Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 101 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23101 |
Gởi ngày: 17/Dec/2024 lúc 12:39pm |
Tấn Thảm Kịch 1975- Melvin R.Laird, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Nixon, sau mấy chục năm im lặng mới lên tiếng gần đây. Ông nói rằng chiến tranh Việt Nam không thể kết luận là một sự sai lầm, theo ông Hoa Kỳ đã chuốc lấy thất bại và bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng. Mục tiêu cuộc chiến tranh Việt Nam hồi ấy là để ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản tại Á Châu. Cựu bộ trưởng Laird chỉ trích Hoa Kỳ năm 1975 đã bỏ rơi đồng minh Việt Nam, ông nói rằng điều xấu hổ không phải là Hoa kỳ có mặt từ lúc đầu mà là sự phản bội vào giờ phút chót, Quốc hội Hoa kỳ đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những lời cam kết với Việt Nam của chính phủ Nixon trước đó. Cựu bộ trưởng nói rằng Tổng thống Ford, bộ trưởng ngoại giao Kissingger, bộ trưởng quốc phòng Schlesinger phải chia xẻ nỗi nhục này, cũng theo ông Quốc Hội là thủ phạm chính trong sự bỏ rơi Đồng minh qua một số quyết định như : 1- Chấm dứt can thiệp quân sự (8/1973). 2- Cấm can thiệp trở lại Việt Nam. 3- Cấm trả đũa nếu Hiệp định Paris bị vi phạm. 4- Giảm quân viện từ 1 tỉ 4 xuống còn 700 triệu vào năm 1974. 5- Từ chối yêu cầu của Tổng thống Ford xin viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam đầu tháng 4/75. . Cũng
theo Laird, Tổng thống Ford đã bác bỏ thuyết Domino đã có từ 7/4/1954
dưới thời Tổng thống Eisenhower cho rằng hễ mất một nước sẽ mất luôn
nhiều quốc gia khác mà người mình thường nói nôm na môi hở thì răng
lạnh. Vào ngày 10/3/2006 vừa qua
hằng trăm chuyên viên, chính trị gia nghiên cứu về sự can thiệp của Hoa
Kỳ vào Việt Nam đã tề tựu tham gia cuộc hội thảo tại thư viện Kennedy
thành phố Boston, họ thảo luận đề tài "Chiến tranh Việt nam và các tổng
thống Hoa kỳ". Các chuyên viên cho rằng đó là một cuộc chiến đầy những
tai họa. Bà giám đốc thư viện nói các vị Tổng thống Hoa kỳ đã dìm nước
Mỹ ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam, họ tin rằng điều
mình đang làm là phải nhưng đó chỉ là một sự liều lĩnh, theo bà một sử
gia nói nó chỉ là một sự tính toán sai lầm về chính sách trong lịch sử
đối ngoại của Hoa Kỳ. Một diễn giả sử gia trong buổi hội thảo nói có một
vài cuộc chiến tranh là chính đáng, theo ông cuộc chiến tranh Việt Nam
không chính đáng. Trên
đây là hai ý kiến trái ngược nhau, một bên đại diện là cựu bộ trưởng
Laird cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam không thể coi là một sự sai lầm
và ngược lại những người tham dự buổi hội thảo tại Boston cho rằng cuộc
chiến tranh Việt Nam là sai lầm. Cuộc chiến tranh ấy đã khiến Hoa kỳ
phải chi tới mấy trăm tỉ đô la, 58,000 quân nhân thiệt mạng, đất nước bị
xáo trộn về chính trị cũng như kinh tế. . chưa kể đất nước phải mang
tiếng nhục bại trận. Theo chúng tôi biết thì tâm lý chung con người
thường ích kỷ, họ chỉ nghĩ đến những cái "mất" và không để ý tới những
cái "được". Tất cả những sự mất mát đó chỉ là cái giá mà họ phải trả để
được bắt tay Mao xếnh xáng ngày 21/2/1972, muốn bắt tay xếnh xáng đâu có
phải chuyện dễ. Điều mà chính phủ Hoa Kỳ mong ước bao lâu nay đã thành
sự thật, họ đã chiêu hồi được Trung Quốc, đảng cướp hung tợn này không
còn là mối đe dọa tài sản tính mạng của Hoa Kỳ nữa, nhưng sự chiêu hồi
ấy phải trả một giá hơi cao. Theo
chúng tôi nghĩ các ngài chuyên viên, chính trị gia ấy chắc cũng phải
thừa biết như vậy và sự giả vờ ngây thơ của họ cho thấy họ không thẳng
thắn nhìn nhận sự thật. Chúng tôi nghĩ các vị Tổng thống Hoa Kỳ chắc hẳn
không sai lầm chút nào khi dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam vì
các ngài là những nhà chính trị gia lỗi lạc, những bậc thầy chính trị
của thế giới chẳng lẽ lại sai lầm như vậy sao? Người ta kêu ca những sự
thiệt hại cuộc chiến tranh ấy đã gây ra cho đất nước họ, thế còn đất
nước nạn nhân đã là bãi chiến trường của bom đạn, binh đao khói lửa thì
sao? Người Mỹ nói rằng số bom ném tại Việt Nam gấp 3 lần số bom ném tại
Âu châu trong suốt thời Đệ nhị thế chiến, họ chỉ chú ý tới số tiền chi
phí khổng lồ về số lượng bom đã ném xuống nhưng lại không để ý tới những
nhân mạng, tài sản do những trái bom ấy gây nên. Từ
Thế chiến thứ hai đến nay ai cũng biết chỉ có thân phận mấy anh nhược
tiểu là chịu thiệt thòi, làm món hàng cho các cường quốc mua qua bán
lại, còn các siêu cường thì mấy khi chịu thiệt. Nay nhiều người cho rằng
cuộc chiến Iraq là một sự sai lầm, nhưng nếu nhìn vào con số thống kê
thì thấy Iraq là nước cung cấp dầu cho Hoa Kỳ nhiều nhất (29%), thứ nhì
là Ecuator ( 19%). . các nước khác ít lắm chỉ năm, bẩy phần trăm thôi.
Nhìn vào cái "sự thật phũ phàng" ấy thì không thể kết luận là chiến
tranh Iraq sai lầm! Sự
thật không phải Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ những năm 1964, 65 mà
thật ra từ tháng 10/1950 khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt giúp Việt
Minh, người Mỹ đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng
không mẫu hạm Mỹ đã chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính
phủ và Quân đội Quốc Gia Việt Nam được thành lập từ đó và đã được người
Mỹ trả lương. Năm 1950 Viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17%
nhưng mấy năm sau tăng lên tới 74%. Năm 1949 Mỹ đã tàn nhẫn bỏ rơi Quốc
Dân Đảng Trung Hoa, Mao thừa cơ nuốt trọn nước Tầu và thành lập Trung
Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc khiến cho cán cân lực lượng trên thế giới
lệch hẳn đi. Ngay
khi vừa chiếm xong toàn cõi lục địa, Mao vội giúp đỡ và xúi dục Bắc
Triều Tiên xâm lăng miền Nam năm 1950 khiến cho Mỹ phải hốt hoảng lấy
danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để nhẩy vào ngăn chặn và đã phải dùng biển lửa
để chống lại chiến thuật biển người của Lâm Bưu. Mỹ bắt đầu ghê sợ
Trung Cộng từ đấy, một khối 500 triệu người hung hãn, đói khát, hiếu
chiến…. lại căm thù Hoa Kỳ và Tây phương ra mặt. Chiếm được toàn cõi
Trung Hoa, Mao thừa nhận Hồ, rồi Hồ thừa nhận Mao và được viện trợ vũ
khí đạn dược ồ ạt từ đất Tầu chuyển sang, ấy cũng là lúc Hoa Kỳ thấy
nguy cơ Cộng Sản đang lan tràn xuống Đông Nam Á theo kiểu tầm ăn dâu và
cương quyết ngăn chận đến cùng. Năm
1954 Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ phải ký hiệp Định Genève chia đôi
đất nước Việt Nam. Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam để biến
nơi đây thành tiến đồn chống Cộng của Thế Giới Tự do. Mỹ viện trợ quân
sự cho miền Nam, huấn luyện cho binh lính miền Nam kỹ thuật tác chiến để
ngăn ngừa hiểm hoạ Cộng Sản từ phương Bắc có thể tràn xuống bất cứ lúc
nào. Đầu thập niên 60 Trung Cộng cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên, lật
đổ được Kruschev khiến cho vai trò của Trung Cộng ngày càng quan trọng,
nó đã làm thành cái thế chân vạc trên thế giới hồi ấy. Một thời gian
ngắn sau, với đà tiến bộ khá nhanh, Trung Cộng chế tạo được bom kinh
khí, rồi chế được hoả tiễn khi ấy Hoa Kỳ lại càng hoảng sợ hơn bao giờ
hết, đối với họ, Trung Công còn nguy hiểm và đáng sợ hơn Nga sô rất
nhiều vì nó là một khối người đông như kiến, đói rách, tàn ác, hiếu
chiến. . chỉ tính chuyện xua quân đi ăn cướp mà tâm lý anh nhà giầu lại
hay sợ kẻ cướp. Mặc
dù Trung Cộng ngày càng chống đối Nga Sô nhưng vẫn coi Mỹ là kẻ thù số
một và thề quyết tâm đánh Mỹ. Năm 1965 Trung Cộng giật dây đảo chánh bất
thành tại Nam Dương khiến cho Hoa Kỳ lại càng lo sợ hơn. Tầu đỏ nay đã
trở thành cơn ác mộng đối với Hoa Kỳ. Sau khi hất cẳng Pháp tại miền Nam
Việt Nam 1955, người Mỹ dựng lên chính phủ Ngô đình Diệm và yểm trợ hết
mình, tình hữu nghị hai bên vô cùng khít nhưng chỉ được chừng bốn năm.
Khoảng 1960 trở đi hai bên bắt đầu chia rẽ trầm trọng, Cộng Sản ngày
càng gia tăng áp lực tại miền Nam, chúng đã đánh tới cấp trung đoàn, Mỹ
sợ miền Nam sắp mất tới nơi bèn đề nghị đưa quân vào bình định nhưng ông
Diệm một mực bác bỏ vì muốn giữ chủ quyền. Mỹ thấy chính phủ miền Nam
ngày càng ương bướng khó bảo nên đã tính chuyện lật đổ để thay thế bằng
một chính phủ khác dễ bảo hơn. Sau mấy lần cho đảo chính, ám sát hụt mãi
đến đầu tháng 11/1963 mới thành công. Mỹ
tăng viện trợ quân sự cho miền Nam từ 1964 trở đi, năm 1965 chính thức
đổ quân vào Miền Nam khoảng 180,000 người, năm 1966 lên 380,000 người,
năm 1967 lên 480,000 người, năm 1968 lên tới 536,000 người đó là đỉnh
cao nhất. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh lúc ấy đã lan rộng trên
đất Mỹ khi số lính Mỹ ủm củ tỉ tại Việt Nam lên tới 31,000 người. Tháng
3/1968 Tổng thống Johnson hăm dọa Bắc Việt để họ phải vào bàn hội nghị,
Bắc Việt chấp nhận ngồi họp. Từ
1965 đến 1968 cuộc chiến tranh cù cưa không dứt khoát, người ta đồn tư
bản Mỹ buộc chính phủ của họ kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, nhưng
cũng có thể họ trì hoãn để mặc cả đi đêm với khối Cộng nhất là Trung
Quốc. Tháng 4/1969 tướng Wesmoreland công bố bản phúc trình về Việt Nam
cho biết nếu Mỹ không vào Việt Nam 1965 thì đã mất trong 6 tháng, ông
chỉ trích chính sách hạn chế chiến tranh của Johnson không cho đánh qua
Mên, Lào nên đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng. Phong
trào phản chiến ngày càng lên cao, Nixon nhậm chức Tổng thống đầu 1969
tuyên bố sẽ rút quân trong vòng mấy năm, thực hiện Việt Nam hoá chiến
tranh, hòa bình trong danh dự. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1970 Quân đội
Việt Nam Cộng Hoà được Mỹ giúp đỡ và khuyến khích hành quân sang Mên
đánh Cộng Sản đã thành công vẻ vang, nhưng đầu năm sau hành quân Lam Sơn
719 sang Hạ Lào không thành công, ta bị thiệt hại về nhân mạng và vũ
khí. Phong trào phản chiến tại Mỹ càng lên cao dữ dội vì chính phủ mới
vẫn tiếp tục leo thang chiến tranh. Tháng 5 /1970 trong một cuộc biểu
tình tại trường đại học Kent, Ohio quân đội đã bắn chết 4 sinh viên, làm
bị thương 10 người khác khiến cho phong trào chống chiến tranh lên cao
gấp bội lần những năm trước. Nixon
bắt đầu cho rút quân từ giữa 1969 cho tới hết năm 1970 rút khoảng
300,000 quân . . đến 1972 chỉ con trên 70,000 người. Chính phủ Mỹ đồng
thời thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, nâng tổng số quân đội miền Nam
từ 600,000 và 700,000 trong những năm 1965, 1966 lên tới 940,000 giữa
năm 1969. Hoa kỳ rút quân thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh là đã nghĩ
tới chuyện bỏ Việt Nam, họ chỉ chờ cơ hội bắt tay được với Trung Quốc là
thực hiện kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ" nhưng người dân miền Nam ngây thơ
thật thà không ai ngờ tới. Trong khi giúp miền Nam đánh Cộng Sản họ đã
ngấm ngầm tìm cách thương lượng với Trung Hoa đỏ. Năm
1969 chúng tôi có được nghe một anh bộ đội người cùng làng ra hồi chánh
, anh ta nói " Mỹ nó muốn chiêu hồi Trung Quốc đấy chứ cái anh Bắc Việt
thì nghĩa lý gì". Lời anh ta nói thật là linh ứng, tháng 2/1972 tại Bắc
kinh Tổng thống Đế quốc bắt tay được Mao Chủ tịt. Họ mua bán với nhau
trên xương máu của nhân dân và binh lính cả hai miền Nam Bắc, Nixon tươi
cười mãn nguyện, cơn ác mộng con hổ đói Trung quốc không còn ám ảnh Hoa
kỳ nữa. Hồi ấy người dân miền Nam ai nấy vui mừng hớn hở tưởng như "hoà
bình sắp tới nơi rồi" nhưng thực ra "sắp chết tới nơi" mà không ai hay
biết ngay cả Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu, tháng 10 năm
1973 ông đã cho sửa Hiến Pháp để ra ứng cử thêm một lần nửa! thật là
một truyện diễu. Cuối
tháng 3/1972 Bắc Việt đưa 5 sư đoàn với 200 xe tăng, 3 trung đoàn pháo ồ
ạt tấn công vùng giới tuyến chia làm hai mũi: 3 sư đoàn vượt sông Bến
Hải đánh vào Quảng Trị, 2 sư đoàn từ phía tây tiến về Huế. Mấy ngày sau
ba sư đoàn Cộng Sản 5, 7, 9 cùng 200 chiến xa tiến đánh Bình Long, ngoài
ra sư đoàn 320 tiến đánh Kontum và sư đoàn 3 đánh Bình Định. Tổng cộng
10 sư đoàn Bắc Việt đánh lớn trong mùa hè đỏ lửa 1972 để thêm sức mạnh
tại bàn hội nghị. Tại quân khu 3 các cuộc tấn công vào thị xã An lộc của
Bắc Việt từ 10/5 cho tới cuối tháng 5 bị đẩy lui, hằng trăm xe tăng bị
bắn cháy, đến ngày 12/6 An Lộc coi như hoàn toàn được giải toả. Tại vùng
giới tuyến tháng 5 tướng Ngô quang Trưởng thay thế Hoàng Xuân Lãm và
bắt phản công tái chiếm Quảng Trị từ 28/6. Khoảng một tháng sau đại quân
ta cắm cờ trên cổ thành Quảng Trị, giữa tháng 8 dứt điểm cổ thành, ngày
16/9 cuộc chiến đẫm máu coi như chấm dứt, 3 sư đoàn Việt Nam Cộng Hoà
đã đẩy lui được 6 sư đoàn Bắc Việt. Trong chiến dịch này Cộng quân thiệt
hại khoảng 100,000 người (cũng có tài liệu nói 70,000 người), gấp đôi
tổn thất của quân đội miền Nam. Cho đến cuối 1972 có vào khoảng một
triệu cán binh Cộng Sản bị tử thương trong khi Bắc Việt vẫn ngoan cố
theo đuổi chính sách "cố đấm ăn xôi" đẩy thanh niên vào chỗ chết, chúng
hy vọng nhiều vào phong trào phản chiến, chúng cũng chỉ mong có thế. Người
Mỹ cho rằng chiến thắng trong trận mùa hè đỏ lửa một phần do sự yểm trợ
hùng hậu của không lực Mỹ, chính ông Cao văn Viên, Tổng tham mưu trưởng
cũng đã xác nhận "Cuộc công kích của địch quân năm 1972 đã cho thấy
nhược điểm của tiến trình Việt Nam hoá chiến tranh. Nếu không được yểm
trợ của Mỹ về Không lực và di động tính, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khó
có thể giữ được An Lộc , bảo vệ được Kontum và chiếm lại được Quảng Trị .
Các phần đất này sẽ bị mất vĩnh viễn bởi vì chúng tôi không có đủ khả
năng chiếm lại. Tuy nhiên, lúc nào còn Không lực Mỹ thì cán cân lực
lượng vẫn có thể duy trì và Việt Nam Cộng Hoà vẫn còn một cơ hội tốt để
sống còn" Như
thế năm 1972 lực lượng Việt Nam Cộng Hoà không được cân bằng so với Bắc
Việt, nó chỉ cân bằng khi có sự yểm trợ của Không quân Mỹ, tại miền Nam
tháng 5, tháng 6/1972 có 18,000 phi vụ do 700 phi cơ và 2,700 phi vụ do
170 B-52 thực hiện. Năm 1968 và 1972 chính phủ Việt Nam đã đề nghị
chính phủ Mỹ cho thành lập thêm 2 sư đoàn tổng trừ bị để đối phó với lực
lượng địch đã có ưu thế về xe tăng pháo binh, nhưng người Mỹ từ chối
lấy lý do tốn kém. Kỳ thực họ không muốn cho quân đội miền Nam mạnh quá
vì sợ có thể liều lĩnh đánh ra Bắc hoặc ương bướng khó bảo, họ luôn luôn
nắm đằng chuôi. Như thế ta có thể kết luận về chủ lực quân, miền Nam
không bằng miền Bắc cũng như năm 1953 chủ lực quân Việt Minh vẫn mạnh
hơn Pháp. Sau
ngày ký hiệp định Paris, năm 1973 tình hình tiếp vận của miền Nam vô
cùng thiếu hụt , một số lớn săng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ
lửa năm 1972, quân viện bị cắt giảm dần dần từ 2 tỉ 1 năm 1973 còn 1 tỉ 4
năm 1974 và 700 triệu năm 1975. Theo tiết lộ sau này của Bộ Tổng tham
mưu hậu quả của giảm quân viện là không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ
ngưng bay, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%, phi vụ trực thăng
giảm 70%. Các hoạt động hải quân cũng cắt giảm 50%, 600 tầu chiến các
loạinằm ụ. Đạn dược chỉ đủ dùng cho đến tháng 6/1975. So
sánh với tình hình năm 1972 chúng ta sẽ thấy: Trong trận mùa hè đỏ lửa,
Bắc Việt đã đưa vào trận đánh tổng cộng 10 sư đoàn, ta có đủ đạn dược
săng dầu để chiến đấu lại được không quân Mỹ giúp đỡ về vận chuyển và
oanh tạc. Sang năm 1975, săng dầu đạn dược thiếu thốn, không được B52
yểm trợ. Lực lượng địch lúc bắt đầu trận đánh khoảng 17 sư đoàn, chưa kể
3 sư đoàn tổng trừ bị thuộc quân đoàn 1 ở phía trên Bến Hải, khi ta mất
vùng 1 và 2 , Bắc việt đưa nốt 3 sư đoàn vào Nam nâng tổng số lên 20 sư
đoàn . Vũ khí đạn dược của địch năm 1975 gấp 3 lần 1972 theo tiết lộ
của báo Nhân Dân năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30/4. Chúng ta hãy lập bảng so sánh như sau. Năm 1972: - Bắc Việt đưa vào trận địa 10 sư đoàn - Miền Nam có đầy đủ tiếp liệu đạn dược. - Có yểm trợ của không lực Mỹ. Năm 1975: - Lực lượng Bắc Việt lên tới 20 sư đoàn, gấp đôi năm 1972. - Vũ khí đạn dược của Bắc Việt gấp 3 lần năm 1972. - Miền Nam thiếu thốn đạn dược nhiên liệu. - Không được phi cơ Mỹ yểm trợ oanh tạc và vận chuyển. Nhìn sơ ta cũng đủ thấy tình hình miền Nam lúc ấy bi đát như thế nào rồi. Trong
khi địch có khá đầy đủ tin tức tình báo về miền Nam, chúng ta lại không
có tin tức chính xác về lực lượng địch. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại
thắng Mùa Xuân) vào ngày 9 và 10 tháng 12/1974 vài ngày trước khi Bắc
Việt đánh Phước Long, trong một phiên họp các tư lệnh quân khu tại dinh
Độc Lập, tướng Thiệu cho rằng năm 1975 Bắc Việt có thể đánh lớn hơn năm
1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng 1972, chưa có khả năng đánh
vào các thị xã lớn mà chỉ đủ đánh các tỉnh nhỏ như Phước Long, Gia
Nghĩa, rằng Bắc Việt sẽ đánh quân khu 3 chủ yếu là Tây Ninh. Theo Văn
Tiến Dũng do nhận định sai nên tướng Thiệu đã bố trí chiến lược mạnh ở
hai đầu (quân khu 1 và 3), chưa tăng cường lực lượng cho quân khu 2
trong đó có Tây Nguyên. Sư bố trí lực lượng của miền Nam theo Văn tiến Dũng như sau. Quân
khu 1 để 5 sư đoàn (sư đoàn 1, 2, 3, Dù và Thủy quân lục chiến), 4 liên
đoàn Biệt động quân, 418 khẩu pháo, 449 xe tăng, 96 máy bay chiến đấu. Quân
khu 2 để 2 sư đoàn (sư đoàn 22 và 23), 7 liên đoàn biệt động quân, 382
khẩu pháo, 477 xe tăng thiết giáp, 138 máy bay chiến đấu. Quân
khu 3 để 3 sư đoàn (sư đoàn 5, 18, 25), 7 liên đoàn biệt động quân, 376
khẩu pháo, 655 xe tăng thiết giáp, 250 máy bay chiến đấu. Quân khu Bốn để 3 sư đoàn (sư đoàn 7, 9, 21), 380 khẩu pháo, 490 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại. Đã
suy yếu vì thiếu tiếp liệu, ta lại đánh giá sai lực lượng địch nên đã
bố trí các quân khu sai như trên. Cho tới 1975 ta vẫn không thay đổi sự
bố trí lực lượng đã có từ trước cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng
địch như đã nói ở trên tổng cộng là 20 sư đoàn, với số xe tăng thiết
giáp ước lượng không chính xác khoảng 700 chiếc và700 khẩu pháo. Một nhà
báo tây phương nói hai bên xem như ngang nhau vào lúc đầu của tấn thảm
kịch. Năm 1975 Việt Nam Cộng Hoà có trên một triệu quân, 40% là chủ lực
chính qui, 50% là địa phương quân, còn lại hải quân, không quân, cảnh
sát. Lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn và 15 liên đoàn biệt động quân ,
mỗi liên đoàn khoảng trên 2,000 người. Về mặt số lượng xe tăng và pháo
của địch không bằng ta nhưng về mặt phẩm thì có phần hơn, thiết giáp
miền Nam gồm M-48, M-41, M-113, trong đó chỉ có M-48 là tương đương với
T-54 của Bắc Việt, pháo binh địch loại 130 ly có tầm viễn xạ tối đa là
30 cây số trong khi đại bác 105 ly, 155 ly của ta chỉ được 11 và 15 cây
số, sau này được viện trợ thêm 175 ly có tầm bắn xa 25 cây số. Sự thực
lực lượng hai bên không cân bằng vì miền Nam lâm vào tình trạng hết đạn. Quân
khu 2 gồm 13 tỉnh mà chỉ có 2 sư đoàn trấn giữ, lực lượng bị phân tán
mỏng lại là nơi địch chủ trương tấn công toàn diện, Bắc Việt tung vào
trận địa này 5 sư đoàn tổng cộng gần 80,000 người. Bắc Việt bất ngờ đưa
ba sư đoàn tấn công Ban mê thuột ngày 11/3, năm ngày sau 16/3/1975, Quốc
hội Mỹ cắt viện trợ 300 triệu đô la quân viện bổ túc cho Việt Nam như
thế ta chỉ còn đạn đủ đánh trong vòng vài tháng, hôm sau 17/3 Ban Mê
Thuột hoàn toàn mất. Từ ngày 11/3 tại dinh Độc Lập tướng Thiệu triệu tập
phiên họp gồm các tướng Viên, Khiêm, Quang cho biết phải rút quân bỏ
vùng 1 vùng 2 về bảo vệ vùng 3 và vùng 4. Kontum, Pleiku bị áp lực nặng,
tướng Phú tư lệnh quân khu 2 bay về Cam ranh họp với các tướng Thiệu,
Khiêm, Viên, Quang để bàn kế hoạch rút lui Pleiku theo đường số 7 về Tuy
Hoà. Cuộc
triệt thoái bắt đầu từ 16/3 đến 19/3, ngày đầu nhờ yếu tố bất ngờ nên
đoàn lữ hành ra đi êm xuôi, hôm sau dân chúng ùa theo, Bắc việt chớp
thời cơ chận đánh, pháo kích tơi bời, khoảng 5,000 quân vượt đường máu
tới Tuy Hoà, cuộc triệt thoái không có kế hoạch đầy đủ, cấp trên nhiều
người bỏ đơn vị chạy trước, kỷ luật hỗn tạp, kẻ xấu lợi dụng bắn phá
giết chóc. . Cuộc triệt thoái trên đường số 7 đã đi vào vết xe đổ của
trận Cao Bắc Lạng năm 1950 khi quân Pháp triệt thoái khỏi vùng biên giới
Việt Hoa đã bị Việt Minh chận đánh tan tành, được coi như một thảm bại
lớn nhất trong cuộc chiến tranh tại miền Nam nước Việt từ trước đến nay. Tướng
Cao Văn Viên cho rằng ít nhất 75% các lực lượng chiến đấu của quân đoàn
2 đã bị tiêu diệt, 60,000 chủ lực quân khi về đến Tuy hoà chỉ còn lại
khoảng 20,000, năm liên đoàn biệt động quân 7,000 người chỉ còn 900
người, 100 xe tăng các loại chỉ còn 13 cái M-113, trong số 400,000 dân
cao nguyên chạy loạn chỉ có 100,000 người tới được Tuy Hoà. Tổng số vũ
khí đạn dược trị giá 250 triệu đô la lọt vào tay Cộng quân. Ít ra cũng
có tới 50,000 người thiệt mạng, cuộc triệt thoái mang lại hậu quả hết
sức tai hại, nó đã kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ miền Nam. Miền
Nam đã đang ở trong tình trạng ngặt nghèo vì thiếu đạn, săng dầu. .
tướng Thiệu lại đưa ra những quyết định sai lầm vô cùng tai hại khiến
cho đất nước trong chớp nhoáng đã kề bên bờ vực thẳm, ngày 13/3 ông cho
lệnh rút sư đoàn dù từ Quảng trị về vùng 3, tướng Trưởng điều động liên
đoàn biệt động quân 14 thay thế vào, biệt động quân nghe tiếng xe tăng
địch vội rút về phía nam sông Mỹ chánh, Quảng trị coi như bỏ ngỏ đã lọt
vào tay Bắc Việt hôm 19/3. Ngày hôm sau tướng Trưởng nhận được lệnh bỏ
Huế rút về Đà nẵng, ngày 25/3 Quảng Tín và Quảng Ngãi lọt vào tay Cộng
quân, ngày 25/3 Trưởng nhận lệnh đưa sư đoàn Thủy quân lục chiến về Sài
Gòn. Cuộc tháo lui của Thuỷ quân lục chiến tại cửa Thuận An vô cùng thê
thảm, biết bao người bỏ mạng khi lội ra tầu dưới hoả lực địch. Các cuộc
di tản tại vùng 1 đã diễn ra một cách hỗn loạn được coi như tồi tệ hơn
tại vùng 2, cấp trên nhiều người bỏ quân sĩ lại để chạy tháo thân, ngày
27/3 Đà nẵng bắt đầu nghiêm trọng, Cộng quân pháo vào thành phố dữ dội,
dân quân chết như rạ, tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Vùng
1 và 2 bị mất trong chớp mắt khiến cho tinh thần binh sĩ suy sụp nhanh
chóng, điều đáng nói là trong khi tinh thần chiến đấu của binh sĩ còn
khá cao, thay vì tăng viện thêm tướng Thiệu lại cho lệnh rút bỏ cả hai
quân khu khiến cho dân quân vô cùng hoang mang, cuộc di tản diễn ra
trong cảnh hỗn loạn, đạp lên đầu nhau mà chạy, bắn giết nhau tìm đường
chạy coi như đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Tất cả vũ khí đạn dược,
quân trang, xe tăng đại bác . . tại hai vùng hầu như mất hết, một phần
lớn đã lọt vào tay Cộng quân, đúng là giáo vào tay giặc. Năm 1976, Cộng
Sản tiết lộ trên báo chí chúng đã lấy được rất nhiều chiến lợi phẩm tại
vùng 1 và 2 nào xe cộ, đại bác, thiết giáp. . để trang bị thêm, đạo quân
của địch bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Như đã nói ở trên riêng cuộc lui
binh tại quân khu 2 cũng đã có khoảng 50,000 người thiệt mạng, cuộc rút
lui hỗn loạn tại quân khu 1 dưới những trận mưa pháo của địch nhất là
tại Đà Nẵng còn thiệt hại nhiều hơn nữa, trong toàn bộ cuộc di tản vùng 1
và 2 có tới hằng trăm nghìn người bị chết oan. Thực
hiện xong kế hoạch rút quân tại vùng 1 và 2 coi như tướng Thiệu đã dọn
cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Sau khi vùng 1 và 2 lọt vào tay Cộng quân,
phần còn lại của miền Nam coi như sẽ mất trong giây lát, đạn dược đã
thiếu nay lại càng thiếu hơn vì các kho đạn miền Trung mất hết. Tại Sài
Gòn các ông to bà lớn đã chuẩn bị kế hoạch "tẩu vi thượng sách" y như
năm 1949 tại Nam Kinh, Trung Hoa các ông bộ trưởng, tướng tá đã lên máy
bay ra đảo Đài Loan. Sài
Gòn sắp chết tới nơi mà chính phủ Thiệu còn khẩn khoản xin Mỹ viện trợ
khẩn cấp 300 triệu, theo ông Nguyễn tiến Hưng, vào giờ thứ hai mươi năm
tướng Thiệu còn tính việc lấy ngoại tệ trong ngân hàng để đi mua đạn,
thật là diễu hết chỗ nói. Ngày 21/4 ông Thiệu từ chức tổng thống, tuyên
bố Hoa kỳ bỏ rơi đồng minh, từ đó đến nay nhiều người Việt đổ lỗi cho Mỹ
đã bỏ rơi đồng minh năm 1975. Người Mỹ, điển hình là đương kim Tổng
thống và bộ trưởng quốc phòng lại chỉ trích quân đội Việt Nam Cộng Hoà
trước đây đã không chịu đánh. Nhiều chính khách Hoa kỳ lại đổ lỗi cho
miền Nam Việt Nam. Theo ông Nguyễn đức Phương, nhà nghiên cứu quân sự
thì nguyên nhân thất bại đã đến từ cả hai phía Việt Nam và Mỹ. Như
chúng tôi đã trình bầy ở trên, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự
khiến cho quân đội miền Nam lâm vào tình trạng ngặt nghèo kiệt quệ, một
ông tướng Pháp nói đó là bức tử Việt nam. Chính người dân Mỹ, nhóm biểu
tình phản chiến đã lên kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ", mặc dù không nói ra
nhưng họ cho rằng đã "huề" với Trung Hoa đỏ rồi thì không còn lý do gì
để giữ miền Nam. Người dân đã vận động với Quốc hội để bức tử miền Nam
như trên, Quốc Hội phải theo ý dân vì sống nhờ vào lá phiếu của họ. Công
bằng mà nói hành pháp Hoa Kỳ đã cố gắng cứu giúp sự sống còn của miền
Nam nhưng họ đã bị Quốc hội trói tay đành phải chịu. Sau ngày 30/4/1975,
một nhóm đông đảo sinh viên thanh niên phản chiến hớn hở tham dự buổi
mít tinh để mừng chiến tranh chấm dứt "The war is over". Cho tới nay ít ra đã có người biết xấu hổ vì cái trò vắt chanh bỏ vỏ. Bộ
trưởng tư pháp Mỹ R Kennedy nói Việt nam phạm vào rất nhiều sai lầm,
trước mắt như chúng ta đã thấy ở trên, trong khi đạn dược thiếu hụt,
tướng Thiệu lại sai lầm rút bỏ quân khu 1 và 2 đưa miền Trung vào chỗ
thảm bại mất hết vũ khí đạn dược, chết bao nhiêu dân, quân, binh lính
khiến cho tinh thần suy sụp ghê gớm đưa miền Nam xuống vực thẳm. Những
người chạy lọan từ miền Trung vào Nam, một số sĩ quan viết lại hồi ký,
họ nói rằng cấp lớn nhiều người thiếu tư cách, bỏ lính tráng lại chạy
tháo thân. Thật
vậy, nhiều ông tỉnh trưởng vét tiền trong ngân khố chạy trước, điều
đáng tiếc là trong khi tinh thần binh sĩ còn cao, cấp lớn hèn nhát ích
kỷ đã giúp cho sự sụp đổ của miền Nam nhanh hơn dự kiến. Trong khi ba
quân tướng sĩ còn đang chiến đấu anh dũng bảo vệ vùng 3, nhiều ông to bà
lớn đã thu xếp quí kim chuồn ra ngoại quốc. Gần đây có một ông trước là
quân nhân công chức mới định cư tại hải ngoại, ông ta nói "nhiều anh
trước làm quan lớn bỏ chạy bây giờ còn lên tiếng huênh hoang, mấy anh
hèn nên im lặng là hơn." Ông
Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân thờ ơ không chịu giúp đỡ chính
phủ, nhưng theo chúng tôi nghĩ vì chế độ Thiệu đã thối nát quá xá rồi,
hẳn là ai cũng đều biết cả, nên người dân quá chán ngán không còn thiết
tha gì đến, họ cũng chỉ lo chạy tháo thân mặc cho nó sụp đổ tan tành.
Những người có cảm tình với ông Thiệu cho rằng nguyên do tấn thảm kịch
tại tình thế ngặt nghèo như thiếu đạn dược, xăng dầu, nhưng một ông Tổng
thống phải là người thao lược, mưu trí cao để có thể chuyển bại thành
thắng, còn nếu không thì ai cũng có thể làm Tổng thống được. Sau
30/4/1975 người ta ước lượng Cộng quân đã chiếm được 1,100 phi cơ các
loại, hằng trăm tầu các loại của Hải quân, 300 xe tăng M-41, 250 xe
M-48; 1,000 đại bác 105 mm, 300 đại bác 155mm và 175mm; 800,000 súng cá
nhân M-16, 15,000 đại liên; 500 trực thăng; 130,000 tấn đạn dược. . tất
cả trị giá hằng tỉ Mỹ kim. Hậu
quả của tấn thảm kịch như ta thấy đã khiến cho hằng trăm nghìn người
chết oan, hằng trăm nghìn người bị tù đầy giam giữ lâu dài, vài năm sau
có tới mấy trăm nghìn người bỏ xác giữa biển khơi trên đường tị nạn.
Cuộc chiến tranh 1975 đã chấm dứt từ mấy chục năm qua nhưng nó vẫn in
sâu trong tâm khảm người Việt nhất là đám tị nạn lưu vong. Bây giờ không
phải lúc chúng ta ngồi oán trách đồng minh bỏ rơi miền Nam, ta phải tự
trách mình đã không bảo được nhau, đã biến thành những quân tốt cho
người ta xử dụng, đã để cho họ mua bán với nhau trên xương máu của hằng
triệu binh lính cả hai miền Nam Bắc, đã biến đất nước thành bãi chiến
trường và nơi thử vũ khí của khoa học quốc phòng. Cuối cùng, những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sẽ đời đời đắc tội trước non sông và lịch sử. Trọng Đạt TÀI LIỆU THAM KHẢO. Cao Thế Dung : Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa (1945-1963). Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975. Đoàn Thêm: 1965, Việc Từng Ngày. Đoàn Thêm: 1966, Việc Từng Ngày. Đoàn Thêm: 1969, Việc Từng Ngày. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Nam Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới. Văn Tiến Dũng : Đại Thắng Mùa Xuân. Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn. Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975. The World Almanac Of The Viet Nam War, John S.Bowman, General Editor. Stanley Karnov: Viet Nam, a History. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23101 |
Gởi ngày: 18/Dec/2024 lúc 10:31am |
Thương Nhớ Quá! Việt Nam Cộng HòaPosted vào Tháng Mười Hai 28, 2018 bởi quanvan.net in Topa, z*Thơ văn // 7 Comments Sáng sớm hôm nay, buổi sáng cuối tháng mười hai năm 1974 bỗng nhiên trời có mưa và rất lớn. Tôi bị thức giấc vì tiếng mưa rơi quá mạnh trên mái tôn. Tôi nằm im nghe mưa rơi và mắt thì cứ đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi ngạc nhiên khi tháng này vẫn còn mưa. Tôi nhìn mưa và nhìn bầu trời đầy mây đen mà lòng thì không vui. Tôi đang nghĩ về mấy đứa bạn trong đơn vị nay đã ra người thiên cổ. Không biết giờ này đơn vị đang hành quân hay nằm hậu cứ. Nếu đang hành quân mà có mưa thì thường có gió mạnh, một điều quả là cực khổ cho người lính khi phải lội sình lội rừng tìm địch. Lính đi hành quân sợ mưa vì mọi thứ đều trở nên nặng nề. Nhứt là nước vô trong giày rất khó chịu khi di chuyển. Chân ngâm nước lâu ngày bị nước ăn chân vừa đau vừa có mùi rất hôi. Việt Cộng thì cứ như là lũ chuột cống vậy. Chúng chỉ được trang bị đôi dép râu nên chúng nhanh chân chui rúc trong các hang động làm cho người lính không biết đâu mà tìm. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua rồi mà tôi vẫn nằm im. Tờ lịch trên tường làm cho tôi chợt nhớ hôm nay là đúng năm tháng ngày tôi bị thương. Và, tôi cũng được tròn hai mươi bốn tuổi. Hai mươi bốn năm trước tôi được sinh ra và lớn lên nơi miền cao nguyên gió núi mưa rừng. Khi tôi đang vui học cùng thầy cô và bạn bè thì chiến tranh ý thức hệ không những vẫn đang xảy ra ở những khu dân cư thưa thớt hoặc trong những khu rừng rậm, mà đã xâm nhập vô các thành phố đông dân cư và gây ra những thảm cảnh thật thê lương. Khi tôi vừa đậu tú tài, tôi đã từ giã học đường và thầy cô cùng bè bạn để lên đường làm bổn phận của người thanh niên trong thời chiến. Sau chín tháng quân trường, tôi được đi học tiếp khóa Rừng Núi Sình Lầy tại Dục Mỹ. Bốn mươi hai ngày với khóa học nổi tiếng khắc nghiệt của binh chủng Biệt Động Quân rồi cũng qua. Và, tôi được chính thức cầm súng chiến đấu. Một ngày kia trong buổi chiều tàn, tôi đến căn hầm của đơn vị trưởng để họp. Ngoài ông đơn vị trưởng còn có thêm ba vị sĩ quan và tôi. Đang họp thì căn hầm bỗng rung lên, đất và đá bay ào ào rồi căn hầm bị sụp đổ hết ba phần tư. Mùi khói đạn nồng nặc làm cho tôi bị ngạt thở rồi bất tỉnh. Đến tờ mờ sáng hôm sau khi tiếng đạn pháo bớt dần, tôi được mấy người lính đem ra khỏi căn hầm thì mới biết mình còn sống nhưng đã bị thương nặng. Năm người có mặt trong căn hầm thì chỉ có hai người là, Thiếu úy Lương mới rời trường Võ Bị Quốc Gia được hơn ba tháng và tôi… được sống sót. Cũng từ hôm đó tôi đã trở thành thương phế binh. Thiếu úy Lương may mắn chỉ bị vài vết xước trên cánh tay nên anh đã thay ông Đại đội trưởng chỉ huy phản công. Lương nhìn tôi nói: “Ông và tôi may mắn, nhưng ông phải từ giã vũ khí. Ông nhớ luôn cầu nguyện cho chúng tôi nhé”. Tôi đau quá nên không nói được ra lời. Tôi nắm tay Thiếu uý Lương thật chặt như xác nhận là tôi sẽ làm theo như Lương yêu cầu. Và, hằng ngày tôi vẫn cầu nguyện cho quê hương, cho đơn vị; luôn giữ chặt tay súng để đem bình an và hạnh phúc đến cho đồng bào. Tôi ngồi lên và lần bước đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Bên ngoài, mưa vẫn lớn nên đường sá vắng tanh. Mấy người đàn bà bán hàng rong quen thuộc đang đứng trú mưa dưới mấy mái hiên nhà bên kia đường và đang nói chuyện, nhưng thỉnh thoảng mấy bà ngước mặt nhìn lên trời cao như muốn hỏi ông trời, sao lại mưa chi vào tháng này? Vì trời mưa nên sáng hôm nay tôi không nghe tiếng rao hàng của mấy bà; vốn thường vang vọng vô đến tận trong phòng ngủ tôi. Hiện tại thì bầu trời đã bớt u ám. Tất cả báo hiệu một buổi sáng sẽ đẹp lại và ấm áp. Tôi ngồi ăn sáng trong phòng ăn. Bà chủ nhà mà tôi mướn phòng đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho tôi rất chu đáo rồi đi chợ hoặc đi công việc. Cả căn nhà dường như cũng đang quạnh quẽ vì chưa có ánh sáng mặt trời. Để tiết kiệm điện cho bà chủ nhà, tôi chỉ mở một ngọn đèn điện 40 wat. Ăn xong, tôi gom những mảnh vụn bánh mì trên mặt bàn lại. Một tiếng động mạnh phía nhà trước làm cho tôi giật mình nhìn lên đó nhưng không thấy bà chủ nhà bước vô. Tôi cặp cái nạng vô nách và lần bước lên nhà trước. Tôi nhìn thấy một tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Đàn nằm dưới sàn nhà mà có lẽ người bỏ báo tháng cho cô con gái nhỏ của bà chủ nhà vừa đem đến. Tôi ngồi ngã người ra ghế và suy nghĩ tiếp. Saigon hôm nay không còn bình yên như thuở nào nữa. Không còn trẻ em vui chơi chạy nhảy trên từng con đường vì những cuộc biểu tình của đám sinh viên thân cộng và thành phần đối lập, cùng những trò khủng bố đê tiện của Việt Cộng xảy ra gần như hằng ngày; vậy mà người dân lao động vẫn cứ tươi cười như chẳng có gì xảy ra cả. Họ phải sống và phải lo cho gia đình thì họ phải làm việc như thường ngày chứ không thể ngừng lại được. Gia đình tôi khuyên tôi nên ở lại Saigon, vì vậy tôi phải mướn phòng ở đây cho tiện chờ đến ngày đi tái khám và rồi chờ ngày ra Hội Đồng Y Khoa. Tôi đứng lên đi thay bộ quần áo tươm tất rồi kẹp đôi nạng vô nách và tập tễnh bước ra cửa trước. Tôi muốn đi quán uống cà phê vì trời đã quang đãng và phong cảnh xung quanh như vừa được rửa sạch. Tôi nhìn lên trời cao. Bây giờ những làn mây nhỏ làm nổi lên màu xanh trên không. Tia sáng ấm của mặt trời thấm qua da thịt làm cho cái chân tôi bớt đau nhức.Tôi khập khễnh bước nhưng trong đầu lại cứ nghĩ về những người bạn trong đơn vị. Chân của tôi vẫn còn đau nhức mỗi khi trời lạnh. Bỗng, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh cô y tá ở bệnh xá dã chiến của tiểu khu khi tôi được đưa từ chiến trường về đó sau ba ngày bị thương. Đơn vị tôi đụng trận ở vùng quá hiểm trở nên việc tải thương có bị chậm. Cô y tá tên Ngọc Hoa đã cùng vị bác sĩ có mặt khi chiếc trực thăng tải thương đáp xuống, và, cô đã săn sóc cho cái chân của tôi. Hôm đó bệnh xá có quá nhiều thương binh và cái chân của tôi thì có mùi hôi thật khó chịu. Tôi cảm thấy khó chịu vì cái mùi hôi đó, thế nhưng cô Ngọc Hoa thì làm như không thấy khó chịu gì cả. Khi tôi tỉnh dậy sau khi bị chụp thuốc mê, tôi mới biết mình đã bị cưa mất bàn chân. Người mà tôi gặp đầu tiên cũng chính là cô y tá Ngọc Hoa. Cô cười thật tươi và nói: “Em tưởng anh bị cưa lên tới đầu gối rồi đó chứ. Cũng may. Bây giờ thì chân của anh không còn bị hôi nữa”. Trong lúc tôi đau buồn vì không ngờ mình trở thành thương phế binh quá sớm, thì, cô Ngọc Hoa đem lại cho tôi ly cà phê sữa nóng. “Mời anh uống chút cà phê cho ấm” – Tôi vui sướng đón nhận ly cà phê.“Cám ơn cô nhiều lắm”. Uống cạn phân nửa ly cà phê tôi đã thấy tỉnh tảo lại rất nhiều. Tôi nhìn thấy bảng tên trên ngực cô, tôi khen thật lòng: “Cô Ngọc Hoa đẹp mà lại cũng rất dễ thương nữa. Bị đau mà gặp cô Ngọc Hoa thì dù có đau đến đâu cơn đau cũng phải tan biến ngay”. Cô Ngọc Hoa cười thật tươi. “Dạ, cám ơn lời khen của anh. Thấy mấy anh bị thương đau đớn mà em thấy tội nghiệp quá”. – “Phụ nữ là rường cột của xã hội. Chính những lúc như thế này mới thấy người phụ nữ quan trọng như thế nào”. Cô Ngọc Hoa mỉm cười và mặt đổi qua màu đỏ. Cô quay lưng đi ra cửa vì có cô y tá bạn đến tìm cô. Từ lúc đó cho đến hai ngày sau khi tôi được chuyển đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, cô Ngọc Hoa luôn mời tôi ăn và uống những thứ mà phải mua ở câu lạc bộ mới có. Niềm vui của tôi vừa có thì lại bị sút giảm vì phải chuyển đến nơi khác điều trị. Hôm tôi chuyển đến nơi mới, cô Ngọc Hoa không có mặt nên tôi có viết để lại vài chữ cám ơn cô và rất mong sẽ được gặp lại cô. Một tháng sau tôi được tin bệnh xá dã chiến có cô y tá tên Ngọc Hoa bị Việt Cộng pháo kích dữ dội nên người chết rất nhiều. Tôi cầu nguyện và hy vọng cô Ngọc Hoa không nằm trong những người xấu số. Uống cạn ly cà phê, tôi định cầm bình trà lên thì khi nhìn ra cửa tôi thấy một cô gái trẻ đang bước vô quán. Nhìn cô gái, tôi giật mình như không tin vào đôi con mắt của mình. Rõ ràng cô gái là cô Ngọc Hoa y tá đây mà. Cô Ngọc Hoa không nhìn thấy tôi nên tôi nhìn theo cô cho đến khi cô đi đến ngồi ở cái bàn phía trong cùng và kêu nước uống. Tôi chống nạng đi đến bàn của cô. Cô Ngọc Hoa vừa nhìn thấy tôi đến gần liền kêu lên vẻ vui mừng, nhưng, trên khuôn mặt cô lại lộ vẻ như hốt hoảng: “Anh Tâm. Em… em… rất mừng gặp lại anh, anh khỏe không?” Tôi vui quá nên không để ý đến sự hoảng hốt của cô: “Cám ơn cô Ngọc Hoa tôi rất khỏe. Cô Ngọc Hoa … mọi chuyện bình an chứ?”. Cô Ngọc Hoa chưa kịp trả lời thì tôi hỏi tiếp cô về vụ bệnh xá bị Việt Cộng pháo kích hôm nào. Cô Ngọc Hoa nói: “Tiểu khu… không xa những khu rừng nên thỉnh thoảng vẫn bị lãnh pháo của Việt Cộng, nhưng không bị nặng như lần vừa rồi. Thật may là hôm đó em đi công tác nên thoát nạn. À, cái chân của anh… ra sao rồi anh Tâm?”. – “Thỉnh thoảng vẫn bị đau một chút nếu trời lạnh, nhưng bây giờ thì không”. Cô Ngọc Hoa và tôi ngồi bên nhau thật lâu và nói đủ thứ chuyện cho đến khi cô Ngọc Hoa từ giã tôi nói là phải đi vì có công việc. Mảnh đất bề rộng mười tám thước và bề dài hai mươi ba thước mà tôi phải nhận nếu không muốn đi đến miền Trung. Dù vùng này còn hoang sơ nhưng cũng còn là miền Nam. Một cái hố lớn và đầy nước nằm trong mảnh đất mà tôi nghĩ đó là hố bom do máy bay B52 tạo ra khi đang còn chiến tranh. Vùng này ngày trước là căn cứ của Việt Cộng. Trên mảnh đất của tôi có dựng sẵn một căn nhà lợp lá bốn thước bề ngang và sáu thước bề dài. Bốn vách được che chắn bằng ván cây mỏng nhưng không liền nhau. Mảnh đất vỏn vẹn chỉ có vậy. Sáng sớm hôm nay, buổi sáng giữa tháng mười hai năm 1977, và, tôi mệt quá nên ngồi bệt xuống nền đất đưa mắt nhìn mông lung về phía trước. Mặt trời chưa lên nên tôi cũng không thể làm gì được. Tôi đang suy tính cách nào để lấp lại hố nước trong khi sức khỏe của mình lại quá sa sút. Nhìn mảnh đất lòng tôi không khỏi bùi ngùi và đau đớn bởi vẻ hoang sơ của nó. Tôi một thân một mình lại bị thương tật nữa thì làm sao có sức để tạo được cuộc sống yên lành nơi vùng đất chỉ có rừng với rừng mà thôi. Chung quanh vắng ngắt vì những căn nhà trong khu này không một bóng người. Những người từng đến đây đều trốn về lại Saigon hay nơi nào đó nên quang cảnh u tịch và hơi lạnh lẽo làm tôi cảm thấy rờn rợn. Tự nhiên từ miệng tôi thốt ra những lời cầu xin: “Hỡi các linh hồn đang quanh quẩn nơi đây. Tôi là người cùng khổ trong cái xã hội đói khổ và thù hận này, vì vậy tôi xin các linh hồn cho tôi được yên lành. Tôi hứa khi nào tôi có chút đỉnh tiền tôi sẽ mua trái cây cúng các linh hồn”. Tôi chợt nhớ đến thằng Hùng, Trung đội trưởng và thằng Hải, Trung đội phó người nhái; là hai thằng bạn thân cùng cầm viết trong cùng lớp học khi còn nhỏ mà sau này lại cùng cầm súng… bây giờ hai đứa trôi dạt nơi nào. “Hai đứa mày và gia đình có bị đầy đọa ở chốn rừng thiêng nước độc nào không? Có khi nào ba đứa mình sẽ được gặp lại nhau nữa không?” Tôi buồn quá nên cũng không biết phải làm gì cho hết buổi sáng hôm nay. Tôi thèm ly cà phê quá nhưng phải nhịn vì… vô phương. Cũng may là tôi chưa bao giờ hút thuốc, chứ không thì lại thêm một cái khổ nữa. Tôi giật mình nhìn ra con đường đất nhỏ. Tôi vừa bàng hoàng vừa lo lắng khi nhìn thấy một người phụ nữ trong bộ đồ “cách mạng” với cây súng ngắn đeo bên hông, đang đi vô nhà tôi. Lúng túng nên tôi lùi lại vài bước như muốn tránh mặt người phụ nữ. Không thể né tránh được nên tôi đành đứng im nhưng trái tim thì đập dồn dập như muốn nổ tung trong lồng ngực. Tôi cảm nhận ngay sự lo sợ quá vô lý của tôi, dù sao thì “cách mạng” cũng đã biết hết về tôi rồi vì tôi đã phải khai rõ lý lịch khi bị tập trung. Tôi bình tỉnh nhìn ngay mắt người nữ cán binh mà tôi từng quen biết. Người nữ cán binh “cách mạng” chính là cô y tá Ngọc Hoa; đang đứng trước mặt tôi với gương mặt và dáng điệu có vẻ ngượng ngùng. Cô Ngọc Hoa mặc dù đang khoác trên người bộ đồ của uy lực, của khủng bố và của chết chóc, nhưng, gương mặt cô nhìn tôi không một chút đe dọa hay hận thù. Cô nhìn xung quanh và khi biết chắc không có người nào khác ngoài cô và tôi, cô lên tiếng: “Anh Tâm, anh hãy cầm ít tiền này và anh mau mau đi khỏi nơi này, hoặc, anh trở về lại Saigon ngay đi. Anh không thể sống nổi ở đây đâu. Còn chuyện của em thì dài dòng lắm nên không thể kể ra ngay bây giờ được”. Tôi không một chút e dè hay tự ái, tôi cầm ngay số tiền mà cô Ngọc Hoa đưa. Tôi chưa kịp nói lời cám ơn thì cô Ngọc Hoa đã quay lưng bước đi thật nhanh như bị có người đuổi theo phía sau. Tôi chợt nhớ hôm cô Ngọc Hoa và tôi gặp lại nhau trong quán cà phê gần nhà tôi trọ. Hôm đó cô Ngọc Hoa lộ vẻ hoảng hốt khi bất ngờ thấy tôi xuất hiện. Có lẽ cô sắp phải thi hành công tác khủng bố nên mới cỏ thái độ như vậy chăng. Giờ đây tôi đã hiểu được là, tại sao bệnh xá tiểu khu luôn bị pháo kích nhưng cô Ngọc Hoa thì luôn được bình an. Tôi tập tễnh bước ra khỏi vùng tử địa. Tôi sẽ không bao giờ quay lại nơi chốn này nữa, dù có bị bắt lại tôi vẫn sẽ trốn tiếp. Tôi không ngủ được nên dậy sớm. Chỉ vài tuần nữa là năm cũ sẽ qua đi và năm mới sẽ đến. Tết dương lịch – Tết của Tây – làm tôi nhớ quê hương miền Nam Việt Nam mà tôi đã rời xa cũng gần mười hai năm. Cả đêm tôi không thể nào nhắm mắt được đến nửa tiếng vì câu chuyện của người bạn thân lâu ngày mới gặp lại, nên lòng tôi cứ thổn thức nhớ về quê hương và những kỷ niệm. Tôi vẫn nằm co người trong cái mền để nhớ lại buổi gặp gỡ hy hữu và cũng là lần đầu vào buổi chiều hôm qua; với một người bạn thân tên Hải. Hải từng là Trung đội phó người nhái và là một trong hai người bạn rất thân từ lúc còn nhỏ. Hải sau khi bị đi tù cải tạo về rồi trở thành… người bạn đời với người phụ nữ mà “nàng” và tôi từng gặp lại nhau trong nhiều hoàn cảnh vừa mừng vừa tủi lại vừa lo. Hải kể cho tôi nghe một câu chuyện mà tôi sẽ không bao giờ quên: “Ngọc Hoa – Hứa Thị Ngọc Hoa – là Cửa hàng trưởng chuyên phân phối thực phẩm theo tem phiếu cho đồng bào. Ngọc Hoa không ngờ sự đóng góp của mình cho cái gọi là “cách mạng”, đã đem đến cái kết cục vô cùng đau thương và man rợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Gia đình phân ly, người người bị khủng bố và bị đầy đọa là chuyện thường xuyên xảy ra sau cái ngày gọi là “giải phóng”. Thế rồi, Ngọc Hoa đã hợp tác với nhóm tổ chức các chuyến ghe vượt biển mà tôi là thành viên trong nhóm. Cửa hàng trưởng Ngọc Hoa đã cung cấp dầu nhớt, thức ăn, nước uống, an ninh bãi bến, và, vũ khí… cho năm chuyến đi thành công. Nhưng, đến chuyến thứ sáu thì Ngọc Hoa nói phải đi vì, “em linh cảm có sự phản bội của một tên công an bất mãn vì cho là mình được chia phần quá ít”. Chuyến đi của Ngọc Hoa được tổ chức rất chu đáo. Nhưng, khi chiếc ghe ra gần đến cửa biển thì bị hai chiếc tàu của công an ập đến và, Ngọc Hoa đã khẩn nài tôi thoát thân một mình. Tôi chỉ kịp nắm lấy bàn tay của Ngọc Hoa và bóp nhẹ thay cho lời chào rồi rời khỏi chiếc ghe. Tôi lặn thật sâu và đã thoát khỏi đám công an đang rọi đèn sáng trưng quanh chiếc ghe. Ngọc Hoa đứng im lặng ở chỗ có hai chữ bị cáo chờ nghe tòa tuyên án. Thỉnh thoảng Ngọc Hoa ngửa mặt nhìn lên trần nhà rồi quay đầu ra phía sau nhìn tôi với cặp mắt thật buồn. Ngọc Hoa đang nghĩ gì thì tôi không thể biết được, nhưng, tôi thì đang nghĩ, nếu như chuyến đi không bị phản bội thì giờ đây có lẽ Ngọc Hoa và tôi đang ở Hồng Kông chứ làm gì có buổi xử án nàng như thế này. Tôi lo sợ Ngọc Hoa sẽ bị xử tù nhiều năm thì làm sao nàng có thể chịu đựng được những sự đầy ải và trả thù man rợ của bọn quản giáo. Tôi lo sợ như vậy là vì tôi từng được chứng kiến những “ông tòa” xử những người sĩ quan của mình đã trốn trại nhưng không thành công; thật ra đó chỉ là những tên ma cô. Còn những “bà tòa” thì có khác gì những cô gái điếm đâu. Chúng xử theo luật giang hồ, luật rừng rú, nên bọn chúng không cần phải rành luật pháp. Mục đích chính là bọn chúng phải xử theo ý của đảng, mà ai cũng biết đó chỉ là đảng cướp”. Hải ngưng nói. Hải nuốt nước miếng thật mạnh vô lồng ngực như anh đang nuốt nỗi uất nghẹn vì sự bất lực của mình. Hải kể tiếp với hai con mắt đỏ như đổ lửa và hai giòng lệ chảy ra từ khóe mắt: “Tên ma cô xử án Ngọc Hoa chỉ đọc qua loa bản luận tội không quá mười lăm phút, và, hắn tuyên bản án tử hình cho Ngọc Hoa. Và, như để cảnh cáo những người khác nên chỉ một tháng sau Ngọc Hoa bị đem ra pháp trường mà không cho nàng kháng cáo. Tôi có mặt trong đám người tham dự nhưng chỉ biết đứng nhìn người mình yêu bị những viên đạn ghim vô lồng ngực. Trái tim tôi quặn lên đau đớn như nát tan ra từng mảnh… anh Tâm à”. Nỗi đau mất người bạn đời mà Hải cho là nàng quá thơ ngây nên bị dụ dỗ làm nội gián chỉ vì nàng tin “tổ chức là những người miền Nam muốn thay đổi một xã hội khác tốt đẹp hơn, chứ nàng không bao giờ nghĩ là do người miền Bắc lãnh đạo. Đây cũng là nỗi đau của nhiều triệu triệu đồng bào miền Nam vì ngây thơ nên tin vô những lời xảo trá nhưng đầy mật ngọt và đã làm mất đi những truyền thống tốt đẹp và cao cả của dân tộc”. Cả đêm qua tôi cứ như thấy hiển hiện trước mặt cô y tá tên Ngọc Hoa – Hứa Thị Ngọc Hoa – hiền hậu và nhân ái ngày nào; đã đem ly cà phê sữa đến mời tôi… Và cười thật tươi./. Topa (Hòa Lan) |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23101 |
Gởi ngày: 18/Dec/2024 lúc 10:33am |
Năm xưa Chồng Tôi là Người LínhNăm xưa chồng tôi là người lính, Nơi vùng lửa đạn, Mồ hôi anh đã đổ, Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long, Đến Thừa Thiên, Quảng Trị. Rồi một ngày anh gục ngã, Tại chiến trường Tây Ninh. Tôi góa phụ xuân xanh, Con thơ chưa tròn tuổi, Tiễn đưa anh lần cuối, Về nghĩa trang quân đội Biên Hòa <!> Đã bao nhiêu năm qua,.... Bây giờ,Tôi ở nơi xa, Đã có cuộc đời khác. Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc, Thương tiếc xa xăm. Tôi về tìm mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang, Để thắp một nén nhang, Nhớ người lính của một thời chinh chiến, Nhớ người chồng của một thuở gối chăn. Năm xưa chồng tôi là người lính, Một lần hành quân, Anh đã bị thương, Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường. Ôi, mảnh đất không tên, Đã giữ chút máu xương người lính trẻ. Đã bao nhiêu năm qua, Bây giờ,Anh thương binh tàn tạ. Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ, Bạn bè anh, Kẻ mất người còn, Kẻ quên người nhớ, Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả. Năm xưa chồng tôi là người lính, Nồng nhiệt tuổi đôi mươi, Lần đầu tiên ra chiến trường, Anh mất tích không tìm thấy xác. Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt, Lòng tôi nát tan. Đã bao nhiêu năm, Vẫn không có tin anh, Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh, Tàn cơn khói lửa, Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ. Anh đã biết chưa? Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!! Năm xưa chồng tôi là người lính, Sống sót trở về sau cuộc đao binh, Sau những tháng năm tù tội, Bây giờ anh không còn trẻ nữa. Lìa xa quê hương, Sống ở xứ người. Những năm thánh chinh chiến đã đi qua, Nhưng vết thương đời còn ở lại, Trong lòng anh,Trong lòng những người lính năm xưa. Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Dương Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Dec/2024 lúc 10:36am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23101 |
Gởi ngày: 20/Dec/2024 lúc 1:40pm |
QUÁN BIÊN THÙY
Đêm Giao Thừa. Trên ngọn đồi 101, mà ai đã đặt cho cái tên là Quán Biên Thùy, cuộc vui vẫn đang tiếp tục. Đám người ngồi vây quanh bếp lửa. Ánh lửa đủ soi những gương mặt chập chờn và đỏ gay vì hơi rượu. Những người lính già thì yên lặng. Những người lính trẻ thì phấn kích hơn bao giờ. Lần này, họ đòi cho được Mỵ hát. Họ la: “Cô Mỵ phải hát cho chúng tôi nghe một bài. Cô Mỵ phải trổ tài.” Một người cầm cốc rượu đứng dậy, nói với người đại đội trưởng: “Đại úy phải nói làm sao để cô Mỵ hát cho chúng tôi nghe, nếu không, Đại úy phải bị phạt uống đền!” Sau đó, anh ta quay sang đám bạn, hỏi: “Phải không anh em? ” Cả bọn đồng đáp: “Phải!”. Rồi tiếng la gào cổ võ cực độ: “Cô Mỵ, hát đi, hát cho chúng tôi nghe đi cô Mỵ!” “Cho tràng pháo tay cổ động cô Mỵ đi anh em!” “Đại úy, 40 cốc đang chờ Đại úy!” Người đại đội trưởng chỉ biết nhìn cô em gái như cầu cứu “Em cứu anh với, Mỵ”. Mỵ ngần ngại gật đầu. Người đại đội trưởng thở phào như trút cả một gánh nặng. Anh cảnh cáo: – Chúng ta cùng vui Giao Thừa. Nhưng tôi xin anh em đừng uống nhiều. Anh em hẳn biết đơn vị chúng ta hiện ứng chiến cho sư đoàn. Sau đây tôi xin nhường lại cho cô em tôi… Đám lính vỗ tay vang dội. Có người la lên: – Cô Mỵ thương lính rồi, cô Mỵ hát bài lính chiến xa nhà đi cô Mỵ! Riêng Mỵ, nàng đứng yên. Chưa lúc nào nàng cảm động như lúc này. Nàng đã có mặt tại một nơi mà nàng chỉ được nghe qua báo chí, hay những lời kể lại. Bởi vì Sài Gòn của nàng bình an quá! Bởi vì đời sống của nàng chỉ biết cuối tuần, chiếc áo dài tha thướt trên vỉa hè Lê Lợi, và ly nước mía ở đường Gia Long. Bởi vì mắt của nàng chỉ thấy bầu trời của Sài Gòn trên những phố lầu bình an, và rừng người yên ổn dạo chơi, không bao giờ bận tâm những gì ở xa, như ngọn đồi 101 này. Rõ ràng, Sài Gòn của nàng chưa thật sự gần gũi cùng chiến tranh. Đêm nàng có thể trở về khuya và ngày vẫn yên tâm trên trang sách vở. Chiến tranh hình như chỉ xảy ra ở một cõi nào đó. Nàng chẳng bao giờ bận tâm thắc mắc. Nàng chẳng bao giờ lo âu về những tin tức từ chiến trường. Dù miền Quảng Trị nóng bỏng với đại lộ kinh hoàng, dù A Sao, A Lưới đã thấy bóng những chiến xa T54. Dù An Lộc, Bình Long, quân ta vẫn anh dũng trước lớp lớp hàng hàng kẻ thù. Dù bao binh đoàn Bắc quân đang tiếp tục theo đường mòn ************ để tiến về miền Nam. Nàng vẫn chưa biết được sự thật, và cũng vì vậy nàng mới đánh điện tín ra ông anh. Nàng muốn xem cái Quán Biên Thùy mà anh nàng vẫn hằng nhắc ra thể nào. Tờ điện tín đã làm cho anh nàng phải điên đầu: “Em sẽ đón Giao Thừa ở Quán Biên Thùy. Stop. Đón em ở phi trường. Stop. Chuyến bay… Stop.” Anh nàng đã hiểu rõ được cái bướng bỉnh của cô em gái. Lúc nào nó muốn là nó làm. Nó không đợi một câu trả lời… Nó đã thật sự đặt cho anh nó vào một chuyện đã rồi. Và chuyện đã rồi là cô gái Sài gòn đã đứng ở cửa phi cơ nhìn về khu nhà khách. Nàng mang bộ đồ lính màu hoa rừng, đuôi tóc cột sợi dây thun, đôi kính đen che gần phần trên của gương mặt. Trông nàng vừa có vẻ bướng bỉnh, vừa có vẻ kiêu hãnh. Người đại đội trưởng bảo với người trung đội trưởng: “Con bé cứng đầu bướng bỉnh kia đã đến rồi đấy!” Rồi anh ta cười: “Mày chịu nó không, để tao giới thiệu giùm cho.” Trọng, tên người trung đội trưởng, có vẻ xấu hổ. Dù cõi lòng chàng chợt nổi lên một sự rung động vô cớ. Chàng liên tưởng đến một cánh chim, một hôm nào đậu lại bên khung cửa của đời chàng. Ít ra, có một cánh chim xinh đẹp như thế trong cõi cô liêu này của chàng cũng là một nguồn an ủi lắm rồi. Chàng biết chàng đã bắt gặp một cái gì thân mến nhất mà chàng không thể cắt nghĩa nổi. Người con gái Sài Gòn đã làm rộn ràng cả nhà đợi. Nàng liến thoắng và nhí nhảnh khác hẳn với đa số cô gái đồng tuổi, thùy mị và đoan trang. Người anh của nàng giới thiệu người đi cùng: “Đây là anh Trọng, Thiếu úy Trọng độc thân.” Anh ta nheo mắt nhìn Trọng. Mỵ đưa tay bắt tay Trọng, rồi nói: “Anh Hai của em có nhắc anh nhiều lần. Hôm nay em mới được gặp.” – Tôi cũng hân hạnh được đón tiếp một cô gái Sài Gòn. Trọng trả lời. Đến đây, Mỵ giục anh nàng: “Mau cho em về xem Quán Biên Thùy của anh đi!” – Không phải của tao đâu, của anh Trọng đấy. Nàng quay sang Trọng: – Cắt nghĩa cho em tại sao anh lại đặt là Quán Biên Thùy? Nếu là quán thì phải có cô hàng. Quán anh có cô hàng nào chưa? Cho em biết với. – Chờ cô Mỵ đấy – Trọng nói. – Nếu vậy thì quán của anh sẽ bị lỗ nặng. Không tin anh hỏi anh Hai của em đi, có phải em là một tay ăn hàng… – Chẳng những mày ăn hàng mà mày còn ăn vụng. Tao bắt tại trận nhớ không Mỵ? – Em ăn vụng ở chỗ nào? Tại em xót thương mấy thức ăn ngon lành không ai làm ơn cứu độ mà thôi. Hứ, anh khó thấy mồ! – Tao khó ở chỗ nào? – Thế thì tại sao giờ này anh không có một cô nào? Này nhá, phải có gì cho em rồi em giúp… Cả bọn cười vui trước câu nói của Mỵ. Ngày cuối năm, ngày của trở về. Trên gương mặt của mỗi người hôm nay, dù đợi giờ lên phi cơ hay dù bước xuống tàu, đều hiện lên ánh mắt hân hoan và cảm động. Có lẽ lát nữa họ sẽ có mặt tại ngôi nhà cũ, gặp lại những người thân yêu, và sống lại những giờ khắc bé nhỏ như ngày xưa. Họ sẽ sống lại cùng thế giới của lòng mẹ, lòng cha, của ông bà nội ngoại, mà họ đã xa cách vì cuộc sống và vì chiến tranh. Nhưng với một người con gái Sài Gòn này, sự có mặt của nàng còn mang một ý nghĩa khác: Người đại đội trưởng có thể tìm lại qua nàng hình ảnh gia đình cùng cõi thân yêu cũ. Và Trọng, chàng bắt gặp ở nàng một niềm hạnh phúc thầm kín. Ít ra, vẫn còn có con chim Họa Mi tìm đến Quán Gió, hót lên tiếng hót, cho những đời trai miệt mài trong dòng cuồng lưu hung bạo. Dọc đường, Mỵ nói chuyện huyên thuyên. Nơi này quả thật xa lạ và mới mẻ đối với người con gái Sài Gòn. Nàng hỏi anh nàng về từng tên của dòng sông, chiếc cầu, ngôi làng. Nàng bắt anh nàng phải kể về ngôi nhà thờ đổ nát mà anh nàng đã viết trong thư: “Không biết ông lão kéo chuông còn ở đấy không hở anh? Không biết những con sáo đen có còn trở về mỗi buổi chiều không hở anh? Không biết những xuồng ghe còn đổ về trong ngày phiên chợ không hở anh? Này anh, những cô thôn nữ chắc đẹp lắm, phải không anh?…” Và bởi vì nàng thắc mắc nhiều quá nên Hải, anh nàng, phải dùng Trọng để trả lời thay. “Anh Trọng biết nhiều lắm. Mày nên hỏi anh Trọng thì hơn. Để tao còn thì giờ lái xe”. Đến khu rừng thưa, chợt Hải rồ máy, Trọng lên đạn cây M16 và chĩa ra bên đường. Chiếc xe Jeep phóng ào trên con lộ vắng, hai bên đường nổi lên những lùm tre, lùm dừa bất trắc… Hành động của hai người đã làm Mỵ run sợ, mặt mày tái mét. Nàng bấu chặt lấy tay Trọng, và im thin thít. Bây giờ nàng mới có thể hiểu về một nơi mà người ta gọi là chiến tranh, một nơi mà nàng chỉ nghe mà không hề thấy. Nàng đã bắt đầu chạm vào cái khối không gian của hiểm nguy và từng thước đất của đe dọa thường trực. Nàng nghe cái ớn lạnh như chiếm lấy cả da thịt đến nỗi nàng phải run lên. Những lùm cây đó, những bờ mương, bờ rạch đó, chúng quá vô tri, vô giác, tại sao chúng lại tỏa ra nỗi đe dọa không rời. Thì ra, nàng nhớ anh Hải vẫn hay nhắc về những con ma rình rập mà ngày ngày anh phải đối diện, có phải là những con ma này không. Bên cạnh, Trọng vẫn hờm súng. Chiếc xe vẫn tiếp tục thả hết tốc độ về phía trước, trên con đường ngập những ổ gà và bụi mù. Và Mỵ đã nép sát vào người Trọng lúc nào nàng cũng không hay. Khi qua khỏi khu rừng thưa, thấy lại xóm nhà, Trọng mới bỏ súng xuống. Mỵ nói không ra hơi: “Các anh làm em sợ muốn đứng cả tim.” Trọng cười: “Chúng tôi chỉ đề phòng. Cái chỗ rừng thưa này, bọn nó hay về bắn tỉa, hoặc đón xe đò.” Lúc này Mỵ mới nhận ra mình đang cầm tay Trọng và nép sát vào người chàng. Nàng bẽn lẽn đến đỏ mặt. Nàng cắn ngọn tóc đang bay xòa trước mặt, và ngồi im không nói. 2. … Bây giờ Mỵ đứng dậy. Dưới ánh lửa, nàng có thể nhìn những người lính già, thu mình trong chiếc áo ấm rộng thùng thình. Nàng không thể ngờ họ lại có mặt tại nơi này. Đáng lẽ ở cái tuổi của họ, đêm nay họ phải có mặt bên lũ cháu nội ngoại. Đáng lẽ giờ này họ sẽ mặc lại chiếc áo cổ truyền để thắp những thẻ nhang trước bàn thờ gia tiên. Nàng lại nhìn những người lính trẻ. Có gương mặt của ruộng đồng còn in trên nét phong sương. Có người râu và tóc mọc đầy. Có người mang kính cận thị. Và nàng cũng bắt gặp đôi mắt của Trọng nữa. Từ đôi mắt ấy, có cả một khối buồn, khối thao thức, bâng khuâng, dằn vặt của một người trí thức. Nàng nghe anh nói Trọng có cử nhân văn chương và hơn nữa, cái tên Quán Biên Thùy do chính chàng đặt ra. Chàng đã làm một bài thơ nói về một ngọn đồi nắng lửa, bốn bề là rừng tiếp rừng. Bài thơ được đại đội chuyền nhau đọc, và người đại đội trưởng quá thích, đã cho lính dựng lên tấm bảng đề Quán Biên Thùy ngay ở cổng trại. Phải, anh Trọng ơi, em phải cảm tạ anh vì anh đã làm cho em hiểu được những giọt mồ hôi của các anh, của định mệnh đang đè nặng lên đất nước chúng ta. Em ao ước được mang về những ngọn gió dịu dàng, tình tự đến cùng các anh. Ánh lửa trước cơn gió đêm làm hình bóng những người ngồi trên sân trở nên chập chờn, có lúc sáng lên, có lúc mất đi vì gió đánh bạt. Và Mỵ ấp úng nói: “Thưa các anh, cám ơn các anh đã dành cho Mỵ nhiều cảm tình. Trong đời Mỵ, Mỵ chưa bao giờ có một đêm hạnh phúc như đêm nay. Mỵ mới hiểu rõ về nỗi hy sinh vô bờ của các anh. Giờ này, Sài Gòn của Mỵ đang làm lễ giao thừa. Nhưng giờ này, các anh đang ngồi đây bỏ quên những giờ phút thiêng liêng nhất…” Nàng nói đến đây, không còn cầm được nước mắt. Có phải nàng hiểu giá trị của một nỗi an bình là kết quả của bao nhiêu nỗi hy sinh quá thầm lặng từ những người đã có mặt, sống và chết vô danh? Mọi người im lặng. Họ hiểu người con gái Sài Gòn đang quá chừng xúc động. Tiếng củi cháy kêu lách tách. Có bóng người lính cầm súng ở chòi canh. Những tiếng nổ rời rạc đâu đó. Đó là tiếng súng thay tiếng pháo. Và nàng bắt đầu cất lời hát. Nàng đã từng được tiếng là người hát hay nhất của trường. Trong các buổi văn nghệ ở nhà trường, mỗi lần tên nàng được giới thiệu là cả một rừng pháo tay vang động, và không bao giờ đám học trò bạn học lại không bắt nàng hát thêm bài thứ hai, thứ ba. Tuy nhiên, những lần hát như thế, nàng ít khi bắt gặp cái hồn của âm nhạc, cái cảm thông của người hát và người nghe. Nhưng bây giờ, tiếng hát là tiếng lòng đích thực. Tiếng hát cất lên như niềm cảm tạ, như nỗi tri ân, như lời vỗ về an ủi, như cả dòng lệ đẩy đưa cái nôi hoạn nạn gian khổ từ những con người, như u ẩn nỗi lòng của người cô phụ chờ chồng trở lại. Ai lướt đi ngoài sương gió, không dừng chân đến em bẽ bàng… Em ngồi đan áo… Ừ nhỉ, giao thừa sao lại buồn tàn thu. Nàng cũng không biết tại sao nàng lại cất lên nỗi niềm của người cô phụ? Phải rồi, mùa xuân vẫn còn có biết bao người cô phụ vẫn còn ngồi đan áo. Phải rồi, nhắm mắt lại, người con gái Sài Gòn còn thấy được những người ngoài sương gió, bỏ quên cuộc đời, bỏ quên tuổi trẻ, bỏ quên hiện tại, tương lai. Bài hát đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn lắng lại vào tâm hồn người lính xa nhà, đến nỗi sau đó, là nỗi lặng yên đọng trên từng khối đêm như mặc niệm cùng quá khứ, như hoài niệm lấy dĩ vãng của mỗi người. Rồi trong một thảng thốt, tiếng vỗ tay như pháo nổ đồng loạt vang dậy, và tiếng la, tiếng hét tiếp tục. “Họa mi hát nữa đi, hát cho chúng tôi nghe thêm nữa đi!” Người con gái quay lại nhìn anh nàng. Hải vừa vỗ tay vừa nói với em: “Em hát thật xuất thần. Chưa bao giờ anh nghe em hát hay như thế!” Bỗng một tiếng nói cất lên từ trong một góc tối: “Tôi có đề nghị, chúng ta không thể để cho cô Mỵ hát một mình mãi. Đêm còn dài, chúng ta phải chứng tỏ ở Quán Biên Thùy có nhiều tài năng. Tôi biết có một người hát thật hay, chơi đàn cũng thật giỏi. Thiếu úy Trọng…” Tiếng vỗ tay lại nổi dậy: “Phải đó. Mời Thiếu úy Trọng. Đừng để Quán Biên Thùy phải mất mặt bầu cua…” Mỵ nhìn Trọng, đôi mắt ngời sáng. Trọng lúng túng nhìn Mỵ rồi lắc đầu. Nhưng chàng không thể ngồi yên như vậy được. Những người ngồi xung quanh đang đòi chàng phải đại diện. Họ giục. Họ khuyến khích. Họ đưa mắt nhìn người trung đội trưởng chờ đợi. “Thôi Thiếu úy đừng xấu hổ nữa. Có em đây. Em đứng đằng sau Thiếu úy đây.” Một người lính trẻ cầm tay Trọng kéo dậy: “Thôi mà ông thầy, bộ ông thầy muốn làm mất mặt Quán Biên Thùy này sao?” Cuối cùng Trọng phải đứng dậy. Hát cho ai. Hát cho người nào. Con chim từ đâu đã bay lại, đậu trên đồi một đêm. Con chim từ đâu đến đây làm tôi nhớ lại ngôi trường Văn Khoa, con đường Nguyễn Du cây xanh bóng mát. Và gió Bạch Đằng. Và nhà thờ Đức Bà. Và ly chanh đường. Uống môi em ngọt. Đêm càng khuya, sương càng dày, đồi càng lộng gió. Tiếng súng bắt đầu rộn ràng và đồng loạt. Giây phút Giao Thừa. Đợi chờ một phút, cho hoài niệm. Những tia đạn lửa xẹt ngang dọc cắt bóng tối. Ở chòi canh, người lính đã bắn súng mừng giao thừa. Trọng bắt đầu hát. Giọng chàng thật ấm. Từ trong đám đông, Mỵ nhìn người thanh niên. Nàng bỗng nghe thân thể nóng ran khi nhớ lại lần nắm chặt tay Trọng, cùng nép sát vào người Trọng. Có phải đó là dấu hiệu khởi đầu cho một tình yêu hay không? 3. Đêm còn lại, Mỵ trằn trọc không thể nào chợp mắt. Hay tại vì nàng đang ở tại một nơi xa lạ, cách biệt hẳn cái thế giới quen thuộc của nàng? Không còn căn phòng với ánh đèn mờ nhạt. Không còn chiếc giường nệm và tủ áo dài, cái bàn trang điểm. Hay tại vì nàng đã chạm vào cái thế giới vừa tội nghiệp vừa bi tráng của Quán Biên Thùy? Hay tại vì người thanh niên có đôi mắt quá buồn, nhưng dáng dấp thì kiêu ngạo? Nàng vói tay lấy chiếc áo dạ nhà binh mặc vào người, rồi bước ra cửa hầm. Nàng bước co ro trong bóng tối. Đêm đặc quạnh, chỉ nghe tiếng gió đập vào mái tôn kêu lách cách. Đôi mắt nàng khốn khổ để làm quen với cõi lạ. Dưới đồi, sân bay quân sự và bản doanh của sư đoàn còn thấy những ngọn đèn nhiều nến, mờ nhạt trong sương đêm. Nàng đứng yên lặng. Lạnh. Run rẩy. Bỗng nhiên nàng nghe tiếng nói của người thanh niên. Tiếng nói như thân thiết tự một kiếp nào: “Cô Mỵ, cô chưa ngủ sao? Chắc là nơi này không quen với cô…” Mỵ quay sang nhìn Trọng: “Anh Trọng, em chưa muốn ngủ. Em muốn được hưởng một đêm trọn vẹn tuyệt vời như đêm nay.” Trọng lại hỏi Mỵ: – Tại sao cô Mỵ lại lặn lội đến Quán Biên Thùy này? Cô Mỵ không sợ nguy hiểm sao? – Bộ các anh coi chuyện chiến tranh chỉ dành riêng cho các anh hay sao? – Nhưng nơi đây không thể hợp cho một người con gái Sài Gòn. Cô làm cho anh cô phải lo đến điên khùng khi nhận tấm điện tín của cô. – Nhưng đêm nay là đêm giao thừa. Chiến tranh cả năm ít ra còn chừa một đêm ngừng bắn. Em nghe nói hai bên hưu chiến. – Phải. Ít ra đêm nay người ta bỏ qua thù hận, chém giết. – Cầu mong 365 đêm là 365 Giao Thừa. – Cô Mỵ có ý kiến thật ngộ nghĩnh. Nếu thế thì đất nước ta là thiên đàng. – Và mọi người trên thế giới sẽ nạp đơn xin về Việt Nam. Mỵ cười thật vui. Lòng Trọng đâm ấm áp lạ lùng. Chàng hỏi Mỵ: – Đi ngoài đêm, cô Mỵ có lạnh không? – Em không lạnh. Em có cả chiếc áo dạ nhà binh trên người. – Cô Mỵ à. – Dạ, thưa anh. – Văn Khoa của mình còn thầy T. dạy không? – Dạ còn. – Ông là vị thầy tôi kính nể. Nhờ ông mà tôi yêu văn chương. Mỗi lần ông giảng bài hay mỗi lần ông đọc thơ, là mỗi lần tôi phải ngồi chết trân. Ông đã giúp tôi tìm về chữ nghĩa. Một câu mà tôi vẫn nhớ mãi: “Văn chương là hơi thở.” Ngày ấy tôi vẫn còn nghi ngờ, nhưng giờ đây tôi mới biết. Hơi thở hụt hẫng từ những đêm những ngày của chiến tranh. Hơi thở ấy đến cả từng dấu chấm, dấu phết. – Anh Hải nói như anh đang viết văn làm thơ. – Phải, tôi dùng nó để mang hơi thở của tôi, của đồng đội tôi và tuổi trẻ của tôi. – Và cả của em nữa, anh Trọng à! – Thưa cô… – Anh đọc cho em nghe một bài thơ của anh đi. – Vâng, tôi làm nhiều thơ, nhưng không bao giờ thuộc hết. Để tôi rán nhớ xem… Vâng, tôi nhớ ra rồi. Bài Quán Biên Thùy. Đồi đưa tôi lên tận mặt trời. Tôi lưng chảy dài những giọt mồ hôi. Mồ hôi tôi trộn vào nơi khói lửa. Tôi ở đây, một Quán Biên Thùy. Tôi là một tên tuổi trẻ lông bông. Thị tứ quá xa nên quán phải buồn. Không bàn ghế, không tách cà phê đắng. Tôi thổi khẩu cầm gọi bản gọi buôn… Chợt một tiếng nổ lớn dội về. Tiếng nổ của trái hỏa châu. Rồi một vùng ánh sáng ngập lòa cả ngọn đồi. Tiếng nổ đã làm người con gái hoảng sợ, ôm chầm lấy người thanh niên. Người thanh niên dịu dàng nâng cằm người con gái lên. Chàng bắt gặp hai đốm sáng từ đôi mắt. Chàng nói trong hơi thở: – Mỵ đừng sợ. Chỉ là tiếng nổ của trái hỏa châu. Họ mừng giao thừa trễ đấy! Rồi chàng hôn lên mắt, lên trán của người con gái. Người con gái nhắm mắt lại. Nàng ngước đôi môi chờ đợi. Sau đó, họ hôn nhau cuồng bạo. 4. Ngày hôm sau, giữa lúc Mỵ sửa soạn hành trang cho cuộc trở về thì đại đội được lệnh phải xuống đồi khẩn cấp. Địch đã chiếm một quận lỵ bên đèo vào sáng sớm mồng một và viên quận trưởng bị giết. Tiếng còi, tiếng kẻng tập họp khua liên hồi. Những người lính từ trong các dãy nhà tôn đổ ra, cùng với ba-lô, súng đạn nặng nề. Lúc này, Mỵ có thể thấy tận mắt thế nào là trận chiến, là binh lửa. Mọi người vẫn bình thản dưới ánh nắng đầu xuân. Mỵ nhìn Trọng. Người thanh niên đang đứng trước hàng quân. Người thượng sĩ già trung đội phó đang kiểm soát đạn dược súng ống. Con chó vàng vẫn tiếp tục vẫy đuôi cùng người này sang người khác. Những chiếc mũ rừng che những gương mặt rạm nắng. Những quả lựu đạn, hỏa tiễn M72 treo lủng lẳng trước ngực. Mỵ nhìn họ. Người ta đã từng kết án họ. Hãm hiếp. Mổ mật. Cắt xẻo lỗ tai. Nhưng Mỵ đã không bắt gặp một dáng dấp gì của đoàn quân đánh thuê, đánh mướn. Họ, những người rất bình thường, nông dân mộc mạc, hay những người lính già sạm đen, lưng trĩu nặng bởi cấp số đạn phụ trội, hay những người lính trẻ, đôi mắt sáng yêu đời nhưng chịu đựng và tuân phục trong hàng ngũ. Họ đang đứng nghiêm trước con mắt diều hâu của viên thượng sĩ thường vụ. Sau đó ông thượng sĩ thường vụ báo cáo với ông trung úy đại đội phó. Ông trung úy lại hô nghiêm, báo cáo với đại đội trưởng. Mỵ đã đặt thẳng câu hỏi cho Trọng, và Trọng nói: – Trong một tập thể cả trăm người đôi khi cũng có một vài cá nhân làm xấu, dĩ nhiên. Mỵ hẳn biết, thú tính đôi khi phải cần để giải quyết chiến trường. Thú tính làm cho người lính không còn run sợ, khiến họ trở nên cọp beo sư tử. Có người nốc cả cốc rượu đế trước giờ lâm trận. Có người bị ám ảnh bởi khẩu súng phòng không của địch để được lên cấp. Có người bị ít tiền bạc trên xác chết…Có người vì hận thù địch đã tàn sát gia đình họ. Mới đây, có tên hành quân vào làng, lén dùng vũ lực hãm hiếp một cô thôn nữ. Chuyện đổ bể, cả làng biểu tình. Nó quì lạy khóc lóc. Nhưng cuối cùng, bọn anh cũng giải quyết. Anh Hải cử phái đoàn gồm có những người lính già như Trung sĩ nhất Kho, Thượng sĩ Tỏ, Trung sĩ nhất Mười và đám sĩ quan của đại đội đến làng mang cau mang trầu, trước hết là xin lỗi gia đình nạn nhân, sau xin làm đám cưới đàng hoàng. Bây giờ hai đứa đã trở thành vợ chồng. … Bây giờ mấy chiếc xe GMC đã lên đỉnh đồi. Con chó vàng vừa cúp đuôi, vừa sủa inh ỏi. Trọng bước đến bên Mỵ: “Em trở về bình an. Cho anh gởi lời thăm Sài Gòn, thăm Văn Khoa, thăm chiều Chủ Nhật.” Mỵ nhìn đăm đăm người thanh niên, như muốn uống trọn vẹn hình ảnh của chàng trong buổi chia tay. Dáng Trọng gầy, chiếc mũ rừng chụp xuống, mái tóc dài, những ngón tay khẳng khiu. Chiếc quần trận màu xanh đã bạc, thấy có chỗ tươm rách. Mỵ thương chàng đến độ muốn ôm chầm chàng, để khóc òa như con nít. Mỵ muốn kể tất cả những gì mà con tim nàng đang trỗi dậy, đợi chờ một giây một phút cho cả cuộc đời con gái của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn đứng chết trân, đôi mắt ướt nhòa, tóc mai phơ phất. Sau đó, không hiểu sao, nàng lại tháo chiếc trâm cài trên mái tóc của nàng rồi trao cho Trọng: “Anh Trọng, quà của em đây. Cầu xin cho anh được bình yên…” Rồi đoàn xe rồ máy xuống đồi. Bụi đã tung mù cả sân đại đội. Mỵ đứng yên nhìn theo. Ngày mồng một đầu năm, trời thật xanh và trong. Những con chim én từ đâu bay lại, tiếp tục lượn vờn, nô giỡn trên giao thông hào. Người trung sĩ hậu cứ đã đến bên Mỵ: “Cô Mỵ, thôi mình xuống đồi thì vừa. Giờ này có chuyến xe đò chạy thẳng về tỉnh, không dừng lại dọc đường”. Nhưng Mỵ vẫn đứng yên. Nàng ao ước được làm cánh chim én trong bầu trời nắng vàng để bay theo đoàn xe, bay theo đoàn người, để mang tin lành, tin dữ về họ. Và nếu em có… Đến đây, tự nhiên nàng rùng mình. Cho nàng hay cho Trọng? Tại sao nàng lại nghĩ đến một điều ảm đạm trong buổi sáng mồng một này…”Và nếu em có mệnh hệ gì, em cũng xin được làm cánh chim…”. Nàng lắc đầu, cầm chiếc xắc tay, nhưng hai chân muốn chôn chặt. Có tiếng nói vô hình ở đâu đó như thúc hối nàng: Đừng đi. Đừng đi. Nhưng nàng vẫn bước lên xe Jeep. Ngồi trên băng mà mồ hôi thấm cả trán, cùng một con tim đang đập thình thịch. Hay nàng có một cái linh tính không may. Cho Trọng hay cho nàng? Có lẽ là cho Trọng, vì chàng là người trong cuộc. Chàng đang đối diện với tử sinh. Mỵ cứ nhắm mắt, van vái: “Anh Trọng ơi, cầu mong cho anh được bình an. Em lo sợ quá đi, anh Trọng ơi…”. Chiếc xe đò vào ngày đầu năm như một cõi rộn ràng và thân mật. Hôm nay, mọi người dường như thân thiết gần gũi hơn mọi ngày. Những người con gái trong những chiếc áo mới, gương mặt tươi sáng, nụ cười cũng tươi. Những bà bán buôn có vẻ hiền từ, nhường nhịn, thay vì gắt gỏng do bận rộn trong những ngày thường. Và nhiều người thanh niên. Họ là lính về nhà ăn Tết muộn màng. Mỵ ngồi cùng với họ, nhưng dường như cách biệt hẳn họ, bởi vì Mỵ là một cô gái Sài Gòn xinh đẹp, áo quần thời trang: chiếc quần jean xanh và cái áo pull màu xanh đậm. Nàng lại mang chiếc kính đen che khuất cả phần trên của khuôn mặt. Nàng đã quên những gì đen tối trước đây nàng đã dự cảm. Bây giờ nàng đang chia xẻ cùng một niềm hạnh phúc chung của một ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Bỏ lại chiến tranh, chết chóc, thù hận đằng sau, để cùng tiếng cười tiếng nói và nỗi lòng rạo rực cho một cuộc sum họp. Nắng vàng thắm cả đồng lúa bạt ngàn. Thỉnh thoảng, bên đường hiện lên những em nhỏ, các người đàn ông, đàn bà trong những bộ quần áo mới. Vài ông già mang áo dài khăn đóng lướt qua. Mỵ không thể tìm thấy cái không khí của chiến tranh, cái ve vuốt của bất trắc. Ngay cả những người thanh niên trong xe. Họ ngồi bên cửa, ló đầu ra ngoài, vô tư, bình thản. Nhưng khi chiếc xe chạy đến khúc rừng thưa, nơi mà Trọng đã lên đạn, chĩa súng ra ngoài, và chiếc xe anh Hải rú ga ào phóng trên mặt lộ, thì một nhóm người trong bộ bà ba đen đã xuất hiện. Mỵ lại nhận ra họ còn mang cả súng. Bây giờ cả xe nhốn nháo. Gương mặt những người thanh niên tái mét. Nhưng họ đã bất lực. Họ đã bị sa vào cái bẫy vào ngày mà họ nghĩ là ngưng bắn, hưu chiến hay ít ra, thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam. Mỵ cũng vậy. Tim nàng như ngừng đập. Nàng nghẹt thở theo chiếc xe đò đang từ từ chậm lại, rồi ngừng hẳn. Cuối
cùng, cả một đoàn người được dẫn vào sâu trong bìa rừng, dưới hàng dừa
bạt ngàn. Và người ta điều tra xem ai là lính quốc gia, bằng cách nhìn
từng bàn chân một. Lính quốc gia dĩ nhiên là mang giày saut, bàn chân
trắng không khô nứt. Có bốn người thanh niên được bắt trói ra một bên.
Một người trong đám Việt Cộng, có lẽ là kẻ chỉ huy, đã đến trước Mỵ,
nhìn chăm chăm nàng, rồi quát lên, giọng Bắc: – Con này trước Cách Mạng mà còn mang kính đen của tư bản đế quốc đĩ điếm phản động! Mỵ giật mình co rúm lại. Thì ra, vì sợ quá, nàng đã quên tháo chiếc kính che nắng của nàng. Đó là dấu hiệu khởi đầu cho một điều dự cảm. Mỵ ngồi một bên, và chỉ mỗi một mình Mỵ là con gái, cùng với bốn người thanh niên đang bị trói, ngồi dưới gốc dừa. Rồi bài học tuyên truyền, rồi răn đe được tiếp tục nói lên từ một người bên kia. Rồi bốn người bị buộc tội là lính đánh thuê, đánh mướn, tàn sát nhân dân, bị bắn trực xạ bằng những phát súng lục trên đầu. Và sau đó, đến phiên Mỵ. Họ dẫn Mỵ vào khu nhà gạch đổ nát. Tay chỉ huy nói với người thuộc cấp: “Đồng chí ở ngoài canh chừng. Tôi phải làm việc với con bé này. Nó chắc là tay sai gián điệp Sài Gòn không chừng.” Người lính gật đầu: “Tuân lệnh anh Ba!” Sau đó hắn bước ra ngoài, đứng gác dưới cây bông sứ. 5. Trong khi đó, đoàn xe 6 chiếc chở đại đội thám kích đã lên đèo An Khê. Xe trung đội Trọng chạy đầu tiên. Trọng như một người còn say men hạnh phúc. Hạnh phúc hay là định mệnh? Cánh chim từ đâu bay lại, hót bên thềm đời chàng, để lại những dấu chân hồng êm ái. Trong muôn ngàn cánh chim của mùa xuân bay lượn trên đồi, chàng đã tìm thấy một con chim yêu dấu. Đôi mắt sáng lung linh. Bờ ngực phập phồng sau làn vải lụa. Và hai bờ môi cắn bầm bằng nỗi cuồng nhiệt của tuổi trẻ. Mùa xuân đã về đúng hẹn, và em là mùa xuân, mùa hạnh phúc, mùa ngọt lịm ân điển của địa đàng. Em đã mang tin lành, bình an, đến giữa cõi hoạn nạn. Em ở trên bầu trời xanh sẫm, đúng lúc, đúng hẹn, vô tư, đùa nghịch, vút lên cao, sà xuống thấp. Em, cánh chim mang mùa xuân về trời đất, núi rừng, dù không gian vẫn đầy những đe dọa gầm gừ. Ô kìa, một đàn chim én đang bay rợp trên đèo xám và rừng xanh. Trọng xúc động. Con họa mi của anh giờ này chắc trên chiếc xe đò xuôi về thành phố. Nhưng kia kìa, chàng muốn đứng thở khi nhận ra cả một đám chim mùa xuân, khi không sà xuống đoàn xe. Cứ hết con này, tiếp đến con khác. Chúng phóng xuống đường dễ chừng chúng đang làm một cuộc tự sát tập thể. Rồi trong một khắc giây nào đó, chàng nghe một tiếng rú như xé dội cả trùng trùng điệp điệp núi đèo, đẩy bật cả mấy tầng trời, gốc cây đại thụ, bạt cả bờ vách đá, sau đó là lời van lơn dồn dập: “Anh Trọng. Anh Trọng. Ngừng xe lại. Hãy ngừng xe lại. Anh Trọng ơi!…Nghe em đi, anh Trọng ơi!…”. Trọng bủn rủn châu thân, nắm tay người tài xế, hối hả nói: “Anh ngừng xe nhanh lên!” Xe thắng giữa đèo. Đại bàng gọi máy hỏi sự tình. Trọng kể trong hơi thở về cái dự cảm của chàng. Đại bàng nói cũng nghe tiếng la rú. Rồi Đại bàng ra lệnh đại đội nhảy xuống xe, bố trí hai bên đường. Sau đó, một đoàn xe chở đạn pháo binh của Đồng Minh qua mặt. Chỉ trong mười phút ngắn ngủi, là sấm động ầm ầm của những quả mìn và tiếng súng lớn, sau đó là cả một khối lửa vĩ đại bừng dậy. Còn Trọng, chàng lom khom bò về hướng Đại bàng, nói không ra hơi: “Đại úy ơi, tôi có linh cảm Mỵ… Đại úy nói giùm tôi một câu. Một câu thôi để tôi yên lòng. Đại úy có nghe tiếng rú không?” Viên đại úy, dù đang bấn loạn, cũng cố an ủi Trọng: “Trọng, tin tao. Mỵ nó không hề gì đâu. Về lại trung đội mày đi. Chuẩn bị bọc hậu. Chừng năm phút nữa có trực thăng bay đến yểm trợ. “ Trần Hoài Thư Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Dec/2024 lúc 1:47pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 101 |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |