầy, 1 cục đá lửa ống quẹt, 1 xấp giấy tiền vàng bạc hay 1 xị rượu đế, nửa lít nước mắm,...phải không bà con.

Hồi xưa, hễ ai cần gì cứ đến tiệm chạp phô, hàng xén của bà Sẩm, ông Chệt gì đó là có đủ, vài loại bánh của trẻ con, nước mắm, nước tương, xì dầu, hủ chao.. mà nước mắm, nước tương không phải chỉ bán tĩn, chai, nhà lỡ hết người lớn sai trẻ con xách cái chén đến mua năm cắc cũng được, cho đến mấy củ hành, vài củ cải mặn, cây xà bông màu xanh hiệu cây đờn, cục xà bông thơm Cô Ba... Cái gì để xài trong nhà cũng có. Ôi thôi hầm bà lằng, đủ hết thảy.

Còn đám con nít hễ thỉnh thoảng có ai cho năm cắc, một đồng là tụi nhỏ thường hay “phóng xe chân” ngay đến quán chạp phô này mua bánh liền, được đựng trong những cái keo bằng thủy tinh có nắp đậy gọi là cái “thẩu”.

 

Tiệm chạp phô, hàng xén đã trở thành dĩ vãng, nhưng có những lúc, hai tiếng thân thương bình dị đó lại kéo ta trở về thời con nít của thuở nào…!

 

Đinh Trực sưu tầm



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Aug/2023 lúc 7:58am

https://www.youtube.com/watch?v=tnLcvW-PafA&pp=ygU4S8O9IOG7qWMgbWnhu4FuIHF1w6ogSSBN4buZYyBt4bqhYyBjaGnhur9jIGx1IHF1w6ogbmjDoCA%3D -   <<<<<<

Hoài%20niệm%20chuyện%20cái%20lu,%20cái%20kiệu%20miền%20Tây%20sông%20nước




-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Aug/2023 lúc 10:54am

Tiệm hủ tiếu 70 tuổi mà vẫn Thanh Xuân, “thôi miên” người Sài Gòn bằng hương vị bí truyền

Đặc biệt quán Thanh Xuân vẫn còn giữ được phong cách ăn hủ tiếu khô kèm với bánh Paté Chaud (người Việt hay gọi là bánh pateso), đây là một loại bánh kiểu Pháp với hàng trăm lớp bánh mỏng, nóng và giòn bên ngoài, nhân bên trong thì gồm thịt băm, gan heo, hành tây, gia vị và một ít hạt tiêu.

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20"thôi%20miên"%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền

Những ngày Sài Gòn dày mây, trời dính cứng vào những chóp đỉnh của những tòa cao ốc, gió như bị nhốt, vây hãm bực bội, không chút mát mẻ dịu dàng. Không có lối ra nào của những tầm mắt thèm thấy một lằn ranh chân trời, làm cái quán này như lọt thỏm giữa bốn bức tường trống huơ, trống hoác. Cái quán như bị bỏ quên, như cái cách người ta hay làm tụi con nít khóc rộ khi vờ bỏ quên chúng lại lúc ra khỏi nhà, quên là một kiểu trừng phạt chỉ đứng sau dọa nạt, cũng là một kiểu “bức tử” những hàng quán kinh doanh…

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20"thôi%20miên"%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền

Vậy mà người đàn bà bận bộ bà ba đứng trong quán, có buồn, có hậm hực vì trời cứng đơ như hóa thạch, xém làm ý nghĩ của bà đóng vôi theo, vẫn thi thoảng xốc ý nghĩ của mình lên, thôi nhìn xa xăm để nhanh tay đảo cái nồi nước sốt đặc quéo, cho nó dậy mùi đều đặn, loang ra như cái cách những bà mẹ giữ gìn cái đầm ấm gia đình bằng cách nấu nướng.

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20“thôi%20miên”%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền%20-%20DacSanDay.net%20blog

Đúng rồi, tôi còn nhớ, chỗ bà đứng bây giờ, tại số 62 Tôn Thất Thiệp, Quận 1, rất nhiều năm về trước, là cái quán hủ tiếu Thanh Xuân vang danh sầm uất một thời. Nhanh quá, mới đây mà đã hơn 70 năm, thanh xuân đời người đi qua chỉ như là một cái chớp mắt, còn quán Thanh Xuân này vẫn nghiễm nhiên tồn tại làm mê lòng biết bao nhiêu thế hệ thị dân sành ăn Sài Gòn…

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20"thôi%20miên"%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền

Còn nhớ, ngày trước khi thế hệ ông bà tôi còn sống, đã kể về cái quán hủ tiếu Mỹ Tho tên Thanh Xuân này với những từ hoa mỹ để mô tả hương vị “thần thánh” của hủ tiếu khô với kiểu nước sốt bí truyền, và sự hào sảng của buổi sáng rất Sài Gòn khi ông nào ông nấy cũng dắt vợ con tới đây sà vô ăn tô hủ tiếu cho no bụng, rồi thủng thẳng đọc nhật trình, uống ly đen đá. Ngày cũ, quán hủ tiếu này có những đến hơn ba chục bàn, tràn ra phục vụ bữa sáng ngon lành cho tầng tầng lớp lớp thị dân chứ không le hoe vài bàn như bây giờ…

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20"thôi%20miên"%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền

Giai đoạn Sài Gòn tân thời hoa lệ với cuộc kinh thương ngoại quốc mà, thị phần của những món ăn dân dã như tô hủ tiếu này đã ít nhiều bị chiếm bớt, bởi món Tây, món Nhật… “Ai mà còn nhớ hả con, người ta quên rồi, như kiểu mấy đứa nhỏ hay nói là thanh xuân bị chôn vùi đó, nghĩ cũng buồn mà thôi cũng kệ, chứ giờ sao”, ba chữ “chứ giờ sao” kéo dài rồi nhỏ dần của người đàn bà với gương mặt phúc hậu ban nãy, kéo theo cái buồn y như một tuổi xuân bị vùi dập thật. Bà đang cố phân bua cho sự mai một của thương hiệu hủ tiếu được ông ngoại chồng gốc Mỹ Tho gầy dựng nên từ trước những năm 1946.


Bà tên là Võ Thị Tươi, sinh năm 1956, quê miền Tây, là vợ của chủ quán hủ tiếu này hiện nay, đồng thời cũng là người đứng bếp chính, hỗ trợ người con gái độc nhất buôn bán kế nghiệp những khi chồng đang lao đao vì bệnh tật. Bà nói, dù là nói tiếng giao cho con gái buôn bán rồi, mà cũng không yên tâm, sáng nào bà cũng dậy sớm để giúp con gái nêm nếm gia vị cho đúng chuẩn bí truyền, đồng thời chỉ bảo con gái thêm những cái chưa biết. Chiều thì bà cũng đứng nấu nước sốt đặc biệt để chuẩn bị cho sáng hôm sau bán luôn.

“Quán bán liên tục không ngừng nghỉ, dù ít dù nhiều, khách vẫn là khách, ai còn nhớ, ai mối manh lâu ngày cũng đáng trân trọng như nhau, nên dù thế nào bà cũng muốn cái quán Thanh Xuân này được giữ mãi và hương vị đều độc đáo như những ngày đầu” – bà Tươi nói.

Thật tình mà nói, bởi cái tâm của người bán như thế hỏi sao hai cái tên “Thanh Xuân” vẫn còn được nhắc đến là nơi lưu dấu mỹ vị thì son trẻ của biết bao thế hệ Sài Gòn mà chưa ai một lần chê trách. Hủ tiếu ở đây, 70 năm hơn vẫn vẹn nguyên hương vị như thuở ban đầu, 70 năm mà vẫn thanh xuân. Sợi hủ tiếu dai, nửa đục nửa trong dậy thơm mùi gạo mới, nằm gọn lỏn trong tô dù là phần nước hay phần khô đều không vón cục, nhão nhẹt cả ra như một số chỗ bán hủ tiếu như bây giờ. Nước lèo ngọt thanh được ninh từ mực khô và xương heo, thêm chút gia vị sao cho vừa vặn, thỏa lòng được cả những phạm trù vị giác khác nhau của nhiều chiếc lưỡi sành ăn khác nhau, người ăn mặn cũng như người ăn nhạt ai ai cũng tấm tắc khen sao mà bà chủ tài tình.

Loại nước sốt bí truyền dành riêng cho hủ tiếu khô có lẽ là thứ đáng kinh ngạc nhất, công thức chế biến công phu rắc rối đến mức những ai rành rọt về ẩm thực cũng khó lòng tìm ra. Họa may chỉ phân biệt được rằng trong đó có tương hột, cà chua, thịt băm và hàng chục gia vị, nguyên liệu khác cấu thành. Ăn một gắp hủ tiếu được trộn đều thứ sốt này, là nó tan ngay trong đầu lưỡi, ngập tràn khoang miệng hương vị của những buổi sáng Sài Gòn rất đẹp, thanh tao và nhã nhặn, đánh gục giác quan của cả những thực khách sành ăn khó tính nhất.

Ngoài ra, những nguyên liệu khác như tôm, lòng, thịt xá xíu thì lúc nào cũng tươi mới, lại săn chắc không bục vữa ra hay có mùi cũ như nguyên liệu để qua ngày. Rau giá lúc nào cũng xanh mướt, sạch sẽ, lạ và hay ho nữa là ở quán Thanh Xuân, hủ tiếu khô còn được trộn vào thêm ít bắp cải bào nhuyễn để ăn đỡ ngán, lại giòn giòn nhàn nhạt làm bước đệm, đẩy hương vị của sợi hủ tiếu và nước sốt bí truyền lên thêm một bậc.



Đặc biệt, ở quán Thanh Xuân, vẫn còn giữ được phong cách ăn hủ tiếu khô kèm với bánh Paté Chaud (người Việt hay gọi là bánh pateso), đây là một loại bánh kiểu Pháp với hàng trăm lớp bánh mỏng, nóng và giòn bên ngoài, nhân bên trong thì gồm thịt băm, gan heo, hành tây, gia vị và một ít hạt tiêu. Thoạt nghĩ đây sẽ là một cách ăn bất hợp lý, bởi bản thân Paté Chaud nhiều bột, mà hủ tiếu khô vốn ngon thì ngon nhưng khó nuốt, ăn cùng nhau sao chỉ tổ kéo cả hương và vị của cả hai đi 
xuống.

Tiệm%20hủ%20tiếu%2070%20tuổi%20mà%20vẫn%20Thanh%20Xuân,%20"thôi%20miên"%20người%20Sài%20Gòn%20bằng%20%20hương%20vị%20bí%20truyền


Ấy vậy mà thử đi, thử một lần để thấy, sự kết hợp này sẽ cho bạn cảm nhận được thêm một bậc mỹ vị khác của loại hủ tiếu khô nơi đây. Bánh giòn rụm, lại âm ấm tan ra ngay trong miệng, quyện vào những sợi hủ tiếu được bao bọc lớp sốt đặc sệt đa vị bên trên, làm nên một vũ khúc thật sự huy hoàng ngay trong khoang miệng mà tin chắc rằng có rất ít người từng trải qua trong đời.

Và thực chất, ăn hủ tiếu khô cùng bánh Paté Chaud không phải là cách biến tấu tân thời lạ miệng của quán Thanh Xuân, mà đây vốn là kiểu ăn phổ biến của giới công chức Sài Gòn ngày trước tại nhiều tiệm ăn nổi tiếng còn giữ tới tận bây giờ như hủ tiếu cá Nam Lợi trên đường Tôn Thất Đạm (Q1), bún suông Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực (Q1).



Quán Thanh Xuân là vậy, cố giữ nếp ăn xưa như cái thời thanh xuân của riêng mỗi người mà ai ai cũng muốn níu bỏ vào túi áo. Thậm chí, cái bảng hiệu nhuộm màu thời gian ít nhiều đã vàng vọt với tuổi đời cũng trên 70 năm với nét thủ tự đặc trưng của Sài Gòn ngày cũ, vẫn còn được vợ chồng bà chủ Tươi quyết tâm giữ mãi, mặc cho nhiều người đã ngỏ ý mua lại.

“Ờ thì thanh xuân mà, trôi qua nhanh lắm, giữ được cái gì thì giữ, chứ biết sao giờ…” – bà Tươi cứ vậy mà tiếp tục điệp khúc “chứ biết sao giờ” để thêm một lần phân bua cho nề nếp sống nhỏ nhẻ, giang rộng đôi tay bao bọc mà lưu giữ những thứ thuộc về cơ nghiệp gia đình, giữa lòng Sài Gòn hoa lệ biết bao năm nay. Nói rồi bà vẫn cứ ngó xa xăm…



Những khi chứng kiến bà Tươi ngó mông lung về phía xa xăm như tìm một lằn ranh chân trời đâu đó bị chắn ngang bẽ bàng bởi những tòa cao ốc như vậy, bình thường, tôi sẽ nghĩ chắc bà đang muốn tìm lại một thời thanh xuân của chính mình, vô tình đã trôi xa trong khoảng không vây hãm này. Nhưng có lẽ tôi đã lầm, thanh xuân của bà là ở đây, bao nhiêu năm nay bà đã cất nó sau hai vạt áo bà ba, trong cả tấm bảng hiệu úa vàng phía bên trên, hay trong cái nề nếp mà phận một người con dâu phải níu giữ cho gia đình chồng, hay thậm chí là trong từng cọng hủ tiếu bà đã chắt chiu kế nghiệp để rồi truyền lại cho cô con gái nhỏ.

Nhiều lúc nghĩ, có khi nào ăn hủ tiếu ở quán Thanh Xuân này, giống như chụp một bức ảnh trong một tiệm ảnh mang tên Thanh Xuân nào đó, trong một bộ phim nào đó, lâu rồi, người ta cũng sẽ quay trở về được thời thanh xuân của chính mình hay không? Tôi không biết nữa…

Theo Trí Thức Trẻ.





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Aug/2023 lúc 3:03pm

KHÓI LAM CHIỀU VƯƠN CHÁI BẾP

Khói%20lam%20chiều

Ở thôn quê, những buổi chiều thưa thớt nắng là lúc nhà nhà nấu cơm, Đó là lúc chái bếp sau nhà họ tỏa những làn khói màu lam vẩn vơ trong gió như quyến luyến mái ấm gia đình. Ai đi xa cũng không thể nào quên được hình ảnh thân thương ấy.






Nhà ở thôn quê đều được dựng lên bằng tre, gỗ vách và mái lá đều bằng lá dừa nước.

Đặc biệt, nhà nào cũng có gian nhà bếp phía sau gian nhà chính.

Gian bếp là nơi chất chứa nồi, niêu, xoong, chảo cùng nhiều gia vị cần thiết cho bữa cơm gia đình của những bà nội trợ.

Ở đó cũng là nơi người đàn bà đảm đang thỉnh thoảng tổ chức nấu bánh hoặc món ngon đặc biệt cho gia đình.

Những lúc như vậy, khói từ các bếp lò tỏa bay lên không trung, xuyên qua mái lá vờn vợn hòa cùng những đám mây trên trời. Cảnh tượng ấy lúc nào cũng đẹp. Nhưng đẹp nhất vẫn là vào những buổi chiều tà.

Hinh%20Anh%20Chieu%20Ta%20|%20Hình%20ảnh,%20Nhiếp%20ảnh,%20Hình







Những buổi chiều tà, khi vạt nắng cuối ngày thoi thóp tắt cuối chân trời thường in vào lòng người những nỗi ai hoài khó tả. Càng khó tả hơn nữa khi nhìn ngắm những vạt khói bếp vươn lên từ mái lá chái bếp sau nhà ai đó.

Bâng khuâng. Hoài cảm. Những xúc cảm không phải ai cũng có trong đời.

Những buổi chiều ấy in đậm trong tâm khảm bất cứ ai. Và người ta luôn nhớ về những buổi chiều vươn khói bếp sau chái nhà. Đứng bất cứ đâu, tựa lưng vào gốc cây ăn trái già cỗi, hoặc ngồi đong đưa trên cánh võng cột giữa hai thân cây, vừa hưởng ngọn gió mát vừa nhìn ngắm cảnh tượng khói bếp vươn lên mái lá đẹp đến nao lòng mà ở thành thị chẳng thể nào có dịp nhìn ngắm, thưởng lãm được.

Nhìn rồi nghiện. Cho nên, khi rời xa làng quê, khuất nẻo đường làng, mất bóng những mái nhà lá đơn sơ, lên thành phố, lòng họ vẫn luôn đoái hoài về chốn xưa, quê cũ. Và họ luôn vương vấn trong đầu óc vào những xế chiều về những vòng khói bếp vươn lên từ sau mái nhà tranh ai đó. Nhớ. Và nhớ. Không thể nào phai.






Cúc Tần





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Aug/2023 lúc 9:43am

https://www.youtube.com/watch?v=8z7MgpGYs0c&pp=ygU2VmlldCBOYW0gUXVlIEh1b25nIFRpbSBMYWkuIChWLiBIIC8gQcyJbmgpIC0gVMOizKNwIDEg -    <<<<<<


Viet%20Nam%20que%20huong%20tim%20lai.%20Tap%201%28toan%20tap%29%20Saigon,%20Hanoi,%20Huong%20son.%20-%20%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Aug/2023 lúc 10:57am
Có%20lối%20đi%20riêng,%20chủ%20thương%20hiệu%20mì%20Miliket%20lãi%20hơn%2060%20triệu/ngày

MILIKET: Một trong những hãng mì nổi tiếng, chứa đựng cả tuổi thơ vẫn còn đó tại Tp Thủ Đức...

Xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm Colusa thành lập năm 1972 với tên gọi Công ty Sản xuất chế biến mì ăn liền Safoco – Sài Gòn thực phẩm.

Sau 75 được đổi tên thành Công ty Cổ phần Lương thực Thực phẩm Colusa. Tiền thân của thương hiệu mì Miliket Colusa vẫn còn đó ở 1230 đường Kha Vạn Cân, phường Linh Trung Tp Thủ Đức, đến ngày nay.

Có thể : “Đây là số ít sản phẩm ăn sâu vào tiềm thức của người dân, miền nam trước kia", ngày còn nhỏ, mỗi lần nấu mì, tôi đều thắc mắc sao không có tôm như trên vỏ ? Mẹ ăn mất tôm của con rồi sao?.

Ai biết về gói mì giấy này thì là kỷ niệm thật nhất về tuổi thơ.

Sau này lớn lên hễ ăn lẩu thì sợi mì của hãng này mới thực sự gợi nhớ, đến giờ đi qua gặp hoài và gợi những kỷ niệm xưa nhọc nhằn vui vẻ vẫn còn.


Cre: Tôi là dân Thủ Đức FB







-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Aug/2023 lúc 10:59am
Xe ngựa trên lối xưa – hồn quê cũ

Xe%20thổ%20mộ%20ở%20Thuận%20An,%20Bình%20Dương
Đã từ lâu, chiếc xe thổ mộ đã gắn liền với những phiên chợ sáng chiều của người dân quê Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một.. Nó không những là phương tiện đi lại thuận tiện, mà với dáng vẻ độc đáo, chiếc xe đã tạo cho khung cảnh đồng quê Nam Bộ trở nên duyên dáng và có “hồn” hơn !

Xe thổ mộ là loại xe ngựa chở khách, có hai càng bằng gỗ, do một con ngựa kéo. Tại sao nó có tên là thổ mộ? Có người giải thích vì xe có mui cong nhỏ, trông giống cái gò mã nên được gọi là “thổ mộ”. Lại có người cho rằng, nó bắt đầu từ tên xe là “thảo mã”. Lâu ngày đọc trại ra thành “thổ mộ” (theo Paulus Của).

Lại có ý kiến giải thích nó có nguồn gốc từ chữ “Tombeau” của Pháp đọc trại thành thổ mộ; điều này, cụ Vương Hòng Sển trong cuốn “Tự Vị Tiếng Việt miền Nam” đã bác bỏ và cho biết rằng, người Pháp họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là tombeau cả mà gọi là Boîte d’allumettes (hộp quẹt), có lẽ vì cái hình dáng nhỏ nhắn của nó như cái hộp quẹt chăng?

Có thể ban đầu, khi người Pháp mới sang, họ dùng xe ngựa để kéo pháo. Giống ngựa họ đem từ châu Âu, châu Phi sang. Ngựa giống này cao to, có khả năng kéo nặng được. Lần lần, có nhiều con không thể kéo pháo được nữa, chúng bị dạt ra để kéo đồ vật lặt vặt, kể cả kéo cỏ cho những con kéo pháo ăn. Chính vì thế mà có tên xe là “thảo mã” (xe ngựa kéo cỏ), lâu ngày đọc thành thổ mộ?

Cho dù nó có nguồn gốc thế nào, thì cái tên thổ mộ đã được người dân Nam Bộ gọi đã khá lâu, ít nhất là vào thời điểm sau khi quân Pháp đến chiếm đóng Nam Kỳ.

Người đánh xe ngựa được gọi là “xà ích”, theo nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì “xà ích” là tiếng có nguồn gốc từ Philippines. Những người đánh xe ngựa (xà ích) vốn là những nông dân chất phác, phóng khoáng cởi mở. Họ nhanh chóng tiếp thu một phương tiện giao thông mới, cải tiến nó thành một loại xe chở khách có vóc dáng nhỏ, gọn, phù hợp với đường sá của nông thôn miền Nam.

Hình thức xe cũng khá thẩm mỹ. Tuy giản dị với mái vòm cong cong, nhỏ nhắn nhưng khi di chuyển trên đường làng thì trông rất hài hòa với những ụ rơm, lũy tre làng của phong cảnh đồng quê.

Để hành nghề xe ngựa, việc quan trọng nhất là phải biết chọn ngựa. Lựa chọn ngựa bắt đầu từ màu lông, xái ngựa, tuổi (xem răng), mõm (mõm nhọn kén ăn hơn mõm bằng). Sau đó là huấn luyện.

Việc huấn luyện ngựa do những vị cao tuổi học tập và truyền lại từ sách” Mã Kinh” của Tàu. Có người kỹ lưỡng hơn thì lại coi thêm mạng theo ngũ hành: mạng của người cần phải hợp với mạng của ngựa! Ví dụ: người mạng Thổ chọn ngựa ô; mạng Thủy chọn ngựa Kim (hoặc khứu) lông nâu nhạt; mạng Mộc chọn ngựa Kim than (ngựa trắng điểm đen); mạng Hỏa chọn ngựa Vang (lông đỏ ). Thời trước, xe thổ mộ
cũng hoạt động theo luật định.

Ai muốn hành nghề xà ích đều phải qua một cuộc thi khảo hạch để nhà chức trách cấp bằng chứng nhận. Người lái xe phải đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, trước khi thi phải thuộc 36 ký hiệu giao thông trên đường y như thi lái xe bây giờ vậy. Bởi vì lúc đó, xe thổ mộ chẳng những chở khách xuôi ngược ở các vùng nông thôn ngoại thành, mà nó còn chở hàng hóa và khách vào tận các chợ Bến Thành, Cầu Muối…

Vì thế, người xà ích phải hiểu biết luật giao thông đường bộ và có tay nghề cao để bảo đảm an toàn giao thông. Trên xe phải có chuông, nút ấn chuông được đặt bên cạnh chỗ ngồi của người xà ích. Xe chạy khi trời tối phải có đèn lái ở hai bên, hai cái đèn có hình dáng là hai cánh tay người cầm hai chân đèn. Quy định này do người Pháp đặt ra. Đèn được đốt cháy bằng khí đá, nó chẳng soi sáng được bao nhiêu,
cốt để cho người đi đường thấy có xe ngựa mà tránh!

Dưới gầm xe phải có bao đựng phân ngựa, không để ngựa phóng uế bừa bãi ra công lộ. Xe ngựa nào không thực hiện đủ những quy định trên sẽ bị “phú lít” xử phạt ngay. Xem thế ta thấy xe ngựa ngày xưa cũng khá văn minh!

Có người nói rằng, lúc trước xe ngựa khi chạy trong thành thị thì xà ích che đi một phần cặp mắt của ngựa, chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ 2 đến 3 mét; mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tâm mà chạy “lạc hướng” dễ gây tai nạn.

Mỗi xe thổ mộ được trang bị một “bộ nhíp” giảm xóc. Tất cả các loại xe như xe bò, xe ngựa kéo, xe lừa của ta từ trước đó chưa hề biết đến cái nhíp giảm xóc bao giờ.

Cùng với sự tồn tại của chiếc xe ngựa là những nghề phụ thuộc theo nó như: nghề xén tóc và xén lông cho ngựa, nghề đóng móng sắt ngựa, nghề đóng thùng xe… Nghề đóng móng sắt do người châu Âu du nhập vào. Ngựa xứ ta trước đó chưa hề đóng móng sắt.

Thời gian khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở vùng Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một có hơn 1000 chiếc xe thổ mộ. Có lẽ nó là phương tiện di chuyển công cộng trên bộ đầu tiên ở nước ta, sau đó mới đến các loại phương tiện khác. Cũng như nhiều nghề khác, nghề xà ích cũng có tính cha truyền con nối . Ở khu Tân Định xưa, có con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, đó là đường xe thổ mộ chạy. Xe thổ mộ cũng có bến như xe buýt hiện nay.

Ngoài ra, ở khu vực kênh Nhiêu Lộc (khu vực gần chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay) có một khu vực gọi “Bến tắm ngựa”, đây là nơi xà ích thường cho ngựa xuống tắm mát nghỉ ngơi sau thời gian dài rong ruổi mệt nhọc trên các ngã đường.

Đối với người dân Sài Gòn-Gia Định và các vùng lân cận, những chiếc xe mui vòm khum cong như những nấm mộ xuôi ngược trên những con đường đất đỏ, (sau được rải đá rồi tráng nhựa); với hình ảnh những chú ngựa nhỏ con, gõ móng lốp cốp trên mặt đường nhựa, cùng với nhạc cổ leng keng ngày trước là một phương tiện chuyên chở rất gần gũi và thân thiện, nhất là đối với bạn hàng các chợ và người bình dân đi lại từ nơi này sang nơi khác.

Trong những ngày giáp Tết, xe thổ mộ càng đẹp và rực rỡ hơn vì rực vàng hoa vạn thọ, hoa huệ, cúc… từ các vùng Gò Vấp, Bà Điểm đổ vào bán ở các chợ nội thành.

Xe%20thổ%20mộ%20ở%20Thuận%20An,%20Bình%20Dương

Mỗi cổ xe thổ mộ đang chạy như là một bản hợp tấu giàu âm điệu. Âm điệu nền là tiếng vó ngựa lộc cộc giòn giã nện xuống đường.Tiếng khua lốc cốc của cây ví (thanh thép nằm giữa trục bánh xe). Tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng “cốc keng” ngân vang mà rời rạc từ cái chuông xe. Và cuối cùng là lâu lâu lại trỗi lên tiếng hý dài của con tuấn mã sung mãn đầy sinh lực! Tất cả như một bức họa mỹ thuật toát lên nhiều âm thanh của một bản hòa tấu sinh động, và bức họa đó đã thực sự đi vào dĩ vãng, đi vào lịch sử một vùng quê xưa…

Tôn Thất Thọ
Đáng Nhớ




-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Aug/2023 lúc 3:14pm
Phà Thủ Thiêm

SAIGON%201969%20-%20Bến%20phà%20Thủ%20Thiêm%20|%20source:%20www.flickr.com/pho…%20|%20Flickr''


Lời%20chào%20phà%20Thủ%20Thiêm%20-%20Tuổi%20Trẻ%20Online


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Aug/2023 lúc 10:24am
https://huongduongtxd.com/hocontrua.pdf - Xem Thêm: https://huongduongtxd.com/hoconruaosaigon.pdf - Hồ Con Rùa tại Saigon <<<<<<

Hồ%20Con%20Rùa

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Sep/2023 lúc 8:52am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/09/sai-gon-nam-xua-vuong-hoai-uyen.html - Sài Gòn Năm Xưa 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhmnKX4XU7mE72wm1U5f87_3kVsyfWcCCF4UarMH6tF5sXSedPy6ZjuFJJ4RZ0acAUq9EjxCrWvUWA0lqd67ketV3ZBtDAzxaS5aa9IL027Yso6w84oAgol8-s5JeZup_lP2-_I3XAWwqKjnAs-WUPtm-kGzyTzoAhzHvJXFHl5UohjnE7uQRlUAHh3qyT6/s640/1692222728157blob.jpg">

Đầu thập niên 70, tôi bước chân vào giảng đường đại học. Từ miền Trung vào, Sài Gòn đối với tôi như một miền đất hứa vừa hấp dẫn, vừa hứa hẹn những điều mới lạ.

Hồi đó, đậu được mảnh bằng tú tài toàn phần cũng khó như thi đậu vào một trường đại học lớn bây giờ. Cả lớp 60 học sinh chỉ đậu có sáu đứa. Chín mươi phần trăm phải thi lại vào kỳ hai. Ở một thành phố nhỏ của miền Trung như quê tôi, con gái đỗ tú tài toàn phần có thể đếm trên đầu ngón tay.

Vào đến thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, tôi thấy cái gì cũng lạ lẫm. Từ những tòa nhà cao tầng, đến những con đường xe cộ tấp nập, đến những cô gái Sài Gòn ăn mặc theo mốt Hippy (1), rồi áo dài tay Raglan, mini jupe…

Ngày Văn Khoa khai giảng, số lượng sinh viên đông đến mức chóng mặt. Nữ sinh viên thì quá nhiều cô đẹp, cô nào cũng ăn diện ngất trời như đi dạ hội.

Sau này, tôi còn biết Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũng là nơi nhiều ca sỹ nổi tiếng thời đó đang theo học như Hoàng Oanh, Thanh Lan, Từ Dung… Và các nhạc sỹ như Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng… thỉnh thoảng vẫn thấy xuất hiện tại đây.

Ngay cả khí hậu Sài Gòn hồi đó cũng là một điều lạ lẫm. Những năm tháng đó chưa có biến đổi khí hậu như bây giờ. Trời nắng nóng quanh năm, thỉnh thoảng vào mùa Hè có những cơn mưa giông đến thật nhanh, thật ào ạt. Người đi đường chỉ cần tạt vào một mái hiên đứng trú mưa khoảng ba, bốn phút là cơn mưa dứt hẳn. Và nắng lại bừng lên chói chang gay gắt như chưa từng có cơn mưa bao giờ.

Mưa Sài Gòn khác hẳn với mưa miền Trung. Ngoài đó, mùa mưa kéo dài lê thê hết ngày nọ đến ngày kia, có khi kéo dài cả mươi ngày, tuần lễ là chuyện thường. Đi học hầu như lúc nào cũng mang áo mưa, hai vạt áo dài trắng bao giờ cũng gấp lên, hai ống quần trắng bao giờ cũng buộc túm bằng hai sợi dây thun, nếu không muốn bị dính đầy bùn nước. Mùa lạnh, đi học sớm hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, hai bàn tay tê cóng thu trong tà áo dài.

Vào Sài Gòn quanh năm không cần có áo mưa, cũng không cần mặc áo lạnh, tôi thấy hành trang đi học của mình đơn giản hơn nhiều. Và những người bạn Sài Gòn học cùng giảng đường cho tôi cảm nhận tính cách người Nam hồn hậu tự nhiên, ít rào đón như người miền Trung. Có khi họ giành chỗ cho bạn nhưng bạn chưa đến, họ vui vẻ vẫy tôi đến ngồi vào chỗ, khi thấy tôi đi trễ phải trải giấy dưới nền mà ngồi – chuyện thường ngày ở những giảng đường đông đúc như Văn Khoa Sài Gòn.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMLYB6tJcaWULVby0ir1v249Qnq7O_UzBo5Hb4lM9EzAqUqoPMSG-_zkWK6Ehjm-arz7AzEPN_NwbSmM122JCebFG4sDmW8MJn5_NYDalyg6rgLoK5wffmG6WVFq_E_jixVAe_nMfth8Ty6ITw8YR_9RD1kJJVCXK4Qu5PDFCbEAzkfvvxsNPc3WuUQ0Xs/s1000/v%C4%83n%20khoa.jpg">
Ngày Văn Khoa khai giảng, số lượng sinh viên đông đến mức chóng mặt… (Hình: Khoa Văn Học)

 

Nhà trọ cách trường không xa lắm, nên hàng ngày đi học tôi vẫn đi bộ. Hôm nào cũng đi qua cầu Phan Thanh Giản, (2) để đến trường. Những hôm có thời khóa biểu học cả ngày, tôi mua một ổ bánh mì, một chai nước. Buổi trưa, bạn bè ở lại giảng đường khá đông, người nào cũng gặm bánh mì, nói chuyện rôm rả, rồi ngả lưng xuống ghế giảng đường. Trước giờ vào học không quên rãi sách vở ở các dãy ghế có tay quay để dành chỗ cho bạn.

Hồi đó, không hiểu sao khu trung tâm Sài Gòn có một sức hấp dẫn kỳ lạ đối với tôi. Từ Đại Học Văn Khoa ở đường Đinh Tiên Hoàng, tôi đi bộ xuống chợ Bến Thành, lang thang qua những con đường như Lê Thánh Tôn, Nguyễn Huệ. Lê Lợi… như thể phải đến đấy mới thấy được linh hồn Sài Gòn.

Đến trung tâm Sài Gòn, thế nào tôi cũng ghé vào nhà sách Khai Trí để thấy cả một thế giới tri thức của con người Đông Tây kim cổ. Không có tiền mua thì tôi coi… cọp. Rồi sà vào những đống hàng hóa bán solde (3) đổ đống ven lề đường với vải vóc. giày dép… Túi tiền sinh viên chỉ cho phép tôi mua những món hàng như thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi ngạc nhiên không hiểu sao ngày xưa mình lại có thể đi bộ khỏe thế. Có lẽ vì vui nên không thấy đường dài.

Một lần vào ngày Chủ Nhật, tôi đi xe Velo- Solex lên nhà một người chị ruột ở đường Lê Đại Hành. Lúc đi ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (4), do mất bình tĩnh khi tránh một người đi bộ ngang qua đường, tôi bị té xe ngã giữa đường, bị một vết thương rách da ở cằm. Mấy người dân sống ở gần đó chạy đến đưa dầu cho tôi thoa. Đau thì ít, sợ thì nhiều, tôi hoảng hốt chẳng biết phải làm gì.

Hồi đó, đâu có điện thoại để gọi người thân như bây giờ. Lúc đó, một anh thanh niên đi xe Honda dừng xe đỡ tôi dậy. Anh bảo tôi gởi tạm chiếc xe Velo cho một thanh niên đang ngồi sửa xe đạp ven đường trước Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, để anh chở tôi đến bệnh viện may vết thương ở cằm. Tôi đã gởi xe cho anh thanh niên không hề quen biết này, mà không hề có chút nghi ngại để cho anh thanh niên kia chở đến bệnh viện.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjD9NZI4wFwdSc-rB4f2lVOimEpZZISzqkB2KNOQw9gG6GYQ_5NkW0ITny_Kxibfi5gVjhT5UwXqbPbodobWEltqVxniRl1X6Ea1RMnaAA9fHKvhQp2pgOd8U5LmSASjJ9PhdskZdU4wPXSkQqzT9t_oWrW_axudTRd0pihvVJlmOqzKPnPeWaMebavthp1/s1000/velo%20solex.jpg">
Chủ Nhật, tôi đi xe Velo- Solex lên nhà một người chị ruột. (Hình minh hoạ: Ngo-Quyen.org) 

Vị bác sĩ vừa may vết thương ở cằm tôi, vừa nói: “Em mà không may chỗ vết thương này thì sẽ trở thành một cái sẹo to đấy.”

May xong vết thương, anh thanh niên tốt bụng kia lại chở tôi về chỗ cũ. Từ xa, tôi đã thấy chiếc xe Velo – Solex của tôi vẫn dựng bên đường.

Tôi cảm ơn hai người thanh niên không quen biết kia và nghĩ sao Sài Gòn lại có nhiều người tốt như vậy. Nếu là người gian, anh thanh niên kia có thể thu dọn đồ nghề rồi mang luôn chiếc xe của tôi đi thì ai biết đâu mà tìm. Hình ảnh hai con người tốt bụng đó vẫn mãi mãi ở trong ký ức tôi với lòng cảm mến và biết ơn sâu sắc.

Sau này, trải qua bao nhiêu năm, có dịp vào Sài Gòn đi ngang qua con đường Trần Quốc Toản, ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (5) năm xưa, tôi vẫn nhớ về chuyện xưa với một chút ngậm ngùi dâu bể.

Bây giờ – mấy chục năm sau – khi đã sống định cư ở thành phố Sài Gòn, có dịp chứng kiến cảnh cướp giật, hôi của ngoài đường mỗi khi có tai nạn xảy ra, hoặc sự vô cảm, thờ ơ của người Sài Gòn mỗi khi có tai nạn thương tâm ngoài đường, tôi lại bồi hồi nhớ lại hình ảnh Sài Gòn năm xưa cách đây năm mươi năm, hơn nửa thế kỷ.

Mức độ văn minh hiện đại của cuộc sống tỷ lệ nghịch với sự băng hoại của thế thái nhân tình! Hai người thanh niên tốt bụng ngày xưa bây giờ làm gì? Ở đâu? Còn sống hay đã chết? Nếu còn sống, họ đã là những ông già trên dưới tám mươi tuổi.

“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Vũ Đình Liên)

Trong lòng tôi, họ mãi mãi vẫn là biểu tượng cho một Sài Gòn nhân hậu năm xưa.


Vương Hoài Uyên

(1) Mốt HIPPY: Mốt thịnh hành vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70.

(2) Cầu Phan Thanh Giản: Bây giờ là cầu Điện Biên Phủ.
(3) Bán solde: Bán hạ giá, từ thông dụng hồi đó.
(4) Đường Trần Quốc Toản: bây giờ là đường 3 Tháng Hai.
(5) Học Viện Quốc Gia Hành Chánh: bây giờ là Học Viện Hành Chánh Quốc


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Sep/2023 lúc 9:01am

https://huongduongtxd.com/grall.pdf -     https://www.youtube.com/watch?v=m8jRHAgEQAE - - < - < - <



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Oct/2023 lúc 9:18am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/10/sai-gon-song-thao.html - Sài Gòn 

  https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfUzGeD1BRU35ZsuwNIEgkDeOET-NwGEIkoVantQR5qj6itklE2mn8mWqg6S1--6-yQkTHGuzmoPzLMxoI5leBRAVs-UrolXekO2uhYYin80TeJ5SY2jrE3IUZdV6FujvvwYndYnYs1egw_fpHszcvZuIzyVSR22kp-gLla17I-CWPHKistcleUm2kLBUR/s714/th%C3%A2%CC%80y%20ky%CC%81.jpg">

Tôi sống ở Sài Gòn 20 năm và xa Sài Gòn đã 30 năm. Mỗi khi nhớ tới quê nhà, Sài Gòn vẫn như một đốm sáng không bao giờ tắt. Có lẽ vào độ tuổi thanh niên, độ tuổi mà cuộc sống mãnh liệt nhất, tôi đã gắn bó với Sài Gòn. Biết bao chuyện để nhớ. Nhất là vào thời điểm tháng tư.

Tôi không xa Sài Gòn vào tháng 4 năm đó. Không một toan tính nào trong rất nhiều toan tính được hanh thông. Ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài Gòn, tôi vẫn còn nguyên tại nhà. Nhà tôi ở Thị Nghè, một trong những mũi tiến công của địch quân. Chín năm trước đây, năm 2005, khi tờ Việt Mercury ở San Jose ra số đặc biệt 30 năm nhìn lại ngày mất Sài Gòn, Nguyễn Xuân Hoàng có hú tôi viết bài cho anh. Ngày đó, tôi đã ôn lại giờ phút Sài Gòn bị dày vò. “Tiếng chân người, tiếng nói xôn xao từ ngoài đường vọng vào ầm ĩ. Tôi chẳng buồn nhìn ra ngoài. Chiếc cổng sắt im lìm bỗng có tiếng gõ mạnh. Tôi mở chiếc lỗ nhỏ trên cánh cửa kín mít nhìn ra. La Phương! Tôi vội vàng mở cửa. Người ký giả kỳ cựu của làng báo Sài Gòn uể oải bước vào. Chẳng ai buồn nói. Chỉ mới mấy bữa trước La Phương còn lạc quan vào một giải pháp trung lập. Cuộc chiến có trên 20 năm tuổi sẽ được kết thúc bằng một giải pháp có thể chấp nhận được cho cả hai phía. Người cựu ký giả của hãng thông tấn Pháp AFP có liên hệ nhiều với người Pháp đã khẳng định một cách lạc quan như vậy. Tình hình chính trị mấy ngày qua như càng ngày càng xấu đi. Ba Tổng Thống trong vài ngày là một chỉ dấu không tốt đẹp gì. Hy vọng đặt cả vào một Dương Văn Minh được lòng nhiều phe phái. La Phương nhún vai, lắc đầu. Moa cũng không hiểu sao nữa! Ngồi một lúc, La Phương ngơ ngẩn ra về…Nghe thấy tiếng xe tăng chạy ngoài đường, tôi vội ra coi thử xem sao. Hai chiếc đầy nhóc lính cộng sản đứng giương cao lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phần phật bay theo gió đang tiến vào Saigon theo đường Hùng Vương dẫn tới cầu Thị Nghè. Bỗng tôi nghe thấy tiếng súng ở phía cầu. Mọi người nhốn nháo. Những thanh niên đeo băng đỏ, mặt đằng đằng, chạy tới chạy lui. Khu chợ đồ Mỹ tự phát bên lề đường như đàn kiến bị phá vỡ tổ. Chỉ một lúc, đâu lại vào đấy. Người ta kháo nhau về mấy tiếng súng vừa qua. Lính giữ cầu đã nổ súng vào đoàn xe và bộ đội trên xe đã bắn lại. Xác chết còn nằm trên cầu. Những người đi coi về kể lại như kể về một chuyện xảy ra trên màn ảnh. Tôi đứng nhìn khu chợ càng ngày càng phình ra. Họ bán những đồ Mỹ hôi được bằng cách phá kho Tân Cảng ở gần đó. Đồ dùng hằng hà sa số đủ thứ. Bàn ghế, dụng cụ văn phòng, máy lạnh, quạt máy, kem đánh răng, sữa bột, bánh kẹo, đồ chơi, đồ nhà bếp… Giá cả rẻ rề. Chỉ mấy ngày trước giá đồ Mỹ còn vắt vẻo trên cao, chẳng phải ai cũng mua được. Bây giờ đồ Mỹ lê la dưới đường, giá cũng sát sạt dưới đường. Người mua kẻ bán bận bịu như không hề biết là họ đang bị kéo đi theo một khúc quanh của lịch sử. Khúc quanh gắt dữ dằn”.

Đời tôi cũng quanh theo khi vào giữa tháng 5, tôi xách chiếc túi nhỏ tới trường Trưng Vương trình diện đi “học tập cải tạo”. Đó là lần thứ nhất tôi xa Sài Gòn. Chẳng kịp nhỏ được một giọt nước mắt. Cải tạo (sic) về, chúng tôi như những con kiến bị vây khổn, chỉ tính đường thoát đi xa. Mãi tới mười năm sau, tôi mới thực sự xa Sài Gòn. Lần này tôi mới có nước mắt, không biết là nước mắt vui hay buồn!


Sài Gòn đến với tôi trước khi tôi tới Sài Gòn. Cuối thập niên 1940, ông anh họ con một ông bác tôi, từ Sài Gòn ra Hà Nội chơi. Anh em tôi cứ ngơ ngẩn khi nghe ông anh nói tiếng Sài Gòn trong lúc chơi đùa với nhau. “Tìm” được ông anh Sài Gòn nói là “kiếm” khi chúng tôi chơi trò trốn tìm. “Được” lại gọi là “đặng”. “Thằng ấy” thành “thẳng”. Và tiếng “ủa” ông anh tôi thốt ra thường xuyên khiến chúng tôi cười ngất. Ngày đầu ở Sài Gòn, thấy một đám cãi nhau ngay trước cửa nhà ở đường Lê Thánh Tôn, gần chợ Bến Thành, tôi chạy ra coi. Hai bà buôn bán la lối, xỉa xói kịch liệt. Tôi dỏng tai ra nghe. Những âm thanh lạ lùng hình như không phải là tiếng Việt. Khi trở vào nhà, ông bác tôi hỏi mấy người đó gây nhau chuyện chi vậy, tôi ngây ngô trả lời: “Cháu chẳng hiểu họ nói gì!”. Ông bác tôi cười ngất thằng cháu Bắc Kỳ di cư ngồ ngộ! Mới nghe thì thấy giọng Sài Gòn cũng ngồ ngộ. Cái giọng như một thứ trái cây chín nẫu, nhẽo nhẹt nhưng thơm ngọt tình thân. Ông Hải Phan có những phân tích kỹ lưỡng về cái giọng Sài Gòn: “Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang, sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu... Người miền khác có thích hay khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dzìa nghen!” . Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dzìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!”. “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên lên tiếng “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” . Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà, “coi dzậy mà hổng phải dzậy”.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQq4s-y3vX-ZuA3eBxCMBtaS6BjDwE-aqUwbXiszub_lZF1TO6tUKLC5q8Nktsckhe6x2CF4hlUGO_6yD1mA13nlRnGdDkEHr9XxlGuJXlNWbQxm8GLBUeWllOLF3Y-NzLOuGLoW7KlzhfYTwmfX6GsAa6hHZyZuLaMhK3aYPAwGTl69Igw19zaMjOP0Ep/s1024/vespa.png">

Sống lâu với Sài gòn, đã quen với cái giọng Sài Gòn, thấy dễ thương chi lạ. Nhất là nghe người con gái Sài Gòn thủ thỉ tiếng Sài Gòn. Những đứa trẻ di cư năm 1954 đó, sống với Sài Gòn, chơi với bạn bè Sài Gòn, lớn lên bồ với con gái Sài Gòn, thấy giọng Sài Gòn nghe rất hợp với những thủ thỉ tâm tình. Nhiều ông bạn Bắc Kỳ di cư của tôi chỉ vì một cái giọng mà rước về nguyên một con người. Ông M.Q.H. diễn tả sự khác biệt này bằng một hình ảnh: “Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ổi đào Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ổi sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt, nghe qua là chảy nước miếng. Con gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là…chảy nước miếng!”.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjmvaatxTL0F2l_5JIju9EQS4xdV4zMwKuogwTFWiryCpgk9Dtk0l0FOqMqGvTOa-F0BzAtKOdqiRGwxEiajUoF238mfMUUw61JzU6CGNW6B4CVcVFbSCPqBm9FgvmuKuhoaDSS1GvFqt9e9ze1fiTR4pkzkc_IXn5SSuyE2tFGaFa3tXnVIQq886qBjdjA/s600/b%C6%B0u%20%C4%91i%C3%AA%CC%A3n.png">

Sài Gòn dần dần thân tình, thấm vào máu, nằm trong tim của lũ chúng tôi. Vậy nên tới bây giờ, nhớ về quê hương, chỉ nhớ tới Sài Gòn. Tôi đã bao lần định trách khéo ông Du Tử Lê đã làm chết tim tôi khi nghe bản nhạc “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn” được phổ từ thơ của ổng. Vậy mà bao lần gặp ông, khi ở Cali, khi ở Montreal, tôi chẳng thốt ra lời được. Những địa danh Thị Nghè, Xa Lộ, Hàng Xanh làm tôi chết điếng nỗi nhớ nhà.

ngỡ hồn tu xứ mưa bay

tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa

đêm về trên bánh xe qua

nhớ em Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh

nhớ em kim chỉ khíu tình 

trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre

nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè

nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do

nhớ nghĩa trang: quê bạn bè

nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường

đêm về trên vết xe lăn

tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào? 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2--tJerJup2EihT7QTcPBSz8435m6SKn39KfcU0-kqet-68C4y5jlrLPaVtA0WRHxrvd-at6-uSmJnNeBcHOLhP4-qXp-FwC9poCFX5m8ajEA4OFWA3AgFVB-Nl6j9ppjRIki5icXHXWr01G-Lt1EzFGEmfD3RHLv_CHsYwMVsnZXsAfwyJ6oy7LH_VO1/s500/hotel.png">

Sài Gòn, cái nôi của tuổi mới lớn, là những chói chang trong mỗi chúng tôi. Tuổi trẻ chúng tôi ở đó. Tình yêu đầu của chúng tôi ở đó. Mảng đời tươi vui nhất của chúng tôi ở đó. Dễ gì quên được. Nhà văn Lý Thụy Ý cũng không bao giờ quên: “Sài Gòn của một thời tôi mới lớn, những “con đường tình ta đi” Duy Tân, Trần Quý Cáp, Tú Xương, Công Lý. Những chiều bát phố Lê Lợi, Tự Do. Những rạp ciné. Món bánh tôm hẻm Casino. Những xe bò viên Nguyễn Thiện Thuật. Bánh mì thịt trước chợ Trương Minh Giảng, gỏi đu đủ - khô bò - nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur)…Sài Gòn của tôi “sáng nắng chiều mưa”. Mưa như được lập trình sẵn. Hoặc chiều hoặc sáng, có khi… cùng giờ nên người Sài Gòn có thể nhởn nhơ bát phố khi “cơn mưa qua”, rất ít khi mưa như… đòi nợ! Nắng Sài Gòn không quá gắt. Có lẽ nhờ thế nên mới chợt mát chỉ qua màu áo lụa Hà Đông. Sài Gòn của tôi có những ngôi trường đi vào thơ và nhạc như Văn Khoa, Luật, Gia Long, Trưng Vương, những con đường địa chỉ báo như Lê Lai, Phạm Ngũ Lão… Hồn đất và hồn người quyện nhau hồn hậu, chân tình…Sài Gòn của tôi trẻ - luôn luôn trẻ. Không phải vì thiếu phố cổ hay người Sài Gòn không thích “ra vẻ cụ” mà vì Sài Gòn luôn luôn mới, hồn nhiên và dễ thương, không điệu đà, kệch cỡm. Sài Gòn của tôi còn nhiều hơn thế. Không diễn tả hết dù văn hoa cách mấy. Không lớn lao gì, kỷ niệm chỉ chứa đầy ngăn cặp học trò. Sự ồn ào sống động, dễ thương của vùng đất và con người. Đi xa, cứ về đến cầu Sài Gòn hay cầu Bình Điền là coi như đến nhà. Như bạn bè cùng trang lứa, tôi giữ Sài Gòn như giữ chính cuộc đời mình. Khóc một ngày khi thương xá Tam Đa bị thiêu rụi. Thức một đêm khi Eden bị đập bỏ”.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhjQYNhcuX-wo0SqtJC1pEQvhpX5ReepNZ3hXw03kr0JIgJlPAUT7V8Novip2gWFSszjfOkR2EHHBbjMhLd8_SW-9ezMenMINfPMLolwC7dukTGQKC0JOZJfi0eV0bIaUiRrv4c7Lo1cZtwf--wywnaBijJvi5FoLNQugiRUVulw-lQbEPyePnmUnic-TXj/s640/taxi.png">

Sài Gòn ngày nay đang bị cắt lìa khỏi quá khứ. Những thương xá Tam Đa, hành lang Eden, đường Tự Do còn níu chăng những bước chân bát phố của chúng tôi một thời hoa mộng. Những Pagode, Brodard, Givral ngày xưa nay đã bị cày nát, mất máu. Có một lần, về với Sài Gòn, ngồi lại với bạn bè còn lại tại Givral, tôi đã như được sống lại thời xưa cũ. Nếu cần khóc, chắc tôi cũng khóc được, nhưng ngày đó tôi chỉ lâng lâng như một thời quá khứ bỗng vụt dậy, khẽ lay vai tôi, ấn chìm hồn tôi xuống. Givral nay không còn nữa. Ngày nghe tin Givral bị khai tử cùng với hành làng Eden, nhà sách Xuân Thu, tôi đã lặng đi. Bạn bè cũ ngày đó, nay biền biệt. Nhà thơ Đỗ Trung Quân tiếc nuối. “Givral khai trương đồng thời với tòa nhà Vincom Center. Nó vẫn nằm ở vị trí cũ. Nhưng, tất nhiên, nó không còn như cũ. Một Givral mới với một lịch sử đi qua quá sâu đậm với người Sài Gòn. Những ai nặng hoài niệm một không gian ấm cúng kiểu Tây hẳn sẽ hoàn toàn lạ lẫm với Givral hôm nay, kiến trúc tổng thể của khối nhà Vincom pha trộn kiến trúc Á- Âu, nó phảng phất đường nét của kiến trúc đâu đó trên đảo quốc Singapore. Givral mới cũng xóa hẳn phong cách kiểu Pháp đã có hơn nửa thế kỷ của nó. Giờ đây, dù lộng lẫy, nó chỉ như một quán cà phê hộp có bán bánh ngọt. Thế thôi! Hóa ra muốn làm văn hóa, hay tìm lại một không gian mà lịch sử tình cờ để lại nơi đây, không dễ dàng chút nào. Nó đòi hỏi những người tiếp quản, và tiếp tục nó cần nhiều điều hơn chỉ là nơi “xơi bánh ngọt – uống cà phê”.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhN48HWEjM0AIQf-vus-jXFsCqRjw3OvwlivG8GOaKC-UPSulwN5ZrBWBkGrLxPRE_z7BjioGEliMnR7tgxdS1X_ZF7MOQs8-Z8xGU4n6nlVhCpm8wjr29cACmw83ih-pDv7ywyKl5EXsQx6FENaMhVUshDxeqHR7AwOMIUzfqkHNOyulcTsgEx_3EVjo9/s281/xi%CC%81ch%20l%C3%B4%20ma%CC%81y.png">

Sài Gòn đã mất dấu. Lâu lắm tôi không về lại Sài Gòn. Song thân tôi đã lần lượt theo nhau đi trong hai năm liền. Đó là hai lần cuối cùng tôi về lại Sài Gòn, để sống những giờ phút buồn bã của chia lìa. Cũng đã trên chục năm. Ngày đó, Sài Gòn mới chỉ mất quán Cái Chùa. Nhìn trên mạng internet thấy những hình ảnh diêm dúa của Sài Gòn ngày nay, tôi thấy hụt hẫng. Trát son trát phấn, Sài Gòn như xa lìa chính mình. Không còn là Sài Gòn của chúng tôi. Ông Nguyễn Hậu, một người mới từ Bắc vào Sài Gòn, cũng thấy tiếc Sài Gòn xưa, Sài Gòn thời đích thực là Sài Gòn. “Sài Gòn xưa thật đẹp, văn minh và thanh bình với những con người hiền lành, mộ đạo. Nếu không có những bức ảnh tư liệu mà mỗi ngày càng được người ta chia sẻ càng nhiều, không có hàng ngàn những bản thu âm trước 1975 về dòng nhạc trữ tình Sài Gòn đã một thời lên tới đỉnh cao của văn hóa/ nghệ thuật, rồi các kiệt tác văn chương…, những người sau này ắt hẳn chẳng bao giờ tin vào điều đó – Hòn ngọc Viễn Đông – vì sách giáo khoa không nói như vậy. Tôi đến với mảnh đất này với tâm thế của một người hiền lành và tôi cũng nhanh chóng nhận ra mình chưa đủ tử tế và hiền như Sài Gòn. Tôi tri ân Sài Gòn như đất mẹ thứ hai đã cho tôi biết bao điều tốt đẹp, đã dung dưỡng và trao cho tôi những điều thật tử tế. Tôi đến và ở lại Sài Gòn không chỉ vì mưu sinh, một ước mơ ngông cuồng nữa, mà vì tôi yêu, tôi thấy mình thuộc về mảnh đất này. Tôi cũng biết nhiều người xứ tôi đã làm cho Sài Gòn dữ và biến dạng đi từng ngày. Tôi chỉ có tâm nguyện một ngày còn ở lại nơi này là một ngày gieo xuống những hạt mầm lành, gieo xuống sự tử tế và gìn giữ những hạt mầm tử tế còn sót lại… Tôi chỉ là một tay Bắc Kỳ lạc thời, tơ tưởng và hướng đến cái đẹp và sự tử tế. Tôi tin vào những giá trị bền vững theo thời gian và trên con đường ngược chiều ấy tôi tìm thấy hay nói đúng hơn là nhận ra những người cũng ấp ôm một điều tốt đẹp nào đó cũng đang cố gắng đi ngược chiều đồng loại. Tôi nhớ hoài một câu nói của người bạn đời của mình: “Đêm hỗn mang thắp hỏa châu đi tìm bộ lạc”… Có lần một người bạn Sài Gòn mà tôi rất quý mến nói “anh thật sự là một người Sài Gòn”, với tôi, đó là lời khen tặng mà tôi trân trọng vô ngần và có thể nói là hãnh diện nhất (Có lẽ là không xấu hổ với những tiền bối đến đây từ những năm 54 và rất được người Sài Gòn yêu mến)”.


Cái mà Sài Gòn làm được là đã thu phục được chân tâm của những con người ở bên kia vĩ tuyến. Chỉ bằng sự văn minh và đáng yêu của chính mình. Chắc chúng ta hầu như ai cũng biết về giai thoại nhà văn Dương Thu Hương đã ngồi khóc trên vỉa hè Sài Gòn ngày bà theo đoàn quân tiến vào Sài Gòn. Bà đã trả lời nhà báo Đinh Quang Anh Thái của báo Việt Tide vào cuối năm 2007: “ Khóc thì tôi có hai lần khóc. Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, c***ette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ông Thái đừng quên rằng, ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . .nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải”.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjkNeDXHouJILbx26K8LxqTYHeJg3zLCQ8-LFiSazJyHaQOK9sT-egp7QBWpAl-Vcw4xOdoqcc5Wy8t8DWB1N8F68GXAM9Kqnx16qab928raknFezGRRywNJ_RNo68nGNgwaSQ7oBzD_4l94rFYGCh5i3sVCSsc4M5d1FPVfzXlppfzV5DRdCleLVq1xtHy/s608/SG.png">

Sự hàm hồ của lịch sử đã cướp đi cái tên Sài Gòn. Sài Gòn ngày nay đang đội vòng gai. Nhưng cái tên Sài Gòn vẫn mãi mãi ở trong lòng người dân Việt, nhất là trong sâu thẳm tâm trí của chúng tôi, những đứa con của Sài Gòn. 

 

SONG THAO  


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Oct/2023 lúc 8:16am

https://www.youtube.com/watch?v=rWojCVUSdmA - Thương nhớ BẾN PHÀ miền Tây ! https://www.youtube.com/watch?v=m8jRHAgEQAE - - < - < - <
Thương%20nhớ%20BẾN%20PHÀ%20miền%20Tây%20!%20-%20YouTube


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Nov/2023 lúc 3:03pm
Đường Pasteur - Nhớ người không quen

   
Saigon%201969%20-%20Đường%20Pasteur,%20bên%20phải%20là%20ĐH%20Kiến%20Trúc,%20bên…%20|%20Flickr

Đối với tôi, đường Pasteur là con đường rất đẹp, với lề đường rộng và cây xanh chen lẫn các ngôi biệt thự xây từ thời thuộc địa vẫn còn tồn tại.

Đây là con đường sang trọng và tao nhã, với cây cao bóng cả thả nắng vàng xuống mặt đường mỗi ngày.Thật khó hình dung con đường này, vốn lộ giới chỉ khoảng 20 - 25m, thời Pháp thuộc thực chất là hai con đường chạy dọc hai bên một con rạch nước chảy, có lẽ đổ ra rạch Nhiêu Lộc, đều mang số 24.

Năm 1865, khi người Pháp đã ổn định chế độ thuộc địa, họ đặt tên đường bên trái là Olivier còn đường bên phải là Pellerin. Sau con rạch được lấp đi và hai đường nhập làm một, thành đường Pellerin.

Năm 1955, chính quyền TT Ngô Đình Diệm đổi thành đường Pasteur. Tháng 8.1975, đường đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai nhưng cho đến năm 1991, lấy lại tên Pasteur. Đường chạy từ đường Võ Văn Kiệt cho đến Trần Quốc Toản khoảng 2,5 cây số.

Có lẽ sự kiện đầu tiên mang tầm vóc lớn nhất mà cư dân dọc hai bên đường chứng kiến là sự kiện nhà yêu nước Phan Châu Trinh mất năm 1926. Linh cữu của cụ được quàn trên con đường này, nhà Bá Huê Lầu của ông Huỳnh Đình Điển ở số 54. Tang lễ được thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành như nghi thức quốc tang. Từ tờ mờ sáng, người người từ khắp thành phố và vùng phụ cận đổ về đường Pellerin để đưa tang.

Đám tang đi theo lộ trình từ nhà 54 qua đại lộ Norodom (nay là đường Lê Duẩn), đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) rồi đi thẳng xuống Phú Nhuận đến nghĩa trang Gò Công tương tế ở Tân Sơn Nhứt. Đó là một sự kiện chấn động vì lễ tang của cụ lớn chưa từng có ở Sài Gòn, với hơn 6 vạn người tham dự đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Sự kiện lớn đó khuấy động không khí yên tĩnh của con đường toàn biệt thự kín cổng cao tường này. Dù vậy, đoạn đường Pellerin phía trung tâm Sài Gòn thuộc quận 1, mé Hàm Nghi vẫn sôi động hơn do hoạt động buôn bán so với hai bên dãy phố từ ngã tư giáp đường Lê Duẩn ngày nay đi xuống phía đường Trần Quốc Toản với đa số biệt thự.

Đường%20Pasteur%20-%20Nhớ%20người%20không%20quen

Người đi xe đạp trên đường Pellerin khoảng 1950. Trong hình là chỗ gãy góc của đường Pasteur, đó chính là ngã tư Pasteur - Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng). Ảnh: TL

Một nhà sưu tầm dĩa nhạc cho biết thời thập niên 1920 - 1930, trên đường này có đại lý hiệu dĩa Béka là hãng Société indochinoise d’ Importation ở số 40-44 rue Pellerin, vừa bán máy vừa bán dĩa mà anh thỉnh thoảng thấy in trên bao bì dĩa hát xưa. Anh kể khi tò mò lục báo Phụ Nữ Tân Văn xuất bản thời đó tìm tung tích hãng dĩa mới biết ngay góc Pasteur và Hàm Nghi bây giờ từng có dinh lãnh sự Trung Hoa mới được dời về năm 1936, là sự kiện long trọng đối với người Hoa ngụ cư nên họ kéo nhau đi xem chật đường. Sau này, đây là tòa đại sứ Đài Loan cũ trước khi dời về đường Hai Bà Trưng trước năm 1975.

Báo chí xưa thuật lại: đầu hè năm 1937, ngã tư Pellerin và Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) có một vụ đụng xe đáng nhớ. Buổi chiều, một chiếc xe tracteur kéo theo chiếc rờ mọt trên đường này chạy xuống đến ngã tư nói trên thình lình thấy một chiếc xe đạp ba bánh của chú Lý Yên chở vài chục tĩn nước mắm từ chợ Bến Thành định đưa lên Phú Nhuận bán.

Anh tài xế xe tracteur thấy chiếc xe đạp đó liền bẻ tay lái qua bên phải để tránh nên chạy lủi xuống mé sông. Thình lình, có một chiếc xe mui kiếng của bà Phạm Thị Vân ở dưới đường Pellerin chạy lên bị chiếc tracteur đụng ngay phía hông trái rất mạnh. Anh lái xe mui kiếng thấy xe mình bị đụng liền lấy tay lái qua phải, ủi chiếc xe nước mắm lật ngang, bao nhiêu nước mắm bể hết ráo.


Đường%20Pasteur%20-%20Nhớ%20người%20không%20quen
Cuối cùng, chiếc tracteur vẹo bánh trước, chiếc xe mui kiếng bị móp hông trái và xe đạp ba bánh hư nát. Nước mắm bốc mùi khiến dân khu phố chung quanh bị ám ảnh đâu cũng có mùi nước mắm mất mấy ngày.



Trang báo quảng cáo một nhà buôn trên đường Pasteur. Ảnh: TL

Lúc đó, nhà số 2-4 là Ngân hàng Indochine. Số 25 là quán cà phê kiêm nhà hàng Yeng Yeng, hiện nay là một cơ sở của Saigon Tourist. Số 93 Pasteur là dưỡng đường của bác sĩ Trần Văn Đỗ, được quảng cáo có nhiều phòng rộng rãi để nuôi bệnh và sản phụ; có cả nhà mổ và sinh khó, có cả rọi kiếng (X quang), chụp hình phổi tim bao tử, trị bệnh bằng tia cực tím.

Bên kia đường, số nhà 80, thời gian sau xuất hiện thêm một ông “y khoa học sĩ bào chế” tên Nguyễn Văn Cung gần Chợ Cũ chuyên trị bệnh hậu như nhức mỏi, phong thấp, bại xụi, tê thấp, lao phổi, máu huyết, tê bại, phong đơn, phong tình… Số nhà 162 trước đây là nhà Đốc phủ Hải, hiện nay là một tòa nhà lớn cho thuê làm văn phòng.

Trước năm 1975, khi tôi còn nhỏ đã có nhiều dịp đi ngang con đường xinh đẹp này, nhưng kỷ niệm lại không vui vì phải đi chích thuốc ngừa phong đòn gánh (bây giờ gọi là bệnh uốn ván) ở Viện Pasteur cuối đường. Lúc đó, nhớ mang máng chỗ phở Hòa bây giờ chỉ là xe phở bán trên lề đường mà tôi được ăn sau khi chích ngừa.

Đường%20Pasteur%20-%20Nhớ%20người%20không%20quen

Gần đó là nhà may Thiết Lập rất nổi tiếng ở Sài thành thường quảng cáo trên báo, mà nhà tôi thường có tờ tuần báo Thẩm Mỹ Tân Tiến để chị tôi đọc mục dạy cắt may của bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhân. Thời đó, áo dài kiểu tay raglan đang thịnh hành. Nhìn vào tiệm may thấy thợ ngồi đông đúc, nghe nói tới 50 thợ may. Báo chí đăng trung bình mỗi ngày tiệm giao khoảng 100 áo dài cho khách, các ngày gần lễ Giáng sinh hay Tết còn nhiều hơn.



Tiệm may Thiết Lập. Ảnh: TL

Trên con đường này, lưu dấu một hình ảnh mà những người lớp tuổi bảy mươi sống ở Sài Gòn trước năm 1975 trở lên còn nhớ. Trong cuốn Hồi ký của Nguyên Sa, ông kể một kỷ niệm về thời còn làm báo ở Sài Gòn, thỉnh thoảng ông đi chơi cùng nhà văn Mai Thảo trên chiếc xe Fiat hiệu Austin, lòng vòng các đại lộ Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… Mai Thảo lái xe đến một căn nhà gần bờ sông Sài Gòn, cả hai ngồi trong phòng khách nhà một thiếu nữ mắt rất đen và to mà Mai Thảo quen biết. Cô ta đến sau bức bình phong, thay bộ đồ để đi chơi cùng hai ông. Phía sau bức bình phong chỉ ló ra đầu và hai chân, cô ta nhìn Nguyên Sa cười có vẻ e thẹn. Sau đó, cả ba lên xe đi chơi tối, có khi đi chơi ở nhà hàng - vũ trường Arc en Ciel.

Lần cuối cùng Nguyên Sa gặp cô gái ấy là trên đường Pasteur. Ông kể khi đang yên vị trên xe thì “Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích”. Cả hai xuống xe, băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.

Nguyên Sa thấy: “Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm dị dạng. Hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất. Dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”. Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói bằng xúc giác, không có âm thanh nào được cất lên”.

Khi trở lại xe, Nguyên Sa nói ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung, tên người phụ nữ thay áo sau tấm bình phong mỗi lần hai ông đến đưa nàng đi làm, đi ăn hay ra hóng mát. Cô bị tạt axít trong một trận đòn ghen mà báo chí đưa rất nhiều. Nguyên Sa nhìn bạn ngậm ngùi: “Cẩm Nhung!” và Mai Thảo nhìn về phía trước, như nói một mình “Nhung đấy!”.

Con đường không quá dài, nhưng mỗi đoạn đường mang đến một cảm giác khác. Nhớ hồi nhỏ, ra Lê Lợi mua sách cùng với anh thì thế nào cũng phải ghé góc Lê Lợi - Pasteur ăn gỏi khô bò và uống nước mía. Xuôi xuống, qua công viên trước dinh Độc Lập thì biệt thự và cây xanh nối tiếp, đến gần cuối đường, đi qua viện Pasteur ngay góc Trần Quốc Toản có một bô rác nhỏ làm xấu con đường xinh đẹp này. Rồi lớn lên, đi làm. Thỉnh thoảng tôi ngồi uống cà phê trên vỉa hè gần cổng trường Đại học Kiến trúc ở số 196 Pasteur.

Ở đó, tôi nghe một đàn anh hành nghề kiến trúc sư tốt nghiệp từ trước năm 1975 kể câu chuyện khó tin trong trường. Anh kể trường này có nhiều… ma mà sinh viên ở lại trường làm bài khuya thường “thấy”. Ma là phụ nữ ngồi ru con ở đầu tường gần khu nhà vệ sinh. Ma cụt giò chiếm phòng chấm bài. Cuối họa thất 1 có cô nữ sinh mặc áo dài trắng ôm cặp ngồi trên bàn vẽ đung đưa chân, khu khác còn chàng thanh niên thường thơ thẩn.

Bài viết đăng trên một diễn đàn cựu sinh viên kiến trúc kể rằng hồi lính Nhật chiếm Sài Gòn trước năm 1945 có đóng trụ sở ở đây, phía dãy nhà văn phòng và họa thất là khu chuồng ngựa, gần đó là phòng giam người. Người dân gần đó chứng kiến lính phát xít Nhật giết nhiều người ở đây nên có oan hồn uổng tử đi lởn vởn.
Đường%20Pasteur%20-%20Nhớ%20người%20không%20quen


Điều đáng tiếc nuối nhất với tôi là vườn hoa Vạn Xuân đối diện Đại học Kiến trúc phía bên trái ngay góc ngã tư Pasteur - Trần Quý Cáp mà những năm 1980 tôi còn thấy. Trước năm 1975, đối diện vườn hoa này ngoài Đại học Kiến trúc còn có trường tiểu học Trần Quý Cáp, phòng đọc sách thiếu niên Trung tâm Sài Gòn. Vạn Xuân là vườn hoa nhỏ, một trong hai vườn hoa đẹp ở Sài Gòn cùng vườn hoa Chi Lăng. Vườn có cây cối xanh tươi, phía xa có ngôi nhà kiểu thuộc địa sơn vôi màu vàng, được dân quanh đó gọi là Nhà đèn, cảnh trông như một vườn hoa ở nước Pháp trong tranh vẽ.

Trước năm 1975, đây là nơi nam sinh các trường Lasan Taberd, Võ Trường Toản hay nữ sinh Marie Curie, Gia Long, Trưng Vương thích đến dạo chơi, có nhiều kỷ niệm thuở học trò. Từ thập niên 1980, vườn hoa này nhập vào khuôn viên nhà thi đấu thể thao Phan Đình Phùng nên bị xóa sổ.



Vườn hoa Vạn Xuân nay không còn. Ảnh: TL

Tôi vẫn đi con đường này hằng ngày, thỉnh thoảng nhìn vào trụ sở Hội Mỹ thuật thành phố, ở ngôi nhà 218A. Ở đó, bỗng nhớ những dòng chữ của họa sĩ Hà Cẩm Tâm, học trường Mỹ thuật Gia Định ra, vẽ đẹp và viết nhiều bài rất hay trên trang Gió O. Tháng 4.1997, về thăm nhà sau 20 năm ở xứ người, ông sẵn dịp làm một cuộc triển lãm cá nhân tại Hội Mỹ thuật thành phố. Cuộc triển lãm kéo dài trong mươi ngày đầu tháng 6.1997 với 45 bức tranh sơn dầu vẽ tại Sài Gòn trong một tháng.

Trong bài Tưởng mất mà còn, ông nhắc đến nhà văn Dương Trữ La là bạn thân thiết: “Dương Trữ La ở phòng tranh chơi với tôi suốt buổi chiều. Ra ngồi uống cà phê vỉa hè đường Pasteur, tôi ngước mắt nhìn hai hàng cây trẻ thơ hai bên đường năm nào mà hôm nay đã thành những cổ thụ già như trong Ai xuôi vạn lý của Lê Thương. Chẳng nói nhiều với nhau, thỉnh thoảng chỉ nhắc lại kỷ niệm, bạn bè kẻ còn người mất, người chết kiểu này, kẻ sống kiểu kia, người ở lại, kẻ ra đi mịt mờ sương khói. Trong tâm thức, cả hai đều chung một con đường tuần cảm, một chấn động đầy vơi, một nỗi bàng hoàng, một niềm chua xót...”. Vài câu lay động lòng kẻ hậu sinh, tuy chưa bao giờ hân hạnh gặp và nay ông cũng đã mất.

Kỷ niệm vụn về con đường nhắc lại mà thấy hơn 60 năm vèo qua quá nhanh trên thành phố này.

PHẠM CÔNG LUẬN





-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Nov/2023 lúc 8:58am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/11/xem-hat-mien-que-toi-kha-tiem-ly.html - Xem Hát Miền Quê Tôi

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4etD-b1FQIgbB4bkPJAAfssnkpMxG7XHUV5cZEGhUizL8vB3Tn7UhJkp6vrK6zvuUDesLkUdCDJiEF8MKnDpu18WeW7DitOiSMYKA722tMz7ZFaG6AEEu1xQh-UJ8ITSuGbrk6vSiaornj67WgbqVIWG2DyGUOgC780r_dqWaEtjfyTPkbClb7qIdzUkR/s1299/hat%20dinh.jpg">

(Hình minh họa)

Nghe tiếng trống 3 dùi một: Thùng thùng! Thùng! Thùng thùng,Thùng!..là tôi nôn nao cả người. Đó là tiếng trống “rao bảng” của gánh bầu Trình về hồi sáng mà thằng Tửng đã thông báo cho cả bọn chúng tôi hay. Mẹ đã hứa cho tôi tối được xem hát, nhưng với điều kiện là phải xắt và bằm xong một thúng chuối cây cho con ụt (heo)! Chuyện nầy không nặng mà cũng không nhẹ nhàng gì. Với con dao xắt mà thợ rèn rèn để chuyên dùng cho việc xắt chuối nên nó bén ngót;và nhờ cái cán dài tựa vào vế, nên cây chuối to đùng tôi chỉ khứa có 6 khứa là xong một lát, nhưng sao lần nầy tôi thấy ngán cái việc tầm thường nầy quá! Còn nửa thúng nữa mới xong, tôi định bỏ dao chạy ra xem (“rao bảng”), nhưng sợ mất thời gian mà trễ xuất hát. Đúng ra tôi muốn đến sớm để cùng lũ bạn chơi đùa và “ăn” nước đá nhận, chứ tới tối mới mở màn, thì làm sao trễ được? Phải chi có thằng Tửng lại, biểu nó phụ bằm thì hay biết mấy!


Từ “rao bảng” thời bây giờ ít được nhắc tới nên các bạn khó mường tượng được. Như vầy: Khi gánh hát vừa tới nơi thì có bộ phận trang trí sân khấu...và một bộ phận đi... “rao bảng”!

Thường bầu hát mướn một cỗ xe ngựa, (loại phương tiện giao thông cao cấp thời ấy ở quê tôi), hai bên hông và sau xe được treo 3 tấm bảng đề tên tuồng hát và hình ảnh ấn tượng nhất của vở tuồng được diễn tối hôm đó. Trên xe có một cái trống chầu và một người đánh trống, thường là người trong đoàn, nhưng đôi khi cũng là người tình nguyện ở lớp tuổi đàn anh của chúng tôi (để được đi xe ngựa và được đánh trống chơi)! Sau xe ngựa là cả bọn chúng tôi... chạy bộ theo; dọc đường lại được các bọn khác tháp tùng, nên xe “rao bảng” cũng coi xôm tụ lắm.

Cứ hai tiếng nhặt, một tiếng khoan (Thùng thùng! Thùng!) theo bước chân ngựa thật chậm từ đầu làng đến cuối làng. Và như thói quen như nghe tiếng chuông cà rem; nghe tiếng trống, thì ai cũng biết gánh hát về!


Tiếng trống xa dần. Hồi sáng thằng Tửng nói tối nay hát tuồng Tôn Tẩn Hạ San tôi càng háo hức được xem. Tôi khoái chuyện nầy qua lời kể của mẹ tôi, nên lấy lại khí thế xắt cho xong nửa thúng còn lại. Để khích lệ tinh thần, mỗi lần khứa dao, tôi đọc thầm trong bụng: “Tôn-Tẩn-Hạ-San-Tôn-Tẩn- phực!”, đến “phực”, 6 khứa dao, là xong một lát chuối; lát mới tôi đếm lại từ đầu: “Tôn-Tẩn..phực!” được 5,10 cái “phực” thì đã mỏi tay. Tôi kiên nhẫn thêm vài cái “phực” nữa thì thằng Tửng áo vắt trên vai, cổ lòng thòng chiếc ná thun, vốn là vật bất ly thân của nó; hổn hển hỏi tôi:

- Chưa rồi sao mậy?

Tôi mừng húm:

- Mầy phụ bằm với tao đi! Gần xong rồi!

Nó tự động lấy tấm thớt và con dao quen thuộc, ngồi cạnh tôi, hốt chuối ra bằm. Thao tác nhuần nhuyễn như đầu bếp chuyên nghiệp bằm thịt!

Trong bọn, tôi thích thằng Tửng nhất, vì nó xông xáo và hay giúp đở bạn bè. Nó lại có nhiều tài vặt mà bọn chúng tôi không có hoặc thua xa; như dám bơi qua lại con rạch cái hai lần khi nước chảy xiết, biết cỡi trâu, đặt lờ, bắt cá và leo cây như khỉ, còn gan dạ nữa! Đi chơi với nó không hề bị đói. Mùa vú sữa thì ăn vú sữa ở đinh, chùa. Các mùa khác thì...chui rào hái trộm! Gần tết, khi ruộng vừa gặt xong, những chỗ nước đọng lại, nó chỉ huy chúng tôi đắp hầm bắt cá. Trong lúc chờ đợi cá nhảy vào, nó làm bẫy cò ke để bắt những con cò xấu số đang lặn hụp tìm mồi.

Được cá, nó bảo chúng tôi bứt gốc rạ khô, đốt lên rồi thảy cá lớn cá nhỏ vào. Chỉ một lát, mùi cá chín bốc lên ngậy cả mũi. Khều cá ra, lấy rạ chà sơ lớp cháy bên ngoài, để lộ lớp thịt vàng lươm…

Tôi dừng tay lại:

- Mầy rủ tụi nó chưa?

- Rồi! Làm lẹ đi!

Cứ mỗi lần gánh hát về thì bộ mặt làng tôi coi xôm tụ lắm. Mới 4 giờ chiều mà mấy chị đã trưng bày các “cửa hàng” của mình: 4,5 xề mía chặt khúc, mấy xề đậu phọng nấu. Tấp nập nhất là “cửa hàng” nước đá của chị Tuyết. Đó là một bàn chữ nhật khá cũ kỹ, ở trên để một bàn bào nước đá, cả chục cái ly và 2 chai sirô. Chị liên tục bào đá, hứng vào một ly rồi ém chặt lại, sau đó xịt sirô vào, lật úp ly lại, lấy ra khối đá hình cái ly đượm màu sirô đỏ thắm, trao cho người mua, toàn là bọn trẻ lứa tuổi chúng tôi! Cứ thế chúng tôi mút! Mút liên tục (nếu không thì sirô theo đá tan ra thì uổng lắm).Tay nầy tê thì đổi qua tay kia, mút chừng nào khối đá còn một miếng nhỏ, chúng tôi bỏ tọt vào miệng nhai rào rạo! Món nầy gọi là “nước đá nhận”, xem ra rất thích hợp với chúng tôi, bởi vừa ăn, vừa chơi đùa được, lại tiện lợi là, sau khi ăn xong, hai môi đỏ đẹp như thoa son; hai tay sạch trơn, như vừa rửa vậy!

Không hiểu sao, cái món vừa ngon lành, vừa rẻ tiền, vừa tiện lợi như thế mà ngày thường các chị không bán, mà phải đợi đến gánh hát về?


Gánh hát đêm đầu, người xem đông. Vì diễn ở nhà lồng chợ, chợ làng tôi cũng như chợ huyện thời ấy chỉ là một dãy nhà nhiều căn liên tục, xung quanh không rào, không cửa (mới gọi là nhà lồng), nên gánh hát về phải lấy vải dày bao xung quanh, chỉ chừa một cái cửa để “bán vé”. Nói “bán vé” chứ vé viết gì đâu? Người bán “vé” luôn là bà bầu, tức là vợ của ông bầu gánh hát, kèm theo là con hay người trong đoàn mà bà tín cẩn. Cứ người lớn vô cửa thì 3 đồng, con nít 1 đồng. Những đêm cuối, thì người lớn 2 đồng, con nít vẫn giữ nguyên, bởi 1 đồng chỉ giá trị 2 gói xôi! Tuy vậy, bà bầu cũng “du di”, thấy đứa nào sạch sẽ... như tôi (!), thì bà cho 2 đứa 1 đồng! Bởi cái “du di” nầy mà xãy ra nhiều chuyện buồn cười:

- Sao 2 thằng đó 1 đồng mà tôi với con tôi tới 3 đồng?

- Thì…thì tại 2 đứa đó dễ thương.

- Vậy chớ con tôi dễ ghét lắm hả? Tui với nó 2 đồng rưỡi  thôi!

- Bà vô 4 người mà trả có 2 đồng rưỡi, chắc chết tôi quá! Dắt một đứa, cõng một đứa, bồng một đứa….

- Em bé không tính tiền mà!

- Thôi vô đi bà nội, rầu bà quá!

2 anh em thằng Xoài thằng Mận là chuyên gia coi cọp. Chúng đợi ở cửa, lợi dụng lúc đông người, xô đẩy nhau, chúng chen vào. 10 lần cũng lọt được 5,6, những lần còn lại bị... kéo lổ tay, đuổi ra.

Tôi vốn nhát gan, nên mua “vé” đàng hoàng. Thằng Tửng nói với tôi:

- Mầy mua “vé” được rồi đó!

- Đợi một hồi cho bớt chen lấn rồi hãy vô.

- Đồ ngu! Mầy vô sau, đứng sau người ta, có nước... hửi đít họ chớ làm sao mà coi?

Rồi kéo tôi ra sau hông nhà lồng, chỉ vào một chỗ; nói:

- Lát nữa mầy vô, mầy lại cây cột nầy nghen!

Tôi ầm ừ, vì không phải lần đầu tiên tôi a tòng với nó. Nó dặn lại:

- Nhớ à nghen!

Vào cửa, vừa tới cây cột nó chỉ thì ở ngoài nó đánh vào vải “bịch, bịch”, biết ám hiệu, tôi nhìn quanh rồi giở vải cho nó chui vào. Chiến thuật nầy hiệu quả hơn của Xoài, Mận nhiều, vì hầu hết nó vô trót lọt! Nếu xui rủi bị phát hiện thì nó cũng không bị kéo lỗ tai; mà là tôi! Tôi khoái nó ở chỗ, dù có trót lọt hay không, hôm sau nó cũng đãi tôi một chầu đá nhận!

“Rạp hát” không có ghế ngồi cho khán giả, muốn ngồi ghế thì tự đem ghế nhà vào, thường là mấy bà già, còn hầu hết thì ai vô trước, đứng trước, ai vô sau đứng sau. Còn vô sau mà muốn đứng trước thì cứ chen lấn! Mấy đêm đầu, người sát như nêm, mùi mồ hôi ngậy mũi, tiếng cãi cọ luôn xãy ra khi chờ đợi mở màn: 

- Mấy thằng quỷ nầy làm gì chạy tới chạy lui hoài vậy? Một người bịt mũi: 

- Ai bỏ “bom nguyên tử” vậy ta?

Mọi người vừa bụm miệng thì lại có tiếng: 

- Hùm... “trái” nầy còn ác liệt hơn nữa!

Ai cũng cười rung cả bụng. Một chị gái: 

- Lợi dụng hả?

- Chật phải cho người ta đụng chớ? Sợ thì ở nhà đi!

Quê tôi trước sau có 4 gánh hát (chuyện hi hữu tại một xã nghèo thưa thớt dân cư), mà bầu Bời, bầu Trình là kỳ cựu nhất. Đào kép trong đoàn đa phần cũng là con em trong làng. Dẫu sống đời lang bạc, nhưng họ cũng ít nhiều ưu ái với nơi cắt rún chôn nhau. Hậu trường các gánh khác chúng tôi dễ gì được vào xem. Với các gánh nầy, chúng tôi vào thoải mái, miễn đừng lớn tiếng, phá phách, với đừng... ăn ổi chín là được! Lần đầu tôi cầm trái ổi chín rục, thơm lừng, vừa cắn một miếng thì chị Ẩn, đào chánh giật lấy. Tôi ngơ ngác: 

- Ổi của em mà!

- Biết rồi! Trái nầy em cho chị.

- Bộ chị có bầu hả? Sáng mai em hái cho chị.

Chị vò đầu tôi: 

- Không phải, nhưng ăn trước bàn tổ không nên, ông bầu thấy ổng quánh bây giờ.

Chị lại cười: 

- Ví (với) một lát, mấy em không được ăn me trước mấy ông thổi kèn nghe không?

Tôi ngơ ngác dạ dạ cho qua. Sau nầy mới biết, không cho ăn ổi vì sợ... ông tổ thích mùi ổi chín mà bỏ đi (về nhà người ăn ổi); còn không cho ăn me trước mấy ông thổi kèn vì sợ mấy ổng... thèm chảy nước miếng mà thổi không được! Từ đó, tôi còn nghe người lớn nói như vầy: 

- Ăn cướp không bao giờ cướp đồ (tài sản) của gánh hát!

- Sao vậy?

- Vì họ cùng một ông tổ mà ra, hồi đó ông tổ gánh hát bỏ nghề rồi đi... ăn cướp (?) 

- Ối! Xa lơ xa lắc, giờ cướp đại, chết thằng tây nào? 

- Bậy! Nếu cướp của gánh hát thì bị quan bắt liền, hồi trước ổng thề như vậy.

- Ờ hén.

- Có ghe cướp, cướp nhằm ghe gánh hát mà không biết, chừng về thấy mấy cái rương toàn là râu ria, áo mão, hoảng hồn, đem trả không kịp!

Khán giả đa số là bà già, ông già, các lớp đàn anh đàn chị chúng tôi, tức khoảng 17,18 tuổi, tuổi sắp có chồng, có vợ! Thời đó, nam 18, nữ 16 có chồng có vợ là chuyện thường tình. Lớp trên 20, con cái đùm đề, ít ai đi coi. Tuổi trung niên còn ít nữa, không hiểu vì sao!

Có một khán giả rất đặc biệt là thằng Hợp (sau nầy là kép cải lương của anh sáu Triều), nó ngồi một chỗ cũng rất đặc biệt: Dưới “bàn vua”. Đó là cái bàn chữ nhật như cái buya-rô của thầy giáo, không trải drap, phía sau là cái ghế đẩu, tượng trưng cho ngai vàng! Không hiểu sao, đêm nào cũng có cái bàn ấy đặt sát tấm màn phong cảnh tận cuối sân khấu, dù đêm đó không có vai vua cũng vậy!

Hợp ngồi xếp bằng dưới cái... “long bàn” ấy. Áo luôn phanh ngực, lâu lâu quẹt mũi,nhìn xuống coi.. khán giả, bởi mặt bàn che khuất tầm nhìn, làm sao coi đào kép?

Có gánh hát nào lại cho khán giả ngồi chỗ đó, ngoài gánh bầu Bời, bầu Trình? Ban đầu mở màn thấy nó ngồi, ai cũng cười dễ dãi, sau thành quen, xem như đó là ghế danh dự dành cho nó vậy!

Có lần vị vua nào đó lâm triều, vừa ngồi xuống ngai (ghế đẩu), vua duỗi chân ra, đạp nhằm nó, vua “ý” một tiếng, làm “bá quan văn võ” (thường có 4 người - 2 văn 2 võ) cũng giật mình. Khán giả thì cười rần. Rồi đâu cũng vào đấy, vua làm việc vua, nó ngồi tiếp!

Lại lần khác, vua vỗ bàn quát: “Giáp sĩ đâu?”, cùng lúc ngoài rạp có tiếng tía nó gọi: “Hợp ơi, về biểu!”, nó lật đật “dạ” một tiếng thật lớn còn hơn cả tập thể gánh hát “dạ” trong hậu trường, rồi vội vàng đứng dậy, đội luôn cả “long bàn” trên đầu. Vua quan ngơ ngác, còn khán giả thì cười vỡ bụng.

Thế mà hôm sau, nó cũng không vắng mặt ở chỗ ngồi danh dự đó!

Cũng nên nói thêm, gánh hát không có máy đèn. Ánh sáng là chiếc đèn măng sông duy nhất được treo giữa sân khấu và hàng ghế đầu tiên của khán giả. Nói “hàng ghế” cũng đúng, vì dường như đêm nào cũng có 1,2 hàng ghế thượng hạng dành cho các cụ, dù ghế nầy do các cụ mang tới. Đó hàng ghế bất khả xâm phạm trong một điều luật bất thành văn: Các anh chị và lũ chúng tôi ở phía dưới, cãi cọ, chen lấn làm gì làm, tuyệt nhiên không ai dám lướt qua các hàng ghế trưởng bối đó. Các cụ dù vô sau, chỉ cần đưa ghế lên (cho dễ đi), là có hàng loạt tiếng nói:

-Tránh ra cho bác Bảy (ông Ba,bà Hai...)đi cà tụi bây ơi! - Cái thằng nầy lì quá, nói nãy giờ mà cứ giỡn hoài!

Đó không phải là văn hóa kính lão, là điều đáng tự hào của quê hương tôi đó sao?

Về tuồng tích thì thường là những trích đoạn của các truyện Tàu mà cô Năm tôi thường đọc cho các người lớn trong làng nghe trong các buổi đám cưới, đám giỗ, hay những lúc nông nhàn, như “Phụng Nghi Đình”, “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê”,“Tôn Tẩn hạ San”, “Triệu Tử Long đoạt ấu chúa”, “Chiêu Quân cống Hồ”... Thật tình, giờ tôi nhớ được nội dung những chuyện ấy là nhờ nghe cô Năm đọc, còn coi hát bội, tôi không nhớ gì hết ngoài mấy tiếng “tróc mã đề thương, ứ ư,ứ ư...” bởi hát bội thường “hát” chữ nho, hiểu đâu mà nhớ?!

Vài năm sau (khoảng năm 1959), các gánh hát bội của bầu Trình, bầu Bời dần dà ế khách, bị lép vế bởi các đoàn cải lương ở xa đến như Điền Viên, Kiếp Bướm, Ánh Sáng. Gánh bầu Trình phải diễn luôn cả suất ban ngày mà hầu như không đủ sống, bởi khán giả toàn là lũ nhí chúng tôi, mà tụ lại không bằng một gánh Sơn Đông mãi võ! Suất đêm là chính, lại bị “sập giàn” hoài!(*), bởi cũng chỉ có đám chúng tôi vào coi, chỉ là ham vui, hơn là ham coi hát!

Cửa vé vắng tanh, thằng Mận, thằng Xoài không còn cơ hội “thừa nước đục thả câu”, còn tôi cũng không dám giở màn cho thằng Tửng chui vào. Thằng Hợp cũng tự động rời khỏi đít “long bàn”. Các “cửa hàng” mía, đậu phọng đã dẹp tiệm, chỉ còn lại “cửa hàng” nước đá của chị Tuyết. Chị bào nước đá thư thả hơn, gọi tụi tôi là “cưng” chứ không là “tụi bây” như trước, và ly nước đá cũng cao hơn, sirô nhiều hơn!

Ban ngày tôi thường lân la vào hậu trường chơi, chị Ẩn nằm một mình trên võng, thấy tôi chị cười, khoe hai hàm răng đều đặn, không phấn son mà tôi thấy chị đẹp lắm, song trông chị buồn còn hơn khi chị đóng vai Chiêu Quân lúc rời xa đất Hán!

- Ủa? Sao có một mình chị ở đây vậy? Mấy anh đâu hết rồi?

Mắt “Chiêu Quân” nhòa lệ:

- Mấy ảnh đi bắt cá hết rồi, chị ở nhà nấu cơm.

- Sao hồi sáng không mua, bắt làm chi cho mệt?

Chị rời võng, đến thêm củi cho nồi cơm tổ bố. Có lẽ khói cay, làm mắt chị ươn ướt, đỏ hoe:

- Hát ế quá đâu có tiền mua cá, em!

Hai giọt nước mắt chị rơi xuống, tôi chạnh lòng, vừa thương chị, vừa ân hận về việc đã bao lần a tòng với thằng Tửng giở vải để cho nó vào coi cọp. Chị lau nước mắt cười thật buồn, hỏi tôi:

- ... Ổi nhà em có trái nhiều không?

- Có, có nhiều lắm. Sao chị bảo không nên ăn ổi chín chỗ này?

Chị vẫn cười buồn:

- ... Chị muốn ăn ổi chua.

- Chị có bầu hả? Sao bụng chị nhỏ xíu vậy?

Chị hơi vui vì lời trẻ con của tôi; không đáp, chỉ gật nhẹ. Tôi nhanh nhẩu:

- Vậy chị chờ em chút nghe.

Rồi chạy vụt ra réo to:

- Tửng ơi Tửng! Tửng ơi Tửng! Về nhà tao chơi.

Chiều hôm ấy ông bầu đến từ giã bà con ở dãy ngã tư. Ông buồn hơn mọi ngày. Khi đến nhà thầy Tư (tiệm thuốc bắc) thì bà con cũng kéo đến. Chú Chín chệch Xồi:

- Tui tặng ông bầu 2 ký lường (đường) táng uống lước (nươc). Chừng nào lảnh (rảnh) dìa (về) hát cho dui (vui).

Chú Chín chệch Xồi sống ở làng đã lâu đời, có vợ Việt, ăn mắm sống nên không “nị, ngộ” như các chú Tàu ở huyện.

Một lát chú Hai Cộc xách một xô cá từ mé triền lên:

- Mới tát đìa! Biếu anh Ba (ông bầu thứ ba) và anh em ăn lấy thảo.

Thằng Hợp vừa hít mũi vừa bưng một đĩa lớn bánh cam bánh cồng đầy ắp (chắc bán ế) lại, thưa:

- Má con nói biếu ông bầu ăn uống nước.

Thiếm tư quay quanh rồi nói:

- Ở đây cũng có bánh trái rồi... Hay là đứa nào mang qua nhà lồng cho mấy em ở bển. Đem cá của anh hai cho mấy em làm luôn thể, tối rồi.

Thầy Tư ngập ngừng nói với ông bầu:

- Hổm rày chắc vất vả lắm hả anh Ba?

- Thì anh thấy đó, cứ “sập giàn” hoài!

Chú Chệch Xồi:

- Hay là ông bầu dìa mua bán dí (với) tui, kiếm ăn lược lám ló!(được lắm đó)

Mọi người ái ngại cho câu nói thiệt lòng của chú Chín. Nhưng ông bầu chỉ thở dài:

- Làm như cái “nghiệp” anh Chín ơi! Khi ế anh em cứ than thở đòi về làm ruộng, nhưng khi được bà con ái mộ thì quên hết! “Cái nghiệp” khó dứt lắm anh ơi. Như con tằm ăn dâu phải nhả tơ đền nợ dâu vậy.

Sáng hôm sau khi tôi định xách thêm bọc ổi chua và gói muối ớt cho chị Ẩn thì thấy thằng Tửng bọc một áo xoài đứng ở trước cửa. Tôi trố mắt hỏi nó:

- Mày ăn cắp hả?

- Tao xin đàng hoàng. Tao nói xin cho chị Ẩn, thiếm Bảy bảo hái cho khá khá. Ăn cắp gì mà nhiều dữ vậy?

Khi chúng tôi đến, mọi người đang ăn cơm. Chị nắm tay chúng tôi, nghẹn ngào:

- Cám ơn 2 em nghen!

Ăn cơm xong mọi người lỉnh kỉnh gánh gồng xuống ghe. Tôi và Tửng đứng trên bến. Chị vò đầu chúng tôi rồi xuống sau cùng:

- Mấy em ở lại rán học giỏi nghe. Lần sau chị về chị bao mấy em coi hát khỏi mua vé.

Thằng Tửng coi bộ sượng sùng vì lời chị. Tôi nói:

- Chừng nào chị về nhớ ẵm em bé về chơi nghen.

Ghe rời bến, chị yếu ớt vẫy tay. Ghe đi xa, chúng tôi nhìn đến khuất bóng mới thôi. Tôi ngó qua Tửng, nó ngượng ngùng quẹt nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc. Và lần cuối cùng tôi gặp chị Ẩn.

   

Kha Tiệm Ly



-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Dec/2023 lúc 10:14am

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2023/12/xe-o-mot-thuo.html - Xe Đò Một Thuở...

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhstDzjv6FsDbBMMXhx-gZEfFpbWBrSxzPc7yANu-ndOb5bKJlBwK49sEZBKGPN7ggZ6YGeTWcm4pJT1Q8mzEzYe4BdufhxZHXkPkcTrDGGSn2XstXHXT6rP1rYjkhCqZsqWhFOkdvr8m_-iwDTjdbM8WVGCSwsYX9Qa7MNExna-3pc4xTkc-_Z5tyqDTPj/s600/xe%20%C4%91o%CC%80.jpg">

Hoài niệm trên những chuyến đi.

Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây, thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện, nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam.

Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam”: “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ, tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường.

Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”

Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người, nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ, giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò, khi chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.

Cụ Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau, trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.

- Kỷ niệm kinh hoàng về chiếc xe than ..

Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ sau khi bọn cộng sản vào tiếp quản trong giai đoạn từ sau năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ, tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe, thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50. Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu, có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than, hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực.

Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe.

Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước, trên mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.

Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh, năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con, xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố, phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào, riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.

Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ, để gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường.

Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.

Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình, sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy thằng việt cộng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát, đường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận, đi xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi.

Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt, xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Taxi ngày nay chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.

- Từ thời Quốc Gia Việt Nam tới thời Việt-Nam-Cộng-Hòa

Hồi đó khu xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân, còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.

Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng, sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.

Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò, mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm, có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam, có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi, cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung.

Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ hay những lúc đi tắm biển ở thành phố Vũng Tàu xưa.

Một thời kỷ niệm và đầy nhung nhớ.


Nguồn Sài Gòn Xưa

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 24/Feb/2024 lúc 4:47pm
Nghề xà ích ngày xưa

Cho đến giờ, tôi vẫn còn nhớ như in người đánh xe ngựa ở Mỹ Tho là ông Bảy Tốt, người ta thường ông ‘Xà Tốt’, bởi ‘tài’ xe ngựa bấy giờ còn có tên là ‘xà ích’.

Nghề%20“Xà%20Ích”%20ngày%20xưa%20Cho%20đến...%20-%20Sài%20Gòn%20trong%20tim%20tôi%20|%20Facebook


Vào những năm 1970, do chiến tranh loạn lạc mà mẹ dắt tôi xuống tận Ngã ba Trung Lương (thuộc TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang bây giờ) để thuê quán bán hàng nước giải khát. Lúc ấy mặc dù mới 12-13 tuổi nhưng tôi thường đi xe ngựa vào chợ Mỹ Tho mua hàng cho mẹ.

Do quen nên ông Bảy thường cho tôi đi nhờ và tôi được ngồi ngay trên chiếc càng phía trước đối diện với ông Bảy, lúc về có hàng hóa thì bỏ hết vào cái cần xé được ông treo ở hông xe. Con đường dài tới 5-6 km ngựa phải chạy tới 20-30 phút. Ông Bảy là người vui tính, ông và tôi hay nói đủ mọi thứ chuyện trên đời.

Nghề%20“Xà%20Ích”%20ngày%20xưa%20Cho%20đến...%20-%20Sài%20Gòn%20trong%20tim%20tôi%20|%20Facebook


Ông Bảy bảo ông biết đánh xe từ hồi còn thanh niên, xe ngựa thời bấy giờ được người ta gọi là xe ‘thổ mộ’. Khi tôi nói ông giải thích rõ hai từ này, ông Bảy cười:

Ông cũng chẳng hiểu chính xác, người thì bảo rằng người Hoa kiều ở Việt nam đọc là ‘Thụ Mã’, nhưng giọng họ không rõ như vậy nên phát âm gần như hai từ ‘Thổ Mộ’. Lại có người nói mui xe ngựa được đóng khum khum y như cái gò mộ đất, bèn gọi là ‘Thổ Mộ’. Nhưng kệ, mình cứ kêu ‘xe ngựa’ là chính xác nhất.

Rồi ông Bảy còn kể tôi nghe chuyện ra đời của chiếc xe ngựa. Ông bảo xe ngựa có xuất xứ bên phương Tây, sau đó đến Trung Quốc, nhưng mỗi xe có hai con ngựa cùng kéo gọi là ‘song mã’.

Trước đó những nhà giàu mua ngựa về làm phương tiện đi lại vì ngày ấy người ta chưa có bất kì một loại xe nào. Thế nhưng chỉ một người cỡi được thôi, cùng lắm là hai người chứ làm sao chở được cả nhà khi đi đám tiệc hoặc đi chơi, nên họ nghiên cứu ra cái xe để dùng ngựa kéo. Ông cho rằng đó cũng là một sáng kiến tuyệt vời và phải khẳng định nó là tiền thân của những loại xe nhỏ, xe to sau này.

Nghề%20xà%20ích%20ngày%20xưa%20-%20Tạp%20chí%20Đáng%20Nhớ


Khi người Pháp đưa sang Việt Nam thì vẫn có hai ngựa kéo, nhưng chỉ ít lâu sau người Việt tự chế xe ngựa chỉ cần một ngựa mà thôi, làm người Pháp phục lấy phục để.

Bánh xe ngựa thời trước năm 1945 được làm bằng gỗ, những đoạn gỗ được xẻ cong cong chỉ dài khoảng 40-50 cm thôi, nhưng phải là gỗ Hương hoặc gỗ Cam se mới chắc và bền, sau đó được bào gọt cho thật nhẵn rồi ghép lại bằng những đinh vít chắc chắn. Tăm xe được làm bằng những thanh sắt tròn và đặc chịu được sức nặng cả tấn, rồi để tránh ma sát và tránh bị bào mòn bánh gỗ người ta làm chiếc ‘vỏ’ bằng loại cao su đặc dày đến 3-4 phân.

Có một điều đặc biệt nữa là khi gắn bánh xe vào trục người ta không cần đến bạc đạn (ổ bi) như các loại xe bây giờ mà trục ngang của xe cũng bằng gỗ hương.

Tôi chợt hỏi: “Thế thì nó nhanh mòn phải thay liên tục sao ông Bảy?”. Ông lắc đầu: “Gỗ hương hay cam se chắc lắm, phải mấy năm mới phải thay chứ không phải thay hoài đâu.”

Khi xe đạp, xe máy, xe hơi có nhiều thì xe ngựa ở các thành phố lớn cũng giảm đi đáng kể, song ở nông thôn vẫn dùng, vì đường xá ở các làng quê bấy giờ chưa được rải nhựa hay bê tông như bây giờ nên về mùa mưa sình lầy lắm, chỉ xe ngựa mới đi được.

Nghề%20xà%20ích%20ngày%20xưa%20-%20Tri%20Thức%20-%20Tài%20Nguyên

Ông Bảy đánh xe ngựa mãi từ năm 1950, nhưng rồi do chiến tranh và sự biến đổi của đất nước, cộng với hoàn cảnh gia đình nghèo toàn phải đi đánh mướn hay gọi là làm phu xe, mà ông phải gián đoạn. Cho tận đến năm 1976, ông phải bán đi 8 sào đất ruộng cộng với số tiền tích trữ bao nhiêu năm trời mới mua được con ngựa và cỗ xe, nên mới chính thức làm nghề liên tục.

Lúc này thì rất ít xe ngựa chạy bằng bánh gỗ nữa mà thay bằng bánh hơi cho nhẹ nên kiểu dáng xe bị thấp hơn, người ngồi trên xe không còn oai phong như trước nữa. Ông Bảy giải thích rõ ràng rằng, thường thùng xe ngày xưa cao ngang với bụng ngựa và được gắn 4 cái ghế đàng hoàng. Nhà giàu thời đó cầm ba toong, đội mũ nỉ, mặc bộ quần áo Tây… ngồi trên ghế cao trông lẫm liệt lắm. Nhưng từ khi thay bằng bánh hơi buộc lòng thùng xe phải đóng thấp xuống, xe ngựa chở khách mà chỉ kéo có một ngựa cần phải đóng thùng cho cân xứng với bánh xe để không bị tròng trành. Vách thùng đóng cao ngập đầu người ngồi, nắng thì kéo bạt ra, mưa phải trùm kín bít bùng.

Xe chở khách chuyên nghiệp hầu như không có ghế mà chủ xe chỉ trải chiếc chiếu sạch dưới thùng xe, khách lên xe thì treo dép, guốc lên các móc phía trên đầu, quanh gánh, thúng mủng. Hàng hóa thì để ngoài gờ hai hông hoặc trên nóc thùng chứ bên trong không thể bỏ thêm cái gì nữa, vì xe chở 6 người, mỗi bên 3 người ngồi ngang chân người nọ phải đặt sát vào mông người đối diện.



Ông Bảy mỗi lần ra bến đợi khách hay đưa khách về bến thường hay ghé quán nhà tôi nên tôi biết xà ích ngày xưa bỏ một số tiền sắm cái ngựa không phải dễ, bởi nghe ông Bảy bảo tới 4-5 cây vàng. Thế nhưng dù có chạy 4 hay 6 chuyến đi về từ ngã ba Trung Lương vào đến chợ Mỹ Tho đi nữa thì cả ngày cũng chỉ mua được 10 ký gạo. Thậm trí sáng ra ông chỉ dám uống ly cà phê, trưa ăn ổ bánh mỳ không để tối đến về nhà ăn cơm chứ bản thân tôi chưa bắt gặp ông Bảy ngồi ăn hủ tiếu hay bún trong tiệm, quán bao giờ. Nhưng khi ngựa bị đau bệnh ông lại phải mướn ngựa kéo xe để giữ khách, những ngày hôm ấy nếu đủ khách chạy hàng chuyến mới còn dư chút đỉnh, thiếu khách coi như huề hoặc lỗ.



Gia đình tôi trở lại Tây nguyên năm 1981. Đến mãi năm 1997 tôi mới về thăm lại thì nghe nói ông Bảy đã bỏ nghề ngay sau khi tôi đi vài năm, phần do tuổi cao, sức yếu, phần vì xe hơi phát triển nhiều người ta chê xe ngựa chạy chậm không đi. Tôi định đi tìm ông, nhưng người làng bảo họ ‘cũng lâu lắm rồi chẳng gặp lại ông ấy nữa, có khi ông Bảy đã mất’. Đành thôi. Thế nhưng nhìn về nơi bến xe ngựa ngày xưa tôi vẫn hình dung như có ông với râu tóc bạc phơ đội chiếc nón lá không còn lành lặn như ngày nào ngồi trên càng xe cầm roi điều khiển con ngựa chuẩn bị xuất bến.

K’Sim (Dăk Nông)
Saigon Xưa ST




-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Feb/2024 lúc 4:18pm
https://www.google.com/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=&ved=2ahUKEwiuma_XuNGEAxXMLFkFHckNDWYQtwJ6BAgSEAI&url=https%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DC0wLGKmA4zs&usg=AOvVaw1-R_O2rYhk0G1vGRnMz6B4&opi=89978449 -

https://www.youtube.com/watch?v=m8jRHAgEQAE - - < - < - <

-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Mar/2024 lúc 4:13pm

https://longhovinhlong.blogspot.com/2024/02/sai-gon-tram-nho-nghin-thuong.html - - Sài Gòn Trăm Nhớ Nghìn Thương

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_4NOnc_mYZI1xTnJyXC22M1uiruZaF464OZNa2EDWNf-jCMDH0ydIhzkdYldEYHi-npN6vprNRQLddy0Ppy84PU15kB96eZaETP-tie9RMesS4HPzjxofgTVPMd1J64bd9VGMdxnfNYley1YDpXuSLooiqMJhKLA_8MouwC7G7EcAkzMHlmLQfFPf4bI/s1255/hongthuy-tre.JPG">

Tôi là con gái Bắc kỳ chính cống, nhưng lại lớn lên ở Sàigòn, nên Sàigòn đối với tôi là một ‘quê nhà’ thắm thiết vô cùng. Tôi đến với Sàigòn, thuở Sàigòn còn là một thành phố với những hình ảnh mộc mạc thanh khiết. Gái Sàigòn đơn giản hiền hòa với áo bà ba trắng, với quần đen ống thật rộng, với đôi guốc mộc nhẹ tênh hình cái thuyền, với mái tóc dài ôm trọn khuôn mặt không chút phấn son.

Hồi mới tới Sàigòn, gia đình tôi tạm trú tại nhà bà dì ở đường Quai de Belgique, sau này đổi thành Bến Chương Dương. Ðứng ở trên lầu, tôi có thể nhìn thấy quang cảnh thuyền bè đi lại tấp nập. Những chiếc thuyền chở đầy những buồng chuối vàng au, những lồng gà, lồng vịt, những chùm dừa xiêm còn nguyên cả cành nằm chen chúc nhau, khoe cái vỏ xanh láng mướt. Tất cả tượng trưng cho sự trù phú của miền Nam.
Nhà dì tôi ở gần chợ Cầu Kho nên ngày đầu tiên chúng tôi đã được một ông chú họ dẫn đi chợ. Tôi mê nhất là gian hàng trái cây bởi vì có nhiều thứ ngoài Bắc không có. Tôi còn đang trố mắt ngó những trái to tròn như trái banh có hai mầu khác nhau, trái xanh mướt như ngọc, trái tím thẫm như mầu trái bồ quân thì cô bán hàng đã đon đả nhìn ông chú tôi:
– Mua ‘dú sữa’ đi thầy hai. ‘Dú sữa’ của em đặc biệt ‘giường nhà’ ngọt lắm đó.
Thì ra mấy trái mà tôi đang ngó là mấy trái vú sữa ở vườn nhà cô ta. Hồi đó tôi mới có 12 tuổi, còn ngây ngô chưa biết nói tiếu lâm nên hơi ngạc nhiên khi thấy ông chú tôi nhìn cô ta cười tủm tỉm với đôi mắt tinh nghịch:
– Vú sữa của cô ngon thiệt hả?
Cô ta gật đầu lia lịa:
– Ngon thiệt mà thầy hai.
Chú tôi chọn mua một chục trái, cô ta đưa thêm 4 trái và nói:
– Thường một chục có 12 trái thôi nhưng là của ‘giường nhà’ nên một chục em tính 14 trái lận.
Chú tôi đưa tiền trả, thay vì phải thối lại 50 xu, cô ta cầm tờ 1$ xé toạc ra làm đôi, đưa chú tôi một nửa. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ngày đầu tiên đã học được hai cái đặc biệt của Sàigòn. Một chục là 12 hoặc 14, nửa tờ giấy 1$ là 50 xu.
Phải công nhận người miền Nam rộng rãi và đơn giản. Một chục mà cho thêm thành 12 tới 14 và thay vì mất công đi tìm tiền xu thì cứ việc cầm tờ giấy 1$ xé béng ra làm 2 là xong ngay. Giản dị và tiện lợi biết bao.

Sàigòn đã thu phục tình cảm của tôi một cách nhanh chóng. Hai mươi mốt năm sau, khi rời bỏ Sàigòn tôi đã khóc như phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Sàigòn đã trở thành một nơi chốn thân thiết vô cùng. Không yêu Sàigòn sao được khi Sàigòn là nơi chứng kiến tất cả kỷ niệm vàng son của thời con gái. Sàigòn với ngôi trường Trưng Vương yêu dấu, nơi đã cho tôi biết bao nhiêu người thầy đáng kính, bao nhiêu người bạn dễ thương, bao nhiêu tình cảm quí mến chân thành. Làm sao quên được con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm rợp lá me bay, những chiều tan học, tràn ngập những tà áo trắng quấn quít gót chân son. Thảo cầm viên đã được nghe không biết bao nhiêu lời thì thầm tâm sự của các nàng Trưng Vương, những giờ nghỉ học, vừa chuyện trò, vừa lang thang hái trộm những cánh hoa mầu tím, ép vào những trang sách học trò. Con đường Thống Nhất rộng thênh thang đưa tới rạp Norodom tưng bừng rộn rã của những ngày Đại hội Văn nghệ học sinh. Tôi như vẫn còn mường tượng thấy khung cảnh rộn ràng trong hậu trường sân khấu. Tuy bận rộn sửa soạn cho những màn trình diễn, nhưng các chàng Chu Văn An vẫn không bao giờ quên gửi đến các nàng Trưng Vương những ánh nhìn say đắm. Chỉ một cái nhìn thật nhanh, thật nhẹ mà sao cũng đủ làm cho ai kia má phải ửng hồng. 

Vòng ra bờ sông là bến tàu lộng gió của những sáng đón đưa, những chiều hò hẹn. Con đường Lê Lợi với những chiều thứ bảy đẹp trời cùng bạn bè dạo phố. Mỗi lần đi qua tiệm Kim Sơn ở góc đường, chúng tôi luôn luôn phải vờ chăm chú ngó mấy món hàng linh tinh bầy bán lề đường, để tránh những cặp mắt nhìn hau háu của mấy ‘ông nội’ ngồi ‘pẹc mơ năng’ ở ngoài hiên giống như mấy ‘Side-walk café’. Tiệm sách Khai Trí là nơi hấp dẫn nhất. Luôn luôn làm chúng tôi mê mẩn trước những cuốn tiểu thuyết còn thơm mùi mực mới.
Màn cuối cùng của buổi dạo phố thường thường là góp tiền lại, rủ nhau vào một tiệm kem. Vừa nhấm nháp những thìa kem dâu, kem dừa mát rượi, vừa nghe những bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng thịnh hành mà chúng tôi thay phiên nhau yêu cầu nhà hàng để dĩa hát, như A Certain Smile, You’re My Destiny, I Went to Your Wedding, Diana v.v…

Hôm nào có phim hay cả bọn lại rủ nhau chui vào một trong hai rạp ciné permanent Lê Lợi hay Vĩnh Lợi. Mỗi lần vào đây là chúng tôi phải đề cao cảnh giác. Vì luôn luôn có một số các chàng thanh niên hay lợi dụng sự đông đúc chen lấn để dở trò ba mươi lăm. Một hôm có một chàng đứng sát sau lưng định dở trò, tôi bèn làm như vô tình quay ngang người lại hích cho chàng một cái cùi chỏ nên thân. Tan ciné, tôi kể chuyện cho lũ bạn nghe, chúng cười hi hí có vẻ khoái chí lắm. Từ đó các bạn tôi học được màn” hích cùi chỏ” để trừng trị các chàng gian manh. Sau khi xem ciné, nếu còn đủ tiền rủng rỉnh trong túi, chúng tôi rủ nhau vào hẻm Casino làm một chầu bánh tôm, bún chả. Nếu chỉ còn ít tiền, thì ra góc Viễn Ðông. Ðứng ở lề đường ăn phá lấu với thịt bò khô. Ăn xong, ớt còn cay xè trong miệng mà vẫn đủ tiền uống một ly nước mía cốt vắt thêm miếng chanh nhỏ xíu, hoặc sang hơn, vắt nguyên nửa quả quít thì còn gì sướng hơn nữa. Có hôm thay vì ăn ở góc Viễn Ðông, chúng tôi lại đi ngược chiều ra góc chợ Bến Thành. Nơi có hàng bò viên nóng hổi, thơm phức mùi tiêu với hành ngò. Sau đó, tráng miệng bằng một ly đậu đỏ bánh lọt. Hoặc rủ nhau vào quán Bà Ba Bủng ở đường Thủ Khoa Huân, sau chợ Bến Thành, ăn bún riêu, bánh cuốn. Sàigòn có không biết bao nhiêu món ngon, hấp dẫn những cái miệng thích ăn quà vặt của các nàng Trưng Vương thuở đó.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj7wCLFHlYM48JBuB_gDCExOwcSkzyg_2ZvDx34YOSaYnPi9ZHVMAw3Row-xYIJSM0Eh8X_ewAiIdNSwQqnNYrzpQm4NO430W_YRVUCrdIosN8mUvYoH6ICTzbCyuY_9wf7Sockz_lan_m1Cb4rnQ2CR8jF8Kyt9qRg4OxI2bjnW3q5-V_v_g9swcVUvZc/s666/chandung%20h%E1%BB%93ngth%E1%BB%A7y.webp">

Khi Mùa Giáng Sinh tới, Sàigòn tưng bừng như mở hội. Người ta không phải bận tâm lo mua quà tặng nhau như ở xứ Mỹ. Ðêm Noel, có đạo hay không, mọi người cũng thích rủ nhau đi dạo trên đường Tự Do. Trai thanh, gái lịch, quần áo lượt là, chen vai, thích cánh, suốt dọc hè phố từ nhà Quốc Hội đến nhà thờ Ðức Bà. Người trẻ đi để ngắm nhau. Người lớn tuổi đi tìm không khí Noel, cái không khí mà suốt bao nhiêu năm sống trên đất Mỹ tôi không làm sao tìm lại được. Hầu như tất cả dân ‘chịu ăn chịu chơi’ của Sàigòn đều có mặt trên đường Tự Do. Ði dạo mỏi chân, mọi người lại rủ nhau vào ngồi trong Givral, La Pagode, Continental, hay ngồi ở công viên rộng lớn trước nhà Quốc Hội hoặc trước tòa Ðô chánh để chờ nghe tiếng chuông đổ hồi rền rã của nhà thờ Ðức Bà báo hiệu lễ nửa đêm, mừng Chúa ra đời.

Sau lễ, mọi người về nhà ăn Réveillon. Nồi cháo gà nóng hổi, khói lên nghi ngút, là món không thể thiếu trong bữa tiệc mừng Giáng Sinh đặc biệt này. Noel của Sàigòn thật vui, thật đầm ấm, thật nhẹ nhàng, thoải mái. Không có quá nhiều lo nghĩ về vấn đề tài chánh phải chi tiêu cho quà cáp.
Không khí Noel ở đất Mỹ mang tính cách thương mại nhiều hơn là không khí thiêng liêng đặc biệt của ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Trước Noel cả mấy tháng người ta đã trưng bầy cây Noel để bán. Bắt mọi người phải nhìn ngắm mãi đâm nhàm chán. Gần sát ngày lễ Noel ai cũng tất bật lo chuyện mua quà, gói ghém cho kịp giờ mở quà đêm mừng Chúa ra đời. Tất cả chỉ có vậy. Ðêm Noel người ta chỉ thấy quá mệt mỏi. Rộn ràng được một chút lúc mở quà. Sau đó là hết. Trống vắng buồn tênh. Thời tiết lạnh lẽo, nhà thờ Việt Nam thì ở quá xa, hơn nữa kiếm được chỗ đậu xe không phải là dễ. Mùa đông buốt giá, chưa kể nếu có tuyết, đường trơn trượt nguy hiểm. Do đó ít ai nghĩ đến chuyện đi lễ nửa đêm. Bởi vậy cứ mỗi lần mùa Giáng Sinh tới là tôi lại nhớ Sàigòn da diết. Nhớ thánh lễ nửa đêm thật tưng bừng ở nhà thờ Ðức Bà. Nhớ con đường Tự Do tràn ngập người đi của những đêm Noel đầm ấm năm xưa.

Tết đến còn vui hơn nữa. Xung quanh chợ Bến Thành những gian hàng bán bánh mứt được dựng lên san sát với nhau. Tiếng rao hàng của những loa phóng thanh vang lên rộn rã. Người đi mua sắm tấp nập. Ai cũng” tay xách nách mang”. Ngày Tết, không nhà nào là không có đủ thứ mứt, hạt dưa, bánh chưng, dò chả.
Nhắc đến Tết ở Sàigòn là ai cũng phải nhớ ngay đến chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ với những cành đào, cành mai tươi thắm. Những chậu cúc, chậu thược dược đủ màu đua nhau khoe sắc. Những chậu quất trĩu quả vàng tươi. Những bát thủy tiên toả hương thơm thật dịu dàng, thanh khiết. Nhưng có một thứ hoa đẹp nhất làm chợ rực rỡ hẳn lên đó là”hoa biết nói.” Các nàng thiếu nữ yểu điệu trong những tà áo dài đủ mầu, tha thướt đi dạo trong chợ hoa là hình ảnh đẹp nhất của ngày Tết ở Sàigòn.
Tôi còn nhớ thời con gái, cứ 23, 24 Tết là chúng tôi đã nôn nao sửa soạn quần áo để rủ nhau đi chợ hoa. Dạo chợ hoa là một náo nức không thể thiếu của các nàng thiếu nữ mỗi lần Tết đến. Cũng như đi chợ hoa để ngắm người đẹp là một điều bắt buộc, không thể nào quên của các chàng trai.

Chợ hoa ở đây (vùng Hoa Thịnh Đốn) sao tẻ nhạt quá. Có lẽ vì hoa không đủ thắm, lại chỉ có lưa thưa, bầy bán rải rác nên không hấp dẫn được người đi. Vả lại các chàng nếu có muốn đi chợ hoa để ngắm người đẹp, thì cũng chỉ tìm thấy những áo ‘cốt’ dầy cồm cộm, to xù xù di động. Chứ làm sao có thể tìm lại được những bóng dáng yêu kiều trong tà áo dài lả lướt của chợ hoa Nguyễn Huệ năm xưa. Thời tiết lạnh lẽo quá, ít ai ở đây còn nghĩ đến chuyện mặc áo dài đi chợ Tết, nên hình ảnh chiếc áo dài trở nên hiếm quí vô cùng. Thật tội nghiệp cho những người Việt Nam xa xứ nơi tôi ở. Phải cố gắng tưởng tượng mùa xuân trong cái giá buốt của mùa đông. Hoa tuyết rơi mà phải tưởng tượng là hoa đào nở, gió đông lạnh lẽo mà cứ cố nhắm mắt lại để mơ tưởng đến ánh xuân nồng. Tết năm nào tôi cũng cố gắng tìm cho được một cành hoa vàng forsynthia để trang hoàng nhà cửa. Ðể tự đánh lừa mình là nhà ta cũng có mai vàng.

Tết nhất đến nơi mà sao giọng Don Hồ cứ buồn não nuột, anh chàng đang hát một bài mà tôi rất thích của nhạc sĩ Ðức Huy:

“Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều. Nhất là những buổi chiều hay mưa. Cũng may Cali trời mưa ít không như Sàigòn. Nếu không, tôi đã khóc một giòng sông…”

Ngoài cửa sổ, chiều nay trời thật đẹp. Những giải nắng vàng còn vương vấn trên mấy ngọn cây cao. Mấy hôm nay trời tạnh ráo, không có lấy một giọt mưa nhỏ. Vậy mà không hiểu sao bỗng nhiên lòng tôi chùng hẳn xuống và …hình như hồn tôi đang “Khóc một giòng sông..”

Hồng Thuỷ


-------------
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info