Print Page | Close Window

NHÓM THƠ 20 GÒ CÔNG

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=891
Ngày in: 16/Nov/2024 lúc 8:37am
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: NHÓM THƠ 20 GÒ CÔNG
Người gởi: đông quyên
Chủ đề: NHÓM THƠ 20 GÒ CÔNG
Ngày gởi: 27/May/2008 lúc 11:03pm
 
 
            THỨC VỚI ĐƯỜNG THI
 
 
 
                Ngỡ mình là Hạ Tri Chương*
         Rời nhà đến tóc đẫm sương mới về
                Hồn quê lắng đọng giọng quê
         Bao năm hóa giải bùa mê phố người
                Bao năm thương tiếc bóng ngồi
         Dẫu rơi không vỡ, dẫu trôi không chìm
 
                Ngỡ mình là Lý Trích Tiên**
         Dãi thân phiêu bạt nỗi niềm ly hương
                Ánh trăng trông ở trước giường
         Tưởng là mặt đất ánh sương bềnh bồng
                Ngẩng đầu lên ngắm trăng trong
         Cúi đầu chợt chạnh chút lòng quê xa
                Nỗi người hay chính nỗi ta
         Vạc kêu cuối lũng, mù sa bên ngàn...
 
               Phút nào "nhật mộ hương quan"***
         Ngỡ mình Thôi Hiệu chơi Hoàng Hạc Lâu
               Hạc xưa vút cánh đẩu đâu
         Thơ buồn ở lại... từng câu lại về...
               Đượm tình "phương thảo thê thê"
         Hạc vàng, mây bạc...vẳng về đâu đây!
 
               Ai người trôi giạt xa quê
         Nổi chìm chợt tỉnh cơn mê thu vàng
               Cùng ta khơi bếp lửa tàn
         Thâu đêm thức với bàng hoàng Đường thi.
 
                               TRẦN NGỌC HƯỞNG
                           Nhóm Thơ 20 - GÒ CÔNG
 
       * Hạ Tri Chương và bài "Hồi hương ngẫu thư"
     ** Lý Bạch với bài"Tĩnh dạ từ"
   *** Thôi Hiệu với bài "Hoàng Hạc lâu"
 


-------------
bx



Trả lời:
Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 29/May/2008 lúc 9:46am
 
 
                                       Tặng Trần Ngọc Hưởng và những Nhà Thơ
 
 
                     Có những người ta mến phục
                     Biết thả hồn theo đôi bờ hư thực
                     Đưa tay sờ soạng trái tim
                     Nặn những giọt máu đau thương và hạnh phúc


-------------
kb


Người gởi: đông quyên
Ngày gởi: 07/Jun/2008 lúc 8:43pm
 
 
 
              NGỌN GIÓ GẬP GHỀNH
 
 
 
                Thổi suốt đường về xứ bậu
                Gập ghềnh ngọn gió bậc thang
                Lên đồi xuống dốc dọc ngang
                Khựng bước bất ngờ quán lạ
 
                Bậu bẹo hình hài lơi lả
                Đón mời rao bán dung nhan
                Giấu chi một chút bẽ bàng
                Môi má nhạt nhòe son phấn
 
                Phẩm tiết đổi đồng tiền bẩn
                Mơ hồ chân giả thực hư
                Quẩn quanh nước đọng ao tù
                Khóe mắt đầu mày vờ vĩnh
 
                Sặc sụa hơi men sực tỉnh
                Phút nào bậu có lắng nghe
                Mảnh lòng trống lạnh khôn che
                Run rẩy đồng tiền bất lực...
 
                Thổi tận ngỏ sâu ký ức
                Gập ghềnh ngọn gió lòng qua
                Nhớ về bậu lại xót xa
                Quán lạ lênh đênh bèo giạt...
 
                            TRẦN NGỌC HƯỞNG
                      Nhóm Thơ 20 - Gò Công
         
 


-------------
bx


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 09/Dec/2009 lúc 1:49am
12g55 trưa ngày 09/12/09 tại hội trường thư viện KHTH Sài Gòn (69 Lý Tự Trọng), đang giờ nghỉ trưa, checkmail và thật cảm động với bài thơ CÂU THỀ NGÀY XƯA của tác giả Trần Ngọc Hưởng; bài thơ có ghi "thơ gởi gocong.com".
Xin "huờn châu hợp phố".
 

Câu thề ngày xưa

 ***

Gò Công chẳng ở đâu xa

Ở ngay giữa nhịp tim ta bồng bềnh

Nổi chìm giữa đáy mắt em

Giữa ngày quấn quýt, giữa đêm bồn chồn

Da chưa lành sẹo trong hồn

Trách chi trăng mật bỏ buồn riêng ta

 

Gò Công chẳng ở đâu xa

Ở ngay giữa nhịp tim ta phập phồng

Chập chờn ngày nhớ đêm mong

Hồn thơ khép mở ai chong mắt chờ

Một mình đất lạ bơ vơ

Ta đem nửa mảnh tình xưa ráp đầy

 

Gom bao kỷ niệm lên tay

Mời em về lại đây ngày xa xưa

Bao năm ngậm ngải phải bùa

Bến xuân thổn thức ai khua mái chèo

Yêu người chẳng được người yêu

Góc trời nửa mảnh trăng treo...nhạt nhoà

 

Gò Công luôn ở bên ta

Dẫu bao bồi lở vẫn là quê hương

Câu thơ thao thiết về nguồn

Để ta gồng gánh nhớ thương cùng về

Con đường oằn ngoặt lối quê

Với tay chạm phải câu thề mới nguyên

                                                    

                       Trần Ngọc Hưởng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ta về

Tặng Trần Anh Tài

 

 

Về thôi, về với Gò Công

Giao thừa có kịp để không lỗi thề

Hưởng ba ngày Tết thoả thuê

Giãn công giãn việc mà về nghe em!

 

Tạm rời xa chốn bon chen

Ta về với cõi bình yên tâm hồn

Đã trôi giạt khắp phố phường

Vẫn đau đáu nhớ con đường quê xưa

 

Ta về mò ốc móc cua

Thương người dãi nắng dầm mưa tảo tần

Ngó sen ngân ngấn chân trần

Hỏi muối muối mặn, hỏi gừng gừng cay!

 

Ta về say thật là say

Ngõ thơm hoa bưởi trắng đầy hoa cau

Đường làng vắng nghé lẻ trâu

Đâu quai nón tuột đâu câu hẹn hò?

 

Ta về tìm lại cánh cò

Liêu xiêu ông lão lái đò bên sông

Ánh trăng ràn rụa mặt đồng

Rạ rơm cỏ dại… nhói lòng hương quê

 

Ta về, em nhé, mình về

Phố người mấy đận ủ ê đã nhiều

Khúc tình xanh, gió chiều reo

Đắm trong tình nghĩa thương yêu đậm  đà!

                                

                       Trần Ngọc Hưởng



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 09/Dec/2009 lúc 1:56am

Từ chín dòng sông vọng cổ – Trần Ngọc Hưởng

http://bachmaibutchi.wordpress.com/author/bachmaibutchi/ - bachmaibutchi

http://s253.photobucket.com/albums/hh78/tgthaithanhnguyen/tgthaithanhnguyen%20-%20bachmaithidan/?action=view&current=BIA-Tuchindongsongvongco.jpg">Photobucket

“Hòa âm điền dã” trong thơ Trần Ngọc Hưởng

Có tập thơ đến với ta như một người tình xa lạ, ta đọc nó như khám phá, chinh phục một đỉnh núi cao đầy hào hứng, ngoạn mục nhưng cũng lắm khi cảm thấy mệt nhoài.

Lại có tập thơ đến với ta như một người tình cũ, tuy lâu ngày gặp lại, nhưng vẫn ẩn hiện những nét gần gũi, thân quen, ta đọc nó như cùng người đi dạo dọc theo những con đường, bờ sông kỷ niệm, và trên từng chặng nhàn du, ta cũng như gặp lại chính tuổi trẻ mình.

Với tôi, tập thơ Từ chín dòng sông vọng cổ của Trần Ngọc Hưởng là thuộc vào trường hợp thứ hai.

Sở dĩ tôi nói như vậy vì tôi đã đọc thơ Trần Ngọc Hưởng từ khi còn học ở một trường huyện miền Trung và là độc giả của báo Tuổi Hoa mà anh là cộng tác viên thường xuyên. Trần Ngọc Hưởng hồi đó là một cây bút của Nhóm Thơ 20, cùng với Dạ Huyền, Đan Dạ Uyên, Trần Anh Tài, Như Uyên Thuỷ… Đây là bút nhóm xuất phát từ Gò Công vào giữa những năm 60 mà tác phẩm đã được giới thiệu khá rộng rãi trên các nhật báo và tạp chí thời đó: Dân đen, Diễn đàn, Cảo thơm, Thế giới, Tin điển, Tin sống, Tin, Phụ nữ Việt….

Từ miền Trung, qua thơ Trần Ngọc Hưởng và các thi sĩ miền Nam đương thời, tôi cảm nhận được tình người và hơi thở đất đai vùng đồng bằng sông Cửu. Nhưng phải đến khi vào sống ở vùng đất này, tôi mới thực sự lý hội được vẻ đẹp của sự chân thành và giản dị trong thơ các anh. Khác với văn xuôi, cảm nhận về thơ hình như cần có một bầu khí tình cảm riêng nào đó. Chẳng hạn chỉ đến khi đi về dạy học ở miền Tây, đứng trên chuyến phà qua sông Tiền dạo cầu Mỹ Thuận chưa xây, tôi mới hiểu được những điều ẩn chứa trong mấy câu thơ Trần Ngọc Hưởng:

Bồng bềnh mấy dải sông trôi,
Một thời xoã xuống vai người chiều hôm
Cho ai lấp loáng trong hồn,
Từng con sóng réo, từng cơn khát thầm.

(Riêng với sông Tiền)

Thơ Trần Ngọc Hưởng vốn hiền lành, sóng có réo cũng chỉ là sóng nhỏ và tình có khát cũng chỉ là khát thầm. Nhưng ai bảo con sóng đó, cơn khát đó không âm ỉ đến nao lòng!

Cảm giác của tôi khi đọc thơ Trần Ngọc Hưởng giữa màu khói đốt đồng hay mùi phù sa sông Tiền không giống cái cảm giác như ngày xưa, khi là cậu học trò xứ Quảng đọc trên trang báo mà tưởng tượng về đồng bằng Nam bộ. Nó cũng gần giống như khi tôi nghe một bài vọng cổ qua giọng ca “cải lương chi bảo” giữa đất Sài Gòn vẫn không xúc động bằng một buổi trưa hè kia trong căn nhà gần bờ biển Dương Tơ, Phú Quốc, nghe tiếng xuống xề của một bà mẹ trẻ ru con mà thấy gai lạnh vì cảm thấu nỗi lòng của người xa xứ.

Trần Ngọc Hưởng quê ở Gò Công, tốt nghiệp trung học rồi lên Sài Gòn vào đại học, ra trường về Long An lập nghiệp, dựng xây tổ ấm. Từ Tân An về Gò Công đâu mấy khúc đường, vậy mà nỗi cách trở làm ray rứt hồn anh, người tự ví mình như kẻ lỡ “ăn phải bùa mê thị thành”:

Mười năm khuất một nẻo về,
Mòn đôi mắt ngóng bên lề phố khuya.

(Tiền Giang)

Không lạ gì, khi sông Tiền, Cầu Nổi, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Bình… cứ mãi hiện về trong thơ anh như một nguồn suối mát múc hoài không cạn nước. Anh viết về ngôi trường tỉnh lỵ:

Nhớ trang vở cũ thương trường tỉnh,
Thương tiếng chuông tan, nhịp thước buồn.

(Qua đò Cầu Nổi)

Làm ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Trường huyện của Nguyễn Bính:
“Em đi phố huyện tiêu điều quá
Trường huyện giờ xây khác kiểu rồi”.
Nhưng kết cục của trường-huyện-Nguyễn-Bính là chia xa biền biệt, còn kết thúc của trường-tỉnh-Trần-Ngọc-Hưởng là một happy-end: đôi bạn ngày xưa tái ngộ thành đôi lứa trên một chuyến phà đời:

Lòng ta nhớ mãi thương ngày đó
Áo tím bay hoài mưa bụi rơi
Đôi mảnh lòng son cùng sánh bước
Trăm năm trên một chuyến phà đời.

Trần Ngọc Hưởng tin, và ta cũng tin cùng với anh, là bao lâu anh còn cầm bút, thì bấy lâu anh còn cho ra đời những câu thơ viết về quê mẹ:

Tôi còn gửi tặng ngàn câu
Khi còn lớ ngớ bên cầu nhân gian
Gò Công ơi! Nắng mơ tan!
Tôi đem kỷ niệm dát vàng Gò Công.

(Tôi còn gửi tặng)

Đó là ánh nắng toả xuống trên dòng sông Tiền, cũng là ánh nắng phản chiếu vào lòng anh và toả ra trên những dòng thơ anh. Như cách nói của Trần Ngọc Hưởng, đó là cái “hồn rơm rạ” vẫn đi theo anh qua những nẻo đường quê, lạc vào chốn thị thành:

Xa lâu ngày lạc mất quê
Chỉ giùm tôi một lối về nhà xưa
Đâu rồi vách gió phên mưa
Đâu bờ cỏ mịn? Đâu mùa trăng ngân?
……
Rạt rào lá cỏ vẫn xanh
Tôi đi tìm nhặt bóng mình đánh rơi
Chiều im cố nín lặng lời
Đâu màu hoa của một thời đã xa?

(Rơm rạ thoảng hương)

Cho nên dù viết về quê hương mới Tân An, về Cần Thơ, Đồng Xoài, Vĩnh Hưng, Cần Giuộc, Đức Hoà hay Mộc Hoá…, thơ Trần Ngọc Hưởng vẫn thoảng mùi hương thơm rơm rạ và ánh lên màu nắng mơ tan đó. Để mượn lại nhan đề một tác phẩm của André Gide, có thể nói thơ Trần Ngọc Hưởng cũng là một khúc “hoà âm điền dã”. Đường thơ của anh đi xa hơn, về với sông Hồng, sông Hương vẫn mang theo tâm hồn ấy, tâm thức ấy của một nhà thơ đồng bằng sông Cửu Long:

Tôi mang đủ chín dòng sông
Sáu câu vọng cổ xuôi dòng Hương Giang
Thuyền ai mắc cạn thơ Hàn
Về thăm Vỹ Dạ muộn màng đêm nay.

(Đêm Vỹ Dạ)

Nhưng đừng ai nghĩ rằng trên hành trình thơ của mình, cảm hứng và tình điệu thơ Trần Ngọc Hưởng không hề thay đổi. Khi viết về Huế, chẳng hạn, cảm hứng thiên nhiên của anh được thể hiện khác hẳn và quan trọng hơn là cảm nhận về chính bản thân mình cũng không còn như cũ:

Lá vèo trước cổng vào thu
Quanh đây lãng đãng sương mù nghìn năm
Mưa trời tiếng vọng âm âm
Một tôi tâm thức đôi phần quạnh hiu.

(Mưa Huế)

Hẳn nhiên cái tâm thức “đôi phần quạnh hiu” đó ta không dễ tìm trong những bài thơ viết giữa đồng bằng lộng gió.

Có thể nói con người Trần Ngọc Hưởng sinh ra là để cho thơ. Đời anh miệt mài làm thơ, hoạ thơ, bình thơ. Từ khi được thi sĩ Kiên Giang giới thiệu trong mục “Mái nhà thơ” trên báo Tia sáng năm 1964, đến khi được thi sĩ Trinh Đường chọn in trong tuyển tập Thơ Việt thế kỷ XX, Trần Ngọc Hưởng đã trải qua một chặng đường dài của sáng tạo, với không ít giải thưởng văn chương. Nghề nghiệp và năng khiếu đã giúp anh trở thành một trong những người bình thơ cổ điển và hiện đại có uy tín trong nhà trường. Thơ, với Trần Ngọc Hưởng như nước uống, như khí trời. Không sợ quá lời nếu nói rằng anh không thể sống mà thiếu thơ.

Tôi đặc biệt thú vị với những bài cảm tác về những nhà thơ tiền bối. Anh có một cách riêng để thâm nhập và phác hoạ những thế giới nghệ thuật đã gián cách qua thời gian. Trong tập này, cũng như tập Chân dung thơ trước đây, khi viết về Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…, Trần Ngọc Hưởng đã tìm được một ngôn ngữ tương thích với phong cách của nhà thơ. Xin dẫn vài khổ thơ trong bài Trăng Phan Thiết làm thí dụ:

Tiếng sóng gào man dại
Tiếng gió rít hoang sơ
Lòng ai xưa bão cát
Quặn thắt đến bao giờ?
Trăng thất tình ứa máu
Hắt hiu lầu Ông Hoàng
Từng giọt từng giọt nhỏ
Lãng đãng trên đồi hoang.

Nhưng dù có thỉnh thoảng đi xa khỏi chính mình, Trần Ngọc Hưởng vẫn sớm quay về với bản thân anh. Người đi xa lâu ngày, khi trở về, có ai hỏi cũng bảo chỉ quê mình là đẹp nhất. Huống chi Trần Ngọc Hưởng, cả đời gắn bó với mảnh đất đã nuôi nấng thơ anh, nuôi nấng tình yêu của anh. Đọc Trần Ngọc Hưởng, ta cầu cho tình yêu và tình thơ đó suốt đời được nuôi dưỡng và đơm hoa kết trái.

Huỳnh Như Phương

TỪ SUỐI NGUỒN XANH

Hơn 30 năm nay, chưa từng đọc hết một tập thơ. Cũng một phần nào vì hoàn cảnh. Một người suốt mấy mươi lăm lao động cực nhọc thì “cơm áo không đùa với khách thơ” cũng là sự thường tình.

Chiều nay, đi đồng về thấy trên bàn có một tập thơ : “Chắc có lẽ con gái đem về từ đâu đó; cô bé muốn ba phải đọc chăng”. Thoáng mở thấy 99 bài tứ tuyệt lại đắn đo. Một lượng thơ khổng lồ chỉ trong một tập thơ khiến người muốn đọc cứ ngại ngần.

Bỏ qua những lời giới thiệu đập vào mắt là “Gánh nặng đường chiều”; chữ dùng thấy quen quen – Phải rồi “Đường xa gánh nặng” biểu trưng của nhà thơ Sông Đà Núi Tản giáo chủ của đạo “Thiên Lương”.
“Đường xa gánh nặng xế chiều,
Cơn giông, biển lớn, mái chèo thuyền nan”.

Đọc qua bài thơ và tự nhủ lòng nên đọc nghiêm chỉnh và ghi ra giấy những gì hiểu được gọi là chút lòng thành trân trọng với tâm huyết người thơ.

Bốn câu thơ đã làm khơi dậy hồi ức thuở ấu thơ bên dòng sông Vạn thẩn thờ đón mẹ buổi chiều sương. Đường xa, bóng xế mẹ thường dọn hàng khi hồi chuông Thiên Mụ gõ tiếng đầu tiên. Đường làng Kim Long, Phú Xuân, Vạn Xuân ngày xưa lợp toàn cây lá. Mẹ oằn vai gánh nặng liêu xiêu trong bóng chiều nhạt nhòa nôn nóng về nhà với lũ con thơ trước khi tiếng cuối cùng của hồi chuông chấm dứt. Hình ảnh mẹ ngày ấy chính là :

Chợ tan ngày xuống liêu xiêu,
Lưng oằn gánh nặng đường chiều, mẹ ta.

Và cứ thế, năm qua tháng hết, sáng tinh mơ, chiều tối lặng, mẹ đã vấp ngã biết bao lần giữa hai hồi chuông triêu mộ. Hồi chuông giục giã, khuyến khích kẻ tục trần men mùi đạo và chính hồi chuông bổng bay thanh thoát đó cũng đày ải bao kẻ thương sinh ! Nhịp mỏ nay, tiếng chuông xưa; thân phận của mẹ ta sao mà da diết. Cái vấp ngã ở đây phải chăng đó chính là thân phận của bào ảnh nhân sinh hay thực thể của kiếp người nhân thế.

Đi qua nhịp mõ chùa xa ..
Bồn chồn vấp tiếng ni già tụng kinh !

Xin cảm ơn nhà thơ những đêm “thắc thỏm mộng” đã khơi dậy cho người đọc những xuyến xao, thao thức cõi hoang tàn vắng lạnh thê lương mà vốn dĩ vì cơm áo mưu sinh đã chai lò theo năm tháng.

Hương tàn khói lạnh … khu nhà cũ
Lau xám chiều hoang mộ mẹ già

Chỉ 14 chữ rất bình thường nhưng vẽ được một bức tranh thủy mặc tiêu điều, ảm đạm làm da diết hồn người. Nhớ thuở thiếu niên đọc trong “Tang thương …” bài thơ cổ vô danh thường cho là khó có cảnh nào sầu thảm hơn :
“Túc thảo phần tiền thê muội hận
Hoang khâu nhất lũy táng tam hồn”
(TTNL)
Nhưng so với “lau xám chiều hoang” e rằng kém phần thê thiết tiêu sơ.

Bước qua “Trăng quê” tâm tư nhà thơ đang khắc khoải giữa hoa đèn phố thị. Cảm nhận được cái bức rức, quay quắt xốn xang của nhà thơ với ánh trăng vàng chốn cũ – Người đọc cũng từng thèm một ít sợi vàng, sợi trắng để trung hòa bớt cái nhợt nhạt, kiêu kỳ của ánh điện vàng chói chang chốn thị thành hoa lệ – ở đây xin cảm nhận sự chung thủy và tâm hồn nhã đạm của nhà thơ qua mấy câu :

Sao lòng ai cứ xốn xang
Cứ quay quắt nhớ ánh vàng trăng quê …

Phải nhận ra rằng ở đây nhà thơ cùng Tố Như chính là những tri âm. Cũng tiếc cho nhà thơ không sinh cùng thời để cùng với thiên tài so lời hoa gấm. Cũng trong cảnh xa quê và quay quắt với vầng trăng chốn cũ tâm sự của Tố Như có khác chi.
“Lòng quê lai láng gương thềm rọi
Lệ cũ đầm đìa tiếng nhạn qua”.
(ND-Thơ chữ Hán)
Vì là tri âm nên nhà thơ đã thấm đậm nỗi đau của nhà thơ qua mười năm gió bụi đất khách quê người.

Một đời gió bụi khuya thao thức
Giằng xé tâm can đến tận giờ !

Và có lẽ đoạn trường tân thanh được thai nghén trong những “khuya thao thức” đó và phiên bản cuộc đời Tố Như được thể hiện qua thân phận nàng Kiều với mười lăm năm phong trần gió bụi, đắm nguyệt chìm hoa mà:
“Tiếng kêu như cắt ruột người
Xốn xang vọng đất, vọng trời ngàn thu !”
Tiếng kêu đó phải chăng :
“Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”

Ngỡ ngàng đến “Tình si” với câu :
Mắt nghìn sau ướt lệ người nghìn xưa.

Người đọc rất thích hai từ “ướt lệ”. Ngoài sự đồng cảm với vị quân vương tài hoa lãng mạn còn chứng tỏ nhà thơ giàu lòng nhân ái và nhiều tài hoa trong ngữ nghĩa ngôn từ. Trong văn chương nhiều người đã sáng tạo nhiều từ như “từ lệ”, “dư lệ”, “thùy lệ”, “nghiêm lệ”, “u lệ”; còn từ ướt lệ đã được sử dụng nhiều nhưng cũng chỉ cho một nghĩa ướt + lệ (tính từ + danh từ). Ở đây có thể chẻ đôi từ “ướt lệ” và câu thơ này tùy theo cảm nhận mà có các cách đọc khác nhau.
Mắt nghìn sau ướt lệ – người nghìn xưa
Mắt nghìn sau- ướt lệ – người nghìn xưa
Mắt nghìn sau ướt- lệ – người nghìn xưa
Trong câu thơ này “ướt” ngoài nghĩa của một tính từ còn có thể hiểu ngầm ướt như là một động từ (ướt tương đương với khóc, chảy, ứa). Tác giả không hướng dẫn cách đọc cho câu thơ này bằng các dấu; nhưng từ đứng trước nó “mắt nghìn sau” đã cho ta hiểu và cách đọc (mắt nghìn sau ướt lệ vì lệ người nghìn xưa).

Nói đến “tình si” lại gặp nhà thơ si tình Phạm Thái. Viết đến đây trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh chàng thi sĩ đa tình dưới lốt nhà sư, vai mang bầu rượu đang quỳ trước mộ Quỳnh Như kể lể “ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên; mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh” và tâm đắc với câu thơ táo bạo rất mới của nhà thơ.

Chẳng mê chuông mỏ hay kinh kệ
Chỉ niệm người tình, niệm rượu thơ

Nhà sư “niệm tình”, “niệm rượu” ý tưởng lạ chẳng kém gì “Bồ tát Lỗ Trí Thâm niệm mộc tồn”.
Đi đến với “gió Vũng Tàu” người đọc miên man với câu thơ xưa của vị minh quân Hồng Đức khi đến đèo Ngang.
“Thà là cúi xuống cây đòi sụt
Xao xác trông lên sóng muốn trèo”.
(HĐ.QATT)
“Cây đòi sụt”, “sóng muốn trèo” ở đây chỉ là trạng thái tự nhiên của thiên nhiên được nhân cách hóa qua “mắt nhìn” của vị vua tài hoa. Trong “gió Vũng Tàu” khi :

Tóc cũng sổ bung theo sóng biển
Chồm lên từng đợt cứ nôn nao

Thì người thơ đã thả hồn mình vào đó. Ở đây có một sự đè nén, dồn ứ của tâm thức lãng mạn, một sự nôn nao chờ đón để rồi vỡ òa khi

Tóc bay để mặc, em đừng buộc
Dẫu rối lòng anh, gió Vũng Tàu

Sao lại không ghen được, gió thường suồng sã và hay trêu hoa ghẹo nguyệt. Đã từng có
“Vô tình để gió hôn lên má”
(HMT)
và “Tóc em dài sao em không bối
Để tóc dài bối rối dạ anh”
(Ca dao)
Nên mặc dù rối lòng, rối dạ nhưng biết làm sao ngăn được mắt thế nhân trước hình ảnh tuyệt vời, làm sao không bồn chồn khi trong cõi mơ hồ nào đó niềm lo sợ vu vơ chợt hiện về trong tâm thức.

Anh lo bỗng chốc thành hư ảo
Chốc bỗng mây theo gió của trời

Mây theo gió và biết đâu một ngày lỗi hẹn em quên luôn cây đa, bến cũ, bóng chiều xưa; “quên câu hẹn núi”, “thề sông” và
“Quên luôn bến cũ bão giông
Bỏ luôn tình cũ, phiêu hồng biển dâu”
Và khi ấy anh chỉ còn “Lòng anh cái bãi vàm Bao Ngược
Từ phút xuồng lui giữa dấu dầm ..”
Chỉ còn “dấu dầm” như một chứng tích kỷ niệm cuối cùng sau khi đã :

Đầu sông cuối bể cũng liều
Bước trèo, bước trật liêu xiêu bóng mình !

Đó là phận số để rồi kẻ ngược người xuôi sông hồ cách trở tình đã chia xa. Nhưng … tạo hóa đã không nỡ vô tình với khách tài hoa nên đã cho những kẻ
“Cùng một lứa bên trời lận đận”
(TBH)
“Nổi trôi một lứa bên trời gặp nhau”
Cho bổng trầm đàn phách hòa âm hợp nhịp. Và hạnh phúc lứa đôi của đời thường được tận hưởng trong “suối nguồn xanh”

Gặp em rồi suối nguồn xanh
Bao năm đủng đỉnh – đạo tình, duyên thơ
Chập chờn khói mộng, sương mơ
Thắm vườn mai cũ, mượt bờ cỏ xưa

Giang hồ đã mỏi, rũ áo phong sương sau những tháng năm “lấn chen khói phố bụi phường”; thi nhân đã được đắm chìm trong suối nguồn khói sương, mơ mộng, tình thơ yên ả.

Chợt yên ả một suối nguồn là em …”

Có gì đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi thực mộng bây giờ đã hòa quyện nhau làm một. Bây giờ không còn cảnh “ước cũ duyên thừa”, “đá mòn, rêu nhạt”, “nước chảy hoa trôi” mà là một miên viễn một bến bờ hạnh phúc và
“Mãi mãi em là ngọn lửa”
Ngọn lửa sẽ lặng lẽ, âm ỉ cháy bất tận giữa bếp nhà khơi nguồn cho bao mạch sống của lứa đôi được ủ bởi hương đồng gió nội và cùng nhau

Buộc ràng dần bạc mái đầu
Tóc xưa giờ ngã trắng màu tóc sương

Tuy tóc đã ngã màu sương nhưng thủy chung vẫn bền chặt và hình ảnh trong mắt nhau chẳng khác lúc đầu.

Anh xưa, nay đã làm ông
Sao em nhìn mãi vẫn không thấy già
Em xưa, nay đã thành bà
Sao anh nhìn mãi vẫn là trẻ trung

Trong cuộc sống thường có những lúc trầm, lúc bổng, bao lo toan tất bật của đời thường và những đắng cay ngọt bùi đan xen là lẽ thường tình nhân thế. Thơ “Tặng vợ” của người rất dung dị nghĩa tình và thực cảm. Có lẽ không còn một lời nịnh đầm, ân hận nào đáng yêu hơn.

Một đời làm vợ làm chồng
Chưa mời em chén rượu nồng đầy vơi
Nhưng cay đắng lẫn ngọt bùi
Biết bao lần đã sẻ đôi vơi đầy

Tập thơ nhiều ngôn từ dung dị, biểu cảm, còn rất nhiều hình ảnh sống động, gợi nhớ rất dễ thương trong tình yêu và cuộc sống.

Gió day dứt tiếng chuông chùa
Em về nón mỏng chiều mưa nghiêng buồn

Day dứt là một từ biểu cảm diễn tả tiếng chuông đang bị gió giật đứt khúc, vừa diễn tả ray rứt nội tâm giữa thanh thoát và tục lụy của không gian, thời gian u buồn, trầm lắng, mong manh, lẻ loi.
Ai riêng khép mở một đôi tà
Đôi tà khép mở này với : “Gói vào giấy mỏng trang thư
Cho ai bấn bíu nhận từ tay nhau”
Để cho :
Mắt ai lúng liếng sau vành nón
Và làm cho người :
Quên khuấy trống trường giục nẻo xa
làm gợi nhớ thuở thiếu thời của một thế hệ đầy lãng mạn của những chàng trai, cô gái chưa vẫn đục bởi vật chất văn minh.

Đọc qua toàn bộ tập thơ, người đọc thấy người thơ sao có vẻ lạc lỏng giữa dòng đời hoa gấm. Phải chăng vì thiếu khách đồng điệu, thiếu bạn tri âm nên nhà thơ phải mãi tìm kẻ thẩm âm trong kho tàng văn học cổ. Nhiều dáng xưa rõ nét trong tư tưởng nhà thơ. Có lẽ với tâm hồn bình dị, không thích bon chen giữa chốn thị thành nên nhà thơ đã mỏi mệt thật rồi. Có lẽ nên quay về thôi, quay về thôi !… quay về với thú điền viên, hóa thân vào thiên nhiên cây cỏ sống cuộc đời ẩn sĩ để “ươm ca dao, trồng tục ngữ” vui thú với gió bãi trăng ngàn.

Men nồng chuếnh choáng ngùi nhân thế
Ngước mắt trông vời … khói trắng bay

Rất mong một ngày nào đó nhà thơ sớm tròn ước nguyện. Riêng người đọc xin gửi tặng hai câu thơ gọi là đa tạ người thơ:

Tiếng được mất mặc bon chen trần thế
Đàn không dây âm trãi núi sông dài.

Tuyên Thạnh, Mộc Hoá : 29.09.07

Đạm Thuỷ

Ghi chú :
* Trời u lệ đìu hiu sao Bắc Đẩu (NV-Hoa Lệ)
* Nhìn nghiêm lệ lòng con quay quắt (LL)
* Giận anh tôi ép dòng dư lệ (T.T.KH)
* Ta van những đóa sao thùy lệ (Đ.H)
* Từ lệ theo lần những bước đi (ĐT)



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 09/Dec/2009 lúc 1:59am

Trần Ngọc Hưởng

 Nguồn: http://bachmaibutchi.wordpress.com/author/bachmaibutchi/ - bachmaibutchi

%20

Trần Ngọc Hưởng

Tên tht: Trn Văn Sáu

Năm sinh: 1951

Nguyên quán: Gò Công, Tin Giang

Cư trú: 13 Hunh Vit Thanh, P.2, TX Tân An, Long An

ĐT: 072.833077

. Tác phẩm:

In riêng:

1. Bẻ lá che hường

2. Đồng vọng

3. Tay phấn

4. Thơ tuổi bốn mươi

5. Chân dung thơ

6. Tứ tuyệt Đường thi tuyển dịch

7. Cuống rún chưa lìa

8. Suối nguồn xanh

Tuyển chọn:

1. Khúc xạ mùa thương

2. Phù sa của gió

Góp bút trên 30 tuyển tập

Bài đăng trên nhiều báo chí trên toàn quốc  



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 22/Jan/2014 lúc 10:58pm


NHÀ THƠ TRẦN ANH TÀI
MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI GIỮ HƯƠNG QUÊ GÒ


*Phan Thanh Sắc
















Trong bài tựa quyển sách, “Gò Công …vọng tiếng đất lành” xuất bản năm 2010, tôi viết Gò Công cũng vọng mãi tiếng thơ như sau:
“Và rồi nhớ ngày 01/11/1964, “Nhóm thơ 20 Gò Công” thành lập với Trần Anh Tài, Đan Dạ Uyên và Dạ Huyền, những nhà thơ tuổi 17, 18 chưa đến 20 đã ươm vần từ những ngày đầu vào trung học. Chỉ khi thơ của họ xuất hiện đều trên những trang thơ của các nhựt báo Sài Gòn từ 1964 đến 1975, người ta mới biết có nhóm thơ 20 Gò Công làm thơ ca ngợi quê hương và những con người Gò Công là tuyệt phẩm quê hương. Chính nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà giới thiệu những bài thơ của nhóm trên báo Tin Sớm 03/08/1965, đã viết như thế và xưng tụng là quê hương Gò Công đã sinh ra nhiều người thơ nặng tình quê hương, Gò Công là đất thiêng từ lâu rồi đó. Ngộ là nhà thơ đầu nhóm, Trần Anh Tài là tên thật nên đến giờ vẫn quen, vẫn biết, từ bài thơ cũ: Em Gái Quê (1965)….

Ao Trường Đua chiều nay khách đông
Mù mây sương xuống dậy hương lòng
Dừa, cau, xoả tóc mây đâu rớt
Hay nước ao là mắt cố nhân… “
Tôi đã nhắc như thế để giới thiệu nhà thơ tôi yêu:
Thương quá đi thôi:

EM GÒ CÔNG
Tôi đem Quê hương tôi vào lòng
Vì Quê Hương tôi là GÒ CÔNG
Vì Quê Hương tôi là ĐẤT VIỆT
Đất nước tôi đau khổ chất chồng

Tôi đem Quê Hương tôi vào lòng
Vì Quê Hương tôi còn dòng sông
Mang phù sa lên từng luống đất
Dù đất nghèo nhưng luôn đơm bông

Quê hương tôi xanh màu AN HÒA
Biển TÂN THÀNH dâng cao lời ca
Hương sơ ri ngát vùng CẦU ĐÚC
VĨNH HỰU dừa buông xỏa tóc ngà

Quê Hương tôi có bà mẹ hiền
Có đàn em thơ tươi hồn nhiên
Có bà Mẹ quê ngồi cho con bú
Có nàng nữ sinh cười thật duyên

Tôi đem quê hương tôi vào lòng
Em GÒ CÔNG ơi! Em GÒ CÔNG!
Ta bỏ đời ta, ta chẳng tiếc
Chỉ tiếc em binh lửa ngập lòng
1970
Từ các năm đầu 1970, giữa lòng Gò Công trung niên chúng tôi lại có Gò Công 20.
Nhóm thơ 20 - Gò Công xuất hiện như “Gió nào có độc ở Gò Công!”
Quê hương mỗi người nghĩ một cách, nhưng không trần trụi cụ thể như một cái chấm và địa danh trên tấm bản dồ. Quê hương ban đầu là cái gì to lắm ập vào sâu thẩm của ta, nặng lắm, rồi mãng lớn sẽ trôi, nét rất riêng len lén ở lại! Cái riêng chỉ có người “mẫn cảm” riêng mới hiểu, thông cảm được!
Quê hương của Trần Anh Tài màu xanh An Hòa là nét bí hiểm nhứt trong 4 địa danh An Hòa, Tân Thành, Cầu Đúc, Vĩnh Hựu.

Quê hương tôi xanh màu AN HÒA
Biển TÂN THÀNH dâng cao lời ca
Hương Sơ ri ngát vùng CẦU ĐÚC
VĨNH HỰU dừa buông xỏa tóc ngà
Xanh màu An Hòa, ụp vào ta, dù là người Gò Công đi nữa, cũng chỉ có thể biết, tưởng là màu lúa hồi còn là mạ, cây trái nỏn non hay rau cải tươi dợn, thật không phải là vậy. An Hòa là tên xã chỉ trọn hai mươi năm. Năm 1956 thời của Chánh quyền Sài Gòn, hai làng Tân Duân Đông và Hòa Nghị của tổng Hòa Lạc Hạ nhập lại thành xã An Hòa của quận Hòa Lạc, sau 1975 xã An Hòa thành xã Hoà Nghị huyện Gò Công Đông. Vật đổi sao dời nhưng màu xanh xã An Hòa không đổi vì có ấp chánh là Giồng Nâu hồi xưa với cây ngâu xanh lùi vào dĩ vãng, nay tươi tốt những vườn trầu, lá trầu xanh, cái màu xanh vời vợi, ngan ngát hương cay, hợp lắm với “xanh màu An Hòa” của Trần Anh Tài quá. Trầu phải xanh quẹt với vôi trắng nhai thành hồng, đẹp cho lứa đôi, nồng cho cuộc đời các bà mẹ xưa, tôi lại nhớ mẹ tôi nhai cơm búng trắng thành hồng, ươm tôi thành người! Ba vùng kia, xưa sao giờ vẫn vậy, tên biển Tân Thành vẫn còn, vẫn không xanh mà đục phù sa. Cây sơ ri ngoại về đây miền Cầu Đúc, đem no ấm cho cả vùng.và miền cực Tây Nam, Vĩnh Hựu dừa buông tóc xỏa, Trần Anh Tài thấy một nét riêng của quê hương.
Rồi nét quê hương “dừa buông xỏa tóc” riêng thành chung.
Xin nhớ mãi bài thơ ấm tình Gò Công của Trần Anh Tài




Cho đến bài thơ mới đây, “Hai mươi năm Thị xã biết bao tình” một bài thơ dài về tình quê hương thật đẹp, đọc tưởng tính trăng hoa hoá ra là tài hoa vẫn tỏ.

Anh ôm Em vào lòng hôn đôi mắt rất tươi
Vòng tay chặt và nụ hôn mật ngọt
Êm ái bấy, tay em riết vào lưng anh ngây ngất.
Không còn đường xa và xe gập ghềnh
Gò Công ơi, hai mươi năm thị xã - biết bao tình!
(2007)


Trong tập thơ GOM LẠI ĐỂ DÀNH tuyển thơ in lại năm 2007, gồm những bài thơ đăng trên báo, tạp chí, nguyệt san từ trong 40 năm, ai người Gò Công cũng thấy miền riêng mình trong đó. Tôi từng dạy và chịu trách nhiệm về trường Trung học Hòa Tân trước 1975, nên tôi thích đọc bài thơ Hòa Tân anh làm năm 1971, các địa danh quen thuộc chấp choáng lung linh. Tôi thuộc từng câu:

HÒA TÂN
Nếu có hôm nào mà anh rãnh rỗi,
Tôi mời anh về thăm miền quê tôi
Để anh thấy lòng tăng niềm phấn khởi
Gò Công thanh bình rồi đó anh ơi

Tôi sẽ đưa anh qua vùng nắng ấm
Của Quận Hòa Tân, của miền cá tôm
Anh sẽ ở đêm với tình Vàm Láng
Để đón ghe về chở mộng yêu thương

Tôi sẽ đưa anh dừng chân Xóm Giá
Hoặc sẽ rong chơi khắp ấp Bồ Đề
Ngắm những bờ tre gió chiều liệt ngã
Rạ khô đem về chất núm ven đê

Tôi sẽ đưa anh thăm làng Tân Phước
Nơi đấng anh hùng ngã xuống năm xưa
Đám lá tối trời Rạch Già thuở trước
Rừng Gia Thuận giờ cây lá lưa thưa

Tôi sẽ đưa anh qua thăm Đồng Tháp
Trái ngọt cây lành bóng mát trên cao
Và anh sẽ quên chiến tranh tràn ngập
Để sống yên lành trong giấc chiêm bao

Tron giấc chiêm bao có nhiều mơ ước
Chất đầy yêu thương lên miền yêu thương
Trần Anh Tài
Nguyệt san Đất Việt 1971

Mới đây tháng 9 – 2007, Trần Anh Tài gởi tặng tôi bài thơ:

BÀI THƠ KÍNH TẶNG THẦY PHAN THANH SẮC
Gò Tre – Long Thuận – TX. Gò Công

Cám ơn Thầy đã cho em
Mượn quyển sách Sử, học thêm nhiều điều:
Từ Tây Sơn, thời mạt triều
Rất nhiều chia rẻ, rất nhiều can qua
Tiếc cho Nguyễn Huệ tài ba
Vãn là đoản mệnh, vẫn là phù du
Đành thôi, tàn một cơ đồ
Một câu thiên định, mấy bờ tang thương
Cũng như triều đại Nguyễn Vương
Cuối cùng cũng bị tiếng oan: cậy ngoài

Thực ra cỏi Việt Nam nầy
Dân ta nghèo, kém phương Tây nhiều lần
Xoay vòng trong cỏi riêng chung
Cái vòng hưng phế là vòng đương nhiên
Nói ra trăm thứ lụy phiền,
Để lòng, đành chịu ừc riêng cho lòng
Chắc Thầy sẽ rất cảm thông
Cho em bày tỏ tấc lòng của em
Tấc lòng nhớ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nhớ Nguyễn Công Trứ, Tiên Điền Nguyễn Du,
Nhớ Phan Thanh Giản, cụ Đồ…
Cuộc đời họ có bao giờ thảnh thơi …
Cám ơn Thầy lắm, Thầy ơi
Ít ai tìm lại dấu người thời xưa
Ngày đêm cặm cụi hàng giờ
Thầy tìm đọc, viết … giống như con tằm
Nhả từng cuộn tơ thanh tâm
Dệt hoa thêu gấm bức tranh quê nhà
Phòng khi có khách phương xa
Thầy vui giới thiệu đây là Gò Công
Gò Công Vọng Tiếng Đất Lành
Có làng Gia Thuận, có lăng Phượng Hoàng
Có bà hoàng hậu Nam Phương
Chưởng Hậu Quân Võ Tánh Quốc Công Tôn Thờ
Thầy tìm kẻ tóc chân tơ
Xây bia văn hóa, dựng cờ tim son
Lưu truyền lại cho cháu con
Để mai chúng biết cội nguồn trước sau
Người Gò Công cũng tự hào
Xứ Gò Công có kém đâu xứ người

Em xin bày tỏ mấy lời
Cám ơn Thầy, chúc Thầy vui tuổi già
Thư hương Thanh Trước an hòa
Thêm nhiều tác phẩm hay, qua lòng Thầy
Trần Anh Tài
(09 – 2007)

Cám ơn nhà thơ Trần Anh Tài. Tháng 9 – 2007, nhà thơ làm tặng tôi bài thơ nầy, đọc dù già nhưng được khích lệ, nên tháng 9-2010, cuốn sách “Gò Công…vọng tiếng đất lành” đã được in. Rồi sẽ in tới làng “Gia Thuận thung dung tựu nghĩa” để trải lòng với tấc đất ngọn rau


Phan Thanh Sắc
Nhà Giáo ưu tú

 

http://lengoctrac.com/?655=5&658=37&657=2332&654=4







-------------
mk



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info