Print Page | Close Window

ĐaLatSươngMù.hoadudeVườnThơVăn

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2593
Ngày in: 02/Jul/2024 lúc 5:49pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: ĐaLatSươngMù.hoadudeVườnThơVăn
Người gởi: mykieu
Chủ đề: ĐaLatSươngMù.hoadudeVườnThơVăn
Ngày gởi: 23/Jun/2010 lúc 6:03pm
 
 
Xin trân trọng giới thiệu thành viên 539 : hoadude , một Thụ Nhân Văn Khoa của VĐH DaLat .
Đến hôm nay hoadude mới chính thức là thành viên, nhưng từ lâu Chị đã vào trang web đọc ... ké , mặc dù không phải dân Xứ Gò . 
Trong khi chờ đợi hoadude làm quen cách post bài và hình lên DĐ , Chị có nhờ mykieu gửi đến Gò Công Forum bài viết mới nhất , xem như quà "chào sân" ! Smile
 
Chị hoadude ơi, tiếp theo còn phải ... "chào bàn" , "chào bạn" nữa đó nhe , 
đừng run rồi chạy mất, em không biết làm sao ...'bắt đền' cho Đồng Hương GoCong ! Wink
 
mk
 
 
 
Bụi mưa trên tóc
(hoadude)

Tuesday, June 22, 2010 3:55 AM
From:
This sender is DomainKeys verified
"Hoang Nhu Y" …
mailto:btx@yahoo.com - >
View contact details
To:
mailto:bm@yahoo.com - TM thân,
Gửi M đoạn trao đổi email sau đây. Phần trả lời tiếp theo , NY dành cho TM đó. Bất ngờ không? " Hữu duyên thiên lý …"
Xin lỗi TM nghe, NY đã gửi Email và số ĐT của TM rồi.
Chúc vui
Thân
HNY

-----------------------------------------------------
[/coloFrom: "H N Y" ………… mailto:btx@yahoo.com - >
To: …………………@yahoo.com>
Sent: Wed, June 2, 2010 1:43:39 AM
Subject: Thu hoi tham
Anh N… kinh men.
Rat ngai khi gui thu nay den anh. Bat chot len mang thay ten va dia chi cua anh tren trang
http://www.chs............us/cuuhocsinh.html - Không biêt co phai truoc day anh hoc Dai hoc Luat o Saigon va da tung len du trai hop mat Sinh Vien toan quoc o Dalat nam 1972 khong? Boi vi ten cua anh nghe rat quen.. Neu khong phai thi xin loi vi da lam phien anh.
Kinh chao anh va mong anh thong cam.
HNY

-------------------------------------------------------------
From: …………..@yahoo.com>
To: "H N Y" ……… btx @yahoo.com>
Sent: Wed, June 16, 2010 4:57:43 AM
Subject: Re: Thu hoi tham
HNY ,
Rat dung va chinh la N . Xin cho so dien thoai va se noi chuyen nhieu hon.
N… roi Saigon va vuot bien nam 1986 . Hien song tai San Jose-California.
Rat mong cho hoi am .

N…

________________________________________

From: "H N Y" …… mailto:btx@yahoo.com - >
To: …………………………..@yahoo.com>
Sent: Sat, June 19, 2010 7:03:59 AM
Subject: Re: Thu hoi tham
Anh N…thân mến,
NY là bạn rất thân của TM . Ngày xưa, thường nghe TM nhắc đến anh . NY cũng dự định nếu đúng là anh thì mới báo tin cho TM biết.
Hiên TM vẫn còn ở Đà Lạt.

HNY


-------------------------------------------------------

-From…………… @yahoo.com
To: : "H N Y" ………… btx @yahoo.com>
Sent: Sat, June 19, 2010 11:25:09 PM
Subject: Re: Thu hoi tham
HNY,
Rat vui khi N… biet tin nay.Xin cho so dien thoai cua NY va TM de tam su nhieu hon boi vi N…khong biet viet tieng Viet trong Email.
Cam on NY nhieu lam da bac nhip cau lien lac.

Thân,
N.


-------------------------------------------------------------

Đoạn trao đổi Email giữa NY và N khiến tôi bâng khuâng tự hỏi: “Đây có phải là người độc nhất, ít nhiều vương vấn với tôi mà suốt 37 năm xa cách nay mới tìm lại được hay không? “


Hè 1972 , Đà Lạt có những cái bất chợt, không ngờ.
Bất chợt nắng, rồi lại bất chợt mưa. Mưa li ti, cứ mơ mơ như chưa kịp giăng tơ..

Hội Trại Sinh Viên Liên Viện các trường Đại Học Toàn Quốc đã được tổ chức ở xứ sở cao nguyên lắm sương mù trong một không gian êm và thơ như thế!

Từ sáng sớm, Ban Đại Diện chúng tôi tập trung tại Viện chuẩn bị chu đáo để đón tiếp và hướng dẫn sinh viên Liên Viên đến thăm Ngôi Trường Yêu Dấu của mình . Đó vừa là niềm vui, vừa là niềm hãnh diện của những người con đối với ngôi trường Mẹ . Viện Đại Học Đà Lạt thật là một cảnh quan yêu kiều , duyên dáng , chẳng khác gì một bông hồng hàm tiếu xinh tươi ,e ấp giữa ngàn thông xanh vời vợi.



Hình%20ảnh

Viện Đại Học Đà Lạt


Đoàn sinh viên được phân thành từng nhóm đi dọc theo những con đường nhỏ rợp bóng cây xanh từ nhà Đôn Hóa (văn phòng Viện),sang Tòa Viện Trưởng Hòa Lạc qua các giảng đường Tri Nhất , Hội Hữu đến Thư Viện rồi lại vòng về cây Cầu Đỏ bắc qua một dòng suối nhỏ chỉ cốt để khuôn viên giảng đường Minh Thành tăng thêm phần duyên dáng.Từ đó dẫn xuống một con đường quanh co, uốn khúc nhưng lại rất mềm mại, nên thơ trải đầy xác lá khuynh diệp cả sắc hồng phai lẫn màu vàng úa ,rồi ngược lên giảng đường Spellman mát lạnh ẩn mình sau những hàng cây ,và tiếp tục loanh quanh với Thụ Nhân, Thượng Chí . Sau cùng từ giảng đường Hội Hữu vòng lên khu đồi cao ,đẹp, biệt lập, tĩnh lặng là nhà Nguyện - Năng Tĩnh thành kính, trang nghiêm.

Tôi đi cùng N, Trưởng Đoàn sinh viên Trường Luật . Thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại đâu đó nói chuyện bâng quơ nên đã lạc mất nhóm của mình. Cuối cùng , đành phải đứng tựa vào hành lang giảng đường Hội Hữu lặng lẽ đắm chìm vào khung cảnh Đà Lạt trong thời khắc chuyển mùa .

Bầu trời ẩm đục, mưa chỉ lâm tâm như những hạt bụi bay bay phất phơ theo gió, mưa nhẹ như sương, vương trên mái tóc.Hạt bụi mưa êm dịu mơ hồ, không đủ để ướt áo ai và chắc hẳn cũng không đủ để thấm cái lạnh vào tâm hồn những người cô lẻ . Một vài tia nắng yếu ớt bắt đầu xuất hiện , nhưng chưa xuyên qua được màn mưa mỏng, bụi mưa biến thành những hạt vàng li ti óng ánh lơ lửng trên những ngọn cây . Bụi vàng chưa kết được thành tơ cứ thênh thang, lãng đãng, mơ màng bung tỏa khắp không gian..

- TM ơi! Đà Lạt đẹp quá !

Tôi giật mình quay lại vì cách gọi thân mật của người bạn mới quen, chưa kịp có phản ứng gì thì N mỉm cười , nói:

-Khỏi giới thiệu tên nữa nghe! Mình là sinh viên Luật Sài Gòn năm thứ 3, còn TM?

Khi ấy, tôi mới có dịp quan sát N - Người bạn trẻ này dáng cao, hơi gầy , chững chạc, có vẻ điềm đạm và tự tin ,rồi mới vui vẻ trả lời:
-M hiện dạy Việt Văn tại Trường Trung Học Đức Trọng ( Tùng Nghĩa) , đang học chứng chỉ Triết học Đông Phương.

- TM à !Chiều nay có thể đưa mình đi một vòng cho biết Đà Lạt được không?

- N muốn đi đâu?

-Một vòng Sân Cù, một rạp ciné, một quán café

Tôi đang ngẫm nghĩ thì vừa lúc ấy, đoàn sinh viên đã từ các con đường nhỏ ùa ra tiến về phía cổng Viện, vội vã lên xe về lại khu vực trại ( Trường Grand Lycée ) để dùng cơm trưa ở đó.

Tôi định về thì N giữ lại:
-TM về trại ,ở lại dùng cơm trưa với mình nghe!



Hình%20ảnh


Trường Grand Lycée


Sau bữa cơm trưa, sân trường trở nên vắng vẻ .Cơn mưa bụi vẫn chưa tan. Những tia nắng vàng yếu ớt không biết đã tắt lịm tự bao giờ. Trời dìu dịu , mơ màng như sương khói. Tôi và N lững thững vòng qua Bờ Hồ, lên Đồi Cù, mưa bụi li ti không làm ướt đất chỉ phủ trên thảm cỏ vàng úa một làn nước mỏng loang loáng . Những hạt bụi mưa li ti ấy tuy không làm người ta ngây ngất như khi ngắm nhìn những giọt sương long lanh ẩn hiện thấp thoáng trong ánh nắng mai , nhưng lại khiến ta ngại ngần khi thấy dấu chân mình lưu trên thảm cỏ .

Đồi Cù chiều nay thật im ắng ? Không thấy trẻ con thả diều, cũng không thấy cả những đôi lứa tay trong tay đi dạo trên những triền đồi vắng. Tôi và N đứng tựa vào thân cây thông lặng ngắm những hàng thông sẫm màu ,và xa xa là ngọn Langbiang hung vĩ in trên nền tròi xám bạc. Gió lay lắt mang theo cái se lạnh.và cả cái âm thanh thật mơ hồ, phảng phất .

Bên kia đồi, Viện Đại Học Đà Lạt nhạt nhòa trong không gian ẩm đục.cứ như được bọc quanh bởi vô vàn sợi tơ trời mong manh hư ảo. Hình như cái không gian ẩm ướt , nằng nặng khiến thời gian ngưng đọng lại . Không biêt buổi chiều thấm trong mây bạc hay mây bạc tung tơ giăng mắc làm trời chiều sớm nhuốm sắc hoàng hôn?



Hình%20ảnh


Đồi Cù


Chiều sắp muộn. Rời Đồi Cù , tôi và N đi một vòng quanh khu Hòa Bình rồi băng qua đường ngang tiệm bánh mì Winh Chan ,ngược lên rạp Ngọc Lan. Rạp nhỏ , lịch sự, không phải những ngày cuối tuần nên vắng khách , người xem thưa thớt . rất nhiều hàng ghế trống. Không cần người dẫn chỗ, chúng tôi dễ dàng tìm cho mình chỗ ngồi ưng ý. N hình như không quan tâm đến nội dung cuốn phim được chiếu mà chỉ muốn được thoải mái tựa lưng vào nệm ghế êm ái , mềm mại tận hưởng cái dịu dàng, ấm cúng của một buổi chiều âm u nơi xứ lạnh. Bên ngoài có lẽ đang mưa, tôi nghe văng vẳng xa xôi có âm thanh mơ hồ như nhịp nước rơi trong ảo ảnh.?

Ra khỏi rạp, trời đã tối, phố đã lên đèn, ánh đèn vàng vọt lòe nhòe rọi xuống mặt đường còn loáng nước, bầu trời mênh mông thăm thẳm , những ngôi sao đêm mải đi đâu mà vẫn chưa thấy trở về?Đà Lạt êm êm , trầm lặng đến nao lòng. Rồi cũng đến lúc chia tay

-Tối rồi, mình về thôi! N trở lại trại còn phải làm việc với Đoàn nữa. Còn M cũng phải về chuẩn bị ngày mai xuống trường dạy học.

-Thường TM ra bến xe lúc mấy giờ?

-Khoảng 5g45 , M có mặt tại bến xe Tùng Nghĩa , đón xe sớm vì phải dạy giờ đầu.

- Bây giờ để mình đưa TM về.

Tôi từ chối vì ngại đường xa, thêm nữa N đâu đã quen đường như người Đà Lạt .
- M về một mình cũng được. N đưa M về rồi trở lại rất bất tiện. Trường Grand Lycée xa lắm! Sợ N đi lạc, không biết đường về.

Dùng dằng mãi, rồi tôi cũng đành phải để N đưa vè. Tôi chọn đường tắt để đi cho gần. Chúng tôi đi dọc đường Hàm Nghi , vòng lên chùa Linh Sơn , rẽ xuống Mai Hoa Thôn , thẳng tới cuối đường Thông Thiên Học là đến nhà tôi.

-N về Sài Gòn vui, mọi sự tốt đẹp.

-Rất mong có dịp gặp lại nhau. Khi nào TM về Sài Gòn nhớ báo tin cho mình biết..

-Thôi, N về trại đi, trễ lắm rồi .. . Tạm biệt nghe!

Chúng tôi chia tay nhau, tôi cảm thấy ái ngại khi N một mình trở về trên đoạn đường vừa vắng, vừa xa.

Sáng hôm sau, khoảng 9 giờ , từ trong lớp học nhìn ra , tôi thấy đoàn xe đi qua trường, thấy cả N đứng ở cửa xe nhìn vào ngôi trường nhỏ của tôi cho đến khi đoàn xe khuất dần rồi mất hút ,lòng chợt thấy bâng khuâng. . .

Thời gian sau đó , qua thư từ, chúng tôi thường xuyên liên lạc với nhau .Có thể đó là một tình bạn đẹp.

Nhân dịp về Sài Gòn thăm em trai đang học tại Quân Trường Thủ Đức tôi tìm gặp N - Người bạn trẻ dễ mến như lời đã hứa . N rủ tôi ghé qua trường Luật để biết nơi học của N . Không khí nơi đây nhộn nhịp , ồn ào khác hẳn với Đại học Đà Lạt luôn được vây bọc trong khung cảnh êm đềm lãng mạn.

Ra khỏi giảng đường, N nói ;
-Trời Sài Gòn hôm nay rất đẹp, không nắng cũng không mưa, mát dịu hơi giống trời Đà Lạt.! Mình đưa TM đến một nơi khá dễ thương uống nước, nghe nhạc.

Tôi quên tên con đường và cả tên của quán café đó , nhưng vẫn nhớ không gian của nó : Xung quanh có cây, yên tĩnh, giản dị, lịch sự, khoảng cách giữa các bàn khá xa nên mỗi bàn vẫn giữ được cho mình sự riêng tư.cần thiết.

Rời quán café, chúng tôi chầm chậm đi bên nhau dưới những hàng cây. Sài Gòn dìu dịu , man mát ,không mưa, lá cây vẫn xanh ngăn ngắt in trên nền mây xám. Tôi bỗng chợt nhận ra hình như Sài Gòn khác Đà Lạt ở cái nét riêng ấy: Không mưa., mây xám, dìu dịu, man mát nhưng Sai gòn vẫn không thể có được cái không gian ẩm đục, nằng nặng để níu giữ bước thời gian.; không có những hạt bụi mưa li ti thoảng vương trên mái tóc để lòng người dễ có những phút giây chùng xuống, mơ mộng, bâng khuâng . Và nếu ở vào những thời khắc ấy Đà lạt hình như chỉ còn một thời gian độc nhất với một sắc màu độc nhất : Hoàng hôn.



Hình%20ảnh


Con đường rợp bóng hàng cây



Rồi những năm tháng sau đó , biết bao nhiêu lớp sóng của cuộc đời cứ cuồn cuộn , xô đẩy dồn dập, chúng tôi mất hẳn liên lạc với nhau . Kỷ niệm nên thơ, ấm áp ở Đà Lạt và dịu dàng, ngọt ngào ở Sài gòn dù mỗi nơi đều chỉ được gói trọn trong một ngày ngắn ngủi , trong một không gian êm nhẹ lấm tấm bụi mưa mang mỗi một sắc màu xám bạc và trong một khoảnh khắc thời gian nhuốm bóng hoàng hôn mãi mãi vẫn là những kỷ niệm đẹp và có thể sẽ đi theo với chúng tôi cho đến hết cuộc đời .

Tình cảm ấy cũng chỉ như những hạt bụi mưa li ti , óng ánh, mong manh trong những tia nắng vàng le lói , cũng chỉ như những vì sao xa xôi, lấm tấm sáng khi dõi mắt nhìn lên bầu trời mênh mông thăm thẳm .Tất cả cũng rất mơ hồ khiến ta một phút giây nào đó tạm quên đi hiện thực để đắm chìm vào ảo ảnh , để thả hồn theo một giấc mơ cổ tích hoang đường. ..

Đà Lạt , 22 tháng 06 năm 2010
hoadude



-------------
mk



Trả lời:
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 23/Jun/2010 lúc 7:30pm
 
 hoadude
 
"Tình cảm ấy cũng chỉ như những hạt bụi mưa li ti , óng ánh, mong manh trong những tia nắng vàng le lói , cũng chỉ như những vì sao xa xôi, lấm tấm sáng khi dõi mắt nhìn lên bầu trời mênh mông thăm thẳm .Tất cả cũng rất mơ hồ khiến ta một phút giây nào đó tạm quên đi hiện thực để đắm chìm vào ảo ảnh , để thả hồn theo một giấc mơ cổ tích hoang đường. .."
Người dẫu xa, nhưng bầu trời chỉ một.
Cảm ơn hoadude, mong được đọc tiếp những gởi gấm của hoadude trên trang nhà Gò Công.


-------------
kb


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 24/Jun/2010 lúc 7:09pm
 
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ hoadude

 
 ....................
 
Viện Đại Học Đà Lạt thật là một cảnh quan yêu kiều , duyên dáng ,
chẳng khác gì một bông hồng hàm tiếu xinh tươi ,
e ấp giữa ngàn thông xanh vời vợi.


Hình%20ảnh

Viện Đại Học Đà Lạt

.................

Đà Lạt , 22 tháng 06 năm 2010
hoadude

 
 
 
hoadude ơi,
nhìn hình ảnh VDH này, bao kỹ niệm xa xưa sống lại trong em . Một thời thật đẹp của tuổi học trò .
Bên trái là con đường chính dẫn từ cổng Viện đến giảng đường (gđ)Spellman .
Thời đó em ở nội trú trong Viện (nữ học xá Kiêm Ái), hàng ngày em đều đi  con đường này , qua gđ Spellman, rẻ phải đến gđ Thụ Nhân , khoa CTKD học tại gđ Thụ Nhân và gđ Dị An , nằm cuối Viện.
 
Mỗi độ Xuân về hàng Hoa Anh Đào bên đường rực rỡ màu hồng thắm. Em thích chậm bước dười hàng Anh Đào , thật chậm... thật chậm...từng bước để thưởng thức khung cảnh thần tiên này.
hoadude có nhớ căn nhà trong hình? Hòa Lạc : nhà của Cha Viện Trưởng , mùa mưa hoa ngọc lan trổ bông, sau buổi cơm chiều, em thường lang thang một mình trong sân Viện , nếu mùa ngọc lan có hoa, em 'canh' lúc Cha đi ăn cơm , lẻn vào sân vườn nhà Cha ... hái trộm, mang về phòng chưng trong ly nước, cả phòng thơm ngát hương ngọc lan. Đã thế, còn bày đặt ép cánh hoa vào trang vở  . Giờ nghĩ lại ... buồn cười làm sao !
Khuất sau nhà Cha Viện Trưởng ( trong hình) là cây cầu gỗ , lan can luôn sơn đỏ , được sinh viên đặt tên : Cầu Đỏ, Hồng Kiều , Chiếc Cầu Tình Yêu....
Hồng Kiều chỉ làm cảnh, bắt qua con mương nhỏ , SV tụi mình cũng lại thi vị hóa đặt tên "Dòng Sông Hò Hẹn". Em vẫn nhớ 12 'nhịp cầu' là 12 miếng gỗ ghép lại , em luôn cẩn thân ( bao giờ cũng thế ), đếm đủ 12 bước chân trên 12 'nhịp cầu' ngày hai buổi đi-về  .
Có lẽ hoadude ít qua Cầu Đỏ ? em vì nội trú trong nữ học xá Kiêm Ái , lộ trình đến lớp : từ Kiêm Ái,  qua Hồng Kiếu, vòng con đường Hoa Đào , đến giảng đường Thụ Nhân .

Năm 1989 , lần đầu tiên em trở về trường , kể từ tháng tư 1975 , thật buồn, hàng Hoa Anh Đào đã bị đốn bỏ ; cảnh quang sân trường tiêu điều , dấu thời gian phảng phất trên từng cành cây ngọn cỏ , các giảng đường mờ lớp rêu phong !

 

Một chút bâng khuâng nhớ về ‘khung trời đại học', mk xin gửi đến hoadude và cả nhà hình ảnh chiếc Cẩu Đỏ , chụp năm 1989  .

 
 
   
 
 
   click%20to%20zoom
 
  
Cầu Đỏ
(1989)


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jun/2010 lúc 10:40pm
 
 
 
Trong khi chờ đợi hoadude trang điểm dung nhan,
mk xin trang điểm...'vườn-thơ-văn' này thêm hoa lá cành , mong mang đến cho khách thưởng ngoạn những phút giây lắng đọng , tạm quên bao ưu phiền thường nhật ( ít hoặc nhiều ), vốn dĩ tiềm ẩn đeo mang như hình với bóng kể từ ... 'sác na đầu tiên' làm Kiếp-Người .
 
Để nhớ về những đóa hoa ngọc lan... hái trộm ngày nào , mk mời hoadude và diễn đàn thưởng thức lại nhạc phẩm nổi tiếng  của Dương Thiệu Tước : Ngọc Lan .
 
mk
 
 
NGỌC LAN
 
Tác giả : Dương Thiệu Tước
Trính bày : Thái Thanh 
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3lo1Gjy9h - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3lo1Gjy9h -
 
 
Trình bày : Trần Thu Hà
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=YrHzOKyv4v - http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=YrHzOKyv4v
 
 
 
........
Dương Thiệu Tước để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm trang nhã của loại bán cổ điển, như “Áng Mây Chiều”, “Buồn Xa Vắng”, “Mơ Tiên”, “Bến Xuân Xanh” hay “Thuyền Mơ”... Bài nào cũng là viên ngọc quý trong kho tàng nhạc Việt. Riêng một bài thì rõ là một đóa hoa quý: “Ngọc Lan”
......
 
Những người không hiểu lời, ngoại quốc chẳng hạn, hoặc nếu chỉ nghe phần nhạc có hòa âm công phu, thì vẫn cảm nhận được nét đẹp lả lướt mà không lả lơi, phóng khoáng mà không phóng túng và nhất là giai điệu rất trang trọng, quý phái. Trước vẻ đẹp của hoa, người nghệ sĩ chỉ có thể trầm trồ như vậy !
Viết trên cung Mi giáng Trưởng, dìu dặt khoan thai theo tiết điệu “ba bốn” của một bài luân vũ chậm, ca khúc Ngọc Lan có ba nhạc đề.
Phần đầu tha thiết dịu dàng mở ra như một đóa hoa ngọc lan mới nở và phả ra hương thơm ngoài hiên nắng. Từ cánh hoa trắng muốt như bạch ngọc, nhạc sĩ chuyển qua phần hai, ngợi ca cả thanh lẫn sắc. Hóa ra hoa chỉ là người. Mà phải là người rất đẹp. Qua đến nhạc đề thứ ba, tác giả chuyển từ cung Mi giáng Trưởng sang Si giáng Trưởng rồi qua Sol thứ trước khi trở lại Si giáng Trưởng để chuyển về nhạc đề đầu tiên. Nhạc đề này diễn tả sự hôn mê rung động của người ngắm hoa. Tác giả khiến ta nghĩ rằng trước vẻ đẹp tinh khiết của hoa, người nghệ sĩ phải lùi lại, ngậm ngùi nhìn nét đẹp như hương thơm, cứ thoảng dần trong gió và để lại nơi đây, trong cõi đời này, biết bao thương nhớ.
Nhạc thuật gợi lên nào thanh, nào sắc nào hương và nỗi tình si của người không dám sỗ sàng bước tới, mà chỉ chìm dần trong làn hương thắm do đóa hoa vương lại.
........
 
Ông viết nhạc đã hay mà dùng chữ rất tài cho một hậu thế lại coi thường chữ nghĩa và nỗi dụng công của ông. Khi viết “ngón tơ mềm, chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng”, ông dồn hết thi họa và nhạc vào một câu làm người ứa lệ trước cái đẹp. “Mạch tương lai láng” là một điển cố nói về giọt lệ. Nhưng đời sau lại hát ra “mạch tương lai sáng”. Dẫu có buồn thì cũng chưa đáng khóc bằng “mạch tuôn” hay “mạch tuông lai láng”!
Dễ hiểu hơn đấy, nhưng khiến tác giả không hiểu gì nữa... Thương cho một đóa ngọc lan .
 
 
(Trích : Dương Thiệu Tước và... Ngọc Lan
Tác giả Quỳnh Giao)
 
 

Vài điển tích trong

bài nhạc Ngọc Lan

của Nhạc sĩ

Dương Thiệu Tước

 

(Sóng Việt Đàm Giang)

 

 

Lời mở đầu.


Sau khi bài viết Mối Tình Học Trò của tác giả Nam Minh Bách nói về nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và nguyên do sự ra đời của bản nhạc Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước thì có một số thư trên các diễn đàn bàn về ý nghĩa lời bản nhạc. Mục đích của bài viết ngắn này không bàn về lý do hay nội dung tuyệt diệu của bài nhạc mà chỉ bàn về ý nghĩa và xuất xứ  của một vài điển tích mà Nhạc sĩ Duơng Thiệu Tước đã nhắc đến trong bài.

 

Ngọc Lan


Ngọc Lan, dòng suối tơ vương, 
mắt thu hồ dịu ánh vàng 
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, 
tà mây cánh phong, nắng thơm ngoài song 
Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu 
Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu 
Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng (1)
Dáng tiên nga, giấc mơ nghê thường lỡ làng 
Ngọc Lan, trầm ngát thu hương, 
bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương 
Bông hoa đời ngàn xưa tới nay 
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây 
Cho tơ trùng đàn hờ phím loan (2)
Thê lương mây nước, sắt se cung đàn 
Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong sương thắm 
Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa Ngọc Lan (3)
Mờ mờ trong mây khói, men nồng u ấp, 
duyên hững hờ dần dần vương theo gió 
Tơ lòng dâng bao cùng thương nhớ...

 
Xin đuợc bàn về điển tích ba chữ mạch tương, phím loan  phút khuê ly

 

1-Mạch tương


Mạch tương, nước mắt.

Đây là một điển cổ, xuất phát từ truyện hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn. Tục truyền rằng vua Thuấn tuần thú phương Nam, bị mất ở đất Thương Ngô, là một quận của tỉnh Quảng Tây về sau. Hai bà vợ là hai chị em ruột cùng khóc chồng đến chảy máu mắt trên bến Tiêu Tương. Người đời sau có lập đền thờ hai bà tại Đông Tương và kể rằng giọt lệ hai bà rỏ trên bờ trúc ven sông làm trúc nổi vân thật đẹp. Từ đó về sau, trúc mọc trên bờ Tiêu Tương nổi tiếng có vân quý và nước mắt đàn bà mới gọi là mạch tương.

 

Truyện Kiều có câu:

"Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dàu mạch tương".

(Câu 237, 238. Kiều sau giấc mơ thấy Đạm Tiên)

 

Là danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong hội họa và thi ca Trung Hoa, Tiêu Tương thực ra là khúc hai con sông Tiêu và Tương hợp nhất, thuộc tỉnh Hồ Nam. Sông Tương phát nguồn từ Dương hải sơn ở tỉnh Quảng Tây, chảy ngược lên Hồ Nam qua huyện Trường Sa và rót vào Động Đình Hồ. Vì trúc Tiêu Tương có vân đẹp nên thợ khéo tỉnh Hồ Nam hay đến sông này mua về làm mành. Và cũng vì xuất xứ bi thảm của sông Tương, chữ mành tương là chỉ tấm màn cách trở tình yêu, và sông Tương chỉ sự chia ly, nhung nhớ. 

Mành tương phơn phớt gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình."

(Câu 255, 256. Kim Trọng tương tư Kiều)


Sông Tương còn là điển tích từ mối tình buồn giữa Lương Ý Nương và người anh con cô con cậu là Lý Sinh, thời nhà Chu, đời Ngũ Quý. Mối tình vụng trộm của họ bị phát giác và ngăn cản, Ý Nương bị nhà đẩy xuống phía Nam sông Tương, Lý Sinh ở mạn Bắc. Lương Ý Nương hớp từng hụm nước sông mà nhớ đến người tình trên đầu nguồn, và làm bài thơ nói về sông Tương dù sâu cũng còn có đáy chứ nỗi nhớ nhung của nàng thì bất tận.

 

"Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để Tương giang bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn.
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang  
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy"


(Người bảo sông Tương sâu
Chưa bằng lòng mong nhớ
Sông sâu còn có đáy

Lòng nhớ lại không bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương
).


Cũng như trong câu 365-366 của Kiều, Nguyễn Du đã viết:

 

"Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia."

(Câu 365, 366. Tâm trạng Kim, Kiều)

 

2- Phím loan.

 

Ngoài câu

Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan,

 

trong Kiều (câu 723-726) có câu:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em

Ý nghĩa của chữ  phím loan

Trên internet có nhiều văn bản giải thích như sau:

 

Chữ loan trong phím loan xuất xừ từ chim loan mà ra.

 

Loan trong phím loan bắt nguồi từ chữ loan giao = Keo chế từ máu chim loan, tương truyền nối được dây cung đứt.

Theo Bác Vật Chí : Thời Hán Vũ đế, nước Tây Hải có người đem dâng 5 lạng cao. Vua cho đem cất vào kho, còn thừa nửa lạng sứ thần nước Tây Hải mang theo người. Sứ thần theo Vũ đế đi săn bắn ở cung Cam Tuyền. Dây cung vua đứt, các quan định thay, sứ thần Tây Hải xin lấy keo loan nối lại. Nối xong, vua sai lực sĩ kéo mỗi người một đầu dây nhưng vẫn không việc gì. Sứ thần Tây Hải nói cung có thể bắn suốt ngày mà dây không đứt. Vua lấy làm lạ lắm, nhân đó đặt tên là "Tục huyền giao" (Keo nối dây cung).

 

            "Keo loan" do chữ "loan giao" là một thứ keo chế bằng máu chim loan (phượng máu).

            Sách "Hán Võ ngoại truyện" có chép: đời nhà Hán, triều Hán Võ Ðế (140- 87 trước C.N.), dây cung đem ra căng bắn thường bị đứt. Bấy giờ miền Tây Hải có đem sang cống một thứ keo chế bằng máu chim loan gọi là loan giao, có tác dụng nối chắc dây lại. Nhờ đó mà bắn được suốt ngày. Võ Ðế mừng lắm, đặt tên thứ keo đó là "Tục huyền giao" tức là keo nối dây cung.

 

            "Hán thư" cũng có chép chuyện.

            Vua Võ Ðế truyền phu nhân Câu Pha đánh đàn. Nàng vặn trục so dây, tiếng đàn trỗi lên lảnh lót... Nhưng giữa chừng dây bỗng đứt. Nàng khóc, nói:
- Giữa lúc đàn đương ngon tiếng mà dây đứt ắt điềm gở
    Nhà vua an ủi:
- Dây đứt nhưng có thể nối lại được, có gì mà gở.

            Ðoạn sai người lấy keo loan chắp lại.

 

Lời bàn: Nếu keo loan hay cao chim loan là cao do nấu với xương cốt của chim loan mà thành (chứ không phải máu loan) thì có lẽ có ý nghĩa hơn là máu chim loan, vì nếu ai có dịp sờ chất cao thì thấy luôn luôn có chất dính làm dính tay (Sóng Việt).

 

Cao là gì? Cao là chất liệu cô đặc của xương cốt thí du như cao ban long,cao hổ cốt.

Cách nấu cao: Nấu cao tức là nấu vật liệu sau khi tẩy khử những tạp chất (như thịt, mỡ, tuỷ bám vào xương) bằng lửa cao vừa phải trong nhiều thời gian để tinh túy tan ra, mức nước sôi cạn thì phải canh chừng châm vào. Nấu cao bằng vạc hay chảo đụng lớn. Nước cốt được múc ra thành nhiều đợt, từ đậm rồi lạt từ từ  để cuối cùng cô những mẫu nước cốt  lại thành cao đặc .  Đợt Nước cốt này được múc ra thì lại được châm nước sôi mới vào làm đợt khác. Giai đoạn cô cao phải canh chừng lửa vừa phải kẻo bị cháy nồi hỏng toàn mẻ cao. Ngày xưa, không có đồng hồ thì phải đốt nhang mà tính thời gian.  Đại khái thì nấu cao hổ cốt, ban long, qui bản là như vậy. Ngày xưa, không có giấy bóng, người ta dùng lá chuối khô để gói sau khi cắt miếng rồi cân lượng, ghi nhãn bằng một vuông giấy hồng điều. (theo tài liệu trên internet)

Về thành phần hoá chất, những khảo sát thực nghiệm về cao hổ cốt cho biết cao hổ cốt chứa các chất sau: collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonate, magnesium phosphate, kalium carbonate - nhưng collagen là hoạt chất chính. Gelatin của  Hổ cốt chứa 17 amino-acid. (theo tài liệu trên internet)

Vậy chất keo loan hay cao loan có lẽ chế bằng xương cốt mà không phải là máu chim loan (?) và đặc tính dính của keo loan do collagen mà thành (chính người viết ngày còn nhỏ rất nhỏ đã nhìn những miếng cao mầu nâu đậm xắt hình chữ nhật của bà nội).

Trong Chinh Phụ Ngâm bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm có câu

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
 (câu 207)

Sợ làm đứt dây uyên ương (dây uyên kinh đứt) vì có thể báo hiệu điều không may của tình cảm đôi lứa; sợ cây đàn chùng dây (phím loan ngại chùng) gợi lên điều không may mắn của lứa đôi đang xa nhau.

 

Sự tích keo loan là như thế.

 

3- Khuê ly

 

Hai chữ khuê ly đuợc nhắc đến trong Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

Chinh phụ ngâm (征婦吟, khúc ngâm của người chinh phụ), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm thơ của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và đuợc bà Đoàn Thị Điểm dịch ra cùng thời  về sau có thêm người dịch ra thơ Nôm.

 

         
      (
câu 291)

Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan

(Chinh Phụ Ngâm/Đặng Trần Côn )

 

Khuê ly trong câu 252/412 trong bản chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm

Khuê ly mới biết tân toan dường này.

Trong câu này chính bà Đoàn Thị Điểm cũng vẫn dùng chữ Hán nôm: Có chia lìa ngang trái thì mới biết đau xót cay dắng đến mực nào.

 

 

 Khuê: ngang trái

 Ly: lìa tan chia rẽ

 Tân: cay đắng nhọc nhằn

 Toan: đau xót, mủi lòng

 

Nhớ phút khuê ly: nhớ phút chia lìa ngang trái.

 

Kết luận.

 

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tài cao, kiến thức rộng, sự phong phú tư tưởng cùng dùng nhiều điển tích trong bài nhạc Ngọc Lan làm người viết những hàng chữ này đã nghĩ phải chăng ông thấu triệt điển tích và mang vào bài nhạc do am tường văn chương chữ Hán mà không nhất thiết dựa theo điển tích đã dùng trong những tác phẩm trước đó ? Và độc giả do quen thuộc với những tác phẩm văn học như truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm nên đã có ngay một sự liên tưởng không tránh được?

 

Sóng Việt Đàm Giang

05 June 2010

 



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jun/2010 lúc 11:03pm
 
 

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

Saturday, 26. July 2008, 14:45:49

Dương Thiệu Tước sinh ngày: 15-05-1915 tại Bắc Việt, mất ngày: 01-08-1995 tại Sài Gòn.

Quê quán: Làng Vân Đình, Huyện Sơn Lãng, Phủ Ứng Hòa, Tỉnh Hà Đông.
 
 
"Kìa vừng trăng sáng
Chiếu in trên hồ
Dưới làn trăng nước
Sóng lan nhấp nhô "

 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Jul/2010 lúc 6:40pm
 
 
Vài hình ảnh về Hồ Xuân Hương- DaLat hiện nay .
HXH đang được nạo vét lại , kế hoạch cuối năm nay hoàn tất.
mk
 
 
Nhà Hàng Thanh Thủy, một buổi sáng sương mù.
 
 
 
 
 
Thủy Tạ, sáng sớm.
 
 
 
 
 
Hình chụp cách đây khoảng 2 tháng, nay ở khu vực này đã nạo vét xong
  
 
 
 
 
Đang xây lại đập va cầu Ông Đạo.
Hình chụp cách đây 2 hôm.
 
 
 
 
 
Nguồn : BaoBuon-K9
(DaLat 7-7-2010)






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Jul/2010 lúc 10:54pm
 
Hình ảnh Thành Phố DaLat và VĐH DaLat trong bài viết sao mà ... cay mắt quá !
mk
 
 
 

November 11, 2008

Đà lạt ngày về

(Nguyễn Thị Lan Anh)

Từ trung tuần tháng 10, biết tin về buổi lễ kỷ niệm 50 năm thành lập trường (1958-2008) trên trang web của trường Đại học Đà Lạt, các cựu sinh viên đang sống ở Sài Gòn đã rủ nhau về thăm trường. Hầu hết đều trên 60 xuân xanh, con cái dâu rể đầy nhà, làm ăn khấm khá, và quan trọng nhất là quả tim, vẫn tràn đầy xúc cảm như thuở hai mươi. Kẻ viết bài chứng kiến cảnh các cụ gọi phone, thậm chí gõ cửa nhà nhau đe dọa, chửi bới hệt lý trưởng thúc phu thời phong kiến ‘thằng này, tiên sư mày, không đi ông đốt nhà’, hay gõ email cho chiến hữu ở Mỹ, Canada, Úc dụ dỗ ‘về đi chúng mày, gần chết rồi, về một lần đi. Gặp hết đấy!’ mà bồi hồi, kinh ngạc. Không ngờ bao nhiêu dâu bể, tưởng chừng ký ức đã tro than, mà chỉ một thông báo vắn tắt trên net (báo đài trong nước không thấy đưa tin này), tro than lại bùng lên thành lửa ngọn.
‘Chánh giỗ’ là ngày 27 tháng 10 (lấy theo ngày 27 tháng 10 năm 1976, ngày trường Đại học Đà Lạt chính thức được thành lập, trên cơ sở sẵn có của Viện Đại học Đà Lạt) nhưng từ vài hôm trước đó, phố phường Đà Lạt đã xuất hiện những gương mặt không mấy già nua mệt mỏi. Không hẳn là du khách, vì không thấy họ mua sắm, ăn uống, sục sạo kiểu du khách. Cũng không hẳn là người địa phương, vì họ luôn miệng hỏi đường, hỏi giá và chụp ảnh quay phim, đi thành nhóm, tụ tập ở cà phê Tùng, nhà Thủy tạ. Kẻ viết bài tiếp cận vài vị, biết chính xác là phe ta về ‘dự giỗ’ bèn bám theo….
 
Về trường xưa

 
Cảnh tóc bạc năm 1958 kề tóc xanh 2008 trước cửa trường Đại Học Đà Lạt ngày nay (xưa là viện Đại Học Đà Lạt).
Photo Nguyễn thị Lan Anh/Việt Tribune
 
Từ sáng ngày 26 tháng 10, sinh viên toàn trường được nghỉ học để tham gia hoạt động lễ hội. Trong khuôn viên đại học rộng gần 40 ha, 17 khoa, khoa nào cũng được cắt đất phong vương ngang nhau. Trên phần đất phong, mọc lên cổng chào đủ kiểu, lều bạt san sát. Sinh viên có hai ngày một đêm đốt lửa trại, vui chơi tập thể. Các ‘cụ sinh viên’ đi thám thính về bắn tin cho nhau qua mobil phone ‘tối 26 trường có gala, lên chơi’. Nhìn trời mưa lất phất, khí hậu ẩm, nhiều cụ ngại, không đi, hẹn ‘mai lên quậy sau, lo gì!’. Cái gọi là ‘mai lên quậy’ của đoàn cựu sinh viên khóa 1, khóa 2 khoa Chính trị Kinh doanh té ra chẳng có gì. Xe ca đổ họ xuống cổng trường. Các bà áo dài, đeo trang sức thanh nhã. Các ông tóc ria hoa râm, máy ảnh lủng lẳng, áo blouson phong phanh…ước chừng vài chục vị. Thấy hai hàng nữ sinh viên mặc áo dài đứng dàn chào nghiêm chỉnh, mặt ai cũng nở bừng một nụ cười đại đóa. Chừng thấy cả công an, xe cảnh sát xuất hiện, các vị tái mặt thất kinh. Kẻ viết bài phải giải thích đó là nghi lễ đón tiếp và bảo vệ xe các khách quốc tế và quan chức lớn sắp đến dự lễ, không phải dành cho (hay nhắm vào) các vị. Nghĩa là...? Nghĩa là buổi lễ kỷ niệm 50 năm thành lập trường sẽ diễn ra ở hội trường thư viện công nghệ thông tin (mới xây sau này), nằm tít khu vực dưới kia, các vị không phải khách mời, không được vào. Chỉ được đi lòng vòng bên ngoài, thăm thư viện, giảng đường Spellman, Minh Thành, Cư Dị, nhà nguyện có ngôi sao chót vót bên trên, những con đường viền anh đào, liễu đỏ, trạng nguyên, khuynh diệp… nhìn ra hồ nước và những vườn rau xa xa….
Nghe vậy, mặt các bà các chị bớt tươi, nhưng vẫn nói cứng ‘để xem, vào văn phòng trường thể nào cũng có bộ phận đón tiếp. Chí ít cũng có bản danh sách sinh viên các khoa từ năm 1958 tới 1975. Ai khoa nào, học năm nào sẽ dò tìm, ký tên nhận kỷ yếu, huy hiệu. Rồi tình nguyện viên, hướng dẫn viên đưa đi chỗ này chỗ nọ...’. Nhưng buồn thay, ngoài tấm biểu ngữ chào mừng chẳng còn gì khác. Những bước chân trở về khựng lại. Đoàn cựu sinh viên đành chấp nhận kịch bản ‘ngày về, ta với bóng mình, là hai’. Chia hai ngả, một thẳng xuống phía giảng đường Spellman, một lên trên, qua Thư viện, giảng đường Minh Thành, Hội Hữu… máy ảnh thi nhau chớp sáng liên tục. Chỗ này vang lên tiếng cười sảng khoái, chỗ kia bùi ngùi hai từ ‘hồi đó...’
 
Bậc thang dẫn xuống chợ Đà Lạt.
Photo Nguyễn thị Lan Anh/Việt Tribune.
 
 
Đi gần các bô lão hóng chuyện, kẻ viết bài mới biết Viện Đại học Đà Lạt được hình thành từ năm 1958, với 5 khoa Sư phạm, Văn khoa, Khoa học, Thần Học, Chính trị Kinh doanh. Đình đám nhất là khoa Chính trị Kinh doanh, học giỏi nhất là khoa Sư phạm. Trải dài trên những cụm đồi phía bắc hồ Xuân Hương, cơ ngơi của Viện Đại học Đà Lạt bạt ngàn hoa hồng, cẩm tú cầu, cúc trắng, xác pháo, phong lữ thảo, dã quỳ.... Sinh viên lúc đó nhiều anh trông rất chững chạc, mặc com lê, hút píp, ngồi đọc sách tiếng Pháp trong thư viện. Ban đêm thức học bài, đói bụng. Từ ký túc xá ra khu Hòa Bình kiếm cháo phở thì quá xa, làm biếng, bèn rủ nhau đột kích chuồng nuôi bồ câu của cha Viện trưởng, bắt mấy con nấu cháo… “Hồi toa học là cha Lập hay cha Lý?” “Cha Lập!” “Bọn moa cũng thế. Nhớ cha Lập, người Huế, mặt hết sức phúc hậu. Tầm hai mươi cuối tháng, sinh viên Sư phạm thằng nào cũng hết tiền học bổng, đói meo. Một lần đánh liều tới văn phòng cha Lập gõ cửa. Vô! Chữ ‘vô’đó Cha nói tiếng Huế nghe như ‘vổ’. Mới đẩy cửa vào, Cha đã hỏi ngay, chi đó con? Dạ.....xin cha cho con… mượn tiền. Cha Lập cười hiền, đếm tiền. Moa hí húi ký tên, cầm tiền rồi chào cha đi ra. Tới phiên thằng khác tiến vào, rồi thằng khác nữa. Thằng nào cũng gãi đầu, lễ phép lí nhí mượn tiền cha, y hệt nhau. Vậy nhưng ra trường, thằng thì dân biểu, thằng viết văn làm báo, thằng đi dạy. Thằng nào cũng sôi nổi, ngon lành, có khí phách. Thế hệ tụi mình hồi đó là vậy, không giống thế hệ bây giờ...”
Cái gọi là ‘thế hệ bây giờ’ của trường Đại học Đà Lạt (không gọi là Viện Đại học như trước) chỉ tính riêng niên khóa 2008- 2009 đã là con số khá lớn – 26,500 sinh viên, theo học 52 ngành học thuộc khoa học tự nhiên, công nghệ, xã hội nhân văn, kinh tế học. Ngồi trong các lều bạt đẹp mắt, tò mò nhìn các cụ ông cụ bà chụp hình, chỉ trỏ, nhìn ngó khắp nơi, một sinh viên khóa 32 khoa Nông Lâm hỏi kẻ viết bài, mấy người đó là ai vậy cô? Đành phải kể rằng…rằng…. Các em trố mắt, ồ lên kinh ngạc khi biết đó là các đàn anh đàn chị thời ‘khai thiên lập địa’ của trường, vội ào ra hỏi chuyện, mời mọc rủ rê các ‘sinh viên già’. Một màn đại đoàn viên chớp nhoáng. Nhiều ngượng ngập, nhưng khá cảm động. Kẻ viết bài phát lệnh ‘cười tươi lên’ trước khi nhận chụp giúp bức ảnh ghi lại cảnh tóc bạc năm 1958 kề tóc xanh năm 2008…
 
 
Đà Lạt phố nay
 
Rời Viện Đại học sau khi làm một vòng thăm lại trường lớp, nhiều người thẫn thờ, mỏi mệt. Ước mơ gặp gỡ hàn huyên với thầy bạn cũ, lập Hội ái hữu Cựu sinh viên Đà Lạt, hoàn toàn phá sản. Nhiều ông nóng nảy thề độc ‘một đi không trở lại’. Kẻ viết bài chỉ cười. Chưa thăm khu Hoà Bình, hồ Xuân Hương, cà phê Tùng, chợ Đà Lạt…chưa biết bể dâu kinh khủng, mà đã thề, e quá sớm!
Để độc giả có cái nhìn tổng quan về Đà Lạt, kẻ viết bài xin ‘múa rìu’ vài chi tiết. Rằng từ khi được khám phá bởi bác sĩ Yersin, tính tới nay, ‘cụ’ Đà Lạt đã thọ 115 tuổi. Hiện Đà Lạt là thành phố, trực thuộc tỉnh Lâm Đồng. Ngoài thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng (diện tích 9.772km2, lớn gần gấp năm diện tích Sài Gòn) còn thị xã Bảo Lộc và 10 huyện khác: Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm, Đạ Hoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Đam Rông.
Dân số toàn tỉnh hơn một triệu người, cư trú không đều khắp 145 đơn vị xã phường, thị trấn (trong đó hết 47 xã vùng sâu đặc biệt khó khăn), canh tác chè, cà phê trên 200,000 ha đất đỏ bazan Bảo Lộc, Di Linh, 23.000 ha rau, hoa các loại ở Đà Lạt và vùng ngoại vi. Dân số tuy đông nhưng thực sự gốc gác Đà lạt chỉ có người Lat và người Chill (hai tộc người K’Ho), còn tất cả đều từ nơi khác di cư đến, đông nhất là người Bắc, người Quảng và người Huế. Ai đến Đà Lạt cũng dễ có cảm giác gặp một ‘hợp chủng quốc’ thu nhỏ trong tiếng nói, món ăn, cách phục sức, trồng trọt, mua bán, xây dựng nhà cửa, cơ sở thờ tự... Chưa kể tới dấu ấn rất rõ của văn hóa Pháp trong cách qui hoạch thành phố, bố trí cảnh quan, kiến trúc nhà cửa (hiện Đà LaÏt còn 3000 biệt thự các loại do người Pháp xây dựng, hoặc chịu ảnh hưởng cách kiến trúc Pháp. Hầu hết đều xuống cấp, bị sử dụng sai công năng, thiết kế ban đầu, kể cả dinh Bảo Đại đang bán vé cho khách tham quan hàng ngày)....
Bài thuyết trình của kẻ viết bài nhanh chóng được minh họa khi xe ngang qua hồ Xuân Hương xanh lè, tanh tưởi vì tảo độc xâm chiếm hoàn toàn. Dừng ở khu Hoà Bình toàn quần áo xôn đổ bán vỉa hè, cả bọn thất thần. Một bà kêu lên Đà Lạt đây sao? Kỳ vậy trời! Đi theo cầu thang dẫn từ khu Hòa Bình xuống chợ Đà Lạt (còn gọi là chợ dưới), chứng kiến cảnh mua bán cực kỳ nhớp nhúa, hỗn độn khắp nơi, lan dài ra toàn bộ mặt tiền chợ và khu vực quanh chợ, đoàn cựu sinh viên quên cả kêu trời vì còn lo xắn quần tránh nước thải và rác rưởi. Các bà các chị đi ủng, gánh rau salade, dâu tươi, hồng tươi đánh hơi du khách, lập tức vây chặt, mời chào ‘salade bốn ngàn một ký, chanh tám ngàn, dâu mười ngàn, đậu hòa lan hai mươi lăm ngàn….’ Cả đoàn suýt soa kêu rẻ, tranh nhau mua, dù ‘chả biết cho ai, chả biết ăn làm sao hết bằng ấy’.
Các ông chán nản bấm nhau, rủ ‘lên Tùng đi!’. Với họ, quán cà phê này không chỉ là quán cà phê, mà còn là nhà bảo tàng. Với người này, là thời sinh viên sôi nổi. Người kia, một cuộc tình. Người nọ, là kỷ niệm với Phạm Công Thiện….Quán vẫn vậy, ghế bọc da nâu viền quanh tường. Vẫn nhạc Trịnh Công Sơn và Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An thoảng bay, vẫn đám đàn ông áo blouson mầu xanh úa, mầu nâu, nhả khói thuốc la đà, ngồi tư lự cô đơn hay chuyện trò nho nhỏ...Một cựu sinh viên chỉ tay lên tường, chỗ tranh Thái Lãng, Vị Ý đang treo, bảo ‘hồi xưa nó là tranh Đinh Cường’. Cô chủ quán đỡ lời ‘vẫn còn Đinh Cường, nhưng treo trên lầu’. Nhấp ngụm cà phê, ông ‘cựu’ nọ đặt vội xuống, rùng mình. Hỏi bằng mắt. Đáp cũng bằng mắt. Dịch là ‘Quá dở!’ Mười ngàn đồng, mua tách cà phê ‘dở nhất thế giới’, bồi thêm ly trà, cũng ‘thế giới dở không đâu bằng’.
Không biết có phải tại dư vị cay đắng của cà phê dỏm không mà câu chuyện trong quán của các ‘cựu’ đầy vẻ đắng cay. Một ông ức lòng vì ‘sao trong mười tờ giấy A4 giới thiệu trường của ông Hiệu trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Lê Bá Dũng, chỉ nửa trang sơ sài nhắc về giai đoạn 1958-1975. Tịnh không có lấy một tên người cụ thể, thành tích cụ thể, cá nhân thành đạt cụ thể. Toàn nhấn mạnh thành tích từ năm 1975 trở đi. Nào là 445 cán bộ thì hết 296 giáo viên, 80% đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Nào là ‘xuất xưởng’ gần 30,000 cử nhân cho Tây Nguyên và duyên hải miền Trung, đầu tư 20 tỷ đồng xây dựng thư viện mới, được tặng Huân chương Lao Động Hạng Nhất năm 2001…. Rõ ràng là phân biệt đối xử.
Ra khỏi quán cà phê, đồng hồ chỉ mười một giờ, ông L, một cựu sinh viên nổi tiếng thành đạt, rủ cả bọn đi ăn, nhưng nói địa chỉ, lái xe lắc đầu không biết. Lại một màn rút bản đồ, đeo kính dò tìm, và cáu kỉnh ‘Mẹ kiếp! mắc mớ gì đường nào cũng đổi tên. Duy Tân, Hàm Nghi, Minh Mạng… đã làm sao mà cứ phải đổi ra 3 tháng 2, Nguyễn văn Trỗi, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Chí Thanh….. Đ. hiểu nổi!’
Phía đối diện cà phê Tùng, một tòa nhà rêu phong, nhếch nhác với chiếc cửa tò vò trên mái như con mắt nhìn chòng chọc cả bọn. Kẻ viết bài nhột nhạt, nhắc ông L. khẽ miệng. Cho tới khi lên xe về lại Sài Gòn, chào những vạt hoa quỳ nở viền theo sân khấu cuộc đời, khép lại cánh màn nhung cũ kỹ, tiếng thở dài và lời thề một đi không trở lại mới đồng loạt bật ra trên môi ‘những đứa con bị từ chối’.
Nhưng vốn lạc quan, kẻ viết bài hy vọng chẳng lâu sau, lời thề độc địa kia sẽ thành gió bay đi, còn lại chăng chỉ là những sinh viên mãi mãi trẻ trung – xuất thân từ Viện Đại học Thụ Nhân cao quý, cho dù....
 
(NTLA)
 
(nguồn: HTT-TNIC )


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Jul/2010 lúc 5:34am
 
hoadude ơi,
Bài viết của một cựu nữ sinh Bùi Thị Xuân- Dalat : Ng.T. Lan Anh
Không biết hoadude có biết tác giả hay không?
mykieu xin gửi tặng Chị một chút kỹ niệm về ngôi trường thân yêu của hoadude ngày xưa !
mk
 
 
 
 
Cựu nữ sinh Bùi Thị Xuân Đà Lạt họp mặt

(Nguyễn Thị Lan Anh)

Đầu tháng 11, Đà Lạt mưa dầm, nhưng dã quỳ vẫn xanh tốt trên những triền đồi Đà Lạt. “Tin đồn” lan truyền từ Đà Lạt về Sài Gòn, sang cả Mỹ Quốc rằng năm nay trường Bùi Thị Xuân làm lớn – vừa khánh thành tượng đài nữ tướng Bùi Thị Xuân, vừa kỷ niệm 55 năm ngày thành lập trường, sẽ mời hết cựu giáo viên và cựu học sinh về họp mặt…khiến nhiều bà nhiều cô rạo rực. Soi gương, thấy dung nhan tàn tạ. Kiểm lại ba vòng cơ thể càng sầu. Vòng một “bình nguyên” thảm hại, vòng hai phì nhiêu mầu mỡ, vòng ba nhăn nheo hơn… đít khỉ. “Phe ta” than thở với nhau. Lòng vả cũng như lòng sung, rối bời, héo quắt.

Một chiến dịch làm đẹp được cấp tốc tiến hành. Trước hết là may áo dài xanh dương đậm và kiếm bằng được chiếc huy hiệu tròn màu xanh da trời có hình cành lan trắng – là đồng phục và huy hiệu truyền thống của trường Bùi Thị Xuân trước năm 1975. Rồi đi mua đi mượn nữ trang, giầy dép, ví đầm, đi nhuộm tóc, làm móng tay lọan xị khiến các ông chồng bất giác e dè. Ngày thuờng, dưới mắt các ông, vợ già là chiếc xe cũ, máy móc rệu rã, hư mục hết, chỉ mỗi cái còi là còn tốt!

 
Tung cánh chim tìm về tổ ấm

Từ sáng sớm Chủ nhật 18 tháng 11 (trước ngày Nhà Giáo Việt nam 20/11 hai hôm), con đường dẫn tới trường Bùi Thị Xuân đã xuất hiện nhiều tà áo dài lộng lẫy chen lẫn sắc áo xanh dương khiến dân ven đường bỡ ngỡ đổ ra nhìn. Chủ nhân của những tà áo dài nọ cũng bỡ ngỡ không kém. Đường Võ Tánh ngày nào um tùm hoa cỏ đẫm sương, mỗi sáng khua guốc e dè cùng bạn bè đi học, bây giờ đã san sát chợ búa, quán ăn, mini hotel, cà phê internet, nhận không ra.

Thầy trò “ngày xưa” chụp trước tượng đài nữ tướng Bùi Thị Xuân vừa khánh thành. LAN ANH

Trên đầu dốc, cổng trường Bùi Thị Xuân hiện lên quen thuộc. Hai hàng nữ sinh bưng khay hoa đứng trang trọng. Nếu khách là giáo viên cũ, các em sẽ gắn nơ đỏ và hoa đỏ lên ngực áo cho khách. Còn là cựu học sinh thì chỉ được gắn nơ đỏ. Nhiều người chìa ngực hứng hoa và nơ nhưng mắt và tai đảo liên hồi. Thoắt chốc, cổng trường đã vang lên những tiếng kêu thống thiết Chu cha ơi, trời đất thánh thần ơi, con quỷ Ngọc! đi đâu mất biệt từ đó tới giờ…Hoa 12A3 phải không, Khanh nè, Khanh Dốc Chùa nè. Hai con Mỹ Hải, Phi Yến này, “vợ chồng mày” về bao giờ, sao không điện rủ tụi tao…Rồi thì lao vào nhau hôn hít, nắm tay nắm chân, nhéo tai, đấm vai bình bịch.

Bọn hậu sinh tròn mắt nhìn các cụ bà U50, U60 kéo tay nhau chạy khắp nơi, miệng hoa chúm chím, mắt tít lại, kể oang oang hồi đó lớp tụi mình học sử địa với thầy Uyên đen thui, cao nghều, vào lớp hay ngâm thơ, thổi sáo, đánh đàn tranh. Còn “bố” Lập dạy tóan, người bệ vệ, hay cười, luôn mặc com lê, lái xe deux chevaux, thích sưu tập tem. Cô hiệu trưởng Lệ Minh, cô tổng giám thị Minh Tâm (còn gọi là cô Thắng, theo tên chồng ), cô giám thị Châu Bảo thì “hung thần ác sát” chính hiệu …Chợt một bóng người lướt qua, đài phát thanh miệng của chị em lập tức tắt ngóm. Những khuôn mặt tuy dồi phấn, thoa son nhưng không giấu được vẻ sợ hãi. Các chị lấm lét bấm nhau “Chết cha, nói nữa đi! Cô Thắng đó!”
Quả thực là cô Thắng. Nhưng không phải là cô Thắng “lãnh như băng” ngày xưa. Trước mắt chị em, cô Thắng hiện ra tươi vui trong chiếc áo dài nền nã, khoe eo co uốn lượn ác liệt như…đèo Bảo Lộc. Cô vui vẻ ôm quàng các học trò cũ, gọi là “con gái”. Hình như thời gian không chạm được vào mái tóc, vóc người và giọng Bắc êm nhẹ của cô. Ký tên vào cuốn đặc san cho học sinh, bút trong tay cô vẫn rắn rỏi như ngày nào ký tên vào những tờ giấy mời phụ huynh có con phạm kỷ luật.

Máy ảnh của kẻ viết bài chực họat động, bỗng cô Thắng vẫy tay gọi to “Bảo, Bảo, lại đây chụp chung!”. Nhìn theo tay cô…Trời ơi cô Châu Bảo! Nhớ ngày còn quyền sinh quyền sát cô Bảo nghiêm nghị số một. Đến nỗi có đứa mất dạy sau lưng cô dám sửa tên Châu Bảo thành…Chèo Bẻo. Vậy mà bây giờ cô hiền khô. Vẫn tóc uốn ngắn, áo dài hoa, áo khóac nhung duyên dáng.

Ở gần tượng đài Bùi thị Xuân, cô Thu Cúc dạy Văn dáng gầy, cô Quỳ dạy Hội họa với mái tóc ngắn, lúm đồng tiền trời cho, thầy Mậu Dũng dạy Toán, thầy Ngọ dạy Thể dục, thầy Tính dạy Pháp văn…đều lâm cảnh “thập diện mai phục”. Lạ một điều, không thầy cô nào khó chịu vì bị học sinh “làm tình làm tội”. Nào chụp hình, ký tên, trả lời phỏng vấn, nhắc chuyện xưa, đòi nợ chè đậu, “gia- ua”(có không ít nợ được bịa tại chỗ). Cá biệt có “bà học sinh” ỷ mình cháu nội cháu ngọai đầy đàn, làm gan đòi “cho em hôn thầy một cái. Hồi xưa ước hoài, giờ mới dám nói”. Báo hại thầy – cũng già cúp bình thiếc – đỏ mặt, nhìn quanh rồi xua tay “thôi thôi tôi xin chị, để kiếp sau”.

 
 
Lễ và hội

Cuộc hàn huyên ồn ào như bão cấp 12 của thầy trò cựu BTX chỉ miễn cưỡng tạm dừng vì nghi thức chào cờ, đọc diễn văn và cắt băng khánh thành pho tượng Đô Đốc Bùi Thị Xuân bằng đá hoa. Pho tượng này – do điêu khắc gia Phạm văn Hạng thực hiện – không hẳn là đẹp, chỉ đơn giản là dễ coi, được đặt trên một bệ cao. Từ cổng trường trông lên, tư thế ngồi trên con voi oai phong lẫm liệt, tay giơ cao thanh gươm báu của người nữ tướng Tây Sơn nổi tiếng trung dũng, từng làm bạt vía Nguyễn Ánh, đập vào mắt mọi thế hệ học sinh cũ mới, khơi dậy lòng tự hào được trưởng thành từ ngôi trường trung học lớn nhất thành phố Đà Lạt- ngôi trường mang danh Bùi Thị Xuân.

Thầy trò gặp nhau sau ba thập niên. LAN ANH

Hơn ba mươi năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Đà Lạt đã dần dần lột xác. Trường Bùi Thị Xuân cũng không còn nguyên vẹn nét xưa. Từ cơ ngơi ban đầu (vốn đã rất khang trang, bề thế) nay trường tiếp tục mở rộng qui mô xây dựng. Ba dãy lầu với 50 phòng học, phòng Francophone, 4 phòng cho chương trình dạy và học tiếng Pháp, 15 phòng bộ môn. Ngòai ra còn văn phòng, thêm nhà thể thao đa chức năng, sân vận động, thư viện, phòng truyền thống. Trong niên khóa 2007-2008 này, trường có 73 lớp – từ lớp 6 tới lớp 12, với 178 cán bộ, giáo viên, công nhân viên, và 3172 học sinh đang theo học…

Ngồi nghe người dẫn chương trình thao thao kể thành tích nhà trường, đám “giặc cái” vẫn công khai họp chợ tưng bừng (nhưng nói nho nhỏ). Chuyện cháu ngọai tao tháng này gả. Con Thanh Tùng không thèm lấy chồng, vô làng SOS Đà Lạt làm mẹ tụi con nít mồ côi gần 20 năm nay. Cô Phi Loan mới mất năm kia. Chợt vài chị bấm nhau thắc mắc “Coi, con voi bà Bùi Thị Xuân cỡi sao chỉ có một ngà, tụi bây? Người ta nói nhất voi một ngà nhì đàn bà một mắt. Thằng cha điêu khắc tạc voi một ngà, coi chừng nó dám xỏ dân BTX mình là đồ đui một mắt”.

Không khí buổi lễ ngoài sân trường lộng gió chợt sôi động hẳn lên vì màn múa cờ thiện nghệ của hàng trăm quân sĩ áo đỏ cờ đào trong tiếng trống thúc quân hùng tráng. Lớp lớp con Hồng cháu Lạc xuất hiện trong tráng ca Dòng máu Lạc Hồng sau đó. Tiếng vỗ tay vang dội. Thêm màn múa của chục em sơn nữ mặc xà rông lớp 9A9, đua tài cùng những chị lớp 11A5 xúng xính váy áo thời trang. Cử tọa ngồi coi ngây ngất, xúyt xoa rên rỉ vì y trang, đạo cụ đâu ra đó. Đẹp. Đều tăm tắp. Xem đàn em trình diễn, chị Hồng trưởng ban văn nghệ lớp 12 A1 khóa 65-72 bồi hồi nhớ kỷ niệm làm vở kịch thơ Người làm lịch sử. Hồi đó lớp chị cũng tập lên tập xuống cả tháng. Giận hờn nội bộ đến nỗi thầy Điểm thầy Cầu phải la một trận. Đêm trình diễn cả lớp yểm trợ, lo hóa trang kỹ từng chút cho Hằng vai Lê Lợi, Chi vai Nguyễn Trãi…

Chương trình văn nghệ bị xen ngang bằng họat động bán đấu giá 20 bức tranh thêu hoa của nghệ nhân Hữu Hạnh – chủ cơ sở tranh thêu nổi tiếng ở Đà Lạt, đồng thời là cựu học sinh BTX – gửi tặng nhà trường. Tiếng loa xướng giá và tiếng Mời cô Cẩm Quỳ lên nhận bức tranh thêu hoa quỳ của học sinh tốt nghiệp năm 75… Thưa cô Thu Cúc, bức hoa cúc vàng đã thuộc về cô, người tặng tốt nghiệp năm 73. Tập thể học sinh 12 xin tặng thầy Mậu Dũng bức Hoa Mai (Hoa Mai đồng thời là tên vợ thầy). Thầy Tính đâu ạ, xin mời thầy Tính. Lớp 12 do thầy chủ nhiệm muốn tặng bức hoa hồng cho thầy. La vie en rose đó thầy ơi…Còn thầy Trần Hữu Lục , xin hỏi thầy Lục…Cử tọa vỗ tay cầm nhịp khi các thầy cô lúng túng bước lên sàn đấu giá nhận tranh.

Lang thang ngoài sân trường với chiếc máy ảnh, kẻ viết bài bỗng đắt sô bất ngờ. Một chị đỏ hoe mắt đứng dưới gốc mimosa lác đác hoa vàng cùng những nam sinh học lớp bảy. Chị khoe, cây do chính lớp chị trồng năm 1975. Hai chị khác khẩn khoản nhờ chụp hoa quì vàng và hàng cây anh đào trụi lá phía sau lớp học. Lại chụp cả cầu thang trên lầu, cả cửa lớp cũ. Còn những phòng học mới toanh, văn phòng, sân trường, những nam sinh, những thầy cô sau 75 thì “không phải Bùi Thị Xuân nguyên chất. Không thuộc về thế giới của tụi mình. Không chụp”.

Ông xã của mấy chị cựu BTX (gọi là rể BTX) theo vợ lên dự lễ ké thì chê trường bây giờ xa lạ, vô duyên. “Hồi xưa trồng cây si các nàng, cánh sinh viên Triết tụi anh đứng ngoài cổng trường nhìn thuộc lòng sân chơi trải sỏi nhỏ với những hàng khuynh diệp viền sân. Nàng học trên lầu, dãy A. Song song với dãy A là dãy B. Hội trường và Văn phòng đặt giữa hai dãy lầu A và B. Bây giờ Văn phòng và Hội trường biến đâu mất. Pho tượng Bùi Thị Xuân trấn phía trước, khỏang sân rộng và lễ đài nằm phía sau. Vô hình trung, mọi lễ lạc trang nghiêm, hòanh tráng nhất đều diễn ra sau… đít voi . Kỳ cục!”

Bên hành lang phía trái, một nhóm sĩ quan kỳ cựu của binh chủng “phòng không” thuộc lứa U60, trốn dự lễ đang ngồi chụm đầu trên ghế đá, dò tìm tin tức thầy bạn trong cuốn đặc san do tập thể giáo viên – học sinh cũ mới của trường Bùi Thị Xuân thực hiện nhân kỷ niệm 55 năm thành lập trường (1952-2007). Trong đặc san có hơn trăm tên thầy cô cũ và tổng cộng mười sáu đời “chưởng môn. Vị đầu tiên là thầy Nguyễn Thúc Quýnh (1952) tới cô Trần Phương Thu (1975) và bây giờ là thầy Lê Ngọc Sử (2007). Tại vị lâu nhất là thầy Võ Thanh Hùng, mười năm (1992-2002) kế tới là cô Đinh Thị Lệ Minh, bảy năm (1963-1970). Trường đổi tên cả thẩy ba lần. Lúc đầu tên Phương Mai (tên con gái vua Bảo Đại). Năm 1955 đổi lại là Quang Trung. Chính thức từ năm 1957 mới mang tên Bùi Thị Xuân, giữ luôn tới nay…

Cũng từ bài viết in trong đặc san, bài Nữ tướng Bùi Thị Xuân – Cuộc đời sự nghiệp của Trần Thị Nghĩa (cựu nữ sinh tốt nghiệp khóa1973 kiêm cựu hiệu trưởng trường BTX, mới “mất chức” vài tháng nay để nhận chức ở trường khác), các chị tìm ra sự tích voi một ngà thú vị. Rằng con voi một ngà vốn là voi cũ của nữ Đô Đốc, bị lạc từ khi mặt trận Trấn Ninh tan vỡ. Lọt vào tay Nguyễn Ánh, voi chuyên được sử dụng để hành hình các tội nhân. Trớ trêu sao, hôm Bùi Thị Xuân ra pháp trường, chính con voi này được sai dùng vòi quấn lấy bà tung lên cao, quật xuống, dùng chân giày xéo cho chết. Nhưng nhận ra chủ cũ, con voi chỉ quì phục, rống lên thảm thiết. Rốt cuộc “bọn Nguyễn Ánh” đành phải thiêu chết Bùi Thị Xuân. Chuyện chị Nghĩa kể theo sử (chả biết sử nào!) khác hẳn với những gì cố đạo người Pháp De La Bissachère tường thuật khi trực tiếp dự lễ hành hình Bùi Thị Xuân. Nhưng có lẽ vì lịch sử thảm khốc, trần trụi quá, trong khi dã sử, dật sử lãng mạn, hào hùng hơn, hợp với lòng người hơn. Vì thế mới có chuyện con voi một ngà trung nghĩa và tư thế lẫm liệt khi lâm tử của nữ tướng họ Bùi được chọn để tạc tượng đặt trong trường, bất kể độ chênh khá lớn giữa chính sử và những chuyện kể dân gian.

Kẻ nào dám lấy câu “nhất voi một ngà, nhì đàn bà một mắt” để ám chỉ hậu duệ BTX mù dở là hết sức sai lầm. Vì chỉ tính từ năm1975 về trước, tuy chưa có thống kê đầy đủ nhưng ai cũng biết nữ công dân trưởng thành từ mái trường mang tên BTX, phần lớn đều công dung ngôn hạnh tươm tất. Chả thế mà cứ mỗi buổi tan học, cây si mọc trước trường lại dầy đặc như rừng. Mèng ra là các “si” thuộc Đại học Đà Lạt, Đại học Chiến tranh Chính trị hay Võ bị Đà Lạt. Cả các anh văn sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, tu sĩ, dịch giả, triết gia nổi tiếng trong làng văn nghệ Sài Gòn lúc bấy giờ – lắm anh vợ con đùm đề – cũng mộ tiếng hoa khôi BTX, sốt sắng tìm lên cổng trường cắm chốt. Còn “si còi” cỡ “mấy thằng” Trần Hưng Đạo hay Bồ Đề thì các công nương BTX chỉ xoa đầu kiểu người lớn xoa đầu trẻ con! Dọc đường Võ Tánh, Hàm Nghi, xuống Dốc Chùa, Phan Đình Phùng, ra tận khu Hòa Bình, toàn những cái đuôi bám dai dẳng theo nữ sinh BTX, đuôi nào cũng hát ông ổng “em tan trường về, anh theo Ngọ về” nghe phát sốt phát rét…

Một cụ ông chống nạng đứng xa xa nghe các chị tán chuyện. Từ sáng tới giờ, gặp ai ông cũng hỏi tin Tr. học 12C ra trường năm 72, 73 gì đó. Là thế nào với bác? Là người dưng. Sao phải tìm? Ông cụ cười lúng túng. Thì ra ba mươi năm trước ông từng mê Tr – xinh nhất khối 12. Cô nàng rất kiêu, chưa bao giờ ban cho ông một nụ cười, dù ông đã theo nàng mòn đường chết cỏ. Tr sau đó về Sài Gòn, có gia đình. Phần ông, mỗi khi đi qua trường BTX, lại xao xuyến âm thầm. Nghe “thám báo” tung tin người xưa có thể về thăm trường ngày18/11, ông hồi hộp chống nạng tìm lên, may ra …Câu chuyện ông cụ kể phảng phất phong vị buồn buồn của chợ tình Khâu Vai – một địa danh ở Hà Giang – nơi hàng năm, những người tình lỡ, dù có gia đình rồi, vẫn được một đêm tự do tâm sự.

Gần 12 giờ trưa, các nhóm bạn vẫn sôi nổi cười đùa, chụp ảnh, rút sổ tay ghi địa chỉ, đi vòng vòng sân trường, mặc cho ban tổ chức mấy lần phát loa mời dự tiệc liên hoan. Trước mắt chị em, hình như chỉ có những hình ảnh ngược thời gian là thực sự tồn tại. Họ hỏi nhau “Năm sau biết có còn thu xếp về được? Mà về thì có gặp đủ thầy cô và bạn bè như hôm nay?” Câu hỏi rơi vào hư không. Những bàn tay đang vân vê bông dã quỳ cũng khựng lại, rũ xuống.
Ghi vội cho các bạn trang web maitruongxua.com làm địa chỉ liên lạc, kẻ viết bài bước đi. Sau lưng là sân trường đầy ghế trống, với những hồi ức hoa niên, những mối tình dang dở, những số phận nát nhầu oan khuất, những đôi mắt đỏ hoe, những khóe môi chợt cười, chợt khóc.

Nghĩ cho cùng, sân trường Bùi thị Xuân và cuộc hội ngộ của những nữ sinh sau bao nhiêu năm xa cách, chẳng khác chi sân ga cuộc đời. Cũng có những đường tầu song song, hun hút, những bàn tay vẫy thoáng qua. Và cả những cột cây số, vừa chạy tới, vừa thụt lui giữa những lời không nói…."

 (Nguyễn Thị Lan Anh)

http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=1682 - http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=1682


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Jul/2010 lúc 5:42pm
 
Hôm nay hoadude đã trang điểm xong, dung dăng dung dẻ đến "Vườn Thơ Văn", eo ơi ! lại không thể... "mở cổng" !
Dễ lắm hoadude à, vảo Quê Hương Xứ Gò là chuyện dễ nhất... thế giới !Tongue vì quê nghèo của em luôn mến khách. Em sẽ nói cách vào trang web cho hoadude sau nhe .
 
 
 
Xin gửi đến cả nhà một bài viết của hoadude , mk nhận được qua email :
"mykieu ơi!
Sao chị không đưa bài lên Diễn Đàn Gò Công được.
Chị đưa bài
Nỗi tiếc thương " ...nụ tầm xuân nở ra xanh biếc"

 
 
 mk

http://d.yimg.com/jq/css/cs_3.7.2.css">


NỖI TIẾC THƯƠNG “… NỤ TẦM XUÂN NỞ RA XANH BIẾC”


Bài ca dao quen thuộc nói về một đề tài muôn thuở : Tình yêu. Có thể bài ca đã cả nghìn năm tuổi thế nhưng sao vẫn mãi tươi nguyên, vẫn xanh ròng sức sống, vẫn gợi nỗi bâng khuâng, thương cảm, nuối tiếc vẩn vơ trong lòng người đọc:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

-Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra…


Ca dao khi nói về tình yêu nam nữ thường là tình cảm, tâm trạng của những chàng trai, cô gái chưa bị ràng buộc bởi hôn nhân. Nhưng ở đây, với hình thức đối ca nam nữ,đặc biệt qua bốn câu đầu lại là tâm trạng, nỗi lòng của một chàng trai trước một người thiếu phụ đã có gia đình. Một cảnh ngộ trớ trêu, hiếm thấy trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

Trong bốn câu ấy, thì câu: “ Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” là được nhiều người bình phẩm nhất và đến nay các ý kiến vẫn chưa thống nhất.


Theo ông Nguyễn Xuân Lạc thì : “Âm điệu chủ đạo của bài ca là tiếng hát sầu hận, tiếc nuối, xót xa, cảm hoài về một cảnh ngộ trớ trêu, éo le ngoài ước nguyện vẫn gặp trong đời thường muôn thuở: yêu nhau chẳng lấy được nhau. Dù sao trong cuộc đối đáp lần này, cái nghĩa cho nhau của đôi bạn tình một thưở vẫn được hồi tưởng lại và cả hai vẫn cứ ngậm ngùi nuối tiếc nên bài ca vẫn chưa mất hẳn tính chất giao duyên. Nhưng còn cao hơn cả sự nuối tiếc tình yêu, bài ca là lời xót xa cho thân phận bất hạnh của cả hai người…

Nhưng vì sao lại “ trèo lên…bước xuống”? Vì sao lại đi tìm nụ tầm xuân trong vườn cà là nơi ít khi tầm xuân mọc? Vì sao hoa tầm xuân màu đào hay trắng nhạt, lại thấy ‘nở ra xanh biếc”? Tất cả đều không có trong thực tế, đều sai với thực tế, hoặc ít ra cũng không bình thường. Phải chăng đó là tâm trạng của một con người ngẩn ngơ, không còn đủ tỉnh táo để làm chủ được mình: một chàng trai thất tình đến mức có thể “ nhìn gà hóa cuốc”? Vậy thì khung cảnh thiên nhiên ở đây có giá trị gì, có mối quan hệ như thế nào với nhân vật trữ tình?...

Hãy trở lại với màu “xanh biếc” của hoa tầm xuân, vì đây là vấn đề còn chưa thống nhất ý kiến… Vì sao lại có sự nhầm lẫn đến như vậy? Một nhà nghiên cứu đã cho biết “ Trong dân ca tình yêu các dân tộc ít người cái hiện tượng khi tình duyên trắc trở thì các màu sắc được miêu tả đều trái ngược với màu sắc trong thực tế (1). Mà không chỉ ở dân tộc ít người, dân tộc kinh cũng thế. Cái màu sắc của hoa cúc trong bài ca đối đáp nam nữ dưới đây đã biến đổi thật là phi lý:

-Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi trả yếm cho anh!
-Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi! (2)


Nhưng chính cái phi lý này lại nói lên cái hữu lý của tình yêu trong sự trớ trêu của nó. Lẽ ra nụ tầm xuân nở ra phải chúm chím ửng hồng. Sao ở đây lại “xanh biếc”, lại vô lý đến thế, cũng vô lý như là ta chẳng cưới được nhau, như là em đã có chồng. Người nghệ sĩ dân gian đã sử dụng phạm trù “ cái phi lý” để đặc tả tâm trạng thông qua biểu tượng là vậy. Nhưng “ Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” ở đây, phải chăng, còn nói với ta điều này nữa : dù em đã có chồng, lòng yêu em xưa ở trong anh vẫn nguyên vẹn. Em vẫn đẹp như thuở xưa và đẹp mãi ở trong anh. Cái bông hoa kia dù có phải nở non, chín ép, thì cái xanh nguyên, xanh biếc của nụ hoa vẫn còn đọng mãi trong mắt người đã từng thương nhớ. Nỗi nuối tiếc khôn nguôi làm cho nỗi đau hiện tại của chàng trai càng thêm thấm thía…”

(Trang 112-113, sách GIẢNG VĂN VĂN HỌC VIỆT NAM, NXB GIÁO DỤC 1997 )


Riêng tôi, tôi lại tiếp cận những câu ca dao trên theo một hướng khác. Đó là tìm hiểu kỹ hơn về đặc điểm hoa tầm xuân để lý giải về “ Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” mà tìm hiểu tiếng lòng của chàng trai thông qua ngôn ngữ của loài hoa ấy. Chúng ta vẫn biết tầm xuân là một loại hồng dại, thân và cành có nhiều gai, hoa màu hồng mọc thành từng chùm, được xem là một loài hoa dân dã thường trồng làm hàng rào. Đó là loài hoa gợi đến những gì thật bình dị, gần gũi, thân quen. Cũng thật may mắn là nhà tôi cũng có một lớp hàng rào là những bụi tầm xuân. Ngày xưa, cứ mỗi buổi chiều tôi thường ra đứng ngắm những cành hoa tầm xuân đong dưa trong gió dưới ánh nắng chiều sắp tắt. Nhưng rồi một lần tôi mới chợt hiểu ra nếu chỉ ngắm hoa vào buổi chiều tàn thì không thể nào phát hiện được cái “ xanh biếc” của loài hoa ấy. Để cảm nhận được sự nuối tiếc vô bờ của chàng trai thì phải ngắm hoa vào một buổi sớm mai khi tầm xuân hé nở…

Nhưng trước tiên hãy trở lại với hai câu đầu của bài ca dao để có thể thấy được những diễn biến trong tâm trạng của chàng trai:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân


Chúng ta dễ dàng nhận thấy, chàng trai đâu phải là người cả cuộc đời chỉ miệt mài với một đóa tầm xuân. Anh đã từng cất công “Trèo lên cây bưởi hái hoa”. Và thường cứ trèo cao thì hay ngã đau. Biết đâu anh cũng đã thấm thía và “ ngộ” ra được điều gì đó khi phải cất công Trèo lên cây bưởi hái hoa. Có như thế anh mới tìm đến những cái giản dị, mộc mạc, dân dã hơn : Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Ta cũng nhận ra hành động hái nụ tầm xuân của anh cũng chỉ là vô tình, bất chợt chứ không chủ ý như hái bông hoa bưởi. Nụ tầm xuân thì bé tí dược bọc bởi đài lá xanh che khuất gần hết sắc hồng của nụ , nó không trắng ngần lồ lộ, tỏa ngát hương thơm đầy khêu gợi như bông hoa bưởi . Anh mải tìm cái đẹp ở mãi đâu cao tít xa xôi mà bỏ quên Nụ tầm xuân bé bỏng giản dị, khiêm tốn nép trong khóm lá ở dưới vườn cà ngay cạnh bên anh như anh đã quên hẳn sự hiện diện của cô bé láng giềng cách nhà anh chỉ một bụi hàng rào. Cô nhỏ lúc ấy hẳn trông còn thơ bé quá, mà tuổi đậy thì lại đến muộn không như các bạn cùng lứa với mình , cô vẫn còn được bọc kỹ trong đài lá xanh non . Vậy thì có gì khiến anh phải bận lòng ? Dĩ nhiên anh bỏ qua cô, cất công đeo đuổi những cô gái xinh đẹp khác. Cô không có tên trong danh sách những cô gái mà anh đã khó nhọc kiếm tìm .

Hình%20ảnh


Thời gian trôi qua…Chợt hôm nay gặp lại, anh mới sững sờ. Trước mắt anh Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, anh choáng ngợp, ngất ngây. Anh tự hỏi lòng: Sao anh lại có thể quên được cái đặc sắc nhất mà trời đã trao tặng cho mỗi đóa tầm xuân? Tuy cùng loài với hồng dại nhưng tầm xuân lại không hề trải qua thời kỳ hàm tiếu như hoa hồng để từng ngày, từng ngày cái đẹp cứ thế mà dần dần lộ diện. Nụ tầm xuân không hé mở từ từ mà bất ngờ nở ngay ra một bông hoa hơi chúm chím, cánh hồng thắm, những tua nhụy vàng ươm. Giữa nhụy là một cái chồi non xanh biếc. Nụ tầm xuân như cô bé nhà bên mà mãi cho đến ngày cô lấy chồng, nét đẹp dậy thì vẫn chưa kịp đến. Giờ đây khi gặp lại, cô đã là một thiếu phụ nhưng vẫn be bé, xinh xinh nhan sắc vừa đến độ, vẫn giữ được vẻ e ấp đáng yêu của một cô gái dậy thì chẳng khác gì đóa tầm xuân mới nở. Anh ngẩn ngơ… tiếc nuối …!

Cái đẹp vô cùng quý giá trong tầm tay, lẽ ra đã thuộc về anh, thế mà anh làm vuột mất, để rơi vào tay kẻ khác! Anh tiếc và hận vì anh thua người ở cái thiếu hẳn con mắt tinh đời nên đã không phát hiện được cái chồi xanh biếc giữa chốn trần ai và đó cũng là vẻ đẹp trinh nguyên, tinh khôi còn tiềm ẩn của cô bé láng giềng ngày xa xưa ấy. Như vậy cái tiếc nuối ở đây hình như đâu phải là là cái “sầu hận, tiếc nuối, xót xa, cảm hoài về một cảnh ngộ trớ trêu, éo le ngoài ước nguyện vẫn gặp trong đời thường muôn thuở: yêu nhau chẳng lấy được nhau” (Nguyễn Xuân Lạc) ?

Anh còn tiếc hơn nữa bởi anh biết cô gái nào trước khi lấy chồng lại chẳng từng mơ ước:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng, răng đen.


Nhưng trong xã hội ấy, họ đâu được quyền chọn lựa, tìm kiếm hạnh phúc của cuộc đời mình:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Và trong cái tiếc nuối ấy biết đâu còn cả nỗi xót xa khi thấy tấm lụa đào, cái bông hoa lài lại rơi vào tay kẻ phàm phu tục tử. Cô gái bé bỏng, đáng yêu phải rơi vào cảnh lẽ mọn, kiếp lấy chồng chung. Đã thế, khi có chồng, có con lễ giáo phong kiến khe khắt, công việc gia đình đè nặng họ đâu còn dịp để vui chơi, trau chuốt bản thân:

Chưa chồng đi dọc đi ngang
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.

Hoặc:

Chưa chồng nón thúng quai thao
Có chồng nón rách quai nào mặc quai


Rồi cùng với những quan niệm và hủ tục “ đa tử đa phúc”, cô hàng xóm xinh xắn ngày nào chưa kịp có được một phút giây ước ao, mơ mộng cho hạnh phúc của cuộc đời mình, chẳng mấy chốc đã trỏ thành một thiếu phụ năm con:

Lấy chồng từ thưở mười ba
Đến nay mười tám thiếp đà năm con
Ra đường thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chồng


Thật ra, người phụ nữ ngày xưa, mấy ai năm con mà vẫn còn giữ được vẻ xinh đẹp, tươi tắn, duyên dáng, đáng yêu của thưở thanh xuân! Có chăng chỉ còn lại là hình ảnh một người phụ nữ trông thật nhếch nhác , thảm hại, đáng thương:

Gái một con trông mòn con mắt
Gái hai con vú quặt ngang lưng
Ba con cổ ngẳng răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con gấu trụt váy dù vận ngang.


Cuộc sống vất vả, đầu tắt mặt tối của các cô gái khi về làm dâu, phải gánh vác cả giang sơn nhà chồng đã khiến nét thanh xuân cũng sớm phai tàn như bông hoa tầm xuân chỉ thoáng chốc mà chồi non xanh biếc cũng phai dần sắc biếc, những tua nhụy vàng ươm cũng chuyển thành nâu đen tàn tạ và những cánh hoa hồng tươi thắm cũng nhạt màu, héo úa…

“Anh tiếc lắm thay!” Tiếc vô cùng! Tiếc cho anh , anh còn tiếc cả cho cô. Phải chăng ngoài sự hối tiếc trước phát hiện quá muộn màng của một chàng trai mà cả cuộc đời cứ mải mê đi tìm cái đẹp đích thực trong cuộc sống, bài ca dao còn thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc: Một tấm lòng “ thương hoa tiếc ngọc”… Cảm thương cho sự mong manh của một kiếp hoa. Thương cho những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết khát khao cháy bỏng một cuộc sống hạnh phúc trong xã hội cũ nhưng với thân phận bị phụ thuộc, không làm chủ được cuộc đời mình mà nhan sắc xinh đẹp một thời đã nhanh chóng tàn phai cùng với những ước mơ không thể trở thành hiện thực…

ĐàLạt tháng 9 năm 2009
hoadude
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Jan/2011 lúc 9:19pm
 
hoadude oi,
Hôm nay em đọc đuọc bài viết dễ thương này của chị An Trinh( một Thụ Nhân, sau chị một năm ).
Sau khi bài này gửi lên DĐ VĐH ĐL , nhiều người lên tiếng , trong có câu hỏi "...Câu chuyện Dứt Khóat dễ thương lắm. Công nhận cô Phượng can đảm  thiệt . Liệu cô Phương cắt mái tóc có làm  tổn thương ' nguoi ta' !?..."
Em không hiểu trái tim "người ta"... ra sao !   nhưng , tác giả có vài dòng tâm tình , gọi hành động dứt khoát là  "một thế võ căn bản" và còn... quả quyết "ai trong chúng ta cũng ít nhất là vài lần phải dùng đến" ( 'ai' là phe kẹp tóc tụi mình ) , một ...vũ khí của các Nàng  "để tự vệ trước sự tấn công của đối phương xem ra nhẹ nhàng nhưng có sức ...tàn phá không thể lường"
  ... để rồi.... " Đôi khi đến cuối đời cả hai bên vẫn còn bị... tổn thương "
 
Ôi ! khi đó "cô bé" chưa đủ 17 tuổi mà.
Phải đợi đến lúc "góp hai thứ tóc trên đầu" (T.T.KH) chị An Trinh mới ..."phán" như thế . Muộn màng chăng ?
Nhưng thôi , đừng thèm nghĩ ngợi nữa, vì nếu tác giả không.... tiếc , mình làm sao có dịp thưởng thức "DỨT KHOÁT" !? Smile
Mời hoadude và cả nhà cùng đọc
 
mk
 
 
 
 
Dứt khoát
 (An-Trinh)
 
Mầu nắng nhè nhẹ trải rộng, óng ả vắt ngang trên những ngọn cây, ươm vàng từng nhánh lá, duyên dáng như cô gái tuổi xuân thì bỗng một hôm soi gương thấy mình "người lớn" và ánh mắt nụ cười hình như hơi khác lạ. Mái tóc huyền ôm tròn bờ vai, thoáng đưa vài sợi mềm vương trên đôi má mịn màng làm gương mặt có vẻ đằm thắm dịu dàng một cách kín đáo không còn hồn nhiên như những ngày qua. Đó là sự thay đổi của Phượng sau Mùa Giáng Sinh năm ấy, niềm vui nghỉ lễ vẫn còn luẩn khuất đâu đây, gia đình xum họp, anh chị cùng các cháu về hội tụ đầy một nhà và đặc biệt lại thêm một khuôn mặt mới, người đã "để ý" chị Hồng mấy năm nay, giờ mới chính thức được hai bên gia đình cho phép gặp gỡ tìm hiểu nhau. Với vẻ thư sinh và tư cách của anh, chắc chị Hồng sẽ bị thuyết phục để quên đi bóng hình "không tưởng" mà chị đã ôm ấp bấy lâu. Và Phượng, 16 trăng tròn lẻ - sang năm 17, bẻ gẫy cả xừng trâu - lứa tuổi của nhiều cô gái đã biết hẹn hò hay ít ra cũng thầm yêu trộm nhớ ai đó. Phượng không còn là cô bé chỉ thích ăn và eo xèo vòi vĩnh mẹ nữa, để mẹ những khi bị quấy rầy đẩy cô ra mắng:
- Cái con nhỏ này lớn rồi... Hư quá!
- Hì hì, tí mẹ... dẻo. Cho Út sờ một tẹo thôi mà.
 
Rồi cô quàng vai mẹ, hít hít tóc mẹ thơm mùi bồ kết, ôm cái eo mẹ nhỏ xíu:
- Mẹ chả chịu ăn uống gì cả, bụng chỉ có da.
 
Mẹ cười đôi môi đỏ nhai trầu chúm chím:
- Kệ tôi, cô lo cái phần cô đi là vừa, dính mẹ thế này thì làm sao mà lấy chồng với người ta.
- Con ở nhà với mẹ...
 
Cô thật sự chỉ muốn ở nhà với mẹ mãi. Cô mong chị Hồng cứ găng, không chịu ai để cô được bé bỏng hoài vì "con chị nó đi, con dì nó lớn".  Nghĩ tới phải "lớn", cô thấy lo, thấy ớn quá sức.
 
Ngày tháng vào đông, thời tiết lành lạnh làm Phượng thêm lười biếng, cô kéo tấm mền lên phủ kín mặt mày để tránh ánh sáng đã tràn ngập khắp phòng. Cô chỉ muốn nằm nướng mơ mộng nhưng nghe thoang thoáng tiếng mẹ đang dặn dò chị Sinh đi chợ. Thế thì muộn rồi, hé mắt nhìn đồng hồ để bàn, cô hốt hoảng nhẩy một phát ra khỏi giường rồi chạy ào xuống dưới nhà. Chưa hết những bậc cầu thang cô đã vội léo nhéo:
- Mẹ ơi, hôm nay mình làm mứt mãng cầu hở mẹ?
 
Mẹ lắc đầu ngán ngẫm mà giọng lại thật âu yếm:
- Gớm con gái, lo chải đầu chải óc đánh răng rửa mặt đi cái đã.
 
Rồi quay qua chị Sinh mẹ dặn tiếp:
- Chị ráng lựa những trái già ấy nhé, da căng thì múi mới lớn.
 
Phượng xen vào:
- Mua nhiều nhiều nghe chị, chỗ nào múi không to để em pha nước đá.
 
Chị Sinh gật đầu cười với Phượng xong hỏi mẹ:
- Có mua luôn gừng không bà?
- Nếu gặp gừng non củ lớn trông ngon chị cứ mua luôn đi. Cuối tuần mình làm mứt gừng.
 
Chị Sinh vừa xách giỏ ra cửa là Phượng nhào lại bên mẹ:
- Mứt me của mẹ đâu? Cho con ăn thử.
 
Mẹ mắng yêu:
- Mắt mở chưa ra đã hỏi ăn rồi. Hôm nay nhớ cắt giấy bóng gói mứt me cho mẹ.
 
Tết nào cũng vậy, mẹ làm bao nhiêu thứ mứt. Mấy hôm trước, phải lột vỏ me hộ mẹ thâm cả năm đầu ngón tay và ê luôn hai hàm răng vì ăn cố mấy trái bị lẹm trông xấu xí. Nhìn ba mâm mứt xếp đều đặn những trái me dài mầu hổ phách đợi phơi khô sau khi đã được sên với đường, nước miếng Phượng tự động ứa ra. Cô cẩn thận tìm những miếng hơi xâu xấu để ăn thử nhưng sao miếng nào cũng giống miếng nào, trông đẹp làm sao, cô chẳng nỡ nhón lên. Mẹ biết ý cười nói:
- Thử đại đi mà...
- Ngon quá mẹ. Năm nay con sẽ làm mứt tầm ruột cho mẹ coi.
- Thì cứ trổ tài, làm mứt chỉ khó lúc sên với đường thôi nhưng kiên nhẫn một chút trông vừa đẹp ăn vừa ngon. Mua ngoài họ làm không còn mùi vị gì cả.
- Bạn con tụi nó thích mứt gừng của mẹ lắm, vừa dẻo vừa thơm. Thật tuyệt.
 
Chỉ còn hai tuần lễ nữa là tết. Khi những món mứt của mẹ đã gói ghém cất trong keo trong hộp là bố bắt đầu đi mua những chậu hoa. Đặc biệt là một cành hoa mai, không tết nào được thiếu. Bố vào tận bên trong làng nam -gần Lái Thiêu- tìm cho được cành mai thật lớn, giá nào cũng mua. Thường thì chú Sáu, người phụ việc trong trại cưa của bố kiếm giùm. Bố đốt gốc, dựng vào chiếc bình cao cổ đặt ngay ở phòng khách rồi ngày ngày tỉa lá đợi ngắm những nụ xanh nho nhỏ lớn dần, làm sao để nở rộ đúng vào lúc giao thừa và sáng mồng một, những cánh mai vàng cùng nhau xinh tươi rực rỡ đón chào năm mới.
 
Năm nay, với không khí rộn ràng sửa soạn, Phượng thấy đời ý nghĩa hơn, không phải chỉ ở những cánh hoa mơn mởn khoe sắc hay những món ăn ngon, những đồng tiền mừng tuổi. Ở cái gì nữa nhỉ? Ồ chả lẽ... Chả lẽ ở lá thư có bài thơ tình thật dễ thương trong đó, cô nhận được từ mấy tuần trước. Hồi đầu cô tính không nhận vì tự ái con gái, ai lại gửi thư cho người ta mà qua trung gian như vậy, sao không đưa thẳng. Nếu cứ chọn chỗ nào văng vắng, dừng người ta giữa đường, đứng xừng xững trước mặt người ta, chả lẽ người ta gạt phăng té nhào hay sao mà sợ. Còn như muốn trao thư thì cứ trao vì người ta cũng có... cảm tình mà.
Nhưng... chắc không được, không dễ dàng thế được. Có cảm tình cũng phải làm bộ kho khó một tí. Hay là ảnh cũng đoán có thể mình sẽ làm bộ như vậy nên mới nhờ Hòa, cô em gái bà con đưa tay. Hòa thế nào chẳng bép xép nói ra với mấy đứa kia. Nó còn kể là mình nhận thư, ngẩn người sung sướng, đọc đi đọc lại nghiền ngẫm từng câu từng chữ đến thuộc lòng và không thấy trả lại, thì... quê, dù thực sự chẳng sai tí nào. Nếu nó dự đoán rồi loan tin thêm là mình hồi âm nữa thì... chết. Giá không sợ chết chắc mình hồi âm thật. Phượng cũng có vài bài thơ, cũng muốn gửi đi đáp lễ. Ôi, chỉ dám gửi trong mơ thôi và mong ảnh trong giấc mơ sẽ đọc được bài thơ của Phượng.
 
Chưa chải đầu! Tận tình mút sạch mấy ngón tay dinh dính hương vị ngọt ngọt chua chua vô cùng hấp dẫn của trái mứt me, Phương sực nhớ mình chưa chải đầu.  Những sợi tóc rối đêm qua phủ tràn trên gối phía dưới có bài thơ lục bát tình ý nhẹ nhàng ấy, chưa được chải gỡ!!! Thì ra ảnh thích mái tóc của mình, ảnh bảo là thả mềm lờ lững như mây trời. Phượng mở to đôi mắt trong gương như muốn hỏi rằng anh chỉ thích mái tóc thôi sao, cô tưởng tượng như đang đứng trước mặt ai và đưa từng nhát lược lùa vào mái tóc đen mượt làm dáng.
 
Phượng gọi thầm tên "Phương". Rồi mỉm cười khi nghĩ Phương với Phượng, khác nhau chỉ một dấu nặng. Anh mới năm thứ nhất đại học, có lẽ lớn hơn cô vài tuổi. Lần đầu tiên gặp anh, dù chẳng nói năng gì nhiều, chỉ có ánh mắt và nụ cười mỉm, Phượng đã nghe lòng mình xôn xao bối rối, ngượng ngập chi đâu. Đôi guốc! Đôi guốc cũ đứt quai được anh đóng lại giùm, xỏ vào bị đau đau mu bàn chân, cô đã mua guốc mới, biết chắc sẽ không dùng nữa nhưng cô không vứt đi, lại cất một chỗ. Để đó làm gì, Phượng tự hỏi rồi mắc cở không trả lời nhưng cảm thấy vui vui một mình.
 
Không biết anh có đợi thư hồi âm? Có mong đến nỗi mất ăn mất ngủ?! Phượng không thể hồi âm, anh phải biết như vậy và đừng mong đừng đợi. Có thích, có nhớ thì chỉ trong tâm tưởng một chút xíu thôi. Phượng còn bé lắm, Phượng chưa muốn lớn. Phượng chưa muốn hẹn hò yêu đương. Nhưng sao cái đầu Phượng cứ nghĩ hoài tới anh, thư anh Phượng dấu kỹ, đêm khuya thao thức đem ra ủ dưới gối, thơ anh lảng vảng trong hồn và ánh mắt anh cứ đeo theo Phượng từng bước.
- Trời đất, sao ngồi ve vuốt mãi vậy?
 
Khuôn mặt chị Hồng hiện ra trong gương ngay sau lưng Phượng, miệng cười toe toét. Lúc này da dẻ chị đã hồng hào trở lại không xanh xao như hồi còn chìm đắm trong mối tình vô vọng. Mẹ lo lắng chị bệnh hoạn yếu ớt nên dẫn đi thầy lang, hốt thuốc bổ bắt chị uống. Để mẹ khỏi nghi ngờ, chị nhắm mắt nhắm mũi nốc cạn những chén thuốc đắng với nét mặt thật khổ sở. Chuyện tình đơn phương này chỉ có Phượng biết nhờ lén đọc nhật ký của chị. Cô thương chị lắm nhưng không biết làm gì giúp chị, chỉ đành tâm niệm tuyệt đối dấu kín không nói với ai để chị khỏi bị mặc cảm đau lòng. Cô luôn cầu nguyện cho chị chóng quên và thầm cảm phục chị tuy bi lụy buồn sầu mà vẫn chăm chỉ học hành, thi đâu đậu đấy. Chị Hồng dơ ra một cuốn sách mỏng nói tiếp:
- Có người nhờ chị đem về cho Phượng tập thơ nè.
 
Phượng linh tính như lại có một "trao gửi" từ anh nên cố gắng làm ra vẻ hờ hững, trả lời mà không thèm quay lại:
- Mua cho em hả. Chị thích thơ chứ em đâu có ưa thơ với thẩn.
- Thế thì không nhận nhé. Mai đi học tao trả lại cho Phương. Trời ơi sao đang tự nhiên Phương gọi tao là chị nghe ngọt... sớt...
 
Phượng phì cười khi hai tiếng cuối chị Hồng cố kéo dài, cô nén nỗi hồi hộp đang làm con tim đập mạnh liếc nhìn chị Hồng vừa đi vừa mở từng trang:
- Có bút hiệu đàng hoàng, có tên trong thi văn đoàn nữa. Ghê quá, Phương là thi sĩ đó. Toàn những bài thơ ướt át. Còn đề tặng "Cho Phượng mười sáu", nghe dễ thương quá chừng chừng.
 
Biết chị chủ ý trêu, Phượng càng thản nhiên như không hiểu gì dù trong lòng chỉ muốn dằng lấy tập thơ ôm trước ngực cho riêng mình. Không ngờ chị Hồng thua Phượng, thấy cô cứ tỉnh bơ bơ, chị đành bước lại, dơ trang đầu tập thơ ra trước mắt Phượng:
- Phượng nhìn. Chị tính không nhận vì Phượng còn nhỏ. Chị không muốn Phượng vướng chuyện tình cảm sớm nhưng nhìn nét mặt Phương tội nghiệp. Chị nghĩ Phượng cứ nhận, thơ cứ đọc nhưng đừng... đừng vơ vẩn là được.
 
Hai năm chị "u mê", kinh nghiệm tình trường như đã "đầy người" nên giờ chị sợ cho em. Phượng nhìn thẳng mắt chị quả quyết:
- Hồng đừng lo, em chả dại đâu.
 
Nói thế cho chị yên tâm. Phượng không vơ vẩn sao được. Mười sáu bài thơ bàng bạc ý tứ nhớ nhung, mỗi tuần là một bài thơ anh viết vào chiều thứ bẩy dưới gốc cây ổi hôm nào. Phượng tính nhẩm - phải rồi - từ hôm ấy, khoảng 4 tháng trước...  Mấy ngày đầu niên học, cả bọn con gái 5 đứa, Phượng chỉ biết Hoa từ trường cũ, còn Thục, Vân và Hòa là bạn mới quen trong lớp. Nhân một buổi văn phòng xếp giờ trục trặc sao đó, giáo sư không tới, thay vì về nhà sớm, Phượng hứng chí nghe lời rủ rê của Hoa, xách xe đạp chạy theo Hòa đi ăn ổi vườn. Hòa hăng hái dẫn đường cái miệng oang oang nói vọng lại phía sau:
- Các bồ phải biết, nhà bác tui có vườn ổi cả trăm cây, trái nào trái nấy to kềnh, ngọt lịm, dòn tan.
 
Phượng ham ăn nhưng lại lười nhất đám, hỏi với:
- Có xa đây lắm không, đạp xe lâu mệt thở dốc Phượng xỉu đó.
- Gần xịt hà, đừng lo.
 
Nói gần xịt mà Hòa chạy mãi không tới. Nhưng lỡ rồi, Phượng không thể rút lui. Ánh nắng càng lúc càng gay gắt làm cô đổ mồ hôi trong khi mấy đứa kia nói cười vang vang sảng khoái.  Có lúc chúng to gan đi hàng bốn choán hết chiều ngang mặt đường để mấy bác tài xe lam phải bóp còi inh ỏi. Phượng gò lưng cố gắng đạp theo muốn hụt hơi, cũng may thỉnh thoảng một làn gió tấp vào mặt làm những sợi tóc phe phẩy cho cô tỉnh người.
 
Cuối cùng tới một khu xóm ngoại ô thật lạ đối với Phượng, cô chưa đi ngang đây bao giờ, hai bên đường toàn cây xanh bóng mát, nhà cửa nằm êm ả cách xa nhau. Đang mải ngắm phong cảnh thì Hòa và lũ bạn thắng xe ngừng lại trước hàng dâm bụt đầy hoa, những cánh hoa đỏ rực rỡ vươn ra khỏi dậu lá xanh tươi đặc kín. Dắt xe qua một khoảng sân rộng với cả chục chậu kiểng to hơn vòng tay ôm, đoàn quân áo dài sau khi hấp tấp dựa xe vào một gốc cây lớn, hùng hổ theo chân nhau nhào vào căn nhà, cửa bỏ ngỏ như chốn không người.
 
Phượng chưa kịp nói lên thắc mắc: "Sao không có ai" thì thấy ngay một anh chàng hai mắt kiếng cận, quần đùi áo may ô ngồi trước bàn, giấy tờ bút mực ngổn ngang, đang há miệng nhìn. Hòa vung tay phán một câu:
- Anh Phương, tụi em ra vườn ổi.
 
Phượng líu quíu bước sau cùng, dính bén gót Vân phía trước. Xui xẻo thay, vì không cẩn thận nhìn dưới chân, một bên guốc của Phượng vấp vào bậc thềm kêu cái "phựt" đứt quai. Khổ chưa cơ chứ! Cả bọn khựng lại... chia buồn. Để các bạn đỡ ái ngại, Phượng làm bộ coi như "chuyện nhỏ", nghịch ngợm đá phăng chiếc còn lại, anh dũng kiễng mười đầu ngón chân, lênh khênh từ cây này sang cây khác nghển cổ kiếm... ăn! Vân phàn nàn trước tiên:
- Chẳng có trái nào cả ta ơi!
- Có đây nè... Trời ơi sâu...sâu...
 
Sau tiếng reo ngắn ngủn, Thục hét lên sợ hãi. Hòa chạy lại ngay lúc trái ổi bị vứt bộp xuống đất và Thục vẫn còn run rẩy. Hòa thất vọng kêu bai bải:
- Anh Phương ơi, ổi đâu hết rồi, tuần trước em qua thấy nhiều trái lắm cơ mà.
 
Chẳng có ai trả lời, Hòa dậm chân đi vào chắc để lôi cổ ông anh ra làm phép lạ. Trong khi Phượng may mắn hái được một trái hơi đèo đèo nhưng ngon chán. Cô chùi sơ sơ rồi cắn nhai rôm rốp.
 
- Ổi đây. Ổi xá lị mới hái... mấy hôm rồi đây!
Tiếng rao của Hoà nghe lanh lảnh không kém mấy bà bán hàng rong chuyên nghiệp làm cả lũ quay nhìn rồi cùng giật mình ngạc nhiên. Một thanh niên bảnh bao mặc quần tây áo sơ mi thẳng nếp, chỉ còn thiếu đôi giầy là có thể đi dự tiệc đám cưới, khệ nệ bê một "cần xế" khá to, chắc là nặng lắm, cùng với Hoà tiến ra phía các cô. Bao nhiêu là ổi, trái nào trái nấy to ơi là to, cả bọn ùa tới nhưng lại rụt rè nhìn nhau không đứa nào dám thò tay ra bốc. Hòa láu táu:
- Anh Phương, anh tớ. Tha hồ, đứa nào muốn hết cũng được. Mấy hôm trước, bác Hai bán cho người vào vườn hái, may mà họ bỏ lại bây nhiêu.
 
Anh Phương gật đầu chào với nụ cười thật điệu rồi giữ ý quay vào nhà cho các cô tự nhiên. Những cánh tay tiểu thư chỉ đợi có thế là vội vàng vươn ra nhón ngay một trái, bắt hàm răng làm việc liền tức thì và nuốt tới đâu no lòng mát dạ tới đó. Mấy cô kia vừa ăn vừa nói cười và tung tăng quan sát khu vườn bên cạnh không để ý anh Phương đã khuân ra cái bàn, rồi cả chiếc ghế mời Phượng ngồi vì cô không có guốc, đứng một mình dưới gốc cây ngó mông lung trong lúc cái miệng vẫn ung dung nhóp nhép. Anh nhặt chiếc guốc đứt quai, đem đinh đem búa ra lúi húi đóng tạm cho Phượng đi đỡ. Sau khi ngắm chiếc guốc đã ôm bàn chân cô đâu đó, anh mới ngẩng lên, thấy Phương nhai ổi nghe rau ráu, dù cô đã ý tứ ăn thật chậm cho có vẻ con nhà. Có thể sợ Phượng gẫy răng không đóng được như guốc, chẳng nói chẳng rằng anh vào lại trong nhà đem ra con dao bổ nhỏ năm bẩy trái chất đầy vào một cái đĩa to bự sự. Anh cứ nhẩn nha làm trong khi Phượng cũng chỉ biết ngồi im lặng nhẩn nha thưởng thức hương vị ngọt ngào từ những trái ổi tươi ngon cùng với sự săn sóc nhẹ nhàng của anh. Càng cảm động, cô càng chăm chỉ nhai như thể ta đây đang bận công việc riêng không có thì giờ hay tâm trí để ý đến chuyện người khác. Cho tới lúc các bạn chán ngắm cảnh chung quanh kéo nhau trở lại, nhìn bàn ghế tươm tất và đĩa ổi ruột trắng phau, cả bọn thích thú xà vào hân hoan làm một bụng thay cơm, tưởng quên luôn giờ về.
 
Anh Phương lủi mất từ lúc nào, khi thắc mắc điều ấy cũng là lúc Phượng nhìn đồng hồ kêu lên:
- 2 giờ rồi các đằng ấy ơi. Đồng hồ tớ có chạy nhanh không chứ hở?
 
Ôi, đứa nào đứa nấy tản hồn nhưng vẫn sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của Hòa, nhặt thêm hai tay mấy trái ổi to tướng, rồi mới chịu chạy vào trong nhà để ra đằng trước mong lên xe phóng một cái vù.
 
Vân nhanh chân nhất để rồi quay lại lè lưỡi báo động:
- Giấy tờ thế kia thì làm sao bước qua?
 
Và Phượng vội vàng khựng lại khi ngó thấy những tờ giấy và cả mấy bức vẽ dở dang nằm la liệt trên nền nhà. Thì ra để lấy chiếc bàn, anh Phương đã gạt mọi thứ xuống đất, rồi gió lùa vào làm cảnh vật thêm vẻ tan tác. Một thân một mình giữa đám con cháu bà Triệu bà Trưng tới 5 cô, anh hết hồn lạc vía, quên hoặc không kịp dọn dẹp trước lúc chạy trốn. Cảm thương anh, cả lũ nhìn nhau mủm mỉm, dắt díu kẻ trước người sau đi theo lối hông nhà, kéo cổ con ngựa sắt, đạp bay bay mỗi đứa một ngả cho mau kẻo bị ba mẹ chất vấn không biết trả lời sao cho ổn.
 
Dù không có lá thư anh Phương nhờ Hòa trao cho Phượng, cô cũng không quên được hình ảnh người con trai mặt mũi sáng sủa, nụ cười dễ mến ấy. Giọng nói chậm rãi cũng như ánh mắt là lạ của anh nhìn làm Phượng xao xuyến. Nhớ đến những trái ổi vườn hạng nhất đem về, chị Hồng mau mắn giã muối ớt, vừa ăn vừa khen ngon. Phượng bỏ gương lược ra sân sau hỏi chị Hồng đang đứng ngắm mâm mứt me mẹ phơi trên mặt bể nước mưa:
- Chị biết ổi hôm nọ em đem về ở đâu mà có không?
- Ổi nào... À à chị nhớ rồi. Ở đâu?
- Vườn nhà anh Phương đó.
- Quá trời! Hèn gì...
 
Sợ chị hiểu lầm, Phượng giải thích:
- Nhỏ Hòa rủ đến nhà bà con của nó có vườn ổi, em đâu biết là nhà anh Phương, lần đầu tiên em gặp anh ấy.
- Và chàng tương tư ngay... mái tóc của nàng. Tao thấy bài thơ nào cũng nói về mái tóc dài.
 
Phượng áy náy nhìn chị:
- Như vậy có sao không?
- Thế Phượng có... thích, có cảm tình với Phương không?
 
Phượng nói dối:
- Không, em không...
- Nếu không thì tốt. Phượng còn nhỏ, đừng vướng vào mấy chuyện này vội.
 
Phượng nuốt cục nghẹn xuống cuống họng, cố dấu sự tiếc nuối:
- Mai đi học chị trả lại anh ấy tập thơ giùm em.
 
Chị Hồng lắc đầu:
- Không cần phải vậy. Phượng cứ giữ đó.
- Sợ anh ấy tiếp tục gửi cho em hoài.
 
Rồi cô rụt rè nói thêm:
- Bữa trước ảnh nhờ Hòa đưa cho em lá thư...
- Vậy sao?
 
Chị Hồng trợn mắt ngạc nhiên hỏi rồi ra chiều suy nghĩ:
- Hay thế này, hai chị em mình đi cắt tóc. Tao thích kiểu tóc của Phương Hồng Hạnh. Thấy Phượng cắt tóc ngắn và không hồi âm là hắn biết liền. Chị khỏi phải đem trả hộ. Thật khó mà nói...
 
Phượng dẫy nảy:
- Em không cắt tóc ngắn đâu, ai cũng bảo tóc em đẹp.
- Thì bởi, đẹp để rồi nhiều chuyện. Cắt quách đi Phượng ơi. Chị cũng cắt. Sang năm chị sẽ không như mấy năm rồi nữa. Mệt quá. Chán lắm.
 
Phượng muốn hỏi thẳng chị là tại sao lại "mệt" nhưng cô đã biết, cô không muốn chị phải nói ra những điều chị muốn dấu. Những dòng nhật ký của chị làm cô sợ bước vào chuyện tình yêu đương. Phượng còn bé, cô phải hưởng cho đã tuổi thơ ngây của cô, cái tuổi ham ăn và còn được nhõng nhẽo mẹ. Chẳng dại!
 
Phượng dứt khoát:
- Đi luôn chiều nay không? Em cũng cắt kiểu Phương Hồng Hạnh.
 
Và cảm thấy lòng mình chợt nhẹ nhõm, cô nói thêm:
- Năm mới, mình có cái... đầu mới.
 
antrinh







-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Jan/2011 lúc 5:22pm
 
 
Sáng nay tri lạnh, sương mù xuống dầy . Chợt thấy tiếc nhớ ÐàLạt xưa . Xin goi đến như một chia se ...
(smc)
 
 

Dalat Xưa. Tiếc Nhớ!

 

Còn đâu na dáng sương mù lãng đãng

Hết tht ri nhng áo m khăn len

Dalat ơi, thu y, bao gi quên!

Ta gi em bun xót xa dĩ vãng

 
Dalat ơi âm vang ngày tháng cũ

Cõi hn xưa vng li rũ nim đau

H Xuân Hương quay qut ni nghn ngào

Nhà Thy T xót xa hàng liu rũ

 

Trong ni nh cơn mưa phùn p

Ta thy em quyến rũ la là xanh

Hương tóc bay thơm gió sáng trong lành

Khoác áo m, má hng, bên lò sưởi

 

Tìm đâu na dáng em xinh t thu

Thung lũng Tình hn nng tri đồi thông

Rng Ái Ân rp bóng mát cõi lòng

H Than Th nay cn li than th

 

Dc Hoàng Hôn chng mt nhoài nng v

Càphê Tùng ngần ngại giọt buồn rơi

Ði thông xưa lá đổ khóc bi hi

Dalat hi, Ôi oan khiên nghit ngã

 

Còn đâu na, hết rồi .  Ôi b ng!

Gi tên em mà đau v bung tim

Gi tên em qua cõi nh im lìm

Ta xa lm tn phương tri tiếc nui


smc



(Nguồn : DĐ VDH-DL)



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 14/Jan/2011 lúc 6:13am
 
 
 
HỒ XUÂN HƯƠNG - DALAT
 
 
 
(ChungTheHung-DaListForum )
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 15/Jan/2011 lúc 4:33am

Chào Mỹ Kiều :

Mấy bài viết của các tác giả nguyên là “thụ nhân””của DHCTKD về Đà Lãt đầy cãm xúc , nhớ nhung  những ngày ở Đà Lạt , măc dù hp không có thời gian nhiều với nơi nầy. Đà Lạt đầy thơ mộng,hp hiện ở Virginia – Mỹ- , những ngày  khí trời se se lạnh , có cây cao bong mát núi đồi với suồi đổ…sao nhớ về DL nhiều….

Bài thơ của SMC gợi lại hình ảnh thơ mộng , thân thương  địa danh DL , mình cũng phải viết nguyên chữ tên Đà Lạt với nét hoa mỹ để không tủi buồn cho Đa Lạt..

 

Dalat Xưa. Tiếc Nhớ!

 

Còn đâu na dáng sương mù lãng đãng

Hết tht ri nhng áo m khăn len

Dalat ơi, thu y, bao gi quên!

Ta gi em bun xót xa dĩ vãng

 
Dalat ơi âm vang ngày tháng cũ

Cõi hn xưa vng li rũ nim đau

H Xuân Hương quay qut ni nghn ngào

Nhà Thy T xót xa hàng liu rũ

 

Trong ni nh cơn mưa phùn p

Ta thy em quyến rũ la là xanh

Hương tóc bay thơm gió sáng trong lành

Khoác áo m, má hng, bên lò sưởi

 

Tìm đâu na dáng em xinh t thu

Thung lũng Tình hn nng tri đồi thông

Rng Ái Ân rp bóng mát cõi lòng

H Than Th nay cn li than th

 

Dc Hoàng Hôn chng mt nhoài nng v

Càphê Tùng ngần ngại giọt buồn rơi

Ði thông xưa lá đổ khóc bi hi

Dalat hi, Ôi oan khiên nghit ngã

 

Còn đâu na, hết rồi .  Ôi b ng!

Gi tên em mà đau v bung tim

Gi tên em qua cõi nh im lìm

Ta xa lm tn phương tri tiếc nui


smc


Và hình ảnh Hồ Xuân Hương  sao nên thơ quá..BIẾT CÒN CÓ ĐÓ hay “tang thương cùng tuế nguyệt…”, để "vang bóng một thời"!!!!.

 
 
 
HỒ XUÂN HƯƠNG - DALAT
 
 
 
(ChungTheHung-DaListForum )
 
 
 
 
 
 
 
 
 
(ChungTheHung-DaListForum )
 
 
 
Còn gì nhiều yêu cầu người Đà Lạt , những “Thụ Nhân”” tiếp tục đưa vào DD , cám ơn nhiều thật nhiểu..

                                                            hp



Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 15/Jan/2011 lúc 10:19am
 
Kính chào anh HEICHPE ,
Cám ơn anh đã vào Vườn Thơ Văn-hoadude  đọc và khích lệ .
DaLat , thành phố sương mù với bạt ngàn thông reo , ai đã đặt chân đến , dù chỉ một lần vẫn luôn nhớ về nơi ấy .
Các sinh viên VDH DL , suốt 4 năm dài với biết bao kỹ niệm của tuổi học trò càng không bao giờ quên DaLat. 
Mk cố gắng tìm những bài viết hay, hình ảnh đẹp của DaLat gửi lên DĐ  , mong mang đến chút vui cho cả nhà.
 
Thân kính,
mk


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Jan/2011 lúc 8:54pm
 
Xin giới thiệu bài "phỏng dịch" khúc "Lương Châu Từ" của một Thụ Nhân .
Sau khi đọc bài này Thầy Kim Thanh  phải "thốt" lên :
 
"Tôi tìm hoài, trong sách vở, bài thơ tuyệt hay này, không ra. Chị không phải là dân rượu, cũng không phải dân nhà binh, mà thuộc nó, lại dịch nó ra thành thơ, tuyệt quá. Hợp với câu chuyện tôi đã kể. Đọc xong buồn muốn khóc: Tuý ngọa sa trường quân mạc tiêú / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. "
 
Mời anh HEICHPE và cả nhà thưởng thức.
mk
 
 
 
Lương Châu Từ

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Vương Hàn)



Khúc Tạ Từ Lương Châu

(Rượu bồ đào đựng trong chén dạ quang
Toan uống, tiếng đàn đã giục giã lên đường
Ta nằm say nơi sa trường bạn chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về?)

Rượu bồ đào chén ngọc
Toan nhắp ngụm ly bôi
Tiếng đàn ai giục giã
Lên đường, lên đường thôi

Chốn sa trường say khướt
Bạn chớ vội cười ta
Xưa nay từ biên ải
Mấy ai trở về nhà ?

-Anne

 

Ghi chú :
Đây là đoạn email của Thầy Kim Thanh , đã tạo cảm hứng cho chị ANNE dịch bài "Khúc tạ từ ở Lương Châu"
 
 
"...
Lính tráng tụi này, không nhậu thì thôi, mà nhậu thì là từ chết tới bị thương. Bạn bè luôn miệng nói: "Rượu bất khả ép, mà ép thì bất khả từ". Tôi viết, "dụ dỗ" là còn nhẹ. Họ cầm ly kề miệng, bắt "một hai ba, dô", không uống không được. Lính tráng cũng có cái triết lý sống của họ. Uống rượu không hẳn để tiêu sầu như các thi sĩ từ Horace đến Lý Bạch đến Baudelaire đến Cao Bá Quát (?) mà còn để quên cái chết cận kề. Viết đến đây, tôi nhớ một chuyện buồn: Mùa hè đỏ lửa 1972, đại đội tôi được tăng phái cho chiến trường Kon Tum. Đêm, trong hầm chỉ huy, tôi và một vài người bạn, trong số có một thiếu tá tiểu đoàn trưởng, ngồi uống rượu quên đời. "Uống đi tụi bay, biết đâu ngày mai còn có dịp ngồi nhậu với nhau không". Sáng hôm sau anh tiểu đoàn trưởng, người đã nói câu đó, và một bạn khác bị đụng độ nặng và tử trận. Đôi khi, bây giờ, ngồi uống một mình, tôi bùi ngùi nhớ đến câu nói và những người bạn quá cố đó.
Hết chinh chiến rồi, mà bây giờ máu nhà binh vẫn còn đầy trong huyết quản, khi được hoặc bị ngồi vào chiếu rượu rồi thì khó mà thoát lắm...."
 
 
 
(Nguồn : DĐ VDH-DL)


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Jan/2011 lúc 5:44pm
 

Vệ sinh hồ Xuân Hương Dalat, chuẩn bị Tết con Mèo !



BB
(Nguồn : Da-List)

-------------
mk


Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 22/Jan/2011 lúc 10:32am

Chiều nhớ Mẹ

Tôi mến yêu hoài ơi quê hương

Đây buổi chiều khuất ánh tà dương

Như ngàn hoa tím đang nhảy múa

Tím cả lòng tôi nỗi nhớ thương

 

Tôi mơ sống hoài trong chiều mộng

Chiều quê hương sóng vỗ đều đều

Và những khi biển khơi lộng gió

Thuyền căng buồm- lòng Mẹ chứa yêu thương

 

Gió biển về tôi thầm gọi Mẹ

Sao thấy lòng se lại- xót xa

Mẹ hỡi, tha tội cho con nhé

Vì để Mẹ trông buổi chiều tà

 

Rời đồng ruộng Mẹ về trong nắng

Tóc phất phơ đưa gió qua mau

Buổi cơm chiều nay sao vắng lặng

Đũa chén trầm ngâm, nhà quạnh hiu

 

Mẹ ơi! Xin Mẹ chớ có buồn

Con chỉ xa Mẹ nay chiều buông

Mai con về đến bên gối Mẹ

Để Mẹ khỏi lo những đêm trường

 

Xa Mẹ con vẫn sống bình yên

Vòng tay của biển- tay Mẹ hiền

Gợi mãi khúc ca tràn ý nhạc

Xôn xao tiếng sóng vỗ triền miên

 

Sao chiều nay con da diết nhớ

Bóng Mẹ trên đồng ruộng thân yêu

Trong đêm dài con nằm trăn trở

Nhớ Mẹ hoài giấc ngủ chẳng yên

 

Biển mặn mà nặng mang tình mẹ

Lời ru êm hay gió quê hương

Mẹ yêu con như dòng sông lặng lẽ

Đổ ra khơi nào ngại biển mênh mông

 

Như rừng biển mặn còn xanh lá

Tấm lòng của Mẹ luôn cao cả

Chiều nay gợi ngàn nỗi thiết tha

Tôi yêu mãi biển rộng bao la.

                                                Biển Tân Thành

                                                dthikieu



Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 25/Jan/2011 lúc 12:18pm
NGƯỜI…TA
-Nói nho nhỏ, thầm thì thôi anh nhé
Đừng la to thiên hạ lại cười cho
Chỉ nhịp lòng rực rỡ hòa nhịp thơ
Che kín đáo những dày mưa, thưa gió*
Không dầu béo, họ rán hành ra mỡ
Ba Má hay này…kia… nọ… lắm đòn
Rồi ồn ào, rộn chòm xóm, bà con
Mây dòm ngó, núi còn tai anh ạ!
 
-Sao anh hỏi điều chi em cũng: -Dạ!
Mà chỉ riêng một câu hỏi: Có thương?
Em lại lo những khuôn sáo tầm thường
Không độ lượng? Để lòng anh canh cánh!
Người ta hỏi mà tại sao né tránh?
Áo mong manh, mân mê mãi sao đành?
Anh chờ lâu, dám nón cũng …tưa vành!
Dung, ngôn, hạnh Người Ta nào đâu thiếu!
 
-Anh ong bướm thì làm sao em hiểu?
Không cau trầu đem dạm… hỏi người ta?
Kia kỉa kìa… anh khệnh khạng, khề khà
Người Ta thế, người ta này đâu dám.
 
Á Nghi.


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Feb/2011 lúc 6:24pm
 
Hồ Xuân Hương  Dalat với hoa anh đào. Hình chụp sáng 29 Tết.


BB-K9




-------------
mk


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 02/Feb/2011 lúc 5:48am
http://vietnamlibrary.informe.com/nh-oc-powerpoint-do-vietnam-library-network-s-u-t-m-dt3520.html">
LK. ĐÀ LẠT HOÀNG HÔN-THƯƠNG VỂ MIỀN ĐẤT LẠNH
Anh Khoa
Thanh Tuyền
 
http://vietnamlibrary.informe.com/nh-oc-powerpoint-do-vietnam-library-network-s-u-t-m-dt3520.html


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: tuavanle
Ngày gởi: 03/Feb/2011 lúc 2:09pm

Thơ

Thơ Lc Bát

Sáng buồn chẳng biết làm chi,

làm thơ Lục Bát đôi khi lại buồn.

Mà không thơ cũng nhớ thương,

bắt đền ai nhỉ Quê Huơng bây giờ?

Sáng buồn.  Trời không có mưa,

chỉ sương mờ mịt đợi chờ nắng lên.

Và tôi, mờ mịt chỗ quên,

chỗ em không biết cái tên bao giờ…

Sáng buồn.  Nói vậy mà thơ.

Mà qua rồi đó không ngờ ngày tôi!

Sao không ngày của mọi người.

Sao không nghe một tiếng mời mọc nhau?

Em à, ngày tháng qua mau.

Ba mươi năm nhỉ, hôm nào như mơ!

Má tôi nằm dưới nấm mồ,

bao nhiêu thương nhớ bây giờ để đâu?

Trong thơ Lục Bát vài câu?

Trong trưa võng đẫy,  Má ru hồi nào?

Cái tình cái nghĩa ôi chao,

cái khăn lau mặt trùm đầu nắng mưa?

Bên sông ai đó chờ đò.

Bên sông còn đám cây dừa nước không?

Hỡi em hai má thật hồng,

sáng xưa còn ấm trong lòng tôi đây!

Câu thơ Lục Bát nào hay,

xin em ráng giữ chờ ngày hồi hương.

Em là chín nhớ mười thương,

anh thêm một nhớ để còn tương tư…

From Internet.




Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Feb/2011 lúc 4:19am
 
HOA ĐÀO ĐÀ LẠT
(Bảo Bườn)
 
 
 
Năm nay hoa anh đào nở đúng dịp Tết nguyên Đán.

Trong khu nhà Thủy Tạ.

 
Ở hồ XH





 
 
Hòa Bình đi xuống

 
Lên Hòa Bình 
 
 
Đường Trần Hưng Đạo



BB




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Feb/2011 lúc 4:42am
Chiều Xuân Nhớ Nhà

Mùa xuân gian nhà nhỏ
Thui thủi một mình ta
Trông vời về quê cũ
Chỉ thấy mây ngàn xa

Chiều xuân nghe chim hót
Núi xanh biếc một mầu
Lòng ngậm ngùi thương nhớ
Nhà đầm ấm nay đâu

Đã mênh mông trời biển
Cố hương khuất lối về
Bóng nhạn hoài biệt xứ
Man mác sầu tình quê

-Anne
(DĐ VĐH ĐL)

__._,_.___


-------------
mk


Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 08/Feb/2011 lúc 10:21am


Nhà ai thấp thóang  hoa đào nở.

Một lối đi về thật khó quên.
Trời mây lảng đảng bên sườn núi,
Đậm nét quê nhà Đà Lạt mơ..!
                           hp


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 08/Feb/2011 lúc 5:58pm
 

Có Những Mùa Xuân 

Xuân về Việt Nam!
Thành phố đẹp muôn màu!
Tết đến! Chữ vàng phông 
đ
ỏ .
Xe cộ vui,
phố bụi mờ

Có con kinh cạn kiệt vật vờ trôi,
qua thành phố đông người .
Dòng nước đen ngòm không sự sống .
Người vui rộn rã giữa mùi hôi!

C
ó
 con chó chạy hoang,
chiếc Mercedes vụt ngang,
ô
ng cán bộ với cặp kính vàng,
chẳng quay lại ngó .
Còi b
m vang vang ...

Trước một qu
á
n hàng,
thằng bé lang thang,
miệng há to,
á
nh mắt thèm thuồng soi tô phở nhỏ ...

Tết đến ! Chữ vàng phông 
đ
ỏ .
Người phế binh ngồi trăn trở không chân,
Xuân lăn anh quanh hè phố,
nhặt chút đời trên mảnh gỗ bâng khuâng .

Xuân về — Việt Nam !
Chàng Việt kiều hâm hở bước nghênh ngang .
Quen từng đống rác tới cửa hàng,
chàng chếnh choáng men bia ôm nồng cháy
và buổi tiệc ngon .

Vui đấy ! Việt Nam !
Thành phố lớn muôn màu !
Ðón Xuân—chữ vàng phông 
đ
ỏ .
Xe cộ vui,
phố bụi mờ!

smc
(Da-List)
 


-------------
mk


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 08/Feb/2011 lúc 10:00pm
ĐÀ LẠT MÙ SƯƠNG
 
http://vietnamlibrary.informe.com/dalat-mu-suong-dt5184.html -


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 13/Mar/2011 lúc 7:23pm
 
From : 2011/3/12 Bao Buon

Hoa Ban ở Dalat



Vài năm gần đây, con đường Trần Phú ( Yersin trước đây) ở Dalat, vào mùa này nợ rộ hoa ban ( còn gọi hoa móng bò trắng), cả con đường bùng sáng 1 màu trắng. Loài hoa này trước 75 không hề thấy ở Dalat.
Xin gởi đến cà nhà cùng xem.







Phía xa là đỉnh Lâm Viên :



BB-K9


-------------
mk


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Apr/2011 lúc 12:20pm
http://www.chanphuocliem.com/TrangLuomLat/P_Dalat_TinhYeu&NoiNho.pps -  
- Khánh Ly, Diễm Liên, Anh Dũng... 


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 06/Dec/2011 lúc 5:00pm


ĐÀ LẠT



"Phố núi cao, phố núi đầy sương..."


BB



-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 07/Dec/2011 lúc 5:08pm


ĐÀ LẠT



"Hoàng hôn , lá rơi bên thềm..."


Phía xa là núi Lâm Viên :



BB





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Dec/2011 lúc 9:07pm


ĐÀ LẠT, THỜI CẮP SÁCH
 
 
Tôi xa Đà Lạt khi vừa học xong lớp 10C tại trường Bùi thị Xuân để theo gia đình về Nha Trang... Đúng vào lúc tôi đang "yêu" Đàlạt. Đúng vào lúc tôi bắt đầu biết "mộng mơ”, mặc dù lúc ấy chỉ là một nữ sinh "ngây ngô". Thật sự tôi cảm thấy mình ngây ngô lắm, so với những bạn cùng lớp, cùng lứa tuổi. (Nhưng đã sao nào...Vì "Thuở ấy nào tôi có hiểu gì" ngoài chuyện ăn học và sống yên ấm dưới mái gia đình, với bố mẹ, anh em). Và, chỉ nguyên những sinh hoạt trong gia đình đủ làm tôi "bận rộn". Hàng ngày, cắp sách đến trường, lo chuyện bài vở. Về nhà, ngoài chuyện học bài làm bài, lại còn "công tác" trông em- đứa em út còn nhỏ- để mẹ tôi lo việc nhà, và cửa tiệm.
 

Phố phường
 

Hồi tôi học lớp đệ tứ tại trường Bùi thị Xuân cũng là năm mẹ tôi mở tiệm. Tên tiệm là Yên Sơn, vừa bán gạo một bên, vừa bán trà Bảo Lộc và cả hoa lan nữa, một bên. Tôi còn nhớ tiệm nằm ở khu Hoà Bình, truớc cửa chợ Hoà Bình, cạnh tiệm bánh mì cũng tên là "Hoà Bình" cũng vừa mớí mở. Theo mẹ tôi nói thì địa điểm này rất thuận tiện cho các bà nội trợ đi phố xong ghé vào mua gaọ và nước mắm. Lý do để mẹ tôi mở tiệm rất tình cờ. Đó là nhân một chuyến đi chơi Phan Thiết thăm bà bác ruột của tôi, mẹ tôi gặp một nhà sản xuất nước mắm Vạn Hương, rất nổi tiếng bấy giờ.
Bà cụ Vạn Hương hồi ấy dĩ nhiên là còn trẻ, cỡ tuổi me tôi, khoảng chừng bốn mươi; và chắc chắn là trẻ hơn chúng tôi bây giờ, nên cụ còn có óc kinh doanh. Bà cụ trông người cũng rất nho nhã, tử tế; và tính tình cũng hợp với mẹ tôi, nên bà cụ cũng rất cảm tình. Thậm chí một thời gian sau hai cụ kết nghĩa chị em. Bà Vạn Hương có đề nghị muốn có thêm đại lý nước mắm ở Đalat. Thấy me tôi có vẻ thành thạo, nên cũng rất vui để hợp tác. Và ngoài sự “hợp tác” còn là cái cảm tình quý hoá nhau. Thế là me tôi "kết" ngay- Hình như các cụ cảm thấy "hợp" nhau - nên không ngần ngại sẵn lòng hợp tác. Đấy, các cụ ngày xưa cũng "hay" thế đấy. Tôi biết, dưới mắt tôi, và qua lời kể của bà, tôi thấy mẹ là một người có tâm hồn nhạy bén và thích văn thơ. Nhưng mặt khác lại lại cũng rất thực tế, đảm đang. Đúng vào lúc ấy, dãy phố mới của khu hoà Bình bắt đầu mở; và mẹ tôi bắt đầu thăm dò để thuê một căn. Theo mẹ tôi nói- khi cụ ở tuổi còn đang hoạt động- chỉ muốn làm một cái gì chứ không thích rảnh - cửa tiệm của bà ngoài gạo, nước mắm để bán cho "mấy bà vợ công chức" vì nhu cầu lúc bấy giờ...Rất tiện cho các bà đi phố xá rồi ghé qua.
Vì hiểu tâm lý và nhu cầu của khách hàng, và cũng vì gian hàng khá rộng rãi khang trang, mẹ tôi bày biện cho trang nhã. Với tư cách đại lý gạo nước mắm, bà chỉ bày chừng chục bao gạo tượng trưng, chục lu nước mắm tượng trưng, cho đủ mặt hàng một bên. Vì nhu cầu thường nhật thực tế v à tiện dụng cho các bà nội trợ. Bên trái, là gian tạp hoá nhưng chỉ bán những "món" tượng trưng cho Đàlạt. Từ trà Bảo Lộc đến lan rừng. Đứng từ cửa nhìn vào phiá bên trái là quầy tủ kính, nơi mẹ tôi bày những hộp trà, gói trà lớn nhỏ vào môt dãy. Dãy kia là những chiếc áo len đan kiểu mới rất mỹ thuật nằm gọn ghẽ trong tủ kính cao mà tôi thường ngắm một cách “khao khát”. Trước cửa tiệm treo những giỏ lan rừng trông thật trang nhã. Ở giưã dành một lối đi rộng rãi. Cho nên bước chân vào tiệm khách chỉ thấy một sự thoáng mát, khang trang không thấy cai gì là gạo, là mắm, bận bịu hay tất bật như những tiệm khác.
http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSnwhGBnAwqdSJHAvH1mqqzGr4Ii1lzb93rpCeUw_GonHjYu7Gv
Khu Hoà Bình-Dalat

Mẹ tôi thưòng tự hào về mắt mỹ thuật của bà. Khách của cụ ngoài những người sống quanh khu vực, còn có đa số các bà nội trợ, phu nhân của các vị công chức trong, ngoài trường Trần Hưng Đạo đặc biệt chiếu cố. Hình như các cụ có cái thú gặp gỡ, trà nước ngay ở tiệm một cách an lạc, không vôi vã. Khách nhận thấy đây là nơi dừng chân thoải mái để mua những món rất thực tế mà không phải chen chúc, căng thẳng. Buổi tối tôi thường được me tôi tin cậy, “cử” tôi ở lại "trông tiệm" cùng với bà chị họ của tôi -bà chị thường phụ tá với me tôi ở cửa tiệm. Thế là hai chị em ở lại tiệm buổi tối, tôi được yên tĩnh học hành. Tiệm có lầu để ở, có phòng ngủ, phòng khách, và bếp vừa đủ tiện nghi. Lại có cả balcony nhìn ra đường,rất tiện cho việc... ăn hàng buồi tối của chúng tôi. Và như vậy tôi đi đên trường cũng gần hơn. Me tôi hồi ấy thì có khi về nhà buổi tối nếu hôm sau không phai bân rộn sớm. Có khi bà ở lại tiệm. Ở tiệm hay ở nhà, sáng nào bà cũng dậy sớm tập thể dục, và tụng kinh niệm Phật trước khi tiệm mở cửa. Khi nào bà về nhà -lúc ấy nhà vẫn ở trong trường Trần Hưng Đạo- thì chúng tôi đúng là "gà vọc niêu tôm" (hay "gà mọc đuôi tôm" cũng thế). Cho nên gọi là trông tiệm chứ kỳ thực chúng tôi đâu có phải làm gì. Tôi còn nhớ buổi tối khu phố thật yên tĩnh. Chỉ có tiếng rao lanh lảnh nửa đêm của chị bán chè bột khoai nghe văng vẳng và xa vắng “Ai ăn chè bột khoai bún tàu,đậu xanh nước dừa đường cát hô...ông”, hay tiếng rao đầy quyến rũ của gánh phở rong, mì rong. Chị em tôi thường thường mỗi khi nghe tiếng rao là lại "cầm lòng không đậu". Thế là bảo nhau sáng chế ra một cách ăn hàng không phải mở cửa duới nhà vào ban đêm. Thế là một cái giỏ tròn tròn được buộc chăt chẽ hai bên vào hai sợi thắt nối hai đầu lại với nhau . Rất an toàn để thả xuống đường cùng với số tiền trả cho hàng chè, hàng phở. Thật là thú vị. Bây giờ nghĩ lại mà thèm sống lại những thời kỳ ấy.  
 
Bạn cũ

Sở dĩ tôi nhắc đến cửa tiệm của me tôi vì nó có môt sự gắn bó với tôi khi bước chân sang Bùi thị Xuân. Tôi không phải đi bộ từ trường Trần Hưng Đạo bằng lối tắt như tôi đã làm thế một năm trước đó. Tôi có dịp cắp cặp đến trường bằng con đường Hàm Nghi. Con đường quanh co dẫn tôi đến Bùi thị Xuân từ phiá phố chợ cũng giản dị hơn, thay vì phải băng qua những ngọn đồi để đi lối tắt sang trường BTX. Nhưng đẹp hơn cả vẫn là những kỷ niệm khi bạn bè rủ nhau về cùng đường. Tôi vẫn chưa quên những buổi trời mưa nhỏ hạt, hay những hôm đuờng phố ướt át, lạnh lẽo, chúng tôi đi về trên con đường Hàm Nghi quen thuôc này, băng qua một dãy những cửa tiệm mà gìờ đây tôi không nhớ hết tên. Điều làm tôi nhớ mãi vẫn là hình ảnh những người bạn cùng lớp, đi về cùng đường. Toàn là những người đẹp đã một thời được ái mộ. Mà mỗi người một vẻ..Hồi ấy, về cùng đường với tôi là những người đẹp Oanh Trảo và Kim Chi. Kim Chi cao cao, “điệu” và duyên dáng. Oanh Trảo với dáng dấp thanh tao, mái tóc dài liêu trai, gương mặt mảnh mai....Thùy mị và đứng đắn, Oanh Trảo được
nhiều người ái mộ vì “mỏng mày hay hạt”.
 

Đường Hàm Nghi dẫn đến trường Bùi thị Xuân, Đalạt

 

Một chị bạn nữa là Lê thị Hoa cũng điệu, và dễ thương với mái tóc đen và điệu; tóc dài, da trắng môi hồng mà tôi nghĩ chắc cũng có nhiều anh ngấm nghé. Nói đến người đẹp lớp tôi thì không thể không nhớ đến Mỵ Hượng và CôngTằngTôn Nữ Xuân Ninh. Hai cô bạn thân nhau như cặp bài trùng. Người đẹp Mỵ Hương hay đi với người đẹp Xuân Ninh- Mỗi người một vẻ. Riêng Mỵ Hương đã từng làm Trưng Trắc. Ai mà không biết tiếng Mỵ Hương là ...một điều thiếu sót. Một nhân vật khác không kém quan trọng là Phùng Diệm Quỳnh, cô bạn khả ái, tươi vui và hay cười, đặc biệt tôi còn nhớ cô bạn Diệm Quỳnh ngày ấy rất “ngoan”, rất ân cần và đậm dà tình nghĩa. Cách đây hơn một năm, khi tôi gặp lại Quỳnh trong kỳ Hội Ngộ ở Houston, dù chỉ là trong giây phút ngắn ngủi vì Quỳnh không đi cruise, nhưng nàng Quỳnh bây giờ vẫn thế, vẫn dễ thương như ngày nào. Cùng lớp với chúng tôi còn có Tăng Tuyết Khanh mà nếu không nhắc tới thì cũng không trọn vẹn.Tuyết Khanh trông đẹp một cách giản dị ; và đặc biệt, tuy không lộng lẫy nhưng khi trang điểm thì lại nổi bật hơn cả. Thế mới lạ; vì nét trời cho đã có sẵn. Xuân Ninh ngồi cạnh tôi, cô nàng thường hay vẽ hình người đẹp, nhìn profile với mũi, miệng nhìn nghiêng trông thấy hay hay.  Tôi cũng bắt chước Xuân Ninh vẽ kiểu như thế, nhưng chắc chắn không thể bằng. Hình như là Xuân Ninh phác hoạ Mỵ Hương. 
Một người đẹp khác trong lớp không thể không nhắc tới là Hiếu. Từ trường Trần Hưng Đạo chuyển qua, nàng Hiếu duyên dáng đã “hội nhập” ngay với cái “xã hội dân sự” nhỏ bé đầy những tinh hoa ấy trong khung cảnh Bùi thị Xuân. Hiếu đặc biệt là có duyên với hai cái lỗ dùi bên mép, hi vọng bây giờ vẫn còn. Hiếu thưòng dí dỏm và thường hay cuời “khanh khách” nghe rất vui và pha tí nghịch ngợm. Tôi cũng còn nhớ Bùi thị Huệ với nước da trắng, và môi đỏ, hơn nữa, Huệ rất phóng khoáng và quảng giao. Vào năm đệ tam lớp chúng tôi có thêm Kim Cúc mới từ Sàigòn lên học. Cúc nghịch một cây, nói năng hoạt bát, dạn dĩ...Còn nữa mà tôi chưa thể nhớ hết.
Một bạn nữa khá đặc biệt, đó là Nguyễn thị Mai.  Hồi ấy ai cũng bảo tôi giống Mai; vì có lẽ hai đưá cũng có chiều cao tầm thước giống nhau. Mai hơn tôi một tuổi nên được coi là “chị”. Mai cũng có vẻ thạo đời hơn tôi, thực tế hơn tôi và có lẽ “khôn” hơn tôi. Hình như sau đó Mai thôi học hay đi đâu mà tôi không nhớ rõ. Có một điều tôi nhớ rõ  là tôi có cái may mắn đuọc lọt vào một lớp học có nhiều người đẹp và lại giỏi nữa..Giờ này tôi còn hình dung nét của từng người bạn một. Đúng là “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”...


Thầy xưa
 

Nói đến trường Bùi thị Xuân mà không nói đến bạn bè thì chưa phải là tình học đường. Mà nói đến các bạn học mà không nhắc đến thầy cô thì lại càng là một điều vô nghĩa. Các thầy, cô tôi thuở tôi còn học ở truờng Trần Hưng Đạo và cả sau này ở Bùi thị Xuân là những bậc thầy khả kính. Làm sao tôi có thể quên được hình ảnh cô giáo tôi, cô Hiển - dạy Pháp Văn khi tôi ở Đệ Thất, Đệ Lục. Cô hình dáng gầy gò, thanh tao và đặc biệt là hiền và nghiêm. Cô rất quý bọn tôi và lên tiếng rày la những nam sinh hay buông lời trêu đùa “học sinh con gái” ở trong lớp. Có một anh tên Hiền thường vui tính và thích chọc đùa nữ sinh, nên hay nói những lời bông đùa “ngoa” rằng: “Cô ơi cô, con gái hư lắm, giết chết con gái đi” . Thế là anh chàng lại bị cô Hiển bắt phải giữ im lặng trong lớp và bị la rằng “chỉ được cái nỏ mồm thôi”. Thực ra chúng tôi biết mấy “nam sinh cùng lớp” này rất vui tính và chỉ đùa cho lớp sống động thêm, và cả cô cũng biết thế. Nhưng với cuơng vị là cô giáo, cô Hiển vẫn phải nói những điều cần nói để giữ trật tự trong lớp và cũng là để các nam sinh “liệu” mà tỏ thái độ nghiêm trang hơn. Cô luôn luôn bênh vực mấy em nữ sinh, vì biết mấy em “ngoan”. Cô Hiển là vợ thầy Nguyễn đức Kim dạy môn Toán. Thầy có một phương pháp dạy Toán rất hay với một phong cách đặc biệt và thoải mái, khiến học trò... dở Toán như tôi cũng không bị “căng thẳng” vì môn này. Tôi cũng không quên tất cả các thầy cô đã dạy tôi từ những năm học Trung học đệ nhất cấp cho đến khi tôi vừa bước chân vào đệ nhị cấp.  Dạy Việt văn thì có thầy Nguyễn Vỹ. Thầy thật nghiêm, ít nói, đặc biệt là rất trầm lặng.  Nhiều lúc chúng tôi thấy thầy trầm lặng và buồn buồn một cách ...khó hiểu.  Ít lâu sau thầy nghỉ dạy. Chúng tôi nghe phong phanh hình như Thầy đi “làm cách mạng”, nhưng không biết  tin này có chính xác không? Sau đó, chúng tôi không được tin thầy nữa. Về nhạc thì có thầy Phạm đình Tín. Thầy Tín rất hiền và dễ chịu, vừa dạy vẽ vừa dạy nhạc. Đến khi chúng tôi được dời sang học ờ trường Bùi thị Xuân thì tôi lại được học với các thầy cô khác.
 
Sân trường Buì thị Xuân Đàlạt
 
Hiệu trưởng truờng Bùi thị Xuân bấy giờ là cô Nguyễn văn Đãi. Cô là vợ của Thầy Nguyễn văn Đãi-làm Phó Thị Truởng thành phố Đàlạt. Cô có tên rất hay - Nguyễn Khoa Diệu Liễu. Cô Đãi lúc ấy làm giáo sư hướng dẫn lớp tôi. Cô dạy Việt Văn. Vào những lúc lớp học có giây phút rảnh rỗi, cô thường hay đọc cho chúng tôi những bài trong Nam Phong Tạp Chí, Đông Dưong Tạp Chí ngày trước để cho chúng tôi hiểu rõ một giai đoạn văn học của nước nhà. Lúc khác, cô thuờng dùng ít phút trống để dạy những bài hát tiếng Pháp cho chúng tôi tập, mà giờ đây tôi quên gần hết. Chỉ nhớ bài “One day” mà tôi rất thích. Cô yêu văn chương, say mê những áng văn học thời tiến bán thế kỷ XX. Giọng cô ấm áp, vẻ mặt cô hiền từ và ân cần với từng học sinh. Cô thương bọn nữ sinh ngoan ngoãn, học giỏi.lớp cô hướng dẫn. Cô “cưng” Tăng Tuyết Khanh nhất thì phải. Tôi nghe nói thế, chả biết có đúng không nhưng nếu như vậy cũng phải. Nhưng, nói chung thì cô yêu tất cả. Chắc chắn là cô không ghét đứa nào. Cư 1nhìn vẻ nhìn nhân ái của cô thì đủ biết.
Chúng tôi rất thương cô Đãi. Bao nhiêu năm trời, cũng như nhiều bạn khác, tôi thỉnh thoảng vẫn nghĩ đến cô mà không có dịp thăm viếng. Nghe nói các bạn ở Cali còn có dịp thăm cô. Ngày đó tôi còn ở Ottawa, khá xa, nên chưa đi được ngay. Có lần, nhân nói chuyện với chị Phương Thu, tôi đươc biết chị Thu cũng là học trò cô Đãi, cũng học những thầy cô giống như tôi, nhưng chị ở lớp lớn hơn. Tôi cảm thấy vui mừng khi đuợc gặp lại người Đàlạt ở Ottawa. Khi dời xa Đà Lạt vào cuối năm đệ tam, năm ấy, tôi vẫn còn mang nặng trong lòng cảm tình quý mến đối với một số thầy cô.  Đặc biệt là Cô Cẩm Anh, một trong những giáo sư tôi rất yêu mến, kính trọng.  Cô đẹp và hiền. Sau này, khi tôi đã đi dạy ờ trường Nữ Trung Học Nha Trang, nhân một lần về làm Giám khảo Kỳ thi Văn Chương Phụ Nữ Toàn quốc, tôi có được gặp cô Cẩm Anh tại trường Nữ Trung Học Trưng Vương. Lúc đó từ Bùi thị Xuân, cô đã xin đổi về dạy tại trường Trưng vương được vài năm. Gặp lại cô thật vui... Từ bấy đến nay, thời gian đã lâu quá, bây giờ chắc chắn cô đã quên. Ngày ấy tôi đâu có biết liên lạc, gắn bó với Thầy, với bạn “chặt chẽ” được như bây giờ.  Năm đệ tứ chúng tôi học với những thầy cô khác; như cô Xuân An dạy Anh Văn, thầy Phúc dạy Pháp văn. Lên đệ tam lại có cô Trương Mộng Ngọc dạy Sử Điạ. Cô  cũng mới đổi về; người cao cao gầy gầy, mặt rất đẹp và thanh. Anh Văn đệ tam thì có thầy Tạ Tất Thắng. Thầy mới ở Úc về, dạy giỏi, vui và có duyên. Các học sinh rất quý.  Những năm trước đó nghe tiếng Thầy, chúng tôi ao ước được hoc với thầy.  May mắn thay, năm đó thầy dạy lớp chúng tôi. Tôi còn nhớ năm đệ tam thầy dạy cả văn học sử Anh. Tác phẩm tôi còn nhớ mãi là “She stoops to conquer”` (cúi xuống để chinh phục)- mà tôi thấy rất thú vị và thấm thiá với khía cạnh triết lý của tác phẩm. Đó là triết lý về sự khôn ngoan, nhún nhường để có thể thắng hoàn cảnh hay đối phương.


 Núi đồi Đàlạt


Con đường Hàm Nghi dẫn tôi đến trường mỗi ngày tuy không đông đúc bằng những con đường khác, nhưng vẫn làm tôi nhớ vì nó đã nối trường đến phố. Đặc biệt, dù đã bao năm xa Đalat nhưng tôi vẫn không quên được tiệm phở Hàm Nghi. Phở Bằng và Phở Tín, nổi tiếng vói món phở áp chảo mà tôi thích và gia đình tôi thích. Cuối tuần chúng tôi thường được bố mẹ dẫn đi ăn tiệm. Món đắc ý nhất của chúng tôi là món phở này. Phở áp chảo ngon và đặc biệt ở chỗ bên ngoài rất dòn, mà bên trong nóng hổi và vẫn mềm. Trời lạnh lẽo, bước chân vào tiệm chờ món phở xào áp chảo bưng ra, ăn dòn tan bên  ngoài nhưng mềm mại và nóng hổi bên trong cộng thêm nước sauce với đủ mọi thứ rau, cà chua, chouffleur, cà rốt, hành tây, tỏi tây, bắp cải v.v... sào nóng đồ vào với mùì tiêu bốc lên thơm lừng, sao mà “êm ái và ngọt ngào” đến thế.
Nhưng nói đến Đà Lạt mà chỉ nhớ đến phở là không đủ, và nói đến món ăn thì đã có nhiều bài viết đến rồi.  Điều làm tôi nhớ mãi Đàlat là những chuỗi ngày đi học với những kỷ niệm rất đơn sơ, êm đềm mà giờ đây chỉ còn là những hình ảnh mơ hồ của mấy chục năm về trước. Tôi xa Đàlat đã lâu chứ không được cái may mắn ở Đalạt cho đến ngày mất nước để thấy rõ hơn cái phũ phàng của hoàn cảnh đất nước, của thời cuộc Việt Nam và cái vô thường của cuộc đời như tôi và nhiều người đã phải trải qua khi ở Nha Trang truớc ngày nước mất.
 

Cho nên kỷ niệm về Đalat vẫn còn nên thơ, vẫn đẹp nguyên vẹn trong tôi. Tuy đã xa cách nhìều năm nhưng Đalat vẫn còn rất đậm nét.Tôi vẫn trân quý những kỷ niệm đó, kỷ niêm của một thời cắp sách. Kỷ niệm của tôi "có" trong cái "không", và vẫn "không có gì" trong cái "có" đó...Nhưng khó mà mua được. Nói thế để thấy rằng mỗi người lại có những kỷ niệm riêng, một tâm trạng riêng cũng như cảm xúc riêng. Những kỷ niệm ấy có thể có ý nghĩa với người này nhưng lại vô nghĩa với người kia. Điều quan trọng là mình thấy gì, cảm gì và biết quý hoá, trân trọng những gì mình có. Chỉ có thế, nhưng sao tôi thấy rất là quý .
 

Hồi ấy như đã nói, ngoài chuyện học hành tôi chỉ biết "trông em" - quên, lại còn thích nấu ăn nữa chứ- Tôi thích “làm bếp” chỉ vì chị bếp hay sào nhiều dầu mỡ mà tôi không “chịu” được. Thế là phải xin cho “em” được sào . Đúng là “hay ăn thì lăn vào bếp”. Mà thực sự thì tôi thấy cái thú trong việc này. Ngoài ra, lúc rảnh thường hay nghêu ngao hát; và mê nghe nhạc, thích chép và thưởng thức những bài thơ của những thi sĩ thời Tiền chiến. Những Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng lư, Thế Lữ, Đinh Hùng, Nguyễn Bính v.v... là tôi không bỏ qua. Nhưng mới mẻ hơn, độc đáo hơn - vào lúc ấy- là thơ TTKH. Rồi thơ Nhất Tuấn, nhẹ nhàng, mới mẻ và rất...Đà lạt. Các bạn tôi hồi đó nàng nào cũng ngâm nga câu thơ, ân cần:
                                                            Noel xưa anh nhớ,
                                                            Khi hãy còn yêu nhau,
                                                            Nhà thờ nơi cuối phố.
                                                         Thấp thoáng sau hàng dâu
                                                          Em cùng anh đi lễ,
                                                            Cùng chung lời nguyện cầu
                                                            Mimosa bừng nở,
                                                            Đẹp như tình ban đầu.... 


Hoa Mimosa Dalat
 
Mặc dù hồi ấy tôi cũng chưa biết “theo mốt” để có mối “tình đầu” cũng như chẳng có “tình cuối” gì vội, tôi chỉ hơi “vương vấn” nhẹ nhàng một chút thôi; nhưng vẫn thấy thơ Nhất Tuấn là ...có lý. Nữ sinh Đàlat thời ấy mấy ai mà không biết thơ Nhất Tuấn và thơ TTKH. Nhất là đối với  những ai đã biết hẹn hò? Riêng tôi, tôi thích thơ nhất Tuấn vì cái vần điệu, và vì có hoa mimosa tôi thích. Thuần túy chỉ có thế. Nếu thơ TTKH là sầu khổ thì thơ Nhất Tuấn lại dễ thương, trong sáng và hi vọng.  Bạn bè tôi thường thuộc nằm lòng mấy câu thơ “thời thượng” đầy gợi cảm và gợi hình của thi sĩ Nhất Tuấn: “Áo tím quần đen dáng dịu hiền, Nơ xanh buộc tóc lại thêm duyên”. Tôi cũng như các bạn khác, thường chép lại thơ vào môt tập thơ riêng để lúc rảnh ngâm nga, thưởng thức. Không hiểu sao tôi yêu thơ, yêu nhạc đến thế. Cứ mỗi lần gia đình tôi, bố mẹ và anh em - thường hay đi ciné hoặc xem những đoàn cải lương Thành Được-Thanh Nga v.v...nếu nhằm hôm có nhạc yêu cầu là tôi lại thoái thác để ở nhà nghe, nhất là nghe ban Hợp Ca Thăng Long.
Tôi mê Thái Thanh từ hồi còn nhỏ, khi bắt đầu biết yêu thích tân nhạc. Lúc bấy giờ chép thơ dường như đã trở thành cái “mode” của nữ sinh BTX nói riêng, và có lẽ là chung cho tất cả các nữ sinh một thời tại các trường. Nhưng vói riêng tôi, những "vần thơ sầu rụng" ấy đã theo tôi suốt chiều dài của đời học sinh và cả thời sinh viên nữa. Thơ tiền chiến, nhạc tiền chiến là một cái thú khó bỏ. Ngoài ra, còn là sách Tự Lực Văn Đoàn mà tôi mê đọc; và đọc say sưa, nhưng phải đọc ... lén ba tôi. Những sách viết chung của Khái Hưng và Nhất Linh từ “Đôi Bạn”, rồi “Đoạn Tuyệt” cho đến “Nửa Chừng Xuân'. Nào là “Lạnh Lùng”, “Gánh hàng hoa”, với “Đời Mưa Gió”....Đủ cả, “thập loại chúng ...truyện”.  Đấy, thú vui và bổn phận của tôi có chừng đó. Chưa phải lo lắng gì nhiều ngoài chuyện bài vở, sách đèn.  Tôi còn có thêm một nhiệm vụ khác nữa là để ý việc “bếp núc” một chút với chị giúp việc; đồng thời cũng giúp mẹ những chuyện lặt vặt khác, như để ý việc nhà cừa gọn ghẽ v.v...Con gái, “tập làm, tập ăn” mà! (Nghe như có vẻ như “con nhà lành”, “đảm đang”, nhưng thực sự chỉ là vô tư).  Bây giờ nghĩ lại cứ "như đá ngây ngô" vậy.
Không hiểu tại sao, lúc ấy trong lòng tôi chẳng chút ưu tư , cũng không biết nhõng nhẽo, đòi hỏi gì cả. Nhưng tôi biết là chắc chắn nhiều cô nữ sinh hay nhõng nhẽo. Tôi còn nhớ khi đã lên lớp đệ tứ thì tôi bắt đầu thấy mơ mộng rồi. Còn bạn tôi thì một vài nàng bắt đầu dấu hiệu muốn làm “cách mạng” hay “nổi loạn”. Có lẽ phải như thế mới “sống động” hơn tôi. Nhưng, cũng “may” là những bạn ấy lại không nằm trong nhóm mấy cô bạn ngoan hiền, hoc giỏi kể trên. Còn tôi thì chằng có gì... đáng nói. Có chăng chỉ là một sự cảm nhận về những năm tháng của tuổi học trò mà bây giờ nhớ lại sao thấy thật êm đềm, không sóng gió. Nhiều lúc nhớ lại cả một quãng thời niên thiếu tôi thấy rất quý...Thật quả "Ôi êm ái là thời gian cắp sách” vì cuộc đời chưa có gì là vất vả cả, tôi chưa kịp thấy khổ sở bao giờ... Đặc biệt quãng thời gian đi học ở Đàlat đối với tôi là một kỷ niệm rất êm đềm và khó phai. Bây giờ hồi tưởng lại, biết bao điều để nói mà chưa một lần viết ra... 

Bây giờ và ở đây          
             

Ngày nay khi được anh Hoàng Kim Châu,Trưởng Ban Báo chí nhắc viết bài, tôi rất phấn khởi, rất náonức để viết; nhưng nhiều lúc vì công việc bề bộn, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Cuộc đời tôi, chỉ nguyên quãng đời học sinh thôi, cũng đã đầy ắp những kỷ niệm. Mà những kỷ niệm ấy -đúng như nhà văn Thanh Tịnh nói- tôi chưa lần nào ghi lên giấy, nhưng thực ra đã “ghi” trong đầu rất nhiều. Thế mà mỗi lần định viết, tôi lại “ấp úng không ra được nửa lờì”. Mà đã viết, thì ... một bài thành hai. Cũng chỉ vì toàn những ý nghĩ lung tung xô đẩy, chen lấn, nên tôi quên cả thời gian, không gian. Chỉ viết, và viết, chẳng suy nghĩ...
Hình như tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao ...lạ, sao “thiên di”. Vì thế nên cứ dời đổi luôn. Nhưng cũng chính vì sự dời đổi đó mà tôi có lắm kỷ niệm; mà những kỷ niêm của tôi thường “rải rác” mỗi nơi một ít -toàn là những kỷ niệm của ngây ngô, khờ khạo.  Nếu nói theo tử vi thì cung “Thiên di” của tôi lại rất tốt. Và vì tốt, nên suốt đời ... lưu động. Mãi cho đến khi sang Canada, sống tại Ottawa, tôi mới có dịp “dừng bước giang hồ”, ở lâu một chút: 13 năm. Những tưởng thế là  xong.  Nhưng rồi, lại một lần nữa, tôi tình cờ dời chân đến miền núí cao, biển xanh của Vancouver, đúng vào lúc bố mẹ tôi dời ra đó, khi một trong hai ngưòi anh của tôi đổi ra mở phòng mạch tại Vancouver. Lại cũng đúng vào lúc con gái tôi muốn theo chân cô bạn cùng lớp, ra ngoài này học tiếp, vì nó rất thích biển. Thế là  tôi lại một lần nữa, đi xa... Đành nghĩ: dù sao ở nơi xứ lạ, cũng có ngưòi thân chung quanh. Từ những ngày ở Việt Nam, nơi tôi ở lâu nhất là Đàlat...Mà cũng chỉ có 5 năm! Và bây giờ đã 16 năm ở Vancouver.  Nhiều lúc nhớ Ottawa, nơi tôi đật chân đến đầu tiên, nơi có Cộng đồng rất thân thuộc, nơi cha mẹ anh em tôi sống ở đó ngay từ buổi đầu tiên tị nạn, như là mối tình đầu, tôi chỉ muốn quay về lại “bên ấy”.
 
Nhưng rồi, ở đâu cũng có những sinh hoạt gắn bó, ở đâu cũng tìm ra tình nhân ái, những cái rất chung và rất riêng. Và nhất là ở đâu cũng có thể tạo ra niềm an lạc cho tâm hồn là ở đó có hạnh phúc. Trong hoàn cảnh riêng, dù không ở một chổ, lúc nào và ở đâu tôi cũng cảm thấy hạnh phúc với chính mình. Đi trên những con đường lên cao, xuống thấp làm tôi nhớ Đalạt, những con dốc. Vì...không có dốc không phải là Đàlat.  Không có dốc, không phải là Vancouver. Thời tiết lạnh và khô ráo, có nắng vàng-một điều rất hiếm ở Vancouver- làm tôi thấy nhớ Đàlat nhiều, những năm xưa. Nhìn lại đời mình, trừ những năm “trời đất nổi cơn gió buị” không tránh khỏi, nói chung là một chuỗi ngày hạnh phúc, một thứ “hạnh  phúc lang thang”...như mây. Đơn giản. Và hạnh phúc bây giờ là sự hội ngộ, là những gắn bó thắm thiết chân thành của tình bạn, sau khi ai cũng đã từng “trải qua một cuộc bể dâu”...Đó là những kỷ niêm êm đềm không dễ gì mua đươc.
 

 
Nguyễn thị Ngọc Dung, Vancouver
Một ngày Mùa Đông 2011
 
                  
 
 
 
 
 




(Nguồn : tnic)






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 03/Jan/2012 lúc 9:18am

Đà Lạt: Thuở ban đầu
 
Mấy tiếng “Đàlạt: Thuở Ban đầu” chỉ giới hạn trong tâm cảnh nhỏ hẹp của người viết, với những kỷ niệm của một thời cắp sách đã qua. Đàlạt,Thuở ban đầu” nói lên nhũng cảm nghĩ riêng, kỷ niệm riêng và hoàn cảnh riêng. Nhan đề ấy không mang ý nghĩa là Thành Phố Đalạt từ thuở được “khai phá đầu tiên”. Vì đây không phải là bài sưu tầm, khảo cứu. Lại càng không mang tính cách địa dư hay lịch sử về thành phố đặc biệt đáng yêu này. Đã có rất nhiều bài viết giá trị về Đàlạt. Ở đây người viết chỉ ghi lại nhưng mẩu tâm tình vụn vặt, và đem chia xẻ cùng tất cả, nhất là với những ai đã từng một thời ở Đalạt, để nhớ....

Hoa Anh Đào Đàlat

Tôi lên học ở Đàlạt khi vừa tốt nghiệp lớp kỳ thi vào lớp "đệ thất" trường Nữ Trung Học Trưng Vương được một năm. Lúc đó tôi vẫn còn rất ngơ ngác. Đàlạt đối với tôi còn xa lạ, nhưng có nhiều thứ để thích thú, nhiều nơi để đi thăm và nhiều người để học hỏi... Đàlạt dưới cái nhìn của bố tôi - sau khi đã từ giã đất Bắc để di cư vào Nam tìm tự do, sau khi đã sống ở Sàigon vừa đúng một năm - là một thành phố rất lành mạnh, lại vừa yên tĩnh, gần thiên nhiên và khí hậu trong lành, không bụi bậm. Thực thế ai mà không biết Đalạt là nơi nghỉ mát nên thơ, phong cảnh hữu tình và dân tình thì hiền hoà. Định cư nơi đây thật là lý tưỏng. Gia đình tôi dời Saigon lên Đàlạt là do những ý kiến ấy của ba tôi: “Đất lành chim đậu", còn nơi nào tốt hơn...

 
Trường Trần Hưng Đạo
 
Tôi đặt chân đến trường Trần Hưng Đạo khi ba tôi bắt đầu nhiệm sở mới tại đây. Chức Hội kế viên mà ông nhận có khác với ngành dạy học của ông, nhưng vì với kinh nghiêm về kế toán, ông làm việc với tất cả thích thú. Chúng tôi thực sự bắt đầu cuộc đời học sinh Trung học ở nơi đây. Hiền hoà dễ thương, Đàlat đã cho tôi nhiều kỷ niệm nên thật khó mà không lưu luyến khi phải dời xa... Chúng tôi ở ngay trong trường. Tôi còn nhớ, nhà chúng tôi ở là một trong hai nhà "villa" ở đầu cổng trường. Nếu tôi nhớ không lầm thì nhà ông Bửu Vụ, Tổng Giám Thị, ở ngay đầu con đường nhỏ cong cong chạy lên con dốc nho nhỏ, quẹo về phiá tay măt. Ngay góc đó là nhà ông Bửu Vụ. Cách đó chừng nửa “block” là căn nhà thứ hai, nơi chúng tôi ở. Từ dưới đường đi lên nếu đi bộ thi có thể đi thẳng vào cổng trường lộ thiên, ở ngay chính giữa hai căn nhà, bước lên mấy bậc thang làm bằng gạch đá. Rất đơn sơ, nhưng vững chãi.


Khi chúng tôi được chuyển vào trường Trần Hưng Đạo là lúc thầy Nguyễn đình Phú còn làm Hiệu Trưởng. Sau Thầy Nguyễn đình Phú là thầy Hoàng Khôi. Thầy có ba người con gái. Chị Thanh là chị cả, học ở trường Couvent des Oiseaux, chi thứ hai là chị Bình và chị út là chị Hoà. Những anh chị nào học tại trưòng trong thời gian này hẳn còn nhớ. Chị Thanh sau này đi tu. Chị Bình học trên chị Hòa một lớp, chị Hoà lại học cùng lớp với anh tôi, và học trên tôi một lớp. Sau thầy Hoàng Khôi thì đến thầy Kỳ Quan Lập làm Hiệu trưởng. Thầy Kỳ Quan Lập “đẹp lão” và có hai 'cô con gái” trắng trẻo và xinh xắn, dễ thương. Một cô sau này lấy giáo sư Trương Văn Hoàn mà tôi vừa được biết mới đây. Kỳ hội ngộ năm 2010 tôi có đưọc gặp cả hai “ông bà”, mới hay là sau này giáo sư Hoàn cũng lên làm Hiệu Trưởng. Tôi vì dời trường kể từ ngày sang Bùi Thị Xuân để Trần Hưng Đạo trở thành trường Nam Trung Học thuần tuý, nên không còn đưọc biết “ai với ai”. Bây giờ sau mấy chục năm dài, “quả đất tròn - hay nói cho đúng hơn là “duyên” đưa đẩy - tôi lại được gặp gỡ tất cả. Không gì sung sướng cho bằng, được gặp lại những bạn bè xưa nơi đất khách, chẳng khác nào “cửu hạn phùng cam vũ” - nắng hạn gặp mưa rào. Được dịp hàn huyên chuyện cũ, học hỏi thêm điều mới lạ, tưởng không còn gì quý hơn. Tôi chợt nhớ đến hai chị nữa cũng học trên tôi một lớp và cùng lớp với người anh thứ hai của tôi, là chị Cẩm Vân, con ông Bửu Vụ và chị Phùng Thăng em ông Bửu Vụ, vị tổng Giám Thị của trường Trần Hưng Đạo. Chị Cẩm Vân tính tình vui vẻ, cởi mở. Chị Phùng Thăng hiền, ít nói, da trắng hơi xanh; và dễ thương. Tôi còn được biết chị của Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng là Phùng Khánh khá đẹp, nước da trắng hồng. Mới đây khi nhắc đến Đàlạt chị Phương Thu có cho biết chị Phùng Khánh đi tu hiện nay chính là Sư Cô Trí Hải - khá nổi tiếng hiện nay - Thật là nhiều cái không ngờ, mà lại rất hay. Không hiểu sao lúc ấy tôi “hiền” thế. Nhớ lại hồi còn nhỏ, lúc học tiểu học, thỉnh thoảng tôi thường bị bạn “bắt nạt”, tuy... chẳng đến nỗi nào. Ai không biết có thể nghĩ là tôi “khờ” nhưng tôi biềt là tôi không “khờ”, chỉ vì tôi ít nói và không “đối phó” thôi. Bây giờ “nhìn lại mình“ lòng thấy vui vui...
 
Thực ra, những kỷ niệm của tôi về Đàlạt cũng không có gì đặc biệt hay sâu sắc cho lắm; mà chỉ là những hình ảnh bàng bạc, xa xôi. Nhưng với tôi rất đáng trân trọng vì đánh dấu tuổi niên thiếu của tôi. Cho đến nay, trải qua mấy thập niên, tôi vẫn thấy yêu quý chuỗi ngày vị thành niên ấy. Tôi vẫn chưa quên những buổi đi du ngoạn cùng gia đình vào dịp cuối tuần, khi thì đi ngắm thác Gougah, Pongour, thác Prenn v.v... vừa để thưởng ngoạn, vừa đi “picnic”. Có khi đi cùng gia đình đến Tùng Nghĩa nơi có nhiều người Nùng ở. Tôi được biết người Nùng rất thông minh. Họ vốn sinh truởng ở vùng đồi núi miền Thượng Du Bắc Việt. Họ di cư vào Nam và sống tập trung ở Tùng Nghĩa, gần Đalạt. Họ trồng trọt các thứ rau để sinh sống. Chúng tôi mang cảm giác thoải mái khi đi thăm Tùng Nghĩa, và nhân tiện mua những rau trái tươi tốt đem về. Thuở nhỏ, mỗi lần đi xe hơi tôi hay bị chóng mặt nên lắm khi tôi phải nằm ở ghế đàng sau mới đỡ. Mỗi lần ba tôi và gia đình đi chơi xa về, tôi lại ngủ vùi - một cách hạnh phúc - trong tiếng động cơ êm êm của chiếc xe “La Frégate”, mặc cho người lớn nói chuyện, tôi cứ điềm nhiên nằm ngủ, say sưa, cho đến khi về nhà, lúc ban khuya.

 
Trường Bùi thị Xuân
 
Đến khi sang học ở trường Bùi thị Xuân, vào năm đệ tứ, thì tôi đã bắt đầu “lớn”, thường cùng cậu em trai kém tôi sáu tuổi dắt nhau đi học, có khi đi đường tắt thì phải băng qua đồng ruộng, phía bên trong - mà giờ đây tôi chỉ nhớ mang máng - Có khi chúng tôi đi học bằng con đường nhựa chính thì trên đường đi cũng như trên đường về, chúng tôi đều phải đối diện với mấy anh nam sinh Trần Hưng Đạo. Thế là lại có một màn nói chọc ghẹo. Lúc đó tôi thuờng đội nón che mặt để khỏi nhìn. Có anh chàng còn gọi cả tên tôi. Không biết phản ứng ra sao, tôi bao nhỏ em trai tôi “Hà nhổ nước miếng đi”. Đó là cách phản ứng duy nhất mà lúc đó mà tôi nghĩ là “thượng sách”... Chả biết cậu em tôi có làm không nhưng tôi cứ làm bộ thản nhiên bước như không nghe thấy gì. Vì là con gái, lại hay nhút nhát, e lệ nên thấy “con trai” chọc ghẹo “em gái thằng N. dễ thương quá” thì phải “tỏ thái độ” để chứng tỏ mình “không hưởng ứng “. Tuy nhiên, dù biết họ “xạo”, nhưng trong lòng cũng thấy vui vui. Cũng may, dạo ấy chuyện “nhổ nước miếng” xuống đường không bị coi là “thô tháp”. Bây giờ nghĩ lại, tôi không khỏi buồn cười. “Văn hoá Việt Nam” ngày trước dạy mình “phải đứng đắn” mà, nhất là người trong văn hoá đó lại là tôi nữa! Nghĩ lại, kể cũng kỳ quá! Nhưng hình như em tôi không làm...
 
Khi tôi bắt đầu lớp đệ tam thì mẹ tôi mở tiệm. Cuộc đời học sinh của tôi lại chuyển sang một giai đoạn mới, khung cảnh mới, cũng có nhiều cái hay mà tôi thích thú. Những năm dạo chơi lang thang trên ngọn đồi trường THĐ không còn nữa và thay vào đó là một chuỗi những sinh hoạt mới trên phố. Tôi đi đi về về, khi ở nhà, khi ở tiệm để đi học cho tiện. Nhất là những ngày cuối tuần mẹ tôi thường cho tôi ra tiệm. Tôi có dịp ngắm phố xá sinh hoạt vào ngày thứ bảy, đông vui nhộn nhịp hơn ngày thường. Dưới ánh nắng vàng trong, người đi bộ tấp nập trên đường phố. Những cô, những bà ấm áp trong tấm áo len màu sắc trông thật thắm tươi, đầy ánh hạnh phúc.
 
Hình ảnh nổi bật nhất vẫn là những sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia - mà nếu tôi còn nhớ trước đó đươc gọi là trường “Võ Bị Liên Quân" - Dáng dấp oai hùng trong bộ quân phục màu trắng, các sinh viên sĩ quan thưòng đi "bát phố" hàng tuần, vào những ngày thứ bẩy và chủ nhật thường với một thái độ nghiêm trang. Lúc đó trong đầu óc đã bắt đầu biết nhận xét, tôi chỉ nghĩ biết thán phục là mấy ông sĩ quan này thật xứng đáng là văn võ song toàn... Ở dưới phố tôi có dịp quan sát những ngưòi dân tộc thiểu số nhẫn nại mang trên vai những cái "gùi" lan lên phố bán. Nhớ những con dốc quen thuộc, rất đặc biệt của Đàlạt.

Cô gái người Thượng cao nguyên

Ngoài những dốc Minh mạng, dốc Phan đình Phùng, Hàm Nghi còn có con dốc gần trường, thường gọi là “dốc Bùi Thị Xuân - con dốc của học trò - khá cao, mà tôi phải gò lưng đạp cố, hay có khi phải xuống xe, dắt xe đi bộ lên dốc để khỏi thở hổn hển vì đạp. Tôi nhớ cả gánh hàng quà trước cổng trường BTX. Tôi vốn "xuất thân" từ trường Trần Hưng Đạo (được biết đầu tiên có tên là truờng Bảo Long) vốn dĩ gồm cả nam lẫn nữ, cũng như trường Quang Trung (trước kia gọi là trường '"Phương Mai", theo tên của công chúa con vua Bảo Đại - cũng cả nữ lẫn nam - của những năm đệ thất, đệ lục, đến hết năm đệ ngũ thì khăn gói dời sang học truờng Bùi thị Xuân, tên cũ của trường Quang Trung. Trường nằm trên một mảnh đồi, yên tĩnh nhưng sáng sủa, trước mặt là đồi thồng, rừng thông nên thơ... giờ thì tôi chỉ nhớ mang máng. Ngôi trưòng Bùi Thị Xuân với dãy nhà lớp quét vôi màu hồng tôi còn nhớ, và nếu nhìn từ cổng vào thì chỉ thấy phía cạnh của trường. Những kỷ niệm của tôi về trường cũng chỉ còn mang máng. Còn sau đó và bây giờ không biết có thay đổi gì nữa không, kể từ ngày tôi đi...
 
Tôi cũng vẫn không quên những buổi trưa Đàlạt những ngày còn học đệ thất, đệ lục ngây ngô ấy; mà bây giờ nghĩ lại... sao mà êm đềm quá. Bề ngoài tôi như ngây ngô nhưng trong tâm hồn tôi đầy những mơ mộng mà bây giờ tôi thấy "có lý". Vì lúc đó tâm tôi thật sự an lạc, và đầu óc tôi chẳng nghĩ gì cả, chỉ biết "enjoy" cảnh thiên nhiên, lặng lẽ nhưng thú vị. Lặng lẽ, tôi thưởng thức từng hơi thở của Đàlạt, từng nhịp đi của thời gian trong không gian yên tĩnh ấy.
 
Ngôi nhà gia đình tôi cư ngụ lại nhìn ra hai hướng, khá đặc biệt. Mặt trước nhà có những cửa sổ nhìn ra một phong cảnh bao quát, rộng rãi: Trưóc mặt, phía xa xa là ngọn đồi khá cao, ở duới chân đồi là con đường trải nhựa, có xe chạy. Con đường này nằm chính giữa, để chia cách ngon đồi với một vùng thung lũng phía dưới, gần về phía nhà tôi hơn. Nơi đây có dân chúng cư ngụ, như một ngôi làng. Có những căn nhà nho nhỏ yên tĩnh ẩn náu dưới những vườn cây vắng vẻ, ít người. Mặt sau của nhà thì sinh hoạt hoàn toàn khác hẳn; như là nột thế giới riêng, thế giới học đường. Hồi ấy trường còn chế độ nội trú, với những căn nhà bếp, nhà ăn riêng biệt. Trường còn có cả tài xế và đội ngũ nấu bếp nữa v.v... đủ cả. Nhắc đến đây, tôi không khỏi chạnh lòng. Ngoài giờ học, anh em tôi thường lang thang đi dạo ngắm cảnh, gần gũi thiên nhiên. Thế nhưng chúng tôi chảng có ý thức gì là hưởng thụ thiên nhiên hay ca ngợi thiên nhiên gì cả. Chỉ đi chơi tung tăng tìm những sinh hoạt lành mạnh trong đám cỏ hoa ấy. Chúng tôi làm một căn vườn nho nhỏ ngay phía trước nhà. Trước, mà là sau. Mặt sau nhà lại là cửa trước. Giờ này tôi cũng chẳng định nghĩa được căn nhà ấy là thế nào. Có điều chúng tôi chỉ biết sống, sinh hoạt, vui chơi trong cái vô thức của tuổi thơ.
 
Có những buổi trưa thật vắng vẻ, yên tĩnh, có tiếng gà gáy xa xăm và như "phất phơ buồn tự thời xưa thổi về" trong thơ Huy Cận. Trên ngọn đồi nhỏ của trường Trần Hưng Đạo anh em chúng tôi say sưa "đuổi bướm hái hoa" theo đúng nghĩa. Ông anh tôi "đầu têu" cho các em, khám phá những khu mới lạ quanh vùng. Ấp Hà Đông là tên gọi của thung lũng trước mặt nhà và xa xa bên kia con đường nhựa xe chạy là một dãy đồi cao. Người dân quanh vùng thuờng gọi nôm na là "Mả Thánh" mà tôi chẳng dám “bén mảng” đến lần nào. Cạnh con đường cong dẫn đến cổng trường là chiếc hồ nho nhỏ, sau có tên là “Hồ Vạn Kiếp”. Anh Nam tôi thường hay xuống đó câu cá... Những con cá cơm nhỏ trắng tinh lóng lánh màu bạc sau đó đưọc làm sạch sẽ để nấu canh dưa chua, với cà chua. Ngon thật ngon. Ông anh tôi thật lắm sáng kiến...

 
Hình ảnh cũ
 
Thế rồi sau những năm tháng học hành với biết bao kỷ niêm khó quên ở cả hai trường, rồi một ngày kia tôi cũng phải dời Đàlạt trong nỗi nhớ nhung. Tôi quên sao được những buổi sáng mù sương, khi những cánh hoa anh đào bị phủ lấp một lớp dày đặc và khi những cánh hoa mimosa vàng tươi cũng không thoát khỏi bị phủ lấp dưới màn sương trắng đục kia. Tôi quên sao được những buỗi chiều tĩnh lặng chỉ nghe tiếng gió hú từ những rặng thông mà nao nao buồn; hay những ngày ướt át khi cắp sách co ro đến trường. Và lại càng không quên những buổi trưa tĩnh lặng, với nắng hanh vàng; và khoảng trời xanh lung linh sáng thêm bởi những cánh mimosa màu vàng tươi, trong cái lạnh se se của thờì tiết. Buổi trưa Đàlạt ! Khi đi ngang qua các lớp học ở trên đồi, tôi nghe tiếng đàn của thầy Phạm đình Tín văng vẳng xa đưa, tâm hồn tôi cảm thấy lâng lâng, bay bổng. Tôi chạnh nhớ đến hai câu thơ của một thi sĩ tiền chiến: “Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung, Có ai đàn lẻ để tơ chùng”... Tôi đã hít thở cái bầu không khí trong lành ấy của Đàlạt mà lòng nghe ấm áp. Dù thời tiết như thế nào, Đàlạt cũng vẫn dễ thương và vẫn đặc biệt mãi trong tôi.
 
Xa Đàlạt ở vào tuổi mới lớn, mới bắt đầu biết nhớ nhung, vương vấn, tôi mang tâm trạng của một người chưa định hướng. Cho nên mỗi bước chân đi, tôi đã mang theo những hình ảnh thật đep về núi đồi, hoa cỏ, phố xá. So sánh với các bạn tôi, cùng lớp cùng tuổi thì nhiều ngưòi còn nghịch ngợm, “tinh quái” hơn tôi. Cái nghịch ngợm dễ thương mà tuổi học trò khó tránh khỏi.
 
Đàlạt những ngày nắng ấm, vào những buổi trưa tịch mịch, tôi cảm thấy hồn mình thanh thản làm sao. Yên tĩnh và vắng vẻ. Chỉ có tiếng gió thổi, tiếng chim hót, tiếng gà gáy xa xa dưới thung lũng đã từng nhiều lần làm tôi liên tưởng đến những tia nắng vàng của Lưu Trọng Lư trong bài Nhớ Mẹ. Tâm hồn tôỉ bỗng chùng xuống "mỗi lần nắng mới hắt bên song, xao xác gà trưa gáy não nùng", để mà nhớ mẹ, để lòng nao nao buồn khi nhìn “mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội". Còn đâu nữa, buổi trưa Đàlạt ! Hồi ấy, chúng tôi thường hay đi lên đồi chơi, hóng gió mát và ngắm những bông hoa pensée màu tím đầy cảm xúc. Khi đi ngang qua các lớp học ở trên đồi, tôi thường được nghe tiếng đàn của thầy Phạm đình Tín văng vẳng xa đưa, tâm hồn tôi cảm thấy lâng lâng, bay bổng. Câu thơ của một thi sĩ tiền chiến: sao mà thích hợp với khung cảnh này thế “Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung, Có ai đàn lẻ để tơ chùng”...
 
Thật vậy, có những buổi trưa nắng đẹp mà sau này nhiều khi nhớ lại tôi không khỏi cảm thấy lòng chùng xuống. Tôi cảm thấy tiếc là khó tìm lại được đúng hoàn cảnh như thế với tâm trạng như thế. Nếu người ta không bao giờ tắm hai lần trong cùng một giòng sông, như lời một triết gia đã nói, thì người ta khó bắt gặp cùng một tâm trạng của chính mình trong cùng một buổi chiều. Quá khứ của tuổi thơ êm đềm như thế mà mỗi khi nhắc lại tôi không khỏi cảm thấy bâng khuâng, bùi ngùi. Và tôi lại càng thông cảm hơn với tâm trạng của nhà thơ, khi:
 
"Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chùng sống lại những ngày không"...
 
Tuổi thơ của tôi quả thật là "những ngày không". "Không" vì vô tư lự, không buồn khổ cho nên cũng không có gì đặc biệt. Nhưng trong cái "không" ấy lại là "có" cho tôi rất nhiều. Và cái "có" ấy là cả một ý nghĩa khá sâu sắc, thay đổi tùy theo hoàn cảnh, không gian và thời gian. Đúng là những ngày xưa thân ái với những vần thơ giản dị, mộc mạc nhưng chân thành. Với tôi, những vần thơ ấy mang nhiều ý nghĩa mà ngay từ thời còn đi học tôi đã yêu. Từ những vần thơ lục bát chân phương của Nguyễn Bính trong “Lỡ Bước Sang Ngang” mà ông anh đầu của tôi đem về, cho đến những câu thơ thất ngôn trang trọng của những thi sĩ tiền chiến...

Thơ chưa đủ, tôi còn hí hoáy chép những bài nhạc thịnh hành hồi ấy, toàn là nhạc tiền chiến tôi mê. Từng lời ca, từng giai điệu, tất cả đều làm tôi cảm xúc. Nhất là khi nhớ về một quá khứ êm đềm mà giờ đây không tìm thấy được. Tôi còn nhớ ngày mới lớn ở Đàlạt tôi đã nghe quen những bài ca như bài “Tình Quê Hương”. Bản này thật hay, tuy nội dung không nói về Đàlạt nhưng ít nhất đã đánh dấu thời gian tôi sống ở nơi đây, từng nghe bài ca này nên “Tình quê hương” của nhạc sĩ Việt Lang cũng đã để lại một ấn tượng khá sâu sắc trong lòng tôi, và tôi vẫn còn yêu thích cho đến tận bây giờ. Những bài ca dành cho Đalat thì nhiều lắm và thật dễ thương. Từ những bản thịnh hành như “Hoài Thu”, với lời lẽ nhí nhảnh và âm điệu rộn ràng, đầy âm thanh và màu sắc, khiến ai đã từng lên Đàlạt không khỏi một lần lưu luyến... Cho đến những bài ca tha thiết như “Thương về Miền Đất Lạnh” với những lời kể lể tâm tình, da diết, khiến người nghe không khỏi thấy lòng bồi hồi.

Thác Prenn- Dalat

Tôi chưa có dịp về lại Việt Nam, tôi chưa có dịp về thăm Đàlạt, thăm lại nơi thân yêu ngày xưa tôi đã sống, đã thở, trên mảnh đất thân yêù này. Tôi quên sao được những kỷ niệm êm đềm, đầy mộng mơ ấy, mà ngày nay nếu tôi có nhớ lại cũng là đề nâng niu, trân quý... Tôi yêu Đàlạt nơi tôi chưa phải trải qua sóng gió của cuộc đời, từ lúc mới bước chân vào bậc Trung học đệ nhất cấp. Tôi yêu Đàlạt vì tình Đàlạt trong như dòng suối, hiền như nước Hồ Xuân Hương, não nùng như tiếng gió hú ban đêm. Yêu tất cả những gì về Đàlạt mà trong phạm vi một bài ngắn ngủi này tôi không tả hết được.

Kỷ niệm của tôi về Đàlạt chỉ mang mang như thế, như cơn gió thoảng. Nhưng không hiểu sao 'cơn gió” ấy cũng đủ sưởi ấm lòng tôi mỗi khi nghĩ về Đàlạt, vì nó đã đánh dấu một quãng thời gian mơ mộng của tôi ở tuổi vị thành niên, từ nhừng năm đệ thất đệ lục cho đến khi tôi đã bắt đấu biết viết lưu bút ngày xanh, biết nâng niu thơ TTKH, thơ Nhất Tuấn như bao nhiêu nữ sinh khác cùng thời. Đó là quãng thời gian không sóng gió, yên bình và nên thơ, của thuở học trò:
 
"Ôi êm ái là thời gian cắp sách ,
Ôi vui tươi là lúc hãy còn thơ.
Đời đẹp đẽ như trong một giấc mơ,
Và thắm đượm như một mùa Xuân mới...”
 
May mắn cho tôi khi xa Đàlạt từ thuở còn thanh bình. Mặc dù đất nước sau này đã trải qua một cơn giông tố phũ phàng khắp mọi miền, không riêng gì Đàlạt thân yêu; và mặc dù tôi không sống trong ảo tưởng, nhưng ít nhất là tôi đã không phải nhìn thấy sự biến động của đất nước ở ngay tại Đàlạt êm đềm của tôi, như nhiều người từng chứng kiến. Vì tôi không còn ở Đàlạt trong “cơn gió bụi” ấy nên những kỷ niệm về Đàlạt của tôi vẫn còn trong sáng và nguyên vẹn, ít nhất là trong tâm tưởng. Nói thế để thấy Đàlạt vẫn bất diệt trong tôi. Dĩ nhiên tôi cũng không thoát khỏi thoát khỏi “trải qua một cuộc bể dâu” để mang tâm trạng đau lòng về ”những điều trông thấy” ở chung quanh.
 
Bây giờ, cuộc đời trôi giạt, bạn bè bốn phương lại được gặp gỡ nhau. Tình học đường lại được tiếp nối qua các kỳ Hội Ngộ. Cách đây hơn một năm, tôi đã có dịp gặp lại vài bạn. Rất vui mừng. Những bạn cũ mà tôi gặp lại là Mỵ Hương và Diệm Quỳnh. Mỵ Hương vẫn đẹp như xưa, vẫn giọng nói ấy, nụ cười ấy dù có thêm một vài nét chín chắn trên gương mặt. Diệm Quỳnh của tôi cũng vẫn dể thương, đôn hậu và khả ái. Nhưng vẫn chưa “hả” vì gặp nhau ngắn ngủi quá, đã kịp tâm tình gì đâu? Tôi đã có dịp nói chuyện với Xuân Ninh, có dịp quen thêm chị Tuyết Hồng lớp đàn chị, và gặp ngay sự huởng ứng nồng nhiệt và sự gắn bó thân ái nơi chị. Hội ngộ kỳ tới là cả một sự náo nức trong tôi, cũng như kỳ trước. Nhưng lần này biết sớm hơn, có chuẩn bị hơn, tôi tin rằng gặp nhau lần này sẽ thật vui. Kỷ niệm đẹp nhất trong đời là tình bằng hữu. Một người bạn chưa đủ mà cần có cả một “vòng” bạn hữu mới thêm phong phú. Bạn mới, bạn cũ tất cả đều nối kết lại để có được một tình thân bền chặt, bây giờ và mãi mãi về sau.
 
Hẹn sẽ xin nói chuyện thêm một dịp khác, vì Đàlạt bằng xương bằng thịt bây giờ chắc hẳn đã khác. Nhưng Đàlạt trong tâm tưởng thì mãi mãi còn trong tôi. Và tôi nghĩ đó cũng là tâm tư chung của tất cả, những con ngưòi Đàlạt, ngàn xưa và ngàn sau. Quên làm sao được “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”...
 
Nguyễn thị Ngọc Dung, Vancouver
Một ngày cuối năm, Dec.2011





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Jan/2012 lúc 9:19pm


From: Nông Quốc Hà (dân Đà Lạt)
 
Tuesday, January 24, 2012 4:30 PM



Ngày Tết đi vãng cảnh chùa , đình , miếu ở Dalat 



 
Chùa Thiên Vương Cố Sát  ( còn gọi là Chùa Tàu )
 
Tượng Phật Tam Thế được "đắp y"

 


 

Phía sau chùa Tàu 

 
Sư từ này được đeo nơ đỏ mỗi khi có lễ 

 

Thiền Viện Trúc Lâm 

 

 
Hồ Tuyền Lâm 

 
Bạn có thể vào đây đọc các kinh điển, sách báo về Phật giáo nếu muốn nghiên cứu thâm sậu ( đa phần kinh sách  là tiếng Hán )  

 

Nhà thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma 

 

 

 

Phòng trưng bày các hình ảnh , kinh sách , hình tượng về Phật giáo và bán kinh sách, đĩa VCD giảng pháp của Sư Ông



Nơi các thiền sinh hoạt, nghe thuyết pháp hàng tháng 

 

Chánh điện của Thiền viện Trúc Lâm ( bài trí đơn giản )
 

 

Miếu (trên Quốc lộ 20- Đức Trọng ) 
 
Một miếu ở Đức Trọng ( phía sau cây đa Tùng nghĩa) có lên đồng, xin xăm 

 
Thờ Quan Công 
 

 

 
Thờ Tam Mẫu Nương nương . Mẫu Mẹ ?
 
Thanh Xà

 

Bạch xà 

 
Hành hình tội nhân voi dày, ngựa xéo , cua kẹp, rắn mổ , cọp gầm ?
 

 

Ni viện Nguyên Không ( cũng là cô nhi viện)
 
Đàn Thất Phật dược sư ( để cầu an, sám hối , chữa bệnh )

 
Chùa Linh Sơn 

 

Chùa Kỳ Viên ( ở Đường Phan Đình Phùng Dalat )

 

 
Tượng Phật trong chánh điện của chùa Kỳ Viên 

 

 

 

Miếu thờ Thổ công , thổ địa 

 





































-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Mar/2012 lúc 6:48pm

VIỆN ĐẠI HỌC DALAT


"NGÃ 3 SPELLMAN"
 





tháng 3/2012

Tác giả : BB K9




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Mar/2012 lúc 9:45pm

Chủ Nhật, 04/03/12 9:01 GMT+7

Làng tỷ phú sắm xe hơi đi làm vườn

Làng hoa Vạn Thành, TP Đà Lạt

(Lâm Đồng)


http://www.zing.vn/ - (Zing) - Ở làng hoa Vạn Thành, những lão nông sáng sáng lái xe ô tô ra đồng làm việc không còn là điều gì đó quá xa xỉ. Chuyện người dân ở đây sở hữu tiền tỷ hay những căn biệt thự nhiều vô kể.

Trên các con đường làng trải nhựa phẳng lỳ vào làng hoa Vạn Thành, TP Đà Lạt (Lâm Đồng), những chiếc xe hơi lướt bánh nhẹ nhàng tấp vào các ngôi biệt thự sang trọng cho thấy cuộc sống mới nơi đây đã thật sự “lột xác” sau gần nửa thế kỷ khai hoang, lập làng.

Những ngôi nhà biệt thự tiền tỷ là hình ảnh đập vào mắt du khách đầu tiên khi đến làng hoa

Đất lành hoa đậu

Những người lớn tuổi ở Vạn Thành vẫn còn nhớ như in những ngày đầu đến vùng đất này khai hoang, đó vào năm 1955 – 1956. Ngày ấy, Vạn Thành chỉ có khoảng 10 gia đình di cư từ tỉnh Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam) vào đây lập nghiệp.

Cuộc sống của người đi tìm đất mới sản xuất gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn đủ đường. Có lúc, nhiều người đã nghĩ tới việc bỏ xứ này để đi tìm vùng đất khác có thể sản xuất được lúa nước giải quyết cho cái ăn trước mắt. Nhưng rồi, sự cần mẫn lao động của những con người đất Bắc không bao lâu đã đánh bại cái hoang hóa của tự nhiên.

Trên những cánh đồng hoa, nụ cười luôn rạng rỡ của người dân. Nhờ có nghề trồng hoa này, làng Vạn Thành đã "lột xác" hoàn toàn


Những đồng cỏ hoang dại, những đồi cây rậm rạp, những vũng sình lầy đã dần thay thế bằng nhiều cánh đồng hoa rực rỡ, đẹp như một giấc mơ dưới bàn tay, trí lực của con người.

Sau gần 60 năm lấy sức người cải tạo thiên nhiên, hôm nay Vạn Thành đã trở thành một trong ba làng hoa truyền thống của thành phố Đà Lạt, nơi đây đầy ắp những hoa là hoa, hằng năm đã cung cấp hơn 80% sản lượng hoa hồng của thành phố.

San sát những căn nhà tiền tỷ


Thật ra, Vạn Thành mới chỉ khởi sắc bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước. Đó cũng là thời điểm đánh dấu bước chuyển mình đột biến của làng hoa khi nhiều lão nông ở Vạn Thành chiết, ghép và nhân giống thành công không ít giống hoa mới được nhập từ Châu Âu về cho năng suất và chất lượng sản cao hơn hẳn so với thời kỳ trồng những giống hoa truyền thống.

Ngoài ra, nhiều loài hoa có nguồn gốc ở nước ngoài như hoa hồng đỏ Hà Lan, hoa hồng đỏ Ý; các loại hoa baby, đồng tiền… cũng đã được một số doanh nghiệp đưa về trồng trên đất Vạn Thành. Hàng chục loài hoa từ nhiều nước trên thế giới được hội tụ về đây, hôm nay đã vững chãi sinh trưởng trên vùng đất này.

Mỗi năm, làng hoa Vạn Thành thu về tiền tỷ nhờ xuất khẩu hoa ra thị trường


Đến nay, gần 100% diện tích đất trồng hoa tại Vạn Thành là nhà kính, nhà lưới, trình độ kỹ thuật trồng hoa theo hướng công nghệ cao ngày càng nâng lên rõ rệt. Các công đoạn chăm sóc hoa như tưới nước, phun thuốc sâu, trừ cỏ… đều được làm tự động.

Việc cắt cành hoa, gói thành từng bó nhỏ, đóng thùng …đã được nông dân thao tác gọn gàng, chuẩn xác, hạn chế tối đa lượng hoa dập nát trên đường vận chuyển đến nơi tiêu thụ…Tổng doanh thu từ trồng hoa ở Vạn Thành đã tăng từ gần 16,5 tỷ đồng trong năm 2010 lên đến hơn 24,1 tỷ đồng trong năm 2011.


Đồng hoa đua sắc, làng sắm xe hơi

Đường vào Vạn Thành quanh co chập chùng mang đặc dấu ấn của một vùng đất phía nam Tây Nguyên nhưng rải nhựa phẳng lì. Hai đên đường là nhiều ngôi biệt thự được xây dựng theo kiến trúc Pháp hiện đại trông như những cung điện nguy nga khi màn đêm buông xuống.

Nhiều người ở Vạn Thành cho biết, một sào đất nơi đây nếu trồng hoa hồng đúng kỹ thuật hằng năm cho thu về không dưới 60 triệu đồng. Ở Vạn Thành, hiện nay gia đình trồng hoa ít nhất là cũng vài sào, nhiều thì đến vài héc ta, trong nhà lúc nào cũng nuôi thường trực vài ba người làm thuê cho mình.

Những căn nhà tiền tỷ như thế này, nhiều người dân trước đây nếu có nằm mơ cũng không bao giờ nghĩ đến


Với người trồng hoa Vạn Thành, đã từ lâu rồi họ không còn phải lo cái ăn, cái ở, ngày nay cái họ lo là tậu chiếc xe hơi bạc tỷ hay bèo thì cũng năm bảy trăm triệu đi lại cho nắng không đến mặt, mưa không ướt đầu.

Hiện Vạn Thành có chưa đến 200 gia đình nhưng đã có tới hàng chục gia đình đã tậu xe hơi đời mới. Ông Phạm Công Thìn, nguyên khu phố trưởng ở làng hoa Vạn Thành kiêm đại biểu HĐND phường 5 (TP Đà Lạt) cho biết, Vạn Thành hôm nay cán bộ tổ dân phố đi họp địa phương và lo việc xã hội bằng xe hơi là điều bình thường, bản thân ông Thìn cũng đang có 8 sào hoa và sở hữu 2 căn nhà, một chiếc Innnova G đời 2009.

Giờ thì chuyện biệt thự tiền tỷ là quá bình thường


Ông Vũ Chí Nghị là người gần 20 năm trồng hoa ở Vạn Thành, đang sở hữu một biệt thự và chiếc xe Jolie 7 chỗ cho biết, để có được ngày hôm nay không phải là dễ, người trồng hoa cũng lắm phiêu lưu, vất vả vì giá hoa phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu thị trường.

Đã có năm giá hoa xuống rất thấp khiến nhà vườn nhiều khi chỉ hòa vốn hoặc lãi không đáng kể. Tuy nhiên, những năm gần đây, thị trường hoa đã ổn định, sức tiêu thụ ngày càng tăng mạnh khiến người trồng hoa vui như mở hội.

Thậm chí, người dân còn bảo, mỗi hộ nếu làm ăn thắng lợi, mỗi hộ sở hữu vài căn nhà là việc nhỏ


Thấy nhà nhà đua nhau mua xe hơi, tuy mới lập gia đình nhưng anh Phan Đình Thắng (29 tuổi) cũng khẳng định một năm nữa anh cũng phải có xe con cho bằng các anh, các chú. “Không dám khẳng định là mua xe bạc tỷ những ba bốn trăm triệu thì đối với tôi không khó. Bằng thời gian này sang năm anh quay lại đây tôi sẽ chở anh đi dạo một vòng làng hoa bằng xe hơi cho vui” – anh Thắng nói.

Trên cánh đồng hoa, người dân còn sắm xe đi làm vườn


Tôi rời Vạn Thành khi trời đã nhá nhem, lúc này bên chầu bia đầu năm các lão nông ai cũng đã ngà ngà, mặt đỏ bừng như gấc chín, họ chưa giải tán cuộc vui vì bia vẫn chưa hết, hơn thế nữa cả nhóm vẫn chưa chọn được chiếc xe hơi nào đẹp nhất làng để trưa mai lên nhà hàng trên phố ăn cưới...

Nguyên Cao (Theo Infone)


http://www.zing.vn/news/phong-su/lang-ty-phu-sam-xe-hoi-di-lam-vuon/a238079.html







-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 23/Apr/2012 lúc 9:29am


ĐÀ LẠT ƠI DÀ LẠT

Thiện Nguyễn



Vậy là đã sáu tháng rồi không đi Đà Lạt. Nỗi nhớ về thành phố này tôi yêu này cứ thoát ẩn thoát hiện trong tâm trí suốt ngày thật khó mà hiểu được... thấp thoáng những con dốc, thấp thoáng hàng thông xanh, thấp thoáng cánh phượng tím trong chiều vàng nhẹ nắng, thấp thoáng hồ Xuân Hương, thấp thoáng những con phố lên lên xuống xuống cứ thế mà làm tôi cứ chênh vênh theo nỗi nhớ...
So với những năm trước hầu như tháng nào tôi cũng lên Đà Lạt thì năm nay, kể từ lúc người ta nạo vét hồ Xuân Hương để cải tạo cảnh quan gì đó mà theo tôi là một hành động băm nát trái tim, linh hồn của Đà Lạt... thì tôi đã chẳng còn muốn lên Đà Lạt. Vậy nhưng ngồi nhà mà cứ ngóng tin về Đà Lạt... ngóng xem cái hồ xinh đẹp ấy người ta đã nạo vét xong chưa, đã trả lại vẻ đẹp hôm nào của nó hay chưa... để mình còn chốn để đi khi thèm cái cảm giác lành lạnh xứ sương mù.
Với nhiều người, Đà Lạt là hoa, Đà Lạt là thơ, Đà Lạt là nhạc... Đà Lạt là những gì lãng mạn nhất cho cảm hứng sáng tác hay thể hiện nỗi niềm của mỗi người... & với tôi, Đà Lạt là nơi để đến... đến để nhấm nháp ly cafe sớm mai bên cái lạnh se lòng, thả mình vào những làn sương mù đục kia để hít hà không khí trong lành thư thả, rồi xít xoa đôi bàn tay, kéo cao cổ áo để rảo bộ trên những con dốc liêu xiêu hay bên bờ hồ Xuân Hương êm đềm...
Tôi thích Đà Lạt từ thuở nào không biết nữa... chỉ nhớ là sở thích ấy bắt đầu từ lần đầu đầu tiên lên Đà Lạt vào mùa hoa dã quỳ. Ấn tượng về loài hoa mà bạn bè tôi hay đùa là "quỷ già" này từ ngày còn đi học trung học, ngày ấy mấy tuyển tập thơ văn học trò như Mực Tím, Áo Trắng hay đang bài về Đà Lạt, nhìn những cánh hoa vàng bên đồi thông xanh xanh mà cứ ước mơ một lần được đến... để rồi lần đầu đến với Đà Lạt tôi đã ngẩn ngơ với sắc vàng ngập lối của một Đà Lạt thân yêu...
Cafe Đà Lạt không ngon như cafe bảo Lộc nhưng có nét hay riêng của nó... cái hay là do cảm nhận của mỗi người... có người thích ngồi cafe Thanh Thủy hay MEI Xuân Hương để ngắm hồ Xuân Hương phẳng lặng, có người thích đi Rainy để ngắm những giọt mưa rơi ti tách, có người tiện đường chỉ ngồi dãy cafe Nguyễn chí Thanh để thả mắt xuống chợ Đà Lạt nhộn nhịp hay những vạt hoa xinh xắn nơi ven đường.
Còn tôi thì khác, tôi thích cafe kiểu người Đà Lạt... ngồi trên những chiếc ghế nệm xếp san sát vừa ấm cúng vừa tận hưởng cái lạnh của Đà Lạt bên ly cafe thường ngày theo cách của người Đà Lạt & đặc biệt là giá cả rất phải chăng...
Thèm Đà Lạt là cảm giác mà tôi rất thường gặp... Đà Lạt nhẹ nhàng yên ả, Đà Lạt không vội vã mà thật êm đềm... Thích cái cảm giá sớm mai thức dậy mở toan ô cửa sổ để đón cái gió nhè nhẹ, ngắm hàng thông vi vu, thả hồn vào những ngọn đồi xa xa hay những cánh hoa rực rỡ khoe sắc ngút ngàn hay đóa cúc trắng hoang dại mọc ở ven đường...
Nhớ những lúc lang thang nơi phố chợ, ngẫn ngơ ngơ ngẩn với những trẹt dâu tây đỏ chót hay mớ rau tươi xanh biếc khoe sắc... cứ như những sắc màu lung linh của một bức tranh đa sắc về một đời thường của một Đà Lạt mộng mơ.
Rồi chợt thèm hũ yaourt ngon nhất tôi đã từng ăn của quán chị Nhung dưới chân chùa Tàu trên con đường ra đèo Mimosa xinh đẹp, muốn được xít xoa với dĩa bánh bèo bà Hường sau giấc ngủ trưa rồi tối đến ghé lẫu tả pín lù Hoàng Lan nước ngọt, rau ngon ở Phan Đình Phùng rồi thả bộ cho đói để còn ăn bánh mì xíu mại, trái bắp nướng củ khoai lùi thơm lựng & uống ly sữa đậu nành nóng hổi giữa cái lạnh se se của phố núi ngàn hoa...
Cũng thấy nhớ dĩa cơm gà chiên bà Năm Chút... tuy không ngon như cơm gà quán Quê Hương ở Quy Nhơn hay Phì Lũ ở quê nhà Đà Nẵng nhưng cũng đủ làm tôi nhớ những buổi trưa thả bộ từ nơi tôi ở ra đây để ăn trưa. Khó mà quên dĩa kem trái cây ngon lịm của Đà Lạt hay cái bánh tráng trứng nóng giòn bình dị mà thơm lừng & ngon ngất ngây.
Nhớ mỗi sớm mai lang thang nơi con hẻm ấp Ánh Sáng để thưởng thức tô Mì Quảng, tô bún bò Huế kiểu Đà Lạt, dù vị có khác những nơi khác nhưng vẫn có hương vị riêng của nơi đây để ăn rồi thì nhớ... & nhớ rồi lần sau đi lại... sẽ ghé ăn...
Đà Lạt ơi Đà Lạt... tôi sẽ quay lại, nhớ quá rồi nên mặc kệ hồ Xuân Hương đã xong hay chưa... Sẽ không rảo bước lang thang quanh hồ Xuân Hương khi chiều tà hay sớm mai sương mờ muôn lối nhưng sẽ đi Đà Lạt, đi để thỏa nỗi nhớ, đi để đám mình trong cái lạnh của những tháng mùa đông... để ngắm những cánh dã quỳ hoang dại nơi nơi ở bờ rào, góc phố... để chếch choáng với những cánh mimosa vàng trong cái lạnh chớm đông...
Một vài nơi tôi hay ăn khi lên Đà Lạt post lên cho bà con tham khảo đây, ai biết thêm quán ăn ngon cm vào mình sẽ thêm vào list này để mọi người đi ĐL enjoy nhé! Thanks.
  • Bánh bèo chén bà Hường ở La Sơn Phu Tử nghe nói giờ chuyển qua 282 Phan Đình Phùng gần đó.
  • Lẫu tả pín lù ở Hoàng Lan - Phan Đình Phùng
  • Cơm chay Nhật Liên - Huỳnh thúc kháng
  • Yaourt chị Nhung - tiệm Ngọc Nhung trước chùa Tàu
  • Cơm gà chiên bà Năm Chút so 2A3, đường 3 tháng 4
  • Bánh tráng nướng phía trước nhà số 61 Nguyễn Văn Trỗi
  • Chè, kem, trái cây Thanh Thảo 76 Nguyễn Văn Trỗi
  • ốc 1c Đinh Tiên Hoàng
  • Bánh canh Xuân An - Nhà Chung ( bên hông nhà thờ con gà )
  • Bún mì các loại hẻm ấp Ánh Sáng- bún bò tầm hầm Thi Sách
  • Nem nướng bà Hùng ( nhiều nơi ở Dalat )
  • Bánh căn Tăng Bạt Hổ
  • Cafe Tùng
  • Mì Quảng Thanh - Phan Đình Phùng bán buổi chiều tối.
  • Bánh canh cua + bánh mì gà, quán tên là Minh Hoa, 71/1 Nguyễn Văn Trỗi

3-11-2010

Thiện Nguyễn




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Apr/2012 lúc 6:05pm


Đồi Thanh, Mùa Thu 70

viết cho bé của Anh.
Cô bé học trò có đôi mắt đẹp, rất buồn.
Vâng, rất buồn và rất xa......
NTĐ.



Hôm qua, nở Thu vàng
Nhớ em lội suối qua rừng tìm em
Đồi Thanh ngan ngát hương sim
Nở muôn đoá tím, tím trên nền chiều
Sim buồn nhớ gió hắt hiu
Anh buồn như tiếng vượn kêu nhớ rừng
Nhớ em ngồi đợi bên đường
Nhìn mây bay khắp muôn phương chẳng về

Ừ thì, mây tụ mây đi
Ừ thì tan hợp có gì đâu em?!
Đêm nao giục tiếng Sầu Quyên
Vầng trăng mỏng ngủ bên thềm lẻ loi.
Chút dư hương chợt bồi hồi
Bên cầu tơ liễu ngậm ngùi áo em
Đây bông Hồng nở tim ta
Còn xanh áo lụa đầu mùa đây em
Còn xanh hạt lệ mai sương
Tóc mây hãy nhẹ cài thêm đoá sầu
Nghìn sau hoa có phai mầu
Đợi nhau ta đứng bên cầu nước trôi
Phải chi mưa gió đơn chiều
Hái hoa tầm gửi thả theo gót người
Phải chi đời chảy dòng xuôi
Để Em ngồi đợi cuối trời nhớ mong
Người đầu sông, kẻ cuối sông
Trăm năm chung sống một dòng cách ngăn

Bài thơ nhỏ viết chưa xong
Bởi người chinh chiến tang bồng còn đeo
Một mai trang trắng tang bồng
Đồi xưa có khách anh hùng trồng hoa
Đồi Thanh vắng bóng em rồi
Đồi Thanh có kẻ còn ngồi đếm mây
Chiều đi nhưng chiều chưa say
Rừng Thu đã rụng từng giây lá vàng

Nhớ em nằm mộng trên đồi
Trong mơ bướm trắng một đôi bay về..


(đăng trong Đặc san ĐA HIỆU trường VBQG- ĐL)


______
____________



( Trích "TÌNH KHÚC KINH KHA" - HOA HẠ -
http://gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7954 )






-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Jul/2013 lúc 9:20am

         Đà Lạt: Một thoáng tĩnh
(19/07/2013)

Anvi Hoàng/Viễn Đông

Hồi nhỏ, cứ đến hè là lũ trẻ chúng tôi khăn gói lên Đà Lạt ở với ngoại, chơi với mấy dàn su su và cây me đất, với đồi Cù, hồ Xuân Hương, thung lũng và thác nước. Mấy chục năm sau quay trở lại, me đất đồi Cù thì không còn, và Đà Lạt ở trong lòng có phần thay đổi. Đó cũng là sự việc đương nhiên như vật đổi sao dời thôi. Khi tuổi tác khác đi thì việc đi tìm sự cảm nhận về thiên nhiên và con người ở mỗi nơi cũng sẽ phải thay đổi, mình chỉ làm sao để những hoài niệm không mất đi mà chỉ biến đổi thành những dạng thức khác. Điều này không phải dễ làm, vì phải bỏ công sức suy nghĩ và quyết định để có những lựa chọn thích hợp khiến mình có được những kinh nghiệm mới tốt nhất. Tôi đã thử. Và như thế, lần này Đà Lạt để lại dấu ấn trong tôi với những khoảnh khắc tĩnh đến an lạc, như kiểu an lạc hay được nói đến trong nhà Phật.

Nóng lạnh

Người Sài Gòn thường hay nhắc đến cái mát mẻ của Đà Lạt mà thèm thuồng, không như cái nóng nực bụi bặm của Sài Gòn. Bởi thế người ta mới nói “đi nghỉ mát” ở Đà Lạt. Bây giờ câu này coi bộ chỉ đúng cho mùa Giáng Sinh ở Đà Lạt thôi, chứ mùa hè, tầm tháng 6 tháng 7 thì Đà Lạt cũng nóng như ai. Nóng đến mức nắng lên thì có cái dù là sướng lắm. Không thì tìm bóng cây nào mà trú, chứ đi bộ chơi dưới trời nắng thì cũng cháy tóc thôi.
Cho dù người ta có tin vào hiện tượng nhiệt độ trên thế giới đã và đang thay đổi hay không thì cái nóng ở Đà Lạt vẫn là một thực tế không chối cãi được. Nhớ lại hồi trước, cái thời tôi thường chạy tung tăng trên đồi Cù, có ai ở Đà Lạt biết đến quạt máy là gì. Ngày nay, dùng quạt máy vào mùa hè là chuyện bình thường. Trong khách sạn cũng có máy lạnh. Ban ngày phải mở máy lên, tối khuya mới tắt được. Cái nóng ở Đà Lạt là vậy đó, nhưng cái se lạnh vào buổi sáng sớm và chiều tối ở đây thì vẫn là yếu tố thu hút lòng người. Người ta vẫn đi Đà Lạt để được dắt tay nhau đi bộ tà tà quanh hồ Xuân Hương thưởng thức không khí mát lạnh ở đây.


Cảnh hồ Xuân Hương lúc mặt trời mọc.

Chỗ ở

Nhân nói đến chuyện không khí mát mẻ, đã ở Đà Lạt thì nên tìm một chỗ thích hợp ở trên cao để có thể ngắm cảnh trong khí trời se lạnh tuyệt đẹp. Chỗ nào cao ráo, có tầm nhìn ra hồ Xuân Hương thì thật đáng đồng tiền lắm. Này nhé: mặt trời mọc trên cảnh hồ sương mù mờ ảo, mặt trời lặn trong ánh đèn màu thành phố bên hồ nước lấp lánh với những thuyền thiên nga lướt nước nhẹ nhàng chở những tiếng cười giòn giã của trẻ con hoặc những cặp tình nhân trẻ tuổi, và cả lúc mặt trời chiếu sáng giữa tiếng còi xe inh ỏi - tất cả những cảnh tượng này đều là nguồn lực có thể kích động phần trái tim của người ta đã phần nào chai cứng vì quen với nhịp đập kỹ thuật số hoặc máy khoan bê tông cốt thép từ các lô cốt trên các con đường trong thành phố Sài Gòn. Chỉ một thoáng lặng vào buổi sáng hoặc tối bên người thương như thế giúp người ta có cơ hội lấy lại sự cân bằng trong tâm hồn và cuộc sống.


Cảnh hồ Xuân Hương lúc mặt trời lặn.

Ngắm cảnh

Đã đi Đà Lạt nhiều lần thì vườn hoa, thác nước, hồ Than Thở rồi cũng trở thành những trò chơi của tuổi trẻ. Đứng tuổi hơn hoặc tò mò hơn thì tìm tĩnh lặng ở nơi đâu? Xin trả lời: bàn chân ta đi khắp các nẻo. Đi bộ ở Đà Lạt thật tuyệt vời. Những con đường dốc xinh xinh, những cầu thang trong đồi gập ghềnh, uốn éo luôn dẫn ta đến những ngõ ngách bất ngờ. Hầu như ở đâu cũng có thể bắt gặp tầng tầng những ngôi nhà mái ngói đỏ chênh vênh trên đồi chen lẫn trong những rừng thông xanh và các cầu thang uốn lượn vòng vèo đẹp đến lặng người, một sự kết hợp hài hòa giữa năng lực của con người và sức mạnh của thiên nhiên. Nhìn lên đồi hoặc nhìn xuống thung lũng đều đẹp cả.
Ngoài những con đường chính dẫn đến trung tâm thành phố nơi chợ Đà Lạt, nơi xe cộ qua lại có thể làm khách đi đường giật mình vì những tiếng còi vô cớ, những con đường khác ít xe cộ hơn trong thành phố dọc lên dọc xuống các ngọn đồi lớn nhỏ khác nhau thì thật yên tĩnh. Cái tĩnh của không gian ở đây làm cho người ta có thể nghe thấy tiếng của chính mình và suy nghĩ của chính mình, để mà trầm mình điều chỉnh lại nhịp sống của bản thân sao cho tinh thần được an lạc.


Nhà ngói đỏ trên đồi.



Nhà ngói đỏ trên đồi.


Ăn uống


Đã chịu chơi, thôi thì cũng phải ăn cho đúng điệu. Hãy thử nhà hàng Nam Phan. Đáng tiếc đây không phải là một bữa ăn cho một người lao động bình thường khoảng 20 ngàn đồng mà theo tiêu chuẩn Việt Nam được xem là loại sang. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn một người sống ở Mỹ, một bữa ăn 25 đô la một người trong một vila xưa với kiến trúc Pháp là không đáng kể, và là một kinh nghiệm rất đáng nhớ.
Bạn hãy tưởng tượng: một khu vườn đẹp như mơ nhìn xuống hồ Xuân Hương, một vila trần cao và trang trí nội thất sang trọng, một thực đơn bao gồm năm món có cả nước uống do đầu bếp tốt nghiệp trường nấu ăn hẳn hoi chuẩn bị, cách trình bày các món ăn tinh tế, người phục vụ chuyện nghiệp hạng nhất, một bàn ăn trải khăn trắng tinh với khăn ăn được ủi hồ cứng ngắt, chén dĩa gốm sứ cao cấp Minh Long, một không gian riêng biệt trong thiên nhiên hữu tình và tĩnh lặng - làm cho người ta không khỏi ngẫm nghĩ về sự may mắn mình đang được tận hưởng, và rằng mình có thể cống hiến và sống tốt hơn đẹp hơn cho đời. 25 Mỹ kim là quá rẻ cho một kinh nghiệm như thế này. Có điều kiện thì sao lại không thử chứ!

 


Nhà hàng trong villa Pháp.



Món tráng miệng.




 Đường riêng vào nhà hàng.



Cảnh hồ Xuân Hương và đồi núi Đà Lạt nhìn từ nhà hàng.

Trò chuyện
Trò chuyện với dân địa phương là một cái thú của người đi du lịch. Xin giới thiệu một “đặc sản” của Đà Lạt mà có thể ít người biết tới: sư chùa Linh Sơn. Cũng là trường trung cấp Phật học, chùa Linh Sơn là nơi ở, tu hành, giảng dạy của nhiều sư đến từ khắp nơi trong nước. Chùa này là một trong những chùa lâu đời nhất ở Đà Lạt, được xây hoàn tất vào năm 1940. Không ít khách du lịch viếng thăm chùa mỗi năm, nhưng điều thú vị và hay nhất về chùa là không khí trang nghiêm thật sự của một địa điểm tôn giáo. Phật tử đến chùa để tụng kinh niệm Phật và sinh hoạt tôn giáo trong không khí trang nghiêm, sư ra sư thầy ra thầy.
Vào những lúc không tụng kinh hay có lễ, lang thang trong chùa ở khu vực quầy sách thế nào bạn cũng gặp một hai thầy. Họ là thầy tu thật đấy, rất hiểu biết, thân thiện, cư xử đứng đắn, tác phong đĩnh đạc. Chưa kể nhiều người trong số họ có bằng cấp tiến sĩ do đã từng đi học ở Ấn Độ. Các thắc mắc về đạo Phật ở mức độ nào họ cũng giải đáp được. Kể cả những người có ý muốn tìm hiểu đạo Phật về khía cạnh nghiên cứu khoa học cũng phải nể kiến thức của những vị sư sẵn sàng mở lòng chia sẻ kiến thức của mình trong lĩnh vực này.
Thế là người ta mãn nguyện, và như thấy niềm tin về cuộc sống con người và những điều tốt đẹp trong đời quay trở lại.




Chùa Linh Sơn.



Nhện trong chùa.

Những sư ở Đà Lạt không nhất thiết phải là người Đà Lạt, nhưng họ chọn Đà Lạt là nơi tu tập và hành đạo, và trở thành những người tu hành có đức hạnh và tài năng. Đó chẳng phải là đất lành là gì?

 

Anvi Hoàng/Viễn Đông
__._,_.___

http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&ved=0CCsQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.viendongdaily.com%2Fda-lat-mot-thoang-tinh-Qnsn6I3z.html&ei=yT_tUbqsL4PIlAXC7IHQDA&usg=AFQjCNHpHa_vENr5EGu5kZfQqdZa1PVi5Q&sig2=gaLSPCuFTi81RsYU_AA5YQ&bvm=bv.49478099,d.dGI - VienDongDaily.Com | Đà Lạt: Một thoáng tĩnh - Da Lat: Mot thoang tinh

www.viendongdaily.com › http://www.viendongdaily.com/trang_chu - Trang chủ › http://www.viendongdaily.com/chuyen-muc/doi-song-doisong.html - Đời Sống › http://www.viendongdaily.com/chuyen-muc/du-ky-duky.html - Du Ký







-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 31/Jul/2013 lúc 9:34am


Niềm Nhớ Mù Sương

Cho dù niềm nhớ đã mù sương
Cũng đủ cho lòng mãi vấn vương
Đà Lạt năm xưa đầy mộng ảo
Con đường tình sử…dấu yêu thương
 
Ai có về thăm lại chốn xưa
Cho tôi nhắn gửi…nói sao vừa
Tâm tình ấp ủ bao năm tháng
Dưới cội thông già bóng lá thưa !
 
Tôi muốn đi thăm lại nước hồ
Xuân Hương, Thủy Tạ…một trời thơ
Còn Hồ Than Thở cho duyên phận
Dòng nước xanh rêu vẫn lững lờ ?
 
Tôi muốn đi tìm những thức ăn
Hàng chè, quán phở những đêm trăng
Đậu nành, sữa nóng mang hơi ấm
Bắp nướng thơm hành…có nhớ chăng ?
 
Tôi muốn đi thăm những giảng đường
Của trường Đại Học dưới trời sương
Muốn thăm thư viện xem còn sách ?
Sách vở khi xưa trả lại trường !
 
Tôi muốn mơ hoài một giấc mơ
Dù cho ẩn hiện giữa sương mờ
Vẫn là châu báu tôi trân quí
Như mối tình đầu của tuổi thơ !

 
Xuân Nhan
(Nhan Ánh Xuân-CTKD2& VK65-68)
(Tuyển Tập Niềm Nhớ Mù Sương, 2002)





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Aug/2013 lúc 7:12pm

DaLat , hình ảnh NGÀY XƯA


http://www.vnafmamn.com/Old_Dalat.html -





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Sep/2013 lúc 6:47pm


Vài hình ảnh của
ĐÀLẠT NGÀY NAY
Nói về Đà Lạt, như đã nói là TP Pháp nhất Việt Nam dưới thời VNCH, hơn cả Nha Trang mà BS Yersin từng lưu luyến. Vài di tích của xứ Lăng Sa vẫn còn đó với Thung Lũng Tình Yêu (Vallée d'Amour) và Đồi Thông Hai Mộ, Hồ Than Thở... rất lãng mạng từ Romantisme của Pháp. 








TRƯỜNG THPT BÁN CÔNG NGUYỄN DU
Ngày xưa hình như là trường Bồ Đề,trong khu vực chùa Linh Sơn thì phải ?





Vài đường phố ĐALAT











Đồi Cù
Grand Lycée Yersin, Trường Cao Đẳng Sư Phạm, Đà Lạt


Ngôi nhà xưa, kiến trúc kiểu Pháp



Ga Đà Lạt được mệnh danh là ga đẹp nhất khu vực Á Châu theo phong cách art-deco, nằm dưới thung lũng gần trung tâm thành phố, ngày nay thì đóng cửa chẳng làm gì



Hôm nay trời mưa nhớ Đà Lạt




Chợ Đà Lạt xây bởi KTS nổi tiếng Ngô Viết Thụ,


Đà Lạt 2009


Dalat không phải chỉ là khu nghĩ dưỡng mà là thành phố đại học, vì nó nhỏ mà có rất nhiều đại học, thời VNCH nơi đây được quy họach rất đàng hoàng với nhiều loại đại học. Từ công tới tư, công giáo tới phật giáo. Ngày nay thì tan nát, be bét hết. Trường học bị cán bộ lấn chiếm xây nhà, xây chung cư, xây các khu hành chánh, cho nên mới nói người vớ vẩn làm toàn chuyện vớ vẩn.




Phượng tím Đà Lạt




Hồ Xuân Hương (lúc này đang được nạo vét lòng hồ nên nước đã được rút hết)





Thành phố Đà Lạt

Chợ Đà Lạt về đêm


Nhà thờ "Con Gà "



Khách sạn Mercure

Một con đường thanh vắng, có nhà hàng
Le Café de la poste



Khuôn viên Toà Giám Mục Dalat

Nhà hàng nổi (đã cạn nước)

Nhà thờ và tu viện Domaine de Marie





Bến xe Đà Lạt Phương Trang

Thành phố nhìn từ trên cao


Một con đường yên tĩnh


.
(Internet)





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 26/Sep/2013 lúc 10:13pm



tuts.jpg

(Tấm hình trước cổng vào VĐHĐaLat trước 75
 - "Ngày Xưa Hoàng Thị đây"- ... )







-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 29/Sep/2013 lúc 9:42pm

Bóng Dáng Đà Lạt Trong Thơ Nhất Tuấn 
(Ngô Tằng Giao - Thơ-Tạp Ghi).
                                                                                      
BÓNG DÁNG ĐÀ LẠT 
                                      74fb.jpg


TRONG THƠ NHẤT TUẤN  
Ngô Tằng Giao

 
Nhà thơ NHẤT TUẤN tên thật là PHẠM HẬU. Sinh trưởng tại Nam Định. Quê ngoại quê nội ở Ninh Bình.
Di cư vào Nam năm 1954. Gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1955, Khóa XII. Rồi từ 1966 từng làm Quản Đốc Đài Phát Thanh, Giám đốc Nha Nghiên Cứu Kế Hoạch Bộ Thông Tin, Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh và Tổng Giám Đốc VN Thông Tấn Xã v.v… Trên vai nhà thơ là hai hoa mai trắng: Trung Tá.
    
 Nhà thơ được biết đến nhiều qua những tập thơ “Truyện Chúng Mình” (xuất bản trong khoảng từ 1959-1964) và những tập truyện “Đời Lính” (xuất bản 1965). Trên 50 bài thơ trong “Truyện Chúng Mình” đã được phổ nhạc bởi nhiều nhạc sĩ trong khoảng từ 1959-2008.
 
     Từng sống ở Đà Lạt nên thành phố đầy sương mù và mưa bay này vẫn luôn mãi tiềm ẩn ở một góc nào đó trong trái tim nhà thơ. Có lẽ cũng vì thế mà trong những vần thơ “Truyện Chúng Mình” NHẤT TUẤN đã ghi lại một số những dòng hồi tưởng với hình ảnh Đà Lạt mà một phần đời của mình còn gửi lại nơi chốn ấy. Và có lẽ để tưởng vọng về Đà Lạt mà trong chuỗi ngày sống ly hương, khi mái tóc đổi màu, nhà thơ đã chọn một thành phố cũng đầy mưa rơi giữa miền đồi núi chập chùng với ngàn thông xanh hoài ngàn năm ở vùng trời tây bắc Hoa Kỳ để định cư, đó là Seattle (Washington State).
 
Trong thơ NHẤT TUẤN, thoạt tiên tình yêu thấp thoáng trong bài “Truyện Chúng Mình”, chỉ gợi lên nỗi nhớ mong của người ở Đà Lạt vì
bị xa cách với người ở Sài Gòn:
“Còn nhớ những thư người trước gửi
Sàigòn - Đàlạt mới năm nào
Từng chiều thứ bảy anh mong đợi
Màu chữ xanh, yêu đến ngọt ngào
Hồn có nguyên trinh màu trắng cũ
Môi hồng vẫn thắm thuở ban đầu
Không dưng lòng rộn niềm ao-ước
Nhưng biết ai còn nhớ đến nhau.”
 
     Trong đời lính, khi phải rời xa Đà Lạt, từ nơi tiền đồn biên giới nhà thơ gửi lòng nhung nhớ về thành phố này nhân mùa Giáng sinh khi viết bài “Niềm Tin”, cũng đầy mong nhớ:
 
“Lại một Noël nữa
Mấy mùa Giáng sinh rồi
Anh ở đồn biên giới
Thương về một khung trời.
Chắc Đàlạt vui lắm
Mimosa… nở vàng
Anh đào khoe sắc thắm
Hương ngào ngạt không gian
Mấy mùa Giáng sinh trước
Chỗ hẹn anh chờ hoài
Lần này không về được
Hồi hộp đợi tin ai.”
 
     Một ngôi giáo đường nhỏ bé của Đà Lạt cũng lưu lại kỷ niệm một mùa Giáng Sinh với hoa anh đào khoe sắc thắm trong lòng NHẤT TUẤN. Nhà thơ viết bài “Nhà Thờ Đường Cô Giang”:
 
“Thêm xuân nữa lại về
Giữa một trời tuyết lạnh
Nhiều đêm dài xa quê
Tìm hoài trong ảo ảnh
Những kỷ niệm thần tiên
Bây giờ anh vẫn nhớ
Nhà thờ đường Cô Giang
Chúa nhật… mình đến đó
Đàlạt vào Giáng Sinh
Anh Đào reo mở hội
Tan lễ em và anh
Đường hoa về chung lối
Họ thấy… em hôn anh
Vội làm dấu Thánh Giá
Mấy sơ và… sư huynh…
Muốn là thiên thần cả!!
Em hỏi:
-Họ có yêu ?
Anh đáp:
-Khi khấn hứa
Họ xin yêu rất nhiều
Yêu hết con cái Chúa
Anh cố giữ niềm tin
Của tuổi trẻ mơ mộng
Nơi quê hương ngàn trùng
Xin em đừng tuyệt vọng
Vì sẽ có một ngày…
Giáo đường xưa… lại đến
Quỳ dưới trời tuyết bay
Thiết tha anh cầu nguyện.”
 
     Sau khi tình yêu nơi giáo đường xuất hiện, trong hồi tưởng nhà thơ chỉ mong “thấy” được người yêu nơi bài “Cầu nguyện” (chứ không mong “lấy” như bản nhạc đã đổi lời) với hai câu cuối thật buồn bã:
 
“Con quỳ lạy chúa trên trời
Để cho con thấy được người con yêu
Đời con đau khổ đã nhiều
Kể từ thơ dại đủ điều đắng cay
Số nghèo hai chục năm nay
Xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
Mối tình đầu trót bọt bèo
Vì người ta thích chạy theo bạc tiền
Âm thầm trong mối tình điên
Cầm bằng Chúa định nhân duyên bẽ bàng
Bây giờ con đã gặp nàng
Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh.
Chúng con hai mái đầu xanh
Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau.
Thề rằng sóng gió biển dâu,
Đã yêu… trước cũng như sau… giữ lời
Người ta lại bỏ con rồi,
Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con.”
 
     Giáng sinh thường là thời điểm kỳ diệu nhất trong suốt cả năm với tiếng chuông ngân nga trong đêm vắng, với ánh nến lung linh huyền ảo và thánh ca trầm bổng gợi lên những cảm xúc thanh thoát, êm đềm và thánh thiện. Bên giáo đường hoa mimosa Đà Lạt khoe sắc vàng tươi thắm, nhưng trong lòng nhà thơ lại chỉ nổi lên kỷ niệm buồn bã với bài “Mimosa Thôi Nở”:
“Noël xưa anh nhớ
Khi hãy còn yêu nhau
Nhà thờ nơi cuối phố
Thấp thoáng sau ngàn dâu
Anh chờ em đi lễ
Chung dâng lời nguyện cầu
Mimosa bừng nở
Đẹp như tình ban đầu
Đàlạt mờ trăng lạnh
Đường về ta bước mau.
Rồi anh hỏi khẽ em
Đã xin gì với Chúa
Trong đêm lễ Noël
Em lắc đầu chả nhớ
Nhưng hồng lên đôi má
Nắm tay anh đợi chờ
Trông em sao xinh quá
Và ngoan như nàng thơ
Mới bốn mùa thu qua
Mimosa vẫn nở
Sao mối tình đôi ta
Ai làm cho dang dở
Đêm nay Noël đây
Chuông nhà thờ khắc khoải
Gió đồi lang thang bay
Mưa buồn giăng ngõ tối
Anh quỳ bên tượng Chúa
Cúi đầu chắp hai tay
Lạy Chúa con chờ đợi
Người ngày xưa về đây
Nhưng em không về nữa
Đường khuya mưa bay bay
Mimosa thôi nở
Trong hồn anh đêm nay.”
74fb.jpg
     Trong bài thơ “Truyện Cây Hoa Mimosa” (1964), lại cũng vẫn thoáng vẻ giận hờn, trách móc:
“Một đi vĩnh biệt cao nguyên
Mimosa trả… cho miền núi non
Làm gì có chuyện sắt son
Thì thôi đừng dại mỏi mòn mắt trông”
     Đà Lạt là thành phố với núi đồi và rừng thông. Núi vươn cao cùng thông xanh reo suốt bốn mùa như cùng hát vang lên khúc tình ca gửi vào năm tháng mà nếu vắng bóng thời thành phố sẽ như một cơ thể mất linh hồn.
Hình ảnh ngọn núi cao Lap Be Bắc (Lapbe Nord) và cảnh Đà Lạt về đêm đã được nhà thơ NHẤT TUẤN nhắc tới trong bài
Đêm Cuối Cùng Đàlạt”, cũng kể lại một chuyện tình dang dở:
“Rồi kỷ niệm về dần trong trí nhớ
Đêm cuối cùng hai đứa đi ciné
Những con đường Đàlạt lúc vào khuya
Hoa lả tả rơi vàng đôi mái tóc
Gió buốt từ "Lap Be Nord" xa tắp
Anh vội vàng cởi áo khoác cho em
Tiếng thở dài chen tiếng bước đi êm
Mình yên lặng dìu nhau cho đến sáng.
Và anh nhớ em hát bài Hoài Cảm
Giọng ngân buồn, môi gọi cố nhân ơi
Đêm hôm qua trong tiệc cưới đông người
Lời hát cũ làm anh xao xuyến mãi.
Ôi ngày xưa sao giờ không trở lại?
Để em là riêng của một mình anh
Để anh nghe hoài giọng hát thanh thanh
Nhưng câu chuyện chúng mình không kết cuộc
Vì hai đứa… tại vì… ai biết được?!
Nên giờ này anh phải sống xa em
Rồi tình cờ nghe giọng hát quen quen
Bài Hoài Cảm, đêm cuối cùng Đàlạt!”
Trước từng cùng “người xưa dịu hiền” kề vai nhau tình tự ngồi bên hồ Than Thở. Nay sao lại đã xa nhau,
chỉ còn lại lời thở than tiếc nhớ dĩ vãng kỷ niệm trong “Bài Hát Đồi Sim”:
“Đàlạt đầy sương khói
Một mình anh lặng yên
Nghe hồn mình nức nở
Nghe buồn len trong tim
Nếu mình đừng gặp nhau
Trên núi đồi Đàlạt
Vì tình yêu ban đầu
Đã tan theo sóng nhạc
Người xưa… người xưa đâu?
Để… lòng anh tan nát
Đời bãi bể nương dâu
Cũng buồn như tiếng hát.”
 Cũng vẫn hồ Than Thở Đà Lạt thuở nào là nơi đôi lứa vui chơi với hoa “bất tử” từng là sứ giả của tình yêu. Nhưng nay sao chỉ còn là một kỷ niệm buồn đến “tàn nhẫn” trong bài thơ “Cánh Immortel Cuối Cùng” (1964):
“Hôm xưa đi chơi hồ Than Thở
Em ngắt bên đường một đóa hoa
Rồi chạy đến anh cười hớn hở
Đây hoa bất tử như tình ta
Hoa ấy màu vàng chen sắc máu
(Màu vàng tâm sự kẻ yêu nhau
Là âu yếm với tình đôn hậu)
Êm đẹp bao nhiêu giấc mộng đầu
Quả thực cũng như tên bất tử
Bông hoa nho nhỏ của người thơ
Anh đem về để trong phòng ngủ
Tươi mãi không tàn, có lạ chưa
Từ dạo sân nhà em đỏ pháo
Em cùng người ấy sống yên bình
Đêm đêm úp mặt vào tay bảo
Nào có ra chi... truyện chúng mình
Trái với tên hoa là bất tử
Hoa dần héo rũ sắc tàn phai
Cánh rơi tan nát như tâm sự
Như tiếng lòng anh khẽ thở dài
Rồi đến chiều nay cánh cuối cùng
Trời dâng lệ xuống khóc rưng-rưng
Hoa ơi đừng giống tình ta nhé
Ta vẫn cầu mong được thủy-chung
Anh quên màu đỏ trong hoa đó
Màu đỏ là màu của biệt-ly
Và của bao nhiêu sầu hận tủi
Giờ đây còn biết nói năng chi
Cánh hoa bất tử rơi lần chót
Tàn nhẫn như người rũ áo đi.”

Mưa Đà Lạt giăng mắc trên thành phố cũng khiến cho nhà thơ ngậm ngùi nhớ lại biết bao hình ảnh cũ
chất chồng, đầy ngang trái và nát tan. Trong cảnh Xuân về với cái Tết tha hương, NHẤT TUẤN viết bài
“Mưa trong kỷ niệm”:
“Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại
Lần cuối cùng hai đứa lặng nhìn nhau
Có bao giờ em hiểu được anh đâu
Tình ngang trái và những lời gian dối
Trong tay nhau nhiều lần anh tự hỏi
- Ái Khanh ơi ! Em còn nhớ chăng em
Bình minh hồng... và những buổi chiều êm
Truyện Chúng Mình... với bao nhiêu kỷ niệm
Hoa không đợi mà tình cờ bướm đến
Mình yêu như chưa từng có bao giờ
Em về rồi anh ở lại bơ vơ
Và bỗng thấy muốn giận hờn mãi mãi
Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại
Nào ngờ đâu trên thành phố Cao Nguyên
Đang âm thầm đếm bước dưới trời đêm
Anh bỗng thấy dáng người xưa thấp thoáng
Mái tóc đó bồng bềnh che vầng trán
Nét môi cười và cặp mắt nai tơ
Anh tưởng mình như đang sống trong mơ
Và thầm hỏi hay chỉ là hư ảnh
Ai thoạt gặp đã vội vàng lẩn tránh
Trong mưa bay anh thờ thẫn ra về
Mimosa tràn ngập lối anh đi
Hoa hay chính mình đang tan nát...?
Tết tha hương... nhớ mùa xuân Đàlạt
Lòng bâng khuâng nhớ người cũ năm nào
Tình tưởng phai theo ngàn cánh anh đào
Bỗng giây phút lại thắm hồng nỗi nhớ
Tiếng mưa như giọng ai... hoài nức nở
Lần cuối cùng... rồi mãi mãi...
Và mãi mãi... chia xa...
Cho hồn anh nổi bão táp phong ba
Thương từng hạt mưa buồn trong kỷ niệm.”
     Một ngày nào đó khi hồi tưởng về thành phố cao nguyên với tình yêu đẹp đẽ tràn đầy mộng ước lúc mình còn là sinh viên võ bị, NHẤT TUẤN viết bài “Nhớ Về Đàlạt” (1964). Thời gian trôi qua. Cảnh vẫn còn đó. Người xưa đã cách xa. Để rồi lại cũng vẫn đầy hình ảnh của buồn bã, của dang dở chia ly vào giai đoạn cuối của khúc nhạc tình:

“Nhớ tám năm về trước
Khi còn là sinh viên
Học trong trường Võ bị
Nơi núi rừng cao nguyên
Dạo ấy em mười tám
Xinh đẹp hơn tiên nga
Tóc mây bồng vương trán
Môi cười tươi như hoa
Còn nhớ không ngày xưa
Đàlạt buồn trăng mờ
Gió vàng trên nước biếc
Chim chiều bay bơ vơ
Chúng mình sát vai nhau
Tay đan tay chậm bước
Cùng đếm từng vì sao
Rồi xây bao mộng-ước
Rừng ái ân vẫn đó
Hồ Than thở còn đây
Thông im buồn đợi gió
Mây đồi xa còn bay
Cũng vẫn một khung trời
Còn nguyên hình ảnh cũ
Em bây giờ xa rồi
Tìm đâu người viễn xứ
Tình nào không dang dở
Màu nào mà không phai
Cho nên anh không nỡ
Làm thơ để trách ai
Riêng chiều nay nhớ lại
Truyện chúng mình ngày xưa
Nhìn khung trời Đàlạt
Mà tưởng mình đang mơ.”
   Trong cuộc sống tại ngước ngoài, với tiêu đề “Truyện chúng mình hải ngoại” NHẤT TUẤN viết:
   “Thôi trang đời đã khép”:
“Và những chiều Đà Lạt
Một mình trên đồi thông
Mưa nhạt nhoà trong mắt
Gửi sầu... vào mênh mông”
      Bài “Ảo ảnh”:
“Xin giữ mãi kỷ niệm buồn Đà Lạt
Giữa đồi thông rừng cỏ non xanh ngắt
Nhớ điên cuồng trong một phút bâng khuâng”
     Bài “Lại một xuân buồn” (1985):
“Nhớ Bích Câu Đà lạt thoáng mưa bay
Hồ Than Thở cùng lòng ai hòa nhịp
Rừng Ái Ân với ngàn thông xanh biếc
Thác Gougah, cây gọi gió than van
Đồi 15 đâu đó cụm mai vàng
Giáng Sinh tới Anh đào khoe sắc thắm
Mimosa sương long lanh đọng nắng
Chiều Lâm Viên, bản Thượng khói dâng cao
Những kỷ niệm xưa thân ái biết bao…
Ghi lại thuở bên nhau nơi Trường Mẹ!”
     Mới chỉ trích dẫn một số ít vần thơ trong “Truyện Chúng Mình” của NHẤT TUẤN người đọc đã thấy bóng dáng thành phố sương mù Đà Lạt chập chờn ẩn hiện. Bóng dáng Đà Lạt một trời thương nhớ quả thật rất thích hợp để được chọn làm bối cảnh cho những truyện tình.
     Tình yêu nam nữ đã có từ vạn kiếp và luôn là một đề tài bất diệt trong vườn hoa văn học nghệ thuật của bất cứ quốc gia nào. Riêng trong lãnh vực thi ca thì từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, tình yêu luôn gợi hứng cho các nhà thơ. Hình như tình yêu không có tuổi tác, chừng nào trái tim con người còn đập thì con người còn yêu. Hơn nữa một số văn sĩ, thi sĩ đã từng nói rằng: “Thơ trữ tình có thể coi như tổng hợp, như tuyệt đỉnh của thơ, mà chính thơ là tuyệt đỉnh của tiếng nói loài người!” Họ còn mạnh miệng nói thêm nữa: “Thi ca sẽ là tôn giáo cuối cùng trên mặt địa cầu này khi mà tất cả nhân loại không còn giữ lại được cho họ một niềm tin nào ở nơi tôn giáo mà chúng ta đang có”.
     Thật ra nhà thơ không phải là kẻ vì phạm tội mà bị “phát vãng” từ thiên cung xuống dưới trần như có người thường nói. Nhà thơ cũng chỉ là một con người bình thường và đối tượng của thơ, chất liệu tạo ra thơ chính là cuộc sống trên cõi nhân gian mà thôi. Cũng vẫn có yêu có ghét, có vui có buồn, có quên có nhớ, có xum họp và có chia ly… Có lẽ phải quan niệm rằng: “Thơ là một lối sống, một lối nhận thức, một lối dùng ngôn ngữ, âm điệu để diễn tả tâm tư tình cảm riêng. Cái nền của thơ là cảm xúc, một cảm xúc thành thật. Thơ không phải là một cách độc thoại mà phải là một cách truyền đạt kinh nghiệm cho tha nhân. Thơ cần có sự thông cảm và thưởng thức của người đọc.”
     Người yêu thơ có lẽ phải nhận ra rằng NHẤT TUẤN, với những vần thơ lai láng trữ tình trong “Truyện Chúng Mình” không phải chỉ là truyện riêng tư “thì thầm bên gối” giữa hai người nữa mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là đôi tình nhân thanh niên nam nữ khác. Nhà thơ đã viết xuống hộ những trang nhật ký về tình yêu của những người trẻ tuổi. Khi thì đằm thắm thiết tha. Nhiều lúc lại dang dở não sầu, phải cần đến thời gian như là một loại linh dược để dần dần hàn gắn các vết thương lòng trong quá khứ. Có thể coi đây là tâm sự chung của một thế hệ thanh niên thời đó, đồng một lứa tuổi với tác giả.

     Nhưng có một điều quan trọng cần phải nói thêm là sau những tháng ngày quằn quại với “Truyện Chúng Mình”, NHẤT TUẤN đã vươn khỏi những hình ảnh buồn chán thương đau, những nhớ nhung rất thế nhân thường tình của thời trai trẻ đó. Nhà thơ đã chuyển hướng về một chân trời thi ca với tầm cao của những hình ảnh đẹp đẽ hơn như những lời tâm sự chân thành của nhà thơ NHẤT TUẤN mấy chục năm sau khi viết những “Truyện Chúng Mình”:
“Ngày còn là cậu học trò Trung Học
Trong tình yêu bé nhỏ, cá nhân
Tôi đã từng than thở biết bao lần
Và làm thơ
Trách những ngườì mau phụ bạc...
...
Giờ đây, theo đời sống quân đội lớn lên
Sau những tháng năm tranh đấu
Tôi bỗng thấy rằng
Mình chỉ toàn là thương hờ nhớ hão
Tôi bỗng thấy rằng
Còn rất nhiều tâm sự khác để làm thơ...”
Ngô Tằng Giao
(VIRGINIA, USA, Mùa Thu Vàng 2010)
 
 
 
 




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Feb/2014 lúc 7:55pm



Đà Lạt một sớm mai

***

Đến Đà Lạt vào một ngày đông, trời rất lạnh, nhưng tôi vẫn quyết tâm dậy thật sớm để ngắm nhìn thành phố mộng mơ vào sớm mai trông như thế nào.


VIDEO
Hình%20thu%20nhỏ
http://www.youtube.com/watch?v=47VtROxU2P4 - http://savefrom.net/?url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3D47VtROxU2P4&utm_source=firefox-sf&utm_medium=extensions&utm_campaign=link_modifier">SaveFrom.net



Hình%20thu%20nhỏ
http://www.youtube.com/watch?v=5IZQKQaGyMw - http://savefrom.net/?url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3D5IZQKQaGyMw&utm_source=firefox-sf&utm_medium=extensions&utm_campaign=link_modifier">SaveFrom.net



Hình Thu Nhỏ
http://www.youtube.com/watch?v=Lhv3hKPWgWo - http://savefrom.net/?url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DLhv3hKPWgWo&utm_source=firefox-sf&utm_medium=extensions&utm_campaign=link_modifier">SaveFrom.net
http://www.youtube.com/watch?v=25FhGe_lVyY - http://savefrom.net/?url=http%3A%2F%2Fwww.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3D25FhGe_lVyY&utm_source=firefox-sf&utm_medium=extensions&utm_campaign=link_modifier">SaveFrom.net





alt





alt





alt





alt





alt





alt





alt





alt





alt





alt





alt



http://ihay.thanhnien.com.vn/pages/20140120/da-lat-mot-som-mai.aspx








-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Apr/2014 lúc 8:37am

ĐÀ LẠT, VÀNG PHAI KỶ NIỆM

 

kim thanh

 

       Đầu năm 1975, tôi đổi về trường Đại Học CTCT Đà Lạt, sau thời gian dài lặn lội hành quân gian khổ theo các đon vị Bộ Binh Vùng 2 Chiến Thuật. Và từ tháng 4 năm ấy, tôi được Nguyễn Hồng Giáp, người bạn học cũ từ thời Nha Trang, đang là Phó Khoa trưởng Văn Khoa Viện Đại Học mời đến dạy Pháp văn như một giáo sư thỉnh giảng (visiting professor). Trái với dự đoán của tôi, Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh vui vẻ cho phép ngay, theo chủ trương “giao lưu văn hóa”, trao đổi giáo sư giữa hai trường, nghĩa là ông cũng mời các giáo sư VĐH qua dạy tại trường ĐH/CTCT, như Trần Long, khoa trưởng Chính Trị Kinh Doanh, Hoàng Cơ Long, Nguyễn Hồng Giáp, và Phương Thu, hiệu trưởng trường Bùi Thị Xuân.

 

Viện Đại Học Đà Lạt (1973-75)

 

     Hồi ấy, Viện Đại Học Đà Lạt bắt đầu áp dụng chế độ tín chỉ (credit) như của Mỹ, theo đề nghị của các giáo sư du học Mỹ trở về, như ba ông Tam Long: Phó Bá Long, Trần Long (hiện ở Hillsboro), và Ngô Đình Long –điều mà Tiến sĩ Nguyễn Hồng Giáp, tốt nghiệp bên Tây, hoàn toàn đồng ý và cổ võ. Ví dụ, sinh viên các khoa (Sư phạm, Việt Hán, Anh văn, Khoa học, Chính Trị Kinh Doanh, v.v...), nếu chọn Pháp văn làm sinh ngữ chính hay phụ, đều phải đến học chung với nhau các giờ Pháp ng. Còn những sinh viên theo ban Văn Khoa Cử nhân Pháp thuần túy ngồi vào lớp riêng, khó hơn, chuyên môn hơn, giảng bằng tiếng Pháp do các giáo sư người Pháp, như linh mục Jean Maïs, hay Alain Bichet, bạn tôi, phụ trách.

      Tôi được chỉ định –cùng với Nguyễn Hồng Giáp, Đậu Quang Luận, (và, nếu không muốn bị mang tiếng thấy người sang bắt quàng làm họ, tôi nhớ còn có cha Nguyễn Văn Nhơn, nay là Tổng Giám Mục Hà Nội)– dạy các lớp "học chung" như vậy, đóng đô thường trực tại giảng đường Spellman, từ trình độ năm thứ 2 đến năm thứ 3.

      Với lớp cử nhân Pháp, Giáp đề nghị tôi dạy một credit bắt buộc về văn chương đối chiếu (littérature comparée) giữa Pháp và Việt. Tôi chọn đề tài: “Baudelaire et les poètes et écrivains Vietnamiens de l’avant-guerre” (Baudelaire và các thi văn sĩ tiền chiến Việt Nam). Quả vậy, trong văn chương Pháp, Baudelaire có ảnh hưởng lớn trên thế hệ thi văn sĩ lãng mạn Việt Nam, nhất là Xuân Diệu, hay Hàn Mặc Tử (ông này lên án Baudelaire đã thiếu đạo đức, khinh miệt gọi ông là "va" (cf Chơi giữa mùa trăng, y hệt Tòa án Pháp năm 1861 kết tội ông vì tập thơ Les Fleurs du Mal), nhiều hơn cả Lamartine, một thi sĩ tôi cho là ủy mị, than mây khóc gió nhất, mà học sinh và thi sĩ Việt Nam nào cũng biết. 

      Ví dụ về ảnh hưởng của Baudelaire: Những câu thơ như  "Là thi sĩ nghĩa là ru với gió / Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây", Xuân Diệu lấy dịch gần nguyên con bài “Bénédiction” của ông thi sĩ Pháp. Hay bài "Huyền Diệu", mở đầu với câu “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm…” lấy ý từ bài "Correspondances" trong đó những màu sắc (couleurs), âm thanh (sons) và hương thơm (parfums) được kết hợp mật thiết với nhau. Vân vân... Bên cạnh Baudelaire, Xuân Diệu còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Ronsard, thế kỷ Phục Hưng (XVI), và một chút của Lamartine, một chút của Verlaine (như bài Il pleure dans mon cœur, chẳng hạn, Xuân Diệu, trong “Yêu mến”, cũng viết: “mưa lơ phơ như dạ khóc âm thầm”) và qua các nhà thơ Pháp này, ảnh hưởng gián tiếp của thi sĩ Latin Horace (Carpe diem, Hãy hái ngày đi), trong bài "Giục giã":  Mau với chứ vội vàng lên với chứ / Em, em ơi tình non đã già rồi  v.v...

      Ngoài Xuân Diệu, trong “Hồn bướm mơ tiên”, đoạn tả cảnh lá rụng, Khái Hưng viết giống như, nếu không nói gần như phỏng dịch, nhà văn François Coppée trong một đoạn của Toute une jeunesse. Cũng như Thanh Tịnh bắt chước đoạn văn La rentrée của Anatole France trong “Ngày tựu trường”. Những bài thơ đạo của Hàn Mặc Tử phảng phất hơi hướng của Paul Claudel, một tín đồ Công giáo thuần thành, trong L’annonce faite à MarieLe soulier de satin. Còn nhiều ví dụ khác nữa. Ấy là chưa kể Bích Khê với cố gắng đưa thơ tiền chiến Việt vào dòng thơ tượng trưng Pháp.

      Tín chỉ này muốn dạy phải kéo dài ít nhất ba tháng, đâu ít ỏi gì, nên tôi phải bỏ nhiều thời gian, lục lọi trí nhớ và đọc lại kỹ những bài thơ, bài văn Pháp nào mà tôi nghi có dính líu tới các ông thi văn sĩ Việt Nam, và ngược lại. Thời đó chưa có Internet và Wikipedia, nên sự hiểu biết chỉ dựa trên kiến thức học từ trường ốc và sách vở. Xong, in ra thành tập, phát cho sinh viên. Bây giờ thì cả thầy lẫn trò đều mất nó. Tiếc quá! Nếu được trẻ hơn chừng ba bó, có lẽ tôi sẽ “tắt đèn làm lại”, vì thấy đề tài này khá hữu ích cho văn chương Việt Nam, không chỉ thời tiền chiến mà còn cả về sau này, với Nhóm Sáng Tạo hay những nhà văn chạy theo chủ nghĩa Hiện Sinh của Sartre, Camus, hay những nhà thơ chịu ảnh hưởng phong trào Siêu Thực Pháp, Bùi Giáng chẳng hạn...

      Sinh viên của lớp chứng chỉ này có tám người, bảy cô và một cậu. Giờ này tôi chỉ nhớ hai người, một là em của bà chủ tiệm ăn Bắc Hương trong khu chợ Hòa Bình, tức em vợ của Trung úy Nguyễn Bảo Hưng, bạn tôi, thuộc trường ĐH/CTCT. Khoảng giữa năm 1988, tôi đã gặp lại cả gia đình anh bạn cũ ở ngoại ô Paris (Cergy-Pontoise). Cô sinh viên thùy mị, nhút nhát ngày đó giờ đã có chồng con, tay bồng tay bế. Người thứ hai có tên Hoàng Hôn Thắm, hồ sơ ghi "sinh tại Paris". Tôi nhớ đến cô vì cái tên quá đặc biệt, khó quên và không lẫn với ai được. Sau này qua Mỹ đọc báo mới biết cô (đang ở Texas) là ái nữ của cố thi sĩ tài hoa Hoàng Anh Tuấn. 

 

Chiếc Peugeot 203 bụi đời

 

      Lúc ấy tôi đi làm bằng chiếc xe Peugeot 203 đen, cũ kỹ, sang số tay, thời Bảo Đại còn mặc tã, rất bụi theo hai nghĩa, mượn dài hạn của ba mẹ tôi, lái từ Nha Trang lên, không bao giờ được lau rửa trong ngoài, sách báo đầy ngập sàn xe.  

      Nói chung, xe chạy cũng OK, vừa phải. Chỉ có vài trục trặc lẻ tẻ, như tiếng máy nổ quá to, có lẽ ống pot bị nứt, không thua tiếng xe nhà binh GMC, khiến không có người đẹp nào muốn quá giang, vì mắc cỡ, nhưng khách bộ hành nghe từ xa đã phải vội né vô lề, đỡ gây tai nạn. Còn thêm cái thắng không được ăn lắm, muốn ngừng phải nhắp nhắp trước mười thước từ xa, không ai dám ngồi vào, nói chi mượn lái. Khá nguy hiểm trên những con dốc Đà Lạt. Lúc đầu tôi cũng ớn chứ, nhưng riết rồi quen. Không đem sửa vì lười và vì thợ bày vẽ đủ chuyện, chặt đẹp. Một anh bạn, nghe tôi cảnh cáo, ngờ tôi xấu bụng, một lần vẫn nằng nặc đòi mượn đi có việc. Mười phút sau, anh đem trả lại, mặt mày tái nhợt. Lại còn, lâu lâu máy nổi cơn ho khục khặc, phun khói mịt trời.

      Một đêm sương mù, ham nói chuyện với một khách quá giang, Đại úy Phạm Văn Tải (hiện ở Portland), tôi quên nhắp nhắp thắng, suýt lao xuống hồ Xuân Hương. Lần khác, nhắp nhắp không kịp, tôi đã tông vào cửa xe Peugeot 403 trắng mới tinh, đang quẹo phải, của ông Trưởng ty Công Chánh Đà Lạt, tôi nhớ người Huế, dòng họ Tôn Thất, bị ông này bước xuống la lối ầm ĩ, vung tay vung chân, đòi xem và đòi rút bằng lái. Nhưng lúc ấy ông cũng vừa kịp thấy tôi (đi công tác về) mặc quân phục, đeo lon, mang súng Colt, mở cửa sấn tới, mặt hầm hầm vì bị chửi... oan, nên ông cũng ngán, dịu giọng, chỉ đòi "đại úy trả tiền gò lại cửa xe", tốn hết một tháng lương nhà binh của tôi. Nhờ thế, sẵn dịp, tôi mới chịu sửa sơ sơ cái thắng xe. Vậy mà trước đó có người không biết bệnh trạng của xe vẫn “vô tư” ngồi vào, như Giám mục Đà Lạt Nguyễn Sơn Lâm, vài bà sơ người Pháp, hoặc các giáo sư trường CTCT. 


 Thiếu tá Lê Ân, Văn Hóa Vụ trưởng ĐH/CTCT

      Vài sĩ quan Văn Hóa Vụ biết chuyện tông xe này, nhưng Th/T Ân, xếp trực tiếp của tôi, lại không. Chuẩn bị đi Sài Gòn mời các giáo sư cho mùa văn hoá, ông đã đề nghị với Đại tá Quỳnh cho ông và tôi đi xuống Sài Gòn bằng chiếc Peugeot không giống ai của tôi, và nhà trường đài thọ xăng. Đó là một trong vài lần hiếm hoi tôi rửa xe, nhưng vẫn ỷ y, hoặc lười biếng, hoặc tiếc tiền, không cho kiểm lại máy móc. Gần đến Phan Thiết, gió mát từ biển thổi vào, hai thầy trò đang ngon trớn, Thiếu tá Ân đang khen nức nở "xe chạy êm quá", thì bỗng nó bị panne ngang xương, xịt khói mờ mịt, giật liên hồi mấy cái, giống như con heo bị thọc huyết, rồi chết máy. Dù ốm yếu, ông thiếu tá cũng phải xuống đường phụ tôi đẩy xe, mồ hôi nhễ nhại, thở phì phì, luôn miệng than: Cháng gướm! Cháng gướm (Chán gớm)! Hóa ra bộ phận bơm xăng bị bể. Vào một tiệm sửa xe bên đường, nhờ thay, rồi xe chạy phom phom trở lại, đủ sức đổ bến Sài Gòn và an toàn đến nhà các giáo sư. Như GS Nguyễn Mạnh Hùng, lúc ấy đang ở với vợ và bà mẹ vợ, Bắc kỳ chính cống, nghe nói bây giờ trở cờ, sống tại Virginia. Như GS Nguyễn Ngọc Huy, người Nam, rất niềm nở, lịch sự, cười lộ cái răng vàng sáng chói và bàn tay bắt mềm nhũn. Như GS Nguyễn Thị Huệ, đon đả, bộc trực. Còn GS Phạm Thị Tự đã nhận lời qua thư từ với Đại tá Quỳnh, không cần đến gặp. Trở về trường, Thiếu tá Ân đi máy bay cho chắc ăn. Sau chuyến đó, ông chỉ dám ngồi vào xe của tôi một lần nữa thôi, khi chiếc jeep của ông bị hư giữa đường.

       Rất ít người còn nhớ, nói chi nhắc, đến vị Văn Hoá Vụ trưởng cuối cùng của trường ĐH/CTCT. Có lẽ vì bản tính ông kín đáo, khiêm cung, có lẽ vì trong chức vụ VHV trưởng ông ít xuất hiện, không tiếp xúc nhiều với anh em SVSQ, khác với chúng tôi, những sĩ quan phụ khảo. Ông về Đại học CTCT, từ trường Võ Bị (trưởng phòng Tâm lý chiến), cùng một thời gian với tôi, tháng giêng 1973, nghĩa là từ khoá 4. Ông có bằng Cử nhân Việt-Hán. Rất hiền lành, ít nói, vóc dáng ốm nhỏ, mặt luôn tái xanh, và sau này tôi được ông cho biết ông bị bệnh bao tử kinh niên. Ông sống khép kín cùng với gia đình, một vợ ba con nhỏ, tại bến xe Chi Lăng, gần căn nhà thuê của tôi. Vợ ông người Huế, cháu ruột của Linh mục nổi tiếng Phan Phát Huồn, dòng Chúa Cứu Thế. Còn ông nói tiếng Quảng, lai Huế, em họ của Linh mục Lê Thiên Ân, tu viện trưởng tu viện dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang. Khi Khối Khóa sinh và Văn hóa vụ dời về trường Chỉ Huy Tham Mưu cũ, chúng tôi chỉ cần thả bộ bốn phút là đến nơi làm việc. Rất tiện lợi.

      Văn hóa vụ lúc ấy có bốn khoa và bốn trưởng khoa. Đại úy Võ Lê Tuấn, cử nhân Luật, người hiền hòa, ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự, là trưởng khoa Chính Trị Học kiêm phụ khảo môn Nhân chủng học (GS Nghiêm Thẩm), Trung úy Trần Kiêm Nguyện, cử nhân Văn khoa, trưởng khoa Hành Chánh Công Quyền kiêm phụ khảo môn Bang giao quốc tế (GS Nguyễn Thị Huệ), Trung úy Phạm Hữu Tạo, du học Mỹ về, trưởng khoa Sinh ngữ, và tôi, trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội kiêm phụ khảo môn Xã hội học (GS Phạm Thị Tự). Ngoài ra, mỗi lần Bà Tự dạy đều có Thiếu tướng Bùi Đình Đạm, Giám đốc Nha động viên, mặc veste dân sự, đến hội trường nghe, vì lúc đó ông đang soạn Cao Học Xã Hội Học dưới sự bảo trợ của bà. Những lần ấy, tôi ngồi cạnh ông, cuối phòng, và thì thầm nói chuyện. Mỗi trưởng khoa có văn phòng riêng trong dãy building, được dùng làm nơi thi vấn đáp, kế cận đại giảng đường. Sau này, khi hai GS Nghiêm Thẩm và Phạm Thị Tự bận không lên Đà Lạt dạy được nữa, vào năm cuối của khóa 4, Đại tá Chỉ huy trưởng bổ nhiệm Đ/U Tuấn dạy môn Nhân chủng học và tôi dạy môn Xã hội học. Chúng tôi "lên lớp" được hai lần (cuối khóa 4, đầu khóa 5) thì tan hàng, "di tản chiến đấu" xuống Sài Gòn. Tôi không chắc là các anh em SVSQ có lời bình phẩm nào, khen hay chê, về cách dạy của hai chúng tôi, vì đa số, đi bãi về, mệt quá, đã ngủ trong lớp, có anh mê man không biết tôi xuống bục đứng bên cạnh lúc nào, có anh ngáy "vô tư", có anh còn mớ nói lảm nhảm, có anh nghiến răng ken két. Tôi thông cảm hết. Có một điều duy nhất mà tôi không bao giờ thông cảm là "quay phim" trong giờ thi.

      Trở lại Th/Tá Lê Ân. Ông cho các sĩ quan VHV thì giờ rộng rãi để soạn bài vở, tài liệu, không bắt buộc có mặt ở đơn vị 100%, trừ khi trực trại, ứng chiến, và họp tham mưu có ĐT/CHT chủ tọa. Còn ông tình nguyện lãnh phần "trực văn phòng" mỗi ngày, mà ông và chúng tôi gọi đùa là "giữ chùa", thay cho tất cả. Cần sĩ quan nào, ông cho người đi lùng gọi, thường thường tại gia. Vài lần, bận việc, không lên văn phòng được, ông cho cô con gái lớn, 14 tuổi, tên Bích Vân, đến tìm tôi tận nhà, gõ cửa, nói bằng giọng Huế đặc: "Ba chạu nọi, nhờ chụ lên giự chùa giùm cho ba". Nghĩa là, vì tôi là láng giềng gần gũi, nên luôn luôn được ông ưu tiên "chiếu cố", hơn ba ông trưởng khoa kia. Suốt hai năm làm việc dưới quyền ông, tôi chưa bao giờ thấy ông giận dữ, lớn tiếng, hoặc rầy la bất cứ ai. Cho nên chúng tôi rất thương ông. Có chuyện gì không vừa ý, ông chỉ lắc lắc đầu, buông nhẹ một lời than độc nhất, rất trademark:

     - Cháng gướm! 

 

 Giáo sư Phạm Thị T

      Cũng với chiếc xe ấy, trong mùa văn hoá đầu tiên của tôi, vì tài xế xe jeep dân sự của trường bận đón đưa ai, hình như bà Trung tướng Trần Văn Trung, Th/tá Lê Ân nhờ tôi một mình, mặc civil, đến phi trường Liên Khương đón giáo sư Xã Hội Học Phạm Thị Tự  –mà cả ông và tôi chưa biết mặt. Máy bay đáp, tôi chờ mãi, vẫn không thấy bà đâu, vì trong đầu tôi mường tượng bà phải như một "mệnh phụ phu nhân", ăn mặc sang trọng cho đúng với tước vị giáo sư du học ở Mỹ về v.v... Cuối cùng, không còn ai, ngoài một bà cao lớn mặc áo dài rất bình dị, đi guốc gỗ thường, đứng đó đợi đã lâu, bước tới hỏi với giọng Bắc thanh tao, trong vắt:  "Có phải ông thuộc trường Đại học CTCT đi đón ai?". Tôi trả lời: "Vâng, tôi là Trưởng khoa Xã Hội Học, có nhiệm vụ đón giáo sư Phạm Thị Tự, nhưng không thấy bà đâu cả". Bà mừng rỡ, nói lớn: "Tôi là giáo sư Tự đây mà!". Cũng may, xe chạy về thành phố bình an vô sự, sau mấy lần phải nhắp nhắp thắng mỏi chân.

      Sáng nay, 15/3/2014, khi đang viết bài này, tôi nhận được email của anh em cựu SVSQ khóa 4 trường Đại Học CTCT, báo tin bà giáo sư Maria Phạm Thị Tự đã từ trần 9 giờ sáng hôm qua, 14/3, tại Sài Gòn, thọ 91 tuổi, làm tôi không khỏi bàng hoàng, nhớ những buổi dạy rất linh động của bà và nhất là  lần đưa xe đón bà tại phi trường Liên Khương. Bà Phạm Thị Tự, ai cũng công nhận, là một giáo sư giỏi, cởi mở, có kiến thức rộng, óc khôi hài cao, rất duyên dáng. Đại tá Chỉ Huy Trưởng dường như quý mến bà một cách đặc biệt. Mỗi lần ông mời bà và Th/T Lê Ân đến dùng cơm tại tư thất, tôi cũng được mời đến "ăn ké".

 

Đồng nghiệp Alain Bichet                                 

       Alain là giáo sư tại Lycée Yersin, có bằng Cao Học Sử, Đại Học Nanterre, còn trẻ, độc thân, đẹp trai, dân chơi thứ thiệt. Anh được mời dạy một lớp Pháp văn cho sinh viên Cử nhân Pháp tại Viện Đại Học. Một buổi chiều cả hai dạy xong thì trời vừa tối. Anh đi bộ ra cổng. Tôi chạy xe rề rề theo, hỏi anh có muốn quá giang về không. Anh OK. Hỏi ở đâu, anh đáp, đường Võ Tánh, gần bến xe Chi Lăng. Tôi reo lên, tưởng đâu, chứ mình là láng giềng đấy. Vào xe, mấy phút sau, Alain quay sang tôi, lo lắng hỏi, với cặp mắt chuyên nghiệp: "Thắng xe có ăn không đó?" Tôi đáp: "Không ăn lắm. Nhưng cứ yên trí, “Ne t’inquiète pas trop”, có gì, tôi thắng bằng hộp số. Chưa bao giờ xe lao xuống hồ". Câu khôi hài vô duyên không làm Alain cười, trái lại, tôi liếc thấy, nét mặt anh đăm đăm pha chút lo âu.. Đến nơi an toàn, mình mẩy tay chân còn lành lặn, anh mừng lắm, mời tôi vô nhà, uống cognac, chuyện trò rất tương đắc cho đến khuya. Từ đó, Alain trở thành một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi còn giới thiệu Alain cho Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh –người đã tham dự Hòa đàm Paris và nói tiếng Pháp rất lưu loát. Thỉnh thoảng anh mời Đại tá Quỳnh đến nhà dùng cơm, và ngược lại, Alain cũng được mời tham dự những buổi lễ lớn của Trường CTCT. Một lần, đầu tháng 4, 1975, anh cao hứng, mời cả Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, chỉ huy trưởng trường Võ Bị, Đại tá Tỉnh trưởng Tuyên Đức Nguyễn Hợp Đoàn, Đại tá Tham Mưu trưởng Võ Bị tên Vân, Đại tá Quỳnh và tôi đến tư gia uống rượu và ăn cơm tối. Ba ông đại tá nói ít, mặc dù giỏi tiếng Pháp, còn Thiếu tướng Thơ, vốn xuất thân trường Thiết giáp Saumur, nói nhiều, gần như độc thoại, rổn rảng, giọng điệu, phát âm rất đúng, y như dân Tây thứ thiệt.

      Trước ngày Đà Lạt di tản, Alain quyết định ở lại, nói chờ máy bay của tòa đại sứ Pháp tại Bangkok hứa hẹn đến rước. Còn rủ tôi cùng chờ, rồi “dông qua Pháp tỵ nạn luôn”. Dĩ nhiên, tôi từ chối, vì còn ba mẹ và bao nhiêu người thân thiết. Chờ mãi, vài ngày sau 30/4, khi thành phố Đà Lạt bỏ ngỏ, quân dân di tản hết, Alain mới thấy mấy thằng du kích nằm vùng nhóc con kéo đến, không thèm gõ cửa, cầm súng bước vào còng tay dẫn đi... cải tạo, bắt ăn khoai mì luộc, uống nước lã thay rượu một tuần lễ, về tội làm "gián điệp" cho Phòng Nhì Pháp hay CIA Mỹ. Alain, có lẽ vì thế, căm thù Việt Cộng còn hơn chính tôi căm thù. Đang vui mà ai nhắc đến VC, mặt anh sa sầm, đanh lại, mắng mỏ không tiếc lời. Trên bàn làm việc tại nhà, ở Đà Lạt hay Nanterre, luôn có một lá cờ vàng nhỏ, như một kỷ niệm. Năm 1984, tôi vượt biên và tắp đảo Palawan (Phi). Nhân chuyến công tác tại Manila, anh đã tạt qua trại thăm, cho tôi một số tiền franc dằn túi trống rỗng, và một vài quyển tiểu thuyết Pháp mới xuất bản. Mỗi lần qua Paris tôi đều đi gặp Alain –sống ở Nanterre, đường Gambetta, cùng với ông bà cụ thân sinh mà tôi đã quen biết trước 1975 khi họ sang thăm con tại Đà Lạt. Anh là con một, vẫn độc thân, già đi nhiều, râu quai nón úa trắng. Bà mẹ than phiền, "nó không chịu lấy vợ cho bác có cháu bồng". Alain hiện làm trong bộ Giáo Dục với chức Tổng thanh tra các trường Pháp trên thế giới, đi nhiều nước. Hàng năm đến Mỹ, anh đều gọi điện thoại cho tôi.  

      Không hiểu sao, lúc ấy, Alain Bichet (và cả Linh mục Maïs) không ưa Nguyễn Hồng Giáp, và ngược lại. Tôi đứng giữa, khổ tâm lắm, vì phải bênh cả hai bên. 

   

       Tôi dạy được hai năm tại Viện Đại Học Đà Lạt và trường Đại Học CTCT, từ tháng 1, 1973 đến tháng 4, 1975, thì tan hàng. Đêm Đà Lạt di tản, tôi phải bỏ lại chiếc Peugeot Bảo Đại trước nhà, vì không có xăng. Thằng cán ngố nào vớ được chắc cũng sẽ khổ vì nó. Tôi quá giang xe jeep của Văn Hóa Vụ trưởng Lê Ân, cùng với một thiếu úy thuộc khoa Nhân văn Xã hội, và bác sĩ Đặng Phùng Hậu, trưởng bệnh xá trường ĐH/CTCT cũng từ khóa 4. Gia đình Th/T Ân đã về Sài Gòn trước. Cuộc di tản vô cùng gian truân, nguy hiểm, nhiều người đã kể.

     Đến Bình Tuy, tôi và Th/T Lê Ân và các bạn đồng hành chia tay nhau, đường ai nấy đi. Cho đến khoảng hạ tuần tháng 6/1975. Bị nhốt tại trại tù cải tạo Long Giao (cùng với Bác sĩ Đặng Phùng Hậu, hiện ở Texas), một buổi trưa, tôi lần mò qua khu giam giữ sĩ quan cấp tá, và được gặp lại Th/T Lê Ân. Cả hai mừng rỡ, chạy lại bên nhau, và qua lớp hàng rào kẽm cao hơn đầu người, hỏi thăm sức khỏe của nhau. Ông có vẻ ốm yếu hơn, mặt tái xanh hơn. Nhưng như thường lệ, ông vẫn lắc lắc đầu, nói với giọng Quảng lai Huế:

      - Cháng gướm!

     Từ đó không bao giờ tôi còn gặp ông nữa, không nghe ai nói về ông, không biết ông ở đâu mà tìm. Ở các trại ngoài Bắc, tôi gặp một số sĩ quan cơ hữu và cựu SVSQ của Trường, chứng kiến tận mắt cái chết của Trung tá Nguyễn Văn Năm, cựu Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, và Trung tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Quang Hưng của trường ĐH/CTCT. Còn ông, thì biệt vô âm tín. Tôi không bao giờ quên được ông, vẫn cố tìm gặp, trong vô vọng.

      Rồi một hôm, tôi nghe ai nói ông đã chết, vì bệnh. Mặc dù người đưa tin, tôi không nhớ ai, cam đoan là đúng sự thật, nhưng vì thiếu chứng cớ và vì thương ông tôi vẫn bán tín bán nghi, hy vọng tin đó sai. Tôi vẫn tưởng ông còn sống ở đâu đó tại Việt Nam, tại Mỹ, tại Pháp, tại Úc. Cho đến một ngày bà Lê Ân và cháu Bích Vân bất ngờ email cho tôi, qua trung gian Tổng Hội Ái Hữu Cựu SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, báo ông đã mất thật rồi, sau khi cải tạo về, vì bạo bệnh. Tôi buồn đứt ruột. Nhưng hy vọng rằng ở bên kia thế giới, ông đã tìm được sự giải thoát, không còn thở than "cháng gướm" nữa, không còn "giữ chùa" cho đứa nào nữa, và tất cả mọi sự được tốt đẹp cho ông hơn trong cuộc đời này. 

 

 Đà Lạt ơi, vĩnh biệt

 

       Giã từ Đà Lạt trong đêm và theo trường Đại Học CTCT chạy về Sài Gòn, qua ngõ Phan Thiết, tôi chưa một lần trở lại. Thời gian trôi như nước chảy dưới chân cầu mà nỗi nhớ không buông rời. Để những chiều sương mờ vây phủ Portland, lái xe ngang thung lũng ngợp gió có rặng thông già rung mình vẩy những hạt mưa nặng trĩu lá cành, tôi thấy hồn chơi vơi biết bao kỷ niệm của Đà Lạt ngày nào từng hàng, từng lũ kéo về. Những kỷ niệm vàng phai, như mùa thu lá úa, như bóng trăng lẻ loi. Thương hoài dáng em qua đồi xưa, mái tóc đầy hương sõa bay theo gió, và vòng tay quanh bờ vai run rẩy dưới sương chiều lạnh giá. Những chiều mưa bay lất phất nghe cây lá đong đưa lời hoa tình tự và tiếng em hát, gợi nhắc Dalida, bài “Le jour où la pluie viendra... Nous serons toi et moi les plus riches du monde... Ngày mà mưa sẽ đến... chúng ta anh và em sẽ là những người giàu nhất trần gian...”. Những buổi sáng nhìn qua khung cửa sổ chờ mặt trời lười biếng thức dậy trên đỉnh núi xa mờ. Những bước chân em về với đêm xanh và mộng xôn xao ngoài hiên vắng. Nhớ hoài một thuở tình yêu vừa đến, chưa kịp nói lời biệt ly, chưa thấy những vết chân chim trên đuôi mắt, chưa học tiếng dối gian, phản trắc, và chưa một lần biết hỏi, như Hàn Mặc Tử:                      

                               

                                  Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ?

                                   . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

                                  Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ?

                                  Và tình yêu sao lại dở dang chi?

                                  Và vì đâu, gió gọi giật lời đi?

                                                      

      Để rồi từ đó, những lúc phiền muộn, thất vọng về thói đời đảo điên, vàng thau lẫn lộn, tôi tìm về kỷ niệm của Viện Đại Học Đà Lạt cũ, vô cùng dễ thương, biết trọng đạo lý, khi trường chưa rơi vào tay giặc Cộng, khi đám sinh viên Thụ Nhân hải ngoại trở cờ, bỏ cờ chưa lòi đuôi chồn cáo, và khi tình yêu còn xanh biếc như màu mây trên đỉnh trời...  

 

      Xa Đà Lạt, tôi chưa hề về thăm. Chỉ một lần, tháng 6 năm 2010, nhân dịp Tổng Hội cựu SVSQ Đại Học CTCT tổ chức đại hội ở Nam Cali, tôi đã đến tham dự, để tìm gặp lại Đà Lạt, nhưng chỉ trong cơn mộng. Đêm cuối tại Quận Cam, lần đó, tôi đến ở nhà cô em họ, Thalia, cựu nữ sinh trường Oiseaux, cũng biết nhiều về Ðà Lạt. Nói chuyện cho mãi đến khuya.

       Thalia rót rượu cho tôi, và hai anh em bắt đầu kể cho nhau những kỷ niệm Ðà Lạt. Những kỷ niệm đã úa tàn theo năm tháng. Có yêu thương, gắn bó. Có chia lìa, tan tác. Có nuối tiếc, ngậm ngùi. Ðà Lạt của một thời để yêu và một thời để chết. Un temps d’aimer et un temps de mourir, Thalia nhắc. Ðà Lạt, đêm ấy, chúng tôi đã trở về trên những lối mòn của ký ức, trên từng nhịp đập của con tim, trên những bước chân lạc loài của đời lữ thứ, trên từng kỷ niệm dấu yêu chưa mờ phai. Khu Chi Lăng, Hồ Than Thở, nơi tôi cư ngụ và phục vụ trường ĐH/CTCT. Chợ Hòa Bình rực rỡ màu áo, tấp nập người qua lại. Những quán nhỏ phía dưới rạp hát Ngọc Lan, đối diện bờ Hồ, với ly kem dừa mát rợi cổ họng, đĩa gỏi đu đủ trộn với nước mắm cay xé óc, và những cuốn bò bía chấm tương đen ngọt. Đường Phan Đình Phùng dài hun hút với tiếng gõ lóc cóc trong đêm lạnh của anh Tàu đẩy xe hủ tiếu mì khói bay nghi ngút. Những con phố vắng lặng, đìu hiu, có bậc cấp lên xuống. Tiệm ăn Pháp L’Eau Vive của các bà sơ Domaine de Marie với món cá thập cẩm bouillabaisse bất hủ của miền Provence nấu với vang trắng, ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt chát môi hôn, và tiếng dương cầm dìu dặt. Nhà thờ Con Gà cổ kính mỗi sáng Chúa nhật tôi đến xem lễ, nguyện cầu cho quê hương sớm thanh bình và tình yêu được mãi bền lâu. Và thác Prenn, suối Cam Ly mà dòng nước chưa cuốn đi những lời thề đã lỡ. Tôi nhớ quá, nhớ hết, nhớ ray rứt về một Đà Lạt chưa hề thấy lại, bây giờ chỉ còn là kỷ niệm xa khuất. Ðà Lạt yêu kiều, đầy thơ, đầy mộng, đầy tiếng ái ân, ngọt ngào như hơi thở, ngất ngây như nỗi nhớ, nay còn gì đâu trong tay bọn bạo tàn sau hơn một phần tư thế kỷ.         

      Em đã một lần, Thalia nói, trở lại thăm Ðà Lạt, và không có nỗi thất vọng nào hơn. Tan nát, thê lương. Thà như anh, không bao giờ trở về, để mãi mãi thấy Ðà Lạt vẫn đẹp như một mỹ nhân không muốn cho đời thấy tóc xanh đổi màu.

      Hay, tôi nói thêm, vẫn đẹp như một mối tình dang dở.

 


Kim Thanh

Portland, 15/3/2014     




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 02/Apr/2014 lúc 9:36am

KÝ ỨC DALAT
- DƯ ÂM & DƯ HƯƠNG –

Đến là nghi tâm, đi là diệu tưởng


(Mạnh Đang)

 

 

Khoảng những năm đầu thập kỷ bảy mươi của thế kỷ trước, mẹ tôi, nguyên là công chức của chính quyền Sài Gòn cũ chuyển về Dalat làm việc, nơi đến của bà ở thành phố cao nguyên này là Chi Lăng, Dalat …

 

Tôi theo mẹ về Dalat từ khi ấy.


http://4.bp.blogspot.com/-_tyu_n0SD2w/UpLbEg-6i4I/AAAAAAAABtE/9XKseZ8t3_8/s1600/images.jpg">

 

Tôi còn nhớ về thanh âm làm thức giấc hai mẹ con chúng tôi trong buổi sáng sớm đầu tiên ở Dalat, đó là tiếng mưa rì rào, tiếng mưa lúc khoan lúc nhặt, lúc như kể lể hờn giận, lúc như lặng thầm xa vắng  …  Sợ cơn mưa, ngại cái lạnh đất cao nguyên, mẹ tôi người vừa rời nơi sống ở vùng đồng bằng ấm áp đã không dám mở tung cánh cửa sổ như thường nhật …

 

Khi tiếng mưa có vẻ đã ngớt, mẹ tôi mở cửa sổ trông ra ngoài thì hóa ra lại không thấy một giọt mưa nào cả, ngoài những giọt sương mai long lanh còn vương vấn trên hoa lá, thì lối đi trên vườn vẫn còn nguyên khô ráo, nhưng tiếng mưa lại vẫn từ đâu đó vọng về chưa dứt …

 

Sau đó, nhìn những ngọn thông chao nghiêng, ngả ngớn vào nhau theo từng cơn gió thì mẹ tôi mới chợt đoán hiểu về nguồn gốc của âm thanh nghe như tiếng mưa này và rồi theo người Dalat, chúng tôi gọi nó là : “tiếng thông reo” …

Hình như tiếng thông reo nghe rào rạt nhất vào giấc sáng sớm thì phải, hay có lẽ là do đây là khoảng khắc tĩnh lặng nhất trong ngày, nên tiếng thông reo nghe càng rõ nét hơn ? Rồi thỉnh thoảng đâu đó trong ngày, mọi người lại nghe tiếng thông reo như nhắc nhớ về sự hiện diện của niềm hoan lạc giữa đất trời Dalat … 

Thế nên, tiếng thông reo ở Dalat có lẽ đã trở thành một tài sản phi vật thể mà mỗi người dân Dalat xa xứ phải nhớ nhung, phải luyến tiếc … Là một trải nghiệm lạ lẫm cho du khách đến Dalat, để khi họ về nhà họ có món quà là câu chuyện kỳ thú kể cho người thân.

 

Không chỉ âm thanh của thông, mà chính mùi hương tự nhiên tỏa ra từ những vệt nhựa thông óng ánh vàng tươm trên thân cây thông mới là mùi hương vương vấn suốt một phần tuổi ấu thơ của tôi ở Dalat.

 

Ngày ấy, tôi và vài đứa bạn cùng trang lứa tha thẩn dùng gậy chọc lấy nhựa thông quệt vào đầu gậy làm đuốc … trò chơi tinh nghịch của trẻ con khi ấy may đã không gây hậu quả xấu gì !? ngoại trừ hậu quả làm tôi vương vấn mùi hương ấy mỗi khi nhớ về Dalat.

 

Thế nên, tuy Dalat được mệnh danh là thành phố hoa, thành phố ngàn hoa, nhưng tôi lại không nhớ lắm về sắc hoa hay hương hoa, mà chỉ nhớ mùi hương nhựa thông của tuổi ấu thơ mà thôi …

 

Sau này, khi có dịp trở lại Dalat thì hầu như tôi không còn nghe dư âm của tiếng thông reo nữa, có lẽ vì thông phải nhường đất sống của mình cho những cư dân Dalat mới … nhưng rất may, dư hương của hương nhựa thông thì thỉnh thoảng vẫn còn phảng phất ở những vùng ngoại ô Dalat  …

 

Thật tiếc khi một phần Dalat trong lòng tôi đã mất …

http://3.bp.blogspot.com/-cUQBENrcD5Y/UpLbOWbeTLI/AAAAAAAABtM/IZ28_ECSWq8/s1600/images+%281%29.jpg">



http://nsvietnam.blogspot.com/2014/03/ky-uc-dalat-du-am-du-huong-vinh-biet.html - http://nsvietnam.blogspot.com/2014/03/ky-uc-dalat-du-am-du-huong-vinh-biet.html





-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 09/Dec/2014 lúc 8:28pm


Đà Lạt Trời Mưa

Phạm Tín An Ninh

Đà Lạt Trời Mưa


Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình , và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa phụ đã từng một thời nhan sắc.

Người con gái vừa đến gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.

Tôi đã đến thành phố này nhiều lần. Lần cuối cùng vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi đơn vị tôi may mắn được lệnh về đây phối họp hành quân giữ an ninh cho một khóa Võ Bị làm lễ ra trường. Bao nhiêu năm trong rừng núi tây nguyên gió lạnh mưa mùa, rồi xuống bờ biển Phan Thiết với những động cát trơ trọi nóng như lửa đốt, bất ngờ được về Đà lạt, cho dù chỉ sau một ngày ở thành phố, đơn vị tôi lại được đổ xuống những rừng thông xa tít, nhưng đám lính tráng bọn tôi vẫn có cái cảm giác như được đi nghỉ mát. Người ta nói đúng, Đà Lạt dễ thương như những cô gái với gò má trắng hồng và đôi môi mộng đỏ để ai một lần lên xứ Hoa Đào mà lòng không vấn vương. Đà lạt cũng là nơi có nhiều huyền thoại về những mối tình đẹp và buồn của các cô sinh viên với những chàng trai mang alpha đỏ theo nghiệp kiếm cung, mà tôi đã đọc được trong những bài thơ thật buồn của Lệ Khánh từng vang tiếng một thời.

Nhưng đó là Đà Lạt của ngày xưa. Còn hôm nay tôi đến Đà Lạt, với ngổn ngang những nỗi buồn nặng trĩu trong lòng, và Đà Lạt bây giờ chỉ là một thành phố chết.

Tôi ra tù, trong thời gian còn bị quản chế, trong túi không có bất cứ một tờ giấy nào. Ngay tấm “Giấy Ra Trại” cũng đã bị công an xã giữ. Nhờ thằng em cùng đơn vị cũ, có lò bánh mì ở Tháp Chàm, gởi tôi theo một chiếc xe bộ đội nhận mối chở bánh mì với tiền thù lao khá, tôi mới có mặt ở đây. Anh tài xế sau khi giao mấy thùng bánh mì, còn gởi tôi cho cô “chủ nhiệm” quán Thủy Tạ (bây giờ là của nhà nước), bảo là ông anh họ, để tôi yên lòng không bị hỏi giấy tờ. Quán vắng tanh.Tôi chọn cái bàn nhỏ xa phía trước và gọi hai tách trà nóng. Tôi cũng chỉ đủ tiền để trà hai tách trà này.


- Anh chờ em có lâu không ?

Tôi giật mình khi nghe cô gái hỏi.

- Không sao, tôi chờ cũng đã khá lâu, nhưng được gặp chị hôm nay là tôi mừng lắm rồi.

Điều mà ai cũng ái ngại khi phải mang tin buồn đến cho một người. Đặc biệt người đó lại lại là một cô con gái đẹp, như cô gái đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi dè dặt :

- Chắc chị đã biết, như trong lá thư tôi gởi. Tôi là bạn tù của Thống, và hôm nay muốn gặp chị là để nhắn lại những điều Thống đã nhờ tôi.

- Em biết là anh Thống đã chết từ năm 1978, nhưng mãi đến năm ngoái , em mới được phường đưa “Giấy Báo Tin”. Em không biết làm sao báo cho mẹ anh ấy biết. Bà ở bên Mỹ nhưng em không liên lạc được.

Tôi bất ngờ, nhưng chợt thấy một chút yên lòng khi nghĩ là cô sẽ không còn đột ngột nhận một tin buồn từ chính miệng của tôi .

- Chị đã biết tin buồn về Thống. Như vậy cũng là may, chứ không phải người tù nào chết mà người nhà cũng được báo tin. Hôm nay, dù hoàn cảnh khó khăn, tôi cũng phải tìm gặp chị đề nói lại cùng chị những lời trăn trối cuối cùng, và trao cho chị những kỷ vật mà anh Thống nhờ tôi trao lại chị.

- Cả tuần nay lòng em rất bồn chồn, mong sớm được gặp anh. Vì em không biết anh Thống chết ở đâu và mồ mả ra sao. Nhiều lần nằm mơ, em thấy anh Thống, nhưng chưa bao giờ nghe anh ấy bảo là anh đã chết.
Tôi lấy trong túi ra để trên bàn một sợi dây đeo một tấm ảnh nhỏ được lồng vào trong cái khung có hình trái tim đẽo bằng gỗ mun -loại gỗ quý mà chúng tôi thường tìm được ở khu rừng Việt Bắc- , một chiếc vòng nhỏ làm bằng nhôm xinh xắn, có khắc đậm sáu chữ Lê Minh Thống & Hà Nhất Anh, và trịnh trọng đứng lên đưa cho cô.

Nhất Anh chính là cô gái, và Minh Thống là tên một người bạn tù của tôi. Anh đã chết sau gần hai năm bị chuyển ra ngoài bắc.

Tôi gặp Thống ở trại Lào Cai, khi hai thằng vừa trong Nam mới chuyển ra. Sau hơn một năm cả hai cùng chuyển về trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và may mắn được “biên chế” về cùng một tổ. Thống tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, được chuyển sang không quân, lái phản lực. Trong thời gian học trường Võ Bị, Thống quen Nhất Anh , khi ấy đang là sinh viên của trường Chính trị Kinh Doanh. Thống chỉ còn bà mẹ già và cô em gái ở Sài Gòn. Cuộc tình của cô sinh viên Đà Lạt và chàng cựu sinh viên sĩ quan alpha đỏ kéo dài khá lâu. Hai người đã làm lễ hỏi. Nếu Thống không sang Mỹ học phi hành và nếu không có ngày 30 tháng tư, thì hai người đã làm đám cưới .

Những ngày cuối cùng khi Sài gòn hấp hối, Thống được bạn bè thu xếp hai chỗ trên trực thăng để bay ra hạm đội Mỹ, nhưng Thống lại dành cho mẹ và cô em gái. Gởi mẹ và em cho thằng bạn thân, Thống nói dối với mẹ là anh sẽ đi sau.

Thống liều lĩnh tìm mọi cách chạy về Đà lạt. Chưa kịp đón Nhất Anh, thì Sài Gòn mất. Thống nằm ở nhà Nhất Anh một tuần rồi ra trình diện “uỷ ban quân quản”, nhưng người ta chỉ cấp giấy chứng nhận và ghi là phải về Sài Gòn trình diện chính quyền địa phương ngay. Trở lại Sài Gòn, nhà bị tịch thu, Thống phải ở ké nhà một người bà con trước khi vào trại cải tạo.

Mấy năm trong tù, Thống có liên lạc được với Nhất Anh . Nhưng vài tháng mới nhận được một lá thư ngắn, chỉ hỏi thăm vài câu và khuyên “học tập tốt để sớm được khoan hồng về với nhân dân”. Bao nhiêu nhung nhớ yêu thương đều phải dấu kín ở trong lòng. Trong tờ khai lý lịch, Thống ghi Hà Nhất Anh là vợ, cũng là người thân duy nhất, và địa chỉ của Nhất Anh cũng là nơi anh xin cư trú sau này .

Thống to con đẹp trai, nhưng dường như tình yêu dễ làm cho Thống yếu lòng. Có những ngày đi chặt nứa trong rừng, Thống chỉ ngồi khóc và thì thầm gọi tên người yêu. Mấy lần không mang về đủ nứa, bị phạt cắt bớt một nửa phần ăn vốn đã ít oi, nhưng vẫn không ngăn được nước mắt của Thống. Dường như khi lòng đang thương nhớ ai, thì cái đầu không còn điều khiển đôi tay được nữa. Nhiều hôm tôi phải vận động anh em nhường bớt một chút phần ăn cho Thống, và chia nhau đi lấy thêm nứa cho Thống có đủ chỉ tiêu để không bị phạt.

Thống còn trẻ, nhưng cũng như hầu hết sĩ quan xuất thân từ Đà Lạt, dù ở binh chủng nào cũng kiêu hùng và thăng tiến rất nhanh. Thống nhỏ hơn tôi sáu tuổi, nên xem tôi như người anh. Có điều gì vui buồn, Thống tìm tôi chia sẻ. Tôi luôn an ủi và khuyến khích để anh có thêm nghị lực. Thống có gì khó khăn tôi sẳn sàng hết lòng giúp Thống.

Sau này, đội tù của tôi được phân công đi lấy gỗ về xây dựng hội trường. Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ, chúng tôi chia từng nhóm hai mươi người vừa kéo vừa bẩy cho từng thân cây lăn theo những con đường mòn ấy từ trên núi cao lao xuống suối để cho nó trôi về bên hông trại.

Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc, nên chỉ sau một tuần lấy cây, người nào cũng mệt lả. Một hôm đang lấy sức bật một thân cây xuống bờ suối, Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.

Trời nhá nhem tối, cả hơn bốn mươi thằng tù chia nhau trèo xuống suối đi tìm Thống. Gần nửa giờ sau chính tổ của tôi tìm được Thống. Anh nằm bất động bên bờ suối. Rất may là ở một nơi không có đá. Thống thoi thóp thở, nhưng không còn cử động được.

Chúng tôi nhanh chóng kết một cái bè gỗ, rồi theo dòng suối, cùng nhau đẩy anh về trại. Sau hơn một tiếng đồng hồ trong trạm xá, Thống tỉnh lại, mở hé mắt nhìn mọi người. Khi nhận ra tôi, Thống thì thào :

- Nếu sau này anh còn sống mà về được, nhớ tìm giùm Hà Nhất Anh và nói là em xin lỗi nàng. Mong nàng hãy sớm lấy chồng và quên em đi.

Tôi nắm chặt đôi vai lạnh lẽo của Thống :

- Thống yên chí, tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà Thống dặn dò.

Thống cố gắng mở lớn mắt nhìn tôi như cầu khẩn :

- Nhờ anh giữ lại cái vòng nhôm trong balô và tấm ảnh em đang mang trong cổ này, trao lại cho Nhất Anh. Nhớ nói giùm là em xin lỗi cô ta.. xin lỗi cô ta .

Ngày hôm sau, một buổi chiều mưa buồn ảm đạm, dưới sự kiềm soát của hai vệ binh, tôi cùng ba người bạn tù đẩy xác Thống trên một chiếc xe “cải tiến” ra chôn dưới triền núi, bên một hốc đá . Chúng tôi đào huyệt đúng vào lúc cơn mưa trút xuống. Huyệt đào tới đâu thì nước ngập theo tới ấy. Tôi năn nỉ xin hai vệ binh cho chúng tôi tìm một nơi khác cao hơn, và chờ cơn mưa tạnh bớt, nhưng không được đồng ý, mà còn bị quát tháo, bảo phải “chôn khẩn trương lên mà về ngay”.

Tôi phải ngồi đè trên xác Thống, lềnh bềnh trên nước, để cho ba người bạn tù kia lấp đất.
Chuyện xảy ra đã hơn sáu năm rồi. Thời gian có biết bao sự đổi thay. Tôi cũng đã nghe và chứng kiến không ít những điều phản trắc. Không biết bây giờ Nhất Anh đã có chồng chưa và trong cảnh đổi đời kéo theo bao cay đắng, liệu trong lòng cô có còn lưu luyến chút tình xưa.

Đắn đo giây lát rồi tôi cũng quyết định phải nói hết những gì tôi biết và nhất là những điều mà Thống, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đã nhờ tôi nếu còn có dịp trở về, hãy nói lại cùng nàng.

Nghe tôi kể xong mọi điều, Nhất Anh vẫn ngồi yên bất động. Im lặng một lúc tôi nghe tiếng nàng khóc. Hai tay nắm chặt các kỷ vật mà tôi vừa trao lại cho nàng. Ngoài trời những cơn mưa càng vần vũ. Tiếng mưa như thấu hiểu được nỗi niềm, từng đợt trút xuống mái nhà Thủy Tạ làm át đi tiếng sụt sùi, để cho nàng khóc. Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.

- Em cám ơn anh, và xin lỗi .. em đã không nén được xúc động.

Tôi cũng kịp lấy lại bình tĩnh và tìm lời an ủi nàng :

- Dù sao mọi việc cũng đã qua rồi. Sau cái ngày nước mất nhà tan, biết có bao cảnh chia lìa tang tóc. Thôi thì tôi cầu mong Nhất Anh sớm nguôi được nỗi buồn này và có thêm nhiều nghị lực để mà bước tới, như lời trối trăn của Thống. Nhất Anh còn trẻ mà, còn cả một con đường thật dài trước mặt. Còn tôi, trong hoàn cảnh này, cũng chẳng biết rồi đời sẽ ra sao. Thôi đành phó cho trời đất đẩy đưa.

Nhất Anh vẫn ngồi bất động, không nói lời nào. Nhìn đồng hồ treo trên vách, nhớ tới lời hẹn của anh tài xế, tôi khẽ gọi nàng :

- Chị Nhất Anh ! Chỉ còn 15 phút nữa là anh tài xế sẽ quay lại đón tôi. Sau này nếu chị có cần gì ở tôi, cứ liên lạc với tôi nghe !

Tôi nói cốt chỉ để an ủi thôi. Chứ tôi thì còn khả năng gì mà giúp nàng. Hơn nữa thời buổi nhiễu nhương này, dễ gì mà liên lạc được với nhau.

Nhất Anh lấy tay lau nước mắt, ngước lên nhìn tôi, ngần ngừ vài giây rồi lên tiếng :

- Nhờ anh vẽ lại và hướng dẫn cho em nơi chôn cất anh Thống. Sau này biết đâu có dịp may, em sẽ tìm ra thăm anh ấy.

Tôi đứng lên đến quày trả tiền hai tách trà, và xin một tờ giấy trắng. Tôi ngồi vẽ khá tỷ mỷ và hướng dẫn cho Nhất Anh con đường đến trại tù, và mộ của Thống nằm bên hốc đá trên triền núi, phía sau trại tù chừng một cây số. Cũng may là có cái hốc đá lớn duy nhất, để có thể định hướng được ngôi mộ nằm ở nơi nào giữa vùng rừng núi bao la.

Nhất Anh đứng dậy mặc lại áo mưa, xúc động nói lời chia tay, rồi đạp xe đi. Tôi nhìn theo bóng dáng nhỏ nhắn của nàng lảo đảo xiêu vẹo dưới cơn mưa tầm tã mà ngậm ngùi lo âu cho số phận của nàng. Tôi nghĩ có lẽ không bao giờ tôi còn có dịp gặp lại Nhất Anh.

Mùa hè năm rồi, vợ chồng tôi sang Cali thăm mấy cô con gái, nhân tiện chúng tôi đến thăm gia đình ông anh họ ở thành phố biển San Diego. Giáng Sinh năm 1970, nhân cuộc hành quân bất ngờ ở Đà Lạt, tôi có ghé thăm anh chị,. Khi ấy anh làm ở trung tâm điện lực Đa Nhim và vợ anh là giáo sư dạy trường Bùi thị Xuân Đà Lạt. Anh chị rời Việt Nam từ những ngày Sài Gòn hấp hối, nên cũng đã hơn ba mươi năm rồi bây giờ anh em mới gặp lại nhau. Anh lớn hơn tôi gần mười tuổi, vừa bà con lại vừa là học trò cưng của ba tôi lúc anh còn học ở trường Pháp Việt, nên anh chị rất quý chúng tôi, nhất quyết bắt vợ chồng tôi phải ở lại nhà anh chị một tuần để cùng đi chơi với anh chị. Sau một ngày đi khắp nơi ở San Diego, chúng tôi đi một vòng sang khu nghỉ mát Cancun bên Mexcico. Đến ngày thứ bảy cuối tuần anh chị rủ chúng tôi đi tham dự buổi họp mặt của Hội Đồng Hương Đà Lạt, tổ chức tại Anaheim, gần khu Little Saigon, nhân tiện sau đó anh chị đưa tôi về lại nhà cô con gái ở Fullerton, cũng rất gần nơi ấy. Gia đình anh được giấy mời với bốn chỗ ngồi. Vợ chồng đứa con trai lớn không đi, nhường chỗ cho chúng tôi. Bảo là chú thím ở tận bắc Âu, lâu lắm mới có dịp gặp nhiều đồng hương.


Không ngờ đã rời khỏi quê hương khá lâu, nhưng những người Đà Lạt còn giữ cái tình đồng hương đậm đà như thế. Hội trường không còn một chỗ ngồi. Nghe bà chị nói là họ đã đến từ khắp nơi trên nước Mỹ và Canada, một số từ Úc và Âu châu. Chưa tới giờ khai mạc, mọi người ngồi nói chuyện líu lo với những tiếng cười nghe như dư âm của một thời trai trẻ. Những cô gái với đồng phục áo dài trắng trong ban tổ chức đang chuẩn bị cho bài quốc ca, vẫn còn dáng dấp của Đà Lạt ngày xưa: môi đỏ má trắng hồng .

Chúng tôi ngồi ở dãy bàn đầu dành cho quan khách, cùng với gia đình của hai vị cựu giáo sư Bùi Thị Xuân khác. Trên sân khấu, một cái phông lớn là hình ảnh của khu chợ Hòa Bình và một mảng của hồ Xuân Hương trong sương mù. Tôi thầm phục người họa sĩ Đà Lạt nào đã vẽ bức tranh thật sống động. Tôi có cảm giác như mình đang ở một nơi nào đó trên thành phố thơ mộng một thời này. Ai đó đã nói đúng “người Việt nào ra đi cũng mang theo quê hương”.

Khi nghe cô MC giới thiệu thành phần ban tổ chức cuộc họp mặt hôm nay, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy toàn là phái nữ. Tôi chợt nhớ tới một bài viết nào đó mà tôi đã đọc đươc: Người Việt đến Mỹ, nữ giới thành công hơn là nam giới, và số lượng phụ nữ tham gia vào những hoạt động chính trị, cộng đồng ngày một nhiều hơn. Tôi nghĩ tới Dương Nguyệt Ánh, Lê Duy Loan, những người phụ nữ đã mang đến cho người Việt bao điều hãnh diện. Nhưng đến khi chị trưởng ban tổ chức có đôi lời cùng đồng hương, tôi mới hiểu thêm: Buổi họp mặt này là do các cựu nữ sinh trường Bùi Thị Xuân đảm trách.

Đang vui tôi bỗng ngậm ngùi khi một chị trong Ban Tổ Chức lên trình bày về hoàn cảnh thương tâm của nhà thơ Lệ Khánh. Bây giờ tôi mới biết Lệ Khánh là con gái của phó trưởng ty cảnh sát Đà Lạt và có cuộc hôn nhân thật buồn với một nhà thơ quân đội, lại là sĩ quan cấp tá trong ngành Tâm Lý Chiến. Bao nhiêu điều ấy đã đưa nhà thơ nổi danh một thời của xứ sương mù vào bước đường cùng, phải đi bán hàng rong, bán từng trái cà trái ớt trong cơn bệnh hoạn, và đứa con trai duy nhất phải đi ở mướn cho người ta. Ban tổ chức kêu gọi tình thương của những cựu Bùi Thị Xuân, của những người Đà Lạt cũ. Tôi thầm cám ơn tấm lòng của những người Đà Lạt và nghĩ đây là một việc rất nên làm.

Đến phần văn nghệ, cô MC giới thiệu “nhạc phẩm Ai Lên Xứ Hoa Đào với một giọng hát truyền cảm của một Bùi Thị Xuân ngày trước, đã từng làm điêu đứng bao trái tim học sinh, sinh viên Đà Lạt”.

Lời giới thiệu đó không có một chút cường điệu nào. Giọng hát cất lên cao vút làm cả hội trường im lặng trong khi lòng tôi lắng xuống thẫn thờ. Không phải vì giọng hát truyền cảm, mà vì người hát ấy chính là Hà Nhất Anh, người con gái có một mối tình buồn với người bạn tù của tôi ngày trước. Gần hai mươi năm rồi, khuôn mặt có đôi chút đổi thay, nhưng tôi vẫn nhận ra. Cũng với nhan sắc ấy, nhưng với nụ cười rạng rỡ, không còn nét buồn nào đọng trên đôi mắt.

Thấy tôi nhìn đăm đăm lên sân khấu, bà chị đập vai tôi :

- Bộ có quen hay sao mà nhìn dữ vậy ? Hay lại là một người xưa ?

Tôi quay lại, đúng vào lúc bài hát vừa chấm dứt. Chờ cho những tràng pháo tay, cùng những tiếng la hét lắng xuống, tôi ôm vai bà chị :

- Đúng là có quen, nhưng không phài người xưa của em, mà là hôn thê của một thằng bạn tù của em, đã chết ngoài Bắc ! Chính em là người đã trao lại cho cô ấy những kỷ vật của anh ta, khi em vừa mới ra tù.

- Cô ấy là học trò cũ của chị, để chị gọi cô ấy lại nghe .

Tôi chưa kịp trả lời, thì bà chị đã vẫy tay gọi một cô trong ban tiếp tân nhờ đi mời “ca sĩ Hà Anh”.

Cô đến nhoẻn miệng cười, cúi đầu chào anh chị tôi và các thầy cô giáo cùng bàn, rồi khựng lại khi nhìn vợ chồng tôi, gật đầu nhưng không nói lời nào. Thấy tôi ngồi gần bà chị, nên cô nhìn bà chị như muốn hỏi chúng tôi là ai. Bà chị cười chỉ vào tôi :

- Đã gặp nhau rồi mà không còn nhận ra sao?

Cô nhìn tôi, rồi lắc đầu :

- Xin lỗi, em không nhớ ra .

Tôi có một chút khó chịu trong lòng. Hóa ra người đàn bà cũng dễ quên, ngay cả những kỷ niệm đáng ra phải nhớ trong đời. Giữ lịch sự, tôi nhìn cô :

- Có phải chị là hôn thê của anh Lê Minh Thống ? – Tôi là người đã trao cho chị những kỷ vật của anh ấy ở nhà Thủy Tạ, khi tôi vừa mới ra tù. Chị không còn nhớ ?

Cô ta khựng lại giây lát, nhưng rồi lắc đầu :

- Xin lỗi , em không nhớ. Có lẽ anh nhầm em với … ai đó !

Cô chào tất cả mọi người rồi vội vã quay về phía sau sân khấu.

Tôi nhìn sang ông anh bà chị nói cho đỡ ngượng:

- Chắc bây giờ chị ta đang hạnh phúc, nên không muốn nhắc lại chuyện tình xưa.

Trên sân khấu chương trình văn nghệ nối tiếp bằng một hài kịch. Thiên hạ cười ầm ĩ, trong lúc lòng tôi dửng dưng với một chút bẽ bàng .

Buổi họp mặt chấm dứt, tôi theo ông anh bà chị bước ra khỏi hội trường. Trong lòng không còn cái háo hức của lúc mới bước vào đây. Trống rỗng và một chút bực dọc.

Tôi đang đứng chờ ông anh bà chị đi lấy xe, thì một bàn tay đâp trên vai tôi . Quay lại, tôi ngạc nhiên khi nhận ra Hà Nhất Anh. Cô đưa cho tôi mảnh giấy, rồi bảo nhỏ, trước khi chạy nhanh về phía hội trường :

- Em xin lỗi, nhưng Anh nhớ phải đến nghe !

Tôi mở vội tấm giấy ra đọc. Chỉ có số điện thoại và địa chỉ, cùng với một dòng ngắn ngủi: “Suốt ngày mai, chủ nhật, em sẽ chờ anh ở nhà ”

Tôi cảm giác có điều gì lạ lắm. Và dường như cô ta muốn dấu mọi người . Nghĩ như vậy nên tôi không nói lại với ông anh bà chị và ngay cả vợ tôi. Ông anh bà chị đưa vợ chồng tôi về Fullerton, rồi hẹn quay lại sáng thứ bảy tới đưa chúng tôi đi thăm mấy người đồng hương và cũng là học trò cũ của cha tôi ngày trước.

Tôi nhờ cô con gái lớn gọi phôn, hẹn đến gặp vào lúc hai giờ chiều chủ nhật. Cô con gái chở vợ chồng tôi tới trước cổng nhà, sau khi xem đúng địa chỉ, bấm chuông, rồi lái xe đi, bảo khi nào cần gọi cellphone, sẽ quay lại đón.

Một ngôi nhà nhỏ, khá xinh, có trồng nhiều loại hoa Đà Lạt, nằm trong khu Fountain Valley yên tĩnh. Người ra mở cổng là một người đàn ông trẻ, khá bảnh trai với hàng ria mép. Anh gật đầu chào, nở nụ cười rất tươi bắt tay chúng tôi, giới thiệu tên, nói năng lễ phép bặt thiệp :

- Cám ơn anh chị đến thăm. Bà xã em mừng lắm, đợi mong từ sáng tới giờ . Tôi bước vào sân nhà, với một ý nghĩ vừa thoáng trong đầu: Được một người chồng như thế, hèn gì cô ta chóng quên mối tình xưa.

Nhất Anh mang nước ra mời chúng tôi, vui vẻ, thân tình, khác hẳn với Nhất Anh trong hội trường ngày hôm qua. Tôi im lặng, bởi không biết phải nói điều gì, ngồi chờ cô ta lên tiếng trước. Một lúc im lặng, tôi bất ngờ nhìn thấy cô ta khóc. Anh chồng đưa giấy cho cô lau nước mắt .

- Mong anh chị tha lỗi cho em. Ngày hôm qua khi gặp anh, nghe anh nhắc tới anh Thống em xúc động lắm, lại biết chính anh là người đã mang về những kỷ vật của anh Thống nữa. Nhưng hôm qua đông người quá, em không tiện nói.

Tôi đỡ lời :

- Tôi hiểu. Làm sao mà chị có thể quên được mối tình đầu, vừa đẹp lại vừa buồn, nhất là anh Thống đã ở lại và bị chết oan ức cũng vì quá yêu chị. Phải không ?

Rồi quay sang anh chồng, tôi lên giọng như một nhà tâm lý học:

- Ai lại chẳng có mối tình đầu. Và người chồng nào lại không tôn trọng cái kỷ niệm đẹp đó của vợ mình, phải không anh ?

Anh ta không trả lời, chỉ cúi xuống với một chút bối rối.

- Xin lỗi anh. Em không phải là chị Nhất Anh, và cũng không phải là người yêu của anh Thống!

Tôi bất ngờ, vừa ngượng ngùng vừa hụt hẩng khi nghe câu nói của người con gái, mà tôi đã chắc nịch là Hà Nhất Anh. Bây giờ người bối rối lại chính là tôi .

Cô gái hạ giọng :

- Em là em kế của chị ấy và cũng là đứa em duy nhất. Ba má em chỉ sinh có hai đứa con gái. Chị em giống nhau lắm, nên có nhiều người cũng lầm.

Tôi nhìn cô ngờ vực :

- Tôi nhớ ngày hôm qua khi MC giới thiệu chị lên hát, cũng với tên là Hà- Anh mà ? Tôi nghĩ Hà Nhất Anh, nhưng khi qua Mỹ người ta thường bỏ đi chữ lót .

- Đúng ra tên em là Hà Nhị Anh, nhưng bây giờ trong giấy tờ, em mang tên chị em: Hà Nhất Anh , mà Nhất Anh hay Nhị Anh gì sang đây, như anh nói, cũng đều gọi Hà Anh như nhau mà anh. .


Đến lúc này thì tôi không còn hiểu gì nữa. Cô ta đứng lên nhoẻn miệng cười và mời vợ chồng tôi theo cô lên từng trên, cô bảo :

- Anh chị cứ theo em lên trên này thì hiểu nhiều hơn .

Ba tấm ảnh để trên bàn thờ nhỏ. Tôi nhận ra Thống và Nhất Anh, mặc dù lúc chụp những tấm ảnh này hai người còn rất trẻ. Còn tấm ảnh thứ ba, một người con gái khác, tôi không nhận ra ai. Tôi chưa kịp hỏi thì cô gái lại sụt sùi:

- Chị Nhất Anh đã chết khá lâu rồi anh ạ. Vào một ngày mùa đông mưa tầm tã, chị ấy đạp xe đi đâu không biết, cả nhà chờ cơm tới tối vẫn chưa thấy về. Từ trước chị không bao giờ đi đâu một mình vào buổi tối. Cả nhà em và mấy người bạn hàng xóm chia nhau đi tìm. Em đạp xe đi khắp nơi. Trời mưa lớn quá nên em lạnh cóng. Đường xá vắng tanh không một bóng người. Cuối cùng thì chính em tìm ra chị ấy. Chị nằm bất động bên bờ hồ Xuân Hương, không xa nhà Thủy Tạ bao xa.

Tôi giật mình hoảng hốt :

- Ở gần nhà Thủy Tạ, bên bờ hồ Xuân Hương ? Rồi có tìm được chiếc xe đạp và cái gì nữa không ?

- Chiếc xe đạp rớt xuống hồ, ngày hôm sau người ta mới tìm thấy.

- Và chị đã chết ? Tôi hỏi

- Không, khi ấy thì chị còn sống, nhưng bất tỉnh và mình mẩy thì lạnh cóng. Vào bệnh viện, nửa giờ sau chị tỉnh lại, nhưng rất yếu chưa nói được. Khi thay áo cho chị, em thấy trong túi áo có một sợi dây đeo cổ có tấm ảnh của chị và một chiếc vòng nhôm có khắc tên chị và tên anh Thống

- Không có tờ bản đồ vẽ trại tù và nơi mộ anh Thống ?

- Có chứ ! Chính nhờ tấm bản đồ đó mà vợ chồng em, cách nay ba năm về Việt Nam, ra tận nơi tìm được, rồi thuê người lấy hài cốt của anh Thống mang về chôn trên Đà Lạt . Cám ơn anh đã vẽ cái bản đồ khá chi tiết và chính xác.

- Còn chị Hà Nhất Anh ?

- Hai tuần sau, chị khá hơn nhiều, nói năng tỉnh táo, bệnh viện cho xuất viện bảo về nhà điều trị, bồi dưỡng là chị sẽ khỏe thôi. Nhưng không ngờ về nhà mấy hôm thì lên cơn sốt nặng rồi hôn mê trở lại. Đưa vào bệnh viện thì chị mất. Người ta bảo là chị bị sưng phổi cấp tính. Mà thời ấy có thuốc men gì đâu mà chửa. Trong mấy ngày tinh táo, chị thường nhắc tới anh Thống, năn nỉ ba má em tìm mọi cách đem anh Thống về Đà Lạt, và báo cho mẹ anh ấy biết. Lúc trước bà thương quí chị lắm, nên chị cũng rất thương và lo lắng cho bà, khi em gái anh Thống vừa quá trẻ lại vừa yếu đuối. Không ngờ đó lại là những lời trăn trối của chị.

Tôi thầm nghĩ, chính vì đi gặp tôi hôm ấy mà Nhất Anh chết. Chắc cô đã xúc động nhiều lắm. Lòng tôi chùng xuống. Tôi có cái cảm giác đau đớn như vừa có những nhát chém vô hình nào đó trong lòng mình. Tôi lấy lại bình tĩnh :

- Như vậy là bây giờ mộ của Thống nằm trên Đà lạt .

- Dạ . Anh nằm bên cạnh chị Nhất Anh. Vợ chồng em mua lại mảnh đất tư gần khu rừng Ái Ân. Từ đó anh Thống có thể nhìn thấy Trường Võ Bị của anh lúc xưa và đỉnh núi Lâm Viên mà anh đã từng chinh phục.

- Đồi thông hai mộ . Tự dưng tôi buột miệng.

Đến lúc này tôi mới thấy cô nhoẻn miệng cười :

- Sau ngày 30 tháng 4/75, ở Đà lạt có khá nhiều “đồi thông hai mộ”. Có dịp anh chị về Đà Lạt, ghé lại Rừng Ái Ân hỏi thăm, là người ta biết hai ngôi mộ của anh chị Thống-Anh.

- Thế rồi, cô có liên lạc được mẹ và em gái của anh Thống ?

Cô không trả lời, mà lại mời vợ chồng tôi bước sang phòng bên cạnh. Căn phòng rộng, thoáng mát, có cửa kính lớn nhìn ra công viên phía trước. Một bà cụ tóc bạc trắng, nhưng da dẻ hồng hào, đôi mắt sáng, ngồi trên chiếc xe lăn. Khi tôi cúi đầu chào bà , cô gái giới thiệu:

- Anh này là bạn tù của anh Thống ở ngoài Bắc.

Rồi quay sang tôi :

- Chắc anh ngạc nhiên lắm, đây chính là mẹ của anh Thống.

Bà cụ ôm lấy tôi, nước mắt trào ra trên đôi gò má. Bà hỏi tôi về Thống trong những ngày ở tù và vì sao mà Thống chết. Nhưng tôi chỉ kể vài kỷ niệm về Thống trong những lúc vui vẻ, và không dám nói cho bà nghe về cái chết thảm thương của Thống. Tôi nói dối là Thống chết vì bệnh kiết lỵ nặng mà nhà tù không có thuốc. Tôi tưởng nói dối như vậy cho cụ yên lòng, không ngờ cụ đã khóc ngất lên. Tôi chỉ còn biết ôm vai bà cụ mà im lặng.

Một lúc sau, bà cụ mới tỉnh táo và kể lại tai nạn xe hơi đã làm chết cô con gái, em Thống và làm tê liệt đôi chân của bà. Nhìn sang cô gái, bà cụ thỏ thẻ :

-
Cũng nhờ vợ chồng cháu nó đây mà bác còn sống đến bây giờ.

Nhị Anh nắm tay bà cụ :

- Má coi vợ chồng em không khác gì con ruột của má. Em sang đây sau khi em gái anh Thống chết. Tấm ảnh trên bàn thờ lúc nãy là của cô ấy. Cô nhỏ hơn em tới sáu tuồi. Lúc ấy má đang làm chủ mấy sạp may, đã lo lắng tiền bạc cho em sang đây và cho em tiếp tục học xong đại học nữa. Ngôi nhà này là của má cho vợ chồng em đó chứ.

Vợ chồng tôi chào bà cụ, chúc bà sức khỏe và hứa bất cứ lúc nào có dịp sang Cali, sẽ ghé lại thăm bà.

Khi bắt tay từ biệt vợ chồng Hà Nhị Anh, chợt nhớ tới một điều, nên tôi hỏi cô :

- Khi nãy tôi có nghe chị nói là bây giờ tên tuổi của chị trong giấy tờ lại là tên tuổi chị Nhất Anh. Sao vậy ?

Cô gái vẫn còn nắm chặt bàn tay tôi, kéo tôi ra xa, nhìn quanh rồi hạ giọng :

- Chính nhờ cái giấy của trại tù báo tin anh Thống chết, trong đó có ghi tên chị Nhất Anh là vợ, nên em đã thay chị ấy mà sang đây theo diện dành cho vợ tù nhân cải tạo bị chết trong tù. Em thấy xấu hổ lắm khi phải làm điều gian dối ấy, tội lớn lắm đối với luật pháp Hoa Kỳ, nhưng đó lại là ước mong của mẹ anh Thống, và của cả chị Nhất Anh trước khi chết nữa. Em săn sóc cho má bao nhiêu năm nay, nên má thương em như con gái má. Biết đâu đây là sự sắp xếp nhiệm màu từ chị Nhất Anh – anh Thống? Hơn nữa nhìn em cũng giống chị em lắm, và tên em với tên chị ấy cũng như nhau mà. Nhưng anh nhớ phải tuyệt đối giữ hộ cho em điều bí mật này nghe .
Vâng! Chính vì tôi đã giữ cho cô cái điều bí mật đó, nên hai cái tên Hà Nhất Anh , Hà Nhị Anh mà các bạn vừa đọc được trong truyện, đều không phải là tên thật của hai chị em nàng.

Phạm Tín An Ninh





Cơn mưa chiều


Mưa chiều nay buồn quá phải không em ?
Đường phố đông vui bỗng chốc thành hoang vắng
Giọt nước mắt trong chợt hồng lên vị đắng
Một người đi, người đứng lại bên thềm...

Mưa chiều nay buồn quá phải không em ?
Hai nỗi nhớ phải đi về hai ngả
Ta muốn hóa rong rêu suốt đời bên phiến đá
Làm ngọn lau xanh bên dòng nước êm đềm

Mưa chiều nay buồn quá phải không em?
Người bỏ đi rồi ,ta đâu còn chi nữa
Một cánh hoa đỏ ngời như lửa
Cơn gió đi qua thổi tắt mất bên thềm

Mưa chiều nay buồn quá phải không em ?
Bốn mươi tuổi đi qua, bốn mươi mùa lá rụng
Ai có nên khôn, ta cả đời thô vụng
Đánh mất trăng rồi chỉ còn lại màn đêm...
Mưa chiều nay buồn quá phải không em ?



Chào Mưa

Chào mưa quen chừng như bỗng lạ
Bầy sẻ ngoan về dưới hiên nhà
Tặng em chuỗi hót xanh mùa hạ
Thơm mơ gần và cả mộng xa

Chào mưa những hàng mi chớp vội
Rụng rất thầm kỷ niệm ngày qua
Vẫn còn mảnh gương con giữ lại
Để dành soi nỗi nhớ phôi pha

Chào mưa chiều lang thang quên lối
Con sáo buồn đứng trú gốc me
Mơ áo trắng ngày xưa quay lại
Chắp cánh bay qua phố ngàn hoa

Chào mưa, chào mưa, chào mưa bay
Qua sông bịn rịn nào ai hay
Em về một nửa mưa bên ấy
Buồn tôi chợt nắng phía bên này .

Mường Mán




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 10/Jan/2015 lúc 12:17am


Cà phê Tùng Ðà Lt và hoài nim hơn na thế k 
Wednesday, January 07, 2015 5:30:38 PM 


 


Luke Bùi/Người Việt


Luke Bùi/Người Việt

ÐÀ LẠT (NV) - Với gần 60 năm hiện diện, quán cà phê Tùng được cho là một trong vài nơi còn lưu giữ nét văn hóa và cái thú uống cà phê của người Ðà Lạt.

Ngày nay, nhiều du khách ghé vào quán cũng là để tìm lại chút dư vị tại nơi mà nhà văn Nguyễn Tuân, thi sĩ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Từ Công Phụng, ca sĩ Khánh Ly... đã từng lưu luyến một thuở.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/201110-CaPhe-Tung-01-4.jpg

Nét sơn mới nhưng thương hiệu tồn tại từ năm 1955. (Hình: Luke Bùi/Người Việt)

Quán của cha, nghiệp của con

Nằm cách chợ Ðà Lạt vài bước chân, quán cà phê Tùng thường là một trong vài điểm phải ghé qua của du khách và những người muốn níu giữ kỷ niệm trên phố núi mù sương.

Ðã quá giờ trưa, tôi đẩy cửa bước vào, khung cảnh bên trong quán vẫn gần như không có gì thay đổi so với mươi năm trước, khi tôi lần đầu tiên đến đây.

Những bức tranh có phần cũ kỹ treo trên tường, cùng tông màu nâu sẫm của cà phê rang với lớp da bọc nệm ghế ngồi, kệ tủ và những mảnh gỗ ốp trên tường. Những chiếc loa trong quán đang phát một giai điệu du dương của thập niên 1960 càng khiến không gian đậm màu hoài niệm.


Quán cà phê Tùng

Ðịa chỉ: 6 khu Hòa Bình, thành phố Ðà Lạt

Mở cửa từ 6:30AM - 9:30PM

Giá cà phê đen nóng, cà phê sữa nóng từ 18,000 - 20,000 đồng/ly, tức xấp xỉ $1.


Theo thói quen, tôi gọi một ly cà phê đen pha phin và một ly yogurt. Một phin đen cho vị đắng và một yogurt cho vị ngọt như một cách cân bằng. Sẽ thật chủ quan và hồ đồ nếu tôi tự kết luận, hương vị của ly cà phê tại quán Tùng vẫn nguyên vẹn như ngày xưa. Bởi tôi biết, chẳng có gì bất biến cùng thời gian cả, nhất là khi thời gian kéo theo biến cố làm đảo lộn mọi giá trị nhân văn.

Trong những lúc ngơi tay do khách vắng vào giờ trưa, chủ nhân của quán Tùng bây giờ, ông Trần Ðình Thông, 62 tuổi, thuật lại cho tôi nghe chuyện của người cha - Trần Ðình Tùng.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/201110-CaPhe-Tung-02-4.jpg

Ông Trần Ðình Thông, con của ông Tùng, chủ quán ngày xưa. (Hình: Luke Bùi/Người Việt)

Là người Gia Lâm, Hà Nội, ông Tùng di cư vào Ðà Lạt từ năm 13 tuổi và mưu sinh bằng nhiều nghề nghiệp: nha địa dư (vẽ bản đồ), thợ hớt tóc, bán báo, bán bánh kẹo... trước khi mở quán cà phê mang tên mình vào năm 1955.

Trong thuở vàng son của Ðà Lạt, quán Tùng được nhiều văn nhân, nghệ sĩ nổi tiếng, sĩ quan trường Võ Bị Ðà Lạt chọn làm điểm hàn huyên nhờ bí quyết rang xay, pha cà phê đúng kiểu truyền thống của chủ nhân. Nghe kể thuở ấy, để có được ly cà phê ngon và hương thơm đánh thức khứu giác của người uống, ông Tùng cho hạt cà phê phơi đúng một năm trước khi rang cùng bơ và rượu rhum theo một tỷ lệ giữ kín.

Do vậy mà ông Thông thẳng thắn thừa nhận, vì nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, ly cà phê tại quán Tùng bây giờ không thể nào sánh được hương vị với thời của cha ông. Tuy vậy, khi kế thừa nghiệp làm quán của cha, ông Thông vẫn trung thành với những nguyên tắc từ thuở ban đầu: bán đúng gu uống cà phê theo kiểu xưa; giữ gìn không gian êm đềm với nhạc cổ điển hoặc hòa tấu, tiền chiến; trân trọng mỗi thực khách đặt chân vào quán...

Nhờ vậy mà ly cà phê tại quán Tùng bây giờ có một giá trị cộng thêm của sự hoài niệm mà không một quán tân thời nào có được, dù sang trọng đến đâu.

Về đâu, quán của ngày sau?

Trong cuộc trò chuyện với tôi, ông Thông nói với giọng rất tự hào rằng nhờ sở hữu quán Tùng mà cha mẹ ông nuôi được đàn con 11 đứa ăn học thành tài. Ông Thông nhận trách nhiệm kế nghiệp, duy trì quán cũng như chăm lo hương hỏa cho nhà từ đường.

Thỉnh thoảng, ông Thông lại bất ngờ tiếp đón các vị khách cũ của quán Tùng từ những thập niên trước, trong số đó có những người sau nhiều năm xa xứ mới quay về tìm lại hương vị ly cà phê không quên thời trai trẻ.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/201110-Caphe-Tung-03-4.jpg

Khách đến quán tìm lại hương vị ngày xưa. (Hình: Luke Bùi/Người Việt)

Họ dẫn theo những đứa con, cháu và rưng rưng thuật lại cho chúng nghe rằng ngày xưa, bố/ông đã từng uống cà phê ở đây, cũng trong không gian nguyên vẹn thế này...

Vậy mà thời gian quả thật khắc nghiệt, quán cũ có thể còn nhưng người xưa nay đã vắng bóng. 13 năm trước, ông Tùng qua đời sau một vụ tai nạn giao thông. Hai năm trước, người vợ của ông cũng mất.

Nhân đề cập về những thay đổi của thời cuộc, ông Thông chia sẻ: “Cùng làm chủ quán cà phê, nhưng có lẽ thời của cha tôi không phức tạp như bây giờ. Hồi xưa, cha tôi chỉ phải đóng thuế môn bài và không lo bị cơ quan thuế vụ dòm ngó, làm khó như bây giờ. Anh xem, quán nhỏ, giá thức uống phải chăng, chỉ có hai hàng ghế hai bên mà mỗi tháng đóng hơn 4 triệu đồng tiền thuế, tức $200, hơn cả những hàng quán bề thế khác ở Ðà Lạt này.”

Ông Thông quan niệm, với nghiệp chủ quán cà phê theo kiểu cũ, mình biết đủ là đủ. Không phải vì tận dụng danh tiếng hơn nửa thế kỷ mà gia đình ông khuếch trương, mở rộng hoặc cho người khác kinh doanh thương hiệu. Mỗi ngày, cần mẫn phục vụ khách từ sáng đến chiều, ông vẫn sắp xếp thời gian đưa đón con đi học. Với ông, việc quán Tùng mở cửa quanh năm suốt tháng, đón nhận nhiều lượt khách đến ôn lại kỷ niệm là điều đáng quý hơn bất kỳ gia sản nào.

Dù có vẻ mãn nguyện với một quán cà phê được nhiều thế hệ yêu Ðà Lạt biết đến, nhưng trong ông còn chút nỗi niềm lấn cấn. Tuy tự hào về thương hiệu cà phê Tùng nhưng các em, con và cháu của ông Thông không muốn nối nghiệp trong tương lai.

Ông giải thích, những thế hệ sau có nhiều chọn lựa về nghề nghiệp hấp dẫn hơn là việc nhẫn nại, chịu cực bưng nước, rót trà cho người khác từ năm này sang năm khác.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/201110-CaPhe-Tung-04-4.jpg

Quán Tùng nhìn từ bên ngoài. (Hình: Luke Bùi/Người Việt)

Nhấp một ngụm cà phê đắng, bất giác, tôi ngước nhìn bức tranh vẽ một người đàn guitar treo trên tường của quán. Bức tranh có mầu tối sẩm, người đàn guitar một mình một bóng vươn dài rồi gãy gục. Ðầu người và đầu phím đàn chúc xuống bục gỗ màu nâu khô.

Trong đầu tôi dấy lên một câu hỏi mơ hồ: Liệu mươi năm nữa, nếu có dịp ghé lại địa điểm này, biết có còn tồn tại quán cà phê Tùng trong căn nhà một lầu hai mái ấm áp khiêm nhường như hiện tại?

Nghe bảo ngày xưa, cũng tại không gian đơn sơ, tĩnh lặng này, trong một ngày nhìn bầu trời Ðà Lạt âm u qua cửa kính, thi sĩ Bùi Giáng đã viết hai câu thơ lục bát phá cách trên miếng giấy bạc trong bao thuốc lá: “Quán ngồi mỏi. Nắng chưa lên. Chợt vui tràn. Thấy còn nguyên sơ đầu.”

Thú thật, tôi thích đọc lại những vần thơ này dù không cảm được hết những điều thi sĩ muốn chuyển tải. Ở góc độ của một kẻ hậu bối, đơn giản là tôi yêu quán Tùng cũng như yêu nhạc xưa, muốn trân trọng những giá trị của ngày cũ và các thế hệ đi trước.

Nhiều người bảo Ðà Lạt bây giờ không còn tốt đẹp, lãng mạn như ngày xưa vì nhịp sống quá xô bồ, những cư dân gốc của thành phố hoa dường như đã vắng bóng, nhường chỗ cho người nhập cư nhộn nhạo.

Cho nên, bây giờ, dù có ngồi ở bàn đầu tiên của quán cà phê Tùng nhìn ra cửa sổ, tôi cũng khó lòng tìm thấy sự thư thái hay nảy ra ý thơ vì trước mắt mình là những dòng người vội vã đua chen cuộc mưu sinh.

Chốn xưa hãy còn đây mà sao tao nhân mặc khách của những ngày tháng cũ đâu rồi?...

 

 




-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 12/Jan/2015 lúc 7:48pm

NHỮNG BẢN NHẠC VIẾT VỀ ĐÀ LẠT ĐỂ NHỚ VỀ THÀNH PHỐ MỘNG MƠ !



http://www.youtube.com/watch?v=XjEc_AWBUaw"> 1:12:46Tuyển Chọn Những Ca Khúc Hay Nhất Về Đà Lạt - Những Tình Khúc Vượt Thời Gian           


           http://www.youtube.com/watch?v=jAnT7Mid7ZM"> 1:34:52 Những Ca Khúc Hay Nhất Về Đà Lạt
 
  • http://www.youtube.com/watch?v=PrmFsDDmurw"> 18:49 http://www.youtube.com/watch?v=PrmFsDDmurw - -
http://www.youtube.com/watch?v=XjEc_AWBUaw -
           
http://www.youtube.com/watch?v=pnlRnIEqoGQ&list=PL6869CACB8B437DB8"> 25 video Da Lat Mong Mo




-------------
mk



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info