Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 113
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24129
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 1:19pm
Hai Thâu nhìn nồi cháo lòng heo, lấy tay xoa bụng, nói:

-“Chị Tám làm ơn cho tôi một tô cháo lòng heo đặc biệt nghe, ăn no tới chiều luôn! Thấy thằng Dũng Lai, sao tui nhớ thằng Tom, cháu ngoại của quá!”.

Dì Tám vừa múc cháo ra tô, vừa hỏi:

-“Hỏi thiệt chú Hai, đừng nói tui tò mò nghen! Vợ con của chú Hai ở đâu? Chú Hai có tuổi, lại còn tàn tật nữa, sống độc thân như vầy mãi không phải cách đâu, chú Hai ơi! Trưa cháo, chiều bánh mì làm sao thọ được chớ!”

Hai Xuân bèn kể cho dì Tám một khoảng đời lầm lạc của mình, để rồi phải tha phương cầu thực, đi biệt xứ như ngày hôm nay. Dì Tám lắc đầu, khuyên:

-“Thôi mà, chú Hai! Tui nghĩ chú mà trở về quê nhà, chắc thím nó không hờn trách chi đâu. Thánh nhân còn mắc lổi lầm huống là con người ta. Một lời xin lổi muộn màng, chắc vợ và con cháu cũng không hẹp lượng đâu! Chú Hai nghĩ lại đi, nghe lời nói của tui có đúng không? Vả lại năm cũ sắp hết, Tết nguyên Đáng năm Mậu Thìn (1988) sắp đến nơi rồi, ngày mốt là 23 tháng chạp là ngày cúng đưa ông Táo về trời. Đây là cơ hội đoàn tụ gia đình tốt nhứt đó, chú Hai!”

-“Cám ơn chị Tám, nhưng ngặt một nỗi,” Hai Xuân lắc đầu, nói. “Tôi bỏ nhà ra đi gần 13 năm trồi. Bây giờ tui thân tàn ma dại, tàn phế, áo quần lam lũ, mặt mũi nào trở về ăn bám vợ con hả, chị Tám?”

-“Chuyện nầy giải quyết dễ thôi, để tui giúp chú được mà,” dì Tám nói. “Chút nữa, chú Hai theo tui về nhà, tui còn mấy bộ đồ cũ của ông nhà tui để lại. Hy vọng chú sẽ mặc vừa khít. Tôi tặng cho chú vài chục bạc để mua vé xe đò về quê, biết đâu thím Tám còn chờ chú trở về thì sao?”

Hai Xuân ngạc nhiên, hỏi:

-“Sao tui không hề thấy ổng gánh hàng ra đây phụ với chị một tay vậy, chị Tám?”

-“Ổng là lính thuộc Trung đội Địa Phương Quân có nhiệm vụ trấn giữ đảo Hoàng Sa. Khi bọn giặc Tàu xâm lược đổ bộ lên đảo đông như kiến. Nghe chiến hữu của ổng sau nầy kể lại. Ổng đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi dùng lưỡi lê đâm họng tự sát, nhứt định không đầu hàng giặc Tàu Ô!” chị Tám nói. “Ổng chết hiên ngang, oai hùng lắm; vì vậy, tui ở vậy thờ ổng cho tới bây giờ.”

Hai Xuân ái ngại, hỏi:

-“Ảnh là lính Việt Nam Cộng Hòa, còn tui là lính Việt Cộng, chị không thù ghét gì tôi sao, chị Tám?”

-“Thôi, đừng nhắc tới chuyện hận thù nữa, cha nội!” chị Tám có vẻ bực mình, gắt. “Chú Hai là kẻ lầm đường lạc lối đi theo bọn Việt Cộng được cái con mẹ gì chớ? Tui chấp nhứt với chú làm gì, có đúng không?”

Hai Xuân thở dài, nói:

-“Tui đã sáng mắt từ khuya rồi, chị Tám à!”

-“Chưa hết đâu, chú Hai! Rồi đây, chú sẽ biết dân tộc mình, đất nước mình, gia đình chúng ta và bản thân của chú sống ra sao dưới hai tầng áp bức, bốc lột giữa bầy giai cấp lãnh đạo lang sói, buôn dân, bán nước cho bọn giặc Tàu Cộng xâm lược. Bọn chúng sẽ cấu kết với nhau sẽ còn cướp đi nhiều thứ nữa đó!” chị Tám nói. “Thôi, bây giờ chú đi từ giã vợ chồng chú Hoàng đi, rồi lo thu xếp đồ đạt là vừa. Chút nữa, chú Hai theo tôi về nhà lo sửa soạn hành trang để sáng sớm mai lên đường trở về Vĩnh Long đoàn tụ gia đình. Tối nay, tui qua nhà người em họ ngủ qua đêm với nó.”

Hai Xuân thật sự cảm động, nói:

-“Cám ơn chị Tám nghe! Tấm lòng chị thật quảng đại và vị tha!”

Cả đêm, Hai Xuân thao thức không ngủ được, vừa hồi hộp, vừa mừng, vừa lo không biết những gì sẽ xảy ra khi đối diện với vợ con? Vợ mình có chấp nhận tha thứ những lời nói bạc ác của mình ngày xưa không? Hai Xuân mệt mõi, chợp mắt được một lúc thì trời vừa rạng đông. Chị Tám đã trở về nhà, đánh thức Hai Xuân dậy, nói:

-“Chú Hai ơi! Dậy ăn sáng rồi chuẩn bị lên đường là vừa. Ngày Tết Nguyên Đán sắp đến, mua vé xe đò về miền Tây không phải dễ dàng đâu. Có khi chen lấn cả ngày mới mua được vé đó, chú Hai! Thôi, bây giờ tui phải gánh cháo lòng ra chợ trước để kịp bán cho chuyến phà đầu tiên. Tui phải đi trước đây!”

Hai Xuân lật đật thức dậy, sắp xếp hành trang trong cái ba lô xong, đã thấy một tô cháo lòng còn nóng hổi, bốc khói thơm phức, một tách trà và vài chục bạc để sẵn trên bàn gỗ tạp. Hai Xuân ăn sáng vội vã, rồi xách túi hành trang gọn nhẹ, đi bộ ra bến phà. Trong khi chờ đợi chuyến phà đầu tiên rời bến, Hai Xuân đến chào từ giã chị Tám và vợ chồng người bạn trẻ. Hoàng chuẩn bị sẵn vài chục bạc, nhét vào túi áo bạn, nói:

-“Anh Hai giữ vài chục bạc nầy để đi đường. Sắp Tết Nguyên Đán, mọi người đều đổ xô về quê ăn Tết, vé xe đò có khi phải mua chợ đen, mắc gấp 3, 4 lần giá chánh thức.”

-“Anh xin cám ơn vợ chồng chú Hoàng nghe! Hy vọng sẽ có dịp trở lại nơi nầy một ngày gần đây để đền ơn, đáp nghĩa những người bạn tốt bụng ở đây. Bên thềm năm mới, xin chúc hai em buôn may, bán đắt, an khang, thịnh vượng. Xin chào tạm biệt!” Bỗng nghe tiếng còi phà rúc lên từng hồi, chuẩn bị rời bến. Hai Xuân theo đoàn người xuống phà, đứng trên boong tàu, ngậm ngùi vẫy tay chào tạm biệt những người thân quen…

*
Khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, Hai Xuân trở lại bến đò cù lao Tân Phong sau 13 năm xa cách. Hắn chống đôi nạn gỗ đi về tới nhà với tâm trạng lo âu khi đối diện với vợ con, không biết phải ăn nói ra làm sao đây? Đang đứng tần ngần trước căn nhà năm xưa, chưa kịp lên tiếng gọi thì bất ngờ một chó từ trong nhà phóng ra, lần nầy không con chó phèn ra mừng hắn trước đây mà là một con chó béc - giê to lớn, gầm gừ chồm lên người Hai Xuân làm hắn té bò càn dưới đất; thời may, một tên bộ đội mặc quân phục chỉnh tề, đầu đội nón cối, với quân hàm ba sao, hai gạch vàng trên cái nền đỏ và đeo lủng lẳng bên hông một khẩu K-54. Với giọng hách dịch, tên nầy hất hàm, hỏi:

-“Muốn tìm ai ở đây, hử?”

“Sự cố” xảy ra bất ngờ quá, Hai Xuân thật bối rối, ấp a, ấp úng, nói:

-“Thưa đồng chí, tôi muốn gặp người chủ căn hộ nầy ở đây!”

-“Thằng nầy láo nhỉ! Ai là là đồng chí của mi chứ?” hắn trợn mắt, quát như tát nước vào mặt Hai Xuân, rồi nói tiếp. “Tao là chủ căn hộ nầy đây! Tao không biết mi là ai cả! Cút xéo đi ngay cho khuất mắt!”

Hai Xuân bẽn lẽn, quay lưng đi ra ngoài đường. Lúc bước qua cây xi măng bắt qua con mương, Hai Xuân quay lại nhìn hàng dừa lửa còn bám đất bên cạnh căn nhà đó. Bỗng Hai Xuân thấy bóng một người đàn bà ngồi rửa chén bát trên cái sàn nước, dáng ai sao giống dáng vợ mình quá. Sợ bị chó béc giê vồ, Hai Xuân bèn cập đôi nạn vào nách, nhảy ùm xuống nước, lội bì bõm dưới mương về phía cái sàn nước.

Đang tháo cái khăn rằn quàng cổ, lau mấy mồ hôi trên gương mặt. Bỗng nghe tiếng gọi từ dưới sàn nước vọng lên:

-“Bông! Có phải bà đó không, Bông?”

Bà ta đang lau mặt, bỗng đâu nghe tiếng ai ở dưới nước gọi vọng lên, tưởng đâu hà bá gọi mình, bà ta sợ xanh mặt, nói:

-“Phải, tôi là Bông…Bông đây! Ai gọi đó… đừng làm tui sợ nghen!”

Nghe đúng là tiếng vợ mình rồi, Hai Xuân mừng quá, ôm cây cầu dừa bò lên, nói:

-“Tui là Hai Xuân đây! Không phải là hà bá đâu, đừng sợ, má con Thu!”

-“Trời đất ơi! Ông Hai Xuân thiệt đó hả? Nội mẹ ơi! Sao ông ra nông nổi nầy nè trời!”

-“Chuyện còn dài dòng lắm,” Hai Xuân nói. “Bà làm ơn, nắm cái đầu nạn gỗ, kéo tôi lên coi, má con Thu!”

Thấy chồng trở về quá bất ngờ, vợ Hai Xuân chết sững, chưa nói được lời nào mà hai hàng nước mắt tuôn như mưa. Còn Hai Xuân cũng ôm chặt vợ vào lòng, nói trong nghẹn ngào:

-“Tôi bây giờ thiệt sự ăn năn, hối hận lắm rồi, bà ơi! Phải chi lúc trước tôi nghe lời bà thì đời tôi đâu đến nỗi thân tàn ma dại như vầy!”

Vợ Hai Xuân cay đắng, hỏi:

-“Sao, thân thể ông ra nông nổi nầy, vậy ông Hai Xuân?”

Hai Xuân uất ức, nói:

-“Tôi bây giờ đã là phế nhân, như một trái chanh bị vắt hết, nước bỏ vỏ. Một phần cái ống quyển của cái chân trái tôi đã để lại trên chiến trường Campuchia và bệnh thấp khớp hành hạ thân xác, đau nhức kinh niên,” Hai Xuân đau khổ, hỏi. “Còn bà, tại sao bà lại ra nông nổi nầy? Phải bán nhà, đem thân ở đợ cho tụi cán bộ cộng sản Bắc Việt vậy bà? Còn con Thu và con của nó đâu cả rồi?”

Vợ Hai Xuân khóc, kể:

-“Sau khi ông giận bỏ nhà ra đi được có mấy năm, con Thu dẫn thằng Tom vượt biên vào dịp Tết Nguyên Đán Quí Hợi (1983) để cha con, chồng vợ đoàn tụ với nhau ở bên Mỹ. Bọn cán bộ chánh quyền địa phương vịn vào cớ đó tịch biên hết nhà cửa, ruộng đất, máy cày do con Thu đứng tên. Tôi phải năn nỉ hết nước miếng, tụi nó mới cho tôi cất cái chòi lá sau đụt vườn, nuôi bầy heo cho con vợ của nó, để chờ đợi cái ngày ông hồi tâm trở về đây, còn biết tui ở đâu mà tìm.”


-“Tên cán bộ cộng sản cao cấp chủ căn hộ nầy mà tôi gặp hồi nãy là ai vậy? Bà biết không?

-“Nghe nói hắn là cán bộ cao cấp gì đó ở trên tỉnh nên hắn có quyền chiếm đoạt cái nhà của con Thu làm của riêng,” vợ Hai Xuân cười mỉa mai, hỏi. “Sao, bây giờ ông sáng con mắt chưa vậy, ông Hai Xuân?”

Hai Xuân nghe vợ hỏi, gục mặt xuống đất, che dấu sự xấu hổ, nói:

-“Chuyện đã dĩ lỡ rồi! Không có dại nào, giống cái dại nào, nhắc lại làm gì cho thêm đau lòng, xót của. Bây giờ, bà tính làm sao đây?”

-“Còn tính gì nữa! Tôi thề với lòng là khi nào gặp được ông, tôi sẽ rời khỏi nơi đây ngay lập tức. Mỗi ngày gặp mặt bọn ăn cướp nầy là tôi tức ói máu. Tôi còn cái ghe tam bản neo dưới mương để chờ ông về.” Vợ Hai Xuân dứt khoát, nói. “Thôi, ông vứt cái ba lô xuống ghe trước đi, đứng đây chờ một chút. Tôi lên nhà nói cho chúng nó biết, rồi túm hết quần áo, đưa ông xuống ghe. Vợ chồng mình sẽ đi về vùng đất mới làm lại cuộc đời.”

Khi vợ Hai Xuân chèo chiếc ghe tam bản đưa chồng ra giữa dòng sông Cổ Chiên. Hai Xuân nhìn vợ, hỏi:

-“Mình định đưa tôi đi đâu đây?”

Vợ Hai Xuân còn tức, nói móc:

-“Đi theo cách mạng “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào” chớ đi đâu mà hỏi!”

Hai Xuân phải xuống nước nhỏ, nói:

-“Thôi mà, bà còn nhắc lần nữa là tôi nhảy xuống dòng sông nầy, tự vận cho bà coi!”

-“Dám không đó, cha nội?” vợ Hai Xuân cười, nói. “Chọc ông chơi vậy thôi! Tôi thấy mình mà cố sống bám ở đây thì sẽ lâm vào thế “tiến thoái lưỡng nan”, chi bằng “tiến về nội, thoái về ngoại” hay hơn. Tôi đưa ông về quê ngoại của tôi ở Cù lao Dung sống qua ngày. Căn nhà hương quả của ông bà để lại, tuy là ngôi nhà cổ, nhưng cũng che mưa nắng cho hai vợ chồng mình sống cho tới hết tuổi già mà.”

-“Trời đất ơi! Chèo chiếc nầy từ sông Tiền xuôi dòng về gần cuối dòng sông Hậu, sức đâu mà bà chịu cho thấu chớ, má con Thu?” Hai Xuân nói.

Vợ Hai Xuân vừa cheo ghe, vừa nhìn chồng đang ngồi trước mũi ghe, nói:

-“Vợ chồng mình bây giờ đã đoàn tụ rồi! Vợ chèo, chồng chống cùng tương trợ với nhau để đối phó sóng gió cuộc đời, khó khăn nào mình cũng nhứt định sẽ vượt qua! Sóng to gió lớn của dòng sông nầy mà nhằm nhò gì, mà ông phải hứa tôi là không bỏ tôi đi nữa, nghe ông!”

Hai Xuân cười, nói:

-“Mụ nội tôi cũng không dám bỏ bà đi nữa đâu! Lỡ ngu đi theo cách mạng một lần mà thân thể bầm dập, te tua đủ tởn tới già rồi! Bây giờ, chỉ có mấy thằng ngu ngốc mới nghe lời bọn cộng sản nói, phải không bà?”

Vợ Hai Xuân nói:

-“Biết như vậy thì đủ rồi!”

Một cơn gió bấc lạnh lùng lướt qua trên sông Tiền, thấy chồng ôm ngực ho sù sụ. Vợ Hai Xuân bèn cỡi cái áo ấm đang mặc trên người, dừng tay chèo, đi ra trên mũi ghe khoát lên người Hai Xuân, nói:

-“Ông mặc cái ấm nầy cho đở lạnh! Tôi chèo ghe một hồi là nóng ran cả người, không cần mặc áo lạnh nầy đâu.”

Hai Xuân cảm động nắm tay vợ, nói:

-“Phải chi hồi đó, tôi nghe lời bà thì đâu đến nổi thân tàn ma dại như thế nầy.” Hai Xuân mở cái ba lô lấy cái nón cối, quăng xuống dòng sông Tiền, rồi thẫn thờ nhìn cái nón cối trôi bập bềnh trôi trên dòng sông Cổ Chiên rồi ngao ngán thở dài. Hai Xuân đã tìm thấy đáp số sau bao nhiêu năm đi làm cách mạng, chống Pháp rồi chống Mỹ cứu nước, ân hận nói. “Tất cả chỉ là lừa bịp!”

*
Quá xế chiều, nhờ con nước ròng chảy ra biển, Vợ Hai Xuân khi chèo tới ấp Thủ Sau gần Cồn Nghêu, cách cửa Cổ Chiên vài cây số thì đuối sức bèn nói với chồng:

-“Tối nay, mình cắm sào tại ấp Thủ Sau ngủ qua đêm, sáng mai mình tiếp tục đi tiếp. Ông nghĩ sao?”

-“Vậy cũng được, mình cắm sào cạnh hàng cây bần ngủ qua đêm cũng được,” Hai Xuân hỏi. “Trên ghe có gì ăn không bà?”

-“Đi gắp quá, quên mang theo nồi thịt kho,” vợ Hai Xuân nói. “Ông bắt dùm tôi nồi cơm, tôi nghỉ mệt chút xíu rồi đi vô ấp, hỏi mua một con gà, vài xị đế ăn mừng ngày vợ chồng mình đoàn tụ nghe ông.”

Hai Xuân gật đầu và buồn vì cảm thấy mình vô dụng quá, ngay cả việc giúp vợ một tay chèo mà cũng không làm được, bèn nói với vợ:

-“Sắp Tết rồi, chắc nhà nào cũng gói bánh tét để cúng tổ tiên. Bà mua vài đòn để dành ăn đi đường xa là được rồi. Nấu nướng làm gì cho cực thân!”

Vợ Hai Xuân nói:

-“Phía trước mặt, có mấy căn nhà lá nằm dọc bờ sông Cổ Chiên, tôi tấp ghe vào cây cầu ván. Ông chờ tôi dưới ghe, còn tôi lên bờ kiếm hỏi mua thức ăn nghe!”

Cắm sào xong, Hai Xuân múc nước sông vo gạo, nấu cơm. Bông nghỉ mệt một lát rồi đi lên bờ. Đứng trước một căn nhà lá nghèo xác xơ nhìn vô, thấy đôi vợ chồng trẻ và đứa con trai kháu khỉnh đang quây quần bên mâm cơm chiều. Vợ Hai Xuân rất ngưỡng mộ, bà thèm khát cảnh vợ chồng con cái đoàn tụ bên mâm cơm chiều ấm cúng như thế nầy từ lâu lắm rồi, nhưng bây giờ đã ngoài tầm tay, đứa con gái và thằng cháu ngoại đã cao xa chạy khỏi thiên đường xã hội chủ nghĩa u ám từ lâu rồi. Thấy người lạ mặt đứng lảng vảng ngoài sân, người chồng lật đật buông đũa, bước ra ngoài sân chào, hỏi:

-“Bác gái muốn tìm ai ở vùng nầy?”

-“Vợ chồng tôi đi lỡ độ đường! Xin phép cháu cho tôi cắm sào, ngủ qua đêm trên bến nước trước nhà, được không cháu?”

-“Dạ được, chuyện dễ thôi mà,” cậu ta ân cần, hỏi. “Hai bác đã ăn uống gì chưa? Sẵn bữa cơm chiều, cháu mời hai bác lên dùng cơm chiều với gia đình cháu.”

-“Cám ơn cậu! Chồng tôi bị tật guyền, cụt mất chưn trái trong thời kỳ chiến tranh nên không đi lên bờ được,” vợ Hai Xuân không khách sáo, nói. “Xin cậu nhường cho tôi một lít gạo và một con gà để ăn mừng ngày vợ chồng tôi đoàn tụ. Hôm nay là ngày đầu tiên đó cậu.”

Cậu ta nói:

-“Xin mời bác gái vô nhà trước, để cháu cõng bác trai lên nhà cho.”

Nói xong, cậu ta không chờ vợ Hai Xuân trả lời, vội vàng đi xuống bến nước, cõng Hai Xuân đi lên bờ, tự chống nạn theo mình vào nhà.

-“Xin lổi cậu em tên gì để vợ chồng tôi tiện xưng hô cho phải phép. Thời buổi bây giờ, ít thấy người nào tử tế, hiếu khách như vợ chồng cháu đây!” bà tự giới thiệu. “Ông nhà tôi tên Hai Xuân, còn tôi tên Bông.”

-“Có gì đâu, bác gái! Xin gọi cháu là Việt được rồi mà,” Việt quay sang vợ, giới thiệu luôn. “ Vợ cháu tên Hiếu, còn con cháu tên Dũng, Tết nầy được 3 tuổi đời.”

Hiếu gật đầu chào vợ chồng Hai Xuân, nói:

-“Nhà tụi cháu chẳng mấy khi có khách đến chơi, nhà cửa hơi bề bộn. Nếu hai bác không chê, xin hai bác ngủ qua đêm trong nhà cháu. Vì mùa nầy gần Tết, trời trở gió bấc, ngủ dưới ghe lạnh lắm đó.”

-“Cháu nghe bác gái nói, hôm nay là ngày đầu tiên bác trai đoàn tụ gia đình. Bác gái muốn mua con gà và một chai rượu đế để mừng bác trai trở về,” Việt hỏi. “Tụi cháu xin mời hai bác dùng bữa cơm chiều đạm bạc trước. Cơm nước xong, cháu sẽ đi bắt gà làm thịt đãi hai bác một nồi cháo khuya, ý hai bác thế nào?”

Vợ Hai Xuân cảm động, nói:

-“Thôi, khỏi đi cháu, bữa cơm chiều tình nghĩa nầy làm tôi thiệt cảm động; như vầy là đủ lắm rồi rồi, cháu Việt à.”

-“Bữa cơm nầy đối với tôi quá thịnh soạn rồi,” Hai Xuân nói. “Cà tím nướng mở hành, tép rang và nồi canh bầu. Hồi chiến tranh để có một bữa ăn như vầy, không phải dễ đâu!”

Vợ Việt nói:

-“Thôi, cháu xin mời mọi người cầm đũa, kẻo cơm canh nguội hết!”

Sau bữa cơm tối, Việt mời vợ chồng Hai Xuân uống nước trà. Việt nhìn cái chân cụt của Hai Xuân tò mò, hỏi:

-“Có phải bác là thương phế binh không, bác Hai? Bác bị thương ở mặt trận nào vậy?”

Hai Xuân nói:

-“Tại mặt trận Tà Keo lúc đánh nhau với quân Kmer Đỏ!”

-“À, như vậy bác là lính Việt Cộng rồi,” biết mình lở lời, Việt nói. “Ờ không, lực lượng vũ trang cách mạng.”

Hai Xuân cười, nói:

-“Việt Cộng với lực lượng vũ trang cách mạng chỉ khác nhau về danh xưng. Nhưng, thực chất chỉ là một thứ “Việt Cộng” mà thôi, cháu à.”

Việt nhìn vợ Hai Xuân, hỏi:

-“Sáng ngày mai, bác gái định chèo ghe đi về đâu vậy?”

-“Về cù lao Dung!” vợ Hai Xuân nói.

-“Bác gái định chèo ghe theo thủy trình nào?” Việt hỏi.

-“Tôi chỉ biết có một thủy trình duy nhất là chèo ghe băng qua sông Cổ Chiên để ra cửa Cung Hầu, rồi chèo dọc theo bờ biển tới cửa Định An. Căn nhà hương hỏa của ông bà để lại ở xóm Bà Keo trên cù lao Dung, mặt tiền nhà hướng ra sông Hậu, cách cửa biển khoảng 16 cây số.”

-“Chiếc ghe tam bản nhỏ xíu, không đủ sức nhồi sóng biển đâu, nguy hiểm lắm bác gái ơi!” Việt chậc lưỡi, nói. “Đề cháu chỉ bác một ngã tắt vừa gần còn an toàn tuyệt đối.”

Vợ Hai Xuân hỏi:

-“Cháu làm ơn chỉ dùm cho tôi! Nói thiệt, chèo ghe ra biển tôi cũng sợ, rủi ro sóng biển đánh lật ghe, ổng có một giò làm sao lội vào bờ được đây?”

-“Dễ đi lắm bác gái ơi!” Việt nói. “Bác chèo ghe băng qua sông Cổ Chiên, rồi chèo dọc theo cửa Cung Hầu, khi gần tới bãi biển Ba Động, bác rẽ vào con kinh Lăng Sắc, cuối con kinh nầy bác sẽ gặp vàm con kinh Quan Chánh Bố. Bác gái cứ chèo ghe mút con kinh Quan Chánh Bố nầy sẽ tới sông Hậu dễ dàng. Xóm Bà Keo ở bên kia sông Hậu, đối diện với vàm kinh Quan Chánh Bố.”

Hai Xuân ngạc nhiên, hỏi:

-“Sao cháu rành đường đi nước bước miệt cù lao Dung quá vậy, cháu?”

-“Hồi đó, tía cháu là lính Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Ba Xuyên từng đóng đồn Rạch Bà Kẹo, Rạch Ngay, Rạch Kè, Đường Xuồng, Vàm Tắc, Rạch Chồn…đầu năm 1975, đồn Bến Phà Nhỏ bị du kích Long Phú tấn công ác liệt, tía cháu bị miễng pháo phang gẫy ống quyển bên chưn trái, còn má cháu bị trúng đạn tử thương. Lúc đồn sắp bị du kích Long Phú tràn ngập; may nhờ tiếp viện kịp thời nên lực lượng du kích đành rút lui. Tàn chiến cuộc, tía về đây sống với vợ chồng cháu cho tới hết tuổi già. Tía cháu qua đời cách đây hai năm vì bệnh già.” Việt nhìn cái chưn cụt của Hai Xuân, bất ngờ hỏi. “Bác Hai vén cái ống quần cho cháu xem cái chưn cụt của bác một chút xíu được không?”

-“Được, cháu cứ tự nhiên!” Hai Xuân vừa nói, vừa vén cái ống quần lên.

Việt nhìn cái chân trái bị cắt cụt một phần ống quyển, rồi gật đầu, nói:

-“Trước khi tía cháu qua đời có trối với cháu, cái chân giả của tía con hãy giữ lại, coi người nào tàn tật như cha thì tặng cho họ, bất cứ họ là ai. Thôi, để cháu đem nó ra cho bác thử coi vừa không nghen, bác Hai.”

Việt kéo cái rương để dưới chõng tre, mở nắp cái một cái chân giả bằng gỗ, rồi đích thân mang vào chân cho Hai Xuân, động tác nhanh chóng và chính xác như đã từng làm giúp cho tía trước đây. Việt suýt xoa, nói:

-“Vừa khít nghe bác Hai! Đâu bác đứng dậy, đi thử cho con coi!”

Hai Xuân đứng dậy tập đi thử, những bước chân chập chững đầu tiên còn loạng choạng suýt ngã, vì chưa quen đi chân giả. Hai Xuân có vẻ vui mừng lắm, nói:

-“Cám ơn cháu Việt nghen! Chắc chắn vài ngày nữa bác sẽ quen, đi đứng bình thường với cái chân giả nầy!”

-“Cháu chúc mừng bác Hai,” Việt nói. “Tạm thời, bác Hai tập đi cái chân giả với đôi nạng, bao giờ đi quen rồi thì bỏ nạng, giống như tía tập đi trước đây!”

-“Cha của cháu tên gì vậy, cháu?” Hai Xuân hỏi.

-“Dạ, Nguyễn Quốc Nam!”

Hai Xuân lặng lẽ đến đứng trước bàn thờ đốt nhang, chấp tay xá di ảnh cha của Việt, thì thầm khấn: “Tôi sẽ mang cái chưn giả của ông anh đi cho đến cuối cuộc đời nầy để xem cái chế độ CHXHCNVN ngoại lai vong bản nầy sẽ kết thúc ra sao! Tôi còn nợ ông anh một lời xin lổi, vì đã lầm đường, nối giáo cho giặc Cộng xâm lược, cưỡng chiếm miền Nam, dày xéo mả tổ. Nếu ông anh sống khôn, chết thiêng xin nhận lời xin lổi của tôi.”

Vợ Hai Xuân hỏi vợ chồng Việt:

-“Đừng trách tôi tò mò nghen! Mấy cháu làm nghề để sống nuôi con?”

-“Cháu theo ghề đi biển, hợp đồng đánh cá, đóng đáy ở cửa Cổ Chiên và Cung Hầu. Những ngày biển động, cháu đi mò nghêu, sò, hoặc vợ chồng rủ nhau xuống ghe đi cào hến, ngụp lặn suốt ngày giữa miền sông nước để kiếm sống. Làng chài ở ấp Thủ Sau, dưới cuối Cồn Nghêu. Sắp Tết đến nơi, mùa nầy không ai đi biển kếm ăn. Vợ chồng cháu mới vừa lợp xong mái nhà cho tơm tất để đón tổ tiên,” Việt nói tiếp. “Còn vợ cháu ở nhà dạy con, nuôi mấy con gà và bầy vịt lấy trứng để ăn, dư thì đem bán hoặc đổi gạo. Cảnh đời bám biển của người dân chài ở đây phải đối mặt thường xuyên với đói nghèo từng ngày. Khổ lắm bác gái!”

Vợ Hai Xuân nói:

“-“Tôi muốn đưa ổng ra ngoài bờ sông hóng gió biển một chút, luôn tiện tập đi với cái chân giả cho quen. Cám ơn vợ chồng cháu Việt nhiều lắm nghen!”

-“Xin hai bác cứ tự nhiên”. Việt nói.

Hai Xuân vô cùng vui sướng, tập đi chập chững bằng cái chân giả cho quen. Vợ cũng thấy vui lây, hỏi chồng:

-“Sao, ông thấy cái chân giả nầy có gây khó khăn cho ông?”

-“Tốt quá, tại tôi đi chưa quen thôi, vài ngày nữa là tôi quăng cái nạng gỗ nầy được rồi! Người thương binh chế độ cũ, chẳng may bị thương tật còn được một cái chân gỗ, còn được chánh phủ giúp đở, còn những thằng lính Việt Cộng như tôi, chỉ được Đảng và nhà nước bố thí cho cái cặp nạn, rồi vất ra đường phố tự lực mưu sinh,” Hai Xuân nhìn vợ cảm khái, nói. “Lúc sống ở Thủ Thiêm, tôi phải vá xe đạp mưu sinh, cực khổ lắm!”

-“Sao ông không trở về Tân Phong gặp tôi?”

-“Mặt mũi tôi để đâu mà trở về gặp lại vợ con; vả lại, vá vỏ ruột xe suốt ngày cũng đủ tiền ăn cháo lòng ăn cho đở đói, tiền đâu mua vé xe đò về quê nhà?” Hai Xuân nói. “Cũng may, nhờ vợ chồng Hoàng và chị Tám bán cháo lòng cho tôi vài bộ đồ lành lặn và tiền bạc mua vé xe về quê nhà kiếm bà.”

-“Chị Tám bán cháo lòng là ai mà đối với ông tử tế quá vậy cà?”

-“Dưới chế độ cũ, chị là giáo viên ở một trường tỉnh. Chồng chị Tám là lính chế độ cũ, chết trận trên đảo Hoàng Sa trong lúc đánh nhau với quân Tàu xâm lược, đổ bộ lên chiếm đảo.”

-“ Một ngày nào đó, nếu có dịp, ông đưa tôi lên Sài Gòn để cám ơn họ đã giúp đở ông,” vợ Hai Xuân nói. “Mỗi tháng, con Thu nó gởi tiền “chui” về cho vợ chồng cậu Út ở Cần Thơ, tôi dành dụm được vài cây vàng. Tôi muốn biếu vợ chồng cháu Việt hai chỉ vàng. Ông nghĩ sao, được không ông?”

Hai Xuân nói:

-“Ơn đền nghĩa trả, bà biết nghĩ như vậy là phải đạo lắm!”

Sáng hôm sau, trời vừa rạng đông, cả hai đã thức dậy sửa soạn xuống ghe, nhổ sào rời bến. Vợ chồng Việt tiễn hai người khách xuống tận bến sông. Vợ Việt trao một cái giỏ mây cho vợ Hai Xuân, nói:

-“Trong nầy có vài đòn bánh tét do cháu gói để cúng ông Táo, một vài nắm cơm vắt và khô cá lóc đã nướng sẵn để hai bác ăn đở đói lúc đi đường; có lẽ, đến chạng vạng mới về tới nhà đó.”

Trong lúc Việt cõng chồng xuống ghe, vợ Hai Xuân chuẩn bị sẵn hai chỉ vàng bỏ trong cái bao lì xì màu đỏ, đưa cho vợ Việt, nói:

-“Đây là hai chỉ vàng y. Hai bác biếu vợ chồng cháu mua một cặp heo về nuôi, có lợi lắm.”

-“Cám ơn hai bác nhiều lắm!” vợ Việt nói.

Sau những cái vẫy tay chào từ giã, vợ Hai Xuân vung tay chèo, ghe lướt sóng băng qua sông Cổ Chiên, rồi theo thủy trình đã được hướng dẫn. Quá trưa là đến vàm kinh Quan Chánh Bố, vợ Hai Xuân cắm sào vào dưới rặng cây mù u nghỉ mệt, cắt hai đòn bánh tét ăn cơm trưa với chồng. Hai Xuân nói:

-“Nghĩ cho cùng, gia đình của những người lính Việt Nam Cộng Hòa đối xử với tôi càng tử tế bao nhiêu, tôi càng hối hận việc mình tay sai cho quân cộng sản Bắc Việt xâm lược, cõng rắn cắn gà nhà đó bà!”

*
Từ sông Tiền băng qua sông Hậu có rất nhiều kinh đào, có con kinh nước đục, có con kinh nước phèn, có con kinh nước trong xanh soi bóng những hàng dừa, những cụm tre làng trên dòng nước. Có những dòng kinh đào thẳng tắp, tiếp nối với những con rạch uốn khúc quanh co, đem nước ngọt phù sa tưới mát cho những cánh đồng ruộng bao la vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời dẫn tôm cá từ sông ngòi vào kinh rạch nuôi sống dân quê. Có những con kinh hiền hòa, dòng nước chảy lững lờ, êm ả ôm ấp những xóm làng mộc mạc, rộn ràng những con đò xuôi ngược, khua mái chèo nhịp nhàng từ lúc rạng đông cho tới hoàng hôn nhạt nắng. Dọc theo bờ kinh rạch, Hai Xuân thỉnh thoảng bắt gặp những vó bè, loại dụng cụ bắt cá đơn giản, nép mình thầm lặng dưới bóng dừa, khóm tre và độc đáo nhứt là những cây cầu khỉ ba nhịp, bắt chênh vênh qua kinh rạch trông thật nên thơ, hữu tình…

Một chiếc xuồng ba lá chất đầy lờ lọp, đồ nghề đan bằng nan tre của người dân hạ bạc đang bơi xuồng về hướng mình. Vợ Hai Xuân ngoắt lại, hỏi:

-“Nè, chú em ơi! Từ đây tới vàm sông Hậu còn xa không?”

-“Dạ, còn khoảng mươi, mười lăm cây số nữa đó, chị Hai ơi!” anh ta trả lời.

-“Để tôi mang cái chân giả nầy vô, chèo thay bà một đoạn kinh,” Hai Xuân nói. “Trông bà có vẻ mệt đừ rồi đó!”

-“Nhắm có chèo thay tôi được không đó?” vợ Hai Xuân cười, nói. “Thôi, ông ngồi bơi đằng mũi được rồi, để tôi chèo tiếp tục được mà.”

Thế là chồng bơi, vợ chèo gần tới xế chiều thì tới vàm sông Hậu, đối diện bên kia sông là cù lao Dung. Vợ Hai Xuân nói:

-“Vợ chồng nghỉ mệt một chút rồi chèo băng qua dòng sông Hậu, khúc sông nầy rộng trên 1.500 thước, nước chảy xiết lắm,” vợ Hai Xuân chỉ ngôi nhà ngói ba gian nằm trên phơi mình trong nắng chiều bên kia sông, nói. “Ngôi nhà đó là ngôi nhà hương hỏa của gia đình, tuy cũ kỹ, mái nhà phủ riêu phong, cũng là chỗ tạm dung cho vợ chồng tới hết tuổi già. Ông nghĩ sao?”

-“Bây giờ dầu ở đâu mà có bà là tôi mãn nguyện rồi,” Hai Xuân nói. “Thôi, còn vượt qua con sông Hậu là tới nhà, ráng một xíu nữa đi, má con Thu!”

*
Ba Thắc đang vác hàng lên bờ, thằng Giang đứng trên chiếc ghe lường nhìn ra ngoài sông cái, thấy một chiếc ghe tam bản chèo băng qua sông Hậu, hướng về phía nhà mình. Giang nói với tía:

-“Hình như cô Hai về nhà mình ăn Tết đó, tía ơi!”

Ba Thắc nói:

-“Bữa nay mới 23 Tết, ngày đưa ông Táo về trời, cô Hai mầy chưa về đâu!”

Bỗng Ba Thắc nghe tiếng ai từ ngoài sông cái gọi mình:

-“Cậu Ba Thắc đó hả? Anh chị Hai về nhà ăn Tết đây nè!”

Thằng Giang nhảy vựng lên, nói:

-“Cô Hai gọi tía đó! Con nói cô Hai về mà tía không tin.”

Ba Thắc nghe tiếng chị Hai Bông gọi mình mừng lắm, đứng trên cây cầu ván đón chị. Vợ Hai Xuân chèo tấp ghe vô cầu ván, nói:

-“Cậu Ba làm ơn giúp đưa anh Hai lên bờ dùm chị vì cái chưn trái có tật.”

-“Được, chị Hai lên bờ chờ em,” Ba Thắc quay sang nói với con. “Giang à, chèo chiếc ghe tam bản của cô Hai vô trong mương nghe.”

Lần đầu tiên, Hai Xuân về quê vợ ở cù lao Dung. Từ cổng đi vào nhà là con đường lót gạch tàu, hai bên trồng những cây ăn trái như đu đủ, mãn cầu, mít… trước sân nhà là cái bàn ông thiên. Nhà ba gian mái lợp ngói âm dương, vách ván với một chái hè, gian giữa là phòng khách có một cái tủ thờ cẩn xa cừ kê sát vách để thờ ông bà, nổi bật với bộ lư đồng bề thế. Bốn cây cột khá lớn bằng gỗ mun, treo liễn thếp vàng. Hai bộ ván gõ đã lên nước bóng láng kê hai bên vách, chính giữa là bàn ăn, vừa để tiếp khách. Cái nền đất được nện bằng phẳng. Hai Xuân nhìn toàn bộ căn nhà, mới biết rằng gia đình bên vợ thuộc hạng nhà giàu xưa.

Ba Thắc nhìn anh rể, hỏi:

-“Hơn mấy chục năm rồi, mới gặp lại anh Hai. Lần nầy, anh chị về chơi hay định ở luôn dưới nầy với cha con em đây?”

Vợ Hai Xuân nói:

-“Anh chị định ở luôn dưới nầy. Nhà cửa ở Tân Phong bị bọn cách mạng lưu manh chiếm hết rồi.”

Ba Thắc nghe chị nói, mừng lắm, nói:

-“Có anh chị ở đây càng vui chớ sao! Cha con em bận theo ghe thương hồ vắng nhà thường xuyên, ít khi ở nhà chăm sóc nhà cửa. Anh chị ở gian nhà bên phải, cha con em ở gian bên trái, để em biểu thằng Giang mang hành lý vô nhà cho anh chị.”

-“Dạo nầy cậu buôn bán có khá không?” vợ Hai Xuân hỏi.

-“Thời gian cận Tết Nguyên Đán, em cũng kiếm ăn được.” Ba Thắc nói.

Hai Xuân hỏi.

-“Cậu Ba thường buôn bán tới lui ở chợ nổi nào vậy?”

-“Để chuẩn bị một chuyến hàng lên chợ nổi Phụng Hiệp hay Cái Răng bán. Mỗi ngày, cha con em phải chèo ghe tam bản quanh các thôn xóm trên cù lao thu mua các mặt hàng đủ loại từ trái cây, gà vịt, rau cải, cá khô…sau đó chất hàng lên ghe lường loại trung trọng tải vài tấn hàng, rồi chèo đến bến đò An Thường, xã An Thạnh Nhứt nhờ tàu kéo lên chợ nổi, mình chịu tiền xăng nhớt. Trung bình mỗi tháng em có 6 chuyến hàng chở lên chợ nổi Phụng Hiệp hoặc Cái Răng bán.” Ba Thắc nói. “À quên nữa, sáng mai vợ chồng chú thím Út về đây ăn Tết. Đây là cái Tết Nguyên Đán đầu tiên gia đình mình đoàn tụ.”

Đúng hẹn lại đến. Khoảng trưa vợ chồng cậu Út đi đò máy xuống tới nơi. Anh chị em gặp nhau, tay bắt mặt mừng mùa xuân gia đình đoàn tụ. Cậu Út báo hỷ tín cho mọi người:

-“Vợ chồng em mới vừa nhận quà Tết và một lá thư của cháu Thu gởi về địa chỉ của em ở Cần Thơ, có cả hình chụp gia đình nữa đó!”

Hai Xuân nóng ruột, giục:

-“Cậu Út đọc lớn cho mọi người cùng nghe coi!”

Cậu Út bèn mở lá thơ ra đọc:

“California ngày 20 tháng 1 năm 1988.

Kính thưa má,

Tết Nguyên Đán Mậu Thìn sắp đến nơi. Vợ chồng con và thằng Tom gởi biếu gia đình một chút quà xuân, mỗi gia đình 5 đồng tiền cứng (500 mỹ kim) để ăn Tết. Ở bên nầy, gia đình con vẫn vui khỏe. Thằng Tom đã vào Đại học Y Khoa, thằng cháu ngoại của má theo nghề của bố nó. Nó nói và viết được tiếng Việt giỏi lắm. Má vẫn khỏe chớ? Nếu có tin tức gì về cha con, má cho con biết nghe. Thôi, con ít dòng thăm gia đình. Chúc má, gia đình cậu Ba và cậu Út một năm mới an khang và thịnh vượng. Con Thu.”

Hai Xuân cầm tấm hình gia đình của con gái, trầm trồ khen:

-“Thằng Tom, cháu ngoại của tôi, càng lớn càng đẹp trai quá chớ!”

-“Tại thằng Đế quốc Mỹ con nầy mà ông bỏ nhà ra đi biền biệt gần 10 trời tới thân tàn ma dại mới mò về nhà.” vợ Hai Xuân nhắc, rồi cười, nói. “Không có tiền con Thu gởi về giúp đở thì tôi với ông về già sống dở chết dở đó!”

-“Thôi, chuyện cũ qua rồi, cho nó qua luôn đi mà, chị Hai!” cậu Út nói. “Đây là quà của cháu Thu biếu, mỗi người nhận được 10.000 tiền đồng Việt Nam.”

Vợ Hai Xuân đề nghị:

-“Phần của chị Hai tặng lại cho cậu Ba Thắc để mua một máy đuôi tôm, chạy ghe thương hồ cho đở phần vất vả. Nếu chưa đủ, chị Hai sẽ giúp thêm.”

-“Chị Hai khỏi lo, phần quà của vợ chồng em cũng xin tặng lại cho anh Ba,” cậu Út nói. “Qua Tết, anh Ba lên Cần Thơ, em giúp anh Ba mua một cái đuôi tôm Yamaha vừa ý!”

-“Nhứt định, anh sẽ nhờ cậu Út giúp anh!” Ba Thắc mừng quá, nói. “Nếu gia đình mình không có thằng cháu rể “đế quốc Mỹ” giúp đở, chắc bây giờ có sống cũng ngất ngư con tàu, phải không anh Hai?”

Vợ Hai Xuân thấy chồng nín thinh có vẻ ngượng, bèn lên tiếng:

-“Thôi, bỏ qua chuyện nầy đi! Không ai được nhắc chuyện nầy nữa nghen!”

Cậu Út nói lảng sang chuyện khác:

-“Về tới nhà, em sẽ viết thư báo tin mừng cho cháu Thu biết liền là cha cháu đã trở về với má con và đang sống ở cù lao Dung quê ông bà ngoại.”

-“Được tin nầy, chắc cháu Thu vui mừng lắm!” Ba Thắc nói. “Nhớ nói cháu Thu là anh Ba cám ơn quà Tết với nghen.”

Hai Xuân nắm tay vợ, nói:

-“Riêng tôi, còn nợ con Thu và cháu Tom một lời xin lổi!”

*
Cù lao Dung là một cù lao nổi tiếng mầu mỡ và trù phú nằm gọn lỏn giữa bốn bề sông nước mênh mông của dòng sông Hậu, không khí thoáng mát quanh năm khác hẳn trên đất liền. Với vườn cây trái sum sê, cây lá xanh tươi mượt mà, Cù lao Dung một dãy đất được phù sa do dòng sông Mekong lắng động, bồi đấp quanh năm nên đất trên cù lao pha cát nhuyễn, xốp mầu mỡ để trồng đủ loại cây ăn trái. Vì nằm cuối dòng sông Hậu, nó chia dòng sông Hậu thành ba nhánh trước khi đổ ra biển Đông bằng ba cửa là cửa Định An, Ba Thắc và Trần Đề, cửa sông rộng sóng vỗ ỳ ầm suốt ngày đêm.

Cù lao Dung hợp thành bởi một chuổi cồn như cồn Tròn, cồn Nai, cồn Cát, cồn Tiên…và là nơi sản xuất nhiều trái cây theo mùa rất ngon ngọt như chôm chôm, xoài cát, cam quít, măng cụt, soài riêng…thủy sản vùng sông nước, ruộng đồng nhiều vô số như cá bông lao, cá đồng đủ loại, tôm, cua…bến đò An Thường thuộc xã An Thạnh Nhứt là cửa ngõ dẫn vào cù lao Dung, một mảnh đất dễ sống, làm chơi ăn thiệt, gạo thóc đầy bồ dư thừa sản xuất nuôi sống đồng bào ruột thịt khắp nơi, còn gái cù lao Dung công, dung, ngôn, hạnh lại dễ thương.

Nhưng, từ khi vợ chồng Hai Xuân về vui thú điền viên, an hưởng tuổi già trên mảnh đất nầy chưa được 5 năm mà đã chứng kiến một sự thật đau lòng là cù lao Dung đã từ từ thay da, đổi thịt lột xác hoàn toàn. Cù lao Dung cũng bị thay bằng một cái tên rất ư là nhục nhả “Đảo Đài Loan”. Chỉ riêng tại xã An Thạnh Nhứt chỉ trong vòng ba năm đã có trên 200 cô gái lấy chồng người Đài Loan, còn ấp An Thượng đã có tới 120 cô gái về làm dâu xứ Đài. Những khứa lão Đài Loan mất nết, già cúp thùng thiết, gần đất xa trời, nhưng giàu đô la để sang Việt Nam, nhờ môi giới cưới được những cô gái trẻ đẹp đem về nước làm nộ lệ tình dục, đẻ thuê, phục dịch như một oshin không được trả lương, có không ít cô đã rơi vào con đường mại dâm tủi nhục…

Hai Xuân đau lòng khi chứng chứng kiến những đám cưới dị chủng giữa nhưng ông già Đài Loan tàn tật, hai chưn cong queo, đi xít xụi, đáng tuổi cha, ông nội cô dâu và những cô gái trẻ đáng thương, phần đông là những cô thôn nữ hoặc công nhân phải hy sinh cuộc đời son trẻ của mình vì muốn giúp đở gia đình qua cơn túng quẫn ác liệt, trong thời đại chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ đó, Hai Xuân mang chứng bệnh trầm cảm kinh niên. Nhiều đêm, vợ Hai Xuân đau khổ nhìn chồng ngồi một yên lặng một mình bên ngọn đèn dầu leo lét, nói lảm nhảm như trút tâm sự u uất với cái chân gỗ: “Ông bạn Việt ơi! Anh là người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh đã hy sinh một phần thân thể trên tuyến đầu lửa đạn để bảo vệ cù lao Dung được xanh tươi ngọn lúa, giúp cho nhân dân miền Nam được no ấm. Tay súng của anh cùng với đồng đội đã một thời giữ vững Miền Nam vượt qua những cơn sóng giữ với lời thề “Bảo Quốc An Dân”. Các bạn là những người sống và chết thầm lặng như những anh hùng vô danh mà chưa được tổ quốc vinh danh! Còn tôi, cũng đã hy sinh một phần thân thể như anh, nhưng sự hy sinh của tôi hoàn toàn vô nghĩa. Miền Nam Việt Nam rơi vào tay CSBV là một đại bất hạnh cho dân tộc là do chúng tôi, những người thuộc lực lượng Mặt Trận Giải Phóng MNVN đã một thời mù quáng, không nhận ra sự lừa bịp có hệ thống của tên ************ và Đảng CSVN và là cái gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng; chẳng qua, chỉ là một thứ quân đội đánh đánh thuê, phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng của Nga - Tàu,” rồi Hai Xuân tháo cái chân gỗ ôm vào lòng, giọng tràn đầy ăn năn, hối hận. “Vào cuối cuộc đời, với tấm thân tàn ma dại nầy, tôi mới ngộ ra rằng mình đã lầm đường lạc lối, đặt cả niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản ngoại lai vong bản, một thứ chủ nghĩa quái thai của lịch sử, hoài phí cả tuổi thanh xuân thì đã quá muộn màng.”

Trong những giây phút chạnh lòng, Hai Xuân ngậm ngùi nhớ lại lời nói chị Tám bán cháo lòng ở bến đò Thủ Thiêm: “… rồi đây, chú sẽ biết dân tộc mình, đất nước mình, gia đình chúng ta và sẽ sống ra sao dưới hai tầng áp bức, bốc lột giữa bầy lãnh đạo lang sói buôn dân, bán nước cho giặc Tàu xâm lược. Bọn chúng sẽ cấu kết với nhau còn cướp đi của chúng ta còn nhiều thứ khác nữa…”


Nguyễn Vĩnh Long Hồ


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Hôm nay lúc 1:20pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 113
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.430 seconds.