VÀI
SUY NGHĨ CHUNG QUANH QUYỂN SÁCH
CỦA GS YOSHIHARU
TSUBOI
Nguyễn Xuân Xanh
LTS.
Bài viết dưới đây không hẳn là một bài điểm sách. Từ một buổi toạ đàm
chung
quanh một quyển sách sử, do một nhà nghiên cứu Nhật viết về Việt Nam, tác giả đã để dòng suy tư của mình vượt không
gian và thời
gian bay sang Nhật thế kỷ 19, để liên hệ tới những vấn đề nóng bỏng của
nước ta
hiện nay...
Diễn Đàn chân thành cảm ơn tác giả cho phép đăng
lại bài, vốn là một bức thư tác giả gửi nhóm bạn
"Humboldt" tập hợp trên Internet từ khi chung sức làm cuốn sách " http://www.diendan.org/Doc-sach/ky-yeu-humboldt/ - Kỷ
yếu Đại học Humboldt 200 năm ".
Hôm
qua, 9 tháng 9, có một buổi tọa đàm
thú vị tại Đại học Hoa Sen về
một cuốn sách tựa đề
NƯỚC ĐẠI
NAM ĐỐI DIỆN VỚI PHÁP VÀ TRUNG
HOA, 1847 – 1885
của
Giáo sư YOSHIHARU TSUBOI (Nhà
xuất bản Tri Thức – Nhã Nam, 2011).
Gs
Nguyễn Đình Đầu và Bùi
Trân Phượng là hai trong ba dịch giả.
Nhà văn Nguyên Ngọc viết lời bạt.
Có
mặt trong buổi tọa đàm và giao
lưu là tác giả Tsuboi, GS Nguyễn Đình
Đầu, nhà văn Nguyên Ngọc và
chị Bùi Trân Phượng. Căn phòng
chật ních. Người ta thấy nhiều
trí thức quen thuộc của TP có mặt.
Điều này nói lên sự quan tâm
những vấn đề, bài học lịch
sử vào thời điểm này đã
tăng cao.
Hiện
Tsuboi, như mọi người gọi ông trong
buổi hội thảo, là Giáo sư Lịch
sử chính trị và xã hội Đông
Nam Á, Đại học Waseda, Tokyo (chỗ anh
Trần Văn Thọ đang làm việc).
Cuốn
sách này là công trình nghiên
cứu luận văn tiến sĩ tại Paris của
Tsuboi, được xuất bản năm 1987 bằng
tiếng Pháp, và hai năm sau, 1989/90, nó
đến Việt Nam trong thời bao cấp. Tuy nhiên nó
vẫn được xuất bản tổng cộng
ba lần, và bây giờ là lần thứ
tư, và lần nào trước đây,
như GS Nguyễn Đình Đầu thuật
lại, cũng có “dư luận cho rằng
quyển sách có vấn đề”.
Nhưng quyển sách được những
người như GS Trần Văn Giàu, nhà
báo Trần Bạch Đằng ủng hộ.
GS
Nguyễn Đình Đầu và chị Bùi
Trân Phượng đã trình bày
sống động sự du nhập khó khăn
thời bao cấp của cuốn sách vào
Việt Nam thế nào. Thật là cảm động.
Một chút tri thức như chút ánh
sáng muốn lọt vào bầu không khí
Việt Nam quả là rất gian nan. Việt Nam sau chiến thắng
75 hoàn toàn tách rời khỏi thế
giới về mọi mặt, là một thế
giới đóng kín từng câu chữ.
Tsuboi cho rằng vào thời điểm
mấu chốt của lịch sử, Việt Nam đã
thiếu đoàn kết
để tìm ra một con đường mới.
Ông nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại
sự mất đoàn kết
của người Việt Nam trong giai đoạn thời
bình.
Và
hôm nay cũng thế, sau 36 năm hòa bình.
Hơn nữa, ông cũng nói đến
“lợi ích cục bộ” của người
Việt Nam, từ nhân dân đến giai tầng lãnh
đạo. Người dân thì chỉ biết
“làm giàu ngắn hạn” bằng
đầu cơ địa ốc hay chứng khoáng
chẳng hạn (nếu có tiền). Giai tầng
lãnh đạo thì chia rẻ nhau, không
đặt quyền lợi lâu dài của
dân tộc lên ưu tiên. Các quốc
gia xung quanh là một “công xưởng”
cung cấp hàng cho thế giới. Việt Nam
20 năm đổi mới vẫn chưa làm
được điều đó, chưa đưa
nhiều mặt hàng xuất khẩu chất
lượng cao để chiếm lĩnh thị
trường thế giới. Người Việt Nam suy nghĩ
lợi ích cá nhân nhiều hơn. Và
người tài không được sử
dụng cho nền kinh tế; có rất nhiều
người Việt Nam thành đạt ở nước
ngoài, tại sao họ “quay lưng” lại
đất nước (ý nói chính sách
không thu hút được họ)? Người
Việt Nam tuổi 40 trở xuống chiếm tỉ lệ
hơn 60%, nhưng họ chưa thật sự phát
huy tài năng để phục vụ đất
nước.
Tsuboi
nhấn mạnh, Nhật Bản không có tài
nguyên, “không giàu có” vì
tài nguyên như Việt Nam, nhưng bù lại
đặt nặng việc phát triển nguồn
nhân lực, đó là nguồn tài
nguyên duy nhất quý hiếm.
Việt
Nam phải không vì mục đích cá
nhân, mà cần nhìn cao hơn, xa hơn.
Hơn nữa, không phải đất nước
to hay nhỏ, mà phải biết cách tồn
tại bên cạnh các thế lực to lớn.
Phải biết trân trọng những giá
trị văn hóa, đừng vì “miếng
ăn” mà quyên đi văn hóa. Hồ
Chí Minh là con người văn hóa.
Giá trị cao nhất của Việt Nam theo ông là
VĂN HÓA. Và văn hóa này cần
phát huy đi ra thế giới. Không phải
chỉ nghĩ đến giàu có về vật
chất, mà phải nghĩ đến giàu
có về văn hóa.
***
Giở lại các trang sử
của Nhật Bản, tôi
cũng thấy điều tiên quyết của
người Nhật là ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC, đúng như Tsuboi nói. Có lẽ
vì thế GS Tsuboi dưới góc nhìn
của người Nhật mới nhấn mạnh
điểm này rõ ràng hơn, và
mới thấy đó là điều yếu
cơ bản của Việt Nam. Người Nhật đã
nghĩ gì, làm gì để tạo sự
đoàn kết dân tộc buổi chấn
hưng đất nước trước hiểm
họa lệ thuộc phương Tây? Tinh thần
đoàn kết dân tộc này đã
được truyền đạt lại trong một
tài liệu có tiêu đề “Năm
điều cấp bách nhất của Nhật
Bản” được
viết bởi một học giả Hà lan học,
Kanda Kōhai,
đêm trước của cuộc Cải cách.
Đó là
1.
Nhật Bản của chúng ta phải
vĩnh viễn độc lập. Nhật Bản
không bao giờ được phép lệ
thuộc một quốc gia nào khác.
2.
Nếu chúng ta muốn có độc
lập, chúng ta phải tạo ra sức mạnh
quốc gia thích ứng.
3.
Nếu chúng ta muốn có sức
mạnh quốc gia, nhân dân phải (được)
đoàn kết lại trên phạm vi toàn
quốc.
4.
Nếu chúng ta muốn có sự
đoàn kết (thống nhất) cho cả quốc
gia, chúng ta phải tạo ra sự tuân thủ
phổ quát trước chính quyền.
5.
Nếu chúng ta muốn nhân dân
đi theo chính quyền, chính quyền phải
áp dụng những lý thuyết lấy từ
tất cả các tầng lớp của quốc
gia. Không được phép trung thành
với những cách lý luận một
chiều. [Nói nôm na: phải làm sao cho
các chính sách của chính quyền
đại diện được quyền lợi
chung rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân, chứ không được tự
tiện thực hiện những lý thuyết
xa lạ, một chiều. Người viết.]
Những điều khôn ngoan này
chưa thấy ở Việt Nam trong thời bình. Ngược
lại. Đoàn kết không thể diễn
ra dưới sự độc tôn ý tưởng,
đặc biệt khi ý tưởng đó
không đáp ứng nguyện vọng đích
thực của các tầng lớp nhân dân,
mà cần phải có sự chia
sẻ với nhân dân.
Bao lâu không có sự chia sẻ này,
những lời hô hào đoàn kết
sẽ vô hiệu. Vì lý do: đoàn
kết dưới một sự độc tôn
ý tưởng vô hình trung chấp nhận
sự độc tôn ý tưởng đó,
trong khi người khác không được
lắng nghe, cho nên họ sẽ không mặn
mòi. “Một khi một cái nhìn
lịch sử trở thành giáo điều
mệnh lệnh, thì con người sẽ mất
đi tự do tư duy và tự do hành
động” như một học giả Nhật
Bản viết (Nagai Michio). Nói khác đi,
dưới sự độc tôn của tư
tưởng có tính cách giáo điều,
xã hội và con người bị tê
liệt.
Thực tế Nhật Bản đã
tạo ra một bộ máy hành chánh
mạnh cho cuộc canh tân, gồm những người
có tinh thần khai sáng, am hiểu thời
cuộc và nhiệm vụ tối cao của
quốc gia để tránh sụp đổ như
các nước lâng bang. Họ không áp
dụng những lý thuyết xa lạ, mà
đáp ứng quyền lợi thiết thân
của các tầng lớp rộng rãi của
nhân dân, đặt quyền lợi quốc
gia lên thành tối thượng. Điều
này cũng giống Phổ: Phổ có bộ
máy hành chánh gồm những người
có học, có tinh thần khai sáng; cuộc
cải cách của Phổ được mệnh
danh là “cuộc cách mạng từ
trên”. Ở Nhật Bản cũng thế.
Cuộc canh tân Nhật Bản là một
cuộc khai sáng vĩ đại
của lịch sử quốc gia này.
Về mặt tri thức.
Năm 1869, Itō
Hirobumi (1841-1909), xuất thân
từ giai cấp samurai, người có công
lớn nhất trong việc xây dựng nhà
nước hiện đại đầu tiên
của Nhật Bản, và là thủ tướng
đầu tiên (và ba nhiệm kỳ sau,
không liên tiếp), đã nộp cho
triều đình một bản đề cương
cho chính sách phát triển đất
nước, cũng là một bản thiết
kế sáng sủa cho một đại học
quốc gia mới. Điều
5 trong đó nói như
sau:
Điều 5:
Chúng ta phải đưa dân tộc Nhật
tiếp xúc với học thuật của mọi
quốc gia của thế giới, và tăng
thêm tri thức về các ngành khoa học
tự nhiên một cách đáng kể
…Chúng ta đang có một cơ hội
hiếm hoi để đổi mới các khái
niệm lỗi thời cho đến nay là di
sản của quốc gia vĩ đại chúng
ta từ nhiều thế kỷ qua; và mở
rộng sự hiểu biết chúng ta về
thế giới hiện đại. Nếu chúng
ta thất bại trong thời điểm quyết
định này của lịch sử trong việc
trang bị chúng ta toàn diện với ghệ
thuật và khoa học ứng dụng của
thế giới còn lại, chúng ta sẽ
bị cầm tù trong một sự ngu dốt
vô hình không nghe thấy. Vì thề
chúng ta phải thiết lập một đại
học và thay đổi quyết liệt các
phương pháp của sự học mà
chúng ta đã tán thành và theo
đuổi cho đến nay. Hoàn toàn phù
hợp với tinh thần đại học, chúng
ta phải biến các thị dân cũng như
nông dân thành những công dân
hiểu biết.
Xin được kể tiếp
câu chuyện. Itō
ý thức sâu sắc rằng Nhật Bản
đang lạc hậu rất xa so với thế
giới, trước nhất về các môn
khoa học, kỹ thuật. Đại học sẽ
có nhiệm vụ lấp lỗ hổng đó.
Nhưng nhìn quanh ông thấy Nhật Bản
không có một cơ sở nào có
thể phục vụ các mục đích
của đại học, trừ cái văn
phòng dịch thuật các tài liệu
học thuật tiếng nước ngoài: Anh,
Pháp, Đức, Hà Lan. Đầu tiên
văn phòng đó được thành
lập năm 1684 dưới thời Mạc phủ,
chủ yếu dịch các tài liệu về
thiên văn (để làm lịch) và
y khoa. Viện dịch thuật này liền được
xây dựng thành đại học Tokyo
Kaisei Gakko, bây giờ là đại học
Tokyo. Nhiệm vụ cốt lõi của giới
trí thức Nhật Bản là đưa
tri thức của phương Tây vào Nhật
Bản. Đại học có quy chế độc
lập tự chủ tương đối để
hoạt động hữu hiệu. [Sau thế chiến
thứ II, tự do hàn lâm Nhật Bản
mới có bước phát triển qui mô
hơn]
Lãnh đạo Nhật Bản đã
đặt tri thức và học hỏi tri thức
đó từ phương Tây lên hàng
đầu trong cuộc canh tân đất nước.
Việt Nam đã không may rơi vào
thái cực khác. Cuộc chiến tranh chống
thực dân đế quốc để giành
độc lập từ từ tiến hóa
thành cuộc chiến tranh chống cả phương
Tây. Cho nên lãnh đạo Việt Nam không
mặn mòi với văn hóa phương
Tây, và cũng không mặn mòi với
tri thức có hiểu biết văn hóa
phương Tây. Đó là bi kịch
của Việt Nam. Việt Nam đã đi lộn cửa. Cái
gì có hơi hám học thuật phương
Tây đều bị từ chối, hay nặng
hơn: lên án. Trí thức, những
người tiếp thu khoa học và ít
nhiều văn hóa phương Tây vì
thế không được trọng dụng là
hệ luận tất yếu. Lãnh đạo
Việt Nam không ý thức được nguồn
gốc sức mạnh phương Tây như
các giới lãnh đạo bushi
(võ sĩ) và thượng lưu của
Nhật Bản đã ý thức. Các
giai tầng này cũng muốn bảo vệ vị
trí xã hội của mình, nhưng
không phải bằng những ý thức hệ
trái chiều, mà bằng cuộc canh tân
đất nước theo hình ảnh phương
Tây. Các nước phong kiến châu Âu
sau khi bị Napoléon đánh sập cuối thế
kỷ 18 đầu thế kỷ 19 cũng phải
đứng dậy canh tân đất nước
theo mô hình của cách mạng Pháp.
[Trừ Nga là kẻ thắng trận, và
tự hào không thấy nhu cầu cải
cách, làm cho căn bệnh nội tại
của xã hội dây dưa kéo dài
đến đầu thế kỷ 20.] Những nhà
cải cách Nhật Bản, đặc biệt
Fukuzawa Yukichi, đã nhìn thấy chính
khoa học và kỹ thuật, máy hơi
nước, điện tín, bưu điện,
kỹ thuật in…, và lực lượng
sản xuất lành nghề, đã thay đổi
dòng lịch sử của lục địa
châu Âu, đã biến đổi cả
phương Tây căn bản. Nhật Bản
không thể đi khác. [Và ngày nay
Trung Quốc cũng không đi khác] Không
có khoa học, kỹ thuật, không thể
có sự phồn vinh cho quốc gia.
Các
nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay
chưa am hiểu vai trò cực kỳ to lớn
của cuộc Cách mạng khoa học và
công nghệ đã từng diễn ra và
làm thay đổi căn bản bộ mặt
thế giới. Đó là những cuộc
cánh mạng không đổ giọt máu
nào mà chỉ đem lại sự phồn
vinh cho xã hội. Cho nên, không thể có
sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
và bền vững, sự phồn vinh quốc
gia hãy còn xa vời. Trí thức, khoa
học công nghệ, không được đầu
tư để tác động, hay làm đầu
tàu cho một cuộc chuyển biến. Giới
trí thức mà bị buộc chân, không
được nuôi dưỡng và sử
dụng đúng chỗ, thì cỗ xe kinh tế
sẽ ì à ì ạch, con đường
dẫn đến phồn vinh và hạnh phúc
của dân tộc sẽ dài ra vô tận.
***
Trở lại cuốn sách của
Tsuboi. Nhà văn Nguyên
Ngọc có viết Lời Bạt, tôi xin
đăng lại phần dưới đây
(trích từ thông báo của ĐH Hoa
Sen):
“Cuốn sách này, xuất
phát từ một luận án tiến sĩ
của Yoshiharu Tsuboi
bảo vệ tại Đại học Paris năm
1982, được dịch ra tiếng Việt lần
đầu năm 1990, tái bản ở Việt
Nam đến nay là lần thứ tư. Ở
nước ta trường hợp tái bản
khá dày của một cuốn sách
nghiên cứu lịch sử như vậy không
phải là nhiều. Cho nên tự nhiên
có một câu hỏi: Tại sao? Chắc có
nhiều cách trả lời.
Cách chọn thời điểm để
nghiên cứu về lịch sử cận đại
Việt Nam của tác giả hẳn là một
trong những lý do. Đấy là thời
điểm có thể nói nghiêm trọng
nhất trong số phận tồn vong của các
dân tộc phương Đông khi phải
đối mặt với một thế giới
trước đó hoàn toàn xa lạ:
phương Tây của chủ nghĩa tư bản
đang lên. Đúng ra, không chỉ “chủ
nghĩa tư bản”, còn là một
nền văn minh, một nền văn hóa,
thậm chí một thời đại hoàn
toàn khác lạ. Trong cuộc giáp mặt
quyết liệt ấy, chỉ duy nhất có
Nhật Bản thành công, trong khi tất cả
các dân tộc khác, theo nhiều kiểu
khác nhau, đều thất bại, tất cả
đều ê chề, và hậu quả của
thất bại ấy cũng theo kiểu này
kiểu khác vẫn còn dấu vết trong
các xã hội đó cho đến tận
bây giờ. Vì vậy việc người
ta muốn chăm chú lắng nghe tiếng nói
của một người Nhật là đương
nhiên. Đấy là người có đủ
tư cách, có chỗ đứng cao và
xứng đáng hơn cả để có
thể, qua so sánh toàn thể và cụ
thể, tức tại thời điểm lúc
bấy giờ và cả từ quá khứ
sâu thẳm lâu dài, nhìn thấy
nguồn gốc của tai họa mà các
dân tộc khác đã không thể
tránh được. Riêng đối với
Việt Nam, tôi nghĩ, câu hỏi này
vẫn còn đau đáu, thậm chí
có thể còn rất thời sự.
Bởi hình như có một, hay một số
điều gì đó trong những nguyên
nhân nguồn gốc kia mà cho đến nay
ta vẫn còn lướng vướng chưa
vượt qua được hẳn. Ta muốn
lắng nghe Tshuboi, để mà nghĩ lại,
nghĩ lại nữa, và tiếp tục suy
ngẫm tới, cả cho hôm nay, và ngày
mai.
Và Tshuboi đã không
phụ lòng người đọc. Khác
với tất cả các tác giả trước
đó, và cả sau này nữa, như
chính ông nói, ông không nhìn
Việt Nam “với tính chất một thực
thể chính trị mà là một bản
thể xã hội”.
Nói một cách hình ảnh, ông cố
tìm hiểu cái đất nước và
xã hội này đến trong nội tạng
sâu xa và cơ bản nhất của nó,
ông tìm đến cái “tạng”
của nó, từ bên trong, cái bên
trong ấy với tất cả cấu tạo cơ
bản và lịch sử lâu dài của
nó, tất yếu phải phản ứng lại
với các thách thức đến từ
bên ngoài nhất thiết theo cách như
thế, chứ nhất thiết không thể
khác; và kết quả, hậu quả như
đã diễn ra cũng nhất thiết đương
nhiên là thế, như “định
mệnh”.
Và Tshuboi đã thành công tuyệt
vời trong công việc giải phẫu và
mô tả cơ bản này. Đọc cuốn
sách này thậm chí nhiều lúc
có thể nghĩ không biết mình đang
đọc một thiên lịch sử, một
công trình nghiên cứu khoa học, hay
một cuốn tiểu thuyết? Sự chính
xác lịch sử là mẫu mực. Phân
tích khoa học chặt chẽ, tinh vi, tinh tế,
đầy thuyết phục. Mà cũng lại
sinh động, chân thực biết bao, cụ
thể, chân thực biết bao những chân
dung con người, như những nhân vật
tiểu thuyết, vừa là những sản
phẩm tất yếu của thời đại
mình, xã hội mình, vừa là
những tính cách cá biệt, rõ
rệt, sừng sững, mạnh mẽ, với số
phận riêng, khát khao, ước vọng,
và tham vọng riêng. Cả đến nhân
vật đứng đầu trong những nhân
vật anh hùng và bi đát ấy, Tự
Đức, người tù vùng vẫy
tuyệt vọng với số phận riêng đã
bi đát lắm của mình, lại phải
vùng vẫy càng tuyệt vọng với số
phận bi đát nghìn lần hơn của
xã hội mình. Có lần, tôi đã
có dịp tìm hiểu về thái độ
của triều đình Huế trước
cuộc tấn công của quân Pháp vào
Đà Nẵng hồi 1858. Tôi ngạc nhiên
nhận ra rằng thái độ ấy, đặc
biệt của Tự Đức, không hề là
một thái độ bạc nhược, hèn
yếu như trước đó – và
cả cho đến nay – ta vẫn thường
nghĩ. Trái lại, rất cương quyết.
Mỗi trận thua, mỗi vị trí bị
mất, mỗi tổn thất không đáng
có, mỗi hành động trù trừ,
giao động, cho đến đại tướng
anh hùng như Lê Đình Dương,
cả đến vị tướng tài năng
nhất và sáng suốt nhất thời bấy
giờ là Nguyễn Tri Phương, và tất
cả các cấp tướng sĩ đều
nhất loạt bị trừng trị nặng nề,
thay thế, bổ sung kịp thời. Tiếp tế,
hậu cần, cùng tất cả các chính
sách và các biện pháp hộ trỡ
cho tiền tuyến đều hết sức năng
nổ. Cuộc chiến đấu thật sự
anh hùng và sự chỉ đạo, chỉ
huy của triểu đình hết sức tích
cực …Vậy mà vẫn thất bại
và thất bại tất yếu là ở
trong cái mà Tshuboi gọi rất chính
xác là “bản thể” của cái
xã hội ấy. Hẳn không phải ngẫu
nhiên mà tác giả viết công
trình nghiên cứu này của mình
gần như dưới dạng một tiểu
thuyết. Chỉ một cách viết như vậy
mới bộc lộ được hết cái
căn bệnh thâm căn và chí tử
của xã hội và đất nước
đã triệt tiêu hết mọi sức
đề kháng của nó, dẫn nó
đến cái chết bi tráng không thể
khác. Có lẽ phải chờ cho đến
một đầu óc sáng chói như
Phan Châu Trinh mới là người đầu
tiên thấy ra và gọi đúng tên
căn bệnh ấy. Hoàng Xuân Hãn nói
rằng Phan Châu Trinh là người đầu
tiên đi tìm và đã tìm ra
nguyên nhân mất nước thê thảm
không phải ở đâu khác mà
là “trong văn hóa”. Nghĩa là,
nói cách khác, trong cái ý thức
hệ cầm tù xã hội, trói chặt
hết mọi năng lượng của nó,
đánh gục nó không phương cứu
chữa. Cái ý thức hệ đã
khiến xã hội Việt Nam lạc hậu
hơn đối thủ của mình cả một
thời đại. Những người đã
đổ gục xuống lúc bấy giờ là
những người anh hùng đã lạc
thời đại. Phan Châu Trinh thống thiết
kêu gọi Khai dân trí, Chấn dân
khí, để rồi Hậu dân sinh. Ông
kêu gọi một cuộc vượt thoát
ý thức hệ, một cuộc chấn hưng
dân tộc, một cuộc cách mạng văn
hóa theo nghĩa sâu nhất và đúng
nhất của nó.”
10.9.2011
Nguyễn Xuân Xanh