NGƯỜI CON GÁI XỨ GÒ VÀ
CÂU CHUYỆN CÒN LẮNG ĐỌNG
Tôi cân phân và lần lữa mãi mới viết được bài nầy khi nghĩ rằng
nếu không viết, thì thế hệ sau tôi sẽ không còn ai biết đến, không còn ai nhắc
lại Cô: người khai sáng ra ngành Xã Hội Học Việt Nam tại các trường Đại Học mở
bán công, Đại Học Văn Hiến và một số trường Đại Học khác tại Sài Gòn vào cuối
thập niên 80 thế kỷ XX đến nay. Một lý do khác, đậm đà hơn, thôi thúc hơn vì cố
Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh là người con gái đất Gò. Cô sinh ngày 25 tháng 12 năm
1931 tại làng Thành Phố, tỉnh Gò Công.
Cô Oanh tốt nghiệp cử nhân Xã Hội Học năm 1955 tại Mỹ, rồi sau
đó dám cãi lời cha đi học và tốt nghiệp Thạc sĩ Phát Triễn Cộng Đồng tại
Philipines. Về nước, Cô nhận ngay nhiệm vụ Trưởng phòng học vụ của trường Quốc
Gia Công Tác Xã Hội Sai Gòn từ năm 1971, làm từ thiện ở Caritas. Sau năm 1975,
cô quyết định ở lại Việt Nam. Sau đó, cô giữ chức Phó Chủ Tịch Hội Tâm Lý Giáo
dục, xây dựng Trung Tâm Nghiên Cứu, tư vấn công tác xã hội và phát triễn cộng
đồng. Cô làm việc hết mình, hết lòng, không bao giờ nghĩ đến lợi ích bản thân.
Rất nhiều bài báo đã viết về cô Oanh từ sau ngày 1-5-2009, ngày
mà cô từ giã mọi người tại căn nhà số 40/10A đường Bùi Công Trừng, ấp 3, xã Nhị
Bình, một xã "nổi tiếng nghèo" của huyện Hóc Môn, nơi có một họ đạo
lâu đời mà cô Oanh là tín đồ. Trước năm 1945, nhà cô Oanh là ngôi nhà cổ nằm
trên đường Trương Công Định mà nay là cây xăng, thuộc phường 1, thị xã Gò Công.
Mấy ngày cử hành tang lễ cô Oanh, tôi về Gò Công, những người
dân cố cựu lớn lên, trụ lại Gò Công như anh Dương Hữu Trí, Quản thủ từ đường bà
Trần Thị Sanh ở gần nhà máy xay lúa Hòa Bình cũ đã hé cho tôi qua mục "Gia
phổ họ Huỳnh". Tôi thật ngạc nhiên:
Ngày xưa, có ông bá hộ Dương Tấn Bổn, người làng Yên Luông,
cưới bà Trần Thị Sanh, sinh được chín người con, nhưng đã qua đời hết tám
người. Khi ông Tấn Bổn qua đời, người con gái duy nhất còn lại là Dương Thị
Hương, lúc ấy còn nhỏ. Bà Trần Thị Sanh nuôi dưỡng Hương lớn khôn và gả cho ông
Huỳnh Đình Ngươn. Sau khi chồng chết hơn hai năm, bà Trần Thị Sanh tái giá với
Quản Định(Trương Công Định, người cầm quân kháng Pháp tại Gò Công năm 1982).
Ông Huỳnh Đình Ngân là con trai của bà Hương và ông Ngươn tham
gia kháng chiến chông Pháp, còn con gái út là Huỳnh Thị Điệu lấy chồng là Đốc
Phủ Nguyễn Văn Hải(Đốc Phủ Hải). Riêng con gái trưởng là Huỳnh Thị Nữ lấy ông
Nguyễn văn Túc, sau nầy (1897) bà Hương có chia đất đai rất nhiều.
Bà Nữ và ông Túc sinh ba người con gái: Nguyễn Thị Marie,
Nguyễn Thị Inée và Nguyễn Thị Biếu, cả 3 đều có chồng quyền quí.
Bà Nguyễn Thị Inée ăn ở với ông Nguyễn Văn Hạc (khai sinh viết
sai là Hạt) sinh ra 16 người con, trong đó có cặp song sinh Nguyễn Thị Oanh và
Nguyễn Văn Loan là áp út.
Thạc sĩ Nguyến Thị Oanh là em chị Hai Én, anh Ba Nhạn, anh Tư
Quấc, anh Năm Sắc, anh Sáu Sẻ, chị Bảy Quyên, chị Tám Sảnh, anh Chín Hoạch, chị
Mười Cúc, anh Mười Một Trích, anh Mười Hai Diệc, anh Mười Ba Cót và hai em là
Loan và Trĩ. Nhìn suốt mười mấy người, đều mang tên một loài chim, đủ biết cha
mẹ họ có ước nguyện và kỳ vọng ở con mình như thế nào rồi. Bây giờ, chắc ông bà
Nguyễn Văn Túc đã hài lòng sau khi con gái cưng (ở nhà coi là con gái út, nên
quyết chí cho đi học để bằng với người ta) Nguyễn Thị Oanh về với ông bà.
Khi thấy bài "Ngôi mộ Bát lăng đẹp nhất miền Nam"
trong khuôn viên chùa Long Thiền, Bình Nghị - An Hòa- mà dân địa phương gọi là
chùa Cây Dầu, tác giả viết: bà Dương Thị Hương là dưỡng nữ của ông Trương Công
Định, tôi thiệt không hài lòng. Đến chùa, tôi hỏi Hòa Thượng trụ trì Thích Tâm
Hộ, năm nay 78 tuổi, Hòa Thượng thật thà cho biết: Tôi tưởng nói vậy cho vừa
lòng người viết, chứ tôi biết bà Hương hồi đó cũng không thích Quản Định kháng
Pháp đâu.
Hòa Thượng dẫn tôi đến bàn thờ phía cuối, tay trái, ở đó có
ảnh, danh tánh cả liểng thờ cụ Dương Tấn Bổn cùng năm sinh, năm mất của các vị
như: Thị Én, Văn Sắc, Thị Quyên, Văn Quốc, Văn Nhạn, Văn Sẻ, Thị Sảnh, Văn
Diệc, Văn Cót, Văn Trĩ và cả những rể, dâu con của cụ Hạc và bà Inée họ Cao, họ
Nguyễn, có người tên Tây... Đặc sắc là có cả các ảnh chưa ở đâu có như ảnh
của ông Nguyễn Thơ Hương (1863- 1958) hay ảnh của gia đình bà Hương chụp
trước nhà Đốc Phủ Hải năm 1912, ông Hải chồng bà Huỳnh Thị Điệu -Tám Điệu-
con gái út bà Hương.
Lý do vì sao Hòa Thượng Thích Tâm Hộ thờ các ông, các bà nêu
trên trang trọng khi cất lại chùa năm 1996? Hòa Thượng giải thích:Ông Nội tôi
là bạn bè thân với bà Tám Điệu (Bà Tám Điệu mỗi năm được Thượng Tọa giỗ
ngày 24-6 âl). Bà Tám Điệu có công nuôi tôi ăn học và cô Mười Nguyễn Thị
Cút (nay trên 80 tuổi) hàng năm đều cho tiền để tôi lo nhang khói cho ấm
bàn thờ. Hòa thượng còn nhấn mạnh: chắc Tết nầy cô Mười Cút thế nào cũng gởi
ảnh và tiểu sử cô Oanh về đây để nhang khói, dù trên Nhị Bình cũng có bàn thờ.
So với các tên trên bàn thờ tại chùa, cô Oanh vẫn còn ít nhất 4
anh chị em, trong đó chú Hoạch, chú Loan, cô Cút đang ở nước ngoài. Tình cờ
người viết bài có gặp chú Mười Lăm Nguyễn Văn Loan ở Sài Gòn, chú về để lo cấp
học bổng và xây nhà tình thương cho người nghèo theo di nguyện của cô Oanh.
Lỡ nói thì nói luôn, để bà con từng sống trên đường Bến Xe Ngựa
Gò Công xưa tỏ tường: Cô Thạc sĩ Oanh có người Dì ruột, sống với Dược sĩ Nguyễn
Văn Tri là anh thứ hai của thầy Ba Thắng ở Cầu Tà. Ông Tri là một trong những
người sáng lập Gò Công Tương Tế Hội ở Sài Gòn và làm Hội Trưởng năm 1921-1926,
sau đó dì sống với ông Tòa Ri. Ông Tri có nhà thuốc Tây lớn ở Mỹ Tho.
Hai năm cuối đời cô Oanh bỏ hết tâm lực vào "Hội quán
Hát với nhau" và xây dựng chương trình Giáo Dục sau cai nghiện cho
học viên. Cô rất cực, quên cả tuổi già, bệnh ngặt và rất lo lắng khi nghĩ
đến không ai kế thừa. Năm 2008, tổ chức Bánh Mì Thế Giới đã trao tặng cô danh
hiệu Anh Hùng Đời Thường.
Người con gái Gò Công suốt 78 năm chưa bao giờ nghĩ cho mình,
niềm hạnh phúc lớn lao của cô là niềm vui của những người mình giúp đỡ.
Con chim Oanh sang cả, đẹp đẽ và tài hoa son sắt ấy đã không
còn hót nữa, nhưng những đóng góp của cô về xã hội học sẽ còn mãi với mọi
người.
TRẦN ANH TÀI
VỀ
THĂM Ụ GIỬA
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://files.myopera.com/soida7677/blog/22.jpg&imgrefurl=http://my.opera.com/soida7677/&usg=__WaGYe17A9EX2sAZa8mF1XoT3YKA=&h=276&w=400&sz=130&hl=en&start=17&zoom=1&tbnid=-_e3YMMBMqS8MM:&tbnh=139&tbnw=178&prev=/images?q=que+huong+song+nuoc&hl=en&sa=G&gbv=2&biw=1259&bih=599&tbs=isch:1&itbs=1&iact=hc&vpx=470&vpy=302&dur=1856&hovh=186&hovw=270&tx=131&ty=147&ei=_qogTf62HYT6lwezi8GMDA&oei=9qogTeLqEsL-8Abs05DVDQ&esq=2&page=2&ndsp=17&ved=1t:429,r:13,s:17 -
Về thăm Ụ Giửa tháng ba
Con đường đất đỏ xưa qua đâu rồi
Lòng tôi chợt phút bồi hồi
Qua cầu một chút trong tôi,ngỡ ngàng
Dòng sông vắng chuyến đò ngang
Tìm đâu bóng Nội bên hàng trầu xưa
Một thời tần tảo nắng mưa
Gánh trầu chợt úa nắng trưa,chưa về
Tôi mang một mảnh tình quê
Như dòng sông chảy mang về phù sa
Xóm Giêng,xóm Bộ đi qua
Trong tim như có lời ca quê nghèo
Một thời cầu Mống cheo leo
Tiếng bìm bịp gọi nước reo đôi bờ
Những đêm trăng sáng như thơ
Lá dừa xào xạc thức chờ đợi ai
Tình quê một mảnh trên vai
Vẫn mong có một ngày mai trỡ về
Ụ giửa ơi,mảnh đất quê
Cho tôi một chút quay về tuổi thơ
Việt Trung
|