Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 103
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Feb/2025 lúc 10:53am

Một Thoáng Hương Xưa

Hình minh họa

Ta ngồi chép lại pho tình cũ

Gọi trái tim đau nhỏ mực buồn...

Yên Sơn

Thư hắn nhận được trong một buổi chiều tháng 12/77, sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hắn vô cùng sung sướng khi thoáng thấy phong bì có viền xanh đỏ chung quanh trên tay anh Khang, người bạn cho hắn thuê phòng, hắn biết chắc đó là thư đến từ Việt Nam. Hắn gần như giật lấy lá thư. Anh Khang nheo mắt cười nói với hắn: “Thư của bà bác nào đó mà làm gì dữ vậy?” Nhìn địa chỉ người gửi, thấy tên mẹ của Thu Dung, hắn càng hồi hộp hơn! Hắn nhủ thầm: “Thu Dung ơi! Hơn một năm rồi không có tin tức nào của em!” Hắn không kịp thay quần áo, chưa cởi cả giày, hắn cẩn thận mở thư ra đọc...

Vừa đọc hàng chữ đầu: “Tuấn thương mến, Bác viết thư này báo tin cho con rõ là con gái của Bác, Thu Dung, đã lập gia đình rồi!”, mắt hắn đã như hoa lên, trước mặt tối sầm lại! Hắn vội vào phòng riêng đóng cửa, buông mình trên giường, căng mắt đọc lại từng dòng, từng chữ!

Sàigòn, ngày… tháng… năm…

Tuấn thương mến,

Bác viết thư này báo tin cho con rõ là con gái của Bác, Thu Dung, đã lập gia đình rồi. Dù lập gia đình với người không yêu mà chỉ là một ân nhân cứu mạng. Cậu ấy là một bác sĩ, thuộc chế độ cũ, làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy, đã cứu giúp Thu Dung sau một tai nạn xe cộ tưởng đã nguy hiểm đến tính mạng.

Bác biết gần một năm dài chắc cháu lo lắng lắm vì không thấy thư hồi âm của Thu Dung sau cái thư đầu tiên nó gửi cho cháu. Bác nghĩ là cháu phải lo lắng lắm, mong đợi ghê lắm! Bác đã rất vui mừng khi được tin cháu còn sống, nhưng vô cùng hoảng hốt khi biết Thu Dung liên lạc với cháu. Sau lần đó,Bác đã dặn ông phát thư, vốn là người quen biết trong xóm, chỉ đưa thư của cháu tận tay Bác, vì Bác sợ lọt vào tay chồng của nó sẽ làm tan vỡ gia đình. Bác đã nhận đầy đủ thư của cháu gửi về, dù địa chỉ đã thay đổi. Thu Dung cũng nhiều lần gặng hỏi Bác có nhận được thư từ gì của cháu gửi về không, Bác đành lòng nói dối nó! Bác xin lỗi đã đọc hết thư của cháu, những lời lẽ thống thiết, chân tình đối với Thu Dung làm Bác rất nhiều lần rơi nước mắt! Bác không dám đưa thư cháu gửi cho Thu Dung chỉ vì muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình của nó. Bác cũng không biết ăn nói với cháu ra sao nên không trả lời.

Tuấn ơi! Cháu tha lỗi cho Bác vì đã nuôi hy vọng cho cháu cả năm nay. Cháu thông cảm cho sự khổ tâm của Bác, cháu nhé! Tuấn ơi! Ngoài bổn phận làm Mẹ muốn bảo vệ tương lai, hạnh phúc cho con, Bác cũng rất yêu mến cháu nên Bác nghĩ rằng thật là không công bằng cho cháu nếu cứ để cháu nuôi hy vọng mà lỡ làng cả tương lai, sự nghiệp của cháu. Thế nên Bác cũng không thể giữ yên lặng hoài, tội nghiệp cho cháu!

Viết đến đây lòng của Bác vô cùng thương cảm, không cầm nổi nước mắt! Cầu xin Chúa ban phước lành cho cháu và hai cậu em. Cháu cũng nên nghĩ đến tương lai, nên lập gia đình và cứ xem như Thu Dung đã chết! Vĩnh biệt cháu!

Bác Đoàn

**********

Hắn bàng hoàng, đau đớn đến nghẹt thở! Hết nằm, tới ngồi, đi đi lại lại quanh phòng, đọc tới đọc lui nhiều lần như muốn lật tung những dòng chữ khắc nghiệt để tìm kiếm những điều khả dĩ cho hắn niềm tin là bà Cụ đã viết cho hắn những điều không thật. Bức thư đã nhàu nát, suy tính đến quẩn trí mà có tìm thấy chút hy vọng nào đâu! Càng suy nghĩ càng thấy vô vọng vì hắn biết bà Cụ rất mực thương yêu con, quý mến hắn. Hắn ngã sấp lên nệm, lấy chiếc gối phủ kín đầu, để mặc cho những đau thương dày xéo! Thế là bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu đợi chờ đều tan biến! Hắn giấu mình trong phòng bỏ cả buổi cơm tối khiến anh chị Khang rất lấy làm lo lắng, lâu lâu lại hỏi thăm làm cho hắn méo mó cười, nói dối là mình không đói bụng!

Hắn nằm miên man suy nghĩ. Có suy nghĩ gì khác hơn ngoài hình bóng của Thu Dung và thời gian bên nhau trong những ngày xưa cũ! Mà có xưa cũ gì cho cam?! Chỉ mới đây, hơn hai năm mà sao vời vợi mơ hồ! Nụ cười tươi thắm, ánh mắt dịu hiền như đang thấp thoáng mong manh; tiếng nói hồn nhiên tuổi học trò như còn văng vẳng bên tai nhưng sao bỗng nhiên nghe chừng xa lạ! Phải! Xa lạ rồi! Xa lạ vĩnh viễn như nguồn nước cạn sau cơn địa chấn kinh hoàng! Bây giờ em đã làm vợ người ta! Anh và em mỗi bên bờ đại dương có bao lần mây che núi chắn! Những lời hẹn ước cũng tan như bọt nước biển khơi;cơn bão lốc đã đưa em về bến lạ để riêng anh ngơ ngẩn cuối trời! Ngả rẽ cuộc đời dù em đã chọn lựa trong đớn đau và nhiều nước mắt nhưng cũng đã kết thúc mối tình đằm thắm đôi ta! Anh thông cảm với em đã không thể thổ lộ khi viết lá thư duy nhất cho anh năm rồi, vì anh tự đặt anh vào hoàn cảnh của em chắc anh cũng không có đủ can đảm nói lên sự thật!

Không nhận được thư em, anh đã nghĩ có lẽ em đã rất bàng hoàng khi biết anh còn sống, em đã rất đau lòng cho hoàn cảnh chúng ta, có lẽ em đã sống qua một thời gian xáo trộn nhất trong đời. Anh cũng nghĩ tại hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước mình, đâu có ai biết ai còn ai mất sau cuộc bể dâu, nên anh thấy thương em nhiều hơn hờn trách, cho dù con tim anh đang rướm máu! Không, anh không buồn trách gì em, chỉ thương cho anh với bao nhiêu hoài vọng! Chỉ thương cho em trước phong ba bão táp của cuộc đổi đời!

Những suy tư triền miên làm hắn cay mắt, chập chờn đi vào giấc ngủ muộn phiền với bao nhiêu mộng mị! Trong mơ hắn thấy đã vuột tay nàng khi nhảy lên phi cơ vội vã rời thành phố đầy những tiếng bom đạn khắp nơi. Hắn tính nhảy xuống trở lại nhưng bị trượt chân, đập mặt xuống sàn tàu khi máy bay cất cánh. Dường như có bàn tay ai đó lôi lưng hắn lại, khi hắn cố nhoài người ra ngoài cửa nhìn cánh tay vẫy gọi trong tuyệt vọng của Thu Dung càng lúc càng nhỏ dần, ở một khoảng trống đầy sương mù nhưng lố nhố tụi nón cối đang chĩa nhiều họng súng về hướng phi cơ, giữa một cánh đồng bạt ngàn lau sậy...

**********

Đang mơ mơ màng màng bỗng hắn nghe tiếng gõ cửa dồn dập, rồi tiếng anh Khang nói lớn:

- Tuấn ơi dậy đi! Sắp tới giờ lên phi trường đón người tỵ nạn rồi nè!

Hắn không hiểu tại sao anh Khang lại biết hắn cần đón người hôm nay, nhưng hắn cũng ngồi bật dậy, chạy vào phòng rửa mặt, xong vội vã ra đi. Chị Khang kịp lúc dúi vào tay hắn mấy cái bánh sandwich trét bơ đậu phọng biểu hắn ăn cho đỡ đói.

Cũng như những lần trước đón người tỵ nạn, hắn đến phi trường San Francisco sớm hơn cả tiếng đồng hồ. Những chuyến bay có đưa người tỵ nạn vào nội địa Hoa Kỳ thường đến rất khuya và thường không đúng giờ. Lên đến phi trường, hắn xem chuyến bay qua màn ảnh mới biết sẽ đến trễ cả tiếng đồng hồ. Dù phi trường lúc nào cũng đông đúc người tới kẻ đi, nhưng càng về khuya càng thấy thời gian như càng chậm lại. Hắn uống hết mấy ly café rồi mà vẫn bị con buồn ngủ đè nặng lên mi mắt. Hắn cố nuốt mấy miếng sandwich nhưng sao đắng ngắt đành vất bỏ đi!

Hắn đã tình nguyện làm bán thời gian với Hội Thiện Nguyện USCC (United States Catholic Charity) này từ đầu năm nay, 1977, khi mấy anh em hắn mới chân ướt chân ráo dọn về đây từ vùng nắng cháy San Antonio. Làm ở đây với hy vọng tìm biết được tin tức gia đình, bè bạn. Vì lẽ đó, chuyến đón người Việt tỵ nạn nào hắn cũng là người đầu tiên tình nguyện. Lại nữa, hắn cũng rất lấy làm sung sướng làm người hướng dẫn cho những gia đình mới tới mà không nề lao nhọc. Cũng có rất nhiều lần hắn cùng rơi lệ sung sướng với người mới tới, khi họ biết chắc gia đình họ đã thật sự đặt chân an toàn xuống vùng đất hứa.

Cuối cùng, chuyến bay cũng vào bến đậu! Hắn đứng bật dậy đưa cao tấm bảng có hàng chữ Trần Phi Thọ khi thấy hành khách bắt đầu xuất hiện ở cổng ra. Tấm bảng hắn vừa vẽ vội vã trên một bìa giấy cứng hắn lượm được trong thùng rác khi nãy.

Hắn nóng ruột ngóng cổ đợi chờ, hết người này tới người khác vẫn chưa thấy bóng dáng một người Việt Nam. Hắn bỗng nghiệm ra một điều là hầu hết những người tỵ nạn, luôn là người cuối cùng rời khỏi phi cơ? Theo kinh nghiệm của hắn, ngồi sau đuôi bao giờ cũng mệt hơn nhiều trong những lần phi cơ chuyển hướng hoặc đổi cao độ. Hắn tự nghĩ có thể đó là giao kèo giữa hãng hàng không và Cao Ủy Tỵ Nạn chăng? Hành khách tỵ nạn chắc phải là ưu tiên sau cùng cho đầy chuyến bay!

Gia đình hắn đón lại là những người rời máy bay sau cùng trong một chuyến tàu có cả mấy trăm hành khách. Cặp vợ chồng rất trẻ dắt đứa con gái nhỏ đi chập chững vừa ra khỏi cổng, mắt dáo dác tìm kiếm đầy vẻ lo âu. Hắn vội bước tới:

– Thưa chắc đây là gia đình anh Nguyễn Phi Thọ?

Người chồng mừng rỡ:

– Dạ xin chào anh, chúng tôi là Nguyễn Phi Thọ tới từ trại Songkla!

– Chào anh chị! Tôi là Tuấn, nhân viên của hội USCC, đặc trách đón gia đình anh chị về nơi tạm trú! Anh chị yên tâm, mọi chuyện sẽ đâu vào đó!

Hắn bắt tay người chồng thật chặt như cố tình chuyền cho anh sự an tâm. Hắn xoay qua, cúi mình một chút, chào cô vợ. Hắn khựng người khi bắt gặp đôi mắt ngó hắn đăm đăm! Chỉ một thoáng thôi, rất vội vã, rồi bối rối ngó xuống đất, nói lí nhí một điều gì đó nghe không rõ. Hắn bế đứa con gái nhỏ trên tay, tính đưa mọi người ra xe về lại Oakland. Nhưng dường như có cái gì thúc giục, hắn lại xoay qua ngó người đàn bà. Hắn lại bắt gặp đôi mắt quen thuộc đang vừa đi vừa nhìn hắn trân trối và cánh tay đưa lên đầu gở kẹp cho mớ tóc dài phủ bềnh bồng xuống đôi bờ vai nhỏ.Hắn thảng thốt gọi lớn:

– Thu Dung!

– Anh Tuấn!

Thu Dung nước mắt ràn rụa, buông xách tay xuống đất. Hắn trao tay đứa con gái nhỏ cho Thọ rồi quay qua Thu Dung, 2 người ôm nhau chặt cứng trong khi 2 cha con Thọ ngơ ngác đứng nhìn. Hắn run lên vì sung sướng, quên cả hiện tại. Phi trường bỗng nhiên im vắng lạ lùng, chỉ nghe tiếng tim đập liên hồi như muốn thoát ra khỏi lồng ngực. Giọng Thu Dung sũng đầy nước mắt, thương cảm gọi tên hắn liên hồi. Hắn cũng không cầm nổi nước mắt với bao nhiêu xúc cảm nghẹn ngào.

Hắn bồi hồi đặt môi hôn lên vùng tóc rối, ân cần hỏi:

– Anh mới nhận thư của Má em hồi chiều, nói rằng em đang có chồng Bác sĩ, làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy mà sao gặp lại nơi đây?

– Dạ anh Thọ là Bác sĩ chồng em đây, tụi em vượt biển qua tới Thái Lan hồi đầu năm nay.

Thu Dung xoay về hướng Thọ, tay vẫn ôm chầm lấy hắn. Rất ngỡ ngàng, hắn buông thỏng hai tay, nhẹ nhàng gỡ tay Thu Dung, nhìn Thọ với cảm giác tội lỗi:

– Xin lỗi anh Thọ nha! Gặp lại Thu Dung tôi mừng quá quên cả ý tứ!

Dường như ánh mắt Thọ thoáng một chút khó chịu:

– Không sao anh, tôi hiểu! Chuyện rất dài, khi nào có dịp chúng tôi sẽ kể anh nghe.

– Thôi chúng ta ra xe, tôi đưa gia đình anh chị về nơi tạm trú.

Vợ chồng Thọ và đứa con gái ngồi cả phía sau. Rất im lặng! Hắn muốn gợi chuyện nhưng sao cũng ngại ngùng sau mấy lần hỏi chỉ để nghe câu trả lời ngắn gọn gần như cụt ngủn. Dù vậy, hắn cũng được biết rằng, một bệnh nhân của Thọ vốn là cán bộ cao cấp của quân đội Bắc Việt, đã móc nối và tổ chức vượt biên cùng với gia đình Thọ. Chuyến đi rất may mắn, suông sẻ đến Thái Lan. Ở trong trại không đầy 6 tháng, gia đình Thọ được Hội USCC bảo lãnh đi Hoa Kỳ.

Xa lộ về khuya đường vắng. Từng ngọn đèn đường chiếu màu xám xịt trong sương đêm dày đặc.Hình dạng chiếc cầu Bay Bridge cũng mờ mờ ảo ảo, ẩn hiện trong sương. Hắn rùng mình vì thấm lạnh, vội vàng quay cửa kính lên và bật máy sưởi. Sự im lặng làm cho hắn thấy ngột ngạt khó chịu. Hắn nhìn vào kính chiếu hậu thấy hai người đang dán mắt vào cửa kính nhìn ra ngoài.

– Mình đang qua cầu Bay Bridge, chiếc cầu nối liền San Francisco với Oakland. Cầu này dài hạng nhì ở trong vùng. Cầu dài nhất là cầu San Mateo, nằm ở phía Nam, dài khoảng 12 dặm, sát mặt nước, cách đây không xa lắm; và cây cầu nổi tiếng nhất vẫn là cầu treo Golden Gate, bên phía Tây Bắc thành phố. Nếu không có sương mờ, mình có thể nhìn thấy rất rõ từ Oakland.

Thọ hỏi với vẻ âu lo:

– Rồi đời sống trong những ngày tới của chúng tôi ra sao anh Tuấn?

– Anh chị đừng lo. Dù thế nào cũng không thể tệ như ở trại tỵ nạn, và chắc chắn tốt hơn cả trăm lần so với Việt Nam bây giờ. Chuyện tương lai thì từ từ tính. Chuyện trước mắt là Hội USCC đã nhờ tôi thuê cho gia đình anh chị 1 căn chung cư 2 phòng ngủ, đầy đủ tiện nghi. Tiền đã trả trước 3 tháng. Ngày mai tôi đưa anh chị vào văn phòng làm giấy tờ. Họ sẽ cấp cho mỗi đầu người 300 đồng, một lần một, để chi dụng. Người ta hy vọng sau 3 tháng anh chị sẽ có thể tự lập. Tôi sẽ tận lòng hướng dẫn cho anh chị như đã từng giúp đỡ người khác. Mong anh chị yên tâm.

Thọ mau mắn nói:

– Chúng tôi thật may mắn gặp được anh! Cám ơn Thượng đế và xin cám ơn anh trước!

Hắn cố tình gợi chuyện với Thu Dung:

– Cháu Thảo được bao nhiêu tuổi rồi Thu Dung?

Thời gian ngưng đọng lại để nghe câu trả lời. Hắn lại liếc vào kính chiếu hậu thấy Thu Dung cúi đầu xuống thấp, kéo vạt áo lau vội nước mắt. Tiếng Thọ đỡ lời vợ: – Dạ sắp 2 tuổi! 

Câu trả lời làm hắn ngờ ngợ tự hỏi: “Mới lập gia đình hơn 1 năm mà sao đã có con gần 2 tuổi?” Nghĩ như vậy nhưng hắn không tiện mở lời.

Những giọt nước mắt của Thu Dung làm hắn xốn xang trong lòng. Hắn bâng khuâng nhớ về khung trời cũ, kỷ niệm xưa. Cũng những giọt nước mắt sụt sùi đã rơi thánh thót trong buổi chiều ở vườn cây ăn trái Lái Thiêu, khi hắn nói với nàng nếu một mai hắn không còn hiện hữu, ở lần gặp gỡ sau cùng! Nàng đã khóc vùi, thốt câu: “Em sẽ phải sống ra sao nếu không có anh”.

Hắn thầm nghĩ: “Thu Dung ơi, anh mừng cho em vì bây giờ em đã biết sống ra sao khi bên em đã có một người đàn ông khác”.Phải, với nàng, hắn kể như đã chết! Hắn đã không chết tan xác cùng với con tàu trên vùng trời quê hương đất nước, như hắn đã chuẩn bị, mà chết trong đời sống của nàng,chết trong sự chia lìa bất chợt!

Bỗng nghe tiếng kèn inh ỏi, hai vệt đèn sáng chói rọi thẳng vào mắt làm hắn không nhìn rõ phía trước nhưng biết chắc xe hắn đang trước đầu một xe khác ngược chiều. Tiếng thắng bánh xe kêu rít trên mặt nhựa làm đầu óc hắn tê cứng. Theo phản ứng tự nhiên, chân hắn đạp mạnh lên thắng, lách nhanh tay lái qua bên phải, nghe tiếng va mạnh vào thành cầu, rồi chiếc xe lao thẳng xuống khoảng không gian đen ngòm bên dưới. Hắn cảm thấy nhẹ lâng lâng trong trạng thái chơi vơi chới với.Hắn nghe hai tiếng thét hãi hùng bên tai quyện lẫn vào tiếng hét kinh hoàng của chính hắn. Trong phút giây vô vọng đó, hắn bỗng nhiên thấy bình tĩnh dị thường, vội buông tay lái, xoay người ra phía sau cố nắm bàn tay Thu Dung đang chới với đưa về phía hắn, nhưng có lẽ sức rơi của chiếc xe quá nhanh khiến hắn không tài nào nắm được!

**********

Hắn mở choàng mắt ra thấy anh chị Khang đứng trước khung cửa mở toang. Hắn tự vả vô mặt mình để biết mình quả thật còn sống. Bấy giờ hắn mới nhận ra rằng mình đang nằm dài trên sàn, tay nắm bức thư nhàu nát, cả người ướt đẫm mồ hôi!Hắn bỗng bật ngồi dậy mừng rỡ như điên trước hai cặp mắt kinh ngạc của anh chị Khang. Anh Khang ôm hai vai hắn lắc mạnh:

– Chú Tuấn, chú Tuấn! Chú có sao không, chú đừng làm tôi sợ đó nha!

– Dạ thưa không sao ạ! Tuấn vừa trải qua cơn ác mộng hãi hùng!

Hắn mỉm cười vả lả đứng dậy ngồi ở mép giường. Anh Khang buông hắn ra, thở phào. Chị Khang nhẹ nhàng lên tiếng:

– Trời đất! Cái chú này ngủ mơ thấy gì mà la hét um trời, khiến anh Khang phải tông cửa xông vào vì tưởng chú... ! Hay là lại thấy Việt Cộng rượt đuổi như anh Khang vẫn bị?

– Dạ không, Tuấn thấy sắp bị “head-on” với một chiếc xe chạy ngược chiều trên cầu Bay Bridge, rồi lao thẳng xuống biển đen ngòm!

– Cầu Bay Bridge có từng đi qua, từng đi về riêng biệt làm sao head-on cho được?

– Chắc cha tài xế say rượu chạy lộn đường!

– Dường như chú còn trong mơ!?

– Ừ nhỉ!!!

Hắn mỉm cười tỏn tẻn, với chiếc khăn vắt trên đầu tủ, lau mồ hôi nhễ nhại và nói:

– Thôi anh chị đi ngủ lại đi, Tuấn xin lỗi! Chắc khuya lắm rồi phải không ạ?

Chị Khang ái ngại hỏi:

– Khoảng 4 giờ sáng rồi! Tối nay chú vẫn chưa ăn. Chú có đói không chị đi nấu cho chú tô mì gói?

– Dạ cám ơn chị, Tuấn vẫn không đói! Anh chị đi nghỉ đi, mai còn đi làm sớm!

**********

Hắn tắt đèn nằm vật xuống nệm, vắt tay lên trán, suy nghĩ về giấc mơ như thật vừa qua mà cũng cảm thấy lòng dạ bùi ngùi. Hắn lại bật đèn mở thư ra đọc tiếp dù đã thuộc nằm lòng! Hắn thì thầm trong bóng tối: “Thu Dung ơi, em đã vuột khỏi tầm tay anh ở cuộc sống bon chen này; mỗi chúng ta đã thực sự bước vào ngả rẽ. Em đã quay lưng bước đi, chỉ riêng anh đứng lại trông theo với nhiều nuối tiếc! Anh cầu xin đấng thiêng liêng ban cho em thật nhiều hạnh phúc và may mắn trong đời! Anh biết chắc, rất khó để anh có thể quên được hình bóng của em. Anh cũng chưa biết anh sẽ bắt đầu từ đâu trong cuộc sống tha hương khắc khoải này, sau những hoài mong diệu vợi!” Hắn cố dỗ giấc ngủ trở lại nhưng không thể nào chợp mắt được. Tiếng kim đồng hồ gõ từng nhịp giữa đêm thanh vắng nghe rõ mồn một làm hắn sốt ruột vô cùng. Hắn ngồi dậy lấy bút viết vội những trào dâng trong tâm khảm:

“Ta ngồi chép lại pho tình cũ

Gọi trái tim đau nhỏ mực buồn

Sầu đọng chân mây trời viễn xứ

Vo tròn hoài niệm góc quê hương...”

 

Yên Sơn

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Feb/2025 lúc 9:11am

Chuyến Bay Cuối Cùng


Tình hình trong phi trường Đà Nẵng càng lúc càng tồi tệ, từ vùng núi phía tây, quân cộng sản Bắc Việt đã nã pháo 130 ly vào phi đạo khiến các chuyến bay vận tải chuyển người về Nam phải ngưng lại. Hành khách chen lấn đổ xô lên những chuyến bay C-130 đến nỗi trưởng phi cơ phải ra lệnh vừa đóng nắp bửng vừa di chuyển ra phi đạo. Có những người bị bị kẹt trong buồng bánh phi cơ về tới Sài Gòn mới biết ..

Trong tình thế đó, phi công chính của chiếc trực thăng vận tải Chinook CH-47A đã quyết định cất cánh rời phi trường Đà Nẵng với hơn 60 hành khách gồm hầu hết là thân nhân gia đình quân nhân tạm lánh nạn qua phi trường Non Nước bên vịnh Tiên Sa sát biển, còn ổn định dưới sự trấn đóng của quân phòng ngự TQLC. Phi hành đoàn gồm phi công chính Đại úy Phạm-Văn-Kiến, phi công phụ Trung úy Nguyễn-Đình-Hương, hoa tiêu Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và hai xạ thủ đại liên. Tờ mờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hành Quân cùa Sư Đoàn TQLC bắt đầu xuống tàu Hải quân HQ .402 vừa ủi dọn bãi đón quân tại Non Nước.

*

Tình thế lại dao động khi Thiết Giáp nghe tin TQLC rút quân đã ùn ùn từ trong Đà Nẵng chạy ra hướng biển. Lo sợ quân lính TQLC đồn trú cưỡng bức chiếc trực thăng vận tải vốn đã đầy người. Đại úy Kiến quyết định rời Non Nước, dự tính bay về phi trường Phù Cát. Thời tiết xấu với mây mù xuống thấp và gió lớn. VớI trọng tải quá mức. phi cơ không thể nhấc lên cao khỏi tầng mây thấp, không định rõ tầm quan sát, phi công phải nhờ người hạ sĩ quan xạ thủ ra dấu bên trái là biển và bên phải là cát đề tiếp tục bay dọc theo bờ biển về Nam.

Sau hơn một giờ bay, khi nhìn xuống chỉ thấy ruộng muối mênh mông, sợ lạc hướng Đại úy Kiến đã kéo lệch con tàu về hướng đất liền và bắt buộc phải bay rà thấp cách mặt đất chỉ vài trăm bộ Anh, khi bay ngang Sa Huỳnh, quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, quân du kích vc đổ ra chĩa súng trường bắn lên như pháo tết, đạn AK gây tử thương cho 4,5 người, khiến hành khách bấn loạn. Phi công phụ Trung úy Nguyễn Đình Hương bị trúng đạn, máu loang đỏ bộ quần áo phi hành màu xanh xám, Đại úy Kiến thấy nguy cơ trước mắt nhưng vẫn lên tiếng trấn an Hương khi vị sĩ quan này dự định tự sát vì không muốn trở thành gánh nặng cho đồng đội

“ Đừng làm vậy, để tao lái một mình được rồi. “

*

Đại úy Kiến kéo cần lái nhấc đầu chiếc Chinook lên cao dướI làn mưa đạn của Việt Cộng dướI đất bắn lên. Chiếc Chinook từ từ cất lên cao. 1000 bộ, 2000 bộ. Bỗng chiếc tàu như con ngựa bất kham, khựng lạI rồI chúi xuống, kim đồng hồ áp suất sụt xuống, động cơ nổ lụp bụp. Đại úy kiến cố kìm cần điều khiển, tai họa chụp xuống ngay trước mắt.

Dù tay bị thương nhưng Trung úy Hương lấy lại bình tĩnh phụ kéo cần lái cho phi cơ từ từ đáp xuống, như một phép lạ, chiếc trực thăng bị trúng đạn lỗ chỗ chỉ hơi chao đảo rồI hạ cánh ép buộc xuống bờ biển, một nửa thân tàu ngập nườc, một nửa nằm chênh vênh trên bãi cát. Mọi ngườI ùn ùn chạy thoát ra ngoài, thất kinh hồn vía. Tiếng súng VC lại vang lên từ hướng Sa Huỳnh, Phổ Châu, mạnh ai nấy chạy thoát thân về hướng Nam. Người cha ruột của Đại úy Kiến vốn di tản từ Huế vô Đà Nẵng đã chạy theo con trên chuyến tàu, lo sợ hốI thúc lôi tay con chạy theo đám đông. Trong khi ấy Đại úy Nguyễn Anh Dũng đã chạy lên tháo dây nịt an toàn ghế phi công phụ rồI bồng ẵm Trung úy Hương lên bờ cát. Trung úy Hương máu đã đẫm ướt bộ đồ bay, tay cầm súng ru-lô hét lớn:

“ Tao đã bị thương nặng, thà chết không để bọn việt cộng bắt.”

Nói rồi Hương quay mũi súng qua hướng người yêu đã theo chân từ Đà Nẵng nói :

“ Mình cùng chết không để cho tụi vc bắt nghe em .”

Viên đạn ru-lô xuyên qua ngực phải ngườI con gái, khiến nàng ngã xuống ngất lịm, nhưng nàng đã sống sót nhờ viên đạn đi lệch lên vai phải. Hương đưa súng qua tay Dũng nói lớn :

Mày bắn tao, tao theo Đạo Chúa không tự tử được!

Trong cơn chấn động, trước viễn ảnh quân cộng sản đang tràn tới, Dũng bình tĩnh cầm khẩu ru-lô P.38 nổ ngay vào màng tang của Hương rồi quay mũi súng vào đầu mình bóp cò. Súng không nổ, vẫn ở tư thế quỳ hai chân, Dũng bình tĩnh mở trục đạn xoay một nấc rồI đưa súng lên bắn vào màng tang. Anh ngã xuống bên cạnh xác đồng đội trước những cặp mắt kinh hoàng nể sợ của những người chứng kiến .

Sau đó bọn VC cũng đã gom bắt những ngườI sống sót giải về làng. Xác hai người phi công trực thăng Chinook Phi Đoàn 247 được đồng bào chôn cất tử tế ngay sát bờ biển làng Phổ Châu, quận Đức Phổ. Quảng Nam vào giờ Ngọ ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Những ngày sau đó bắt đầu những trang sử khốc liệt bi hùng, những ngày đen tốI của miền Nam Việt Nam Tự Do .

*

Mãi tớI năm 2003, sau khi đến định cư tại Hoa Kỳ, Đại úy Kiến gửi một lá thơ ngắn nhờ đọc trên đài phát thanh Little Saigon về hai ngườI Sĩ Quan Anh Hùng Bất Khuất đã vùi thây tại Sa Huỳnh. Gia đình của Đại úy Nguyễn Anh Dũng và Trung úy Nguyễn Đình Hương đã bắt liên lạc với tin tức chính xác về địa điểm chôn cất và nhờ anh ruột của Tr./u. Hương còn ở Việt Nam và người thân của Đ/u Dũng tìm đến tận nơi làng quê hẻo lánh này để hốt cốt đem về Nam an táng.

Khi được tin, dân làng đã đổ xô tới và lên tiếng xin cho hai vị “Thần Làng” được để nguyên tại đây. Theo lời dân làng thì hai phi công tự tử này rất linh thiêng và được dân làng dựng miếu thờ. Nhưng do nguyện vọng của gia quyến bên Mỹ hài cốt của hai người phi công Anh Hùng đã được đưa về Nam an táng.

Trong cuộc chiến chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam, hàng ngàn anh linh hào kiệt của QLVNCH đã ngã xuống cho an nguy của dân tộc, cho sự bình an của hậu phương đến nay vẫn còn là những chiến sĩ vô danh, trong ấy có phi công Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và phi công Trung úy Nguyễn-Đình-Hương của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa .


Trần Ngọc Toàn

(Trần Ngọc Toàn là một Tiểu đoàn trưởng TQLC, xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt năm 1962, Khóa 16 )"

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Feb/2025 lúc 10:17am

Những người trai oai hùng đã "Tàn" nhưng không "Phế"

Những%20thương%20phế%20binh%20VNCH%20không%20có%20Tết%20-%20Nguoi%20Viet%20Online

 “Sau ngày 30 tháng 4, 1975 gia đình tôi sống khổ sở vì không có công ăn việc làm. Chúng tôi trở nên những kẻ nghèo đói trong xã hội mới. Chúng tôi đành phải sống tạm trong khu nghĩa địa, hằng ngày tôi lê đi bán vé số nuôi mấy đứa con dại. Sống giữa đám mồ mả ẩm thấp, hai vợ chồng bị mắc bệnh lao. Con nhỏ đau ốm èo uột. Vừa rồi đứa con nhỏ 6 tuổi do suy dinh dưỡng bị lao màng bụng, viêm bàng quang với thận rỉ máu phải đi điều trị ở bệnh viện nhi đồng. Thế là bao nhiêu vật dụng trong gia đình phải đem đi bán để lo cho nó. Nhưng vì không đủ tiền cho nên vợ tôi phải ôm con trốn về. 



Chưa được bao lâu bệnh tình của nó trở nên nguy kịch cho nên lại phải đưa vào bệnh viện cấp cứu ở trung tâm lao Phạm Ngọc Thạch. Nhưng không còn kịp nữa.


Cháu đã qua đời. Nửa đêm đem xác con về nhưng chúng tôi kiệt quệ không có tiền mua đất mướn người để chôn cho cháu. Người hàng xóm thương tình cho ván đóng hòm rồi lén lút chôn cháu ở ven hông vườn nhà. Bây giờ tôi không còn đủ sức để đi bán dạo nữa. Đành phó mặc số phận cho vợ con. Vợ tôi cũng mang bệnh như tôi nhưng bà cũng phải dắt con đi bán vé số để kiếm sống cho gia đình. Bây giờ chỉ biết cầm cự được ngày nào hay ngày đó”.


Đó là tình hình bi đát của gia đình thương phế binh Nguyễn Văn Hổ, hiện cư ngụ tại huyện Châu Thành, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Trước 75, anh phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân. Trong một cuộc hành quân nhằm giải vây cho một đơn vị bạn đang bị bao vây ở mật khu Tống Lê Chân anh bị thương, bị trúng đạn vào đầu. Tuy may mắn không chết nhưng anh bị liệt nửa thân người. Ngày 30/1/75 anh được giải ngũ vĩnh viễn với mức độ tàn phế 90% nhưng chưa kịp được hưởng trợ cấp thương binh của chính phủ Sài Gòn thì nước mất và nhà anh tan.


Một trường hợp khác là TPB Đào Ngọc Khanh trước thuộc tiểu đoàn 8 TQLC. Anh bị thương ngày 31/3/73 tại tiền đồn Quảng Trị. Anh bị bắt làm tù binh và bị đưa đi tù ở miền Bắc. Được trả về sau ngày 30/3/75 với một chân trái còn lại, trôi nổi theo cuộc sống với những nghề thấp hèn nhất của xã hội là bán nhang và bán vé số.


Trong số những hoàn cảnh đau xót nhất xảy ra sau ngày 30 tháng Tư 1975 tại Sài Gòn là các TPB của quân lực VNCH bị đuổi ra khỏi bệnh viện Cộng Hòa dù cho những vết thương chiến tranh của họ vẫn đang còn rỉ máu. Từng đoàn thương binh, nối gót dắt dìu ra cổng. Người sáng mắt dẫn đường kẻ mù loà, người bị thương nhẹ cõng người bị thương nặng. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi, nước mắt quanh tròng những nạn nhân bị bỏ rơi, không thượng cấp, không đồng đội và cũng không còn hậu phương. Một số sau đó chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị.


Trong đoàn người bất hạnh đó có TPB Nguyễn Đơn. Anh trước là thiếu uý Trung Đội trưởng Địa Phương Quân, bị thương ngày 2/4/1975 tại chi khu Tam Bình. Anh bị cụt 2 chân trên đầu gối và mức độ tàn phế là 100%. Anh may mắn được sống còn nhưng hiện đang sống thiếu thốn, sống khốn khổ và sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt cùng cha mẹ già đã hơn 80 tuổi và đứa em gái 45 tuổi bị bệnh câm điếc bẩm sinh.



Đó là ba trường hợp thương tâm trong hàng trăm ngàn "mảnh đời rách nát" còn lại ở VN mà tôi biết được qua hội Tình Thương Foundation. Thương Phế Binh QLVNCH, các anh là ai? Trường hợp thứ nhất, TPB Nguyễn Văn Hổ sinh năm 1955. Trường hợp thứ hai, TPB Đào Ngọc Khanh sanh năm 1953 và trường hợp thứ ba TPB Nguyễn Đơn sinh năm 1954. Có nghĩa là lúc các anh bị thương và lúc nước mất nhà tan các anh chỉ đang ở độ tuổi đôi mươi. Các anh là những thanh niên lớn lên trong giai đoạn lịch sử nghiệt ngã, oan khiên đang bị họa Cộng Sản xâm lược âm mưu thôn tính toàn vẹn lãnh thổ nên các anh đã phải lên đường thi hành bổn phận người trai thời chiến. Các anh chiến đấu vì lý tưởng, các anh chiến đấu để gìn giữ từng tấc đất của thôn xóm, của quê hương.


Các anh là những người thanh niên tuổi trẻ tạm gác bút nghiên, rời sân trường để bước vào quân trường cho tới khi các anh thề một lòng Vị Quốc Vong Thân. Khoác lên mình bộ đồ trận, mang lên lưng mình ba lô hành quân nặng nề nặng tình quê hương và đội lên đầu mình chiếc nón sắc xanh tròn, xanh như tuổi xanh của các anh và căng tròn như tấm lòng sắc son của các anh đối với dân tộc. Các anh đã trở thành người lính thực thụ. Các anh trưởng thành cùng với vận nước. Các anh bước đi tay bồng súng và chân mang giày trận làm kinh kha đi chống giặc giữ quê hương. Các anh đã đi qua và dẫm nát những địa danh như Kontum, Pleime, Ashau, Ia-Drang, ... Anh đã dự những trận chiến oai hùng từ Đồng Xoài, Ấp Bắc, Bình Giã đến Tống Lê Chân, Bình Long, An Lộc để giữ cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại, để giữ cho người dân được sống no ấm ở hậu phương.


Nhưng lịch sử đã sang trang tháng 4 năm 75. Hình tượng người lính VNCH bị giật đỗ rơi xuống vỡ tan trên đường phố, nhưng từ đó các anh anh thực sự đứng lên oai hùng trong trái tim người dân miền Nam. Từ ngày Sài Gòn bị cưỡng chiếm và từ khi những bộ đội CS chập chững, ngỡ ngàng và ngốc nghếch bước chân vào thành phố người dân mới thật sự hiểu được giá trị của người lính quốc gia. Hai mươi năm chiến tranh với hàng trăm ngàn sinh mạng người lính cùng vài trăm ngàn thương binh đã để lại những phần thân thể của họ trên những chiến trường khốc liệt của miền Nam.



Những giờ phút cuối cùng, dầu biết nước sắp mất, chết chỉ uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu ở những cứ điểm cuối cùng của miền Nam từ Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa đến Sài Gòn. Tất cả là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt. Bao nhiêu năm qua rồi, chúng ta đã làm gì để tri ân người lính VNCH? Chúng ta, những người tị nạn tầm gửi, đã từng sống nhờ trên máu xương của người lính miền Nam.


Đã đến lúc chúng ta phải vinh danh người lính VNCH. Những ai còn sống sót tới ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Chúng ta hãnh diện vì có được những anh hùng làm rạng danh nước Việt. Họ đáng được ca tụng và kính phục. Họ đã nằm xuống vì quê hương dân tộc. Họ đã để lại một phần thân thể hay cả thân xác trên quê hương vì chính nghĩa quốc gia tự do. Ngày nay, vẫn còn nhiều thương phế binh lê lết phần thân thể còn lại của mình trên khắp các nẻo đường đất nước. Nhìn thấy những hình hài không nguyên vẹn ấy, có phút giây nào chúng ta nghĩ tới và tự hỏi “Họ là ai” hay không?



Họ là những người lính tàn phế sau cuộc chiến nay phải sống những cuộc đời cơ cực, lang thang bên lề cuộc đời, rách nát và bơ vơ như một người xa lạ. Họ là những người lính oai hùng trong thời chiến và nay là người tù, người tàn phế trong thời bình. Họ “tàn nhưng không phế”. Những TPB bị bỏ lại sau cuộc chiến chẳng những bị bỏ rơi trong bệnh tật và nghèo đói cùng cực, không được giúp đỡ, mà trái lại họ còn bị bạo quyền CS hất hủi, trù dập, chà đạp lên danh dự và xua đuổi ra khỏi những sinh hoạt xã hội bình thường. Họ bị lưu đày trên chính quê hương họ.


Người CS đẩy họ xuống đáy trầm luân. Có ai trong chúng ta, có người chưa từng đóng góp gì cho chính nghĩa quốc gia, cảm thấy thẹn với mình khi đã đôi lần tỏ ra hãnh diện vì mình nói tiếng Anh lưu loát hơn họ, nhà to cửa rộng, xe đẹp và con cái thành tài hơn họ? Có ai trong chúng ta sẵn sàng hy sinh một bữa tiệc đắt tiền ở một nhà hàng danh tiếng, hy sinh một hai tấm vé vào cửa của một đại nhạc hội tưng bừng, hy sinh một buổi tiệc vui chơi cùng bè bạn, một buổi tiệc dạ vũ để bỏ tiền ra đóng góp một cách thiết thực hầu xoa dịu phần nào nỗi đau khổ và nhọc nhằn của người TPB bất hạnh?


Chúng ta người Việt hải ngoại là những người được may mắn hơn họ, được sống trong tự do và sung túc. Chúng ta đã mất nước, chúng ta đã mất cả nơi chốn dung thân để phải tha hương lưu lạc khắp mọi phương trời. Chúng ta đã mất mát nhiều thứ, gần như tất cả, nhưng những người thương binh như các anh còn mất mát nhiều hơn nữa, các anh đã mất một phần thân thể, mất tuổi trẻ, mất tình yêu và cả tình người. Trong cuộc đời này không có điều gì cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho người khác được sống. Vậy mà các anh đã hy sinh. Sự hy sinh của các anh là sự hy sinh chính đáng, cao quý và đáng kính trọng.



Chúng ta nên có ý thức trách nhiệm giúp đỡ những người TPB và gia đình của họ, bởi chính họ đã một thời vì lý tưởng Tự Do, vì chính nghĩa Quốc Gia và vì sự an bình của quê hương mà chiến đấu và hy sinh. Chúng ta không những không nên làm ngơ mà trái lại phải biết tri ân và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải được hưởng từ lâu. Chúng ta hãy đem lại cho những người Thương Phế Binh VNCH ở quê nhà một niềm tin, để họ biết rằng bên kia bờ đại dương, những bạn đồng ngũ, đồng bào và cả thế hệ sinh sau, đẻ muộn, vẫn luôn luôn nghĩ đến thân phận cùng sự hy sinh cao cả của họ. Chúng ta có bổn phận đóng góp một cách thiết thực hầu xoa dịu phần nào nỗi đau khổ và nhọc nhằn của người Thương Phế Binh VNCH bất hạnh.


Trần Việt Trình





Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Feb/2025 lúc 10:25am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Feb/2025 lúc 9:18am

Thái Độ Vô Cảm

 

Vô tình thấy bản tin cũ, với tựa đề: “Prayers and tears mark 20 years since the Indian Ocean tsunami that killed some 230,000 people”, by Reza Saifullah and Edna Tarigan, trên ***ociated Press, Updated 8:36 AM CST, December 26, 2024, tôi tò mò, “bấm” vào, đọc tiếp:


BANDA ACEH, Indonesia (AP) — People gathered in prayer and visited m*** graves in Indonesia’s Aceh province on Thursday to mark 20 years since the m***ive Indian Ocean tsunami hit the region in one of modern history’s worst natural disasters.

Many wept as they placed flowers at a m*** grave in Ulee Lheue village, where more than 14,000 unidentified tsunami victims are buried. It is one of several m*** graves in Banda Aceh, the capital of Indonesia’s northernmost province, which was one of the areas worst hit by a magnitude 9.1 earthquake and the m***ive tsunami it triggered...


Đọc đến đây, tôi bị xúc động mạnh, tự hỏi: Cũng là người Á-Đông, tại sao người Indonesians lại có tâm hồn vĩ đại và trái tim đầy ắp tình người để đặt vòng hoa tưởng niệm hơn 14 ngàn nạn nhân của sóng thần và địa chấn xảy ra cách nay 20 năm?

Còn người Việt Nam?

Hai cuộc chiến tàn khốc trên quê hương Việt Nam do người cộng sản Việt Nam (csVN) – dùng vũ khí của Trung cộng và Nga – chủ xướng/xách động để đánh Pháp/đánh Mỹ có cần thiết hay không mà phải đưa cả triệu triệu người, gồm Việt Nam/Pháp/Mỹ, vào cõi chết?

Như trong vài bài trước tôi đã viết: Pháp, cũng như Mỹ, muốn hiện diện tại Việt Nam chỉ với mục đích ngăn chận sự bành trướng của Trung cộng trên Biển Đông. So sánh tình trạng Biển Đông trước 1975 và sau 1975, quý độc giả cũng sẽ nhận ra hệ quả tệ hại trên Biển Đông sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam Việt Nam!

Chỉ còn khoảng hơn 02 tháng nữa là đúng 50 năm ngày kết thúc cuộc chiến tương tàn trên Quê Hương Việt Nam. Người Việt Nam cùng thời đại với tôi – thuộc miền Nam Việt Nam – chắc chắn vẫn chưa thể nào quên được những cuộc tấn công rất quy mô/tàn bạo/dã man do người csVN vượt vĩ tuyến 17, xâm phạm các Hiệp Định Ngưng Chiến, tạo nên cho người miền Nam chúng tôi.


Theo sự ghi nhận của Wikipedia, năm 1995, Việt Nam loan báo về sự thiệt hại nhân mạng trong cuộc chiến trên đất nước Việt Nam, từ 1954-1975, là: Khoảng 02 triệu thường dân, thuộc cả 02 miền Nam/Bắc; khoảng hơn 01 triệu “bộ đội ông Hồ” và Việt cộng. Quân Lực Hoa Kỳ phỏng đoán khoảng từ 200 ngàn đến 250 ngàn quân thuộc Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị thương vong; Nam Hàn, hơn 4,000 quân tử trận; Thái Lan, khoảng 350 quântử trận; Úc Đại Lợi, thiệt hại khoảng hơn 500 quân; New Zealand khoảng 30 đến 40 quân tử trận; Mỹ, 58,300 quân tử trận hoặc mất tích. Link: 

https://www.britannica.com/question/How-many-people-died-in-the-Vietnam-War

Không biết bao nhiêu ngàn lần tôi tự hỏi: Tại sao năm 1954, sau khi Hiệp Ước đình chiến được ký kết – trước khi “bộ đội ông Hồ” tập kết ra Bắc – “bộ đội ông Hồ” đã “gài” lại không biết bao nhiêu cán bộ nằm vùng? Người miền Nam gọi cán bộ nằm cùng là Việt cộng – do hai danh từ Việt Minh/cộng sản ghép lại. Nếu người csVN không có ý đồ đen tối thì tại sao người csVN lại chỉ thị cho “bộ đội ông Hồ” “gài” cán bộ ở lại miền Nam?

Sau tháng 7/1954, chính phủ VNCH được Hoa Kỳ và đồng minh của Hoa Kỳ viện trợ. Chính phủ csVN nhận viện trợ từ Trung cộng/Nga/các nước trong khối cộng sản quốc tế. 

Từ đó đến nay, có bao giờ người miền Nam “miệt thị”/lên án hành động của Trung cộng và các nước cộng sản trợ giúp “bộ đội ông Hồ” chưa?

Chưa! 

Ngược lại, chính tôi – vì cần tài liệu để tham khảo, thường tìm đọc/nghe/thấy những danh từ/động từ rất khiếm nhã do người csVN “tặng” các cấp lãnh đạo của miền Nam Việt Nam; “tặng” người lính VNCH và người Mỹ. Gần đây, có lẽ đã nhận ra được sự “quá đà” của chính mình, người csVN hơi “dịu giọng” mỗi khi đề cập đến VNCH hoặc người Mỹ. Cũng có thể, bây giờ, người csVN mới nhận thức được rằng: VNCH cũng như người Mỹ không tàn ác như những lời mà người csVN đã bị cấp lãnh dạo csVN “nhồi sọ” từ thuở bé thơ.


Nếu Mỹ “ác”, tại sao năm 1954 – sau khi Hiệp Định Genève được ký kết với thỏa thuận: Nam Việt Nam thuộc Cộng Hòa; Bắc Việt Nam thuộc cộng sản – hơn triệu người Bắc lại rời Hà Nội, xuống “tàu há mồm” (Dương Vận Hạm, LST: Landing Ship Tank) của Mỹ để được Mỹ đưa vào Nam Việt Nam?

Nếu Mỹ ác thì tại sao Hải Quân Mỹ lại đẩy trực thăng xuống biển để dành chỗ cho người Việt di tản, 30/04/1975, được “tá túc” an toàn trên chiến hạm của Mỹ?

Nếu Mỹ ác thì làm thế nào thế hệ di dân thứ hai và thứ ba của người Việt di tản được vào học các trường đại học danh tiếng của Mỹ và thành công vượt bậc như ngày nay?

Nếu Mỹ ác thì tại sao, hiện nay, không biết bao nhiêu ngàn người Việt thuộc thành phần csVN đang sống tại Mỹ? 

Ngược lại, nếu người csVN là thành phần tốt, tại sao chưa có cuộc di cư nào của người Việt từ miền Nam ra Bắc?


Nếu người csVN là thành phần tốt, đã “giải phóng?” miền Nam Việt Nam, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khỏi sự “kềm kẹp!?” của Mỹ “Ngụy” – như lời tuyên truyền vô ý thức của người csVN – thì tại sao người Việt Nam không ở lại Việt Nam để hưởng thái bình mà người Việt Nam lại liều chết, “tuôn” ra khơi theo Mỹ “Ngụy”?


Cho đến nay – sau gần nửa thế kỷ sống dưới sự cai trị đầy sắt máu của người csVN – theo tin trên BBC tiếng Việt, ngày 22/Aug./2024 loan báo: “Một phóngsự vào đầu tháng 5/2024 của Đài Á châu Tự do (RFA) chỉ ra nhiều người Việt Nam chi khoảng60.000 - 75.000 USD (1,5 tỷ - 1,9 tỷ VND) cho toànbộ hành trình từ Việt Nam sang Mỹ bất hợp phápbằng cách băng qua những khu vực nguy hiểm ở Nam Mỹ và Trung Mỹ...”. 

Link: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cy0rqznelpzo


Câu hỏi được đặt ra – nhưng người csVN không thể nào trả lời một cách lương thiện – là: Lúc nào người csVN cũng lạm dụng hai chữ “nhân dân”, như: Quân đội nhân dân/công an nhân dân/tòa án nhân dân/đại biểu nhân dân/lực lượng vũ trang nhân dân, v.v... Nhưng tại sao khi các “lực lượng nhân dân” này của csVN đi đến đâu thì máu của nhân dân Việt Nam cũng tuôn tràn lênh láng?


Nếu quý độc giả trẻ, sinh sau 1975, chưa hề thấy cảnh người csVN tàn sát dân lành, nghĩ rằng Điệp Mỹ Linh viết không thật thì kính mời quý vị vào Google, tìm đọc cuốn tài liệu lịch sử Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975, do Điệp Mỹ Linh biên soạn. Trang 79, Chương V, ghi lại Những Biến Chuyển Quân Sự và Các Cuộc Rút Quân thì quý vị sẽ rõ!

Trong tất cả Các Cuộc Rút Quân đẫm máu do Hải Quân VNCH thực hiện dọc miền Duyên Hải Việt Nam, đến tháng 03/2025 là đúng nửa thế kỷ, quý vị sẽ nhận ra ai – Hải Quân VNCH hay “quân đội nhân dân” csVN – đã cứu vớt người dân vô tội và ai đã từ triền núi dùng hỏa tiễn 120 ly bắn vào đoàn người đang chạy loạn trên quốc lộ I hoặc đang chờ chiến hạm của Hải Quân VNCH vào đón!


Trong suốt 50 năm qua, 1975-2025, số người Việt Nam chết dọc bờ biển/dọc quốc lộ I/trên đèo Hải Vân/đèo Cả/đèo Rù Ri vì hỏa tiễn 120 ly do người csVN bắn, đã được người Việt Nam nào – không liên hệ ruột thịt – cầu nguyện/nhắc tên/thắp nhang/đặt một cành hoa để tưởng nhớ chưa? 

Chưa!

Cũng trong suốt nửa thế kỷ qua, biết bao nhiêu ngàn người Việt phải vùi thây trên biển cả để trốn chạy khỏi sư cai trị đầy sắc máu của người csVN; bao nhiêu ngàn người Việt xuất cảnh lao động – phụ nữ làm điếm/phái nam trồng cần sa; rồi bị bắt/nhốt tù – đã phải chết trong tù, đã có ai nhắc tên/cầu nguyện/thắp nhang/đặt một cành hoa để tưởng nhớ chưa? 

Chưa!

Cũng trong cuộc chiến vừa qua, 1954-1975, biết bao em bé chăn trâu/chăn bò – khoảng 12/13 tuổi – được người csVN chiêu dụ rồi đưa ra chiến trận để trở thành “anh hùng nhí”/“anh hùng trẻ tuổi”. Người csVN đã ghi trên Wikipedia với một danh sách dài/đầy đủ tên tuổi và hình ảnh của những em bé quê, ôm súng trường “bắn hạ?!” phi cơ phản lực của Mỹ. Thế thì đã bao giờ người csVN nhắc tên/cầu nguyện/thắp nhang/đặt một cành hoa để tưởng nhớ các em bé đáng thương này chưa?

Chưa!

Nhưng, sau khi Điệp Mỹ Linh viết bài chỉ trích sự vô nhân đạo của người csVN khi đưa trẻ em vị thành niên ra mặt trận trong cuộc chiến tương tàn, 1954-1975, thì người csVN đã xóa bỏ (deleted) tất cả tên tuổi/chi tiết của các em bé này khỏi Wikipedia!

Đã không tưởng nhớ nạn nhân người Việt bị thiệt mạng oan uổng dưới nòng súng của chính người csVN và những em bé xấu số đã bị chính người csVN đưa vào chiến trận, mà, trong suốt 50 năm qua, 1975-2025, cứ mỗi độ 30 tháng Tư về, người csVN lại “hồ hỡi/phấn khởi” tổ chức những buổi lễ rất “hoành tráng” để ăn mừng ngày cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam! 

Còn gì cay đắng và oái ăm hơn khi người csVN “hả hê”/vui thích trong niềm vui “tự sướng” thì người Việt Nam – trong cũng như ngoài nước Việt – đều âm thầm tưởng nhớ và cầu nguyện cho Hương Linh những em bé vị thành niên đã bị người csVN đưa ra chiến trận; người thân/bạn hữu đã tử vong trong cuộc chiến hay đã vùi thân vì hỏa tiễn 120 ly do csVN pháo kích hoặc đã “bỏ thây” trên biển cả khi trốn chạy khỏi sự cai trị đầy sắt máu của người csVN!!


Viết đến đây tôi nhận ra rằng: Người csVN đã vươn lên từ đau thương của dân tộc Việt Nam. Sau khi đạt được “thắng lợi?!” cuối cùng, người csVN không cần phải che đậy thái độ “vô cảm” – chữ của csVN – của người csVN đối với dân tộc Việt Nam nữa!


Điệp Mỹ Linh


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2025 lúc 10:59am

Tìm Thoáng Hương Xưa - Những Tấm Hình

 Khương%20Hữu%20Bá%20|%20Military%20Wiki%20|%20Fandom

Năm 1979, trong khi tôi đang trằn mình nơi miền Bắc lạnh giá thì ở Sài Gòn, mẹ tôi và bé Nga được anh Khinh chồng chị Anh đưa về quê hương Quảng Trị. Ngoài căn nhà nhỏ gần như đã mục nát trong một con hẻm ở Thị Nghè được bán đi với giá đủ để trang trải cho một chuyến xe về quê, chỉ còn lại đống sách báo mà tôi ký cóp tích lũy được trong mấy năm đi lính là có thể đem bán cân lấy chút tiền lẻ. Với quảng đường dài gần cả ngàn cây số, và phải khó khăn lắm mới mua cho được 3 tấm vé xe đò, một mình anh Khinh phải vất vả giành giựt lên xe, giành giựt để tìm chỗ ngồi ít nhất là cho hai mệ cháu, một quá già yếu, một quá bé nhỏ, giữa dòng người lúc nào cũng đông nghẹt, chen lấn, xô đẩy. Trong một túi xách chứa đống áo quần cũ kỹ của hai mệ cháu, mẹ tôi đã lén lút để lẫn vào trong đó 3 cuốn album dày cộm mang đầy hình ảnh của tôi đã chụp trong mấy năm đi lính. Mẹ tôi bảo rằng không những bà sợ gặp rắc rối với công an ở dọc đường mà anh Khinh cũng không muốn mẹ mang theo mấy thứ đồ gần như quốc cấm trong chuyến hành trình lúc đó mất cả ba bốn ngày đường với nhiều bất trắc. (Viết đến đây tôi bỗng ngạc nhiên tự hỏi, làm sao trong thời gian 4 năm trời ở đó, mẹ tôi có thể sống yên bình trong căn nhà chứa đầy sách báo, hình ảnh với đầy đủ áo quần lon lá mũ mão mà tôi để lại. Làm sao cất dấu, làm sao trả lời, đối phó với tụi thanh niên, học sinh, sinh viên mới ngày nào ngoan ngoãn dễ thương nay bỗng dưng hóa thành những Hồng Vệ Binh hung tợn, ngày ngày lùng sục, tìm tòi những thứ mà người Cộng sản cho là thứ văn hóa phản động, lai căng, đồi trụy để đem ra đốt làm cháy rực cả một góc phố mà bao quanh là những khuôn mặt non choẹt đang thả sức la hét những lời hoan hô đả đảo với những ngôn ngữ sặc mùi máu?).

Năm sau, khi tôi trở về từ trại cải tạo xa xôi ấy, những bộ tiểu lễ màu trắng lần lượt được đem nhuộm đen rồi cùng những bộ đồ hải quân màu xanh nước biển, tất cả trước sau theo tôi mỗi ngày đi lao động trên ruộng đồng hay trong lò gạch. Vậy là dấu ấn Hải quân trong tôi hầu như mất hết chỉ sau hai năm lăn lóc với cuộc đời mới. Chỉ còn 3 cuốn album mà mẹ đã cất dấu, vất vả mang theo là những lưu vật cuối cùng mang dấu tích của một thời. Nó trở thành một vật “gia bảo”. Thời gian đầu, sau những buổi làm việc nặng nhọc nơi lò gạch hợp tác xã trở về, tôi thường nằm dài trên giường, chờ bữa cơm trưa đạm bạc mà mẹ đang lúi húi nấu trong căn bếp nhỏ như cái lỗ mũi dưới kia. Rồi để quên đi nỗi buồn thân phận, xót xa cho tương lai, tôi thường lôi mấy cuốn album từ đáy chiếc thùng đạn 20 ly đựng quần áo ra để tìm lại những hình ảnh của quá khứ, từ đó đắm mình vào những hoạt động sôi nổi cuả một thời tuổi trẻ mà quên đi hiện thực khổ ải cùng cái nắng gay gắt của những buổi trưa hè.

Những hình ảnh của một quá khứ không xa đã kéo tôi trở về với bao kỷ niêm: Khi thì ở quân trường Nha trang nắng cháy với buổi đón tiếp của khóa đàn anh ngay tại sân cờ, những ngày lăn lộn trên bãi cát trắng cháy phỏng da trong thời gian huấn nhục, với những đêm di hành, những lần đi biển ói mửa đến mật xanh mật vàng trên Huấn luyện Hạm HQ 475, hay những buổi sáng hăm hở với bộ đồ trắng ra phố Độc lập Nha trang để nghe tiếng “chiều vàng ai ngóng đợi” (Đỗ Quảng). Khi thì đi thực tập trên đệ thất hạm đội Mỹ để có dịp làm quen với cái không khí được ghé vào những bến bờ xa lạ ở Subic Bay của Phi luật tân; hay Yokosuka, Tokyo, Sasubo của Nhật bản. Khi thì buổi sáng từ trên Tạm trú Hạm đậu ở cầu B bến Bạch đằng Sài Gòn nhìn qua vùng Thủ Thiêm đầy sương khói cho đến đôi mắt rũ kín u buồn trên vùng Năm Căn – Cà Mâu với muỗi mòng chiến địa…Và trên hết là hình ảnh của những người con gái đã đi qua một lần trong đời để rồi bây giờ đã bị lãng quên như đã qua một giấc ngủ dài.

Không hiểu từ đâu mà sau đó cả mấy tháng ròng rã, hầu như ngày nào mấy cô chú học sinh nhóc con học cấp 2 của trường Hải Thượng đi học về cũng kéo nhau vô nhà nài nỉ xem cho được những hình ảnh trong ba cuốn album ấy. Thường tôi không có nhà nên mẹ tôi cứ tự nhiên đem ra cho chúng xem, ngắm nghía, trầm trồ, bàn luận. Căn nhà tranh tre với vách được che bằng những tấm tôn rách do bom đạn nên trống huơ trống hoác bỗng trở thành phòng triển lãm bất đắc dĩ. Nhìn bọn trẻ vui cười, đùa giỡn trên chiếc giường cũ kỹ mà hai mệ cháu nằm, bà vui vẻ và hãnh diện lắm. Đợi đến khi tôi đi làm về, mẹ thường đem những lời bình phẩm đó kể lại trong bữa ăn như một chút gia vị cho bữa cơm và có thể còn ươm mầm cho cuộc sống. 

Nhưng không may, trận lụt lịch sử năm 1983 đã xóa đi gần như hết cả 3 cuốn album. Chỉ còn lại vài tấm hình màu chụp khi đi thực tập trên tàu Mỹ là còn lại chút dấu vết mờ ảo do thuốc màu in lên tấm nylon bao bọc. Sự mất mát này tuy làm tôi buồn tiếc một thời gian nhưng không ảnh hưởng đến cuộc sống, vì từ khi có con, đối phó với những khó khăn mới cũng đã chiếm hết thì giờ và tâm trí. Và rồi thời gian cũng làm quên. Cho đến một ngày khi vợ chồng chúng tôi chuẩn bị cho chuyến hành trình dài qua Mỹ, tôi lại nhớ đến chúng. Vì dù có mờ ảo chăng nữa, nó cũng để lại một ít chứng tích để có thể chứng minh với nhân viên phỏng vấn Mỹ về cái quá khứ đã từng phục vụ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Và quả thật, buổi phỏng vấn đã đi qua nhẹ nhàng, một phần cũng nhờ vào mấy tấm hình đã hoen ố.

Bây giờ ngồi đây, đã gần 3 năm sau cái tuổi thất thập, nhìn những người bạn cũng già như mình đang vội vã tìm gặp nhau để tìm lại chút quá khứ, vội vã dùng cell phone để lưu lại chút dấu tích cho những ngày cuối cùng, lòng tôi cũng thấy rộn niềm vui. Rồi một ngày những tấm hình hôm nay cũng sẽ tàn phai vì sau khi khuất bóng, có ai trong đám con cháu chúng ta còn lưu giữ lại chút quá khứ của ông bà? Nhưng nghĩ làm gì xa xôi chuyện ấy, chỉ biết vui với hiện tại, nâng niu trân quý những gì mình có hôm nay để khi ra đi thì nhẹ nhàng thanh thản, mỉm cười như đi về vùng miên viễn.

Đào Dân


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Feb/2025 lúc 11:03am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 12:37pm

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn…

Ngọn%20nến%20-%20HÌNH%20ĐỘNG%20-%20Phan%20Công%20Huỳnh%20-%20Website%20Trường%20TH%20Lam%20Sơn%20-TP%20Bảo%20%20Lộc


Sau cùng, suốt 40 năm tạp ghi, viết về cựu chiến binh, viết về thuyền nhân, viết về nước Mỹ, viết về Việt Nam Cộng Hòa, lần này tôi được yêu cầu viết về một mối tình. Nói cho chính xác, viết về chuyện tình của cô nữ quân nhân thuộc hàng thấp nhất của hạ sĩ quan.


Cô hạ sĩ nhứt của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tên Lý thị Thương Uyên hiện cư ngụ tại Oklahoma City với Area code 405, giữa cơn giông bão mùa Xuân năm 2010 đã kể lại chuyện đời lính của phụ nữ Việt Nam. Cuộc đời của chính cô. Cô phàn nàn rằng sao không thấy bác viết về chuyện hạ sĩ quan binh sĩ. Không viết về người lính nữ quân nhân thực sự sống chết tại các đơn vị. Sao bác không viết về chuyện của em…



Cô Uyên gửi thư cho Dân sinh Radio sau khi nghe loạt bài về Thủy Quân lục chiến và trận Quảng Trị. Phải chăng cô biết gì về Quảng Trị. Không. Cô gái suốt đời là học sinh và suốt đời đi lính chỉ quanh quẩn ở Hậu giang và miền Tây Nam Phần, chẳng biết gì về cao nguyên, duyên hải hay miền Trung Việt Nam.


Nhưng cô có liên hệ rất nhiều với người yêu Thủy Quân lục chiến, cô nghĩ rằng trận Quảng Trị là trận của người lính mũ xanh. Cô muốn gửi di vật của trung úy thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ về cho viện Bảo Tàng tại San Jose. Lá thư viết như sau:


Kính gửi bác Giao Chỉ.


Em tên thật là Lý thị Thương Uyên hiện ở Oklahoma, xin gửi một kỷ niệm nhỏ đến bác. Mong nó được lưu giữ. Đã 40 năm qua em giữ nó như báu vật. Qua bao nhiêu cuộc bể dâu nó vẫn ở bên mình. Không biết bao lần em đã tự hỏi nếu một mai chết đi thì nó sẽ ra sao? Có thể bảo con trai liệm chung trong quan tài cho mẹ. Khi sang thế giới bên kia em sẽ gặp Vũ để trả lại cho anh. Nhưng cuộc đời này làm sao biết được ngày mai. Vậy xin bác giữ lại và đặt vào chỗ nào đó cho em yên lòng.


Kỷ vật nhỏ bé gửi kèm theo chỉ là bài thơ do trung úy thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ tặng em cuối mùa thu 1970, lúc đó đơn vị gốc của anh Vũ ở căn cứ Sóng Thần, khu Rừng Cấm, thuộc Tiểu Đoàn Ó Biển. Vũ đã chết ở trại tập trung Đà Lạt năm 1978. Đây là số điện thoại của Uyên (405)…


Đính kèm là bài thơ của anh sĩ quan thủy quân lục chiến viết chữ rất đẹp, trên những tờ giấy màu xám mỏng bỏ trong 1 bao thơ đơn sơ cũ kỹ. Góc bao thơ đề:


Vũ, thủy quân lục chiến. Gửi cho Thương Uyên.


Phía dưới là hàng chữ: “Nhờ Chỉnh chuyển giùm tao. Cám ơn.


Bài thơ mở đầu như sau:



Đọc xong lá thư của cô Uyên, đọc xong bài thơ của anh Vũ, tôi nghĩ đến người lính trẻ đã chết trong ngục tù. Nghĩ đến người nữ quân nhân còn sống ở miền giông bão Hoa Kỳ. Bèn quay số 405… hỏi thăm…


Câu chuyện tình được bắt đầu kể lại:


Uyên quê ở Tân Châu, Hồng Ngự thuộc miền quê Châu Đốc, chưa học hết trung học nhưng có tên thật đẹp như bút hiệu nên cuộc đời cũng gặp nhiều phiền phức. 16 tuổi lên Sài Gòn ở nhà cậu mợ. 18 tuổi ghi tên vào học lớp hạ sĩ quan nữ quân nhân. Năm 1970 ra trường nhưng vì thường cậy có chút nhan sắc lại ba gai nên không được mang cấp bậc trung sĩ. Cô chỉ tốt nghiệp hạ sĩ rồi được gửi đi Vũng Tàu học đánh máy ở trường Truyền Tin.



Tại đây cô gặp thiếu úy Vũ, dân Bắc kỳ. Anh được thủy quân lục chiến đưa về học lớp sĩ quan truyền tin. Mối tình kéo dài suốt thời gian cả 2 người theo học tại Vũng Tàu. Cô Uyên hỏi bác Giao chỉ có biết đại tá Tạo chỉ huy trưởng trường truyền tin không. Có, bác Tạo trước đây ở San Jose, nhưng bác đã chết rồi. Cô khóa sinh khoe rằng em được bác Tạo cho chụp hình nữ quân nhân truyền tin đang học đánh máy để treo trên tường. Như vậy chắc cô lính trẻ có nhan sắc ăn ảnh đáng được chụp hình quảng bá cho binh chủng.


Cô kể tiếp rằng mối tình với Vũ là mối tình đầu đẹp đẽ nhứt. Khi trung úy đi hành quân Cam bốt, cô Uyên đến thăm hậu cứ trại Cấm, Sóng Thần đã được các bạn đồng nghiệp cho vào phòng truyền tin nói chuyện với người yêu qua siêu tần số hành quân.


Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Tình đầu không phải là tình cuối.


Một hôm Uyên khám phá ra rằng Vũ thực ra đã có người yêu. Đó là cô Sương quê Mỹ Tho, nữ điều dưỡng ở quân y viện Vũng Tàu. Sương quen Vũ từ khi anh nằm tại bệnh viện này. Uyên là người đến sau nên cô quyết định chia tay mối tình đầu đầy nước mắt. Vũ ra vùng hỏa tuyến. Uyên đổi về quân đoàn III. Rồi sau cùng cô đổi về tiểu khu Kiến Hòa thuộc quân đoàn IV. Cô xin đi thật xa miền Đông, nhưng vẫn nhớ Vũ và giữ mãi bài thơ tỏ tình năm 1970.


Từ Hạ Lào trở về, Vũ lấy Sương, mối tình đầu của anh. Năm 1973 Uyên lấy thiếu úy Nhiều, một sĩ quan hải quân, phục vụ trên chiến hạm Trần Khánh Dư.



Từ đó Uyên yên phận làm vợ người lính biển. Khi mang bầu đứa con đầu tiên, anh chồng sĩ quan hải quân lênh đênh trên biển Đông đã dặn vợ đẻ con gái đặt tên Cam Tuyền, con trai đặt tên Hoàng Sa. Cam Tuyền cũng là tên một hòn đảo của Hoàng Sa. Và đứa con trai Hoàng Sa đã ra đời tại Mỹ Tho. Hai vợ chồng cùng khoác chiến y nhưng chiến tranh đã chia cắt gia đình thành nhiều mảnh. Chồng hải quân sống trên đại dương. Vợ trực gác tổng đài tại mặt trận sình lầy Kiến Hòa. Con trai Hoàng Sa gửi về cho bà nội nuôi ở Châu Đốc.


Cô Uyên tiếp tục hăng hái kể chuyện nhà binh.


Sau mối tình đầu dang dở, cô và chị Sương nay vợ của Vũ đã gặp nhau nối thành tình bạn gái. Cuộc đời nữ quân nhân, với cấp bậc hạ sĩ rồi vinh thăng hạ sĩ nhứt đã dành cho cô Uyên những kỷ niệm không bao giờ quên được. Cô đã từng là hoa hậu của các chiến binh độc thân trong đơn vị từ binh sĩ đến hạ sỹ quan. Vì mang cấp hạ sĩ, cô cai Uyên gần gũi với đa số lính tráng hơn là các sĩ quan.


Đêm hỏa châu làm việc dưới hầm truyền tin tiểu khu. Những anh lính ca vọng cổ tán tỉnh. Lời hò tình tứ qua máy truyền tin lẫn trong tiếng pháo kích. Hỏa châu sáng rực chân trời. Chưa bao giờ cô lại thấy nhớ đời lính như vậy.



Nhưng rồi tháng 4 - 1975 oan nghiệt chợt đến. Anh Vũ, Bắc Kỳ bỏ Sóng Thần từ biệt cô Sương đi trình diện vào tù trên Đà Lạt. Anh Nhiều, Nam kỳ bỏ vợ con ở Châu Đốc đi tù trong Đồng Tháp. Bộ binh cũng vào tù, Hải quân cũng vào tù. Cô lính trẻ có tên như tài tử nhưng chỉ mang cấp bậc hạ sĩ nhứt nên không phải đi tù. Dù vậy cô vẫn nhớ thương quân đội Cộng Hòa. Một lần chị Sương ghé Mỹ Tho gặp Uyên báo tin anh Vũ đau nặng trong trại tù. Chị em cùng đi tìm mua thuốc tiếp tế. Mấy tháng sau, Sương ghé lại với ngón tay đeo 2 chiếc nhẫn cưới. Cô vừa đi chôn chồng sau khi nhận xác từ trại tập trung. Anh lính trẻ Bắc Kỳ chết đi để lại cho những cô gái miền Tây di vật cuối cùng. Cô Sương còn cặp nhẫn. Cô Uyên có lá thư tình. Anh Vũ chết rồi. Cô Sương trợ tá quân y không bao giờ lên Đà lạt nữa. Cô Uyên truyền tin còn đi thăm nuôi chồng 3 lần ở Đồng Tháp. Rồi anh Nhiều trở về. Thêm 1 đứa con trai ra đời, anh cựu sĩ quan hải quân tuy ra tù “cải tạo” nhưng vẫn còn nhớ mãi biển Đông nên đặt tên con trai thứ hai là Trường Sa.


Năm 1992 gia đình anh Nhiều và cô Uyên đem cả Hoàng Sa và Trường Sa qua Hoa Kỳ theo diện HO 9. Hai vợ chồng cùng đi làm và nuôi con ăn học.


Nhưng sao cuộc sống hòa bình ở Hoa Kỳ không giống như thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Vợ chồng không còn hòa thuận nên chỉ ở được với nhau thêm 4 năm tại Mỹ rồi chia tay. Lần lượt những đứa con trai trưởng thành đi theo bố về Texas làm ăn. Anh Nhiều có vợ mới. Cô Uyên còn lại ở Oklahoma một mình.


Cháu Hoàng Sa lập gia đình, có 2 đứa con nhưng rồi vợ chồng nó cũng chia tay. Lúc còn ở với nhau, vợ chồng con trai đưa cháu về thăm bà nội. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất của cô hạ sĩ nhứt Thương Uyên. Nhưng bây giờ chúng nó bỏ nhau. Vợ Hoàng Sa đưa con về bà ngoại. Cha con nó còn ít gặp nhau. Chẳng ai còn ngó ngàng gì đến bà nội trẻ cô đơn nhớ đám cháu quay quắt đêm ngày. Năm nay cô mới 60 tuổi. Còn lâu mới lãnh tiền già. Cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa vẫn đi làm tự nuôi thân. Cuối năm 2009 cô bị té trong hãng nên phải nằm nhà, lãnh tiền thương tật vì tai nạn lao động. Suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Mùa Đông 2009 mưa bão triền miên chẳng ra khỏi nhà. Trải qua cái TẾT cô đơn, cô Uyên nghe đài Radio nói về Thủy quân lục chiến đánh trận Quảng Trị 38 năm về trước. Cô bèn đi tìm lá thư tình của Trung úy Vũ, cô nghĩ đến ngày mai rồi mình cũng qua đời trong quạnh hiu giữa mùa tuyết phủ nơi xứ lạ quê người.



Những đứa cháu Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của cô cũng đang bận rộn bươn trải với cuộc đời mới. Chỉ còn lại một mình, chợt nhớ về mối tình ở trường truyền tin, những vần thơ rất lãng mạn và ngây thơ của người lính trẻ Bắc kỳ. Cô hỏi bác Giao Chỉ rằng nếu bây giờ, đã gần 40 năm rồi, cô vẫn còn thấy nhớ thương mối tình đầu thì có phải tội lỗi không?


Không, cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của tôi, cô hạ sĩ quan truyền tin của tiểu khu Kiến Hòa, nàng cai sếp của tiểu đoàn truyền tin diện địa quân đoàn IV, cô không làm điều gì sai quấy khi ngồi than khóc cho chuyện tình gần 40 năm về trước. Anh chàng trung úy Bùi Năng Vũ rất xứng đáng để cô gái Tân Châu ngồi khóc ở Oklahoma, nhớ về những ngày hai đứa ngồi bên hàng dừa ở bãi sau Vũng Tàu. Anh thấy hình em treo trên tường ở phòng học đánh máy trong trường truyền tin. Trung úy thủy quân lục chiến Bắc Kỳ tạm quên cô Sương y tá bên quân y viện để gửi thư tán tỉnh cô khóa sinh truyền tin xinh đẹp. Chàng ký tên bút hiệu Châu Nguyên năm 1970 gửi bài thơ cho Lý thị Thương Uyên.

Đó là đoạn mở đầu. Và đây là những trích đoạn tiếp theo:

 

Bút tích TQLC Bùi Năng Vũ


Với lá thư tình não nuột như vậy, anh trung úy thủy quân lục chiến đã chiếm được trái tim cô gái Tân Châu. Và như chúng ta đã nghe cô hạ sĩ truyền tin kể lại, khi khám phá ra anh trung úy Bắc Kỳ bắt cá hai tay, cô đã bỏ đi để buộc anh phải trở lại với mối tình đầu. Để anh lấy chị Sương, người con gái Mỹ Tho.


Cô Uyên nói rằng, thưa với bác, em nhường Vũ cho chị Sương, nhưng em hỏi bác vì bác cũng là Bắc Kỳ, thơ này có phải thực lòng của anh Vũ không. Có phải thơ của Vũ làm không? Bác trả lời rằng, thơ này nhiều phần chính Vũ đã làm. Bác chưa từng đọc được lời thơ này ở đâu cả. Rất chơn thành tuy cũng có phần cường điệu. Người lính trên khắp thế giới đều vẫn thường đưa cái chết ra để dọa dẫm người tình và dọa dẫm cả chính mình. Ngày xưa, ở tuổi 20, mới vào quân đội, Vũ cũng là hình ảnh của những anh Bắc Kỳ như bác… Anh nào cũng thơ thẩn bước vào đời. Thơ không làm được thì chép thơ thiên hạ tán đào. Bây giờ nhớ lại, ngượng chín cả người.


Quý vị đã nghe tôi kể chuyện của cô Uyên với nội dung không phải là một bi kịch ai oán não nùng. Không hề có những tình tiết éo le rắc rối. Nhưng mối tình đầu đã làm cô tưởng nhớ về những năm còn trong quân đội. Tuy bom đạn triền miên nhưng sao lại quyến rũ như vậy. Dù cô chỉ là 1 người lính đàn bà. 18 tuổi nhập ngũ, 25 tuổi tan hàng, với 7 năm quân vụ. Bây giờ đã 35 năm sau cô vẫn còn nhớ mãi về đời lính.


Bác có nhận giữ hộ lá thư của anh Vũ không. Cô gái Tân Châu hỏi tôi như vậy. Trả lời rằng, bác sẽ lưu giữ trong Museum câu chuyện tình của anh chị. Xin gửi kèm cho bác vài tấm hình kỷ niệm. Báu vật quý giá của cô sẽ là di vật của Việt Nam Cộng Hòa. Ở đây không phải chỉ toàn là những trận đánh oai hùng. Phải có cả những câu chuyện tình hết sức đơn giản như mối tình của cô Uyên với anh Vũ, chuyện vợ chồng của anh Vũ với chị Sương. Chuyện chia tay của cô Uyên với anh Nhiều. Những đứa con mang tên Hoàng Sa và Trường Sa. Và sau cùng là chuyện cô gái cựu chiến binh, cô cai sếp Việt Nam Cộng Hòa giữa trời mưa bão mùa đông Oklahoma ngồi khóc cho mối tình 40 năm về trước.


Thưa bác, bây giờ em phải làm gì, cô Uyên hỏi tôi lần nữa.


Tôi trả lời rằng: Trung úy Vũ là người yêu đầu tiên của cô năm 1970 và bây giờ sẽ là người yêu cuối cùng vào năm 2010. Trong đoạn cuối của bài thơ, Vũ đã viết rằng tương lai của anh chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa. 


Vậy cô Uyên hãy thắp cho anh Vũ một ngọn đèn.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Ngày hôm qua lúc 12:39pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23372
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 1:13pm

Huỳnh Đạm: Người Lính Kế Toán Tác Xạ Của Tôi

 

(Trích tự truyện: Ngày Không Có Mặt Trời)


Vừa đến cửa văn phòng Ban Chỉ Huy pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi tôi gặp thiếu úy Võ Hoàng đi ra. Tôi và Hoàng cùng học lớp đệ thất 4 đến đệ tứ 4 ở trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Lên Đệ Tam tôi ban A, Hoàng ban B nên không còn gặp nhau đến bây giờ là tám năm. Cả hai đều ngạc nhiên, vừa bắt tay tôi hỏi:

- Ủa …Hoàng, sao ông ở đây?

- Mình về gặp thiếu tá Chỉ Huy Trưởng.

- Còn Tiến tới đây làm gì? đi khóa mấy vậy?

- Mình khóa 5/70, mới từ Tiểu Đoàn 20 chuyển về. Hôm nay trình diện. Ủa, Hoàng làm trung đội trưởng hả?

- Ừ, trung đội 109 đóng bên Sơn Tịnh.

Hoàng kéo tôi ra sân:

- “Vậy là có thể Tiến thay cho mình. Cách đây một tháng Thiếu Tá nói đã gởi công điện xin một Trung úy hoặc Thiếu úy thâm niên về thế Trung Đội Trưởng 109, để mình về làm Quản Trị Tiếp Vận thay cho trung úy Thành sắp chuyển đi Nha Trang”

Hai đứa hỏi thăm bạn bè cùng lớp đứa còn đứa mất? Võ Hoàng khóa 6/ 69 (hai tháng sau đó lên trung úy). Sau nầy tôi mới biết Võ Hoàng là sĩ quan xuất sắc nhất trong bốn sĩ quan trung đội trưởng của pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi, rất được lòng thiếu tá Trần Trai chỉ huy trưởng, nên ông đem về bên cạnh làm sĩ quan Quản Trị Tiếp Vận.

Nói chuyện một lát, chiếc xe jeep lùn mang bảng số: 170310 gắng máy VRC 46 có cần antel trờ tới Hoàng lên xe, bọn tôi chia tay và hẹn gặp lại.

Tôi vào trình sự vụ lệnh cho trung úy Thành, trước khi trình diện thiếu tá Trần Trai chỉ huy trưởng. Sau khi xem sự vụ lệnh Thiếu Tá nhìn tôi:

- Tạm thời anh phụ tá cho trung úy Thành, tôi sẽ sắp xếp sau nhé.

- Tuân lệnh.

Tôi chào kính lui ra. Từ đó khi nào Trung úy Thành đi vắng tôi thay ông vai trò Quản Trị Tiếp Vận. Thời gian còn lại là trực ở Trung Tâm Hành Quân, làm sĩ quan Phối Hợp Hỏa Lực bên cạnh Phòng Ba tiểu khu, lo kế hoạch pháo yểm, khi các đơn vị bạn hành quân thuộc vùng trách nhiệm trong tầm yểm trợ của pháo binh. Cập nhật kế hoạch “hỏa yểm” trong ngày lên bản đồ để thiếu tá Trần Trai thuyết trình cho đại tá Tiểu Khu Trưởng vào mỗi buổi chiều. Đôi khi tôi phải thuyết trình thay thiếu tá Chỉ Huy Trưởng nếu ông vắng mặt.


Thế rồi mọi việc diễn ra như dự định. Trung úy Thành chuyển đi Nha Trang, thiếu úy Võ Hoàng về Quản Trị Tiếp Vận. Tôi ra trung đội trưởng 109, thay thiếu úy Hoàng.

Lễ bàn giao diễn ra nơi trung đội 109 pháo binh đang đóng trên ngọn đồi bên cạnh chi khu Sơn Tịnh. Đầy đủ lễ nghi và thủ tục, có tiệc tiễn cựu nghênh tân, với sự chứng kiến của thiếu tá Trần Trai Chỉ huy trưởng và đại úy Lê Văn Tùng chỉ huy phó pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi

Sau một tuần ổn định tôi thấy cần đào tạo thêm một kế toán tác xạ. Tuy đã có trung sĩ nhất Chắt kế toán trưởng, hạ sĩ Đa và Nguyễn Đức phụ tá. Nhưng tôi muốn có thêm kế toán trực tác xạ để anh em có thể luân phiên đi phép.

Sau khi xem tất cả hồ sơ cá nhân của trung đội, tôi chọn Huỳnh Đạm đang ở khẩu đội một của Trung sĩ Thí.

Trung sĩ nhất Chắt tác xạ cho biết: “Đạm mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn hai anh em, hiền lành, chỉ có tội mê gái”. Tôi cười: “Mới mười tám tuổi mà mê gái rồi hả?”.

Khi lên trình diện cảm nhận đầu tiên của tôi là Đạm rất trẻ, mười tám tuổi trẻ nhất trong trung đội, cao ráo đẹp trai có vẽ thông minh, tính tình vui vẻ. Đạm cho biết học trường Trần Cao Vân Tam Kỳ, rớt tú tài Một, không muốn vào Đồng Đế nên đi pháo binh.

Sau khi trao đổi và nói ý định đưa Đạm lên học tác xạ. Tôi cười cười: “Nghe nói em mê gái lắm hả? có “bồ” chưa?”. Nó cười bẽn lẽn: “Dạ, đâu có Thiếu úy, ai mà thương em?” Sao vậy? “Dạ… tại nghèo quá”. Đẹp trai thì không cần giàu đâu. Tôi cười.

Từ đó Đạm dọn lên ở đài tác xạ, TS Chắt dạy nó chấm tọa độ lên xạ bản, xử dụng quạt hướng tầm, họa xạ biểu, thước tà giác để tính yếu tố tác xạ. Nói chung Đạm tiếp thu nhanh và trở thành một kế toán .

Nguyễn Đức đang làm kế toán tác xạ là một nhân vật đặc biệt: “Thiếu úy Võ Hoàng, thiếu úy Lê Văn Hùng (trung đội trưởng 110) và Nguyễn Đức là bạn thân, học cùng lớp từ đệ tam đến đệ nhất ở Trần Quốc Tuấn. Sau đó Hoàng và Hùng đều nhập ngũ khóa 6/ 69 Thủ Đức.

Nguyễn Đức vào sài gòn học đại học khoa học, được vài ba chứng chỉ gì đó thì lệnh động viên năm 1972 phải vào Thủ Đức. Nguyễn Đức không đi sĩ quan, chạy về Quảng Ngãi chui vào pháo binh, đầu quân làm lính của thằng bạn thân là Võ Hoàng. Hoàng che chở bạn bằng cách đem Đức lên đài tác xạ làm kế toán”.

Tôi xem hồ sơ cá nhân của Đức thì khai lớp Đệ Tứ, binh nhì chưa học C1, C2 tác xạ, nhưng Đức rất giỏi, tính yếu tố nhanh như gió, làm phiếu chuẩn định chính xác, giải điện văn khí tượng Nato không một sai sót. Một hôm tôi ngạc nhiên khi nghe Đức giảng cho Đạm áp dụng bảng thị sai M10 trong tác xạ khẩn cấp, và bắn góc cao khi gặp tà giác bức chắn. Tôi hỏi TS Chắt mới biết sự việc.

Thú thật bọn tôi đã học căn bản pháo binh có trường lớp đàng hoàng, nhưng ra trường đi đề lô mấy năm, kiến thức tác xạ rơi rụng theo bộ binh. Nên khi mới về trung đội tác xạ cũng “quờ quạng”, phải lấy quyển Tác Xạ Đại Cương về phòng học lại, chỗ nào bí quá ghi vào sổ, về tiểu khu hỏi thiếu úy Võ Hoàng.

Vậy mà Đức thì cứ cọng trừ nhân chia thoăn thoắt thuộc bản logarit y như hằng đẳng thức đáng nhớ. Tuy vậy Đức rất khiêm tốn không khoe khoang chuyện bằng cấp, ai nói gì cũng cười.

Sau biến cố năm 1975 Nguyễn Đức về quê ở Bình Sa làm giáo viên dạy Toán trung học cho đến khi nghĩ hưu và đã qua đời năm 2015.

Điều may nhất của tôi là các nhân viên ban tác xạ đều giỏi. Trung sĩ nhất Chắt và hạ sĩ Đa rất thông minh, xuất sắc. Đa cũng thi rớt tú tài Bán Phần đã có bằng C2 tác xạ.

Từ ngày lên đài tác xạ làm kế toán. Đạm luôn bên cạnh, tự nguyện giúp tôi những việc lặt vặt, xem nó như một người em. Gần gũi mới biết gia cảnh nó rất đáng thương:

“Năm 1963 cha bỏ mẹ theo “bồ”, lúc Đạm tám tuổi, cu Đạt lên năm. Mẹ buồn lắm, bà đổ bệnh một thời gian dài, ngày nào cũng nhìn ra ngõ trông chờ sự hồi tâm của người chồng bội bạc, nhưng biệt vô âm tín. Nhìn hai con thơ bơ vơ thấy mình phải sống, bà cố gượng dậy bỏ lại sau lưng đau buồn, lấy công việc để tìm quên.

Mẹ sang lại một sạp bán vải ở chợ Tam Kỳ. Vết thương dù không lành, nhưng đền bù là hai con ngoan học giỏi, các con là niềm vui là nguồn sống duy nhất. Hai anh em Đạm lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ. Nhưng định mệnh cay nghiệt không chịu buông tha.

Một ngày tháng 10 năm 1970, trong một chuyến đi mua hàng, chiếc xe khách từ Tam Kỳ đi Đà Nẵng vừa ra khỏi Tuần Dưỡng độ vài kilomet bị nổ tung khi đạp phải một quả mìn của Việt Cộng chôn trên đường đêm qua.

Mười tám hành khách bị thương nặng, sáu người chết trong đó có mẹ của Đạm. Năm đó Đạm lên mười lăm, đang học lớp chín, cu Đạt mười hai, học lớp sáu.

Họa vô đơn chí, cha bỏ đi bây giờ mất mẹ. Hai anh em bơ vơ như cánh chim lạc giữa trời trong cơn giông bão. Căn nhà mẹ để lại trở nên mênh mông với hai đứa trẻ mồ côi. Những bữa cơm tẻ nhạt hai anh em nhìn nhau khóc.

Thằng cu Đạt sợ ma vì cái bàn thờ mới, nó cứ bám sát anh mỗi khi bóng tối trở về. Đêm đêm hai anh em lên giường ôm nhau. Giấc ngủ đến Đạm thấy mẹ đứng bên giường, giật mình tỉnh dây mới biết là chiêm bao.

Hai năm trôi qua nỗi đau nào rồi cũng phai dần theo tháng năm. Hai anh em vẫn đến trường và lớn lên trong cảnh mồ côi. Kỳ thi Tú Tài một năm 1972 Đạm bị hỏng. Thất vọng, nằm vùi mấy ngày Đạm quyết định dẫn em lên gởi cho ông chú làm ở Ty Cảnh Sát Quảng Tín, nhờ ông lo cho nó tiếp tục đi học. Đạm vào lính pháo binh, về trung đội 109”.

Nghe chuyện của nó tôi buồn theo. Có thể còn quá trẻ, mới mười tám tuổi lại đẹp trai nên gặp con gái hay đùa nghịch tán tỉnh, cho nên trung sĩ Chắt nói nó mê gái. Lãnh lương Đạm mang về gởi ông chú lo cho em. Thỉnh thoảng xin tôi vỏ đạn và kết gỗ đem bán kiếm thêm tiền.


Từ khi tôi về nhận đơn vị đến năm 1975 Trung đội 109 hoán đổi qua các vị trí: Đồi Sơn Tịnh (cạnh Chi Khu). Đồi 74 (căn cứ Bình Long) yểm trợ trực tiếp cho bộ chỉ huy Chiến Thuật 2 ở đông Bình Sơn. Rồi Tư Nghĩa và sau cùng là chi khu Bình Sơn. Tình đồng đội thắm thiết thương nhau như anh em một nhà. Đạm luôn bên cạnh tôi như hình với bóng.

Bàn cờ chính trị thế giới thay đổi sau những lần “đi đêm” giữa Henry Kissinger và Chu Ân Lai, dẫn đến cuộc gặp mặt lịch sử giữa Richard Nixon với Mao Trạch Đông từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 2 năm 1972. Trung Cộng từ kẻ thù phải bao vây ngăn chận, bây giờ trở thành bạn của Hoa Kỳ trong thế cờ liên minh chống Nga Sô. Vai trò tiền đồn của Việt Nam Cọng Hòa ngăn chận chủ nghĩa cọng sản từ Bắc Kinh không cần thiết nữa, khi lợi ích của Mỹ và Việt nam Cọng Hòa không còn tương hợp. Mục tiêu của họ thay đổi.

Bọn phù thủy chính trị ở Washington đã vận động quốc hội Hoa Kỳ cắt quân viện cho VNCH theo tinh thần của cái gọi là hiệp định Paris. Những lời cam kết của Richad Nixon tổng thống một siêu cường hàng đầu thế giới, với nguyên thủ của một nước “bạn đồng minh” không có tí giá trị nào. Cho nên với Mỹ không có “đồng minh” vĩnh viễn, mà cũng không có “kẻ thù” lâu dài. Chỉ có quyền lợi nước Mỹ là trên hết.

Từ trung tuần 1974, chúng tôi không còn đạn để yểm trợ quân bạn, đạn tồn kho xuống dưới mức an toàn, nòng đại bác quá đời tác xạ. Hàng chục công điện “khẩn” tôi gởi đi mỗi ngày đều được trả lời: “đợi”.

Trước đây nhờ yếu tố nhanh chóng, chính xác và dồi dào của hỏa lực pháo binh, chúng tôi đã làm chủ chiến trường dành chiến thắng cho quân bạn. Ngày nay những ưu thế đó không còn khi quân viện bị cắt. Kho 513 đạn dược ở Núi Bút đã cạn kiệt, quân cụ rỗng kho. Tôi được lệnh chỉ bắn một đến hai quả mỗi lần quân bạn chạm địch.

Những nhu cầu quân sự khác cũng chung số phận, quân trang quân dụng thiếu hụt. Máy PRC 25 không còn pin để trực tác xạ. Phi cơ, thiết giáp nằm ụ vì không có nhiên liệu. Lính Địa Phương Quân chỉ còn nhận một nữa cấp số đạn khi hành quân, lựu đạn không đủ phát cho quân nhân.

Tinh thần chiến đấu của binh sĩ giảm sút. Cán cân quân sự nghiêng lệch khi Bắc Việt được Nga Sô, Trung Cọng gia tăng viện trợ ồ ạt, hỏa lực dồi dào mở những cuộc tấn công. Tình hình chiến trường diễn biến xấu mau lẹ sau cuộc triệt thoái thất bại của Quân Đoàn Hai. Tại Quân Đoàn Một rút bỏ Quảng Trị, Huế bỏ ngỏ, Ngày 23 tháng 3 Tam Kỳ bị cọng quân tràn ngập.


Chiều ngày 24 tháng 3 năm 1975 tại Bình Sơn, tôi nhận một công điện “mật khẩn” từ đại úy Tùng chỉ huy phó pháo binh Tiểu Khu: “...Trung đội 109 yểm trợ tối đa cho cuộc di tản của các đơn vị từ Quảng Ngãi đi Chu Lai....và tiêu hủy đại bác, kho đạn khi có lệnh ....” Trung đội 109 pháo binh đã thi hành lệnh tác xạ sau cùng của BCH pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi.

Trên quốc lộ xe cộ đủ loại, một biển người đạp lên nhau trốn chạy, tình hình vô cùng hỗn loạn. Đến 12 giờ khuya hệ thống vô tuyến mất liên lạc với BCH pháo binh Tiểu Khu. Qua tần số pháo binh Sư Đoàn Hai không ai dám ban lệnh gì cho tôi.

Tôi cho chấm dứt tác xạ thi hành lệnh “tiêu hủy” đại bác và kho đạn, lửa bốc cháy. Trung đội lên xe nhập vào dòng người di tản.

Ra khỏi cầu Bình Sơn là một giờ khuya, bị việt cọng chận đánh. Hỏa tiễn, đạn cối, B40, súng cá nhân bắn xối xả vào dòng người, kẻ sống dẫm lên xác người chết mà chạy. Tôi cho binh sĩ xuống xe. Mọi việc diễn ra ngoài tầm kiểm soát, không ai có thể điều quân trong một biển người dân và lính hỗn loạn, giày xéo đạp lên nhau. Trong khi cọng quân bám sát tác xạ tự do. Trung đội 109 pháo binh thất lạc và tan rã từ giờ phút đó.

Quốc lộ bị chận, người ta tỏa ra tìm đường chạy ra Chu Lai. Riêng tôi không thể bỏ anh em đồng đội, tìm hết người nầy đến người kia, mà trời tối đen như mực, nên bị bỏ rơi lại. Cuối cùng chỉ còn Nguyễn Lòng tài xế, và Huỳnh Đạm ở bên cạnh.

Trời sáng ba thầy trò lẫn vào ruộng mía chờ đêm xuống đi tiếp. Đến nữa đêm hôm sau khi chuẩn bị vượt sông thì hướng Chu lai bốc cháy và đạn nổ long trời. Tôi ngã quị vì tuyệt vọng. Bộ Chỉ Huy sư đoàn Hai đã di tản.

Sáng hôm sau ba thầy trò bị vây bắt. Tôi không còn bình tỉnh biết những gì xảy ra, thần kinh bị tê liệt. Việt cộng vây quanh tôi rất đông. Tôi bị đánh tơi tả tối tăm mặt mày, báng súng nện vào đầu, vào lưng, đá vào bụng, thừa chết thiếu sống.. ự..ự,.. bộp ..bộp. Tôi ngã xuống bị nắm tóc xách dậy đánh túi bụi. Trận đòn thù kéo dài, tôi ngất ngư, không biết đau đớn gì nữa.

Cảm giác đầu như vỡ ra, mắt hoa, nghe mùi tanh của máu, máu từ đầu, miệng mũi trào ra chảy xuống áo quần đỏ lòm. Tôi gục xuống mặc cho số phận. Tôi nhắm mắt cảm nhận cái chết đang đến gần, và muốn biến khỏi cuộc đời nầy ngay tức khắc.

Một bàn tay nắm tóc lôi dậy, tôi đứng không vững chúi về phía trước, dù cố gắng hai mắt không mở ra được, đưa tay lên sờ mặt nó biến dạng, phình to nhầy nhụa máu. Hai tay tôi bị trói quật sau lưng, dính chùm với hai người lính, tôi chao đão bước đi trong đau đớn rã rời từ thể xác đến tâm hồn.

Chúng tôi bị dẫn đi hai ngày đêm đến một “Trại Tập Trung” trong rừng sâu phía tây quận Bình Sơn. Khi đến thì đã rất đông người. Thôi thì đủ mọi đơn vị, mọi cấp bậc, chức vụ. Ngày nào cũng có hàng chục người bị trói tay dẫn về, nhưng không có ai trong trung đội 109 pháo binh của tôi.

Cố gắng đến được trại giam thì tôi ngã bệnh, tinh thần suy sụp thêm trận đòn thừa chết thiếu sống làm hình hài tôi biến dạng, da đầu bị tét, mặt mày bầm tím sưng híp máu khô thành từng mảng lem luốc. Tôi lên sốt li bì người nóng như than, tâm trí bồng bềnh lúc tỉnh lúc mê. Nghe ai mách bày Đạm hái lá rừng nhai đắp lên những vết thương trên đầu và mặt lúc nào tôi không hay biết.

Là nơi tập trung để thanh lọc nên chưa phải lao động nhiều. Mỗi ngày tù chia nhau đi lấy củi, một số đi đốn cây làm thêm trại để đón tù mới. Tôi nằm liệt nên không lao động, Đạm đi lấy củi về xong là quanh quẩn bên tôi.

Nhập trại đã ba ngày tôi vẫn không ăn, cơ thể không còn nhu cầu sự sống. Đạm sợ tôi chết. Cứ trời tối nó đem về nữa lon sữa bò cháo nấu bằng cơm cháy đen thui, ép buộc tôi ăn.

Miệng đắng nghét, ngực đau ran không thở được, đầu nhức buốt, mà cháo là một thứ nước đen ngòm lợn cợn vài hột cơm cháy, không có muối lạt nhách lại nồng nực mùi khói, không thể nuốt được. Nó thì thầm vào tai tôi: “Thiếu úy phải ăn mới sống được”, Tôi lắc đầu, giọng nó ngậm ngùi: “Thiếu úy thương em, khó lắm mới xin được tí cháy dính ở đít chảo, ngồi nấu lén còn phải canh chừng tụi nó”.

Tôi cựa không nỗi, tả tơi như cái mền rách. Đạm tìm cách để tôi khuây khỏa bằng cách kể chuyện xảy ra trong trại, chuyện tin đồn, chuyện đi tìm người quen, gặp người ở đơn vị nầy đơn vị nọ mà đơn vị mình thì không có đứa nào. Nói đã đời thấy tôi vẫn như xác chết, nó cuối sát mặt tôi nhìn, rồi lắc đầu thở dài.

Đến ngày thứ năm hơi giảm sốt, Đạm dìu tôi ra bờ suối rửa vết thương. Ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào gốc cây, thân xác tôi rã rời bầm dập vì thương tích một, thì tâm hồn tan nát tả tơi một ngàn lần hơn.

Tôi như đang rơi xuống một vực sâu âm u không đáy. Tai họa đổ xuống nhanh quá, tôi vẫn chưa tin sự thật lại bi thảm như thế nầy. Đạm thì thầm: “Áo quần Thiếu úy máu không, cởi ra em giặt cho, đồ em hôm qua giặt rồi”. Nhìn ánh mắt chân thành của nó bất giác nước mắt tôi nhạt nhòa, Đạm vừa giặt đồ vừa đưa tay quẹt nước mắt.

Từ lúc nhập trại, Nguyễn Lòng tài xế bị tách qua toán khác, chỉ còn mình Đạm theo sát tôi như một định mệnh. Nếu không có nó chắc thân xác tôi đã vùi nơi bìa rừng trên đường đến trại. Đạm lo cho tôi những gì có thể trong cảnh tù tội thiếu thốn. Tôi bảo đừng gọi Thiếu úy nữa, nó nói: “quen miệng rồi không sửa được”

Được mười ngày, một sáng tôi đang đứng dựa lưng vào gốc cây nhìn cảnh rừng mênh mông với nỗi tuyệt vọng thắt lòng, thì Đạm hớt hãi chạy đến cầm tay tôi: “Anh, em và thằng Lòng có tên chuyển trại rồi chưa biết đi đâu?”. Dứt lời nó nhìn xuống đất, mặt đầy nước mắt. Quá bất ngờ cổ tôi nghẹn lại cả hai cùng bước tới bọn tôi ôm vai nhau thật chặt, Đạm bật khóc: “Bao giờ mình gặp lại nhau?”. Nó hỏi tôi mà như nói vào hư không.

Giọng nghẹn ngào Đạm dặn dò tôi đủ điều, nhắc nhở đủ việc. Nhưng tôi có nghe gì nữa đâu! Trong tình cảnh nầy Đạm là cái phao duy nhất cứu sống tôi. Tai đã ù, lòng tôi như bão tố.

Tôi đứng chết lặng nhìn Đạm trong hàng tù binh, đi được mấy bước nó quay lại nhìn tôi đưa tay lên vẫy rồi hướng ra bờ suối.

Tôi lăn lóc qua mấy trại tù trong nhiều năm. Những suy sụp tinh thần của ngày đầu “đổi đời” tưởng không thể nào vượt qua rồi cũng nguôi ngoai. Cuộc đời tù khổ nhục đói rách tả tơi trong cái “chuồng người”, chúng tôi chỉ còn sống theo bản năng của một sinh vật. Nhưng dù tận đáy địa ngục tôi cũng không làm sao quên được tấm chân tình của Huỳnh Đạm và nhớ anh em trong đơn vị. Cái đêm định mệnh đó không biết ai còn ai mất? Không biết Đạm bây giờ ở đâu, sống thế nào?

Tôi ra khỏi nhà tù mang theo bản án quản chế. Về địa phương không khí nặng nề ngột ngạt, ra khỏi xóm làng phải xin phép ông tổ trưởng, mà xin cũng chưa chắc được chấp thuận, rồi phải trình diện làm bản tường trình hàng tuần: Làm gì? Đi đâu? Gặp ai? Nói với nhau những gì?

Hết đi gỡ mìn tới đắp đập đào kênh, còn bị kêu lên kêu xuống liên miên. Tất bật với cuộc mưu sinh, nghèo khó đói rách bủa vây, tôi rất muốn tìm Đạm nhưng không có cơ hội.


Năm 1980 tôi bỏ Quảng Ngãi vào Miền Nam tìm đất sống. Từ đó không gian cách trở, cuộc sống khó khăn, không có tin tức gì về Huỳnh Đạm dù tôi cố gắng hỏi tìm khi có dịp. Ngày chia tay Đạm là 8 tháng 4 năm 1975. Nay là 2010, đã ba mươi lăm năm, quỹ thời gian không còn nữa. Tôi nghĩ là chẳng còn cơ hội gặp nhau trên cỏi đời nầy.

Bỗng một hôm lúc 8 giờ tối điện thoại đổ chuông.

- A lô

Bên kia tiếng đàn ông lạ:

- A lô, ông thầy đó hả?

Tôi nghĩ ai gọi lộn số.

- Xin lỗi chắc anh lầm máy .

- Em đây mà Huỳnh Đạm đây.

Trời đất! Niềm vui bất ngờ 35 năm. Bây giờ thì tôi đã nhận ra âm sắc của Đạm: “Em đi khám bệnh ở Đà Nẵng gặp trung sĩ Ngọc cho số điện thoại của anh”. Đạm dồn dập hỏi đủ thứ. Bọn tôi tóm tắt chuyện đời trong hơn một phần ba thế kỷ.


Một tuần sau Đạm có mặt ở nhà tôi. Ngày chia tay nhau Đạm mới hai mươi tuổi trẻ măng đẹp trai, bây giờ gặp lại đã một ông già 55 tuổi da nhăn nheo mắt lờ đờ chậm chạp, tóc bạc trắng lưa thưa bày cái trán hói.

Ăn cơm trưa xong hai anh em lên gác nằm, nghe Đạm kể chuyện đời:

“Ngày chia tay nhau, toán của Đạm vào Thạch Nham đắp đập, đến tháng 12 năm 1975 thì được thả về.

Sau tháng 4 năm 1975, gia đình ông chú cũng tan nát. Ông bị đánh chết trong “trại cải tạo” Tiên Lãnh. Thằng Đạt học xong lớp mười hai, trở về nhà cũ chờ anh ra tù. Mỗi ngày nó đạp xe lên núi mua củ mì, củ lang, chè lá, gặp gì mua đó, về chợ bán kím tiền vô Thạch Nham thăm anh mỗi tháng.

Ra tù, buổi chiều về đến nhà hai anh em ôm nhau khóc. Bữa ăn đoàn tụ tối đó là một rổ khoai mì luộc. Con đường trước mắt báo hiệu đầy gian nan không lối thoát. Muốn đi cùng em thì chỉ có một cây xe đạp, mua thêm cây nữa không có tiền. Cuối cùng để em đi một mình Đạm ra bến xe Tam Kỳ bốc vác làm thuê ai kêu gì làm nấy.

Đạm bảo em đi học nghề, Đạt lắc đầu: “Tiền đâu? ai cũng đói, cơm không đủ ăn có nghề nào sống được đâu?”. Thương em thì nói vậy thôi chứ cả nước điêu tàn xơ xác vì đói, lại thêm chính sách của “cách mạng” quá khắc khe. Bà con láng giềng không ai tin nhau, nhìn mặt người nào cũng như đăm chiêu tính toán. Không khí nặng nề chết chóc, sợ hãi bao trùm toàn xã hội.

Hai anh em ăn cháo loãng với muối nếu hôm nào Đạm từ bến xe về tay không. Nữa đêm thức giấc nhìn thằng Đạt bên cạnh gầy còm nằm co ro. Đạm ra hè ngồi khóc thương em thấy mình bất lực, cuộc đời hai anh em là một bài toán khó không giải được tất cả đã ngoài tầm tay.

Năm 1978 Đạt có tên đi “nghĩa vụ quân sự”. Nó quyết định bỏ quê theo một người quen vào Sài Gòn, Đạm đành chìu ý em, ở lại cũng cùng đường. Hai anh em ôm nhau khóc vùi hôm Đạt lên xe.

Năm sau Đạm lấy vợ. “Nồi nào úp vung đó”, Tâm là bạn cùng lớp với Đạm thời Trung Học. Sư Phạm Qui Nhơn mới ra trường dạy ở quận Lý Tín. Mẹ và thằng em trai rơi xuống biển chết khi tranh nhau lên tàu đêm di tản ở Chu Lai tối 25 tháng ba. Cha làm Xã Trưởng bị việt cọng bắt đưa đi thủ tiêu mất tích chỉ hai tuần sau đó. Gia đình tan nát, một thân một mình lại bị cho thôi dạy vì thành phần “nợ máu”.

Tâm trở thành cô bán đậu hủ gánh rong ở chợ và bến xe Tam Kỳ. Kẻ khổ gặp người khó, cùng mồ côi lại là bạn một lớp cùng lang thang kiếm ăn mỗi ngày ở bến xe, vậy là thành vợ chồng.

Ngày Tâm về nhà Đạm không họ hàng, không lễ nghi, không rượu bánh, không cau trầu. Tất cả đều không, nhưng hạnh phúc thì có nhiều. Một năm sau đứa con gái chào đời đặt tên Hải Triều, rồi mười hai tháng sau thằng cu cũng “tranh thủ” chui ra tên Hải Âu. Hai vợ chồng xoay trở tứ bề nhưng vẫn thiếu. Chỉ có tình yêu là dư thừa.

Nhưng nếu dòng đời cứ lặng lờ trôi thì không có gì để nói. Cuối năm 1982 trước tết có mấy ngày Đạm nhận hung tin thằng Đạt bị hải tặc Thái Lan chặt đầu ném xác xuống biển trong một chuyến vượt biên. Người còn sống sót được tàu Na Uy cứu vớt nhắn tin về.

Đang bốc vác hàng Đạm ngã quị, khóc ngất: “Đạt ơi!”. Trên đường về nhà bước chân chếnh choáng gọi tên em như người say.

Từ ngày vào Sài gòn, năm rồi Đạt mới về thăm anh chị lần đầu tiên cũng là lần duy nhất. Hai anh em ôm nhau khóc vùi cả đêm không ngủ ngồi nói chuyện đến sáng: “Vào Sài Gòn Đạt đi làm thuê không lấy tiền công, chỉ xin được ăn cơm và học nghề máy dầu. Có nghề vững vàng nó theo thằng bạn ra Long Hải làm thuê cho một người sừa máy tàu đánh cá”.

Đạt về thăm để chào anh chị ra đi. Đạm chỉ khóc vì không lo được cho em, Đạt bồng bế nựng nịu hai cháu suốt ngày, nó mừng cho hạnh phúc của anh.

Ngày đi, Đạt móc trong túi đến đồng bạc lẻ sau cùng để lại cho anh. Đạm từ chối, đùn qua đẩy lại cuối cùng nó tuyên bố: “Anh đừng nhìn em nữa”. Cầm đồng tiền của em Đạm nghẹn ngào.

Nằm vùi cả tuần lễ, rồi cũng phải gượng dậy. Nhưng từ đó Đạm hay uống rượu vào mỗi buổi chiều, rồi gọi tên em gục đầu khóc.

Dòng đời lại cứ trôi. Bữa đói bữa no, ngày thiếu ngày đủ hai con cũng lớn theo thời gian. Năm 1993 thời kỳ “mở cửa”, người dân được đảng “cởi trói” nên chuyện mua bán làm ăn dễ thở hơn. Tâm có sạp bán rau trong chợ Tam Kỳ, Đạm mua được chiếc xe ba gác. Ăn tối xong hai vợ chồng đi lưới cá bằng chiếc ghe nang nhỏ trên sông, vợ chèo chồng thả lưới.

Hải Triều học hết lớp chín thì ở nhà phụ mẹ bán rau ngoài chợ vì mẹ hay bệnh bất thường. Thời gian qua mau hai con đã lớn và vợ chồng Đạm cũng già đi. Hải Âu giống bố như một bản sao.

Năm 1998 Hải Âu đậu vào trường đại học kỹ thuật điện Thủ Đức. Vừa nhận giấy báo cũng là lúc mẹ nó phát bệnh, cả nhà chết đứng khi kết quả xét nghiệm Tâm bị ung thư tử cung giai đoạn cuối. Trời đất như đổ sập, Đạm trách trời, trách đất, rồi tự hỏi Chúa, Phật có hiện hữu thật sự trên cỏi đời nầy hay không?

Tâm bình tỉnh đón nhận hung tin, dặn dò hai con phải thương cha, “Đời cha nhiều bất hạnh, mẹ mãn nguyện vì hai con ngoan và vui khi Hải Âu được vào đại học”.

Một ngày trước khi trút hơi thở cuối cùng Tâm thều thào: “Thương anh nhiều lắm Đạm ơi! em đi rồi anh đừng uống rượu nữa, lo nuôi con khôn lớn”.

Nhưng Đạm lại đến với rượu nhiều hơn, ngày nào cũng say vùi, say túy lúy say không biết đất trời, say rồi ôm mặt khóc. Hai chị em ngày nào cũng ra mộ mẹ cõng cha về.

Quyết định bỏ học của Hải Âu đưa Đạm đến một ngã rẽ. Phải ra đi, phải tránh xa cái không gian mà nhìn đâu cũng đầy ắp những yêu thương làm nát lòng, nhìn đâu cũng thấy mẹ, thấy em, thấy vợ. Nhất định thằng Hãi Âu phải được đi học

Đóng cửa nhà, ba cha con dắt nhau vào Sài Gòn. Thằng Hải Âu lên trường ở ký túc xá. Đạm thuê căn phòng nhỏ bề bốn mét trong hẻm Lê Quang Định, đủ để cha con có chỗ đi về.

Đạm bắt đầu việc làm mới: Đạp xích lô.

Trời thương từ ngày ra nghề Đạm không thiếu khách. Quanh quẩn khu chợ Bà Chiểu, Lăng Ông, có hôm vòng ra bến xe Miền Đông chiều tối về phòng. Công việc như một chu kỳ khép kín, Đạm không còn tìm đến rượu nữa.

Hải Triều phụ việc cho một quán ăn trong chợ Bà Chiểu. Cuối tuần Hải Âu về thăm cha nói đã xin được chân bưng bê rửa ly cho một quán nước ngoài giờ học. Nó dự trù khi tìm được việc khá hơn thì cha không đạp xích lô nữa.

Rồi dòng đời cứ trôi duyên trời đưa đẫy, một năm sau Hải Triều lấy chồng. Nó từ chối cuộc hôn nhân vì không nỡ rời cha, nhưng Đạm muốn tìm lối thoát cho con. Ngày đi theo chồng nó ôm cha khóc nức nở.

Đông tàn rồi xuân sang, thời gian như bóng câu qua mành, Hải Âu học năm cuối. Đạm vẫn sáng đạp xe đi tối đạp xe về, một mình lầm lũi như chiếc bóng, ngồi trông con cứ mỗi cuối tuần. Hải Âu ngoan không đua đòi bon chen như bạn bè, mấy năm sau nó làm thêm đủ lo bản thân nên nhiều lần bảo cha không đạp xe nữa. Nhưng Đạm nói chưa đủ tiền để mua chiếc xe cho con đi làm

Còn một tháng nữa Hải Âu ra trường, Đạm lấy trong gối ra xấp tiền gói trong cái áo cũ mà đêm nào cũng săm soi đếm tới đếm lui. Hải Âu rưng rưng cầm mười lăm triệu bạc của cha. Cuối tuần sau Hải Âu về thăm cha bằng chiếc xe mới. Hai cha con nằm nói chuyện tương lai trên chiếc chiếu trãi dưới nền nhà, nơi mà bốn năm qua cha con vẫn ngủ cứ mỗi cuối tuần. Đạm vẫn không bỏ thói quen ôm con vào lòng dù nó đã cao hơn bố. Mà Hải Âu thì cứ giữ cái tật gác đôi chân lên người cha lúc ngủ mê. Đạm chịu đựng sợ con thức giấc mà cũng để nghe niềm hạnh phúc dâng lên theo nhịp tim đập từng hồi.

Buổi chiều trước ngày mãn khóa Hải Âu chạy về mang theo bịch trái cây nói của thằng bạn cùng lớp dưới quê lên dự lễ ra trường. Nó vui mừng nói nhận bằng xong đã có công ty nhận đi làm ngay.

Đạm nghe mình trẻ lại. Đêm đó trên “giá” làm bàn thờ, cây nhang nầy vừa cháy hết, Đạm lại đốt cây khác lâm râm khấn vái: Mẹ, vợ, em Đạt, phù hộ độ trì cho cháu, cho con.

Cả đêm không ngủ được. Nhìn con nằm thở đều Đạm nghe tình thương căng đầy, vòng tay ghì chặt thằng con, hôn lên trán nó một hơi dài. Hải Âu mở mắt: “Cha không ngủ đi?” Đạm không nói cứ ghì chặt, mà nước mắt thì cứ tuôn dòng xuống mặt con trai. Hải Âu cũng ôm vai cha yên lặng.

Hôm sau Đạm nghĩ đạp xe ở nhà ra chợ mua con gà, vài ký thịt, nấu mấy món đơn sơ để làm lễ tạ ơn người quá cố đã phù hộ cho cha con đạt được nguyện ước. Sau đó mời vài người láng giềng hai bên để chung vui. Hải Triều theo chồng về mãi ngoài ngã ba Trị An lại đang làm công nhân mới sinh con nhỏ, xa quá không về được. Thôi, làm đơn sơ bia bọt thì thằng Hải Âu về nó mua sau.

Sáng nay khi dắt xe ra cửa Hải Âu dặn cha: “làm lễ xong chậm lắm là 12 giờ con về, cha để đó về con làm”. Đạm nhìn theo dáng thằng con chạy ra đầu hẻm, mà lòng dâng lên niềm vui lai láng.

Nằm đã rồi ngồi, hai giờ rồi ba giờ. Đạm cứ nhìn ra đầu hẻm chờ con, nó chưa sai lời với cha bao giờ. Tiếng máy xe dừng lại trước cửa, Đạm nhìn ra, Thằng Long bạn thân cùng lớp với Hải Âu nó thường dẫn về chơi. Không thấy con Đạm hỏi: “Hải Âu đâu cháu?”. Thằng Long không trả lời ngay, bước vào nhà tựa lưng vào tường giọng nghẹn ngào: “Thằng Hãi Âu chết rồi bác ơi!” Sao chết? Giọng ai mù mờ vang vang trong cõi vô thức.

Đạm ngồi bệt xuống mắt cứ mở to trân trối nhìn thằng Long. Khoảng không trước mặt một màu đỏ rực đỏ như lửa cháy, khoảnh khắc lại sáng lòa, vầng sáng mênh mông tận chân trời, rồi tối đen như mực. Đạm thấy mình bay lướt trong không gian nhẹ như một cánh chim.

Sáng nay Hải Âu rủ thằng Long: “xong lễ tụi mình về ngay, mầy phụ tao nấu nướng, khi sáng nói với ông già rồi, về trể ổng lo”. Nhưng nhóm bạn lại rủ ăn bữa cuối để chia tay.

Ngồi trong bàn Hải Âu cứ nhìn đồng hồ, hết thằng nầy nâng ly chúc mừng, đến thằng khác cụng ly chia tay. Kim đồng hồ chỉ hai giờ bảo thằng Long nhất định đi về. Lần đầu tiên nó uống nhiều bước đi chếnh choáng,

Ngồi lên xe Hải Âu nhìn Long: “Nhanh lên, trể quá rồi, ông già trông chết”. Nó chạy trước, thằng Long theo sau, khoảng cách hai đứa cứ xa dần theo tốc độ.

Qua khỏi nhà máy xi măng Hà Tiên Long không còn tin vào mắt mình, người ta đang vây quanh thằng Hải Âu nằm úp mặt xuống đường, hình hài nó không còn nguyên vẹn máu me lênh láng, chiếc xe đầu kéo đừng lại phía trước.....

Huỳnh Đạm về ở với Hải Triều ở ngã ba Trị An từ lúc nào cũng không biết. Nó giải quyết mọi việc ra sao Đạm cũng không hay. Cả năm trường Đạm không biết là mình còn hiện hữu trên cỏi đời nầy.

Ngày lại ngày ngồi nhìn những vết vôi tróc lở trên tường, nhìn cái màng nhện du dưa trong góc phòng, Đạm thấy không phải căn phòng mà mình lạc vào một miền hoang đảo xa xôi.

Chiều chiều ra bãi tha ma thắp nhang cho con. Ngồi bên nấm mộ cỏ mọc um tùm, nhìn khói hương bay lên thấy cuộc đời là giả tạo, là ngắn ngũi. Hải Âu đã ra đi, đã vĩnh viễn lìa xa không trở về, nó đã đem theo sự sống, cả tình yêu thương khắc khoải của người cha. Âm dương xa cách, Đạm ray rức khôn ngui về bí ẩn của một kiếp người.

Nhớ con lại tìm đến rượu, lại say, say để xóa đi từng thời khắc của cuộc đời, say để không còn thấy rõ đường đi của thời gian lướt qua khung trời quá khứ, có mẹ có vợ có em có thằng Hải Âu.

Mỗi chiều Hải Triều lại ra nghĩa địa dìu cha về, trong cảnh chập choạng của hoàng hôn. Bãi tha ma không một bóng người. Con đường mòn luồn lách giữa những hàng bia mộ ngã nghiêng, tiếng côn trùng tỉ tê, những ngôi nhà xa xa đã lên đèn.

Đạm say nhiều hơn tỉnh. Hải Triều thương cha nhưng cũng đầu hàng trước số phận dành cho mỗi con người, dẫu biết rằng hạnh phúc không thể chia đều cho khắp thế gian.

Tháng ngày cứ lặng lờ đi qua, Đạm đã già bệnh tật đã xuất hiện, huyết áp rất cao, gan cũng có vấn đề. Rượu là nguyên nhân góp phần tàn phá hình hài và tinh thần vốn đã tả tơi vì giông bão của cuộc đời.

Những năm gần đây Đạm hay về Tam Kỳ thăm nhà cũ, thăm mộ mẹ, mộ vợ, ở lại năm ba tháng. Vừa rồi đang ở Tam Kỳ Đạm phát bệnh, đi khám ở Đà Nẵng thì gặp Trung sĩ Ngọc là hạ sĩ quan Đạn Dược của trung đội 109 pháo binh. Từ ngày tan hàng rã đám mới gặp lại. Ngọc lớn hơn Đạm cả chục tuổi, cả hai đều già....”

Giọng Đạm đều đều, thỉnh thoảng ngưng lại nghẹn ngào, hai bàn tay bụm mặt sụt sùi. Tôi im lặng mà nước mắt cứ tuôn thành dòng xuống thái dương.

Câu chuyện chấm dứt, cả hai vẫn trong tư thế nằm nhìn lên trần nhà rất lâu không ai nói lời nào. Nhưng trong đầu anh em chúng tôi cùng chung một cảm xúc. Cùng nghĩ đến cái vô thường của cuộc đời và mỗi người một số phận.

- “Trung sĩ Ngọc cho em số điện thoại của anh, mừng quá về đến nhà là gọi ngay.......”

- Em có tin tức gì về bố không?

- Không anh, đi biệt từ ngày đó, không ai gặp.

- Bệnh em bây giờ ra sao?

- Huyết áp cao lắm, lên đến 18, 20 hôm ở Tam Kỳ tưởng đi rồi anh à, gan thì tháng sau xét nghiệm lại.

- Em đừng uống rượu nữa, uống như vậy thì gan ruột nào còn?

Đạm bụm mặt nghẹn ngào:

- Đời em còn gì nữa đâu anh? Không có rượu em chết mất anh ơi!

Ngưng một lát Đạm tiếp:

- Sợ anh giận nên sáng nay đi gặp anh em đâu dám uống. Mà cũng phải tỉnh táo mới nói chuyện, chứ em uống vô là không biết trời trăng gì nữa anh à. Bây giờ miệng em lạt khó chịu lắm.

Đạm cho biết thông tin về anh em ở trung đội 109 cũ của tôi: “Trung sĩ Kim khẩu trưởng khẩu hai, ở trước nhà thờ Tam Kỳ già lắm rồi còn bị điếc nữa, Nguyễn Thái Tào nhắm viên khẩu 1 chết ở Bình Sơn, mấy ngày sau gia đình mới đi tìm xác, Cường truyền tin chết ở Nước Mặn, hạ sĩ Đa tác xạ mất tích, trung sĩ Thừa chết bệnh”.

Đạm nói: “Hôm chia tay ở trại tập trung đi Thạch Nham em sợ anh chết, anh ốm còn bộ xương mà thương tích đầy mình...thấy nó đánh anh em tưởng tiêu rồi! Ngày nào em cũng khấn cầu xin cho anh được sống”

Đạm nhắc “chén cơm ân tình” ở trại tập trung. Chuyện là thế nầy: “Ngày mới đến Trại Tập Trung tôi kiệt sức nằm vùi, không thiết tha gì chuyện ăn uống. Tới giờ kẻng ăn cơm, một mình Đạm sắp hàng đi ăn, khi về nó thì thầm: “Mỗi thằng chỉ một chén cơm!”. Tôi biết nó đói vì hồi ở Trung đội Đạm ăn dữ lắm, ăn sáu bảy chén cơm nên anh em cứ trêu chọc: “ăn như trâu”.

Lần sau tới giờ ăn, dù đang sốt tay chân rã rời tôi vẫn lết ra sắp hàng mà đạm phải ôm đỡ sau lưng, nó mừng tưởng tôi đã ăn được. Khi thau cơm đem ra chia mỗi người một chén, chan nước muối xong người ta tranh nhau ăn. Tôi chỉ đứng gục đầu hai tay vin vào sạp cây làm bàn, thấy vậy Đạm nói: “rán ăn đi anh”. Đạm lùa vài miếng là xong, tôi đưa chén cơm của mình cho Đạm, suốt bốn ngày đầu cứ như vây.

Thật ra do miệng đắng quá, tinh thần suy sụp và tuyệt vọng đến độ tôi không cần sống nữa, không muốn ăn uống chứ nếu nuốt được thì tôi cũng ăn vì bản năng sinh tồn! Đến ngày thứ năm trở đi chia chén cơm xong tôi chỉ ăn một nữa rồi cũng đưa cho Đạm. Hai anh em ở chung được mười ngày, Đạm chuyển trại”.

Hôm gặp lại Đạm cứ nhắc: “em không quên anh đã nhịn cơm cho em ăn....ngày đó đói quá, nhờ “chén cơm ân tình” của anh mà em sống được!”. Tôi cười: “anh không nuốt được, chứ không phải nhịn cho em đâu”. Nó nghiêng qua: “Anh không ăn được đứng không nỗi mà cũng ra sắp hàng là vì em, em biết chớ… nếu anh không ra thì em đâu có chén cơm đó”.

Đạm cho biết thứ hai tuần sau là ngày giổ thằng Hải Âu, giổ xong sẽ ra Tam Kỳ lợp lại mái nhà. Tôi đề nghị: “Sao em không bán nhà đi, sức khỏe yếu làm sao ra hoài được?” Đạm nói: “Cái đó sau nầy con nó tính, bây giờ còn mộ mẹ và vợ nên về phải có chỗ ở anh à”

Gần 40 năm biết bao chuyện để nói. Tôi mời Đạm ở lại chơi nhưng nhất định về tôi biết đã nhớ rượu, ở lại nó không thỏa mãn được. Tôi có thể đáp ứng nhu cầu rượu của Đạm, nhưng với tình thương chân thành dành cho em, và lương tâm không cho phép tôi, cho dù về nhà Đạm sẽ uống.

Tôi đặt vào tay Đạm: “Gởi 200 em mua quà cho cháu ngoại, 300 em thay anh mua trái cây, bông hoa ngày giổ thằng Hải Âu. 3 triệu tiền xe và uống nước”. Tôi cười như mếu: “Nước chứ không phải rượu nghen Đạm”.

Chúng tôi định khi về Tam Kỳ lợp nhà xong Đạm trở vào tôi sẽ lên thăm cháu Hải Triều, thăm mộ Hải Âu và nói chuyện nhiều hơn. Hai anh em ôm vai nhau, Đạm gục đầu vào vai tôi.

Tôi đón xe trả tiền cho tài xế, Đạm bước lên quay lại nhìn, đưa tay quẹt nước mắt, nhìn theo xe chuyển bánh mắt tôi nhạt nhòa.

Vài tuần sau Đạm ra Tam Kỳ chúng tôi vẫn liên lạc, nghe giọng lè nhè tôi nói: “Đã bệnh mà không kiêng bớt được sao em?” Lần nào cũng chỉ một câu nghẹn ngào: “Em buồn quá anh ơi!”.

Biết lời trách của tôi là vô nghĩa và phi lý, nhưng còn ngôn ngữ nào khác đâu? Trước những bức bách khốn quẫn, chiều kích đau khổ quá lớn, một ký ức đau thương hằn sâu trong tâm hồn như thế, Đạm còn hướng thoát nào không?

Một tháng sau điện thoại đổ chuông thấy số của Đạm: “A lô”. Giọng Đạm cứng và đứt quãng: “Em.....bị.. liệt... nữa...người....”. rồi không nói gì nữa. Tôi hỏi dồn dập không trả lời. Gọi liên tục cả chục lần cũng không bắt máy, vài giờ sau tôi gọi lại thì điện thoại không còn tín hiệu. Hôm sau, rồi một tuần, một tháng rồi một năm vẫn không có thông tin. Tôi vô tình quá nên không có số điện thoại của Hải Triều, hướng duy nhất để biết về Đạm. Hồi hay thì việc đã rồi.

Tôi tin mỗi người một mảnh đời một số phận. Đúng là hạnh phúc không thể chia đều cho cả thế gian. Nhưng tại sao cuộc đời của Đạm lại chịu nhiều bất hạnh đến vậy? Bao nhiêu tai ương, bao nhiêu khổ nạn đổ ập xuống một con người?

Nếu ngày đó tôi không chọn Đạm làm tác xạ thì sao? Làm gì có chuyện Đạm theo sát tôi trong cái ngày định mệnh đau thương đó? Làm sao tôi vượt qua bờ tử sinh nơi không có điều kiện để sinh tồn? Mọi việc đều có nhân duyên, hợp tan còn mất là định mệnh. Chúng tôi gặp nhau trong cơn binh lửa của quê hương và cùng nỗi trôi theo vận nước.


Thấm thoát đã hết một đời người, ngồi nhớ lại đơn vị, nhớ lại bạn bè đứa còn đứa mất, trong đó có Đạm người lính kế toán tác xạ của tôi. Một mảnh đời bất hạnh đáng thương trên cỏi đời nầy.

Đạm ơi! Cuộc hội ngộ sau 35 năm không tin tức, đã sống lại trong tôi nỗi hoài nhớ bạn bè, một thời cận kề trong cơn binh lửa của quê hương. Đứa còn đứa mất, nỗi khắc khoải về số phận của con người đã thống trị tâm hồn tôi một thời gian dài sau chiến tranh. Bao đau thương đổ vỡ giữa muôn ngàn mảnh vụn của tan nát, tôi nhận ra rằng cuộc sống nầy là phù du.

Đạm ơi! Mỗi bước đi trong cỏi nhân gian nầy đều ảnh hưởng đến số phận của một con người, ai lại không muốn mình bước chân vào ngôi nhà hạnh phúc? Nhưng cuộc đời vốn là vô thường là bể khổ trầm luân.

Ba năm rồi tôi vẫn chờ tin em, đôi khi nghe nỗi tuyệt vọng thoáng về bởi quỹ thời gian đã hết. Tôi cố quên những chênh vênh tàn nhẫn của hiện tại, vì đã biết rằng cuộc đời chỉ là một cơn sóng phù du. Vết thương dù đau đớn cở nào rồi cũng theo ta về cỏi hư vô.

Cầu mong em vẫn bình an ở đâu đó và cho tôi niềm tin mình còn gặp lại Đạm ơi!

Lưu Hoàng Kỳ

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 103
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.328 seconds.