Luận về "Tình già"
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=866
Ngày in: 19/Jul/2025 lúc 1:23am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: Luận về "Tình già"
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Chủ đề: Luận về "Tình già"
Ngày gởi: 20/May/2008 lúc 7:34am
:::Văn Tệ & Tràng Kiều:::
Tình Già Của Phan Khôi
LNS: Luận về câu chuyện tình trong bài Tình già của Phan Khôi, hai tác giả VT - TK (Văn Tệ - Tràng Kiều, bút hiệu tắt của nhà văn Lê Tràng Kiều) viết trong Hà Nội Báo số 14 ngày 8-4-1936 như sau:
Trên dòng sông Nhuệ TÌNH GIÀ Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh kề nhau than thở: - "Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đã không đặng; Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!" - "Hay, nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ? Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy! Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà tính việc thủy chung!" ... Hai mươi năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau. Đôi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lưng, đố nhìn ra được? Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi. (Phan Khôi)
Hai mươi bốn năm xưa!... Trên dòng sông Nhuệ, một con thuyền lơ lửng trôi đi, làn gió thổi đám mây bay, chị Hằng khi mờ khi tỏ, lẳng lơ soi mình xuống mặt nước trong! Từ xa xa vài tiếng chó sủa trăng, và mấy hồi chuông chùa vang lên khoảng không vô hạn, bốn bề đều im lặng như tờ...
Trên dòng sông Nhuệ, con thuyền vẫn lơ lửng trôi đi! Bên mạn thuyền, một đôi trai gái tựa mình, ngồi ngắm dòng nước bạc. Thiếu nữ ngồi nhìn bóng mà ngẩn ngơ, tiếc cho tấm thân liễu yếu đào tơ, mắc vào vòng tình luỵ, biết bao giờ gỡ thoát được ra? Đời là đời, mà tình là tình, cái sự thật nó vẫn khác xa, nó vẫn đau đớn hơn vòng mộng ảo!
Thiếu niên nhìn bóng mình rồi nhìn bóng bạn, chốc chốc lại thở dài, giơ tay lên vuốt ngực như trong lòng có uất ức điều gì! Thiếu nữ cau mày, hai hàng luỵ ứa; giọt lệ từ từ chảy qua gò phá phấn rồi rơi xuống nước, hợp với bóng giọt lệ dưới sông làm một.
Thiếu niên, bỗng ngẩng lên, vỗ vào vai thiếu nữ:
- Thôi, khóc làm gì em? Vô ích! Khi chúng ta mới yêu nhau, cũng đã biết ngay rằng sẽ khổ! Nhưng anh cũng như em; chúng ta nào có chủ được quả tim, nên biết mà vẫn đem lòng dan díu... Có người bảo: "hãy làm việc đi để giúp ích cho người; giúp ích cho người để người yêu mến, được người yêu mến, thế là hưởng hạnh phúc ở đời" (1). Chúng ta yêu nhau, thế mà sao phải khổ, hạnh phúc ở đời này thật chẳng có sao? Thôi, chúng mình đã phải thế thì thôi đành chịu thế!
- Nói thì dễ lắm anh ạ! Anh làm sao không biết, chớ em thì khó biết được chữ "quên". Ai cũng nói: Muốn khỏi khổ hãy cứ quên đi", nhưng muốn quên đi, phải làm thế nào, em không thấy ai dạy đến! Có nhẽ em là đàn bà, ý chí yếu ớt nên thế, còn anh...
- Còn anh, anh cũng vậy thôi, em ạ! Đứng trước thần tình, hỏi ai dám nói rằng còn có sức mạnh? Nhưng mà vì tôn giáo, vì khuôn phép gia đình, chúng ta không thể lấy được nhau, thì việc gì mà cứ ôm lấy khổ? "Hãy chịu và nhịn", chúng ta chỉ có thể thế được thôi! Vả lại, em dù bây giờ lấy người khác...
- Lạy anh, anh đừng nói đến việc ấy nữa. Em đã khổ lắm rồi!
- Dù không nói, cũng đã khổ rồi, chi bằng ta quay lại đối đầu ngay với sự khổ mà suy tính việc về sau... Anh nói nốt, dù em bây giờ lấy người khác, người ấy vẫn không có thể cấm lòng em vẫn yêu anh! mà có nhẽ như thế lại hơn. Nghĩ cho kỹ, ở đời này, chúng mình có mong cái gì hơn là "vẫn cứ yêu nhau" đâu? Cuộc hôn nhân ép uổng kia không có thể đánh đổ được cái tình cao thượng của chúng mình nào! Rồi đây đôi ta xa nhau, dù ở đâu nữa cái lời thề trên giải Nhuệ gian này bao giờ trước cũng như sau!
- Thế anh rồi cũng lấy vợ chứ?
- Cố nhiên! Anh đã nói rằng dù không ở liền bên nhau, nói với nhau luôn luôn mới yêu nhau được, thì cái tình chúng mình nó nhạt nhẽo thế ư? Vậy cho nên, anh khuyên em cứ nghe lời thầy mẹ, yên việc hôn nhân, rồi chúng ta quên nhau được thì quên, không thì cứ mặc cho thời gian dần xoá việc trước, mà trong khi ấy ta tránh nhau mà vẫn cứ yêu nhau...
***
HAI MƯƠI BỐN NĂM SAU Hai mươi bốn năm sau! Cũng trên dòng sông Nhuệ, bóng ả Hằng vẫn lửng lơ trôi!... Tiếng ai đương hát ở đằng xa đưa lại, trước nhỏ sau to dần:
"Đêm thu trăng gió một trời, Một mình ngồi tưởng sự đời nghĩ quanh. Nghĩ cho muôn vật hoá sinh, Ở trong vũ trụ cái hình ra chi! Trăng kia tròn được mấy khi, Hoa kia nở được mấy thì hỡi hoa! Gái tơ quá lứa đã già. Con tằm rút ruột lại là nhộng non! Khúc sông bồi lấp nên cồn, Dâu xanh, bãi bể, đá mòn nước khe Đồng không con đóm lập loè Khách trần lối ấy đi về những ai? Hình kia đúc tự thợ trời, Tình kia hoạ mới ra ngoài khuôn xanh, Vương chi một mối tơ mành, Tình chung khối ấy dễ dành đã tan, Cho hay những khách trần hoàn, Nghìn thu ở lại thế gian mấy mà! Tưởng người lại ngẫm đến ta, Trăm năm rồi nữa biết là làm sao! Bây giờ hoa nở trăng cao, Trăng tàn hoa tạ, lúc nào biết đâu Một mình tính trước lo sau!..."
Một con thuyền con ở đằng xa trôi lại, đứng trên, một người trạc trung niên đương cất tiếng hát vang...
Bỗng hắn kìm thuyền, lắng tai nghe như có ai đương gọi đò ở bên bờ sông nọ. Áp thuyền vào bờ, một người sư nữ trạc độ tứ tuần bước xuống! Ả Hằng vừa chui khỏi đám mây đen, chiếu ra muôn ánh hào quang, sáng mắt! Bà sư nữ và lão lái đò tỏ mặt nhau, bỗng cùng chung kêu lên một tiếng:
- Kìa anh! - Kìa em!
Rồi cả đôi ôm nhau mà nức nở!
- Sao? Sao em lại gửi mình vào chốn am mây? Việc hôn nhân ngày trước rồi ra sao? - Thôi, chuyện ấy kể chi, anh! Nhưng, còn anh thì sao? Chị ấy đâu? Được mấy cháu rồi? - Khốn nạn, anh đã lấy ai đâu! - Anh, anh cũng "ở vậy" ư? Thế mà...
*** ... Thế mà, hai mươi bốn năm xưa! Trên dòng sông Nhuệ, một con thuyền lơ lửng trôi đi. Làn gió thổi, đám mây bay, chị Hằng khi mờ khi tỏ, lẳng lơ soi mình xuống mặt nước trong! Trừ xa xa vài tiếng chó sủa trăng, và mấy hồi chuông chùa vẳng lên khoảng không vô hạn, bốn bề im lặng như tờ!...
Trên dòng sông Nhuệ, con thuyền vẫn lơ lửng trôi đi! Bên mạn thuyền, một đôi trai gái tựa mình, ngồi ngắm dòng nước bạc. Thiếu nữ ngồi nhìn bóng mà ngẩn ngơ, tiếc cho tấm thân liễu yếu đào tơ mắc vào vòng tình luỵ biết bao giờ mới thoát được ra?
Đời là đời, mà tình là tình, cái sự thật đó nó vẫn khác xa, nó vẫn tục tằn đau đớn hơn vòng mộng ảo!
VT - TK
(1)Travaillez vous pour rendre utile, Rendez vous utile pour e6tre maié. Soye maié pour e6tre heureux.
Charles NODIER
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Trả lời:
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 20/May/2008 lúc 7:37am

------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 20/May/2008 lúc 7:51am

------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 20/May/2008 lúc 7:56am

Nguồn: Mèo sạch thỉu- ảnh chụp tại công viên Nghĩa Đô ngày 23/6/2007
------------- hoangngochung@ymail.com
|
Người gởi: gcvn95
Ngày gởi: 20/May/2008 lúc 1:42pm
Sẳn có bài đọc và có hình minh họa cũng nên có Nhạc, Bài hát Tình Cầm do nữ danh ca Thái Thanh trình bài :
[MUSIC WIDTH=300 HEIGHT=45 AUTOSTART=false]http://gocong.com/forums/uploads/NhacGC/TinhCam.mp3[/MUSIC]
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Aug/2010 lúc 8:09pm
TÌNH CẦM
Nhạc : Phạm Duy
Lời : thơ Hoàng Cầm (Nếu anh còn trẻ)
Trình bày : Ca sĩ Đinh Ngọc
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=l2tWIVKulg - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=l2tWIVKulg http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=8cMADzrd9Q -
Lời bài nhạc :
Nếu anh còn trẻ như năm cũ... Quyết đón em về sống với anh! Những khi chiều vàng phơ phất đến... Anh đàn em hát níu xuân xanh...”
Có mây bàng bạc gây thương nhớ Có ánh trăng vàng soi giấc mơ... Có anh ngồi lại so phím cũ Mong chờ em hát khúc xuân xưa!!!
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận... Anh chẳng quay về với trúc tơ! Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt Mộng héo bên song vẫn đợi chờ!
Nếu có ngày nào em quay gót Lui về thăm lại bến thu xa... Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa... Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha”
Lời bài thơ :
http://www.thica.net/2009/06/05/n%e1%ba%bfu-anh-con-tr%e1%ba%bb/ - Nếu anh còn trẻ
Nếu anh còn trẻ như năm ấy Quyết đón em về sống với anh Những khoảng chiều buồn phơ phất lại Anh đàn em hát níu xuân xanh
Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận Anh lụy đời quên bến khói sương Năm tháng… năm cung mờ cách biệt Bao giờ em hết nợ Tầm dương?
Nếu có ngày mai anh trở gót Quay về lãng đãng bến sông xa Thì em còn đấy hay đâu mất?
Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…
http://www.thica.net/2009/06/05/n%e1%ba%bfu-anh-con-tr%e1%ba%bb/ -
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 19/Aug/2010 lúc 7:45pm
"...Ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần, biểu cậu ngồi, mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau..."
------------- kb
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Aug/2010 lúc 10:01am
vào năm 2007, mk gửi lên <K7Forum> bài nhạc "Tình Cầm" (Phạm Duy) và bài thơ "Nếu anh còn trẻ" (Hoàng Cầm).
Anh Phạm Văn Bân, một người bạn cùng lớp với mk , khi đọc câu "Bao giờ em hết nợ Tầm Dương" trong bài thơ , cảm hứng viết bài "Khảo cứu về trường thi Tỳ Bà Hành" cùng gửi lên K7Forum . Giải thích thêm điển tích Bến Tầm Dương .
Bài viết công phu và khá dài , mk xin mời các anh chị và các bạn yêu thích thể loại văn học này dành chút thời gian thưởng lãm .
Trân trọng,
mk
* Không biết sao lần nầy phần Hán Tự không hiện được !?
Khả o cứu về trường thi Tỳ Bà Hành
(Phạ m Văn Bân )
Bạch Cư Dị
1.Tổng quát:
Cùng v ới các thi nhân trước và sau thời của mình, Bạch Cư Dị 1 , một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Đường bên Trung quốc, đã đặt nền tảng nghệ thuật, phong cđến ngày nay.
Vào th ời của ông, triều Đường bị suy tàn do hai vụ loạn An-Sử (An Lộc Sơn và Sử Tư Minh 755-763), dân chúng phải gánh chịu nhiều tai họa thê thảm, đời sống vô cùng cực khổ vì sưu cao thuế nặng, quan lại tham nhũng, hoạn quan sách nhiễu; do đó hậu quả là sau khi Bạch Cư Dị qua đời, hai vụ nổi loạn lớn khác xảy ra (Vương Tiên Chi năm 874 và HSào năm 875). Lẽ tất nhiên Bạch Cư Dị không thể không mtả thảm kịch xã hội qua thi ca.
Thi ca là m ột sản phẩm mang tính chất tình cảm do con người xúc cảm một cái gì đó mà viết ra. Bạch Cư Dị nói, "Con người có cảm xúc trước sự việc thì tất nhiên tình cảm sẽ bị kích động, rồi sau đó mới cảm hứng hoặc cảm thán phát ra lời ngâm vịnh mà hình thành thi ca." 2 Xuất phát từ tư tưởng thực tế, cận nhân tình như vậy nên thơ của Bạch Cư Dị luôn luôn tả chân, lời lẽ bình dị nhưng ý tứ rất sâu:
"Tác ph ẩm của họ Bạch rất nhiều, viết đủ các thể cách: thi, ca, hành. Thơ văn ông lời lẽ phong cách bao giờ cũng thắm thiết, bình dị, mạnh mẽ nên có một sức truyền cảm rất sâu xa trong tâm hồn người đọc. 3
Bạch Cư Dị (772-846)
--------------------------------
1 Chương Bồi Hoàn và Lê Ngọc Minh, Văn học sử Trung quốc, NXB. Phụ Nữ, 2000, pp. 306-328. Tóm lược:
"Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) tự là Lạc Thiên 樂天, hiệu: Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Túy ngâm tiên sinh 醉吟先生, thụy: Văn 文 nên còn gọi là Bạch Văn Công 白文公. Ông sinh tại Hạ Quê (nay là Vị Nam, Thiểm Tây). Năm 800, ông thi đậu Tiến Sĩ, giữ nhiều chức quan to nhưng năm 816, ông bị biếm làm Tư Mã ở quận Cửu Giang; các thăng trầm trong đời ông xảy ra vào thời vua Hiến Tông (憲宗 806-820), niên hiệu Nguyên Hòa 元和."
Thể thơ Đường luật (luật thi 律詩: ngũ ngôn bát cú, thất ngôn bát cú) là tinh hoa của nền văn hóa thi ca Trung quốc. Trong gần 300 năm đời nhà Đường (618-907) có rất nhiều thi nhân nổi tiếng như: Lý Bạch 李白 (701-762), Đỗ Phủ 杜甫 (712-770), Đỗ Mục 杜牧, Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Vương Duy 王維, Bạch Cư Dị 白居易, Lý Thương Ẩn 李商隱, Nguyên Thận 元稹, v.v. sau này, hàng ngàn bài thơ Đường đã được nhà Thanh thu tập vào cuốn Toàn Đường Thi 全唐詩.
2 Chương Bồi Hoàn và Lê Ngọc Minh, Văn học sử Trung quốc, NXB. Phụ Nữ, 2000, pp. 308-309
3 Phạm Văn Diêu, Việt Nam Văn Học Giảng Bình, NXB. Hoành Sơn, 1969, p. 230
4 Nhạc phủ là tên của một cơ quan lo về ca nhạc tế lễ do Hán Vũ Đế lập. Cơ quan này có trách nhiệm thu thập thi ca lưu truyền trong dân chúng, do đó sau này, dân ca cũng gọi là nhạc phủ. Bạch Cư Di là một trong các nhà tiền phong chủ xướng một phong cách mới trong nhạc phủ, gọi là phong trào tân nhạc phủ - tương tự như phong trào thơ mới của Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XX.
5 Kỳ từ chất nhi kinh, dục kiến chi giả dị dụ dã; kỳ ngôn trực nhi thiết, dục văn chi giả thâm giới dã.
---------------------------------------------------------
Các tác phẩm của Bạch Cư Dị có thể chia thành ba loại như sau:
-Loại phúng dụ, tức là dùng lời lẽ khéo léo để khuyên giải:
Trong lời tựa về Tân Nhạc Phủ 4, Bạch Cư Dị viết, "Muốn đạt mục đích phúng dụ thì về mặt văn tự phải cố gắng viết cho đơn giản dễ hiểu, nói thẳng vấn đề, chứ không dùng cách hàm súc ẩn dụ, khó hiểu." 5 Thí dụ như các bài: Ông già Đỗ Lăng, Thuế nặng, Ông bán than, Ông què tay ở Tân Phong, Mua hoa (Đỗ Lăng tẩu, Trọng phú, Mại than ông, Tân Phong chiết tí ông, Mãi hoa), v.v. Trong bài Ông già Đỗ Lăng viên Trưởng Lại dù biết bá tánh đang bị thiên tai hủy hoại nông sản nhưng vẫn cứ "cấp liễm bạo trưng cầu khảo khóa (thu gấp, thu ngang bao thuế khóa), dồn dân vào chỗ phải bán ruộng để nộp thuế, Bạch Cư Dị phẫn nộ viết:
Bác ngã thân th ượng bạch
Đ oạt ngã khẩu trung túc
Ng ược nhân hại vật tức sài lang
Hà t ất câu trão cự nha thực nhân nhục!
Nghĩa:
Lột áo ta đang mặc,
Giật bắp ta đang ăn.
Hại người hại vật ấy sài lang
Hà tất giương móng nhe răng ăn thịt người!
-Loại nhàn thích:
Năm 816 ông bị trích đi làm Tư Mã Cửu Giang. Ông viết thư gửi cho bạn Dương Ngu Khanh: "Nay tạm sống yên theo số mệnh, tiêu khiển với tháng năm. Có thể sau khi thôi giữ chức sẽ được tự do để sống hòa mình với giang hồ, từ đó sẽ đi khắp nơi." Đây là khoảng thời gian mà ông thiên về Thiền và đạo Phật, sáng tác khá nhiều thơ nói về thú hưởng nhàn, vui với thiên nhiên. Thí dụ bài Tuế Mộ:
Danh ho ạn ý dĩ hỉ
Lâm tuy ền kế hà như?
Ngh ĩ cận Đông Lâm tự
Khê biên k ết nhất lư
Ngh ĩa:
Ý công danh đã hết
Lâm tuyền tính sao đây?
Đị nh đến Đông Lâm tự
C ất nhà tranh bên khe.
--------------------------------------------------
4 Nhạc phủ là tên của một cơ quan lo về ca nhạc tế lễ do Hán Vũ Đế lập. Cơ quan này có trách nhiệm thu thập thi ca lưu truyền trong dân chúng, do đó sau này, dân ca cũng gọi là nhạc phủ. Bạch Cư Di là một trong các nhà tiền phong chủ xướng một phong cách mới trong nhạc phủ, gọi là phong trào tân nhạc phủ - tương tự như phong trào thơ mới của Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XX.
5 Kỳ từ chất nhi kinh, dục kiến chi giả dị dụ dã; kỳ ngôn trực nhi thiết, dục văn chi giả thâm giới dã.
-Loại cảm thương:
Có l ẽ đây mới là loại thơ biểu hiện tài năng cao nhất của Bạch Cư Dị! Nổi bật là hai bài thơ dài theo kiểu kể chuyện là Trường Hận Ca và Tỳ Bà Hành.
Bài Trường Hận Ca viết vào năm 806, đại ý kể câu chuyện của Đường Minh Hoàng, vốn là một minh quân, nhưng đến khoảng cuối đời thì yêu thương Dương Quý Phi, bỏ bê việc nước, suốt ngày chìm đắm trong yến tiệc cùng nàng, dân chúng ta thán khắp nơi. Bối cảnh này thuận tiện nên An Lộc Sơn và Sử Tư Minh khởi loạn. Đường Minh Hoàng phải bỏ kinh đô Trường An mà chạy nhưng vẫn mang theo Dương Quý Phi. Tuy một lòng một dạ yêu thương Dương Quý Phi nhưng trước áp lực của quân sĩ, Đường Minh Hoàng buộc lòng phải ban cho Dương Quý Phi một dải lụa để tự tử mà vẫn nặng lòng thương tiếc:
Th ục giang thủy bích thục sơn thanh
Thánh chúa triêu triêu m ộ mộ tình
Hành cung ki ến nguyệt thương tâm sắc
D ạ vũ văn linh trường đoạn thanh
Ngh ĩa:
Sông Thục nước biếc, núi Thục xanh
Sớm chiều thánh chúa tình quẩn quanh
Hành cung ánh trăng thương tâm lắm
Mưa đêm chuông gió đoạn trường thanh
Sau này, khi xong giặc, trở về cố cung, Đường Minh Hoàng vẫn mơ được gặp lại Dương Quý Phi (du du sinh tử biệt kinh niên, hồn phách bất tằng lai nhập mộng: tử sinh vằng vặc đã bao năm, hồn phách vẫn chưa vào giấc mộng). Vì thế Bạch Cư Dị kết luận:
Thiên tr ường địa cửu hữu thời tận,
Th ử hận miên miên vô tuyệt kỳ!
(Trời đất lâu dài còn có lúc tận, nhưng hận này mãi mãi không nguôi!).
(còn tiếp)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Aug/2010 lúc 10:34am
2.Khảo cứu về Tỳ Bà Hành
Bài Tỳ Bà Hành nguyên bản chữ Hán là một bài trường thi tân nhạc phủ, gồm có 88 câu, mỗi câu có bảy chữ, viết vào năm 816. Hoàn cảnh sáng tác bài này được Bạch Cư Dị viết trong lời tựa dưới đây:
Hán t ự:
元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安, 感斯人言, 是夕, 始覺有遷謫意, 因為長句歌以贈之, 凡 六 百 一 十六言,命曰琵琶行。
Hán Vi ệt:
Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư Mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, ủy thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thủy giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ Bà hành.
Dịch nghĩa:
Nguyên Hoà năm thứ 10, ta bị giáng về làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa Thu sang năm, tiễn khách ở cửa bến sông Bồn, giữa đêm nghe có người đờn tỳ bà, (ta) nghe tiếng soeng soẻng (như phong cách) của tiếng đờn ở kinh đô; hỏi người đó (thì trả lời) tôi vốn là người nữ hát ở Trường An, (từng) học tỳ bà với hai thầy giỏi họ Mục, Tào. Tuổi lớn, nhan sắc tàn, (tôi) trao thân làm vợ một người buôn bán. (Ta) thỏa ý, ra lệnh đãi rượu, khoan khoái bảo nàng đờn vài khúc, khúc đờn xong thì cảm thấy thương xót. (Ta) tự tỏ bày thời trẻ của ta thì vui sướng, nay trôi nổi lưu lạc, xoay đổi ở chốn giang hồ. Ta ra làm quan đã hai năm yên ổn an bình, cảm xúc lời nàng, (vì thế) đêm nay, do có bị giáng chức, trách phạt vì sơ ý mới hiểu được, nương theo đó mà (ta) làm một bài thơ dài tặng nàng, có 616 chữ, gọi là Tỳ Bà hành. 6
Trong c ảm thông với xướng nữ tài hoa nhưng vì tuổi cao, nhan sắc tàn tạ phải trao thân cho một gã lái buôn, rồi nghĩ đến thân phận bị biếm của mình, Bạch Cư Dị đã nương theo đó mà làm một bài thơ dài tặng nàng, tức là do bị giáng chức vì ý tứ không đúng cách nên hiểu được nỗi buồn đau của người ca kỹ. 7 Ám ch ỉ là m ột cách c ủa c ổ nhân để bày t ỏ tâm tr ạng khi h ọ không th ể công khai.
Bài Tỳ Bà hành được giới văn học Việt Nam đặc biệt yêu thích. Nội dung và nguồn gốc của bản chữ Hán không có nghi vấn, còn bản dịch ra tiếng Hán Việt cũng không bởi lẽ đơn giản tiếng Hán Việt chỉ là dịch âm mà thôi, ai cũng đều dịch giống y như nhau. Tuy nhiên, bản dịch ra tiếng Việt có một số việc cần xem xét.
Thứ nhất, có bản dịch mà một số người cho đó là của Phan Huy Vịnh. Xem kỹ nội dung vài bản dịch ra tiếng Việt thì thấy có vài sai sót về nghĩa mà tôi không tin là do Phan Huy Vịnh hoặc bất cứ ai đã dịch sai mà chỉ vì người ta tam sao, thất bổn. Các cụ ngày trước không bất cẩn để dịch sai nghĩa đâu, chỉ có hậu bối không biết chữ Hán nên phỏng đoán và lưu truyền sai nghĩa từ bản dịch gốc. Dưới đây là nhận xét đúng đắn của học giả Phạm Văn Diêu 8 :
------------------------------------
6 Lời tựa do người viết dịch qua tiếng Hán Việt và giải nghĩa ra tiếng Việt.
7 Khi tể tướng Vũ Nguyên Hành bị thích khách giết, Bạch Cư Dị dâng biểu xin tình nguyện đi bắt thích khách; vì vậy bị buộc tội là nói những lời vượt quá mức quyền hạn và biếm đi làm Tư Mã quận Cửu Giang.
8 Phạm Văn Diêu, Việt Nam Văn Học Giảng Bình, NXB. Hoành Sơn, 1969, pp. 230-232
(Còn tiếp)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Aug/2010 lúc 7:47pm
"V ề vấn đề dịch giả, người ta bàn cãi qua lại với nhau khá nhiều nhưng đến nay, ta đã tìm được chứng cứ để có thể quyết nhận hẳn bản dịch Nôm là của Phan Huy Thực. Trước đây, ông Hoa Bằng cho rằng đấy là văn của Nguyễn Văn Siêu; ông Lê Thước thì nói là Nguyễn Công Trứ; vài nhà học giả khác lại bảo là của Phan Huy Vịnh. Thiếu chứng cớ xác thực, lời của Hoa Bằng không thể tin được. Còn ông Lê Thước thì không vững lẽ vì văn cách ngang tàn, phóng dật trong toàn bộ thơ văn Nguyễn Công Trứ đâu có giống lối văn Tỳ Bà hành với một điệu buồn đài các; bảo là của Phan Huy Vịnh thì lại không thấy có chứng cớ gì. Ta nay căn cứ trong gia phả họ Phan thì thấy chú ghi rằng Phan Huy Thực đã diễn Nôm Tỳ Bà hành. Điều này đáng tin cậy vì dòng dõi họ Phan đều nổi tiếng giỏi Hán và Nôm. Huy Thực với thân phụ là Huy Ích, với em là Huy Chú, với con là Huy Vịnh. Ông Hoàng Xuân Hãn cũng cho rằng tác phẩm này là của Phan Huy Thực, người đã viết tập Bần nữ thán."
"N ăm Gia Long thứ 10 (1811), Phan Huy Thực được nhà vua nghe tiếng vời ra trọng dụng, bổ làm Thị Tào. Năm Gia Long thứ 16 (1817) lại được cử làm Phó Sứ sang triều Thanh. Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820) được bổ nhậm Hiệp Trấn Lạng Sơn, rồi làm Lễ Bộ Thượng Thư, lại được cử khảo cứu về lễ nhạc và làm Tổng Tài bộ Thực lục. Đến năm 1841 thì ông xin về hưu trí và mất năm 1842. Ông có tài văn thơ, gia phả họ Phan từng ghi ông là tác giả các tập Hoa thiều tập vịnh, Nhân ảnh vấn đáp, thơ Tỳ Bà hành diễn âm. Ông còn là tác giả tập Tình thiều kỷ hành và Mộng dương tập tự. Trong đời làm quan, Huy Thực đã ba lần lên xuống chức Thượng Thư bộ Lễ. Vì lẽ đó ông đã cảm thông sâu xa với Bạch Lạc Thiên mà phiên diễn Tỳ Bà hành chăng? Điều này dẫu chưa có chứng cớ gì đích thực nhưng cũng không hẳn thiếu lý do, không hẳn hoàn toàn võ đoán. Ta nên nhớ rằng trong xã hội phong kiến phương Đông, người đàn bà thường vẫn là kẻ thiệt thòi, kẻ thiếu hoàn cảnh, phương tiện nhất để tự phát triển. Càng sắc, càng tài, càng tình cảm bao nhiêu thì họ càng chuốc lấy thương đau, mà thoát ly ra khỏi thông lệ thế thường thì lại càng bị ruồng rẫy, đọa đày. Coi như trường hợp ca nhi, xướng nữ thì đủ rõ, đời họ không có gì là bảo đảm cả ngoài cái "duyên trời" mà cũng nằm lọn trong tay làng xa mã, khách tài hoa."
"H ơn nữa, ta cũng nên ghi nhớ rằng trong kho thi văn Trung quốc, Tỳ Bà hành là một bài thơ trong những áng thơ hay có tiếng. Vì lòng ham mộ nghệ thuật nhà thơ Đường trứ danh này, Phan Huy Thực tài hoa đã đem diễn Nôm bản Tỳ Bà hành, việc ấy suy ra cũng xác đáng. Song ngoài bấy nhiêu nguyên nhân, ta còn thấy rằng đối với nhà thơ họ Phan, trước biết bao chán ngán eo sèo về thời cuộc chông chênh từ Minh Mệnh, hẳn nhiên việc dịch văn Tỳ Bà hành vẫn là một nhu cầu khả dĩ thỏa mãn cái tâm hồn nghệ sĩ phóng khoáng của thi nhân vốn có khuynh hướng thoát ly "thực tại" để tìm về một "thế giới kỳ ảo xa xưa vậy."
Thứ hai, bản dịch ra tiếng Việt quả thực là một sáng tác trên một sáng tác! Từ 88 câu thơ chữ Hán viết theo lối văn văn ngôn thịnh hành thời Bạch Cư Dị, bản diễn ra tiếng Việt là một tác phẩm trường thi, cũng 88 câu nhưng diễn theo thể thơ thất ngôn bát cú của Việt Nam rất đặc sắc, giữ đúng nghĩa của bản gốc mà đọc lên như một sáng tác mới bằng tiếng Việt thuần của người diễn!
Dười đây là cả ba bản thơ được trình bày theo ba cột riêng biệt:
Hán tự
(không copy&paste được ) |
Tỳ Bà Hành (tiếng Hán Việt) |
Tầm dương giang đầu dạ tống khách Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt Chủ nhân há mã khách tại thuyền Cử tửu dục ẩm vô quản huyền Túy bất thành hoan, thảm tương biệt Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh Chủ nhân vong qui, khách bất phát Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ? Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì Di thuyền tương cận yêu tương kiến Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai Do bão tỳ bà bán già diện Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ Tự tố bình sinh bất đắc chí Đê mi tín thủ tục tục đàn Thuyết tận tâm trung vô hạn sự Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu Sơ vi " Nghê thường", hậu "Lục yêu" Đại huyền tào tào như cấp vũ Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ Tao tao thiết thiết thác tạp đàn Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt U yết tuyền lưu thủy hạ than Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết Biệt hữu u sầu ám hận sinh Thử thời vô thanh thắng hữu thanh Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh Thiết kỵ đột xuất đao thương minh Khúc chung thu bát đương tâm hoạch Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung Tự ngôn Bản thị kinh thành nữ Gia tại Hà mô lăng hạ trú Thập tam học đắc tỳ bà thành Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ Khúc bãi tằng giao Thiện tài phục Trang thành mỗi bị Thu nương đố Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu Nhất khúc hồng tiêu bất tri số Điền đầu ngân tì kích tiết toái Huyết sắc la quần phiên tửu ố Kim niên hoan tiếu phục minh niên Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ Đệ tẩu tòng quân, a di tử Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố Môn tiền lãnh lạc xa mã hi Lão đại giá tác thương nhân phụ Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự Mộng đề trang lệ hồng lan can Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức Hựu văn thử ngữ trùng tức tức Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân Tương phùng hà tất tằng tương thức Ngã tòng khứ niên từ đế kinh Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc Chung tuế bất văn ty trúc thanh Trú cận Bồn Giang địa đê thấp Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh Kỳ gian đán mộ văn hà vật Đỗ quyên đề huyết viên ai minh Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh Khởi vô sơn ca dữ thôn địch Ẩu á trào triết nan vi thính Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc Vị quân phiên tác tỳ bà hành Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp Thê thê bất tự hướng tiền thanh Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp Tọa trung khấp hạ thùy tối đa? Giang châu tư mã thanh sam thấp!
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty Say những luống ngại khi chia rẽ Nước mênh mông đượm vẻ gương trong Đàn ai nghe vẳng bên sông Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ? Dừng dây tơ nấn nà làm thinh Đời thuyền ghé lại thăm tình Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ Tay ôm đàn che nửa mặt hoa Vặn đàn mấy tiếng dạo qua Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay Nghe não ruột mấy dây buồn bực Dường than niềm tấm tức bấy lâu Mày chau tay gẩy khúc sầu Giải bày hết nỗi trước sau muôn vàn Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu Dây to nhường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao Cung đàn trọn khúc thanh tao Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông Ngậm ngùi đàn bát xếp xong Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời Rằng "xưa vốn là người kẻ chợ Cồn Hà Mô trú ở lân la Học đàn từ thuở mười ba Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên Gã Thiện tài (9)sợ phen dừng khúc Ả Thu nương(10) ghen lúc điểm tô Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ Bức quần hồng hoen ố rượu oi Năm năm lần lữa vui cười Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu Buồn em trảy lại lo dì thác Sầu hôm mai đổi khác hình dung Cửa ngoài xe ngựa vắng không Thân già mới kết duyên cùng khách thương Khách trọng lợi, khinh đường ly cách Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi Thuyền không, đậu bến mặc ai Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng Đêm khua, sực nhớ vòng tuổi trẻ Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen Nghe đàn ta đã chạnh buồn Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời Cùng một lứa bên trời lận đận Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau Từ xa Kinh khuyết bấy lâu Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai Chốn cùng tịch lấy ai vui thích Tai chẳng nghe đàn địch cả năm Sông Bồn gần chốn cát lầm Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên Tiếng chi đó nghe liền sớm tối Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng Há chẳng có ca rừng, địch nội ? Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe Tỳ bà nghe dạo canh khuya Dường như tiên nhạc gần kề bên tai Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca " Đứng lâu dường cảm lời ta Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây Nghe não ruột khác tay đàn trước Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi Lệ ai chan chứa hơn người ? Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
|
9 Phạm Văn Diêu, sách đã dẫn, p. 233: Thiện tài: tên của một nhạc sư, thường dùng chỉ người đàn ông chơi đàn hay.
10 Phạm Văn Diêu, sách đã dẫn, p. 233: Thu nương: chỉ một người đàn bà đẹp, có tiếng trong giáo phường. Thường dùng chỉ người con gái giỏi ca đàn. Thiện tài và thu nương đã trở thành danh từ chung. |
(Còn tiếp)
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Aug/2010 lúc 8:09pm
Khảo cứu về trường thi Tỳ Bà Hành
-Phạ m Văn Bân-
(tiếp theo)
Thứ ba, để dạy cho quần chúng thì cần đơn giản, dễ hiểu như Bạch Cư Dị chủ trương nhưng không nhất thiết phải luôn luôn như thế. Trong văn học nghệ thuật, có rất nhiều người dùng điển tích để bày tỏ điều gì đó mà không muốn kể rõ. Trái lại, họ chỉ cần dùng ít chữ để ám chỉ một sự tích khiến cho khán giả, đọc giả, thính giả, v.v. phải nhớ đến điển (nghĩa là việc cũ) đó để hiểu và cảm thấy lý thú.
Thi nhân Hoàng Cầm và khá nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam dụng điển trong các tác phẩm nghệ thuật vì lý do không muốn nói thẳng hay muốn tránh bị phiền nhiễu pháp luật không cần thiết, đặc biệt vào thời xưa, có thể mất đầu, thậm chí bị tru di tam tộc!
Xét bài thơ "Nếu anh còn trẻ" của Hoàng Cầm, do Phạm Duy phổ nhạc với tựa đề "Tình Cầm" làm thí dụ như dưới đây:
http://www.thica.net/2009/06/05/n%e1%ba%bfu-anh-con-tr%e1%ba%bb/ - Nếu anh còn trẻ
Nếu anh còn trẻ như năm ấy Quyết đón em về sống với anh Những khoảng chiều buồn phơ phất lại Anh đàn em hát níu xuân xanh
Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận Anh lụy đời quên bến khói sương Năm tháng… năm cung mờ cách biệt Bao giờ em hết nợ Tầm dương?
Nếu có ngày mai anh trở gót Quay về lãng đãng bến sông xa Thì em còn đấy hay đâu mất? Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…
(Hoàng Cầm)
Câu Bao giờ em hết nợ Tầm Dương? rõ ràng là ẩn ý, trích từ câu thơ mở đầu độc đáo của Phan Huy Thực:
B ến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Qu ạnh hơi Thu, lau lách đìu hiu.
Và n ếu muốn hiểu tường tận ý tứ của thi nhân Hoàng Cầm, thiển nghĩ người ta cần hiểu trọn ý 88 câu của bài Tỳ Bà hành.
Kh ảo cứu ngắn gọn này nhằm thân tặng bạn NTXP và các bạn thích thi văn.
California, May 2007
Phạm Văn Bân
(ThuNhan.K7)
http://www.thica.net/2009/06/05/n%e1%ba%bfu-anh-con-tr%e1%ba%bb/ -
------------- mk
|
|