NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Tâm Tình
Forum Discription: Giải bài tâm sự về gia đình, xã hội hay chính mình về điều gì đó.
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=4678
Ngày in: 29/Dec/2024 lúc 11:54am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ
Người gởi: Lan Huynh
Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ
Ngày gởi: 10/Mar/2011 lúc 9:12am
TÌNH THƯƠNG LÀM THĂNG HOA CUỘC SỐNG
Tác Giả: PH |
Thứ Hai, 07 Tháng 3 Năm 2011 20:17
|
Một con chó bị dị tật mất 2 chân trước đã được nuôi nấng trong tình thương vô bờ để có thể đi lai bằng 2 chân, đã là một tấm gương phấn đấu, và khích lệ cho mọi người
Xin http://saigonecho.com/hquach/Slideshow/TINH%20THUONG%20LAM%20THANG%20HOA%20CUOC%20SONG.pps - , rồi bấm vào ô "OPEN". Nếu gặp chữ "P***word", xin đừng quan tâm, tiếp tục chọn chữ "READ ONLY" và chờ cho máy chuyển tài liệu, lâu mau tùy từng máy, nhưng thường vào khoảng 30 giây. |
|
Trả lời:
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Mar/2011 lúc 7:08am
EM TÔI
Lúc tôi còn nhỏ, người ta nói có quạ kêu thì một người rừng láng phải chết. Mỗi khi nghe tiếng kêu rùng rợn ấy, tôi ôm em tôi vào lòng... Ngày tôi vào Nam nó đã ra mã con gái. Tôi hứa khi nào hòa bình sẽ tổ chức lễ cưới cho em thật lớn. Trở về tôi liệt nửa người. Nó chăm tôi từng miếng ăn giấc ngủ. Nhiều người ngỏ lời rồi lặng đi. Nó cười nhưng làm sao giấu được nỗi buồn... Mấy hôm trở trời. Tôi mê man, chỉ mong con quạ bay về kêu cho tôi nghe, rồi gọi chim phượng hoàng ùa vào nhà cho lộng lẫy.
NGUYỄN CHIẾN
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Mar/2011 lúc 7:30pm
Koichi Takairin
Tài xế xe tải 34 tuổi này kể: “Trận sóng thần đến nhanh một cách khó tin. Những chiếc xe hơi trôi lềnh bềnh xung quanh tôi. Tôi chỉ biết ngồi trong xe tải, đóng chặt cửa và cầu nguyện” – Takairin nói. Anh đã phải trèo khỏi ghế vào đằng sau chiếc xe tải nặng 4 tấn của anh khi nhà cửa, xe cộ và cây cối trôi xung quanh. Chiếc xe nặng đã trụ lại được giữa dòng nước siết và vài giờ sau khi nước rút, Takairin ra khỏi xe mới dám chắc rằng mình đã sống sót
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Mar/2011 lúc 10:45pm
CÂU CHUYỆN CỦA MỘT CẢNH SÁT NHẬT GỐC VIỆT
Tối hôm qua em được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng em chú ý đến một đứa nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà nó lại xếp hàng cuối cùng, em sợ đến phiên của nó thì chắc chẳng còn thức ăn. Nên mới lại hỏi thăm. Nó kể nó đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha của nó làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường nó nhìn thấy chiếc xe và cha nó bị nước cuốn trôi, 100% khả năng chắc là chết rồi. Hỏi mẹ nó đâu, nó nói nhà nó nằm ngay bờ biển, mẹ và em của nó chắc cũng không chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe em hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy nó lạnh em mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người nó. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của em bị rơi ra ngoài, em nhặt lên đưa cho nó và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói".
Thằng bé nhận túi lương khô của em, khom người cảm ơn. Em tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, em hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Nỏ trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Em nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để mọi người không nhìn thấy. Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi mới học lớp 3 đã có thể dạy em một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.
Một dân tộc với những đứa trẻ 9 tuổi đã biết nhẫn nại, chịu gian khổ và chấp nhận hy sinh cho người khác chắc chắn là một dân tộc vĩ đại. Đất nước này đang đứng ở trong những giờ phút nguy cấp nhất của sự điêu tàn, nhưng chắc chắn nó sẽ hồi sinh mạnh hơn nhờ những công dân biết hy sinh bản thân ngay từ tuổi niên thiếu.
http://totallycoolpix.com/wp-content/uploads/2011/11032011_japan_earthquake/japan_070.jpg">
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Mar/2011 lúc 2:21am
Thứ tư, ngày 16 tháng ba năm 2011
CẢNH SÁT NHẬT, GỐC VIỆT HÀ MINH THÀNH ĐANG CỨU NẠN TẠI VÙNG FUKUSHIMA
bà con nào là người Việt Nam đang gặp khó khăn tại Nhật cần giúp đỡ thì liên hệ với anh. Xin ghi lại địa chỉ của anh Hà Minh Thành: mailto:minhthanhjp@yahoo.com - minhthanhjp@yahoo.com ; điện thoại 09085381634…
|
CẢNH SÁT NHẬT, GỐC VIỆT HÀ MINH THÀNH ĐANG CỨU NẠN TẠI VÙNG FUKUSHIMA, TRAO ĐỔI THÔNG TIN VỚI BLOG PHAMVIETDAONV Blog Phamvietdaonv:
Anh Hà Minh Thành là người Việt Nam hiện đang công tác trong lực lượng cảnh sát Nhật Bản; Hiện anh Hà Minh Thành đang tham gia cứu nạn động đất tại vùng Fukushima…Hôm trước anh Hà Minh Thành có thông tin trên blog Phamvietdaonv địa chỉ email và điện thoại cá nhân của anh, bà con nào là người Việt Nam đang gặp khó khăn tại Nhật cần giúp đỡ thì liên hệ với anh. Xin ghi lại địa chỉ của anh Hà Minh Thành: mailto:minhthanhjp@yahoo.com - minhthanhjp@yahoo.com ; điện thoại 09085381634…
Cách đây vài hôm, một độc giả đã liên hệ với số điện thoại trên nhưng đã gặp tiếng nói của một phụ nữ. Tôi đã email cho anh Hà Minh Thành thì anh Thành cho biết: Điện thoại hiện anh đang giao cho con gái lớn của anh đang tham gia cứu nạn với bố; Có thể do con gái anh Hà Minh Thành không sõi tiếng Việt nên có thể bị hiểu nhầm…Bà con nào cần giúp đỡ xin cứ liên hệ với số điện thoại và địa chỉ email trên… Hôm qua, Báo Tuổi trẻ đã liên hệ với Blog Phamvietdaonv muốn tìm hiểu thêm về sự giúp đỡ thiện nguyện của anh Hà Minh Thành, tôi đã thông tin với anh Hà Minh Thành và anh đã đồng ý đăng địa chỉ điện thoại và email cá nhân của anh lên báo Tuổi trẻ để sẵn sàng hỗ trợ những bà con người Việt Nam nào đang gặp khó khăn hoạn nạn ở Nhật … Sau đây là bức thư mới nhất của anh Hà Minh Thành kể về công việc mà anh đang tham gia tại vùng Fukushima… Xin chào anh Đào
Em là Minh Thành đây. Anh và gia đình khỏe không ? Mấy ngày nay mọi sự đều quay cuồng lên cả. Mở mắt cũng thấy xác chết, nhắm mắt cũng thấy xác chết. Mỗi thằng tụi em mỗi đứa phải trực 20h/một ngày. Ước gì thời gian dài 48 tiếng một ngày để mà còn đi tìm cứu người. Điện nước không , thực phẩm gần như số không ? Di tản dân chưa xong thì lại có lệnh đưa dân đi di tản tiếp. Em đang ở Fukushima, cách nhà máy điện Fukushima 1 khoảng cách 25km, có rất nhiều chuyện có thể viết nên thành sách về tình người trong hoạn nạn.
Ngày hôm kia em đã tìm thấy và cứu được một người VN. Anh ta tên là Toàn đến từ Mỹ, kỹ sư nguyên tử lực làm việc tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1, anh ta bị tai nạn ngay cơn động đất đầu tiên, mọi thứ hỗn loạn nên chẳng ai giúp anh ta liên lạc cả.
Tình cờ biết được em đã liên lạc với Đại sứ quán Mỹ và phải công nhận tụi Mỹ nó nhanh, ngay lập tức trực thăng của quân đội Mý đến bệnh viện bốc anh ta đưa thẳng ra hạm đội 7.
Còn lại một số tu nghiệp sinh VN ở trong vùng này thì em đang tìm vẫn chưa có thông tin rõ ràng. Nếu có thông tin chính xác tên tuổi, nơi làm việc của họ thì dễ tìm kiếm hơn. Ở Nhật cảnh sát không có quản lý gắt gao về hộ tịch như ở VN và luật bảo hộ thông tin cũng khiến cho việc tìm thông tin của họ cũng khó. Em gặp một phụ nữ Nhật có làm việc chung với 7 cô gái đến từ VN làm việc với tư cách tu nghiệp sinh, chỗ họ làm cách bờ biển khoảng 3km, bà ta nói rằng họ không biết tiếng Nhật và lúc chạy loạn thì họ chạy theo bà ta, nhưng sau đó thì không biết chạy đi đâu còn sống hay là chết.Trong đó bà ta chỉ nhớ tên một cô gái tên là Nguyễn Thị Huyền (Có thể tên là Hiền) vì làm việc chung nhau.
Nhân viên Đại sứ quán và chính phủ VN vẫn chưa thấy xuất hiện ở đây, dù đọc trên báo mạng của VN thấy họ nói lo lắng cho dân VN rất tốt, toàn xạo cả.
Ngay cả cảnh sát tụi em còn đói khát tả tơi thì huống chi tới mấy đứa nhỏ tu nghiệp sinh VN. Nỗi khổ nhất ở vùng này bây giờ là Lạnh, Đói, Khát, không có điện, thiếu thông tin. Dân chúng thì vẫn bình tĩnh, lòng tự trọng và luân lý của họ tốt nên chưa đến nỗi loạn nhưng nếu tình hình này kéo dài thêm chừng 1 tuần nữa thì có khả năng tình hình an ninh không thể kiểm soát nổi. Họ cũng là con người mà, khi cơn đói khát đã vượt quá lòng tự trọng và nhân cách thì cái gì cũng phải làm thôi. Chính phủ đang lập cầu không vận thực phẩm và thuốc men vào vùng này nhưng chỉ như muối bỏ biển.
Có nhiều chuyện muốn kể cho anh nghe để đăng trang tin của anh nhưng mà nhiều đến độ bây giờ em cũng chẳng biết gì mà viết nữa.
Có một câu chuyện cảm động ngày hôm qua một đứa bé Nhật đã dạy cho một người lớn như em một bài học làm người.
Tối hôm qua em được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng em chú ý đến một đứa nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà nó lại xếp hàng cuối cùng, em sợ đến phiên của nó thì chắc chẳng còn thức ăn. Nên mới lại hỏi thăm.Nó kể nó đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha của nó làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường nó nhiìn thấy chiếc xe và cha nó bị nước cuốn trôi, 100% khả năng chắc là chết rồi. Hỏi mẹ nó đâu, nó nói nhà nó nằm ngay bờ biển, mẹ và em của nó chắc cũng không chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe em hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy nó lạnh em mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người nó. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của em bị rơi ra ngoài, em nhặt lên đưa cho nó và nói: " Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói". Thằng bé nhận túi lương khô của em, khom người cảm ơn. Em tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng.Ngạc nhiên vô cùng , em hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Nỏ trả lời: " Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ". Em nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc để mọi người không nhìn thấy. Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi mới học lớp 3 đã có thể dạy em một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh. Một dân tộc với những đứa trẻ 9 tuổi đã biết nhẫn nại, chịu gian khổ và chấp nhận hy sinh cho người khác chắc chắn là một dân tộc vĩ đại. Đất nước này đang đứng ở trong những giờ phút nguy cấp nhất của sự điêu tàn, nhưng chắc chắn nó sẽ hồi sinh mạnh hơn nhờ những công dân biết hy sinh bản thân ngay từ tuổi niên thiếu.
Nghĩ lại câu nói của ông già Fuwa nguyên chủ tịch Đảng CS Nhật giáo sư dạy em về Tư bản luận đã nói rằng " Nếu Mac sống lại, ông ta sẽ thêm một câu vào trong cuốn Tư bản luận đó là " Chủ nghĩa CS chỉ thành công trên đất Nhật". Vài dòng gửi cho anh, chúc anh khỏe .Tới giờ em vào phiên trực nữa rồi. Chúc anh và gia đình vạn sự an khang.
Hà Minh Thành Tái bút: À, quên. Số điện thoại em ghi là số điện thoại cá nhân của em, hiện tại con gái lớn của em mới tốt nghiệp y tá và cháu đang tham gia công tác cứu trợ thiện nguyện trong vùng này, em đưa cho cháu dùng điện thoại của em cho tiện liên lạc. Cháu không rành tiếng VN nên chắc bị hiểu lầm như vậy.
Được đăng bởi Phạm Viết Đào - Nhà văn vào lúc 09:58
http://phamvietdaonv.blogspot.com/2011/03/canh-sat-nhat-ang-tham-gia-cuu-nan-tai.html -
Vào link nguồn xem tiếp nhận xét của người đọc:
http://phamvietdaonv.blogspot.com/2011/03/canh-sat-nhat-ang-tham-gia-cuu-nan-tai.html
| |
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Mar/2011 lúc 7:45pm
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Mar/2011 lúc 8:28pm
Be strong, Japan! (Kiên cường lên, nước Nhật!)
Tác Giả: Dominik Petzold |
Thứ Năm, 17 Tháng 3 Năm 2011 12:16 |
Đây là sáng tác của một ca sĩ vô danh, Dominik Petzold, dành tặng các nạn nhân của vụ động đất, sóng thần kinh hoàng ở Nhật Bản.
http://saigonecho.com/main/video/thongtin/25200.html - Lời nguyên gốc tiếng Anh:
When I see those dire pictures I can cry just in dismay for courage and the strenght you need for help and hope I pray
Many faces marked by sorrow but many people are aware they all band together yes we are here to share
There's always someone left for us something worth to fight it out bear up and you'll live to see magic moments without doubt
Life and earth are nature so rich and so pure how often it looks cruel but we are happy to endure
When some major things are lost we are nerveless and alone but you are not the only one
When it's time to say goodbye we stand together and back you up you are not alone
When I see those dire pictures I can cry just in dismay for courage and the strenght you need for help and hope I pray
Now it's tough times you're going through but you keep your spirits up we all count our blessings we don't give you up
When some major things are lost we are nerveless and alone but you are not the only one
When it's time to say goodbye we stand together and back you up you are not alone
Million thoughts are with you while someone's singing this song you are not alone
Lời dịch:
Khi nhìn thấy những hình ảnh tang thương Tôi đã hoảng loạn khóc òa Xin nguyện cầu cho bạn đủ dũng khí và sức mạnh cho những sẻ chia, hi vọng bạn cần
Biết bao khuôn mặt hằn in nỗi đau nhưng nhân loại đã nhận ra rằng Họ đang gắn kết lại với nhau Bởi vì chúng ta ở đây để chia sẻ
Luôn luôn có ai đó ở lại vì ta Điều gì đó đáng để ta tranh đấu Kiên cường lên và sẽ sống để nhìn thấy những khoảnh khắc kỳ diệu đến không ngờ
Cuộc sống và trái đất đều do mẹ thiên nhiên Thật phong phú và vô cùng thuần khiết Dẫu có khi dường quá ư tàn khốc nhưng chúng ta vẫn vui vẻ vượt qua
Khi những gì quý giá mất đi Ta yếu đuối và thấy sao cô độc Nhưng bạn ơi, ta đâu chỉ một mình
Và đến lúc phải nói lời giã biệt chúng tôi sẽ ở bên an ủi động viên bạn không cô độc
Khi nhìn thấy những hình ảnh tang thương Tôi đã hoảng loạn khóc òa Xin nguyện cầu cho bạn đủ dũng khí và sức mạnh Nguyện cầu cho những sẻ chia, hi vọng
Lúc này đây, cam go phải vượt qua Nhưng xin bạn hãy cứ vững lòng Chúng tôi vẫn luôn nguyện cầu cho bạn Và chẳng khi nào bỏ rơi bạn
Khi những gì quý giá mất đi Ta yếu đuối và thấy sao cô độc Nhưng bạn ơi, ta đâu chỉ một mình
Và đến lúc phải nói lời giã biệt chúng tôi sẽ ở bên an ủi động viên bạn không cô độc
Triệu con tim đang hướng về bên bạn khi ai đó ca vang bài hát này Bạn không hề đơn độc!
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Mar/2011 lúc 5:34pm
Cầu Nguyện Góp Lời Cầu Nguyện
Trần Khải
Động đất, sóng thần... Cơn phẫn nộ của đất trời đã giết ít nhất 10,000 người, đã đẩy một nền kinh tế siêu cường lùi lại có thể mất nhiều năm để hồi phục, gây tang thương mất mát giữa các gia đình tổn thương... Chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa cuộc đời trong những tổn thương naỳ. Cái gọi là Thượng Đế có phải đã tàn nhẫn, đã bất nhân, hệt như Lão Tử từng nói rằng trời đất xem mạng người như chó rơm... Tại sao đất trời phải giết cả người già, cả em bé, cả nam lẫn nữ, cả người hiền lẫn người dữ như thế? Hay phải chăng là một cộng nghiệp, một luật nhân quả mà mắt người thường không nhìn thấy? Làm sao giải thích được sự đau đớn không phân biệt đó? Trước những câu hỏi chất vấn tương tự, các tôn giaó đã lập tức đáp ứng, gửi lời chia sẻ. Không đơn giản là chia buồn, hay góp sức cứu trợ, mà còn là một an ủi tinh thần, tàng ẩn một giải thích ẩn mật cho đời người. Đức Giaó Hoàng Benedict đã gửi lời cầu nguyện cho nạn nhân động đất và sóng thần ở Nhật Bản, và góp tiền chia sẻ cứu trợ. Đức Giáo Hoàng gửi điện tín ngày 12-3 cho Tổng Giám Mục Leo Jun Ikenaga tại Osaka, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Nhật Bản, nói rằng ngài “buồn sâu sắc” trước thảm kịch này, và gửi lời cầu nguyện cho người chết và thân nhân. Đức Giáo Hoàng cũng gửi 100,000 đôla giúp cứu trợ. Trong khi đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gửi thư tới Thủ Tướng Nhật Bản, góp lời cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai ở Nhật Bản. Trong lá thư đề ngày 12-3-2011 tới Thủ Tướng Naoto Kan, Đức Đạt Lai Lạt Ma baỳ tỏ chấn động và buồn bã, gửi lời chia buồn, trong khi ca ngợi các biện pháp và nỗ lực phòng ngừa thiên tai và khả năng cứu hộ, mà ngàì nói là đã giúp ngăn cản “chết chóc và hủy diệt có thể tác hại hơn.” Ngài nói rằng các thời Bát Nhã Tâm Kinh đã bắt đầu thực hiện ở Dharamsala để cầu nguyện cho dân tộc Nhật Bản. Trong bản tin khác trên mạng Phayul, Ngaì kêu gọi người dân Tây Tạng hãy tụng 100,000 lần bản Tâm Kinh Bát Nhã để giúp Nhật Bản ngăn cản hay giảm trừ thiên tai. Nhưng trong tận cùng những đau đớn của phận người, các câu hỏi căn bản vẫn luôn luôn dẫn tới các thắc mắc: đời người như cát bụi, và đất trời tàn nhẫn thô bạo. Tại sao như thế? Trong cõi người, dù vậy, may mắn rằng chúng ta vẫn còn yêu thương lân mẫn, vẫn còn giữ gìn những cái đẹp, cái thiện của cõi người. Bất kể mọi hư vỡ trần gian, bất kể mong manh kiếp người, từng giây phút trên đời nãy vẫn là giá trị, vẫn cần sự tử tế giữa người với người... Chúng ta có thể sẽ không hiểu hết phận người, có thể sẽ khôn chứng ngộ thâm sâu về ý nghĩa cuộc đời... nhưng từng giây phút tử tế với nhau, từng giây phút trân trọng kiếp người.
Hãy yêu thương, bất kể mọi hư vỡ. Chúng ta không sống lại lần thứ nhì những giây phút trong đời này. Hãy trân trọng đời người, đời mình.
------------- mk
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Apr/2011 lúc 6:59am
Thành Công Chân Chính Ở Trên Đời này
Đây là trích đoạn bài văn của một học sinh lớp 10, tên là Hà Minh Ngọc, được post lên trang http://hanheldvn.com/ - - , đang gây xôn xao cư dân mạng.
Điều lạ không phải vì bài văn đạt điểm 9+, cũng không phải vì hành văn, ấn tượng lạ ở chỗ là lời tâm sự của giáo viên với cô học trò nhỏ là tác giả bài văn.
Lời phê của cô giáo dạy văn:
Cảm ơn em đã tặng cô một bài học, một lời động viên vào lúc cô cần nó nhất. Em đã thực sự thành công đấy. Mong em tiếp tục thành công.
Đề bài: Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em.
Bài làm: Bản chất của thành công
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ.
Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.
Thành công còn là câu chuyện về một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình thường được. Từ nhỏ, cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công - bị - trì - hoãn mà thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành công.
Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ - người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?
Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá - học - của - một - người - cha.
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.
Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với Abramovich - ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”.
Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tôi, đó là một thành công.
HÀ MINH NGỌC
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Apr/2011 lúc 9:26am
Để trả lời một số bạn cứ hỏi tôi về Kim Anh còn hút không,xin chuyển bài phỏng vấn KiM Anh ,để Kim Anh tự trả lời...Mời đọc để thấy Kim Anh đáng thương hơn là đáng trách các bạn nhé...
KIM ANH ơi,Je t'adore...
Mỗi năm, nữ hoàng Mùa Thu lá bay sống và hát ở Việt Nam tầm 6 tháng. Dù đã nổi tiếng từ lâu và ở cái tuổi không nhiều lợi thế cho việc hát nhưng chị nói rằng, chị đang ở một giai đoạn hồi sinh tiếp theo. Đó là sự hồi sinh sau bao bĩ cực như một vở bi kịch mà người đàn bà vốn mạnh mẽ như đàn ông này đã tự diễn kín với chính mình suốt cả cuộc đời.
Kim Anh uống rượu rất khỏe và gần như là một “độc cô cầu bại” trên bàn nhậu. Thuốc lá đốt cũng nhiều, mà phải là thuốc nặng đô. Chị nói: “Anh cứ nhìn mặt tôi uống hàng chai rượu mà mặt cứ tỉnh như sáo thì anh đừng ngạc nhiên. Đau cỡ nào về cả thể xác lẫn tinh thần, với tôi giờ như không nghĩa lý. Đưa xương cho người ta khoan để bắt vít, không tiêm thuốc tê, tôi còn chịu được nữa là. Đôi lúc buồn quá, 3 giờ sáng ngẩng mặt lên hỏi trời còn điều gì đày ải nữa cứ đày ải nốt đi, con chịu được hết! Có lẽ giờ này, trời cũng nên để yên cho tôi được rồi đấy!”
Những đày ải, bĩ cực cuộc đời mà một kiếp đàn bà phải chịu, gần như Kim Anh đã phải gánh hết. Sự bất cần, sự không sợ sệt, cùng những tỉnh bơ với đau đớn, cùng rượu, cùng tro tàn của sự thiêu đốt mình suốt một quãng đời, chưng cất trong giọng hát Kim Anh để trở thành một chất giọng đặc thù không giống ai. Thế mà nỗi buồn trong giọng hát chị, không nhuốm màu cay đắng, không bị ám ảnh của cô đơn, nhưng cũng không có chức năng ru ngủ. Nó như một thứ cồn rửa vết thương. Rằng, dốc hết đốt hết những gì Kim Anh có, cũng chỉ để rửa những vết thương trong lòng người nghe mà thôi.
Bài hát định mệnh
*Nhắc đến thế hệ ca sĩ vàng ở hải ngoại một thời, thấy ai cũng có một xuất phát điểm và một sự nghiệp lẫy lừng. Còn nhắc đến Kim Anh trong quá khứ thường không thấy một dữ liệu gì ngoài bài hát Mùa thu lá bay, được chị hát vào những năm 80?
-Tôi đến với ca hát khá ngẫu nhiên và xuất phát điểm ca hát của tôi cũng là ở trời Tây chứ không phải ở Việt Nam. Tôi gốc người Hoa, sinh ra và lớn lên ở cù lao Ông Chưởng (tỉnh Đồng Tháp). Hồi nhỏ, tôi nổi tiếng thông minh và quậy phá. Năm 1969, tôi được một học bổng qua Mỹ học về kế toán. Đầu tháng 5-1975, tôi gặp một người Mỹ gốc Hoa, là chủ nhà hàng lớn Empress ở Wasington DC, nhờ tôi làm thông dịch tiếng Việt cho một số anh chị em nghệ sĩ, cũng là một ban nhạc vừa di tản từ Việt Nam sang sau khi Sài Gòn thay đổi.
Hàng ngày, tiếp xúc với ban nhạc, thấy tôi cũng nghêu ngao thì họ bảo, cứ hát chơi một bài. Tôi hát, ban nhạc họ rất thích. Từ đó tôi trở thành ca sĩ nữ duy nhất của ban nhạc hát hàng đêm tại nhà hàng. Năm 1977, có một người bạn là ca sĩ ở New York rủ tôi lên New York sống và hát với tư cách là một ca sĩ độc lập. Những năm này tôi hát chủ yếu cho một nhà hàng người Hoa ở New York, hát nhạc Tây lẫn nhạc Hoa nhưng hầu hết là nhạc Hoa. Những bài như Mùa Thu lá bay hay Máu nhuộm Bến Thượng Hải tôi đã hát tiếng Hoa trong thời gian này.
*Được biết Mùa Thu lá bay đến với chị để rồi chị trở thành một ca sĩ Kim Anh nổi tiếng là một câu chuyện rất lạ. Chị có thể kể rõ hơn câu câu chuyện này?
-Năm 1982, nhà ở Việt Nam nhắn tôi rằng ba tôi sắp mất và trước khi qua đời ông muốn được nghe giọng nói của tôi. Tôi đi thu một băng c***ette với 11 bài hát cả lời Việt lẫn lời Hoa gửi về để như an ủi ba được nghe giọng của đứa con từ phương xa, cũng như để nói với ba tôi vẫn giữ gốc gác của mình. Cái khó là thời gian này chủ yếu tôi hát tiếng Anh và tiếng Hoa, với nhạc Việt tôi hoàn toàn lạ lẫm nên thu một cuốn băng cũng chỉ là để ba nghe giọng mình, chứ cũng chẳng nghĩ sẽ đi dài và xa hơn như sau này.
Lúc cuốn băng về đến nơi ba đã mất được ba ngày, mắt vẫn mở. Má lại gần và nói: “Thôi ông ơi, dù con không về được, con cũng gửi giọng nói về. Ông yên lòng nhắm mắt cho con dễ làm ăn”. Thế, đôi mắt ba từ từ khép lại, một giọt nước mắt đã khô đọng phía dưới quầng mắt ba.
Những ngày ba mất, tôi buồn nghe đi nghe lại cuốn băng, chợt chạnh lòng thương phận mình xa xứ, tử biệt sinh ly có thể là những điều gắn chặt. Tôi gửi cho bạn bè một số cuốn băng để tặng, như một sự chia sẻ. Nào ngờ, người nọ chuyền tai người kia, họ gọi cho tôi và mua băng. Tiền gửi về lúc đó cũng rất nhiều. Tôi vẫn nghĩ đó đơn thuần chỉ là động viên, an ủi.
Còn 70 cuốn, lúc đó tôi cũng chẳng biết làm gì. Tôi lái xe qua Trung tâm băng nhạc Thanh Lan, giới thiệu tôi là ca sĩ mới, tên là Kim Anh và mong họ mua băng với giá 4 đô la/ cuốn (tiền công thu là 4,25 đô la). Bà chủ còn hỏi: “Kim Anh Ba Con Mèo phải không?”, tôi nói không phải. Tôi đưa 10 cuốn cho bà nghe thử, nếu được thì bà lấy, không thì thôi. Khi tôi đi được 10 cây số, bà lái xe theo và nói có bao nhiêu bán hết cho bà, bà sẽ trả 4,5 đô la/ cuốn. Tôi nổi tiếng với Mùa Thu lá bay bắt đầu từ đó.
Tai ương, hồi sinh và hủy diệt
*Sự nổi tiếng mang lại danh vọng, tiền bạc nhưng cũng có thể gây không ít tai ương cho người nghệ sĩ. Hình như, trong những năm đó, cũng có rất nhiều biến cố xảy đến với cuộc đời chị?
-Chính xác là những tai ương xảy đến từ những ngày tôi cầm đồng tiền đầu tiên của nghiệp cầm ca. 8-1-1978, New York có bão tuyết, tất cả xe cộ ngoài đường hầu như không lưu thông được nữa. Đúng lúc đó tôi gặp người hàng xóm đang đỗ xe trong garage và cho tôi đi nhờ về nhà. Khi qua cầu, đúng lúc gặp bão xoáy, xe bị quay rồi va vào thành cầu. Gần 3 năm trời tôi sống trong nhà thương, không một người quen thân bên cạnh, sống chủ yếu nhờ lòng tốt của thiên hạ. Toàn cơ thể tôi lúc đó chi chít vết thương. Chân tay liệt. Đầu vẹo. Mặt chi chít vết khâu, 285 mũi. Lưng cong. Nói chung, nghĩ về cái chết khi đó, tôi còn thấy nhẹ hơn việc nghĩ mình sống.
Bác sĩ sợ tôi cắn lưỡi tự tử nên suốt ngày để nẹp miệng. Họ nói, giờ nếu bắt vít vào cánh tay thì lưng cong suốt đời. Mà chữa cho lưng thẳng xem như tay bị liệt. Tôi nói, có tay mới làm được việc, chứ lưng cong cũng chẳng sao. Lúc này tôi nghĩ rằng, cả cuộc đời tôi chắc cũng mãi gắn với chiếc xe lăn. Nhưng tôi chợt nhớ, mình còn giọng hát. Dù thế nào cũng phải sống để mà hát, kể cả hát rong kiếm tiền nhưng trước hết là phải sống.
*Vậy làm thế nào mà chị thoát khỏi chiếc xe lăn và đặc biệt là sống qua những ngày “phế nhân” khi không có một người thân nào bên cạnh?
-Thời gian đó, ông chủ nhà hàng qua thăm tôi trong bệnh viện, quyết bảo lãnh tôi được hát vì lý do rằng, chỉ có hát cô ấy mới cảm thấy được sống. Họ cho người đến bế cả xe lăn, tôi hát Diễm xưa cùng nước mắt của khán giả, nước mắt mình, nhất là đoạn “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Đi hát, ý chí thúc tôi phải thoát khỏi cái xe lăn càng sớm càng tốt. Tôi muốn được đứng lên, muốn được đi ra, muốn được bay nhảy với những giai điệu như trước đây. Có lẽ, ông trời chơi khăm, muốn bắt tôi hát nhạc buồn suốt đời, nên cứ để tôi ngồi, và hát là đủ. Mỗi tối, trước khi lên sân khấu, tôi phải uống rượu. Uống để quên mình buồn nhưng càng uống càng thấy tỉnh. Dần dần, rượu thành người bạn không thể thiếu mỗi lần lên hát.
Một bác sĩ người Do Thái vào thăm tôi trong bệnh viện và quyết cãi trước tòa để tôi được ra ngoài tìm bác sĩ chữa trị cho mình để có cơ hội cất tiếng hát hàng đêm. Đúng lúc ấy, có một cậu người Đài Loan thích nghe tôi hát Mùa Thu lá bay ở nhà hàng, quyết đón tôi về ở để có bác sĩ chăm sóc cho tiện. Được 2 tuần, người nhà cậu ở Đài Loan có công chuyện nên cậu phải về đó, không biết khi nào trở lại. Vừa gặp quý nhân chưa lâu thì như thế, tôi rất hoang mang về phần mình. Đứng không đứng được. Đi không đi được. Lúc đó, tôi chỉ ước cứ ngồi thế mà chết cho rồi. Đúng lúc hoang mang nhất, tôi nghe dưới nhà có hai người nói tiếng Việt. Họ nói “địa chỉ này đúng là nơi cô ca sĩ Kim Anh hát trên xe lăn ở đây”. Họ qua thăm, biết được tình hình tôi, họ nói: “Thôi, cô về nhà anh chị mà ở. Đừng ngại gì, đời người ai chẳng gặp lúc hoạn nạn”. Tôi mừng quá, xỉu luôn.
Về nhà, ba cô con gái của ông bà thay nhau đút cơm cho tôi ăn. Hai năm ròng được quý nhân cưu mang, chữa trị, đến khi cắt băng, tôi xin đi chứ không làm phiền quý nhân của mình thêm nữa. Ba năm trời đau đớn, ngồi cho người ta khoan từng mũi vào xương và ngủ ngồi, đến lúc ráp xương, được ngủ nằm, là một hạnh phúc lớn nhất đời khi đó. Tôi ngủ vùi 4 đêm, 5 ngày, nhiều người cứ nghĩ là tôi chết. Không, tôi đã hồi sinh sau một quãng đời tưởng chừng như chẳng bao giờ có ngày này.
*Sự hồi sinh này có làm cho giọng hát chị vui lên, hay vẫn cứ buồn như những ngày “thân em giờ hoang phế, lê theo thời gian giông gió”?
-Một sự hồi sinh mới, nhưng lại bắt đầu một cuộc hủy diệt. Thời gian trong bệnh viện các bác sĩ đã cho tôi dùng thuốc lá và ma túy để quên đi cơn đau. Tôi nghiện là tại tôi, cũng chẳng trách các bác sĩ được. Mình lạm dụng vô ý thức, trở thành một con nghiện. 4 năm trời vật vã với ma túy, bao nhiêu tiền làm ra, vừa hỗ trợ gia đình khi ba tôi mất, còn bao nhiêu tôi nướng hết vào ma túy. Rồi các fan, họ cũng thể hiện lòng hâm mộ bằng việc tặng tôi…ma túy.
Năm 1984, sau một cơn sốc, tôi tỉnh dậy và tự nhủ, không thể thế này mãi được. Một là chết, hai là sống. Bĩ cực đau đớn mình đã chiến đấu để giành quyền được sống, nay sống như thế này thì thà chết còn hơn. Tôi quyết đi Pháp cai. Tôi ôm bọc ma túy đi lang thang và tìm đến một nghĩa trang quân đội ở miền Đông nước Pháp, quyết sống tách biệt để thử sức chịu đựng. Tôi được gia đình người quản trang cho ở lại, họ không hề biết tôi nghiện mà chỉ biết tôi đến xin một việc để làm. Tôi vào toilet, đổ bọc ma túy xuống bồn cầu và giật nước. Rồi tôi ôm lấy bồn cầu ngồi khóc, như thể lần này mình không thể sống nữa. Sau đó, cơn nghiện bắt đầu vật. Ông bà chủ biết, còn hỏi tôi có muốn không thì đi mua thuốc cho, tôi lắc đầu quyết không và quyết cai cho bằng được.
Sau 8 tháng, tôi từ bỏ ma túy mà không cần một viên thuốc. Đáng lẽ, tôi đã ở lại nước Pháp và an phận. Nhưng rồi, cơn bĩ cực này qua lại là những cơn bĩ cực khác.
Người đàn bà tìm con
*Không lẽ, cả tuổi thanh xuân của chị là tai ương, ma túy, thuốc lá và rượu? Suốt một quãng đời lúc đó, không có ai là người đàn ông của riêng chị ư?
-Thực ra năm 1970 tôi đã có chồng và năm 1972 tôi đã sinh con. Lúc sang Mỹ tôi chưa có bằng tú tài, nên hoặc sẽ phải có người bảo lãnh để ở lại, hoặc sẽ bị trục xuất. Có một người rất thương nói rằng : “Thực lòng tôi không muốn cưới em vì trông em trẻ trung hồn nhiên quá. Nhưng để giúp được em, tôi không ngại gì cả” Một năm sau thì tôi sinh con.
Cuộc sống không có tình yêu nên gia đình có cũng như không. Đứa con để lại cho anh nuôi. Tôi học xong, lang thang theo nghiệp cầm ca và quên mất rằng mình cũng đã có chồng. Khi bị tai nạn, tôi chợt nhớ ra dù gì tôi cũng có thứ quý giá nhất trên đời là con, thì cũng éo le thay anh đã lấy vợ khác và tôi không biết cách nào để liên lạc với anh cũng như gặp con mình.
Tôi thỏa hiệp với cả nỗi đau này để được sống. Khi rời khỏi chiếc xe lăn, việc đầu tiên là đi tìm con. Lúc lần ra dòng địa chỉ, gặp phải cô vợ anh vốn rất ghen tuông nên ba lần bảy lượt muốn gặp con mình mà không thể được. Tôi nhờ đến luật sư và phải năn nỉ ông bằng cách này hay cách khác để tôi được nhìn thấy con tôi ngay. Khi ra tòa, tòa nói, với sức khỏe hiện tại tôi không thể nuôi con và cho tôi một ân huệ mỗi năm chỉ được gặp con cho đến khi nào khỏi bệnh hẳn. Từ đó, cứ ba tháng hè, con lại về ở với tôi. Niềm an ủi lớn nhất là, con tôi dù bao năm xa cách, rất ngoan, có hiếu và thương mẹ. Khi tôi làm cuốn băng để gửi về Việt Nam, hai mẹ con cùng nhau ghép vỏ, cùng nhau dán nhãn. Nó học kế toán, hiện giờ sống ở San Francisco, hiện cũng đã có vợ con, sống rất hiếu nghĩa.
*Trải qua bao bi thương như thế, mất mát như thế, cũng đồng nghĩa với việc con tim thời tuổi trẻ của chị không còn chỗ cho tình yêu?
-May mắn là dù bị đẩy đến chốn cùng cực thì cuối cùng ông trời cũng cho tôi được rung cảm dù không kéo dài. Những ngày tôi cai nghiện ở Pháp, người con trai của ông chủ lúc đó đem lòng yêu tôi. Anh là một diễn viên kịch, hơn tôi 8 tuổi. Chúng tôi yêu nhau và tôi sinh cho anh được một đứa con trai. Cuộc sống của chúng tôi cũng có những ngày hạnh phúc. Anh đi diễn, tôi đi hát. Trong chuyện tình cảm tôi là người nghiêm túc, gia đình anh rất quý tôi ở điều đó. Nhưng rồi một lần anh nửa đùa nửa thật: Ca sĩ đi bốn mùa thế, ai mà tin được có chung thủy hay không. Tôi giận quá, ngày hôm sau mua vé máy bay về Mỹ. Năm nay con cũng đã 23 tuổi và đang học về nhạc. Hai cha con thỉnh thoảng vẫn gặp nhau nhưng tình yêu mà tôi dành cho anh đã chết, có lẽ do tự ái của tôi cao quá.
*Hình như trải qua nhiều biến cố cuộc đời, đã có một thời gian dài chị nghỉ hát? Thực tế là dù chị có xảy ra chuyện gì thì âm nhạc cũng không bỏ chị. Nó là nghiệp với chị. Nhưng cũng có thể nhìn nhận nó là một sự cứu rỗi?
-Năm 1989 mẹ tôi đau nặng, tôi về Việt Nam tính nghỉ hát luôn nhưng sân khấu đã không phụ tôi. Có một người rất mê tiếng hát của tôi làm hẳn cho tôi một talk show Tâm tình với Kim Anh. Tiếng hát của tôi có dịp được hội ngộ khán giả dù gián tiếp và những băng hình tôi thu cũng từ thời điểm này. Nhưng năm 1992, mẹ mất, tôi sock nặng nên nghỉ hát luôn.
Không hát, cuộc sống rơi vào cơ cực, nên năm 2005, tôi xin đi hát trở lại. Tôi gọi cho Trúc Hồ nói tôi đã thực sự mệt mỏi, muốn lấy một só hình ảnh trong cuốn băng cũ làm băng, rồi lên sân khấu trở lại. Nhạc sĩ Anh Bằng nói, ai chứ Kim Anh thì nên giúp nó. Khán giả lúc này không ít người nghĩ tôi bê tha nghiện ngập nên cũng không muốn gần. Tôi lấy mọi can đảm để hát. Bộ trang phục cũ, nhưng hợp với bài hát, và giọng hát vẫn còn đủ độ say nên khán giả lại thương tôi trở lại như năm nào. Và bây giờ, trong nghệ thuật, tôi đang hồi sinh.
*Và bây giờ, khi sự nghiệp hồi sinh, cũng là lúc chị phải đối diện với sự cô độc của mình?
-Không. Thực tế lúc này tôi đã bớt phần cô độc. Đúng hơn, dù không được sống trong cảm giác tình yêu mà vẫn thấy mình đang được nhận. Tôi hát khỏe hơn, mãnh lực hơn trước và vẫn cái tật xấu, mỗi lần lên sân khấu là phải uống rượu. Tôi không say bao giờ, càng uống càng tỉnh và càng hát hay hơn. Giờ này về Việt Nam, tôi đã, đang và sẽ đến các vùng sâu vùng xa hát cho đồng bào, ở những nơi họ không có điều kiện xem ca sĩ, nghe ca sĩ hát.
Tôi cũng tri ân với những người đồng hành với trái tim tôi trong một khoảng thời gian ngắn ngủi hay không ngắn ngủi thì tôi vẫn thấy trái tim mình vẫn còn biết nói với tình yêu. Người gần người đấy nhưng tôi thấy một ai đó thực sự hiểu và cảm thông với tôi vẫn còn ở đâu đó xa lắm, gần hết một đời người mà tôi vẫn chưa thấy. Hay để đến lúc tôi chết đi, người đó sẽ là người đặt hoa hồng vàng trên mộ tôi? Nếu như vậy, thì hạnh phúc có phù phiếm quá với một cõi người không nhỉ?
*Cầu mong chị tìm được một hạnh phúc thực sự. Cảm ơn chị về cuộc trò chuyện! | |
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Apr/2011 lúc 3:15pm
GẢ CON CHO GIẶC.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Cô Lạc báo tin cho cha mẹ là sẽ về thăm Việt Nam cả tháng nay thì cả tháng nay anh chị Siêu mừng vui đến mất ăn mất ngủ. Phen này thì cả làng An Bình sẽ lên cơn sốt như cách đây 3 năm họ đã lên cơn khi biết cô Lạc nhà quê nhà mùa, trình độ văn hóa lớp 6 kết hôn với một ông kỹ sư người Mỹ.
Nhà anh Siêu nghèo, mấy sào ruộng nhà nước chia theo tiêu chuẩn đầu người không đủ cho hai vợ chồng cầy cấy nuôi 3 đứa con, anh đi bộ đội về cảnh nhà eo hẹp nên lấy vợ trễ, con còn nhỏ. Cô Lạc lớn nhất nhà đã được bố mẹ gởi gấm theo vài người anh em họ vào thành phố Sài Gòn làm ăn. Trong làng, nhà nào cũng có người vào Nam kiếm sống nên đồng hương cũng giúp đỡ nhau nói chi là họ hàng
Lạc xin vào làm cho một hãng nhựa tư nhân ở Chợ Lớn, ngày làm 12 tiếng, một tuần làm 6 ngày quần quật cực nhọc không thua gì làm ruộng nương nơi quê nhà. Ăn dè để dành mỗi năm Lạc cũng tom góp được chút tiền gởi về quê phụ giúp cha mẹ nuôi hai em, còn Lạc không dám mơ đến chuyện về thăm quê, bởi tiền tàu xe từ Nam ra Bắc sẽ ngốn hết những đồng tiền để dành ít ỏi ấy.
Đột nhiên người anh họ tên Chu của anh Siêu từ Mỹ về thăm quê hương, người anh họ mà anh Siêu chưa bao giờ biết mặt, vì cách ngăn bởi vĩ tuyến 17 giữa hai miền Nam Bắc. Năm 1975 từ Sài Gòn anh Chu cùng gia đình di tản qua Mỹ, sau bao nhiêu năm yên ổn cuộc sống nơi xứ người anh Chu mới thể theo lời trăn trối của người cha gìa trước khi nhắm mắt là hãy về thăm lại quê quán, tìm gặp người thân nơi miền Bắc.
Thấy cảnh nhà anh Siêu nhà xiêu mái dột, con cái nheo nhóc tương lai là cày thuê cuốc mướn đói nghèo, anh Chu thương cảm cho thêm qùa, thêm tiền.
Chợt nhìn thấy tấm hình cô con gái lớn anh Siêu đóng khung để trên bàn, tấm hình mà Lạc đã chụp ở Sài Gòn làm kỷ niệm gởi về để cả nhà ngắm cho đỡ nhớ, trông cô hiền lành xinh xẻo nên anh Chu chợt nảy ra một ý định là kiếm chồng ở Mỹ cho cô, đó là cách giúp đỡ dài lâu và thiết thực nhất.
Anh Chu mang tấm hình cô Lạc về Mỹ. Làm cùng hãng với anh là một ông kỹ sư Mỹ tuổi trung niên độc thân và cô độc. Hai người ngồi cạnh nhau nên thân nhau, anh Chu đã đưa hình Lạc ra và ngỏ ý muốn giới thiệu cho ông.
Chuyện cầu may mà thành sự thật, Richard mừng lắm, vì cuộc đời ông đã mấy lần li dị, lần này lấy một cô gái quê chất phác, dòng máu Á Đông dịu dàng chắc sẽ chung thủy với ông suốt đời. Hơn nữa, lại là một cô gái trẻ tuổi trinh nguyên và xinh đẹp, thì làm sao mà ông Richard không vui vẻ chấp nhận.
Thế là sau một thời gian trao đổi thêm thư từ hình ảnh giữa ông Richard và Lạc, có anh Chu làm thông dịch cho đôi bên, thì cả hai cùng đồng ý đi đến hôn nhân dù ông Richard lớn hơn Lạc hơn 20 tuổi, nhưng bù lại ông sẽ mang Lạc đi Mỹ, sự trao đổi cũng tương xứng, công bằng cho cả hai.
Anh chị Siêu mừng lắm, đứa con gái nhà anh lấy chồng được đi Mỹ có nằm mơ cũng chả dám, dù là người chồng lớn tuổi, nhưng còn hơn ở lại Việt Nam lấy được thằng chồng trẻ ngang vai phải lứa, cùng nông dân cày cuốc thì cái nghèo đói lại di truyền từ đời vợ chồng Lạc tới con cháu nó không biết đến bao giờ mới ngóc đầu lên nổi.
Để mong thoát cảnh đói nghèo bao nhiêu con gái quê Việt Nam phải lấy chồng ngoại Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc, mà phần nhiều là chồng gìa hay có vấn đề về sức khỏe, sung sướng thì ít, đau thương thì nhiều, chứ dễ gì lấy được chồng Mỹ và đi Mỹ, cái đất nước nổi tiếng to đẹp, hùng mạnh nhất thế giới.
Ông Richard và anh Chu cùng về làng An Bình. Đám cưới Richard và Lạc sẽ diễn ra ở đây.
Đột nhiên họ hàng, làng xóm thấy anh chị Siêu phát lễ hỏi như dân phố Hà Nội là trầu cau, trà sen, bánh xu xê, bánh cốm trong hộp có giấy bóng kính màu đỏ và thiệp cưới in đẹp đẽ đến từng nhà, ai cũng kinh ngạc vì qùa đám hỏi to qúa.
Tin Lạc sắp lấy chồng Mỹ như một qủa bom vừa pháo kích vào ngôi làng bé nhỏ êm ả này.
Đám cưới diễn ra ai được mời cũng không từ chối, vì ai cũng tận mắt muốn xem mặt thằng chú rể người Mỹ của làng An Bình.
Sau đám cưới ông Richard về lại Mỹ làm giấy tờ bảo lãnh Lạc. Cả làng xôn xao bàn tán, khi thì ở trên bờ đê lúc tạm ngừng làm ruộng, khi thì trong hàng chè xanh nơi đầu làng:
- Con Lạc sắp đi Mỹ rồi. Sao số nó sung sướng thế nhỉ?
- Ôi giời, lấy thằng giặc Mỹ mà hãnh diện à? Bố con Lạc từng là anh hùng diệt Mỹ thời chiến tranh chống Mỹ Ngụy đấy nhé
- Nghe nói chồng nó là kỹ sư cơ đấy?
- Phô trương thế thôi, ai biết đâu mà kiểm chứng? Có khi là thằng Mỹ đầu đường xó chợ cũng nên?
- Chưa biết chừng nó mang sang Mỹ bán cho động mãi dâm như bọn buôn người qua Trung Quốc đấy. Phúc đâu chưa thấy, họa lại mang vào người.
Một ông có vẻ hiểu biết, phản đối:
- Đời nào có, tôi chưa nghe chuyện gái Việt Nam lấy Mỹ bị bán vào động mãi dâm bao giờ.
- Bọn Mỹ là ác lắm, việc gì chúng chẳng làm….
Ông kia tiếp tục khoe sự hiểu biết:
- Các bác không đọc báo, nghe đài à? Ta và Mỹ bây giờ là bạn rồi, có cái tàu Mỹ đến thăm Việt Nam và Hải Quân ta ra tận tàu Mỹ nghênh tiếp nữa mà. Rồi lại có cái tàu gì to lắm, có chỗ cho máy bay đỗ và đáp cơ đấy, cũng sang thăm Việt Nam và phe ta lên tàu tham quan thích lắm.
Giọng đàn bà nhà quê đanh đá:
- Gớm, to lớn mấy cũng bị bộ đội ta diệt thời chống Mỹ rồi. Mỹ vẫn là thằng giặc thua trận.
Ông “hiểu biết” giảng giải chuyện đời miễn phí:
- Biết đâu là bàn cờ thế cuộc, chứ họ văn minh thế kia mà. Nay thời thế đã đổi khác, bạn hóa thù, thù thành bạn. Xưa Trung Quốc là bạn hàng xóm gần gũi thân yêu của ta, như “môi và răng” môi hở thì răng lạnh, từng giúp đỡ ta trong chiến tranh. Nay bạn hại ta đấy thôi, từ chuyện kinh tế, hàng hóa đồ dùng Trung Quốc ồ ạt sang Việt Nam để giết chết ngành công kỹ nghệ sản xuất của ta, cả trái cây Trung Quốc như nhãn, vải, táo, cam cũng lấn chiếm thị trường nông sản Việt Nam làm thiệt hại các nhà trồng vườn, đến chuyện lấn chiếm vùng đất, vùng biển Hoàng sa, Trường Sa. Họ đã hiếp đáp, bắt giữ tàu và ngư dân đòi tiền chuộc hoặc làm chết ngư dân mình.
Một bà rụt rè lẩm bẩm:
- Ừ nhỉ, lúc này đi đâu cũng thấy hàng hóa Trung Quốc, mà nghe nói toàn là hàng độc hại. Trông mẫu mã đẹp mắt mà chết người.
Những lời dị nghị, đồn thổi không hay đã đến tai vợ chồng anh Siêu, anh chị vừa tức giận vừa xấu hổ chẳng biết đường nào mà phân bua, mà cãi..
Trong làng có bà tên Cào, tên thật của bà người ta không thèm gọi mà chỉ gọi bằng cái tên nghề nghiệp vì bà chuyên nghề đi thuyền cào tôm, cá ngoài sông. Bà gặp chị Siêu đã mát mẻ mỉa mai:
- Sướng nhé, có con gái gả cho Mỹ rồi tha hồ mà hưởng qùa đế quốc Mỹ. Nhưng con gái tôi thì không thèm đâu, thà ở làng quê này đi cào cá cào tôm như cha mẹ nó, tuy nghèo mà có tình quê hương, chẳng phải lệ thuộc thằng nước ngoài nào cả.
Chị Siêu nén giận cười gượng:
- Vâng, mỗi người một hoàn cảnh. Chúng tôi có dám mơ ước cho con gái lấy Mỹ bao giờ đâu, chẳng qua bác nó ở Mỹ muốn giúp đỡ …
Lạc được tòa lãnh sự Mỹ gọi phỏng vấn và bị từ chối. Thời điểm này chính phủ Mỹ khám phá ra mấy vụ người Việt Nam và người Mỹ bản xứ kết hôn với người bên Việt Nam là “dịch vụ” lấy tiền để đưa người từ Việt Nam nhập cư vào Mỹ nên họ nghi ngờ và cho “rớt” khá nhiều.
Anh chị Siêu và Lạc lo lắm, Lạc không đi Mỹ được thì dân làng lại có đề tài mà mỉa mai châm chọc thêm cho đáng đời kẻ ham muốn gả con cho giặc Mỹ, chứ chắc gì họ buông tha?
Ông Richard đã làm đơn khiếu nại, gởi bổ sung thêm những chứng cớ cần thiết và Mỹ phỏng vấn Lạc lần thứ hai đã chấp nhận hồ sơ cho Lạc được đi Mỹ đoàn tụ với chồng.
Anh chị Siêu mừng rối rít, gọi điện hỏi thăm anh Chu là ông Richard đã “chạy” đường dây nào mà hay thế? tốn phí hết bao nhiêu tiền?
Tội nghiệp anh chị Siêu, từ cha sinh mẹ đẻ quen bị hà hiếp, bóc lột, quen phải hối lộ cho chính quyền từ phường xã tới quận huyện, từ việc lớn đến việc nhỏ, và vì trình độ văn hóa thấp, chỉ quanh quẩn ở làng quê không biết gì ngoài ruộng lúa và lũy tre làng, nên ngây thơ hồn nhiên tưởng ở bất cứ nơi đâu trên thế gian này cũng ăn hối lộ tận tình như quê hương Việt Nam mình.
Anh Chu kể rằng ông Richrd chẳng chạy chọt đường dây nào cả, khi có đầy đủ chứng cớ thì Mỹ phải chấp nhận cho đi. Ngoài ra anh Chu còn kể thêm có những hồ sơ bảo lãnh đã được phỏng vấn và chấp thuận mà người bên Việt Nam vì lý do gì đó chưa muốn đi Mỹ nên chần chờ chẳng tiến hành thêm gì cả, hàng năm sở di trú vẫn gởi giấy nhắc nhở họ có muốn đi Mỹ thì làm tiếp một hai bước thủ tục sau cùng. Vẫn không có trả lời dứt khoát, cuối cùng sở di trú phải gởi cho người bên Việt Nam một “tối hậu thư” hỏi có muốn đi Mỹ hay không? nếu không thì lần này Mỹ sẽ đóng hồ sơ.
Anh chị Siêu kinh ngạc qúa, ai đời quyền lợi của họ, họ không hưởng thì thôi, việc gì Mỹ phải nhắc nhở họ và hỏi đi hỏi lại mãi thế? Ở Việt Nam , có mà cầu cạnh, đút lót cả đống tiền chưa chắc mua được sự việc như ý, dù mình có cả tỷ lý do vô cùng chính đáng.
Lạc đi Mỹ được hai năm thì tiền bắt đầu gởi về cho cha mẹ xây sửa nhà cửa, vì Lạc đã đi làm nail nên có tiền riêng tha hồ gởi giúp gia đình, người chồng Mỹ của Lạc, với đồng lương sung túc của mình, chỉ cần Lạc đẻ cho ông một hai đứa con và chung thuỷ suốt đời là hạnh phúc rồi.
Hàng xóm họ hàng càng bàn tán, càng vu khống nhiều hơn, dù chị Siêu đã mang ra khoe với họ những tấm hình vợ chồng Lạc và 1 đứa con của họ.
- Tiền gởi về cho bố mẹ nhiều thế này đích thực là tiền làm gái mà ra chứ của đâu sẵn thế?
- Ừ nhỉ, làm gì mà ra tiền nhanh thế nhỉ?
- Nhưng bà Siêu có khoe hình con Lạc chụp với thằng chồng Mỹ, cái thằng đã về làng cưới nó hẳn hòi mà.
Một bà gạt phăng:
- Ối giời ôi, thằng Mỹ nào trông cũng giống nhau, có khi là thằng chồng thứ bao nhiêu rồi đấy?
Những lời dèm pha này lại cố tình đến tai vợ chồng anh Siêu. Nghe những lời ganh tị mấy năm nay anh chị đã quen tai, nhưng anh chị cũng đã thấy vài kẻ trong làng thèm thuồng được như anh chị lắm, khi họ ghé vào thăm ngôi nhà 3 tầng khang trang mới xây trên cái nền đất của căn nhà xộc xệch cũ, khi họ nhìn những tấm hình Lạc đẹp đẽ từ Mỹ gởi về, và thấy cuộc sống vật chất nhà anh Siêu thong thả hẳn ra.
Một người họ hàng bên vợ anh Siêu, ở tận Hà Nội, nhà giàu có, con cái đứa thì bằng cấp đại học, đứa đang chuẩn bị thi vào đại học, mà còn mong ước gả cô con gái lớn cho người Mỹ, các em thì không thèm du học ở Anh, Úc, Canada, mà chỉ thích Mỹ.
Xưa nay anh chị Siêu mấy lần có dịp lên Hà Nội nào dám bén mảng tới nhà họ chơi, vì khỏang cách giàu nghèo và trình độ, nhưng từ dạo Lạc đi Mỹ, từ dạo nhà anh Siêu xây to nhất làng, thì chính người họ hàng đó đã vồn vã mời chào, nhờ thế anh Siêu mới biết được những tâm tư khát khao của gia đình họ và của nhiều người dân thành thị, người ta không còn căm thù người Mỹ nữa, giới trẻ đua nhau học tiếng Mỹ, các nhà khá gỉa còn cho trẻ con học tiếng Mỹ từ thuở vỡ lòng song song với tiếng Việt, các cửa hàng, dịch vụ trên phố xá từ Hà Nội đến Sài Gòn, đến các thành phố lớn nhỏ khác đều kèm theo tiếng Mỹ, con gái Việt Nam nhiều người lấy chồng Mỹ rồi, và nhờ thế anh chị Siêu mới vơi bớt mặc cảm tội lỗi gả con cho giặc Mỹ mà một số dân làng An Bình đã ganh tị và ác cảm đổ cho anh chị.
Qua con gái anh chị Siêu đã biết được một nước Mỹ tự do dân chủ, cuộc sống thoải mái..
Lạc kể mua cái ti vi về coi mấy tuần thấy không vừa ý đã đem trả lại tiệm, hay đơn gỉan có lần Lạc mua một cây Lê trong chợ Mỹ về nhà trồng, cây bị chết sau đó, Lạc đã gọi phone than phiền với chủ tiệm, vây mà người ta xin lỗi và mời cô đến chọn lại cây lê khác, dĩ nhiên là không phải trả tiền lần nữa và họ cũng không cần Lạc mang bằng chứng cây lê đã bị khô chết kia.
Thật là trung thực, tin cậy lẫn nhau, một xã hội có cuộc sống, có nếp suy nghĩ như thế không biết đến đời kiếp nào Việt Nam mới bắt chước được?
Ở Việt Nam người ta mua gian bán lận, làm hàng gỉa, lừa đảo khách hàng vì lợi nhuận, vì lòng tham sao cho đầy túi, làm gì có chuyện mua hàng về nhà xài rồi đem trả lại? chúng đã không đổi cho mà còn mắng chửi té tát vào mặt. Ngay như mua vàng hôm trước, hôm sau mang ra chính tiệm ấy bán lại, chúng cũng kiếm cách ăn chận, nào là hôm nay vàng vừa mới xuống gía, nào là vàng…hao hụt, để trả gía rẻ, để lời nhiều.
Hàng hóa gỉa, còn có cả bằng cấp rổm nữa, những anh chị y tá có công với đảng được “đề bạt” học bổ túc chuyên môn là trở thành bác sĩ, hay con ông cháu cha học hành thì ít ăn chơi thì nhiều nhưng chạy chọt vào trường Y khoa, cũng ra trường bác sĩ như ai dù kiến thức thì chẳng bằng ai. Nên các bệnh nhân ở Việt Nam gặp nhiều ‘biến cố” chết người không có gì làm lạ.
Những chuyện đời thường của nước Mỹ mà nghe xong anh Chị Siêu còn giật mình không muốn tin, nếu không do chính con gái anh chị kể ra thì chắc chắn anh chị cho là bịa đặt, là chuyện hoang đường trên trời rơi xuống.
Anh chị dần dần cảm mến nước Mỹ, những nước thuộc thế giới tự do họ có lý tưởng của họ trong chiến tranh, Mỹ có căm thù gì dân Việt Nam đâu mà tàn ác giết hại dân Việt Nam?.
Anh chị thương thằng con rể Mỹ, nó hiền hòa, trung thực, nó đã đổi đời cho Lạc, thương yêu chiều chuộng con gái anh, đối xử tốt với gia đình nhà vợ. Người xấu người tốt ở đâu cũng có, cũng tùy người..
Anh Siêu thấy xấu hổ khi nhớ lại ngày xưa anh đã căm thù đế quốc Mỹ, hình ảnh những người lính Mỹ là tàn ác, ghê gớm, là gieo rắc đau thương cho xóm làng, nhân dân Việt Nam. Anh đã đăng ký đi bộ đội sớm, khi chưa đủ tuổi để mong tiêu diệt kẻ thù, bằng chứng là tấm giấy khen công anh hùng diệt Mỹ của anh vẫn còn kia, vì anh đã cùng vài người khác tóm cổ được một lính Mỹ đi lạc trong rừng.
Năm ấy anh Siêu mới 18 tuổi, cái tuổi trẻ mới lớn dễ tin người, tin đời. Anh hãnh diện nghĩ mình đã lập được công trạng cho đất nước, cho đồng bào.
**************
Ngày anh chị Siêu mong chờ cũng đã đến. Từ Mỹ vợ chồng Lạc và đứa con về thăm làng An Bình.
Anh chị thuê chiếc xe tải nhỏ ra phi trường Nội Bài đón con cháu.
Xe về làng, về nhà, mấy va ly, mấy thùng qùa Mỹ được mở ra, mùi thơm thơm lạ lùng từ một phương trời xa mà cả đời anh chị Siêu chưa được biết đến. Anh chị hoa mắt sung sướng với đủ những món qùa anh chị Siêu đã dặn con gái mua cho, nào kính mát, áo vét cho anh Siêu, nào áo khóac ấm cho chị Siêu, vì mùa Đông miền Bắc dài và lạnh, rồi qùa cho các em, họ hàng chú bác, đến hàng xóm láng giềng ít nhất cũng được cục xà bông hay bịch kẹo “sô cô la”, cũng được hưởng mùi qùa Mỹ.
Lần này thì dân làng tận mắt thấy mặt chồng Lạc, vẫn là ông Mỹ cách đây 3 năm. Có khác chăng là bây giờ ông Richard biết nói những câu tiếng Việt thông dụng, ai hỏi thì ông vui vẻ và thân thiện trả lời, giọng nói âm hưởng Mỹ nhưng tiếng Việt Nam ngọng ngịu của ông Richard làm mọi người cười vui. Họ không thấy ở ông Richard một chút nào hình ảnh thằng giặc Mỹ tàn ác thời chiến tranh mà họ đã nghe qua sự tuyên truyền của đảng vẫn còn ít nhiều trong tâm tư họ nữa.
Lạc thì đổi mới hẳn ra, đẹp xinh với quần áo lụa là sang trọng, không phải là cô Lạc nhếch nhác quần đen ngắn lấc cấc với áo vải ngày nào. Còn đứa con gái của họ vừa có nét thùy mị Việt Nam vừa có nét phương tây mạnh mẽ trông thật dễ thương.
Chị Siêu mang qùa của con gái đi biếu hầu như cả làng, đến nhà bà Cào, chị hơi e dè, sợ lại phải nghe những lời mỉa mai. Nhưng lạ chưa, bà Cào đã nắm tay chị Siêu, nói với tất cả niềm chân tình và rất lịch sự:
- Tôi cám ơn chị và cháu lắm. Nhờ chị nói với cô Lạc rằng về Mỹ xem có anh Mỹ nào thì làm mai cho con gái tôi với nhé, tôi còn hai đứa con gái chưa lấy chồng đây. Khổ qúa, con lớn nhà tôi lấy chồng cùng thời với cô Lạc, tưởng ở lại làng để làm nghề cào lưới tôm cá cũng đủ sống rồi, ai ngờ khốn khổ chị ơi, bữa đói bữa no. Thà cứ gả quách cho giặc Mỹ… ấy chết, xin lỗi chị tôi cứ quen mồm, thà cứ gả quách cho người Mỹ như cô Lạc nhà chị mà sướng tấm thân và cả nhà được nhờ.
- Vâng, để em bảo cháu. Nhưng chẳng phải dễ đâu, bác nó ở Hà Nội có con gái vừa đẹp vừa học giỏi cũng đang kiếm chồng Mỹ cho con để xuất ngoại đổi đời mà chưa có đám nào.
Bà Cào nài nỉ:
- Thì tôi cứ dặn phòng xa thế, may ra có duyên nợ thì gặp. Chị nhớ nhé?
Chị Siêu về nhà thấy hả hê nhẹ cả lòng, bà Cào là người đanh đá mồm miệng nhất làng mà đã chịu xuống nước, nhìn vào sự thật như thế thì từ đây cả làng cũng sẽ nguôi ngoai, không ai có lý do gì để động chạm đến việc Lạc lấy chồng Mỹ, hay kết tội anh chị gả con cho giặc Mỹ nữa..
Gia đình Lạc ở làng quê An Bình chơi 4 tuần, ông Richard theo vợ đi chơi khắp làng, đến thăm họ hàng, hàng xóm. Đến nhà nào ông Richard cũng chào hỏi tử tế bằng mấy câu Việt Nam thấy mà thương.
Đến ngày trở về Mỹ, chiếc xe tải nhỏ lại được thuê chở khách Việt Kiều ra phi trường Nội Bài.
Anh chị Siêu kể cho họ hàng và những nhà hàng xóm thân rằng sang năm Lạc có quốc tịch Mỹ và sẽ làm đơn bảo lãnh cha mẹ sang Mỹ định cư.
Tin này đã nhanh chóng lan ra cả làng, ai cũng nói là vài năm nữa cả nhà anh Siêu sẽ sang Mỹ đoàn tụ với con gái. Cái nhà ấy có phước to.
Có người thật tình, có người vì tò mò đến nhà anh Siêu chơi để nghe thêm chuyện. Họ thấy trên tường, nơi phòng khách trang trọng nhất, nơi mà từ hồi căn nhà cũ, trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ và đứa con gái của họ, thật là đẹp và hạnh phúc chứa chan.
Nguyễn thị Thanh Dương.
( April- 2011)
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: giodocgocong
Ngày gởi: 26/Apr/2011 lúc 5:24am
Anh Bộ Đội Thương Binh Tôi Gặp
Cuối năm tám mươi Có một lần tôi đi ngang bệnh viện Vì Dân Nghe đâu đã đổi tên là Thống Nhất Anh bộ đội thương binh Ngồi dưới hiên Nghêu ngao hát Khuôn mặt gầy tuổi mới quá hai mươi Giọng anh buồn đôi mắt ngắm xa xôi Anh đang hát về quê hương miền Bắc Tôi ngồi xuống bên cạnh anh Anh rất tự nhiên xích người nhường chỗ Tôi khen anh hát rất hay Anh mỉm cười Nụ cười sao hồn nhiên chất phác Tôi rút mời anh điếu thuốc Anh lấy trong người cái hộp quẹt Zippo.
Tôi bỗng bật cười to:
- Thế anh cũng thích xài đồ Mỹ ngụy
Anh điềm nhiên trả lời
- Ðây chỉ là kỷ niệm Của thằng bạn thân đã chết ở Bình Long.
Không hẹn hò chúng tôi bỗng thấy thân Ánh mắt bao dung Nụ cười tuổi trẻ Hết điếu nầy chúng tôi mồi điếu khác Khói thuốc mịt mù quanh chỗ chúng tôi.
- Anh đi bộ đội bao lâu ? - Từ khi mười bẩy tuổi - Thế anh bỏ học sao ? - Họ bảo đã có người khác lo việc đấy Bổn phận tôi là giải phóng miền Nam Tôi thật tình chẳng hiểu tại sao Nhưng không thể làm gì hơn được.
- Bố mẹ anh vẫn còn ngoài Bắc ? - Tôi là đứa con duy nhất Vào Nam không lâu thì nghe tin bố mất Mẹ tôi vẫn còn đang sống với bà con.
- Anh thế nào cũng phải về thăm ? - Tôi mãi chần chừ cũng đã mấy năm Chỉ vì tôi không muốn làm mẹ tôị.. đau khổ.
Anh cúi xuống nhìn đôi chân gỗ Mắt rưng rưng không nói thêm lời Ngoài hiên mưa bắt đầu rơi Rơi thấm ướt lòng chúng tôi đêm ấy.
Tôi cầm lấy tay anh Ðôi bàn tay lạnh giá Mắt nhìn nhau như đã nói nghìn câu Tôi thấy trong vô cùng hun hút đêm sâu Chảy trong chúng tôi chung một dòng máu đỏ Ðời chúng tôi đời những đứa con hoang Tim chúng tôi rung một nhịp Việt Nam Hồn chúng tôi hồn bốn nghìn năm cũ.
Anh vỗ nhẹ vai tôi Rồi khệnh khạng trở về bệnh viện Tôi ngậm ngùi không thể nói thêm chi Vì mai nầy tôi cũng sẽ ra đi Ðến một nơi tôi chưa hề nghĩ đến.
Năm tháng vẫn trôi đi Dòng đời tôi lạc bến Nhưng trong lòng khói thuốc chẳng hề tan.
Trần Trung Ðạo
------------- GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/May/2011 lúc 12:55am
Ai sẽ là " TÔI "
(Trần Mộng Tú)
Tôi là một người sống độc thân (và không có con), năm nay tôi 50 tuổi. Tôi sinh sống ở Virginia thuộc Hoa Thịnh Ðốn, sức khỏe đầy đủ và tôi có một việc làm vững chắc. Tôi có một người cha 85 tuổi, sống tại Houston , Texas .
Ôi bao dặm đường xa cách. Từ ngày mẹ tôi mất cha tôi sống một mình, ông không chịu rời căn nhà với những năm tháng của quá khứ và tôi không thể bỏ việc để dọn về nhà cha. Mùa Xuân năm ngoái cha tôi bị ngã bể xương hông và dập một bên sườn. Bây giờ cha tôi phải vào viện dưỡng lão dành cho người già ốm yếu và cha tôi được xếp vào danh sách phải săn sóc đủ một vòng tròn của chiếc đồng hồ treo trong phòng ông. Từ ăn uống, nằm ngồi, đi đứng, làm vệ sinh, nhất nhất điều có y tá. Cái điều đáng buồn là trong khi nhận tất cả phục dịch cho thân thể thì đầu óc của cha tôi vẫn còn cái minh mẫn của một ông giáo sư dậy toán cách đây mấy chục năm.
Tôi không thể thường xuyên bỏ công việc để đi xuống thăm cha, nhưng mỗi ngày tôi phải điện thoại, điện thư liên lạc với bác sĩ, dược sĩ, y tá và những người săn sóc cho cha tôi tại viện dưỡng lão. Tôi cố gắng thu xếp để mỗi hai tháng đến với cha tôi một cái cuối tuần, và mỗi năm về một tuần vacation vào dịp lễ Tạ Ơn hay Giáng Sinh. Tôi biết là cha tôi rất mừng mỗi lần thấy con đến thăm. Cái ánh mắt của cha tôi khi nhìn tôi chào ra về bao giờ cũng theo tôi suốt chuyến bay. Hôm nay cũng thế, khi ngửa cổ ra sau ghế để tìm một giấc ngủ ngắn trên phi cơ, tôi nhìn rất rõ lại hai con mắt của cha tôi. Bất giác tôi tự hỏi "Khi tôi vào tuổi già yếu. Ai sẽ là " TÔI " để tới lui săn sóc hỏi han tôi thường xuyên?
Một người độc thân không có anh chị em và những người già không có con, những người có con sống không cùng một tiểu bang, hay xa hơn nữa ở tận một quốc gia khác thì sẽ rơi vào hoàn cảnh nào khi tuổi già lặn xuống như mặt trời lặn trên biển (bạn đã ngắm mặt trời lặn trên biển bao giờ chưa? Nó mất vào nước nhanh vô cùng).
Cái thùng thư ba, bốn ngày không có người lấy, hay đống báo thành chồng trước hiên nhà, cỏ không cắt, lá không cào, các cửa sổ không mở là dấu hiệu cho hàng xóm biết nên báo cho cảnh sát vì chủ nhân trong căn nhà đó ở một mình và là một người già.
Nỗi lo âu của một người không có thân bằng quyến thuộc ở gần lúc tuổi già không phải là nỗi lo âu "quá đáng". Ðó là một điều chúng ta nên nghĩ đến khi còn có thể tìm hiểu và thu xếp cho chính mình.
Bà Barbara Gordon có mẹ già 92 tuổi sống ở Florida, trong khi bà làm việc ở New York bà đã đặt ra câu hỏi "Who will be ME for me." Bà đem câu hỏi đó hỏi những người bạn độc thân như bà, không con hay có con tản mác mười phương, họ cùng nhau bàn bạc, đặt ra những câu hỏi cho tuổi già:
- Tôi sẽ sống ở đâu?
- Tôi sẽ sống như thế nào?
- Tôi có đủ tiền không?
- Ai sẽ săn sóc tôi nếu tôi mất khả năng hoạt động?
- Nếu tôi ngã (lúc già yếu) nằm dưới đất hai, ba ngày thì sao?
- Một ngày nào đó liệu tôi có phải rời căn nhà tôi đang ở ?
Những câu hỏi trên đưa đến những câu trả lời khác nhau mà câu nào cũng rất mơ hồ. Cuối cùng họ đi đến kết luận: Cái cách mình đang sống bây giờ sẽ ảnh hưởng rất nhiều vào đời sống của mình lúc về già. Họ làm cái danh sách sau đây như một kim chỉ nam.
"Có bạn bè ở mọi lứa tuổi." Ðừng bao giờ nghĩ mình chỉ có thể thân với những người cùng lứa tuổi hay cùng hoàn cảnh như mình. Ðồng ý là họ hiểu mình hơn nhưng đồng thời cũng chỉ nghe những than thở của nhau, không có gì mới lạ. Giao thiệp với những người trẻ hơn mình cũng trẻ lại với cách suy nghĩ và ứng xử với đời sống "Mới" này. Giao thiệp với người già hơn mình để được hưởng sự khôn ngoan của họ.
"Kết thân với hàng xóm." Chắc bạn không muốn ngã xuống sàn nhà, nằm dưới đất hai ngày rồi mà không có ai đến vực lên. Một tiếng gọi cửa của hàng xóm có khi cứu được sinh mệnh của bạn đấy. Chạy qua chạy lại nhà hàng xóm lúc còn khỏe là một điều rất nên làm. Có hàng xóm tin và thân nhau còn giao cho cả chìa khóa nhà nữa. Người lớn tuổi đâu còn sợ mất mát gì về vật chất, cái quý nhất chính là bản thân mình thôi. Nếu hai gia đình cùng trẻ cùng có con nhỏ ở cạnh nhau mà thân thiện được là một điều rất quý. Tránh được rất nhiều va chạm về con cái và hữu ích cho nhau khi về già.
"Một bác sĩ thân thiện và có lương tâm" rất cần. Ông bác sĩ này phải là một người sẵn sàng cho bạn khi bạn cần tới. Một người không bao giờ từ chối cắt nghĩa một câu hỏi xem ra không được chính xác mấy của bạn. (Những câu hỏi không có kinh nghiệm gì của người trẻ tuổi và quá lẩm cẩm của người già.)
"Dược sĩ trẻ hơn mình nhiều tuổi." Mua thuốc với những người này, bạn được họ cắt nghĩa rõ ràng và thân thiện hơn. Người bệnh ở lứa tuổi nào cũng cần những dược sĩ trẻ trung.
"Tiêu ít, để dành nhiều." Người trẻ để dành cho ngày mai. Người già để dành cho hậu sự.
Cần kiệm luôn luôn là một đức tính.
"Ăn uống cẩn thận hơn." Thức ăn luôn luôn là một nguyên nhân chính cho sức khỏe. Người dân nước nào cũng tự hào về văn hóa ẩm thực của nước họ. Nhưng cái bao tử của cả bàn dân thiên hạ chỉ muốn tiêu thụ những thức ăn nhẹ nhàng, ít dầu mỡ và bổ dưỡng. Bạn cứ lắng nghe xem cơ thể bạn phản ứng thế nào sau mỗi bữa ăn khác nhau, thì bạn sẽ hiểu ngay nó muốn nói điều gì.
"Thể thao nhiều hơn" Ai cũng biết cơ thể cần vận động thì mới khỏe mạnh và đầu óc mới minh mẫn. Cứ cả ngày ngồi gõ cọc cọc (như chính tôi đây) ở máy vi tính, hay xem phim bộ như phần đông người Việt lớn tuổi, chắc chắn là không đúng rồi. Hãy đứng lên. Người trẻ có thể thao của người trẻ, người lớn tuổi có những sinh hoạt thể thao cho tuổi của mình. Nếu không đi xa được thì loanh quanh trong khu xóm, hoặc vung tay, khua chân ngay trong nhà mình. Ðừng ngồi yên một chỗ. Chim chóc ngoài vườn đang gọi bạn.
Ngay bây giờ phải là "MÌNH". Có người đặt câu hỏi: "Ai thương tôi nhất"
Câu trả lời: "Mình thương chính mình nhất" Vì chồng, (vợ) hay con mình cũng không thương mình bằng chính mình thương mình. Chồng, (vợ) hay con không thể chịu trách nhiệm về thân thể bạn được. Họ chỉ chia sẻ một phần nào.
Nếu bây giờ bạn thực hiện được những điều trên thì khi về già chính bạn đã lo được cho bạn khá nhiều. Vì có ai đó, không phải bà con mình (người bạn hàng xóm) sẽ nhắc cho bạn "Tối nay lúc 9:00 giờ có mục đọc truyện của đài phát thanh (tiếng Việt) hay lắm. Hoặc: "Ngày mai Chủ Nhật bà có đi chùa không? Sẽ có xe đón đấy."
trầnmộngtú
------------- mk
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/May/2011 lúc 7:54am
MẸ ƠI! ĐỪNG KHÓC NỮA VẪN CÒN TÌNH YÊU Ở LẠI
Người phụ nữ nhảy ra khỏi ghế ngồi khi vừa thấy vị bác sĩ giải phẩu bước ra khỏi phòng mổ. Cô hỏi: ‘Thằng bé của tôi ra sao, thưa bác sĩ? Liệu nó có qua khỏi không? Chừng nào tôi gặp nó được vậy bác sĩ?’
Vị bác sĩ nói: “Rất tiếc. Chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cháu đã không qua khỏi, thưa bà.”
Sally nói như thì thầm: “Tại sao trẻ con mà cũng bị ung thư? Chúa có còn đoái hoài gì đến chúng con nữa không? Ngài ở nơi đâu, Chúa ơi, khi con trai của con cần Ngài?”
Vị bác sĩ hỏi: “Bà có cần chút thì giờ ở riêng với cháu không? Một trong những y tá sẽ ra ngoài trong vài phút nữa, trước khi xác của cháu được chuyển qua trường đại học.”
Sally yêu cầu người y tá ở lại với nàng trong khi nàng nói lời từ biệt với đứa con trai của mình. Nàng luồn những ngón tay một cách yêu thương vào những lọn tóc quăn nghiêng qua màu đỏ của con. “Bà có muốn một lọn tóc của cháu không?” người y tá hỏi. Sally khẽ gật đầu. Người y tá cắt một lọn tóc của cậu bé, bỏ vào bao plastic và trao cho Sally.
Người mẹ nói: ‘Đó là ý của Jimmy, cháu muốn hiến cơ thể của mình cho trường đại học để nghiên cứu. Nó nói, “may ra sẽ giúp được cho một người nào đó.”
Lúc đầu tôi không chịu, nhưng Jimmy nói, “Mẹ à, con đâu có cần cơ thể này sau khi con chết đâu Mẹ. Có thể nó sẽ giúp một đứa con trai nhỏ nào đó như con, được sống thêm một ngày với mẹ của nó, Mẹ à.”
Và người mẹ kể tiếp, “Jimmy của tôi có một trái tim và tấm lòng bằng vàng. Nó luôn muốn giúp đỡ người khác khi nào hoàn cảnh cho phép.”
Sally bước ra khỏi bệnh viện Nhi Đồng Mercy (Lòng Thương Xót) lần cuối cùng, sau khi đã ở thường trực nơi đây từ sáu tháng qua. Ngồi vào xe, nàng đặt bọc tóc của con vào chiếc ghế bên cạnh. Chuyến lái xe về nhà đầy nỗi khổ. Càng khổ hơn khi bước vào căn nhà trống. Nàng mang những đồ đạc của Jimmy, cùng với bao plastic đựng lọn tóc của con vào phòng của đứa con yêu dấu.
Nàng đặt những chiếc xe hơi con và những vật dụng riêng của nó vào đúng những chỗ mà Jimmy thường giữ. Nằm nằm giăng ngang trên giường của con, ôm vào lòng chiếc gối của nó, rũ lòng ra theo những dòng lệ và rơi vào giấc ngủ.
Vào khoảng nửa đêm thì Sally tỉnh giấc. Bên cạnh nàng là một lá thư xếp lại. Nàng mở ra đọc:
“Thưa Mẹ,
Con biết là Mẹ sẽ nhớ thương con; nhưng đừng nghĩ rằng có bao giờ con sẽ quên Mẹ, hay thôi không còn yêu Mẹ nữa, chỉ vì con không được ở bên cạnh Mẹ để nói là “’Con Yêu Mẹ’ đó Mẹ ơi. Con sẽ luôn yêu Mẹ, có thể nhiều hơn theo mỗi ngày đó Mẹ ơi. Một ngày nào đó, chúng ta lại sẽ thấy nhau. Từ giờ cho đến ngày đó, nếu Mẹ muốn, thì Mẹ cứ nhận một chú bé nào đó làm con nuôi cho bớt nỗi cô đơn, con cũng vui với việc đó. Nó có quyền ở căn phòng của con, chơi với các đồ chơi mà con chơi trước kia. Nhưng nếu Mẹ quyết định chọn một đứa bé gái, có thể nó sẽ không thích những đồ chơi của con trai thì Mẹ sẽ phải mua cho nó những búp bê và những đồ chơi con gái đó Mẹ à.
Đừng buồn khi nghĩ đến con. Con đang ở một chỗ khá lịch sự. Ông và Bà đã gặp con khi con vừa mới đến và dẫn con đi xem vài chỗ, nhưng muốn xem hết mọi thứ thì mất một thời gian lâu hơn nữa. Những thiên thần ở đây kỳ diệu lắm. Con rất thích nhìn họ bay. Và, Mẹ có biết không? Chúa Jesus thật không giống như những hình ảnh mà ta thường thấy. Dù vậy, khi thấy Ngài thì con biết liền là Chúa Jesus. Chính Chúa Jesus đã đưa con gặp Đức Chúa Cha, và… con cho Mẹ đoán đó, con được ngồi trên đầu gối của Chúa Cha và nói chuyện với Ngài như thể con là ai quan trọng lắm vậy.
Đó là lúc mà con thưa với Chúa là con muốn viết thư cho Mẹ, để nói lời từ biệt cùng Mẹ và mọi thứ, dù con thừa biết là điều đó không được phép làm . Nhưng Mẹ ơi, Mẹ có biết gì không? Chúa đưa cho con một ít giấy và cây bút riêng của Ngài để viết lá thư này mà con nghĩ là vị thiên sứ Gabriel sẽ đến trao thư này cho Mẹ. Chúa bảo con trả lời cho một trong những thắc mắc của Mẹ đã hỏi rằng “Chúa ở đâu khi con cần đến Chúa?” Chúa nói rằng Ngài đang ở đó với con, cũng như khi con Ngài là Jesus đang bị treo thân trên thập tự giá thì Ngài cũng ở đó, cũng như Ngài luôn ở cùng với tất cả những người con của Chúa.
Ô, Mẹ à, con muốn nói là ngoài Mẹ ra sẽ không ai thấy những gì con đang viết cho Mẹ. Đối với bất kỳ ai ngoài Mẹ thì họ chỉ thấy một tờ giấy trắng mà thôi. Thật là kỳ diệu phải không Mẹ? Bây giờ con phải trao lại cho Chúa cây bút của Ngài, vì Ngài đang cần viết thêm một số tên vào Sách của Sự Sống. Đêm nay con sẽ được ngồi cùng bàn với Chúa Jesus và dùng bữa với Ngài. Chắc là đồ ăn sẽ ngon lắm.
Ồ, con suýt quên nói cho Mẹ nghe. Con không còn đau đớn nữa và bệnh ung thư đã đi mất. Con sung sướng vì thoát được cơn đau đớn quá sứcchịu đựng của con và Chúa cũng không đành lòng nhìn con đau đớn như vậy. Đấy là lúc Ngài gửi Thiên Thần Thương Xót đến đưa con về. Thiên Thần còn nói đây là Cuộc Đón Rước Đặc Biệt. Mẹ thấy có oai không chứ?
Gửi Mẹ với Tình Yêu từ Thiên Chúa, Đức Chúa Jesus và Con.
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/May/2011 lúc 5:06pm
Clip “Tau thích mi” gây sốt
http://vn.news.yahoo.com/clip-tau-th%C3%ADch-mi-g%C3%A2y-s%E1%BB%91t-065000769.html - http://vn.news.yahoo.com/clip-tau-th%C3%ADch-mi-g%C3%A2y-s%E1%BB%91t-065000769.html
Tác giả bài rap này là Nguyễn Nhân Ái (biệt danh là Lil Pig), 18 tuổi, đang học lớp 11 ở Huế. Điều đáng nói là Nhân Ái mắc chứng bệnh xương thủy tinh và phải di chuyển bằng xe lăn. Bản rap Tau thích mi được Nhân Ái viết tặng cho cô bạn cùng lớp.
Video này là bài tập học kì của nhóm bạn Nguyễn Bảo Anh, sinh viên năm 2 trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Bảo Anh là người đóng vai chính trong clip trên. Trong đoạn clip này, hình ảnh một anh chàng ngồi xe lăn luôn khao khát được như người bình thường được lồng ghép trên nền nhạc rap với chất giọng ca sĩ đậm chất Huế.
Tau - mi, hai từ người Huế vẫn dùng để bạn bè (thậm chí người lớn gọi con nít) một cách thân mật, đã được bạn trẻ này dùng để thổ lộ tình cảm với một cô bạn (mà bạn trẻ này như cũng muốn giấu cô bạn đó là ai).
Một câu chuyện rất khác về “Tau thích mi”
Tuổi Trẻ – Thứ tư, ngày 18 tháng năm năm 2011
TTO - Những ngày qua, bản rap Tau thích mi gây sốt trên mạng đã nhận về nhiều ý kiến khen chê. Nhưng đằng sau đó là một câu chuyện rất khác về tác giả của bài rap này - cậu học sinh lớp 11 đang mang trên mình căn bệnh xương thủy tinh quái ác, Nguyễn Nhân Ái.
http://vn.news.yahoo.com/clip-tau-th%C3%ADch-mi-g%C3%A2y-s%E1%BB%91t-065000769.html - Nghe clip bài rap "Tau thích mi"
“Tau biết tau không bằng được người ta”
Bản rap Tau thích mi ra đời từ chính những tình cảm thật của Nhân Ái. Những đoạn “Có lẽ ngại, có lẽ dị”, “Tau biết tau không bằng được người ta”, “Tau không có sức khỏe tốt để cùng mi đi chơi”… thật sự là nỗi lòng sâu kín của chàng trai 18 tuổi này.
Nhân Ái cho biết dù được gia đình, bạn bè và thầy cô động viên rất nhiều nhưng cậu vẫn không sao dẹp bỏ mặc cảm về bệnh tật của mình. Đó là lý do vì sao cậu không dám trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình với cô bạn cùng lớp mình đã dành tình cảm hơn một năm trời mà chỉ dám giãi bày trong bản rap Tau thích mi.
Việc bản rap trở nên nổi tiếng sau video clip của sinh viên Nguyễn Bảo Anh là điều rất bất ngờ với anh chàng nhút nhát - đến việc đứng rap trước lớp cũng chẳng dám làm này. Cũng nhờ vậy, Nhân Ái có thêm rất nhiều bạn mới, cả những người yêu thích rap lẫn những người lần đầu nghe rap.
Cô Võ Thị Bé, mẹ của Nhân Ái, cũng rất bất ngờ khi con mình bỗng dưng… nổi tiếng. Cô cho biết cô chỉ mới biết việc Nhân Ái thích rap cách đây 2 tháng. Dù không yêu thích thể loại này nhưng cô vẫn khuyến khích Nhân Ái theo đuổi sở thích của mình ngoài việc học ở trường.
“Là bậc cha mẹ, tôi rất vui khi con mình có được đam mê lành mạnh để theo đuổi. Nhất là khi đam mê đó không chỉ mang lại những phút thư giãn mà còn mang đến cho con nhiều bạn bè mới. Kể cả khi biết cháu có tình cảm với cô bạn cùng lớp, tôi vẫn rất ủng hộ con. Miễn là cháu không bỏ bê việc học và vẫn giữ được sự trong sáng của tình cảm tuổi học trò thì không việc gì tôi phải ngăn cấm con mình”.
Nói về đoạn clip của Nguyễn Bảo Anh, Nhân Ái cho biết: “Đoạn clip có những chỗ không phù hợp với nội dung bản rap của mình, đặc biệt là hình ảnh cô gái, xuất hiện rất buông thả và có phần “quậy”, làm mất đi sự trong sáng của bài rap. Cả các nhân vật khác trong clip cũng không phù hợp với hình ảnh học sinh Huế. Tuy nhiên, mình rất cảm ơn anh Nguyễn Bảo Anh đã chia sẻ bản rap này cùng mình. Hình ảnh nhân vật nam ngồi xe lăn đã khiến mình chạnh lòng nhớ đến khoảng thời gian phải ngồi xe lăn và phải tạm nghỉ học 1 năm vì căn bệnh xương thủy tinh quái ác”.
Khoảng thời gian mà Nhân Ái nhắc đến là vào hè năm lớp 6, khi chỉ còn vài ngày nữa là bước vào năm học lớp 7, Nhân Ái lại bị gãy xương đùi phải. Điều đó khiến cậu phải nghỉ học một năm. Nhân Ái đã có hơn 10 lần bị gãy xương, nứt xương.
Hiện tại, tuy sức khỏe đã khá hơn và có thể di chuyển bằng nạng để tiếp tục đến trường nhưng mong ước lớn nhất của Nhân Ái vẫn là mau chóng chữa lành bệnh, để không là gánh nặng của gia đình và có thể theo đuổi ước mơ của mình, trở thành một dược sĩ. “Mình không hi vọng sẽ làm được một việc gì đó cao siêu mà chỉ cần trở thành một người có ích cho đời” - Nhân Ái tâm sự.
Những bản rap cuộc sống
Sinh ra đã mang trên mình căn bệnh xương thủy tinh, Nguyễn Nhân Ái tỏ ra khá nhút nhát và thường mặc cảm về bệnh tật của mình. Nhưng bù lại, cậu đã nhận được sự động viên rất nhiều từ gia đình. Chính chị của Nhân Ái là người mở đường cho cậu tìm đến rap. “Cách đây 2 năm, sau khi nghe một số bản rap mà chị đưa cho, mình rất thích nên đã quyết định tìm hiểu về rap”. Vậy là thời gian rảnh, Nhân Ái lại tìm đến những forum về rap Việt để nghiên cứu, tìm tòi.
“Rap là nơi có thể bày tỏ mọi cảm xúc mà không bị gò bó bởi bất cứ điều gì”, đó là lý do vì sao mọi việc xung quanh từ những chuyện trường lớp, bạn bè đến những thói quen, những chuyện xảy ra hằng ngày, Nhân Ái đều mang vào rap. Từ bản rap đầu tiên với cái tên khá gần gũi, dễ thương Em muốn làm rapper, đến nay Nhân Ái đã có gần 20 bản rap do chính cậu sáng tác. Mỗi khi hoàn thành bản rap nào, Nhân Ái lại hào hứng chia sẻ với các bạn cùng sở thích để trau dồi, nâng cao khả năng rap.
Ngoài bản rap Tau thích mi, Nhân Ái còn rất được yêu thích với bản rap Miền Trung. Bản rap này được Nhân Ái sáng tác khi vô tình nhìn thấy cuốn Atlas địa lý và quyết định thực hiện bản rap giới thiệu tất cả tỉnh thành của miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Bản rap sau đó đã được các cộng đồng yêu nhạc rap khen ngợi và cũng là niềm tự hào rất riêng của cậu học trò Huế: Đây là Huế là nơi tôi đã sinh ra và lớn lên/ Có dòng sông Hương thơ mộng chảy bên...
Chính vì thế, khi gặp rất nhiều ý kiến cho rằng bản rap Tau thích mi rất khó nghe, thậm chí có bạn còn bảo rằng đó là rap tiếng Lào hay tiếng Campuchia nhưng Nhân Ái vẫn mỉm cười: “Mình chắc chắn 100% là sẽ không bao giờ đổi giọng Huế khi rap. Tại sao phải đổi giọng khi đó là tiếng nói của quê hương, của người đã sinh ra mình”.---------------- Trước một số ý kiến về cách xưng hô tau - mi trong bản rap, Nhân Ái đã "phản biện": "Đó là cách xưng hô thường ngày với bạn bè, đặc biệt là những người bạn thân của nhiều học sinh Huế giống như mình - bạn, tớ - cậu,… chứ không phải cách xưng hô thô lỗ như nhiều bạn nghĩ".
"Nếu thay bằng anh - em thì đó không còn là tình cảm trong sáng của học trò nữa, còn nếu xưng tên sẽ khiến cô bạn đó ngại nên mình quyết định giữ nguyên cách xưng hô này khi đưa vào bản rap. Và đó cũng là cách xưng hô mà mình vẫn dùng với người bạn đó ở ngoài đời".
“Báo Tuổi Trẻ ngày 23-3-2011 có đăng bài “Bước trên mảnh vỡ thủy tinh” đã mang đến cho mình và cả nhà niềm hi vọng mới để chữa lành căn bệnh quái ác này. Vì thế, hè này gia đình dự định đưa mình đến Bệnh viện Y dược học dân tộc để chữa bệnh. Chỉ mong mọi việc sẽ diễn ra thuận lợi để mình kịp thi đại học", Nhân Ái chia sẻ. |
THIÊN HƯƠNG
http://vn.news.yahoo.com/m%E1%BB%99t-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n-r%E1%BA%A5t-kh%C3%A1c-v%E1%BB%81-tau-th%C3%ADch-085000341.html - http://vn.news.yahoo.com/m%E1%BB%99t-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n-r%E1%BA%A5t-kh%C3%A1c-v%E1%BB%81-tau-th%C3%ADch-085000341.html
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/May/2011 lúc 11:42pm
Món quà rớt lệ của mẹ dành cho con gái
Cập nhật lúc 23/05/2011 04:10:00 PM (GMT+7)
Một bà mẹ 25 tuổi tại Anh đang dành nhưng giây phút ít ỏi cuối đời mình để chuẩn bị cho cô con gái 3 tuổi một di sản là những lời khuyên như một món quà chia tay.
Brave Katrina Hobbs (25 tuổi, Somerset) là 1 trong số 4 người tại Anh đang phải chịu sự đau đớn đến tột cùng do mắc phải chứng bệnh hiếm gặp gọi là ung thư phần mềm phế nang với hơn 12 khối u xuất hiện trong phổi.
Vào tháng 9/2008, Brave được các bác sĩ chẩn đoán ra chứng bệnh hiếm gặp trên và cô đã buộc lòng phải bỏ đi đứa con trai mới được 20 tuần tuổi để chữa bệnh. Nhưng sau đó bất chấp số phận, cô đã hạ sinh bé Ella Brooke. Với Brvave, Ella không chỉ là thiên thần đáng yêu nhất mà còn là người bạn tri kỉ trong những lúc cô vật lộn với cơn đau.
|
Brave đang dành trọn những giây phút cuối đời để làm “di sản” để lại cho con gái |
Lo lắng cho cô con gái bé bỏng, Brave không đành lòng khi nghĩ đến việc cô bé sẽ phải sống một mình. “Tôi bắt đầu suy nghĩ về những gì tôi có thể làm cho Ella để xung quanh con bé luôn có những thứ có thể tưởng nhớ đến tôi ngay cả khi tôi đã lìa xa cuộc đời này”.
“Tôi muốn giúp con bé vượt qua được những khó khăn và chia sẻ những trải nghiệm quan trọng trong cuộc sống vì tôi biết khi con bé lớn lên nó sẽ phải đối mặt với nhiều thứ và sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh. Tôi biết tôi không thể ở đó để bảo vệ nó được mãi và đó thực sự là điều khiến tôi vô cùng đau khổ. Vì lẽ đó tôi quyết định để lại “di sản” cho Ella”.
Brave đã tự tay làm “di sản” để lại cho con, đó là những tấm thiệp, những bài thơ, những lá thư và cả những đoạn video chúc mừng những sự kiện quan trọng trong cuộc đời con gái qua từng năm khi cô đã mất. Đó là tấm thiệp chúc mừng sinh nhật thứ 16, 18 hay 21 của Ella, là cảm xúc khi lần đầu lái xe, là lời cầu chúc cho hạnh phúc của con trong ngày cưới, sự chia sẻ trong những khoảnh khắc lần đầu tiên, thứ hai, thứ ba khi Ella được làm mẹ…
Cô đã chuẩn bị mọi điều nhắn nhủ để Ella bước vào đời. “Con bé có thể bị căng thẳng hay gặp rắc rối liên quan đến “chuyện ấy” khi ở độ tuổi thiếu niên, tôi đã để lại lời nhắn cho con bé rằng đó hoàn toàn là điều tự nhiên và nó sẽ ổn thôi”.
|
Cô hy vọng con bé sẽ vượt qua được mọi khó khăn, thử thách ngay cả khi không có mẹ ở bên |
“Con bé cũng có thể bị bắt nạt, tôi viết thư cho nó nói rằng điều đó xảy ra vì nó là một cô gái đặc biệt và con bé nên vui mừng vì điều đó”.
“Ella là một cô bé tuyệt vời. Cô bé sẽ trở thành người con gái có nhân cách lớn. Con bé thường nói với tôi rằng: "mẹ và con là bạn tốt nhất của nhau và chúng ta sẽ bên nhau mãi mãi"".
Mỗi đoạn video Brave gửi lại con có độ dài khoảng 5phút. Cô hy vọng mỗi ngày khi Ella thức giấc sẽ thấy ngay hình ảnh, giọng nói của mẹ và có cảm giác như cô vẫn luôn được mẹ chở che, nâng đỡ ngay cả khi bà không có mặt.
Trong mỗi lời nhắn trên thiệp hay thư để lại, Brave đều ký là: "yêu con mãi mãi cho đến phút cuối cùng của cuộc đời".
Thiên Thư (Theo Dailymail)
------------- mk
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Jun/2011 lúc 2:52pm
GIA TÀI CỦA VỢ
18 giờ, chị gọi điện thoại đến Công ty của chồng, chú bảo vệ nói rằng: "sếp vừa đi ăn tối ở nhà hàng". Linh tính cho chị biết đó là... nhà nàng chứ không phải nhà hàng. 20 giờ, sau khi cho các con ăn xong, chị phi xe máy đến nhà nàng. Ô tô của sếp đang đỗ ở trong sân. Linh tính đã không đánh lừa chị. Có cái gì đó rất nóng, trào lên nơi cuống họng nhưng chị đã kịp nuốt khan nó vào. Không ấn chuông, không đập cửa, cũng không gào thét, chị cởi chiếc giày bên chân phải của mình, treo vào phía trong cánh cửa sắt rồi phóng xe về nhà, giúp các con ôn bài. Gần 23 giờ đêm, sếp mới chỉnh trang lại y phục, chải lại mái tóc bị vò rối bù và ra về. Nàng ra mở cửa cho sếp trong bộ váy áo ngủ mỏng tang đầy quyến rũ và giật mình khi nhìn thấy một chiếc giày treo trong khung cửa sắt. “Sao lại có một chiếc giày ở đây? Một chiếc giày chân phải rất đẹp”. “Thôi, em vào ngủ đi. Cho dù đẹp nhưng một chiếc giày thì cũng chẳng làm được việc gì”. Trên đường về nhà, sếp cứ nghĩ vẩn vơ về chiếc giày đó, nó là của ai? Và vì sao nó được treo ở đó? Sếp đánh ô tô vào gara, mở cổng rất khẽ. Có một chiếc giày chân trái của phụ nữ đặt ngay ngắn trên bậc cửa. Sếp đứng như trời trồng trước chiếc giày đó chừng 2 phút. Sau đó sếp vào phòng ngủ riêng, vì sếp không muốn nghe vợ cằn nhằn, khóc lóc. Nhưng sếp trằn trọc mãi không sao ngủ được. Sẽ có giông bão trong căn nhà này. Sẽ là nước mắt, tiếng la hét và một lá đơn ly hôn. Rồi hai đứa nhỏ sẽ chán đời, đi bụi và hư hỏng... Đó là tấn bi kịch đáng sợ nhất.
Nhưng sáng hôm sau mọi việc vẫn diễn ra bình thường. Bát phở gầu bò thơm ngào ngạt vẫn được để ngay ngắn trên bàn cùng với mấy dòng chữ của vợ: “Em đưa các con đến trường. Anh ăn sáng rồi đi làm. Hôm nay trời u ám nên anh phải mặc bộ vét màu sáng, thắt cà vạt màu sáng. Em đã là kỹ, treo trong tủ”. Sếp gọi điện thoại cho nàng: “Chiếc giày chân phải kia là của vợ anh. Đừng vứt đi nhé”. Giọng nàng đầu dây bên kia nghe hơi hoảng hốt: “Trời ạ! Anh muốn làm sao thì làm chứ nếu chị ấy đến nhà em làm ầm lên thì em không sống nổi đâu. Chiều anh tạt qua lấy chiếc giày về”. Nhiều ngày trôi qua mà giông bão không nổi lên, thái độ của vợ sếp vẫn bình thản, song một chiếc giày trên bậc cửa cứ nhắc sếp về sự lẻ loi và tội lỗi của một người. Rồi một buổi chiều, sếp lấy hết can đảm, lôi chiếc giày bên phải trong cốp xe ra, đặt ngay ngắn bên chiếc giày chân trái của vợ. Chị đi làm về, đứng sững trước bậc cửa mấy giây rồi chạy vào, ôm ghì lấy chồng mà thì thầm: “Ôi! Chiếc giày chân phải của em!” Sếp cũng thì thầm bên tai vợ: “Anh xin lỗi em - nghìn lần xin lỗi!”.
Đàn ông nếu biết kỹ quá khứ của vợ thì đau đầu lắm. Còn đàn bà, nếu biết hơi nhiều về hiện tại của chồng thì đau tim lắm. Nhưng đã trót biết rồi mà ứng xử được như bà vợ của ông sếp kia thì thật là cao thủ.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Jun/2011 lúc 10:33am
CÒN QUÝ HƠN CẢ VẬT CHẤT
Bố tôi là hoạ sĩ. Mặc dù không được học hành trường lớp nhưng với lòng đam mê nghệ thuật bố đã tự tìm tòi, học hỏi. Nghe kể lại, hồi bố con niên thiếu, có lần muộn rồi mà ông nội chưa thấy con mình đi học về, ông đành đi tìm con. Dưới một gốc tre già, ông nội thấy thằng con đang mải mê nhìn tư thế con bò nằm, hí hoáy vẽ bức tranh bằng bút chì trên một miếng bìa vở.
Trước đây, khi mắt của bố tôi còn nhìn rõ, có nhiều người nhờ vẽ tranh cảnh thiên nhiên, chân dung người quá cố … Có tiền, bố mua quà tặng mẹ, dẫn anh em chúng tôi đi chơi mỗi tuần. Bây giờ bố có tuổi, mắt kém đi nhiều nên nghề hội hoạ đành từ biệt. Kinh tế gia đình eo hẹp hơn vì anh tôi và tôi còn đi học. Mọi lo toan trong gia đình chỉ còn trông chờ vào cái quán bún riêu nho nhỏ của mẹ ở đầu hẻm.
Bố có bạn ở nước ngoài về, cùng mấy người ở Việt Nam, họ rủ nhau đi chơi ở Đà Lạt một chuyến. Bốn ngày sau, bố về nhà có quà cho mẹ là một chiếc áo len màu nâu sữa và cũng có mứt kẹo cho mọi người. Nhưng mẹ không vui mấy khi quà bố mua cho bố lại là một bức tranh thêu XQ đến 1,5 triệu đồng. Dĩ nhiên tiền mua tranh là của người bạn ở nước ngoài cho nhưng mẹ cứ xót xa giá như là mua những gia dụng thì hơn. Biết sao được, bố vẫn còn tâm hồn đam mê nghệ thuật lắm.
Một năm sau, có người trai trẻ từ thành phố Đà Lạt tìm đến nhà. Đôi mắt anh ta sáng rực lên khi nhìn thấy bức tranh XQ ở trên tường nhà tôi. Anh tên là Hạnh. Anh Hạnh cho biết nhờ vào địa chỉ của khách mua hàng để lại mà anh ta đã tìm được đến đây. Bức tranh trên tường là một trong ba bức tranh cuối người yêu của anh đã thêu trước khi cô ta mất. Hai bức khác đã được khách nước ngoài mua. Anh bảo rằng cô ta rất yêu nghệ thuật. Ngay cả khi biết mình bị bệnh hiểm nghèo không còn cách chữa trị, cô ta vẫn xin được đi làm ở phòng tranh XQ cho đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Giọng nói của anh ta nghe có nước mắt. Anh muốn mua lại bức tranh thêu mà bố tôi đã mua. Bố nói ông cũng rất quý bức tranh này nên không thể bán. Anh Hạnh là quý tử con nhà giàu nên cũng sẵn sàng mua với giá 10 triệu. Mẹ tôi ở nhà bếp ngoái lên ra dấu bán cho anh ta đi. Bố tôi vẫn quyết định không bán. Anh để lại số điện thoại với hy vọng bố tôi suy nghĩ lại.
Anh ta bước đi thất thểu ra con đường hẻm trước nhà, còn ngoái đầu lại vài lần. Bố tôi nhìn theo không nói, ông đưa tay lên phất mạnh gọi anh ta lại. Vội vàng anh ta chạy lại với gương mặt mừng rỡ. Bố tôi nói giọng trầm ấm:
- Anh lấy bức tranh đi. Tôi tặng anh … Không lấy tiền.
Mẹ tôi với gương mặt thêm phần lam lũ, méo xẹo.
Thỉnh thoảng có dịp đến TP. HCM, anh Hạnh lại ghé thăm gia đình tôi. Bố tôi nói ghé chơi là quý rồi nhưng lần nào anh ta cũng có quà cáp. Mẹ tôi không còn giận bố nữa. Bà càng quý trọng hơn tâm hồn cao thượng của bố.
Bố bị tai biến, ít năm sau thì mất. Cái ngày bố mất, đang tang tóc đau thương thì cái khu ổ chuột nhà tôi cũng nhận được quyết định giải toả kỳ cuối. Với số tiền bồi thường ít ỏi không biết rồi sẽ trú ngụ ở đâu. Trăm sự như mối tơ vò chẳng biết nên thế nào. Anh hai tôi và anh Hạnh đi mua hòm cũng vừa về tới nhà. Anh hai nghe biết chuyện, đến an ủi mẹ:
- Như mẹ biết đấy, anh Hạnh bây giờ đang kinh doanh bất động sản, nhà đất ở thành phố mình. Anh mới nói với con là nếu mẹ đồng ý, anh ấy sẽ tặng gia đình một ngôi nhà nhỏ ở huyện Hóc Môn, cũng không xa Sài Gòn là mấy.
Mẹ tôi mừng lắm, nhưng cũng không thể vui vì nỗi đau chồng mất và còn ngần ngại với một món quà quá lớn. Anh Hạnh biết ý, đến gần mẹ tôi hơn:
- Cô đừng có ngại. Chú là người đã cho con một bài học cụ thể:
Trên đời này có những điều còn quý hơn cả vật chất.
- sưu tầm -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Jun/2011 lúc 7:05pm
Viết Cho Em
Hôm nay định ghé qua nhà em họ ngồi tâm sự tán dóc với nhau , sẳn lấy mấy trái hồng của ai cho . Em lúc nào cũng nghỉ tới tôi ,thế là bịch hồng em chia ra làm hai , em dặn nếu như em không có nhà thì tôi chỉ việc đi ngang qua lấy tự nhiên ở một góc nhỏ trước nhà em để sẳn . Tôi lơ đãng quên mất mỗi chiều em đều vô viện dưỡng lão để đút cơm cho mẹ là người O ruột của tôi . O tôi bị bệnh đã mấy năm kể từ lúc mất đi đứa con trai mà O thương yêu hết lòng , O giống như thân cây chuối bị người ta đưa cây dao phạt ngang mình , O quị xuống rồi đổ bệnh nhưng chưa đến nổi trầm trọng . Ngày đó thỉnh thoảng tôi ghé thăm O , O vẫn còn tỉnh táo phụ tôi đi hái chanh , hái cam . Lúc nào từ nhà O trở về cũng tay xách tay mang , O phụ đưa ra tới xe rồi nhìn theo tôi với đôi mắt tràn đầy thương yêu . Thật lạ lùng tôi chỉ là cháu nhưng lại giống O như khuôn đúc , có lẽ vì vậy mà O dành cho tôi một tình thương thật đặc biệt .
Cho tới ngày chồng O mắc phải chứng bệnh nan y , không bao lâu cũng lìa bỏ O mà đi . Sức chịu đựng của O đã quá sự giới hạn bởi nỗi mất mát quá lớn lao . Căn bệnh không còn hành hạ thể xác nữa nhưng khiến cho đầu óc của O đã hoàn toàn mất đi trí nhớ . Tôi nghỉ như vậy mà tốt hơn cho O tôi , khỏi phải sống trong sự đớn đau , dằn vặt tiếc thương những người thân yêu , để rồi mỗi ngày mỗi tàn tạ cả thân xác .
Người còn lại giữa cuộc đời thì phải lao theo bánh xe của cuộc sống , quay cuồng chóng mặt cùng nợ cơm áo . Em gái tôi đành phải đưa mẹ vào viện dưỡng lão cho có người chăm sóc chu đáo , có thêm bạn già và có sự sinh hoạt mỗi ngày để rời bỏ cái căn nhà yên lặng mỗi khi con cái đi ra ngoài làm việc , xa cái không gian u buồn khi không còn bóng dáng của hai người O thương yêu đã qua đời.
Mướn một người đến chăm sóc người bệnh , em tôi cũng đủ khả năng , nhưng đã thay biết bao nhiêu người vì những chuyện xảy ra như không để ý đã làm cho người bệnh bị thương tích thêm . Cho nên biện pháp cuối cùng em tôi cũng vô cùng đau khổ trước những lời nói dị nghị , phê bình , trách móc . Em tôi vẫn cứ quyết định theo sự sắp xếp của chính mình để đưa mẹ tới một nơi , em nghỉ để khuya hôm có người kịp trở tay khi bệnh tình của mẹ mình bất ngờ trở chứng . Chỉ có tôi là người hiểu em hơn ai hết , mỗi ngày kể từ khi đưa mẹ tới viện dưỡng lão , sau giờ làm việc chiều nào em tôi cũng đến để đút cơm cho mẹ ăn , vén tay vén chân coi mẹ có bị trầy sướt ở đâu không , giặt khăn ngồi tỉ mỉ lau chùi cho mẹ từng ngón tay ngón chân . Đâu ai biết được trái tim em đập liên tục khi trên đường lỡ bị kẹt giữa dòng xe , em sợ tới trể sẻ không được ngồi đút cho mẹ từng muổng cơm vì đã qua đi thời giờ ấn định của viện dưỡng lão .
Mỗi người ai cũng có những hoàn cảnh riêng , mấy ai hiểu thấu đáo cho nhau . Cũng có nhiều người cho việc đưa mẹ vô viện dưỡng lão là không đúng . Nhưng với riêng tôi khi nhìn thấy em chăm sóc mẹ không một ngày ngơi nghỉ , mưa to gió lớn hay nắng lửa oi nồng , em vẫn điều đặn như chiếc kim đồng hồ không sai một tít tắc .Những ngày lễ lớn trên nước Mỹ như ngày Lễ Tạ Ơn , em luôn chuẩn bị để đưa mẹ về nhà chung vui với con cháu . Có sự hiện diện của mẹ bên cạnh , tôi thấy em nói chuyện nhiều hơn , như thay đổi hẳn cả con người vốn sống rất thầm lặng . Bốn mùa trôi qua em như đã quên đi không gian và thời gian , quên đi cuộc sống vui vẻ cho riêng mình . Niềm vui của em là nhìn thấy mẹ da dẻ hồng hào , hôm nào O tôi cười vui là em gọi phôn mừng rỡ cho tôi biết . Lòng hiểu thảo của em làm sao mà mang ra để đong đo và tôi nghỉ con người không ai có cái quyền để đi phê phán trước những cách thể hiện tình cảm thương yêu của một người khác .
Chiều nay trên đường từ nhà em trở về , lá mùa thu theo gió rơi rụng đầy cả con đường , tôi nghỉ tới em khi nhìn thấy nụ cười của mẹ , em tôi sẻ vui lắm mặc dù lòng em đang se thắt u buồn khi nhìn thấy những chiếc lá vừa mới xanh ngắt trên cây , đang đổi màu để úa tàn rụng rơi .Một nỗi xót xa vô vàn khi em nghỉ tới mình sẻ còn bao nhiêu ngày nữa, để lao xe thật mau được đến bên mẹ với trái tim nhói buốt giữa dòng đời vô tình vẫn hững hờ bình thản trôi đi . Em tôi đang bám lấy chút hy vọng mong manh như tia sáng yếu ớt ở tận cuối chân trời nhưng đó là một nỗi hạnh phúc vô bờ vô bến. Bởi còn mẹ là còn tất cả có phải không em ? ... Mầu Hoa Khế
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/Jun/2011 lúc 9:35pm
CHÚNG TÔI ĐÃ HẠI 1 NGƯỜI BẠN QUÝ!
Thân chuyển đến quý vị và các bạn một câu chuyện... khi mà Lòng Bao Dung trở nên hiếm hoi...
Năm nay tôi đã gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đã có thể chúc thọ được rồi. Tôi đã chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời.
Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều gì đó về cuộc đời này.
Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở ký túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong phòng kêu ốm và ở lại. Người đó là S, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nhìn S đang nằm quay mặt vào tường và hoàn toàn tin rằng S đã lấy cắp chỉ vàng của tôi. Tôi đề nghị mọi người trong phòng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công. Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của S, chúng tôi đều tin S đã giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng của tôi. Chúng tôi đã báo cáo sự việc với nhà trường. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự thì S có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù S cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đã tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là S.
Một tuần sau, chúng tôi phát hiện S mang một bao tải mì sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi S lấy tiền đâu mà mua mì sợi. S không nói gì mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đã không xét tốt nghiệp cho S mặc dù học lực của S rất khá, với lý do đã có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của mình. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có S không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương S sinh sống đề nghị địa phương theo dõi và giáo dục S. Khi nào địa phương chứng nhận S đã hối cải và tiến bộ thì nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của S.
Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có S là không ai biết rõ ràng ở đâu và làm gì. Nhà trường cho biết, S cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.
Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng còn nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt H đã trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xã hội biết đến.
Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: "Anh P thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đã lấy của anh cách đây mấy chục năm. Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính". Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không ký tên. Tôi không còn nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của S. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến S với một nỗi xót thương. Ngày ấy, S là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố S mất sớm. Mẹ S phải tần tảo nuôi năm anh chị em S ăn học. Có lẽ vì thế mà trong một phút không làm chủ được mình, S đã trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ thì có lẽ chúng tôi không đẩy S vào tình cảnh như ngày ấy.
Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm lòng tôi. Ngày ngày tôi đợi S đến tìm. Tôi sẽ nói với S là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi S vì lòng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.
Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là S mà là H. Tôi reo lên: "Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này". Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt H trầm tư khác thường. Tôi kéo H vào nhà và nói ngay: "Mình vừa nhận được thư thằng S. Cậu có biết nó viết gì không? Nó đã trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi". Khi tôi nói xong, H bước đến bên tôi và nói: "Anh P, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đã ăn cắp chỉ vàng của anh". Nói xong, H như đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, H đã kể cho tôi nghe tất cả sự thật. Vì cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, H đã tìm cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, H rất ăn năn và luôn tìm kiếm S để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê S mặc dù biết S không còn sinh sống ở quê đã lâu.
Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về S: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của mình, S đã phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. S đã xin đi khai hoang ở một huyện miền núi.
Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường tìm đến nơi S đang sinh sống. Ở đó S sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dãy đồi. S trồng trọt và mở một trang trại chăn bò lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.
Tôi và H quyết định ngủ lại một đêm với S. H xin S cho H được kể sự thật cho vợ con S nghe để họ thanh thản và hãnh diện về chồng, về cha mình và H muốn được tạ lỗi với vợ con S. Nhưng S gạt đi và nói: "Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp". Trước khi chia tay nhau, H cầm tay S khóc và nói: "Mình có tội với cậu. Cậu đã tha tội cho mình. Nhưng mình muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời mình đã mang nợ với cậu. Hãy nói mình phải trả nợ cậu như thế nào". S mỉm cười và nói: "Ông đã trả hết nợ rồi". Khi tôi và H còn chưa hiểu ý thì S nói: "Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đã trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ gì về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính mình". Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người S. Tôi hiểu ra một điều gì đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.
Cũng trong cái đêm thức với S tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, S vẫn đi quay mì sợi thuê để mua mì sợi cứu đói cho gia đình. Chúng tôi đã không hiểu được bạn bè mình. Chúng tôi đã làm cho một con người như S nếu không có nghị lực, không có lòng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.
Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời. Kính chúc các anh, các chị mạnh khỏe, an khang và thịnh vượng.
Thân ái Đ. V. P
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Jul/2011 lúc 7:31am
MỘT CHỔ NGỒI
Vi Phương
Hoàng Tuấn
http://music.forvn.com/show/451367.html -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Jul/2011 lúc 11:35am
CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Tác Giả: Vĩnh Khanh |
Thứ Bảy, 16 Tháng 7 Năm 2011 05:31 |
Lời nói đầu:
Ngày 15 tháng 12 năm 2007 vừa qua, sau hơn 30 năm lưu lạc sống rãi rác khắp nơi, nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc mới có cơ hội qui tụ về thành phố Houston tham dự buổi họp mặt lần đầu tiên. Tôi không phải là thành viên trong nhóm, nhưng hân hạnh được tham dự buổi họp mặt cảm động và tràn đầy tình huynh đệ này. Tôi gặp lại một số bạn cũ cũng như được biết thêm nhiều anh em mới trong dịp này mà tên mỗi người đều kèm theo một biệt danh dí dỏm như: Hoàng "xà lim", Hối "Hilton", Dũng "Sún", Hải "Vờ", Toàn "chí chóe"… Đặc biệt hơn hết trong số người tôi được giới thiệu ngày hôm đó là anh Phạm Văn Thức. Sau đó được nghe chính anh và những bạn bè trong nhóm kể lại câu chuyện độc đáo có một không hai của anh. Thú thật tôi bị cuốn hút vào câu chuyện hấp dẫn này ngay từ đầu nên đã xin phép anh Phạm Văn Thức được viết lại nó. Mời quý vị theo dõi câu chuyện độc đáo sau đây của người tù cải tạo nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức mà các bạn tù đã thân thương đặt cho anh cái biệt danh là: Thức " trốn trại".
Kể từ sau ngày trình diện tập trung cải tạo, các sĩ quan chế độc cũ đã phải trãi qua nhiều trại tập trung khác nhau như Trảng Lớn, Đồng Pan, Cà Tum, Long Thành, Suối Máu ...v…v… nhưng đến năm 1979, một đợt chuyển trại nữa lại xảy ra. Trong đợt này có 520 sĩ quan cấp úy QLVNCH bị chuyển về trại Xuyên Mộc thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu. Trại Xuyên Mộc này từ trước chỉ nhốt tù hình sự, nên nhóm tù sĩ quan cải tạo bị chuyển về đây cũng phải chịu chung sự quản chế rất khắc khe, tàn ác giống như qui chế dành cho các tội phạm hình sự. Mọi qui chế ở trại Xuyên Mộc này đều khó khăn hơn nhiều so với các trại cải tạo mà họ đã ở qua trước đây. Bọn Công An quản giáo trại vì quen thói đánh đập tù hình sự, nên cũng đánh đập tù sĩ quan cải tạo rất dã man mỗi khi có ai phạm vào nội qui của trại, dù là những lỗi rất nhỏ. Những hình phạt khắc nghiệt như cùm giò, nhốt xà lim bỏ đói cả tháng trời... hoặc hình ảnh cả đám cán bộ quản giáo xúm lại đánh hội đồng một anh tù cải tạo vô phúc nào đó là hình ảnh xảy ra hàng ngày… Chính những điều này đã dấy lên sự bất mãn trong nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc và càng làm rõ nét thêm sự gian trá láo khoét của cái chính sách gọi là "Khoan Hồng, Nhân Đạo" mà chính quyền cộng sản lúc nào cũng rêu rao.
Một số tù bắt đầu tổ chức trốn trại. Khoảng giữa năm 1979, một vụ tổ chức cướp súng trốn trại nổi tiếng xảy ra ở trại Xuyên Mộc. Tham gia trong kế hoạch cướp súng trốn trại này gồm có 5 người là: Thiên, Tài, Thịnh, Đức và Khanh, trong đó người chỉ huy là Thiên, một sĩ quan Trinh Sát Dù. Sau nhiều lần bàn bạc cũng như theo dõi những thói quen của các vệ binh, cán bộ mỗi ngày khi ra lao động bên ngoài. Tổ chức này quyết định sẽ hành động vào lúc hết giờ lao động trong một ngày đã định sẵn, khi các tù cải tạo sắp xếp chuẩn bị trở về trại. Nhiệm vụ được phân công rõ ràng cho từng người, ai có nhiệm vụ nấy. Nhưng đúng là "Người tính không bằng Trời tính". Câu nói đó xem ra không phải là một câu nói vô duyên cớ… Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương. Tài ở gần đó bỏ chạy cũng bị bắn chết luôn sau đó. Ba người còn lại trong tổ chức là Thịnh, Đức và Khanh lúc bấy giờ đang ở phía sau hoàn toàn không chuẩn bị gì cho việc này cả, nên không ai trở tay kịp hoặc giúp gì được cho Thiên và Tài. Lúc đó anh nào cũng đang mang trong người một ruột tượng đựng cơm phơi khô, bất thình lình thấy Thiên ra tay hành động… rồi súng nổ… rồi Thiên và Tài bị bắn ngã… sự việc xảy ra nhanh quá! Nghĩ là mọi việc đã bị đổ bể, ở lại thế nào cũng sẽ bị xét bắt nên ba người cũng vội bung ra chạy... Quân vệ binh cộng sản truy lùng ngay sau đó… Kết quả Thịnh và Đức bị bắt lại và bị đánh thê thảm. Chỉ có Khanh may mắn chạy thoát được. Vụ trốn trại này không những làm xôn xao tất cả đám tù cải tạo còn lại, mà cả ban chỉ huy trại và quản giáo cũng xôn xao, rúng động không kém. Ngay sau đó, hệ thống quản lý tù càng siết chặt chẻ hơn... nội qui trại đưa ra càng khó khăn hơn và kỷ luật mới được ban hành để đối phó với bất cứ ai phạm nội qui lại càng tàn bạo hơn trước nhiều…. Tuy thế cũng không làm cho các tù nhân cải tạo sợ hải. Ít ra là đối với một người: Đó là anh Phạm Văn Thức.
Anh Phạm Văn Thức trước đây là Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đơn vị đóng tại tỉnh Long An. Anh là người miền Bắc di cư, hiền lành, ít nói và là một tín đồ Công Giáo rất ngoan đạo. Nhưng không ai ngờ rằng với bề ngoài hiền lành, ít nói của anh lại ẩn tàng một ý chí sắt đá với những quyết định táo bạo khó có ai bì được. Sau khi từ trại Suối Máu bị chuyển về Xuyên Mộc, dưới sự quản thúc tàn bạo của đám Công An đã đối xử với anh và các bạn tù cải tạo như thú vật… thì anh đã nảy ra ý định trốn trại. Tuy nhiên anh chưa kịp thực hiện kế hoạch của mình thì đã xảy ra vụ tổ chức 5 người kể trên cướp súng vượt trại thất bại trước rồi. Việc này xảy ra bắt buộc anh phải tạm thời đình hoãn kế hoạch của mình lại, chờ mọi việc yên ổn, lắng dịu xuống hết rồi mới tính được.
Qua năm 1980, chuyện 5 người âm mưu cướp súng trốn trại tương đối đã êm. Mọi sinh hoạt trại trở lại bình thường. Lúc bấy giờ vào mùa thu hoạch bắp nên tất cả công tác lao động của trại chủ yếu là làm việc trên những rẫy bắp nên các vệ binh đi theo canh gác tù chỉ tập trung ở những rẫy bắp. Lợi dụng cơ hội này, Phạm Văn Thức quyết định thực hiện ý định của mình. Anh nhận thấy nếu việc trốn trại có nhiều người tham dự sẽ không được an toàn cho lắm. Tuy rằng với có nhiều người thì sẽ có sự giúp đỡ lẩn nhau trong khi hành động cũng như trên bước đường trốn tránh trong rừng, nhưng đồng thời kế hoạch cũng dễ bị vỡ nếu mọi việc không hoàn toàn ăn khớp với nhau, như trường hợp của 5 người bạn tù trước đây. Do đó Phạm Văn Thức quyết định thực hiện việc đào thoát một mình và không bàn với ai về ý định của mình cả. Theo như sự tính toán của anh, trường hợp nếu bị bắt lại thì không còn gì để nói, phải chấp nhận mọi hậu quả thôi. Còn nếu trốn thoát được thì chỉ cần vài ba ngày lội trong rừng là có thể thoát ra được do thế việc chuẩn bị lương thực, nước uống không cần thiết lắm. Vấn đề mưu sinh thoát hiểm trong rừng 2, 3 ngày không phải là một điều khó khăn lắm đối với một sĩ quan, nhất là điều này anh đã được huấn luyện từ trước. Kinh nghiệm anh đã thấy qua từ vài âm mưu trốn trại bị lộ trước đây ở các trại khác cũng chỉ vì bị cán bộ quản giáo phát giác ra việc dự trử cơm phơi khô để dành… Nên anh quyết định không chuẩn bị gì cả cho phần lương thực. Mỗi buổi sáng đi ra lao động, chỉ cần chút ít thức ăn mang theo trong ngày, bình nước nhỏ và con dao được phát cho việc lao động là đủ. Với tư thế lúc nào cũng sẵn sàng như thế anh kiên nhẩn chờ đợi thời cơ, ngày này không được thì chờ qua ngày khác… Mọi sinh hoạt trong trại vẫn đều đều như bình thường, không ai mảy may nghi ngờ gì đến anh cả. Cuối cùng rồi thời cơ cũng đến. Ba ngày trước, lúc được giao công tác thu hoạch trên rẫy bắp. Mọi người ai nấy đều lui cui bận rộn với công việc, 2 tên vệ binh đi theo canh giữ thì đang ngồi tán gẫu với một tên vệ binh khác ở phía xa. Thừa lúc không ai chú ý tới, Phạm Văn Thức lợi dụng địa thế rậm rạp và thân cây bắp cao che khuất lủi nhanh vào sâu bên trong và biến mất ngay.
Sau khi băng qua mấy rẫy bắp và vào được trong rừng, Phạm Văn Thức cố gắng đi càng xa càng tốt khỏi vùng ảnh hưởng của trại Xuyên Mộc. Sau đó anh nhắm hướng đi theo kế hoạch đã tính từ trước. Anh không đi về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu mặc dù từ trại Xuyên Mộc đi về Bà Rịa gần hơn; ngược lại anh đã quyết định chọn con đường về hướng Gia Kiệm, Đồng Nai xa hơn để đi. Có hai lý do khiến anh chọn con đường dài hơn, đồng nghĩa với khó khăn hơn vì: Thứ nhất anh có thể đánh lạc hướng truy đuổi của các cán bộ vệ binh Cộng Sản, ít ai ngờ anh sẽ chọn con đường xa hơn sau khi trốn trại. Thứ hai ở Bà Rịa,Vũng Tàu anh không có ai là thân nhân quen biết để có thể giúp đỡ. Còn nếu đến được Gia Kiệm, thì anh có ông anh đang ở đó, sẽ nhờ ông anh này giúp đỡ cho bước kế tiếp…
Đã quyết định như thế từ trước, nên anh cứ căn cứ vào điểm chuẩn của núi Chứa Chan từ xa lầm lủi đi. Ban ngày thì cứ nhắm hướng mà đi. Đêm đến thì anh tìm cách leo lên một nhánh cây lớn để tránh thú dữ, ngủ chút đỉnh lấy sức chờ trời vừa sáng lại leo xuống tiếp tục cuộc hành trình đào thoát… Một ít lương thực mang theo cho ngày lao động hôm trước và mấy trái bắp bẻ lúc còn trong rẫy cũng giúp anh thoát được cơn đói hành hạ. Tuy nhiên đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, mệt đến lã người nhưng anh không dám nghỉ ngơi lâu vì chỉ sợ mệt quá ngủ quên luôn… Chỉ khi nào mệt lắm anh mới dám tìm bụi rậm ngồi nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức, còn lại thì anh cứ bươn bả đi miết. Vừa đi anh vừa cầu nguyện và tự nhắc nhở để cổ vũ tinh thần: "Phạm Văn Thức ơi! Mày phải cố gắng lên. Không được nghỉ… Mày đã trốn thì phải trốn cho thoát, thà là chết trong rừng, đừng để bị bắt lại, chúng nó sẽ hành hạ mày thê thảm còn hơn chết nữa…. Chúng nó đang đuổi theo phía sau đó. Không được nghỉ... Cố gắng lên… Cố gắng lên. Qua khỏi khu rừng này là an toàn rồi…" Cứ thế anh vừa len lỏi đi, vừa tự nhắc nhở, khuyến khích mình như thế. Gặp khu gai góc thì dùng dao phát quang xuyên qua hoặc tìm cách né tránh rồi cố gắng giữ theo hướng cũ để khỏi bị lệch quá xa. Một đôi khi gặp suối thì dò tìm chỗ cạn để vượt qua, rửa vội mặt mày cho tỉnh người lại rồi cứ thế vượt suối đi tiếp… cuối cùng sau 3 ngày 2 đêm thì anh đã sắp ra khỏi rừng, gặp đường quốc lộ rồi.
Núp vào một bụi cây rậm rạp, Phạm văn Thức hướng mắt về phía bìa rừng, cẩn thận quan sát kỷ động tịnh chung quanh. Từ nơi đây, thỉnh thoảng anh đã có thể nghe tiếng xe cộ chạy ngang qua nên đoán chắc phía trước là quốc lộ. Theo như vị trí hiện tại chỗ anh đang đứng so sánh với bóng dáng của núi Chứa Chan ở phía trước mặt, thì anh đoán mình còn cách Gia Kiệm, điểm anh muốn đến, không bao xa. Nghe tiếng xe cộ thỉnh thoảng vọng lại từ phía ngoài bìa rừng lòng anh mừng khấp khởi, tuy nhiên anh không dám mạo hiểm đi ra quốc lộ vào lúc này. Trời hãy còn sáng lắm. Nhìn lại quần áo trên người đầy bụi bậm, một vài nơi bị gai góc, cây cỏ móc rách nát te tua lòi cả da thịt bên trong, anh nhủ thầm: "Với bộ dạng thê thảm như vậy, rủi có ai bắt gặp cũng dễ bị nghi ngờ!". Anh kiên nhẩn ngồi dựa người vào trong một góc khuất của bụi rậm nghỉ ngơi chờ mặt trời lặn. Ý nghĩ sắp gặp được người thân và thoát khỏi cảnh tù đày làm anh nôn nao trong dạ, chỉ thầm mong cho mặt trời lặn thật sớm để tiếp tục đi.
******
Khi Phạm Văn Thức lần mò tìm được tới nhà người anh ở Gia Kiệm thì trời đã khuya rồi. Trên đường đi, anh tránh né hết những bóng dáng người di động từ xa nên không ai phát giác ra anh cả. Khỏi phải diễn tả, chúng ta cũng có thể đoán được là ông anh của Phạm Văn Thức sửng sốt như thế nào khi biết được em mình trốn trại trở về. Sau khi trao đổi với nhau vài câu, Phạm Văn Thức cho biết là không thể ở lại đây vì không an toàn. Anh nhờ ông anh cấp tốc chở về Hố Nai nơi anh có một bà cô đang sống. Ở đó an toàn hơn vì ở Hố Nai không ai biết gì về anh trước đây hết. Thế là sau khi tắm rửa, thay quần áo, ăn uống qua loa lấy lại sức, hai anh em chở nhau trên một chiếc Honda lên đường đi ngay trong đêm khuya về Hố Nai.
Như chúng ta đã biết, Hố Nai là một xứ đạo được lập ra sau khi phong trào di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954. Cư dân ở đây hầu hết theo đạo Công Giáo, rất sùng đạo và đặc biệt có tinh thần đoàn kết rất cao. Ngay cả sau năm 1975, khi cộng sản nắm chính quyền cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc cai quản và áp đặt chính sách lên xứ đạo nổi tiếng này. Chính nhờ thế ở tại nhà bà cô, Phạm Văn Thức cảm thấy rất an toàn. Không một ai thắc mắc, để ý gì đến anh hết. Lúc bấy giờ vợ con của anh vẫn còn ở với gia đình bên vợ tại Long An. Anh dặn người anh và bà cô tạm thời không cho vợ con anh biết tin, vì chắc chắn sau khi phát giác anh trốn trại, họ sẽ báo về địa phương truy lùng anh. Cứ kiên nhẩn đợi mọi chuyện lắng dịu đâu đó rồi sẽ cho gia đình biết sau cũng không muộn. Phạm Văn Thức ở nhà bà cô được hơn 2 tháng, mọi việc vẫn yên ắng, thuận lợi. Lúc đó anh mới nhờ người báo tin cho vợ con ở Long An lên Hố Nai gặp mặt.
Vào thời điểm này phong trào vượt biên đã rầm rộ lắm rồi. Gia đình bàn với nhau là trường hợp của anh không thể ở lại VN được, bằng mọi cách phải cho anh vượt biên ra khỏi VN. Nhưng trong khi chờ đợi tìm được đường dây tổ chức vượt biên thì cũng phải kiếm việc gì làm để sống chứ đâu thể ở mãi nhà bà cô được. Cũng may lúc đó có một gia đình người quen đang làm rẫy ở khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom. Gia đình này sẵn lòng giúp đỡ và khuyên anh nên về ở chung với họ làm rẫy trong khi tìm đường vượt biên. Vùng Cây Gáo lúc bấy giờ là một vùng mới khai phá, cư dân hầu như từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy. Không ai biết quá khứ của ai và cũng chẳng ai thắc mắc gì ai cả. Ngay chính quyền địa phương cũng rất dễ dãi với mọi người vì họ đang có chiến dịch khuyến khích người dân về vùng này khai phá, trồng trọt tăng gia sản xuất thêm... Nơi đây đúng là một nơi lý tưởng để Phạm Văn Thức ẩn thân trong khi chờ đợi vượt biên. Thế là anh bảo vợ con tạm thời ở lại Long An, còn một mình anh đi lên khu kinh tế mới Cây Gáo tá túc ở nhà người quen tốt bụng này, ngày ngày vác cuốc ra rẫy làm lụng che mắt thiên hạ. Trong khoảng thời gian này, anh dò tìm mua được một giấy "Chứng Minh Nhân Dân" giả với một tên họ khác. Nhớ thế chính quyền địa phương ở Cây Gáo, Trảng Bom cũng không thắc mắc gì về anh, mọi sự đi lại của anh nhờ thế cũng dễ dàng. Kéo dài như thế cũng hơn năm trời, anh vừa tiếp tục làm rẫy vừa để ý tìm kiếm đường dây vượt biên. Cuối cùng có người giới thiệu anh với một chủ ghe và cũng là người tổ chức. Sau nhiều lần đi lại tìm hiểu kế hoạch… anh đóng tiền cho chủ ghe và chờ đợi ngày xuất phát. Tuy nhiên chuyến này anh đã bị gạt! Đến ngày xuất phát, chủ ghe âm thầm ra đi bỏ anh lại không thông báo tiếng nào cả. Trời bất dung gian, chuyến vượt biên đó cuối cùng bị đổ bể. Người chủ ghe bị Công An bắn chết còn tất cả những người tham gia đều bị bắt lại hết… cũng may, nếu anh tham dự trong chuyến này thì cũng bị bắt luôn rồi. Thật đúng là số Trời! Không ai có thể nói trước được. Sau lần bị gạt này, tiền bạc mất hết, Phạm Văn Thức không còn đủ khả năng tham gia vào một chuyến vượt biên nào nữa. Anh đành bàn với vợ con gom góp mọi thứ lên khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom an phận làm ăn sinh sống. Gia đình anh tiếp tục làm rẫy thêm một thời gian nữa, sau đó tìm được một việc khác tương đối đỡ hơn: Đó là nghề đi bán và bỏ mối nước mắm lẻ. Tuy nghề này cũng vất vả, chủ yếu chỉ lấy công làm lời, nhưng nhờ tính cần cù nhẫn nại, chịu khó chìu khách hàng… nên mối quen càng ngày càng đông, gia đình anh nhờ thế cũng đỡ vất vả hơn trước.
Năm 1989, chính quyền địa phương Cây Gáo, Trảng Bom có chính sánh cứu xét cho những người địa phương ở "lậu" vào hộ khẩu thường trú. Nhưng muốn được cứu xét người đó phải chứng minh được là mình thuộc diện lao động sản xuất… Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì lúc đó gia đình anh không còn làm rẫy nữa mà chuyên hẳn về nghề bán nước mắm lẻ. Công việc này chính quyền địa phương coi như không hợp lệ trong việc cứu xét vào hộ khẩu? Nhưng có lẽ nhờ gia đình anh thường ngày đối xử với bà con xóm giềng rất tốt nên ai nấy đều thương mến. Biết được chuyện khó của anh, một người láng giềng tên Long trước đây là Thượng Sĩ QLVNCH thuộc sư đoàn 5 bộ binh đã giúp cho anh đứng tên đất rẫy của mình để anh có thể chứng minh được với chính quyền địa phương gia đình anh là một gia đình thuộc diện lao động sản xuất… Nhờ thế gia đình anh mới được cho vào hộ khẩu. Mãi tới bây giờ Pham Văn Thức vẫn nhớ tới cái ơn giúp đỡ của ông Thượng Sĩ Long tốt bụng này. (Như chúng đã biết, sau 1975, chính quyền cộng sản áp đặt ra chế độ hộ khẩu như một hình thức kiểm soát người dân về nhiều mặt. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ gặp rất nhiều khó khăn đối với chính quyền địa phương. Ở vào trường hợp những người như anh Phạm Văn Thức, việc vào được hộ khẩu thường trú, cũng đồng nghĩa với việc sống một cách an toàn, hợp pháp, khó có ai có thể truy lùng ra gốc tích trốn trại của anh ngày trước). Từ đó anh và gia đình cứ an phận ngày ngày tiếp tục chở nước mắm đi bỏ mối nuôi sống gia đình…
Nếu câu chuyện của anh Phạm Văn Thức chỉ có thế thì cũng chẳng có gì quá đặc biệt. Chúng ta xem như anh đã thành công trong việc trốn trại, sử dụng giấy tờ giả, tên giả và cuối cùng an phận sinh sống với gia đình ở một địa phương khác không ai hay biết gì hết… Nếu chỉ có thế thì chúng ta có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên câu chuyện của anh còn nhiều điều ly kỳ và phần kế tiếp mới chính là phần độc đáo, có một không hai trong cuộc đời của người tù nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức này. Mời quý vị theo dõi tiếp…
******
Năm 1990 khi chương trình định cư nhân đạo HO của chính phủ Mỹ đưa ra, Phạm Văn Thức lúc đó đang ngày ngày chở nước mắm bỏ mối ở vùng kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Đến khi một người bạn thân của anh thời còn học trung học là Nguyễn Anh Tuấn (hiện đang định cư tại Lafayette, Louisiana) nhắn tin lên báo cho anh biết về chương trình này… Nguyễn Anh Tuấn cũng cho biết là mình đã nộp đơn xong và đang chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Anh bạn này thúc dục Phạm Văn Thức nên lo thủ tục cần thiết và nộp đơn sớm để được phỏng vấn sớm...
Tuy nhiên sau khi xem kỹ điều kiện thì Phạm Văn Thức không khỏi thất vọng, vì điều kiện hợp lệ tiên quyết để được nhận đơn phỏng vấn cho những cựu quân nhân, cán chính thuộc QLVNCH là phải chứng minh được mình đã từng bị tù cải tạo trên 3 năm. Oái ăm thay trường hợp Phạm Văn Thức hiện nay lại không có giấy tờ gì chứng minh được điều này, mặc dù anh đã từng ở tù hơn 5 năm và qua mấy trại khác nhau trước khi trốn thoát khỏi trại Xuyên Mộc! Ngoài ra tên và giấy tờ của anh hiện này đang xài là tên giả! Anh không còn giấy tờ gì chứng minh được tên thật của mình.
Tuy thất vọng nhưng anh cũng cố điền đơn cầu may và khai thật hết tất cả mọi việc trong phần khai lý lịch….Kết quả đơn của anh đưa vào không được chấp nhận vì thiếu giấy tờ hợp lệ: Giấy ra trại chứng minh đã ở tù cải tạo trên 3 năm! Nhìn bạn bè và người quen lần lượt được nhận đơn và chờ gọi tên phỏng vấn làm anh càng nôn nóng và tuyệt vọng hơn. Đây là cơ hội cuối cùng ngoài ra không còn cơ hội nào khác có thể cứu vớt anh và gia đình thoát ra khỏi chế độ cộng sản hiện tại cả! Anh nản chí đến độ không còn thiết gì đến làm ăn nữa. Mọi việc nhà đều giao phó cho vợ con lo, còn anh thì cứ đi lên Saigon nghe ngóng tin tức, hy vọng có một cách nào khác để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Người ta bảo anh về trại cũ xin giấy chứng nhận, nhưng đối với những người được thả về mà bị mất giấy ra trại thì còn làm cách này được. Còn trường hợp trốn trại như anh thì ai mà chứng nhận cho. Vả lại trở về trại cũ thì chẳng khác nào mang thân vào miệng cọp, nguy hiểm quá…
Sau nhiều tháng đi lại, tốn kém đủ thứ mà không được gì cả. Phạm Văn Thức buồn rầu lắm và càng đau lòng hơn khi nhìn thấy vợ con sống lam lũ ở khu kinh tế mới. Nhận thấy mình cũng đã từng ở tù cải tạo 5 năm, chịu biết bao nhiêu đắng cay cực khổ. Chỉ vì bất mãn chế độ đối xử hà khắc của bọn công an trại… và vì muốn sống Tự Do nên anh mới phải trốn trại. Để rồi hậu quả bây giờ không có gì chứng minh được là anh đã ở tù đủ thời hạn yêu cầu để được cứu xét thì đau quá!! Không lẽ vợ con anh phải suốt đời chịu sống lây lất ở khu kinh tế mới Cây Gáo này hoài sao? Rõ ràng anh đã liên lụy đến gia đình, nếu không thì vợ con anh chắc cũng được đi định cư ở Mỹ như những gia đình sĩ quan khác…Càng nghĩ Phạm Văn Thức càng đau lòng thêm. Sau nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh quyết định trở lại trại cũ Xuyên Mộc trình diện và xin được ở tù lại. Hy vọng sau khi hết hạn sẽ được thả về với một giấy chứng nhận ra trại. Vì tương lai của gia đình vợ con, vì khát vọng được sống trong một xứ Tự Do, thoát khỏi chế độ kềm kẹp của chế độ cộng sản hiện tại… anh đành đi nước bài liều này, chấp nhận hết mọi hậu quả. Anh biết rằng đi nộp mạng như thế, có thể họ sẽ bắt giữ anh lại nhốt triền miên không có ngày ra, có thể bị gông cùm đánh đập và thậm chí có thể mất cả mạng nữa cũng không biết chừng… Tuy nhiên thà là liều như vậy còn hy vọng có được một tương lai sáng sủa cho gia đình, còn hơn là cứ sống lây lất mãi ở khu kinh tế mới Cây Gáo này suốt đời! Anh tự an ủi miễn còn sống thì họ nhốt mãi cũng phải có ngày ra. Lúc đó anh sẽ hợp lệ nộp đơn xin cứu xét đi định cư theo diện HO. Viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng nơi xứ Tự Do làm anh quyết tâm hơn! Tuy đã có quyết tâm như vậy nhưng Phạm Văn Thức không dám bàn với vợ con về ý định của mình vì sợ bị ngăn cản. Anh âm thầm tìm đến một người bạn tù trong nhóm 520 Xuyên Mộc trước đây là anh Nguyễn Văn Vượng (Hiện đang định cư tại California), nói ý định của mình cho Nguyễn Văn Vượng biết và nhờ anh bạn này chở dùm anh lên trại Xuyên Mộc, sau đó trở về báo cho gia đình vợ con anh biết sau.
Nguyễn Văn Vượng cũng kinh ngạc trước quyết định của bạn, lên tiếng khuyên cản anh nên suy nghĩ lại vì ý định này quả thật quá nguy hiểm. Nhưng ý Phạm Văn Thức đã cương quyết như vậy rồi nên người bạn này cũng đành chịu. Sau khi bàn bạc cặn kẻ và chuẩn bị tinh thần cho mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, hai người bạn chở nhau trên một chiếc Honda đi thẳng lên Xuyên Mộc. Lúc đó là năm 1991, nếu tính từ khi trốn trại ra năm 1980 thì anh Phạm Văn Thức đã ở bên ngoài đúng 11 năm rồi. Trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ hầu như đã thay đổi hết. Nơi đây không còn nhốt tù cải tạo sĩ quan chế độ cũ nữa, mà chỉ còn là trại tù dành cho tội phạm hình sự mà thôi. Kể cả ban chỉ huy trại, công an quản giáo và các vệ binh cũ cũng không còn ở đó nữa. Mấy cán bộ công an mới không biết gì về vấn đề tù sĩ quan cải tạo trước đây. Khi Phạm Văn Thức cho biết mình đã trốn khỏi trại này 11 năm trước, bây giờ vào trình diện để xin được ở tù trở lại, thì tất cả cán bộ công an trại ngẩn người ra nhìn anh như nhìn một người điên. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì trước đây đâu bao giờ có trường hợp nào xảy ra như thế này? Họ hỏi anh:
- "Lý do gì anh đã trốn thoát ra ở bên ngoài 11 năm rồi, bây giờ mới trở vào tự thú?"
Phạm Văn Thức trả lời:
- "Đời sống bên ngoài càng ngày càng khó khăn đối với một người sống không giấy tờ như anh. Vả lại anh còn có vợ con nên càng gặp khó khăn nhiều hơn. Cuối cùng chịu đựng hết nỗi nên anh quyết định chọn con đường tự thú để hy vọng sau khi ở tù xong, ít nhất sẽ được trại cấp một giấy chứng nhận và sau khi về cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, không phải trốn chui trốn nhủi nữa…"
Họ còn hỏi anh nhiều điều nữa và bắt anh làm bản tự khai. Anh cứ một mực khai sau khi trốn trại về sống vất vưởng ở nhiều nơi khác nhau không giấy tờ gì cả, nên không ai chứng thật được lời khai của anh.
Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì ban chỉ huy trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ không quyết định được trường hợp của anh nên giữ anh ở lại đó và điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị. Một lúc lâu sau, bọn công an trại quay lại nói ngay với anh:
- "Anh mà có tinh thần tự giác trở lại thành thật khai báo cái gì? Nói thật đi. Mục đích của anh đến đây chỉ vì muốn xin giấy chứng nhận để được cứu xét đi Mỹ thôi. Có phải thế không??"
Cả bọn xúm lại hỏi anh câu này xong cứ chỉ trỏ cười hoài. Anh cũng cười giả lả trả lời cho qua chuyện với bọn chúng. Anh đoán sau khi điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị, chắc có lẽ trên Bộ Nội Vụ có nói gì đó về chương trình HO, nên đám công an mới biết được mục đích của anh, chứ trước đó chúng còn ngơ ngác không biết gì cả. Cuối cùng họ giam Phạm Văn Thức ở chung một buồng với đám tù hình sự. Ban ngày anh không phải làm việc gì hết, ban đêm công an giao cho anh nhiệm vụ "trưởng buồng", điểm danh và trông chừng tù hình sự tìm cách trốn. Anh cười thầm trong bụng:
- "Mình là thằng trốn trại ngày trước, bây giờ lại làm nhiệm vụ canh chừng tù trốn trại. Đúng là khôi hài thật!".
Làm "trưởng buồng" được mấy hôm cứ ở mãi một chỗ tù túng quá, anh xin được ra ngoài lao động. Họ cho anh ra trông coi mấy mẫu điều mới trồng, hàng ngày theo dõi xem có bị hư hại gì không?? Công việc cũng không có gì nặng nhọc và điều đáng nói là không ai cai quản anh cả. Anh muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm miễn ở trong phạm vi đó thôi. Trong khoảng thời gian ở tù lần này, gia đình vợ con anh được phép lên thăm viếng đều đặn thoải mái lắm. Nói chung họ đối với anh lần này rất dễ dãi, ngoài sự tưởng tượng của anh. Cứ như thế Phạm Văn Thức ở gần đúng một năm thì một hôm được gọi về buồng giam nhốt lại, không cho ra ngoài lao động nữa. Ở trong buồng giam khoảng 3 tuần thì anh được gọi lên thả về. Họ cấp cho anh một giấy ra trại chứng nhận từ ngày đầu tiên anh trình diện tập trung cải tạo 28 tháng 6 năm 1975 đến khi thả vào tháng 6 năm 1992 (không nhớ rõ ngày). Như vậy là họ đã chứng nhận anh ở tù liên tục 17 năm không gián đoạn, xem như anh chưa hề trốn trại ra ngoài bao giờ. Anh cũng ngạc nhiên về điều này tuy nhiên cũng chẳng thắc mắc gì cả vì đã đạt được kết quả mong muốn. Phạm Văn Thức cầm tờ giấy ra trại với tên thật của mình trên đó mà lòng vui mừng vô hạn. Lần này thì chắc chắn anh đủ điều kiện nộp đơn theo diện HO rồi. Tuy nhiên anh không ngờ rằng việc chứng nhận anh đã ở tù liên tục 17 năm vô tình lại đưa anh vào một rắc rối khác!
*****
Sau khi về nhà không bao lâu, Phạm Văn Thức xúc tiến ngay việc nộp đơn xin đi theo chương trình HO. Lần này đơn của anh được nhận ngay. Anh vui mừng trở về nhà yên tâm chờ đợi. Cuối năm 1994 anh nhận được giấy mời đi phỏng vấn. Khỏi nói cũng biết là anh và gia đình vui mừng biết chừng nào. Đúng ngày hẹn, hai vợ chồng anh lên Saigon gặp phái đoàn Mỹ. Sau đây là tóm tắt những điểm trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi với phái đoàn Mỹ:
Theo đúng thủ tuc, Họ yêu cầu anh giơ tay tuyên thệ những lời khai trong cuộc phỏng vấn là hoàn toàn sự thật. Nếu gian dối thì sẽ chịu mọi trách nhiệm… và hồ sơ sẽ không được cứu xét nữa. Sau đó họ hỏi ngay anh:
- "Xin ông cho biết tên thật của ông là gì? Gia cảnh của ông hiện nay như thế nào?"
Anh trả lời:
- "Tôi tên Phạm Văn Thức. Tôi có vợ và 3 con."
- "Ngoài tên này ra, ông còn sử dụng tên nào khác nữa không?"
- "Có! Sau khi trốn trại về, để tránh tai mắt địa phương và dễ dàng trong việc đi lại, tôi có xài tên giả. Tôi đã có khai chuyện này trong phần tờ khai lý lịch trong hồ sơ..."
- "Hiện ông có đang sống cùng với vợ con của ông không? và đang làm nghề gì?"
- "Vâng, tôi đang sống cùng với vợ và 3 con của tôi ở Cây Gáo, Trảng Bom. Chúng tôi hiện đang sống bằng nghề bán nước mắm"
- "Trước năm 1975, cấp bậc chức vụ của ông là gì? Đơn vị ở đâu?"
- "Trước 1975 cấp bậc của tôi là Thiếu úy. Chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, đơn vị ở tại tỉnh Long An"
Người Mỹ trong phái đoàn phỏng vấn nhìn vào hồ sơ của anh một lúc rồi hỏi:
- "Cấp bậc của ông là Thiếu Úy, chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, nhưng tại sao ông đi học tập cải tạo đến 17 năm? Ngay cả cấp Tướng trước đây đi học tập cải tạo cũng không lâu đến như vậy? Có gì đặc biệt trong việc ông đi cải tạo trước đây không?"
- "Tôi đã trình bày rất rõ trong phần khai lý lịch là sự thật thời gian ở tù cải tạo của tôi hai lần tổng cộng 6 năm, 3 ngày: Lần thứ nhất hơn 5 năm, sau đó tôi trốn trại ra ngoài ở hết 11 năm. Lần thứ hai họ bắt giữ tôi lại khoảng gần đúng 1 năm "
- "Nhưng tại sao trong giấy ra trại ghi rõ thời gian tính từ ngày ông đi trình diện là 28 tháng 6 năm 1975 cho đến ngày ông được thả ra năm 1992. Như vậy không phải là tổng cộng thời gian đã ở trong trại là 17 năm hay sao?"
Mgười Mỹ đen phỏng vấn Phạm Văn Thức nói thẳng với anh:
- "Mong ông phải khai rõ hơn về chuyện này vì chúng tôi nhận thấy có điều gì đó không ổn trong tờ giấy ra trại này và lời khai của ông?? Có phải giấy ra trại này giả không?"
Đến đây thì Phạm Văn Thức cảm thấy bất an lắm:
- "Giấy ra trại đó dĩ nhiên là thật! Tôi cũng không biết tại sao họ lại chứng nhận trong giấy ra trại như vậy? Lời khai của tôi hoàn toàn là sự thật. Ông có thể liên lạc kiểm chứng với họ"
Người Mỹ đen đóng tập hồ sơ của Phạm Văn Thức lại một cách lạnh lùng:
- "Thời gian trốn trại ở bên ngoài 11 năm của ông nếu là sự thật thì tại sao họ lại không tính đến? Rất tiếc chúng tôi không có nhiệm vụ tìm hiểu tại sao cho vấn đề mâu thuẩn này của ông?"
Rồi không đợi Phạm Văn Thức có dịp trình bày thêm, người Mỹ này tiếp luôn:
- "Rất tiếc chúng tôi từ chối cứu xét hồ sơ này của ông vì những lời khai và giấy tờ của ông đã không chứng minh được rõ ràng và ăn khớp với nhau. Bây giờ xin mời ông bà về và chúc may mắn."
Bước ra khỏi phòng phỏng vấn, phải nói là tinh thần Phạm Văn Thức xuống thê thảm. Mọi hy vọng tan biến hết! Rốt cuộc sau bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, liều lĩnh đi trình diện xin ở tù lại lần thứ hai với hy vọng có được giấy ra trại để được phái đoàn Mỹ nhận đơn cứu xét… để rồi kết quả cũng chính tờ giấy ra trại này hại anh… Càng suy nghĩ Phạm Văn Thức càng thấy chán nãn! Đám đông đang đứng tụ tập ở phía trước cửa chờ đến phiên mình được gọi vào phỏng vấn, thấy vợ chồng Pham Văn Thức buồn rầu đi ra thì xúm lại hỏi thăm. Sau khi biết chuyện hồ sơ của anh bị phái đoàn Mỹ từ chối vì không chứng minh được rõ ràng thời gian trốn trại và thời gian anh đã ở tù trước đây…., một người trong đám đông góp ý khuyên anh nên tìm lại những bạn tù biết về chuyện trốn trại của anh và nhờ họ làm đơn xác nhận dùm rồi gởi qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok xin tái cứu xét lại hồ sơ… chuyện này cũng chỉ là hy vọng thôi, tuy nhiên còn nước thì còn tát…
Phạm Văn Thức cũng muốn nghe theo lời khuyên đó lắm, nhưng bây giờ biết đi đâu mà tìm gặp bạn tù cũ nhờ giúp xác nhận dùm việc anh đã trốn trại…? Thời điểm lúc đó là cuối năm 1994 các bạn tù của anh đã đi định cư theo những diện HO trước đó hết rồi!! Số của anh đúng là xui tận mạng! Chẳng lẽ Thượng Đế cố tình thử thách sự chịu đựng của gia đình anh hay sao? Bao nhiêu sức lực ý chí của anh gần như kiệt quệ hết. Vợ chồng anh chỉ còn biết đêm ngày cầu nguyện xin Thượng Đế, Ơn Trên ban phép màu ra tay cứu giúp mà thôi!!
Có lẽ lời cầu nguyện đầy thành tâm của vợ chồng Phạm Văn Thức cuối cùng đã thấu đến tai Thượng Đế và khiến Ngài cảm động nên đã lóe lên cho anh một tia hy vọng mới: Trong khi dò tìm cầu may tin tức những người bạn tù cũ, thì anh nghe nói có một người tên là Đào Văn Long, trước đây cũng là là tù cải tạo ở trại Xuyên Mộc, lẽ ra đã đi định cư theo diện HO lâu rồi, nhưng vì anh này bị bệnh phổi nên phải ở lại uống thuốc chữa trị khi nào hết mới được đi. Tuy thế không ai biết rõ anh Đào Văn Long hiện nay đang ở đâu?
Nhận được tin này Phạm Văn Thức mừng quá. Tưởng ai chứ Đào Văn Long thì anh rất thân, từ lúc hai người còn ở trại Suối Máu. Anh còn nhớ lúc chuyển từ trại Suối Máu về Xuyên Mộc, anh và Đào Văn Long ngồi kế bên nhau trên cùng một chiếc xe. Khi đi ngang qua Bà Rịa Vũng Tàu, anh nhớ Đào Văn Long có kể cho anh nghe rằng nhà ba anh ta ở Bà Rịa, Vũng Tàu từ nhiều đời trước. Gần như những ai ở lâu vùng này đều biết đến ba anh Đào Văn Long cả. Cứ đến đó hỏi tên ông Ba Quạ là sẽ có người chỉ đến ngay. Lúc bấy giờ ngồi trên xe, Đào Văn Long kể cho anh nghe chuyện này cũng chỉ là vô tình khi xe đi ngang qua vùng này vậy thôi chứ không có ý gì khác. Tuy nhìên vì tên thường gọi của ba anh Đào Văn Long là "Ba Quạ" khá đặc biệt nên khiến Phạm Văn Thức còn nhớ tới bây giờ.
Thế là Phạm Văn Thức lên đường đi Bà Rịa, Vũng Tàu hỏi thăm nhà ông Ba Quạ ngay, hy vọng từ đó sẽ biết được tin tức người bạn Đào Văn Long. Sau khi đến nơi hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh được một anh lái xe Honda ôm cho biết ông Ba Quạ đã chết lâu rồi. Nghe tin này Phạm Văn Thức chới với, tuy nhiên anh cũng cố hỏi tiếp: - "Thế anh có biết con cái của ông Ba Quạ còn những ai và ở đâu không?"
Anh tài xế xe ôm trả lời:
- "Ông ta có người con gái đang mở quán bán hủ tiếu gần đây thôi."
Mừng quá, thế là sẵn xe Honda ôm, Phạm Văn Thức nhảy lên nhờ chở ngay tới chỗ cô con gái ông Ba Quạ. Té ra đây chính là cô em của Đào Văn Long, người bạn tù mà anh muốn tìm. Nhờ cô này chỉ dẫn, sau đó anh đã tìm gặp Đào Văn Long. Cũng may là anh này vẫn còn đang uống thuốc điều trị bệnh phổi nên Phạm Văn Thức mới có cơ hội gặp được, nếu không thì chắc anh ta cũng đã đi Mỹ lâu rồi. Sau khi biết rõ câu chuyện, Đào Văn Long đưa cho Phạm Văn Thức địa chỉ của một người bạn tù khác cũng rất thân với cả hai người từ lúc còn ở trại Suối Máu. Đó là anh Nguyễn Đức Dũng, biệt danh Dũng "Sún", đã đi định cư diện HO và hiện đang sống ở Washington DC. Đào Văn Long khuyên anh nên gởi thơ liên lạc và nói rõ ý định của mình cho Dũng "Sún" biết. Chắc chắc Dũng "Sún" sẽ liên lạc thêm được nhiều anh em khác làm đơn xác nhận cho anh để bổ túc hồ sơ.
Lập tức Phạm Văn Thức gởi ngay một lá thơ qua Mỹ cho Nguyễn Đức Dũng kể rõ mọi chuyện và nhờ anh này giúp đở. Đến đây thì hình như những đại nạn, rủi ro của gia đình anh đã thực sự chấm dứt. Mọi chuyện sau đó xảy ra thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau một cách tuyệt diệu. Sau khi nhận được thơ của bạn, Nguyễn Đức Dũng đã liên lạc được 8 bạn tù cải tạo khác cũng ở cùng trại Xuyên Mộc với nhau trước đây, cùng làm ngay một tờ đơn xác nhận rằng có quen biết với Phạm Văn Thức từ lúc còn ở trại cũ Suối Máu và cùng chuyển sang trại Xuyên Mộc vào năm 1979… tất cả khai biết rõ chuyện trốn trại năm 1980 của anh như thế nào… sau đó mang đi thị thực chữ ký và gởi bản chính qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok, Thailand và một bản sao về cho anh. Năm 1997, phái đoàn Mỹ mở lại hồ sơ Pham Văn Thức, gởi giấy mời vợ chồng anh trở lại tái phỏng vấn và tuyên bố chấp nhận gia đình anh được định cư ở Mỹ theo diện nhận đạo HO 40. Gia đình anh lên đường đi định cư không bao lâu sau đó, chấm dứt một quảng đời dài lận đận tưởng như không bao giờ thoát ra được. Hiện anh Phạm Văn Thức đang sống an lành cùng gia đình tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa kỳ.
|
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Jul/2011 lúc 8:16am
VỎ QUÝT DÀY MÓNG TAY NHỌN
Toa hạng nhất chẳng có mấy hành khách. Pierre Joli chọn cho mình một cupe trống. Hắn hy vọng sẽ được ngồi một mình, không ai quấy rầy trong suốt cuộc hành trình. Thế nhưng khi tàu bắt đầu chuyển bánh thì cửa cupe bật mở và một cô gái tóc vàng lịch sự, tay xách chiếc va-li da, bước vào.Cô ta cố kiễng chân nâng chiếc va-li lên giá để hành lý, tuy nhiên việc đó rõ ràng là quá sức đối với cộ Pierre đứng dậy nhiệt tình giúp cô gái.
- Rất cám ơn! - Cô mỉm cười và trong một thoáng, mắt họ gặp nhau. Ánh mắt của cô gây cho hắn cảm giác rằng cô có ý ve vãn đôi chút. Nhưng nếu quả như vậy thật thì cô đã không gặp may.
Sau một ngày khá nặng nề, hắn đã mệt rã rời và chỉ mong ước một điều duy nhất: Chợp mắt vài tiếng để trước khi tàu đến Lyon có thể lấy lại sức lực và chỉnh đốn tư thế. Hắn hy vọng Virginia sẽ ra tận ga đón. Đã 5 năm trời họ không gặp nhau và trong suốt thời gian đằng đẵng đó, hắn đã buồn nhớ cô biết bao.
Cô gái tóc vàng ngồi xuống, châm thuốc hút và rút từ túi ra một cuốn sách. Hắn thầm nhận xét rằng cô ta có đôi chân thật đẹp và rõ ràng cô ta cũng rất ý thức được điều đó. Lát sau, hắn cố thu xếp chỗ ngủ sao cho thật thoải mái, đoạn tắt đèn nhỏ đầu giường mình và thiếp đi.
Khi hắn tỉnh dậy, cô gái tóc vàng vẫn ngồi và đang tuyệt vọng lục lọi, tìm kiếm chiếc túi xách của mình.
- Ôi thật kinh khủng, - cô thốt lên, - tôi bị mất ví rồi! Biết làm sao đây? Bây giờ tôi không còn một xu nào hết, mà tôi cần phải có 200 phờ-răng để mua vé máy bay.
Cô gái nhìn vào mắt hắn:
- Anh có thể cho tôi vay 200 phờ-răng được không?
Cô hỏi thẳng thừng, ráo hoảnh cứ như đang hỏi xin vài que diêm vậy. Dù thế nào thì tiền nong trong người Pierre giờ đây cũng chẳng có nhiều nhặn gì. Và tất cả những gì hiện có trong ví hắn, hắn đã phải khó nhọc tích cóp trong suốt 5 năm trời.
- Không, đáng tiếc là không có, - vì thế hắn trả lời.
Cô gái nở một nụ cười quyến rũ:
- Đưa tôi 200 phờ-răng, anh sẽ dễ dàng thoát thân.
Hắn nhìn cô không hiểu:
- Tôi sẽ dễ dàng thoát thân? Cô ngụ ý gì vậy?
- À, đơn giản là tôi muốn nói rằng tôi cần phải kiếm được 200 phờ-răng trước khi tàu chúng ta tới Dijon. Nhưng, có lẽ anh không có đủ 200 phờ-răng.
- Ô không, cô nói gì vậy, - Pierre gật đầu - tất nhiên là tôi có. Nhưng tôi hoàn toàn không biết cô là ai! Thậm chí cô cũng chưa tự giới thiệu. Mà đây là cả một việc...
Thoáng vài giây cô gái ngồi im, không nói lời nào. Sau đó cô hơi cúi người về phía trước, cố nắm bắt ánh mắt của hắn.
- Anh hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra, nếu như bây giờ tôi bắt đầu gào lên, giật cần hãm “đề phòng sự cố” và kể với trưởng toa rằng anh định cưỡng hiếp tôi. Bởi vì trước đây đã từng có những trường hợp các hành khách đàn ông đi đêm một mình trong cùng cupe với phụ nữ trẻ đã giở những trò như thế. Tất cả những chuyện đó sẽ đưa lại cho anh nhiều điều khó chịu đấy. Nào là cảnh sát đường sắt ư, nào là hỏi cung ư, rồi lại còn các nhà báo đang khao khát những tin giật gân nữa chứ! Để thoát khỏi một vụ bê bối kiểu như thế, tôi nghĩ, anh sẽ không tiếc 200 phờ-răng đâu.
- Tôi nghĩ rằng, với tôi, vở diễn đấy của cô sẽ không thành đâu, cô bạn quý mến ạ, - hắn thờ ơ nói và rít thuốc.
- Anh hãy nghe đây này, - cô gái mỉm cười tự tin, - tôi có cảm tưởng anh chưa tính được rằng tôi hoàn toàn không có ý định đùa đâu nhé. Nếu tôi làm bù đầu tóc lên, xé toạc áo ra, rồi chạy ra hành lang gào ầm lên, thì anh sẽ rất khó thuyết phục những người khác rằng anh không dính dáng gì đến chuyện này cả. Mà như tôi được biết, ở đất nước này, người ta trừng phạt rất nghiêm khắc những ai có những hành vi vô lại đối với phụ nữ!
- Cô quả là đê tiện hết sức...
Cô gái cắt ngang lời hắn:
- Chẳng lẽ không đáng trả 200 phờ-răng để thoát khỏi tất cả những điều khó chịu đó sao! Tôi nhìn thấy anh đeo nhẫn cưới. Vợ anh sẽ nói gì khi cô ấy đọc trên báo rằng chồng cô ấy đã...
- Cô thật là ghê tởm.
Cô gái mỉm cười:
- Ồ không hẳn vậy đâu! Tôi rất hiền lành với anh đấy. Bởi tôi chỉ đòi anh vẻn vẹn có 200 phờ-răng thôi, phải vậy không? Có những trường hợp tôi còn moi được nhiều hơn gấp bội cợ Chẳng hạn 500, 1.000, đôi khi thậm chí còn xoay được vài nghìn ấy chứ! Các chính trị gia với tiếng tăm không mấy trong sạch thường vui lòng “ứng” cho tôi những khoản tiền không nhỏ để phòng ngừa những vụ xì-căng- đan. Tôi thường bao giờ cũng nhắm trước cho mình con mồi. Tôi đánh giá anh khoảng 200 - 300, thậm chí có thể tới 500 phờ-răng, nhưng tôi chỉ xin anh có 200 thôi.
- Cô thôi đi được rồi đấy! - Pierre đứng dậy chụp lấy va-li của mình và muốn nhanh chóng thoát khỏi cupe.
- Hãy ngồi xuống đấy! - Cô gái ra lệnh và ngay tức khắc quay ra ngáng đường hắn, - hay là để tôi kêu lên bây giờ! Trong chuyện này thì tôi lão luyện lắm. Anh hãy tin rằng tôi rất lành nghề trong công việc của mình!
Pierre quẳng va-li xuống ghế và ngồi phịch xuống. Hắn tin rằng cô ta rất dám thực thi những lời đe dọa đó nếu như hắn mưu toan chống lại cô tạ Liếc nhìn sang, hắn thấy trên cườm tay cô ta những đồ trang sức đắt tiền. Đó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy cô ta không hề cường điệu khi nói rằng cô ta rất lão luyện trong nghề.
Cô gái ngó nhìn đồng hồ đeo tay bằng vàng của mình.
- Còn năm phút nữa chúng ta sẽ tới Dijon, mà tôi thì phải xuống bến đó, - cô nói bằng một giọng hết sức lạnh lùng sự vụ, - tôi cho anh đúng một phút nữa để quyết định. Phanh hãm phòng sự cố nằm ngay dưới cửa cupe đây. Tôi chỉ cần vài giây là đủ để xé áo, vò tóc mình, cào mặt anh và kêu cứu. Tôi có thể gào chói tai đến mức...
- Còn tôi thì sẽ lập tức kể với mọi người sự việc trên thực tế ra sao và cô là kẻ lừa bịp thế nào. Cô đừng tưởng rằng...
Cô gái phì cười khinh bỉ:
- Những kẻ cưỡng dâm bao giờ chẳng nặn ra những điều thanh minh ngu xuẩn, nhưng ai mà tin chúng được. Nhất là trong những trường hợp nghiêm trọng như thế này!
Pierre nhổm dậy, dụi đầu thuốc lá vào chiếc gạt tàn và sau vài giây lưỡng lự tiến đến trước mặt cô gái. Cô ta vẫn đứng chắn ngang cửa, một tay nắm lấy cổ chiếc áo sơ mi trắng của mình để sẵn sàng xé toạc nó trong chớp mắt. Những móng tay nhọn hoắt sơn đỏ của cô ta, rõ ràng chỉ cần vài giây là đủ để làm biến dạng khuôn mặt hắn - để “tự vệ” mà.
- Thôi được, - hắn nói, đồng thời nhún vai khuất phục, rút từ ví ra mấy tờ giấy bạc, - nhưng để bù lại khoản này tôi đề nghị phải trả lại tôi lãi suất bằng hiện vật.
- Bằng hiện vật? Thế nghĩa là thế nào?
- Tôi đề nghị cho phép tôi hôn cô, để sau này còn có thể vỗ ngực khoe khoang rằng đã được hôn một nữ quái tống tiền trâng tráo nhất thế giới! Cô sẽ nhận 200 phờ-răng, còn tôi thì được cái hôn. Như vậy theo tôi, có lẽ công bằng hơn. Cô thấy thế nào, hay là cô có ý kiến khác?
Cô gái tóc vàng thoáng chút lưỡng lự. Sau đó cô chụp lấy mấy tờ giấy bạc, còn hắn thì kéo cô về phía mình, ôm hôn say đắm. Đó là một chiếc hôn rất dài.
- Thôi đủ rồi, - cô gái thốt lên rồi quẫy ra.
Đúng lúc đó đoàn tàu dừng lại. Cô gái lôi va-li của mình khỏi giá và bước ra. Pierre đứng ở cửa cupe dõi theo bước chân cô dọc hành lang cho đến khi cô bước ra khỏi toa tàu. Đoạn, hắn trở lại, ngồi xuống chỗ của mình, châm một điếu thuốc mới và rút ra một tờ báo. Đã vài phút trôi qua, đoàn tàu lại chuyển mình đi về hướng Lyon.
- Cô nhóc thật ranh ma, quỷ quyệt, - hắn lẩm bẩm không giấu vẻ khâm phục, - nhưng thật không may cho cô ta là đã gặp phải mình.
Nói đoạn hắn đút chiếc đồng hồ và chiếc xuyến vàng của cô ta vào túi áo. Lật qua mấy trang báo, hắn cẩn thận cắt ra một mẩu tin, trong đó có nói rằng ngày hôm nay, sau khi hết hạn 5 năm tù, trùm móc túi Pierre Joli vừa được phóng thích./..
Phêrô Giô Ly
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Jul/2011 lúc 1:21pm
http://tvqn1984.net/truyendoc/podcast.php?entry_id=1244322574&title=%C4%91%C6%A1%CC%80i-nh%C6%B0-y%CC%81------nguy%C3%AA%CC%81n-ngo%CC%A3c-t%C6%B0 - - Nguyễ́n Ngọc Tư
http://tvqn1984.net/truyendoc/podcast.php?entry_id=1244322574&title=%C4%91%C6%A1%CC%80i-nh%C6%B0-y%CC%81------nguy%C3%AA%CC%81n-ngo%CC%A3c-t%C6%B0 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 02/Aug/2011 lúc 10:26am
<>
Một truyện rùng rợn, thú vị xảy ra ở bên Tàu, với kết cuộc "bất ngờ ." Cạm bẫy xinh đẹp
Trong quán bar lạnh tanh. Sau khi ngồi xuống ghế, người đàn bà ngẩng đầu nhìn quanh một lượt. Đúng lúc ấy, ánh mắt của nàng và ánh mắt của Cao Đắc Thắng không hẹn mà gặp nhau. Giữa lúc Cao Đắc Thắng sắp phải rút lui vì ánh mắt của nàng chiếu tướng, thì nàng lại đột nhiên cười. Một nụ cười đôi chút phiêu lãng.
Cao Đắc Thắng như được khuyến khích. Chàng không chút do dự đứng phắt dậy, tay cầm cốc, bước thẳng đến trước mặt nàng, nói:
- Nếu không phản đối, tôi có thể ngồi xuống cùng chị nói chuyện không?
- Muốn bao tôi chăng? - Đối phương tung ra một câu hỏi bất ngờ làm Cao Đắc Thắng bỗng bối rối.
- Hay là thích qua một dem?
Cao Đắc Thắng cứng họng, lúng túng như gà mắc tóc.
- Tôi là Lâm Đạt! - Đối phương đột nhiên mau lẹ chuyển làn, chốc lát đã giải vây cho chàng.
- Tôi là Cao Đắc Thắng! - Tim của Cao Đắc Thắng đập bình thường trở lại
- Kết bạn lung tung với người khác giới ở nơi tứ chiếng, lẽ nào đàn ông không sợ nguy hiểm sao? Đàn bà nguy hiểm lắm đấy!
Nàng hỏi một câu làm cho Cao Đắc Thắng cảm thấy khó hiểu vô cùng.
- Nguy hiểm! Tại sao lại nguy hiểm? Không! Trái ngược một trăm phần trăm, chỉ có ở bên cạnh đàn bà, những người đàn ông mới có cảm giác an toàn thật sự. Nếu bàn về nguy hiểm tôi lại cảm thấy rằng đàn ông còn nguy hiểm hơn đàn bà! Lâm Đạt tình tứ nhìn chàng. Đến lúc này, Cao Đắc Thắng mới ý thức được mình đã quá lời, vội vàng lái sang chuyện khác:
- “Chị không định uống chút gì sao? Ở đây tôi rất quen, tôi gọi cho chị!” - Một cốc rượu vang đá! Cảm ơn! - Lâm Đạt mỉm cười nhìn chàng. Cao Đắc Thắng nghĩ bụng, đêm nay rõ ràng lại là một đêm khó quên. Lát sau, họ vừa uống vừa nói chuyện, tỏ ra rất tâm đầu ý hợp. Bất giác, Cao Đắc Thắng nhẹ nhàng cầm tay nàng hỏi:
- “Nếu không phật ý, có thể nói c ho tôi hay bàn tay nhỏ xinh xắn này dùng để cầm cái gì nào?”. - Dao! - Nàng nói cộc lốc.
- Chị là bác sĩ ngoại khoa ư? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên. - Nếu nói rõ hơn thì đã từng là một bác sĩ ngoại khoa! Còn nay lại là một người phụ nữ chủ gia đình một trăm phần trăm! Sao, anh không tin à? - Xin lỗi! Trong ấn tượng của tôi, bác sĩ ngoại khoa đều là những động vật máu lạnh. Mà chị … - Lẽ nào tôi lại không máu lạnh ư?
- Không! Không! Trông chị dịu hiền làm sao, hơn nữa còn rất phong lưu thanh nhã nữa... - Anh đã tưởng tượng tôi là một người hoàn mỹ như thế ư? …
- Đúng thế! Từ khi chị vừa bước chân vào cửa, tôi đã bị chị làm cho mê muội, hoàn toàn bị mê muội! - Cao Đắc Thắng đắm đuối nhìn thẳng vào mắt nàng, nói. - Nhưng, tôi đã kết hôn rồi... - Nói thật lòng, tôi thích những người đàn bà thành thục. Chỉ có đứng trước người đàn bà thành thục tôi mới cảm thấy mình là một người đàn ông ra trò. Người đàn bà áo đen khanh khách cười, má ửng hồng. Giữa lúc tay Cao Đắc Thắng muốn đưa ra một lần nữa, thì nàng đột nhiên đứng bật dậy, nói: "Xin lỗi! Muộn quá rồi! Tôi nghĩ tôi nên ra về!". Nói xong, nàng quay người lướt đi như bay. Cao Đắc Thắng bỗng như ngây như dại. Chàng cảm thấy đau khổ quá, thậm chí còn có một cảm giác bị lừa dối, bị bỡn cợt. Chính giữa lúc Cao Đắc Thắng bải hoải tâm hồn, ngồi ủ dột, thì Lâm Đạt lại bất ngờ quay lại. Nàng nói: "Sao? Anh không muốn cùng đi với tôi à?". Lát sau, hai người cùng ra khỏi cửa hàng... - Nếu chàng không ngại gì, em mời chàng đến nhà em coi thử! - Thật thế ư? - Cao Đắc Thắng hơi do dự. Lâm Đạt cười, nói: "Đừng lo! Chồng em, anh ấy thường không ở nhà!".
- Thế à? - Cao Đắc Thắng nghe vậy mới yên tâm. - Nhưng trước khi lên xe, em có một điều kiện! - Nàng nói. - Điều kiện gì nào? - Trước khi tới nhà, em phải bịt kín hai mắt anh lại! - Tại sao phải làm như vậy? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên, hỏi.
- Bởi vì, chồng em là một người có địa vị cao. Em không muốn do một sơ suất nhất thời của mình, mà đem lại bất cứ một phiền phức không đáng có nào. - Em sợ sau khi biết nhà của em, biết đâu một lúc nào đó anh lại mò đến tìm em? - Cao Đắc Thắng có vẻ giận dỗi, nói.
- Em đâu có nói anh đúng là loại người ấy! Song, một người ở vào bối cảnh gia đình như vậy, thì biện pháp đề phòng nhất định là không thể thiếu, nếu không, cuối cùng người bất hạnh chỉ có thể là một mình em! - Lâm Đạt nhẫn nại giải thích. - Sao không thuê phòng ở khách sạn chẳng hạn.
- Không được! Em thường cùng chồng em xuất đầu lộ diện ở những nơi công cộng, cho nên số người biết em rất nhiều, nếu bị họ phát hiện ra, thì em sẽ gay to!
Cao Đắc Thắng vẫn còn do dự.
- Anh Cao! Xin cứ tin vào em! Em làm như vậy cũng là bất đắc dĩ. Nói thật nhé, tối nay, em cũng như anh, cũng muốn có một người ở bên cạnh, nếu không thì vừa rồi em đã chẳng quay lại tìm anh nữa. Em biết, em làm như vậy là rất ngốc, rất manh động, biết đâu chẳng đem lại nguy hiểm chơi lửa đốt mình. Song, em đã hết cách khống chế được mình...
Vừa nói, Lâm Đạt bất giác nắm lấy tay chàng, nước mắt ngân ngấn. Cao Đắc Thắng cảm động vô cùng trước câu nói của Lâm Đạt. Chàng đột nhiên ôm nàng vào lòng: "Anh nguyện hy sinh tất cả vì em!". Như thế là Cao Đắc Thắng đã lên xe của Lâm Đạt. Sau khi xuống xe, Lâm Đạt vẫn chưa tháo tấm vải đen che mắt Đắc Thắng, mà cứ dắt tay chàng đi chầm chậm trên con đường nhỏ trải đầy đá quạ. Bốn bề im lặng. Trong gió lạnh thoang thoảng mùi hoa thơm. Cao Đắc Thắng đoán đây là vườn hoa của nhà Lâm Đạt, xem ra nàng đâu có lừa dối mình. Lát sau, nàng dẫn chàng leo lên mấy bậc thềm, sau khi qua cổng lớn, lại đi dọc một hành lang dài, mãi sau mới dừng lại. - Bây giờ anh có thể mở to mắt rồi! - Lâm Đạt tháo mảnh vải đen che mắt cho chàng, tủm tỉm cười, nói. Cao Đắc Thắng dụi dụi mắt, ngẩng đầu lên nhìn, thì ra mình đã ở trong một phòng ngủ xinh xắn. Cao Đắc Thắng lớ ngớ không biết làm gì, cứ đứng trơ ra đó. Đột nhiên, từ phía sau Lâm Đạt đã ôm chặt chàng, mặt áp sát vào tấm lưng rộng của chàng, nũng nịu: - Bây giờ, chẳng có ai đến quấy rầy chúng ta được nữa!
Cao Đắc Thắng quay người lại, nâng mặt nàng lên, hôn thắm thiết. Người đàn bà bất giác thở dài, toàn thân mềm mại, rung động. Tiếp đó, nàng khẽ khàng cởi áo quần cho Cao Đắc Thắng, từng chiếc một, rất thứ tự ngăn nắp. Thân thể Cao Đắc Thắng vô cùng tráng kiện, do thường xuyên vận động thể thao. Lâm Đạt đứng ngây ra nhìn Cao Đắc Thắng đang trần như nhộng. - Trẻ trung tuyệt vời! - Nàng nói.
Bây giờ, tay nàng bắt đầu khẽ khàng vuốt ve cơ thể Cao Đắc Thắng, di chuyển chậm chạp từng điểm một, từng tấc một, rất chi tỷ mẩn, vô cùng thận trọng, không sót một tí nào. Cao Đắc Thắng cảm thấy thần thái của nàng như đang kiểm tra tật bệnh cho bệnh nhân. Chàng đoán rằng đó là thói quen nghề nghiệp trước đây của nàng để lại. Cuối cùng, tay nàng dừng lại bên cạnh đoạn xương sống ở thắt lưng, ngẩng đầu nói: - Lưng anh chắc nịch. Em mê lắm! Sau một trận mây mưa, người đàn bà tỏ ra khoan khoái như cá gặp nước, nói: - Anh thật tuyệt vời! Còn tuyệt vời hơn em tưởng tượng nhiều! - Đây còn chưa phải là trạng thái tuyệt nhất của anh đâu! Không tin hãy thử lại lần nữa xem! - Cao Đắc Thắng đắc ý, nói.
- Không được! Hãy nghỉ một lát đã! Anh muốn uống chút gì không? - Nàng nói. - Tùy em ! - Chàng đáp.
Lát sau, từ ngoài cửa, nàng bưng vào hai ly nước cam, hai người cầm cốc trên tay, lặng lẽ uống. Bỗng nhiên Cao Đắc Thắng cảm thấy có cái gì không bình thường. Đầu tiên óc choáng váng, trời đất quay cuồng, sau đó bèn bất tỉnh nhân sự ngã gục trên sàn nhà. Người đàn bà cười lên một nụ cười quỉ quái, vẻ mặt thần bí ranh ma… Khi tỉnh lại, Cao Đắc Thắng vội vàng kiểm tra xem mình có mất cái gì không. Song, những thứ quý giá đều còn cả! Chàng khó nhọc cố nhổm lên. Bỗng nhiên cảm thấy một trận đau điếng khó mà chịu được từ lưng truyền lên. Cao Đắc Thắng vội lấy tay sờ ra sau lưng. Đến lúc ấy chàng mới cảm giác thấy trên cơ thể có nhiều vết thương, mà hình như đã được khâu chỉ. Trái tim của Cao Đắc Thắng bỗng tựa hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, suýt nữa chàng kinh hoàng thét lên. Mấy giờ sau, Cao Đắc Thắng đã có mặt ở trong phòng hội chẩn của bệnh viện. Sau khi đã tiến hành kiểm tra xong cơ thể chàng, bác sĩ cơ hồ vô cùng kinh ngạc: - Thiếu một quả thận! - Bác sĩ nói. - Một quả thận? - Cao Đắc Thắng tối tăm mặt mũi, toàn thân suýt đổ gục xuống đất. - Ngành cảnh sát nói rằng hiện ở ta đang có một tổ chức tội phạm chủ yếu đánh cắp các bộ phận trong cơ thể con người. Sau đó chúng bán cho những bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép thể tạng. Cảnh sát đang ra lệnh truy nã một thủ phạm trong số bọn chúng. Đó là một nữ bác sĩ ngoại khoa, có biệt hiệu là "nữ sát thủ", tuổi khoảng trên ba mươi. Nghe nói, ả rất xinh đẹp, khéo léo mồi chài đàn ông... Nghe bác sĩ nói vậy, Cao Đắc Thắng im lặng không nói được một lời nào. Bác sĩ ngắm nhìn chàng, an ủi. - Thật ra, anh cũng không nên quá đau buồn. Ít nhất trong cơ thể anh vẫn còn lại một quả thận nữa. Nếu lúc đầu cái mà ả nhắm vào không phải là quả thận, mà là quả tim của anh, thì kết cục sẽ không còn cảnh tượng như thế này nữa. - Thưa bác sĩ, bác sĩ có thể nói cho tôi biết, một quả thận giá bao nhiêu tiền không? - Tám mươi vạn nhân dân tệ! Cao Đắc Thắng bỗng đờ đẫn, đổ oặt người xuống ghế.
ST.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Aug/2011 lúc 8:15am
/main/vanhoc/tuybut/28391-my-on-ng-i.html - |
|
|
Tác Giả: N. K. |
|
Bài viết sau đây là tự truyện về gia đình người chỉ huy phó Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch tại Phan Thiết sau biến cố 30 Tháng Tư. Tác giả bài viết là một cô giáo, người vợ tù, một mình nuôi con. Sau nhiều năm cơ cực, gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. và đây là bài viết đầu tiên của bà.
Bây giờ ở Mỹ đang mùa Xuân. Đi đâu tôi cũng gặp hoa muôn màu muôn sắc rực rỡ, chim chóc hót líu lo, gió mát nhẹ nhàng thổi.
Hôm nay tháng tư lại về. Tôi thấy lòng mình chùng xuống khi nhớ lại những ngày sau 30-4-75. Hồi đó, khi còn ở Việt Nam, tôi đã khóc biết bao mỗi khi tháng tư về. Bây giờ hình như không còn nước mắt để khóc nữa, nhưng vết thương lòng qua bao nhiêu năm tháng vẫn chưa lành.
Tôi nhớ sư bà Huyền Không ở Phan Thiết đã từng nói với tôi: "Bao nhiêu đau khổ vây quyện đời con, nhưng dù hòan cảnh nào, con vẫn là một người vợ hiền, một người mẹ tốt nghe con."
Đời tôi, nhờ niềm tin tôn giáo, nhờ Ơn Trên che chở mà tồn tại đến ngày hôm nay. Thuở nhỏ tôi là con bé yếu đuối, đau ốm liên miên, mấy lần suýt chết đuối trên sông Hương, mấy ai ngờ có ngày oằn vai "gánh" cả một gia đình sáu người, rồi cuối cùng vượt đại dương đến Mỹ để sống những ngày cuối đời nơi đất khách quê người nhưng lại đậm tình đậm nghĩa.
1. Những ngày trước 30-4-75
Lúc đó, gia đình chúng tôi ở Phan Thiết, trong khu trại gia binh. Tình hình chiến tranh sôi sục, nhất là những ngày đầu tháng tư. Mỗi ngày tôi hồi hộp theo dõi tin tức thời sự qua đài BBC, hãi hùng với tiếng súng ầm ầm từ những cuộc giao tranh. Ông Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện đã lặng lẽ bỏ đi, để lại cho ông xã tôi, Chỉ Huy Phó, một mình vừa cứu thương, vừa điều khiển Quân Y Viện. Tôi hoang mang, lo sợ.
Để rảnh tay lo việc công, anh ấy cho năm mẹ con tôi di chuyển vào Sài Gòn trước ở tạm nhà người bà con. Tôi hồi hộp trông tin anh từng ngày, từng giờ mà không biết hỏi ai, chỉ biết cầu nguyện Phật Trời che chở. Tôi cứ băn khoăn lo lắng không biết rồi vợ chồng còn gặp nhau không. Thôi thì phó mặt cho số phận đẩy đưa.
Ông xã tôi là người lúc nào cũng hết lòng về công vụ. Hồi mới ra trường, anh đổi ra làm việc ở Quảng Trị. Gặp trận Hạ Lào, anh ấy mỗi ngày phải thường trực giải phẫu 24/24 để cứu thương bệnh binh. Lúc đổi về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết, anh vẫn một lòng tận tụy với nhiệm vụ. Anh không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền, không lươn lẹo ăn bớt thuốc men trong Quân Y Viện. Do đó anh rất được quân nhân các cấp trong QYV thương yêu quý mến.
Sau khi tôi và các con đi rồi, biết tỉnh Bình Thuận sắp thất thủ, anh ấy lo di tản các thương binh còn nằm ở Quân Y Viện vào Vũng Tàu. Vì mặt sau của Quân Y Viện là biển, và lúc bấy giờ các tàu Hải Quân VNCH còn khá nhiều, nên việc di tản được suông sẻ. Đến lúc tỉnh Bình Thuận bị lọt vào tay Cộng quân (19-4-75) thì ông xã tôi mới theo tàu Hải Quân vào Sài Gòn.
Chúng tôi gặp lại nhau. Chỗ ở trọ không tiện chút nào. Người bà con có nuôi hai con chó. Đêm nào chúng cũng leo lên chỗ chúng tôi nằm (vì giành giường của tụi nó) gây tiếng động ầm ĩ, chẳng ai ngủ được. Chúng tôi lại đi xin ở nhờ một người bà con khác. Nhà này có ba tầng. Lúc dọn đến chúng tôi được cho ở tầng ba, còn hai tầng kia Mỹ mướn. Ngày hôm sau, chúng tôi được biết có một tàu Mỹ sắp đi Thái Lan. Nếu chúng tôi lanh trí, ngõ lời xin "quá giang" thì chắc được chấp thuận rồi. Một phần vì lòng yêu quê hương, không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, một phần vì chưa sống với Việt Cộng và cũng chủ quan anh ấy thuộc ngành y đâu có tội lỗi gì nên ở lại. Đời mấy ai học được chữ ngờ! Cũng vì không biết chớp lấy thời cơ đó mà cuộc đời xô đẩy gia đình tôi vào hoàn cảnh oan nghiệt.
2. Thời làm vợ tù
Sau lệnh đầu hàng của vị “Tổng Thống ba ngày”, chúng tôi trở lại Phan Thiết và rồi tôi trở thành vợ tù.
Tôi bị rơi vào hoàn cảnh một thân một mình nuôi chồng và bốn con còn nhỏ dại, chưa được chuẩn bị để thích ứng với tình huống này! Thời trước 1975, cả hai vợ chồng sống bằng đồng lương ít ỏi của nhà nước. Lương nhà giáo quá khiêm tốn, ai cũng biết rồi. Còn anh ấy là một bác sĩ quân y thanh liêm, tận tâm với trách nhiệm, không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền mà dành hết thời giờ cho công vụ. Do đó, tôi đã phải tiện tặn hết mức để không mang công mắc nợ. Khi anh đi tù tôi không còn chút tiền dư bạc để. Do đó tôi rơi vào hoàn cảnh đôi vai gầy guộc, ốm yếu của tôi gánh hai gánh nặng thân tình, ngang ngữa nhau, không thể bỏ gánh nào được cả. Từ khi Việt Cộng chiếm miền Nam, gia đình chúng tôi không còn được ở trong khu gia binh QYV Đoàn Mạnh Hoạch nữa. Tôi phải xin tá túc nhà ông TTP, cũng là sĩ quan của Quân Y Viện. Khi ông xã tôi vào tù, tôi thấy không thể ở nhà người ta mãi nên tìm cách ra ở riêng. Dốc hết tư trang ngày cưới, tôi mua một miếng đất trên động cát thuộc phường Phú Thủy, Phan Thiết. Nơi đó có sẵn một căn nhà lá lợp tôn, để ngoài giờ đi dạy ở trường cấp 2B (tôi được lưu dụng với đồng lương đủ cho chục ngày chơ!), tôi "lao động sản xuất thêm để tự cứu mình và cứu gia đình.
Các con tôi bị xô vào hoàn cảnh nghèo khó. Nhờ vậy chúng trở nên khôn trước tuổi. Con chị mới 9 tuổi đã biết đi chợ nấu ăn, giặt đồ, dỗ em. Khi nào em khóc (thằng út mới 3 tuổi) thì con chị ra chặt mía, róc, chẻ nhỏ rồi đút cho em ăn. Thằng em trai kế nó, mới 8 tuổi cũng đã biết cùng với mẹ đi xin phân heo, cuốc đất, tưới nước để trồng khoai lang, khoai mì, biết xắt lát củ khoai phơi khô để dành thăm nuôi cha nó, biết cất lại một phần khoai để ăn độn với gaọ cho đỡ đói, vì gạo tiêu chuẩn có bao giờ ăn đủ cho 5 người! Hình ảnh đáng thương nhất là con bé H. L. 5 tuổi ngồi đưa võng cho thằng em 3 tuổi, vừa đưa vừa hát à... ơi nghe đau lòng đứt ruột! Khi trái chùm ruột chín, con bé tự ý giã muối ớt, đựng chùm ruột trong chiếc rỗ nhỏ, rồi đem ra đầu hẻm nhà mình mời các bạn nhỏ trong xóm mua.
Tội nghiệp các con tôi! Các con tôi cũng đói lắm, cũng thèm nhâm nhi chùm ruột với muối ớt lắm, vậy mà... Có người mẹ nào tim không quặn thắt, ruột không đứt từng khúc từng đoạn trước những tình cảnh này!
Cuộc sống của 5 mẹ con tôi trong căn nhà lá ấy, không sao kể xiết nỗi thống khổ, vất vả và đói khát. Tôi nhớ một câu văn của Thạch Lam: "Đói như cào ruột, đói như chưa từng thấy bao giờ." Bây giờ thì tôi đã có kinh nghiệm xương máu cái nghèo, cái đói đây! Nghèo đến nỗi khi đổi tiền, tôi không đủ tiền để đổi nữa. Học trò hàng xóm tốt bụng đưa tiền nhờ đổi giùm, sau đó tặng cho chút đỉnh gọi là "để cô mua bánh cho mấy em."
Ông xã vào tù rồi, phải mất mấy tháng sau, tôi mới được giấy cho đi thăm nuôi. Đây là lần thăm nuôi đầu tiên. Thời gian thật ngắn, vui thì ít mà xót xa lại nhiều. Tôi cảm xúc viết vài dòng thơ nói lên nỗi bi ai của tôi sau khi về nhà:
Khóc hết nước mắt đêm thâu Sáng nay tươi tỉnh em vào thăm anh. Chân em thoăn thoắt, nhanh nhanh, Quản chi xách nặng, thênh thênh đường dài. Ra đi định nói bao lời, Đến khi gặp mặt hỡi ơi nghẹn rồi! Bàn ngăn hai đứa ai ngồi Lù lù một đống, muốn sôi gan mình. Nói qua quýt, chuyện loanh quanh.... "Mấy con sức khỏe?" Băn khoăn hai người... Còi huýt: "Năm phút rồi thôi!" Bây giờ đôi ngã, đôi nơi chia lià!
Có dạo đi thăm nuôi ông xã, tôi gởi cho anh ấy mấy đồng để mua đồ ăn thêm. Nhiều tháng sau, lúc ra thăm trở lại, hỏi anh tiền hôm đó có mua được gì không. Anh nói vẫn còn nguyên. Tội nghiệp cho cả gia đình tôi ! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nở "nuốt cái đói khát" của vợ con! Còn nỗi chua xót, đau đớn nào cho tôi hơn nữa!!!
Ở tù được hai năm rưỡi thì anh ấy được thả về. Thôi thì hết làm thợ mộc, thợ nề, lại đi bốc, đi vác... khi áo blouse xưa không đươc dùng đến nữa. Được hơn ba tháng thì Ủy Ban Nhân Dân Phường gọi anh ấy đến để "động viên" nhắc nhở "đăng ký" đi kinh tế mới". Anh ấy không chịu, lấy lý do: trong trại cải tạo, anh đã được học tập về đường lối, chính sách của nhà nước là sẽ lưu dụng những thành phần chuyên môn, và anh đang chờ đợi. Không ngờ đó lại là cái cớ để họ bắt anh vào tù lần thứ hai, bị ghép vào tội chống nhà nước. Lần sau này anh bị đưa vào trại biệt giam. Mấy tháng sau họ mới cho thăm nuôi. Khi gặp mặt, tôi thấy anh xanh xao, u buồn. Anh dặn dò: "Lần sau nhớ mua cho anh cây lược dày để chải chí và thuốc Dep để trị ghẻ." Điều kỳ cục là trại này không cho người tù nhận những món như bánh tráng, gạo..., chỉ cho nhận những thứ ăn chơi như: kẹo, bánh, đường, đậu... Lỡ mang đi, bị buộc mang về. Ra về lòng tôi vừa xót xa...
Lão trưởng khóm nơi tôi ở nói với tôi: "Chồng cô sẽ ở tù suốt đời vì tội phản động." Tôi nghe mà bủn rủn tay chân. Thôi chết rồi, biết làm sao đây! Tiếp theo phường lại "động viên" tôi, biểu tôi đi kinh tế mới. Tôi đáp: "Tôi yếu đuối, 4 con còn quá nhỏ, tôi làm được gì nơi đó?" Cũng may, nếu nghe lời họ, bây giờ mấy mẹ con tôi biết còn sống không?
Suốt mấy năm gian khổ, khi không thể cầm cự nỗi nữa (năm 1980) tôi xin thôi việc, bỏ Phan Thiết về Long Xuyên để ở gần cha mẹ tôi. (Lúc bấy giờ ông bà đang sống cùng gia đình người anh của tôi.) Ông xã tôi lúc đó còn trong tù, tôi phó mặc cho Trời, vì tôi không còn sức lực, không còn khả năng đi thăm nuôi nữa.
Trên danh nghĩa, tôi về Long Xuyên để nhờ anh tôi giúp đỡ. Chưa đầy một tháng thì anh ấy đưa toàn gia đình đi vượt biên hết. (Sau này tôi mới biết nhiều lần ông ấy đã đi vượt biên không thoát, nên gợi ý tôi về hòng che mắt công an, phường khóm.) Cha mẹ tôi lúc đó đã già. Anh tôi đi, ông bà mất chỗ dựa, lại thêm địa phương làm khó dễ vì nhà có người vượt biên nên bị khủng hoảng tinh thần, lâu dần sinh bệnh, nhất là mẹ tôi, bà đau ốm liên miên. Cuộc sống ở đây tuy gần cha mẹ tôi, nhưng lúc nào lòng tôi cũng thấp thỏm lo âu, cứ nơm nớp sợ không biết ngày nào người ta sẽ đuổi mình ra khỏi nhà, chừng đó biết đi đâu?
Hơn một năm sau, 1981, thình lình ông xã tôi được thả về. Từ đây, anh đi chích dạo, bán thuốc lá lẻ, bán vé số, làm đủ mọi nghề cho đến ngày nộp đơn đi H.O.
3. Từ giấy ra trại tới cuộc phỏng vấn
Vì bị tù hai lần, ông xã tôi như một con chim bị đạn, cứ lo sợ không biết còn bị bắt lại nữa không. Vì thế, lúc nghe người ta kể về việc nộp hồ sơ đi Hoa Kỳ theo diện H.O., ông xã tôi vô cùng e ngại, lo sợ bị gạt, phải chờ đến khi có người bạn đi trước gởi thư về khuyên nhủ ông mới mạnh dạn làm thủ tục để ra đi.
Giấy ra trại là một vấn đề khiến gia đình tôi không yên tâm chút nào, vì trên giấy ghi rành rành "tội phản động chống chính quyền"! Chúng tôi hỏi thăm nhiều người, không ai có tờ giấy ra trại ghi như thế cả. Chúng tôi cũng được biết chính phủ Mỹ chỉ cho những thành phần quân, cán, chính chế độ cũ ở tù 3 năm trở lên mới được đi định cư ở Mỹ, còn những người chống chính quyền thì không được. Chúng tôi lại hỏi ý kiến bạn bè và được khuyên làm sẵn một tờ tường trình lý do bị tù lần hai. Vậy là có tờ report chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn.
Rồi ngày gia đình tôi vào gặp phái đoàn Mỹ cũng tới. Tôi nhận thấy những gia đình H.O. được phỏng vấn trườc, hầu như đều đựơc giải quyết mau lẹ, không như gia đình tôi. Những đêm trước khi phỏng vấn, tôi đã cầu nguyện cho mọi việc suông sẻ. Vậy mà, khi gặp phái đoàn chúng tôi vẫn run, nhất là khi bà Mỹ nêu câu hỏi: "Tại sao anh là bác sĩ mà phải đi cải tạo cả 5 năm rưỡi?" Ông xã tôi khựng lại. Tim tôi đập thình thịch! Lát sau, bình tĩnh lại, tôi nhắc: "Anh, tờ report." chừng đó anh mới sực nhớ ra và đáp: "Xin bà đọc tờ report." Sau khi đọc xong, họ OK liền. Vậy là thoát nạn. Lúc ấy cả nhà tôi như vừa chết đi được sống lại.
4. Thời qua Mỹ
Gia đình tôi đến Hoa Kỳ năm 1992. Riêng tôi, qua năm sau mới được đi vì phải ở lại điều trị bệnh. Lúc mới qua, chồng và các con tôi đều nỗ lực làm việc và học hành. Con gái, con trai đều đổ ra shop may: con trai thỉ ủi đồ và cắt chỉ, con gái lãnh đồ may. Sau một thời gian, con tôi vào Đại học, nay thì đã tốt nghiệp và đi làm. Ông xã tôi, lúc mới qua, tự thấy lớn tuổi rồi, nếu học lại để lấy bằng thì ai thèm mướn nên cũng đành ra shop may lãnh đóng khuy nút một thời gian, sau đó vô làm ở một hãng Mỹ chuyên sản xuất nữ trang cho đến ngày nghỉ hưu.
Riêng tôi, thời gian vất vả trong những tháng năm cũ đã vắt kiệt sức lực của tôi. Tôi chỉ có thể làm những việc lặt vặt trong nhà, chứ không bươn chải nỗi như người khác được.
Đến Hoa kỳ, không ngờ chúng tôi có cơ duyên gặp lại những người bạn VN thân quen gần nửa thế kỷ, thật là vui! Có hai ông bác sĩ người Mỹ là Colman và Denatale cùng làm việc với ông xã tôi hồi ở Quảng Trị, trước mùa hè đỏ lửa, cũng tìm tới tận nhà thăm chúng tôi. Ai dám nói người Mỹ thực dụng, thiếu nghĩa tình? Vài tháng trước đây, cô con gái của ông bác sĩ Krainick từ Ohio cũng gọi phone qua hỏi thăm và nhắc lại những kỷ niệm xưa của cha mình với ông xã tôi. (Bác sĩ Krainick ngày xưa dạy ở Đại Học Y khoa Huế, là thầy của ông xã tôi, bị Việt Cộng sát hại năm Mậu Thân.) Thật là đậm đà tình người!
Đời tôi, những lúc vui buồn đều có bạn bè chia xẻ. Hôm tôi gởi bài viết của H.L., con gái tôi, kể chuyện thời đi bán vé số ở Long Xuyên bị người ta nhiếc mắng, chị LT người bạn thân ở Phan Thiết, từ Michigan gọi qua nói trong nước mắt: "Tội quá! Sao hồi đó em thiếu thốn, khổ cực thê thảm như vậy mà không chịu nói ra. Em làm chị đang ân hận là đã không giúp em!" Tôi đã câm lặng bao nhiêu năm trời để giữ gìn cái danh dự gia đình của tôi: "Đói cho sạch, rách cho thơm." "Hãy đứng trên đôi chân mình và ngững cao đầu tiến bước."
Nhìn lại những chặng đường đã qua, tôi tự thấy mình đã tận lực trong vai trò người mẹ, người vợ của một quân nhân VNCH trước và sau 30-4-75. Đời tôi sống đơn giản, không đua đòi se sua, không xúi giục chồng làm giàu bằng con đường tắt cong queo. Đó là nguyên nhân tôi nhận lãnh những cay đắng của cuộc đời, và những tủi nhục của tình đời. Tuy nhiên, hạnh phúc nào mà không trả giá bằng đau khổ? Nếm đủ cay, chua, mặn, đắng... chỉ làm cho ta cuối cùng thấy hạnh phúc thêm ngọt ngào hơn.
Cám ơn cuộc đời đã cho tôi và gia dình tôi nếm trải qua đủ mùi vị. Cám ơn nước Mỹ đã đưa gia đình tôi qua đây để đựơc sống những ngày an lành, hạnh phúc. |
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 19/Aug/2011 lúc 8:59am
BA HẠT ĐẬU XANH CỦA MẸ Nguyễn Thị Việt Hà Nghe http://us.mg1.mail.yahoo.com/images/upload/Media/Ba_Hat_dau_Xanh_Cua_Me.mp3 - - Audio
Lời Ban Biên Tập:
Vượt qua gần 65.000 bài dự thi gửi về
BTC cuộc thi “Nét bút tri ân” lần II, bài viết “Ba hạt đậu xanh của mẹ” của cô Nguyễn Thị Việt Hà, giáo viên Trường THCS Lê Hồng Phong, Thị Trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đã xuất sắc giành giải Nhất năm nay. Câu chuyện của cô giáo Việt Hà về người mẹ chịu nhiều khổ đau, một mình nuôi mấy người con khi ba bỏ mẹ con cô ra đi. Với lòng bao dung và nghị lực phi thường mẹ đã dạy cho chị em cách học đối mặt với khó khăn, rèn luyện sựtự lập, không đầu hàng cuộc sống. Xuyên suốt bài viết là những cơn mưa: ngày chị sinh ra mưa tầm tã, ngày cha bỏ mẹ con đi mưa vần vũ và ngày mẹ đi cũng vào một cơn mưa mùa đông. Câu chuyện có thật của người giáo viên có vóc người nhỏ bé, giọng nói dịu dàng về gia đình mình khiến mọi người trong khán phòng của buổi lễ trao giải vừa diễn ra vào tối 2/6 không khỏi bùi ngùi, xúc động. Khi MC TạBích Loan hỏi: Với bài viết trên, nếu được chọn lòng biết ơn hay sự hận thù chị sẽ chọn điều gì? Thay vì trả lời, cô giáo Việt Hà chỉ gói gọn trong câu nói mộc mạc và thấm thía: “Lòng hận thù hãy ghi trên cát, lòng yêu thương hay ghi trênđá”. Dưới đây là toàn văn bài viết của cô giáo Nguyễn Thị Việt Hà gửi mẹ kính yêu: BA HẠT ĐẬU XANH CỦA MẸ
Mình từng kể rằng người đầu tiên dạy mình bài học về lòng tự trọng là mẹ mình. Mình cũng từng kể rằng mẹ mình rất đẹp, gương mặt mẹ luôn tỏa ra ánh hào quang nhân ái của con người đã sống trọn một đời lương thiện. Những câu chuyện đời mẹ, mình sẽ chẳng bao giờ kể hết, những trang đau thương nhưng không hề bi lụy mà ánh lên niềm khát khao cháy bỏng về một cuộc sống bình yên, tốt đẹp.
Mẹ lại bảo mình sinh ra ngay giữa cơn mưa tầm tã, tạt ướt cả chỗ mẹ nằm. Mẹ ghì chặt mình vào ngực, phủ hơi ấm lên tấm thân bé xíu của mình. Cha bỏ mẹ mình và 3 đứa con thơ dại cũng vào một cơn mưa. Mưa đêm như trút nước. Cha hôn hít chúng mình rồi xách valy ra tàu đi cùng với một người đàn bà trẻ đẹp không phải là mẹ mình. Tiếng còi tàu xé đêm nhưng không vang dội như tiếng mẹ gọi cha. Tiếng mẹ gọi, tiếng khóc nheo nhóc của chúng mình, tất cả bị mưa làm mờ đi. Mưa vần vũ cuồn cuộn. Mưa xối xả. Mưa lăn lộn trên không. Cha vẫn đi. Tóc mẹ xổ tung, mưa lặng đi thấm ướt. Tóc mẹ dài chấm gót, đen sẫm, mượt thơm. Mưa ganh tị xới tung tóc mẹ. Mưa dữ dội xối vào 3 chị em mình. Tàu chạy. Cha đi.Mẹ hốt hoảng ôm xiết 3 con vào nhà. Cả mấy mẹ con khóc run lập cập.
Mẹ dắt 3 chị em mình rời bỏ Cà Mau về quê ngoại ở Bắc Giang. Mình không biết mẹ lấy sức lực ở đâu mà nuôi nổi 3 chị em mình trong cái cảnh tay không tấc đất, chỉ có chút vốn liếng còm cõi, mẹ lăn lóc hết chợ xa, chợ gần, làm đủ công việc nặng nhọc và chịu bao nhiêu tủi hổ. Nhà mình nghèo lắm, những vụ giáp hạt mẹ toàn ăn sắn, khoai, nhường cơm trắng cho 3 đứa con. Nhớ lại là rơi nước mắt món canh “ Rửa chân gà”… Mẹ nấu canh bằng rau trong vườn cho thêm một ít mỡ, mẹ bảo canh ngọt lắm vì có cả mùi của thịt gà, chúng con ăn ngon lắm, xì xụp húp rồi tin ngay vì nhìn thấy chân con gà hôm ấy cũng sạch thật…Mẹ vừa ăn khoai vừa rơi nước mắt rồi bảo bụi hôm nay sao nhiều thế… Tuổi nhỏ ngây thơ chưa kịp hiểu đời mẹ nhọc nhằn…
Mẹ hay vắng nhà vì đi hết chợ xa, chợ gần để buôn cá khô, sắn, lạc… Năm 1992 mẹ cho 3 chị em mình 6 hạt đậu xanh và bảo hãy trồng vào trong ống bơ, mỗi ống bơ trồng 3 hạt. Một ống để trong nhà, một ống để ngoài sân. Mẹ bảo chăm sóc cây trong nhà kĩ hơn là cây ở ngoài sân, rồi 4 tuần sau xem chuyện gì diễn ra với 2 ống bơ trồng đậu xanh ấy. Cây đậu xanh trong nhà ban đầu bụ bẫm, xanh tốt rồi yếu dần, dài ra cứ vươn mãi ra phía có ánh sáng và 4 tuần sau 2 cây đậu ấy bỗng dưng héo rũ. Còn 3 cây đậu trong ống bơ ở ngoài sân chậm lớn hơn nhưng vững trãi, 4 tuần sau lá trổ xum xuê và bắt đầu có những nụ nho nhỏ…4 tuần kế tiếp đã thấy những quả đậu xanh xinh xinh rung rinh trên cây. Mẹ bảo chúng mình kể mẹ nghe chuyện hai cây đậu, mẹ luôn mỉm cười khi nghe 3 chị em luyến thoáng sau đó người mới từ tốn bảo : “ Các con là những cây đậu xanh ở ngoài sân, dù không được chăm sóc tốt, không được ở những nơi sung sướng nhưng đã lớn lên vững trãi. Đó là sự tự lập các con hiểu không?”. Thú thực ngay lúc ấy mình chưa hiểu được hết những điều sâu xa trong lời mẹ nói… Nhiều năm sau chúng mình mới hiểu được rằng mẹ đã rèn chúng em sống tự lập, lòng tự trọng bằng chính cuộc đời tốt đẹp của mẹ….
Cuộc sống tươi hồng nhưng luôn nghiệt ngã, cuối năm 1993 mẹ lại dắt chúng mình lên vùng kinh tế mới ở Đạ Huoai- Lâm Đồng. Căn nhà ở xó rừng Madaguil vẹo vọ vì mưa. Mưa ngạo nghễ, nhạo báng mấy mẹ con cô độc. Mưa lạnh lùng nhẩy nhót khắp nhà. Mẹ dắt mình và Hằng băng rừng trốn mưa nhưng không trốn kịp. Mưa ầm ào thác lũ. Mẹ cuí người che mưa cho 3 con, chúng mình vẫn lạnh tê tái. Mưa nhỏ mọn lách qua thân mẹ, chúng mình thâm tím vì mưa. Rồi mình không núp dưới mẹ nữa, đứng thẳng dậy đeo gùi măng lên vai, lì lợm rẽ cỏ tranh và đám cây mây chẳng chịt tìm lối về. Mẹ cũng dắt Hằng, Trung rẽ cây rừng mà đi. Mẹ vượt lên trước cầm dao phạt nhanh những đám cây mây cho chúng mình cất bước. Mưa gầm rú tức giận muốn hất tung 4 kiếp người nhỏ nhoi lên cao nhưng mưa bất lực. Mưa trút roi rát bỏng vào da thịt 4 mẹ con mình.Mình đã học những bài học can đảm từ mẹ mình.
Cách mẹ dạy chúng mình cũng lạ hơn người khác, mẹ có một ngọn roi mây luôn treo ở góc nhà nhưng mẹ không đánh chúng mình bao giờ. Mẹ thủ thỉ kể những câu chuyện đời mẹ khi chúng mình cùng trèo rừng, làm rẫy, lúc mưa trú trong lán… Thế mà quên mệt, thế mà lại thấm thía những phẩm chất tốt đẹp.
Đời người con gái có 12 bến nước, cái bến mẹ sa chân vào có lẽ cái cái bến đục nhất… Một mình nuôi con, quyết chẳng để con thất học nên dắt díu con từ Nam vào Bắc, từ Bắc vào Nam… Thế rồi…thế rồi đến khi xuôi tay nhắm mắt tóc mẹ chưa kịp bạc…mẹ chưa kịp trở về nhà của mẹ con mình…Năm 2004, khi mình và Việt Hằng đã tốt nghiệp CĐSP à xin dạy ở Phú Tân - Cà Mau , út Trung đang học CĐSP Cà Mau cũng là lúc mẹ bị ung thư thận giai đoạn cuối… Mẹ về lại Bắc Giang sau nửa đời người mang con khắp xứ người tìm cớ mưu sinh, nuôi chúng mình ăn học đến nơi, đến chốn. Mẹ đã về lại nơi chôn nhau cắt rốn để thanh thản nằm lại đồng Đống Mối bên dòng sông bốn mùa gió lộng.
Ngày mẹ đi cũng lại vào một cơn mưa mùa đông. Mưa lê thê, não nuột. Mưa hiền hoà bao bọc lấy mẹ, lấy 3 chị em mình. Lạ lùng thay khi 3 đứa mình không khóc được, lủi thủi sau xe tang, mưa nức nở rơi lên khoé mắt tạo thành lệ tuôn để chị em mình khóc mẹ. Mưa nhẹ vỡ thành hàng triệu triệu những giọt sương xốp trắng. Mưa cuộn lên trời cao kéo màn trời ủ dột. Mưa đưa mẹ về nẻo trời xa, nẻo xa xăm mù khơi, nẻo sinh ly tử biệt. Mưa cho cỏ mau tốt tươi phủ kín nấm mộ mẹ nằm lại một mình. Mưa trãi khăn tang vắt ngang bầu trời ngày mẹ đi xa mãi.
Và hôm nay, trong câu chuyện cuối cùng mình viết tham gia cuộc thi Netbuttrian có ngấn nước, có nụ cười, có nỗi nhớ, có niềm tự hào của 3 chị em mình như một nén nhang lòng thắp lên cho mẹ. Có một điều không đổi rằng mẹ vẫn đang còn hiện diện bên chúng mình… Trong mỗi nhịp đập trái tim… Không đếm được bao nhiêu vất vả, bao nhiêu nước mắt 3 chị em đã thành người như điều mẹ mong muốn trăn trối lúc lìa trần. Ba đứa con của mẹ, ba hạt đậu xanh trong cái ống bơ đặt góc sân ngày nào, cùng nắng, cùng gió, cùng bao thử thách đã vững trãi mà lớn lên trong bao bài học làm người mẹ đã dạy chúng mình.
( Bài viết này chúng con : Việt Hà, Việt Hằng, Bảo Trung kính dâng lên mẹ Nguyễn Thị Liêm như một nén hương lòng… )
Nguyễn Thị Việt Hà.
(Tuổi Trẻ)
Nghe http://us.mg1.mail.yahoo.com/images/upload/Media/Ba_Hat_dau_Xanh_Cua_Me.mp3 -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Aug/2011 lúc 11:21am
Chọn Vợ Cho Anh
Tôi vừa bước vào cửa tiệm thực phẩm Việt quen thuộc thì cô Phước chủ tiệm vui vẻ thông báo: Chị hên ghê, rau muống tươi mới về. Cô biết tôi dân rau muống vì tôi là khách quen từ lâu của tiệm cô.
Một trong hai người thanh niên cỡ gần 40 tuổi đứng nói chuyện cùng Phước cạnh quầy thâu ngân chăm chú nhìn tôi rồi bỗng reo lên: Chị Hân, lâu rồi không gặp chị. Chị khoẻ không? Ngờ ngợ nhìn anh, tôi lục lọi trong trí nhớ vốn đã hao mòn theo tuổi tác của mình dường như thấy anh có nét quen quen nhưng chưa hình dung nổi quen trong trường hợp nào, song tôi vẫn trả lời theo kiểu không thân không xa: “Cám ơn chú, chị vẫn khoẻ. Chú khoẻ không”? Biết tôi chưa nhận ra, anh bổ xung vài chi tiết: “Chị không nhận ra em phải không? Em là khách hàng của chị hai năm trước. Em là Tiến làm ở IBM”?
Ồ Tiến, tôi nhớ ra rồi, anh chàng kỹ sư điện toán làm ở hãng điện tử! Một người có thói quen ăn nói nhỏ nhẹ, lịch thiệp. Cách cư sử, ăn mặc chỉnh tề của Tiến thường để lại cho người đối diện một ấn tượng đẹp khiến người ta khó quên anh! Nhưng sao hôm nay, trông Tiến có một vẻ gì hơi lạ? Đúng rồi, Tiến đang mặc cái quần jean một cách cẩu thả đi với cái áo T shirt nhăn nhíu! Có phải đó là lý do tôi không nhận ra con người chỉn chu trước kia?
Như đọc đựoc dấu hỏi lớn trong ánh nhìn thắc mắc của tôi, Tiến nhỏ nhẹ: “Chị ngạc nhiên hả? Em thay đổi nhiều phải không”? Tôi gượng cười chống chế: “Cũng không hẳn, chị có nhiều khách hàng cộng với trí nhớ ngày càng tồi tệ nên nhất thời chưa nhớ ra! À quên chưa hỏi, em đã có con chưa”? Thật bất ngờ, Tiến cười to một cách khác thường làm tôi bối rối: “Ha, ha … Chị hỏi thật tức cười! Con hả? Con là gì? Em chẳng biết vợ, con là nghĩa gì trên đời này cả!” Rồi Tiến lại buông một tràng cười lớn một cách không bình thường!
Tôi ngạc nhiên trước tiếng cười và thái độ bất thường của Tiến. Còn lúng túng chưa biết nói sao cho thoát khỏi không khí gượng gạo này thì người bạn đi cùng Tiến đập tay vào vai anh: “Thằng này khùng rồi, chị Hân đừng chấp nó, nó đang có chuyện buồn. Thôi, đi mày. Chào chị Hân, xin lỗi chị vì thái độ khiếm nhã của nó. Lỗi tại em, nó đang buồn em lại kéo nó uống bia! Chào chị”. Rồi người bạn lôi Tiến ra khỏi tiệm sau khi nói với cô chủ: “Xin lỗi Phước nha, tụi anh đi, sẽ nói chuyện sau”.
Miễn cưỡng đi theo đà kéo của người bạn, Tiến vùng vằng giật tay ra nhưng bạn anh quyết không buông mà còn kéo mạnh hơn làm Tiến tức tối. Tiến quay lại nhìn tôi nói lớn: “Chị thấy em khác xưa hả? Chị đừng chối, nhìn ánh mắt chị, em biết chị đang coi thường em! Đừng nhìn em như vậy! Mày để tao đứng lại giải thích cho chị Hân hiểu. Tao không muốn chị hiểu lầm! Để tao kể cho chị ấy nghe!”Người bạn cương quyết: “ Xin lỗi chị, để bữa khác, bữa nay nó không tỉnh táo! Chị tha lỗi!” Rồi hai người dằng co nhau, Tiến cứ vùng vằng không chịu đi! Mãi rồi tôi thấy anh bạn cũng đẩy được Tiến ra ngoài. Những người khách đang có mặt trong tiệm đều ném theo ánh mắt ngạc nhiên đầy thắc mắc. Cô Phước nói nhỏ với tôi: “ Chị đợi lát rảnh, em kể chuyện anh Tiến cho chị nghe”.
Thật may, tôi cũng đang tính hỏi Phứoc điều này vì với sự tò mò của mình cùng với thiện cảm dành cho Tiến, tôi cũng muốn biết rõ nguyên nhân gì đã xảy ra cho anh, dù trong thâm tâm, tôi cũng lờ mờ đoán được một phần câu chuyện.
Tôi biết Tiến hai năm trước khi anh vào tiệm áo cưới làm hẹn thử áo cho người vợ mới được Tiến bảo lãnh từ Việt nam qua. Hai người đã tổ chức đám cưới tại Việt nam nhưng khi qua đây, cô vợ muốn làm đám cưới lại cho “Sang”. Kể ra, điều này cũng chẳng cần thiết, nhưng vốn là người tình cảm và thương vợ, Tiến sẵn sàng làm bất cứ điều gì theo sở thích của “người đẹp”. Tiến đã cẩn thận tự mình đến lấy hẹn với tôi kèm lời nhắn gửi: “Chị giúp vợ em tìm kiểu áo đẹp nhất vì có thể thời trang ở đây không giống gu thời trang Việt nam! Cả tuần nay, em đưa cô ấy đi khắp các tiệm áo cưới trong thành phố mà cô không kiếm được kiểu nào ưng ý. Hường và Hạnh nói em đưa cô tới chị. Nếu không thể kiếm đựoc thì em phải đưa cô đi kiếm ở các tiểu bang khác mà điều này sẽ làm mất rất nhiều thời giờ trong khi em đã lấy gần hết vacation cho những chuyến đi về Việt nam tìm hiểu, cưới hỏi theo phong tục bên đó rồi! Tiền nong đối với em bây giờ không quan trọng bằng làm sao cho cô ấy vui!”
Tôi hơi “hoảng” trước lời gửi gắm này của Tiến vì tuy mới biết Tiến nhưng tôi lại có giao tình rất thân thiết với Hường và Hạnh là hai cô em gái của Tiến vì cả hai đều là khách hàng của tôi vài năm trước. Gia đình Tiến có ba anh em đến đây từ lúc còn trẻ. Cả ba đều chịu khó học hành và rất thương nhau. Họ đều là những người có bằng đại học và công việc tốt đẹp. Hai cô em gái lâp gia đình mấy năm trước cũng với những người có trình độ ngang nhau. Nhìn chung, gia đình họ là gia đình nề nếp và có cách cư sử đúng mực làm cho người ngoài phải nể trọng. Hai cô em gái lúc nào cũng giục ông anh phải kiếm vợ cho mình. Tiến xem ra vẫn dửng dưng mà chỉ ham mê với công việc làm cho cả hai cô Hường, Hạnh đều sốt ruột
Cuối cùng, trong một lần về thăm quê, Hạnh đã tìm được một người “đẹp nết” cho ông anh lừng khừng ngại lấy vợ qua lời giới thiệu đầy nhiệt tình của một người họ hàng xa bên ngoại: “Con nhỏ này được lắm, ít học nhưng hiểu biết và nhanh nhẹn, siêng năng! Lấy gái ở thôn quê ngoan hiền, thuỳ mị hơn gái phố. Không nhõng nhẽo, đua đòi, se sua. Chỉ ngại nó đã 29 tuổi, sợ cậu Tiến chê già!” “Anh Tiến cũng 36 tuổi rồi bác ạ. Chị ấy ở tuổi này thì hợp với anh cháu quá. Cháu nghĩ anh cháu cũng không muốn tìm người quá trẻ đâu”. Về điểm này thì Hạnh nói rất đúng với sự bàn bạc của hai chị em cô.
Cả hai cô em gái chỉ muốn anh mình kiếm được người vợ biết thương yêu và chăm lo cho gia đình! Dĩ nhiên Hạnh thừa thông minh để thấy đây là một lựa chọn tốt. Người có đủ tiêu chuẩn như vậy mà không nhanh tay có khi “xôi hỏng bỏng không”. Thế là, hai cô em thúc ép ông anh một cách bắt buộc. Người lo mua vé máy bay, kẻ chạy tìm quà cáp rồi Hường lại lấy phép áp tải ông anh cứng đầu về quê xem mặt vợ.
Đúng ra, là người bán hàng, tôi chỉ cần giúp Tiến như những người khách khác là đủ. Nhưng vì tình cảm sẵn có đối với hai cô em gái của Tiến cũng như lời gửi gắm đầy ưu ái mà Tiến dành cho cô vợ sắp cưới nên tôi muốn giúp anh bằng tình cảm hơn chỉ là trách nhiệm của người bán hàng. Mang nặng tâm trạng đó nên tôi cũng hơi băn khoăn lúc sắp tới hẹn bởi không biết có giúp được Tiến như ý muốn không vì qua lời nhắn gửi của Tiến, tôi biết mọi việc sẽ rất khó khăn khi cô dâu “Đã đi hết các tiệm trong thành phố vẫn không tìm được kiểu ưng ý!”
Những cô dâu loại khó tính này phần lớn rơi vào hai trường hợp: Thứ nhất: Cô dâu rất sành về thời trang hoặc cô thích những kiểu áo độc đáo không trùng với bất cứ ai và cách giải quyết tối ưu là khuyên cô tìm người cắt may theo sở thích của cô!
Trường hợp thứ hai là cô dâu không am hiểu thời trang cũng như không biết kiểu nào hợp với ý mình vì hầu hết các tiệm áo cưới đều đặt hàng ở những hãng thời trang có nhiều kiểu mẫu bán chạy nhất nên các cửa tiêm đều trưng bày mẫu mã giống nhau tới trên 90%. Nếu cô gái đó đã đi nhiều như vậy mà chưa ưng ý kiểu gì thì quả là vấn đề nan giải vì cửa hàng nơi tôi làm việc không phải cửa hàng may đo nên mẫu mã cũng chỉ là những mẫu như các cửa hàng khác đã có trong cuốn catalog mà thôi. Không biết cô vợ Tiến thuộc loại nào đây?
Và rồi Tiến mang cô vợ vào tiệm với nụ cười niềm nở trên môi, anh vui vẻ: “Chào chị Hân, chị khỏe không? Xin giới thiệu với chị đây là Nguyện, vợ em. Chị có thể gọi tên Nancy cũng được, Nguyện muốn dùng tên này cho dễ. Chị giúp vợ em tìm kiểu áo đẹp nhất chị nhé, vợ em mới qua đây hai tuần nên còn bỡ ngỡ, nhờ chị giúp chúng em ”.
Trái với nhận xét: “Mới qua, bỡ ngỡ…” của Tiến cũng như trong ý nghĩ của tôi. Cô Nguyện quay lại nhìn chồng với vẻ mặt hơi bất mãn rồi cô nói xẵng: “Anh nói gì nhiều vậy? Anh đi chỗ khác đi. Em biết chọn áo cho em, không phải lo!” Tôi kín đáo nhìn Tiến, thấy Tiến có vẻ hơi ngượng, tôi cười khỏa lấp; “Đúng đấy, Tiến ra ngoài ngồi đợi đi. Các cô dâu bên đây không muốn chú rể nhìn áo cô dâu trước hôm cưới đâu, để lấy hên mà”. Tiến nhỏ nhẹ cám ơn tôi rồi âu yếm dặn Nguyện: Em cứ thoải mái lựa áo, anh đợi em bên ngoài”. Cô vợ im lặng không trả lời vì mắt đang còn mải mê nhìn cô người mẫu ở khung cửa sổ.
Tôi hỏi cô: “Em có thể cho chị biết em muốn kiểu áo nào”? Không trả lời tôi, cô hỏi lại : “Ở đây có áo nhập từ Hồng kông không?” Tôi lắc đầu thì cô ấm ức : “Thật là bực ! Anh Tiến này chẳng biết gì mà ngang! Đã bảo mua áo từ Việt nam thì không mua còn nói thời trang bên đây đẹp! Đẹp đâu chẳng biết mà thấy không sang, không đính nhiều hạt cườm và màu sắc không bắt mắt!”
Bằng kinh nghiệm bán hàng lâu năm với những lựa chọn khác nhau của nhiều sắc dân, tôi cũng thoáng hiểu đôi chút về sở thích thời trang của cô. Tôi mau mắn dẫn cô vào phòng trong, nơi dành cho áo phù dâu và áo dạ hội. Cô reo lên vui mừng, hồn nhiên như con nít. Cô mê mải chọn những chiếc áo đủ màu sắc đính đầy hạt cườm lấp lánh. Tôi cho cô biết loại này không phải áo dành cho cô dâu nhưng cô nói cô chỉ thích những Xì tin Style) như vậy!
Là người bán hàng, tôi phải tôn trọng lựa chọn của cô. Mà kể ra cũng chẳng sao vì ngày cưới là ngày dành cho cô nên cô muốn mặc gì cũng được. Vả lại, nơi đây, người ta tương đối cởi mở, không ai phẩm bình hoặc thắc mắc gì về lựa chọn riêng tư của người khác. Hơn nữa, cô đã cưới ở Việt nam rồi nên bây giờ cô có thể mặc bất cứ màu gì cô muốn vì đám cưới này chỉ mang tính chất tượng trưng như một buổi tiệc nhỏ ra mắt bạn hữu. Và như vậy, cũng không nhất thiết cô phải mặc áo màu trắng tượng trưng cho sự trong trắng của cô dâu mới! Rất may, những áo này đúng sở thích nên cô mê mải chọn và tấm tắc: “Chị biết chiều ý thích khách chứ ở những tiệm khác, người ta sau khi nghe anh Tiến nói chọn áo cưới là cứ dẫn vào nơi treo toàn áo trắng, thật chán!” Thú thực, được cô khen mà tôi không biết nên buồn hay vui!
Rồi cô cũng chọn được ba cái áo với màu, kiểu khác nhau. Cô vẫn còn chê ít hạt cườm! Tôi gợi ý cô có thể đính thêm hạt cườm nếu cô muốn nhưng như vậy sẽ quá nặng nề vì vóc người cô rất nhỏ bé. Cũng không quên nhấn mạnh cho cô biết những chiếc áo cô đã chọn là áo dành cho phù dâu và dạ hội. Cô thẳng thắn thổ lộ ý nghĩ của mình: “Em không sợ ai cười! Em chỉ cần nó đẹp và độc!”
Cô hớn hở chạy ra ngoài gọi Tiến vào đặt tiền. Tiến không hề thắc mắc về số lượng áo mà thản nhiên rút thẻ trả tiền. Tôi cảm thấy áy náy nên nhắc cho cả hai biết thời gian trong bữa tiệc có mấy giờ đồng hồ không đủ cho cô chạy ra chạy vào thay áo! Hơn nữa, thay đổi một cái áo rất rắc rối vì có thể làm hỏng kiểu tóc hoặc phấn son trang điểm bị nhoè… Cẩn thận hơn, tôi nhấn mạnh cho Tiến biết những áo cô chọn không phải là loại áo dành cho cô dâu! Tiến hơi ngạc nhiên nhìn Nguyện như có ý hỏi. Cô tỏ ra khó chịu: “ Đã bảo anh mua áo ở Việt nam mà anh không mua. Áo cô dâu ở đây không đẹp! Em chỉ thích áo có nhiều hạt cườm !”
Tiến ưu tư hỏi tôi: “Chị có thấy cô dâu nào mặc loại áo đó chưa?” Nguyện sốt ruột: “Anh không muốn mua phải không? Thế thì lấy tiền lại rồi đi về, không cưới nữa!” Tiến cuống quýt: “Anh không có ý đó! Cứ áo nào em thích là anh vui rồi! Thôi, chúng em về, cám ơn chị Hân nhiều.”
Người khách cuối cùng ra khỏi tiệm. cô Phước chủ tiệm thuật lại cho tôi nghe những việc đã xảy ra với Tiến kể từ sau đám cưới. Phước cho biết cô là bạn học của Hường. Hai người tương đối thân nhau nên cô biết rõ cả ba anh em và coi họ như những người bạn. Cô kể hôm cưới, Nguyện đã làm cho khách khứa ngạc nhiên vì cách giao tiếp hết sức dạn dĩ ! Cô tỏ ra là một người lịch lãm. Nguyện tự nhiên nói nói cười cừơi đi lại trong phòng với một ly rượu mạnh trên tay để cụng ly với tất cả khách dự tiệc! Cô kéo cả Tiến đi cùng nhưng về sau mọi người thấy Tiến ngồi lại bàn nói chuyện với phù rể mà không sóng đôi cùng Nguyện. Chỉ tới khi Nguyện có vẻ say và nói năng mất tự chủ, Tiến mới ra dìu vợ về bàn! Lúc đó hơn mười giờ nên khách khứa cũng tự động ra về. “Tại sao mấy cô em gái hoặc phù dâu không giúp cô ta?” Tôi hỏi Phước! “Có chứ, phù dâu, Hường, Hạnh rồi cả mấy bác lớn tuổi nói cô ngồi nghỉ vì cả ngày đi chụp hình, nghi lễ đám cưới mệt rồi! Thì cũng chỉ dám nói vậy nhưng cô không hiểu hoặc không quan tâm nên mọi người cũng hết cách.”
Sau đám cưới, Tiến đưa Nguyện đi học lớp tiếng Anh! Nguyện không hứng thú với điều này. Cô thường bỏ học lang thang ngắm phố và dạo shop! Có vẻ cô không thích nếp sống tĩnh lặng, hoặc cô chưa chuẩn bị làm người phụ nữ của gia đình! 29 tuổi nhưng cô vẫn tung tăng. Tiến bận đi làm từ sớm đến tối mới về nhà. Nhiều khi chẳng thấy vợ đâu, cũng chẳng có nhắn gửi gì, anh lạ phải tìm Nguyện để đón cô về! Thường thường bữa tối, hai người ăn tiệm vì cô ít khi muốn nấu ăn. Tiến hơi buồn nhưng anh tự an ủi vợ mình chưa quen. Ngày qua ngày, quan hệ hai người trở nên xa cách vì có vẻ như Nguyện không muốn hòa vào cuộc sống gia đình.
Sở thích, trình độ hai bên khá khập khiễng. Cô kết bạn và hòa đồng với một số người bạn mới người Việt ở lớp học tiếng Anh rất nhanh nhưng với người chồng đầu gối tay ấp thì dường như vẫn là một sự gượng ép! Những buổi đi chơi với bạn cũng như dự các party, sinh nhật của bạn, cô chỉ muốn đi một mình. Tiến rất buồn nhưng chẳng biết cách nào làm cô vui. Anh lành và đơn giản quá. Sống từ nhỏ ở nơi ít bon chen, cạnh tranh nên anh không có bản năng ứng xử với những tính toán nhỏ nhặt.
Rồi không biết do đâu, Nguyện đòi chuyển đi thành phố khác. Thành phố mà cô mới cùng các bạn đi chơi về. Cô muốn sống ở đó vì nơi đó là thủ phủ của người Việt ! Và những người bạn mới của cô cũng lần lượt chuyển đi nơi đó! Cô dồn Tiến vào thế khó! Anh có công ăn việc làm vững chãi và có nhà riêng của anh đang trả gần xong mortgage! Vả lại, Tiến vẫn thích nơi đây vì đã quen thuộc với anh từ lâu cũng như còn có gia đình hai cô em gái. Anh kiên nhẫn giải thích nhưng chỉ làm mâu thuẫn vợ chồng thêm sâu. Nguyện lúc này gần như không còn muốn nghe Tiến phân trần, giải thích gì. Cô khăng khăng bắt Tiến phải chiều theo ý mình. Cô cho Tiến biết cô không thể thích hợp với Hường và Hạnh vì họ có học nên khinh khi cô! Cô muốn sống càng xa họ càng hay!
Tiến rất đau lòng khi nghe vợ nói như vậy! Tiến không bênh em nhưng sự thực, những nhắc nhở chân tình của hai cô em gái về kiểu ăn mặc chưng diện lố lăng của Nguyện cũng như cách cư sử của cô đối với Tiến không giống cách cư sử của người vợ dành cho chồng đã làm anh đau đầu rất nhiều! Chính anh cũng rõ, hai cô em gái anh có bằng đại học và có công việc tốt với đồng lương cao nhưng họ vẫn thực sự là những người nội trợ đảm trong gia đình! Họ có nếp sống giản dị, lành mạnh như phần đông những người bản xứ. Họ có lý do chính đáng khi nhắc nhở anh trong việc buộc Nguyện phải đi học tiếng Anh cũng như dành nhiều thời gian cho gia đình … Mục đích của họ chỉ muốn anh và Nguyện có cuộc sống hạnh phúc thực thụ thôi. Chính cách sống khác nhau giữa Nguyện và hai cô em gái đã làm cho Nguyện nảy sinh ác cảm là hai cô đã coi thường Nguyện!
Tuy nhiên, anh vẫn nhỏ nhẹ nói vợ đừng chấp những điều đó cũng như anh sẽ hạn chế việc qua lại thăm hai cô em gái dù anh biết nói cô cũng không tiếp thu. Dường như anh cũng mơ hồ nhận thấy Nguyện đã có chủ đích của riêng cô. Kiên nhẫn mãi rồi Tiến cũng phải buông tay vì tự ái của người đàn ông! Nguyện đã nói thẳng cho anh biết về luật lệ qui định cũng như quyền lợi của người phụ nữ nơi đây nếu như có đủ bằng chứng để chứng minh người phụ nữ đó bị hành hạ về thể chất cũng như tinh thần! Cô cũng cho anh biết cô có khả năng làm những gì cô muốn nếu anh phản đối yêu cầu cô đưa ra!
Kể ra, một cô gái vùng quê ít học mới chân ướt chân ráo đến đây mà hiểu rành rẽ quyền lợi ưu tiên dành cho phụ nữ trong luật hôn nhân cũng như cách xếp đặt mọi việc tuần tự một cách khoa học như cô quả là người có bản lĩnh. Cũng không biết do đâu mà cô hiểu rõ ràng về luật pháp hiện hành như một luật sư? Rồi không hề nói cho Tiến biết, cô tự ý đi tới nhà người bạn ở và phone về cho anh đồng thời nêu những điều kiện cô đưa ra để anh lựa chọn! Theo đó, cô sẽ không đòi hỏi anh cấp dưỡng hay chia tài sản nhưng bù lại, anh phải hoàn thành toàn bộ thủ tục để cô trở thành công dân chính thức rồi hai người sẽ chia tay nhau êm thắm!
Cô kết luận: “Như vậy, anh chẳng mất gì còn tôi, tôi đã mất cái đáng quý nhất của người con gái! Anh vẫn còn nhà cửa của anh! Nếu tôi “cạn tàu ráo máng” như người khác, tôi bắt cưa đôi tài sản, anh làm gì được tôi?”
“Thế Tiến có làm như lời cô ta không?” Tôi hỏi. Phước nói, “Chị biết đấy, Anh Tiến là người sống rất lành, ít va chạm. Miệt mài vừa học vừa làm lấy được mảnh bằng rồi lại làm việc! Cái môi trường anh tiếp xúc hoàn toàn lành mạnh nên anh ấy không biết những ngóc ngách khuất khúc của con người! Hình như anh ấy vẫn chưa nhìn ra bộ mặt thật của Nguyện mà còn bị dằn vặt bởi anh không chăm sóc Nguyện nên cô mới buồn mà bỏ ra đi!”
Rồi Phước nhìn tôi, chặc lưỡi: “Đọc báo cứ thấy nói những cô gái quê mười chín, hai mươi ớ VN lấy chồng Đài loan, Hàn quốc trên bốn mươi tuổi rồi về đó làm nông dân cực nhọc còn bị hành hạ mà vấn lao vào như thiêu thân! Cô Nguyện này có phước mà không biết hưởng! Đã 29 tuổi, còn trẻ trung gì nữa! Cô không ế là may vậy mà lấy được tấm chồng tử tế lại làm màu. Số anh Tiến đen như ruồi! Dạo còn ở đại học anh cũng có mấy cô thương nhưng anh cứ mải lo học nên bỏ lỡ cơ hội. Buồn cái là lẽ ra, anh phải biết đã bị người phản bội nhưng anh ấy lại cứ tự trách mình! Giữ người muốn ở lại chứ giữ sao được người muốn đi! Kể từ đó anh ấy bị trầm cảm, bất cần đời và khật khùng như chị thấy đó! Hường và Hạnh cũng tự trách chúng đã làm khổ anh mình! Phải tay em thì em sẽ đưa cô ta ra ánh sáng cho rõ trắng đen! Nhưng thôi, để coi cô ta sẽ làm mưa làm gió được gì ở đây! Chị có đoán trước kết cục như thế nào không?”
Tôi không muốn biết đến cái kết cục dành cho cô Nguyện mà chỉ thấy thương cảm cho những người muốn có cuộc sống bình an như Tiến mà điều bình thường đó dường như cũng vượt khỏi tầm tay.
Minh Thành
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Sep/2011 lúc 11:47am
ĐƯÁ CON DÂU
Tràm Cà Mau
Bà Năm rất hãnh diện vì Tâm, đứa con trai học hành chăm chỉ. Tâm tốt nghiệp bằng bác sĩ y khoa, thực tâp tại bệnh viện sắp xong, và chuẩn bị đi làm việc.
Tâm thường ôm đàn, búng tưng tưng và hát nghêu ngao.Tâm thường lập đi lập lại những câu hát ca ngợi "người em gái" nào đó. Lời rất dịu dàng, êm ái. Bà Năm nghe Tâm hát mãi, nói rằng:
- Em gái của anh, thì anh la mắng, nạt nộ, sai làm chuyện nầy, bảo làm chuyện kia, còn bắt phạt, bắt quỳ. Còn em gái người ta, thì bốc lên thấu tận trời xanh.
Tâm trả lời yếu đuối:
- Bài hát mà má. Thì rồi em Hương nhà mình, cũng sẽ được mấy anh con trai dại dột khác, bốc lên thấu trời xanh thôi.
- Sao anh không bốc em của anh lên một chút, cho nó vui, sung sướng. Có hơn là đi bốc thiên hạ không?
Bà Năm thường làm hết mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Anh con trai chưa bao giờ mó tay vào làm bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào trong gia đình nầy, từ rửa chén bát, hút bụi nhà, sửa cái bóng đèn đứt dây, cắt cỏ, quét lá trong vườn. Anh như một người khách thuê khách sạn, trong ngoài, mọi sự đã có người khác lo.
Một buổi sáng chủ nhật, bà thấy Tâm đem máy ra, cắt cỏ sân trước nhà. Bà ngạc nhiên, há hốc miệng đứng nhìn đứa con trai đang hì hục, vụng về đẩy chiếc xe cắt cỏ. Xưa nay, anh chưa hề đụng đến việc nhà. Anh đã quen thói. Có nhờ được anh cũng khó khăn, và chưa chắc đã làm. Anh cứ lần khân mãi, rồi quên việc người khác nhờ.. Hôm nay bà thấy Tâm cắt cỏ cẩn thận, cắt đi cắt lại, nghiêng đầu nhìn ngắm mãi, cho đến khi vừa lòng mới thôi. Bà Năm đứng chống nạnh, âu yếm nhìn con:
- Sao hôm nay con giỏi thế? Cắt cỏ giúp cho bố mẹ. Lại cắt cẩn thận, cắt đẹp nữa!
Tâm nhìn mẹ cười, và nói tỉnh bơ:
- Tuần trước, Lam ghé đây chơi, thấy cỏ cao, bảo con sao không cắt cho đẹp vườn.
- Lam là ai?
- Là bạn gái của con.
Bà Năm hừ một tiếng nhỏ tức tối. Con của Bà sinh ra, nuôi nấng, thương yêu, bà nhờ không được, bà nói không nghe, thế mà cái con Lam nào đó, mới mở miệng một tiếng, thì nó lại răm rắp làm. Trong lòng bà, bỗng thấy không ưa cái con Lam kia. Bà cảm thấy hơi buồn
Sáng chủ nhật, bà pha cà phê cho chồng, và pha luôn cho Tâm một ly. Bà biết hai bố con đều ghiền, buổi sáng không có ly cà phê thì xem như mở mắt không ra. Thấy anh con trai không buồn động đến ly cà phê thơm, bà hỏi:
- Sao con không uống liền đi, để nguội mất ngon, hương cà phê bay đi hết.
- Thôi, con không uống cà phê nữa má à. Con đang tập bỏ cà phê.
- Sao vậy?
- Lam bảo con bỏ cà phê! Uống cà phê không tốt.
Nghe con nói mà bà điên tiết, muốn lộn máu lên. Lam là đứa nào, có quyền lực gì, mà làm cho thằng con trai cưng, thương yêu của bà răm rắp tuân lời? Bà thương con, muốn cho con vui, bà ra lệnh:
- Uống đi. Mẹ đã pha ra rồi. Ðừng uống quá nhiều thì thôi, chứ vừa phải, cà phê cũng tốt cho sức khỏe.
- Anh con trai cưng của bà, đánh trống lảng, rồi bỏ lên lầu, không đụng đến ly cà phê bà đã pha. Bà Năm bực bội, quậy ly cà phê và uống từng ngụm nhỏ. Bà nói với chồng:
- Thằng Tâm nhà mình thế mà dại gái. Cha mẹ nói cho rát họng, thì không nghe, cái con nhỏ vất vơ nào đó, nói ra cái gì, thì nó răm rắp nghe theo như kinh điển. Thiệt là bực. Con mình sinh ra, dạy dỗ, nuôi nấng, mà nó không xem mình bằng ...
Ông chồng bà cắt ngang:
- Thôi bà ơi. Nó cũng đã lớn rồi, khi mới yêu, thì ai cũng vậy, mai mốt sẽ khác. Bà có nhớ không, hồi xưa khi tôi mới yêu bà, tôi cũng nghe theo bà răm rắp ...
- Bây giờ thì ông không thèm nghe theo tôi bất cứ chuyện gì nữa. Lại còn nạt nộ, gầm gừ.
- Có chứ, khi nào bà nói đúng thì tôi nghe theo, chứ bà sai, bắt tôi theo sao được? Ngay cả bà nội tôi, nếu nói sai, thì tôi cũng phải thưa lại cho đúng, chứ huống chi là vợ?
- Ừ, bây giờ anh có tôi rồi, thì xem thường nhé!
- Vẫn quý vợ như thường. Nhưng đúng sai, phải làm cho ra lẽ.
Mỗi lần bà thấy Tâm không hớt tóc theo kiểu cũ, lối tóc xửng ra như rễ tre, mà hớt lối mới trông gọn gàng, lịch sự hơn. Bà khen Tâm. Tâm nói rằng Lam không thích kiểu tóc cũ. Nghe mà bà giận, bực mình. Nhưng bà công nhận kiểu tóc mới, con bà trông đàng hoàng hơn.
Mấy tuần sau, khi Hương đi chơi về, báo cho bà Năm biết:
- Mẹ ơi, Con gặp anh Tâm đang bưng thức ăn cho khách tại tiệm Hương Bình. Anh còn cắt rau, nhặt tôm, phụ bếp nữa.
- Mẹ không hiểu con nói gì.
- Tiệm của bố mẹ chị Lam ấy mà! Anh ấy đến đó làm việc, lấy điểm với ông bà già chị Lam.
Bà Năm mặt mày nhăn nhó, thở dài, thất vọng nói:
- Tiền bạc nó đâu có thiếu. Ở nhà thì chưa bao giờ rửa cái bát. Chưa bao giờ nấu nồi nước sôi giúp mẹ. Chắc cũng làm không công. Thế mà, thế mà ...
Ngay tức thì, bà kêu Hương lái xe cho bà đi xem mặt mũi cái con Lam kia ra thế nào, mà sai khiến được ông con cưng của bà như vậy.
Bà Năm hầm hầm đi theo con gái, miệng mím lại. Hương dặn bà đừng vào tiệm, đi ngang qua bên ngoài dòm vô thôi. Hai mẹ con đi qua tiệm nhiều lần. Khi được nhìn thấy mặt đứa con gái tên Lam, bà càng giận hơn. Trở về nhà, bà bứt rứt, đi lui đi tới, chờ anh con trai cưng về; bà sẽ cho một trận tơi bời cho đã giận. Khi Tâm về nhà, chưa kịp thay áo, đã bị bà Năm gào to:
- Khôn nhà dại chợ, việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Việc nhà không đụng móng tay vào, ra ngoài thì làm mọi không công cho thiên hạ. Học hành cho giỏi, đỗ đạt bằng cấp nầy nọ, mà vẫn cứ ngu dại như thường.
- Thưa mẹ, mẹ nói gì?
- Thằng ngu! Cái con Lam đó, xấu xí, da ngăm, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, ngực lép, mông teo. Ðã ăn phải bùa mê thuốc lú của nó chưa, mà đi làm mọi cho gia đình nó? Nếu nó đẹp đẽ, nghiêng nước nghiêng thành, mà mê nó, thì không nói làm chi. Xấu xí như vậy, mà cũng mê muội, mới tức chứ. Cha mẹ nói thì không nghe, lại nghe lời đứa con gái vất vơ đó. Tưởng cành vàng, lá ngọc, con vua, cháu chúa chi cho cam, con nhà tiệm ăn ...
- Mẹ đừng kỳ thị. Mẹ từng nói với con, nghề nào cũng quý. Sao bây giờ mẹ chê nghề tiệm ăn? Mẹ thấy Lam xấu, mà con thấy đẹp thì sao? Tùy theo khiếu thẩm mỹ của mỗi người.
Bà Năm cười chán nản, và chế nhạo. Lặp lại một lần nữa, cái nhận xét của bà về cô Lam:
- Ừ, cái khiếu thẩm mỹ của anh lạ lắm, đen điu, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, người lép kẹp, là đẹp, đẹp lắm. Ha ha ha ...
- Nhưng tổng hợp tất cả lại, thì nhìn rất có duyên mẹ à. Con gái, có duyên thì thu hút và hấp dẫn hơn đẹp. Con không cần vợ đẹp. Mấy cô đẹp, thì kênh kiệu, vác cái mặt lên, đòi hỏi đủ điều, và tham vọng không bao giờ ngừng. Họ khó khăn, họ tưởng đâu có cái đẹp là có quyền hành như bà hoàng. Lấy mấy cô nầy làm vợ, mệt lắm, và chưa chắc đã được lâu bền.
Bà Năm há miệng ra vì ngạc nhiên, nhìn ông con trai của bà chòng chọc. Bà nói:
- Khiếp, ăn nói như cụ già tám mươi. Ai dạy cho anh những điều đó? Thôi, anh đã khôn đến vậy, thì mẹ chịu thua.
- Thì ba mẹ vẫn thường nói vậy, và kinh nghiệm riêng của con cũng thấy thế.
Thương và cưng con, bà không muốn con bà thương ai hơn, nghe lời ai hơn là nghe lời bà. Cái ác cảm với cô Lam không làm sao vơi được trong lòng bà.
Những khi Tâm mời Lam về nhà chơi, bà Năm cố tình làm mặt lạnh nhạt, và để lộ ra rằng, bà không ưa cô. Bà còn nói bóng gió xa gần rằng, đàn bà không có ngực, sau nầy khó nuôi con. Ðàn bà vòng mông nhỏ, sinh con khó, hiếm muộn. Lam vẫn vui vẻ, bình thường, làm như không biết bà Năm đang ám chỉ cô. Thấy thái độ của mẹ, Tâm không dám đem Lam về thăm nhà thường xuyên. Ông Năm khuyên vợ rằng:
- Bà càng tỏ ra chống đối, thì chúng nó càng khắng khít. Tình yêu là một thứ kỳ cục, càng có nhiều trắc trở, thì càng nhiều nồng nàn, cháy bỏng. Tình yêu xuôi chèo thuận mái quá, thì cũng không bền. Bà cứ để cho chúng nó tự do tìm hiểu nhau, đừng gây trắc trở, khó khăn, mà sau nầy có hậu quả không tốt, con dâu nó xa lánh gia đình chồng, và mình cũng mất con luôn.
Bà Năm cũng hiểu thế. Nhưng cái ghét bỏ cô Lam vẫn tiềm tàng trong lòng bà. Có lẽ tại vì Tâm nghe lời cô nầy răm rắp, mà không nghe lời bà, là người mẹ đã dành hết yêu thương cho con. Nó coi người khác quan trọng hơn bà. Ông Năm nói rằng, việc chi mà ganh tị tình thương? Khi còn trẻ, thì ganh với bà mẹ chồng, bây giờ thành bà mẹ chồng, thì lại ganh với con dâu.
Cứ cái vòng luẩn quẩn quay đi quay lại mãi, không được gì, mà chỉ gây thêm sứt mẻ, lộn xộn. Dân Á đông, thì mẹ chồng nàng dâu lục đục.Dân Âu Mỹ, thì mẹ vợ và con rễ không ưa nhau. Có cả ngàn câu chuyện chế giễu bà mẹ vợ do các ông viết ra. Như chuyện diễu về ông Adam, thủy tổ loài người, bảo rằng ông nầy là người đàn ông sung sướng nhất, vì ông không có một bà mẹ vợ.
Dù cho bà Năm có bóng gió, nói xấu cô Lam đến mấy, anh con trai cưng của bà vẫn không suy suyển cái tình si dành cho cô nầy. Bà mẹ có dàn cảnh, giới thiệu cho anh bao nhiêu cô gái khác, đẹp hơn, anh cũng không màng liếc mắt đến.
Bà Năm cắn răng chấp nhận cho Tâm cưới cô Lam. Bà tiếc rằng, từ nay những bà bạn có con gái đến tuổi cặp kê, hết o bế bà , bớt nồng nàn, tử tế như xưa.
Sau đám cưới, bà Năm xuống nước năn nỉ Tâm khoan dọn ra riêng. Anh con trai không trả lời dứt khoát, và cho biết tùy theo ý kiến của vợ. Bà Năm phải nói thẳng với cô con dâu rằng, nếu các con khoan dọn ra riêng, thì sẽ tiết kiệm được một số tiền, mua nhà sớm hơn, và tốt hơn.
Cô con dâu vui vẻ trả lời rằng, nếu ba mẹ cho chúng con ở chung trong thời gian đầu, thì chúng con mừng lắm, được ba mẹ cho ở, cho ăn, và gia đình sum vầy, thì vui hơn là tách biệt ra. Câu nói của đứa con dâu làm bà mát ruột. Sau thời gian đầu bỡ ngỡ, đứa con dâu dần dần thích nghi với sinh hoạt của gia đình. Ban đầu, bà Năm nghĩ rằng, lại phải hầu hạ thêm một cô nương nữa. Bà không ngại, miễn sao giữ anh con trai cưng của bà lại trong gia đình là được. Mỗi khi cô con dâu tự ý làm giúp cho ông bà việc gì, bà Năm nói nhỏ với chồng:
- Cô dâu nầy, ưa làm màu lắm.
Ông chồng bà trả lời:
- Thà có đứa con dâu làm màu, còn hơn là đứa ngang ngạnh, không coi ai ra gì.
Nhiều buổi sáng rất sớm, bà Năm nghe tiếng thở phì phò, tiếng huỳnh huỵch ngoài phòng khách, bà tưởng hai vợ chồng anh con trai đang làm trò khỉ. Một lần bà hé cửa nhìn xuống lầu, thấy Tâm và Lam đang múa tay, múa chân tập thể dục. Bà lắc đầu. Con trai bà, chưa thấy tập thể dục bao giờ, nay vì vợ mà tập. Bà cho rằng, con trai mà nghe lời vợ quá, cũng không tốt. Bà thử múa tay, uốn éo thân mình theo các cử động của hai người, bà nghe khoái cảm trong bắp thịt, xương cốt, và tiêu tan bớt rất nhiều mỏi mệt. Không lâu sau đó, nhiều buổi sáng, bà tập thể dục theo con, và cả ông Năm cũng tham gia. Trong phòng khách buổi sáng, theo tiếng hô của Lam, bốn người nhịp nhàng múa tay chân, hít thở trong vòng hai mươi phút trước khi ăn điểm tâm và đi làm việc. Mỗi sáng thứ bảy, chủ nhật, Tâm lái xe ra công viên rất sớm, cùng cha mẹ và vợ, chạy bộ vòng quanh sân cỏ, hít thở không khí trong lành, tập những động tác uyển chuyển.
Sau đó, cùng đi ăn sáng. Bà Năm cảm thấy, nhờ có đứa con dâu mà tình mẹ con của bà gần gũi hơn, sau bao nhiêu năm gần như gián đoạn, kể từ ngày anh bước vào tuổi mười tám, hai mươi.
Hai ông bà Năm trở nên mê cái món cháo gạo lức, nấu đặc rền, ăn với cá nục kho khô, mặn, có tiêu ớt. Ăn vào buổi sáng, do cô con dâu nấu. Ban đầu bà Năm cười cái món ăn nầy của người nhà quê. Nhưng cô dâu nói rằng, đây là món ăn vua chúa, chứ không phải món nhà quê. Sử sách có chép rõ, các ông vua triều Nguyễn rất khoái ăn cháo trắng buổi sáng. Ông bà Năm cũng phải công nhận ăn cháo vừa ngon, vừa tốt cho sức khỏe, bớt được chất béo, chất đường.
Mỗi buổi chiều, bà Năm về nhà trước con dâu chừng nửa giờ. Bà vào bếp chuẩn bị, cắt rau, cắt thịt. Cô con dâu vất xong cái cặp vào phòng, chạy vội xuống bếp, phụ mẹ chồng sửa soạn cơm tối. Thời gian đầu, cô phụ làm các việt lặt vặt, chỉ làm những chuyện mẹ chồng sai bảo. Cô con dâu phụ bếp, dù không phụ được gì nhiều, nhưng bà Năm thấy vui, tự ái của bà không bị tổn thương. Bà có thể hầu chồng, hầu con, chứ không muốn mang tiếng làm mọi cho cả con dâu. Nhìn thấy cô con dâu vui vẻ, hát hò trong khi làm bếp, bà cũng vui lây. Thì ra, cô làm với tấm lòng, với sự chia xẻ, chứ không phải miễn cưỡng. Cô con dâu múa dao lia lịa, cắt hành, cắt rau, ớt, nhanh như các anh đầu bếp Tàu chiếu trên truyền hình. Thỉnh thoảng, cô con dâu đề nghị bà Năm nấu món ngon cho cả nhà, ăn chơi cho vui, ăn chơi ngon hơn ăn thật, cô lảnh trách nhiệm nấu các món nầy. Cô nấu phở, bún bò, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bún riêu, mỗi chiều ăn một món thay cơm. Cả nhà vui vẻ hơn, ông Năm nói rằng, nấu ở nhà ngon như thế nầy, thì đi tiệm làm gì. Bà Năm học thêm được những bí quyết nấu ăn của cô dâu, và cộng thêm kinh nghiệm cũ, bà nấu càng ngon hơn. Bà mời bạn bè chồng đến, trổ tài nấu nướng. Nhiều người khen và khuyến khích bà ra mở tiệm ăn. Bà con, bạn bè đòi hùn vốn mở tiệm. Bà Năm sung sướng và quyết định thôi việc, ra làm kinh doanh. Trong một bữa ăn, cô con dâu nói với ông bà:
- Dì Chính bảo rằng, nếu mình ghét ai thậm tệ, muốn trả thù, thì cứ đem tiền cho mượn, xúi họ mở tiệm ăn, cho họ khổ, bỏ ghét. Làm tiệm ăn, khách ít thì lo, khách đông thì khổ, làm một ngày mười sáu, mười tám giờ cũng không hết việc. Nắng cũng lo, mưa cũng lo. Cực lắm, đầu bếp cũng cực, phụ bếp cũng cực, chủ tiệm còn cực hơn. Dì Thu bạn của mẹ con mở tiệm phở, bị ông đầu bếp bóp cổ, phải kêu cảnh sát can thiệp. Ông đầu bếp mệt và cực quá, mà Dì thì quá lo lắng, thúc hối, hỏi han. Ông nổi khùng, bóp cổ Dì. Bố mẹ con, lỡ mở tiệm, không lui được nữa, cực lắm lắm, ông bà mệt quá, gây gỗ nhau hoài. Nếu mẹ muốn mở tiệm ăn, thì hãy suy nghĩ cho kỹ lại. Ít nhất cũng giả vờ đi làm công cho thiên hạ, phụ bếp hoặc làm đầu bếp vài ba tháng cho biết đá biết vàng. Rồi quyết định.
Nghe con dâu nói bà hoảng hồn. Không dám ra làm kinh doanh nữa.
Nhiều hôm, cô con dâu hớt hải chạy về kêu bà Năm thay áo quần ra xe đi gấp, ra phố mua hàng với cô. Vì hàng hạ giá, chỉ còn một hôm nữa là hết hạn. Cô ríu rít khoe rằng có người mách cho biết, hàng hạ xuống trên bảy mươi lăm phần trăm, không mua uổng lắm.
Bà vui vẻ ngồi bên đứa con dâu, cô vừa lái xe vun vút trên xa lộ, vừa nói chuyện vui vẻ. Khi vào tiệm, cô ép bà thử áo nầy, thử váy kia, tíu tít. Rồi cô con dâu dành trả tiền mua áo quần cho mẹ chồng. Để bà khỏi thắc mắc, cô nói:
- Tiền nầy do anh Tâm làm ra, mẹ có quyến xài. Anh Tâm sẽ rất vui, khi biết mẹ dùng tiền nầy.
Sau đó, hai mẹ con rủ nhau đi ăn, ngồi nói chuyện trong quán, và mua thức ăn về cho cả nhà.
Có lần bà Năm giận ông chồng, ngồi khóc. Cô con dâu đến ôm bà, vuốt ve và hôn lên trán bà mà an ủi. Cô kéo bà đứng dậy, đi rủ bà lên San Francisco chơi.
Hai mẹ con đi bộ long rong qua chợ Tàu. Khi đã mỏi chân, cô con dâu cùng bà vào quán cà phê, ngồi ở dãy bàn dọn lấn ra trên lề đường cùng uống trà, ăn kem. Ngồi nhìn thiên hạ qua lại, cô con dâu nói với bà:
- Ngồi đây, đôi khi cũng thấy tâm hồn thư giản. Nhìn cái tất bật của thiên hạ, thấy cái nhàn nhã của mình, rồi biết quý cái hạnh phúc đơn sơ mà mình đang có.
Bà Năm cũng thấy vui vui, và quên bớt đi cái giận hờn ông chồng. Cô dâu nói với bà:
- Trời có khi nắng khi mưa, vợ chồng có khi vui khi buồn. Rồi mọi sự đều qua. Khi nào buồn, con đem mẹ đi chơi, giải trí. Hôm nào hai mẹ con mình rủ nhau đi xem chớp bóng, khuya mới về, để cho các ông ở nhà chờ, và đói một bửa chơi. Như vậy, các ông mới biết quý cái không khí ấm áp của bữa cơm bình thường mỗi ngày trong gia đình.
Mỗi buổi sáng, ông Năm đều nhắc rằng, nhờ có cái máy cà phê áp suất do cô con dâu mua tặng, nên ông có cà phê ngon mà uống. Đến sở khỏi phải tốn tiền mua cà phê áp suất bên góc đường. Nhiều hôm cô con dâu mua thức ăn ngon bên ngoài đem về. Ríu rít nói là cô ăn ngon quá, mua về cho cả nhà ăn cho vui. Không cần ăn ngon hay dở, nghe thế là bà Năm đã cảm động. Xưa nay, con bà, chồng bà, chưa hề thấy ngon mà mua về cho bà.
Sau một thời gian ở chung với cô con dâu, đi đâu, bà Năm cũng khoe là bà có thêm một đứa con gái, có thêm một người bạn thân để tâm sự khi vui buồn. Bà nói thêm, từ ngày anh con trai có vợ, gia đình thấy vui vẻ, hạnh phúc và thương yêu nhau hơn. Bà khen anh con trai khôn ngoan và khéo chọn bạn trăm năm. Bà không còn chê cô dâu là trán ngắn, mắt hí, miệng móm nữa.
Một hôm đã khuya, bà Năm thức giấc xuống lầu uống nước, thấy có bóng người thấp thoáng ở sân sau nhà, bà ghé mắt nhìn. Trăng vằng vặc trải ánh vàng xuống khắp vườn. Bà thấy Tâm quàng tay qua vai vợ ngồi tựa ngữa, chân gác lên ghế. Bà nghe tiếng thì thầm:
- Đôi khi thấy mẹ anh thương, và bênh em, làm anh phát ghen lên. Em làm gì mà mê hoặc được mẹ anh đến thế?
Tiếng cô con dâu trong trẻo đáp lại:
- Thương yêu và thông cảm. Đem hết tấm lòng mình ra mà đãi người, rồi sẽ được đáp lại bằng tấm lòng. Nhờ em biết thương yêu ba mẹ anh như ba mẹ ruột, thì ông bà mới thương yêu em như con ruột. Em có thêm một ông bố, một bà mẹ, một cô em, có thêm nhiều tình thương. Từ đó, vợ chồng mình hòa thuận hơn, thương yêu nhau hơn, và lâu bền hơn, hạnh phúc hơn.
Bà Năm len lén trở lại phòng, chíp miệng và nghĩ rằng, bà đã già một đời mà còn ngu dại, cứ ganh ghét với gia đình chồng, ganh ghét với con dâu. Bọn trẻ con ngày nay, có nhiều đứa khôn nứt hạt.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 08/Sep/2011 lúc 1:50pm
Những người lính Mỹ sau cuộc chiến
Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới. Bài viết của ông mang theo một thông tin đặc biệt: Truyền hình National Geographic chiếu phim 'Inside the Vietnam War' nhân kỷ niệm 40 năm trận chiến Mậu Thân. --- Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng: - Duy à... Có chuyện rồi! Ðại Úy Morrow cần gặp riêng Duy. Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay Đại Úy Morrow vừa hỏi: - Mời Đại Úy ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng? - Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 người 'homeless' cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng được. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những nguời này có vẻ không đàng hoàng... nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta. - Ồ... Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm, không sao đâu, để tôi xuống gặp họ. - Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ 'ngầu' lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và 'càm ràm' với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần... Anh tính sao? - Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào 'cafeteria' uống ly nước, chắc không sao chứ? - Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở 'cafeteria'. Anh không ngại chứ? - Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân. Trong lúc theo với Đại Úy Morrow xuống nhà gặp 'khách', tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước. Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường xá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thường đi làm bằng xe 'Metro'. Một buổi sáng thứ sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con trước ngày tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang 'rên rỉ' bài Hạ Trắng: Gọi nắng... trên vai em gầy đường xa áo bay Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say Lối em đi về... trời không có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy... Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ 'homeless' đang 'ngất ngưỡng' thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh... Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt: - Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không? - Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi. - Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhung khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến. - Ông... - Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao? - Tôi không quen gọi người lạ như thế. Hay gọi nhau là 'anh tôi' được không? - Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa? Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại. - Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn. -Mày không sợ hả? -Sợ gì? -Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê. - Không có đâu. Tôi sẽ trở lại. - Ði đi. Hẹn gặp lại. Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành 'bạn' từ dạo đó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối. Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở 'hạch hỏi'. Ðã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial). Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta. Vừa gặp mặt, Norman xiết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng: - Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám 'cớm dổm' ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao. Norman đổi giọng, nói tiếng Anh: - Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là nguời Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân 'homeless' của tao. Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời: - Mời các bạn xuống 'cafeteria' uống nước và nói chuyện. - Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện. - Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt: - Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt 'một ông già Bắc kỳ' thứ thiệt. Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những người đang có mặt trong 'cafeteria' sáng hôm đó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng: - Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có 'preview' cuộn phim 'Inside the Vietnam War' trước khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không? -Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này. - Ðài của tụi mày chỉ có trên 'Cable' và 'Direct-TV'. Dân 'homeless' tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé 'preview' mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Ðược không? - Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu! - Lần này khác... vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Click this bar to view the original image of 721x478px.
Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người 'bạn' cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang 'Explorer Hall' cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội trường chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé 'preview', tôi đã liên lạc nhờ mấy nguời trong nhóm 'Audio & Video' của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội trường, tránh xa những vị 'tai to mặt lớn' trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ. Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng xiết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi nguời. Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội trường. Ba nguời bạn của tôi vẫn 'án binh bất động' dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc... trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị 'dân Mỹ' và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài nguời chung quanh cùng khóc theo! Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người chung quanh rồi vội vàng 'kéo' ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót 'khật khưỡng' bước theo tôi như ba cái xác không hồn! Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu 'Inside the VietNam War' nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh 'homeless' đã cùng tôi đi xem 'preview' hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ. Có lẽ đã tới lúc nguời Mỹ nhận thức được 'món nợ phải trả' cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam. Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất? NGUYỄN DUY-AN.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Sep/2011 lúc 10:45am
http://thoibao-online.com/index.php?option=com_content&view=article&id=3678:nht-gn-trm-triu-o-la-mt-trong-ng-t-tr-li-ch&catid=47:tin-the-gioi&Itemid=16 -
http://thoibao-online.com/images/stories/august11/safe.jpg">
Người Nhật đã nhận lại gần cả trăm triệu Mỹ kim tiền mặt tìm được trong đống đổ nát sót lại sau trận động đất và sóng thần tấn công nước này hồi đầu năm nay.
Năm tháng kể từ khi thảm họa kép tấn công Nhật, dân Nhật đã giao cho nhà chức trách hàng ngàn chiếc ví tìm thấy trong đống đổ nát, chứa gần 50 triệu Mỹ kim tiền mặt.
Hơn 5.700 két sắt dạt vào bờ, dọc bờ biển đã được những người tình nguyện và nhân viên cấp cứu giao cho đồn cảnh sát. Trong những két sắt, nhà chức trách cũng tìm thấy khoảng 50 triệu Mỹ kim tiền mặt. Chỉ riêng trong một két sắt, có một số tài sản tương đương 1 triệu Mỹ kim. Một số két sắt khác chứa vàng, đồ cổ và các vật quý báu khác.
Cảnh sát Nhật cho hay, phần lớn số tiền tìm được ở khu vực bị sóng thần tàn phá ghê gớm nhất đã được trao lại cho chủ nhân. Nhiều người cất giữ sổ tiết kiệm hoặc giấy tờ sở hữu đất đai có ghi rõ tên và địa chỉ trong két sắt.
Có thời điểm, có quá nhiều két sắt được nộp cho cảnh sát nên họ không đủ phòng để cất giữ. Thậm chí là ngay cả bây giờ, mỗi tuần đều có người tới nộp đồ thất lạc, Koetsu Saiki, cảnh sát Miyagi cho biết.
Từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 7, đồn cảnh sát Ofunato đã thuê 3 chuyên gia két sắt tới giúp mở két.
Ryuji Ito, giáo sư trường đại học thành phố Yokohama nói: “Chắc chắn còn nhiều két sắt đã mất sau động đất. Tuy nhiên, 2,3 tỷ yen tiền mặt đã được hoàn trả cho chủ nhân của nó cho thấy đạo đức của người Nhật rất cao”.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Sep/2011 lúc 7:23am
BÁN CHỒNG CHO BẠN
Nàng không ngủ được, câu chuyện nàng nghe hồi sáng cứ vang vọng mãi trong đầu, hành hạ nàng. Quay sang thấy anh vẫn thở đều, giấc ngủ ngon với gương mặt đầy toại nguyện. Nàng cố dằn để không đánh thức anh dậy nửa đêm hỏi cho ra lẽ. Kinh nghiệm của người phụ nữ nhạy cảm và từng trải dạy cho nàng biết sự điềm tĩnh và thận trọng không bao giờ thừa. Dạo này công việc làm ăn gặp nhiều trục trặc đã khiến nàng trở nên lơ là gia đình, có lẽ đây là cái giá nàng phải trả cho sự tham vọng của phụ nữ, nàng đã quá chủ quan và đặt niềm tin không đúng chỗ.
Nàng đã từng rất tự hào vì có một người chồng luôn ủng hộ sự nghiệp của mình,không đòi hỏi ở nàng trách nhiệm quá cao trong việc làm vợ. Nàng không thể thường xuyên nấu cho chồng những bữa cơm ngon, không thể mỗi tuần cùng chồng về thăm ba mẹ hai bên, không thể có những ngày lễ lãng mạn để ngủ nướng và cùng nhau ăn sáng trên giường, nhưng nàng đã cố gắng rất nhiều để gia đình được no đủ, để họ hàng hai bên được chăm lo chu đáo và hơn hết là để chồng nàng chuyên tâm nghiên cứu. Nàng không muốn chồng nàng vì mưu sinh mà bỏ phí tài năng và đam mê trong góc phòng thí nghiệm. Anh đã từng nói rất biết ơn nàng vì điều đó. Lẽ nào nàng đã sai?
Nàng may mắn có một cô bạn gái thân thiết như chị em ruột từ những ngày ấu thơ. Bạn nàng khôn ngoan lanh lợi, sớm thành đạt và có một người chồng giàu có dù đôi khi nàng thấy những tia buồn trong mắt bạn khi nghe cô tâm sự về cuộc hôn nhân không có tình yêu. Họ hiểu nhau, tin nhau, trong lúc việc kinh doanh sa sút chính cô bạn thân đã không ngần ngại cho nàng mượn một số tiền lớn mà không cần thế chấp. Và cũng chính nàng đã là bờ vai, là chỗ dựa, là nơi trút lòng, sẵn sàng bỏ buổi họp để bên cạnh bạn khi cuộc hôn nhân thiếu tình yêu kia có dấu hiệu rạn nứt. Lẽ nào nàng đã sai?
Đôi ba tin đồn ác ý về mối quan hệ mập mờ giữa hai người nàng hết sức tin tưởng đến tai nàng cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Nàng vẫn biết thói đời thêu dệt nhiều chuyện oái oăm, con người ta luôn thấy chút gì đó thích thú trước những bất hạnh của đồng loại. Tuy nhiên nàng cũng thừa nhạy cảm và đủ thông minh để thiết lập một hàng rào bảo vệ hạnh phúc của chính mình. Những câu chuyện vu vơ về mối quan hệ ngoài luồng của ai đó. Những tâm sự đàn bà về người chồng đầu ấp tay gối. Những tín hiệu ngầm như cảnh báo. Những khẳng định chắc nịch của lòng tin về sự chung thủy và cả những tia quan sát ngấm ngầm sẵn sàng chặn đứng mọi tội lỗi có thể. Nàng đã chu đáo, đã cẩn thận, đã tự tin như thế. Lẽ nào nàng đã sai?
Nàng nhìn hai con người trước mặt mình, hai con người nàng đã yêu thương tin tưởng biết dường nào, nay bắt tay cùng nhau phản bội nàng. Cuộc gặp gỡ ba người mà nàng cố tình sắp xếp khiến cho đối phương không dấu kịp sự ngỡ ngàng. Nàng thấy lòng hơi hả hê khi nhận ra vị trí phán xét của mình trước hai con người tội lỗi không dám nhìn thẳng vào mắt nàng. Họ không nhìn nàng và cũng không dám nhìn nhau. Nàng đã hồi hộp chờ đợi giây phút này, để tuôn ra muôn ngàn lời chì chiết chửi rủa thậm tệ, nàng nghĩ ra tất cả những câu đau đớn nhất có thể, nàng biết rõ từng điểm yếu của đối phương vì đã có thời nàng coi họ là máu thịt của chính mình. Nàng có thể giết họ, chỉ bằng một câu nói. Vậy mà giờ đây, nàng không thể thốt nên lời, nàng nhìn họ đăm đăm rồi vội quay đi, cố ngăn không cho những giọt nước mắt trào ra. Không được khóc, nàng tự nhủ, mình không được khóc. Chính họ mới là người phải khóc vì đã phản bội mình. Lòng kiêu hãnh giúp nàng ngẩng mặt lên ngạo nghễ. Họ cất lời xin lỗi càng khiến nàng thêm tức giận. Đồng thanh đồng khí làm sao!
- Tại sao lại là hai người? – nàng hỏi mà không mong một câu trả lời- hai người thèm nhau tới thế sao?
- …!
- Dù sao đây cũng chẳng phải chuyện tốt đẹp gì. Tôi cũng không muốn làm to chuyện để mọi người cười chê, chúng ta nên giải quyết trong nội bộ ba người thôi.
Nàng nhếch môi cười khi bắt gặp cái thở phào dù rất khẽ. Dám làm mà còn sợ người ta biết, hèn thế!
- Nếu em mở lòng tha thứ, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu như không có chuyện gì xảy ra, anh hứa sẽ…
Nàng giơ tay ngăn chồng nói tiếp
- Em sẵn sàng để hai người đến với nhau mà tận hưởng hạnh phúc! Cứ yên tâm!
- Không, mình không…!
Nàng lại trừng mắt khi cô bạn vừa mở lời. Trong lúc này, nàng mới là người được quyền lên tiếng và quyết định chứ không phải họ. Bất kỳ câu nói nào phát ra từ hai cái miệng đáng ghét kia cũng có nguy cơ làm cơn giận trong lòng nàng bùng nổ.
- Đổi lại chúng ta có một thỏa thuận – nàng nhìn cô bạn đang ủ dột cúi đầu – cậu đã cho mình mượn năm trăm triệu cách đây ba tháng. Mình là người sòng phẳng và không muốn nợ nần ai, nhất là với cậu, cho nên mình bán anh ta cho cậu để trừ nợ. Cậu lấy anh ta và chúng ta không còn nợ nần gì nhau.
- Em! Sao em có thể…?
- Tại sao không? Điều kinh tởm nhất là ngoại tình với bạn vợ anh còn làm được thì anh có quyền gì mà trách móc ai? Đúng, tôi bán anh cho cô ta đó, năm trăm triệu là quá tốt rồi chứ con người anh thực ra không đáng một xu. Tuy nhiên cô ta thèm khát anh như vậy thì bỏ năm trăm triệu ra lấy anh về mua vui chắc cô ta chẳng tiếc đâu, đúng không?
Nàng nhìn hai gương mặt tái xanh vì hổ thẹn và bị xúc phạm, biết mình đã đánh đúng chỗ yếu nhất. Trái tim nàng có giây lát sung sướng hả hê. Hai con người trí thức, tự tôn và hiểu biết kia, câu nói của nàng còn đau đớn, nhục nhã hơn vạn lần xỉa xói chửi rủa mỉa mai. Nàng xách túi đứng lên, nhìn hai người ngồi đó bằng ánh mắt khinh bỉ nhất mà nàng có thể.
- Thế nhé, nếu có ai quen hỏi thăm tôi sẽ nói ngắn gọn là bán chồng cho bạn thân với giá năm trăm triệu, còn những việc khác hai người muốn giải thích thế nào thì tùy, tôi không quan tâm, từ nay chúng ta không còn bất cứ quan hệ nào với nhau nữa. Chúc may mắn!
Nàng kiêu hãnh quay bước đi, biết chắc hai người ngồi lại sẽ vì câu nói của mình mà không thể yên ổn. Đối với nàng đây mới thực sự là đòn trừng phạt đáng giá.
Nàng dắt xe, nổ máy, cố giữ cho tay mình bớt run rẩy. Trong sự thích thú hả hê khi làm cho đối thủ kinh hãi, nàng nhận thấy cả nổi đau ngấm ngầm mà giờ đây chỉ còn riêng với mình, nàng cảm nhận nó trào sôi dữ dội. Nàng đeo khẩu trang, đeo kính, mặc áo khoác, che đậy mình thật kỹ và chạy đi. Dưới lớp bọc kín đáo, nỗi đau vùng lên thổn thức và nước mắt nàng không ngừng tuôn rơi. Trong dòng người hối hả trên đường, không ai hay có một người đang dấu gương mặt đầm đìa sau lớp khẩu trang. Nàng lướt đi như trôi vào cõi mộng du.
Sân bay Tân Sơn Nhất một ngày nhiều gió, người đàn bà trung niên quấn lại chiếc khăn quàng cổ, dõi mắt nhìn trời xanh như tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc, một mảnh trời quê mà bà nghĩ có lẽ suốt đời mình chẳng bao giờ gặp lại. Đã hai mươi năm kể từ ngày bà rời bỏ quê hương, mang theo trong tim nỗi đau như cắt và cả lòng tin đã vụn vỡ, hy vọng xứ người xa lạ có thể làm hàn gắn một vết thương. Nhưng người đàn bà càng thành đạt bao nhiêu càng thấy lòng mình nhức nhối bấy nhiêu vì vết thương tưởng chứng như hóa thạch vẫn thầm âm ỉ trong tim. Sống trong nỗi giận hờn đau đớn suốt hai mươi năm, một ngày chợt nhận ra tóc đã bạc màu, môi thôi thắm tươi và mắt đã hằn những vết thời gian, lại chợt thèm quay quắt trở về, trở về để thứ tha, để quá khứ không còn hành hạ đêm đêm, để tìm cho mình phút bình an cuối cuộc đời. Tha thứ cho người và cho cả chính mình.
Căn nhà nhỏ hơn bà nghĩ, giản dị đến không ngờ. Trước sân trồng bụi hoa nguyệt quế xum xuê, loài hoa mà bà vẫn yêu thích. Bà hít một hơi rồi nhấn chuông, lòng không dưng hồi hộp kỳ lạ. một người phụ nữ gầy gò khắc khổ bước ra mở cửa, họ nhìn nhau, sững sờ, ca nước trên tay chủ nhà rơi xuống vang một tiếng khô khốc.
Họ ngồi trong phòng khách, đã hai mươi phút trôi qua mà vẫn chưa ai cất nên lời, ngập ngừng bà hỏi một câu khách sáo
- Hai người vẫn khỏe chứ?
- Tôi vẫn khỏe, nhưng ông ấy thì…
Chủ nhà ngập ngừng đưa mắt nhìn vào nhà trong
- Ông ấy bệnh à?
- Ông ấy đột quỵ, nằm một chỗ đã năm năm nay rồi!
- Vậy ư? Ông ấy vốn rất khỏe mà. Hai người thay đổi nhiều quá, suýt nữa tôi không nhận ra.
- Còn bà vẫn đẹp như xưa, thậm chí còn đài các hơn rất nhiều, thời gian có vẻ như không làm ảnh hưởng tới bà mấy. Chắc bà sống rất hạnh phúc?
- Hạnh phúc? Nếu tôi thật sự hạnh phúc liệu hai người có thấy thanh thản hơn không? Hai người cũng đang rất hạnh phúc cơ mà.
Bà chủ nhà giật mình trước cái nhìn của vị khách, bà thu người trong cái ghế, thân hình gầy ốm càng có vẻ teo tóp lại trước vẻ tự tin và ánh mắt nhiều hàm ý kia. Mất một lúc lâu bà chủ nhà mới lên tiếng
- Chúng tôi không hạnh phúc như bà nghĩ đâu. Ngày đó, sau khi bà bỏ đi, chúng tôi đã sống những ngày thật kinh khủng dưới sự lên án và dè bỉu của những người thân quen. Chúng tôi có lỗi và phải chịu hình phạt. Nhưng hình phạt lớn nhất, kinh khủng nhất không phải là cái nhìn của dư luận mà chính là câu nói sau cùng của bà : “ bán chồng cho bạn với giá năm trăm triệu!”. Câu nói đó ám ảnh hai chúng tôi đến tận bây giờ.
- Tôi không nghĩ sau việc làm của hai người thì còn có điều gì khiến hai người phải e ngại!
- Thật ra mối quan hệ của chúng tôi chỉ là một phút không kiềm chế mình. Tôi không phải là thanh minh! Nhưng chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đến với nhau, nhất là ông ấy, ông ấy vẫn rất yêu bà và chưa bao giờ có ý định bỏ bà cả.
- Nhưng rốt cuộc hai người vẫn đến với nhau!
- Phải, có lẽ vì chúng tôi quá cô đơn và cùng chịu chung một nỗi dày vò. Điều đó đã đưa chúng tôi đến gần nhau hơn, chứ không phải là tình yêu. Chúng tôi sống cùng nhau để động viên nhau, an ủi nhau, cùng nhau chờ đợi…
- Chờ đợi điều gì?
- Sự tha thứ của bà!
- Thật khó tin!
- Phải, có lẽ bà không tin, nhưng hơn hai mươi năm sống chung chúng tôi trên danh nghĩa luật pháp vẫn không phải là vợ chồng. Chúng tôi không có giấy hôn thú, ông ấy không muốn đăng ký kết hôn vì đối với ông ấy bà là người vợ duy nhất! cuộc sống của chúng tôi thật chẳng dễ dàng. Ông ấy không còn đam mê nghiên cứu, công việc của tôi cũng gặp khó khăn, có lẽ đó là quả báo. Chúng tôi ở chung một nhà, ăn chung một mâm cơm, ngủ chung một giường và cùng chung một người để nghĩ đến. Chúng tôi không dám nhìn vào mắt nhau, không dám ôm nhau ngủ, thậm chí không dám cả việc có con, tất cả chỉ vì nỗi ân hận và sợ hãi dày vò. Chúng tôi cô đơn và mệt mỏi, tận cùng, như một cái giá phải trả. Năm năm trước ông ấy đột quỵ, nằm liệt một chỗ, nói năng cũng trở nên khó khăn, vậy mà ông ấy vẫn luôn gọi tên bà. Chúng tôi luôn cầu mong một ngày nào đó bà quay về và tha thứ cho chúng tôi.
Người đàn bà ngồi nghe, lặng người, tâm trí hoang mang. Lẽ ra bà phải thấy thích thú, hả hê lắm khi chứng kiến cộc sống thương tâm của hai người đã từng hủy hoại lòng tin yêu trong bà. Vậy mà giờ đây, trước người đàn bà một thời bà căm hận, bà chỉ thấy một nỗi xót xa không nói nên lời.
- Bà cho tôi vào thăm ông ấy!
Bà không dám tin vào mắt mình nữa, hai mươi năm, hai mươi năm làm người ta thay đổi đến thế này ư? Nằm bất động trên giường là một người đàn ông gầy gò, già nua và mỏi mệt. Bà không dám tin đây chính là người đã từng là chồng mình, đã từng là người đàn ông bà hết mực yêu thương, đã từng là người đàn ông làm bà đau đớn vì yêu và hận suốt mấy chục năm trời.
- Ông có nhận ra ai đây không?
Đôi mắt người đàn ông nhìn bà thật lâu, cái nhìn ban đầu vốn lãnh đạm phút chốc trở nên thảng thốt
- Yến… Yến!...em Yến, …vợ…vợ anh!
Người đàn ông lắp bắp, khuôn miệng méo xệch, những âm từ rời rạc vang lên, vội vã, vui mừng lẫn tủi hổ. Bà nhìn ông, bật khóc. Bà bước tới, nắm bàn tay giơ ra chờ đợi, bà căm giận ông, nhưng muôn ngàn lần không muốn ông phải khổ sở thế này. Đôi mắt người đàn ông ầng ậc nước, cái nhìn dán vào mặt bà như tìm kiếm, van nài, cái nhìn khẩn khoản đầy hy vọng.
- Đừng…đừng…bán …anh!
Bà sửng sờ nhìn ông nghe lòng nghẹn đắng. Trời ơi, hóa ra câu nói của bà đã ám ảnh ông đến tận bây giờ. Thốt nhiên bà thấy ghê sợ chính mình, bà thấy mình cũng độc ác, cũng hèn hạ, cũng nhẫn tâm, thậm chí nỗi đau bà gây ra cho đối phương còn kinh khủng gấp mấy lần. Tại sao, tại sao khi đó bà lại nói ra câu nói độc địa đó? Phải chăng vì lời nói tàn nhẫn đó mà chính bản thân bà suốt hai mươi năm vẫn không được một ngày vui vẻ?
- Tha…tha thứ…cho anh!
Ông vẫn lắp bắp nói, ông có lẽ nuốn nói rất nhiều, phải chi ngày đó bà cho ông một cơ hội lên tiếng, bà đã để cơn giận lôi mình đi quá xa. Nước mắt ông vẫn ứa ra làm hai người đàn bà nghẹn ngào tức tưởi không thốt nên lời.
- Ông ấy vẫn còn rất yêu bà! Ông ấy và cả tôi nữa đều mong nhận được sự tha thứ từ bà, có vậy chúng tôi chết mới nhắm mắt được.
- Khi tôi quay về đây là tôi biết mình cần phải làm gì. Bản thân tôi mang nỗi căm hận trong lòng cũng chưa từng có một ngày được sống yên ổn. Tôi tha thứ cho hai người, và tôi cũng muốn tha thứ cho chính mình. Chúng ta đều đã già, hãy sống những ngày còn lại thật vui vẻ. Những hỉ nộ ái ố của cuộc đời đã không còn dành cho chúng ta nữa rồi.
Bà quay sang ông, dùng tay lau đi những giọt nước mắt đang ứa ra trên gương mặt nhăn nhúm vì xúc động của người bà một thời yêu thương, và nở một nụ cười nhẹ nhàng.
- Em đã tha thứ cho anh từ rất lâu rồi! tha thứ cho cả hai người! anh và cô ấy!
Người đàn ông gật gật đầu, môi nở một nụ dẫu méo mó nhưng đầy sức sống, nước mắt vẫn cứ chảy ra, chảy ra không sao ngăn lại.
Người đàn bà rời khỏi căn nhà đơn sơ sau buổi trùng phùng. Bà chủ nhà bịn rịn tiễn chân, lúc quay vào nhận ra trên bàn một phong bì trắng. Có một lời nhắn gửi lại: “ đây là năm trăm triệu ngày xưa bà cho tôi mượn, tôi xin trả lại đồng thời rút lại lời nói khi đó, tôi không bao giờ bán chồng cho bạn với giá bao nhiêu đi nữa. Mọi chuyện đã xảy ra xin hai người hãy quên đi để cả ba chúng ta có thể có những ngày cuối đời thanh thản! thân ái. Bạn gái thân của bà: Phi Yến.” thuy van
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 19/Sep/2011 lúc 7:46pm
Người Bán Liêm Sỉ
Xin gọi ông ta là ông X. Để tránh phiền phức. Thời buổi bây giờ, con người dễ bị chụp mũ bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai. Ở trên chụp xuống là nhà cầm quyền – hạng này đông lắm và rất... vững tay nghề vì đã từng hành nghề này cả mấy chục năm. Ở dưới chụp lên là kẻ tiểu nhơn – hạng này thường thấy xuất hiện khi có biến cố hay khi thấy chánh quyền đa nghi như Tào Tháo; hạng này hành động theo thời cơ nên tay nghề lắm khi còn vụng; họ không đông nhưng rất nguy hiểm bởi vì họ giống như mọi người nên khó mà nhận diện ! Ở ngang với mình mà chụp mũ mình là mấy đứa mà mình thường gọi là bạn hay chiến hữu hay đồng chí – hạng... mắc dịch này mới bắt tay ôm hôn mình thắm thiết đó, vậy mà hôm sau đã “trở cờ xé lẻ” bởi vì cái đít của họ đòi cái ghế và cái mặt của họ muốn được... bự bằng cái nia ( để được thấy là … đại diện ! ) ; hạng này không cần tay nghề khéo nên cách chụp mũ thiếu... tế nhị ! Nói chung, hạng chụp mũ nào cũng chỉ chụp người có tên tuổi đàng hoàng chớ chẳng ai chụp mũ một kẻ vô danh. Cho nên, gọi nhân vật trong chuyện sau đây là ông X để ổng trở thành kẻ vô danh, khỏi bị chụp mũ ! (Xin lỗi ! Tôi hơi dài dòng ở đây tại vì tôi muốn mọi người đều thấy tôi “rõ như ban ngày”, để đừng ai... chụp mũ tôi “có ý đồ này nọ”. Đa tạ). Bây giờ thì xin nói đến ông X. Hồi thời trước – thời mà sau này “được” gọi là ngụy – ông X làm việc cho một hãng tư của ngoại quốc. Ông làm việc lâu năm và rất đắc lực nên ban giám đốc giao cho ông những chức vụ quan trọng với quyền hạn về tài chánh thật rộng rãi. Để thực hiện những chương trình xây dựng đồ sộ của hãng, ông thường xuyên giao dịch với chánh quyền. Nhờ vậy, ông “quen lớn” nhiều trong cả hai giới dân sự và quân sự. Ở địa vị như của ông, con người dễ bị cám dỗ vì tư lợi. Chẳng có gì khó hết. Chỉ cần “nhắm mắt” một chút là nhà thầu sẽ biết cách đền ơn. Chỉ cần “biết phải quấy” một chút là vô “áp phe” riêng cho mình. Chỉ cần “bóp chẹt bắt bí” một chút là hất chân những đứa không theo bè cánh... Ông X lại không thuộc hạng “biết làm ăn” như kể trên. Ông lớn lên trong một gia đình theo Khổng giáo, lấy “nhân nghĩa lễ trí tín” làm phương châm, luôn đề cao giá trị đạo đức của con người. Cho nên làm việc cho hãng gần hai mươi năm mà không thấy ông... “xơ múi” chút gì hết ! Bạn bè có đứa chê ông nhát. Ông cười: “Thà tao nhát mà tao giữ tròn liêm sỉ. Cái đó mới là cái khó. Người ta có thể chê tao như mày đã chê tao. Chớ không ai dám khi dể tao hết. Cái phách của tao là ở chỗ đó !”. ... 30 tháng tư 1975. Ông X đã không di tản. Nghĩ rằng mình làm việc cho hãng tư, lại là hãng của ngoại quốc, chắc “họ không làm gì đâu”. Chẳng dè quân mũ tai bèo (Giải phóng miền Nam) và quân nón cối (bộ đội) vào Nam tiếp thu tuốt tuột. Hãng công hãng tư gì, lớn nhỏ gì cũng “đớp” hết ráo (Trước đó, họ có tuyên bố “không đụng tới cây kim sợi chỉ của dân”, và sự thật, họ đã làm đúng như vậy, mới chết ! Bằng cớ là họ đã lấy hết, chỉ chừa có... cây kim sợi chỉ ! Cho nên, có thấy ai thưa gởi rằng bị cách mạng... cướp mất cây kim sợi chỉ đâu ? Vậy mà sao ai cũng nói họ “nói một đàng mà làm một nẻo” hết ! Oan cho họ ! Có điều là với “cây kim sợi chỉ”, người dân không biết... “làm khỉ gì ăn”. Chỉ còn có nước may cái miệng lại để khỏi phải ăn, khỏi phải nói !). Hãng của ông X bị quân mũ tai bèo mang bí số K7 tiếp thu. May cho ổng: người dẫn đầu toán tiếp thu là người chú bà con đi khu hồi kháng chiến 1945. Nhờ ông này can thiệp nên ông X không bị đi cải tạo, nhưng bị đổi đi “hạ tầng công tác” ở một kho hóa chất (Sự che chở người thân như vậy rất hiếm thấy trong chế độ. Và có lẽ vì vậy mà chưa đầy sáu tháng sau, ông cán bộ đó bị cho “về vườn” mặc dầu chưa tới hạng tuổi !). Bấy giờ, ông X ăn lương 80 đồng. Trong khi người tài xế cũ của ông lãnh 90 đồng ! Ông được phát lương mỗi tháng hai kỳ. Mỗi kỳ là 40 đồng nhưng bị giữ lại 2 đồng để cho vào sổ tiết kiệm (Nhà Nước lo cho dân chí tình như vậy mà vẫn có người không bằng lòng. Lạ thật !). Bấy giờ, vì tất cả ngân hàng đều bị tịch thu, nên tiền của mà ông X để trong ngân hàng của ổng kể như đã... cúng cô hồn ! Ông X trắng tay và... trắng mắt. Bấy giờ, vợ con ông X rã ra đi làm trong mấy tổ hợp. Hai đứa nhỏ nhứt ở nhà dán bao giấy bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ gói đồ. Ông X bán lần xe cộ, bàn ghế tủ... Nhiều khi ông thầm nghĩ: “Mình đã tự hào giữ tròn liêm sỉ từ mấy mươi năm. Bây giờ... đổi lấy cái ăn cũng không được. Phải chi hồi đó mình nhắm mắt làm bậy, mánh mung chụp giựt đầy túi rồi bay ra ngoại quốc ở, thì bây giờ mình đâu có ngồi đây nhìn cái khổ cực của vợ con ! Riết rồi không biết là mình khôn hay mình dại nữa”.
Hôm nay là ngày ông đi bán chiếc xe đạp của ông. Ông đã tính kỹ: đạp xe ra chỗ thằng nhỏ sửa xe đạp ở góc đường xin nó cho đứng nhờ để bán; ở đó người qua lại cũng đông và người ghé vào bơm bánh hay sửa xe cũng thường; thế nào cũng có người hỏi mua. Sau khi lau chùi sạch sẽ chiếc xe, ông lấy một miếng bìa cứng viết lên đó “Bán xe đạp” rồi khoét lỗ xỏ sẵn dây để mang ra cột tại chỗ. Vừa làm ông vừa nghĩ đến thân phận của mình, đến cái liêm sỉ mà ông đã đeo đẳng từ bao nhiêu năm. Ông cười chua chát: “Cái liêm sỉ không giá trị bằng chiếc xe đạp !”. Bỗng ông nẩy ra một ý, vừa hài hước vừa táo bạo: “Tại sao mình không treo bảng bán cái liêm sỉ ? Cười chơi, sợ gì ?”. Vậy là ông lấy một miếng cạc-tông, nắn nót viết lên đó hàng chữ “Bán cái liêm sỉ. Bảo đảm 20 năm chưa sứt mẻ”. Khoét lỗ xỏ dây xong, ông cho hết vào túi xách, đạp xe ra ngõ. Thằng nhỏ sửa xe tuổi độ mười hai mười ba. Ốm nhom, đen thui, cười hở lợi. Sáng nào nó cũng kéo chiếc xe hai bánh chở hai thùng gỗ nhỏ và mớ đồ nghề, ra... hành nghề cạnh trụ đèn ở góc đường. Sợ người ta không biết hay sao mà thấy nó có treo trên trụ đèn tấm bảng trắng sơn chữ đỏ “Tại đây sửa xe đạp đủ loại”. Khi ông X xin đứng nhờ, nó vui vẻ nhận lời ngay: - Dạ được ! Dạ được ! Ông Hai cứ dựng xe cạnh cột đèn đó, không sao hết. Chỗ này là chỗ “bá tánh” chớ phải của riêng cháu đâu mà ông Hai xin phép ! Rồi nó lấy cái thùng gỗ úp xuống, mời: - Ông Hai ngồi. Cháu đang lỡ tay ! Nó làm như nếu nó không lỡ tay thì nó có bổn phận phải ngồi... tiếp chuyện ông X vậy ! Ông thấy có cảm tình ngay với thằng nhỏ. Ông cảm ơn rồi lấy hai miếng cạc-tông ra, treo một tấm lên sườn xe đạp, tấm thứ hai đeo lên cổ của mình một cách thích thú ! Ông ngồi xuống thùng gỗ phía sau lưng thằng nhỏ, đốt thuốc hút, ung dung. Thằng nhỏ đang ráp sợi dây sên vào chiếc xe đạp dựng ngược. Nó vừa làm vừa nói chuyện với ông X, mắt vẫn nhìn châm chú vào công việc. - Ông Hai bán xe rồi lấy gì mà đi ? - Thì... tôi đi chung xe với bà nhà tôi. - Ông đèo bà hay bà đèo ông vậy ? Ông X bật cười: - Dĩ nhiên là tôi đèo bả chớ ! - Ý ! Bây giờ đổi đời rồi. Mấy bà chở chồng chạy bon bon thiếu gì, ông Hai. Nói xong, nó cười hắc hắc. Ngừng một lúc, chừng như đang ngẫm nghĩ gì đó. Rồi nó nói tiếp, giọng ngang ngang: - Bây giờ sao nhiều người bán đồ bán đạc trong nhà quá. Ở xóm của cháu, thấy có người cạy gạch bông nền nhà lên bán đặng ăn, ông Hai à ! Hình ảnh đó làm ông xúc động. Ông không biết phải nói gì. Sự bần cùng của người dân trong chế độ được gọi là ưu việt này, đã vượt quá xa tầm tưởng tượng của con người... thì còn lời gì để nói ? Im lặng, ông hít nhiều hơi thuốc dài... Thấy sao “người đối thoại” của nó làm thinh, thằng nhỏ quay đầu nhìn lại. Bây giờ nó mới thấy tấm bảng ông đeo trước ngực. Nó ngạc nhiên: - Ủa ! Ông còn bán cái giống gì nữa vậy ? - Thì... cháu đọc coi. - Cái... “liêm” ... Cái “liêm sỉ” là cái gì vậy, ông Hai ? - Ờ... Cái liêm sỉ là... (Ông ngập ngừng tìm lời để giải nghĩa) Là ... Là cái mà thiên hạ ai cũng quí trọng hết. Người ta coi nó có giá trị như... có giá trị như... - Như hột xoàn hả ông Hai ? - Ờ ! Đại loại như vậy. Thiên hạ cho rằng người nào có cái liêm sỉ cũng thấy sáng ngời không kém. Nổi tánh tò mò, thằng nhỏ chùi vội hai tay vào một miếng giẻ cũng dơ như tay của nó, rồi xoay hẳn người lại, hâm hở: - Ông Hai cho cháu coi một chút được không ? Từ cha sanh mẹ đẻ cháu chưa nghe nói tới cái liêm sỉ bao giờ, chớ đừng nói thấy. - À cái này không có coi được. Lớn lên rồi cháu sẽ biết. Thằng nhỏ tiu nghỉu, quay trở về công việc mà nghĩ: “Chắc là đồ xịn lắm nên ổng sợ !” Có hai thanh niên dừng lại bơm bánh xe. Cả hai đều đọc bảng treo trước ngực ông X. M ột anh hỏi anh kia: - Cái liêm sỉ là cái gì vậy mậy ? Thằng nhỏ nói hớt, vẻ sành sỏi: - Là đồ nữ trang loại xịn. Mắc lắm đó ! Ông X mỉm cười, chua chát nghĩ: “Chế độ đâu có dạy con người phải có liêm sỉ. Bây giờ, chỉ thấy học đấu tranh, học hận thù, học giết chóc... chớ đâu thấy học làm người có đạo đức, trọng lễ nghĩa để mà biết liêm sỉ là gì ? ‘’ Một anh bộ đội, nón cối nghiêng nghiêng, tấp Honda vào hỏi mua “săm” xe đạp. Thằng nhỏ nói: “Sửa xe chớ không có bán đồ phụ tùng”. Chờ cho anh bộ đội đi khuất, nó quay lại cười cười nói với ông X: - Ruột xe thì nói ruột xe. Mấy chả nói “săm”. Hồi đầu cháu đâu có biết. Cháu chỉ qua bà xẩm bán nước sâm ở bên kia đường. Thấy cười quá ! Họ nói tiếng gì đâu không hà ! Một thanh niên chở một ông già, ngừng lại nhờ thằng nhỏ siết lại cái đầu bàn đạp. Sau khi nhìn ông X, anh thanh niên hỏi nhỏ ông già: - Liêm sỉ là cái gì hả ông nội ? Ông già tằng hắng rồi nói, giọng nghiêm trang: - Là cái mà nó bắt con người ta phải cẩn thận trong suy tư trong hành động. Nó không cho con người ta làm bậy làm quấy, làm sai đạo lý. Nó bắt con người ta phải biết xấu hổ khi có ý xâm phạm thuần phong mỹ tục. Quí lắm, con thấy không ? Vậy mà thời buổi bây giờ có mấy ai biết nó là gì... Trả tiền xong, người cháu đợi người ông ngồi đàng hoàng vững chãi trên pọt-ba-ga rồi mới đạp đi. Ông già quay đầu nhìn lại ông X, giống như nhìn một món đồ cổ !
Mặt trời đã lên cao. Cây me già cạnh đó đổ bóng mát rượi xuống chỗ “hành nghề” của thằng nhỏ. Gió thổi hiu hiu. Lá me lăng tăng rụng... Một ông già râu tóc bạc phơ đạp xe lọc cọc ghé vô nhờ sửa cái thắng. Sau khi... “kiểm tra” lại bộ phận, thằng nhỏ gãi gãi đầu mặc dù tay nó dơ hầy: - Cha... Vụ này hơi lâu à ông Hai. Cũng năm mười phút à ! - Không sao. Tao đợi. Tao thiếu gì thì giờ. Nó vội vàng lật úp cái thùng gỗ còn lại, đặt gần chỗ ông X: - Ông ngồi đây. Có ông Hai này ngồi bán xe, từ sáng giờ không thấy ai hỏi hết. Chắc cũng buồn ! Đó là cách nó giới thiệu để hai người dễ dàng bắt chuyện với nhau, nếu muốn. Ông già ngồi xuống, gật đầu chào ông X, rồi móc bọc thuốc rê, mời: - Ông vấn một điếu chơi. - Cám ơn. Tôi có đem theo thuốc vấn sẵn ở nhà. Ông X lấy trong túi ra hộp thiếc giẹp màu vàng (loại đựng thuốc điếu 555 ngày xưa) móp méo trầy trụa, mở ra mời lại: - Ông hút thử thứ này coi. Ông già cất bọc thuốc vào túi lấy một điếu của ông X để lên môi, đốt. Ổng hít mấy hơi thật dài rồi gật gù: - Ùm... Một phần Lạng Sơn hai phần Gò Vấp. - Đúng ! Ông rành quá ! - Một đời hút thuốc mà không rành sao được, ông bạn. Hai người im lặng thở những hơi khói dài. Giờ đó, đường cũng vắng, chỉ nghe tiếng lách cách sửa xe của thằng nhỏ. Một lúc lâu sau, bỗng ông già tằng hắng rồi nheo mắt nhìn thẳng ông X, giọng ôn tồn: - Ông bạn à. Tôi nghĩ nếu ông bạn còn chút liêm sỉ thì nên dẹp tấm bảng bán liêm sỉ của ông đi. Chỉ có phường vô liêm sỉ mới khoe khoang khoác lác rằng ta là thế này, ta là thế nọ, ta hơn thiên hạ về đủ mọi mặt vv…. Sự thật, họ không có gì hết. Bọn vô liêm sỉ đó đã chà đạp mọi giá trị tinh thần của con người, đã chối bỏ truyền thống đạo đức của ông cha để lại từ không biết mấy ngàn năm. Ông X im lặng gật gù nghe. Ông già ngừng một chút để hít mấy hơi thuốc. Rồi tiếp: - Ông bạn à. Tôi tin rằng ông bạn là người có liêm sỉ. Trực giác cho tôi thấy như vậy. Bây giờ, đem rao bán cái liêm sỉ, ông bạn có thấy đó là hành động thiếu suy nghĩ không ? Nói khùng mà nghe, giả dụ ông bạn có bán được cái liêm sỉ, ông bạn sẽ “trắng tay”. Không còn liêm sỉ nữa thì ông bạn sẽ thành cái gì ? Ông già ngừng ở đó, nhìn ông X một chút rồi nói gằn từng tiếng: - Ông bạn sẽ là thằng-vô-liêm-sỉ ! Đến đây, thằng nhỏ đã sửa xong cái thắng. Ông già đứng lên chào ông X, trả tiền rồi đạp xe đi thẳng. Hút tàn điếu thuốc, ông X thở dài, đứng lên tháo hai miếng cạc-tông cho vào túi xách. Thằng nhỏ ngạc nhiên: - Ủa ! Bộ ông Hai về hả ? - Ừ ! - Sao về sớm vậy ? - Ừ ! Về sớm. Ông X nói bằng một giọng trống rỗng. Thằng nhỏ ân cần dặn: - Ông Hai cẩn thận nghe ! Coi chừng tụi nó giựt cái liêm sỉ à. Mấy thằng lưu manh nó giựt bóp của người ta hoài, hà ! Ông X làm thinh đạp xe đi, bỗng nghe như cái liêm sỉ của ông nó nặng như chì. Vậy mà bao nhiêu lâu nay, ngày ngày ông vẫn còng lưng cõng nó để đi tìm một chân trời, một lối thoát, một chút ánh sáng ở cuối con đường hầm … !
Tiểu Tử
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Sep/2011 lúc 1:04pm
GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN
Trà Lũ
.....
Tiền có thể mua được căn nhà nhưng không mua được một tổ ấm Tiền có thể mua được đồng hồ nhưng không mua được thời gian Tiền có thể mua được giường quý nhưng không mua được giấc ngủ Tiền có thể mua được sách nhưng không mua được kiến thức Tiền có thể mua được bác sĩ nhưng không mua được sức khoẻ Tiền có thể mua được chức quyền nhưng không mua được sự kính trọng Tiền có thể mua được máu nhưng không mua được sự sống Tiền có thể mua được tình dục nhưng không mua được tình yêu.
.......
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 28/Sep/2011 lúc 10:46am
ĐÂU LÀ THIÊN ĐƯỞNG NƠI TRẦN THẾ ?
Tác giả Dương Quỳnh Khanh vừa từ Việt Nam sang du lịch Mỹ thăm con gái. Sau ba tháng thăm đất nước hợp chủng, bài viết ngắn sau đây cho thấy cách nhìn trân trọng bà dành cho nước Mỹ và người Việt ở Mỹ.
Sau bao năm cầu xin, tôi đã được hưởng một phép lạ do Chúa ban tặng. Đó là lần phỏng vấn thứ ba, tòa Tổng Lạnh Sự Mỹ ở Saigon đã chấp thuận cấp visa cho tôi đi Mỹ thăm con gái và con rể. Lần thứ ba này, con rể người Mỹ đứng ra bảo lãnh và kèm theo một thư cam kết. Hai lần bị từ chối trước làm cho tôi nản lòng, vì lý do không có tài sản, không có gì ràng buộc với Việt Nam . Nay, nhờ con rể người Mỹ bảo lãnh, việc cam kết tôi không có lý do gì lưu trú tại Mỹ có vẻ đáng tin hơn. Nhận được visa, tôi quýnh quáng không biết sẽ đem gì, mua gì làm quà cho con, rồi ngày đi đến nhanh. Đặt chân trên đất Mỹ vừa đúng 12 giờ đêm ngày Chúa Nhật, làm thủ tục khám xét xong xuôi, hải quan phi trường cho phép tôi ở Mỹ sáu tháng. Đẩy hành lý ra, gặp hai vợ chồng con gái đang đứng đón, lòng bồi hồi cảm động nhớ thương đã làm tôi bật khóc như một đứa trẻ. Từ phi trường Los Angeles chạy về Oceanside nơi con tôi ở đúng 2 tiếng lái xe. Trên đường về ban đêm, xe nối đuôi xuôi ngược, đèn sáng đỏ chạy dài trên con đường có dạ quang như dải lụa đen đính kim tuyến. Nhờ đèn nên quang cảnh ban đêm thật đẹp, bên ngoài trời về đêm không khí dễ chịu. Hai tiếng giản dị Nước Mỹ, nơi mà người ta thường gọi là Thiên Đường, là một đất nước tự do đã cưu mang gần hai triệu người Việt, trong đó có con gái, em gái tôi. Thiên Đường, hai tiếng giản dị vậy mà có một sức hút lạ kỳ. Với những người phải sống trong cảnh bất công, tù ngục thì nước Mỹ đúng là một thiên đường ở ngay trên mặt đất. Nhưng không phải ai cũng dễ dàng đặt chân đến vì đó là một nơi xa vời vợi, người dân bình thường, không họ hàng, không thân thích, không ai bảo lãnh có tiền cũng khó mà tới được. Nhớ lại 32 năm về trước, bao triệu người ra đi bỏ lại đằng sau tất cả những gì đã có, bỏ lại họ hàng, anh em, cha mẹ, bạn bè, họ đã tìm đủ mọi cách ra đi, tìm cái sống trong cái chết. Để có thể lên đường tìm tự do, tìm thiên đường, họ đã phải đánh đổi nhiều thứ, từ làm mồi cho cá biển tới thân bị tù tội, nhà cửa bị tịch thu. Hành trình của người Việt tìm tự do còn tiếp diễn nhiều năm sau này. Biết bao xương cốt thuyền nhân Việt vẫn nằm sâu dưới đáy biển, dưới lòng sông. Những đồng đô la quí giá Gần hai triệu người dân Việt giờ đây đã an cư lạc nghiệp tại xứ Mỹ. Ngay từ buổi đầu, khi tới được nước Mỹ, hầu hết họ đều nghĩ tới những thân nhân còn lầm than ở quê nhà, ai nấy phải làm lụng vất vả dè sẻn để gửi tiền về quê hương giúp cha mẹ, anh chị em. Khi ổn định họ lại tìm cách bảo lãnh cha mẹ, anh em, vợ con đến xứ sở an toàn đầy đủ nhưng không kém phần vất vả. Còn nhớ, những ngày khốn khó ở quê nhà, khi nhận được những đồng đô la quý giá từ tay con gái tôi gởi về tôi cảm động lắm. Con gái tôi gởi tiền về cho gia đình không bao giờ than vất vả khó nhọc, nhưng tôi được nghe nhiều người kể về xứ sở xa xôi đó. Sáng sớm tinh mơ, cơm đùm cơm nắm mang theo để ăn trưa, chiều tối về ăn cơm nhà, ai cũng như ai tằn tiện chính bản thân, để rồi mỗi lúc thân nhân quê nhà cần tiền thì sẵn sàng gởi về giúp đỡ, không đắn đo, không than thở. Đồng đô la từ Mỹ gửi về quê nhà quý giá vô cùng, vì đó là quá trình lao động mồ hôi nước mắt của thân nhân mình, nó nâng đỡ nhiều gia đình khó khăn hoặc nâng đỡ hỗ trợ nhiều cơ quan từ thiện, từ chùa chiền cho đến nhà thờ. Nhưng cũng do đồng đô la này, lòng tham đã làm cho nhiều gia đình bất hòa. Tại Việt Nam , người nhận từng giành giựt hơn thua, kẻ ít người nhiều, đâm ra giận hờn từ bỏ nhau. Tại Mỹ cũng có nhiều cảnh ngộ, vợ chồng chia tay cũng vì gởi không đồng đều giữa hai gia đình nội ngoại. Đồng đô la quý giá nhưng cũng gây ra lắm cảnh đau lòng, nguyên nhân chỉ là do con người ích kỷ mà ra. Người nhận được dola vui vẻ bao nhiêu thì thân nhân ở Mỹ phải nỗ lực vất vả bấy nhiêu. Hôm nay tôi có mặt ở đất nước này thuộc diện du lịch thăm con, được con chở đi chơi nhiều nơi, nhận thấy đúng là xứ sở văn minh tiến bộ mà làm biết bao người thèm muốn, nó sạch đẹp làm sao! Ngoài đường phố không có trẻ em, thanh niên, thiếu nữ đi nghểu nghến, chỉ có nhà hàng ăn, quán bar, shop, mới thấy họ ăn uống, mua sắm ở nơi đó mới thấy mặt trẻ em, ngày thường cha mẹ tất bật, các trẻ nhỏ đều vào trường vào lớp, chúng không quấy rầy cha mẹ. Xã hội Mỹ luôn tạo điều kiện cho con người biết tự lập, tự vươn lên không ỷ lại, không dựa dẫm. Dù cha mẹ giàu có, mười tám tuổi trở lên tự lập thân, tự tìm việc chúng có thể trở thành cô bán hàng, hay cậu thanh niên bưng bê phục vụ cho khách, làm đủ mọi nghề. Ở đây người Phi, người Mễ, người Việt rất chịu khó, không việc gì họ từ, miễn là kiếm được việc, kiếm được tiền, họ gởi về giúp thân nhân, giúp đất nước mỗi năm hàng trăm triệu dola. Đồng dola đã quý, lòng người nhân ái càng quý hơn. Nước Mỹ là đất hợp chủng, gồm đủ mọi sắc dân. Đất nước nào bị thiên tai, chính phủ Mỹ, dân Mỹ đều sẵn sàng giúp đỡ từ tiền bạc, áo quần, thực phẩm cho đến thuốc men. Ba tháng ở thiên đường Vùng con tôi ở là một thành phố trên đồi cao và gần biển, những con đường rộng thênh thang chia nhiều làn xe thẳng tắp chạy dài hoặc quanh co uốn lượn chẳng khác nào màng nhện nhưng có lớp lang thứ tự. Hè ở đây khí hậu nóng như Việtnam. Hai hôm sau con tôi nghỉ phép, chở tôi đi chợ. Đến các gian hàng, các cửa hiệu, tôi như choáng ngợp, nó rộng rãi to lớn, hàng hóa nhiều vô kể, trang trí bày biện ngăn nắp hấp dẫn, mải mê ngắm nhìn chọn lựa, tôi như người dân quê ra tỉnh, sự quê mùa bộc lộ rõ nét của người mới tạm nhập cư. Đến hôm nay tôi ở đúng 3 tháng, các con chở đi chơi nhiều nơi. Đứng trên cao nhìn bao quát biết bao danh lam thắng cảnh, nơi nào cũng bao phủ bởi màu xanh cây cỏ, hoa lá tươi mát. Nhà cửa khắp nơi xây cất gần giống nhau màu sắc trang nhã, bên trong thiết kế tiện nghi, thuận lợi. Hiện nay người Việt tại Mỹ cần cù chăm chỉ, ăn nên làm ra thành đạt được sống trong tự do nhân quyền, họ đã khẳng định nước Mỹ là quê hương thứ hai, không thấp thỏm lo âu bị ai tước đoạt tài sản, không lo sợ khống chế tự do nhân quyền do đó họ sống thật bình yên. Tôi chưa thấy bóng dáng thiên đường trên cao nhưng đất nước nào giàu có, dân sống sung sướng lạc quan, không sợ hãi, không lo âu thì đó là thiên đường. Nhìn người mà ngẫm đến ta, lòng cứ quặn đau, đi chơi mà niềm vui không trọn vẹn. Biết đến bao giờ những nước lạc hậu bảo thủ, trong đó có nước tôi, thoát khỏi cảnh bất công, đói nghèo để được hưởng một chút thiên đường nơi trần thế.
Dương Quỳnh Khanh
http://caonienbachhac2011.blogspot.com/2011/09/tim-au-thien-uong-duoi-tran-ai.html#more -
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Oct/2011 lúc 8:22am
TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH
Nguyễn Thị Thanh Dương
http://lh6.ggpht.com/_GCV8JmbCFqI/TQedXq0cR2I/AAAAAAAAF9k/YTfqPfsCBOg/s1600-h/g%C2%A1od%20morning%20canh%20hoa%5B2%5D.gif">
- Where are you, Andy, Jimmy? Come back here. Hurry up! Tôi ngẩn người khi vừa nghe ai đó gào to giữa chợ một tràng tiếng Anh với âm hưởng đầy chất Việt Nam. Nhưng tôi không ngạc nhiên vì tiếng gọi con khơi khơi giữa chợ như ở giữa sân nhà chị ta, mà vì tôi thấy cái giọng nói này quen quen, lâu lắm rồi tôi mới được nghe lại. Tôi hướng theo tiếng nói đó và trông thấy đúng là một người đã quen, liền bước vội lại, nhìn kỹ hơn và không khỏi reo mừng: - Ủa! Bông đó hả Bông? Bông nhìn tôi, cũng mừng rỡ không kém. nhưng nó hạ thấp giọng chứ không gào rổn rảng như hồi nãy: - Bông hoa gì! Bây giờ tao tên là Barbara rồi. Nhớ nghe, đừng gọi là Bông nữa, quê lắm.
- Ủa Bông…À quên Barbara, mày không còn tên là Lê thị Bông nữa hả? - Đã bảo tao đổi tên là Barbara rồi mà, Barbara Le, hiểu chưa? Họ Lê, không có dấu thành Le, mày muốn hiểu là..Le te hay Le lói gì cũng được. Hồi năm ngoái, thi đậu quốc tịch, đổi tên luôn, dù gì cũng…lên chức công dân Mỹ rồi. Lúc đó, hai thằng con chạy lại, chắc vừa chạy đuổi nhau trong chợ nên cả hai đứng thở không ra hơi. Bông tiếp tục cho hai thằng con một bài học ngay giữa chợ bằng tiếng Anh của mình: - What were you doing over there? I told you not to… Bông khựng lại, quay ra hỏi nhỏ tôi: - Chữ “quậy phá tùm lum” tiếng Anh là gì hả? Tao muốn nói với tụi nó là không được quậy phá tùm lum trong chợ người ta. - Tao…không biết, để chốc về nhà tao dò tự điển.. - Trời ơi, tao cần ngay bây giờ. Hồi xưa học chung ESL với mày, tao thấy mày biết nhiều từ ngữ lắm mà. - Nhưng ai mà học cái từ “quậy phá tùm lum”này. Đùng một cái, mày hỏi, chữ ở đâu mà ra lẹ vậy? - Thôi được… Bông quay ra hai thằng con, cao giọng: - Do not do that any more. OK ? Hai thằng con hiểu ý mẹ, đứng yên.Tôi phục Bông sát đất, không cần biết nhiều từ, vẫn giải quyết được vấn đề, vẫn nói tiếng Anh cho người khác hiểu như thường. Giống như trường hợp một người bạn của tôi, bảo lãnh thằng em sang Mỹ, tiếng Anh nó biết lõm bõm và chủ yếu chỉ cần hai từ “This,That” mà được việc. Ông anh giao cho thằng em trông coi một cửa hàng bán cá kiểng. Khách hàng muốn mua gì, thì anh ta chỉ vào từng món và hỏi: - This one?. Nếu không phải, liền chỉ sang cái khác: - That one?. Cuối cùng cũng bán đúng món hàng mà khách muốn mua, mà không cần biết loại cá ấy, loại thức ăn cho cá ấy tên gì. Tôi hỏi Bông: - Nếu không thể nói bằng tiếng Anh, sao mày không nói tiếng Việt Nam cho tiện? - Trời ơi, tao kỵ nói tiếng Việt Nam với con tao, phải để tụi nó giỏi tiếng Anh chứ, chêm ba tiếng Việt vô làm gì, cho tụi nó nhức đầu! Hồi xưa, tao với mày học ESL khổ cực thế nào! Tôi nhớ hồi mới sang Mỹ, gặp người Mỹ nói chỉ …mỉm cười, đó là kế “ hoãn binh” để đoán mò xem họ nói gì và suy nghĩ câu trả lời. Hên thì trúng. Có khi bế tắc, họ đi rồi mới chợt hiểu ra hay đoán mò ra, chẳng lẽ lại gọi “Ông ơi, bà ơi tôi hiểu rồi. Lại đây tôi trả lời cho mà nghe nè…” Và một chuyện tôi còn nhớ đời, tôi làm tại một hãng ráp đồ điện tử, rất chăm chỉ, kỹ lưỡng. Một hôm tôi vừa bóc miếng gum cho vào miệng nhai thì ông cai trông thấy, nhưng không nói gì, cũng đã làm tôi lo ngay ngáy, vì luật hãng cấm ăn uống trong giờ làm việc. Hôm sau, tôi bị gọi lên văn phòng ông manager, cõi lòng tôi tan nát, phen này coi như tôi bị đuổi việc. Nhưng ông Manager mời tôi ngồi, nói chuyện rất thân thiện, ông nói gì, trình độ tiếng Anh ESL của tôi làm sao mà hiểu nổi. Nhưng để đáp lại tấm lòng tử tế của ông, mỗi câu nói ông đợi tôi trả lời, tôi đều nói OK với tất cả lòng…biết ơn, không ngờ người Mỹ tử tế thế, công nhân có lỗi mà họ khiển trách rất lịch sự, dịu dàng. Một tuần lễ sau, ông cai đưa tôi một tờ giấy, ghi rõ tôi sẽ đổi sang làm ca tối bắt đầu từ tuần tới, tiếng Mỹ tôi nghe không rành, nhưng đọc là tôi hiểu liền. Tôi thắc mắc quá, khi không họ đổi tôi xuống ca tối mà không hỏi ý kiến tôi gì cả? mà chỉ một mình tôi bị đổi, hay họ trừng phạt tôi về tội vi phạm kỷ luật đã ăn trong giờ làm việc hôm nọ? Mấy người bạn Việt Nam làm cùng ca cũng xúm vào bàn luận, cho là tôi bị “trả thù”, bị “xâm phạm quyền tự do dân chủ”, bị “kỳ thị”v..v.. Tôi bèn nhờ một anh giỏi tiếng Anh dẫn lên gặp ông Manager để khiếu nại, với bộ mặt đưa đám và xưng xỉa. Thì ra, hôm ông Manager nói chuyện với tôi, là ông đã khen tôi làm việc giỏi, ông hỏi ý tôi có thể chuyển xuống ca tối không vì họ đang cần một người thợ giỏi như tôi, và ông sẽ lên lương cho tôi 50 cent một giờ. Tất cả, tôi đều OK vui vẻ. Ông đã cảm ơn sự hợp tác “mau lẹ” của tôi. Tôi trở về thực tế nói với Bông: - Mình khác, tụi nhỏ khác. Mình qua đây lớn tuổi rồi, tiếng Việt Nam đầy đầu, chỗ đâu mà vô tiếng Anh? Còn tụi nó sinh đẻ ra ở đây, lớn lên ở đây. Lo gì? - Sống ở Mỹ phải Mỹ hoá mày ơi, vợ chồng tao đều vô quốc tịch Mỹ, hai con sanh ra tại Mỹ. Cả nhà Mỹ hết trơn rồi. Thôi mày cho tao địa chỉ, bữa nào đến nhà chơi, mấy năm nay mới gặp lại mà, bây giờ tao đi kiếm lọ mắm tép chua đây. - Ăn món gì vậy? - Bánh tráng cuốn thịt heo luộc với mắm tép chua, rau thơm, ngon hết biết! Nói xong Bông dắt hai con ra thẳng quầy nước mắm, nước tương. Chiều nay về nhà, cái gia đình Mỹ hoá ấy, nói toàn tiếng Anh ấy, gia đình bà Barbara Le, sẽ tha hồ thưởng thức món mắm tép chua, đặc sản của Việt Nam, chẳng liên quan đến Mỹ một tí nào. *** **** Nghe tiếng chuông reo, thằng Cu Tí của tôi chạy ra mở cửa, Cu Tí nói: - Mẹ cháu đang ở trong bếp, mời hai bác vào nhà. Tôi vội vàng lau tay, bước ra phòng khách, đó là gia đình chị Bông: - Mời cả nhà ngồi chơi. Cu Tí, con lên lầu nói ba xuống có khách nhé! - Dạ, để con lên gọi Ba. Cu Tí nhanh nhẩu chạy đi, Bông ngạc nhiên: - Mày dạy nó nói tiếng Việt rành quá vậy? Bông ái ngại tiếp: - Nói giỏi tiếng Việt là ảnh hưởng đến tiếng Anh đó. Mai mốt lên Đại học, nó sẽ lúng túng cho mà xem. Chồng của Bông ngắt lời vợ: - Em chỉ lo xa - Anh ta phân bày với tôi - bà ấy sợ con dở tiếng Anh, nên không cho tụi nhỏ học tiếng Việt đã đành, mà còn ra luật lệ là ở nhà vợ chồng phải nói tiếng Anh khi có mặt hai con. Thiệt tình bực mình hết sức, nhưng bả thích thì chiều, không lẽ cãi lộn tối ngày vì vụ này?. Thà mình nói giỏi tiếng Anh, mình dạy nó, không sao. Đằng này mình nói thì chậm, âm hưởng thì sặc mùi Việt Nam, người Mỹ nghe có khi còn hoang mang không hiểu gì cả, thì dạy cái nỗi gì? - Coi như mình…dợt tiếng Anh cho chính mình đi. Bông bướng bỉnh giữ vững lập trường của mình. Chồng Bông phân bày: - Thằng Andy đó, mới 9 tuổi đầu mà đã nói với mẹ nó khi nào con 18 tuổi sẽ ra khỏi nhà sống tự lập một mình, thấy mẹ buồn, nó…gia hạn thêm một năm nữa là 19 tuổi. Em vẫn muốn các con sống với em theo phong tục, tập quán người Việt Nam, con cái gần gũi, gắn bó với gia đình với cha mẹ, anh em, nhưng tiếng Anh đâu mà giảng giải cho tụi nó hiểu? còn tiếng Việt thì chúng nó lại không biết gì. Hiểu ngôn ngữ mẹ đẻ cũng sẽ hiểu được tập quán quê hương đó. Chồng tôi ra tới phòng khách, hai ông bạn cũ gặp nhau, mừng rỡ. Trước đây hai gia đình ở cùng một apartment, cùng một hoàn cảnh mới qua Mỹ, nên chúng tôi chơi với nhau khá thân. Sau này vợ chồng Bông dọn đi thành phố khác và mất liên lạc, nay mới gặp lại. Thằng Andy, Jimmy thì nhanh chóng làm bạn với Cu Tí, Cu Tèo nhà tôi, cùng lứa tuổi, nên chúng nói chuyện, đùa vui thoải mái. Bông kín đáo, để ý đến bọn trẻ, và thốt lên: - Bốn đứa nói tiếng Anh, nghe mà sướng cả tai.Tao cứ tưởng là… - Tưởng Cu Tí, Cu Tèo biết nói tiếng Việt thì dở tiếng Anh chứ gì? Đấy mày xem, có dở đi tí nào không? Chồng Bông lại được dịp phân bày: - Tôi nói hoài mà bà ấy không nghe.Tháng rồi cả nhà mới về Việt Nam, hai thằng con thật khổ vì không hiểu và nói đựoc tiếng Việt, được ông bà, chú dì xúm vào hỏi chuyện, nhưng tụi nó cứ ngố mặt ra, thiếu điều muốn khóc, mẹ nó phải đứng ra thông dịch cho đôi bên, rồi chúng e ngại khi đối diện với họ, vô tình mà chuyến đi chơi xa, về quê hương của chúng mất hết ý nghĩa và hứng thú. Hai đứa đều nói lần sau không về Việt Nam nữa… Bông khoe: - Vậy mới vui chớ, bà con thấy hai thằng nhỏ nói ngọng ngiụ vài chữ tiếng Việt cũng không xong, họ cười rần rần, cứ hỏi cho nó nói…lung tung chơi. Ai cũng nói tụi nó thành Mỹ con rồi Hai đứa nó thèm ăn hamburger, sáng sớm mấy bà dì phải xách xe chạy ra phố mua hamburger và sữa tươi cho chúng. - Tại em bày đặt, muốn mọi người đối xứ với chúng như đối xử với người Mỹ, chứ chúng nó không có hamburger cũng không chết đói. Có bữa bà Ngoại cho tụi nó ăn bánh cuốn, mỗi đứa xơi hết một dĩa đó. - Theo tôi cứ tập cho các cháu nói tiếng Việt, ăn đồ Việt, càng hay chứ sao. Chồng tôi góp ý. Chồng Bông tuôn ra những ấm ức mà anh tin rằng có người nghe và đồng tình: - Biết thêm một ngôn ngữ là phong phú thêm cho đời sống, huống chi đó là ngôn ngữ của quê hương, dân tộc mình. Không thấy người Hoa đó sao? hồi ở Việt Nam, tôi thấy có những trường dạy tiếng Hoa cho người Hoa. Họ làm ăn, sinh sống trên đất Việt, thậm chí lấy vợ, lấy chồng Việt Nam, nhưng vẫn không để con cháu quên ngôn ngữ dân tộc của họ, nguồn gốc của họ. Tôi tán thành: - Điều này rất đúng, hồi tôi qua Canada chơi, dạo phố Tàu ở Toronto, thấy những thanh niên người Hoa đứng rao hàng ơi ới bằng tiếng Việt Nam, nhưng khi gặp khách hàng người Canada, họ đổi sang nói tiếng Anh lưu loát. Vậy mà lát sau lại thấy họ nói chuyện với đồng hương bằng tiếng Hoa ngon lành. Họ biết ba ngôn ngữ, thật là tiện dụng và hữu ích. Chồng tôi tiếp lời: - Chưa biết chừng gặp khách hàng dân QueBec, họ lại nói tiếng Pháp nữa đấy. - Trong các nhà hàng, chợ búa người Việt Nam, ngoài tiếng Việt, các cô thu ngân, bồi bàn nếu cần lại nói tiếng Anh với khách hàng đó thôi. Biết hai, ba ngôn ngữ càng dễ giao thiệp, dễ xin việc làm. Chồng Bông bổ sung thêm. Chồng tôi dung hoà: - Thật ra, chúng ta đang sống ở Mỹ, nói tiếng Mỹ, sống theo phong tục Mỹ là điều rất đúng. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng nên duy trì những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình, ngôn ngữ là cây cầu nối tuyệt vời nhất. Chúng không thể yêu quê hương nếu không nói và hiểu được tiếng Việt. Thử tưởng tượng anh David Nguyễn hay cô Tammie Trần nào đó, dù họ sinh ra và lớn lên ở Mỹ, thành công ở Mỹ. Nhưng nhìn họ, người ta biết ngay là người Mỹ gốc Châu Á, gốc Việt Nam, thì không thể nào họ phủ nhận được nguồn gốc của mình. Tôi nói với Bông: - Tao mong cho Cu Tí, Cu Tèo của tao giỏi tiếng Việt càng tốt, chúng nó mới chính là người dạy tiếng Anh cho vợ chồng tao. Sau này trong cuộc sống, sẽ có nhiều dịp cần nó thông dịch, giảng nghĩa cho mình đấy. Bông ậm ừ: - Mày nói cũng có lí, để từ từ tao tính… Khi hai vợ chồng Bông chuẩn bị ra về, Bông gọi hai con: - Andy, Jimmy. Come here! Go home! Bông chợt ngại ngùng sửa lại: - Andy, Jimmy! Lại đây con! Con chào hai bác đi! Hai đứa nhìn mẹ, ngẩn tò te. Chắc chúng ngạc nhiên vì lần đầu tiên nghe mẹ nói tiếng Việt Nam với chúng trước mặt người khác? Thằng Cu Tí thấy chúng ngẩn ngơ, chịu không nổi, lanh chanh xen vào: - Say good bye to my mom, my dad. Andy, Jimmy hiểu ra, chúng chào chúng tôi: - Good bye! Gia đình người Mỹ gốc Việt Lê thị Bông, tức Barbara Le ra khỏi nhà tôi.Tôi hi vọng rằng một ngày nào đó hai thằng “ Mỹ con” kia sẽ không còn nghệt mặt ra với đồng hương của mình nữa. Chúng sẽ nói và hiểu được tiếng Việt Nam.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Oct/2011 lúc 8:09am
Bữa trưa trên thiên đường
http://www.youtube.com/watch?v=SDziATv2BVI -
Liu Xiaoyu, một sinh viên thuộc học viện nhiếp ảnh Hebei, đã trực tiếp sản xuất bộ phim này với đủ các vai trò như nhà viết kịch bản, đạo diễn, quay phim và xử lý hình ảnh. Tất cả chi phí của bộ phim chỉ là 30$ (600.000 VND) và được sử dụng chủ yếu trong phần trang phục Sau khi bộ phim được hoàn thành, Liu đã hỏi ý kiến của cha mẹ cậu như là những người khán giả đầu tiên và: "Khi tôi thấy mẹ tôi không thể ngăn những giọt nước mắt lăn dài, trái tim tôi như đang bay trên không trung bởi tôi biết tôi đã thực sự hoàn thành nó", Liu tâm sự. Bộ phim ngắn có độ dài chỉ hơn 6 phút này kể về một chàng trai vốn luôn xấc xược và hỗn hào với người mẹ già cả, ốm yếu nhưng cần cù làm lụng và rất yêu thuơng cậu. Rồi một ngày, cậu chuẩn bị một bữa ăn thật thịnh soạn và phong phú để cùng ăn với mẹ mình....
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 14/Oct/2011 lúc 8:19am
Bác Gái, Vợ Một Nhà Văn Yêu Nước (1) Phan Ni Tấn
Cuối năm 1978 từ trong một trại tù cải tạo trên cao nguyên tôi may mắn vượt ngục về tới Sài Gòn sống đúng nghĩa của một phường trôi sông lạc chợ. Hằng ngày vào những buổi trưa tôi uống nước phông-tên ngoài công viên lấy no và ăn mì quốc doanh vào những buổi chiều tối tại nhà một người bạn để cầm cự qua ngày. Ban đêm tôi đi lang thang ngủ bờ ngủ bụi ở bất cứ chỗ nào tôi cảm thấy an toàn.Một buổi tối, chị em cô K.O, chủ quán café Banmê bên Thị Nghè có tổ chức một buổi hát chui với một số anh em văn nghệ sĩ quen biết còn sót lại ở Sài Gòn. Khoảng 9 giờ tối quán đóng cửa không tiếp khách. Sau lưng cánh cửa khóa, chúng tôi bắt đầu hát những bài tình ca đôi lứa, tình ca quê hương và những ca khúc đấu tranh, rồi vừa thưởng thức café, uống trà nóng vừa tán dốc đủ thứ chuyện trên trời dưới đất từ chuyện tiếu lâm đến chuyện vượt biên. Chúng tôi có nhắc đến nhà văn Mai Thảo, vợ chồng Nhã Ca-Trần Dạ Từ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền... Quanh bàn tròn có mặt nhà văn Nguyễn Mộng Giác, nhạc sĩ Lê Uyên Phương, anh Thanh Tuệ (nhà xuất bản An Tiêm), nhà biên khảo Lê Huy Oanh, ba họa sĩ kiêm điêu khắc gia Phạm Văn Hạng, Trương Đình Quế, Nghiêu Đề và một số anh chị khác mà tôi không còn nhớ tên. *** Nửa khuya tan tuồng, lúc chia tay ra về cô Liên, con của nhà văn Doãn Quốc Sỹ vui vẻ hỏi tôi tối nay ngủ đâu, tôi cười cười nói có thể ngủ dưới chân cầu Bông (như tôi từng ngủ ngồi ở dưới đó và nhiều nơi khác; ngủ ngồi là ngủ gà ngủ gật có cái lợi là không bị chìm sâu trong giấc ngủ, lỡ có động tịnh gì cũng dễ bề thoát thân). Vợ chồng cô Liên thấy tôi tội nghiệp bèn đưa về nhà bố mẹ cô, tức ông bà Doãn Quốc Sỹ ngủ tạm qua đêm. (Mẹ của cô Liên là ái nữ của nhà thơ Tú Mỡ Hoàng Trọng Hiếu). Lúc đó nhà văn Doãn Quốc Sỹ đang bị giam ở trại giam Phan Đăng Lưu vì tội yêu nước và bị ghép vào thành phần "những tên biệt kích văn hóa" phản động. Đã 33 năm qua rồi tôi vẫn còn nhớ như in đêm tôi nằm co trên bộ salon màu huyết dụ trong phòng khách của Doãn gia. Trong khoảng không gian mờ tối tôi nhận ra bức tranh mộc bản Cây Tổ của họa sĩ Võ Đình khắc tặng nhà văn Doãn Quốc Sỹ treo trên vách đối diện. Bức tranh khắc cảnh con trâu bị chém treo ngành treo trên cây Tổ, bên cạnh một người đàn ông cụt chân chống nạng, con mắt long lên một ánh nhìn dữ dội. (Họa sĩ Võ Đình mất ngày 31-05-2009 tại Florida, Hoa Kỳ). Từ ngày du thủ du thực chưa có đêm nào tôi được ngủ yên và ngon giấc như đêm dưới mái ấm Doãn gia. Chỉ một đêm thôi và suốt đời tôi sẽ chẳng bao giờ còn có thể tìm lại một đêm ấm áp tình người nào khác. Thật ra nhiều tháng trước đó, một buổi tối tôi có ghé qua Doãn gia cùng các em trong gia đình đàn hát những sáng tác vừa cũ vừa mới của tôi đến khuya mới ra về (chẳng biết về đâu). Chắc ảnh hưởng đến tiếng tăm và sĩ khí của bố Sỹ nên cả nhà từ lớn chí bé đều một lòng hào sãng, cương trực và rất có tinh thần văn nghệ. Buổi sáng thức dậy tôi cúi đầu chào bác gái đang cùng Th. (thường gọi là chị hai) từ trên gác bước xuống. Vẻ mặt tươi tắn và ánh nhìn hiền từ của bác gái, bên cạnh dáng dấp thanh nhã, dịu dàng của Th. làm lòng tôi óng lên một niềm vui. Đúng lúc đó cái cô út ít nhỏ xíu trong nhà tự nhiên xẹt tới đứng trước mặt tôi đưa mắt nhìn một cái rồi te rẹt bước ra sau bếp, mất dạng. Cái nhìn dò hỏi đầy thơ ngây của cô út H. cho đến tận ngày nay tôi có cảm tưởng như ánh nhìn đó vẫn không chịu tắt trong tôi. Cô út dễ thương này coi bộ cũng đang cùng chàng trai tuấn tú nào đó ở đâu tuốt bên Hòa Lan nôn nả nắm tay nhau đi trên con đường tươi thắm. Sau đó chú em D.Q.Th. hoan hỉ kéo tôi ra quán cốc café ở đầu hẻm Thành Thái đãi một ly café đen đá ngon hết biết, ngon nhớ đời. Cho tới bây giờ đã 33 năm ròng rã trôi qua lòng tôi vẫn chật ních một mái ấm của Doãn gia, của bộ salon màu huyết dụ, của những ánh nhìn trìu mến, của ly café đậm đà tình người. Và từ lâu lắm, hình như từ cái thuở tôi chào từ giã Doãn gia ra đi mà suốt đời cũng không có dịp quay lại, tôi vẫn âm thầm chịu ơn những tấm lòng nhân ái này. Chịu ơn nhưng không biết làm sao mà trả ơn, hôm nay tôi viết xuống những lời lẽ này như một cách để ghi khắc trong lòng một người vừa mới qua đời, một người đàn bà già Việt Nam đúng nghĩa mẫu mực, đôn hậu, một người mà tôi vẫn âm thầm coi bà như là Mẹ của tôi. Ngày bà mất tôi cũng khóc lên một tiếng. (1) Bà Doãn Quốc Sỹ, nhủ danh Hoàng Thị Thảo, pháp danh Diệu Thảo sinh ngày 05 tháng 05 năm 1925 tại Hà Nội. Thất lộc ngày 08 tháng 09 năm 2011 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 86 tuổi.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 17/Oct/2011 lúc 8:24am
Lòng người là giấy, chứ không phải vàng đá
Là giấy nhưng sao người ta cứ nghĩ là vàng để đem đi thử lửa? Đến lúc cháy mất rồi lại thất vọng lòng dạ bạc đen?
Sao ta không hiểu rằng, bởi là giấy, nên cái cần và nên làm là chúng ta phải nâng niu, giữ gìn cho nhau để tránh khỏi nắng mưa của cuộc đời?
Tôi muốn được kể một câu chuyện:
Chuyện xưa kể rằng, có một đạo sĩ nổi tiếng thần thông, trong một lần ngao du sơn thuỷ, thấy một phụ nữ đang quỳ bên một ngôi mộ mới, vừa khóc vừa quạt.
Lấy làm lạ, đạo sĩ đến hỏi sự tình. Mới hay rằng, người dưới mộ là người chồng vừa khuất của thiếu phụ.
Ngán thay, trước khi chết có trăn trối lại rằng đến khi mộ khô thì người vợ trẻ hãy tái giá.
Người thiếu phụ vì thế mới ở đây, quạt cho mộ nhanh khô. Người đạo sĩ động lòng, mới hoá phép giúp cho thiếu phụ, ngôi mộ thoắt cái đã khô như những ngôi mộ cũ.
Người thiếu phụ vui vẻ cảm ơn đạo sĩ để về nhà, nơi người tình mới của mình mong đợi.
Người đạo sĩ về nhà, đem chuyện kể với vợ của mình.
Vợ của đạo sĩ chê cười người đàn bà kia thật bạc tình.
Được một thời gian, bỗng dưng người đạo sĩ mắc phải bạo bệnh, liệt giường và tạ thế.
Trước khi nhắm mắt mới trăn trối lại rằng hãy giữ quan tài đủ bảy bảy bốn chín ngày rồi hãy an táng. Người vợ khóc vâng lời.
Một ngày kia, có một người xưng là học trò đến xin ở lại chịu tang người đạo sĩ. Dung mạo người học trò thật khôi ngô tuấn tú. Thế rồi, chỉ ba ngày sau, người vợ đạo sĩ đã ăn nằm với người học trò.
Được bảy ngày sau, người học trò lăn ra ốm.
Bệnh ngày một nặng.
Người học trò mới nói với người vợ đạo sĩ rằng, ta mắc phải bạo bệnh, chỉ có ăn óc người mới khỏi được. Người vợ liền lấy vồ, bật nắp quan tài định đập vỡ đầu xác chết để lấy óc cho nhân tình ăn.
Nào ngờ, vừa bật nắp quan tài thì vị đạo sĩ tỉnh lại.
Người thiếu phụ quay lại thì chàng trai trẻ đã biến mất tự khi nào.
Mới hay, đó là do phép thuật phân thân của người đạo sĩ cao tay. Người vợ xấu hổ quá, mới tự tử mà chết.
Người đạo sĩ đó là Trang Chu (còn gọi là Trang Tử), cũng là một hiền triết của phương Đông chúng ta.
Câu chuyện đó, câu chuyện “vợ thầy Trang Chu” lưu truyền gần hai nghìn năm để chê cười cái gọi là “lòng dạ đàn bà”.
Ngày nay, lại có chuyện anh đảng viên nọ sau khi “hoàn thành kế hoạch” (hai con), mới giấu vợ đi đình sản.
Người vợ thì lại muốn sinh thêm con cho vui cửa vui nhà nên “tích cực cố gắng” mà mãi không thấy “kết quả”. Người chồng vẫn giấu vợ, thậm chí bởi vì cái khoản đình sản kia không ảnh hưởng đến khả năng đàn ông của anh, nên anh lại còn làm ra vẻ hăng hái “phụ giúp” vợ mình.
Thế rồi, một hôm người vợ vui vẻ thông báo những “nỗ lực cố gắng” của hai vợ chồng đã có “kết quả tốt đẹp”, cô đã có thai ba tháng.
Choáng váng, nhưng người chồng giấu đi để đi “kiểm định lại”. Kết quả biểu đồ của anh là 0%. Cuộc tiểu phẫu đình sản đã thành công tốt đẹp.
Ấy, cái câu chuyện thời nay cũng đang nói đến cái lòng dạ con người…
Lại có người lấy email giả, để chính mình chat và “thử lòng” người chồng mà mình hết mực thương yêu.
Để đến khi anh ta trở nên lạnh nhạt tình cảm vì cho rằng người vợ thiếu tin tưởng tình yêu của mình.
Rồi lấy bạn gái của mình để thử chồng, và rước đau khổ vào mình khi người chồng chẳng “trước sau như một”.
Còn bao nhiêu câu chuyện trớ trêu nữa mới đủ để chúng ta hiểu rằng, lòng người ta là giấy, chứ nào đâu phải vàng đá…
Vì là giấy, nên sao ta cứ nghĩ là vàng để đem đi thử lửa? Đến lúc cháy mất rồi lại thất vọng lòng dạ bạc đen?
Sao ta không hiểu rằng, bởi là giấy, nên cái cần và nên làm là chúng ta phải nâng niu, giữ gìn cho nhau để tránh khỏi nắng mưa của cuộc đời?
Sao ta không hiểu rằng, bởi là giấy nên đẹp xấu là do ta vẽ nên, tốt lành là do ta viết nên mà thù hận cũng là ta đặt bút. Sao ta không viết lời hay, vẽ lấy bức tranh yên bình để xây dựng, gìn giữ cái hạnh phúc mong manh của gia đình?
Tôi chẳng cho cách làm của thầy Trang Chu là hay, tôi chẳng cho người đảng viên kia là không có lỗi.
Tôi cũng chẳng ủng hộ việc thử lòng của các chị thời nay với email và các phương tiện khác.
Thời gian thì trôi đi, nhưng lòng người thì vẫn vậy thôi, vẫn là giấy.
Mà đá cũng mòn, vàng cũng phai, huống hồ là giấy…
Người ta, cùng là một người, sao có lúc nhân từ đáng yêu, lại có lúc cay nghiệt thế?
Ấy bởi ai cũng có hai mặt tốt xấu trắng đen lẫn lộn.
Là những người thề non hẹn biển với nhau, cam kết gắn bó với nhau để xây dựng tổ ấm của mình, tôi thiết nghĩ việc nên làm là mang cái mặt tốt ra để đối đãi với nhau.
Lấy mặt trắng mà đối đãi với nhau (phu phụ tương kính như tân – vợ chồng kính nhau như khi còn mới).
Đó mới là cái kế vạn toàn.
Chứ nếu cứ mang cái mặt trái để đối đãi với nhau, mang cái xấu để dành cho nhau, như thế thì đồng sàng mà dị mộng, người hiền lành mà đối xử với nhau như trộm cướp.
Cái đó gần với sự tan vỡ lắm.
Ai ơi, nếu còn thương nhau, chớ có thử lòng nhau. Và hãy hiểu, lòng con người là giấy.
Ai không động lòng trước một cử chỉ ân cần?
Ai vô cảm bởi một lời khen?
Ai vắng nhau lâu ngày mà không hề ham muốn?
Chẳng phải lòng mình cũng vậy ư?
Vậy nên, nâng niu bao nhiêu vẫn chưa đủ.
Một chút nghi kỵ đã là thừa.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: hoangngochung
Ngày gởi: 17/Oct/2011 lúc 10:00am
Cảm ơn đã chia sẻ những chuyện hay, thật ra là những câu chuyện quá hay về niềm tin, hy vọng và gương tốt trên đời.
------------- hung0989077120@ahoo.com
|
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 17/Oct/2011 lúc 3:35pm
"Phu phụ tương kính như tân". Nên xem lai nghĩa chữ "tân".
------------- kb
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 18/Oct/2011 lúc 10:36pm
TÂN
新 mới
賓 khách
夫婦葙敬如賓 Phu phụ tương kinh như tân
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 19/Oct/2011 lúc 10:13am
GIỌT NƯỚC MẮT CẢM ƠN
Đúng năm giờ bác Chu tài xế xe taxi phải giao xe, nhìn đồng hồ đã năm giờ mười lăm rồi, nên bác tài đem tấm bảng “tạm thời không đón khách” treo lên. Đúng ngày cuối tuần, học sinh trong ký túc xá của trường trung học số bốn mươi chạy ùa ra. Bác Chu tài xế nhịn không được thói quen này nên dừng xe lại, nhìn học sinh đi đi lại lại, chúng nó mặc đồng phục nhà trường, trên mặt tươi cười rạng rỡ.
- “Bác tài, cháu…cháu muốn ngồi xe của bác.” Một bé gái chân đi cà thọt lưng mang cặp sách đi đến, nhìn hai bên phải trái nói vội vàng. Bác tài nói phải giao xe, và chỉ có dừng xe chút xíu thôi. Em bé gái cúi đầu, mấy giây sau nó lại thành khẩn nói: “Cám ơn bác, bác tài, cháu chỉ ngồi một trạm là một trạm thôi.” Hai chữ “cám ơn” làm cho bác Chu tài xế động lòng, bác nhìn trên trên thân em bé gái mặc cái áo giặt trắng tinh, một cái cặp sách cũ không thể cũ hơn được nữa, nên nhịn không được bèn thở dài nói: ”Lên xe.” Em bé gái sung sướng lên xe. Xe đến khúc quanh, em bé gái đột nhiên đằng hắng nói: “Bác tài, cháu chỉ có ba đồng bạc mà thôi, cho nên, đến nửa trạm thì cháu xuống.” Bác tài nhìn trong kính chiếu hậu thấy em bé gái mặt đỏ gất, không nói gì. Đây là xe taxi ở thành phố, giá mỗi đoạn đường có thể là năm đồng. Lái xe đến trạm dừng công cộng thì bác tài dừng xe lại, em bé đứng nơi cửa vui vẻ nói: “Thật cám ơn bác, bác tài.” Bác Chu tài xế nhìn thấy em bé gái khập khiễng đi về phía trước, đột nhiên trong lòng có chút ái ngại. Cũng từ ngày cuối tuần ấy, bác Chu tài xế mỗi ngày cuối tuần đều nhìn thấy em bé gái đứng đợi ở cổng trường, mấy chiếc xe taxi chạy qua, em bé gái nhìn như không nhìn, chỉ biết đứng chờ. Em bé gái đợi mình ? Bác Chu đoán và trong lòng cảm thấy ấm áp, bác lái xe đến, em bé gái từ đàng xa giơ tay vẫy vẫy, bác Chu tài xế rất kinh ngạc, xe bác ta màu da cam giống với các xe taxi khác, em bé gái làm sao có thể nhìn mà biết được chứ ? Đây là ba đồng, đây là một trạm. Bác tài không hỏi nó tại sao chỉ đứng đợi xe của mình, và cũng không hỏi tại sao chỉ ngồi có một trạm ? Trong lòng em bé gái có một bí mật nhỏ, bác Chu tài xế rất hiểu điều này. Một lần, hai lần, ba lần, dần dần bác Chu tài xế trở thành thói quen. Cuối tuần trước khi giao xe, thì người cuối cùng phải chở nhất định là cô bé thọt chân trong trường trung học số bốn mươi. Bác tài đem tấm bảng “tạm không chở khách” treo lên, chuyên tâm đợi trước cổng trường. Em bé gái chỉ mười bốn mười lăm tuổi mà thôi, vừa nhìn thấy ông thì giống như con nai nhỏ chạy qua đường, lớn tiếng nói với bạn học “tạm biệt”, bất quá chỉ năm phút đồng hồ là em bé gái xuống xe, câu cuối cùng vẫn là: “Cám ơn bác, bác tài.” Hình như chỉ đợi câu nói ấy, cuối tuần bất kể là đi bao xa thì bác Chu cũng lái xe đến trường. Có lúc giao xe bị phạt, bác ta cũng nhất định chở em bé gái đi một đoạn đường. Thời gian qua rất nhanh, tình hình này tiếp tục thêm một năm nữa, chớp mắt mùa hè của năm thứ hai đã đến. Nhìn em bé gái mang cặp sách thật nặng nề, bác Chu đột nhiên cảm thấy như đánh mất cái gì đó. Bác biết em đã tốt nghiệp phổ thông cấp hai, và nó sẽ học cấp ba ở đâu ? - “Bác tài, cám ơn bác, có lẽ đây là lần cuối cùng cháu ngồi xe của bác, thật làm phiền bác quá. Cháu thi đậu trường trung học Tân Tập Nhất, có lẽ nửa năm mới về nhà một lần,” em bé gái nói như thế. Bác tài từ trong kính chiếu hậu nhìn cặp mắt em bé gái, trong lòng rất là không yên. Em bé quả nhiên rất ưu tú, trường Tân Tập Nhất là trường điểm của tỉnh, thi đậu vào đó thì đã bước một chân vào ngưỡng cửa đại học rồi. - “Vậy thì bác đưa con về nhà.” bác tài nói. Em bé gái lắc đầu nói mình chỉ có ba đồng bạc mà thôi. - “Lần này không lấy tiền.” Bác tài nói xong thì nhìn đồng hồ, đưa em bé gái về nhà thì nhất định giao xe bị trễ giờ, có thể bị phạt chút tiền, nhưng có quan hệ gì chứ ? Bác muốn ngồi chung với em bé gái thêm chút nữa. Em bé gái nói địa chỉ rất xa, còn thêm bảy trạm nữa, nửa giờ sau, bác tài dừng xe, em bé ôm cặp bước xuống, bác tài lấy một cái hộp trong xe ra, nói: “Đây là món quà bác tặng cháu.” Em bé gái kinh ngạc tiếp nhận quà, sau đó cúi mình chào bác tài, nói: “Cám ơn bác, bác tài.” Nhìn em bé gái thọt chân đi vào nhà, bác Chu tài xế thở dài. Cháu bé, từ nay không còn gặp lại nữa ? Bác tài cũng không biết tên em bé là gì nữa ! Đã qua mười năm rồi. Bác Chu tài xế vẫn còn lái xe taxi. Hôm nay, việc làm không nhiều, ông đang lái xe, nhưng lại nghe được chương trình ca nhạc của đài giao thông phát đi chương trình “nhắn tin tìm người, tìm bác tài xế mười năm trước thuê xe của công ty Thắng Lợi, số xe là Axxxx.” Bác Chu tài xế vừa nghe thì ngớ người ra, có người tìm ông ta ? Mười năm trước, ông ta lái chính là chiếc xe này. Điện thoại gọi thẳng đến tổng đài, người phụ trách tổng đài kinh ngạc đưa cho bác tài xế số điện thoại, bác Chu nghi hoặc, là ai nhỉ ? Mỗi ngày bận bịu vì kế sinh nhai, ngoại trừ bà vợ ra thì bác tài không quen biết người phụ nữ nào khác. Gọi điện thoại, bác tài nghe âm thanh của một cô gái trẻ, cô ta kinh ngạc vui mừng hỏi: “Là bác sao, bác tài ?” Bác tài giựt mình, âm thanh này, lời nói này rất là quen thuộc, nhưng bác tài không nhớ là ai cả. - “Cám ơn bác, bác tài.” Cô gái lại nói. Hai người hẹn gặp nhau ở một quán cà phê, khi gặp cô gái ấy, bác Chu hình như nhận không ra, trước mắt là một cô gái thướt tha, là bé gái mười năm trước đi xe chỉ có ba đồng bạc đó ư ? Cô gái đứng lên cúi mình chào bác tài và nói: “Từ trong lòng cháu cám ơn bác, bác tài.” Uống cà phê, cô gái kể chuyện ngày trước: Mười hai năm trước, ba của cô cũng là một tài xế lái xe taxi, ông rất thương yêu cô gái, mỗi ngày cuối tuần, dù bận cách mấy ông cũng lái xe đến trường đưa cô về nhà. Tết đến, cả nhà về quê ăn tết, vì để mang được nhiều đồ, ba của cô mượn xe bánh mì của người bạn. Lái xe được nửa đường, đột nhiên tuyết rơi rất nhiều, không may tông vào một chiếc xe hàng, xe bánh mì bị hư toàn bộ, ba của cô chết tại chỗ, từ đó chân của cô bị thương nặng. Chôn cất ba xong, mẹ phải bồi thường xe cho người bạn của ba một khoản tiền lớn, và để làm phẫu thuật chân cho cô, nên mẹ làm việc ngày đêm không nghỉ, còn cô, sau khi vết thương lành thi lập tức đi học, nhất tâm muốn mau lớn. Cô rất kiên cường, việc gì cũng có thể chịu đựng, nhưng duy chỉ có một việc là không chấp nhận người khác thương hại mình. Cho nên, cô không nói cho ai biết việc bị tai nạn trên đường. Tan học về nhà, khi bị bạn học hỏi tại sao bây giờ lại đi xe công cộng ? Cô bé nói dối là vì ba đi xa, nói dối được nửa năm, cho đến khi gặp bác Chu tài xế. Cô bé thấy chiếc xe taxi dừng bên đường không chút động đậy, giống như ba cô bé lái xe đến đợi trước cổng trường. Cô bé chỉ có ba đồng để đi xe công cộng, nhưng cô bé lấy tất cả để ngồi xe taxi, chỉ ngồi một trạm, sau đó đi bộ nửa giờ nữa về nhà, mặc dù đường rất xa, nhưng cô bé vẫn thản nhiên đi, bởi vì không ai có thể đoán biết là ba của cô bé đã chết. - “Bác nhất định không biết, chiếc xe taxi mà bác đang lái đó là chiếc xe mà ba của cháu đã lái, số xe cứ in mãi trong óc của cháu.” Cô gái nói xong thì nước mắt rơi xuống: “Cho nên, từ xa xa, chỉ cần nhìn thì cháu liền nhận ra nó.” Bác Chu tài xế thấy lỗ mũi nóng, chút xíu nữa thì cũng chảy nước mắt. - “Tấm huy chương này cháu luôn mang trên mình, cháu không biết, nếu không có nó thì cháu có thể đi được đến ngày hôm nay không. Hơn nữa, bác trả lại cháu tiền xe, cháu vẫn cứ giữ nó. Có một chút tiền, cháu cảm thấy vấn đề gì cũng có thể khắc phục được. Mặc dù mất phụ thân, nhưng cháu vẫn có phụ thân như cũ.” Nói xong, cô gái lấy trong túi ra tấm huy chương mang vào mình. Góc cạnh của tấm huy chương đó đã biến thành màu đen, sau tấm huy chương có viết hàng chữ: “Chúc cuộc sống của con cũng như tấm huy chương này.” Tấm huy chương này là của bác Chu tài xế làm quà tặng cho cô gái mười năm trước. Cô gái dắt cánh tay của bác Chu tài xế rời khỏi quán cà phê. Nhìn cô gái lái xe đi rất xa, bác Chu dừng xe bên đường, để cho nước mắt chảy xuống. Cô gái thọt chân ấy, cô gái ấy bây giờ bác tài mới biết tên cô ta là Lâm Mỹ Tuyết, cô gái và con của bác tài đã chết cách đây mười năm vì ung thư, thật quả là ấn tượng giống nhau ! Con gái của bác khi còn sống, cứ mỗi ngày cuối tuần thì bác đều lái xe đến trường đón nó. Con gái trước khi lên xe thì nói: “Cám ơn ba.”, xuống xe cũng câu ấy: “Ba, con cám ơn ba.”, làm cho bác tài cảm nhận được rất nhiều hạnh phúc ! Tấm huy chương ấy là của con gái ông được thưởng trong kỳ thi Olympic, đã làm cho ông ta rất kiêu hãnh và hy vọng, nhưng con gái ông đột nhiên chết đi khiến cho ông ta không kịp đề phòng. Lại đến ngày cuối tuần, đi ngang qua trường trung học số bốn mươi, ông ta đều dừng xe lại, hình như con gái vẫn có thể từ cổng trường chạy ra, lên xe, và lớn tiếng nói: “Ba, cám ơn ba.” Trên đường trở về nhà, bác Chu mua một tờ báo, vừa mở báo ra xem thì bác liền thấy ngay hình của cô gái thọt chân ấy. Cô ta cười tươi với bác Chu tài xế, trên đề mục có chạy hàng chữ lớn: Lâm Mỹ Tuyết – phó tổng giám đốc trẻ nhất của công ty đa quốc gia, niềm kiêu hãnh của thành phố S...” bác Chu tài xế kinh ngạc há hốc miệng, đọc nhanh như chớp, vừa đọc vừa móc túi lấy thuốc ra hút theo thói quen. Đột nhiên, tay của ông ta chạm phải một phong bì, lấy ra, bên trong phong bì đựng đầy tiền đô la Mỹ dày cộm, bác Chu ngớ ra, bác ta nghĩ không ra Lâm Mỹ Tuyết bỏ tiền vào túi ông lúc nào ? Có phải khi cầm cánh tay mình dẫn đi không ? Giữa xấp tiền mỹ kim ấy còn kẹp một tờ giấy nhỏ: “Bác tài, đây là lợi tức của yêu thương, xin bác nhận lấy. Cái vốn vô giá thì vĩnh viễn ở trong lòng cháu. Cám ơn bác, bác tài !” Cặp mắt của bác tài lại mờ mờ thêm một lần nữa... Linh Mục Giuse Maria Nhân Tài dịch
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Oct/2011 lúc 8:32am
Hẹn gặp trên sân ga
Hẹn gặp nhau trên sân ga. Còn gì đẹp bằng. Nhất là khi một chiến binh từ chiến trường về sẽ hội ngộ lần đầu tiên với người con gái chưa bao giờ quen biết, gặp mặt. Ấy vậy mà biết đâu một chuyện tình đẹp sẽ nở ra giữa hai người và sẽ được ghi vào những trang văn. Câu chuyện có nhiều tình tiết lý thú, mời các bạn theo dõi.
Như Sao
Sáu giờ kém sáu phút. Cái đồng hồ lớn hình tròn trên quầy tin tức ở nhà ga Grand Central Station cho biết như thế. Người sĩ quan trẻ tuổi cấp bậc trung úy vừa mới bước xuống từ đường ray xe lửa, ngẩng cao khuôn mặt rám nắng và nheo mắt để nhìn cho rõ giờ ghi trên đồng hồ. Tim anh đập mạnh. Chỉ sáu phút nữa thôi, anh sẽ được gặp người thiếu nữ đã tràn ngập một phần đời của anh từ mười ba tháng nay, người thiếu nữ anh chưa một lần gặp mặt, tuy nhiên những lời cô viết cứ bám miết anh không rời. Anh đứng thật sát quầy thông tin, để tránh đám người chen lấn. Hồi tưởng lại một đêm khi giao chiến ác liệt xảy ra, máy bay anh lọt vào giữa vòng vây của chiến đấu cơ địch, trung úy Blandford còn nhìn thấy rõ nét cười nham nhở trên khuôn mặt một phi công thù nghịch.
Trong một bức thư trước đó, anh đã thú nhận với cô ấy là anh thường xuyên cảm thấy sợ hãi, và chỉ một vài ngày trước cuộc không chiến nói trên, anh nhận được trả lời của cô. “Tất nhiên là anh thấy sợ… mọi người can đảm đều thấy như vậy. Bộ Vua David trong Thánh Kinh không biết sợ sao? Đó là lý do Ngài viết Thi Thiên thứ 23. Lần sau nếu anh không cảm thấy bình an thì anh hãy nghe giọng em đọc cho anh nghe những câu thơ trong bài nhã ca này: “A ha, cho dẫu con đi qua thung lũng của cái chết thì con cũng không hề sợ hãi bởi có người bên con.” Và anh nhớ lại có lúc anh đã nghe tiếng nói của cô và anh lấy lại được sự bằng an trong tâm hồn.
Giờ đây anh đang đi tìm gặp giọng nói đích thực của cô. Chỉ còn bốn phút nữa là tới sáu giờ. Vẻ mặt anh trở nên căng thẳng. Dưới vòm mái mênh mông, mọi người đang đi lại hối hả, giống những sợi chỉ màu đan xen trong cái mạng nhện. Một thiếu nữ đi qua cạnh anh khiến anh giật mình. Trên ve áo cô cài một bông hoa đỏ nhưng đó là bông của cây đậu chứ không phải một bông hoa hồng như họ từng hẹn trước với nhau. Vả lại, người thiếu nữ còn quá trẻ, trạc 18 tuổi, trong khi Hollis Maynell nói rõ ràng với anh là cô đã ba mươi. “Sao, như vậy đã sao?” Anh hỏi lại, và cho biết: ”Tôi cũng đã 32”. Thật ra, anh mới 29 tuổi.
Trí óc anh trở lại với cuốn sách - cuốn sách mà Ơn Trên đã đặt vào tay anh trong hàng trăm cuốn sách Thư Viện Quân Đội đã gởi đến trại huấn luyện Florida . Đó là cuốn Of Human Bondage (Hệ Lụy Nhân Sinh) với những nét chữ ẻo lả ghi chú chằng chịt bên lề mỗi trang. Anh vốn ghét những ghi chú như vậy nhưng đây thì lại hoàn toàn khác. Anh không bao giờ nghĩ rằng một phụ nữ lại có thể nhìn thấu tâm hồn người đàn ông một cách dịu dàng, thông cảm đến thế. Tên của cô ghi trên tấm thẻ thư tịch: Hollis Meynell. Và anh đã tìm thấy địa chỉ của cô trên cuốn điện thoại niên giám của thành phố Nữu Ước. Anh viết thư và cô trả lời thư. Ngày hôm sau thì anh được tàu chở tới căn cứ, nhưng hai người đã giữ được đường dây thư tín.
Trong mười ba tháng liền, cô tiếp tục hồi âm thư anh. Và còn hơn thế nữa, cả khi thư anh không đến, cô vẫn viết cho anh, và bây giờ thì anh tin rằng anh đã yêu cô và cô cũng yêu anh. Tuy nhiên cho dù anh xin cô nhiều lần, cô nhất định không gởi hình cho anh. Anh cảm thấy hơi phật ý. Nhưng cô giải thích: “Nếu như tình cảm của anh đối với em có chút gì chân thật thì dung nhan em như thế nào đâu có gì quan hệ. Giả sử như em đẹp đi. Em sẽ luôn luôn bị ám ảnh bởi cái cảm giác là anh muốn lợi dụng điều đó. Và một tình yêu như thế làm cho em chán ngán. Giả sử như em tầm thường (mà điều này thì có thể lắm). Và rồi em sẽ luôn luôn lo sợ rằng anh tiếp tục viết cho em chỉ vì anh cô đơn, không có người nào khác. Không, đừng đòi em gởi hình cho anh. Khi anh đến New York , anh sẽ gặp em và rồi anh sẽ tự quyết định lấy. Nên nhớ rằng cả hai chúng ta đều hoàn toàn tự do quyết định ngưng lại hay tiếp tục - muốn cách nào cũng được.”
Chỉ còn một phút nữa là tới sáu giờ. Anh rít mạnh một hơi thuốc, cảm thấy trái tim mình vọt lên cao, còn hơn chiếc máy bay anh thường lái. Một phụ nữ trẻ đang đi tới. Khuôn mặt cô hình trái soan thanh tú, mái tóc màu vàng của cô buông thành búp sau vai. Mắt cô màu xanh của biển, môi và cằm cô xinh đẹp. Trong bộ đồ xanh ngọc thạch, cô là hình ảnh của mùa xuân tươi sắc. Anh bắt đầu bước về phía cô, quên để ý là cô không cài bông hoa hồng, và khi anh tới gần thì nụ cười gợi cảm thoáng hiện trên môi cô.
“Anh chàng quân nhân đang đến với tôi đó hả?” Cô gái thì thầm. Không tự chủ được, anh tới gần hơn. Và rồi anh chợt trông thấy Hollis Meynell. Bà đứng ngay sau cô thiếu nữ, trạc ngoài bốn mươi, mái tóc màu xám nằm gọn dưới chiếc mũ cũ. Bà có hơi đẫy đà, chân đi đôi giày gót thấp. Nhưng bà cài một bông hồng trên ve áo bạc màu. Trong khi đó cô gái mặc bộ đồ xanh ngọc thạch vội vã bỏ đi.
Blandford có cảm tưởng như mình bị tách làm đôi: anh vừa tha thiết muốn bước theo người thiếu nữ, lại vừa cảm thấy phải đến với người thiếu phụ đã hòa hợp và nâng đỡ tâm hồn anh. Bà đang đứng kia, khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương và đầy thông cảm. Mắt thiếu phụ bừng lên một tia ấm áp.
Trung úy Blanford không còn cảm thấy do dự nữa. Tay anh cầm cuốn sách bìa da mang theo - cuốn Of Human Bondage để thiếu phụ có thể nhận diện ra anh.. Đây không phải là tình yêu, nhưng là cái gì đó còn quý hơn nữa - một tình bạn mà anh hằng ấp ủ và mãi mãi biết ơn. Anh cúi chào người thiếu phụ, đưa cuốn sách về phía bà, cho dù trong lúc mở lời anh cảm thấy có cái gì đó cay đắng trong nỗi thất vọng.
“Tôi là trung úy John Blandford, và bà… có phải là Hollis Meynell. Tôi vui mừng được gặp bà. Tôi mời bà đi dùng cơm tối nay nhé.” Khuôn mặt người thiếu phụ bừng lên ánh hân hoan cởi mở với nụ cười trên môi. “Ta không hiểu toàn bộ câu chuyện này ra sao cả, con trai ạ.” Bà nói. “Cô thiếu nữ bận bộ đồ màu ngọc thạch kia - người vừa mới bước đi đó - yêu cầu ta cài bông hồng này lên áo. Và cô ấy bảo nếu con mời ta đi ăn thì ta sẽ cho con biết là cô ấy đang chờ con ở cái tiệm ăn lớn bên kia đường. Cô ấy bảo đây chỉ là một phép thử thôi. Ta cũng có hai con trai trong quân đội nên ta coi con cũng như con mình vậy.”
ST | http://lh5.ggpht.com/_GCV8JmbCFqI/TYJ82sTIkWI/AAAAAAAAIjE/fJqzpPzyy2Q/s1600-h/good%20morning%20doa%20hoa%20hong%5B7%5D.gif"> http://lh5.ggpht.com/_GCV8JmbCFqI/TYJ83jk415I/AAAAAAAAIjM/fgtGuc9AFhE/s1600-h/good%20morning%20have%20a%20nice%20day%5B2%5D.gif"> | |
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Oct/2011 lúc 6:24pm
Thứ năm, 15/9/2011, 13:30 GMT+7
http://vnexpress.net/Service/Share/?sjid=1000533091&sid=1&myurl=http%3A//www.facebook.com/share.php%253fu%3Dhttp%3A//vnexpress.net/gl/doi-song/cau-chuyen-cuoc-song/2011/09/mai-am-cua-doi-vo-chong-tho-nhat-viet-nam/%2526t%3DM%C3%A1i+%E1%BA%A5m+c%E1%BB%A7a+%C4%91%C3%B4i+v%E1%BB%A3+ch%E1%BB%93ng+th%E1%BB%8D+nh%E1%BA%A5t+Vi%E1%BB%87t+Nam -
Mái ấm của đôi vợ chồng thọ nhất Việt Nam
Dù đôi mắt đã mù hẳn, song hễ ngồi vào bàn ăn mà chưa
thấy vợ, ông cụ 110 tuổi cứ luôn miệng gọi: "Bà đi đâu rồi bà ơi, đi đâu
mà lâu thế?", rồi ông chờ mãi đến khi con cháu dìu bà đến ngồi bên cạnh
mới chịu ăn cơm. > http://vnexpress.net/gl/doi-song/cau-chuyen-cuoc-song/2011/09/cu-gia-sai-gon-song-tho-nhat-viet-nam/ - Cụ già Sài Gòn sống thọ nhất Việt Nam
Ông cụ ấy tên là Huỳnh Văn Lạc (110 tuổi) và cụ bà
Nguyễn Thị Lành (106 tuổi) vừa được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công
nhận là cặp vợ chồng sống thọ nhất Việt Nam cho đến nay.
Sau 82 năm sống dưới mái nhà, hai cụ đã có với nhau 4
người con, 3 dâu rể, 24 cháu nội ngoại, 41 chắt và chuẩn bị đón đứa chút
sắp ra đời vào cuối năm nay. Hiện tại ông bà sống cùng con gái thứ tư
trong căn nhà ở khu phố 2, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, TP HCM.
http://vnexpress.net/gl/doi-song/cau-chuyen-cuoc-song/2011/09/mai-am-cua-doi-vo-chong-tho-nhat-viet-nam/page_2.asp - Cuộc trò chuyện của vợ chồng già hơn 100 tuổi
|
Cuộc sống bình yên của cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam. Ảnh: Thi Ngoan |
Bước vào mái ấm của vợ chồng ông Sáu Lạc (tên thường
gọi của ông cụ), bầu không khí yên bình, nhịp sống diễn ra chầm chậm,
nhẹ nhàng cách biệt hẳn với thế giới ồn ã bên ngoài. Hai ông bà cụ nằm
trên hai chiếc giường tre đơn sơ được kê sát nhau. Con gái thứ tư là bà
Huỳnh Thị Hoa năm nay cũng đã 71 tuổi đang cần mẫn chăm chút cho cha mẹ
từng miếng ăn giấc ngủ, dọn dẹp vệ sinh, lâu lâu lại nhẹ nhàng đỡ các cụ
ngồi dậy cho đỡ mỏi lưng...
Ở vào cái tuổi bách niên xưa nay hiếm, song tinh thần
ông Lạc và bà Lành vẫn còn minh mẫn. Riêng bà cụ, hễ nghe có khách đến
thăm, bà lại dậy tiếp chuyện, kể ngày xưa thời còn đi cắt lúa, câu cá,
nuôi lợn, rồi còn đọc thơ, ca dao... Tuy nhiên mỗi lần có ai hỏi về tuổi
tác, bà Lành thường kiêng, tránh không nói tuổi thật mà chỉ cười xòa
bảo: "Cũng bội tuổi rồi đó, không ít đâu".
Nhớ lại thời thanh xuân ngày ấy, bà cụ hóm hỉnh kể là
con út trong nhà, hồi còn trẻ cũng thuộc hàng xinh gái nhất nhì làng nên
có nhiều mối đến hỏi, song bà không ưng. Còn ông Lạc lúc ấy 28 tuổi,
nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ, nhưng được cái tính tình hiền lành, đức
độ, có hiếu với mẹ nên vừa được cậu Bảy làm mối là bà đồng ý liền.
"Lúc đó ổng đen lùi lũi, nhưng được cái tính hiền
lành, mà việc gì cũng biết làm nghen, từ bốc thuốc nam đến làm ruộng,
ổng nói chuyện hay, còn biết chữ Nho nữa nên tui mới ưng. Rồi từ hồi lấy
nhau ổng chưa bao giờ làm cho tôi buồn điều gì hết trơn...", bà cười
hóm hỉnh nói, thỉnh thoảng lại quay sang nhìn về phía ông.
Ngồi ở giường bên cạnh, ông Sáu Lạc nghe vậy cười móm
mém bảo: "Cũng là cái lương duyên trời định cho mới gặp nhau. Hồi đó tui
nghèo lắm nhưng bả hổng chê. Lấy tui rồi, bả vất vả hơn nhiều, suốt
ngày làm ruộng cực khổ nhưng bả vẫn chịu khó, hổng than phiền gì".
|
Sống đến tuổi này, tài sản lớn nhất của ông bà là con cái hiếu thảo hết lòng phụng dưỡng cha mẹ. Ảnh: Thi Ngoan |
Khi được hỏi về bí quyết sống trường thọ,
cả hai ông bà bảo rằng, chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ăn uống thế nào để
sống lâu mà chỉ hàng ngày cần cù lao động, sống bình dị, vui vẻ như bao
người khác, đặc biệt là không bon chen, không lừa lọc hay làm cho ai
buồn lòng.
Bà Lành tâm sự: "Từ đó đến giờ gia đình nghèo khổ, ăn
uống cũng thiếu thốn, nhưng được cái sắp nhỏ hiếu thảo lắm, chắc nhờ tụi
nó chăm sóc chu đáo nên tui mới khỏe đến giờ này".
Là hàng xóm nhà ông Lạc từ thời trước giải phóng, ông
Trịnh Văn Đơn (còn gọi là Tám Đơn, nguyên chủ tịch hội Người cao tuổi
phường Đông Hưng Thuận) cho biết, hai vợ chồng ông Sáu Lạc là mẫu gương
cho khu xóm về lối sống yêu lao động, tính tình thật thà, chịu thương
chịu khó và hay giúp đỡ mọi người.
"Ông Sáu tốt bụng lắm, hồi trước ổng trồng thuốc Nam
bán rẻ cho bà con chữa bệnh. Ai đến bốc thuốc, ổng cũng tận tình khuyên
bảo, còn người nào nghèo quá, ổng bốc thuốc cho luôn không lấy đồng
nào", ông Tám nói.
Sống trong cảnh nghèo khổ, nhưng gia đình ông Lạc sống
hòa thuận, đầm ấm, có trước có sau, chưa bao giờ xảy ra cảnh vợ chồng
lục đục hay to tiếng với con cái. Do vậy, mỗi khi trong làng có ai cưới
vợ gả chồng, người ta đều mời hai cụ đến dự tiệc và trải chiếu hoa
giường tân hôn. "Người dân quê có quan niệm rằng, như thế đôi uyên ương
sẽ được nhờ cái phúc của ông bà ấy mà cũng sống bách niên giai lão, gia
đình hạnh phúc như họ", theo ông Tám giải thích.
Ông Tám Đơn cũng cho biết thêm, xét trong gia tộc của
cả hai gia đình ông bà Sáu Lạc chưa có người nào được trường thọ như hai
cụ. Cuộc sống miền quê ngày xưa lao động lại vất vả, thức khuya dậy
sớm, ăn uống kham khổ nên các cụ thế hệ trước thọ lắm cũng chỉ đến 80
tuổi.
Vì thế ông phỏng đoán: "Có lẽ ông bà Sáu sống được đến
tuổi này là do hay làm việc phúc, sống hòa nhã, vui vẻ, yêu đời nên tâm
hồn lúc nào cũng thanh thản. Rồi cũng một phần nhờ có cô con gái không
lấy chồng hết lòng phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ. Cô Hoa học cao hiểu
rộng nên khéo lắm, không bao giờ làm gì phật lòng hai cụ".
Thi Ngoan
http://vnexpress.net/gl/doi-song/cau-chuyen-cuoc-song/2011/09/mai-am-cua-doi-vo-chong-tho-nhat-viet-nam/
------------- mk
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 22/Oct/2011 lúc 7:11pm
.
Dể thương quá mykieu ơi!!!
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Oct/2011 lúc 7:20pm
Dạ phải, anh MuoiLam . Em kính chúc Anh-Chị cũng đẹp đôi đến trên trăm tuổi như thế nhé.
mk
------------- mk
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 25/Oct/2011 lúc 8:52am
CON ĐÃ VỀ RỒI MẸ Ở ĐÂU?
Trước ngày tôi mổ mấy hôm, anh chị hai vào. Thấy mặt anh hai hốc hác, tôi ngạc nhiên: “Anh hai bệnh hay sao mà ốm nhom vậy?”. Anh cười: “Bệnh hoạn gì? Tại anh lo cho út... À, mẹ có làm cho em hủ mắm. Bữa nay chắc là ăn được rồi nhưng mẹ dặn em không được ăn nhiều...”. Nghe anh hai nói vậy, tôi sụ mặt: “Em không ăn”. Nói rồi tôi bỏ ra nhà sau.
Ba mất khi tôi mới lên hai, còn anh hai năm đó 8 tuổi. Mẹ vẫn ở nhà nội dù đã mấy lần, các cô chú muốn đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà để không phải chia gia tài. Thế nhưng mẹ vẫn chịu đựng. Sau này tôi biết mẹ sợ cảnh nhà không có đàn ông sẽ khó giữ được mình bởi trong làng có mấy người để ý, cứ tới lui xa gần. Mẹ bảo, ở với nhà chồng, dù sao người ta cũng kiêng dè, không dám chọc ghẹo, mẹ yên thân làm lụng nuôi con.
Cái đất miền Trung nắng đốt, mưa dầm; mẹ đã phải vất vả một mình nuôi 4 anh em tôi. Ông bà nội chia cho mấy sào ruộng; làm không đủ ăn, mẹ phải mướn thêm ruộng để làm. Rồi mùa thì mẹ lại đi làm mướn khắp nơi. Việc trong làng không đủ, mẹ lại xuôi ngược qua làng kế bên rồi xuống chợ huyện buôn thứ này, bán thứ kia.
Thương mẹ nên học hết lớp 12, cả anh hai và anh ba đều nghỉ học đi làm. Chỉ có tôi và anh tư được ăn học đàng hoàng. Anh tư thi đậu vào đại học Nha Trang, mẹ mừng không ngủ được. Đến khi tôi chuẩn bị thi đại học thì mẹ bảo: “Út à, con vô Quy Nhơn học đi, cho gần nhà...”.
Nhưng tôi cãi lời thi vào Đại học Kinh tế Sài Gòn. Ngày biết tin tôi thi đậu, mẹ ngồi lặng hàng giờ dưới bếp. Tôi bực bội: “Con lớn rồi, mẹ phải để con tự quyết định tương lai của con chớ?”. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt: “Mẹ chỉ có một mình con là con gái... Vô trong đó xa xôi quá, nhớ con làm sao mẹ đi thăm?”. Tôi vẫn dấm dẳng: “Mẹ đi thăm làm gì? Con tự lo được”.
Mẹ gom góp tiền bỏ ống, hốt thêm mấy dây hụi để có tiền cho tôi vào Sài Gòn nhập học. Hôm đưa tôi và anh hai lên tàu, mẹ cứ căn dặn anh hai: “Con phải lo xong chỗ ăn ở cho nó đàng hoàng rồi mới được về nghe chưa!”. Rồi mẹ quay sang tôi: “Có hủ mắm trong giỏ, mẹ làm hơi mặn để con ăn lâu...”. Mẹ đâu biết, tôi đã lén bỏ hủ mắm lại nhà sau khi nói với anh hai: “Ở Sài Gòn ai mà ăn mắm?”.
Tôi đang học năm thứ nhất thì ở nhà xảy ra biến cố. Mẹ tôi đi lấy chồng! Nhận được tin, suýt chút nữa tôi đã ngất đi. Mẹ tôi đã gần năm mươi tuổi, ham hố gì mà lại đi bước nữa khi sắp sửa làm sui tới nơi rồi? Tôi gọi điện về nhà. Vừa nghe tiếng mẹ, tôi đã hét lên: “Mẹ có bị làm sao không vậy? Mẹ đã ở vậy bao nhiêu năm nay rồi, giờ sao không chịu yên phận mà còn bày đặt...”.
Tôi biết là tôi hỗn với mẹ nhưng tận đáy lòng mình, tôi thấy đau khổ y như thể mình bị phản bội.
Ngày người ta rước mẹ đi, tôi nhất định không về. Người đàn ông ấy là bạn thân của ba mẹ từ thuở nhỏ. Vợ ông ta mất cũng đã lâu rồi. Nhưng điều quan trọng hơn, chính bà nội là người bày ra chuyện gả bán. Bà nội bảo, bà đã yếu, sống nay chết mai; bà phải lo cho mẹ tôi trước khi nhắm mắt thì mới yên lòng. Nếu không, các cô chú lại kiếm chuyện với mẹ thì không có ai bênh vực.
Lý lẽ của người lớn là vậy nhưng tôi không thể nào chấp nhận được thực tế là mẹ tôi đã đi lấy chồng. Tôi giận mẹ nên tết năm ấy không về; hè cũng không về. Anh hai gọi điện vào bảo mẹ bệnh, tôi cũng không về.
Mãi đến tháng chạp năm đó, bà nội mất tôi mới về chịu tang. Gặp mẹ với ông ta, tôi không thèm chào hỏi nhưng vẫn lén để ý. Tôi thấy mẹ gầy đi rất nhiều. Tôi muốn ôm mẹ, úp mặt vào ngực mẹ để được mẹ xoa đầu nựng nịu và gọi “Út Mót của mẹ” như ngày xưa mỗi khi mẹ đi làm đồng về mệt... Nhưng có cái gì đó cứ níu lại khiến tôi cố làm ra vẻ lạnh lùng.
Xong đám tang nội, tôi đi ngay. Tôi không chào ông ta mà chỉ nói với mẹ: “Con đi đây”. Nói rồi tôi quày quả xách giỏ đi. “Út...”. Mẹ gọi với theo. Tôi hơi khựng lại nhưng rồi lại đi như chạy ra khỏi nhà. Giọng mẹ đuổi theo: “Tết này nhớ về ăn tết nghe con”. Tôi lau nước mắt, không nói tiếng nào.
Tết đó tôi vẫn không về. Đến hè anh hai gọi điện bảo về, tôi cũng không nghe. Tôi xin đi làm thêm ở một tiệm bán thức ăn nhanh. Được hơn nửa tháng thì trong một lần làm thay ca cho một chị bạn, tôi đã ngất xỉu. Tôi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Mấy ngày sau, khi làm đầy đủ các siêu âm, xét nghiệm, tôi biết mình bị hở van 2 lá rất nặng. “Chúng tôi sẽ giới thiệu em sang Viện Tim...”. Vị bác sĩ điều trị cho tôi giải thích cặn kẽ và cho biết, trường hợp của tôi phải mổ thay van tim nhân tạo.
Tôi đi khám lại ở Viện Tim. Kết quả vẫn là phải mổ. Tôi đã ngồi rất lâu trên chiếc ghế đá trong sân bệnh viện. Tôi lấy đâu ra cả trăm triệu chi phí cho ca mổ đây? Mà mổ cũng chưa chắc sống thêm được bao lâu. Tôi muốn chết quách cho xong. Rồi tôi lại oán trách ba mẹ sao lại sinh ra tôi làm gì mà không cho tôi một cơ thể khỏe mạnh... “Mày thật lạ. Có ai muốn con cái mình bị bệnh tật đâu? Nhưng có bệnh thì phải chữa, bác sĩ đã nói là chữa được mà...”- nhỏ bạn ở cùng phòng trọ động viên.
Rồi nó lén gọi điện cho anh hai. Dù đang chuẩn bị cưới vợ nhưng anh hai cũng vào ngay. Anh dẫn tôi vào bệnh viện, hỏi han bác sĩ mọi chuyện rồi đăng ký lịch mổ cho tôi. Tôi phải chờ 6 tháng vì lịch mổ đã dày kín. Trước khi về, anh hai ôm tôi vào lòng: “Út đừng lo, anh sẽ kiếm đủ tiền để chữa bệnh cho em. 60 triệu chớ 600 triệu cũng phải lo”. Tôi khóc: “Anh hai đừng nói với mẹ...”.
Nhưng rồi sau đó mẹ cũng biết vì anh hai không thể giấu mẹ chuyện hệ trọng như vậy. Còn hơn 2 tuần nữa tới ngày phẫu thuật thì mẹ gọi điện vào. Giọng mẹ rất yếu nhưng tôi lại nghĩ là do mẹ xúc động quá. Mẹ bảo sẽ thu xếp để vào với tôi...
Ấy vậy mà chỉ có hai vợ chồng anh hai vào. Tôi lại thấy ghét mẹ ghê gớm. Có lẽ ông ta không cho mẹ vào chứ không có lý do nào khác để mẹ phải vắng mặt khi con của mẹ phải đối mặt với hiểm nguy, sống chết như vậy... Ca mổ thành công nhưng vì thể trạng tôi vốn gầy yếu nên hồi phục chậm. Phải hơn 10 ngày sau tôi mới xuất viện. Về đến phòng trọ, điều đầu tiên tôi muốn làm là gọi điện cho mẹ. Dù sao thì tôi cũng muốn mẹ yên lòng. Nhưng anh hai lại cản: “Em còn yếu, gọi bây giờ lại xúc động, không tốt đâu. Để anh báo cho mẹ là được rồi”.
Lần sau, rồi lần sau nữa, tôi đòi gọi điện, anh hai lại cản khiến tôi nghi ngờ: “Anh chị giấu em chuyện gì phải không?”. Chị dâu tôi mau miệng: “Út à, mẹ bị bệnh... anh chị sợ em lo nên không nói”.
Cơn giận hờn vụt tan biến. Tôi cười: “Chờ tái khám xong, em sẽ về thăm mẹ”. Anh hai tôi quay đi lau nước mắt. Có lẽ anh mừng vì thấy tôi đã rộng lòng đón nhận cuộc hôn nhân sau của mẹ. Riêng tôi, sau ca đại phẫu vừa rồi, tôi thấy ranh giới giữa sống chết thật mong manh. Đã có lúc tôi sợ mình sẽ chết khi chưa kịp nói những lời yêu thương với mẹ lần nữa...
Rồi tôi cũng được về nhà. Chưa bao giờ tôi nôn nóng như vậy. Tàu khởi hành từ 6 giờ sáng, đến sẩm tối thì tới ga Diêu Trì. Phải đi gần 20 cây số nữa mới tới nhà. Cơm nước xong, chị dâu mắc mùng cho tôi ngủ, còn anh hai thì căn dặn: “Ngủ cho khỏe để sáng mai đi thăm mẹ”.
Tôi ngủ một giấc thật ngon đến tận 7 giờ sáng hôm sau. Chị dâu gọi tôi dậy ăn sáng. Đang ăn, tôi bỗng giật mình khi thấy giỏ nhang đèn, trái cây để trên góc bếp. Có cả một bó bông vạn thọ. Tôi nhíu mày: “Cúng nội hả hai?”. Chị dâu tôi ậm ừ rồi đi thay quần áo. Lúc đó anh hai đang ngồi ở nhà trước. Chờ tôi ăn xong, anh mới cất tiếng: “Út à, ra đây anh bảo cái này”. Nhìn thấy vẻ mặt nghiêm trọng của anh, tôi chột dạ: “Chuyện gì vậy anh hai?”.
Anh bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi ngồi xuống nhưng chờ mãi không nghe anh nói gì, chỉ thấy mắt anh bỗng đỏ hoe. Rồi anh đặt tay lên vai tôi, giọng khàn khàn: “Mẹ... mất rồi em à...”. Tôi tưởng mình nghe lầm. Giọng anh hai nghẹn lại: “Hôm đó mẹ đem tiền qua để anh lo chuyện mổ tim cho em. Mẹ về được chừng một tiếng thì dượng gọi điện bảo là mẹ mệt. Khi anh chạy qua tới thì mẹ đã đi rồi... Mẹ không kịp nhắn gì cho anh em mình...”.
Tôi chết lặng. Vậy là tôi đã không kịp nói với mẹ lời yêu thương lần nữa bởi cái tính ích kỷ, cố chấp của tôi...
Chiều đó tôi đã ngồi rất lâu bên mộ mẹ. Tôi có cảm giác mẹ vẫn quanh quẩn đâu đây trong cơn gió chiều thổi nhẹ. Tôi cố nén nhưng nước mắt cứ chảy tràn trên má, trên môi...
Mẹ ơi, con đã về rồi.
vô danh
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 25/Oct/2011 lúc 8:22pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ lo cong
.
Dể thương quá mykieu ơi!!!
|
Bài báo này còn dễ thương hơn nữa nè anh MuoiLam
http://360.thuvienvatly.com/tin-tuc/tin-khoa-hoc/62-2011/1934-chung-tich-cua-mot-tinh-yeu-1500-nam -
Viết bởi http://360.thuvienvatly.com/component/comprofiler/userprofile/kadick - - KaDick Chủ nhật, 23 Tháng 10 2011 10:15
Bộ xương của một cặp đôi uyên ương chôn trong trạng thái tay trong
tay ôm nhau lần cuối vừa được khai quật bởi những người công nhân đang
tu sửa một tòa lâu đài ở Italy.
Cặp đôi trên đã được chôn chung với nhau hồi 1500 năm trước trong một ngôi mộ tập thể bên trong khu vực tòa lâu đài ở Modena.
Những người chứng kiến cho biết người phụ nữ dường như đang nhìn âu yếm về phía cái các nhà khoa học tin là người yêu của nàng.
Chứng tích của một tình yêu 1500 năm
“Thật là một cảnh cảm động và rất hiếm thấy”, một người nói.
Nhà khảo cổ học Donato Labate, người chỉ đạo việc khai quật, phát
biểu với kênh Discovery News: “Chúng tôi tin rằng ban đầu họ được chôn
với hai gương mặt đang nhìn về phía nhau. Vị trí xương sống của người
đàn ông cho thấy phần đầu của anh ta đã bị lăn đi sau khi chôn… Tôi đã
từng tham gia nhiều vụ khai quật, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy kích
động như thế”.
Hố khảo cổ trên để lộ ba lớp chứng tích khoa học. Cặp đôi trên được
tìm thấy ở lớp giữa trong số tổng cộng 11 mộ chôn cất ở độ sâu khoảng 3
mét.
Các nhà khảo cổ tin rằng cặp đôi trên chắc chắn chẳng giàu có gì do tính đơn giản của ngôi mộ và có lẽ họ là người làm đồng.
http://360.thuvienvatly.com/images/2011/10/xu2.jpg">+ Phóng to hình
Ngôi mộ hiếm được tìm thấy ở Modena, Italy
Người ta tin rằng đầu của người đàn ông cũng hướng về phía người phụ
nữ lúc được chôn. Nhưng khu vực trên thường bị lũ lụt từ con sông
Tiepido nên có lẽ nước lũ đã làm xương sọ của người đàn ông lăn ra xa
phía người phụ nữ.
Hai bộ xương không mấy nguyên vẹn trên sẽ được nghiên cứu bởi Giorgio
Gruppioni, một nhà nhân chủng học tại trường Đại học Bologna. Ông sẽ cố
gắng xác định tuổi, quan hệ và nguyên nhân cái chết của cặp đôi trên.
Kristina Killgrove, một nhà nhân chủng học tại trường Đại học Bắc
Carolina, phát biểu với kênh Discovery News rằng vị trí của hai bộ xương
cho thấy họ là một cặp đôi. Thời xưa, chuyện vợ chồng hay các thành
viên trong một gia đình chôn chung vốn chẳng lạ lẫm gì.
Theo Daily Mail(Thư Viện Vật Lý rất cảm ơn nếu ghi rõ nguồn http://thuvienvatly.com/home/ - Thư Viện Vật Lý khi đăng lại bài này.)
http://360.thuvienvatly.com/tin-tuc/tin-khoa-hoc/62-2011/1934-chung-tich-cua-mot-tinh-yeu-1500-nam
------------- mk
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 31/Oct/2011 lúc 9:31am
/main/doisong/daovaodoi/30503-66-cau-noi-chan-ly.html - - câu - chânTác Giả: Saigon Echo sưu tầm | Chúa Nhật, 30 Tháng 10 Năm 2011 05:38 | 1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm. 2. Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho anh. Vì chính tâm anh không buông xuống nỗi. 3. Anh hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình. 4. Anh phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương anh, anh phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực. 5. Khi anh vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi anh đau khổ, anh hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn. 6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai. 7. Anh có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên. 8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định anh sẽ ân hận. 9. Khi nào anh thật sự buông xuống thì lúc ấy anh sẽ hết phiền não. 10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành. 11. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác. 12. Anh đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, anh phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính anh. 13. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản. 14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác. 15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin anh “ đa khẩu hạ lưu tình”. 16. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa anh là ai? Giả sử anh bị chó điên cắn anh một phát, chẳng lẽ anh cũng phải chạy đến cắn lại một phát? 17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người anh không hề yêu thích. 18. Mong anh đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận. 19. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao anh lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao anh phải chứa đầy những não phiền như vậy? 20. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì anh hiểu nó quá ít, anh không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi anh hiểu sâu sắc, anh sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của anh. 21. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân. 22. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, anh hiểu chứ? 23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình. 24. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt. 25. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp anh mới được tự tại. 26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn. 27. Khi anh thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối anh. 28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện. 29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình. 30. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu anh không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình. 31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không. 32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu. 33. Người không tắm sửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm. 34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của anh đi. 35. Anh cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế anh sẽ rất đau khổ. 36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa. 37. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy? 38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm. 39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào. 40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất của sự phỉ báng. 41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình. 42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả. 43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên anh cần phải “ tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”. 44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính anh. 45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, anh mới vượt qua hiện thực. 46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, anh dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình. 47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác. 48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì? 49. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của anh, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác. 50. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có. 51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi. 52. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn. 53. Thành thật đối diện với mâu thuẩn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình. 54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó. 55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối. 56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối anh nhất thời, nhưng nó lại gạt anh suốt đời. 57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình. 58. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ này, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi. 59. Nếu anh có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan. 60. Anh có nhân sinh quan của anh, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới anh. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được anh. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu. 61. Anh hi vọng nắm được sự vĩnh hằng thì anh cần phải khống chế hiện tại. 62. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh. 63. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh. 64. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Anh muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn. 65. Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta. 66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ. |
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Nov/2011 lúc 8:55am
Giấc mộng dài
Tôi vừa về đến nhà là bố tôi hỏi ngay: -Thủ tục đã xong chưa con? -Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn chỉ đợi phỏng vấn thôi. Ông Mấn là chú của bố tôi, người mà tôi phải gọi bằng ông trẻ. Ông đang sống ở miền Bắc Việt Nam, và bố tôi đang làm thủ tục bảo lãnh ông sang Mỹ theo diện du lịch. Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên.
Cho tới khi có chương trình HO, cho những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ, thế là cả nhà tôi đi Mỹ. Cuộc sống mới nơi xứ người đã phục hồi con người thật của bố tôi, bố mẹ đi làm, nuôi chúng tôi ăn học, cuộc sống dần dần ổn định mọi bề. Năm 2000 bố mẹ và tôi lần đầu tiên về thăm quê hương, hay nói cho đúng hơn là về miền Bắc để tìm lại người thân. Bố đã gặp lại người mà bố muốn gặp, đó là ông Mấn, ông vẫn còn đang sống ngay tại làng quê cũ. Ký ức tuổi thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm đẹp với ông chú, thuở còn trai trẻ, chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn bán phương xa, từ buôn bè trên sông đến buôn hàng chuyến đủ loại thượng vàng hạ cám, miễn là được giang hồ tứ xứ.
Đi xa như thế, mỗi lần trở về làng, dù lời lãi hay không, chú Mấn đều mang quà về, bố tôi là cháu ruột, cũng được nếm đủ loại quà bánh của chú, ngon như bánh cốm, bánh xu xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải Dương, hay tầm thường thì có những cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo ú ngọt ngào mà trẻ con nào cũng ưa thích ! Bố nhìn ông chú bằng ánh mắt kính phục và ngưỡng mộ. Đôi chân chú khoẻ, đi hoài mà không biết mỏi, không chịu quay về làng quê ở hẳn như gia đình mong. Ngoài quà bánh, chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể cho lũ cháu tre, làm chúng mê mẩn. Bố tôi thích nhất những câu chuyện chú Mấn đi buôn bè, thả gỗ từ thượng nguồn xuôi về hạ nguồn, có khi gặp nước lũ, bè trôi, những người buôn bè phải chống trả với phong ba bão táp. Đến nỗi bố đã từng mơ, lớn lên sẽ đi giang hồ như chú. Chú Mấn rất hào phóng, nhiều lúc chú đã dúi tiền cho bố tôi, bảo tao cho mày, cất đi mà tiêu, đừng cho bố mẹ biết. Những đồng tiền ngày đó đối với bố tôi lớn biết bao. Chúng tôi đến nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông đang ở căn lều ngoài nghĩa địa, ông thích ở riêng, khỏi phiền con cháu, mà nhà họ cũng chẳng phải là một căn nhà để ông có chỗ chen chân. Đứa cháu ngoại của ông dẫn chúng tôi đến căn lều, cô hơn 20 tuổi mà trình độ, kiến thức của cô vẫn ngô nghê như một đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ từ làng quê này đi kinh tế mới Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng biết gì hơn ngoài núi rừng và đồng ruộng Huyền thoại về “chú Mấn” cũng làm tôi thích thú và khao khát được gặp ông bằng xương bằng thịt.
Bây giờ “chú Mấn” là một ông già 73 tuổi. Ông to cao như cây cổ thụ, nước da nâu sẫm của người nông dân cả ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa địa, sống một mình, ngoài giờ làm vườn, làm ruộng, ông về lều thảnh thơi ngồi uống rượu như một kẻ nhàn du. Khi tôi hỏi ông ở một mình nơi đây ông có sợ ma không? Thì ông cười bảo ma sợ ông chứ ông sợ gì nó! Ông có một đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở ven đê, mùa mưa con đường đê dấy lên bùn sình như bột nhão, đặt chân xuống bùn, giở lên để đi bước nữa thật là vất vả. Vợ chồng chị đã từng đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng sống nổi lại kéo nhau về làng cũ với căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền bạc không có, ruộng vườn trắng tay, đành phải ra đê mà ở. Sau này cũng đơn lên đơn xuống các cấp xã, huyện, mới xin được một mẩu đất ruộng xấu nhất cuối làng, để cày cấy lấy hạt gạo, tuy không đủ no nhưng có còn hơn không.
Vợ chồng chị đều ốm yếu, con thơ nhếch nhác, nên ông Mấn đã phải xông pha, mang hết lực tàn ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn để phụ giúp con cháu. Khác với lòng mong ước và sự tưởng tượng của tôi. Ông Mấn không hề vồ vập với bố tôi, thằng cháu nhỏ năm xưa ông từng cho quà và cho tiền. Ông nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không thiện cảm, ánh mắt ấy dường như nói rằng, lũ chúng tôi đã chạy theo “Mỹ Nguỵ”. Suốt câu chuyện, hãnh diện khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến thắng vinh quang 1975, đã đổi mới và tiến lên. Cụ thể là ngôi làng này, con đường làng bụi đất và gồ ghề khi xưa nay đã được tráng nhựa, nhiều nhà gạch xây lên và có điện thắp sáng, có ti vi, có đài radio, dân không phải nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp nữa... Dĩ nhiên, không phải cả làng ai cũng khá giả như thế, bằng chứng là nhà con gái ông và ông vẫn chưa có những thứ ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định như đinh đóng cột, trong tương lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống tiện nghi đầy đủ hơn, xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của thành công và quang vinh. Chúng tôi được biết ông Mấn đã là đảng viên, đang lãnh lương hưu trí, số tiền hưu cho một anh bộ đội quèn chẳng là bao, nhưng nó “xác định” cái giá trị công lao của anh đã đóng góp cho đảng và nhà nước. Bố tôi và tôi đều thất vọng về “chú Mấn” ngày xưa, bố mẹ đã biếu Ông một số tiền và đặc biệt là một cái áo ấm bằng da mà chính tay bố đã mua cho ông, vì bố đã biết mùa Đông đất Bắc mưa phùn gió bấc lạnh thế nào! Tuy ông Mấn có ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”, nhưng ông không chê những món quà của “Mỹ Nguỵ”, ông cẩn thận gấp những đồng đô la bỏ vào túi và mặc thử cái áo ấm to dày với vẻ hài lòng. Trong khi tôi liếc nhìn quanh căn lều chông chênh, trống toang toác của ông, bốn bề gió lộng giữa bãi tha ma, làm sao mà không lạnh! Mỗi năm sau đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về cho ông Mấn, dù bất đồng ý kiến, nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của mình ở tuổi già gần đất xa trời vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống để kiếm cơm cháo qua ngày như thế ! Cô cháu ngoại của ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho chúng tôi, kể về ông, năm nay ông 79 tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng tôi về thăm nữa. Bố tôi ngậm ngùi thương cho ông, và có ý định làm bảo lãnh cho ông Mấn sang Mỹ thăm thân nhân, coi như một món quà cho ông. Một con người từng yêu thích ngang dọc một thời, đây là cơ hội có lẽ ông không thể bỏ qua. Ba tháng sau, ông Mấn của chúng tôi đã đặt chân đến Mỹ. Ông như người từ cung trăng vừa rơi xuống mặt đất, cái phi trường, nơi ông vừa ra khỏi máy bay đã làm ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp ông chưa bao giờ tưởng tượng được. Ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, mỗi ngày ông biết thêm những điều mà ông cho là từ “vô lý” này đến “vô lý” khác. Ai đời, một người dân nước khác đến như ông, mà chẳng cần phải khai báo, đăng ký tạm trú với chính quyền địa phương gì cả! Ai đời, người già, người tàn tật, dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa đi làm ngày nào trên đất Mỹ, chỉ được thân nhân bảo lãnh sang đây, cũng được hưởng tiền trợ cấp và bảo hiểm sức khoẻ! Ông bảo nước Mỹ giàu có quá hoá... ngu ! Chúng nó bảo lãnh nhau sang đây, thì vợ chồng, con cái chúng nó phải nuôi nhau, lo cho nhau, việc gì nhà nước phải đứng ra trợ cấp? Đã thế, tiền trợ cấp hàng tháng được gởi tới tận nhà, không trễ nãi, trong khi ở làng quê ông, với đầy đủ giấy tờ trong tay mà phải chầu chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong. Hai tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có lẽ vì ông được ăn uống đầy đủ, không phải vác cuốc ra đồng mỗi ngày, và nhất là ông đã cảm nhận một đời sống tự do, thoải mái? Có thể vì vậy mà ông chưa muốn trở về làng quê, dù đôi lúc ông cũng nhớ con nhớ cháu, dòng máu giang hồ đang trỗi dậy trong người ông, y như ngày xưa, thời ông trôi dạt đó đây. Ông Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to dày ngày xưa bố mẹ tôi đã mang về tặng ông, chắc đây là chiếc áo ông quý lắm và chỉ mặc khi có chuyện “đại sự” nên trông vẫn còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo ông bỏ đi và dẫn ông đi sắm vài bộ đồ khác ở chợ Wal- Mart. Ông Mấn tưởng đấy là cửa hàng quần áo sang trọng bậc nhất thế giới mà ông đã hân hạnh được vào, dù bố tôi đã nói đây là cửa tiệm bình dân, nhưng ông nào tin, cứ cho là bố tôi khiêm nhường hay nói đùa.Ba tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới ngày ông phải trở về Việt Nam. Chúng tôi sắm cho ông hai va li đầy ắp những quần áo và quà cáp. Cả nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi đi vào trong cổng, ông đã nắm tay bố tôi, ân cần, thân thiện như “chú Mấn” ngày xưa. Ông cười nhếch mép: - Kiếp sau, chú vẫn sẽ là một thằng thích giang hồ, xa xứ. Nhưng chú sẽ bước thẳng tới bất cứ miền nào, vùng đất nào có tự do, dân chủ và no ấm... Máy bay cất cánh, mang ông Mấn trở về Việt Nam, về ngôi làng quê, nơi có con đường tráng nhựa, có những căn nhà gạch, có ánh điện, có ti vi, có đài và có căn chòi heo hút bên nghĩa địa.. . Nhưng chắc chắn giấc mộng dài của ông về một đất nước xã hội chủ nghĩa thì không còn nữa.
Nguyễn T. Thanh Dương
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Nov/2011 lúc 10:37am
Trên 65 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm .. Con người ta sinh ra, ai thoát
khỏi: sinh, lão, bệnh, tử? Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không
có cách chi thay đổi được. Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum
xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng,
chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc.
Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.
Ðời người là bể trầm luân, cõi thế
gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa
mới sinh Ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao
nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2
chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại
trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra
được..
Ðời người như giấc mộng. Người
ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người
ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có
thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa. Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những
cái vô thường của tuổi gìa,. Ðến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã
mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiến, thất vọng, nuối tiếc. Khi
đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này,
cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm
răng cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối
đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng ngãng, mắt đã kèm
nhèm.
Người VN mình vốn cần kiệm, chăm
làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất
kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người
Âu Mỹ..Suốt đời cặm cụi, ăn nhịn để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi
chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi. Người xưa đã
nói:
Một năm được
mấy tháng xuân
Một đời phỏng
được mấy lần vinh hoa
Chẳng ăn, chẳng
mặc, chẳng chơi
Bo bo giữ lấy
của trời làm chi
Than thân rằng
thuở đương thì chẳng chơi
Con người có tham vọng, có nhu cầu
nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên
mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng
thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần:
Ông Cả ngồi
trên sập vàng
Cả ăn, cả mặc,
lại càng cả lo
Ông bếp ngồi
cạnh đống tro
Ít ăn, ít mặc,
ít lo, ít làm
Ðời người sống
mấy gang tay
Hơi đâu cặm cụi
cả ngày lẫn đêm
Ăn con cáy, đêm
ngáy o..o
Còn hơn ăn con
bò, mà lo mất ngủ.
Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới
vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần
thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống
được tới 70).
Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con
người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn. Những phát
minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà
người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống
tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc.
Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy
thì cần phải giữ cho thân tâm được an lạc.
Tâm thân an lạc là biết vui với
những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh
khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm.
Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có
khoản tiền trợ cấp cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con
cháu. Các cụ gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá
khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè. Gìà thì phải chịu đau
nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã
không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung
quanh.
Ở đời mỗi người một cảnh, vui với
cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh.
Biết đủ thì đủ (Tri
túc, tiện túc). Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần
thưởng cho thêm (bonus) của thượng đế. Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng
những ân sủng mà không phải ai cũng có được.
Ðời
sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với
cuộc SỐNG |
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 11/Nov/2011 lúc 12:37pm
Đừ http://xa.yimg.com/kq/groups/4603294/1608662537/name/Dung_de_qua_tre.pps - - ng - _quá - pps
<<<
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 11/Nov/2011 lúc 1:38pm
Bài nầy hay.
Nhưng viết ở trên là: "Trên 65 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng...."
Phần cuối lại viết: "...trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng...."
"Viết tiếng Việt dễ mà khó", hihi
------------- Lộ Công Mười Lăm
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 17/Nov/2011 lúc 11:34pm
Ăn Tết Hụt
Tác giả: Nguyễn Thế Hoàng
Ðịnh cư tại Hoa kỳ ba mươi năm rồi tôi chưa một lần về Việt Nam. Thỉnh thoảng cũng muốn về để ăn một cái Tết ở quê nhà, đồng thời thăm viếng mồ mả ông bà, thăm lại cảnh cũ người xưa, bà con làng xóm, thăm bạn bè ai còn ai mất, họ đang làm ăn ra sao, họ đang sống như thế nào. Ðiều này cứ ám ảnh mãi trong tôi mỗi lần Tết đến trên xứ người. Năm nào còn chừng mười lăm, hai mươi ngày đến Tết lòng cứ nôn nao. Vậy mà cũng chưa thực hiện được mng qui cố hương để được nhìn lại nét đẹp truyền thống ngày Tết quê hương. Ra hải ngoại bao nhiêu năm cũng nêu cao, pháo đỏ, bánh chưng, trà hương, bánh mứt, mai vàng, lân múa xập xoè...ở các cng đồng người Việt, nhưng chưa đậm đà hương vị Tết như trên quê hương mình.
Suốt năm lo làm ăn thế mà tiền bạc không mấy dư dả. Công việc bề bn, tất bật suốt năm không ngớt. Nếu có để dành được trong năm, đến cuối năm phải lo mọi thứ cho cái Tết gia đình rồi đâu lại vào đó. Không còn dư lại đành hẹn Tết năm tới. Ngọc, bà xã dễ thương của tôi và mấy đứa nhỏ cứ vài năm lại về Việt Nam một lần ăn Tết. Mỗi lần đi là Ngọc cứ thủ thỉ rù rì kêu nài tôi cùng đi cho có vợ có chồng theo như ý nghĩ của nàng là vui cùng hưởng, buồn cùng chia, có khó khăn vất vả giữa đường là có mà lo cho nhau. Nàng thật là con người quá lo xa. Nghe thì cũng mủi lòng thật mà trong dạ thì ngần ngừ nửa đi, nửa ở. Tôi lên nước làm eo nại cớ đi trọn b gia đình không ai trông nom nhà cửa, bỏ phế là mất sạch sành sanh, qua lại lấy gì mà ở, xe đâu mà đi. Không ai chăm sóc mấy cái bill nợ nhà, nợ xe, điện, nước...Ði nhiều người tốn tiền nhiều, có đi ít đở tốn cho gia đình có sao đâu. Thôi thì em và các con đi đi, phần anh thì dành cho năm tới. Năm tới, rồi năm tới nữạ..cứ mỗi lần Tết sắp đến lại hẹn.
Nghe người ta nói nhiều chuyện vui, chuyện buồn xảy ra mỗi ngày trên quê hương lòng cứ bâng khuâng điều này điều nọ. Phố phường nhà cửa bây giờ xây dựng ngổn ngang, vô trật tự, mất hết những dấu vết ngày xưa. Người xe tấp nập không lối chen chân. Thực phẩm thiếu vệ sinh, ăn vào thường bị tiêu chảy. Buôn bán giá cả thách trên trời dưới đất người mua không biết đâu mà mò cho đúng giá. Ðĩ điếm, trụy lạc tràn lan như nước vỡ bờ. Nạn cúm gà đang hoành hành dữ di. Tư bản đỏ lắm tiền nhiều bạc nhờ tham nhũng bóc lt người dân, bòn rúc ăn cắp tài sản quốc gia, vung tiền ăn chơi tiêu xài thật chóng mặt. Việt kiều bây giờ đã lép vế rồi, mất đi cái hào phóng ngày trước. Nhắc hai tiếng Việt Kiều tôi rất hoảng sợ. Tôi không dám nhận mình là Việt Kiều. Tôi chỉ là người dân đi lánh nạn cng sản một thời gian rồi về bà con ơi ! Ai cũng nhận mình là Việt kiều, khúc rut nghìn dặm để hãnh diện với người dân nghèo trong nước, để cho nhà nước việt cng ve vãn nút sạch núm rut. Còn người trong nước thì nghe đến hai tiếng Việt kiều nhất định họ nghĩ trong túi phải có một xấp đô la dày cm. Có đô la là có tiền đầy ắp trong túi tiêu xài ngớp mặt ai mà không ham chứ, để ăn chơi vung vít cho đời biết mặt. Hãnh diện cái mác Việt kiều, cứ thích tiếm dụng những tước vị kỷ sư, bác sĩ, giám đốc, chuyên viên...tài năng xuất chúng trên xứ người để cho đời ngp thở với mình. Tàn cuc, quay ra hải ngoại hì hục đầu tắt mặt tối xác xơ thân phận, è cổ ra kéo cày chẳng khác nào một tên cu li hạng bét. Thấy vậy cũng buồn cho người mình rồi chẳng muốn về nữa.
Mới năm ngoái, nhà tôi và mấy đứa nhỏ lại về, đã năn nỉ tôi cùng đi, vậy mà tôi cũng chưa đi. Có lẽ nhà tôi ghiền về Việt Nam lắm. Rồi Ngọc nhất quyết bảo kỳ tới, có nghĩa là hai năm tới anh phải về với em một chuyến, lần này em nói là anh phải nghe em. Tôi chưa có ý kiến gì với "chỉ thị" của bà xã, cũng vì chuyện về Việt Nam ăn Tết cũng chưa mấy hấp dẫn trong tôi. Thế mà bây giờ cái "tiêu đề" về quê ăn Tết sao nó cứ sôi sục, thôi thúc trong tôi một cách hết sức hấp dẫn và thú vị. Còn những hai tháng nữa mới đến Tết mà tôi tất bật đủ chuyện. Lo dành dụm tiền bạc, chắt chiu từ nhiều phía cất riêng. Rút tiền từ một credit card để dành sẳn. Những số tiền này là ngoại lệ dành riêng không dính líu gì với ngân khoản mà nhà tôi chi cho. Dự tính làm đơn nghỉ hai tuần lễ cng với hai tuần vacation, vị chi tôi được rong chơi ở quê nhà tròn tháng vào dịp tết năm nay. Ðồng thời chuẩn bị những cái lỉnh kỉnh mà tôi nghĩ rằng cần phải mang theo trong cuc hành trình.
Tôi quá nôn nóng đem chuyện bàn với bà xã dễ thương của tôi để dò xét phản ứng của nàng có điều gì rắc rối không cho kịp thời giải quyết. Tôi biết đàn bà rắc rối lắm, không đơn giản, dễ dãi như những người đàn ông chúng tôi đâu. Tôi khôn khéo chọn một giờ giấc đẹp nhất trong ngày để tỏ bày tâm sự. Tôi vào đề : - Em ạ, Tết này anh xin em để anh về Việt Nam ăn Tết nhen em. Em cho phép anh đi không ? Nhà tôi chưng hửng : - Hả ?! Anh nói cái gì ? Tôi biết thế nào Ngọc cũng phản ứng thật đáng ghét. Tôi xuống nước, nói nhỏ nhẹ như rót mật vào tai nàng : - Tết này em cho phép anh về Việt Nam ăn Tết một lần đi em ? - Anh đi một mình hả ? - Ừa ! anh đi một mình. Em đi nhiều lần rồi, giờ thì cho anh đi một lần chứ. Ngọc đỏng đảnh trề môi : - Sao anh không chờ năm tới về với em ? Ði một mình đâu có được. Em nhất quyết không cho anh đi về Việt Nam một mình đâu. Em nghe đồn nhiều rồi. Em sợ. Tôi khẩn khoản nài nỉ : - Ði một mình hoặc đi chung với em đâu có gì là khác, có gì em phải sợ. Anh đi, em coi nhà. Cùng đi hết nhà cửa không ai trông nom ? Ngọc hạch tôi : - Nhiều lần em bảo anh đi, anh nhất quyết không chịu đi, để em đi một mình buồn muốn chết. Giờ hà cớ gì anh đòi đi về Việt Nam một mình. Anh đi, em đi nữa, có chịu thì vợ chồng mình Tết này ăn Tết ở Việt Nam, em khỏi sắm sửa Tết nhất ở đây nhen anh ?
Mặt tôi bí xị, tôi lặp lại cái cớ : - Ði hết, ai coi nhà hả em ? Mãy cái bill ai trả ? Sao em không ưu ái cho anh một lần có được không ? - Anh đừng lo. Nhà đóng cửa, nhờ ông Mỹ hàng xóm trông giùm. Còn bill để đó về trả. Ðúng là đàn bà lắm cái rắc rối. Biết làm sao bây giờ đây ? Tôi cảm thấy không được vui cho chuyến về Việt Nam một mình kỳ này. Nhưng tôi cũng chưa chịu thua bà xã của tôi. Tôi đang tìm cách thuyết phục. Nhưng tối lại tôi được tin vui. Trong phòng ngủ, tôi đang nằm trên giường đọc tờ báo, Ngọc sà vào lòng tôi nũng nịu : - Anh muốn về Việt Nam trong dịp Tết này, thôi thì em cho phép anh đi đó. Thấy anh năn nỉ, không được vui, em thương anh. Nghe Ngọc thỏ thẻ nổi thương hại chồng thật đáng ghét nhưng lòng thì mừng vô cùng. Tôi ôm cứng Ngọc vào lòng nói ngọt như đường phèn : - Cám ơn em. Anh cám ơn em vô cùng. Anh chỉ về vài tuần rồi qua mà. Anh về với ý định thăm mồ mã, xem xét để ước tính xây các ngôi m, sợ để lâu lạn mất có ti với bề trên, đồng thời để ăn một cái Tết tại Việt Nam mình cho nó vui vậy thôi. Ba mươi năm rồi, anh thiếu chuyện đó. Ðt nhiên lại thấy thèm em ạ ! Anh cảm thấy thèm ghê dị.!
Bà xã dễ thương của tôi nằm ép sát vào tôi lên nước dặn dò thật bài bản : - Em chỉ cho phép anh về một mình lần này thôi đó. Lần khác có đi thì phải đi với em nghe chưa ? Về lo công việc rồi qua. Không còn ai thân nhân họ hàng, thì về ở nhà ông chú mà ăn Tết, không được lăng nhăng lít nhít chuyện gì nhé. Em mà biết được hả ? là anh khổ với em dài dài, đừng có trách em cơ. Tôi tiếp tục ca bài ca con cá rất ư là cảm đng : - Em ghen với anh nữa rồi. Ngoài em ra, những người khác đều vô nghĩa. Tin anh đi. Anh thề với em... Nghe tôi nói thề thốt, Ngọc bụm miệng tôi : - Tin hay không là quyền của em mà. Không có thề. Ðàn ông các anh khó ai lường được. Anh là chồng của em, em có quyền chăm sóc và gìn giữ anh. Ðừng có thắc mắc với em.
Tôi chỉ lo sợ Ngọc hiểu biết chuyện thì nguy mất. Tôi áy náy suy nghĩ, lo lắng. Ðã quá năm mươi, hai lần sinh nở, Ngọc vẫn trẻ đẹp mơn mỡn, trông qúi phái dễ thương lắm. Nàng là người vợ đảm đang trong gia đình và đã cho tôi một hạnh phúc toàn vẹn kể từ ngày cưới nhau. Ngày ấy, Ngọc và tôi cùng dạy học tại trường trung học công lập Duy Tân, Phanrang. Còn Lài, bạn gái rất thân của Ngọc cũng là cô giáo dạy chung trường. Cả ba chúng tôi đã trở thành những người bạn rất thân. Từ tình bạn chuyển sang tình yêu không mấy chốc. Tôi yêu Lài. Tôi lại yêu luôn cả Ngọc. Hai người bạn gái đồng tuổi, đồng tài sắc mười phân vẹn mười. Ngược lại cả Lài và Ngọc yêu tôi say đắm. Mối tình tay ba thật đằm thắm và khắn khít. Ngọc và Lài đều nhận ra rằng mình cùng đang yêu say đắm một người. Ai cũng muốn chiếm cho bằng được người mình yêu, vậy mà không ai tỏ ra giận hờn, ghen tị với nhau. Chúng tôi có nhiều kỷ niệm cho tình yêu của những ngày tháng nóng bỏng đó.
Những lúc vắng Lài là có Ngọc âu yếm chia xẻ tình yêu bên tôi như bóng với hình. Khi Ngọc vắng mặt, Lài và tôi trao cho nhau tình yêu nồng thắm quấn quít bên nhau không rời nửa bước. Trước tình huống hai người bạn gái cùng yêu tôi một lúc, đôi khi tôi lại cảm thấy phân vân khó xử vô cùng. "Ðàn ông năm bảy trái tim - Trái trao cho vợ, trái tìm người yêu ". Hoặc, Sông bao nhiêu nước cũng vừa - Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng." Chuyện ông bà mình ngày xưa bảo người đàn ông là như thế đó. Bây giờ tôi biết đặt ai là vợ, ai là người yêu, vì hai người bạn gái đều cân phân vẹn toàn cả hai. Vợ thì ăn đời ở kiếp. Người yêu thì nay gần mai xa. Thật là khó xử cho tôi lắm người ơi ! Thương người này mà bỏ người kia thì cũng ti. Mà thương hết hai người cũng khó xử lắm cơ. Tôi nảy sanh ra ý định rời bục giảng, ghi tên vào quân đi để nhờ thời gian và sự xa cách giúp tôi một thử thách chọn lựa. Nhưng càng đi xa, thì... em càng nhớ anh, thế mới khổ. Ngọc và Lài cứ đồng loạt cùng rũ nhau đi thăm tôi tại quân trường, ở các vùng đóng quân xa xôi vào những ngày cuối tuần hoặc trong các dịp nghỉ hè.
Cho đến lúc chuyện tình tay ba không biết có đẹp hay là không đối với Lài sau gần ba năm trời ươm mng. Còn với Ngọc thì đã vẹn câu thề khi tôi quyết định làm đám cưới với nàng. Ngày cưới của tôi và Ngọc, Lài đã ngẩn ngơ chua xót để buồn thương cho một mối tình mất mát. Trước ngày cưới, Lài mời tôi và Ngọc dự bửa cơm đạm bạc tại nhà nàng. Lài chúc mừng vợ chồng tôi vẹn toàn hạnh phúc và cũng đừng bao giờ quên nàng. Lài nói thẳng với Ngọc : - Em chúc mừng anh chị. Hạnh phúc của chị có hôm nay cũng chính là hạnh phúc của em hy sinh cho chị. Chị biết chứ ? Em không có gì phải ghen tương hoặc trách móc chị, vì chúng ta mỗi người đều có duyên phận mỗi người. Với anh Tâm, em có duyên, không phận. Chúng ta hãy gắng giữ tình bạn cho nhau. Em chỉ mong chị một điều, hãy chăm sóc anh thật chu đáo để anh được hạnh phúc bên chị. Như thế chị Ngọc nhé. Lài nói với tôi trong nước mắt : - Không đưọc làm vợ của anh, chính đó là nỗi bất hạnh đối với em. Em thề có đất trời chứng giám, không được sống bên anh, em sẽ ở vậy suốt đời cho đến ngày nhắm mắt. Ngoài anh, em không thể yêu thương một người nào khác. Em hy vọng anh được hạnh phúc bên cạnh người vợ tài sắc của anh. Còn em, tình yêu anh vẫn không phai mờ trong tim em, anh Tâm, hãy hiểu cho em. Chuyện tình tay ba kết thúc sau ngày cưới của tôi và Ngọc. Thời gian đi qua, tôi cầu xin mọi điều may mắn đến với Lài, giúp nàng tìm được niềm vui bên cạnh một người đàn ông vừa ý . Ðến một năm sau miền Nam bị giặc phương Bắc cưỡng chiếm, tôi đưa gia đình di tản tìm tự do. Từ lúc đó vợ chồng tôi không còn nhận tin tức về Lài. Chỉ một lần tôi được biết Lài vẫn còn ở trong nước, cùng vài người bạn vào Saigon mở tiệm may và sau đó không còn biết gì thêm nữa.
Ðối với Ngọc, thỉnh thoảng tôi nhắc đến Lài, nàng cảm thấy khó chịu và không bằng lòng. Những năm sau nữa, vài lần tôi nhắc đến Lài, Ngọc thẳng thừng nói với tôi : - Em không muốn anh nhắc đến chuyện cũ nhất là nhắc đến tên chị Lài là em không thích. Trong tim anh chỉ có em mà thôi. Chuyện ngày xưa anh hãy quên đi nhất là chị Lài. Anh phải hiểu như thế cho em. Thôi thì tôi phải nghe theo lời bà xã, nhưng trong lòng tôi vẫn còn vấn vương đến người bạn ấy với những suy nghĩ thánh thiện. Hơn ba mươi năm, đời sống của Lài ra sao ? Nàng đã lập gia đình chưa ? Tôi hy vọng Lài đang hạnh phúc bên chồng. Tôi đã không còn nghĩ gì đến tình yêu của hai người đã có trước. Tôi hy vọng được giúp Lài điều gì đó trong tình bạn mà mình có thể làm được.
Tình cờ mấy tháng trước tôi được đọc một tờ báo trong nước do một người bạn về Việt Nam mang sang. Khi đọc các mục quảng cáo tôi biết Lài đang làm chủ một xưởng may lớn. Trong trang quảng cáo xưỡng may của Lài có đủ địa chỉ, số điện thoại, cả địa chỉ email. Tôi mừng và dấu kín Ngọc việc này, vì Ngọc đã không còn muốn nhắc đến Lài cũng chỉ vì nàng không còn muốn tôi nhắc nhở đến người bạn gái ngày xưa. Tôi khởi sự email cho Lài để thăm hỏi. Lài trả lời ngay sau đó. Lài rất mừng khi được biết tin tức về tôi và Ngọc. Lài vẫn giữ lời từ ngày đó, không lập gia đình với ai. Lài miệt mài với công việc kinh doanh hằng ngày, và phụng dưỡng cha mẹ già ở quê. Nàng vẫn còn nghĩ về tôi và Ngọc và hy vọng sẽ có ngày gặp lại nhau. Lài cho biết cuc sống tương đối đầy đủ và không còn mong gì hơn. Lài nài nỉ vợ chồng tôi Tết này về Việt Nam ăn Tết để được hi ng, vì xưỡng may cũng sẽ nghỉ nhiều ngày trong dịp Tết để nàng có nhiều thì giờ tiếp đón chúng tôi. Tôi nhận lời về Việt Nam một mình trong dịp Tết này. Nếu có rủ Ngọc, tôi biết nhà tôi sẽ từ chối thẳng thừng, còn có thể ngăn trở chuyến đi của tôi. Thôi thì đi một mình cũng được, về thăm quê hương, ăn Tết một lần ở quê nhà, thăm mồ mả, thăm bạn bè, cảnh cũ người xưa và nhất là để biết được cuc sống của Lài một cách cụ thể. Email cuối cùng tôi cho Lài biết những suy nghĩ của tôi, ngày giờ về, chuyến bay và một vài chi tiết đón tại phi trường.
Còn mười hôm nữa đến Tết tôi thu xếp công việc. Ngọc căn dặn tôi việc gởi, nhận hành lý, lúc chuyển máy bay, khai báo hải quan...theo kinh nghiệm mấy chuyến đi vừa rồi của nàng. Ngọc nghiêm chỉnh cứ nhắc chừng tôi đừng đi rong chơi nhiều, coi chừng móc túi, bệnh tật lúc này nhiều lắm, không chừng chúng cuỗm hết giấy tờ, không còn để trở lại Mỹ mà nàng đã từng nghe và từng chứng kiến. Ôi thôi ! Ngọc nhắc đi nhắc lại đủ thứ chuyện nghe nhức cả cái đầu ! Chưa hết, Ngọc còn chọn những b quần áo thật đẹp của tôi và mọi thứ lỉnh kỉnh xếp vào một va ly đầy ắp. Những món quà Tết cho vợ chồng ông chú và của mấy người bạn của Ngọc được nàng ghi chú cẩn thận từng món xếp vào một va ly khác. Những món tôi cần mang theo thì Ngọc vứt ra, những cái tôi không thích, nàng lại xếp đầy trong hai va ly. Tôi chịu trận để cho bà xã muốn sao thì muốn, căn dặn điều gì đó thì căn dặn, thật ra thì mình cũng không đến nổi nào ngu ngơ, và cũng muốn chuyến đi được êm thắm, nếu rủi, lỡ Ngọc thay đổi ý định thì tôi cũng chẳng biết làm sao bây giờ.
Lúc ngồi trên máy bay lòng tôi nôn nao, bề bn những suy nghĩ. Tôi đang nghĩ về Lài nhiều hơn cho chuyện gặp gỡ sau hơn ba mươi năm. Nếu ai bảo rằng dứt khoát quên đi như Ngọc thường nói với tôi thì chắc chắn cũng khó có thể dứt khoát được. Tôi vạch cho tôi chương trình vui Xuân ăn Tết trong những ngày đầu năm trên quê hương. Nhất định tôi phải thuê phòng ngủ để thuận tiện thăm Lài trong thời gian ở Saigon. Tôi phải về nhà vợ chồng ông chú, đi trao quà Tết cho những người bạn của Ngọc, đi thăm mồ mả, thăm vài người bạn thân... trở lại Saigon cùng Lài đón giao thừa, mừng Xuân, đi du ngoạn các thắng cảnh...và còn những tiết mục khác sẽ có sau đó để cho qua hết ba mươi ngày được phép về quê ăn Tết. Càng phác họa, suy tính, lòng tôi rn lên niềm vui như chưa từng có.
Phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong quang cảnh nhiều thay đổi không còn gì quen thuc trong ký ức của tôi. Tôi cũng đã nghe nhiều về b mặt đất nước đổi thay sau ngày đổi chủ. Ba mươi năm thời gian nửa đời người, sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại là điều phải xảy ra. Người Việt Nam ở nhiều nước trên thế giới về Việt Nam ăn Tết đông đảo. Hôm nay ngày đưa ông Táo về trời, lượng ngưòi về nườm nợp. Họ đi và về hằng năm không biết mệt mỏi cũng vì tình cảm con người luôn gắn bó với quê cha đất tổ. Từ lúc xuống máy bay, nhìn mọi nơi tôi chẳng còn tìm thấy một khuôn mặt quen thuc. Tôi cảm thấy đang như kẻ xa lạ, lạc lõng giữa lòng quê hương không còn gì gắn bó ràng buc. Làm thủ tục hải quan, nhận hành lý, tôi vi vã tiến ra khu vực thân nhân đưa đón đang lố nhố dày đặc người. Lòng tôi càng lúc càng nôn nao kỳ lạ. Sự mệt mõi sau những giờ ngồi trên máy bay bị lắc lư nhồi xốc vì thời tiết xấu đã không còn nữa. Tôi đang chuẩn bị tinh thần để nhìn ngắm người bạn cũ ba mưoi năm lắng sâu trong tiềm thức. Mọi người nối đuôi nhau bước qua khu vực chờ đợi. Hai tay tôi kéo hai va ly, mắt thì nhớn nhác tìm kiếm Lài trong đám đông người dày đặc trước mặt.
Ðã năm phút, tôi vẫn chưa tìm thấy Lài giữa đám đông. Có thể nàng đến trễ hoặc đang đứng một nơi nào đó chờ tôi. Xung quanh tôi bao nhiêu cảnh đưa, đón diễn ra đầy nước mắt cũng như vang vang tiếng cười thật náo nhiệt và cảm đng. Lòng tôi se thắt và chùng xuống trước cảnh kẻ ở người đi, hoặc vui vui trước nổi reo mừng đoàn tụ của người trở về. Ðt nhiên, Lài đến bên cạnh tôi lúc nào không hay. Lài ôm chầm lấy tôi sau lưng, reo lên trong tiếng cười giòn giã : - Anh Tâm ơi ! Em đây nàỵ.! Anh Tâm ! Anh không nhận ra em sao ? Em đã nhìn thấy anh từ đằng xa kìa.. và...và .em làm cho anh ngạc nhiên đâỵ..anh Tâm...
Lài ôm cứng bất ngờ sau lưng tôi khiến tôi không kịp phản ứng. Tiếng nói của Lài hồn nhiên và tươi vui quá. Vẫn là giọng nói ngọt ngào trong trẻo ngày xưa tôi đang có lại. Giọng nói nhẹ nhàng ấy đã cuốn hút tôi vào tình yêu của nàng ngày ấy thật mãnh liệt. Tôi thả vi hai va ly xuống đất, xoay người lại. Lài cũng vừa buông hai tay ra. Chúng tôi nhìn nhau trong say đắm lòng bồi hồi xúc đng. Niềm vui đang tràn ngập trong ánh mắt, nụ cười, trên nét mặt rạng rỡ của hai kẻ đã từng một thời yêu nhau và xa cách nhau. Tôi nắm hai bàn tay mềm mại tươi mát của Lài kéo nàng sát vào người, nhưng rồi tôi kịp thời dừng lại. Tôi nhìn Lài kỹ hơn. Lài vẫn trẻ đẹp như ngày nào chẳng một thay đổi nào khác trên dáng sắc đài các của nàng.
Tôi nói : - Nếu anh nhìn thấy em trước là anh nhận ra em liền. Em không có gì thay đổi. Ngày trước thế nào, ba mươi năm sau vẫn vậy. Xa nhau lâu rồi mà cứ ngỡ như ngày hôm qua. Lài nheo đôi mắt nhìn tôi cười thật tươi, nét mặt nàng sao quyến rũ lạ thường : - Anh Tâm ơi, anh biết không, em gặp lại anh, em mừng lắm anh Tâm à. Mừng vì được gặp lại anh ngày hôm nay. Mấy đêm nay em đã không ngủ được, chỉ chờ đợi giây phút được gặp anh. Nhờ trời, cuc sống của em bình thường, ăn, ngủ, làm việc, vui chơi bạn bè... hồn nhiên vô tư, em chẳng suy nghĩ hoặc lo lắng gì, thỉnh thoảng thoáng nhớ đến anh và chị Ngọc để cho lòng ấm lại. Còn anh...anh Tâm.....anh có nhớ đến em không hả anh Tâm...?
Lài nói một thôi dài như trút cạn tâm sự bị dồn ép từ lâu, chúm chím đôi môi hồng xinh xắn lạ thường, cười mũm mĩm nhìn tôi đắm đuối. Ðôi mắt đen long lanh quyến rũ ấy, đôi môi hồng xinh xắn ấy đã một thời làm tôi điên dại cõi lòng, giờ đang ở trước mặt tôi. Bao vấn vương tình yêu một thời của hai người đang bừng dậy trong lòng. Bây giờ cũng đôi mắt này, đôi môi này đang chờ đợi, mời gọi, khiêu khích. Lài nhìn tôi say sưa trong nổi mừng rỡ và cuốn hút....Tôi đang ngất ngây tê daị, nhưng cố kiềm lòng. Tôi thoáng nhìn chỗ khác, rồi giả vờ cúi xuống nắm hai quai va ly để cố tránh nổi đam mê đang bc phát của người yêu cũ. Tôi nói như để giải thích cũng bởi tình cảm đt biến không còn kiềm giữ được như để vui lòng người bạn gái : - Em, sau bao nhiêu xa cách, chúng mình không gặp nhau, giờ gặp lại em, anh xiết bao vui mừng. Anh sẽ có nhiều thì giờ để chúng ta hàn huyên trong một tháng về đây ăn Tết. Ăn Tết bên cạnh em. một tháng dành trọn cho em, Lài ạ. Lài vẫn hồn nhiên như ngày xưa khi tôi nói những điều gì vừa ý : - A hả ! Phải là như thế với em. Nhớ đó nhen anh Tâm. Em muốn anh phải ở bên em tất cả thời gian anh về đây. Hơn ba mươi năm, em mới có được ngày hôm nay. Anh Tâm, anh có hiểu lòng em không ? Anh Tâm, anh có suy nghĩ gì về em ? Ðừng để em thất vọng, vì em cũng đã hy sinh cho anh chị nhiều lắm rồi. Anh trả lời em đi, anh Tâm. Tôi không trả lời những câu hỏi tới tấp của Lài, cũng vì tôi lại rất lo ngại phải trả lời những điều Lài vừa hỏi trong lúc tôi cũng vừa quân bình được tinh thần. Tôi giả tảng nói sang chuyện khác : - Mình về bằng cách nào ? Em có thể gọi cho anh taxi, chúng ta về. Lài xuýt xoa : - Cứ mãi vui mừng gặp gỡ nhau rồi quên mất. Em đưa anh về. Anh hãy đến chỗ này chờ em đi lấy xe.
Tôi đứng đợi Lài sau chừng năm phút. Nàng lái chiếc Camry màu bạc đến. Chúng tôi đưa hai va ly lên xe. Chiếc toyota đời mới vun vút trên đường. Ngồi bên cạnh Lài, tôi nhìn nàng rõ hơn. Lài cùng tuổi với Ngọc, vẫn đẹp, vẫn còn trẻ măng như Ngọc. Chiếc jupe màu tím than, với áo lụa trắng mỏng, không tay, hở cổ, sít sao, nổi bật làn da trắng mịn, những đường nét khêu gợi cơ thể. Mái tóc thật dày, đen mượt xỏa tràn xuống đôi bờ vai cân đối trên vùng ngực nâng cao phập phồng theo hơi thở.. Lài đẹp rực rỡ, quí phái, càng nhìn càng say đắm cuốn hút. Tôi lại đang bị ngây ngất trước nhan sắc rực lửa nhìn Lài không chớp. - Gớm ! anh nhìn em say sưa dữ di thế, em có gì khác không hả anh Tâm ? - Chẳng khác gì, và còn đẹp hơn ngày xưa. Người đẹp, lái xe đẹp...thế mà cứ ở vậy đến già. Có thể nhiều kẻ si tình, tương tư ...ti nghiệp cho họ. Lài tỏ ý không bằng lòng : - Anh nói cái gì ? Cho đến giờ phút này, anh Tâm vẫn chưa hiểu em. Ngày xưa đã có lần em nói như thế nào với anh rồi, sao anh chóng quên. Ðời em chỉ có anh, không còn ai ngoài anh, và em, em như thế. Còn ai si tình, tương tư là quyền của họ.
Tôi bồi hồi vừa xúc đng vừa cảm phục đức tính chung thủy của Lài đã dành cho tôi và nghĩ rằng mình cần phải tôn trọng người bạn gái mình nhiều hơn . Tôi nghĩ không nên nói thêm gì nữa vì hôm nay tôi đâu còn cơ hi. Tôi nói lãng sang chuyện khác : - Em giúp anh lấy một phòng ngủ nào đó gần nhà em để anh dễ dàng đi lại với em trong những ngày về đây. Lại một lần nữa Lài lườm tôi tỏ ý không bằng lòng điều tôi nói. Nàng phụng phịu sa sầm nét mặt : - Em ghét anh nhiều lắm rồi đấy, anh Tâm, anh có biết không ? Trong email em đã nói với anh, giờ anh lại nói khác đi. Anh phải để cho em một cơ hi chăm sóc anh dù rất ngắn ngủi. Anh về đây là phải ở với em cho dù anh không muốn. Anh phải nhớ như thế, đừng làm điều gì khác ý em.
Nói xong, Lài nhìn tôi say đắm trong ánh mắt đen long lanh như cuốn hút tôi. Lài nói tiếp : - Anh hãy cho em một điều kiện. Nghĩa là, em đặt anh đâu là anh ngồi đó trong thời gian anh về đây ăn Tết. Ðược chứ anh Tâm ? Sự hy sinh tình cảm của em dành riêng cho anh chị và trong bao nhiêu năm em sống một mình, buc em đặt anh một điều kiện như thế. Nhà em có nhiều phòng, anh được tự do theo ý muốn, anh chớ lo chỗ ăn, chỗ ngủ...em sẽ chăm sóc anh hết mình như chị Ngọc đã chăm sóc anh hơn ba mươi năm qua. một tháng anh ở bên em, chưa bằng ba mươi năm ở bên chị Ngọc, anh có nhận thấy em đang chịu thiệt thòi. Ðó là điều kiện, mà em nghĩ rằng anh Tâm không nở quay lưng với em.
Từng lúc tôi lại như đang bị thôi thúc, nói chẳng suy nghĩ : - Anh chẳng có ý kiến. Anh đang bị em bắt cóc rồi. - Cứ nghĩ như vậy đi anh. Trong bao nhiêu năm chị Ngọc "cầm tù" anh. Ðối với em, chỉ một tháng em giam lỏng anh trong nhà em, thật hết sức nhỏ nhoi, ngắn ngủi. Anh cảm thấy bằng lòng chứ ? - Không bằng lòng cũng không được và cũng không ai nở từ chối lòng tốt của em. Nói thì nói vậy mà trong lòng cũng hơi lo, rủi mà Ngọc biết được cũng không để tôi yên, mặc dù Lài và Ngọc là hai người bạn rất thân. Ðã 5 giờ chiều. Xe và người di chuyển trên các con l đông đặc không lối chen chân. Người, xe đâu mà lắm thế này. Lài rất vất vả lách tránh để tìm lối đi. Tất cả đang như chờ húc vào nhau và tai nạn sẽ xảy ra liền liền trước mặt. Phố xá rực rỡ, náo nhiệt trong quang cảnh những ngày giáp Tết. Tôi không còn đoán được những con đường mình đã đi qua. Tất cả như xa lạ khiến tôi cảm thấy chóng mặt. Lài nói : - Thành phố thì chật, người ở đâu tràn về mỗi ngày mỗi đông, nhất là xe gắn máy nhiều vô số kể. Có hôm ra phố, em chỉ muốn đi b còn nhanh hơn anh ạ. - Nếu bảo anh lái xe, có lẽ anh chịu thua thôi. - Vậy mà không xảy ra tai nạn thế mới tài chứ. Ai ai cũng quen lối sử dụng công l theo kiểu bát nháo này.
Nhà của Lài nằm trên đường Thạch Thị Thanh, một tên nghe lạ hoắc mà trước đây chưa hề nghe, gần Dakao đi vào từ hướng đại l Vỏ Thị Sáu. Ðó là dãy nhà trệt được phân ra nhiều căn theo kiểu nhà phố, chiều sâu rất dài và có nhiều phòng. Lài cho xe vào sân và cùng tôi đưa 2 va ly vào nhà. Lài dẫn tôi đi qua từng phòng từ trước ra sau. Nhà có máy lạnh, đầy đủ tiện nghi cho một gia đình trung lưu ở đất Saigon . Mọi vật được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp, không thừa thãi và dễ thương. Lài chỉ cho tôi một phòng phía trước kế phòng khách dành riêng cho tôi, có giường nệm trải drap thẳng tắp cùng các tiện nghi để tôi sử dụng trong thời gian ở Saigon cũng vì tôi đã yêu cầu như thế qua email. Lài nhắc tôi thay quần áo, tắm rửa, nghỉ ngơi và nàng khởi sự chuyện bếp núc.
Tôi phụ Lài đem các thức ăn lên bàn ăn ở phòng ăn phía sau. Nàng líu lo : - Em đã chuẩn bị những thức ăn lúc sáng để đãi anh. Mọi thứ từ lớn đến nhỏ cho cá nhân anh, em đã lo cho anh đâu vào đấy. một giờ nhỏ nhoi bên anh là một giờ em sống trong hạnh phúc. Em chỉ cần như thế thôi. Từ giờ phút này em đang sống trong hạnh phúc mà từ lâu em mơ ước bên anh, khi anh và em cùng ăn bữa cơm tối đầu tiên tại nhà em. Em cũng đã mua sắm mọi thứ đâu vào đấy để anh và em vui một cái Tết trọn vẹn. Anh Tâm, anh có cảm thấy vừa ý không ? Anh hãy đón nhận nguồn hạnh phúc với em, vui vẻ và thật tình với em nhé, anh Tâm.
Tôi đang bị dồn vào thế chẳng đặng đừng,lòng cảm thấy rất vui và nói thật tình : - Nhất định như thế. Như em đã nói, em đặt anh đâu, anh phải ngồi đấy. Anh về chuyến này cũng để ăn một cái Tết thuần túy trên quê hưong mà bao nhiêu năm rồi anh chưa có lại được, và nhất định là phải ăn Tết bên cạnh em, nếu không em sẽ giận anh . - Cám ơn anh. Như thế là em mãn nguyện rồi. Em sẽ tổ chức một party dạ vũ tại nhà vào chiều 30 Tết, mời một số bạn rất thân của em đến dự, trong đó, anh là thượng khách của bữa tiệc. Em sẽ giới thiệu anh với các bạn của em, vì thỉnh thoảng em có nhắc đến anh cho các bạn em nghe. Ðến khuya thì chỉ còn hai chúng mình cùng thức đón giao thừa. Lài ngừng nói, gắp thức ăn vào chén, nàng tiếp : - Từ ngày mùng 1, mùng 2 Tết trở đi em sẽ lái xe đưa anh đi thăm viếng Dalat, Nhatrang, Vũng Tàụ..nếu có đủ thì giờ chúng mình đi Hà Ni, cùng vài nơi khác trong thành phố. Sau đó chúng mình về chúc Tết ba má em nhen anh Tâm ? Ðồng ý với em chứ ? - Không đồng ý sao được, nếu không thì anh chẳng về Việt Nam chuyến này. Cũng vì em mà anh về một mình, nếu không, anh sẽ phải đi cùng Ngọc.
Lài hỏi thăm về Ngọc và hai đứa con của tôi. Nàng phân trần : - Em không có ý gì với chị Ngọc, giữa hai người, em vẫn quí trọng tình bạn. Ngày trước em và chị Ngọc cùng yêu anh, anh hiểu chứ ? Em lại không được cơ may sống bên anh. Nếu em quyết chiếm được anh thì cũng chẳng khó khăn gì. Mỗi người đều có một duyên phận. Em đành chấp nhận hy sinh, có lẽ chị Ngọc không thông cảm cho em, em buồn thật đó. - Anh rất quí và cảm phục em đã chấp nhận sự hy sinh đó. Lài nhìn tôi say đắm : - Anh Tâm của em ! Bao nhiêu năm anh lập gia đình với chi Ngọc và sống trong hạnh phúc, anh đã nghĩ gì về em ? Anh còn yêu em như ngày nào nữa không ? Em nghĩ rằng ai cấm được anh điều đó, cũng như ai cấm em yêu anh hả anh Tâm ? Anh hãy nói cho em nghe đi. Em thích nghe. Tôi biết thế nào Lài cũng trở lại chất vấn tôi chuyện đó mà trên đường đi từ phi trường về nhà lúc xế chiều cũng như qua email nàng cũng đã hỏi. Trong khung cảnh rất riêng tư im vắng hôm nay giữa hai người tôi phải trả lời như thế nào đây để không phiền lòng hai người đàn bà đang yêu tôi. Tôi nói thật lòng : - Em cũng đã biết, anh yêu em, cũng như anh yêu Ngọc, Lài ạ. Sự có mặt của anh hôm nay trước mặt em đã nói lên điều đó. Nhưng Ngọc cũng là người vợ tuyệt vời của anh, anh yêu nàng và tình nghĩa vợ chồng luôn mặn nồng. Từ lúc đã không được sống bên em cho đến hôm nay, anh luôn mong em tìm được người bạn đời theo ý muốn. Cả Ngọc cũng thế. Trưóc đây nếu em là vợ của anh thì cũng đâu thua kém gì Ngọc. Lài ạ, em hiểu cho anh, có được chuyến đi về với em cũng không mấy dễ dàng vì Ngọc đâu muốn thả anh đi một mình, còn nằn nặc đòi đi với anh. Trong email anh đã hứa với em, nên bằng mọi cách anh phải dối Ngọc để không thể thất hứa với em.
Nói xong, tôi cảm thấy nhẹ người. Lài trề môi : - Anh nói, em tin. Nhưng mà coi chừng thiên hạ bắt cóc anh nếu anh đi lạc. Ðất Saigon này giờ ghê lắm, anh chưa biết đấy thôi. Chị Ngọc cũng cẩn thận gìn giữ anh ghê gớm. Nói thật, không ai dám bắt cóc anh ngoại trừ em. Em có thể bắt cóc anh và giữ anh mãi mãi trong ngôi nhà này. Em làm được chuyện đó rất dễ dàng, vì em yêu anh, đơn giản thế thôi. Anh Tâm, anh sợ không, cần là em ra tay ngaỵ..em nói thật, nhiều đêm nằm suy nghĩ, em ấm ức. - Bắt cóc anh em có lợi gì đâu, còn phải lo nuôi anh, chứ ở Việt Nam anh không thể làm nên tích sự gì. - Em đủ sức nuôi anh, bảo bọc anh suốt đời anh Tâm ạ. Tôi nói thêm cho Lài biết rằng tôi ở tại đây vài ngày rồi về quê thăm gia đình ông chú, trao quà Tết cho mọi người, sẽ vào lại trước 30 Tết. Chúng tôi tiếp tục chuyện trò đến khuya xoay quanh những kỷ niệm ngày xưa và cuc sống hôm nay. Tôi cố gắng gìn giữ trong lúc hai người đang ở bên nhau vì nghĩ rằng chúng tôi đã không còn cơ hi. Hãy mãi giữ tình yêu này trinh nguyên với thời gian và nhất là tôi đã dối Ngọc để có được sự gặp gỡ Lài hôm nay.
Sáng hôm sau, Lài đưa tôi đi thăm xưỡng may của nàng với hơn một trăm công nhân làm việc, Lài và một người bạn gái đã đứng ra kinh doanh gần ba mươi năm nay. Ba mươi năm dài, Lài đã tạo nên sự nghiệp vững vàng và tôi rất cảm phục. Lài giải bày : - Sau tháng 4/75 nghe tin anh chị di tản, em tìm cách vượt biên , nhưng còn ba má em không nỡ rời xa. Chế đ này đã buc em nghỉ dạy học, buồn quá, em cùng người bạn vào Saigon kiếm công ăn việc làm. Từ đó, em và bạn em đã phấn đãu mới có được ngày hôm nay. Giờ thì em chỉ cầu xin cuc sống được an bình là em mãn nguyện lắm rồi. - Anh chúc mừng em. Ðời sống em đã ổn định, anh an tâm cho em, anh đâu còn gì có thể giúp em nữa. Lài cười ngất, bông đùa : - Nếu anh sa cơ thất vận thì anh nhớ chạy về với em nhen anh Tâm. Lúc nào em cũng dang hai tay đón anh .....chờ anh mãi cho đến ngày cuối cùng. Tôi ở cùng với Lài vài ngày kế tiếp. Chúng tôi bên nhau chuẩn bị cho một cái Tết thật huy hoàng đầy đủ. Tôi và Lài đi mua sắm, trang hoàng nhà cửa để đón Xuân. Chiều nay, Lài đi vắng lo một số vấn đề cần giải quyết cho công việc xưỡng may cuối năm và có thể sẽ về trễ hơn. Tôi thu xếp mọi thứ ngày mai về quê thăm gia đình ông chú và trao quà cho mọi người chừng một hai hôm rồi trở vô ngay với Lài trong ngôi nhà này.. Ðang thu xếp vật dụng trong hai va ly, đt nhiên, điện thoại nhà reo, và tiếng nói đầu dây bên kia là của Ngọc.
- Alô ! Anh yêu của em đó phải không ? - Anh đây. Em và con khỏe chứ ? Em đang ở đâu gọi anh thế ? - Em và con vẫn khoẻ. Anh ạ, anh khỏe không ? Em không ở bên Mỹ. Hiện em đang ở nhà ông chú ở Việt Nam đây. Anh đã về Việt Nam đến mấy hôm nay rồi, anh đang ở đâu vậy ? Sao không thấy anh về nhà ông chú ? Anh trả lời em nghe đi. Vừa nghe xong, tôi ngỡ ngàng đến hốt hoảng. Không lẽ tôi đang trong giấc mơ. Tôi vi tìm cách bào chữa. - Em ạ, anh đang ở nhà người bạn, ngày mai anh sẽ về quê nhà ông chú. Em về Việt Nam lúc nào ? Tiếng Ngọc gằn từng tiếng trong điện thoại : - Anh yêu của em, anh nói thật đấy chứ ? Em không tin. Chứ không phải hiện anh ở nhà chị Lài hay sao ? - Em có nói đùa với anh không ? - Em không đùa với anh, anh ạ. Em nói anh nghe nhé, email của chị Lài gởi cho anh, anh in ra và em đã tìm thấy nó dưới tập giấy của anh để trên bàn viết sau ngày anh đi. Do đó, em mới biết được, và còn biết cả địa chỉ, số điện thoại để em gọi cho anh đây. Em xin lỗi anh. Em yêu anh, em đâu có thể để cho anh như vậy được, nên em đã về Việt Nam liền ngày hôm sau xem anh đang làm gì. Ðúng không ông chồng yêu quí của em ? Hiện anh đang làm gì tại nhà chị Lài, nói em nghe đi ?
Tôi nghẹn ngào. Cổ họng tôi dường như nghẹt cứng không thốt được lời nào. Mồ hôi lấm tấm trên mặt, đôi tai lùng bùng, tay run rẩy. Tôi cố tìm cách biện minh, nhưng chưa tìm được điều gì hửu lý. Tiếng Ngọc lại vang vang trong máy : - Anh của em, ngay bây giờ anh phải về ngay nhà ông chú với em, để ngày mai vợ chồng mình lên máy bay về Mỹ ngay. Vé máy bay em đang lo. Không có Tết nhất gì cả. Chồng em như thế, em còn gì để nghĩ đến Tết. Phải về Mỹ gấp ngày mai anh ạ, vì em phải gởi con nhà người bạn. Em đi bất ngờ không xin phép công ty, coi chừng bị đuổi mất việc. Từ nay em nhất quyết không để cho anh về Việt Nam một mình như thế này nữa đâu nhé. Nguy hiểm lắm cho cả anh và cả em. Em nói cho anh nghe, lúc em xuống máy bay, em muốn đi thẳng đến nhà chị Lài ở Saigon nhưng vì danh dự và lòng tự trọng của cả ba người đã dằn em xuống không cho phép em làm như thế. Anh hãy hiểu cho em. Anh về với em ngay bây giờ tại nhà ông chú nhen anh. Em đang chờ anh. Yêu thương anh lắm, anh biết không ? Dứt lời, Ngọc cúp máy ngay, và tôi cũng mong như vậy để tìm phương kế giải quyết. Suy đi nghĩ lại không còn cách nào hơn là nên rời khỏi nơi này. Rời khỏi nơi này là ổn thỏa đôi bên. Ðối với Lài, tôi sẽ phân trần, năn nỉ, xin lỗi và an ủi nàng sau. Ðối với Ngọc, tôi phải giữ hạnh phúc trọn vẹn với nàng. Tôi tìm giấy, viết cho Lài :
Lài thương yêu, Anh không thể cùng em ăn Tết như chúng ta đã chuẩn bị. Ngọc đang có mặt tại Việt Nam và hiện đang ở nhà ông chú của anh. Vì anh sơ sót, Ngọc đã đọc được những email của em đã gởi cho anh. Em thông cảm cho anh. Anh đã hiểu em vẫn yêu anh. Em sẽ buồn anh nhiều. Anh hy vọng nổi buốn đó sẽ dần dần vơi đi. Anh sẽ viết thư cho em sau khi anh về bên đó. Vì danh dự và lòng tự trọng, nên Ngọc đã không đến đây đối mặt cả anh và em. Chúng ta cám ơn Ngọc lối xử thế tốt đẹp đó. Ðồng thời, anh xin lỗi em, hãy tha thứ những sơ sót của anh. Trong những ngày sống bên em, anh hiểu thêm về em. Anh hẹn em vào dịp khác. Cầu mong tình yêu của chúng ta mãi mãi trong sáng, thánh thiện và vĩnh cửu. Chúc em an lành trong mùa Xuân này. Anh của em Tâm Tôi để tờ giấy viết trên bàn giữa phòng khách, lòng đau xót bồi hồi.Tôi đứng tần ngần vài phút nhìn quanh cảnh thân yêu trong ngôi nhà mà tôi cùng với Lài đã trang hoàng, sửa soạn để chuẩn bị cho một cái Tết huy hoàng và hạnh phúc. Tôi cố thu hết cảnh trí thân thương mà trong những ngày qua tôi và Lài quấn quít bên nhau. Từ giờ phút này tôi phải xa cách vĩnh viễn mang theo những hình ảnh thân thương đang sắp mất đi. Nhìn đồng hồ, tôi kéo vi hai va ly ra khỏi nhà và vẩy taxi để đến bến xe. Thành phố xung quanh tôi vẫn diễn ra cảnh ồn ào náo nhiệt trong không khí Tết. Thế mà tôi phải rời xa nó biết đến bao giờ mới trở lạị..!
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Nov/2011 lúc 9:29am
“xứ gì ngộ quá, đâu cũng có nhà mà không có chỗ đụt mưa..''
Bà con của một người bà con dẫn cô lên giúp việc nhà họ vào một bữa trời mưa. Cô vắt đôi tà áo ướt đẫm nước, tròn con mắt phân trần, “xứ gì ngộ quá, đâu cũng có nhà mà không có chỗ đụt mưa. Ở đâu cũng tường rào kín mít, kiếm đỏ con mắt mới gặp được mái hiên, tui mới đứng chút xíu đã bị kêu tránh ra cho người ta buôn bán. Phải ở dưới quê bà con còn đem ghế cho ngồi…” Ngay cái ngày đầu tiên đó cô đã mang một chuẩn mực mới đến với gia đình họ, tạm gọi là “phải ở dưới quê…”. Ngó mấy con cá rô nằm cạnh rổ cải bắp, cô thẩn thờ, trời ơi, phải ở dưới quê, mình nấu cá rô với bông so đũa, ngọt nước dữ lắm. Bông so đũa mùa này trổ trắng trên mấy bờ kinh, mật ơi là mật. Hàng xóm cãi nhau, cô ngó qua rào, “phải ở dưới quê thể nào cũng có người chạy tới can, người ngoài nói tiếng ngọt tiếng lạt, cũng đỡ căng lắm…”. Sau mỗi bữa ăn, cô tần ngần, “phải ở dưới quê, đồ ăn dư như vầy là nuôi được mấy con heo…”. Cả nhà chủ vừa buồn cười, vừa khó chịu. Họ đã sống một cuộc sống được xem là hiện đại, đầy đủ, họ hài lòng với những gì mình có. Nhưng cô giúp việc tỏ ra không mấy hài lòng, suốt ngày đi so sánh, mà so sánh với nếp quê mới kỳ cục. Phải ở dưới quê, ra vườn chút xíu là kiếm được rổ rau rồi, đâu phải mua chi cho uổng tiền. Phải ở dưới quê, mùa này gió chướng thả cửa, ở trong cái nhà hả họng đón gió sông, mặc sức mà… run, mở máy lạnh làm chi, ngộp quá chừng. Phải ở dưới quê, chặt cây chuối ra ao tập lội, khỏi mắc công đi hồ bơi. Phải ở dưới quê… Mỗi ngày qua, cô lại đưa ra một vài kiểu so sánh mới, chi tiết và tinh tế đến mức cô đặt cả bụi và cỏ lên bàn cân. Cỏ ở thị thành cũng vô duyên, phải ở quê, cỏ phơi khô, đem đốt, lấy tro trồng đậu, trồng dưa. Chủ nhà quen dần, thấy mến cái cách nói thẳng thừng, gọn lỏn, ngỏn ngoẻn, tỉnh bơ như thể cái xóm nhỏ heo hút kia mới chính là thiên đường. Và cô, dù đã xa mảnh thiên đường đó mà lòng còn cắm sào ở bến sông, níu mãi bụi ô rô, đọt nhãn lồng, hàng lơn nước xanh rêu, con gà mái quýnh quáng gọi đàn con đến bên ổ mối. Cô hòa nhập chậm, bởi bước chân cô kéo theo hàng hàng ký ức, lớp lớp nỗi nhớ. Dễ gì… Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu, so sánh. Chủ nhà từng nghĩ cuộc sống hiện đại, sung túc là thiên đường. Nhưng bây giờ thì họ hoang mang, thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ trước cô giúp việc ương bướng, bởi cô không nghĩ vậy, gì chớ, quê cô là nhất. Cô là người không dễ bị thuyết phục, kể cả lúc buộc phải đồng tình, ừ cái bếp này không khói, khỏi bị chảy nước mắt, nhưng không khói thì không thơm mùi củi ướt, mùi những con mối nhỏ, trứng kiến bị cháy vàng, mùi khoai lang vùi trong than. Mỗi khi cô “nhưng” nhà chủ thót tim, vì thấy mình thua là cái chắc. Nhiều lúc nằm nhìn cái máy điều hòa thấy mặc cảm dễ sợ, mặc cảm với những ngọn gió phóng khoáng thổi nước chảy tràn lên những bờ sông quê cô. Và việc có nhiều tiền cũng đôi khi làm nhà chủ bẽn lẽn, họ không bao giờ mua được cái chốn nhớ cho mình, với khói đốt đồng, bông khế rụng, mấy con ong bầu vo ve đục kèo nhà làm tổ. Sáu tháng, cô chỉ có cái lý duy nhất “phải ở dưới quê…” mà xiêu lạc cả nhà chủ. Họ bắt đầu cảm thấy cái nơi mà họ chưa từng đặt chân đến mới là thiên đường. Bữa cô về quê dự đám giỗ, họ nôn nao như chính mình trở về, đám trẻ con dậy sớm, lăng xăng dặn, chị Hai về nhớ đi câu thác lác, bứt bông súng, hái chùm ruột đem lên cho tụi em ăn nghen. Người lớn rảo qua rảo lại, ngó cô giúp việc nháo nhác bên cái giỏ, chỉ mấy hộp bánh tây, trà lài mà cô nhét vào, xổ ra, rồi lại nhét vào, mắc tức. Chút nữa thôi, chuyến tàu trưa sẽ đưa cô về lại thiên đường riêng mình. Nhà chủ ngó cái lưng cô giúp việc khuất dần và nghĩ thầm, mình đã từng có thiên đường, nhưng nó đã không còn nữa. Cô trở lại nhà chủ cũng một bữa mưa rào. Dường như mưa cuối mùa. Lui cui rửa đôi dép, cô cằn nhằn, “rầu quá, dưới quê bước ra là gặp sình lầy, dơ muốn chết, phải ở thành phố…”. Chủ nhà hơi khựng lại, ngỡ ngàng. Cô vẫn hồn nhiên, “đám giỗ làm bánh lủ khủ, phải ở thành phố, chạy ra chợ mua cho gọn…”. Lòng cô đã không còn buộc dây nơi bến cũ, thiên đường của cô cũng tan biến mất rồi. Rốt cuộc không có thiên đường nào hết. Chuyện bình thường thôi, cô đã được tiện nghi thành thị nuông chiều, nhận ra một chuẩn mực mới. Một trò chơi nhỏ của thời gian, nhưng mà chơi ác. Biết vậy, nhưng nhà chủ vẫn buồn, vì lòng họ đã neo vào một cô giúp việc quê mùa, hồn nhiên, chân chất của mưa xưa.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 21/Nov/2011 lúc 9:53pm
Một cơn giận
Thạch Lam
http://www.mediafire.com/?y46b04eezevv6p7 - http://www.mediafire.com/?y46b04eezevv6p7
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Nov/2011 lúc 10:00am
Chân dung một cô gái Việt Nam
|
Tác Giả: Tâm Thanh Căn phòng nằm trên bờ con sông con Askerelva chảy qua trung tâm thủ đô Oslo. Qua cửa kính ra ban-công, Diễm nhìn những cây phong lá úa vàng soi bóng trên nước, tưởng tượng nếu đây là một căn phòng trong ký túc xá sinh viên, với người yêu bên cạnh, thì thơ mộng biết bao. Nhưng bây giờ trước mặt nàng là ông cảnh sát di trú và bên phải là một người con gái, cỡ tuổi Diễm. Cô xin tầm trú. Trước khi lên đây, một bà cảnh sát đã khám xét người và hành lý của cô. Bà muốn tìm biết cô gái thật sự là ai, tên tuổi thật là gì, nhà cửa thật ở đâu. Trong ba bốn năm gần đây, nẩy ra một hiện tượng mới là mỗi năm có vài chục người Việt Nam tới xin tầm trú tại Na-uy, không một người nào là... người thật. Báo chí Na-uy gọi họ là ingen person, tương đương với nobody, Diễm và các đồng nghiệp thông dịch viên dịch đùa từng chữ là ‘vô nhân’. Trong cái túi xách nhỏ, có hình hai bàn chân, bà cảnh sát chỉ moi ra được một cái quần tây, một áo thung, một xú-chiêng, hai xì líp, một típ kem đánh răng, một bàn chải. Chân dung thật của cô gái không nằm trong cái túi xách. Bây giờ Diễm dịch cho ông cảnh sát thẩm vấn. “Cô tên gì?” ông cảnh sát hỏi, sau khi bật máy PC.
“Nguyễn Thị Vân.”
“Ngày sanh?”
“25.12.1988.”
“Như vậy là cô sanh vào lễ Giáng Sinh và năm nay cô 16 tuổi?” ông cảnh sát chiếu ánh mắt nghi ngờ trên cô gái ngồi trước mặt. Diễm đoán người đồng hương này nếu không già bằng Chúa Cứu Thế thì ít nhất phải hai mươi lăm tuổi. Nàng biết theo luật lệ hiện hành, trẻ vị thành niên được nhiều đoàn thể can thiệp và bảo vệ, và nếu được chấp thuận tị nạn thì có thể kéo thêm cha mẹ, em út. Nhưng Diễm đoán lầm về vụ kéo thêm cha mẹ: “Tên cha?” ông cảnh sát hỏi tiếp.
“Nói chung... Tôi không có cha.”
“Tên mẹ?”
“Tôi không có mẹ.”
“Ít nhất cũng có một người sanh ra cô chớ?”
“Tôi mồ côi từ nhỏ, không biết gì cả...”
“Cô có giấy tờ gì không, như sổ thông hành, căn cước chẳng hạn?”
“Không.”
“Không có giấy thông hành, làm thế nào cô có thể đi ra khỏi Việt Nam, và qua bao nhiêu biên giới tới đây được?”
“Không biết. Người ta đưa tôi đi.”
“Người ta là ai?”
“Nói chung nà người giắt đi đấy.”
“Có khi nào họ đưa qua trạm kiểm soát biên giới không?”
“Tôi không biết đâu là biên giới.”
“Cô rời khỏi Việt Nam bao giờ?”
“Không nhớ.”
“Cô nói phỏng chừng cũng được,” ông vẫy vẫy những ngón tay như con chim bay “một năm, một tháng, hay một tuần?”
“Khoảng một tháng.”
“Cô nhớ đã đi qua một thành phố nào đặc biệt, ví dụ Paris, Berlin, Bắc Kinh?”
“Không nhớ. Không biết.”
Suốt hai tiếng đồng hồ với hàng trăm câu hỏi, người cảnh sát chỉ nhận được một câu trả lời rất ư thoải mái “không biết.” Chạm phải những lời nói dối quá xấc xược, ông đỏ gay mặt như người bị xúc phạm nặng, nhưng lấy lại bình tĩnh, gõ vào máy vài dữ kiện vu vơ. Thấy hồ sơ sơ sài quá, ông ta cố gắng nhắc lại lần thứ ba một câu hỏi: “Cô nói lại tôi nghe, cô từ Việt Nam tới Na-uy bằng phương tiện gì?”
Cô gái chắc đã được học tập kỹ, dư biết rằng ông cảnh sát muốn truy ra hãng máy bay chuyên chở để qui trách nhiệm, nên quay sang thông dịch viên nói: “Chị lói với ló nà em đi bộ từ Cao Bằng sang Trung Quốc đấy, dzồi từ Trung Quốc đi bộ sang Nga, từ Nga sang đây bằng xe thùng đấy... Ðã lói mí ló dzồi mà cứ hỏi mãi thế!”
Diễm dịch lại câu nói, bỏ câu ‘chị lói với ló’ đi - vì nàng biết nó ngắn ngủi thế mà không tài nào dịch hết ý được. Ông cảnh sát ghi vào hồ sơ lời khai, chẳng cần biết đoạn đường từ Cao Bằng sang Nga dài bao nhiêu dậm, đi bộ mấy năm. Rồi ngẩng đầu lên hỏi theo đúng thủ tục: “Cô muốn gì tại Na-uy?”
“Xin tị lạn.”
“Lý do tị nạn?”
“Nói chung nà ở Việt Nam đói quá.”
“Tại sao lại chọn Na-uy làm nơi tị nạn?”
“Nói chung nà nghe người ta bảo ở La-uy sướng thì trả tiền cho đường giây đưa đi.”
“Cô phải trả bao nhiêu tiền?”
“Lăm ngàn đô.”
“Số tiền này từ đâu cô có, nếu cô đói?”
“Có cái ông gần nhà thấy tôi khổ thương hại cho tiền đi.”
“Ông ấy tên gì?”
“Không biết.”
“Ðịa chỉ?”
“Bên cạnh nhà tôi.”
“Hồi nãy cô nói vô gia cư, từ nhỏ sống ở ngoài đường?”
“Thì ở gần nhau ngoài đường.”
Diễm nghĩ bụng nếu có một nơi mà người vô gia cư có nhiều tiền như thế và hảo tâm như thế nhất định nàng sẽ tới đó xin tị nạn. Nhưng ông ta khoanh tay, ngả lưng ra đằng sau như muốn thư dãn, rồi bấm nút ‘print’ vào máy PC. Bên ngoài ban-công một con bồ câu đáp xuống, thấy bóng nhiều người, lại bay đi. Ông cảnh sát đưa cô gái xuống phòng căn cước dưới tầng trệt để chụp hình, lăn tay, làm thẻ căn cước tạm. Diễm cũng là dân tị nạn - mệnh danh là‘thế hệ thứ hai.’ Thấy cảnh này, Diễm nhớ lại những câu chuyện gian truân, bi hài mà ‘thế hệ thứ nhất,’ cha mẹ nàng, kể về chuyến vượt biên hai mươi sáu năm về trước, lúc nàng chưa sanh ra. Nhiều người hỏi tại sao phải liều mạng như vậy? Cha mẹ có một câu trả lời khá đặc biệt, tương đối khiêm nhường hơn phần đông - khát khao tìm một mảnh đất có thể lương thiện mà sống. Ông bà đã tìm được một mảnh đất như thế và sanh ra Diễm trên mảnh đất như thế. Diễm thừa hưởng tấm lương thiện như suối nhận nước mạch từ đỉnh núi cao tinh tuyền. Diễm không biết nói dối - gần như. Nói ‘gần như’ là để trừ những lần như mẹ hỏi có bồ chưa nói chưa, bố hỏi mua cái cà-vạt cho bố bao nhiêu nói nửa giá, bạn trai hỏi em giận cái gì, nói không có gì cả... Ông cảnh sát cầm từng ngón tay của cô gái lăn trên tấm kính đục, khi hình dấu tay hiện rõ nét và đầy đủ trên màn ảnh máy vi tính, với tín hiệu ‘Ready’, ông nhấn bàn đạp. Diễm nhìn những ngón tay thon khá đẹp của cô gái, tự hỏi tại sao cô có thể nói dối một cách tự nhiên như thế. Và Diễm cảm thấy một nỗi chán nản xen lẫn hổ thẹn về người cùng màu da.
Một chiều đầu mùa đông. Trận tuyết đầu tiên trong thành phố khiến đường xá hỗn loạn vì tai nạn xe cộ. Diễm rút trong cặp đi làm ra tờ báo cũ đọc lại, cho qua thời gian trôi rất nhanh mà xe buýt chạy rất chậm, và bụng bắt đầu đoi đói. Tin có nghi vấn ông Arafat chết vì bị đầu độc; tin tuyết lở ở Miền Tây khiến 60 chiếc xe bị kẹt giữa đường; tin cảnh sát bắt được chín người trong một băng ăn cắp toàn người Việt Nam, hoành hành từ nhiều năm trên toàn quốc. Số thiệt hại cho các cửa tiệm lên đến nhiều chục triệu. Các mặt hàng được băng đảng này ưa chuộng là dao cạo Gillette, mỹ phẩm L’Oréal, nhất là thuốc quệt lông mày và tô mắt, có cả dầu cá. Chưa bắt được người đầu sỏ của tổ chức, nhưng trong số những người bị bắt có một người đàn bà tầm trú can dự vào 19 vụ có tang chứng, người này đã có bốn tiền án ăn cắp. Chuông điện thoại reo. Cảnh sát di trú cần Diễm đi thông dịch gấp. Cảnh sát hẹn mang xe đón đường xe buýt để rước Diễm đi ngay. Diễm moi gói bánh mì ăn dở ra ăn; nếu không bị kẹt xe, giờ này nàng đang ăn cơm với cha mẹ ở nhà, mẹ nói hôm nay sẽ làm món canh bí rợ. Cô cảnh sát di trú mặc thường phục chiều nay sẽ gặp một người đàn bà trong tù để thông báo lệnh trục xuất. Khi người tù xuất hiện trước cửa phòng tiếp khách, Diễm thấy mặt quen quen. Người thiếu phụ nặng nề ngồi xuống ghế bành, một tay đặt lên bụng lớn. Diễm để ý đến sự kiện nhỏ là trong căn phòng bây giờ có ba người đàn bà. Cô cảnh sát tự giới thiệu xong, mỉm cười hỏi cô tù, Diễm dịch lại: “Cô khỏe không?”
“Khỏe.”
“Bao giờ sanh?”
“Hai tháng nữa.”
Cô hắng giặng: “Hôm nay tôi đến đây để nói về một việc khác, không liên quan gì tới việc trộm cắp,” cô cảnh sát nói trong khi mở một cái kẹp hồ sơ bằng nhựa trong, lấy ra một tờ giấy. “Tôi đến để báo cho cô biết về lệnh trục xuất.”
Người thiếu phụ mang bầu mặt không biến sắc, bàn tay vẫn để trên bụng, cánh tay kia vẫn để xuôi theo đùi trên ghế da. Cô cảnh sát đưa cho Diễm tờ quyết định của bộ Nội Vụ, bảo dịch miệng cho đương sự. Diễm dịch xong, đưa tờ giấy cho người con gái tên Vân ký tên. Bây giờ nàng đã nhớ ra đây là cô gái xin tầm trú vào đầu mùa thu. Nàng nhớ ra bàn tay đang đặt trên bụng kia đúng là bàn tay đẹp đặt trên tấm kính mờ để lấy dấu. Bàn tay táy máy trong bốn tháng nay làm điêu đứng các siêu thị và cửa hàng khắp nước. Lại cùng một cảm giác gờm nhớm len vào lòng Diễm.
Cô cảnh sát cất tờ quyết định vào kẹp. Lấy một tờ giấy khác, cầm bút như sẵn sàng ghi chép.
“Xin cô nghe đây,” cô cảnh sát mở đề cho một cuộc thẩm vấn cuối cùng. “Cô không đủ lý do xin tị nạn, cộng thêm việc phạm pháp, cô không có con đường nào khác ngoài đường trở về nơi cô đã ra đi.”
“Thế thì trả tôi về Ðức.”
“Tại sao lại Ðức? Cô đi từ Việt Nam mà!”
“Tôi từ bên Ðức sang...”
“Trong hai lần thẩm vấn trước đây cô nói từ Việt Nam, đi bộ sang Trung Quốc rồi sang Nga. Bây giờ lại nói từ Ðức sang. Lời nào là thật?”
“Cái thai lày của một thằng Ðức.”
“Nhiều lần chúng tôi đã hỏi cha của thai nhi là ai, cô đều nói là không biết.”
“Không biết... thật đấy. Nói chung nà đêm không thấy mặt.”
“Dù cô không biết gì hết, không biết mặt người ngủ chung, không biết mình là ai, không biết cha mẹ là ai, không biết từ đâu tới, chúng tôi vẫn có cách tìm ra cô là ai. Và chúng tôi sẽ liên lạc với tòa đại sứ Việt Nam cấp giấy cho cô về Việt Nam.”
“Lói thật cũng chết, lói dối cũng chết...” người tù nói nhanh, rồi lại vội nói “Chị đừng dịch cho ló nghe nhá!”
“Cô ấy nói gì?” thấy Diễm không dịch câu nói của người đối thoại, cô cảnh sát hỏi.
“Cô ấy đổi ý, không muốn tôi dịch câu vừa nói.”
Cô cảnh sát nhỏ giọng nói với người đàn bà mang thai: “Xin cô cộng tác với chúng tôi để tiến hành cho sớm việc hồi hương, tránh cho em bé khỏi sanh ra trong tù.”
“Tôi cũng không muốn sanh con trong tù...”
“Vậy tên thật cô là gì? Ðịa chỉ?...”
Người tạm gọi là ‘Vân’ không trả lời. Diễm bỗng thấy nét mặt của Vân mềm ra, như có một lớp sáp vừa tan để lộ cảm giác - khuôn mặt của một con người. Bất cứ tên tuổi cô là gì, đây là một người mẹ. Người mẹ đặt cả hai tay lên bụng, cúi xuống lẩm bẩm: “Con tôi sinh trong tù à?”
Rồi im lặng. Diễm cảm thấy xót xa trong lòng. Cảm giác gờm nhớm từ bốn tháng nay biến thành một cảm giác ân hận. Diễm nghĩ đến thân phận chính mình - sở dĩ mình sống nhởn nhơ được, buổi sáng đứng bán nhà thuốc tây, buổi chiều đi nhảy aerobic, lâu lâu đi thông dịch lấy ngoại tài mua son phấn không cần ăn cắp... là vì cha mẹ mình đã chọn được con đường đúng ý nguyện: tới một nơi có thể lương thiện mà sống được. Không, không phải cha mẹ chọn. Ðó là Trời ban. Ba chục năm nay, bây giờ ‘Kho Trời’ đã khóa. Nếu cha mẹ nàng chậm chân, không chừng giờ này Diễm cũng là một người mở miệng bằng câu không biết, và không từ làm bất cứ việc gì để sinh tồn.
Lợi dụng lúc cô cảnh sát nói chuyện với bà gác tù, Diễm phá chút qui củ thông dịch, đưa tay bắt bàn tay mềm và ẩm của Vân, chúc may mắn và ai ủi vài câu. Vân tỏ ra cảm động. Cuối cùng, nghĩ tới mai mốt Vân lên máy bay về Việt Nam, Diễm ái ngại hỏi: “Liệu người lương thiện có sống được ở Việt Nam không?”
“Nương thiện nà cái gì?”
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Nov/2011 lúc 10:56am
Xin Cám Ơn Cuộc Ðời Tác Giả: Hoàng Thanh | Thứ Năm, 24 Tháng 11 Năm 2011 10:25 | Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn. Xin cho tôi duợc một lần, nói lời Tạ Ơn: Cám ơn lắm, cuộc dời này... Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ On, tôi thầm nghĩ, "Dân ngoại quốc sao mà... "quởn" quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ, màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business đó mà..." Năm đầu tiên đặt chân dến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn. Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục, nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi. Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm dó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà lại đang điều trị ung thư ở giai đoạn cuối. Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cười vui với bà, thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà. Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhưng lại bị tật nguyền, rồi từ đó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở nhà duỡng lão. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà cuời với tôi và đưa tặng tôi tấm thiệp cùng một ổ bánh ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm thiệp ra đọc liền di. Tôi mở tấm thiệp và xúc dộng nhìn những nét chữ run rẩy, xiêu vẹo: Dear Thanh, My name is Josephine Smiley, but life does not "smile" to me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I met you in this pharmacy. You are the ONLY person who always smiles to me, after the death of my husband and my son. You made me feel happy and help me keep on living. I profit this Thanksgiving holiday to say "Thank you", Thanh. Thank you, very much, for your smile... Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn... Tôi thật hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống còn. Ðó là lần dầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghia cao quý của ngày lễ Thanksgiving. Ngày Lễ Tạ Ơn năm sau, tôi cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ đến tìm gặp tôi. Cô đưa cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô y tá này tấm thiệp và nhờ cô dến đưa tận tay tôi vào đúng ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa của tôi dã làm nhòe hẳn di những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn nghèo trên trang giấy: My dear Thanh, I am thinking of you until the last minute of my life. I miss you, and I miss your smile... I love you, my "daughter"... Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm dó, không sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của bà, nguời "Mẹ American" đã gọi tôi bằng tiếng "my daughter"... Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành cho bà, vào mỗi ngày lễ dặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm ở pharmacy đó. Mãi cho đến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã "cảm" được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này. * Thông thường thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia dình họp mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào dó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia dình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (turkey). Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có... Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi người ăn nhậu. Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thuờng làm món gà ta, "gà đi bộ." Ngày xưa tôi cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn. Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi "Free meals" tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp...để chờ dến phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một cái túi ngủ qua đêm. Ở nơi đâu trên trái đất này, cũng luôn vẫn còn rất rất nhiều nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta... Nếu nói về hai chữ "TẠ ƠN" với những nguời mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy... Cám ơn quê hương tôi - Việt Nam, với 2 mùa mưa nắng, với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi - nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê huong tôi, là nỗi nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê nguời... Cám ơn Mẹ, dã sinh ra con và nuôi dưỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám on Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn di, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu dựng suốt gần nửa thế kỷ qua... Cám on Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học.... Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho vất nuớc, xã hội... Cám ơn các chị, các em tôi, đã sẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại... Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm - buồn vui - những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua đuợc. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo trắng của tôi không có chút gì để mà luu luyến cả... Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xua, đã "nuôi" tôi cả mấy năm trời Ðại học, bằng những lon "gigo" cơm, bữa rau, bữa trứng, bằng những chén chè nho nhỏ hay những ly trà đá ở căn-tin ngày nào. Cám on các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất, đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật... Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền,đ ể tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc... Cám ơn những người tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã giúp tôi biết duợc cảm nhận được thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly. Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên di chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương... Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, để nhận ra cuộc sống này là vô thuờng... để từ đó bớt dần "cái tôi" - cái ngạo mạn của ngày nào... Xin cám on tất cả... những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì: " Trăm năm trước thì ta chưa gặp, Trăm năm sau biết gặp lại không? Cuộc đời sắc sắc không không, Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau..." Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn dến, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những nguời thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi. Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thuong yêu của mình, bằng một hành dộng gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói "Con thương Mẹ", hay một tấm thiệp, một cành hồng. Tình thương, là phải được cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không? Xin cho tôi duợc một lần, nói lời Tạ Ơn: Cám ơn lắm, cuộc dời này... |
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 29/Nov/2011 lúc 10:18am
MỘT BỨC THƯ TÌNH Tôi nhặt được một chiếc ví ở hè phố. Khi tôi mở ví với hy vọng tìm được manh mối nào đó về người làm rơi thì chỉ thấy 3 đôla và một bức thư nhàu nát. Phong bì đựng thư đã rách và thứ duy nhất còn đọc được là địa chỉ người gửi. Lá thư được viết năm 1944, tức là đã 60 năm về trước.
Bức thư được viết bằng nét chữ con gái, bắt đầu bằng:"Anh Michael thân yêu". Đọc thư tôi biết cô gái rất đau khổ vì mẹ cô không cho cô gặp Michael nữa, nhưng cô vẫn rất yêu anh. Cô gái ký tên là Hannah.
Tôi gọi tổng đài thử tìm số điện thoại của địa chỉ trên bì thư. Cô tổng đài bảo tôi đọc địa chỉ, rồi nói: - Có một số điện thoại ở địa chỉ đó, tôi sẽ gọi giúp anh xem họ có muốn liên lạc với anh không. Tôi hồi hộp chờ cô nối máy. Một người phụ nữ trả lời máy. Tôi hỏi bà có biết ai tên Hannah không. - Ôi - người phụ nữ ngạc nhiên - Chúng tôi mua lại ngôi nhà này của một gia đình, họ có con gái tên là Hannah... Nhưng đã 30 năm rồi... - Chị có biết họ chuyển đi đâu không? - Tôi vội hỏi. - Tôi chỉ nhớ là sau đó vài năm, cô Hannah phải đưa mẹ vào viện dưỡng lão... Và người phụ nữ cho tôi tên viện dưỡng lão. Khi tôi gọi điện, một cô y tá nói rằng bà cụ đã mất, nhưng cô lại cho tôi số điện thoại của con gái bà cụ - Hannah. Một lần nữa, tôi gọi điện. Nghe điện là một phụ nữ, cô ấy nói rằng bà Hannah đã vào viện dưỡng lão rồi.
"Thật ngớ ngẩn" - Tôi nghĩ - "Tại sao mình lại phải mất thời gian tìm chủ nhân cho một cái ví chỉ có 3 đôla và lá thư viết cách đây 60 năm cơ chứ?” Nhưng cuối cùng tôi vẫn gọi điện đến viện dưỡng lão, và đàn ông nghe điện nói: "Đúng là ở đây có một bà cụ tên Hannah". Lúc đó là 7h tối. Tôi hỏi liệu tôi có thể đến gặp bà cụ được không. - Cũng được. Có lẽ bà cụ đang ngồi ở phòng xem TV . Tôi lập tức lái xe đến viện dưỡng lão và bắt đầu thấy tò mò. Một y sỹ dẫn tôi lên tầng 3 gặp bà Hannah. Đó là một bà cụ tóc bạc trắng và nụ cười hiền hậu. Tôi kể cho bà cụ nghe về chiếc ví và đưa bức thư ra. Ngay khi nhìn thấy bức thư, bà lặng đi, rồi thở dài: - Con trai, lá thư này là lần cuối cùng tôi liên hệ với Michael. Bà cụ cắn môi, đôi mắt đỏ lên: - Chúng tôi đã rất yêu thương nhau. Nhưng lúc đó tôi còn quá trẻ và mẹ tôi cấm tuyệt đối. Michael Goldstein là một người tuyệt vời. Tôi vẫn thường nhớ tới ông ấy. Tôi đã không kết hôn. Vì không ai làm cho tôi quên được Michael...
Tôi tạm biệt bà Hannah. Khi tôi ra đến cổng, người bảo vệ hỏi: - Đó có đúng là bà cụ mà cậu cần tìm không? - Đúng, bây giờ tôi biết được cả họ tên của chủ nhân chiếc ví rồi! Tôi vừa nói vừa lấy cái ví cho người bảo vệ xem. Vừa nhìn thấy nó, người bảo vệ thốt lên: - Ôi, ví của ông Goldstein! Chỉ mỗi ông ấy còn dùng cái ví cổ lỗ sĩ này thôi! Mà lúc nào cũng làm rơi! Tôi đã nhặt được hộ ông ấy đến 3 lần rồi đấy! - Ông Goldstein là ai? - Tôi hỏi, tay bắt đầu run lên vì hồi hộp. - Một ông cụ sống trên tầng 8. Tôi cam đoan ông ấy lại làm rơi ví khi đi dạo. Tôi nhanh chóng quay lại và nhờ cô y tá đưa lên tầng 8. Trong phòng đọc sách ở tầng 8, một ông cụ đang đọc sách. Cô y tá lại gần và hỏi có phải ông lại làm rơi ví không. Ông cụ sờ vào túi và thốt lên: - Ôi, lại rơi mất thật rồi! Tôi đưa cái ví cho ông Goldstein. Ông cụ thở phào: - Đúng nó rồi! Tôi phải trả ơn cậu mới được! - Không cần đâu ạ! Nhưng cháu xin lỗi là đã đọc bức thư trong đó... Cháu chỉ định tìm xem ai rơi ví thôi. Nụ cười của ông lập tức biến mất: - Cậu đọc thư của tôi? - Nhưng nhờ thế mà cháu tìm được bà Hannah - Tôi vội "lấy công chuộc tội". Ông cụ mở to mắt: - Hannah? Cậu gặp bà ở đâu? - Ông Goldstein nắm tay tôi - Tôi rất muốn gặp bà ấy. Kể từ khi không được gặp bà ấy nữa, cuộc sống của tôi như đã kết thúc vậy. Tôi thậm chí đã không kết hôn... Tôi đưa ông Goldstein xuống tầng 3 - nơi bà Hannah ở. Phòng xem TV chỉ còn một cái đèn nhỏ. Bà Hannah đang ngồi một mình. - Bà Hannah - Cô y tá nhẹ nhàng - Bà có biết ông ấy không? Bà Hannah chỉnh lại kính, nhìn ông trong vài giây, im lặng. - Hannah, - Ông Michael thì thầm - Michael đây mà! Cả hai người như lặng đi. Và họ nắm tay nhau. 3 tuần sau, tôi nhận được thiệp mời dự đám cưới của ông Michael và bà Hannah. Đó là một lễ cưới rất đẹp. Viện dưỡng lão dành cho họ một căn phòng riêng. Và nếu bạn muốn thấy một cô dâu 75 tuổi, một chú rể 79 tuổi mà vẫn yêu thương và chăm sóc nhau như "teenagers", thì bạn rất nên gặp họ .
Arnold Fine
Thục Hân dịch
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Dec/2011 lúc 1:24am
Mùa Thu Cuộc Tình
Tiểu Tử
http://www.viettogether.com/forum/viewtopic.php?f=71&t=7251 - http://www.viettogether.com/forum/viewtopic.php?f=71&t=7251
http://photoblog.hu/2007/10/23-chan-cha-lay.html">
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Dec/2011 lúc 9:48am
http://www.mediafire.com/?h010x6qkrprhfip - - - CHUYỆN - MOT - KHONG - TACH - PHE - - - Bp.pps <<<<
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 10/Dec/2011 lúc 4:12pm
GỬI NGƯỜI ĐI TÌM HẠNH
PHÚC
Hy Văn
http://caonienbachhac.com/hoahong_va_hanhphuc.pps - - http:// - bachhac. - hoahong_ - phuc.pps
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Dec/2011 lúc 5:49pm
Âm thanh của sự im lặng
Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên
năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố
NewYork để trở về nhà. Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ
về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ theo
truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách
cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để giao lưu với nhau. Wendy hiểu được thuật
ngữ ra dấu bằng tay vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc
trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật nên cô đã học được cách ra dấu
tay để trò truyện với những người câm điếc. Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã
khá thông thạo thuật ngữ này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở
trạm xe, Wendy đã "nghe lóm" được câu chuyện của hai người. Thì ra, cô gái câm
hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì "trả lời" là
anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này nên
cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái. Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng
tay để "nói" trong câu chuyện của họ. Khi xe lửa đến trạm thì Wendy và hai người
bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ email cho nhau.
Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò chuyện dùng tin nhắn
của điện thoại di động rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.
Chàng trai kia tên là Jack và cô gái tên là Debbie. Jack cho biết anh đang làm
việc cho một hãng xuất nhập khẩu và ở cách nhà Wendy không xa . Từ những tin
nhắn điện thoại, email thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chổ trở
thành bạn thân lúc nào không hay. Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn.
Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên nên thường yên lặng đi bên nhau
trong những giờ phút nghỉ ngơi. Tuy phải ra dấu để trò chuyện nhưng Wendy không
cảm thấy bất tiện mà cô lại có dịp trau dồi "thủ thuật" để nghệ thuật ra dấu của
cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết
như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên
lần đầu tiên khi Jack ra dấu "I Love You" thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai
anh.
Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào chatroom
đấu láo với bạn bè, mỗi khi Wendy đặt câu hỏi "Bạn có thể có tình yêu với một
người câm điếc hay không?" thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu
trả lời dứt khoát. Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.
Vào dịp lễ Tạ ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng
kèm theo câu ra dấu: "Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?" Wendy vừa vui
mừng vừa kinh ngạc nhưng sau đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong nội tâm.
Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân. Quả
nhiên cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo
đứa con gái "lầm đường lạc lối" trở về. Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các
anh chị em, bạn học, được cha mẹ có vận động tới để làm thuyết khách. Đứng trước
áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của
Jack, cô còn cho mọi người biết là thái độ lạc quan, đầu óc thực tế, tích cực
của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi hơn những bạn trai mà cô đã từng quen biết
trước đây.
Gia đình sau khi nghe giải bày đã không còn quá khắc khe phê
bình, mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc
tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12
sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng
đọng. Wendy đã có quyết định trong đầu, nếu như cha mẹ, anh chị của cô có những
cử chỉ, hành động khinh miệt Jack thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để nhờ sự gia
ơn và chúc lành của Thiên chúa. Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp
của của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack, anh mỉm cười ra dấu
cho cô:
- Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh
cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.
Đó là lần đầu tiên trong đời cô sinh viên trường dược rơi
những giọt lệ cảm động.
Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ,
cô nói:
- Thưa ba má, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc
đến.
Câu nói của cô vừa thốt ra thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa
tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất, anh nhào tới ôm lấy cô vào
vòng tay khỏe mạnh của anh. Một điều mà Wendy không thể ngờ được là cô bổng nghe
một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:
- Trời đất, em biết nói à?
Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi
Jack.
Mọi người ngoại cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên trong khi hai
người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra
Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn
muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã
chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.
Magic power... của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như
cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm
qua. |
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Dec/2011 lúc 9:49am
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 26/Dec/2011 lúc 9:50am
buổi chiều trước giáng sinh
tác giả: Ngọc diễn đọc: Hồng Vân
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=160534 - http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=160534
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Jan/2012 lúc 10:50am
Mỗi Mùa Xuân Thêm Một Lần Dối Mẹ
Nhớ năm ngoái mẹ có lần đã hỏi Về chưa con sao vẫn thấy chưa về Con lại phải thêm một lần nói dối Chờ sang năm con hứa sẽ về quê
Nếu chẳng phải vì thay tờ lịch mới Chắc là con không biết có Xuân sang Ðời nước Mỹ tháng ngày trôi qua chóng Chưa kịp xoay đã hết một năm tròn
Bỗng sực nhớ đến lời ai đã nhắc Lại lo tìm câu nói dối cho xong Mười một mùa xuân miệt mài đất khách Con dối đi dối lại biết bao lần
Căn nhà cũ chắc năm nay mục nát Tiền gởi về không đủ mẹ nuôi thân Con gái lớn theo chồng đi nơi khác Con trai đầu biền biệt chốn xa xăm
Cây mai nhỏ ba đã trồng năm trước Mấy xuân rồi có nở nụ nào không Hay đã chết theo ba từ dạo ấy Ðể mùa Xuân hoa trắng nở trong lòng
Năm mới đến mẹ già thêm một tuổi Tóc bạc hơn nhiều, má hóp răng long Sao giấc ngủ chập chờn con thấy mẹ Người đàn bà đẹp nhất ở trần gian
Năm mới đến con cũng già thêm tuổi Xa mẹ hiền một tuổi nặng bằng hai Tuổi nước Việt chất chồng lên quá khứ Tuổi xứ người quần quật với tương lai
Con chẳng biết nói thế nào mẹ hiểu Chẳng còn ai hiểu hết chuyện đời con Non nước đó vẫn còn đầy dâu biển Núi sông đây sao giữ được vuông tròn.
Trần Trung Đạo
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Jan/2012 lúc 9:32am
http://caonienbachhac2011.blogspot.com/2012/01/thong-iep-au-xuan_03.html - 1/ 40 VIỆC CẦN LÀM http://caonienbachhac.com/40_viec_can_lam.pps - - http:// - bachhac. - _viec_
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Jan/2012 lúc 1:43pm
Chị Đã Lầm Đưa Em Sang Đây /main/vanhoc/truyen-ngan-moi/cac-tac-gia/32279-ch-a-lm-a-em-sang-ay.html -
| | | |
Tác Giả: Thủy Lâm Synh | Thứ Sáu, 06 Tháng 1 Năm 2012 06:05 | Trong số mấy chị em con bà Điền, Nga có lẽ được coi là đứa con gái nết na nhất nhà.
I |
Ít ra đó cũng là lời nhận định của mẹ cô ta trong những khi ngồi lê với hàng xóm. Mà quả đúng như vậy, Nga là một đứa con gái thùy mị và đẹp vì rất giống bà Điền. Dù bây giờ tuổi bà đã quá sáu mươi, song khi nhìn, nét đài các vẫn đâu đó trên gương mặt của bà. Ngày xưa khi bà còn là nữ sinh của một trường trung học, không biết bao nhiêu chàng trai phải say sưa vì cái nhan sắc diễm kiều mà tạo hóa đã bỏ công uốn nắn. Và đó cũng có thể là lý do tại sao sau mấy năm đất nước thay đổi cơ chế chính trị, bà Điền đã không thể chấp nhận người chồng trở về với tấm thân tàn tạ vì, “anh trở về dang dở đời em”. Nhưng suy ra đó cũng là lẽ thường tình của nghiệp vay trả. Chồng bà là một sĩ quan cấp lớn. Ngày còn trong binh chủng, những hoạnh tài thường xuyên được coi là mốt thời thượng của một số sĩ quan tham ô; họ ném tiền vào những phòng trà như ném giấy lộn. Nhiều ông cặp với những cô tuổi chỉ đáng con mình. Kết quả của biến cố năm bảy lăm, chồng bà Điền đã bị liệng vào tù và bị ngược đãi cùng số phận với những người liêm chính, ngày đêm miệt mài bên lằn tên mũi đạn. Ngày trở về mất vợ, mất con, ông Điền trở thành đãng trí, phải sống bằng cơm của giáo hữu tại một xứ đạo. Ông có bổn phận kéo chuông vào mỗi buổi sáng. Tiếng chuông không bao giờ đúng giờ của ông ngân nga mãi trong lòng họ đạo, nó đã hâm nóng được từ tâm của bao người, nó thắp sáng thêm niềm tin Thiên Chúa. Nhưng buồn thay, tiếng chuông ấy không đủ sức làm rung động trở lại con tim bà Điền sau mấy mươi năm chồng vợ. Lý do dễ hiểu hơn cả vì nhan sắc bà Điền vẫn còn ít nhiều quyến rũ những ông hàng xóm góa vợ có khi tuổi còn nhỏ hơn bà cả chục. Nhờ hưởng cái di sản cố hữu đó mà Nga cũng đẹp như mẹ. Khác với Nga, Hằng giống ba với cái lỗ mũi tẹt nom đần lắm. Có người bạo mồm còn cho rằng Hằng chắc lại là một đứa con khác dòng, bởi vì nhiều khi ông Điền cắm trại hơi lâu trên những khách sạn thuộc loại sang trọng trên Đà Lạt để ăn chả thì dưới Sài gòn bà Điền cũng chẳng tội gì nhịn nem. Nhưng biết đâu đó chỉ là thứ dư luận ác ý vì ganh tị với cuộc sống sung túc của gia đình bà Điền lúc bấy giờ cũng nên. Hằng thì không hề đắn đo chút nào, nàng vui sướng có đứa em xinh đẹp như Nga. Khi mới được bảo lãnh sang Mỹ, nước da Nga còn ngăm đen vì cái nắng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới, nhưng mấy người sống chung quanh cứ tấm tắc khen Nga làm Hằng vui lắm. Nếu không là em ruột thì lời khen kia sẽ khiến cho Hằng nguýt còn nửa con mắt. Đàn bà và trẻ con là cái rốn của vũ trụ, khen người khác là gián tiếp chê mình rồi còn gì - họ giận ghê lắm. Tin đồn Hằng có đứa em gái đẹp mới qua Mỹ truyền đi rất nhanh. Có người đã lớn tuổi, vợ con còn bỏ lại Việt Nam nhưng kẹt cứng vì đã trót khai độc thân bên trại tị nạn nên cũng ráng uốn, ép, sấy, gội, nhuộm cho mái tóc trở nên bồng bềnh, lê la tới nhà ra vẻ còn non dại để làm thân với Nga. Có cậu choai choai tuổi đáng em cũng cung kính mời Nga đi xem phim, đi nhảy nhót, karaoke cho nó có vẻ ta là người tiến bộ, bởi vì cậu ta nghe thiên hạ cứ bàn tán rằng mấy cô gái con “HO” ở Sài gòn mới qua tân thời lắm, không khéo người sinh tại Mỹ lạc hậu mất. Lại cũng có chàng hào phóng hơn, cứ mỗi lần ghé nhà Hằng thì ôm cả tá bông hồng, rồi chẳng lẽ cứ mua bông, chàng ta lại khuân cả thức ăn được order từ hiệu ăn khiến đôi lúc nhà Hằng khỏi cần nấu nướng đến hai ba ngày. “Nhưng lạ quá, đón đưa thì thế mà cả năm trôi qua không nghe Nga nó nói gì về con người may mắn nào được lọt vào mắt xanh của nó”. Hằng nghĩ như vậy, và không cần tinh ý lắm cũng thấy người nào rủ nó cũng đi chơi, mời ăn nó cũng nhiệt liệt hưởng ứng. Đôi khi Hằng hơi quan tâm cho cái dễ dãi của em mình, Hằng sợ một ngày nào đó vợ chồng nàng phải thành kính phân ưu vì Nga vớ phải thằng đá cá lăn dưa, nhưng Nga thì vẫn hồn nhiên, như không chút vướng bận vì chuyện gái trai. Khi Hằng úp mở hỏi những ưu tư vừa rồi thì Nga bĩu môi trả lời: “Mấy tên đó dại gái lắm, em chấm không được tên nào cả. Ông Long thì già khú đế, hai má cáp sâu vào làm cho cái miệng nhọn thêm hơn, hai bên mép có hai chòm lông như đại diện cho mấy cha tuổi mùi. Đi đâu ông Long cũng chải chuốt, chưng diện với hi vọng thiên hạ sẽ nghĩ thầm ‘nhìn y phục biết tư cách’. Chàng ta đang làm giám đốc, kiêm phó giám đốc, kiêm thư ký và kiêm luôn nghề hút bụi, đổ rác trong văn phòng bán bảo hiểm, tương lai bồng bềnh như con thuyền trước cơn giông bão. Còn Tuấn thì cái mặt cứ y như còn dính bơ, phục sức lúc nào cũng quá lố trông rất chi là ngờ nghệch. Chưa hết trung học Tuấn đã bỏ ngang, hắn đang giúp việc trong một Salvation Army. Tuấn cho người ta cái cảm tưởng hắn đang tận tâm sử dụng nguyên kho thời trang của bá tánh đem tới biếu, tương lai như bầu trời sắp đổ mưa. Nhưng bên cạnh những khuyết điểm, hai người đó đều có cùng một ưu điểm là rất thích chi tiền cho em mua sắm.” Hằng cười: “Mầy văn minh thật, tao cứ tưởng ít nhất mầy cũng đã chấm được một đứa nào rồi chớ.” Nga phẩy tay nói: “Chưa hết đâu; còn một người nầy nữa, ông Hòa “Ph. D” ấy mà.” Hằng cười ré lên: “Tiến sĩ ở Houston đếm trên đầu ngón tay, ông Hòa mà mầy cũng tin ổng đỗ tiến sĩ à.” “Ph. D là ‘phịa đại’ đó chị à.” Hằng được trớn cười nghiêng ngửa. “Mà tại sao mầy đặt cho ông ấy là Ph. D?” “Đó là lời mấy con bạn học của em chứ đâu phải em đặt. Đầu đuôi như thế nầy: Hòa chẳng có nghề ngỗng gì cả, tà tà theo mấy anh chàng tổ chức show để được đón đưa ca sĩ cho ra vẻ ta đây sành cầm ca một tí. Lâu lâu hắn cũng tổ chức được vài show mời ca sĩ hạng ruồi trình diễn để tự phịa ‘ông bầu’ cho oai vệ. Hắn cũng có nhiều tài, toàn là phịa đại để lấy le với mấy cô ca sĩ. Có lần về Houston trình diễn, cô ca sĩ kia muốn đi thăm người anh ở thành phố Beaumont nên cô ta gọi nhờ Hòa chở đi. Được ca sĩ nhờ chở Hòa coi như một vinh hạnh hiếm có. Khi tới nhà người anh, cô ta nhớ lời Hòa nên giới thiệu với anh nàng rằng Hòa cũng là sĩ quan pháo binh. Gặp chỉ huy pháo binh thứ thiệt, Hòa mới lòi đuôi ra, hắn chỉ là trợ thủ pháo binh. Từ đó cái danh từ phịa đại mới được nối theo tên Hòa thành Hòa Ph.D. đấy chớ. Chuyện phét thì thế gian nầy có khối đứa, hơi sức đâu mà bàn. Điều đáng nói nhất là hắn theo tán em không được rồi phịa đại với bạn bè là em và hắn đã từng lên giường khiến một hôm em dọa thưa cảnh sát hắn mới câm mồm.” Hằng hùa cùng em: “Thứ đàn ông khốn nạn; gặp tao, tao đấm vỡ mặt cho biết.” Nga cười: “Cha đó ‘mát’ nặng.” Hằng vừa soi gương nhổ lông mày vừa nói với Nga: “Mầy cũng nên giảm đi chơi, để khỏi mang tiếng.” Nga cười nhẹ: “Có đi chơi mới có cơ hội tìm hiểu chớ chị.” “Thì cũng vừa vừa thôi, tao thấy đêm nào mầy cũng đi; anh Tuyên thì mầy biết rồi, ảnh không dám ở nhà, nên còn có mình tao buồn thấy mồ.” Nga trầm ngâm suy nghĩ, như cố xua đi mặc cảm tội lỗi, nàng đến bên chị, ý chừng muốn nói thêm điều gì, nhưng không mở miệng: Cả tuần lễ đó Nga ở nhà. Hằng vui ghê lắm, thay vì mua thức ăn ngoài phố đem về, Hằng nấu nướng nhiều món. Trong bửa ăn Hằng nói trổng: “Có đêm mình tui ở nhà chẳng có ai nói chuyện, mấy bửa rày sao xúm ở nhà hết vầy nè.!” Nga liếc qua Tuyên nháy mắt, cười ranh mãnh. Thời gian trôi rất nhanh, mới đây mà gia đình Hằng định cư tại thành phố nầy mười lăm năm rồi. Nga cũng qua Mỹ đã ba năm. Không phải dễ dàng mà Nga được qua Mỹ, diện chị em đã bị Mỹ xếp vào hàng thứ yếu, hồ sơ từ Bangkok đã chuyển về New Hampshire, ít nhất cũng chục năm may ra mới cứu xét. Cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 không ít người tị nạn phải bỏ thây ngoài biển cả để đổi lấy tự do. Nghe nguy hiểm quá, bà Điền không thể để Nga vượt biển. Bây giờ thì những người vượt biển thành công được niềm nở đón tiếp trở về. Dù không xa giá, tiền hô hậu ủng như quan trạng về làng khi xưa, nhưng ít nhất cũng chiếc van 12 chỗ ngồi có máy lạnh và thân nhân ngồi chật ních đón rước. Ai có thân nhân bảo lãnh cũng được ra đi. Những cuộc tiễn đưa vui như tết khiến thư nào bà Điền cũng thúc dục Hằng “gắng tìm cách bảo lãnh em mày qua Mỹ, ở đây lêu bêu không làm nên tích sự gì, tương lai tăm tối lắm con ạ”. Không phải bà Điền biết gì nhiều về cái tương lai của người Việt di tản, nhưng có đui mù cũng nghe được một số Việt kiều về quê cứ oang oang rằng ở bên Mỹ sướng lắm - Con cái cứ đẻ ra là chính phủ gởi tiền về nhà cho mà ăn, không ai bắt buộc mình đi làm nếu mình không muốn. Đồng bào nào muốn lãnh tiền trợ cấp an sinh, cứ việc khai không có việc làm, ai muốn lãnh tiền tàn tật thì khai mắc bệnh đại khái là được chấp thuận ngay. Chính phủ Mỹ ngu lắm, không thèm vạch lá tìm sâu cho mệt, họ bận bịu với công việc đưa phi thuyền thám hiểm Hỏa tinh, bận dùng vệ tinh chụp không ảnh những nơi chế tạo hoặc tàng trữ vật liệu chế bom nguyên tử để giữ an ninh cho thế giới. Chưa hết, bà Điền còn nghe Việt kiều về quê kể rằng nếu ai đi học thì vô cùng xuất sắc. Người Việt học nghề giỏi hơn dân địa phương nhiều, mà cũng chẳng cần học cho mệt vì thi bùa đậu liền chớ khó khăn gì. Còn trong hãng xưởng toàn dân Việt Nam làm chủ, mà cái đó thì “khúc ruột ngàn dặm” nầy nói đúng; các hãng Nail Supply, các “hãng” làm móng tay, móng chân, “hãng” bán thực phẩm Á Đông, “hãng” báo Việt Ngữ, “hãng” sang băng cho người Việt thuê toàn người Việt làm chủ đấy chứ. Nhưng bên nửa vòng quả đất, bà Điền đâu ngờ rằng: một con sâu làm rầu nguyên nồi canh, nhiều con sâu nó làm tan nát một cộng đồng. Ở không cứ xoi mói, rình mò – độc quyền yêu nước, ai làm khác ý mình thì cứ chụp cho cái mũ Cộng sản. Có những hội đoàn đầu đưôi chỉ ba người: chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký chấm hết, không có một hội viên; cả chục năm cũng chưa làm nên trò trống gì. Ca sĩ hạng ruồi đi du lịch, ca vài bản nhạc vàng gỡ gạc tiền vé máy bay cũng bị những người mệnh danh là tranh đấu cho tự do lại chận đứng những người muốn tập hít thở thứ không khí tự do. Họ hô hào dân chủ nhưng lại hù dọa những người muốn thấy sinh khí dân chủ. Bà Điền hiểu thế nào tùy bà ấy, bổn phận làm con, Hằng cố gắng đưa đứa em xinh xắn nhất nhà qua đây bằng cách cho Tuyên, chồng cô về Việt Nam làm đám cưới. Hằng phải đóng một vở bi kịch, chịu khổ nhục với những vết bầm trên gương mặt vốn đã không có gì khả ái. Hằng trả tiền cho luật sư và biếu xén hàng xóm vài cái chả giò để rủi ro chính quyền điều tra thì chung quanh lối xóm cũng từ tâm mà xác nhận có nghe thấy tiếng đánh đập của tên vũ phu. Và tiếp theo là Hằng mua vé cho Tuyên về Việt Nam giả cưới cô em vợ. Tuyên rất hí hửng đi làm việc đại nghĩa đó. Bây giờ chàng mới nghiệm ra cái chân lý ngàn đời mà ông bà xưa đã nói “Nước chảy hòn đá lăn cù, cô chị có xấu thì bù cô em”. Tuyên không bỏ qua cơ hội một viên sỏi bắn hai con chim. Lúc ấy cái hào quang Việt kiều vẫn còn le lói như ngọn đèn dầu hôi giữa bầu trời không trăng sao, vả lại trong tay có tiền nên ăn nói tầm phào cũng có lắm người nghe. Hằng hy sinh năm bảy trăm đô làm cái đám cưới để che mặt thế gian, lấp miệng láng giềng bằng bữa tiệc cưới mà ai được mời khi về cũng phải làm thêm gói mì cho chắc dạ. Véo ra vài trăm lo thuœ tục cho hợp tình, hợp lý cũng không có gì quá đáng. Dĩ nhiên trước đó những thủ tục li dị phải hoàn tất, Tuyên phải làm công hàm độc thân, giấy chứng nghiệm thử máu và theo pháp lý thì đây là lần đầu Tuyên cưới vợ. II Qua đây ăn trắng mặc trơn, Nga trở nên lộng lẫy, Hằng thường baœo với chồng rằng sau nầy đứa nào có phước mới đụng được nó. Tuyên cười nói: “ Nga làm người tình thì hết sẩy, nhưng lấy làm vợ thì nguy hiểm.” “Tại sao?” Hằng lườm: “ Đứa nào ngu mới lấy vợ đẹp, vì vợ mình đẹp ra đường có khối thằng muốn tán. ƠŒ đây trai thừa gái thiếu, em không thấy Nga nó có đến chục thằng đeo đuổi đó sao? Anh chỉ sợ nó vồ trúng đứa không ra gì thì tội nghiệp cho kiếp hồng nhan.” Hằng chế nhạo: “ Bữa nay ông xã tôi sao mà caœi lương thế.” “ Thật đấy.” Tuyên đáp. “ Nhưng anh có đồng ý là nó đẹp nhất nhà em không nào, lại có học thức nên suy nghĩ cũng chín chắn. Hi vọng nó sẽ có được người chồng xứng đáng, chứ ...chứ không phaœi như chị nó.” Tuyên cười đùa: “Bộ chị nó hối hận khi lấy anh sao?” “Chứ còn gì nữa.” Hằng cười. Tuyên chỉ ngón troœ lên trán nịnh vợ: “Vợ anh là nhất, em không đẹp sắc saœo, nhưng rất có duyên, suốt cuộc đời nầy anh sẽ không thèm yêu ai khác.” Hằng nũng nịu: “Ông Clinton cũng nói thế, nhưng bây giờ thì xác nhận có dính líu tùm lum bà. À vụ ấy ra sao rồi hở anh?” Tuyên ra dáng hiểu biết: “Người không có chí khí thường bị ba thứ cám dỗ: tiền tài, danh vọng và sắc đẹp. Ông Clinton ngoi lên đỉnh cao chót vót với nhiều thuœ đoạn. Theo tin từ internet thì từ ngày ông ta làm thống đốc đến nay có đến trên bốn mươi ba người thân tín, hộ vệ, hoặc cố vấn đã ‘bị’ tự tưœ hoặc ‘tình nguyện’ mất tích hoặc do “tai nạn” mà qua đời. Danh vọng đã có trong tay, tiền tài thì danh nhân nầy xem chừng không rõ ràng cho lắm, mặc dù vụ White Water có khoaœng mười mấy người dính líu, trong đó những người bạn thân cuœa ông bà Clinton cũng lợi dụng tu chính thứ năm cứ ngậm miệng “trung quân” không chịu khai gì caœ, chính người nầy ‘ngã bệnh’ từ trần trong tù. Hằng đến tủ lạnh lấy đưa cho Tuyên ly nước, nàng giục: “Nói tiếp đi anh.” Tuyên uống một hớp rồi tiếp: “Còn cuộc đời tình ái khá lẩm cẩm cuœa ông vua nầy không có giấy mực nào taœ hết. Thêm vào đó đối tượng ăn chè cuœa ông là ‘thượng vàng hạ cám’ đến nỗi những nhà làm phim tại Hollywood khi được hoœi họ cho biết: Ông ta không biết thưởng thức (he doesn’t have a good taste) và họ cũng chẳng biết bắt đầu bằng người đàn bà nào trước để làm một cuốn phim cho người Mỹ xem chơi là bơœi vì họ gặp khó khăn để tìm kiếm những nữ tài tưœ có nhan sắc lôi thôi như những ‘người đi qua đời ông’. Nhưng dù sao thì ông vua nầy cũng tội nghiệp, sinh bất phùng thời, làm thiên tưœ mà không có quyền được tam cung lục viện thì uổng quá.” Hằng đùa với chồng: “Đàn ông các anh quá tay, bên nầy mà cho đa thê chắc ông nào cũng mấy bà chẳng chơi.” Tuyên trề môi. “Anh đã baœo là không thèm. Anh là loại có lý trí mà.” Hằng mai mỉa: “Lí tí thì có.” Tuyên ôm hôn Hằng như thầm xác nhận anh ta là người chồng lý tươœng, đáng tin cậy. Hai chiếc thân bỗng ngã trên chiếc xa lông ngay phòng khách… Chìa khóa tra vào ổ, Nga bước vào nhà thấy cảnh tượng ngỡ ngàng, hai chiếc quần lót đang nằm chơi vơi bên cạnh đống quần áo giữa phòng khách, trên salon hai con người trần trụi, Nga bước thụt lùi ra cửa. Vợ chồng Hằng đang loay hoay tìm vật sở hữu, kẻ gài nút áo người gài nút quần. Mặc dù là vợ chồng, chuyện ái ân là việc bình thường như ăn uống, nhưng khi lửa lòng đã cháy, họ quên bẵng đi còn đứa em đang có chìa khóa cửa. Bị gặp thình lình, vợ chồng Hằng xấu hổ nên có những cử chỉ rất ư vụng về như vừa làm một việc mờ ám, hai gương mặt ngờ nghệt trông buồn cười. Nga bước ra ngoài, đầu óc nàng dày đặc những suy nghĩ, tưởng tượng về bối cảnh vừa xảy ra khiến cả người nàng nóng ran lên. Không phaœi Nga ngây thơ, trước khi qua Mỹ, số ‘người đi qua đời tôi’ cũng dăm ba. Nhưng nàng quan niệm chuyện phòng the phaœi kín đáo hơn mới đúng. Nga ngồi phệt xuống bậc thang trước nhà, hai tay nàng khoanh trên đầu gối chờ cho tâm hồn lắng dịu. Còn Hằng chưa hết ngượng, nhưng nàng cũng mở cửa định đuổi theo Nga, làm như nàng có lỗi gì với em. Nghe tiếng mở cửa Nga nhìn ngoái lại, nàng đứng lên bước vào nhà mà không nhìn thẳng vào mặt chị. Hằng đứng tần ngần ngay bậc thang, bàn tay thừa thải chờm ngắt vột một chiếc lá rồi thả rơi trước khi trở vào nhà. Ngang phòng khách, Nga nhìn Tuyên chữi ‘khốn nạn’ bằng đôi môi không lời. Tuyên đọc được nhưng anh ta chỉ cúi đầu, Nga đi thẳng vào phòng nàng. Nếu không có Hằng ở nhà thì có lẽ Tuyên đã đi theo năn nỉ như thói quen mỗi khi hai người giận nhau. Một lát sau, Hằng bớt thẹn, đến gõ cưœa phòng Nga, nghiêng đầu dã lã hoœi trổng? “Đi chơi đâu về thế?” Nga xẵng giọng: “Đi với đàn ông, có sao không?” Chưa bao giờ Hằng nghe em nói vô lễ như vậy, máu trong người sôi sùng sục, nàng nổi nóng la lớn: “ Con kia! Mầy nói chuyện với ai vậy?” Nga không vừa: “Tôi đi đâu kệ xác tôi, mắc gì bà phải hỏi, vắng tôi hai người càng tự do hơn, có thể trần truồng mà sinh hoạt.” Nghe câu nói xốc óc ấy Hằng muốn tông cửa vào tát đứa em mất dạy. Nàng không ngờ con khốn nạn nầy tự nhiên lại hỗn láo với mình như vậy, nhưng có mặt Tuyên nàng cố giằng cơn tức. Nàng không muốn Tuyên nghĩ xấu cho em và cũng muốn bảo vệ câu Hằng thường nói Nga là đứa em dễ thương, hiền hậu như mẹ nàng thường baœo. Hằng cố nuốt cho cơn giận tan dần nhưng coi bộ nó như ngọn lưœa đang gặp gió. Nàng ái ân với chồng thì có tội gì với Nga chứ, nàng tự hỏi như vậy. Hằng bực mình về phòng nằm và cảm thấy uổng công bảo lãnh Nga qua đây. Cùng lúc ấy Hằng cũng cảm thấy hơi quê vì không lôi nhau vào phòng như những lần trước. Nhưng đây là nhà nàng, Tuyên là chồng nàng đứa nào dám làm gì, bà vả cho rụng hết răng. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: ‘hay là đuổi Nga ra khỏi nhà’ vì có Nga, nàng thiếu hẳn tự do. Có những lúc nguồn khoái cảm dâng lên tột độ, Hằng muốn gào lên, nhưng Tuyên cứ đưa ngón tay đè lên mội nàng bởi không muốn Nga nằm phòng kế bên lắng nghe. Trong cơn tức Hằng còn đủ tỉnh trí nghĩ ra phải trả lời với mẹ nàng ra sao khi biết Nga dọn ra. ‘Nhưng sợ gì’, lỗi tại nó cả.’ Cơn giận chưa nguôi, Hằng trở lại phòng Nga, đứng ngoài cửa nói vọng vào: “Tao thương nên tìm cách baœo lãnh mày qua đây, đi thì có keœ đón người đưa, qua tới nơi mầy lại học đòi theo cuộc sống xa hoa, đi chơi suốt đêm không coi tao ra cái thứ gì caœ. Mầy có biết đâu ngày tao đi vượt biển trên ghe cả chục người chết, tao nằm như con mắm trong khoang tàu, phần khát nước phần ói mửa, qua Mỹ phaœi lo đầu tắt mặt tối, còn nghĩ đến bố mẹ, nghĩ đến tụi bay đang sống cơ cực. Có đêm mày đi không về, anh Tuyên phải xách xe chạy vòng vòng kiếm không ra. “Bà biết tui đi đâu không?” “Đi với trai chứ đâu.” “Tui đi với ch...” Sau chữ ch... Nga kịp ngừng, Tuyên giật thót người, chàng chỉ sợ chữ ‘chồng bà’ mà Nga dám phun ra để chọc cho Hằng tức thêm thì bỏ mẹ. Nga nói lí nhí: “Bà đưa tôi qua đây chỉ vì bà muốn tôi làm đày tớ chớ bà tưœ tế lắm sao.” Hằng sôi gan: “Con kia, mầy làm với tao, tao vẫn chia bốn sáu như những người thợ chớ tao có bóc lột mầy đâu.” “Ừ, tui bốn bà sáu, công bình quá há. Người dưng vẫn chia 5/5.” “Mầy ăn, ở trong nhà tao, tao có tính tiền mầy không? Tiền chi phí anh Tuyên về làm đám cưới với mầy tốn kém ra sao mầy có biết không? Tao không muốn truyền nghề cho người khác, tại sao mầy không nghĩ tới.” Nga vừa nói vừa khóc. “Bà không kiếm thợ vì sợ sau khi quen biết, thợ móc nối khách rồi mở tiệm đối diện mà giựt hết khách của bà. Và một điều là bà muốn lãnh oeo phe nên mới li dị, lãnh hai ba đầu lương, chính phủ cấp thẻ khám bệnh, khỏi mua bảo hiểm chớ tử tế gì.” Hằng càng giận thêm, nàng nghĩ: cả làng đi làm neo, có ai chịu giã từ oeo phe đâu mà con nầy nói móc. Trong bỗng chốc nàng muốn tống cổ Nga về lại VN cho nó sống cuộc đời đói meo cho biết. Nga vẫn còn thút thít, Hằng nghĩ rằng Nga có thể đã biết lỗi nên nàng bồi thêm: “Mầy biết không, tao dạy cho mầy từng li từng tí; từ việc đắp bột, cắt da cho đến dán móng giả. Mầy thi năm lần bảy lượt không đậu tao phải chạy chọt mua bằng cho mầy chỉ vì mầy là em tao. Còn nữa, người ta phải tốn đến hai ba chục ngàn đô mới qua được Mỹ, tại sao mầy ăn cháo đá bát như thế con kia.” Nga nằm nghiêng, nàng lấy gối che lên mặt như không muốn nghe, Hằng quày quả bước về phòng riêng. Cơn giận chưa tan, trong thâm tâm nàng rất hối hận vì đã đưa Nga qua đây. Một lát sau, nghe sóng lặng gió êm, Tuyên mò vô phòng đến ngồi bên mép giường vợ nói: “Em nầy, Nga nó lớn rồi, nó đi chơi với kép mà em cứ hoœi đi đâu làm sao nó traœ lời.” “Kép cũng phaœi có nơi, đụng đâu đi đó, ai rủ nó cũng đi như con đĩ vậy à.” Tuyên ôn tồn: “Thì nó cũng phaœi đi chơi mới chọn người vừa ý chứ.” Hằng thơœ ra mệt moœi, gieo mình xuống giường nàng dặn Tuyên: “Từ nay em nhờ anh theo dõi nó cho kỹ, nó đi ăn với ai, ngủ với ai anh phải cho em biết. Tuyên làm bộ ngây thơ. “Nó lớn rồi, theo dõi rất khó, hơn nữa đi đâu, ngủ nhà ai là quyền của nó, theo dõi để làm gì?” Hằng ú ớ: “Thì mình...ờ...” Mà theo dõi để làm gì. Có bắt quả tang nó ngủ với ai mình cũng không có quyền nói. Ở cái xứ nầy cha mẹ còn không nói được con, huống chi Nga chỉ là đứa em, mà Nga cũng đã lớn tuổi đâu phải vị thành niên. Tuy vậy, những lời mắng trả, mắng treo, xúc phạm của Nga khiến Hằng không ngủ được. Hằng tức tối vô cùng. Hằng định cho Nga nghỉ việc và tống cổ ra khỏi nhà lập tức. Hôm sau cơ thể Hằng uể oải vì mất ngủ, lại thiếu đi một người thợ nên Hằng rất bận. Khi có người khách hỏi Nga thì Hằng mới sực nhớ gọi về nhà. Hằng định nói cho Nga biết là nên đi tìm nhà ở chớ nàng không muốn chứa nữa. Điện thoại gọi về reo nhiều lần nhưng không ai bắt. Tuyên thì thường xuyên vắng nhà không nói làm gì nhưng Nga cũng đi đâu mất, Hằng đoán là nó đi mướn nhà hoặc tìm chỗ khác mà làm. Khách đã giết Hằng cái thời gian suy nghĩ, nàng cắm đầu làm việc cho đến tối mới về. Khi về đến nhà, trời nhá nhem tối, Hằng gõ cửa phòng Nga trước tiên, không thấy trả lời. Hằng mở cửa bước vào, các hộc tủ kéo ra trống trơn, Hằng kéo cánh cửa phòng treo quần áo thì không còn thấy áo quần Nga ở đó nữa. Một thoáng nghĩ trong đầu Hằng là Nga đã dọn ra ngoài ở với bồ rồi. “Mầy ở đâu thì ở không mắc mớ gì tới tao nữa, thứ em mất dạy’. Hằng đi rửa mặt, chờ Tuyên về để ăn cơm tối, nàng uể oải gieo mình xuống giường, bao nhiêu ý nghĩ ngược xuôi trong đầu, nàng thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi có tiếng điện thoại reo, Hằng chờm nhấc phone, bên kia đầu dây, tiếng Tuyên nói pha với tiếng xe hơi đang chạy nên nghe không rõ, Hằng vội vàng báo cáo với Tuyên: “Con đĩ Nga dọn đi rồi, nó không để lại gì cả. A!ử mà anh đang ở đâu? sao không về ăn tối, khổ cho anh quá, li dị làm gì để anh cứ phải trốn tránh. Cũng do con đĩ Nga báo hại.” Hằng có ngờ đâu Tuyên và Nga đã lộng giả thành chân. Hai người đã hưởng cả ‘tháng trăng mật’ khi lên xuống sở ngoại vụ làm giấy. Tuyên cười khúc khích trả lời: "Bây giờ Houston đã 4 giờ sáng rồi mà ăn tối gì. Hằng dụi mắt nhìn đồng hồ quả thật gần sáng, nàng mới hay mình đã ngủ một giấc khá dài. Nàng lặp lại: “Anh làm gì mà giờ nầy chưa về? lại châu đầu với mấy ông cờ bạc chứ gì?” Đầu dây kia Tuyên trả lời: “Anh sẽ không về nữa đâu. Anh và Nga gọi để chào tạm biệt em. À, anh đã mượn đỡ số tiền chúng ta một thời gian, khi có anh trả lại. Hằng á khẩu, buông ống nghe, nàng nghiến răng trèo trẹo. Nàng nhào tới cái tủ sắt, loay hoay vặn qua vặn về ba con số đến chục lần mà cánh tủ không mở được. Khi định thần, nàng xoay từ từ mở được tủ, quả nhiên tiền bạc, vòng vàng không còn gì cả. Mười mấy năm dài tha phương cầu thực, tình chồng vợ đậm đà thế mà hôm nay con đĩ ngựa đã cướp chồng nàng rồi. Hằng đập tay thình thịch xuống giường, khóc nức nở như một đứa trẻ: “Trời cao đất rộng ơi... đời tôi sao khổ thế này... nuôi ong tay áo, hu. hu...” Trong bóng đêm âm thầm nàng cầu mong Chúa quyền năng gây cho tên gian phu và con quỷ cái đó những tai nạn khủng khiếp nhất, như ngài đã từng giáng xuống cho những ai chối bỏ ngài, chúng sẽ bị nát thây từng mảnh vụn. Rồi nhờ sự tin tưởng mơ hồ ấy mà lòng Hằng dễ chịu đôi chút, nàng chưa thể tin nổi là một người sùng đạo như nàng lại bị gạt gẫm một cách thê thảm như vậy. Một người mà mỗi sáng Chủ Nhật đều hối cả gia đình đi lễ như Tuyên lại tàn nhẫn đến như thế. Trong một thoáng rất nhanh Hằng còn tin rằng Tuyên sẽ trở về với đầy đủ số tiền do nàng làm ra và cùng Nga năn nĩ nàng tha lỗi. Nàng sẽ mắng cho một trận rồi dẫn hai người cùng đi xưng tất cả tội lỗi với bề trên. Chuyện đó nếu có xảy ra thì đều do Thiên Chúa sai khiến là bởi vì Hằng tin rằng tất cả việc làm trên thế gian nầy đều do Thiên Chúa sắp đặt. Hằng đâu biết rằng, khi xúi Tuyên về Việt Nam cưới em vợ là Chúa đã ‘thêm cánh cho hùm’. Tuyên bề ngoài đạo mạo, nhưng bên trong là một tên đểu cáng. Từ những lần đưa Nga đi làm giấy tờ ở thành phố ****. Tuyên đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn đứa em vợ trẻ, đẹp hơn chị của nó nhiều. Những lần đi bổ túc giấy tờ với Nga là những lần Tuyên thấy trong trí con vợ mình thô kệch, bủn xỉn, ăn nói thô lỗ, chưa hề có con mà ngực và mông mềm như cháo. Cái ý đồ phản bội vợ, lớn dần… lớn dần trong óc hắn. Riêng Nga thì trước đó không có ý định chống lại chị, nàng chỉ dễ dãi cho Tuyên chỉ vì muốn xuất ngoại. Hơn nữa, Tuyên đã có lần bắn tiếng cho Nga biết rằng cái chìa khóa vào ngưỡng cửa nước Mỹ đang nằm trong tay hắn. Rồi khi đến Mỹ Tuyên bám sát Nga như đỉa, hắn đã không cho Nga một cơ hội nào quen biết bạn trai. Dĩ nhiên hắn có ngàn thủ đoạn để giữ con mồi béo bỡ ấy cho riêng mình nhưng cũng lại đồng thời xúi dục những người chẳng ra chi nhào vô tán cô em vợ. Hắn ởm ờ làm mai để thủ những quà cáp lặt vặt như ly cà phê, tô hủ tiếu v.v... Tuyên ly gián Nga với Hằng bằng cách bịa rằng Hằng đã nói rằng Nga là đứa con gái làm biếng, vụng về, chẳng biết nấu ăn, ngủ dậy giường chiếu không gọn gàng. Thực tế những thứ ấy Hằng nói sai. Nga nấu mì gói và luộc trứng rất giỏi, còn chăn mền chiều dùng nữa mắc gì phải xếp. Điều làm Nga bực mình hơn cả là Hằng nói Nga không phải con cùng cha với Hằng, câu nói ấy hàm chứa một ý đồ nhục mạ, bêu riếu mẹ nàng với Tuyên làm Nga càng lồng lộn. Vì lẽ đó nên Nga không còn kính nể chị mà còn tìm cách trả thù. Từ đó Nga quan niệm lên giường với Tuyên cũng là lối ‘phỏng tay trên’ cho đáng đời Hằng. Thêm một cơ hội cho Tuyên là Hằng đang lãnh oeo phe, sợ chính phủ theo dõi, nên Hằng xúi Tuyên đừng ở nhà thường xuyên. Hằng mê muội nên Tuyên đề nghị việc gì cũng đúng cả, nàng tin tưởng Tuyên tuyệt đối đến nỗi đi lễ nhà thờ Tuyên cũng ngồi sát Nga còn Hằng thì ngồi chơi vơi một mình. Việc nầy thì nên lắm, vì trong đám người đi lễ, đôi mắt cú vọ bà Thục, một người chỉ quyét dọn tại sở oeo phe chốc chốc liếc mắt nhìn chị em Hằng như đang theo dõi. Nhiều lần như thế Hằụng khuyên Tuyên và Nga đi lễ nhà thờ Mỹ hoặc nằm nhà cho chắc ăn. Thậm chí người ta đồn rằng thấy Tuyên đi chơi thân mật với Nga thì Hằng lại mừng vì đó chính là những yếu tố an toàn cho cái check oeo phe hàng tháng. Chị em Hằng thay phiên nghỉ một ngày trong tuần cũng nằm trong kế hoạch của Tuyên. Tuyên sống với Nga phè phởn như chính hắn là chồng thật của Nga. Hằng nằm vất vưởng như cái xác không hồn sau khi mất cả chì lẫn chài, chỉ còn một điều sót lại đó là niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa quyền năng. Tuy nhiên câu kinh ‘lạy cha cho chúng tôi hằng ngày dùng đủ và tha kẻ có nợ chúng tôi’ không thích hợp trong hoàn cảnh nầy. Hằng đang tức cành hông, giận sôi gan, nàng không thể nào chấp nhận tha thứ một cách dễ dàng như vậy. Nàng muốn sửa lại câu kinh ấy bằng ‘lạy cha đưa đẩy những kẻ có tội mang tiền trả lại cho con, rồi sau đó cha phải làm cho họ thân tàn ma dại’. Lòng ấm ức, nước mắt tuôn ràng rụa. Chao ôi! Đời nàng sao lại có ngày hôm nay, Hằng nguyền rũa chửi bới đủ điều. Đã thế thỉnh thoảng, Tuyên vẫn gọi về trêu dăm ba câu rồi cúp máy. Hằng nghiến răng muốn vỡ cả hàm, nàng thề đến chết cũng không bao giờ tha kẻ có nợ. Ta đã lầm đưa ngươi sang đây.
|
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Feb/2012 lúc 3:38am
Bạn cũ năm mươi năm /main/vanhoc/truyen-ngan-moi/33107-bn-c-nm-mi-nm.html -
| | | |
Tác Giả: Tràm Cà Mau | Thứ Năm, 09 Tháng 2 Năm 2012 07:46 | “Tư Thàn! Mày! Ð. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.” ... ( Chuyện kể của ông Hai ) Dạo đó, tôi vừa mới trổ mã, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn củn cởn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái gì cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy mãi. La rầy để quở trách mà cũng chan chứa tình yêu thương. Tôi ăn cái gì cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ được say sưa.
Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây, nhưng chạy thì nhiều hơn, vì lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống của Tây.
Tôi bị Tây bắt lãng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi tò te làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia mãi.
Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rõ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đã hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, thì tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn vì bắt buộc, thì thật là chán nãn, mệt nhọc, bực mình. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân nhạc không vui, vì đã chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó thì bắt bất cứ con gì ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn phân thì thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực mình. Thường thường,thì đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu thật đúng giờ. Thế thôi. Còn ngoài ra thì chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: “ Tọ tè ti tọ tè ti.. ti tọ ti tè... “ Mà lũ con nít chuyển âm thành:“ Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, vì anh cùng tuổi, cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và thuộc lòng tên đào kép của các gánh cải lương, hò quảng. Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. Hình chụp rất điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên, mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm hình nầy, Tư Thàn nể nang tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm hình, và hy vọng được lòng tôi, thì sẽ được lòng em tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng . Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đòn gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất lòng ai. Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Ðến tháng lãnh lương, thì trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, thì cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, thì phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến mình. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ sòng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi một mình. Khi ngồi trong rạp, nhìn xéo qua bên kia, thì tôi thấy Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên chỉ trỏ, như đang giải thích gì đó. À thì ra Tư Thàn đã bí mật phổng được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra thì tôi cũng hơi ghen tức. Tôi thì đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo gì, Tư Thàn cứ tự nhiên, thì vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm hình con Mười lại cho tao. Tưởng mầy đàng hoàng, thì ra...” “Tao làm gì mà gọi là phản bội?” “Mầy còn giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm gì? Với ai? Có chối được không?” “Ai nói với mầy?” “Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?”
Tư Thàn bẻn lẻn móc ví trả tôi tấm hình cô gái có hai cái núng đồng tiền. Anh có vẽ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói: “Em gái mày đẹp như thế nầy, thì chán chi người dòm kẻ ngó. Tao làm gì mà vói thấu. Trả hình lại cho mày là phải.” “Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!” “Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’ Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nỗi. Thì ra, tôi nhẹ dạ tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả lui cho tôi tấm hình cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn không còn nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết mình ngu, đòi lại tấm hình, chẳng ích gì, nhưng đã lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có thì giờ đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bỡi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô nữa.
Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua, mà thua thì nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, thì hai đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi tìm ra một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, thì đứa kia thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, vì một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nhìn vóc dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, thì còn nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không còn muốn trả nữa. Tôi cứ khất mãi, và đến tháng lãnh lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái gì lấn cấn, tình bạn không còn như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo lòng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả
Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn: “Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?”
Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời: “Mầy còn đòi tiền nợ, thì tao đục cho trào máu.”
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi thì cũng không hết giận, định đi theo gây sự thêm. Vì một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất tình bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Hòa được thành lập tại miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng vì con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu thốn.
Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Ðầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định bắt xe đò về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn: “Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với”
Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, thì anh reo lên: “Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?”
Tôi mừng quá, thét lớn: “Tư Thàn! Mày! Ð. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.”
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Ðủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đình mỗi người. Tư Thàn có hai thằng con trai. Ðời sống của gia đình thong thả, nhờ cô Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư Thàn chưa về lại Sài Gòn lần nào, vì cũng không có chuyện gì, mà chẳng còn ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ bên đường, đến đâu thì đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con gà lên chõng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đã rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, thì cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng. Cô mắng: “Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá”
Ðêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say. Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề toan tính thanh toán cho sòng phẳng. Cũng vì món nợ đó, mà cái tình bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng, không còn như trước. Tôi chậm rãi nói lè nhè trong hơi men: “Tao bậy quá, còn mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả . Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may lắm. Tiền không có dư...”
Tư Thàn cười hiền hòa, giọng ấm áp nói: “Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ gì? Chuyện cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quý rồi.”
Có lẽ vì rượu đã ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí tình của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Ðêm đó, tôi ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm rì trong bóng tối cho đến khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, thì thấy chiếc xe chỉ còn là một đống sắt cháy nham nhở. Thì ra đêm qua, du kích đặt mìn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe dò về Sài gòn, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi được một xu, thì tha làm phước. Vã lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu trước được chuyện bom mìn.
Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đình chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đã. Vì sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đã trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số đã chết trong tù, một số còn bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được thả. Ðó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lão của quận hạt. Hai mươi mấy năm đòi sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một mình, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi đang ở Sài gòn, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập tòa nhà đôi chọc trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem truyền hình, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Lòng tôi đau nhói, và nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua gì quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở vể lại Mỹ được, và trong lòng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam mãi, cho hết cuối đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách sạn. Từ trên cao nhìn xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi năm trước, nơi đây còn lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu. Từ bên trong phòng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn não nề:
Sông kia rày đã nên đồng Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai Ðêm nghe tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò..”(*)
Lòng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu bãi biển đã biến thành nương dâu, bao nhiêu trũng hoang đã trở thành phố thị. Những thế hệ trước tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đã về với lòng đất. Yên bề. Những người còn sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm gì. Bỗng tôi chợt nhớ đến Tư Thà. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả được, lòng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời mau sáng, để thuê xe đi tìm thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi tìm Tư Thàn. Anh tài xế nghe tôi nói đi tìm một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đã hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt mìn hơn ba chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy vọng, còn có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi trong cái chòi bán nước bên vệ đường, thì gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên: “Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai, tìm Tư Thàn có chuyện chi không?” “Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé tìm thăm.” “Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ chứng đi tìm!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm tuổi, còn sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần, xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy gò, hai má hóp, miệng móm xọm, chỉ còn hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:
“Tôi tìm Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng.” Ông lão phều phào: “Ông là ai? Tìm tôi có việc gì không?” “Tôi tìm Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.” “Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông tìm lầm người rồi.” “Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?” “Vợ tôi, má thằng Ðộ, thằng Rề.”
Bây giờ thì tôi chắc chắn ông lão ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi còn mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào. Bố thằng Ðộ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đã gặp hồi xưa. Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Ðộ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La, Xi, nhưng mới có mới có Ðộ, Rề, thì bà vợ tịt ngòi. Tư Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để lòi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm, mằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:
“Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!” “Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?” “Thế thì mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?” “Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bã đổi giọng: “Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?” “Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi” Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên: “Ð.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe tiêng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên: “Ð. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nhìn ra.”
Ðám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào: “Mầy còn nhớ đến tao, tìm thăm. Ðồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp nơi nào?”
Tư Thàn nhìn tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ: “Tóc tai cũng còn, răng cỏ hai hàm còn nguyên, mặt mày có da có thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm gì?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối: “Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài gòn, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi, về hưu, không làm gì nữa cả.”
Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đã chết. Thằng Ðộ đi lính quốc gia, đã đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nhìn cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao động chân tay. Tôi nói: “Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”
Tư Thàn ngự trong căn chòi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn, không giường, chỉ có cái võng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu, méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy còn có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không còn răng, ăn cách nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế tìm cho một quán ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói: “Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Ðừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.” Tôi ép mãi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu thay nước, vì sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.
Ðưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật mình, xô gói quà ra về phía tôi: “Cái gì đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy đâu. Ðừng bày đặt.” “Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công tao lặn lội đi tìm.” “Không. Nợ nần cái khỉ gì. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại. Tao đã bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói : “Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả hết nợ, thì sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm. Thương tao, mầy cứ cầm đi. Ðể mua gạo. Ðể khi đau yếu có chút thuốc thang. Nếu không có nơi cất, thì đem gởi bà con. ”
Ðôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc: “Ð.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng còn định gạt tao như hồi xưa nữa sao? Thằng chó chết. Cái tình bạn của mầy, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”
|
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 14/Feb/2012 lúc 3:08am
CHÚC MỘT
NGÀY HẠNH PHÚC
Tác Giả : Diễm
Tuyết
Chị tôi, trong bộ đồ bệnh nhân, bước đi theo người y tá vào phòng mổ.
Nhìn dáng liêu xiêu của chị, tôi thấy chạnh lòng mà không dám khóc. Tôi chưa
thấy ai sắp được mổ bước đi vô hồn mà vội vã như chị.
Năm mươi tuổi đời,
xinh đẹp và độc thân. Giống như những bông hoa chưng trong mùa nắng; những cơn
buồn nhiều hơn cuộc vui đã làm cho nhan sắc chị tàn phai nhanh dần theo năm
tháng. Sống cởi mở với cuộc đời nhưng số phận vẫn như không buông tha cho chị.
Một khối u nào đó, có lẽ hình thành từ những nỗi buồn lẻ loi trong nhiều năm
tháng đã lớn dần lên trong người chị. Vài lần chị vẫn do dự chưa quyết định có
nên cắt bỏ nó hay không. Vì sự tồn tại của nó hơn mười năm nay thật sự chưa
phiền hà đến chị là bao, ngoài những cơn mệt mỏi vô cớ không thường xuyên mà chị
nghĩ rằng do mình bắt đầu có tuổi. Thế rồi sau một đợt khám tổng quát rồi đến
khám chi tiết, bác sĩ nói bằng một giọng thật nhẹ nhàng nhưng gây chấn động
chẳng khác nào quan tòa vừa tuyên án tử hình: một u nang buồng trứng, một u xơ
tử cung cần cắt bỏ vì nó không còn chức năng gì nữa ngoài việc có thể chuyển
sang ung thư và gây tử vong.
Chiều hôm qua, lúc hai chị em ngồi ở phòng
khám, miệng chị mếu xệch, chực khóc: “Nên mổ không em?”. Chao ôi, đó là câu hỏi
khó trả lời nhất trong đời tôi. Thường ngày, tôi vẫn trả lời những bệnh nhân của
mình bằng những câu hỏi hết sức tự tin và tế nhị: “Không sao đâu, mổ xong là hết
bệnh”, “Bệnh này thường lắm, nhiều người mổ lắm, nghỉ ngơi một thời gian thì
bình phục hoàn toàn, không có tai biến gì đâu”... Thế nhưng, với chị, sao tôi
không có can đảm trả lời như vậy. Mỗi một ca mổ đều là một sự can thiệp bất
thường của bàn tay con người vào những chức năng sống của cơ thể. Làm sao ai có
thể chắc chắn được không có điều gì xảy ra? Ai có thể chắc chắn được không hề có
một tai biến nào. Mỗi một ca mổ là một chuyến đi về định mệnh. Trông bề ngoài,
chị vẫn như một người khỏe mạnh, đang đi đứng yên lành. Nếu tôi lắc đầu: không
nên mổ, thì tôi đã ngăn chặn một cơ hội sống của chị tôi về sau. Tôi đã trả lời
chị bằng một câu hỏi: “Bác sĩ còn đưa ra cho chị phương án nào nữa không?”.
“Không còn cách nào khác em ạ”. Chị thở dài ảo não.
Chiều hôm qua, trong
khi hai chị em ngồi đợi làm thủ tục nhập viện, chị đã nói với tôi: “Em ạ, hay là
mình đi thẳng lên Đà Lạt chơi một chuyến rồi về Nha Trang quách cho rồi”. Lời đề
nghị mới hấp dẫn như thể dường như cuộc sống thật tươi đẹp không biết gì là tật
là bệnh. Quả thật, chỉ cần bước ra khỏi Bệnh viện Từ Dũ này, đón một chuyến xe
đò thì đến tối hai chị em chúng tôi đã ở nơi nhà ông anh. Lâu nay bận rộn không
có dịp đi thăm nhau. Chỉ một chuyến xe, chúng tôi có thể thoát khỏi thành phố
Sài Gòn bụi bặm nóng bức này và tận hưởng một không khí mát lạnh của vùng cao
nguyên; để rồi vài ngày sau cuộc sống lại trở lại bình lặng như thành phố biển
tôi đang sống; để rồi khối u vẫn cứ thỉnh thoảng cuộn lên những cơn mệt mỏi bất
thường trong người chị như cơn sóng ngầm. Cuộc sống là một bài thi trắc nghiệm
mà trong đó buộc mình phải đánh dấu vào một ô vuông nào đó. Ô vuông của cuộc đời
chị, tôi nào dám mạnh mẽ đánh dấu vào.
Mới sáng hôm qua, hai chị em còn
đi siêu thị lựa thứ này thứ kia, chị ướm thử hết áo này áo nọ, tỉ mỉ chọn lựa
từng màu son môi, từng chiếc túi xách. Mỗi lần vào thành phố, chị không bao giờ
quên việc đi mua sắm. Chị như luôn cảm thấy hạnh phúc trong công việc này. Mua
sắm cho mình và mua quà cho mọi người trong nhà. Chị luôn có sở thích mua sắm và
ăn hàng. Mỗi khi buồn, chị đi mua sắm. Mỗi khi buồn, chị đi ăn hàng. Mỗi lần chị
rủ tôi đi ăn là tôi biết chị có điều không vui. Chị thích nói với tôi một câu:
“Cuộc sống là món ăn mà buồn vui như gia vị”. Mới sáng hôm qua, chị hồn nhiên
bên những chiếc tủ lạnh như những cô gái mới lớn mà buổi chiều chị đã như một bà
già, lưng còng hẳn xuống và vai so lại ủ rũ như con gà mái đứng dưới mưa, mặc dù
chị đang diện một bộ đồ thật đẹp. Ngồi trên hàng ghế đợi, có lẽ, chị cũng không
nghĩ đến điều gì xa xôi quá hăm bốn tiếng đồng hồ. Chị đang chờ nghe gọi tên
mình, chờ thủ tục nhập viện, rồi sau đó sẽ chờ phẫu thuật, chờ kết quả. Cả phần
đời còn lại như được quyết định bằng hăm bốn tiếng đồng hồ nữa thôi. Tất cả quá
khứ cũng trở nên vô nghĩa, tương lai thì miễn dự định. Vậy mà ngay trong chính
cái thời khắc hăm bốn tiếng đồng hồ này, chị không làm gì được cho mình, và tôi
không biết làm gì cho chị ngoài việc ngồi chờ.
Sáng hôm qua, tôi chở chị
đi mua chim phóng sinh. Có ai đó mách rằng phóng sinh chim sẽ được mạnh khỏe và
sống lâu. Những con chim nhỏ bé bay lên cao bên trên tháp chùa Vĩnh Nghiêm trông
thật dễ thương. Chúng bỗng gieo trong lòng tôi một niềm tin mạnh mẽ rằng chị tôi
sẽ khỏi bệnh. Những con chim như mang theo một lời nguyện cầu của tôi trình lên
đấng tối cao nào đó, cầu xin cho chị tôi được an lành. Một người bạn của tôi nói
đùa: “Chim ở đây quen rồi, chúng nó bay một vòng rồi quay trở lại chui vào lồng
của người bán chim thôi”. Mong sao không phải như vậy. Nếu không thì số phận của
người phụ nữ như chị tôi cũng luẩn quẩn như những con chim sẻ chỉ biết đường về
lồng chim.
Cánh cửa tự động của phòng mổ khép lại sau lưng chị. Tôi có
cảm tưởng mình không còn biết gì về chị nữa. Ngay cả bộ đồ mặc cho bệnh nhân mổ
trên người chị cũng quá lạ lẫm. Chẳng lẽ nào đó là hình ảnh cuối cùng của chị mà
tôi ghi nhận lại? Bây giờ có lẽ chị đang trả lời những câu hỏi của nhân viên gây
mê. Những câu hỏi người ta thường hỏi cho đến lúc bệnh nhân không trả lời được
nữa và chìm lỉm trong giấc ngủ của cơn tiền mê. Bây giờ có lẽ bác sĩ đang “khai
đao”. Tôi bỗng hoảng hốt. Dường như tôi đang lạc mất chị. Tôi cố nhớ lại chị.
Tôi cố tưởng tượng ra lúc hai chị em đang sóng sánh cùng nhau. Nhưng tôi bất
lực. Ngày ngày chị chăm sóc cho mỗi người trong gia đình. Mọi thứ đều có bàn tay
chăm chút của chị, nhưng dường như trong nhà không ai bận tâm đến những gì chị
đã làm, cứ như một sự hiển nhiên. Bây giờ, thời gian như ngừng lại. Những kỷ
niệm của tôi và chị như ngừng tại đây. Tôi không còn biết gì về chị nữa. Tôi
nhìn quanh lục tìm. Chỉ còn chiếc điện thoại di động của chị. Tôi cầm nó lên
tay, tôi có cảm tưởng nó chực reo.
Xưa nay, tôi chưa bao giờ tò mò nhìn
vào điện thoại ai, vậy mà, bây giờ tôi hối hả lục tìm trong điện thoại của chị.
Tôi hối hả nắm giữ những gì còn sót lại, có thể liên quan đến chị. Tôi đọc điện
thoại của chị, như thế nó có thể nói cho tôi biết chị tôi bây giờ ra sao. Những
cái tên riêng trong danh bạ không bỏ dấu, tôi chẳng biết ai ngoài một số người
thân trong gia đình. Bỗng dưng trong tôi xuất hiện một ý tưởng ngớ ngẩn. Tôi
muốn gởi đi một tin nhắn hàng loạt cho tất cả mọi người trong danh bạ: “Ai biết
chị tôi bây giờ ra sao không?”. Tôi chợt oán ghét những cái tên này. Sao chẳng
ai gọi đến một cú điện thoại nào hỏi thăm chị tôi cả. Tôi lục tìm tin nhắn. Tôi
chợt sững người khi chợt thấy một mẩu tin mới nhất của một ai đó với cái tên
được lưu là QD. “Can đảm lên, anh luôn ở bên cạnh em. Anh sẽ là người đầu tiên
gọi cho em khi em tỉnh giấc”. Đọc xong tin nhắn, tôi vội vàng tắt điện thoại của
chị. Tôi sợ nghe tiếng người đó gọi. Hiện giờ thì tôi chưa thể trả lời cho ai
biết tình trạng của chị. Tôi sợ sẽ gây thất vọng cho một ai đó. Có lẽ, chị cũng
muốn nghe được giọng nói của QD đầu tiên sau khi mình tỉnh thuốc mê. Bỗng dưng,
tất cả những ý nghĩ của tôi về chị bây giờ tò mò chuyển sang một nhân vật khác.
QD là ai, tôi chưa từng nghe chị nói. Một điều gì đó thôi thúc tôi bật mở điện
thoại của chị trở lại. Tại sao tôi lại tắt điện thoại khi không còn biết chút gì
về chị nữa sau khi chị bước qua cánh cửa phòng mổ. Thông tin duy nhất mà tôi còn
biết về chị chỉ còn là chiếc điện thoại này mà thôi. Tôi lại bật lên. Một lời
chào xuất hiện trên máy: “Chúc một ngày hạnh phúc”. Tội nghiệp chị của tôi. Chị
đã ngày ngày tự chúc cho mình có một ngày hạnh phúc. Tôi bỗng chắp tay nói thầm:
“Em chúc chị một ngày hạnh phúc”. Bỗng nhiên, bao nỗi lo lắng trong tôi tan
biến. Tôi biết sau vài giờ nữa, chị sẽ được đưa ra khỏi phòng mổ, và tôi, và mọi
người trong gia đình, và cả QD nữa, sẽ có một ngày hạnh phúc.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Feb/2012 lúc 12:46pm
Người Trong Mộng Tác giả Nguyễn thị
Thanh Dương http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=731482 - - http:// - net/ - tm.aspx?m=731482
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Feb/2012 lúc 1:16pm
Bà toàn bánh cuốn ngô minh hằng http://music.forvn.com/show/455469.html - - http:// - .forvn - show/
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 26/Feb/2012 lúc 6:33am
NỒI CƠM KHỔNG TỬKhổng Tử: Trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. ***** Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử
Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ … Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo … Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống … thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ … Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh … rồi từ từ đưa cơm lên miệng …
Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài … ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”
Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về … Nhan Hồi lại luộc rau … Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ … Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước …
Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa com đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy … cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?
Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!”
Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”
Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”
Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi … Nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em …
Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi … bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và … thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ! Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!” st
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 29/Feb/2012 lúc 10:21am
Tờ lịch gỡ mỗi ngày
Tác Giả: Ngô Phan Lưu | | Nhà tôi treo một “lốc” lịch to nơi phòng khách, mỗi sáng thức dậy, tôi gỡ một tờ quăng đi… Khi ló tờ mới, tôi xem kỹ câu danh ngôn nếu có, coi đấy như lời dạy dỗ đầu ngày của các bậc tiền bối ! Không biết ai sao, riêng tôi thấy tâm đắc việc này lắm ! Ví như, sáng thứ 2 tuần trước, ngủ dậy liền đến bóc tờ lịch, tờ mới có ghi câu danh ngôn của Turenne: “Tôi có ý kiến này muốn tặng bạn: Đó là, mỗi khi bạn muốn nói, bạn hãy làm thinh”. Xem câu ấy xong, tôi ngẫm nghĩ… và thấy có lý, hay lắm. Quá hay đi chứ! Lời khuyên răn này rất xác đáng, đã đúc kết một kinh nghiệm quí báu trong cuộc sống đầy những chuyện khôn lường của lòng dạ con người! Và, ngày hôm đó tôi cẩn ngôn hơn! Tôi chỉ thực hành nửa câu nói ấy mà cũng thấy mình khá rồi! Còn thực hành nguyên câu dĩ nhiên là không nổi! Xin cảm ơn ông hay bà Turenne người nước nào tôi không rõ, đã cho tôi một chút của báu giắt lưng phòng thân trên đường đời gian truân! Tôi không muốn coi tiếp câu danh ngôn của ngày kế tiếp… Ừ, cứ giữ bí mật để đó, vội gì! Đến sáng ngày thứ 3, ngủ dậy, tôi lại gỡ lịch, gặp câu nói của Swift: “Nổi giận là tự gánh giùm lỗi của người khác!”. Chí lý ! Dại gì mà nổi giận cơ chứ! Quả nhiên, câu ấy tác động nơi từng sâu thẳm tâm hồn, ngày hôm đó gặp nhiều việc bực mình, mà tôi đâu có thèm giận! Ngu gì gánh lỗi kẻ khác! Lại phải cảm ơn cái ông Swift hay bà Swift gì đó nữa!… Rạng đông ngày thứ 4, lại ló tờ lịch ghi câu của Montesquieu: “Phải khóc con người lúc sinh ra, chứ đâu phải lúc chết”. Chết rồi có phải làm gì nữa đâu mà cực với nhọc! Thế thì cũng chả nên khóc lóc mà làm chi! Ừ nhỉ! Lạ thật! Cái chết đột nhiên giảm bộ mặt khủng khiếp trong tâm tưởng tôi, nói chí tình cũng phải có chút ít tác dụng của Montesquieu mới ra thế! Và, ngày hôm đó tôi nghị lực hơn, yêu đời hơn! Lại cảm thấy mình cứng cáp lên! Sang ngày thứ 5, tờ lịch hiện lên câu ngạn ngữ Ba Tư: “Lưỡi dài thu ngắn đời sống”. Ôi, quá chất lượng! Dân Ba Tư kinh nghiệm quá dày dặn! Nói lắm chỉ được cái “nguy to”, chỉ được cái “rước họa vào thân”! Còn nhớ trong ngày ấy, lúc nhậu cùng bạn bè, vậy mà tôi cũng ráng tịnh khẩu! Cứ sợ sa vào cái “vạ mồm”! Đến ngày thứ 6, tờ lịch lấp lánh câu danh ngôn khác, thật cao siêu của Villier de l’Isle Adam: “Người nhục mạ bạn, họ chỉ nhục mạ ý nghĩ của họ có về bạn, tức là họ nhục mạ chính họ!”. Câu này trong tầng sâu là đúng, nhưng thực hiện quả là thiên nan vạn nan! Lên hàng thánh mới xài được! Tâm đắc lắm nhưng cứ cất yên đấy! Công lực chưa đủ, chờ thời gian nữa hẵng hay! Sáng ngày thứ 7, lại ló câu của Cervantes: “Ăn to thì di chúc nhỏ”. Úi cha! Cũng có lý quá! Tôi coi tiếp luôn ngày Chủ nhật xem sao… Đó là câu của G. Herbert: “Ai cũng có một thằng điên trong ống tay áo”. Trời đất ! Lại cũng quá đúng! Những lúc bưng ly bia, cốc rượu chỗ đông người, trong ống tay áo tôi thường rớt ra thằng điên, thậm chí đôi lúc rớt ra hai thằng ! Say quá, có khi rớt tới ba thằng! Ôi chao! Riêng về phần danh ngôn, tờ lịch vậy mà hay! Một lần nữa xin cảm ơn, cảm ơn… tờ lịch gỡ mỗi ngày! Việc gì phải đi thư viện đọc sách hao thời gian, cứ lịch đấy mà học mãn đời không hết!… “Trần Gian Một Khúc “ |
/main/doisong/suytudongdoi/33550-t-lch-g-mi-ngay.html -
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Mar/2012 lúc 1:45pm
VÌ SAO BÚT CHÌ CÓ TẨY ?
Có người hỏi: vì sao bút chì có tẩy? Chẳng phải câu trả lời đã quá rõ ràng rồi sao: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa hoàn toàn một đoạn văn nào đó!
Vậy có bao giờ bạn tự hỏi mình: phải chăng trong cuộc sống này, chúng ta cũng cần có một cục tẩy cho riêng mình? Để xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Có lúc chúng ta quên không dùng đến cục tẩy đó khiến cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa!
Bất cứ ai cũng có lúc gặp sai lầm, bất cứ ai cũng có thể gây ra những lỗi lầm khắc sâu trong lòng người khác! Có người ghi nhớ để rồi mãi mãi khắc khoải vì vết thương đó! Có người để nó bị thời gian xóa đi, trống trơn phẳng lặng để viết lên những bài viết cuộc đời đặc sắc hơn, ý nghĩa hơn! Người ta nói rằng cuộc đời là một trang giấy trắng, và chính chúng ta sẽ quyết định viết nó như thế nào! Khi một đứa trẻ mới vào lớp một, cô giáo không cho chúng viết bằng bút bi mà viết bằng bút chì! Bởi vì sao bạn nhỉ? Vì bàn tay yếu ớt của các bé nhất đính sẽ có lúc viết những nét nghuệch ngoặc, sai từ này từ khác! Và khi đó, bé sẽ dùng tẩy để tẩy đi những chữ viết chưa đúng, chưa đẹp của mình! Chúng ta cũng vậy, không ai sinh ra đã có thể viết lên những bài ca cuộc đời một cách hoàn chỉnh! Có lúc chúng ta đi sai phương hướng dẫn đến những hậu quả khôn lường, có lúc vì chủ quan mà mắc sai lầm không thể sửa chữa! Làm thế nào đây? Ngồi trách móc bản thân và hứng chịu những lời trách móc của người khác? Như vậy có giải quyết được gì không?
Lúc ấy chúng ta cần biết tẩy đi những sai lầm mắc phải và làm lại từ đầu với những bước đi thận trọng hơn! Không ai có thể trưởng thành mà chưa một lầm vấp ngã hay mắc sai lầm!
Mỗi em bé trước khi biết đi cũng trãi qua quá trình chập chững với không ít lần vấp ngã! Đừng tự trách bản thân mình quá nhiều bạn ạ! Cũng như đừng trách móc những người khác khiến họ cảm thấy mình kém cỏi mà mất hết niềm tin vào chính bản thân họ! Hãy biết chấp nhận sai lầm như một điều tự nhiên trong cuộc sống để đối mặt với sai lầm và thất bại một cách nhẹ nhàng hơn! Bạn biết đấy, cục tẩy sinh ra để xóa đi những chữ viết chưa được tròn trịa, chưa được chính xác thì chúng ta cũng hãy dùng cục tẩy của mình – sự bao dung và thứ tha để tẩy đi những sai lầm của mình và người khác mắc phải!
Đừng quá khắt khe với người khác, cũng đừng chỉ nhìn vào những sai lầm của họ mà đánh giá con người họ! Bất kỳ ai cũng có lúc mắc phải sai lầm quan trọng là họ biết mình sai để sửa, còn chúng ta đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó mà hãy nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của mình!
Có câu chuyện về chiếc bánh bị cháy, bạn đã nghe bao giờ chưa nhỉ? Một người phụ nữ phải làm việc 8h/ngày lại còn chăm sóc gia đình và làm hết mọi công việc của một người nội trợ! Một ngày nọ cô mệt nhoài với hàng tá công việc ở chỗ làm khiến cô có cảm giác như kiệt sức! Về nhà cô còn phải dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng và con của cô! Khi người chồng đón con từ trường về, cũng là lúc cho nướng xong mẻ bánh quy trong lò! Thế nhưng vì quá mệt nên cô đã để quên nó một lúc khiến cho một vài chiếc bị cháy!
Lúc ăn tối, đứa con quan sát xem có ai nói gì về những chiếc bánh cháy đó không nhưng chẳng có ai lên tiếng cả! Khi dọn chén đĩa, người vợ ngỏ ý xin lỗi về những chiếc bánh cháy nhưng người chồng dịu dàng nói: có gì mà em phải xin lỗi chứ, hơn nữa mùi vị nhưng chiếc bánh ấy rất ngon! Người vợ mỉm cười hạnh phúc!
Khi đưa con đi ngủ, nó thì thầm hỏi bố nó: có thật bố thích ăn bánh quy cháy không? Không con ạ, anh ta nói với con! Nhưng hôm nay mẹ con rất mệt mà vẫn phải chuẩn bị bữa ăn cho bố con chúng ta! Không nên làm mẹ buồn mà một vài chiếc bánh cháy có ảnh hưởng đến ai đâu chứ! Thế đấy, có bao nhiêu người không để ý đến một vài chiếc bánh cháy trên đĩa bánh? Không nhiều lắm phải không bạn! Cũng như vết mực đen trên tờ giấy trắng!
Có lúc chúng ta chỉ biết nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác để rồi lên tiếng chỉ trích mà quên rằng họ đã cố gắng rất nhiều!
Hãy sống bao dung hơn bạn nhé, để cục tẩy của bạn mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cục tẩy của bạn mãi mãi như mới xuất xưởng! Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy có đẹp đẽ gì không bạn? Hãy để nó là một tờ giấy được viết nên bởi những trãi nghiệm, những thử thách, quyết tâm và cả sự tha thứ và bao dung nữa, bạn nhé!
Sưu tầm
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Mar/2012 lúc 12:20pm
Đời vui hay buồn là tùy thuộc .....
Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử? Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được.
Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.
Ðời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..
Ðời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa.
Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa. Ðến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiền, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng ngãng, mắt đã kèm nhèm.
Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..
Suốt đời cặm cụi, nhịn ăn nhịn mặc, để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi.
Người xưa đã nói:
Một năm được mấy tháng xuân Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa
Và: Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi Bo bo giữ lấy của trời làm chi Bẩy mươi chống gậy ra đi Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi
Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần.
Ông Cả ngồi trên sập vàng Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo Ông bếp ngồi cạnh đống tro Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm
Ðời người sống mấy gang tay Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm Hoặc là Ăn con cáy, đêm ngáy o..o Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.
Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).
Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn.
Những phát minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lạc.
Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè.
Già thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh.
Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh. Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc).
Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của Thượng Đế.
Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được : Ðời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc SỐNG
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Mar/2012 lúc 8:42pm
Đứa Con Dị Chủng Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn
|
T ôi lượm được thằng Michael ở bên xa lộ 45 South Trên đường từ Houston đi Clear Lake. Dạo đó vào khoảng năm 1982, tôi mới ra trường và bắt được một job thơm phức làm cho cơ quan NASA ở Houston trong Mission Control Center, do một ông bạn học cùng lớp giới thiệu. Cuộc đời tôi gặp bao nhiêu là may mắn bất ngờ, đúng là trời cho. Cho nên tôi vẫn nhớ ơn ông Trời, cố gắng học làm người tử tế, dù có chịu thiệt thòi một chút cũng cam lòng. Số là hôm đó tôi đi làm trễ, vừa từ xa lộ rẽ vô NASA road 1, thấy một thằng nhóc đi bộ lang thang bên lề đường, vai mang túi sắc to tướng, kiểu túi sắc quân đội, như ngày xưa tôi nhận được khi mới vào trường Võ Bị. Nhóc đưa ngón tay cái lên ngoắc ngoắc xin quá giang. Tôi vội dừng xe lại hỏi: -Mầy muốn quá giang hả? -Yes, Sir! Hắn vội vã quăng cái “sắc” quần áo ra sau xe truck, với tay mở cửa và nhảy phóc lên ngồi cạnh tôi. Mùi mồ hôi bốc lên nồng nặc. Không chịu nổi, tôi phải quay vội cửa kiếng xe xuống. Tôi hỏi chàng “Trẻ Tuổi Bụi Đời”: -Mày muốn đi đâu? -Đi đâu cũng được! -Nhà mày ở đâu? -Tôi không có nhà, mới từ OMAHA quá giang xe xuống đây. Tôi nghĩ trong bụng:’Gặp thứ thiệt rồi”. -Tao phải đi làm bây giờ, thôi tao thả mày xuống Clear Lake Park, ở đó có đủ cả phòng vệ sinh và chỗ che mưa nắng đến trưa tao kiếm cái gì cho mày ăn. Bà xã tôi hay cằn nhằn về vụ cho mấy tay “bụi đời” quá giang xe. Kể ra thì cũng nguy hiểm, chẳng may gặp anh chàng khùng nào đó coi mạng người như cỏ rác, vậy là giống như trứng giao cho ác! Nhưng tôi quan niệm khác, sống chết có số, ngày xưa lúc còn xông pha trận mạc, mình đâu có tránh đạn được, toàn là đạn tránh mình thôi. Cho nên mỗi khi lái xe một mình, gặp người xin quá giang, nếu thuận tiện tôi vẫn “dzớt” như thường. Kể như đền ơn những người từng cho tôi quá giang hồi mới chân ướt chân ráo bước chân đến đất Mỹ này. Hồi đó, mỗi ngày đi làm phải lội bộ hàng mấy cây số trên đường đầy tuyết. Nếu gặp xe nào cho quá giang thôi mừng hết lớn. Từ sở làm đến hồ Clear Lake chỉ mất vài phút lái xe, tôi vẫn hay ra đó ăn trưa, dỡn với mấy con chim hải âu bằng cách liệng lên cao một miếng bánh mì sandwich thế là cả đám nhào xuống kiếm mồi, bu lại chung quanh, tôi chỉ vung tay ra cũng túm được một chú. Đôi khi buồn ngủ quá bèn đánh một giấc như “Những Ngày Xưa Thân Ái”. Buổi trưa tôi mua 2 phần ăn rồi lái xe đi kiếm “Chàng Bụi Đời”. Đậu xe vào parking, nhìn ra mấy bàn picnic sát bờ hồ, thằng nhóc ngồi đó đang chăm chú xem cuốn album cũ nát. Thấy tôi đến, nhóc vội đứng lên chào và rất mừng rỡ, có lẽ vì túi đồ ăn khá lớn tôi mang đến. Hắn đưa cho tôi cuốn album và giải thích: -Tôi thấy sau kiếng xe của ông có dán cái huy hiệu nhảy dù, chắc ông là người Việt Nam? -Sao mày biết? -Ba tôi cũng từng chiến đấu ở ViệtNam, trên mũ cũng có cái huy hiệu giống như cái ông dán sau xe. Đây ông xem có đúng không? Hắn vừa nói vừa chỉ vào tấm hình chụp một chàng lính Mỹ mặt non choẹt, trên dưới 25 tuổi, đầu đội mũ đỏ của lính nhảy dù ViêtNam thời xưa, cổ áo mang hai bông mai vàng đàng hoàng. Nếu không có cái mặt Mỹ ai dám bảo không phải là lính nhảy dù VN? Tôi nhìn tấm hình thấy quen quen, đúng là thằng Doug Salvatore, Trung Úy trong ban Cố Vấn của tiểu đoàn tôi. Sở dĩ tôi nhớ tên anh ta vì hắn hiền khô it nói, rất thích đội chiếc mũ đỏ nhẩy dù lệch hẳn qua một bên, gặp ai trong tiểu đoàn bất kể cấp bậc, cũng dơ tay chào miệng lẩm nhẩm “hảy đù kú gắn” . Ai cũng cười hiểu rằng hắn muốn nói “Nhảy Dù cố gắng”, Doug cũng cười theo. Hắn hiền khô it nói, nhưng mỗi khi nhờ gì hắn đều giúp đỡ tận tình, từ việc gọi hải pháo, phi vụ oanh kich, máy bay tải thương đến xin vật liệu xây cất doanh trại. Mấy chiếc xe của tiểu đoàn hết bình điện muốn nổ máy, kêu hắn đến là xong ngay, đẩy xe chạy băng băng một chút xíu, thả chân số là nổ máy liền. Hắn có thêm một biệt danh khác là “cargo 5 tấn”, ý nói mạnh như xe vận tải 5 tấn. Thỉnh thoảng hắn còn mua tặng tôi cả đồ trong PX nữa. Lính trong tiểu đoàn gọi hắn là “Đất”. Biệt danh đó cũng gần giống với tên thiệt. Mỗi lần gọi “Đất” hắn chỉ nhe răng ra cười. Sau này biết được ý nghĩa của chữ “Đất” hăn càng thích thú hơn, Một lần tôi hỏi hắn, sao tên của bạn là Salvatore, hơi giống như Salvadore vậy, thế bạn có phải gốc Nam Mỹ không? Hắn nói chẳng có liên quan gì cả, tổ tiên hắn đến từ Tây Ban Nha. Hắn đã cứu tiểu đoàn tôi nhiều lần trong các cuộc hành quân thời “Mùa Hè Đỏ Lửa” nhờ xin được kịp thời những phi vụ yểm trợ vũ bão từ đệ thất hạm đội hay từ căn cứ Utapao bên Thái Lan. Trong trận giải cứu An-Lộc, tuyến phòng thủ của đại đội bị chọc thủng. Tôi bị một mảnh cối vào bụng, máu ra lênh láng. Thằng Đất một tay bắn M16, một tay kéo tôi vào gốc cây cao xu. Hắn xin trực thăng tải thương vào bênh viện dã chiến Mỹ, nếu không tôi chắc đã đi luôn rồi. Tôi mang ơn cứu tử của Đất từ ngày ấy. Sau trận An Lộc, hắn về Mỹ. Tôi mất liên lạc với hắn từ ngày tan hàng. Bây giờ lại gặp con hắn ở đây, đúng là số Trời. Tôi mừng rỡ ôm lấy thằng bé, hỏi cuống quýt: Tao là bạn của Doug, ba mày bây giờ ở đâu? Hắn rớm nước mắt: -Ba tôi chết cách nay 5,6 năm rồi. -Kể tao nghe đi, sao vậy? -Ổng bị đụng xe trên xa lộ bởi một người say rượu, chết ngay tai chỗ. -Má mày đâu mà để mày đi lang thang như vầy? -Má tôi có chồng khác, tôi không thể sống với cha ghẻ nên bỏ nhà ra đi. -Mầy đi má mầy có biết không? -Cả nhà còn ngủ, nào ai biết. -Mầy còn nhớ số phone nhà không. -Tôi có đây, nhưng giá nào tôi cũng không về đâu. -Tao đâu có nói là bắt mầy về nhà, chỉ là gọi cho má mày yên tâm thôi, để bả khỏi báo cảnh sát, mầy hiểu không? -Dạ hiểu. -Thôi được rồi, quăng đồ đạc lên xe rồi đi theo tao. Tôi dẫn thằng bé lại Motel 6 và book cho nó một đêm, thủng thẳng tính kế giúp đỡ. Dù sao nó cũng là con của ngươì bạn đã có ơn cứu mạng với tôi, tôi quyết tâm cứu lại con bạn. Có câu của Phật dạy “xây 7 cái gì gì đó, cũng không bằng cứu cho một người” Biết đâu cha nó đã dẫn nó lại cho tôi? Tôi dặn thằng bé, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đàng hoàng, chờ tôi sẽ tới đón nó trong vòng 2 tiếng đồng hồ nữa.Tôi lái xe về sở, nói chuyện hoàn cảnh của thằng nhóc với xếp và mấy người bạn làm cùng nhóm, xin xếp cho nghỉ vài ngày để giúp đỡ nó. Mỗi người khuyên một câu, đại khái nói tôi phải cẩn thận với mấy đứa trẻ bụi đời. Chúng nó có cả ngàn chuyện rắc rối, hút sách, đánh lộn, cướp giựt, có khi nó còn thưa ngược lại là mình lới dụng làm chuyện bậy bạ v…v…Tôi đã quyết tâm cứu nó nên bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên chân thành đó. Tôi chở thằng nhóc vào sở và giới thiệu với mọi người, đồng thời gọi điên thoại cho mẹ nó, cho biết nó đang đứng cạnh tôi và muốn nói chuyện với bà. Tôi tránh ra một nơi để hai mẹ con nói chuyện được tự nhiên. Một lúc sau trở lại, nhóc nói mẹ nó muốn đươc tiếp chuyện tôi. Bả ngỏ ý trao toàn quyền cho tôi và cầu xin tôi giúp cháu, bởi vì đời sống trong nhà bà như ở địa ngục, cha ghẻ con ghẻ không ngày nào là không gây gỗ nhau. Tôi chấp nhận lời khẩn cầu của bà, yêu cầu bà viết cho tôi tờ giấy, giao thằng Mike cho tôi, hứa không kiện tung gì cả và phải có thị thực chữ ký đàng hoàng. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi, số điện thoại sở và phone nhà, cần gì cứ gọi cho tôi biết. Tôi nghĩ, có thể sẽ gặp rất nhiều rắc rôi sau này, nhưng chấp nhận vậy. Xưa kia tôi đã từng chấp nhận biết bao rủi ro nguy hiểm khi ra trận, bây giờ có chút đỉnh nhằm nhò gì? Tôi phân vân không biết có nên nói thiệt với bà xã không? Chắc phải nói rồi, nhưng dẫn nó về nhà chắc là bả không thể nào chấp nhận được.Đành phải gởi thằng nhỏ lại bà chị. Chị có một quán ăn VN. Khi còn ở quê nhà, chị cũng mở nhà hàng nho nhỏ, từng nuôi nhiều tay anh chị trong quán cho nên du đãng không đứa nào dám phá phách hay đòi đóng hụi chết!. Tính tình chị phóng khoáng cởi mở, mấy đứa du thủ du thực đều nể mặt. Buổi chiều, tôi dẫn thằng nhóc lại nhà hàng, kêu cho nó một dĩa cơm đồ biển thật to, thằng nhóc chỉ ăn một loáng là hết sạch, như thể đã nhịn ăn cả tháng rồi. Dặn nó ăn xong cứ ngồi đó. Đợi vãn khách, tôi gặp chị, nói rõ hoàn cảnh của nó xin chị mở rộng tay cứu giúp nó, chỉ có chị mới giúp được nó thôi. Xin chị cho nó một chỗ ở tạm, còn mọi thứ khác tôi sẽ lo. Chị hơi lưỡng lự một chút, thở dài: -Thôi được, sau khi đóng cửa tiêm, cậu chở nó về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện với nó. Tôi mừng rỡ quá xá, cám ơn chị rối rít, tôi quay đi để che giòng lệ tuôn trào. Chị lúc nào cũng quan tâm và che chở bao bọc tôi. Cha mẹ mất sớm, chị săn sóc và nuôi nấng tôi như mẹ, lúc nhỏ tôi vẫn sống với chị cho đến khi nhập quân ngũ. Những lần bị thương thập tử nhất sinh chị vẫn là người bên cạnh tôi. Lớn lên mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc đời, tôi đều chạy đến chị. Thật là Ông Trời đã cho tôi một bà chị để thay thế mẹ. Chị góa chồng từ năm 1970, ở vậy nuôi ba đứa con trai. Tôi và gia đình chị đã may mắn thoát được trong những giờ phút cuối cùng của miền nam, nhưng đứa con thứ nhì của chị đã ra đi vĩnh viễn trên đường vượt biên, trong lúc con tàu còn lênh đênh trên đại dương. Qua Mỹ, hai chị em xin được việc làm trong một nhà hàng tàu. Chị phụ nấu bếp, còn tôi làm chân “chạy bàn”. Chị bắt tôi phải đi học, chỉ cho làm cuối tuần thôi. Nhiều khi thấy chị vất vả quá, tôi xin chị cho tôi nghỉ học để phụ giúp gia đình nhưng chị cương quyết từ chối. Chị nhắc nhở tôi đó là bổn phận của chị đã được cha mẹ giao phó trước khi nhắm mắt, phải lo cho tôi ăn học đến nơi đến chốn, thành gia thất đàng hoàng, nếu không sau này làm sao nhìn mặt các người nơi suối vàng. Mỗi năm, vào ngày dỗ cha mẹ. chị bắt tôi phải thề trước vong linh các người là không được bỏ học dù bất cứ hòan cảnh nào, cho nên tôi cố gắng học, vật lộn với tiếng anh tiếng u, những phương trình đại số và toán giải tích. Những thứ đó chỉ còn lờ mờ trong trí óc cằn cỗi của tôi sau bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Nhiều khi làm bài không kịp, phải ngủ đêm ngay tại trường trong các phòng học. Có lần mệt mỏi quá, tôi đã ngủ gục khi lái xe về nhà, rõ ràng tôi đã thắng xe lại khi đến đèn đỏ, thế mà vẫn tông vào đít xe trước mặt. Báo hại phải năn nỉ chủ xe rồi bỏ tiền túi ra thường. Đã bao lần tôi muốn bỏ cuộc nhưng tôi tự nhủ “Nhảy dù cố gắng!” nhưng phần lớn vẫn là không muốn phụ lòng mong ước của chị. Ngày tôi ra trường, khi nhìn tôi được gọi tên lên lãnh bằng, chị là người la to nhất hơn cả mấy đứa nhóc. Chị sung sướng hơn cả tôi, tôi ra trường, nhưng mảnh bằng là của chị, công lao là của chị. Hai chị em ôm nhau chụp hình kỷ niệm mà nước mắt chị ướt trên ngực áo tôi. “Thế là tâm nguyện của chị đã thành, chỉ còn việc cưới vợ cho cậu nữa là xong” chị nói với tôi như thế trong buổi tiệc ăn mừng. Tôi đã già đầu rồi, bao nhiêu năm chiến trận, đã từng chỉ huy hơn một đại đội nhảy dù, thế mà chị vẫn nghĩ tôi còn con nít. Trở lại chuyện thằng nhóc, 10 giờ tối, tiêm bắt đầu dọn dẹp đóng cửa. Tôi dẫn nhóc lại giới thiệu với chị và xin phép chị chở thằng nhóc về nhà trước. Tôi cắt nghĩa qua loa về phong tục tập quán của người Việt, kính trọng người lớn tuổi hơn mình, nhất là người già cả, thế nào là tiên học lễ hậu học văn, kính trên nhường dưới. Những điều căn bản đạo đức của người Việt không tìm thấy trong sách giáo khoa ở trên đất Mỹ này. Nhóc hứa với tôi từ nay sẽ chăm chỉ học hành không la cà hút sách nữa. Nghe vậy tôi cũng yên lòng. Tôi thấy thương nó như chính con tôi vậy. Buổi tối, cả nhà quây quần trong phòng family room. Thằng nhỏ được mang ra trình diện: -Đây là Mike, còn đây là bà Ánh, hai người con của Bà là Dũng và Trí. Cả nhà bắt tay nhau và nói lời chúc tụng xã giao. Bà chị tôi dặn thằng Mike: -Từ nay con gọi ta là Má Ba, mặc dù tên của ta là Ánh, ta đã nhận con là con, ta sẽ đối sử với con như hai đứa con của ta, con có chịu không? Thằng nhóc nói lý nhí: - Yes Má Ba. -Con bao nhiêu tuổi? -Dạ 13. -Thằng Trí 16 là anh Hai, Thằng Mike ta đặt tên VN là Mai là anh Ba, thằng Dũng trẻ nhất 12 tuổi là Út cũng gọi là thằng Tư nghe chưa. Tất cả đều dạ ran, Thằng Mike chẳng hiểu đầu đuôi ra sao tôi phải cắt Nghĩa cho nó hiểu. Con lớn nhất của Má Ba nickname goi là Number two, nó được gọi là number three, trên thằng Tư một bực. Nó thắc mắc sao không có number one. Má Ba trả lời đó là luật lệ. Còn luật nữa là ở nhà chỉ nói tiêng Việt thôi. Bắt Đầu từ ngày mai, thằng Mai cũng phải nói tiêng Việt. Má Ba cho một đặc ân, trong mấy tháng đầu, nếu thằng Mai không biết tiếng Việt cho phép thằng Hai và thằng út nhắc nhở. Chị tôi nói tiếp: -Ngày mai cậu Út dẫn thằng Mai đi xin học, về nhà phải học và làm bài tới 9 giờ tối, sau đó muốn coi TV hay làm gì khác tùy ý, 10 giờ tối phải đi ngủ. Chủ Nhật phải đi lễ sớm, thằng Mai phải ghi danh học Việt Ngữ ở trường Nhà Thờ như hai đứa kia. Thằng Út lên dọn phòng cho thằng Mai ngủ. Tôi cười nói với chị: - Toàn là “phải” này “phải” kia y như bà “xếp” của em vậy. Thằng Mai “phải” nghe lời Má Ba nghe chưa! Nhóc vội vàng trả lời: “Yes, Sir!” Chị lườm tôi: -Mấy đứa này phải dặn kỹ càng như vậy mới được, còn không vào lỗ tai này ra lỗ tai kia mất cậu ơi! Hướng về thằng Mai chị tôi hỏi: -Sao mày bụi đời. Thằng Mai rớm nước mắt, ngập ngừng một lúc mới thốt nên lời: -Má Ba ơi, con rất cô đơn và buồn khổ, lớn lên không cha. Cha ghẻ của con là một người cọc cằn, khó tánh và nghiện rượu, trong nhà cãi lộn sảy ra hàng ngày. Tất cả giận giữ của mẹ và cha ghẻ đều đổ lên đầu con. Cuối cùng con phải bỏ nhà ra đi. -Rồi mày ở đâu, làm sao mà sống? -Con phải ngủ dưới gầm cầu hay trốn vào mấy căn nhà bỏ trống. Ăn cắp đồ, lục thùng rác hay bán cần xa ma túy để kiếm sống. Chị xoa đầu thằng nhóc và khuyến khích nó rồi dẫn tôi đến thắp nhang bàn thờ cha mẹ, hứa sẽ chăm nuôi thằng Mai như con chị. Chị nói với tôi có lẽ Chúa mang thằng Mai cho chị, để an ủi chị những lúc thương nhớ thằng con đã bỏ chị ra đi. Thế là chị lại có ba đứa con như xưa. Tôi thấy chị lau vội hai giọt nước mắt vừa lăn trên má. * Bà chị tôi áp dụng luật lệ giang hồ và rất nghiêm khắc với mấy đứa con. Anh rể tôi qua đời từ khi mấy đứa còn rất nhỏ. Anh là một Phật tử thuần thành, vẫn hay đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Chị là con chiên của Chúa, hai người khác đạo nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận, đạo ai nấy giữ, mấy đứa con thì vừa cho đi nhà thờ vừa cho đi chùa. Sau khi anh mất chị ở vậy, làm ăn vất vả để nuôi con ăn học. Qua Mỹ, Tôi và chị đi làm công một thời gian, hai chị em để dành được một số vốn nhỏ rồi mở tiệm ăn VietNam. Bạn bè Mỹ của mấy đứa cháu đến nhà chơi phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn ViêtNam. Có lần chi giải thích với mấy đứa con: -Chúng mày tới nhà bạn phải nói tiếng Mỹ, tiếng của cha mẹ chúng nó phải không? Ăn đồ ăn của cha mẹ chúng nó phải không? Vậy thì chúng nó cũng phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn của tao, thế mới công bình chứ. Mấy đứa con hết ý luôn. Mấy đứa nhóc Mỹ ăn đồ ăn VN riết rồi đâm ghiền, món gì cũng không từ, nước mắm, mắm tôm cũng mê luôn. Chúng gọi mắm tôm là mắm “con chuột”. Chỉ một thời gian ngắn, thằng Mai đã có thể nói chuyện thông thường hằng ngày bằng tiếng Việt. Nó lớn lên trong tình thương gia đình của chị tôi, nó rất hãnh diện có một mái nhà ấm cúng và một người mẹ thương yêu chăm sóc cho nó . Ngày thường cả ba đứa nhỏ đều đi học. Ngày Chủ Nhật, sáng đi lễ nhà thờ rồi theo học lớp Việt ngữ tại đó, chiều đi lên chùa học võ VOVINAM và họp Hướng Đạo. Ngày này qua tháng nọ, thằng Mai đã thành một đứa nhỏ Việt Nam từ cách ăn nói lễ phép, đi thưa về trình hẳn hoi, biết khoanh tay chào người lớn tuổi, biết cầm hai tay dâng đồ ăn cho Má Ba, biết quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ tôi. Ngày Tết cũng biết mừng tuổi chị tôi, biết cầm cờ vàng đi biểu tình ngày quốc hận. Nó hòa đồng với tụi nhóc VN chẳng khó khăn gì. Gặp người Việt họ vẫn tưởng Mai là đứa con lai, ai cũng khen ngoan và lễ phép, có đâu ngờ rằng nó là thằng Mỹ con chính hiệu con nai vàng! Nếu mấy đứa con nít Việt Nam lớn lên trên đất Hoa Kỳ bị gọi là “Chuối” , ngoài da vàng, nhưng trong đầu óc đã Mỹ hóa hoàn toàn! Thì phải gọi thằng Mai là bánh bao, ngoài thì trắng trong thì hầm bà lằng đủ thứ. Mai và thằng út học chung một lớp, đi đâu cũng có nhau, anh em rất thân thiết. Nó hay săn sóc hỏi thăm sức khỏe chị tôi, bắt chước thằng Út rót nước mời chị mỗi khi chị đi làm về, đôi khi còn nấu những món ăn nhà quê của người bản xứ mời chị ăn. Má con càng ngày càng thắm thiết. Chị cũng rất thương nó, có khi còn hơn cả mấy đứa con ruột của chị. Chị vẫn hay than thở với tôi “Tội nghiệp thằng Mai, có mẹ cũng như không.” * Một hôm chị nhờ tôi vô trường xem có chuyện gì sảy ra cho thằng Mai và thằng Út, vì nhà trường yêu cầu chị đón chúng nó về nhà. Hai đứa đã đánh lộn với một đám học sinh khác trên xe buýt và bị bị đuổi học hai ngày. Chị tôi chửi cho một trận nên thân và phạt đứng úp mặt vào tường 2 giờ và dặn lần sau không được đánh lộn nữa. -Tại sao hai đứa mày đánh lộn, chị hỏi. Thằng Mai giành phần: -Tại mấy đứa học sinh trên xe buýt chọc ghẹo thằng Út ăn hiếp nó, goi nó là “chink choong” hay “Ê Chinese go home”. Con đã nói thằng Út với con là anh em, chúng nó không chịu để yên thằng Út. Thế là đánh nhau. -Lần sau phải thưa nhà trường, không được đánh lộn nghe không?, tao bảo không nghe, tao không chửi bằng tiếng Việt nữa đâu. Tao sẽ ra trước cửa nhà chửi chúng mày bằng tiếng Mỹ cho tất cả hàng xóm nghe cho xấu hổ cả lũ. Từ đó thằng Mai không dám đánh lộn nữa. * Mai và Út ra High School cùng một lượt, rồi ghi danh vào UT (University of Teaxas at Austin) cùng với anh Hai của chúng. Tôi mua cho hai đứa một chiếc xe Toyota nhỏ để thỉnh thoảng về thăm nhà. Tôi nhận phần trợ cấp tài chánh cho ba đứa nhỏ thêm vào số tiền trợ cấp của chính phủ, để tiếp tục chương trình đại học. Chị tôi cuối tuần nào cũng lái xe lên Austin để tiếp tế đồ ăn cho mấy nhóc. Chị một đời làm thân cò lặn lội bờ ao, nay tóc đã bạc quá nửa, con cái đã đi hết, nhà cửa thật trống vắng. Tôi mời chị qua ở chung với tôi, nhưng chị một mực từ chối, tôi phải biểu mấy đứa nhỏ nhà tôi qua thăm hỏi chị luôn. Đôi khi chúng ngủ luôn lại nhà chị và coi chị như mẹ chúng. Một hôm tôi nhận được cú điện thoại của thằng Mai gọi về: -Cậu Út ơi, cứu con với. -Mày làm sao vậy? -Con đang ở City Jail! Cậu đừng cho Má Ba hay nghe, bả biết được, chửi con thì cả hàng xóm đều biết, con xấu hổ lắm không dám về nhà đâu. -Mày biết xấu hổ sao còn làm bậy. -Con bị oan Cậu ơi. -Mấy thằng trong tù, đứa nào mà chẳng kêu oan. -Cậu không tin con, chứ ai tin con bây giờ? -Nói tao nghe thử oan nỗi gì. -Con gọi điên thoại trong nhà tù, chỉ được gọi giới hạn thôi. Cậu lên đây bail con ra rồi con sẽ giải thích cho Cậu nghe, Cậu phải tin con mới được. Tôi sợ thằng Mai dính vào cần xa ma túy thì tiêu đời, tôi vội hỏi nó: -Mày buôn bán ma túy phải không? -Đâu có nào, con bị cánh sát gài bẫy, nói là con solicit prostitutes. Tôi thở ra nhẹ nhõm, chỉ là tội thường phạm thôi, chắc chỉ bị cảnh cáo hay làm public service vài giờ là cùng. -Thôi được, mai tao sẽ lên đó lãnh mày về Sáng hôm sau lên đến nơi, Mai đã dược chuyển về nhà tù của County rồi. Tôi phải nhờ văn phòng “Bail Bond” để lãnh nó ra, trả hết 500 Đô tiền bail và $250 tiền lệ phí cho văn phòng. Sau khi nạp tiền bail, thằng Mai được thả ra chờ ngày ra tòa. Tôi hỏi Mai: -Mày nói cho Cậu nghe, làm sao mà cảnh sat bắt mày? -Cậu ơi, oan con thiệt mà. Sáng hôm qua con đi đổ xăng, thấy có con nhỏ bị hư xe, con tới coi giúp nó, cuối cùng là chẳng có hư gì cả chỉ là hết xăng thôi. -Nó ăn mặc sexy lắm phải không? -Sao Cậu biết? -Thì nó muốn làm mờ mắt mày để nó nói gì thì mày cũng OK, tao còn lạ gì chuyện đó. -Cậu còn chọc quê con nữa! Con nhỏ nói nó đi bụi đời vì không ở nhà được với cha ghẻ, mấy hôm nay sài hết tiền rồi, chẳng còn xu teng nào trong túi. Con nghĩ tới hoàn cảnh của con ngày xưa nên muốn giúp nó, giống như Cậu đã giúp con vậy. -Thế tao giúp mày tao có bị cảnh sát bắt không? -Cậu đừng la con nữa mà. Nó nói cái gì nhỏ lắm con nghe không rõ con nghĩ là nó muốn xin tiền để đổ xăng. Dù nó không xin thì con cũng cho mà, thế là con đưa cho nó 20 Đô. Con nhỏ vừa cầm tiền là đám cảnh sát chìm nhào tới còng tay con liền. Con hỏi tại sao họ bắt con, họ nói là con mắc tội mua dâm. Con nói chỉ là cho tiền con nhỏ đổ xăng thôi, không tin cứ hỏi con nhỏ kia thì rõ, đám cảnh sát nói mai mốt ra Tòa mà cãi. -Con nhỏ đó cũng là cảnh sát chìm để gài bẫy mày thôi, mầy xập bẫy rồi làm sao ra được. -Con xin con nhỏ nói vài lời công bằng cho con, nó chỉ cười cười thôi. Con muốn đục cho nó mấy cái quá đi. -May mà mày không đục nó, chỉ nặng tội thêm, thôi được đi kiếm cái gì ăn đã, tội mày cũng nhẹ, để tao nhờ luật sư lo cho. Lần sau muốn giúp ai phải cẩn thận. Mày phải lựa lời nói cho Má Ba biết, kẻo mai mốt bả biết được thì liệu hồn đó. -Vậy tối nay con sẽ gọi cho Má Ba, Cậu nhớ nói giúp con một tiếng nghe, không thôi bả chửi con sặc máu đó. -Người ta nói “oánh sặc máu” chứ chửi sặc máu sao được mày! -Thì con nói vậy Cậu hiểu rồi, Má con chửi cũng sặc máu đó Cậu ơi! -Biết dzậy sao còn làm bậy. -Con oan mà Cậu. Tôi nhờ văn phòng bail bond giới thiệu một luật sư, giá 300 Đô lệ phí. Vì chưa có tiền án, thằng Mai chỉ bị phạt 2 ngày làm công tác cộng đồng thôi. * Mai và Út ra trường cùng một lượt. Chị Ba và tôi cùng đi dự lễ mãn khóa, Chị rất mừng, ôm hai đứa con mà mắt đỏ hoe nói với chúng: -Các con ơi, đây là sự thành công lớn nhất trong đời Má, tất cả các con đã thành tài và nên người. Mẹ ruột của Mai vì bịnh nặng không thể đến được, ba ghẻ của nó cũng không muốn đến. Thằng Út được hãng Boeing ở Seattle nhận vào làm, Út ở chơi với Mẹ hai tuần rồi đi nhận việc. Thằng Mai đã có ý ở nhà với chị tôi, nên ngỏ ý: -Má à, đã từ lâu con nghĩ, anh hai và thằng Út đều đi làm ở xa, con muốn ở lại nhà để săn sóc Má, cho nên con đã nạp đơn vào trường Baylor College of Medecine ở Houston. Khóa Fall sắp tới sẽ nhập học. Con xin Má cho con về thăm Mẹ con ở OMAHA rồi trở lại ngay. Từ nay con sẽ mãi mãi ở nhà với Má và chăm sóc cho Má suốt đời. Chị tôi rất cảm động khi nghe những lời chân tình đó, không cầm nổi nước mắt, ôm thằng Mai khóc vùi: -Má rất cám ơn con đã lo cho Má, con không cần phải làm vậy, Má tự lo được mà. -Má không sinh ra con nhưng đã cứu vớt con từ bãi xình lầy và ban cho con đời sống mới đầy ắp tình thương, chau chút cho con từng miếng cơm manh áo. Không kể những ngày đau ốm bênh hoạn, Má luôn luôn ở bên con, cầu nguyện cho con chóng khỏi. Tha thứ cho con bao lỗi lầm. -Thiên Chúa đã mang con giao cho Má, Má chỉ làm bổn phận của một ngừơi mẹ như bao nhiêu người mẹ khác trên thế gian này. Mẹ ruột thằng Mai bị ung thư phổi, qua đời chẳng bao lâu sau đó. Tôi và thằng nhóc bay về Omaha đưa đám, đó là lần cuối cùng nó gặp lại mẹ và cha ghẻ. Ông nay cũng đã già lắm rồi, những chuyện cũ hầu như không nhắc lại nữa, nhưng khoảng cách thì vẫn còn đó. Khó cho ai mở đầu một cuộc hòa giải, mặc dầu cả hai đều muốn. Tôi phải làm một nhịp cầu để hai người bắt đầu đối thoại và tha thứ cho nhau. Chỉ là những hiểu lầm thôi. Ngày chia tay, Ông Già và thằng Mai ôm nhau khóc vùi, những giận hờn đều trôi theo giòng nước mắt. * Mấy năm qua thật mau, Thằng Mai ra trường và nội trú tại Texas Children Hospital trong khu vực Medical Center ở Houston. Nó muốn trở thành một BS con nít để săn sóc cho trẻ em, nhất là những trẻ em bụi đời. Thằng Mai bây giờ đã là một Bác Sĩ, nhưng với tôi, nó vẫn chỉ là thằng nhóc bụi đời. Nhóc được rất nhiều trường hoc và Juvenile Probation Center mời đi nói chuyện về đè tài “Run Away From Home” Trẻ Em Bụi Đời.. Nó trở thành một thần tượng của đám con nít vô gia đình. Nhưng không phải đứa nào cũng may mắn như nó, phải có một cơ duyên và một quyết tâm sắt đá mới vượt qua bao thử thách. Đường đời có bao nhiêu ngã rẽ, được mấy khúc phẳng phiu?
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Mar/2012 lúc 7:05am
CHỦ TIỆM TẠP HOÁ
Đây là chuyện tôi nghe: Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.
Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.” Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!” Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy. Huệ Khải
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/Apr/2012 lúc 8:04pm
Không Ai Sung Sướng Cả ! /main/phim/cactacgia/34260-khong-ai-sung-sng-c-.html -
|
Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy gẫm: Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa. Một hôm nọ trâu đi làm về,thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo: - Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự! Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu: - Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng,chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được . Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ? Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi: - Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả. Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở: - Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế. Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói: - Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn dình dập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt,nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả. Bày cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình: - Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt. Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột: -Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này. Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng,nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên: -Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở! Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng: Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ! Trong chúng ta, mỗi người có một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ, nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau là ít, nhiều những nỗi vui, khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không một ai thoát cả. Người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân tâm đều khổ. Có ai không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất vọng, hay bất mãn, chán nản? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai ! st
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/Apr/2012 lúc 7:47am
5 tỷ phú khác người khiến thế giới ngả mũ
Không mua những biệt thự đắt tiền hay những phi cơ hạng sang, không chi hàng triệu USD cho một bữa tiệc sinh nhật… mặc dù có trong tay hàng chục tỷ USD. Đó là những gì cả thế giới ngưỡng mộ ở họ.
Dưới đây là 5 tỷ phú “khác người” nhất thế giới:
Theo ước tính năm 2011, tổng tài sản của “ông vua" chứng khoán - nhà lãnh đạo tài ba của tập đoàn Berkshire Hathaway hiện nay khoảng 50 tỷ USD. Luôn nằm trong danh sách những tỷ phú giàu nhất thế giới suốt 20 năm qua, nhưng nhà đầu tư cổ phiếu vĩ đại nhất vẫn sống trong ngôi nhà 3 phòng ngủ ở giữa thị trấn Omaha trị giá 31.500 USD mà ông đã mua sau khi lập gia đình 50 năm trước. Ông nói rằng, mọi thứ ông cần là ở trong ngôi nhà đó, và cơ ngơi này thậm chí còn không có tường hay hàng rào. "Đừng mua quá những gì bạn thực sự cần và khuyến khích con cái bạn hành động và suy nghĩ tương tự"- Buffet chia sẻ. Warren tự lái xe và không thuê vệ sĩ. Ông chưa bao giờ đi bằng máy bay riêng, mặc dù ông sở hữu một hãng máy bay tư nhân lớn nhất thế giới. Buffet không mang theo điện thoại di động, cũng không có máy vi tính trên bàn. Ông luôn nhấn mạnh: "Những người hạnh phúc nhất không cần thiết phải có những thứ tốt nhất. Họ chỉ đơn giản thưởng thức những thứ họ có".
Trong suốt 10 năm qua, Carlos Slim đã nhiều lần vượt qua “ông vua phần mềm” Bill Gates để dẫn đầu danh sách Những tỷ phú giàu nhất thế giới. Tuy nhiên, điều mà người ta đánh giá cao ở tỷ phú người Mexico gốc Châu Á này không chỉ bởi số tài sản khổng lồ ông đang sở hữu mà còn bởi lối sống hết sức giản dị, khiêm tốn. C.Slim không bao giờ hãnh tiến hay khoe khoang sự giàu có của mình. Ông không có những chiếc ô tô đắt tiền hay đồ trang sức quý hiếm, ăn vận rất khiêm nhường và không bao giờ tốn tiền với những đồ hàng hiệu. Trong khi làm việc, C. Slim mang những chiếc đồng hồ rẻ tiền có gắn thêm máy tính. C. Slim sống giản dị quá mức bình thường. Phòng làm việc của ông được bố trí giống như bất cứ một nhân viên bình thường nào. Một ngày ông làm việc tới 14 tiếng, nhiều khi quên cả ăn. C. Slim vẫn giữ những cuốn sổ mà trong đó cha ông đã bắt ông ghi lại cách chi tiêu số tiền 5 peso mỗi tuần khi xưa. Ông vẫn thích dùng bút và giấy chứ không dùng máy tính. Ngôi nhà của ông ở Mexico City chỉ có 6 phòng ngủ và một bể bơi nhỏ, treo các tác phẩm nghệ thuật của một số họa sĩ, nhà điêu khắc trứ danh mà ông ưa thích như: Renoir, Van Gogh, Rivera và Rodin. Nhà tỷ phú vĩ đại luôn tôn thờ nguyên tắc: "Hãy loại bỏ những sự dư thừa ngay cả trong những lúc dễ dàng nhất của cuộc đời mình, vì điều này sẽ giúp ta ổn định trong những giai đoạn gặp nhiều khó khăn lớn nhất".
Có lẽ ít người biết rằng, cha đẻ của thương hiệu nổi tiếng Thụy Điển IKEA - tỷ phú đồ gỗ Ingvar Kamprad còn được mệnh danh là “tỷ phú tiết kiệm”. Tuy liên tục được ghi tên trong danh sách những người giàu nhất thế giới, nhưng tỷ phú người Thụy Điển vẫn chọn cho mình lối sống giản dị, bình dân.
Khi sắm ôtô, Ingvar Kamprad không chọn mua loại Ferarri, Porscher hay ít nhất cũng là chiếc Mercedes như các thương gia thành đạt khác. Ngược lại, người ta thấy ông vô cùng hài lòng với chiếc xe Volvo vào loại xoàng xĩnh. Ngoài ra, ông vẫn đi máy bay với loại vé phổ thông và thường mua hàng giảm giá. Thậm chí, Người dân làng Elmtary Agunnaryd, quê của Ingvar Kamprad vẫn luôn ấn tượng về việc mỗi lần ông về quê lại vào tiệm cắt tóc làng với giá 5 Euro như những người nông dân nghèo. Ông cho rằng như thế một mặt là tiết kiệm, mặt khác cũng tạo điều kiện để mình có dịp hòa chung với những người dân bình thường mà ông coi đó là thượng đế của mình.
Với phương châm “Sống để làm việc, chứ không phải để làm giàu”, “tỷ phú không tiền” của Mỹ - Chuck Feeney luôn là một trong những tấm gương sáng về lối sống giản dị và tiết kiệm. Sinh ra ở New Jersey trong một gia đình viên chức Ireland - Mỹ, Feeney là người đồng sáng lập ra chuỗi Cửa hàng mua sắm miễn thuế (DFS)- chuỗi cửa hàng bán lẻ miễn thuế lớn nhất thế giới.
Ông thích kiếm tiền nhưng lại không muốn sở hữu chúng, nên nhiều năm liền đã bí mật làm từ thiện phần lớn khối tài sản khổng lồ trị giá hàng tỷ USD. Trong khi đó, Chuck Feeney vẫn đeo đồng hồ giá 15 USD, đi máy bay vé hạng bét, cũng chẳng có nhà hay xe hơi riêng. Để nói về những điều tâm huyết của mình, Feeney luôn tâm đắc câu tục ngữ của người Xentơ “Không có túi đựng tiền trong tấm vải liệm”.
Người sáng lập chuỗi cửa hàng tạp hóa lớn nhất vùng Trung Tây- Frederik Meijer mặc dù không sở hữu những khối tài sản khổng lồ như những vị tỷ phú ở trên nhưng ông vẫn được coi là tỷ phú bình dân và giản dị nhất thế giới. Với tổng tài sản ước tính khoảng 5 tỷ USD, Meijer vẫn đi 1 chiếc xe hơi bình thường cho đến khi nó không còn chạy được nữa. Khi đi du lịch hay đi công tác, ông luôn thuê những nhà nghỉ giá rẻ với dịch vụ đơn giản…
st.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 08/May/2012 lúc 8:58pm
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/P_LongTot.pps -
Lòng Tốt
- Xin kể cho bạn một câu chuyện có thật...
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 22/May/2012 lúc 4:21am
CHUYỆN MỘT NGƯỜI BẠN
HỌC Phạm
Tín
An Ninh
Trước khi
vào đệ tam Võ Tánh, hai thằng cùng học một lớp bên trường Văn Hóa. Năm đệ
ngũ, niên học khai giảng hơn hai tuần thì cô Hương, giám thị, dẫn
một người vào lớp. Mới đầu, từ cô Tùng Linh, giáo sư hướng dẫn, đến học trò,
không ai nghĩ là anh ta sẽ là học sinh vào lớp đệ ngũ này. Người
cao lớn, vạm vỡ, đẹp trai, mái tóc bồng bềnh, mặc một cái áo sơ mi sọc đậm, ngắn
tay, xăn cao, quần sans-pli bó ống với cái nịt to bản và đôi giày
da bóng đi kêu lộp cộp. Lại còn cái kính đen dắt trên dây nịt nữa
chứ. Một cuốn tập cuốn tròn trong túi sau. Cả lớp tròn mắt ngạc nhiên
khi nghe cô Hương, giới thiệu anh ta là học trò mới, từ xa
đến.
Cái tên nghe cũng lạ: Lâm Ni. (Sau này mới biết anh ta gốc Tàu Chợ Lớn,
cha Tàu mẹ Việt. Gia đình giàu có. Cha anh làm chủ một
công ty xuất nhập cảng. Vì không kiểm soát được anh, nên gởi anh ra Nha
Trang ở với ông cậu, là chỉ huy phó quân trường Đồng Đế. Ba má anh tin tưởng ông
cậu nhà binh này sẽ đưa thằng con cưng của mình đi vào nề nếp. Cùng với
không khí mát mẻ, hiền hòa của thành phố biển này sẽ làm nó hiền lành ngoan
ngoãn hơn).
Cô Tùng Linh chỉ cho
Lâm Ni vào ngồi chung bàn với tôi ở phía sau. Anh chào tôi
bằng cái rờ đầu rất kẻ cả. Tuần đầu anh im lặng, ít nói chuyện với
ai. Mà có lẽ cũng chẳng có ai muốn làm quen với anh ta, ngoại trừ
Trần Bá Hòa, người vui tính mà nghịch ngợm nhất lớp. Nhưng chỉ một
tuần lễ sau là không khí cả lớp thay đổi hẳn. Mấy nàng nữ sinh ngồi
phía trước liên tục bị bắn giây thun từ phía sau lưng, thi nhau quay ra phía bàn
tôi chửi rủa. Có lần cô Linh đang viết trên bảng đen bị lạc đạn, cả
lớp phải nín thở. Một lần khi thầy Nguyễn Đức Nhơn đang gọi điểm danh,
thình lình cả lớp như chợ vỡ, khi mấy người đẹp phát hiện một đám chuột con đỏ
hỏn nằm dưới hộc bàn. Ai cũng biết tôi là thằng gốc nhà quê, hiền
lành. Nhưng vì ngồi chung bàn với Lâm Ni nên "có chửi cùng
chia, có cười cùng hưởng". Nói vậy chứ chưa có bà chị nào quay xuống bàn
tôi để nở nửa nụ cười, mà chỉ toàn là những cái liếc sắc như dao, và tiếng rủa
lùng bùng trong miệng chưa kịp phát ra thành tiếng. Tôi bực mình
anh ta nhưng không dám phản ứng.
Có lần tôi nhìn
anh ta tỏ ra bực dọc, tôi liền bị một cái cú đầu. Dưới mắt anh, lúc nào tôi
cũng là thằng nhóc con. Nghĩ thân phận nhược tiểu nên tôi đành im
lặng chịu đựng bên cạnh một đại cường. Nhưng tới một ngày, chiến tranh
cũng phải bùng nổ, khi anh ta mượn rồi làm mất luôn cuốn vở "kiểu mẫu" (mà sau
khi ở trường về tôi phải ngồi hằng giờ cặm cụi viết lại, uốn nắn từng chữ bằng
nhiều thứ màu mực), tôi đã ném vào người anh tất cả mấy cuốn sách mà tôi có
trong tay, giữa đám học trò trong lớp. Kỳ lạ, lần này anh lại cười hiền khô, ôm
tôi và bảo "xin lỗi toa nghe! " Đã thế ngày hôm sau anh còn
mang cho tôi một bịch mấy trái thanh long. Từ hôm đó hai thằng xích
lại gần nhau hơn một chút.
Cả trường biết anh, và
có lẽ chẳng có ai ưa anh - tôi đoán thế - vì anh chạy một chiếc xe gắn máy hiệu
Gobel màu đen mới toanh, trên bình xăng có vẽ hình con ó xòe đôi cánh, cái
ghi-đông thật dài, ống pô được tháo bỏ phần hãm thanh nên nổ inh ỏi. Nghe
nói tối nào anh cũng đi học võ ở võ đường của thầy Trọng Đãi. Có lần
chính anh kể với đám tụi tôi, anh vào Judo Club để học lấy đai đen thì lại gặp
thầy Trần Thanh Lý, dạy toán, cũng đang học trong đó, anh bèn rút lui. Khi
ấy thầy Lý còn trẻ, nhưng anh nể thầy lắm. Mặc dù thầy Lý chưa hề
phạt anh, bởi trong tất cả các môn học, môn toán và anh văn là anh giỏi
nhất. Có lần thầy Lý còn gọi đùa anh là Lâm Bưu. Lúc ấy
nhiều thằng trong đám tụi tôi chưa biết Lâm Bưu là gã trời đất nào, cũng cười
theo. Nghe Lâm Ni kể là ông già của anh ta có cái mũi rất
thính trong thương trường. Ông tin chắc là Mỹ thế nào cũng đổ quân vào
Việt nam, nên mướn thầy dạy kèm anh văn cho con mình từ năm Lâm Ni mới vào đệ
thất. Còn toán là nhờ cái thông minh và lanh lợi mà trời đã ban cho anh ta để bù
vào mấy cái tật khác.
Lâu lâu, bọn tôi nghe
Trần Bá Hòa thông báo là Lâm Ni hẹn đấu "pạc-co" với băng Lò Heo, băng thằng
Điền, hay băng thằng Liên nào đó ở Xóm Mới. Mấy lần đám tụi tôi cũng tò mò
theo Trần Bá Hòa đi xem, mới biết Lâm Ni võ nghệ cao cường mà còn
có tinh thần võ sĩ đạo kiểu Nhật Bản nữa. Lúc nào cũng nhường cho đối thủ
tấn công trước, và khi đối thủ ngã xuống, anh không thèm tấn công, mà còn đỡ
đứng dậy. Trong khi những tay này đã từng chơi xấu anh sát
ván bao lần trước.
Anh ở nhà ông cậu
ruột, một biệt thự trên đường Yersin, nhưng bạn bè thường thấy anh chở đào chạy
vòng vòng ngoài đường Duy Tân, bờ biển. Có khi còn thấy chiếc xe
Gobel của anh dựng cả ngày trước Bar Thu Thủy ở đường Hoàng Tử Cảnh.
Sang năm đệ tứ, không
hiểu là vì mọi người đã quá quen cảnh cũ người xưa, hay là chính anh ta thay
đổi, tự dưng "lòng chợt từ bi bất ngờ ", không thèm phá phách nữa, nên một số
bắt đầu làm thân với anh. Mấy bà chằng lúc trước bây
giờ cũng có nàng đã cười nửa miệng với anh ta. Tôi bây giờ lại là
thằng thân nhất với Lâm Ni. Những ngày nghỉ cuối tuần hay ngày lễ, anh
đến nhà trọ chở tôi lên Phú Vinh, thăm khu vườn nuôi gà của anh Khanh, trưởng
lớp. Khi ấy anh Khanh đã có vợ hai con. Có lần anh ta còn dám lấy
xe jeep của ông cậu tới chở bọn tôi đi lên Thành thăm cô bạn Tuyết Phượng ở bên
kia cầu Phú Lộc, nhưng mới đến Mã Vòng bị quân cảnh chặn lại hỏi giấy. Cả đám
phải vào ngồi trong đồn để chờ ông cậu của Lâm Ni cho người đến nhận
xe và nhận người luôn.
Có lẽ tôi có
duyên nợ gì với Lâm Ni. Ngày thi trung học đệ nhất
cấp, vì tên cùng vần N, nên tôi lại bị xếp ngồi bên cạnh anh ta. Tí
nữa thì tôi khốn khổ. Môn toán và anh văn, không cấn nháp nhiết,
anh ta làm một cái vèo, nộp bài ra trước nhất. Nhưng mấy môn khác, tôi
làm chưa xong, thì anh thò tay qua chộp. Chút nữa là ông giám
thị bắt được, tôi hú vía. Kỳ thi ấy cả hai thằng đều
đậu.
Từ hôm ấy, anh
ta càng thân với tôi hơn. Cứ vài ngày là chạy xe lại nhà
tôi, chở tôi đi xuống quán số 1 duới bờ biển ăn bò bảy món, đi Cầu Đá ăn phở gà
trước khi tôi về quê nghỉ hè.
Quê tôi ở ngoài Vạn
Giã, vào Nha Trang tôi ở trọ nhà ông chú, một hiệu buôn, trước ở đường Độc Lâp,
bên rạp ci-né Moderne của ông Bác Ái, sau chuyển về đầu đường QL 1 trước Ty
Thông Tin. Chú thím tôi hơi nghiêm khắc, nên không muốn bạn bè tôi lui tới
nhiều. Hơn nữa ông bà chỉ có một đứa con gái rượu, xinh gái, gọi tôi bằng anh
nhưng lớn hơn tôi hai tuổi và học trên tôi một lớp, bên trường Lê Quí Đôn, nên
ông bà cũng muốn "kín cổng cao tường" một chút. Lần đầu tiên Lâm Ni tới
tìm tôi, ông bà nhìn anh ta từ trên xuống dưới, rồi bảo là tôi không có ở
nhà. Thực ra lúc ấy tôi đang ngồi phía trong phòng khách.
Thấy Lâm Ni tới tôi định chạy ra, nhưng nghe ông bà bảo vậy tôi im
luôn. Sau này tôi dặn Lâm Ni cứ dựng cái xe gắn máy phía
trước ngồi chờ, thấy chiếc xe là tôi chạy ra.
Về quê nghỉ hè
chưa tròn một tháng, thì chú tôi nhắn ba tôi đưa tôi vào Nha Trang gặp ông có
chuyện gấp.
Vào đến nơi, vừa bước vào nhà tôi mới tá hỏa. Ông chú hò hét
chửi tôi một trận xối xả, rồi bảo ba tôi tìm một chỗ khác cho tôi ở sau mùa
hè. Không biết tài tán gái thế nào mà
chưa đầy một tháng Lâm Ni đã cua được cô con gái cưng của ông chú tôi, mà tôi
chẳng hề hay biết. Tôi bực anh ta nhưng cũng phục
anh ta sát đất. Mà cũng xui cho anh - phải nói xui cho chính tôi mới đúng-
Ông chú tôi là dân Nha Trang chính hiệu nhưng chưa hề biết nước biển Nha Trang
ngọt mặn ra sao. Tôi nghĩ có lẽ cái lý do chính là ông không muốn cho bất
cứ ai nhìn thấy cái bụng phệ hơi quá khổ của ông. Vậy mà hôm đó, có mấy
ngưới bạn từ Sài-Gòn ra bàn chuyện làm ăn. Nể tình, ông mới chiều
khách đưa họ đi biển tắm. Bất ngờ khi bước vào Quán số 3 bên bờ biển thì
ông thấy
một cặp tình nhân
đang ôm nhau say đắm. Ông giận đến không biết mình đang ăn món gì trong miệng
khi khám phá đôi tình nhân kia là cô con gái cưng của ông và thằng
bạn trời đánh của tôi, cháu ông.
Tôi mất mẹ từ
nhỏ, nên Ba tôi cưng lắm, chưa hề la tôi một tiếng. Vậy mà hôm đó ông la tôi
một trận. Câu cách ngôn "gần mực thì đen gần đèn thì sáng" hồi xửa hồi
xưa, cũ như trái đất, được ông đem ra giảng tới giảng lui mấy lần, măc dù tôi cố
gắng hết sức để bào chữa cho Lâm Ni; nào anh ta là con nhà giàu và tử tế, bên
ngoài như thế chứ học hành giỏi, nào là hiền lành và tốt bụng lắm. Nhưng tôi
đành đứng chịu trận khi ông chú tôi lỡ nóng dại mồm dám xác nhận ngay trước mặt
bà thím là chính ông ta gặp Lâm Ni mấy lần trong Bar Thu Thủy, và dưới Grand
Hôtel. Tôi nghĩ tối hôm đó chắc ông cũng mệt với bà. Nói thì nói
vậy, chứ gì thì ông chú cũng nể ông già tôi, và cũng cần tôi để làm cho ông mấy
bài toán cộng trừ, tính lời lỗ mỗi ngày, nên sau khi ông hết giận, rồi đâu cũng
vào đó.
Bị chửi quá nên
tôi cũng giận Lâm Ni, định bụng sau hè vào phải dũa cho chàng ta một trận và
nhất định nghỉ chơi với anh ta để vào Võ Tánh yên ổn mà lo học
hành.
Ngày nhập học,
khi đang ngơ ngác tìm lớp, thì có người vỗ vai. Quay lại, thì đúng là Lâm
Ni. Anh ta vào Tam B còn tôi vào Tam C. Gặp lại trong giờ ra chơi, tôi kéo Lâm
Ni ra ngoài, thụi vào bụng mấy cái, kể lại chuyện tôi bị ông chú đuổi. Anh ta
không thèm an ủi tôi một tiếng mà còn bảo tôi lên nhà ông cậu ở với anh ta. Thực
ra chàng ta cũng là một thằng tốt bụng, nhưng tôi nghĩ thầm nếu tiếp tục quen
với Lâm Ni sẽ còn gặp phiền phức nữa, nên kể từ hôm ấy tôi lánh mặt anh
ta. Vào Võ Tánh, dường như Lâm Ni cũng thay đổi nhiều. Mặc đồng phục và cắt
tóc tai đàng hoàng. Nhưng bây giờ đi học bằng chiếc Vespa mới toanh. Chắc là
phần thưởng thi đậu của ông già. Lâu lâu tôi thấy anh đứng ngoài cửa sổ lớp Tam
C của tôi trêu ghẹo mấy người đẹp ngồi trong lớp.
Cái lớp Tam C
của tôi sao hiền lành quá. Chắc là thiên hạ chuẩn bị để làm người lớn, hay là
các bà chị trong lớp vừa đẹp vừa hiền như ma soeur, nên không còn tên nào muốn
làm ma quỷ nữa. Ba năm ở Võ Tánh trôi qua rất êm đềm, như mặt nước hồ thu, không
còn lại trong tôi điều đặc biệt nào đáng nhớ.
Ngày nhập học
lớp Đệ Nhất, tôi có ý tìm nhưng không thấy bóng dáng của Lâm Ni. Tôi nghĩ chắc
chàng ta rớt tú tài 1, nên sang trường khác học lại. Sau đó, tôi nghe mấy người
học cùng lớp với Lâm Ni bảo là anh ta đậu tú tài 1 kỳ hai, nhưng đã theo ông cậu
thuyên chuyển đi nơi khác. Tôi thoáng một chút bùi ngùi, khi nghĩ là chẳng bao
giờ còn gặp lại anh ta.
Ba năm sau tôi
vào quân trường Thủ Đức. Ra trường được chuyển ra một đơn vị tác chiến lưu động
ở Ban Mê Thuột, (mà lính tụi tôi thường gọi là xứ Buồn Muôn Thuở, hay là Bụi Mù
Trời) làm trung đội trưởng. Trong một cuộc hành quân
phối hợp, tiếp viện cho một chi đoàn thiết quân vận bị phục kích tại Quãng
Nhiêu, sau khi giải tỏa tình hình, tiểu đoàn tôi rút về, trung đội tôi được lệnh
ở lại tăng phái cho một đại đội Biệt Động Quân. Thấy tôi có vẻ lo âu khi trung
đội phải ở lại một mình giữa chiến trường khói lửa chưa tan, ông tiểu đoàn
trưởng bảo:
- Chú mày yên chí, Đại đội BĐQ này khá lắm,
thằng đại đội trưởng này đánh đấm có tiếng trong binh chủng mũ nâu
đó.
Khi dắt trung
đội hơn hai chục thằng lính, nửa kinh nửa thượng, đến trình diện đại đội BĐQ,
tôi sửng sốt khi nhận ra ông đại đội trưởng chính là Lâm Ni. Tôi đứng nghiêm đưa tay
chào:
- Tôi đem trung đội tới trình diện trung úy.
Lâm Ni nhận ra
tôi ngay. Anh ta hét lên:
- Có phải mày là thằng Ninh
không.? Đ.m. trung úy cái con c.., tao là Lâm Ni đây, mày không
nhận ra sao? Rồi anh ta ôm tôi quay mấy vòng.
Giải tỏa tình
hình xong, trung đội của tôi tiếp tục được đặt dưới quyền của Lâm Ni, nhận lệnh
ở lại tìm kiếm một số chiến binh thất lạc và giữ an ninh cho quân cụ lên kéo mấy
chiếc M113 bị bắn cháy và hư hại về Ban Mê Thuột. Tối hôm ấy Lâm Ni giữ trung
đội tôi đóng quân chung với ban chỉ huy đại đội của anh. Một điều chưa từng xảy
ra cho một đơn vị tăng phái. Hai đứa uống hết bi đông rượu đế, nhắc lại bao
nhiêu kỷ niệm vui buồn thời còn đi học. Anh nhớ từng tên thầy cô giáo và bạn bè
lúc trước. Anh ân hận đã phá phách nghịch ngợm làm buồn lòng thầy, bạn. Anh bảo
tôi, ngay sau khi rời Võ Tánh là anh đi lính ngay. Anh thích đời quân ngũ và hy
vọng nó sẽ làm thay đổi cuộc sống của một thằng nhà giàu vô tích sự như anh. Khi
biết anh chọn BĐQ, cha mẹ anh giận và buồn lắm, nhờ ông cậu, bây giờ làm lớn
trong Bộ TTM, rút anh về, nhưng anh nhất quyết chối từ. Trước khi đi ngủ, anh ta
còn hỏi tôi:
- Con nhỏ em mày, con gái ông chú của mày ở Nha Trang đó,
bây giờ theo thằng cốt đột nào rồi? rồi cười ha
hả.
Hai hôm sau
chúng tôi có lệnh di chuyển vị trí, và phải bung rộng ra phòng thủ. Lâm Ni cho
trung đội tôi xuống đóng trong một cái đồn bên chân cây cầu sắt (của một đơn vị
địa phương quân bỏ lại) để giữ cây cầu khỏi bị phá hoại trước khi quân cụ lên
kéo hết mấy chiếc thiết giáp bị hư. Cây cầu cách ngọn đồi, nơi đặt ban chỉ huy
của Lâm Ni khoảng hai cây số.
Gần hai giờ
sáng, trung đội tôi bất ngờ bị tấn công. Địch áp dụng chiến thuật cổ điển tiền
pháo hậu xung. Sau mấy loạt 82 ly, chúng ào ạt tấn công. Trung đội tôi có vài
người bị thương sau đợt pháo kích đầu tiên, nhưng tất cả đều chống trả mãnh
liệt. Tôi chỉ kịp cầm ống liên hợp máy PRC 25 báo cáo với Lâm Ni là đơn vị tôi
bị tấn công mạnh, cần ngay pháo binh và một lực lượng tiếp ứng, đánh từ phía sau
lưng địch. Lâm Ni bảo tôi cứ bình tĩnh yên tâm chiến đấu, anh ta sẽ gọi pháo
binh và gởi ngay một bộ phận tiếp ứng. Không ngờ lực lượng địch khá đông. Chúng
tôi bắn ngã tên này thì tên khác lại xông lên. Chúng đã dùng bêta phá mấy lớp
rào bên ngoài rồi hô xung phong. Pháo binh ta cũng bắt đầu rót xuống bên ngoài.
Lúc này tôi chiến đấu hoàn toàn như một khinh binh. Quả lựu đạn cuối cùng tôi
vừa mới ném ra, cũng là lúc một vài tên địch đã xâm nhập vào phía bên trong hàng
rào phòng thủ. Khi đạn đã cạn, chúng tôi chuẩn bị đánh cận chiến, thì nghe được
tiếng súng bạn khắp nơi bên ngoài và tiếng hò hét: Biệt Động sát ! Địch vội vàng
tháo chạy, hai tên đặc công vào bên trong bị chúng tôi bắt sống. Tạm thời kiểm
tra đơn vị: 3 chết, 7 bị thương. Chưa kịp gọi máy báo cáo, thì toán biệt động
quân đầu tiên vào bên trong, võng theo một thương binh. Nghe một sĩ quan BĐQ gọi
máy xin trực thăng tản thương khẩn cấp vì "đại bàng bị thương nặng", tôi giật
mình chạy đến chiếc võng: Lâm Ni mặt đầy máu và thở rất nhẹ. Tôi lay anh
ta:
- Lâm Ni ơi, có làm sao không ? Ninh đây.
Dưới ánh đèn
pin yếu ớt, gương mặt anh ta xanh xao, mở hé mắt nhìn tôi. Đôi môi rung động như
muốn nói với tôi điều gì. Tôi đưa tay sờ lên môi anh, như là tôi đã hiểu những
gì anh muốn nói.
Vị thiếu úy
BĐQ vỗ vai tôi:
- Đúng ra đâu có phải nhiệm vụ của trung úy, tôi bảo ông
nên ở lại, vì chúng tôi chỉ đi có một trung đội và toán thám báo, nhưng ông đã
lệnh cho ông đại đội phó ở lại và ông trực tiếp dẫn đầu toán thám báo chạy bay
tới đây, xông ngay vào sau lưng địch mà đánh. Tội nghiệp chỉ có ông bị
thương.
Trực thăng tản
thương tới, tôi bế Lâm Ni lên, nắm chặt tay anh trước khi máy bay cất cánh. Tôi
bùi ngùi lo lắng khi biết là anh đã vì tôi mà bị thương, cầu nguyện cho anh qua
khỏi hiểm nghèo.
Lần ấy anh còn
sống, nhưng phải nằm điều trị ở QYV hết 4 tháng, còn để lại mấy vết sẹo trên cổ,
và vì bị thương ở thanh quản, nên giọng nói của anh bị khàn đi. Sau đó đơn vị
của anh có lệnh chuyển lên Pleime, Pleiku. Tôi có liên lạc thăm anh vài lần trên
hệ thống vô tuyến.
Bẵng đi một
thời gian, đầu mùa hè 72, đơn vị tôi đang hành quân ở mật khu Lê hồng Phong,
Phan Thiết, thì có lệnh về phi trường Sông Mao để được không vận toàn bộ lên
Kontum. Chiến trường đang tới hồi quyết liệt. Trong một lần chuyển quân hoán đổi
vị trí phía bắc Kontum tôi bất ngờ gặp lại Lâm Ni. Lúc này anh đã mang lon Thiếu
tá và nắm một tiểu đoàn BĐQ. Hai thằng chỉ kịp ôm nhau chửi thề vài câu. Chưa
kịp nói lời chia tay, thì mỗi thằng đã mỗi ngả.
Cuối năm 1972,
khi hiệp định Paris vừa ký xong, địch quân chưa trở cờ. Hai bên tạm thời hưu
chiến kiểu da beo. Các đơn vị tham chiến được chuyển về các vị trí dưỡng quân.
Tiểu Đoàn của Lâm Ni được về Hàm Rồng. Đơn vị tôi thì về Đồi Đức Mẹ, Pleiku.
Đêm tiểu đoàn Lâm Ni
làm lễ tái xuất quân tại Hàm Rồng được tổ chức rất hùng tráng. Lâm Ni có
mời tôi đến dự. Buổi tiệc ra quân kết thúc bằng một chương trình
văn nghệ khá đặc sắc, do biệt đoàn văn nghệ trung ương từ Sài Gòn ra, phối hợp
với các toán văn nghệ tâm lý chiến QĐ II đảm trách. Tôi ngồi hàng
ghế đầu với Lâm Ni. Khi có một nữ ca sĩ từ Pleiku lên hát bài Chiều
Trên Phá Tam Giang, Lâm Ni rất cảm động. Cô tên Giáng Vân, có khuôn
mặt khá xinh, phảng phất buồn, và giọng hát trầm ấm thiết tha. Bài hát
vừa chấm dứt, Lâm Ni bước lên nắm tay cô cám ơn và bất ngờ cởi tặng cô chiếc
đồng hồ Longine mới toanh mà anh vừa mới mua từ Sài Gòn, khi được bảy ngày phép
về thăm cha mẹ anh. Đêm đó tôi ở lại với Lâm
Ni. Anh kể là
cha mẹ anh cứ năn nỉ anh đổi về Sài Gòn. Ông bà sẽ lo cho anh
về BTL Cảnh Sát hoặc bất cứ nơi nào ở Sài Gòn, anh muốn. Ông bà
cũng đưa anh đến thăm gia đình một người Tàu, có cô con gái làm chủ một nhà
hàng, mà ông bà định hỏi cưới cho Anh. Ông bà nôn nóng có đứa cháu
đích tôn nối dõi. Nhưng anh chỉ im lặng. Rồi khi bị
hỏi quá, anh hứa cho Anh ba năm nữa. Anh bảo tôi, đời lính sống nay
chết mai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng.
Đầu năm 73, trong trận
tái chiếm căn cứ Charlie, tôi bị thương nặng, phải nằm điều trị hơn hai tháng ở
QYV Pleiku. May mà chưa bị cưa mất chân phải. Lâm Ni có ghé
lại thăm tôi một lần vội vã, khi có dịp về Pleiku họp hành quân. Khi chia
tay, anh rút từ túi quần sau ra một xấp tiền đưa cho tôi:
-
Tiền ba tháng lương của tao, mày cầm lấy mà gởi cho vợ con mày. Mày đông
con. Tao độc thân, suốt cả năm sống ở trong rừng, lỡ có chết, tiền không
ai xài uổng lắm.
- Tôi từ chối, nhưng Anh nhét xấp tiền vào dưới chiếc
gối tôi nằm.
Sau đó tôi được
theo học một khóa tham mưu tại Long Bình. Mãn khóa, được điều về
Phòng hành Quân QĐ II. Lâm Ni thì vẫn nay đây mai đó, nhưng chúng tôi vẫn
thường liên lạc hỏi thăm tin tức nhau trên hệ thống vô tuyến. Một lần khi
bay bao vùng, biết anh vừa lên trung tá, tôi đáp xuống thăm, và mang mừng anh ta
chai Hennessy, loại rượu anh thích nhất. Anh bảo, BCH/BĐQ dự định đưa anh ra nắm
một Liên Đoàn ngoài vùng 1 thay cho anh Liên Đoàn trưởng vừa tử trận, nhưng tình
hình ở đây đang nguy ngập, nên anh chưa rời đơn vị được.
Tháng 3/75, ngay sau
khi Ban Mê Thuột mất, tôi may mắn đuợc theo BTL Tiền Phương. Nói là
Tiền Phương nhưng lại đóng ở Nha Trang và một đôi khi ở Khánh
Dương.
Có lệnh bỏ
Kontum và Pleiku. Tiểu Đoàn BĐQ của Lâm Ni là một
trong những đơn vị được chỉ định đi đầu, mở đường cho đoàn quân di tản từ Pleiku
xuống Tuy Hòa theo tỉnh Lộ 7. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất
trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, kéo theo sự sụp đổ cả miền
Nam.
Tôi được chỉ định làm
trưởng toán, dùng một hợp đoàn trực thăng bay đi liên lạc và hướng dẫn những
toán quân thất lạc trong rừng. Ngày N+3, trong lúc chiến trường ác liệt và tồi
tệ nhất, tôi may mắn liên lạc được Lâm Ni trên tần số không lục. Tôi tìm mấy bãi
đáp tương đối an toàn, giục Lâm Ni đến đó để tôi bốc. Nhưng
anh ta từ chối, bảo là mặc dù tiểu đoàn của anh bị tan tác, quân số chỉ còn gần
một trung đội, nhưng anh không thể bỏ anh em vào lúc
này.
Không ngờ đó
cũng là lần cuối cùng tôi nghe giọng nói của Lâm Ni. Năm 1977, trong một trại
cải tù ở Sơn La, tôi gặp lại một sĩ quan của Lâm Ni lúc trước. Anh ta là
sĩ quan duy nhất trong đơn vị còn sống sót. Anh cho biết là khi bị địch vây và
kêu buông súng đầu hàng, Lâm Ni đã bắn tới viên đạn cuối cùng. Anh tự sát bằng
một quả lựu đạn loại tấn công, và đã chết chung với một đám địch
quân định vây bắt anh.
Mùa hè năm
ngoái, tôi có cô con gái út lấy chồng bên London. Cả nhà tôi sang đó dự tiệc cưới
do nhà trai khoản đãi. Sau đám cưới, vợ chồng cô con gái đi Thái
Lan hưởng tuần trăng mật. Chúng tôi muốn ở lại London ít hôm để xem
vài thắng cảnh và đến thăm gia đình một người bạn học cũ của bà xã tôi ở thành
phố Birmingham, cách London chừng ba giờ lái xe. Cậu rể nhờ một
người bạn chí thân, một bác sĩ trẻ khá bảnh trai, và cũng là phụ rể trong đám
cưới, làm tài xế và hướng dẫn viên cho chúng tôi. Hơn nữa nhà cậu ta cũng
ở Birmingham.
Ngày cuối cùng,
trước khi rời khỏi Birmingham, cậu ta mời chúng tôi ghé lại nhà để dùng một bữa
cơm với gia đình. Nói là gia đình, nhưng
thực ra chỉ có hai mẹ con thôi. Cậu bảo thế.
Trới nóng như lửa
đốt, lại biết chúng tôi đang đói, cậu ta gọi cell- phone về nhà bảo bà mẹ chuẩn
bị thức ăn sẵn. Về đến nhà, cậu ta vội vã đi lấy khăn, hường dẫn chúng tôi
vào phòng tắm rửa mặt, rồi chạy vào bếp phụ mẹ. Vào phòng ăn, khi chúng
tôi kéo ghế ra chưa kịp ngồi thì bà mẹ bưng thức ăn ra vui vẻ chào, và xin lỗi
vì bận tay nên không ra cổng đón được. Thấy người đàn bà này có nét giống
một người nào đó mà tôi đã gặp, tôi cố gắng lục lọi ký ức, nhưng vẫn không nhớ
ra.
Khi cơm nuớc xong, bà
mời chúng tôi lên phòng khách uống nước và ăn tráng miệng.
Nhìn một tấm ảnh phóng lớn treo trên vách. Lại là một người
lính. Tôi tò mò bước lại xem và sững sờ khi người trong ảnh chính
là Lâm Ni. Sau một lúc hàn huyên, tôi
mới nhận ra người đàn bà này chính là cô ca sĩ tâm lý chiến có tên Giáng Vân,
trong đêm làm lễ tái xuất quân của đơn vị Lâm-Ni trên Hàm Rồng lúc
trước. Một cô
ca sĩ tâm lý chiến, mà ngày xưa nhiều kẻ đánh giá chẳng ra gì, chết chồng từ
thuở mới 20, có nhan sắc, trải qua bao nhiêu khốn khổ, vậy mà không hề bước thêm
một bước nào, ở vậy nuôi con học hành thành đạt, đức hạnh nên người. Điều bất
ngờ hơn, cậu thanh niên dễ thương, tốt bụng, đón đưa chúng tôi mấy ngày hôm nay,
cũng là người bạn chí thân của thằng rể chúng tôi, lại là giọt máu duy nhất của
Lâm Ni còn lại trên thế gian này.
Tôi có hỏi về ông bà
nội cháu, Giáng Vân cho biết là sau khi chạy từ Pleiku về, cô phải nằm bệnh viện
cho đến mấy tháng sau ngày miền Nam thất thủ, nên đã phải sinh non, may mà mẹ
tròn con vuông. Khi sanh cháu xong, chị có đi hỏi thăm cha mẹ Lâm Ni,
nhưng đuợc mấy người láng giềng cho biết là ông bà đã đi về Trung
quốc.
Tôi bùi ngùi
nghĩ tới Lâm Ni, người bạn học có nhiều duyên nợ với tôi, đã gây cho tôi một vài
phiền muộn, nhưng cũng đã để lại trong tôi biết bao điều xúc
động.
Không hiểu, ở một nơi xa xăm nào đó, anh có biết là tôi đã bất ngờ gặp lại
vợ con anh. Cũng có thể chính anh đã linh thiêng đưa tôi đến
đây. Một nơi xa lạ, ngàn trùng cách biệt với quê hương, với Nha
Trang. Nơi mà một thời, anh đã có biết bao kỷ niệm với thầy với bạn
và nhất là với tôi, thằng bạn nhóc tì của anh ngày trước. Ông bà già của
Lâm Ni chắc không ngờ là mình đang có một đứa cháu đích tôn trên thế gian này,
mà trước đây ông bà đã từng mơ ước.
Trước khi từ biệt vợ
con Lâm Ni, tôi đứng lặng lẽ một mình trước tấm ảnh của anh, ôn lại bao nhiêu
chuyện cũ rồi buộc miệng thì thầm hai câu thơ quen thuộc:
Những người muôn năm cũ, Hồn
ở đâu bây giờ ?
Từ trong tấm
ảnh, dường như Lâm Ni đang nhìn tôi mỉm cười.
CHUYỆN MỘT
NGƯỜI BẠN HỌC phạmtínanninh (1C Võ Tánh 62)
Ghi chú của người
viết: Bài viết
này xin được gởi đến chị Lâm Ni và cháu Lâm Bình như một món quà muộn màng. Bạn
bè Võ Tánh, nếu có ai quen biết và còn nhớ đến Lâm Ni, muốn hỏi thăm vợ con anh,
xin liên lạc với người viết. Cám
ơn.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 30/May/2012 lúc 4:02am
NGƯỜI KHÁCH TRỌ HỮU TÌNH NHƯNG BẠC NGHĨA
Rialto là một thành phố nhỏ khô cằn, thiếu nước, chỉ có 93,000 dân nằm trong quận San Bernadino, California, giữa hai freeway 15 và 25. Hơn một nửa dân cư ở đây là những người gốc Mễ di dân, một phần năm là dân gốc Phi Châu. Thu nhập bình quân mỗi người chỉ khoảng $13,375.00 mỗi năm, và 13% dân chúng ở đây sống dưới mức đói nghèo của nước Mỹ, trong khi tỷ lệ tội ác lại cao hơn những thành phố khác mà thành phố lại không đủ ngân sách thuê nhân viên cảnh sát. Rialto cũng có nhiều “group home kids” mà chúng ta gọi nôm na là “viện mồ côi”. Tại đây nhiều em học sinh bỏ học vì cha mẹ quá nghèo hay không biết Anh ngữ, phần lớn các em không có một máy computer ở nhà nên việc học rất khó khăn.
Gần đây, một nhóm người Việt gồm có bác sĩ, thầy cô giáo, sinh viên và tu sĩ cư ngụ trong vùng San Bernadino, đã chọn Rialto để thiết lập một trung tâm giáo dục, khởi đầu trong phạm vi nhỏ mang tên là H.O.M.E. tuy mang danh nghĩa là “Mái Ấm” nhưng theo các sáng lập viên đây là mấy chữ viết tắt của “House of Méditation & Education”. Theo người trưởng nhóm, họ muốn chọn Rialto là vì trong vùng, đây là một thành phố nghèo nhất trong vùng, nơi mà trẻ em lêu lổng, nghèo khó cần dân chúng góp tay với chính quyền địa phương để giúp đỡ. Trẻ em có thể đến đây học hay xử dụng computer, được hướng dẫn làm home work hay đọc sách. Sau giờ học ở trường, nếu trẻ em gọi nhau “Go home!” chính là về mái ấm này. Cha mẹ đi theo con cũng được dự phần chỉ dẫn về computer hay hỏi han việc học của con em. Tất cả đều do những thiện nguyện viên làm việc không công. Chính cô bác sĩ trưởng nhóm sau khi tốt nghiệp, chỉ muốn đi làm bán thời gian để còn thời gian lo cho... các em, cô đã trải qua mười lăm năm vất vả lo cho con ăn học, nay con đã vào đại học, là lúc cô muốn trả nợ đời. Trên nước Mỹ, bao nhiêu người trong chúng ta đã làm được những việc như thế?
Trong một buổi họp cộng đồng Việt Nam tại một địa phương miền trung Hoa Kỳ, một vị linh mục đã có can đảm phát biểu thẳng thắn với đồng hương như sau: “Trong thành phố này, người Mỹ: - giàu có hơn Quí Vị rất ít, - giàu có bằng Quí Vị không bao nhiêu, - nghèo hơn Quí Vị rất nhiều. Nhưng lòng bác ái của người địa phương rất rộng rãi, không có công tác từ thiện nào mà họ không góp công góp của, không như người Việt chúng ta.
-Thưa Cha! Vậy thì Cha nghĩ, 8 tỷ một năm gởi về Việt nam không phải là tiền từ thiện hay sao?
Có điều chúng ta chỉ lo cho quê hương, họ hàng, còn ở đây chúng ta chỉ là người khách trọ.
Cộng đồng người Việt ở Mỹ đã gọi nhau quyên góp tài chánh, đem tiền về giúp Việt Nam đã quá nhiều, nhưng việc người Việt tỵ nạn giúp nước Mỹ thì quá ít, phải nói là rất vô tình. Những nghĩa vụ như tuân hành luật pháp, đi lính, đóng thuế, chúng ta đã làm đủ, nhưng hình như chúng ta vẫn sống trên đất Mỹ không gì khác hơn là một... du khách, hay là một người tình “vẫn đi bên cạnh cuộc đời” không hề lưu tâm để ý gì đến những chuyện chung quanh. Người Mỹ khen chúng ta thành công trong vấn đề học vấn và thương mãi. Có bằng cấp thì có job thơm, thương mãi thành công thì trở nên giàu có, điều đó có nghĩa gì với đất nước đã cưu mang chúng ta, nếu chúng ta chưa dùng sở học, sự giàu có để giúp đỡ, đền đáp được gì cho đất nước này. Ở nam Cali, nơi có người Việt tại quốc ngoại đông nhất, mỗi năm chúng ta lại thấy có một bữa cơm cho người khó khăn hay một buổi phát túi ngủ cho vài trăm người vô gia cư, có lẽ vẫn còn quá ít ỏi.
Sau nhiều cuộc chiến tranh có người Mỹ tham dự hay không, nước Mỹ đã giang tay đón nhận nhiều dân tộc đến sinh sống tại Hoa Kỳ. Ðể “trả ơn”, nhiều tổ chức Hồi giáo ở Mỹ đã quyên góp tiền gởi về ủng hộ cho khủng bố Al-Qaida, tổ chức đã muốn tận diệt nước Mỹ. Nhiều di dân Trung Cộng và cả Ðài Loan đã trở thành gián điệp cao cấp cung cấp cho quốc gia họ những bí mật về quốc phòng hay kinh tế của nước Mỹ, một cảnh “nuôi ong tay áo”. Những người này khi nhập tịch đã tuyên thệ trung thành với nước Mỹ cũng như chúng ta, nhưng xem việc nước Mỹ như việc của hàng xóm, không muốn can thiệp hay đóng góp, thậm chí cũng không muốn đi bầu cử.
Chúng ta đã thấy chính phủ Mỹ can thiệp cho nhiều người mang các sắc tộc khác nhau trong nhiều tình huống khó khăn, nguy hiểm, chỉ vì họ là công dân Mỹ. Cựu Tổng thống Bill Clinton vừa từ Bắc Hàn trở về Mỹ sau khi đã thành công trong việc cứu hai cô phóng viên Laura Ling gốc Trung Hoa, và Euna Lee, gốc Ðại Hàn. vì tội "xâm phạm lãnh thổ Bắc Hàn." Nếu các bạn là công dân đi du lịch, làm việc hay thậm chí buôn ma tuý, nước Mỹ chắc không bao giờ bỏ các bạn.
Ở quốc gia nào, việc mở rộng du lịch cũng nhắm mục đích thu ngoại tệ, nhưng trong phạm vi khách du lịch Việt Nam sang Mỹ thăm bà con, ít người đem tiền đến để giúp nước Mỹ phồn thịnh, mà ngày về túi đầy đô la nhờ viện trợ của các công dân Mỹ, trong khi công dân Mỹ thì dành dụm tiền đem về cố hương giải sầu. Rồi đây khi trái gió trở trời, chúng ta gặp hoạn nạn nước Mỹ đã bên cạnh chúng ta. Một tiếng kêu cấp cứu trong đêm, một cơn truỵ tim, một cơn bão lốc hay lụt lội, chúng ta đều được cứu giúp tận tình. Nước Mỹ cũng nghèo, cũng có nhiều vấn nạn nhưng quả thật lòng ta đôi khi cũng dửng dưng.
Chúng ta phát động nhiều lần quyên góp để giúp cho trẻ em nghèo ở Việt Nam , xem như bà con ruột thịt, mà quên người hàng xóm khốn khó bên cạnh chúng ta. Mỗi năm vào mùa lạnh, nhiều kẻ không nhà đã chết trên đường phố Los Angeles hay New York, nhiều trẻ em bụi đời, nhà tù thiếu niên không ai thăm viếng, những nhà dưỡng lão thiếu một lời hỏi han. Cộng đồng người Việt chưa hề thấy có một công tác xã hội nào hữu hiệu để giúp ngay nước Mỹ, nơi chúng ta đang sống. Chúng ta thường tự hào là người Việt trọng điều nhân nghĩa, sống có thủy có chung, nhưng nhiều khi vẫn cư xử như người khách trọ vô tình. st.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 09/Jun/2012 lúc 7:01am
What is that?
http://www.youtube.com/watch?v=mNK6h1dfy2o -
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 11/Jun/2012 lúc 2:26pm
http://s347437757.onlinehome.us/main/index.php?option=com_phocagallery&view=category&id=640:ti-sao-bn-li-than-than-trach-phn&Itemid=32 -
-
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 13/Jun/2012 lúc 6:43am
/main/doisong/suytudongdoi/35408-mt-la-th-sai-chinh-t.html -
Giờ trả bài tập làm văn luôn là giờ sôi động nhất vì thầy giáo thường đọc cho cả lớp nghe hai bài, bài được điểm cao nhất và bài có điểm thấp nhất.
Tất nhiên, bài cao điểm được những tràng pháo tay và bài điểm thấp là những trận cười, chưa kể sau đó còn hình thành nên nhiều giai thoại từ những câu mà thầy nhận xét là "què, cụt, thiếu sức thuyết phục...".
Và giai thoại này đôi khi còn lan truyền ra cả các lớp khác mà tác giả của nó chỉ còn cách là lấy cả hai tay mà che mặt lại. Cả lớp đứa nào cũng hồi hộp khi xấp bài trên tay thầy đã vơi nhiều rồi mà bài của mình còn chưa thấy đâu.
Hôm nay, như thường lệ, thầy mở cặp lấy xấp bài ra là cả lớp nhấp nhỏm. Với đề ra là "Hãy kể lại một kỹ niệm sâu sắc của em", thầy đã nói rằng lớp có bốn mươi học sinh thì chắc chắn sẽ có bốn mươi kỷ niệm khác nhau, không như khi chứng minh trích đoạn nào đó bị thầy chê là đơn điệu, chúng tôi thường chống chế " Thầy ơi, học cùng nhau thì làm sao mà dẫn chứng không trùng lập nhau được."
Khác thường, là thầy đưa xấp bài cho trưởng lớp chỉ giữ lại một bài. Chỉ một! Đứa nào cũng nhón người nghểnh cổ cho cao lên một chút để cố nhìn cho ra tên của ai và được mấy điểm nhưng không được. Bài hay nhất? Dở nhất?
Giỏi văn nhất lớp là Kim Chi. Nhưng rồi dự đoán của chúng tôi tiêu tan khi Kim Chi với tay nhận bài của mình từ tay trưởng lớp. Vậy là thầy giữ lại bài dở nhất rồi! Cả lớp chuyển ánh mắt nhìn về phía Cường với tiếng cười khúc khích. Cường thường có những câu văn kiểu như " Đi một ngày đàng học một sàng khôn, vậy nên chúng ta phải đi nhiều ngày hơn nữa"...Nhưng rồi Cường cũng nhận được bài của mình.
Vậy thì của ai? Hay? Dở? Làm sao biết trước được bài sẽ đọc lên hôm nay là của ai! Trời, môn văn...Có khi bài trước mới được 6 điểm với lời phê " Lối hành văn trong sáng, nên đọc nhiều để dẫn chứng phong phú hơn" thì bài sau nhận được ngay điểm 4 với lời phê " Quá lan man dông dài!" Điểm bảy môn văn của thầy là một ước mơ xa! Ngay cả Kim Chi cũng nói vậy.
Chúng tôi nhìn theo tay của trưởng lớp cho đến khi bài cuối cùng được phát ra. Chỉ mình Dũng là chưa có. Không hẹn mà cả lớp đều ngạc nhiên nhìn về phía Dũng, tác giả bài văn trên tay thầy. Tránh cái nhìn của cả lớp, Dũng ngoảnh ra cửa sổ. Không thấy mặt Dũng nhưng có thể thấy rõ hai vành tai và cổ của Dũng đỏ ửng.
Dũng là học sinh trường huyện mới chuyển về lớp tôi được hai tháng nay. Không có gì nổi trội, nơi Dũng cái gì cũng bình thường và chưa có gì tỏ vẻ ra là đặc biệt về môn văn cả. Vậy mà điểm 8. Phải, điểm 8! Chúng tôi nhìn rõ số 8 đỏ chói trong ô điểm khi thầy đưa tay sửa lại cặp kính trên sống mũi, cử chỉ quen thuộc mỗi khi thầy xúc động. Giọng thầy trầm trầm:
"Kỷ niệm sâu sắc nhất của em là khi nhận được thư của ba em.
Nhà em nghèo lắm nhưng ba má cho em ra phố học để sau này em có thể làm được điều gì đó tốt đẹp hơn. Cho em ra phố, ngoài việc phải kiếm tiền làm thêm để có tiền trang trải chuyện học hành của em, ba em còn phải làm những việc mà khi ở nhà em có thể đỡ đần được cho gia đình. Chưa bao giờ ba má viết cái gì cả. Hồi em còn ở nhà, mỗi khi cần viết thư về quê hay viết đơn từ là em viết..."
Thầy ngừng đọc, nhìn cả lớp:
- Các em, thầy sẽ viết lại nguyên văn lá thư của ba bạn Dũng lên bảng cho chúng ta cùng đọc.
Một chuyện lạ! Tất cả chúng tôi hồi hộp tò mò từng chữ hiện ra dưới tay thầy.
"Con iu thươn của ba. Chìu hôm qua ba kiu người báng con heo đễ có tiềng gưởi cho con con nhớ nhà khôn? Cã nhà nhớ con nhìu lấm cố họch nge chừn nào mùa màn song ba má xẻ ra thăm con"
Lá thư vọn vẹn có 45 chữ.
Khi thầy quay lại thì Dũng đã úp mặt xuống bàn, hai vai run run. Mắt thầy cũng hoe đỏ.
Cả lớp im phăng phắc trước lá thư đầy lỗi chính tả trên bảng, lá thư yêu thương và gởi gấm của một người cha vốn chỉ quen với cày cuốc lần đầu cầm bút viết thư cho con.
st.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Jun/2012 lúc 3:58pm
Cách Chia Hai Đồng Bạc
|
Hình minh họa | Chú bé Lula ,sinh ra vào tháng 10 năm 1945,tại 1 gia đình nông dân ở Ba-Tây ( Brazil- Vì nhà nghèo ,nên từ lúc mới 4 tuổi ,thằng nhỏ đã phải đi bán đâu-phụng ngoài đường ,nhưng vẫn quần áo tả tơi ,và thiếu ăn . Sau khi được lên tiểu học ,lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro,sau buổi học chú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đâu đường ,hôm nào không có khách ,thì coi như là nhịn đói. Năm 12 tuổi ,vào 1 buổi xế chiều ,có 1 người khách ,là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó ,không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói : Đứa nào cần tiền nhất ,thì tôi cho nó đánh giầy ,và sẽ trả công 2 đồng „ Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu ,2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn .3 cặp mắt đều sáng lên. Một đứa nhỏ nói : từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả ,nếu không kiếm được tiền hôm nay ,cháu sẽ chết đói !“ Đứa khác nói: „ Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh,cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…“ . Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ-tiệm ,nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này ,thì cháu sẽ chia cho 2 đưá đó mỗi đứa 1 đồng !!” Câu nói của Lula làm Ông chủ Tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên. Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thânnhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi ,còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng,nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi ,chắc chắn Ông sẽ hài lòng” Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ,Ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc ,sau khi được hắn đánh óng đôi giầy.Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời , đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng. Vài ngày sau, Ông chủ Tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta ,và bao cả bữa cơm tối . Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp ,nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.Thằng bé hiểu rằng :Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn ,nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời. Từ đó ,miễn là có khả năng,chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình. Sau ,Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ ,cậu ta tham gia vào công-đoàn ,năm 45 tuổi ,Lula lập ra đảng Lao-Công. Năm 2002 ,trong cuộc ứngcử tổng-thống ,khẩu hiệu của Lula là : Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này .Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil.Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2 ,cho 4 năm tới. Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa : -93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm.Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !! Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là "con khủng long nhai cỏ" mà đã trở nên "Con mãnh sư Mỹ Châu". Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới. Luiz Inácio Lula da Silva : đó là tên của vị tổng thống vừa giải nhiệm vào 31.12.2010 này . Sưu tầm nguồn internet
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 18/Jun/2012 lúc 9:04am
Lên đường vượt biển nuôi con
La Quốc Tâm
Ba tôi mất đã 7 năm rồi. Mỗi lần đến dịp Father's Day và ngày giỗ của ba là tôi nhớ ba tôi nhiều hơn.
|
Hình kỷ niệm tác giả với ba. (Hình: La Quốc Tâm cung cấp) |
Cuộc đời của ba trải qua nhiều gian nan cực khổ, nhưng chưa bao giờ thấy ba than thân trách phận. Ba phục vụ 20 năm trong quân đội cho đến khi mất nước thì đi cải tạo tận ngoài Bắc. Sau hơn 8 năm, ba trở về với gia đình trong tấm thân tiều tụy.
Vì tương lai của con cái, ba mẹ bàn sao đó mà ba tôi lại lên đường vượt biển để lo cho đám anh em tôi bên đây. Ba tới Mỹ vào giữa thập niên 80 khi tuổi ngoài 50, không nghề chuyên nghiệp, chỉ có hai bàn tay trắng, và 4 đứa con còn trong tuổi đi học.
Ba được giới thiệu đi làm chạy máy mài kiếng, một việc làm với đồng lương rất ít. Nhưng ba vui vẻ nhận làm. Hàng ngày ba phải lấy hai tuyến đường xe bus để tới hãng. Mùa Ðông trời phủ tuyết, ba tôi cũng lặn lội ra trạm xe bus cho kịp đúng giờ để đến hãng. Nhiều lúc từ cửa sổ của khu apartment, tôi nhìn hình ảnh người cha già cắm cúi đi làm, cầm trong tay cái túi giấy màu nâu mà trong đó chỉ là hai lát bánh mì kẹp với thịt nguội.
Ba tôi rất hiền và ít nói. Có một lần ba tôi phẫn nộ la người anh cả tôi là không được nghỉ học. Anh tôi lúc đó đang học đại học, muốn nghỉ học một thời gian để phụ với ba lo cho mấy đứa em bên đây và cố gắng gởi tiền về cho mẹ để lo vượt biên cho đám em còn ở Việt Nam. Sau đó, ba giải thích là ba lo được, ba xin làm thêm giờ phụ trội và làm cả ngày Thứ Bảy nữa. Việc học hành đối với ba tôi là điều rất quan trọng.
Những lúc hãng cho lên lương thêm 0.25-0.50 cents một giờ, ba tôi vui lắm. Khoảng hai hay ba tháng, ba biểu người anh lớn chở ba với tụi tôi đi Chinatown, ở New York. Trước là gởi tiền về cho mẹ ở Việt Nam, sau là dẫn anh em tôi đi ăn phở. Nhớ lần đầu tiên ba kêu tô phở cho tôi, sao lại có giá sống, rồi rau một dĩa riêng? Thấy tôi quá bỡ ngỡ không biết bỏ rau. Ba tôi chọc tụi tôi, “Hồi ở Việt Nam mỗi buổi sáng không có ăn phở à?” Ba tôi thừa biết rằng cha thì đi tù, mẹ với bảy con còn nhỏ, thì có cơm ăn là phước đức ông bà rồi nói chi đến tô phở. Ba nói xong thì ba và tụi tôi cùng cười.
Ngày tháng sống bên ba thật êm đềm, tụi tôi không cần phải lo việc đi làm kiếm tiền vì có ba lo hết mọi thứ. Rồi một đứa, hai đứa và cả bốn anh em tôi đều ra trường.
Khi tụi tôi thành đạt thì ba đã già rồi, không sống được với con cháu bao lâu. Tôi chưa trả được và không bao giờ trả được công đức sinh thành dưỡng dục của ba.
Mất ba, là mất một điểm tựa rất lớn trong đời tôi.
Bây giờ điều tôi có thể làm cho ba vui là lo cho các con tôi như ba đã từng lo cho anh em tôi. Câu “bỏ đời bố để củng cố đời con” tôi đọc đâu đó, đã nói lên được rất nhiều về ba tôi.
Nhớ ba mùa Father's Day 2012
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Jul/2012 lúc 12:22pm
TÔI YÊU NƯỚC MỸ Dư Thị Diễm Buồn
http://techjost.com/2012/06/28/happy-july-4-fireworks/4th-of-jiy-fireworks-art-museum-philadelphia-600/">
Khi quê hương rơi vào tay Cộng sản
Từng lớp, lớp người hớt hãi bôn đào
Vượt biển khơi, trời thịnh nộ thét gào
Sấm gầm gừ, sóng ầm ầm giận dữ!
Kể từ đó chúng tôi đời lữ thứ
Tạm dừng chân hoang đảo, nước tự do
Thuyền nhân thoát nạn, đỡ sợ. bớt lo
Liên Hiệp Quốc với tấm lòng hoan hỷ
Chín tháng sau, gia đình tôi vào Mỹ
Nhà bốn người, chồng vợ cùng hai con
Xứ lạ quê người, buồn tủi héo hon…
Thương nhớ cha mẹ, họ hàng chòm xóm
Nhớ bờ sông cây bần nhiều đom đóm
Xuồng câu tôm le lói bóng đèn chông
Giọng hò lơ cô lái thả xuôi dòng
Trẫy chợ xa, trời nửa đêm về sáng
Thời Cộng Hòa không ai buồn cấm cản
Sĩ, nông, công, thương tự chọn đời mình
Có người vào trường đào tạo chiến binh
Công, tư, chức, kẻ bán buôn, ruộng rẫy…
Dân miền Nam sống ấm no thoải mái
Trường dạy nghề, thầy lớp học sẵn sàng
Đường tiến thân cho lớp trẻ thênh thang
Vì tương lai, tiền đồ dân tộc Việt…
Khi xuống phi trường Mỹ rồi mới biết
Vợ, chồng, con ốm đói như thây ma
Đôi dép mòn, bộ đồ cũ dính da
Hải đảo bịnh đau, héo mòn sức kiệt
Ở nước Mỹ mọi điều, đều khác biệt
Vóc dáng, nụ cười, tiếng nói… ngu ngơ
Trong bao giấy, vỏn vẹn bốn hồ sơ
Không của cải, không đồng xu dằn túi!
Xứ người giàu sang … nghe lòng buồn tủi!
Cho kẻ quyết tâm chạy trốn quê hương
Bởi Cộng nô không cùng lối, chung đường
Đổi tự do, sống còn trong cõi chết!
Tháng lại năm qua… xứ người mày miệt!
Có việc làm, đỡ phiền não băng khoăng
Nếp sống hài hòa, vượt những khó khăn
Con trẻ vô tư, đến trường chăm học…
Tâm hồn chúng thảnh thơi, hồng tuổi ngọc
Sống vững vàng với bằng cấp chuyên môn
Gia đình an vui, thoải mái tâm hồn…
Lòng ngay thẳng, không nghĩ suy tạp nhạp
Có như thế thân tâm luôn an lạc
Gẫm cuộc đời như gió thoảng mây bay
Ngày đến đây chỉ có trắng đôi tay!
Siêng năng, mới hòa đồng dân bản xứ!
Nước Mỹ trợ giúp người nghèo mọi thứ
Có tự do, có bình đẳng, nhân quyền…
Được mở hãng xưởng, những việc tư, riêng…
Miễn đừng phạm pháp, hoặc phiền người khác
Mỹ trong tôi, là bầu trời ấm mát
Là tấm lòng của biển độ thế nhân
An ổn, tâm linh, sức khỏe. tinh thần…
Vì như thế… nên tôi yêu nước Mỹ!
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 07/Jul/2012 lúc 8:27am
Mày Tao
Có lần giận con quá vì nó nói dối, tôi đã quát to : -Mày là đứa nói láo, không ai thương mày nữa! Thằng nhỏ mếu máo trả lời : -Mẹ có thể đánh con, nhưng đừng gọi con là mày! Tôi giật mình, nó sanh ra và lớn lên ở Mỹ, tiếng Việt không giỏi nhưng sao hiểu được chữ « mày » là rất nặng, rất xấu. Tôi xấu hổ lắm và từ đó về sau không gọi con là mày nữa, dù giận tới đâu. Có những người chồng hay quát nạt, gọi vợ là mày, mắng chửi nặng lời. Nếu có quyền, tôi sẽ gạch bỏ chữ « mày, tao » trong tự điển tiếng Việt.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 12/Jul/2012 lúc 6:40am
Rằm tháng 7 và tội ác chim phóng sinh
Mua súc vật để phóng sinh la tạo nên 1 nhu cầu, để kẻ cung cấp làm việc ác- nó đồng nghĩa xúi người làm việc ác để mình được lên thiên đường - bạn đâu cần phóng sinh nhiều cùng một lúc , thỉnh thỏang tùy thích( không nên cùng một lúc, cùng một dịp lể hội ) ,bạn có thể trả tiền cho người để mua sự tự do cho 1 hoặc 2 sinh vật nào đó - hoăc bạn ăn chay để hạn chế nhu cầu ăn thịt súc vật cũng là phóng sinh vậy.
SDAF
Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác...
Tôi không phải là người mộ đạo, tôi chỉ sống theo đạo tâm và hướng thiện. Nhưng mỗi năm, tết và rằm tháng 7 tôi đều đi chùa, và mỗi năm, tôi đều đứng trước những lồng chim và cầu nguyện và cảm nhận nỗi đau... nỗi đau của chim sa lưới, chim trong lồng.
Không biết có phải kiếp trước tôi là chim, hay vì tôi quá mẫn cảm mà tôi luôn có thể cảm nhận và nghe nỗi đau của từng con chim trong lồng ấy.
Chú chim cuối cùng này không còn đủ sức để bò ra khỏi lồng, nói chi bay. Người phóng sinh chờ lâu quá đành treo lồng lên cành cây.
Hôm nay cũng thế, tôi lại đứng trước lũ chim, chúng khóc, chúng van xin tôi, đừng thả chúng ra. Chúng đau, chúng đè lên nhau, đứa gãy cánh, đứa què giò, có một con ứa nước mắt, nói với tôi rằng: "Xin bạn đừng nhìn tôi, xin bạn đừng mua tôi, đừng thả tôi, cứ để tôi chết trong lồng này, hôm nay tôi đã được thả ra và bắt vào 4 lần rồi, tôi đau, mệt, tôi không thể bay, xin đừng cho tôi hy vọng".
Một con chim khác lại nói: "Nếu không ai mua, họ sẽ không làm vậy, họ đã cho chúng tôi uống nước thuốc, chúng tôi không thể bay xa, cho dù bạn thả ra, chúng tôi cũng sẽ bị bắt về và lại bán, và lại bị bắt. Nếu bạn không mua, họ sẽ chẳng bao giờ cần bắt chúng tôi, sẽ không bao giờ cần cho tôi uống thứ nước thuốc khủng khiếp đó, làm ơn, làm ơn để chúng tôi hy sinh và những con chim khác sẽ không bao giờ chịu chung số phận. Làm ơn!"...
Rồi một người phụ nữ đến mua, người đàn bà bán chim nhẫn tâm quơ tay vào cái lồng đặc nghẹt, hốt từng nắm, lũ chim bị bóp chặt, mỏ con này chọc vào mắt con kia, trong cơn quơ quào móng con này cấu vào đầu con kia, chúng la hét, giẫy dụa, rỉ máu, chúng đau đớn, chúng la “Đừng đừng … hãy để chúng tôi yên, hãy để chúng tôi yên”.
Chú chim này rời lồng được khoảng nửa mét, phải nằm bẹp khoảng 10 phút mới loạng choạng bay được thêm một đoạn ngắn, chắc chắn lại bị bắt nhốt tiếp!
Tôi đứng im, bất lực, tôi là kẻ hèn nhát, tôi khinh khi bản thân mình, tôi đã không dám đứng ra ngăn cản người phụ nữ đó, như ngăn cản số người còn lại trên cái thế giới này xin đừng thả chim phóng sinh.
Ngày xưa, đức Tam Tạng thấy bọn trẻ câu cá đã mua cá và thả cá về sông để làm phúc. Người ta bẫy chim để ăn vì mưu cầu cuộc sống, rồi người làm phúc vô tình nhìn thấy đã mua chim ấy để thả. Đó gọi là làm phúc.
Ngày nay, những người bẫy chim không còn phải để ăn mà để bạn mua và thả. Vậy khi bạn mua có nghĩa là bạn tạo ra cầu thì sẽ có cung, do đó, việc bạn đang làm là ác, vì bạn đang xúi giục họ bắt, hành hạ những con chim ấy và bạn sẽ cho họ tiền, vậy việc làm đó có thiện, có phúc hay không?
Có thể bạn nói rằng, ngày nay họ cũng vì kế sinh nhai nên làm vậy, cũng đâu khác gì ngày xưa. Thật ra nó khác, rất khác, vì ngày xưa những con chim bị bắt để ăn sẽ to khỏe và mập mạp, và khi bạn thả, là nó sẽ được tung cánh bay xa, được về với gia đình của nó. Còn ngày nay, nếu bạn để ý kỹ, những con chim phóng sinh là những con se sẻ nhỏ, hoặc loài chim én, hoặc chim yến, những con chim bé nhỏ, vô tội chỉ bị bắt vì một lý do duy nhất, bắt để bán cho những người phóng sinh.
Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác.
Tôi đứng đó, ứa nước mắt, và tự sỉ vả mình hèn hạ vì đã không dám lên tiếng. Lũ chim được người đàn bà giơ cao đưa ra trước đức phật, cầu nguyện và mở nắp, lũ chim đứng yên, không hề muốn bay ra. Người đàn bà phóng sinh thò bàn tay mập mạp, bắt từng con thả ra, chúng bay uể oải và đậu trên một nhánh cây gần đó.
Tôi biết lũ chim kia quá bé để ăn thịt, thật sự nếu không ai mua, thì vài ngày sau họ cũng sẽ phải thả nó về trời, đằng này, cứ hết người này, đến người khác tới mua, nên họ cứ bắt đi bắt lại, hành hạ chúng đến khi chúng mệt lử và chết, thì khi đó họ sẽ mua vài con thế vào. Một lồng chim trăm con có thể bán đi bán lại hàng chục lần.
Truyền thống chim phóng sinh giờ đây là một việc làm độc ác cần xóa bỏ. Nếu những người kia cần tiền, họ có thể bán nhang, bán vé số, có thể bán kinh, bán hoa. Xin đừng hành hạ những sinh vật bé nhỏ và vô tội. Những người phóng sinh xin đừng đưa tiền, đừng tiếp tay cho hành động độc ác nọ, xin thương lấy lũ chim, đó cũng là một sinh mạng.
Làm ơn, xin đừng phóng sinh sai nghĩa!
st.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Jul/2012 lúc 12:52pm
Ghen
B
ạn có ghen không? Nếu có thì mức độ như thế nào? Riêng tôi sẽ “thành thật khai báo” sau khi điểm qua vài câu chuyện xưa và nay về đề tài này.
Hầu như ai cũng ghen - Ghen với người yêu, người phối ngẫu, ganh với người chung quanh, tức tối với các việc xảy ra trong cuộc sống: Trâu buộc ghét trâu ăn, Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly. Nhiều trận tranh hùng trong thiên nhiên đã được thâu hình lại, chứng tỏ cầm thú cũng biết ghen và thi thố sức mạnh. Đứng về mặt tích cực, ganh đua là động cơ giúp ta làm việc để thăng tiến hơn. Ghen là gia vị giúp tình yêu thêm thi vị đậm đà, như tô bún bò Huế phải có chút ớt cay. Vấn đề là ghen trong trường hợp nào và như thế nào để “dừa đủ xài”.
Chuyện xưa kể rằng Hoàng Hậu Viên Thị thời Nam Bắc Triều rất hay ghen. Khi biết Văn Đế cho một thứ phi 30 ngàn đồng vàng và sủng ái hết lòng, Viên Thị ghen chết được nên bắt đầu “tịnh khẩu” để chống đối. Đến giờ lâm chung, vua nắm tay hỏi muốn gì, bà vẫn quay mặt không thèm nhìn. Hoàng tử Lưu Thiện khi lên ngôi đã giết chết Văn Đế lẫn thứ phi này để trả thù cho mẹ. Nếu trước khi chết Viên Thị bớt ghen nói vài lời, có lẽ đã không mất đi hai mạng người.
Lý Hoàng Hậu vợ vua Tống Quang Tông còn ghen cả với bậc tỳ nữ. Khi một nữ tỳ bưng nước cho vua rửa tay, vua thích thú khen bàn tay trắng trẻo quá đẹp, hoàng hậu liền chặt tay cô này gói làm quà tặng vua để dằn mặt. Vua khiếp vía rụt rè hơn trong việc qua lại với các cung phi, để hoàng hậu độc chiếm hoàng đế. Nhưng không phải chỉ đàn bà mới ghen ác như thế, đàn ông thời xưa cũng đâu kém. Công nương nước Tàu khi thấy trong cung có thêm vị tướng trẻ liền quay sang hỏi vua ai mà oai phong thế. Vua chẳng trả lời, lát sau cho quân sĩ dâng lên công nương cái mâm đựng đầu vị tướng trẻ này. Chỉ mới khen, chưa có tà ý hành động gì mà kết quả như thế, quý bạn nên cẩn thận khi khen người khác trước mặt vợ hay chồng mình nhé.
Lưu Bang là người sáng lập ra nhà Hán, có vợ từ thuở hàn vi tên là Lã Trí. Khi lên ngôi Lưu Bang lại sủng ái Thích phu nhân, Lã hoàng hậu ghen tức nhưng chẳng làm gì được. Chờ khi Lưu Bang băng hà, Lã Trí cho người cột họ Thích vào trục đá lớn của cối xay, bắt kéo cối đá cho tới chết. Đòn ghen của Lã Trí làm con trai là Huệ Đế bất bình, ngày đêm cờ rượu chơi bời đến sinh bệnh chết khi mới 22 tuổi.
Ngay cả Kinh Thánh cũng có ghi lại nhiều chuyện về ghen: Cain xấu tính keo kiệt không được Thiên Chúa thương bằng Abel, bèn lập mưu giết chết em ruột của mình cho bõ ghét. Máu Abel thấm xuống đất nên Cain bị chúc dữ. Bà Saray - vợ tổ phụ Abraham - đã tự ý hiến tặng nữ tì Hagar cho Abraham, nhưng khi Hagar có thai, Saray lại ghen tức hành hạ Hagar đến nỗi cô phải bỏ trốn. Rồi đến chuyện Giuse con trai của Giacop. Giuse út ít, được cha cưng nhất nhà may cho áo đẹp, nên bị các anh ganh ghét đem bán cho Ai Cập. Nhờ biết đoán điềm giải mộng, sau này Giuse đã cứu cả gia đình. Vua Saul cũng đã ghen với David, vì David dũng cảm lập được nhiều chiến công, Saul hai lần lấy giáo đâm David, may mà David tránh được.
Trong Tân Ước, đã có lúc các môn đệ Chúa Giêsu tính toán xem sau này ai được ngồi bên tả, ai ngồi bên hữu của Chúa. Nhờ Chúa giảng dạy, các ông mới hiểu mà thương yêu nhau để cùng lên đường loan báo Tin Mừng. Các luật sĩ, thầy Thượng Tế thời đó cũng đã ganh ghét với Chúa Giêsu, luôn tìm cách hãm hại ngài.
Có người ghen như bão tố, la hét bù lu bù loa, có người ghen nhưng rất thâm trầm cao tay. Trong chuyện Vua Ngụy tặng mỹ nữ cho vua Kinh, vì thấy vua Kinh yêu quý tân giai nhân này quá sức, phu nhân là Trịnh Tụ mới giả làm thân với cô gái, to nhỏ rằng Vua thích hết mọi thứ trên người cô chỉ trừ cái sống mũi, khuyên cô khi gặp vua nên che mũi lại. Cô gái ngây thơ này tin lời. Trịnh Tụ mặt khác lại bẩm với vua: Mỹ nữ chê vua nặng mùi hôi phải bịt mũi lại, quả nhiên vua nổi giận cho xẻo mũi tân nương.
Nói tới chuyện mũi tôi nhớ một tục lệ ở đảo Kiribati, gần vùng Thái Bình Dương. Tại đảo này, ngoại tình sẽ bị người phối ngẫu cắn sứt một phần mũi theo đúng luật nose-biting hay nasal imputation. Tại sao phạt mũi mà không trừng trị chỗ khác? Theo người La Mã và người Anh thời xưa, mũi liên hệ mật thiết tới bộ phận sinh dục, cái này dài ắt cái kia cũng dài luôn. Cắn mũi là làm giảm đi cái hấp dẫn, dục tính của người kia. Điều này không chừng đúng, vì trên nguyên tắc người Tây mũi lõ thường “mạnh” hơn dân Á Đông mũi tẹt.
Trở lại các điển tích xưa về ghen, xin được kể chuyện “Bến Đò Ghen”: Đời nhà Tấn có cô Đoàn Minh Quang là vợ của Liêu Bá Ngọc. Khi Bá Ngọc đọc bài phú của Tào Thực tả vẻ đẹp nữ thần sông Lạc thì say sưa nói với vợ: “Nếu tôi lấy được người như vậy thật không ân hận gì”. Minh Quang tức tối trả lời: “Sao chàng lại khen thủy thần mà khinh ta, ta chết không thành thủy thần sao?” Nói xong nàng liền trầm mình tự tử. Bá Ngọc sợ quá từ đó không dám qua sông. Bến đò nơi Minh Quang chết đuối, các phụ nữ muốn qua sông phải ăn mặc lem luốc, giả ra xấu xí nếu không sẽ bị sóng gió nguy hiểm, vì vậy nơi đây được gọi là “Bến Đò Ghen”. Quả là “ghen bóng, ghen gió”, chỉ vì chuyện đẩu đâu mà bỏ mình không tiếc!
Rồi tới chuyện xảy ra đời nhà Đường. Vua Thái Tôn muốn thưởng công cho Nhiệm Khôi nên đã tặng ông hai cô thị tì, Nhiệm Khôi không dám nhận vì sợ vợ ghen. Vua cho gọi vợ Nhiệm Khôi vào cung, ra điều kiện nếu không cho chồng nhận hai nàng hầu thì phải uống rượu độc. Vợ Nhiệm Khôi nhắm thấy sống trong ghen tuông thà chết sướng hơn, nên đã nhận chén rượu rồi trối trăn mọi việc. Cũng may đó chỉ là dấm chua nên bà không chết. Về sau người ta dùng chữ “uống dấm” để chỉ người đàn bà ghen, trong chuyện Kiều cũng có nhắc tới điển tích “dấm chua” này. Tôi đồng ý chuyện không chung chồng, có điều tội gì mà phải chết. Từ từ kiếm người nào “quởn” sẽ góp gạo nấu cơm chung, biết đâu rồi con tim sẽ vui trở lại!
Cổ tích Việt Nam cũng có chuyện Sơn Tinh & Thủy Tinh. Vì ghen không lấy được Mỵ Nương nên Thủy Tinh hằng năm vẫn làm bão lụt để hại Sơn Tinh, mong giành lại Công Chúa.
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung có nhân vật Á Bà Bà (bà già câm). Khi còn trẻ, Á Bà Bà là một ni cô xinh đẹp, chàng đồ tể giết heo say mê vẻ đẹp đó nên cũng cạo đầu đi tu với pháp danh Bất Giới Hòa Thượng rồi sanh ra Nghi Lâm. Bất Giới gặp vợ của Nhạc Bất Quần quá đẹp nên không kịp giữ giới giữ lời, lên tiếng khen ngợi trửng giỡn, Á Bà Bà nổi cơn ghen bỏ đi vào phái Hằng Sơn, giả làm mụ già câm điếc khiến Bất Giới tìm muốn chết. Tôi cũng rất phục Á Bà Bà, vì nội công của tôi chỉ thâm hậu tới mức 8 ngày không nói, không thể im lặng lâu hơn được.
Cái ghen của bậc nữ lưu quý tộc còn ghê gớm hơn. Trong “Thiên Long Bát Bộ”, vợ của Đoàn Chính Thuần - vương phi của nước Đại Lý - giận chồng lăng nhăng nên đem tấm thân ngàn vàng ra “cho không, biếu không” một gã ăn mày thấp hèn, sinh ra Đoàn Dự. Bà còn hận đến nỗi bất cứ ai họ Đoàn đến sơn trang, bà đều cho giết để làm phân bón trồng hoa.
Cái ghen đã được Kim Dung nâng lên thành những thủ đoạn cao cường như chuyện nàng Chu Chỉ Nhược. Chỉ Nhược ganh ghét với Triệu Minh nên đánh thuốc mê mọi người, tự rạch mặt để đổ tội cho Triệu Minh hầu được làm vợ Trương Vô Kỵ, độc chiếm Đồ Long Đao, nhưng cuối cùng sự thật đã bị phanh phui. Vô Kỵ tuy biết chuyện mà vẫn ra tay cứu nàng Chu, khiến cô tỉnh ngộ và tìm lại con người hiền lương của mình khi xưa.
Trong thơ văn, Shakespear có viết chuyện chàng Othello. Othello bị Iago gài bẫy nên lên cơn ghen ra tay giết vợ, dù Desdemone là người hiền lành không hề phản bội. Ethello sau cùng đã tự sát vì hối hận.
Trong chuyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã viết: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Ông Trời mà còn ghen, thì nói làm chi đến Hoạn Thư, vì bà chỉ là “chút phận đàn bà, ghen tương thì cũng người ta thường tình”. Bài thơ “Ghen” của Nguyễn Bính cũng nổi tiếng vì ông ghen với cả hoa bướm, với mùi thơm nước hoa mà chỉ một mình ông được ngửi, không chịu “share”!
Vài thập niên trước, có chuyện kể hai vợ chồng đem máy hát ra thưởng thức cho vui tuổi hạc. Khi nghe bài Tỳ Bà do cô Bốn Khâm Thiên hát, ông cụ gật gù khen hay, tấm tắc người hát chắc phải đẹp. Bà cụ đứng ngay dậy đập bể cái máy hát quý giá đó. Điều oan ức là ông cụ chưa hề bước chân “xuống xóm”, không biết chị em cô Bốn, cô Năm già trẻ ra sao. Nghe nói khi xem Nhật Trường và Thanh Lan tình tứ trong nhạc cảnh “Anh Không Chết Đâu Anh”, vợ Nhật Trường ở nhà cũng đập bể TV, chẳng biết chuyện này có thật hay không!? Báo chí cũng đăng chuyện một nhà thầu khoán lén đưa người tình đi chơi bằng chiếc xe hơi mới. Bà vợ biết được đổ xăng thiêu rụi chiếc xe, mặc dầu nó là nửa gia tài của ông bà. Rõ phí của nhưng khi ghen thì làm sao mà sáng suốt, đốt chồng còn được, nói gì tới đốt xe!
Chuyện tình của vũ nữ Lý Lệ Hà và cựu hoàng Bảo Đại liên tục xuất hiện trên báo vào những năm 1940, rồi tới thứ phi Mộng Điệp và bao bóng hồng nữa, làm Hoàng hậu Nam Phương ở Huế phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay.
Lại cũng nghe nói Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có chút liên hệ tình cảm với Ca sĩ Kim Loan, phu nhân Mai Anh rất tức giận, nhưng vốn khôn ngoan muốn giữ chiếc ghế Tổng thống của chồng, nên đã sắp xếp cho Kim Loan bỏ xứ đi Tây Đức.
Ở Mỹ khoảng 1993 cũng đã um sùm chuyện của John & Lorena Bobbitt. Lorena trong cơn điên cuồng đã cắt mất cái ấy của chồng. Động từ “Bobbitt” từ đó được thêm vào trong tự điển Anh Ngữ. Khi ra tòa, Lorena đã chứng minh được chồng là người xấu, luôn bạo hành phản bội nên bồi thẫm đoàn đã tha bỗng Lorena. Chuyện này tiền hung hậu kiết, bác sĩ sau đó đã nối lại cái ấy cho Bobbitt, ông cũng chính thức xin lỗi vợ vì những hành xử không tốt trước đây và dù ly dị, ông vẫn tặng hoa cho bà mỗi dịp lễ Tình Yêu Valentine’s. Phụ nữ Việt cũng đã chia động từ Bobbitt này rất "nhuyễn", bỏ cả vào máy xay.
Chắc ta cũng không quên khoảng 1998, Tổng thống Bill Clinton đã lôi thôi với cô tập sinh Lewinsky, làm bà Hillary chết trong lòng một ít, nhưng vẫn phải nói dối để bảo vệ chức Đệ Nhất Phu Nhân của mình.
Rồi phải kể tới mối quan hệ giữa Jackie - vợ tổng thống Kennedy với người em chồng là Bobby. Bobby đã có với Ethel 11 người con, nhưng Bobby vẫn tức tối khi Jackie bắt bồ với những người khác. Bobby đã xem Aristotle On***is, nhà tài phiệt Hy Lạp như kẻ thù khi Jackie vì tiền chịu lấy ông này.
Chuyện ngoại tình của tài tử Brad Pitt và cầu thủ Football David Beckham cũng làm hao tốn nhiều giấy mực. Truyền thông khen ngợi Angelina Jolie và Victoria Beckham là những bà vợ cao tay đáng nể. Hai cô im lặng chẳng phải vì không “ke” (care) hay dễ dãi chấp nhận trai năm thê bảy thiếp, đơn giản là để một vụ scandal tình ái qua nhanh, họ phải lờ đi cho chuyện tự chìm vào quên lãng. Ở nhà hành hạ bắt quỳ gai mít là chuyện khác, còn chuyện đối ngoại thì phải hành xử khôn ngoan hơn.
Một vụ tai tiếng khác là chuyện cựu thống đốc tiểu bang California Arnold Schwarzenegger, bị phanh phui có con với bà người ở giúp việc trong nhà. Cuộc hôn nhân kéo dài 20 năm giữa ông và nữ nhà báo Maria Shriver đã nhanh chóng kết thúc. Maria cũng rất muốn “act cool” nhưng chịu không nổi đã kích này. Bốn đứa con cũng quay lưng lại với cha, khiến Arnold mất đi mọi thứ, chương trình đóng phim cũng gián đoạn.
Nữ tài tử Demi Moore ly dị chồng trẻ Ashton Kutcher khi phát hiện ra anh này nhiều lần phản bội. Diễn viên Julia Roberts, nổi tiếng với cuốn phim Pretty Woman đã hủy hôn với Kiefer Sutherland cũng vì ghen tuông khi chồng lăng nhăng với gái điếm. Mất vợ vừa đẹp vừa giàu, quý anh chớ khá xem thường cho là "chỉ chơi qua đường" thôi nhé!
Tài tử, ca sĩ kiêm người mẫu Mia Farrow phải chia tay với đạo diễn Woody Allen cũng vì ông già gân này “léng phéng” với cô con nuôi Soon-Yi thua mình nhiều tuổi (sau đó hai người lấy nhau và vẫn còn sống chung).
Hai nàng ca sĩ Britney Spears và Christina Aguilera cũng đã ganh tài đấu võ mồm liên tục trên báo chí. Thấy không ổn cho sự nghiệp, họ xin lỗi nhau nhưng sau đó lại vẫn tiếp tục lăng nhục hơn thua nhau.
Gần đây nhất là cuộc chiến Hoa Hồng giữa bồ và vợ cũ của Tổng thống Pháp François Hollande. Hai bà Valérie Trierweiler và Ségolène Royal vì ghen đã làm rối loạn đời tư cũng như sinh hoạt chính trị của tổng thống Pháp.
Riêng chuyện ghen ở Việt Nam ngày nay thì như cơm bữa. Cô gái bị bạn cướp mất người yêu, hận thù đằng đằng quyết chiến, nên mời đông đủ mọi người tới dự tiệc sinh nhật mình. Trong tiệc, cô bất ngờ đổ nguyên chén nước mắm ớt lên đầu bạn gái, nhiếc mắng kẻ giật bồ không tiếc lời. Hả giận, nhưng dĩ nhiên có cho tiền anh bồ cũng không dám quay lại với ngưởi dữ như thế. Nhiều chàng ghen tương đã đánh đập hành hạ nàng, dùng điện dí chết nàng, xẻo tai tình địch, thậm chí có chàng sau khi chém tình địch còn cắt luôn của quý đặt lên bàn với mảnh giấy: “Trừng trị kẻ tà dâm”. Trừng trị xong thì tới phiên mình bị luật pháp trừng trị cho ngồi gỡ lịch dài dài. Có nàng thì làm nhục cởi quần, xát muối ớt vợ bé, hoặc xâm hình rắn rết lên mặt, lên ngực kẻ cướp chồng cho thỏa lòng ghen tức, hành động nghe bắt sợ nhưng tính ra còn “nhân đạo” hơn chuyện tạt át-xít của vũ nữ Cẩm Nhung ngày xưa.
Thời gian gần đây, những vụ đánh đấm ghen tuông còn xảy ra ở trường học Việt Nam, trong lứa tuổi lớp 6 lớp 7, mà các nữ sinh mặc áo dài uýnh lộn với nhau mới tài. Có cháu trai mới 13 tuổi đã nói với mẹ: “Con muốn giết thằng N. Vì nó mà cả tháng nay bạn H. không chơi với con. Con cũng chẳng muốn sống nữa”. Hết chuyện con nít thì tới chuyện bà già 73, ông già 75 vác dao đánh ghen giết chết tình địch, cháu chắt vào tù thăm thấy bà, ông run run sau song sắt mà xót ruột.
Ghen thì thế đấy, nhưng không ghen cũng rắc rối lắm. Anh T. là biên tập viên của một tạp chí quyết định ly dị vợ sau ba năm chung sống với lý do chị không biết ghen, lúc nào cũng như cục bột. Có chị khi chồng vui vẻ để mình về Việt Nam mà không ngăn cản, kết luận rằng chàng chẳng còn yêu mình nữa rồi chán nản, kiếm chuyện. Anh bạn tôi biết rõ vợ ngoại tình, nhưng tuyên bố không chấp chi chúng sinh vô loài, thản nhiên nhìn vợ tình tứ với "người ta". Ngược lại chị kia quá tin chồng, chẳng nghi ngờ cho tới khi chồng chết, có bà khác đem con tới nhà xin chịu tang mới ngã ngửa! Xóm ông xã tôi có bà nọ đi thăm nuôi chồng, gặp chị khác cũng dắt con vào thăm. Nhìn thằng bé bà biết ngay vì nó giống chồng bà như đúc. Thế mà sau này bà đã đem đứa bé về nuôi, cho ăn học đàng hoàng dù chồng vẫn mút mùa trong trại cải tạo. (Ý, hay là quý ông bịa ra chuyện này để nhắn nhủ gì đây!) Cô bạn tôi gầy nhom không đẹp chút nào, thế mà khi chia tay với chồng đi theo tiếng gọi tình yêu, ông chồng run run nhắn nhủ bất cứ khi nào hối hận em cứ quay về, anh luôn mở rộng vòng tay chờ đợi cho em. Thì ra chuyện gì cũng có thể xảy ra trên cõi đời ô trọc này! Ngược đời cũng có nhiều chuyện “phở” lại đi ghen với “cơm”, làm các ông cũng phân vân không biết nên bênh "cơm" hay bênh "phở".
Ghen với người yêu thì dễ hiểu, nhưng cũng có khi cha mẹ lại ghen với con, anh chị em trong nhà ganh ghét tị nạnh lẫn nhau, người dân trong một nước giết hại lẫn nhau. Các bà mẹ chồng ngày xưa đã từng hại con dâu, như chuyện Cô giáo Minh trong Đoạn Tuyệt của Tự Lực Văn Đoàn. Bạn tôi mới đây tức tối kể chuyện con trai chị cưng vợ, bảo vợ nghỉ cho khỏe để mẹ làm mình ên được rồi!
Ngày nay có cả những công ty chuyên tư vấn đánh ghen, những thám tử tư sẵn sàng giúp trong dịch vụ này. Họ kê cả lý lịch, tình sử để chứng minh đối tượng bị đánh ghen là đáng tội một cách rạch ròi, sẵn sàng “làm thịt” tình địch theo đơn đặt hàng của thân chủ.
Victor Hugo nói: “Ganh ghét là tự thú nhận sự thua kém của mình”.
Dorothy Carnegie kể lại kinh nghiệm một người đàn bà ghen: “Một hôm soi gương, thấy hình thù tôi mà ghê sợ. Tóc tai rối bù không son phấn, mắt long lên mà quần áo thì như cái bao bố trùm lên cây chổi. Tôi tự nhủ: “Mình sợ mất chồng mà hình thù như vậy thì chồng nào thương cho nổi”. Từ hôm đó tôi sửa sai, nhà tôi nhận thấy từ thái độ đến nhan sắc tôi đều thay đổi nên ân cần với tôi hơn, và tôi hết ghen”. Sách dạy rằng vợ chồng phải tôn trọng tin tưởng nhau, ân cần với nhau, chăm sóc chính bản thân để tự tin mà giữ hạnh phúc. Với bạn bè người chung quanh thì đừng so sánh hầu tránh những ganh ghét làm khổ mình. Ca dao có câu “Ai nhất thì tôi thứ nhì, Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba”. (Ủa, mà còn quan tâm tới thứ hạng là còn sân si lắm, chưa "ngộ" được). Dù sao tôi cũng tin tình yêu và sự thông cảm sẽ cảm hóa được con người và làm nên điều kỳ diệu trong cuộc sống. Tôi cũng cố nhủ lòng ráng quên mình, chia vui xẻ buồn với người chung quanh để được an vui. Lý thuyết thì như vậy, nhưng thực hành lại là chuyện khác.
Như đã nói ở phần đầu, bây giờ tôi xin trả lời câu hỏi về ghen. Vâng, tôi cũng là “nhi nữ thường tình” nên tôi rất ghen. Ngoài ghen chồng ghen con tôi còn ghen luôn với các chuyện “linh tinh” khác. Chẳng hạn khi Kinh Thánh kể chuyện người phụ nữ ngoại tình bị ném đá, hoặc khi truyền thông kết tội các người đẹp chân dài ở Việt Nam bán dâm mà không nhắc gì tới mấy ông có liên hệ trong “vụ việc”, tôi cũng lấy làm ghen tức cho phận đàn bà. Hồi xưa có tục gọt đầu bôi vôi gái không chồng mà có thai, theo tôi, ông nào là tác giả của cái bầu phải chịu tội gấp đôi mới công bình. Tôi cũng ghen với cuộc sống dư thừa tại Âu Mỹ khiến người ta có khuynh hướng thích hưởng thụ, ít nhận ra chân giá trị cuộc sống, ít tận dụng cơ hội học hỏi để vươn lên. Ngay như mấy đứa con tôi ở Canada quá sung sướng nên không hiểu, không cố gắng nhiều hơn, có vẻ ngây thơ hời hợt. Tôi ghen dùm cho những đứa trẻ ở Việt Nam: thèm đi học mà không được, thèm ăn mà không có. Nhà thờ bên đây vừa nhiều vừa đẹp mà vắng hoe, chẳng mấy ai thiết tha đến niềm Tin, trong khi dân tôi muốn đi lễ, đi Chùa mà điều kiện khắc nghiệt. Tù nhân ở ngoại quốc có quyền chê bai, đòi hỏi đủ thứ, trong khi "tù" cải tạo chẳng có tội gì mà bị đối xử quá sức thê thảm. Ông Tướng Santa Ana - tên của miền nắng ấm Santa Ana, Cali - khi hy sinh một chân trong cuộc chiến, đã bắt mọi người tổ chức lễ truy điệu chôn chiếc chân gẫy của mình long trọng theo đúng quân cách, còn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bao xương máu thì sao? Những dịp có thể hội tụ lại để tỏ lòng biết ơn họ như Lễ tưởng niệm 30 tháng Tư, được bao nhiêu người tham dự? Tôi ghen cả với cái Tự Do thái quá của Tây Phương, chẳng bù cho dân tôi bị kềm kẹp mất quyền làm người, luôn bị trù dập, đàn áp.
Ước gì một ngày rất gần thanh bình, tự do dân chủ về trên quê hương, để người ngoại quốc ganh tị khi nhìn đồng lúa quê tôi chín vàng, thèm thuồng khi thấy mọi người sống hiền hòa yêu thương nhau, lấy đạo đức làm căn bản, đem Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín lên hàng đầu. Mong lắm thay!
Nguyễn Ngọc Duy Hân
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Jul/2012 lúc 11:08am
http://baomai.blogspot.com/2012/07/bai-ca-vong-co.html -
Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi, mái tóc đã ngả bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước ’’Cách mạng thành công’’ và tôi của bây giờ - nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống dưới chế độ gọi là ưu việt - thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi ...tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt!
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu tôi cho Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!
Cote d Ivoire's village
Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da đen như là: ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v.v.. Vì vậy, tôi hơi ...ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia...
Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước ...coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao và trũng không sâu...
Nhà nước phá rừng trồng mía. Rừng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v.v.. nằm cách nhau cỡ vài cây số.
Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến.
Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đất đỏ, mỗi lần máy bay bay lên đáp xuống là bụi bay ...đỏ trời !
Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi ’’làm lại cuộc đời’’ ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là ’’le chinois’’ - thằng Tàu - Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi ...nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.
... Một hôm, sau hơn tám tháng ’’ở rừng’’, tôi được gọi về Abidjan để họp (Đây là lần đầu tiên được về thủ đô!). Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa.
Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói:
- Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi tôi mới về.
Ở xứ da đen, họ dùng từ ’’Patron’’ để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v.v... Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết!
Tôi nói:
- Về đi! Đâu cần phải đợi!
Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng toát:
- Tại Patron không biết chớ ở đây lâu lâu họ lại huỷ chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.
Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh : hành khách khá đông, nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v.v... Không phải họ không biết gởi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ ...xách tay, cho dầu là nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh!
Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngả người trên lưng ghế, lim dim...
Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: ’’Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy’’. Rồi lại nhắm mắt lim dim... Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi ’’xuống hò’’: ’’Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng... đang vươn lên ngọn khói... á... lam... à... chiều...’’
Đúng rồi ! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người da đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá ! Người da đen đâu có nằm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển ...họ cũng ít dùng nữa.
Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh da đen còn trẻ, còn cái võng là loại võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hoà hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp:
- Bonjour!
Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói ’’Bonjour’’. Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:
- Anh hát cái gì vậy?
Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp_
- Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?
Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:
- Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.
Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:
- Trời ơi! ...Bác là người Việt Nam hả?
Rồi hắn vỗ lên ngực:
- Con cũng là người Việt Nam nè!
Hình minh họa
Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại ’’trôi sông lạc chợ’’ đến cái xứ ’’khỉ ho cò gáy’’ này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người da đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt...
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:
- Trời ơi!... Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!... Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt... con mừng ’’hết lớn’’ bác à!
Rồi hắn kéo tôi lại võng:
- Bác nằm đi! Nằm đi!
Hắn lại đống gạch ’’bờ-lóc’’ gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói:
- Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu đợi tới bây giờ...
Hắn móc gói thuốc, rút lòi ra một điếu, rồi đưa mời tôi:
- Mời bác hút với con một điếu.
Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một ’’cái gì’’ rất Việt Nam.
Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười:
- Bác nhìn ra nó rồi hả?
Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến:
- Của ông ngoại con cho đó! Ổng cho, hồi ổng còn sống lận.
Rồi hắn bật cười:
- Hồi đó ổng gọi con bằng ’’thằng Lọ Nồi’’.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Vậy mà ổng thương con lắm à bác!
Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm... Tôi nói:
- Vậy là cháu lai Việt Nam à?
- Dạ. Má con quê ở Nha Trang.
- Rồi má cháu bây giờ ở đâu?
Giọng của hắn như nghẹn lại:
- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt cộng vô năm 1975.
- Còn ba của cháu?
- Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà ni. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!
Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi môi dầy...
Tôi chợt nói, nói một cách máy móc:
- Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!
Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang:
- Có chớ bác. Con có lai chớ bác.
Hắn xoè hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:
- Bên ni của con là nằm ở bên ngoài đây nè.
Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:
- Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.
Bỗng giọng hắn nghẹn lại:
- Con lai Việt nam chớ bác!
Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt tôi, một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi với tay vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói:
- ô ! Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy...
Hắn mỉm cười:
- ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà ni con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?
Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt:
- Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là Trời còn thương con quá!
Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng...
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:
- Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài ’’Đường về quê ngoại’’ đó bác.
- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:
- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.
- Bác cũng vậy.
Tôi nói, mà thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau...
Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:
- Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:
- Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết ’’Jean le vietnamien’’ hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.
Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ, rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:
- Ghé con nghe bác... Ghé con...
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật gật đầu, vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con...
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội vã quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho ’’thằng Jean le vietnamien’’. Hồi nãy, nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ...
...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến ’’thằng Jean’’ rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!
Tiểu Tử
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 24/Jul/2012 lúc 2:32pm
http://gocong.com/main/giaitri/truyencuoi/36146-thng-chng-vit-kiu-ca-toi.html - Thằng Chồng Việt Kiều của tôi
Những ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống. Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như quay cuồng.
Cũng chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới bắt đầu qua đây.
Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều.
Tôi vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm nghành Anh Văn và học xong.Trong thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không thể chu cấp mọi chi phí.
Ở xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình.Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.
Với ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình xin 6-7 ngàn có sao đâu.Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,…Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật.Cũng chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm.Hắn hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm nhưng giả nai để được đi Mỹ.Tôi nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không có xe gắn máy). Hắn trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh Văn cũng có tiền.Khi nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm.
Trong khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính, uống tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng.
Khi đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai.Tôi lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên đường….. Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn. Dì tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam vì nếu tôi bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ.10 ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn,....Tôi nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân hắn chẳng có gì.Tôi dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa nước mắt ân hận. Sau một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn.Tôi dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi ráng bươn chãi thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể xin việc làm tốt hơn. Tôi giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6 người bên Việt Nam.Hắn từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không có sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức. Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6 tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ.
Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn. Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi gánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi.Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn. Giờ gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn. Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ.Tôi đã sai và sửa sai.Hy vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người.
Chút lời bàn cho dzui : Qua câu chuyện này, rút ra bài học gì ? 1/ Đàn ông ham sắc. Dù biết tỏng là người ta lấy mình chỉ để qua Mỹ. Vẫn mê. Vẩn lấy. Vì biết rằng phụ nữ dễ yếu lòng, hễ có con với mình thì sẽ vì con mà cắn răng ở lại, dù chẵng yêu chồng, nhưng sẽ ráng chịu cực vì con .... 2/ Đàn bà yếu đuối, dễ mũi lòng. Thương hại ông chồng , nên è cổ đi học, đi làm, rồi lại mang nặng đẻ đau cho gia đình hạnh phúc. Từ chỗ ko yêu, đến nơi thương hại, rồi cuối cùng .. yêu và giữ. Đó là yếu điểm lớn nhất của người đàn bà, mà đặc biệt là phụ nữ VN. Vẫn có một số người đàn bà như thế, ở xứ này. Nhưng chỉ là thiểu số. Đại đa số phụ nữ, cả da trắng lẫn da vàng, da đen, thì đều chọn được sống với người mình yêu thương thật sự, và người đó cũng yêu mình - chứ ko phải mê sắc đẹp của mình, và thông thường thì họ đều thuộc câu ông bà xưa dạy dỗ " Nồi nào úp vung nấy ". Nồi đất, ko tìm được một chiếc vung đất hay sao ? Hay chỉ vì vung đất bên xứ này ko đẹp, ko sexy ? Mà lại ham về nước tìm chiếc vung ngà ? Cũng vẫn có đâu đó những chiếc vung ngà " dại dột " mủi lòng mà " dính hoài " với cái nồi ko cân xứng, nhưng sẽ được bao lâu thì còn đợi thời gian trả lời ... Còn đa số phụ nữ ở xứ người cũng đều thuộc lòng câu người xưa đã dạy, và vì thế vẫn nhan nhản ở xứ này những chiếc vung " kiểng " tung tăng cả ngày, vì họ chưa tìm được cái nồi tương xứng. Nhưng chẳng thà cứ tung tăng với cuộc đời, còn hơn là nhắm mắt chọn đại một cái nồi đất đem về để rồi phải đi làm hai jobs để nuôi nồi bố , lẫn nồi .. con ... Khổ lắm, bà con ơi !
st.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Aug/2012 lúc 7:18am
http://www.authorstream.com/Presentation/TinhyeuBanme-1349585-soi-guong-cuoc-doi-gxdaminh-net-guitar-vt-bp/ -
- http://www.authorstream.com/Presentation/TinhyeuBanme-1349585-soi-guong-cuoc-doi-gxdaminh-net-guitar-vt-bp/
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 07/Aug/2012 lúc 6:57am
http://baomai.blogspot.com/2012/08/nhung-cai-can-gat-nuoc.html -
Bạn đã từng lái xe trong mưa, bạn có để ý đến cái cần gạt nước không? Trời mưa như trút nước, nước phủ mờ mặt kính, che khuất cả đường đi. May mắn thay! chúng ta có những cái cần gạt nước: kiên trì và đều đặn, chúng xóa nhòa nước mưa trên kính, giúp ta nhìn thấy đường để lái xe. Thật tiện dụng tuyệt vời!
Trên chuyến xe cuộc đời, có những nỗi buồn rơi rớt, những lo âu lất phất, những cơn giận vũ bão…; chúng như cơn mưa cản trở hành trình của chúng ta, làm chúng ta không thấy đường đi, mất phương hướng, hoặc chán nản dừng xe lại, tự làm mất thời gian và công sức của mình, bạn có thấy lãng phí không? Này bạn, thay vì ngồi than thân trách phận hoặc tiêu cực chờ đợi, sao bạn không thẳng tay gạt những nỗi buồn, những điều không vừa ý sang một bên để tiếp tục đi, cho dù chậm thì cũng vẫn là đang tiến tới. Một u sầu gạt bỏ là bạn sẽ được nhìn rõ hơn và xa hơn một chút, tiến xa hơn một chút trên đường đi của mình.
Dầu vậy, cũng có những niềm đau, những nỗi buồn như cơn mưa dai dẳng, khó có thể xóa nhòa trong chốc lát. Bạn phải đều đặn, đều đặn gạt bỏ chúng như… những cái cần gạt nước. Muốn vậy, bạn phải kiên trì, quyết tâm lập đi lập lại một động tác trong tư tưởng: đẩy sang phải, đẩy sang trái, cho những gì không vừa ý văng khỏi đời mình như những hạt mưa văng khỏi kính xe! Hãy chiến đấu cho tương lai phía trước! để rồi những lo âu rơi rớt, những cơn giận tung tóe, những phiền muộn đọng lại sẽ bị gạt bắn ra đằng sau từng phần, từng phần, và nhẹ dần đi cho tới khi mất hẳn. Quan trọng là bạn phải biết gạt bỏ chúng một cách đều đặn, kiên trì. Trời sẽ lại sáng sau cơn mưa....
Người tài xế cẩn thận, dù biết rõ công dụng của chiếc cần gạt nước, cũng không dám khinh thường trời mưa. Đường trơn, tầm nhìn giới hạn, xe không thể chạy nhanh được; bạn cũng vậy, bạn có thể gạt bỏ được những điều tiêu cực, phật lòng, buồn đau, nhưng vẫn chịu những hậu quả tổn hại của chúng. Hãy tiến lên, nhưng đừng phóng nhanh, chậm rãi chú ý xem xét để được an toàn cho lần sau! Và nếu tránh được thì nên tránh từ đầu, như người lái xe khi xem thời tiết, biết trời mưa thì có thể khởi hành sớm hơn hoặc muộn đi, có thể lái xe đi vòng hướng khác để tránh cơn bão dập vùi. Đừng tự chuốc lấy những điều không vừa ý khi mình có thể tránh được! Cuộc đời còn có bao việc phải làm; nếu không thật cần thiết thì cũng chẳng nên lái xe trong mưa.
Và nếu nhỡ ra phải đi trong mưa, bạn có để ý thêm không? Trên kính xe có tới 2 cái cần gạt nước. Chúng làm việc chung với nhau thật hợp «rơ», lui tới đều đặn, song song, hỗ trợ cho nhau, để đẩy nước mưa ra ngoài. Trong cuộc đời, có những nỗi buồn, những lo âu thật khó xóa với sức của một người. Hãy cùng chia sẻ với người thân, với bè bạn! Gánh nặng được san sẻ thì đôi vai sẽ bớt mỏi, đường đi sẽ bớt xa hơn, dễ đi hơn. Khi có sự đồng tâm hiệp lực thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn, niềm vui cũng sẽ lớn hơn, đủ để đánh bại những nỗi buồn lớn.
Và sau hết, bạn hãy là người lạc quan! Hãy nhìn những cái cần gạt nước không chịu nằm im, chúng chuyển động không ngừng, cố đẩy nước đến từ mọi phía! Nếu bạn chỉ ngồi một chỗ mà lo âu thì bạn thật là người đáng lo, nếu bạn chỉ biết cằn nhằn những phiền toái thì chúng vẫn còn đó, nếu bạn đắm mình trong u sầu thì u sầu sẽ nhận chìm bạn. Hãy suy nghĩ cho lạc quan và hành động tích cực! Đối với người lạc quan, sớm hay muộn thì vấn đề cũng sẽ có giải pháp, điều cần là phải vui sống, dù tạm thời chưa giải quyết chúng được.
Xưa kia, có một bà cụ hay ủ rũ khi nghĩ đến 2 người con ở xa : trời mưa thì bà nghĩ đến người con bán dép rơm bị ế ẩm, vì không ai mua dép rơm để đi mưa; trời nắng thì bà lại nghĩ tới người con bán dù, vì ai lại mua dù mùa nắng. Hàng xóm thấy vậy xúm vào khuyên bà hãy nghĩ ngược lại: trời nắng thì nghĩ tới người con bán dép rơm được đắt hàng, còn trời mưa thì nghĩ tới đứa con làm dù không đủ bán. Bà cụ nghe theo và từ đó sống thật vui vẻ. Bạn biết không, đời sống vui hay buồn nhiều khi không phải do những việc bên ngoài, mà lại tùy thuộc vào suy nghĩ và cách sống của chúng ta. Nhiều việc có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, nhưng nếu biết nhìn mặt tốt, có lẽ chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn, tội gì phải làm ngược lại? Những buồn khổ, lo âu, bất hạnh nhiều khi đến bất chợt như cơn mưa và ai cũng gặp phải. Dù sao trời cũng đã mưa và chúng ta cũng phải lái «chuyến xe cuộc đời»....
Hãy vui vẻ, lạc quan khi nghĩ đến… «những cái cần gạt nước» !
Hoài Nam
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 14/Aug/2012 lúc 11:26am
Đàn voi rừng về viếng tang người đã cứu chúng
Lawrence Anthony, một Phi và là tác giả của 3 cuốn sách trong đó có cuốn sách bán chạy nhất “Whisperer Elephant”, đã dũng cảm cứu và phục hồi nhiều động vật hoang dã và voi trên toàn thế giới khỏi sự tàn bạo của con người, kể cả việc cứu hộ dũng cảm các con thú ở Vườn thú Baghdad trong cuộc chiến xâm lược của Mỹ vào năm 2003.
Ngày 07 tháng Ba năm 2012, Lawrence Anthony qua đời. Ông mất đi để lại nhớ thương cho vợ, 2 con trai, 2 cháu nội trai và rất nhiều voi rừng.
Hai ngày sau khi ông qua đời, một điều kinh ngạc đã xảy ra! Các con voi hoang dã (mà ông đã cứu trước đây) đã có mặt tại nhà ông và chúng đã được dẫn đường bởi hai con voi đầu đàn to lớn. Mấy đàn voi rừng riêng rẽ đã lũ lượt đến để nói ’tạm biệt’ người bạn yêu quý, người hùng của chúng.
Tổng cộng đã có 20 con voi kiên nhẫn đi hơn 12 dặm (gần 20km) để đến được ngôi nhà của ông ở Nam Phi.
Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã hết sức kinh ngạc, không chỉ vì trí thông minh cực kỳ cao và thời điểm chính xác mà những con voi đã cảm nhận về cái chết của Lawrence, mà còn vì bộ nhớ và những xúc cảm sâu đậm mà các con vật thương yêu kia đã được diễn tả một cách có tổ chức: Chúng đi bộ từ từ – trong nhiều ngày – theo hàng dọc, vòi nối đuôi – một cách long trọng từ nơi chúng sinh sống cho đến nhà của ông (Lawrence Anthony ).
Bà Francoise vợ của Lawrence, đặc biệt xúc động, vì bà biết rằng những con voi đã không đến nhà từ hơn một năm nay, nhưng chúng vẫn biết đâu là nơi chúng muốn đến! Rõ ràng là những con voi đã muốn bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc của mình để tôn vinh người bạn, người ân nhân đã cứu giúp chúng – với rất nhiều kính trọng, chúng đã ở lại 2 ngày và 2 đêm.
Sau đó, vào một buổi sáng, chúng lại rời nhà, bắt đầu một cuộc hành trình dài để trở về lại nơi sinh sống của chúng
st.
------------- Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 18/Aug/2012 lúc 8:55am
Cạm bẫy xinh đẹp
Trong quán bar lạnh tanh. Sau khi ngồi xuống ghế, người đàn bà ngẩng đầu nhìn quanh một lượt. Đúng lúc ấy, ánh mắt của nàng và ánh mắt của Cao Đắc Thắng không hẹn mà gặp nhau. Giữa lúc Cao Đắc Thắng sắp phải rút lui vì ánh mắt của nàng chiếu tướng, thì nàng lại đột nhiên cười.
Một nụ cười đôi chút phiêu lãng.
Cao Đắc Thắng như được khuyến khích. Chàng không chút do dự đứng phắt dậy, tay cầm cốc, bước thẳng đến trước mặt nàng, nói:
- Nếu không phản đối, tôi có thể ngồi xuống cùng chị nói chuyện không?
- Muốn bao tôi chăng? - Đối phương tung ra một câu hỏi bất ngờ làm Cao Đắc Thắng bỗng bối rối.
- Hay là thích qua một đêm?
Cao Đắc Thắng cứng họng, lúng túng như gà mắc tóc.
- Tôi là Lâm Đạt! - Đối phương đột nhiên mau lẹ chuyển làn, chốc lát đã giải vây cho chàng.
- Tôi là Cao Đắc Thắng! - Tim của Cao Đắc Thắng đập bình thường trở lại
- Kết bạn lung tung với người khác giới ở nơi tứ chiếng, lẽ nào đàn ông không sợ nguy hiểm sao? Đàn bà nguy hiểm lắm đấy!
Nàng hỏi một câu làm cho Cao Đắc Thắng cảm thấy khó hiểu vô cùng.
- Nguy hiểm! Tại sao lại nguy hiểm? Không! Trái ngược một trăm phần trăm, chỉ có ở bên cạnh đàn bà, những người đàn ông mới có cảm giác an toàn thật sự. Nếu bàn về nguy hiểm tôi lại cảm thấy rằng đàn ông còn nguy hiểm hơn đàn bà! Lâm Đạt tình tứ nhìn chàng.
Đến lúc này, Cao Đắc Thắng mới ý thức được mình đã quá lời, vội vàng lái sang chuyện khác:
- “Chị không định uống chút gì sao? Ở đây tôi rất quen, tôi gọi cho chị!”
- Một cốc rượu vang đá! Cảm ơn! - Lâm Đạt mỉm cười nhìn chàng.
Cao Đắc Thắng nghĩ bụng, đêm nay rõ ràng lại là một đêm khó quên. Lát sau, họ vừa uống vừa nói chuyện, tỏ ra rất tâm đầu ý hợp.
Bất giác, Cao Đắc Thắng nhẹ nhàng cầm tay nàng hỏi:
- “Nếu không phật ý, có thể nói cho tôi hay bàn tay nhỏ xinh xắn này dùng để cầm cái gì nào?”.
- Dao! - Nàng nói cộc lốc.
- Chị là bác sĩ ngoại khoa ư? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên.
- Nếu nói rõ hơn thì đã từng là một bác sĩ ngoại khoa! Còn nay lại là một người phụ nữ chủ gia đình một trăm phần trăm! Sao, anh không tin à?
- Xin lỗi! Trong ấn tượng của tôi, bác sĩ ngoại khoa đều là những động
vật máu lạnh. Mà chị …
- Lẽ nào tôi lại không máu lạnh ư?
- Không! Không! Trông chị dịu hiền làm sao, hơn nữa còn rất phong lưu
thanh nhã nữa...
- Anh đã tưởng tượng tôi là một người hoàn mỹ như thế ư? …
- Đúng thế! Từ khi chị vừa bước chân vào cửa, tôi đã bị chị làm cho mê
muội, hoàn toàn bị mê muội! - Cao Đắc Thắng đắm đuối nhìn thẳng vào mắt
nàng, nói.
- Nhưng, tôi đã kết hôn rồi...
- Nói thật lòng, tôi thích những người đàn bà thành thục. Chỉ có đứng trước người đàn bà thành thục tôi mới cảm thấy mình là một người đàn ông ra trò.
Người đàn bà áo đen khanh khách cười, má ửng hồng.
Giữa lúc tay Cao Đắc Thắng muốn đưa ra một lần nữa, thì nàng đột nhiên đứng bật dậy, nói: "Xin lỗi! Muộn quá rồi! Tôi nghĩ tôi nên ra về!".
Nói xong, nàng quay người lướt đi như bay.
Cao Đắc Thắng bỗng như ngây như dại. Chàng cảm thấy đau khổ quá, thậm
chí còn có một cảm giác bị lừa dối, bị bỡn cợt.
Chính giữa lúc Cao Đắc Thắng bải hoải tâm hồn, ngồi ủ dột, thì Lâm Đạt lại bất ngờ quay lại. Nàng nói: "Sao? Anh không muốn cùng đi với tôi à?".
Lát sau, hai người cùng ra khỏi cửa hàng...
- Nếu chàng không ngại gì, em mời chàng đến nhà em coi thử!
- Thật thế ư? - Cao Đắc Thắng hơi do dự.
Lâm Đạt cười, nói: "Đừng lo! Chồng em, anh ấy thường không ở nhà!".
- Thế à? - Cao Đắc Thắng nghe vậy mới yên tâm.
- Nhưng trước khi lên xe, em có một điều kiện! - Nàng nói.
- Điều kiện gì nào?
- Trước khi tới nhà, em phải bịt kín hai mắt anh lại!
- Tại sao phải làm như vậy? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên, hỏi.
- Bởi vì, chồng em là một người có địa vị cao. Em không muốn do một sơ suất nhất thời của mình, mà đem lại bất cứ một phiền phức không đáng có nào.
- Em sợ sau khi biết nhà của em, biết đâu một lúc nào đó anh lại mò đến
tìm em? - Cao Đắc Thắng có vẻ giận dỗi, nói.
- Em đâu có nói anh đúng là loại người ấy! Song, một người ở vào bối cảnh gia đình như vậy, thì biện pháp đề phòng nhất định là không thể thiếu, nếu không, cuối cùng người bất hạnh chỉ có thể là một mình em! -
Lâm Đạt nhẫn nại giải thích.
- Sao không thuê phòng ở khách sạn chẳng hạn.
- Không được! Em thường cùng chồng em xuất đầu lộ diện ở những nơi công cộng, cho nên số người biết em rất nhiều, nếu bị họ phát hiện ra, thì em sẽ gay to!
Cao Đắc Thắng vẫn còn do dự.
- Anh Cao! Xin cứ tin vào em! Em làm như vậy cũng là bất đắc dĩ. Nói thật nhé, tối nay, em cũng như anh, cũng muốn có một người ở bên cạnh, nếu không thì vừa rồi em đã chẳng quay lại tìm anh nữa. Em biết, em làm như vậy là rất ngốc, rất manh động, biết đâu chẳng đem lại nguy hiểm chơi lửa đốt mình. Song, em đã hết cách khống chế được mình...
Vừa nói, Lâm Đạt bất giác nắm lấy tay chàng, nước mắt ngân ngấn. Cao Đắc Thắng cảm động vô cùng trước câu nói của Lâm Đạt. Chàng đột nhiên ôm nàng vào lòng: "Anh nguyện hy sinh tất cả vì em!".
Như thế là Cao Đắc Thắng đã lên xe của Lâm Đạt.
Sau khi xuống xe, Lâm Đạt vẫn chưa tháo tấm vải đen che mắt Đắc Thắng, mà cứ dắt tay chàng đi chầm chậm trên con đường nhỏ trải đầy đá quạ.
Bốn bề im lặng. Trong gió lạnh thoang thoảng mùi hoa thơm. Cao Đắc
Thắng đoán đây là vườn hoa của nhà Lâm Đạt, xem ra nàng đâu có lừa dối
mình.
Lát sau, nàng dẫn chàng leo lên mấy bậc thềm, sau khi qua cổng lớn, lại đi dọc một hành lang dài, mãi sau mới dừng lại.
- Bây giờ anh có thể mở to mắt rồi! - Lâm Đạt tháo mảnh vải đen che mắt cho chàng, tủm tỉm cười, nói.
Cao Đắc Thắng dụi dụi mắt, ngẩng đầu lên nhìn, thì ra mình đã ở trong một phòng ngủ xinh xắn.
Cao Đắc Thắng lớ ngớ không biết làm gì, cứ đứng trơ ra đó.
Đột nhiên, từ phía sau Lâm Đạt đã ôm chặt chàng, mặt áp sát vào tấm lưng rộng của chàng, nũng nịu:
- Bây giờ, chẳng có ai đến quấy rầy chúng ta được nữa!
Cao Đắc Thắng quay người lại, nâng mặt nàng lên, hôn thắm thiết. Người đàn bà bất giác thở dài, toàn thân mềm mại, rung động. Tiếp đó, nàng khẽ khàng cởi áo quần cho Cao Đắc Thắng, từng chiếc một, rất thứ tự ngăn nắp. Thân thể Cao Đắc Thắng vô cùng tráng kiện, do thường xuyên vận động thể thao. Lâm Đạt đứng ngây ra nhìn Cao Đắc Thắng đang trần
như nhộng.
- Trẻ trung tuyệt vời! - Nàng nói.
Bây giờ, tay nàng bắt đầu khẽ khàng vuốt ve cơ thể Cao Đắc Thắng, di chuyển chậm chạp từng điểm một, từng tấc một, rất chi tỷ mẩn, vô cùng thận trọng, không sót một tí nào. Cao Đắc Thắng cảm thấy thần thái của nàng như đang kiểm tra tật bệnh cho bệnh nhân. Chàng đoán rằng đó là thói quen nghề nghiệp trước đây của nàng để lại.
Cuối cùng, tay nàng dừng lại bên cạnh đoạn xương sống ở thắt lưng, ngẩng đầu nói:
- Lưng anh chắc nịch. Em mê lắm!
Sau một trận mây mưa, người đàn bà tỏ ra khoan khoái như cá gặp nước, nói:
- Anh thật tuyệt vời! Còn tuyệt vời hơn em tưởng tượng nhiều!
- Đây còn chưa phải là trạng thái tuyệt nhất của anh đâu! Không tin hãy thử lại lần nữa xem! - Cao Đắc Thắng đắc ý, nói.
- Không được! Hãy nghỉ một lát đã! Anh muốn uống chút gì không? - Nàng nói.
- Tùy em ! - Chàng đáp.
Lát sau, từ ngoài cửa, nàng bưng vào hai ly nước cam, hai người cầm cốc trên tay, lặng lẽ uống. Bỗng nhiên Cao Đắc Thắng cảm thấy có cái gì không bình thường. Đầu tiên óc choáng váng, trời đất quay cuồng, sau đó bèn bất tỉnh nhân sự ngã gục trên sàn nhà.
Người đàn bà cười lên một nụ cười quỉ quái, vẻ mặt thần bí ranh ma…
Khi tỉnh lại, Cao Đắc Thắng vội vàng kiểm tra xem mình có mất cái gì không. Song, những thứ quý giá đều còn cả! Chàng khó nhọc cố nhổm lên.
Bỗng nhiên cảm thấy một trận đau điếng khó mà chịu được từ lưng truyền lên. Cao Đắc Thắng vội lấy tay sờ ra sau lưng. Đến lúc ấy chàng mới cảm giác thấy trên cơ thể có nhiều vết thương, mà hình như đã được khâu chỉ. Trái tim của Cao Đắc Thắng bỗng tựa hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, suýt nữa chàng kinh hoàng thét lên.
Mấy giờ sau, Cao Đắc Thắng đã có mặt ở trong phòng hội chẩn của bệnh viện. Sau khi đã tiến hành kiểm tra xong cơ thể chàng, bác sĩ cơ hồ vô cùng kinh ngạc:
- Thiếu một quả thận! - Bác sĩ nói.
- Một quả thận? - Cao Đắc Thắng tối tăm mặt mũi, toàn thân suýt đổ gục
xuống đất.
- Ngành cảnh sát nói rằng hiện ở ta đang có một tổ chức tội phạm chủ yếu đánh cắp các bộ phận trong cơ thể con người. Sau đó chúng bán cho những bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép thể tạng. Cảnh sát đang ra lệnh truy nã một thủ phạm trong số bọn chúng. Đó là một nữ bác sĩ ngoại khoa, có biệt hiệu là "nữ sát thủ", tuổi khoảng trên ba mươi. Nghe nói, ả rất xinh đẹp, khéo léo mồi chài đàn ông...
Nghe bác sĩ nói vậy, Cao Đắc Thắng im lặng không nói được một lời nào.
Bác sĩ ngắm nhìn chàng, an ủi.
- Thật ra, anh cũng không nên quá đau buồn. Ít nhất trong cơ thể anh vẫn còn lại một quả thận nữa. Nếu lúc đầu cái mà ả nhắm vào không phải là quả thận, mà là quả tim của anh, thì kết cục sẽ không còn cảnh tượng như thế này nữa.
- Thưa bác sĩ, bác sĩ có thể nói cho tôi biết, một quả thận giá bao nhiêu tiền không?
- Tám mươi vạn nhân dân tệ!
Cao Đắc Thắng bỗng đờ đẫn, đổ oặt người xuống ghế.
st.
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Aug/2012 lúc 4:41pm
Biển Hồ Lai Láng
Một lần tìm được cái thiên thu...
Lần đầu tiên cầm tập thơ và thấy hàng chữ "Ví mà tôi đổi thời gian được. Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười" của ông Trần Trung Đạo, tôi nhủ thầm: Chà! cái ông này đúng là nhà thơ, văn chương bóng bẩy gì đâu. Đồng ý thì ai không thích được nhìn thấy mẹ cười? Tôi cũng vậy. Nhưng làm gì mà phải đổi cả thiên thu cơ chứ. Mẹ ở đó khi nào vui thì mẹ cười, khi nào giận mẹ la ráng chịu. Việc gì mà ông phải đem cả thiên thu để đổi lấy tiếng mẹ cười?
Nhưng đó là hai mươi năm về trước, mạ tôi vẫn còn trẻ và khoẻ lắm. Vài ngày một lần mạ xách giỏ đi bộ ra chợ. Vừa đi và về khoảng một tiếng, như không. Đồ ăn mạ nấu để sẵn trong tủ lạnh. Cháu nội cháu ngoại gởi cho mạ trông, chiều đón về thỉnh thỏang lại thêm cái cà mèn đựng thức ăn…
Vậy đó, anh em chúng tôi đón nhận tình thương của mạ, mặc nhiên như chim sẽ bay, và cá sẽ lội. Khi vui mạ cười, khi buồn thì… thôi.
Nhưng rồi năm tháng qua. Chim bay có lúc mỏi cánh, cá lội sẽ có ngày vương câu. Và mạ tôi rồi cũng có lúc vắng tiếng cười.
Tôi lại nhớ tới lời thơ năm nào của ông Trần Trung Đạo. Bây giờ nếu được, tôi xin góp thêm với ông rằng: nếu bỗng nhiên được ba điều ước, điều trước tiên xin nghe tiếng mạ cười.
Bởi vì mạ đã vắng tiếng cười từ lâu lắm rồi. Mạ tôi bệnh nằm trên giường cả mấy tháng nay, im lặng và mỏi mệt. Mỗi ngày mạ chỉ nói chút ít khi nào cảm thấy thiệt khoẻ và nhớ lại một câu chuyện cũ nào đó, mạ sẽ kể cho bất cứ đứa con nào đang ở bên cạnh. Mạ nói mà đôi mắt xa xăm như đang trở về sống lại với quảng đời xa xưa nào đó. Tôi thường ngồi nghe mạ kể và cảm thấy rằng mạ như cái máy chiếu phim cũ, nhớ cái gì, tới đâu, thì phát ra cái đó, để rồi lại quên ngay…
Mạ nói thì có, nhưng cười thì không. Hình như bệnh tật và già yếu đã làm tan biến tất cả sinh khí và niềm vui nào của mạ đủ để tạo một nụ cười.
Vậy mà một lần tôi đã làm được cho mạ cười.
Vô tình tôi đổi được cái thiên thu
Trong mấy chị em, tôi là thằng chịu giỡn mặt vói mạ nhiều nhứt. Tuy trên tôi có mấy bà chị, nhưng tôi hay ỷ mình là con trai trưởng được mạ cưng và …nể, nên tôi hay nói giỡn ba trợn với mạ cho mạ vui. Mạ tôi bệnh yếu nằm đó thôi chứ vấn đề tiền bạc vẫn rất sáng suốt. Trong nhà, tôi là người có nhiệm vụ quản lý tài sản “nổi” của mạ trong nhà bank. Mỗi tháng cái check tiền già đưọc chia ra : tiền nào cúng chùa, tiền giúp trẻ mồ côi, người già neo đơn ở VN…mạ đều nhớ hết. Một lần, tôi mới ra nhà bank lấy tiền về cho mạ, thấy mạ có vẻ khoẻ, tôi lại giỡn
- Mạ giàu quá à. Con thì dạo này nghèo lắm. Mạ cho con một trăm sài chơi.
Mạ hỏi
- Chơ tiền mi đi làm bỏ mô mà phải xin?
Tôi nói
- Tiền đi làm vợ nó giữ hết mạ ơi.
-Rứa à? Bộ "hắn" không cho mi đồng mô để tiêu à?
-Không! "hắn" giữ hết trơn - Tôi nói giọng chắc chắn
Tôi thấy mạ nhìn thằng con với ánh mắt thương cảm, rồi sau đó mạ bỗng trở giọng bực bội
-Xí , cái đồ sợ vợ.
Lâu lắm rồi tôi mới thấy mạ khoẻ và có hứng nói chuyện lâu như vậy nên cũng vui lây
-Mạ ơi, con mà không sợ vợ mới là lạ đó. Mạ coi, giòng họ nhà mình từ trên xuống dưới có ai mà không sợ vợ?
Tôi thấy mạ suy nghĩ. Dĩ nhiên rồi, vì những lời tôi mới nói cũng không xa sự thực là mấy. Được một chút, mắt mạ sáng lên nói
- Có. Có đưá không sợ vợ.
- Ai? Tôi ngạc nhiên
- Thằng Lộc. Thằng Lộc hắn không sợ vợ.
“Hahaha !” Tôi ôm bụng bật cười nghiêng ngữa. Cười thiệt. Tưởng ai, té ra thằng em tôi! Tôi còn lạ gì nó chứ? Không biết vì thấy tôi cười say sưa quá, hay là mạ cũng mới chợt nhận ra thằng con kia của mạ dù sao cũng đâu thể ra ngoài khuôn khổ của gia đình? Tôi thấy mạ há miệng to muốn cười theo tôi mà không thể phát ra tiếng. Nhưng ánh mắt của mạ đã nói lên tất cả. Mạ nhìn tôi, ánh mắt rực niềm vui tươi. Đã lâu rồi anh em tôi chưa thấy được ánh mắt này.
Em gái tôi đang ngồi gần đó cũng la lên
- A mạ cười. Mạ cười đó.
Tôi phải quay đi.
Ô hay, bởi vì bỗng nhiên tôi muốn khóc.
Nếu một lần trong đời tôi được cái cảm giác mừng đến phát khóc thì đó là giây phút này. Cái thiên thu mà ông Trần Trung Đạo sẵn sàng đem ra đánh đổi đó, là đây.
Biển hồ lai láng...
Mạ tôi đã yếu lắm rồi. Những việc vệ sinh tiêu hóa phải dùng tã cho mạ, và phải thay luôn luôn vì mạ rất sạch sẽ. Những việc này tôi không phải lo vì mạ có đến 6 cô con gái. Tuy ai cũng phải công việc sinh nhai, chồng con bận bịu, nhưng đã chia phiên túc trực, khi nào cũng có một đứa bên cạnh để lo cho mạ.
Một ngày kia tôi đi làm về sớm ghé qua nhà gặp lúc em gái tôi đang loay hoay thay tã cho mạ. Thông thường thì chỉ cần mạ hợp tác tự mình nghiêng bên này một chút, co cái chân một chút…thì một người cũng có thể làm được. Hôm đó mạ bỗng yếu quá không thể tự mình làm những động tác trên khiến cho em tôi xoay tới xoay lui mãi vẫn không thay được. Thấy tôi tới nó mừng rở kêu tôi vào phụ.
Mạ tuy yếu nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo. Thấy tôi vào mạ lắc đầu không chịu nói tôi ra ngoài. Mạ quen có con gái làm vệ sinh cho mạ, bây giờ có thằng con, mạ không quen. Anh em tôi phải nói một hồi, cuối cùng mạ chịu cho tôi phụ.
Đúng ra em tôi chỉ muốn tôi giúp nó đỡ mạ nghiêng qua nghiêng lại chút xíu cho nó làm việc dễ dàng vậy thôi, nhưng tôi nói nó đổi cho tôi tự tay thay tả cho mạ, còn nó lãnh phần đỡ phụ. Bỗng nhiên tôi muốn tự tay mình thay tả cho mạ. Trực giác cho tôi biết rằng đây có lẽ là cơ hội cuối cùng tôi làm được việc này. Tôi cắn răng ráng không để cho nước mắt trào ra. Tôi muốn nói với mạ tôi lúc đó rằng: mạ ơi, ngày xưa mạ thay cho con biết bao nhiêu cái tã, để cho đến hôm nay, khi mà tháng ngày còn lại của mạ chắc là không còn được bao nhiêu nữa, và khi mà trên đầu thằng con của mạ tóc cũng đã muối tiêu hai màu, mới thay lại cho mạ được một cái tã.
Người ta nói cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày. Tôi không cần tính cũng biết rằng cả đời tôi chỉ được một lần này thay cho mạ tôi được một cái tã.
Những chiếc áo
Em tôi dọn lại căn phòng của mạ. Vừa dọn vừa sụt sùi. Tôi biết mạ có nhiều đồ lắm, nhưng không ngờ mạ có nhiều quần áo và ví xách như vậy. Mấy cô con gái của mạ mỗi lần đi shopping sắm sửa cho mình hay cho con, thấy cái gì hay- hay, tiện tay mua về cho mạ, dù biết rằng mạ nhiều khi chỉ để đó, có sài bao giờ đâu? Thỉnh thoảng mạ lại lấy đồ con gái này tặng, cho lại con gái kia. Mấy cô biết vậy mà …vẫn mua. Một hai cô thì chưa chắc đã nhiều, nhưng đến sáu cô cùng sắm bao nhiêu năm nay thì cả một cái closet phòng mạ chật cứng những quần áo, giày dép, xách tay,…là cái chắc. Rất nhiều món còn nguyên trong gói. Nhiều cái áo thiệt đẹp mà tôi biết mạ chưa bao giờ mặc, hay những đôi hài còn nguyên trong hộp.
Gom lại khoảng 6, 7 gói lớn tôi chở quần áo của mạ, cả cũ lẫn mới, tới bỏ ở một trạm Recycle quần áo của city. City để những cái thùng lớn gôm quần áo cũ lại. Họ sẽ chọn lựa và cho về kho recycle để tái tạo thành sản phẩm khác. Tiền thu được từ những thùng recycle này, city ghi rõ là sẽ được dùng trong những phúc lợi của thành phố như góp quỷ giúp bữa ăn cho những người homeless vô gia cư chẳng hạn.
Cầm cái áo cũ của mạ trước khi bỏ vào trong thùng. Cái mùi hăng hắc quen thuộc của mạ ập vào mũi làm tôi muốn chảy nước mắt. Cái mùi dầu Gió, dầu Cù Là này là biểu tượng của mạ những tháng ngày nằm trên giường bệnh. Mỗi một cái áo trên tay, tôi đều chần chừ không nỡ bỏ vào bởi vì có những cái áo quen thuộc mạ vẫn hay mặc. Tôi cầm chiếc áo, ngửi mùi dầu quen thuôc mà có cảm tưởng như mạ tôi đang ở đâu đây. Như mạ đang ở trong cái áo ...tôi nỡ nào quăng vào trong cái thùng này?
Mười năm trước đây sau khi ba tôi mất, tôi vào bệnh viện nhận lại bộ quần áo và một số đồ tùy thân của ba tôi mặc ngày nhập viện. Tôi nhớ đã ngồi im ôm bộ quần áo cuối cùng của ba tôi trong lòng và cũng ngửi thấy cái mùi này. Cái mùi của người bệnh, mùi dầu, mùì thuốc… và tôi biết thế là hết. Ba đã ra đi vĩnh viễn.
Cái cảm giác của sự chia ly sinh tử đó hôm nay lại trở về với tôi. Nặng nề hơn nhiều. Ngày đó tôi mất ba nhưng vẫn còn mạ. Bây giờ thì mất cả mạ, đâu còn ai. Mỗi một cái áo bỏ vào trong thùng như một lời vĩnh biệt, bởi vì tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thâý nó nữa.
Tôi đã bỏ gần hết quần áo của mạ vào thùng Recycle. Còn lại cái cuối cùng. Một cái áo dài rất đẹp, và quen thuộc. Tôi biết chắc chắn mạ tôi rất thích và từng mặc cái áo dài này nhiều lần trong những dịp quan trọng. Không biết chừng mạ đã từng mặc trong một vài lễ cưới hay hỏi nào đó của con cái.
Tay kia của tôi đã giở nắp thùng lên nhưng bỗng ngừng lại. Hay là mình giữ lại cái áo này của mạ làm kỷ niệm? Có nên không? Tôi tần ngần suy nghĩ một hồi, rồi không hiểu sao quyết định bỏ nốt vào bên trong.
Quay xe đi, tôi ngoảnh đầu nhìn lại cái thùng recycle và chợt nghe lòng quặn đau. Tôi chỉ bỏ lại đó những quần áo cũ của mạ thôi, mà sao có cảm tưởng như đang lái xe đi để lại mạ tôi trong đó
Chiều Chủ Nhật. Nắng đã tắt hết rồi. Đèn đường ngoài kia bắt đầu lên. Cả khu đất trống trải chỉ có cái thùng recycle này nằm trơ trọi. Tôi cho xe chạy quanh cái thùng một vòng để chào mạ. Rồi một vòng nữa, một vòng nữa… không biết là mấy vòng . Tôi không muốn rời. Không nỡ rời. Tôi không bỏ được ý tưỏng mạ tôi đang ở trong đó. Tôi còn ở đây, vẫn đang trong cái không gian thoang thoảng mùi dầu Gíó, mùi Cù Là này, thì tôi vẫn thấy còn một sự liên lạc nào đó với mạ. Nếu tôi đi khỏi nơi đây, là hết.
Đến khi có một chiêc xe khác đang đổ đến. Tôi cuối cùng đành phải cho xe đi.
Vĩnh biệt Mạ.
ThaiNC
------------- Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
|
Print Page | Close Window
Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info
|
| |