Nếu cái chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn tòm tem thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người vì văn minh nên thường "vẽ rắn thêm chân" do đó để thỏa mãn cái nhu cầu tòm tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức, phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
Thông thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng ký chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có khi chỉ là dã tràng xe cát cho nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô nàng vì lý do này lý do nọ không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy phép hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang không hề ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì chính đó cũng là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể sáng tác nên những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản nhạc để đời.
Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về rồi thì mọi chuyện bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn ngoài cái chuyện đêm đêm:
Ðàn ông gì thứ đàn ông Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà Ðàn bà gì thứ đàn bà Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
Lấy chồng từ thủa mười lăm Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi Ðến năm mười tám đôi mươi Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường Một rằng thương, hai rằng thương Có bốn chân giường gãy một còn ba ...
Chẳng cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm sao gãy được cái chân giường, chẳng qua chuyện gãy cái chân giường là do tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên cũng không thiếu gì những trường hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp bụng thở than:
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng
Nhờ xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có đăng ký chính thức này mà có những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng trở thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v... để ra oai tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn "gà mái đá gà cồ". Ðiều này có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng nghèo dốt đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng không bao giờ được thiên hạ gọi là ông luật sư , ông bác sĩ gì cả để mà hậm họe với đời hay lên lớp chị vợ.
Thời còn chế độ phong kiến thì tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có vài ông vua lại học được cái câu "nhất vợ nhì trời" của dân gian nên có nhiều bà gốc dân giã, không cần dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được một ông vua loại trên tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái hậu là cũng đủ làm cho đất nước điêu đứng.
Riêng đối với đa số các bà thường thường bậc trung không có gì để thi thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu chứng lận trong lưng nên rất hãnh diện phô trương cái thành quả tòm tem của mình, đi đâu cũng vác cái bụng phình chương ướng nghễu nghện ra cái điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã hội nhìn vào mà nể nang chứ không giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm tem chui, lỡ có kết quả là tìm cách dấu còn hơn "mèo dấu cứt".
Mặc dù các nhà đạo đức và các nhà luật pháp thường khuyến cáo con người chỉ nên và chỉ được tòm tem có đăng ký chính thức tại một hộ khẩu thường trú, nhưng nhiều khi vì tính ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ tục đăng ký đã tòm tem. Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này rất phổ biến trong lứa tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm lo lắng của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên có nhiều cô cậu gặp khó khăn trong vấn đề đăng ký hành nghề, thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành nghề trước mà sau đó được cấp giấy phép điều chỉnh, hoặc cũng có khi là bị bắt buộc điều chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
Cũng có khi đã đăng ký có nơi có chốn, nhưng vì thích điều mới lạ hoặc ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem" hoặc là ông đi lính "nhảy dù" bà đi tìm nơi "ăn vụng". Ðây là loại tòm tem chui, trốn thuế cho nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm, nổ súng, rượt bắt rất sôi nổi, hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn. Ngày xưa khi mà "phép vua thua lệ làng", dân nông thôn ở các vùng ven sông đôi khi vẫn vớt được đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo giòng nước chỉ vì bị bắt quả tang đang ăn vụng.
Thời Ðệ nhất Cộng hoà, có một ông quan nhà binh súng ngắn nọ không thích bắn súng đồng ngoài chiến trường mà chỉ thích bắn súng cao su ở các vũ trường. Quan bắn giỏi quá nên có một em ca ve xin được rước quan về cận vệ cho mình. Chị cả ở nhà thấy quan lâu ngày không chịu cho mình khám súng mà cứ vác súng đi suốt đêm nên cho tay em đi điều tra. Tay em tìm ra cớ sự bèn về bẩm báo và hiến kế cho chị Cả nên tặng cô nàng nọ một liều a xít để biến cô nàng thành đống sắt vụn. Báo hại sau vụ ấy cả miền Nam mỗi khi nghe có ai nói tới hai tiếng a xít là các bà các cô đua nhau tìm đường chạy trối chết.
Có những bà vì không có phương tiện để theo dõi tìm tòi hoặc không muốn lặn lội thanh toán kẻ địch ở xa cho nhọc công phí sức, nên cứ nhắm ngay đối tượng gần là ông chồng mà trị tội cho tiện. Nghe đâu thời Tây còn cai trị xứ Nam kỳ có một cô Năm Huờn nào đó giận ông chồng không chịu tòm tem với mình mà cứ đi tìm người khác để tòm tem cho nên mới nổi tam bành rưới xăng đốt luôn ông chồng làm đuốc cho đời soi chơi.
Thời Liên khu V kháng chiến, nghe đâu tại Mộ Ðức cũng có một nữ cán bộ thấy đồng chí chồng cứ đi công tác với các nữ đồng chí ấp khác mà không chịu sinh hoạt ở ấp nhà nên tức giận dùng dao phay chặt phăng cái lệnh công tác của đồng chí chồng. Tin này được nhanh chóng loan truyền trong hàng ngũ cán bộ, do đó mà sau này trong các buổi họp giao ban, mỗi khi có đồng chí nào đó thích thảo luận cù nhầy mà có nữ đồng chí nào giơ tay phát biểu: "Tôi xin cắt đứt đồng chí" là các nam đồng chí hè nhau bỏ chạy xanh cả mặt.
Tòm tem chui có khi "chùa" mà cũng có khi là "tiền trao cháo múc". Nếu là tòm tem theo kiểu tiền trao cháo múc thì thường phái nam là kẻ phải chi tiền, họa hoằn mới có vài anh mày dày mặt dạn được đời tặng cho cái danh hiệu là "đĩ đực". Riêng khối chị em ta là vừa được tòm tem lại có tiền ăn bánh nên có nhiều cô nàng bất cần miệng đời khen chê đã xin chọn con đường này làm "con đường em đi". Xã hội nào mà có nhiều cô nàng chọn con đường này thì mấy bà phước ở trong xã hội đó lại càng có dịp nuôi một bầy con không phải con mình. Tuy nhiên cũng có những trường hợp cá biệt, có những cô nàng lúc đầu đi con đường này, nhưng sau đó tình cờ vớ được một anh chàng kiểu Từ Hải mà bỗng hóa thành mệnh phụ phu nhân, trở nên danh giá, ban ân ban phước cho đời. Aáy là chưa kể đến chuyện vào hậu bán thế kỷ 20 lại còn có thêm hiện tượng hàng loạt chị em ta nhờ tòm tem với của lạ nước ngoài mà về sau biến thành Việt kiều được đồng bào cả nước mến mộ vì mấy đồng đô la trong ví.
Ngoài các hình thức tòm tem có đăng ký, tòm tem lén, tòm tem chui, tòm tem nhảy dù còn có một hình thức nữa gọi là tòm tem ẩu. Ðây là một hình thức tòm tem không thông qua sự thỏa thuận của đôi bên mà chỉ đến từ một phía. Loại tòm tem này có thể là hình thức nhẹ như của mấy anh chàng thích thả dê theo kiểu trong ca dao:
Vú em chum chúm hạt cau Cho anh bóp cái có đau anh đền Vú em chẳng đáng một tiền Cho anh bóp cái anh đền quan năm
Có nhiều anh chàng nhờ trước thả dê, sau thành duyên nợ, nhưng cũng có khối anh chàng bị ăn tát tai, đòn gánh, guốc cao gót có khi lỗ máu đầu, hoặc phải ra hầu toà về cái tội hành nghề không có giấy phép.
Hình thức mạnh thì thường đi kèm với dao găm, lưỡi lê, súng đạn, hoặc ít nhất là cũng đôi cánh tay gân guốc. Ðây là một hình thức dã man thô bạo, thường gắn liền với những tội ác mà con người không thích thấy nhưng lại cứ hay diễn ra tại những nơi nào có chiến tranh, loạn lạc, bất công và áp bức. Chuyện kiểu này thì vô cùng, xin để dành phần hành này cho các nhà làm chính trị, các nhà làm luật pháp, các nhà rao giảng đạo đức, tôi không dám lạm bàn.
Mặc dù tòm tem là một nhu cầu tự nhiên nhưng con người lại thích khoác cho nó cái vẻ không tự nhiên cho nên mới sinh ra lắm cái nực cười hay những chuyện thương tâm đầy nước mắt.
Trong một phiên họp Quốc hội thời Ðệ nhất Cộng hòa tại Miền Nam để biểu quyết một dự luật về vấn đề bảo vệ tòm tem, có hai vị dân biểu nọ tranh luận nhau sao đó mà vị nữ dân biểu bỗng đứng dậy một tay rút guốc đập lên bàn, một tay xỉa xói vào mặt vị nam dân biểu và the thé: "Không có đàn bà làm sao có đàn ông?" Vị nam dân biểu bị xúc phạm liền hùng hổ không kém đứng lên vung tay quát: "Không có đàn ông làm sao có đàn bà?" Chẳng ai biết hai vị dân biểu kia rốt cuộc ai thắng ai nhưng dân chúng nghe qua chuyện này đều ôm bụng cười và bảo nhau là hai vị nọ rõ khéo thừa hơi vì nếu không có tòm tem thì làm quái gì có đàn ông hay đàn bà để mà cãi cọ.
Còn các ngài Cộng sản Việt nam khi đề cấp đến vấn đề tòm tem thì tung ra cả một nền đạo đức cách mạng thật là kêu nhưng thực tế thì các ngài chỉ dùng nó làm cái bình phong để kẻ khác không dám nhìn xem các ngài là những kẻ chuyên tòm tem ẩu hoặc ít ra cũng là hạng "ăn vụng chùi mép" một cách tài hơn ai hết. Một cụ tự phong là "cha già dân tộc" qua bao năm được sơn son phết vàng như một thần tượng của đạo đức cách mạng thì bây giờ thiên hạ phanh phui ra không biết bao nhiêu chuyện. Riêng về cái mục tòm tem thì "cha già khả kính" đã từng "sinh hoạt bí mật" với vợ của đồng chí của mình, đã tưng tiu đặc biệt một "cháu ngoan của bác" người vùng Thượng du. Ngày bác bỏ núi rừng về tiếp thu cái dinh Bắc bộ phủ, em cháu ngoan nghe nói bác về Thủ đô ở nhà cao cửa rộng nhưng vẫn không quên cất thêm một căn nhà sàn bên cạnh bèn bế con về thăm. Bác sợ bị lòi cái đuôi chồn lâu nay vẫn dấu kỹ bèn ra lệnh cho đồng chí phụ trách bộ Tẩm Quất giải quyết êm đẹp. Ðồng chí bộ trưởng bộ Tẩm Quất vốn có thời ôm cây đàn ghi ta ca bài "Nụ cười sơn cước" mà chưa có dịp tòm tem, nay nhân dịp "mỡ dâng miệng mèo" bèn không ngần ngại vét chuyến tàu chót trước khi chuyển em thiếu nhi cháu ngoan người Thượng xuống Hồ Tây để rửa cho hết bụi trần.
Cái chuyện tòm tem không phải chỉ có người mới thích mà ngay cả thần tiên cũng còn đam mê. Trong dân gian vẫn truyền tụng những câu truyện như Sơn Tinh và Thủy Tinh chỉ vì tranh nhau nàng công chúa con vua Hùng mà đánh nhau hết năm này sang năm khác, gây ra cảnh gió mưa bão lụt làm khổ cho dân. Lại có những nàng tiên còn vương vấn mùi tục lụy nên mới xui khiến cho chàng Từ Thức lạc động Hoa vàng. Có nàng thì lại còn ham vui xuống tận trần gian xem hội của người đời để rồi gây ra cớ sự khiến cho phải vướng vào duyên nợ với người trần như truyện Giáng Kiều và Tú Uyên.
Tòm tem là nguyên lý của sự sống cho nên hình như dân tộc nào cũng đề cao. Văn minh Văn lang cũng có sự tích "ông Ðùng bà Ðà". Tương truyền là ngày xưa có nhà nọ sinh ra được hai con một trai một gái. Ðến tuổi trưởng thành thì cả hai chị em nhà này đều cao lớn dị thường do đó khi bắt đầu biết đến tòm tem thì nhìn quanh nhìn quẩn không thấy đâu có đối tượng có khả năng hợp tác với mình nên cuối cùng cả hai đành phải hợp tác với nhau. Dân làng cho rằng đây là một hành vi loạn luân bèn xúm lại tẩm quất cho hai chị em nhà này một trận, đến lúc dừng tay lại thì chỉ còn thấy hai đống thịt. Dân làng sợ Trời phạt cái tội cả gan hủy diệt cái nguyên lý của sự sống mà bắt phải tuyệt tự cho nên mới lập đền thờ. Hằng năm đến ngày giỗ thì lại làm hai hình tượng khổng lồ rước đi nghễu nghện khắp làng sau đó là trai gái trong làng được một đêm tự do ra đình làng tòm tem bằng thích để tạ tội. Nghe chuyện này biết đâu chừng có nhiều người cũng đang tiếc hùi hụi tại sao ta lại không được sinh ra tại cái làng ấy.
Khờ khạo như Bờm nhưng một khi đã biết đến tòm tem thì cũng mê mẩn ra phết. Chuyện kể là ngày xưa có hai ông bà hiếm hoi sinh hạ được có mỗi một cậu con trai đặt tên là Bờm. Vì sợ mất giống nên Bờm được cha mẹ cưới vợ cho rất sớm. Chị vợ lớn hơn Bờm nên hàng ngày cứ phải bế chồng đi chơi, đút cơm và lo tắm rửa cho chồng năm này sang năm khác mà ban đêm thì chẳng xơ múi gì. Ðùng một cái đến cái năm con chuột rúc rích gầm giường, chị vợ táy máy sao đó mà Bờm bừng sáng trí khôn hiểu ra cái lẽ sống ở đời.
Từ hôm ấy Bờm cứ mê mẩn quanh chị vợ tối ngày làm chị vợ không còn thì giờ làm công việc nhà nên bị bà mẹ chồng đay nghiến nhiếc móc. Chị vợ ức quá bèn dấu cục đá dưới váy rồi dẫn chồng đến bờ ao lôi cục đá thảy tòm xuống ao và bảo chồng: "Thôi nhé! Tôi đã quăng cái tòm tem xuống ao rồi! Từ nay đừng có theo tôi mà đòi nghe rõ chưa." Bờm tiếc của trời nên ngày nào cũng lội xuống ao mò mẫm. Ðược vài ngày chị vợ thấy vừa thương hại vừa nhớ nên mới ra ao bảo chồng: "Thôi về nhà đi rồi tôi đền cho! " Bờm không dám tin vào người vợ đã từng nhẫn tâm quăng mất niềm vui của mình nên cứ ở lì dưới ao. Chị vợ tức quá bèn vén váy vỗ phành phạch mà bảo: "Nó đây rồi nè!" Bờm ngước lên thấy vợ mình vẫn còn giữ cái món của hồi môn tưởng chừng như đã bị quăng mất ấy y nguyên chỗ cũ bèn hớn hở bò lên theo vợ về nhà. Nghe nói từ đó về sau Bờm tòm tem rất tiến bộ, sinh ra cả bầy con, rồi con cái Bờm lại nối gót mẹ cha mà tòm tem cần cù để tiếp tục sinh ra cháu chắt hàng đàn hàng đống ở chật ních cả giải đất hình chữ S.
Chuyện tòm tem mà có nói mãi thì cũng không bao giờ cùng, cho nên tôi cũng không tài nào nói hoài, chỉ xin tóm lại một câu: dân tộc ta qua hàng ngàn năm nô lệ, hàng ngàn năm thiếu ăn, hàng ngàn năm chinh chiến, người chết như rơm rạ mà vẫn không bị diệt chủng là vì nhờ dân ta ở đâu lúc nào cũng khoái tòm tem và có thể tòm tem. Và cũng chính vì nhờ có chút tòm tem mà đời vẫn còn vui để cho chúng ta cứ mê muội ngụp lặn trong vòng khổ ải.
ÐOÀN VĂN KHANH
|