Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 96
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jul/2024 lúc 12:13pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jul/2024 lúc 1:42pm

Một Câu Chuyện THẬT CẢM ĐỘNG

5189%20a%20CauChuyenCamDongMinhTao5189%20b%20CauChuyenCamDongMinhao

      Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

       Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

       Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?

       Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”

Tôi hỏi tiếp:

– “Còn con có đi học không ?”

Thằng bé nói:

– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.

       Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.

Có lần thằng bé hỏi tôi:

– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.

       Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.

       Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì.

       Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.

       Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

       Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

       Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

       Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết.

       Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

       Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

       Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.

       Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.

       Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…

       Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.

       Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

Minh Tạo

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Jul/2024 lúc 8:41am

Một Thời Để Nhớ


Khoác vội chiếc áo bay, leo lên chiếc Honda cũ kỹ tôi rời cư xá sĩ quan độc thân hướng về phía phi đoàn. Cư xá Bắc Tiến là một tòa nhà 2 tầng xây cất theo kiểu Tây đẹp và rất kiên cố, tọa lạc trên một khu đất rộng rãi khang trang, có sân cỏ phía trước và trên đường đi vào bộ tư lệnh sư đoàn 3 Không Quân, cư xá chỉ dành riêng cho các phi công khu trục còn độc thân tạm trú.

Chiếc Honda cũ kỹ lạch bạch trên con đường nhỏ, đôi khi tôi phải lách tay lái để tránh ổ gà, hai bên đường còn đọng sương đêm long lanh dưới ánh sáng chan hoà của mặt trời vừa ló dạng. Không khí buổi sáng trong lành pha lẫn với mùi thơm dìu dịu tỏa ra từ hoa và cỏ dại, bước chân vào cửa trước của phi đoàn, người sĩ quan trực lên tiếng:

“Đến sớm quá vậy, tối hôm qua đạn pháo kích nổ gần quá ngủ không được?”

“Sáng nay tôi bay sớm”.

Phi hành đoàn chưa ai đến, tôi ra quán mua ly cà phê. Ngồi trong quán nhỏ cạnh phi đoàn, bên ly cà phê phin, móc túi lấy điếu Winston kéo một hơi dài, nhấp chút cà phê đắng thơm dịu, tâm hồn sảng khoái, không một chút gì lo âu cho phi vụ sắp tới, đời lính Không Quân ban đêm an lành trong ánh đèn thành phố, ngày lái máy bay ra yểm trợ chiến trường, gần gũi với bom đạn, đối diện với quân thù là công việc thường ngày của người phi công tác chiến.


Ba chiếc phi cơ sắp thẳng hàng trên phi đạo chuẩn bị cất cánh, giữ chặt chân thắng, tôi tống ga lên thử máy, thân tàu rung mạnh, hai máy phản lực nổ rầm trời, con tàu như hổ dữ bị trói, lồng lộn trên phi đạo, đẩy tay ga lên mức tối đa, hai động cơ phản lực thổi về phía sau đẩy mạnh con tàu, người tôi như dính vào lưng ghế. Phi cơ lướt nhanh, ép mình trên phi đạo rồi phóng vút lên cao, xếp bánh đáp, kéo cánh cảng về vị thế bay thẳng, tôi đưa phi cơ lên mức bình phi, bay thật nhanh xuyên qua những làn mây mỏng, chúng tôi giữ cao độ thấp để tránh radar địch. Mục tiêu phi vụ đặc biệt này là tiêu hủy nhà máy đèn của thành phố Lộc Ninh, chúng tôi xử dụng yếu tố bất ngờ để địch quân trở tay không kịp. Địch đã trang bị hệ thống phòng không rất mạnh để bảo vệ nhà máy đèn với hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đại bác 12 ly 7 và 37 ly phòng không, vì lý do an toàn cho phi hành đoàn, hai chiếc trực thăng cấp cứu phải túc trực xa mục tiêu nên tánh mạng của những phi công gặp nạn trong phi vụ này sẽ vô cùng nguy hiểm.

Ba chiếc phản lực cơ lần lượt bay dưới bụng nhau để kiểm soát bom đạn, đặc biệt lần này mỗi chiếc mang theo 4 trái bom, mỗi trái 500 pounds, một số bom được gắn thêm ngòi nổ chậm để tăng sự công phá khi bom đào sâu dưới đất rồi mới nổ.

Đêm hôm nọ VC đã vi phạm lệnh ngưng bắn của hoà đàm Ba Lê, pháo kích hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Sài Gòn giết hại nhiều thường dân vô tội. Chính quyền ra lệnh trả đũa và phi đoàn của chúng tôi đă được lệnh với phi vụ hành quân đặc biệt sáng nay.

Bay ở cao độ thấp chiếc phản lực cơ lướt qua những khu rừng thưa như mũi tên vừa vượt ra khỏi vòng cung bắn. Từ xa nhìn thấy thành phố Lộc Ninh như còn đang ngái ngủ, yên lành chờ đợi, ba chiếc phản lực cơ đổi qua đội hình tác chiến rồi phóng vút lên cao để lấy cao độ tác xạ, nhà máy phát điện của thành phố nằm góc phía tây thành phố, súng cao xạ 12.7 và 37 ly phòng không của địch bắt đầu khai hỏa.

Chiếc số 1 lao đầu xuống mục tiêu thả luôn một lần 4 trái bom vào nhà máy đèn, đến phiên tôi số 2 cũng nhồi luôn 4 quả vào mục tiêu, vài hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 được hốt hoảng phóng lên kèm theo những làn khói trắng sau đuôi, không nhắm định được mục tiêu để bay theo nên nổ tan giữa chân không như pháo thăng thiên, chiếc số 3 cũng vừa hoàn tất công việc, sức công phá của 12 trái bom đã san bằng nhà máy đèn. Tất cả đang bị che phủ bởi khói đen cuồn cuộn và những cột lửa khổng lồ.

Tôi tống hết ga phóng lên cao lấy lại cao độ, gom lại hợp đoàn rồi quay hướng bay trở về căn cứ. Đồng hồ trên bảng phi cụ chỉ đúng 7 giờ 25 phút, chúng tôi đã ở trên vùng chưa đầy 5 phút. Phi vụ thành công mỹ mãn.


Nhìn xa cuối chân trời ánh nắng ban mai đã hoàn toàn ló dạng, bầu trời xanh thẩm, phía dưới mây trắng trải dài như thảm tuyết mênh mông. Chỉ sau 15 phút bay, phi trường Biên Hoà hiện ra trước mặt, rực rỡ dưới nắng sáng chan hòa, phi tuần trưởng xin phép cho phi tuần hạ cánh, cắt nhẹ tay ga, kéo mũi con tàu lên một chút, tôi cho hai bánh sau đáp chạm nhẹ trên phi đạo. Chiếc phản lực cơ chạy lướt trên mặt đất, chậm dần rồi dừng lại ở đường quẹo vào taxiway. Leo ra khỏi phòng lái tôi lên chiếc xe Van trở về lại phi đoàn. Xa xa đã nhìn thấy vài chàng phi công nai nịt sẵn sàng, mang dù đứng chờ xe đưa ra phi cơ để thi hành một phi vụ mới.

Phi đoàn khu trục quân số khoảng 20 phi công, tổng cộng có 5 ông cấp tá, 3 đại uý, 5 trung uý, 5 thiếu uý, 1 hạ sĩ quan văn thư và 1 binh nhất tài xế, chỉ có bấy nhiêu thôi nên mọi người đối xử với nhau rất thân mật. Cấp thiếu uý được giao thêm cho một “trọng trách” là thay phiên làm sĩ quan trực, khi trực sẽ không được đi bay, ban đêm phải ngủ lại ở phi đoàn nên nhiệm vụ này ít người ưa thích. Thời biểu của Pilot được sắp xếp là đi bay 2 ngày thì được nghỉ 1 ngày để dưỡng sức nên nếu có bị làm sĩ quan trực thì củng chỉ 2 ngày là xuống ca. Bổn phận của sĩ quan trực củng chẳng có gì khó khăn, trả lời điện thoại, nhận chi tiết hành quân, gọi xe đưa đón phi công, gọi vũ khí xin trang bị bom đạn trên phi cơ cho phù hợp với nhu cầu chiến trường, vì không được đi đâu cả nên mấy chàng này hay dành thời giờ ôm điện thoại tán gẫu với “em gái hậu phương”.

Đứng trước hành lang ngoài cổng phi đoàn, tôi châm điếu thuốc, đưa mắt theo khói nhìn lên bầu trời xanh lẫn những làn mây trắng. Nhập ngũ vào cuối năm 69, đầu năm 70 vào quân trường võ khoa Thủ Đức, tháng 10 năm 1970 tôi ra trường với cấp bậc chuẩn uý và bắt đầu phục vụ cho binh chủng Không Quân, đời binh nghiệp của tôi bắt đầu từ dạo ấy.


Cuối năm 1972 tốt nghiệp phi công, với đôi cánh bay trên ngực và bông mai thiếu uý trên vai tôi hãnh diện tham gia vào cuộc chiến. Hai mươi hai tuổi, lứa tuổi đẹp nhất của đời trai tráng, lứa tuổi mà đa số còn mài đũng quần trong giảng đường của các trường đại học, còn chung nhà với cha mẹ anh em. Sau Tết Mậu Thân, vì nhu cầu chiến trường, lệnh tổng động viên đã được ban hành. Chiến tranh đã nuốt hết mùa xuân của tuổi trẻ, những “mùa xuân” đổi thành những “mùa hè đỏ lửa”, tên những giảng đường của đại học Khoa học, Luật, Văn khoa được thay bằng những địa danh như Tống Lê Chân, Rạch Bắp, An Điền, Bình Long, An lộc. Tôi chấp nhận quân đội thành gia đình, chọn “Huynh đệ chi binh” làm châm ngôn cho đời sống. Nhớ một buổi chiều, ra đứng ngoài hành lang trước cổng phi đoàn hóng gió ngắm mưa, kéo điếu thuốc nhìn những hạt mưa bay, cái đói chợt đến một cách đột ngột. Chưa đến giờ cơm tối, trong túi chỉ còn được vài trăm, đủ tiền để mua được một bữa cơm bình dân 3 món trong một quán nhỏ bên khu gia binh. Đảo mắt kiểm soát vòng quanh phi đoàn tôi chợt thấy hai anh lính trẻ đang ngồi trong bóng tối dưới cánh phi cơ, thấy là lạ tôi lên tiếng hỏi:

“Trời sắp tối rồi sao hai anh không đi ăn cơm mà còn ngồi đây để làm gì?”

Thấy tôi đang đứng hút thuốc hai người lính trẻ tiến lại gần, hai khuôn mặt thật trẻ chỉ khoảng 18, 19 tuổi ngây ngô như thằng em út của tôi còn đang đi học:

“Thiếu uý cho tụi em xin điếu thuốc?”

Chìa bao thuốc ra mời, hai khuôn mặt búng ra sữa mắt sáng lên rạng rỡ:

“Thú thật với thiếu uý tụi em không có tiền ăn tối nên ra đây ngồi tâm sự chờ đêm đến về phòng ngủ hy vọng sẽ quên đói”.

Vét túi tôi còn đúng ba trăm đồng, đưa hết cho hai người lính trẻ:

“Thôi lấy đỡ số tiền này, chạy xe ra mua ba ổ bánh mì không, bỏ thêm cho chút tương đen tương đỏ cho dễ nuốt, xin 3 bịch trà đá rồi về đây mình ăn tối chung với nhau”.

Tối hôm đó chúng tôi đã có một bữa ăn thật đạm bạc nhưng chan chứa tình người, tình đồng đội và tình chiến hữu. Quân đội ta thời ấy phát lương cho lính chỉ đủ tiền ăn sáng, sĩ quan thì được cơm ngày hai bữa, phi công thiếu ăn không đủ sức đi bay nên được lãnh thêm tiền “phụ cấp ăn trưa”, nhiều lúc phải ăn xôi cho chắc bụng và lâu đói. Ít ai dám nghỉ đến chuyện lập gia đình vì làm sao có đủ tiền để trang trải, mướn nhà và bảo bọc cho vợ con. Thật tình cờ tôi đã gặp lại hai người lính trẻ đó. Giữa lúc chiến trường đang hồi sôi động, phi đoàn tôi đã có vài chiếc bị bắn rơi, vài phi công đã đền nợ nước, bãi đậu phi cơ ồn ào tấp nập, xe chở bom đạn rộn rịp trang bị cho phi cơ, sẵn sàng cho những phi vụ hành quân đặc biệt. Được lệnh cất cánh khẩn cấp, tôi nhảy vội lên chiếc xe Van vừa ghé để đưa đến chỗ đậu phi cơ, gác cái dù trên ghế lái, tôi leo xuống đi vòng kiểm soát phi cơ và bom đạn trước khi cất cánh, từ xa, hai anh bạn lính trẻ hôm nào mừng rỡ chạy đến, cả hai ôm tôi mắt ướt lo lắng nói:

“Thiếu uý nhớ bảo trọng, phi vụ này rất nguy hiểm, phi cơ mình bị rớt 2 chiếc ngày hôm qua, sáng nay có 1 chiếc vừa mới bị bắn bể máy, tối nay mời thiếu uý đi ăn cơm tối, tụi em vừa mới được lãnh lương”


Leo lên phi cơ, nổ máy lái tàu ra taxiway, lầm lì kiểm soát phi cụ mà cảm thấy mắt mình cay, cằm bạnh lại, môi mím chặt tôi đưa tàu ra phi đạo cất cánh. Thành phố Phước Long bị thất thủ, quân bạn rút ra ngoại ô, dân chúng đã di tản, VC chiếm toàn diện khu toà tỉnh trưởng, chúng tôi được lệnh trút bom trên đầu địch, cả một sư đoàn phòng không đang chuẩn bị để chào đón. Đạn phòng không nổ rợp trời như bọt xà phòng trong bể tắm, bầu trời bị che phủ bởi khói đạn từ dưới bắn lên, phải bay xuyên qua lớp mây đạn đó mới thấy được mục tiêu để thả những quả bom cho chính xác. Bom vừa rời khỏi cánh thì hỏa tiễn tầm nhiệt cũng vừa phóng lên, tôi tống hết ga, bay rà sát đọt cây để tránh đạn, hoả tiễn lạc mục tiêu nổ tan trên trời như pháo thăng thiên.

Phi cơ chạm bánh xuống phi đạo, kéo ga giảm tốc độ tôi quẹo vào bãi đậu, ngạc nhiên và cảm động khi thấy hai người bạn trẻ vẫn còn đứng đó, đang lo lắng chờ đợi, vẫy tay vui mừng khi thấy phi cơ của tôi trở về bình an vô sự. Tối hôm đó, trong một quán nhậu bên bờ sông, 3 anh em chúng tôi say tuý luý, ba tháng lương vừa mới lãnh, tiền lính tính liền, không ai còn biết tính toán hoặc lo nghĩ đến ngày mai, không cần biết đến tương lai xa gần gì cả, chúng tôi chỉ sống cho hiện tại. Chiến tranh đang đến hồi khốc liệt, VC kéo vào cả sư đoàn phòng không trang bị những vũ khí mới nhất do Nga viện trợ, Trung Cộng cũng gia tăng súng đạn cho Bắc Việt, bên ta thì trái lại, quân đội Hoa Kỳ đã rút quân khỏi miền Nam, cắt giảm viện trợ quân sự nhất là về vũ khí, bom đạn, ảnh hưởng rất nhiều đến sự chiến đấu của quân ta.


Vài sư đoàn của CSBV đã tiến quân về gần tới Saigon, quân ta đang dồn hết lực lượng để bảo vệ thủ đô, phi đoàn chúng tôi được lệnh trực ứng chiến 100% . Phi công được sắp xếp để bay liên tục không nghỉ, mỗi ngày mọi người bay trung bình 2 phi xuất, một sáng và một chiều, mức quy định tối đa cho phi công lái phản lực siêu thanh. Cũng trong thời điểm này tôi đã bị mất đi một người bạn thân, anh bị tử thương ngay cuối phi đạo, tàu bị nổ trên đường đang cất cánh. Vừa mới lên trung uý chưa đầy một tháng mà hôm nay bạn tôi đã trở thành cố Đai uý. Đứng gác linh cửu anh trong Tử Sỉ Đường TSN, gắn điếu thuốc trên môi chưa bật lửa thì thấy đôi môi mình hơi giật như ai đang mồi thuốc, xác anh nằm yên đó nhưng chắc hồn anh đang đùa giỡn quanh đây.

Thay thế cho những người đã mất, phi đoàn tôi được bổ xung quân số, bốn chàng thiếu uý khôi ngô bảnh trai với cánh bay mới toanh trên ngực, bông mai vàng sáng giới trên vai, các anh vừa tốt nghiệp ưu hạng từ các trường huấn luyện phi công quân sự mới về nước. Tiền bạc rủng rỉnh nhờ dành dụm đô la, chưa xài được đồng nào thì phải trình diện đơn vị, tình trạng ứng chiến không ai được rời đơn vị nên các anh này ngày thay phiên nhau làm sĩ quan trực, tối lại “tập tạ” bằng bia 33, ban ngày chúng tôi chỉ nghề bay bổng, đêm về ra quán chỉ món nhậu để “ma mới” có chỗ tiêu tiền. Mấy ông này tuy nghề bay chưa vững nhưng binh “xập xám” thì rất là điêu luyện nên nhiều đêm xây sòng, họ lấy hết lại tiền đã chi...


Thắt lại chiếc khăn choàng màu xanh nhạt, kéo cổ áo bay lên một chút, sáng nay trời trở lạnh, xuân về Tết đến, không được nghỉ ngày nào để về thăm nhà, hình ảnh cô bạn gái chợt hiện ra trong ký ức, nàng có một khuôn mặt hiền lành dễ thương, cách nói chuyện chân tình, cởi mở và duyên dáng, mái tóc dài tha thướt, đứng tựa gốc cây nâng niu cành hoa tôi mới tặng với nụ cười như hoa hàm tiếu, mắt u uẩn buồn nhìn tôi trong những lần chia tay. Tôi quen nàng trong khuôn viên trường luật, những buổi chiều dạo mát trên đường Duy Tân cây dài bóng mát, những trưa hè ngồi bên ly nước dừa hay ghé quán kem trên đường Lê Lợi và dạo phố Saigon. Sống trong chiến tranh, đối đầu với nguy hiểm, sự sống và chết rất gần nhau, tương lai mù tịt không ai nghĩ đến, chúng tôi quen nhau khá lâu nhưng không một lời hứa hẹn, không mộng ước xa vời. Hẹn nhau trong quán nhỏ bên trường, có lúc chia tay, nàng nhìn tôi với đôi mắt buồn, môi mím lại, lo sợ nhở một ngày nào đó tôi sẽ không bao giờ đến nữa. Chiến tranh đang đến hồi khốc liệt, những ngày được nghỉ bay để hẹn hò không còn nữa, phi đoàn tôi di tản về TSN, gần nhà nàng nên tôi có dịp ghé thăm, gặp nhau lần cuối, nàng ngước mắt nhìn tôi hỏi:

“Rồi anh sẽ đi đâu?”

Tôi cúi đầu im lặng, là quân nhân sự ra đi không thể tự mình quyết định. Trời chuyển mưa, đứng nhìn nhau im lặng, tôi cảm thấy hai má của mình ướt, đưa tay lên vuốt nước mưa trên má và mắt như để thay lời tạ từ chia tay. Rồi chuyện gì đến đã xảy đến, chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975 tên phi công phản tặc Nguyễn Thành Trung dắt VC bay vô trút bom xuống phi trường TSN, những trái bom 250 pounds thay nhau rời cánh 3 chiếc A-37 phá hủy toàn căn cứ, sức ép của bom hất tôi văng vào vách đất trong căn hầm trú ẩn, màng nhĩ như bị đẩy sâu vào trong, tôi ôm đầu nằm bẹp xuống sàn đất lạnh. Tối hôm đó, cả ngàn quả đại pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly của Việt cộng liên tục bắn vào phi trường. Tân Sơn Nhất đang thật sự vùng vẩy hấp hối, chìm dần trong lửa đạn, co quắp, rã chết và sụp vỡ. Năm giờ sáng ngày 29 tháng 4 chúng tôi được lệnh: tất cả phi công, nếu không có tên trên bảng phi lệnh hành quân, phải di chuyển ngay về cư xá sĩ quan độc thân để tránh đạn pháo kích.


Mặt trời vừa ló dạng, tiếng động cơ của 10 phi tuần, 30 chiếc phản lực siêu thanh nổ rầm trời như đánh thức cả thành phố đang gục đầu trong khói lửa. Ba chục chiếc phi cơ ra đi như những phi vụ cuối cùng của cuộc chiến, các phi công anh hùng đó đã cất cánh bay đi, không lời giã biệt và không bao giờ trở lại. Phi trường hỗn loạn, đài kiểm soát không lưu ngưng hoạt động, phi cơ lên xuống tự do không người hướng dẫn, cổng chính của căn cứ bị bỏ ngõ. Với tình cảnh sống chết đan kín, hoảng hốt, không còn cấp chỉ huy để nhận lệnh, tôi tìm được một chiếc phi cơ tạm khả dụng, leo lên phòng lái đưa tàu ra thẳng phi đạo cất cánh. Rời khỏi mặt đất, đưa tay xếp bánh, kéo mũi đưa con tàu lên cao, bay không định hướng, lần đầu tiên trong đời, khi hỏng bánh cảm thấy người mình hụt hẫng, buông tay, tôi thả tàu bồng bềnh trong cõi không gian mênh mông và vô tận.


Sau ngày CS xâm chiếm miền nam, hàng triệu người ngơ ngác, hoảng hốt, hàng vạn quân, cán, chính phải vô trại tập trung rồi bị đẩy vào những nhà tù “cải tạo”...

Bên kia bờ đại dương, hàng vạn người cũng đang ngơ ngác buồn thảm, bơ vơ nơi xứ lạ quê người, họ bị tập trung vào những trại tị nạn dựng lên bằng lều vải, ngày xếp hàng xin cơm, tối chun vô lều nằm ray rức buồn khóc nhớ về quê hương và gia đình, ngoài một số rất nhỏ, tất cả chỉ còn lại hai bàn tay trắng, ngôn ngữ bất đồng, nghề nghiệp bên nhà không được chấp nhận, tương lai đen tối vô cùng. Tôi cũng trong hoàn cảnh đó, ra khỏi trại tỵ nan, đến nhà người bảo trợ, chuyện đầu tiên là đi tìm việc làm để dành dụm trong một thời gian ngắn, sau đó sẽ phải tự túc về vấn đề sinh kế. Tất cả phải làm lại từ đầu, nghề lao động tương đối dễ tìm, việc đầu tiên tôi xin được là đi lượm rác, làm vệ sinh bên ngoài cho một công ty nhỏ, đang mùa hè nóng trên 100 độ F nên khổ nhọc vô cùng. Sau đó được “lên chức” lao công làm việc bên trong, quét dọn, lau chùi cầu tiêu, sàn nhà, nhưng được làm trong phòng có máy điều hòa không khí nên thoải mái vô cùng. Cũng có biết bao nhiêu người Việt đã phải làm việc ngoài trời lạnh lẽo tuyết giá trên những tiểu bang miền Bắc. Đời sống thay đổi quá đột ngột, mặc dù cố gắng phấn đấu tôi cũng không tránh khỏi những ngày dài, mang tâm trạng của dân “cu li”, mệt mỏi chán chường, cuối tuần lại tụ họp với nhóm bạn thờ thần “lưu linh”. Quan niệm quá thiển cận, không nghĩ đến tương lai như hồi chiến tranh, là một điều sai lầm mà tôi chưa nhận biết. Có lúc lười biếng, chán nản không muốn đi làm, tôi buông thả cuộc đời, đổ thừa cho số phận. Một ngày kia, đang đi chợ trong tiệm tạp hóa nhỏ, tôi nghe một bà lẩm bẩm:

“Làm ăn như mấy ông thì mất nước là phải, vậy mà cứ đổ thừa là vì Mỹ nó bỏ rơi VN”...

Câu này đã làm tôi tỉnh ngộ, lập tức thay đổi quan niệm sống, cố gắng thi vào trường, vừa làm vừa học để xây dựng tương lai và vươn lên khỏi vũng lầy. Ra trường nắm được công việc tốt, thừa thắng xông lên, tôi cố gắng tối đa để làm “vẽ vang dân Việt”, giúp đỡ đồng hương và làm gương sáng cho hậu duệ. Dân mình vốn dĩ chịu khó và cầu tiến nên chỉ sau một thời gian ngắn vài năm, mọi người đã bắt đầu có được đời sống thoải mái. Cùng thời điểm đó, để giải quyết vấn đề khó khăn kinh tế, VN bắt đầu mở cửa cho phép người Việt hải ngoại gửi quà và tiền về giúp đỡ thân nhân đang đói khổ. Vì tình thương gia đình, dân Việt hải ngoại quyết tâm “đi cày”, có người làm hai công việc, đa số đều xin làm thêm giờ phụ trội 12 đến 14 tiếng mỗi ngày để kiếm thêm tiền gửi về giúp đỡ cho thân nhân.

Rồi ngày tháng trôi qua, đời sống an lành trong một quốc gia không chiến tranh, kỷ niệm cũng không có nhiều để đáng nhắc, thấm thoát vậy mà đã trên 41 năm xa xứ... ....


Hải Ưng Hoàng Hải

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Jul/2024 lúc 8:16am

Phát Súng “Ân Huệ” 




Sau khi tốt nghiệp, tôi đến đơn vị mới là Bệnh viện I Dã Chiến ở Quảng Ngãi. Trước ngõ vào bệnh viện có cuộn dây thép gai kéo ngang và người lính đứng gác, tôi tần ngần nhìn con đường đất lầy lội giữa hai hàng lều vải trên khu ruộng mía. Sự khác biệt xa với giữa những bệnh viện khang trang của trường Y khoa Sàigòn với những lều trại thô sơ này bỗng làm tôi chới với. Tôi đến trình diện với Y sĩ trưởng, Đại úy Vũ Ban, và gặp những sĩ quan Quân Y khác. Bộ quân phục kaki còn nguyên nếp gấp của tôi hình như lạc lỏng trong đám quần áo tác chiến bạc màu của các quân nhân trong đơn vị.

Rồi tôi cũng quen dần với đời sống của một Quân Y sĩ trong vùng chiến trận sôi sục này. Doanh trại đổi thay mau chóng, lều vải được thay bằng nhà gỗ mái lợp tôn. Phòng giải phẩu có máy điều hòa không khí. Hàng dương liễu hai bên đường vào bệnh viện đã lên cao ngang đầu người.


Sáng hôm nay trong buổi họp tham mưu tại Bộ Chỉ huy Sư đoàn II, tôi được biết một Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến vừa đến và đóng quân bên quận Sơn Tịnh. Người Y sĩ trưởng của Tiểu đoàn là Lê Hữu Sanh, bạn tôi ở trường Thuốc. Sau buổi họp tôi đi thăm bạn ngay. Qua khỏi cầu Trà Khúc chừng nửa cây số về phía Bắc, tôi lái xe vào con đường lên núi Thiên Ấn. Không khí tươi mát của những vườn cây làm tôi nhớ lại những ngày thơ ấu sống ở quê nhà. Cuối con đường đất rợp bóng tre xanh, tôi nhìn thấy bóng dáng mấy người lính trên đồi, bên kia cánh đồng lúa. Lúc xe đến chân đồi, tôi gặp người lính gác, ngỏ ý muốn thăm Sanh và được dẫn đến căn lều của Bộ Chỉ huy. 

Nhìn thấy tôi, Sanh chạy ra tay bắt mặt mừng. Chúng tôi đi lên đồi, đường dốc thoai thoải. Cả sườn đồi là một thảm cỏ xanh, gió núi thổi qua còn mát lạnh hơi sương. Bầu trời xanh lơ cao vút. Dưới xa kia, dòng sông Trà Khúc như một giải lụa xanh mềm mại trên bãi cát trắng phau. Tôi nhìn Sanh đứng trên đồi, giữa thiên nhiên bao la. Khổ người cao lớn, da sạm nắng, mái tóc hớt cao. Sanh có vẻ chửng chạc, uy nghiêm trong bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến. Tôi nghĩ thầm, người sinh viên trường thuốc hiền lành ngày xưa đã thay đổi nhiều. Sanh kể cho tôi nghe chuyện bạn bè ở trường, chuyện những kiều nữ của thủ đô…Giọng Sanh chợt có vẻ ưu tư:

– “Bọn mình lặn lội khắp nơi, sống chết lúc nào không biết. Về Sàigòn, tôi cảm thấy vô cùng chán nản khi nhìn thấy sinh viên xuống đường biểu tình ngày đêm…”.


Tôi trở lại thăm Sanh vào ngày cuối tuần. Trời vừa xế bóng, ánh nắng chói chang trên đồi cao. Tôi đến trước căn lều nhỏ khuất trong lùm cây, thấy Sanh ung dung đọc sách trên chiếc cán vải, ngực để trần, mồ hôi chảy thành dòng, hơi nóng trong lều bốc lên hừng hực. Sanh rủ tôi đi tắm sông. Chúng tôi theo lối mòn đi xuống bến. Bây giờ là mùa nước cạn, dòng sông chảy gần bờ phía Bắc. Những bánh xe đạp nước quay đều, đổ nước lên đồng mía. Sanh và tôi nhào xuống dòng nước mát lạnh ngọt ngào, quên hết những lo lắng trong hiện tại, những ưu tư với thời cuộc… 

Sanh thách tôi bơi thi đến chỗ vày cầu gãy đổ giữa dòng. Khi bám vào được những cây sắt cong queo, han rỉ nhô ra trên mặt nước, hai chúng tôi đều thở dốc và cười vang. Chúng tôi leo lên ngồi vắt vẻo trên cây đà gần mặt nước, buông thỏng chân trong dòng nước trong veo. Giờ tôi mới nhìn thấy chiếc quần tắm bó sát người thật đẹp của Sanh. Anh chỉ cho tôi xem chử S hoa thêu bên góc, nét chỉ sắt sảo nổi bật trên nền vải màu nâu non. Bằng một giọng ngọt ngào Sanh nói:

– Của M.H. thêu cho tôi đó.

Sanh đưa mắt nhìn theo cánh chim trời bay về phương Nam rồi quay lại nói với tôi:

– Sau cuộc hành quân này, chúng tôi sẽ làm lễ cưới, anh cố gắng thu xếp về chung vui với chúng tôi nhé.

M.H. là sinh viên Văn Khoa. Mấy năm về trước nàng bị lao phổi và nằm điều trị tại bệnh viện Hồng Bàng. Nhóm sinh viên trường thuốc thực tập ở đó kháo với nhau là đôi mắt của người bị bịnh lao đẹp long lanh khác thường. Tôi không tin nhận xét đó, nhưng quả thật M.H. có đôi mắt đẹp trong sáng và hàng mi dài tha thiết.


Một chiếc lá trôi đến chổ chúng tôi. Sanh và tôi cùng khua chân nhè nhẹ, cho đợt sóng nhỏ đưa đẩy chiếc lá khô bập bềnh trôi ra xa. Sanh cất giọng ngân nga gần như hát: “…tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa, mộng về đêm đêm khát vầng trán ngây thơ…”.

Về phía Tây, mây trắng bay lang thang bồng bềnh. Gió trên sông đã chớm lạnh, chúng tôi lội vào bờ. Trên đường về, tôi thấy những người lính Thủy Quân Lục Chiến nấu bữa cơm chiều dưới tàng cây. Mùi khói tản mác trong sương chiều. Tôi nói với Sanh, nửa đùa nửa thật:

– Này Sanh, tôi có cảm tưởng như anh đang đi cắm trại trong sinh hoạt Hướng đạo. Tôi ở tỉnh nhỏ này nhiều lúc buồn chán, ao ước đi đây đi đó như anh và thỉnh thoảng được về Sàigòn.

Sanh cười nhẹ rồi trả lời:

– Hành quân không giống như đi cắm trại đâu, địch pháo kích và tấn công bất ngờ lắm.

Khi đến chỗ căng lều, Sanh nghiêm trang nói tiếp:

– Anh thấy đó, lều của tôi căng bên bờ hố cá nhân. Đêm nằm ngủ, nghe tiếng depart là lăn ngay xuống hố. 

Tôi bắt tay Sanh rồi lũng thững ra về. Xuống đến chân đồi, tôi dừng chân quay người nhìn lại. Ngọn đồi chìm trong hoàng hôn cô tịch, không một ánh lửa, không một bóng người. Tôi miên man nghĩ đến những đêm dài trong rừng núi, những hiểm nguy bất ngờ của người lính chiến, của Sanh.


Sáng nay, tôi đến bệnh viện sớm. Những chiếc lá khô rơi là đà trong cơn gió thổi qua hành lang dài vắng vẻ. Hầu hết thương binh đã được chở đi Tổng Y viện Duy Tân tại Đà Nẵng để có giường trống cho thương binh của cuộc hành quân. Tiếng đại bác nổ dồn dập từ phía Tây Nam, tôi nghĩ đến cuộc hành quân, nghĩ đến Sanh đang lặn lội giữa bom đạn mịt mù…

Xe cứu thương bắt đầu chở thương binh đến bệnh viện. Phòng lựa thương trở nên bận rộn. Dưới mái tôn, hơi nóng hâm hấp phảng phất mùi bùn đất và mùi máu tanh. Từ khi mặt trận ở phía Nam Quân đoàn I trở nên sôi động, Bệnh viện I Dã Chiến thâu nhận nhiều thương binh, và toán lựa thương làm việc rất mau chóng và hiệu quả. 

Đến phiên tôi vào mổ. Người lính bị thương vì mảnh lựu đạn, gan, bao tử và ruột non bị lủng nhiều lỗ nhỏ. Cuộc giải phẫu kéo dài nhiều giờ. Tôi xem vết khâu lần nữa và yên lòng khi thấy màu hồng nhạt đều hòa trên khoanh ruột non. Cắt mối chỉ cuối cùng, vừa ngẩng đầu lên tôi đã nghe giọng nói điềm đạm của người chuyên viên đánh thuốc mê nói với tôi: “áp huyết 10 trên 7, nhịp tim 90”. Khẽ gật đầu tỏ dấu cám ơn, tôi tháo bỏ đôi bao tay và chiếc áo mổ rộng thùng thình, uể oải bước ra khỏi phòng.


Bên ngoài trời đã tối, tôi đi dọc hành lang về phía phòng lựa thương, nơi có ánh đèn nê-ông sáng chan hòa. Phòng lựa thương đã vắng người, y tá đang thu nhặt những mảnh vải rách nát, băng cá nhân đẫm máu rơi rớt trên nền nhà. Năm ba người lính Thủy Quân Lục Chiến ngồi trên băng ghế chờ xe về hậu cứ, bộ quân phục tác chiến nhàu nát còn lấm bụi đường. Sau mấy giờ đứng giải phẫu, hai chân mỏi nhừ, tôi ngồi xuống bậc thềm trước phòng lựa thương nhìn ra đêm tối, ánh hỏa châu sáng cả vùng trời phía Tây Nam. Thượng sĩ Mỹ, Y tá trưởng khối chuyên môn đem đến cho tôi nước đá lạnh. Anh ta nói vắn tắt cho tôi nghe công việc tiếp nhận thương binh trong buổi chiều. Nghĩ đến Sanh, tôi hỏi:

– Ông có nghe nói tình hình cuộc hành quân như thế nào không?

– Thưa bác sĩ hình như là đụng trận lớn! Thượng sĩ Mỹ trả lời.

Một người trong nhóm lính Thủy Quân Lục Chiến nói chen vào:

– Thưa ông thầy, tụi tôi vừa vào đến đầu làng là đụng nặng. Tiểu đoàn trưởng, Sĩ quan Cố vấn Mỹ đều tử thương.

Tôi vội hỏi: “Bác sĩ Sanh có sao không anh?”.

– Bác sĩ Sanh bị thương ở đùi, tôi kéo ông ta vào nằm dưới bụi cây.

Rồi anh ta nói tiếp:

– Đến chiều thì Bộ chỉ huy Tiểu đoàn bị tràn ngập. Việt Cộng nhào lên, gặp người bị thương là bắn chết. Tôi nằm trong bụi rậm cách chỗ bác sĩ Sanh chừng mươi thước nghe rõ ràng:

– Mày là bác sĩ à? Tao cho mày phát súng ân huệ!

Người lính Thủy Quân Lục Chiến ngừng nói, cúi đầu, cài điếu thuốc lên môi. Khuôn mặt sạm nắng đượm buồn. Mọi người lặng im. Tiếng dế rúc ngoài bụi cỏ nghe rõ mồn một. Thượng sĩ Mỹ chợt lên tiếng:

– Sư đoàn báo cho biết sẽ còn chuyến trực thăng chở thi hài đến bệnh viện.


Tôi ngồi trên thềm nhà rất lâu với nỗi thê lương ngấm vào tâm hồn. Người tôi rã rời mệt mỏi.

Khi nghe tiếng trực thăng đáp xuống phía sau bệnh viện, tôi theo người sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến đi nhận xác. Tiểu đội Chung sự khiêng những poncho chứa thi hài sắp thành hàng trước thềm nhà xác. Tôi đến từng chiếc poncho để tìm Sanh. Khi chiếc poncho cuối cùng được mở ra, có người bảo là trực thăng bốc nhầm xác một quân nhân Mỹ. Tôi bước đến gần hơn, nhìn thi hài cao lớn với gương mặt méo mó, rồi nhìn mẫu băng cá nhân cột ngang qua đùi bên phải, tự hỏi có phải là Sanh không? Tôi dùng kéo cắt dọc ống quần, từ đầu gối rọc thẳng lên gần bụng và nhìn thấy ngay màu vải nâu non của chiếc quần tắm với chử S thêu. Tôi nói với người sĩ quan đó là thi hài của Sanh và tỏ ý muốn khâu lại vết thương cho người bạn học. 

Căn phòng im lặng, chỉ có tiếng máy điều hòa không khí. Thi thể Sanh được đặt trên bàn, tấm khăn trắng phủ đến ngang vai. Tôi đứng trước bàn mổ, lòng tê tái, ngần ngại chưa muốn kinh động đến thi hài người bạn học. Trong giây phút, tôi nhìn vào gương mặt méo mó của Sanh. Nhìn vết thương tròn nhỏ trước trán, lấm tấm vết nám đen của thuốc súng. Xương mặt và xương sọ bể nát, mảng da sau gáy rách tả tơi. Tôi cố xếp lại những mẫu xương, máu và óc chảy ra ướt đôi bao tay, hơi lạnh thấm qua làm tôi rung mình thảng thốt.

Tôi khâu vết thương đằng sau gáy, sửa cho khuôn mặt bớt méo. Dần dà đã thấy lại được đường nét quen thuộc của Sanh. Đôi mắt tôi bỗng nhạt nhòa, lòng bồi hồi thương tiếc. Mới hôm nào chúng tôi còn bơi lội trong dòng sông Trà Khúc…chiếc quần tắm màu nâu, có lẽ là kỷ vật thương yêu nhất nên Sanh mặc vào người trước khi ra trận. Kéo tấm vải trắng phủ qua mặt Sanh, tôi bước ra khỏi phòng.


Trời đã gần sáng, những vì sao đêm chỉ còn rất lưa thưa.

 

Y sĩ Thiếu tá Võ Thương

Y sĩ trưởng Bệnh Viện I Dã Chiến (1965-1969)

Tam Kỳ, tháng Giêng năm Mậu Dần.

***

Lời BBT:

Phát súng “ân huệ” là một trong những câu chuyện quá đau thương đối với người lính TQLC nói chung, người y sĩ trưởng TĐ.5/TQLC nói riêng và sự tàn ác của đối phương.Tàn ác tới độ có nhiều đọc giả không tin đó là sự thật, mà là một chuyện hư cấu.


Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về trận chiến mà Bác Sĩ Lê Hữu Sanh đã hy sinh, chúng tôi xin ghi lại đôi dòng của Đại Tá Tôn Thất Soạn nói về trận đánh này. (phần chữ nghiêng).

***

Tiểu Đoàn 5/TQLC sau 3 tháng hành quân tăng phái cho SĐ.2BB ở Quảng Ngãi với nhiệm vụ lùng và diệt địch để bảo vệ an ninh cho dân chúng (*). Khi chấm dứt nhiệm vụ, tiểu đoàn chuẩn bị về nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ, suối Lồ Ồ Thủ Đức. Nhung giờ phút chót lại có lệnh triển hạn thêm một ngày để hành quân lục soát (!*) theo yêu cầu của SĐ.2BB.


Ngày N tháng 6 năm 1966, lúc 8 giờ sáng TĐ.5 được trực thăng vận xuống một khu làng thuộc quận Mộ Đức mà tình báo địa phương “tình nghi*” có dịch ẩn trú. TĐ.5 chia làm 2 cánh, cánh A do Thiếu Tá Dương Hạnh Phước chỉ huy gồm có ĐĐ.4,BCH/TĐ, ĐĐ.2. Cánh B do TĐP Đại Úy Phạm Nhã chỉ huy gồm có ĐĐ.1 và ĐĐ.3. Hai cánh quân tiến song song.

Khi tiến chiếm các mục tiêu, cả hai cánh quân đều chạm địch nhẹ. Đến 4 giờ chiếu thì cánh A đã lọt vào vùng phục kích của lực lượng chính, chung bố trí trong các giao thông hào Ấp Chiến Lược với đủ mọi loại vũ khí nặng nhẹ kể cả đại bác 57 ly không giật bắn trực xạ vào BCH/TĐ.5 khiến Thiếu Tá Dương Hạnh Phước tử thường cùng với, Đại úy cố vấn Tom Kennedy, 1 HSQ USMC âm thoại viên cùng một số quân nhân thuộc BCH/TĐ. Một số khác bị thương, trong đó có Bác Sĩ Lê Hữu Sanh. 

Bác Sĩ Lê Hữu Sanh chỉ bị thương, nhưng sau đó chuyện gì xảy ra với anh thì xin quý độc giả trở lại với “Phát Súng Ân Huệ”! Quý danh của Bac Si đã được Binh Chủng TQLC dùng để đặt tên cho bệnh viện của binh chủng: Đó là Bệnh Viện LÊ HỮU SANH.

Trong phạm vi bổ sung đôi dòng vào bài viết của BS Thương, chúng tôi xin phép miễn đề cập tới sự thiệt hại chung của cả TĐ.5 trong trận chiến này. Quý độc giả nào muốn biết thêm xin đọc các bài viết của Trung Úy Dương Bửu Long,ĐĐT/ĐĐ.4/TĐ.5 và Thiếu Úy Lê Văn Thời cùng những Mũ Xanh đã tham dự trận này, đã đăng ở trong ĐSST và Chiến Sử TQLC.

Nhưng mỗi lần nhắc đến trận đánh này, nhiều câu hỏi và nghi vấn lại được đặt ra:

a/ Địa phương sử dụng chiến thuật LL tăng phái sai, quân tổng trừ bị mà cho đi lục soát!

b/ Địa phương không biết gì về địch tình ngay trong phạm vi trách nhiệm của mình.

c/ Địa phương không bảo mật hành quân! Có vẻ như muốn bán LL tăng phái!

 

Y Sĩ Thiếu Tá Võ Thương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Jul/2024 lúc 10:53am

Bà Mẹ Điên



Khác với phần lớn loài người trên trái đất, sau 1975 tại Việt Nam, bán máu là một nguồn sinh kế tự nhiên bên cạnh mồ hôi và nước mắt. Bao nhiêu chuyện thương tâm đã xảy ra trong thời gian và trên đất nước.

Rời Việt Nam, tôi mang theo câu chuyện về một bà mẹ bỏ vùng Kinh Tế Mới về Sài Gòn tìm chỗ sống. Mẹ giăng tấm vải dầu trên góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ đói khổ. Mẹ bán tất cả những gì mẹ có thể bán kể cả máu của mình để mua sữa cho con và khi con chết bà trở thành người điên.

Tôi viết câu chuyện thành thơ sau khi định cư ở Mỹ. Nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ bài thơ thành ca khúc và hát trong buổi giới thiệu Chính Luận ở Washington DC hôm 13 tháng 9 năm 2014. Sau 10 năm không hát trước công chúng, nhạc sĩ tuổi ngoài 70 tuổi ôm đàn đứng hát trong một chiều thu mưa nhẹ ở xứ người.
Sâu lắng giữa một hội trường náo nhiệt hôm đó là tiếng hát của nhạc sĩ Vĩnh Điện vọng lên từ buồng phổi đã nhiều năm thở không khí ngục tù, và trong mỗi lời thơ ông phổ có một niềm u uất của riêng anh cho quê hương, cho đồng bào khốn khổ và nỗi căm giận những kẻ đang gây ra nạn diệt chủng Việt Nam.

Những giọt nước trong veo vẫn chảy dù giữa một dòng sông đục ngầu trong mùa lũ lụt. Tương tự, với tâm tỉnh lặng, chúng ta sẽ không còn bị chi phối bởi những tiếng động, tiếng cười nói chung quanh mà chỉ còn lại trong lòng tiếng khóc than của bà mẹ điên trên “vỉa hè Đồng Khởi”.

BÀ MẸ ĐIÊN
Có lần tôi đi ngang
Qua vỉa hè Đồng Khởi
Một bà ôm chiếc gối
Đứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Người biết chuyện cho hay
Chồng bà đưa ra Bắc
Từ khi con trai mất
Bà trở thành người điên
Nhà bà là mái hiên
Tấm vải dầu che nắng
Sớm chiều khoai với sắn
Heo hút với bầy con
Bà ngày một héo hon
Bỏ vùng kinh tế mới
Về Sài Gòn chen lấn
Giữa cuộc đời đắng cay
Đứa con út ốm đau
Vẫn hằng đêm đòi sữa
Chẳng còn gì bán nữa
Ngoài giọt máu mẹ cha
Khi trời vừa sáng ra
Bà lại lên Chợ Rẫy
Lần nầy lần thứ mấy
Bà bán máu nuôi con
Trên đường về đi ngang
Ghé cửa hàng mua sữa
Bà gục người trước cửa
Suốt đêm mà không hay
Đứa con út đang đau
Chờ mẹ về chưa tới
Qua đời trong cơn đói
Thiếu cả một vòng tay
Khi bà về tới nơi
Thì con mình đã chết
Bà ôm con lạnh ngắt
Đứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Đêm qua tôi nằm mơ
Thấy mình ôm chiếc gối
Đứng trên đường Đồng Khởi
Và hát như người điên.

Trần Trung Đạo
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Jul/2024 lúc 10:24am

Vượt Ngục

 


Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 19/5/77. Tất cả trại bị lùa ra cánh đồng cỏ tranh phát quang. Đám cỏ tranh rậm cao ngang đầu, ngay sát đường cái. Chúng tôi vừa cuốc đất vừa có thể nhìn những người dân đi lại và các chuyến xe đò từ Long Khánh đi Cẩm Mỹ - Cẩm Đường chạy ngang.

Tôi cố ý tìm đám cỏ tranh ngay sát lề đường, vừa cuốc vừa ngóng các chuyến xe đò, vì tôi biết hôm trước thế nào Thủy cũng lên. Tuần trước, vợ chồng tôi đã liên lạc được với nhau qua cái lá thư chui nhét trong cái gói quà trong đợt thăm nuôi của mấy người bạn. Dân cải tạo thường dùng cách này để hẹn vợ lên đón đường, đi lao động, rình những lúc vệ binh lơ là, có thể xáp lại nói chuyện được dăm phút và tiếp tế đồ ăn.


Mãi gần đến trưa, trời nắng gắt, một chiếc xe đò từ Long Khánh lên, dừng lại tại ngã ba Cẩm Đường ngay trước quán cóc bên đường. Một vài người bước xuống, mặc dù cách khá xa, tôi nhận ngay ra Thủy trong bộ bà ba nâu, tay xách giỏ; mặc dù đã biết trước buổi hẹn,tôi chết trân trong cơn xúc động chợt ùa đến khiến tôi như cứng người lại đứng nguyên một chỗ. Thủy đi dọc theo giao thông hào ngăn giữa bờ đường và đám cỏ tranh, mắt dáo dác nhìn tìm trong đám cải tạo đang cuốc đất. Tôi biết Thủy không thể nào nhận ra tôi trong đám người lố nhố đứng trải khắp bãi cỏ. Tôi nhìn quanh tìm đám vệ binh, nhìn thấy một tên nón cối đứng trên mô đất cao theo dõi quan sát toàn bãi lao động. Tôi kéo lê chiếc cuốc băng qua bãi trống, đi về phía Thủy. Tôi biết chắc không thể thoát khỏi cặp mắt của tên vệ binh đứng trên mô đất. Thủy nhìn thấy tôi, khi chúng tôi cách nhau một đám cỏ tranh. Thủy khựng lại, chúng tôi nhìn nhau, xúc động đến độ không có một phản ứng nào, dù một cử chỉ bày tỏ đã được nhìn thấy nhau sau hai năm chia cách. Tôi thấy mắt Thủy nhìn xéo sau lưng tôi như báo động. Tôi quay lại, tên vệ binh đang leo xuống mô đất. Tôi quăng cuốc, chạy nhanh về phía Thủy, nhảy xuống giao thông hào, khom người khuất sau đám cỏ tranh. Thủy ngồi xuống lề đường, tôi thấy môi Thủy mấp máy định nói điều gì, lại ngước lên nhìn về phía sau tôi, cuối cùng chỉ nói:

- Có ít đồ ăn đem cho bố.

Thủy đẩy túi bao cát lăn xuống rãnh hào, móc túi lấy bao thuốc lá Vàm Cỏ, một điếu thuốc rời cầm ngoài giọng rất vội:

- Trong thuốc này có thư rất quan trọng, cẩn thận nghe.

Tôi cầm nhét vội vào túi áo, hỏi:

- Con khỏe không?

Thủy gật đầu:

- Con ngoan lắm.

Tôi nhoài người vỗ vỗ vào tay Thủy:

- Mẹ sao, khỏe chứ, cố cố lên nhé.

Thủy cười cười:

- Đừng lo, mẹ con bình an, đầy đủ lắm, nhận được quà tiếp tế của ba mẹ gửi về. Chỉ cần bố phải cố giữ sức khỏe.

Bỗng có tiếng động sau lưng tôi, một giọng nói nhỏ của người bạn cùng tổ báo động:

- Nhanh lên, tên vệ binh đang tới gần đó.

Thủy đứng lên và nói vội:

- Chiều mẹ trở lại. Và quay bước nhanh sang lề đường bên kia, đi ngược về phía ngã ba.

Tôi cầm túi đồ ăn, định dúi vào bụi cỏ, thì tên vệ binh trờ tới quát:

- Đứng lên, đem cái túi đó lên đây.

Tôi bước lên khỏi rãnh hào, tên vệ binh giựt lại cái túi bao cát, trợn mắt sừng sộ:

- Ai cho phép anh hả?

Hắn mở túi, dốc ngược xuống, hai lon guigoz, và vài túi nylon đựng đường thẻ, muối vừng đổ xuống đất. Tôi liếc nhìn quanh, các bạn bè đều dừng tay cuốc, chăm chú theo dõi. Từ xa, tên quản giáo Bút xăm xăm bước nhanh, đến gần tôi, bất thình lình hắn vung tay đấm xối xả vào mặt tôi. Tôi ngã xuống đất, chịu thêm một cú đá mạnh vào ngang sườn.

Tên Bút gằn giọng:

- Đứng dậy, cởi hết quần áo, móc túi áo túi quần ra.

Tôi lồm cồm bò dậy, giả vờ như đang đau lắm, cố tình chống tay xuống đất đứng lên chầm chậm, trong lúc cố suy nghĩ tìm cách thủ tiêu điếu thuốc lá Thủy nói có thư quan trọng nhét trong đó. Tôi bắt đầu cởi quần trước, thật chậm.

Bút quay lại tên vệ binh ra lệnh:

- Xem trong túi đồ ăn có gì không?

Tên vệ binh mở nắp lon guigoz đổ dốc mớ thịt kho mặn tung xuống đất, xé bao nylon muối vừng. Lợi dụng lúc chúng đang chú ý kiểm soát mớ đồ ăn, tôi lùa tay vào túi áo, kẹp trúng điếu thuốc, vòng tay ra sau lưng búng mạnh ra sau.

Tôi tiếp tục cởi áo quăng xuống đất. Bút nhặt lên, lần tay vào từng ve quần áo, móc các túi, lấy ra bao Vàm Cỏ.

Bỗng sau lưng có tiếng một tên vệ binh khác:

- Anh Bút xem này.

Tôi quay lại, tên này đang cúi nhặt điếu thuốc gãy rời, móc ra một tờ giấy mỏng nhỏ. Bút nhào tới, cầm lấy đọc. Người tôi căng ra hồi hộp "không biết Thủy viết gì trong đó."

Bút quay lại nhìn tôi, mắt trợn ngược, môi run lên, hắn giựt khẩu súng của tên vệ binh, chĩa ngay ngực tôi, mặt đanh lại:

- Mày dám mưu đồ chống Cách Mạng.

Tôi nghĩ nhanh, không lẽ hắn bắn mình ngay tại đây, và nhô người tới trong phản ứng tự vệ. Bút nhào tới, quay báng súng xuống, dọng thẳng vào mặt tôi. Tôi giựt người ra sau, báng súng quất mạnh vào vai, ngã bật xuống đất.

Tôi nghe giọng Bút run lên: "Trói nó lại, đem về trại." Tên vệ binh nắm tóc tôi kéo ngược lên, bẻ quặt hai tay tôi ra sau, trói bằng sợi dây điện. Hán quát: "Đi!"

Tên vệ binh áp tải tôi về trại đúng lúc tiếng kẻng báo hết giờ lao động sáng. Hắn đẩy tôi chúi xuống gần chuồng heo, bước vào căn nhà tôn đặt văn phòng chỉ huy trại. Lát sau, tên Tuất chính trị viên tiểu đoàn bước ra. Tên này mắt lé, mặt đen xám, tôi vẫn nhận ra mặt hắn tái đi tức giận. Tuất lầm lì không nói tiếng nào, mở trói và dùng chiếc còng sắt xích tay tôi vào thành chuồng heo và bỏ đi.

Đám cải tạo lần lượt vác cuốc về trại sau giờ lao động. Tôi nhìn thấy những người bạn thân trong nhóm "Ca Cóng" hàng ngày, Kỷ, Nghĩa, Nguyện, Tá Anh, Lưu Khương.... nhìn tôi ái ngại. Tá Anh đứng lại tần ngần qua hàng rào kẽm gai, tay phác một cử chỉ vô nghĩa.


Thật lâu sau giờ cơm trưa, tôi vẫn đứng đó, đói vã, người đau ê ẩm. Không thấy tên nào đá động gì tới tôi. Chắc bọn chúng đang bàn cách xử trí. Tôi cố trấn tỉnh, nhắm mắt cố để đầu óc nghỉ ngơi không suy nghĩ, để chuẩn bị đối phó tình thế sắp tới.

Tôi bỗng chợt nhớ ra Thủy hẹn: "Chiều nay trở lại bãi lao động". Bụng bỗng đau quặn, cơn đau râm ran khắp người. Toàn thân cồn cào trong cơn hoảng hốt lo sợ. Thủy trở lại thế nào cũng bị bọn cán bộ vây bắt, tôi không rõ Thủy viết gì trong lá thư chui đó, nhưng chắc chắn rất trầm trọng nên chúng mới hung dữ với tôi như vậy.

Tôi cuống cuồng nghĩ tới việc phải liều mạng, làm thế nào để báo động cho Thủy?

Gần đến giờ lao động chiều, tên Bút, từ cổng trại đi sang "Khung" theo sau là Tá Anh vai vác ba lô dài. Tôi nhận ra túi đồ của tôi đựng chăn màn và vật dụng cá nhân. Tá Anh nằm ngủ cạnh tôi, chắc bị chúng trưng dụng khuân đồ đạc của tôi sang "Khung" để chúng lục soát. Bút ra lệnh cho tá Anh:

- Lấy chăn trải ra, đem hết đồ đạc trong túi bày ra từng món.

Tá Anh lôi ra từng món lỉnh kỉnh bày la liệt trên tấm chăn, trong đó có cả hình vợ con tôi và một xấp thư từ dày của Thủy gửi cho tôi trong hai năm qua.

Bút quay ra đứng nói chuyện với tên Tuất cách đó một quãng xa. Tá Anh cúi xuống tiếp tục bày hàng, không nhìn tôi, và nói thật nhỏ:

- Hồi nãy ở ngoài bãi, Bút tập trung các đội lại, đọc lá thư của vợ ông, bả dặn ông chuẩn bị vượt trại, bả đã móc nối được chuyến vượt biên tháng tới, đã có giấy tờ giả và chỗ trốn cho ông ở Saigon.

Tá Anh ngẩng lên nhìn về phía hai tên Bút và Tuất vẫn đang đứng nói chuyện, quay lại nhìn tôi:

- Tình trạng ông nguy lắm, cố tìm cách thoát, tụi nó dám xử ông như Ngô Nghĩa lắm.

Tá Anh dợm đứng lên. Tôi nói nhanh:

- Hồi nãy bà xã tôi hẹn chiều trở lại bãi. Lát nữa đi lao động, ông cố làm cách nào ra hiệu báo động cho bả biết chuồn lẹ trước khi tụi nó bắt bả.

Tá Anh ngẩn ngơ lẩm bẩm:

- Bà trở lại thì nguy. Tôi sẽ cố, ông cũng phải cố bình tĩnh.

Tá Anh quay lại chỗ hai tên cán bộ báo cáo đồ đạc của tôi và lầm lũi đi về trại.

Bút và Tuất đến lục soát sờ nắn từng món. Xong cầm xấp hình và thư của Thủy đi vào văn phòng trại.

Chúng bỏ mặc tôi đứng bên chuồng heo tới chiều. Sau giờ lao động, Tuất quay lại mở còng, dẫn tôi vào văn phòng trại. Tên thủ trưởng trại ngồi sẵn đó, trên bàn một xấp hồ sơ khai báo của tôi khi mới nhập trại.

Tên thủ trưởng tra hỏi về lý lịch. Tôi lập lại y hệt như những lần khai báo trước. Cuối cùng, hắn đưa cho tôi một xấp giấy trắng và một cái bút:

- Anh viết khai báo tất cả mưu đồ trốn trại. Thành thật thì sẽ được giảm tội. Cố tình man trá, cách mạng sẽ xử trị đích đáng, nghe rõ không?


Cuối cùng, Tuất đem nhốt tôi vào conex, cạnh hàng rào sát kho thực phẩm. Cái conex cũ rỉ của quân đội Mỹ để lại, chỉ vừa một người nằm, cửa không có khóa. Chúng dùng một dây sắt cứng luồn qua hai lỗ thủng, cuốn vòng bên ngoài bằng hai khoen và khóa bằng chiếc còng sắt bấm vào khoen. Sàn conex nhớp nháp, lạnh ngắt. Tôi ở đó, trong cái cũi sắt khốn khổ đúng 9 ngày, trước khi vượt thoát.

Trong 9 ngày đó, tôi đã tự hứa, nếu may mắn thoát được, sau này tôi sẽ nhớ mãi những ngày khốn kiếp này. Và tôi đã không quên.

*****

Ngày thứ nhất - buổi sáng sớm, tên vệ binh mở cửa cho tôi đi cầu. Tôi nhìn quanh, cố ghi nhớ các lối đi và các hàng rào kẽm gai bao quanh trại. Tôi quyết định liều trốn, nếu không chúng sẽ xử bắn giống như Ngô Nghĩa ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Vấn đề là phải có một thanh sắt nhỏ để phá cửa. Cái lối khóa của chúng, chỉ cần một thanh kim loại cứng lách vào và dùng sức xoắn mạnh nhiều vòng, sợi dây sẽ nóng lên và đứt.

Tôi chỉ nhặt được cạnh nhà cầu hai cái đinh sắt dài, quá ngắn để dùng tay làm thế xoắn. Tuy nhiên, tôi vẫn nhặt bỏ túi phòng hờ.

Buổi chiều, tên Tuất đến giục nộp bản tự khai, tôi viết loanh quanh cho đủ ba trang giấy, không nhận cũng không chối tội "chống phá cách mạng."

Ngày thứ hai - Ngay sau khi mở cửa cho đi cầu buổi sáng, tên Tuất lôi tôi lên văn phòng trại. Lần này, có một tên cán bộ lạ mặt, có vẻ cao cấp hơn cán bộ trại. Tuất đứng nghiêm người, "Báo cáo đồng chí làm việc", rồi bỏ đi.

Tên cán bộ này tỏ ra là một tay thẩm vấn chuyên nghiệp. Hắn đi qua đi lại trước mặt tôi, sau một câu hỏi, hắn tát mạnh vào mặt tôi. Tôi chịu trận đòn tới tấp suốt buổi tối với những câu trả lời lập đi lập lại, bắt tôi khai tên các bạn tù cùng âm mưu trốn, tổ chức làm giấy tờ giả và địa điểm sẽ lẩn trốn tại Saigon. Tôi lì đòn, trả lời cứng ngắc: "Không biết". Cuối cùng, hắn dùng thanh gỗ cũ, đầu lởm chởm các mũi đinh rỉ sét, quất liên tiếp vào vai và lưng tôi.

Trước khi thả tôi về lại conex, hắn nói:

- Chúng tao đã bắt được vợ mày chiều hôm qua. Nếu mày thành thật khai báo, vợ chồng mày sẽ được giảm tội. Nếu không vợ mày sẽ bị đòn thay mày.

Lời nói này quất mạnh vào tôi còn hơn trận đòn. Tôi choáng váng, xây xẩm, cúi gầm người xuống đất, cố tránh không nhìn tên cán bộ, giấu cơn uất hận để khỏi chồm người lao vào tên khốn kiếp này.

Tên Tuất bước vào lôi tôi vào conex vừa lúc trời chạng vạng tối. Tôi nằm vật xuống thiếp đi. Tỉnh dậy, chắc đã khuya lắm, tôi thức tới sáng, bồn chồn đau đớn nghĩ tới Thủy giờ này đang trong một phòng giam nào đó, và bé An ở nhà không biết có ai trông coi?

Tôi vẫn tự hào là người có ý chí mạnh để đối phó với bất cứ một hoàn cảnh nào. Lần này, quả thật tôi muốn sụm trước sự bất lực của chính mình.

Ngày thứ 3 tới ngày thứ 9 - Mọi việc diễn tiến mỗi ngày lặp lại với những câu hỏi tương tự, với những trận đòn thay đổi kiểu đánh. Có lần tên cán bộ nổi cơn hung, phang cả điếu thuốc lào vào đầu tôi. Tôi lăn ra vờ bất tỉnh để khỏi bị đòn tiếp.

Có lần tên Tuất nói với tôi:

- Cách mạng đã trừng trị nhiều tên cứng đầu hơn mày. Đợi đến lúc đem ra bãi, mới cuống lên van lạy.

Bấy giờ, tôi biết chắc, dù khai báo thế nào, trước sau chúng cũng cho tôi "ra bãi" như trường hợp trốn trại của Ngô Nghĩa trong cùng thời gian tôi ở Trảng Lớn. Chúng cố khai thác về âm mưu vượt trốn ở trại và những tổ chức làm giấy tờ giả bên ngoài mà chúng nghi là tôi biết. Thật sự tôi không biết gì cả, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn giả vờ nói hớ ra vài câu cho chúng tưởng tôi có biết để chúng kéo dài cuộc điều tra. Khi nào biết không còn khai thác được gì thêm, chắc chắn chúng đem tôi ra xử tử.

Tôi vẫn chưa nghĩ ra cách nào tìm được thanh sắt bẻ khóa cửa. Nhưng tôi vẫn mãnh liệt tin tưởng thế nào cũng thoát, cảm thấy tinh thần và thể xác mình còn đủ mạnh. Tôi làm bộ bệnh hoạn yếu đuối, lúc nào cũng cố tình đi lết một chân. Chúng tưởng tôi bị nhốt lâu tê chân, không cử động được. Thỉnh thoảng, tôi giả vờ ngất xỉu mỗi khi tên cán bộ điều tra hung hãn quá, để khỏi bị cú đòn quá nặng. Nhưng cũng có lần, mặc dù đã vờ xỉu, hắn vẫn đổ nước thuốc lào vào mặt tôi, giựt tóc dậy đánh tiếp.

Đêm thứ tám trong cũi sắt, trời mưa xối xả, hắt đầy nước qua kẽ hở conex. Người tôi ướt sũng, run lập cập, ngồi co ro suốt đêm. Sáng hôm sau, khi tên vệ binh mở cửa, tôi bỗng nhìn thấy một thanh sắt dẹp, nhắn, ai vứt ngay sát hàng rào gần conex. Khi đi cầu về, tôi xin phép tên vệ binh cho cởi quần áo ướt để phơi. Hắn nói "Được". Tôi vội đi ngay sát rào, cởi áo quần phơi trên rào kẽm gai ngay trên thanh sắt. Tôi chỉ mặc một chiếc quần đùi khi lên văn phòng trình diện tên cán bộ để lãnh trận đòn cuối cùng bị quất bằng dây điện.

Buổi chiều, tôi xin ra hàng rào lấy quần áo. Tên vệ binh đứng sau lưng tôi quãng xa. Tôi vờ làm rơi chiếc áo phủ lên thanh sắt, cúi xuống nhặt, tôi cuốn luôn thanh sắt cầm về conex. Khi tên vệ binh đã khóa cửa bỏ đi, tôi giở ra nhìn kỹ và nhận ra đây là thanh sắt ngang hông "porte bagage" xe đạp, vừa đủ cứng và đủ dẹp để luồn vào sợi dây sắt khóa cửa. Tôi mừng rỡ và hồi hộp nghĩ đến chuyện đào thoát đêm nay, trước khi quá muộn. Tôi cũng biết, nếu bại lộ, chắc chắn chúng sẽ bắn ngay tại chỗ.

Đêm đó, khoảng nửa khuya, trời cũng mưa gió ào ào như đêm trước. Tôi bắt đầu luồn thanh sắt vào dây chằng cửa, nắm hai đầu, bắt đầu xoắn. Tiếng cánh cửa đập vào thành conex kèn kẹt. Cũng may mưa đang dồn dập rơi ào ào trên nóc conex, nên tôi mạnh dạn cong người dùng hết sức bẻ. Loay hoay khoảng một tiếng đồng hồ, vòng dây sắt mới bắt đầu xoắn lại theo chiều quay của thanh sắt, tôi quay thật mạnh nhiều vòng, dây sắt đứt tung ra. Tôi ngồi bệt xuống sàn nghỉ mệt. Trời mưa lạnh, nhưng người tôi toát mồ hôi dầm dề.


Gần sáng, trời lạnh. Tôi bắt đầu đẩy cửa conex bước ra ngoài, nằm sát đất và bò một hơi băng ngang dãy nhà họp của bọn chỉ huy trại. Đến bãi trồng khoai mì, tôi ngồi dậy, khom lưng chạy lẫn giữa hai luống khoai dẫn ra con đường mòn tôi vẫn đi từ trại ra bãi lao động. Trời tối đen, nhưng tôi đã quá quen thuộc con đường này. Tôi chạy thật nhanh qua bãi đất trống, dẫn tới bãi cỏ tranh, tiếp tục chạy đến giao thông hào cách đây 9 ngày, vợ chồng tôi gặp nhau. Tôi nhảy xuống rãnh hào, nằm dài ra, tim đập mạnh, vừa mệt vừa hồi hộp.

Tôi đã thoát khỏi vòng trại, nhưng còn nhiều bất trắc, và phải rời khu vực này càng xa càng tốt. Tôi biết khu vực dân cư quanh trại cải tạo là làng Công Giáo của dân miền Bắc di cư. Chắc tôi sẽ dễ tìm được sự giúp đỡ.


Trời tờ mờ sáng, tôi nghe tiếng những người dân nói chuyện rầm rận trên đường cái. Tôi nhổm dậy, leo trên đường, đứng thẳng người, đi ngược về phía chợ Long Giao. Phía trước tôi, lác đác vài bạn hàng đang quảy gánh ra chợ.

Ra tới gần chợ, trời đã sáng rõ. Từ đàng xa, tôi nhìn thấy bến xe Lam bên cạnh các sạp chợ. Bỗng những chiếc nón cối lố nhố chung quanh xe. Tôi hoảng hốt, rẽ tắt ngang hông một căn nhà bên lề đường, vòng qua vườn sau nhà này, dẫn ra đường nhỏ giữa làng dân cư. Tôi không thể xuất hiện ở khu vực chợ giờ này. Đám bộ đội đang chờ xe Lam đi Long Khánh có thể từ những trại khác và không biết mặt tôi, nhưng sau 9 ngày nằm cũi, râu ria tôi mọc dài, quần áo nhớp nháp tả tơi, rất dễ bị nhận ra là dân cải tạo trốn trại.

Tôi rảo bước trên con đường trong làng, bọc sau lưng chợ, qua khu xóm bên kia. Tôi nghe thấy tiếng đọc kinh ê a vọng ra từ một căn nhà ven đường. Tôi quyết định xông bừa vào. Người đàn bà đang lần tràng hạt giật mình nhìn lên. Tôi nói nhanh:

- Thưa bác, cháu là cải tạo vừa trốn khỏi trại.

Bà cụ bật đứng dậy:

- Giê Su Ma, lậy Chúa tôi, thế cậu định đi đâu đây?

- Cháu cũng chưa biết. Thưa bác, ở đây có đường xe về thẳng Saigon không?

- Cậu phải ra đường cái, đón xe Lam lên Long Khánh, từ đó có xe đò về Sài Gòn. Cậu phải đi nhanh lên, quanh quẩn ở gần đây nguy lắm.

- Thưa bác, cháu không có tiền, xin bác giúp cháu ...

Bà cụ tần ngần ái ngại:

- Tôi chỉ có một đồng để cậu đi xe Lam, cậu cầm tạm... Thôi đi bình an nhá. Tội nghiệp quá, Chúa che chở cho cậu.

Tôi cầm một đồng, nói "cám ơn" và quay lại tìm lối ra đường cái. Đành liều vậy, không có cách nào hơn, cứ ra được tới Long Khánh rồi sẽ tính sau. Tôi đứng lấp ló ngoài đường, vẫy bừa chiếc xe Lam đang trờ tới. Xe vượt qua và ngừng lại cách tôi một quãng. Tôi chạy tới, nhào đại lên xe, chui vào ngồi cạnh một người đàn bà, không nhìn những người khác. Xe rồ máy, vừa đúng lúc tôi nhận ra tên vệ binh ở trại, ngồi góc trong cùng băng ghế. Hắn cũng vừa nhận ra tôi, mắt trợn tròn, há hốc mồm kêu: "Ơ! Ơ! mày ..." Hắn chồm tới, hai tay nắm vai tôi hét lớn:

- Xe Lam! Đỗ lại! Đỗ lại!

Tôi hất tay hắn ra và dùng hết sức tống mạnh cú đấm vào mặt hắn, và lao ra khỏi xe Lam. Đầu tôi đập xuống mặt đường. Tôi nghe tiếng xe Lam thắng gấp, tiếng tên vệ binh la hét ầm ĩ. Tôi chồm dậy, chạy thục mạng vào xóm nhà ven đường, vừa nhảy bừa qua một hàng rào kẽm gai tọt vào vườn sau của một căn nhà. Người đàn bà đang ngồi giặt trong vườn, giựt thót người, giơ tay làm dấu thánh giá, kêu lên:

- Chúa ơi! ...

Tôi chạy ngang người bà, xong bước vào nhà, vừa nói:

- Cho tôi trốn tạm, tụi nó đang đuổi theo ...

Tôi nhảy tới chiếc giường thấp ở góc nhà, nằm ép xuống đất, lẩn vào tận sát vách, nằm im trong thế áp ngực xuống đất. Tôi nghe tiếng tôi thở dốc và tiếng tim đập thình thịch. Lát sau, tiếng chân chạy thình thịch và tiếng tên vệ binh hỏi:

- Có thấy tên cải tạo qua đây không?

Tiếng người đàn bà run bắn:

- Không, không, tôi không thấy ...

Tiếng chân tên vệ binh chạy về hướng khác. lát sau, tiếng người đàn bà nói nhỏ ngay trên đầu tôi:

- Ra đi, chui ra đi ...

Tôi lần ra, đứng dậy, chưa kịp nói "cám ơn", người đàn bà đã cầm lấy tay tôi, nói lắp bắp:

- Tôi thương các cậu cải tạo lắm. Nhưng xin cậu cũng thương tôi, cậu hiểu chứ. Tôi không thể chứa cậu được, nguy hiểm lắm...

Mặt bà tái xanh, nắm tay tôi, lắc lắc, Tôi nói vội:

- Vâng, cháu không dám phiền bác. Nhà có bộ quần áo đàn ông nào không, xin bác cho cháu thay ...

Bà nhìn bộ đồ quân đội VN cũ rách bươm của tôi, lắc đầu, giọng run lên như muốn khóc:

- Cậu phải đi ngay, đi ngay đi ...

Bà rút tay lại, lùi lại. Tôi quay ra lối trước. còn nghe giọng bà nói với theo:

- Xin Ơn trên phù hộ cậu ... Xin Chúa tha tội cho con.

Tôi bấn loạn không biết chạy đâu. Chắn chắn tên vệ binh còn quanh quẩn đâu đây, chắc chắn nhiều tên khác sẽ ùa tới bao vây khu vực này. Tôi bỗng nghe tiếng chuông nhà thờ vang lên. Tôi quay lại đi nhanh về phía người đàn bà. Bà mở to mắt, hai tay chắp lại trước ngực, kêu nhỏ: "Lạy Chúa Tôi, lạy Chúa tôi ..." Tôi hỏi:

- Bác chỉ cho cháu đường tới nhà thờ.

Bà chỉ về hướng tay trái:

- Cậu đi lối này, đến ngã ba rẽ phải, cứ đi thẳng đến bãi đất trống, cậu sẽ nhìn thấy nóc nhà thờ.

Tôi nói "cám ơn", giơ tay vỗ vỗ vào lưng bà, quay ra cổng và cắm đầu chạy theo lối bà chỉ. Tôi chạy ào vào nhà thờ. Tiếng đọc kinh râm râm, những người ngồi hàng ghế sau quay lại. Tôi sấn tới hỏi lớn:

- Cha ở đâu, xin các bác làm ơn chỉ giúp ...

Mọi người kinh ngạc, ngẩn người nhìn tôi, không ai trả lời. Các người ngồi ghế trước cũng quay lại, tiếng đọc kinh nhỏ hẳn. Một thanh niên ở hàng ghế trên đứng dậy, tiến đến bên tôi nói:

- Cha đang ở nhà xứ phía sau nhà thờ, anh đi lối này ...

Tôi chạy tuốt lên phía trên, nhìn thoáng lên tượng Chúa trên cao, vọt ra phía cửa hông, vòng ra phía sau. Cửa nhà xứ đóng hờ, tôi đẩy cửa bước vào. Nhà khá rộng, có nhiều phòng. Tôi bước vội vào phòng cuối cùng, cạnh phòng tắm. Căn phòng chỉ có một giường nhỏ, một bộ bàn ghế, một tủ đứng to cao đựng áo lễ. Tôi nhìn quanh, chỗ an toàn nhất vẫn là gầm giường, tôi lại lăn người nằm sấp, sát vách tường.


Lát sau, tôi nghe tiếng bước chân chậm chạp bước vào phòng, nhìn qua chân giường, tôi thấy phần dưới của chiếc áo dòng đen. Tôi không biết có nên chui ra gặp Cha lúc này không, tôi lo ngại sự đột ngột làm Cha hốt hoảng. Một con chó chạy vào phòng, chúi mũi xuống gầm sủa ầm lên. Không có cách nào khác, tôi chui ra, đứng lên nhìn cha chờ đợi. Nét mặt của cha chỉ thoáng ngạc nhiên, nhưng vẫn bình thản.

Tôi nói:

- Con là cải tạo trốn trại, bọn vệ binh đuổi con gấp quá, phải chạy vào đây. Con xin Cha giúp con, cho nấp tạm chỗ nào, rồi con sẽ tìm cách đi chỗ khác sau. Cha giúp con, chúng bắt được con sẽ bắn con ngay.

Cha nói giọng khàn đặc:

- Được, cứ ở đây.

Cha quá già, chắc phải khoảng trên 80 tuổi, mặt nhăn nheo, giọng yếu ớt. Cha không nói gì thêm, không hỏi tôi câu nào, từ từ đi đến tủ áo, lấy chiếc áo lễ, choàng vào người, ra khỏi phòng lên nhà thờ làm lễ.


Tôi nghĩ chắc cha già không nắm vững mức độ trầm trọng; bọn vệ binh trại giờ này đang túa ra bao vây và lục soát khu vực này, chắc nhà thờ phải là nơi chúng chú ý nhất. Tôi nghĩ phải tìm nơi trú ẩn nào an toàn hơn cái phòng trống trải này. Tôi quan sát tủ áo lễ cao quá đầu, hơn nửa phần trên bằng kính trong suốt, phần còn lại bằng gỗ kín; trong tủ treo đầy áo lễ dài. Tôi mở tủ, bước vào, ngồi bệt xuống, thu người nằm gọn trong phần dưới được che kín, bên ngoài không thể nhìn thấy. Tôi cố hết sức thu gọn hai chân, hai vai chụm xuống, đầu bật ngửa ra sau, phần ót tựa vào bả vai, phần đỉnh tựa vào vách tủ, cố thu gọn cái đầu sát xuống để khỏi nhô lên trên cửa kính. Trong tư thế đó, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Tỉnh dậy, tôi nghe tiếng ho của Cha già, tôi chắc cha không biết tôi nằm trong này, tôi đẩy cửa bước ra, chợt khựng lại vì trong phòng, ngoài Cha già còn có một người đàn bà đứng tuổi. Bà nhìn tôi, không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, có lẽ Cha đã nói với bà về tôi.

Cha nói:

- Nằm trong ấy sao chịu được. Thôi cứ ra nằm giường nghỉ đi.

Tôi nói như thuyết phục Cha:

- Xin Cha cứ để con nằm trong tủ. Con sợ chúng sẽ lục soát ở đây.

Cha gật đầu, kể lại hồi nãy chúng đã lục soát rồi, chúng vào một số nhà ở ven đường cái, đến khám xét nhà thờ nhưng chúng không vào nhà xứ.

Cha hỏi U già có gì cho tôi ăn không? U già gật đầu. Cha nói:

- Anh theo U Nhàn xuống nhà dưới ăn cơm.

U Nhàn vội nói:

- Thôi để con đem lên đây, dưới đó có nhiều người hay ra vào.

Cha gật đầu, rồi bỏ ra phòng ngoài. Cha không hề hỏi tôi định ở đây bao lâu và dự định thoát khỏi vùng này bằng cách nào.


U Nhàn đem cho tôi một tô cơm lớn và một bát canh nóng. Ăn xong, tôi vội chui trở vào tủ, nằm lại trong tư thế chân cong, đầu quẹo và cố dỗ dành giấc ngủ. Khi tôi thức dậy, trời đã tối, tôi nghe tiếng nói chuyện trong phòng. Giọng Cha và một giọng đàn ông khác. Tôi khẽ nhích người, nhô đầu lên phần cửa kính, ánh đèn tối tù mù, nhưng tôi vẫn nhận ra một vị linh mục trẻ đang ngồi ăn cơm với Cha già. Hai Cha đang nói chuyện liên quan đến sinh hoạt giáo xứ, tôi đoán Cha trẻ là phó xứ của Cha già. Ông khoảng 40 tuổi, nét mặt rất trí thức và có vẻ đẹp khắc khổ, giọng nói trầm ấm, mạch lạc tương phản với Cha già hiền lành chậm chạp. Tôi hy vọng nếu có dịp nói chuyện với Cha trẻ, chắc có thể được Cha giúp tìm cách đưa ra khỏi vùng đất nguy hiểm này.

Tôi không nghe hai Cha nhắc đến tôi trong suốt bữa ăn. Cha trẻ có vẻ không biết việc tôi trốn ở đây. Tôi đoán, chắc Cha già chỉ cho mình U Nhàn biết.

Xong bữa ăn, Cha trẻ chào đi ra khỏi phòng, tôi chắc Cha trẻ ở phòng bên cạnh. Cha già đến bên tủ gọi tôi:

- Anh ra ăn cơm.

Cha để phần cho tôi vài miếng thịt heo và một đĩa rau, tôi ăn bằng bát và đũa của Cha. U Nhàn vào phòng cùng với Cha và tôi bàn việc giúp tôi thoát khỏi vùng này. Cha già đề nghị sáng sớm mai, 5 giờ sáng đã có xe Lam chạy về Long Khánh, tôi nên đón chuyến sớm nhất, từ Long Khánh đi xe đò về được Hố nai là an toàn. Cha đưa cho tôi tiền xe. U Nhàn dặn tôi phải dúi tiền cho lơ xe đò để đi chui. U Nhàn nói:

- Nhưng anh phải đi tắm, cạo râu, thay quần áo đi đã.

Cha cho tôi bộ quần áo của Cha, khá chật nhưng tôi vẫn cố mặc vào.

Đêm đó, tôi được ngủ một giấc ngon lành trên chiếc giường nệm, Cha nhường cho tôi và ra nằm ngoài phòng khách.


Sáng hôm sau, tiếng chuông nhà thờ làm tôi thức dậy, tôi sửa soạn vội vã. Không thấy Cha già đâu, chắc Cha đã lên nhà thờ chuẩn bị lễ sáng sớm. Cũng không thấy U Nhàn để chào từ giã. Tôi đi ngang phòng tắm, mở cửa sau, đi vòng ra phía trước, trời đã chạng vạng sáng, tôi lẻn tìm lối ra đường cái đón xe Lam.

Lát sau, chuyến xe chạy tới, từ đằng xa, tôi thấy loáng thoáng mấy cái đầu nón cối trên xe, tôi thụt lui, nấp sau gốc cây, chờ cho xe đi qua. Không thể đứng đón xe kiểu này, quá nhiều bất trắc biết đâu không chạm trán ngay một tên vệ binh khác biết mặt tôi như sáng hôm qua. Vả lại biết đâu bọn chúng không trải những trạm kiểm soát xe Lam dọc đường từ đây lên Long Khánh. Tôi quay trở lại nhà xứ, đi vòng theo lối cũ vào cửa sau nhưng cánh cửa đã khóa. Tôi nghe tiếng lục đục trong phòng tắm, tôi đu người bám vào hai lỗ hở, nhìn vào thấy Cha trẻ đang đánh răng, tôi khẽ gọi:

- Cha mở cửa sau cho con.

Tôi tụt xuống, ra đứng ở cánh cửa chờ. Tiếng lách cách mở khóa, cánh cửa hé mở. Cha trẻ ló đầu ra thấy tôi, Cha ngẩn người kinh ngạc:

- Anh là ai? Chuyện gì vậy?

- Con là cải tạo trốn trong phòng này từ hôm qua.

Tôi vừa nói vừa lách người vào. Cha trẻ bỗng dang hai tay ấn vào vai tôi, đẩy mạnh ra ngoài, tôi chồm tới, nghe tiếng khóa cửa phía trong, tôi đập cửa kêu gọi:

- Cha già đã cho con nấp trong tủ áo từ hôm qua, sáng nay cho con tiền xe nhưng con không đón được, nên mới trở lại. Xin cha mở cửa cho con.

Không nghe thấy tiếng trả lời, chỉ nghe tiếng chân lui xa.

Tôi vòng ra lối trước gõ cửa, bên trong hoàn toàn im lặng.

Tôi không biết U Nhàn ở đâu để tìm. Tôi đành đi lên nhà thờ, còn sớm nên chỉ lác đác vài người đi lễ ngồi hàng ghế trên. Cha già đang ngồi trong tòa giải tội. Tôi đi thẳng lên đến gần Cha, tôi quỳ xuống, nói nhỏ qua cửa lưới:

- Con không đi được, xin cha cho con trở lại phòng cũ.

Cha già đứng dậy, đi vòng qua tòa giải tội, không nhìn tôi. Cha từ tốn đi ra khỏi nhà thờ, xuống nhà xứ. Tôi đi theo sau lưng, Cha mở cửa cho tôi vào, không nói với tôi một tiếng. Tôi bước vào, nghe tiếng khóa cửa bên ngoài. Tôi lại chui nằm lại trong tủ.

Sau giờ lễ, Cha già trở lại phòng, tôi nghe tiếng Cha nói chuyện bình thản với một người nào khác. Cha nói Cha bị mệt và nhờ người kia sáng sớm mai đem xe chở dùm Cha lên bệnh viện Hố Nai.

Tôi nằm đó tới trưa. U Nhàn gõ cửa, đem cho tôi một bát xôi. U lặng lẽ không hỏi tôi một câu nào, nét mặt đầy ái ngại lo âu. Tôi ở trong tủ suốt ngày. Đến tối, tôi lại thấy Cha trẻ vào ăn cơm với Cha già. Hai Cha vẫn nói chuyện bình thản về công việc Giáo Xứ. Không ai nhắc tới tôi. Cha trẻ vẫn nói chuyện công tác Họ Đạo, giọng trầm ấm, linh hoạt nồng nhiệt như tối hôm qua. Chắc chắn, Cha trẻ không sao ngờ được tôi đang nấp trong tủ chỉ cách có hai bước.

Sau bữa cơm Cha già lại gọi tôi ra ăn. Cha chỉ nói vắn tắt với tôi sáng sớm Cha đi Hố Nai bằng xe nhà, tôi cứ việc theo Cha ra xe, ngồi cạnh Cha và đừng nói chuyện gì với người lái xe.


Mờ sáng hôm sau, đúng như lời Cha dặn, chiếc xe La Dalat chờ sẵn ngay trước nhà xứ. Tôi ngồi cạnh Cha già ở băng sau, phía trước thêm một người đàn ông ngồi cạnh tài xế. Chiếc xe rời Giáo xứ Long Giao chạy về Hố Nai êm xuôi. Dọc đường, Cha già lim dim ngủ, không nói với ai tiếng nào tôi cũng im lặng suốt chuyến đi. Chỉ có hai người ngồi trước thỉnh thoảng nói chuyện nhỏ. Cả hai đều không quay lại hỏi tôi một tiếng. Chắc họ cũng được Cha già căn dặn.

Xe dừng lại trước bệnh viện Sao Mai. Tôi xuống xe, định nói vài lời từ giã cha nhưng không sao mở miệng được. Cha từ tốn cầm tay tôi, giọng mệt mỏi chậm chạp:

- Thôi, con đi bình an. Chúa sẽ che chở con.

Tôi biết bây giờ nếu tôi nói bất cứ điều gì, tôi sẽ bật khóc. Tôi chỉ gật đầu chào Cha và quay lưng rảo bước bên lề đường, đi về phía chợ Sặt. Tôi chợt nhớ tôi chưa hề biết tên Cha. Tôi quay lại xe, thở hổn hển. Cha nhìn tôi chờ đợi.

- Thưa Cha, con chưa được biết tên Cha.

Lần đầu tiên, tôi thấy Cha cười:

- Cha tên Trác. Con tên gì?

Tôi nói tên và lần này không sao cầm được nước mắt...


Dương Phục
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jul/2024 lúc 12:20pm

Chuyện Người H.O. Đến Chậm 

Hình minh họa


Tôi vốn là sĩ quan cấp thấp,ở lại đơn vị chiến đấu, ngày đại tang mở đầu cho miền nam, tôi đang phục vụ tại tuyến đầu... Trút bỏ bộ quân phục nhiều ngày với bùn đất mồ hôi, tôi chẳng còn có gì để cho vợ và con thơ đang chờ tôi tại khu gia binh hậu cứ Trung Đoàn. Trên chặng đường dài tìm về hậu cứ, lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi phải ngửa tay xin ăn, xin mặc, nhưng cũng từ hành động này tôi hiểu ra được một cách sâu sắc rằng: người lính Việt Nam Cộng Hòa đã có 1 chỗ đứng nhất định trong lòng đồng bào.Tôi không chỉ nhận được quần áo, nhận được tiền bạc để làm lộ phí, được ăn bữa cơm ấm áp tình người mà còn có cả lời vỗ về, an ủi.


Lần mò về đến khu Trại gia binh hậu cứ, một quang cảnh hiện ra trước mắt tôi, toàn bộ những dãy nhà đã đổ nát, cháy, còn trơ lại một ít cây cột sắt. Đứng bên cạnh hàng rào kẽm gai, lòng tôi quăn thắt: “Trời ơi, sao lại thế này!” Tôi buột miệng thốt lên: “Chẳng lẽ lại đánh nhau ở đây hay sao?” 

- Chú đứng ở đây làm gì? Coi chừng bị bắt đó! 

Tôi giật mình quay lại, một bà mẹ đứng bên cạnh tôi với cái túi đệm trên tay, chiếc khăn rằn trên cổ, miệng nhai trầu bỏm bẻm, mái tóc đã bạc khô.

- Cháu ở mặt trận về, tìm vợ và cháu nhỏ, trước ở trong này....

- Thôi đi với dì. 

Bà kéo nhẹ tay áo tôi: 

- Dì nói cho con nghe. Đánh nhau ở đây lớn lắm, ông chỉ huy không chịu đầu hàng, nên họ trả thù... Không còn ai sống sót.

Tôi vội hỏi:

- Họ giết cả đàn bà và trẻ con?

- Dì không thấy, nhưng rất nhiều người đã nói vậy, nhưng chú nên hỏi thăm bà con của chú xem, biết đâu! 

Dì nhắc lại: 

- Đừng luẩn quẩn ở đây, nó bắt đó!

Từ giã bà mẹ, tôi đành đi lang thang, tìm đến những chỗ quen hỏi thăm. Không ai cho tôi câu trả lời hy vọng, tôi hỏi thăm về chỗ chôn người chết, câu trả lời khuyên tôi: “Chú chẳng tìm thấy gì đâu! Nguy hiểm”. 

Đất nước đã được giải phóng, chiến tranh đã chấm dứt, người dân không tìm được sự vui mừng; sợ sệt và lo âu căng thẳng trong cuộc sống của mỗi con người. Nhưng tôi biết phải đi đâu? Chỉ còn ở tiểu thị trấn này may ra còn có tin tức về gia đình.

Rồi một đêm của tháng năm, như thường lệ, tôi nằm gối đầu lên thềm nhà của một căn phố tìm giấc ngủ qua đêm, chợt có tiếng súng nổ, có tiếng rượt đuổi, hò hét... rồi có những bóng người chạy vượt qua chỗ tôi nằm... Tôi vừa mới ngồi dậy tựa lưng vào tường thì một đầu mũi súng lạnh ngắt dí vào mặt tôi:

- Đồng chí, bắt được nó rồi, phản động.

Chưa kịp nhìn rõ mặt người nói thì nhận một báng súng giáng vào đầu, tôi ngã xuống hôn mê...

Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên một nền gạch trong một căn phòng trống trơn, cửa đóng kín bưng với một ngọn đèn vàng ệch trên đầu, tay chân tôi bị trói bằng dây điện, máu dồn thâm tím với sự nhức nhối không sao tưởng tượng được. Tôi vào cuộc từ ngày đó, để gặp lại những người cùng màu cờ, màu áo ngày nào,khác chăng chút đỉnh là để tôi có dịp nói: Tôi bị bắt với tội phản động, chống lại chính quyền Cách mạng 30/4. Còn tại sao họ không xử tử hình tôi, tại sao họ lại nhập chung tôi với những người trình diện thì tôi không hiểu.” Chỉ mang máng nhớ lại lời của cán bộ quản giáo chấp cung: Đó là chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng sau khi tôi bị hành hạ, tra tấn suốt mấy ngày đêm. Rồi tôi cũng được còng tay đưa ra miền Bắc, người cán bộ cộng sản nói rằng: để tạo điều kiện thuận lợi giúp các anh cải tạo tốt sớm về sum họp với gia đình! Tôi không nhận thư, không nhận quà, tôi vô sản 100% .


Vốn mồ côi từ bé, chú tôi thương tình đem về nuôi cho tôi đi học và cũng để chăm sóc các em. Cũng may, tôi có chút đỉnh thông minh nên qua được bậc Trung Học, có được bằngTúTài đ sau đó động viên thành Sĩ Quan QLVNCH. Trước năm 1975, chú tôi mất, cuộc chiến nơi chỗ chú tôi ở trở nên ác liệt, và tại chiến trường hầu như không có dịp để nghỉ ngơi, nên tôi không làm sao có thì giờ về thăm thím và các em; giờ đây tôi hiểu, thím tôi đang gặp khó khăn biết chừng nào. Trong lý lịch, nơi địa chỉ khai báo, tôi không biết chọn ở đâu, nên ghi đại địa chỉ nhà thím tôi mà đã từ lâu không liên lạc...


Trong nhà tù, hằng tháng có lệnh cho viết thư, tôi thèm nhận một lá thư nên thỉnh thoảng viết về địa chỉ của thím nhưng tôi chẳng nhận gì. Cuộc sống là một nỗi buồn mênh mang... Con người là một sinh vật sống dai, tôi chờ đợi cái chết đến mà nó không đến. Ngày ngày tôi mấn mó đến các xương sườn, nhổ từng sợi râu cằm, đi lao động, tôi để ý nhặt nhạnh cọng rau, que củi, chú nhái xấu số chậm chân. Chịu khó một chút, ngày được phép nấu nướng, tôi cũng có một chút gì của anh em may mắn có gia đình thăm nuôi chia xẻ để thưởng thức hương vị mỡ màng...

7 năm, tôi được thả ra, anh em đồng cảnh an ủi: “Đừng buồn, âu cũng là số phận. Nhưng thà như vậy còn hơn vợ bỏ đi lấy nón cối, dép râu... làm sao lại có thể nằm ngửa để cho thằng Việt Cộng cưỡi lên người! Hừ đúng là đổi đời!”

Tôi lặn lội về quê, bộ áo tù, lần nữa đã giúp tôi về đến nhà: “Chú mơi” ra hả, trước ở đơn vị nào, chà, cấp úy mà cũng bị đến 7 năm... Cầm lấy chút đỉnh đi đường”. Trên chiếc xe đò, tôi trở thành khách danh dự: không phải trả tiền xe, được mời ăn bánh, mời hút thuốc, và khi nghe tôi nói về hoàn cảnh của mình thì đã có người rướm lệ, nhưng cũng có người kề tai tôi nói nhỏ: Chú khổ trong tù, nhưng chú có biết còn có nhiều người còn khổ hơn chú kể từ lúc mấy chú ra đi!” 

Tôi chỉ ở nhà thím tôi được 5 ngày, xã chứng nhận tôi đã về đến nơi trình diện. Nhưng để quản lý chắc ăn, họ thu cái giấy ra trại của tôi và chỉ thị cho tôi những điều phải làm hàng ngày trong thời gian quản chế. Làm sao tôi có thể sống được khi gia đình thím tôi quá nghèo, giờ đây lại còn cưu mang thêm một miệng ăn, tôi lại chẳng có việc gì để làm ra tiền, ngoại trừ phải lao đng xã hội chủ nghĩa. Nhớ lời một thằng bạn, trước cùng ở chung đơn vị, tình cờ gặp lại nó ở Sài Gòn lúc tìm xe về địa phương. “Nếu kẹt, quay lên đây, sống đại tới đâu thì tới. Thí mạng cùi...” Sài Gòn, thằng bạn đã bao bọc tôi, tháng tháng đóng tiền cho thằng công an khu vực, tôi sống với đủ thứ nghề để sau cùng chọn đạp xích lô tiện hơn làm phụ hồ, khuân vác...quên đời bằng những bữa nhậu vỉa hè với đế thật cay, mặc cho tương lai và cũng mặc cho thế sự... Sài Gòn, chỗ nào cũng nói vượt biên, tôi nghe cũng chỉ để mà nghe, vượt biên được tính bằng cây, bằng chỉ, tôi làm sao có thể đi được!!


Năm 1988, phải gọi là năm của Tù Cải Tạo.Do tình hình của khối Xã Hội Chủ Nghĩa bị khủng hoảng, Liên Xô đang lo cứu nguy nền kinh tế đang bị kiệt quệ của mình, không thể mở rộng vòng tay cho đàn em như ngày nào, nên buộc lòng Việt Cộng phải tự cứu mình. Cần có đô la, cần tấm lòng của tên đế quốc... Cần ve vuốt khối người di tản hồi tháng 4/75, nên quyết định thả đại tù. Báo chí, truyền thanh, truyền hình dấy lên một phong trào đón tiếp rầm rộ... những ông HO đã trở về, những ông HO sẽ được Mỹ đón sang Mỹ, những ông HO sẽ được cấp nhà, cấp xe, lãnh tiền tù..!! Những ông HO giờ đây đã có giá... khiến bọn Việt Cộng phải kêu than: “Tụi nó thời nào cũng sướng hơn mình, đúng là chơi theo kiểu Mỹ... Mai Chí Thọ trùm công an, Ủy viên Bộ Chính Trị hậm hực với đám cựu tù: “Đây là do áp lực mà Đảng quyết định thả các anh ra, còn tôi thì sẽ không bao giờ thả các anh ra”... Giờ đây, những ông cựu tù đã có giá... và từ cái giá này có những câu chuyện tiếp theo thể hiện thế thái nhân tình...


Những mụ sĩ quan sống dựa hơi chồng, ỏng a, ỏng ẹo ngày nào, khi chồng hết thời đi tù đã quên ngay tình nghĩa, chụp lấy thằng nón cối để tìm lại chút uy... hoặc thay vì lăn lộn nuôi con, chọn cách dễ nhất, lấy đại thằng đàn ông nào có thừa tiền bạc, kể cả anh Ba bán hủ tiếu bò kho, kể cả mấy chú em tài xế riêng của chồng, hay lính ma lính kiểng... coi như chồng đã chết rồi... Ông HO trở về, lần nữa vì đàn con, ông HO chấp nhận coi như chuyện đã qua để cùng đi Hoa Kỳ, nếu không thì cũng rất khó vì bà sẽ quy...tại sao không cho tui đi khi tui có hôn thú hẳn hòi... tui thưa lên Công an thành phố!


Đúng là xui tận mạng. Phải biết được đi Mỹ thì chịu khó ở trong tù cho đủ 3 năm với người ta, bày đặt chạy chọt ra sớm, tốn khá vàng, để bây giờ thua thiệt. Hoặc có người còn tiếc: giá mà hồi đó mình khai đại một cái tội nào đó để đi tù thì bây giờ... chà đi Mỹ với danh xưng tị nạn chính trị sau khi ở tù ra nghe nó ngon lành làm sao! Những ông HO không vợ, do hoàn cảnh nào đó, bỗng dưng có những ông mai, bà mối chạy quanh: 5 cây, 10 cây, Honda Dream... nếu chịu lập gia đinh... Thậm chí những ông HO sồn sồn đã cưới được những cô vợ trẻ.. Người dân dưới chế độ Xã Hội Chủ nghĩa chỉ khao khát một điều: tìm một nơi khác để sống, tao chán cái xã hội này quá rồi,cho nên chết sống gì thì cũng tìm cách ra đi. Năm 1990, cụ thể - HO1 ra đi, Mỹ đón thật sự. Nhịp độ càng hối hả, đi cho lẹ kẻo Việt Cộng nó đổi ý thì khốn, ai mà tin chúng được. Ngày ngày, tôi có dịp chở khách chạy ngang qua đường Võ Tánh cũ cạnh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, một trung tâm dịch vụ xuất cảnh đã được thành lập tại đây để thực hiện chính sách nhân đạo của nhà nước Cộng Sản: bóc lột trắng trợn người HO đến đây để làm hồ sơ.Tôi cựu tù nhân những 7 năm thế mà đành chịu...không tiền bạc, tờ giấy ra trại để làm bằng cũng bị thâu thì làm sao để đi. Chẳng lẽ đi rao cái giá tù của mình như một sự mua bán! Tôi không thể làm điều đó được, mặc dù có mấy đứa bạn đề nghị với tôi. Còn tờ hộ khẩu và còn những giấy tờ nào khác của mình làm sao cho có?


Năm, từng năm, 91, 92, 93, 94, tôi đành thua cuộc lắm lúc nói đùa: “Mẹ kiếp, tụi qua Mỹ gởi thơ về than khổ, than cực: làm bồi khách sạn, gác dan, rửa chén, nhặt rau... chứ sướng nỗi gì? Chúng nó nói: “Cày mệt nghỉ mới có nhà, có xe...” Nhưng cũng nhiều lần có dịp chở các ông bà Việt Kiều, cứ xem phong thái của họ: da thịt hồng hào, trắng trẻo, tuy không trát nhiều phấn, không sơn đỏ móng tay nhưng vẫn thấy họ có cái gì đó hơn người nhà giàu ở đây..Cho nên khổ thì khổ, nhưng ít ra cũng hơn sống ở xứ này, lòng tôi có cả sự phân vân lẫn ngậm ngùi thân phận...


Thế rồi, cho đến một hôm, tôi chở một người đàn bà từ chợ Bến Thành về nhà, mãi mê nói chuyện nắng mưa cốt để quên nhọc nhằn theo thói quen, tôi không để ý đến tấm bảng cấm... Công an nhân dân xuất hiện đòi xem giấy tờ.Tôi đành phải khai thật, mình là dân cải tạo qua các trại Bắc Nam, được thả về, nhưng bị mất giấy tờ chứ nếu không thì cũng đi Hoa Kỳ như ai..Rồi tôi sau đó áp dụng nguyên tắc đầu tiên: Nói nhỏ vừa đủ nghe: Xin chú cầm chút đỉnh uống cà phê”... Người đàn bà lúc đầu thấy xe bị chận lại có phần bực mình, nhưng khi nghe tôi kể về lý lịch của mình thì thay đổi thái độ nói xen vào: Thôi mà các chú, chú ấy tù lâu, lại không có gia đình, tha cho chú ấy đi”... Và tôi như mọi lần với kỹ thuật nghề nghiệp, cặp tờ giấy bạc trong hai ngón tay, hơi chồm người về phía trước che khuất người đàn bà. Công an nhân dân cũng rất kỹ thuật đón lấy tờ giấy bạc kèm theo câu: “Thôi tha cho lần này, lần sau mà tái phạm thì... tôi vội vàng nhảy lên xe... Đến nhà, người đàn bà xuống xe, trong khi trả tiền đã hỏi tôi: 

- Anh có muốn đi Mỹ không?

Tôi thành thật trả lời: 

- Cũng không rõ là muốn hay không... nhưng dù sao đi Mỹ cũng là điều hấp dẫn. Có điều tôi không đủ khả năng để chạy giấy tờ, khá tốn kém. 

Người đàn bà mời tôi vào nhà, mời tôi uống nước và trong câu chuyện đã khéo léo điều tra về lý lịch của tôi, sau đó nói với tôi: 

- Nếu anh thực sự là sĩ quan đi cải tạo về, nếu muốn đi Hoa Kỳ thì tôi có cách giúp anh. Hãy suy nghĩ thật kỹ, nếu có quyết định thì tuần tới cũng vào giờ này, anh quay trở lại. Tôi tên là Mai, thôi chào anh, chúc anh khỏe mạnh.

Tôi ra xe, ghi nhớ số nhà, ghi nhớ khuôn mặt, vóc dáng người đàn bà. Con người có thể tin cậy được qua lời nói và cử chỉ, tôi chợt nhớ đến lời chú tôi: “Những ai khi nói chuyn với người khác nhìn thẳng vào mắt hầu hết đều trung thực”. Người đàn bà này đã có đặc điểm đó, tiếng nói trong và ấm, khỏe mạnh và duyên dáng.

Tôi chợt nghĩ: hay giờ đây lại đến lượt mình. Trong khi chờ đợi đến ngày hẹn, những lúc gác xe dưới tàng cây nằm nghĩ lấy sức, tôi có những giấc mơ được ôm ấp một thân thể, được yêu, được vỗ về, có một mái nhà, có bữa cơm gia đình. Và buồn cười là tôi bắt đầu săn sóc mái tóc mà đã từ lâu tôi quên nó, tôi nặn mụt trên mặt, chịu khó đánh răng, cạo râu, và tìm kiếm nụ cười sao cho tươi tắn một chút trong tấm gương con.

Đến ngày hẹn, chọn bộ quần áo lao động sạch sẽ, mượn thằng bạn chiếc xe Honda. Lần đầu tiên nó ngạc nhiên khi thấy tôi “sạch sẽ hơn bao giờ. Tôi đã ngắm nghía nhiều lần trước tấm gương, mỉm cười tự tin:Ta là dân HO thứ thiệt 100% được thì chơi tới, không thì thôi, có thiệt gì đâu mà ngại! Nói thì nói thế, nhưng trong lòng sao vẫn rộn ràng như đang làm một cuộc hẹn hò yêu đương của thời mới lớn.

Tôi vừa dừng xe, thì nàng đã xuất hiện ở cửa, trông nàng thật tươi mát trong bộ quần áo lụa màu xanh, má hồng... Và tôi nghĩ rằng nàng cũng ngạc nhiên về tôi. Anh chàng xích lô này cũng không đến nổi quá tệ.

- Anh đến thật đúng giờ.Trông anh đêm nay khác nhiều. Anh hãy đẩy xe vào trong nhà kẻo không yên tâm khi nói chuyện. Hôm trước, nhà đối diện với chúng tôi, chỉ sơ ý một chút đã bị lấy mất. Sài Gòn bây giờ quá lộng.

- Dù sao thì tôi cũng là dân nhà binh và tôi lại có cái thói quen: không được phép trễ đối với lời hẹn của mấy bà. Tôi không đề cập gì đến chuyện xe cộ, mùi nước hoa thoảng nhẹ qua mũi tôi, trông nàng thật quyến rũ.

- Mấy ông galant quá trời, bồ bịch chắc dữ lắm... Mời anh ngồi.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế salon, nàng ngồi đối diện, bộ ghế màu tím sậm, một vài chỗ đã sờn theo thời gian, gian nhà trông sạch sẽ và ngăn nắp.

- Anh dùng nước đá chanh, gia đình tôi không có ai uống trà và rượu.

- Cám ơn chị, tôi chỉ thích uống rượu đế thật cay vào buổi tối để quên đời, ngoài ra thì cái gì cũng quí cả.

Nàng nhìn tôi, sửa lại ghế ngồi, đắn đo một giây, nàng nói:

- Tôi nghĩ rằng anh không tránh khỏi nghĩ ngợi về cuộc gặp gỡ này. Nhưng bây giờ là lúc tôi nói với anh thật đứng đắn về việc anh muốn đi Mỹ theo diện HO. Anh đã nói thành thật về lý lịch của anh nên tôi biết rõ, ngoài cái tên mà anh đã cho tôi hôm trước Mai Quang Thông, tôi còn biết anh sinh năm 1947 ở Mỹ Tho, anh học trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, anh vào Thủ Đức, đi tù với tội danh bị bắt vì chống phá chánh quyền cách mạng. Như vậy, về căn bản, anh đủ điều kiện đi Mỹ, vấn đề còn lại chỉ là thủ tục.

Tôi tiếp lời nàng:

- Chị Mai, với tôi vấn đề là thủ tục.

- Anh Thông, tôi có khả năng lo liệu vấn đề này.

- Xin chị nói cho tôi biết tôi phải làm gì? điều kiện?

- Anh Thông, tôi muốn được đi ra nước ngoài, tôi là quả phụ, chồng tôi cũng là sĩ quan, anh tử trận ở An Lộc năm 1973. Tôi có 2 con, một gái một trai. Tôi không muốn chúng lớn lên ở cái xứ sở này để trở thành công dân xã hội chủ nghĩa quen thói nói dối, tàn nhẫn và lừa lọc, nói khác đi không có tương lai.

Nàng đứng dậy:

- Xin mời anh theo tôi để tôi chỉ cho anh xem nhà tôi và các con tôi.

Sau tấm bình phong,trên chiếc tủ thấp, nơi thờ phượng chồng nàng. Một tấm ảnh lớn, sĩ quan cấp tá QĐVNCH còn rất trẻ, với nhiều huy chương. 

- Còn đây là ảnh gia đình. Anh ấy, tôi và các con khi đi chơi sở thú lúc anh về phép.

Tôi muốn tìm thấy một sự so sánh giữa con người mặc quân phục và con người mặc thường phục.Tôi quay lại, cặp mắt người sĩ quan nhìn tôi đăm đăm, tôi có cảm giác con người đó đang trao cho tôi một nhiệm vụ.

- Nhà này đứng tên mẹ tôi, nhưng chính là nhà của chúng tôi, cũng may chứ nếu không thì rắc rối. Mẹ tôi ở với chị tôi trên lầu, còn tôi ở dưới này với các con. Xin mời anh trở lại phòng khách để chúng ta có thể bàn thêm....

- Anh Thông!

Khuôn mặt nàng toát lên một sự nghiêm nghị, hơi chồm người về phía trước, nàng nói:

- Điều kiện còn lại quan trọng nhất để chúng tôi và anh đi là tờ hôn thú. Anh lập gia đình với tôi. Tôi sẽ lo liệu tất cả mọi thủ tục xuất cảnh, xin anh cho biết ý kiến của anh như thế nào?

Tôi không tránh khỏi bối rối. Vợ chồng trên danh nghĩa hay vợ chồng thủ tục, thật khó cho tôi để có thể hỏi nàng về điểm này:

- Chị Mai, tôi không có điều kiện gì cả. Vấn đề tôi ở đây hay đi Hoa Kỳ cũng chẳng có gì lớn lao cho bản thân tôi. Tôi không có cha mẹ, vợ con và tôi không tìm thấy được một tin tức nào để kết luận là sống hay chết từ sau tháng 4/75 mặc dù tôi đã để tâm tìm kiếm khắp nơi. Hiện tại tôi sống lang bang. Nhưng tôi vẫn là chiến hữu trong đại gia đình Quân Đội, những gì chị muốn, tôi sẽ làm không có gì trở ngại vì đó cũng là bổn phận mà thôi. Tôi nói không một chút dối lòng, nàng không tránh được xúc động, một lúc sau nàng nói:

- Anh Thông, cám ơn anh, nhưng Mai đề nghị anh nên suy nghĩ cho thật kỹ. Điều kiện rất hệ trọng đến cuộc sống của anh. Mai rất cảm kích trước tấm lòng của anh. Đối với chính phủ Hoa Kỳ, tờ hôn thú sẽ ràng buộc trách nhiệm với nhau khi sang bên đó. Nhất là, tôi sợ anh sẽ bị mặc cảm: tôi dùng tiền bạc mua anh.

- Ch Mai, không ai có thể mua tôi đưc. Đời dạy cho tôi nhiều thứ, cuộc sống quân ngũ dạy cho tôi nhiều thứ. Tôi cũng chẳng có gì để mất, tất cả tùy thuộc ở chị.

- Anh nghĩ gì khi ký tên vào tờ hôn thú, điểm quan trọng? 

- Tất cả tùy thuộc vào trái tim, hãy để nó quyết định, trước mắt là sự tin cậy ở nhau.

- Cám ơn anh! 

Nàng mỉm cười tinh nghịch: 

- Tuần sau xin mời anh đến, tôi sẽ lo xong giấy ra trại cho anh.

Đưa tôi ra tận đường, bắt tay tôi, cái siết tay ấm áp tin cậy. Đã lâu rồi tôi sống trong cảm giác nguội lạnh, giờ đây tôi cảm thấy có một cái gì đó nao nao trong lòng... Hôm nay nắng Sài Gòn như rực rỡ hơn, cuộc sống không đến nỗi quá tồi để hiểu nhau và chia xẻ dành cho những con người Ngụy bị chính quyền cộng sản coi như kẻ thù. Tôi chạy xe lòng vòng trên các con đường quen thuộc.

Cặp mắt người sĩ quan chồng nàng trong tấm ảnh vẫn theo tôi. Những ngày còn lại trong tuần, tôi rơi vào một sự mệt mỏi, chán nản, mỗi khi đẩy chiếc xe ra đường. Tôi trầm tư đến độ có mấy lần suýt xảy ra tai nạn, nhưng trong tâm tưởng tôi hiểu rằng cuộc sống tôi sẽ đổi thay.

Đúng hẹn, tôi lại đến, vẫn quần áo lao động tươm tất, nhưng tôi không mượn được xe Honda, thong dong với chiếc xe Cyclo của mình, trái tim tôi rộn ràng và ấm áp tôi đến nhà nàng. Nàng đón tôi, với nụ cười tươi tắn, hình như nàng không chú ý gì đến chiếc xe Cyclo mà nàng đang phủ lên con người tôi đôi mắt trìu mến, dịu dàng tha thiết.

Vừa ngồi xuống ghế, nàng đã trao cho tôi tờ giấy ra trại, nàng nhắc tôi:

- Anh hãy xem kỹ có gì sai về lý lịch không?

Tờ giấy quái ác này, màu giấy vàng nhợt nhạt trả cái giá 7 năm cũng chưa xong. Sau đó tôi cầm đọc qua với ý nghĩ trong đầu.

- Không có gì sai, chị làm nhanh thật.

Một cái nhếch mép thật gợi cảm của nàng:

- Xứ sở này mà anh. Nhanh hay chậm tùy thuộc tất cả vào điều kiện “ĐẦU TIÊN” của hệ thống hành chánh XHCN, của tập trung đỉnh cao trí tuệ. 

Hôm nay, thì xin mời anh ở lại dùng cơm, tôi sẽ giới thiệu Mẹ tôi, Chị tôi cùng hai cháu với anh. Ít hôm nữa chúng ta sẽ ký tờ hôn thú. Anh còn nhiều thì giờ để rút lui nếu anh không muốn đi xa hơn.

Tôi bày tỏ nỗi ưu tư của mình:

- Hình như sẽ không nhanh đâu, vì còn phải có TV của Mỹ nữa thì mới được xét, có người cho tôi biết sẽ mất nhiều ngày giờ. 

- Tôi có thể lo liệu được. Thưa anh, nếu không thì tôi không đặt thành vấn đề. Như anh nói, chúng ta còn phải đối phó với thời gian, nhưng chỗ mà tôi đang chạy không phải ở đây mà tận ngoài Hà Nội, và đã có kết quả trước đây với một số người. Sau khi chúng ta lập hôn thú, anh có thể về đây ở với chúng tôi nếu anh muốn. Anh cần phải được nghỉ ngơi, học Anh văn để có thể sớm thích nghi khi đến nơi... Chúng ta đi muộn cho nên mọi thứ đều phải chuẩn bị trước. Anh đã ở tù, chắc anh sẽ không chê tôi lo cho anh bữa ăn hàng ngày đạm bạc, anh thấy thế nào?Xin anh hãy thẳng thắn với nhau.

- Tôi thực sự chưa nghĩ đến điều này. Từ rất lâu, tôi sống cô độc, con người tôi chưa nhận được một sự chăm sóc nào từ sau ngày cộng sản chiếm miền Nam, nhưng không biết có bất tiện cho chị không?

Nàng lập lại với nụ cười và cái nhìn hóm hỉnh:

- Thưa anh, không có gì bất tiện. Tôi cần ra đi, tôi cần tương lai cho các cháu, tôi cần anh giúp đỡ. Tôi phải có bổn phận lo cho anh trong cuộc sống hàng ngày. Nhà có căn phòng riêng cho anh... Còn chuyện vợ chồng là chuyện của trái tim, hãy đợi cho nó chín mùi!

Ngày tháng trôi đi thật nhanh, tôi có một chỗ đi về mỗi ngày, tôi có cặp mắt trìu mến của người mẹ, tôi có tiếng cười hồn nhiên của các con nàng, chúng thông minh và lễ phép, tối có ánh đèn đêm ấm cúng của một gia đình quây quần bên nhau kể về kỷ niệm xa xưa... Tôi có những giờ phút cùng nàng học Anh văn sửa giọng cho nhau và tôi không đến nỗi tồi để làm cho các cháu phục tôi khi giúp chúng giải các bài toán khó. Một người đàn ông trong gia đình, luôn có chỗ đứng cần thiết cho họ. Những năm tháng khổ cực của tuổi học trò, cuộc sống phong sương, lửa đạn chiến trường, cuộc sống lao tù... Trong bể hạnh phúc, tôi trở thành người bảo vệ trước tiên cho chính mình. Mỗi ngày, nàng có một số thì giờ phụ bán hàng cho chị của nàng trong chợ Bến Thành, tôi đưa nàng đi, đón nàng về, đón các cháu đi học. Thì giờ còn lại tôi học Anh văn, để tối đến tôi hướng dẫn cho nàng và hai cháu.

Sài Gòn, những đêm mưa, tôi không sao ngủ được. Cuộc sống con người không chỉ có ăn, có mặc, có đọc sách. Cuộc sống con người cần phải có tình yêu. Tôi thường đứng bên cửa sổ nhìn mưa trên hè phố, có lúc tôi áp mặt vào song sắt để hứng lấy tơ mưa mát dịu. Trong một mái nhà, ngày ngày gặp nhau, cung cách cư xử của Mai không cho phép tôi có cơ hội để bày tỏ nỗi lòng của mình. Nàng trong sáng quá, tôi chỉ sợ niềm hạnh phúc hiện tại sẽ mong manh nếu tôi không gìn giữ được ở chính mình. Hãy để cho trái tim chín mùi...bằng chờ đợi. Tôi thường nhắc cho mình như một điệp khúc. Rồi ngày phỏng vấn đã đến. Đó là một ngày quan trọng nhất đối với chúng tôi. Nếu Mỹ bác thì coi như công cốc xây dựng mọi thứ cả năm dài. Chúng tôi duyệt lại mọi chi tiết về hồ sơ, nàng mang theo những giấy tờ và hình ảnh của chồng nàng. ..Tôi thực sự lo lắng ưu tư hơn nàng. Vì nếu không được cùng đi thì đây là một mất mát to lớn cho chính tôi vì tôi đã yêu nàng và tôi cần có nàng.

Trông thấy tôi lo ngại, nàng đã đặt tay lên cánh tay tôi, nhìn tôi âu yếm:

- Anh Thông, Mai tin mọi sự sẽ thành...

Sau đó nàng cười: 

- Còn nếu không, thì anh cũng chẳng có gì để thua thiệt. Tôi chợt nổi nóng, chụp lấy vai nàng, tôi nhấn mạnh:

- Mai, nếu không đi được thì đây là nỗi bất hạnh của cuộc sống còn lại của anh. Anh yêu em, yêu thật tình, em biết không? Anh muốn chúng ta thực sự là vợ chồng sống cho nhau! 

Nghe tôi nói, nước mắt nàng trào ra, nàng thì thầm: 

- Em hiểu, nhưng anh có thương các con không? 

Tôi cùng nàng quay lại, hai đứa nhỏ, chúng nó đang nhìn chúng tôi. Tôi quì xuống ôm chúng trong đôi tay của mình: 

- Các con biết không, chúng ta là một.

... Tiếng loa gọi tên chúng tôi lên phòng phỏng vấn. Chúng tôi nắm tay nhau chan hòa hạnh phúc. Trong căn phòng nhỏ, chỉ có người Mỹ và 1 thông dịch viên. Chúng tôi lập lại lời thề nói sự thật, nhưng lúc đó tôi lại nghĩ rằng: Sự thật lớn nhất với tôi là được yêu nàng. Không có các câu hỏi truy vấn, điều chú ý duy nhất là tờ hôn thú mới lập, nhưng rồi cũng đi qua. Tôi là sĩ quan chiến đấu ở mặt trận, nàng là quả phụ, được ra đi cũng là lẽ đương nhiên.

Niềm vui đến với cả nhà, chiều hôm đó chúng tôi cùng đi viếng mộ chồng nàng, khi nàng đặt bó hoa, đĩa trái cây bánh mứt và thp hương cùng các con khấn nguyện. Tôi giật chân đứng theo thế nghiêm đưa tay chào kính: “Thưa anh, tôi hứa sẽ lo cho Mai và các cháu trong phần đời còn lại của tôi”. Sau đó, tôi đi tản bộ ra đường, tôi muốn để mẹ con nàng có thì giờ riêng tư với người đã mất. Trở về nhà, nàng làm mâm cơm cúng chồng. Góa phụ 3 năm có quyền tái giá, nàng là góa phụ của nhiều năm, tôi nghĩ chồng nàng sẽ cảm thông chấp nhận. Buổi tối, sau khi tiễn khách thân thuộc ra về, nàng đề nghị tôi đưa nàng ra công viên, lần đầu tiên tôi có cái hạnh phúc đón nhận một vòng tay trên chiếc xe Honda, lần đầu tiên tôi có cảm giác ấm áp rạo rực khi nàng áp mái đầu vào lưng tôi... Thành phố Sài Gòn, với những con đường quen thuộc, hôm nay sao đẹp bội phần, tôi muốn đi khắp các con đường mà tôi đã trải qua trong nhiều năm tháng trước đây với nỗi buồn mênh mang, với nỗi mệt mỏi không rời đằng sau càng lái của chiếc xe Cyclo...

Sau khi gởi xe Honda, chúng tôi nắm lấy tay nhau đi chậm chậm trong công viên. Mai thì thầm: 

- Anh ơi! Đã lâu lắm rồi, em mới được sống lại cái hạnh phúc đi cùng một người đàn ông trong công viên. Em cứ nghĩ em sẽ ở như vậy suốt đời để lo cho con nếu không tìm được cách nào đó để ra đi.

- Em không có lần nào tính vượt biên sao? Vượt biên trước đây nó như là một cái dịch kia mà. 

- Em có thử hai lần, tốn cũng không ít nhưng không thành, bạn em mất tích; một chuyến đi bị hải tặc, nghe nói lại đủ nổi da gà... Thế giới này sao lắm sự tàn ác. Từ đó, em cho là số phận đã an bài.

Bóng đêm nho nhỏ, đèn đường nhấp nháy lẫn khuất sau các khóm cây. Trên ghế đá công viên, những cặp tình nhân đang âu yếm, có tiếng thì thầm, xuýt xoa, có âm thanh của nụ hôn kéo dài, có tiếng cười rúc rích... Tôi vòng tay qua thân hình Mai siết nhẹ, tôi hôn mái tóc nàng với tất cả nỗi khao khát dồn nén từ lâu.

 Mai chợt hỏi tôi:

- Anh Thông, anh nghĩ gì về tương lai?

- Anh không nghĩ gì cả, điều anh nghĩ là em. Anh yêu em, anh muốn cả hai chúng ta tan biến vào nhau. Còn em?

- Em! Em nghĩ về tương lai nhiều hơn hiện tại. Có thể vì em là người mẹ chăng? Em biết ơn anh đã chấp nhận các đề nghị của em giúp mẹ con em được ra đi mà không đặt ra điều kiện nào cả. Chính điều đó đã tác động đến tình cảm của em, nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả, là anh đã tôn trọng em, không đòi hỏi ở em nhu cầu thể xác. Anh có tư cách hơn những người đàn ông khác mà em đã được bạn bè có hoàn cảnh giống em kể lại, chính vì vậy mà em yêu anh! 

- Ồ, em của anh, Mai em có biết là có nhiều đêm anh như con thú bị nhốt trong chuồng không? Anh đi quanh quẩn trong phòng. Anh thèm ly rượu đế để say cho quên đời, anh thèm điếu thuốc lá nóng bỏng đôi môi. Anh muốn hét lên cho vơi nỗi ấm ức... Anh muốn đến phòng em, tông cửa vào để được ôm em, làm tình với em, bất cần mọi sự, nhất là những đêm mưa, anh rất khổ, nhưng rồi không hiểu tại sao cuối cùng anh vẫn kềm chế được để con khao khát đi qua...Có lẽ trong tận cùng của con người anh vẫn còn tính kỷ luật tự chế...

- Em hiểu, nên em phục anh. Nhưng anh của em. Chúng ta vẫn còn có món nợ. Chồng em, anh ấy ngã xuống vì chiến đấu, còn anh, anh bỏ cuộc vì lệnh đầu hàng. Nhưng một đất nước không có hạnh phúc cho đồng bào, không có tương lai cho thế hệ trẻ, một chính quyền trở thành niềm tủi nhục cho người dân. Như chúng ta yêu mến quê hương đến chừng nào mà vẫn buộc lòng rời bỏ cha mẹ, mồ mả để ra đi. Nhưng không lẽ chúng ta chỉ sống cho chúng ta!

Tôi chợt cảm thấy lạnh toát cả người, như có lưỡi dao thọc sâu vào trái tim. Người đàn bà này, có một thời gian dài sống bên nhau ngày ngày tuy chưa trao đổi cho nhau thân xác, lại có một suy nghĩ như vậy. Sự suy nghĩ này lại rất hiếm ở những người đàn ông tôi chung chạ trong cuộc sống bụi đời.

- Ồ em, đời anh có quá nhiều bất hạnh, cuộc sống luôn là sự tàn nhẫn,vùi dập đã khiến anh thành kẻ thụ động. Anh không hề nói ra với bất cứ ai về những gì anh thấy. Anh chứng kiến trước mắt của mình về cái chính quyền quỷ quái này, bởi vì anh không thể làm được gì để thay đổi nó. Trong nhà tù, có lần anh nghe một sĩ quan cao cấp nói rằng: Đừng nghĩ rằng đây là những con cừu mà hãy nghĩ đây là những con sư tử đang ngủ. Khi nó thức dậy sẽ thấy sức mạnh của nó”. Ông nói thế khi nghe một người trong đội mạt sát một người khác về thái độ hèn yếu... Đến nay đã mười mấy năm rồi, vẫn chưa có nhiều con sư tử thức giấc. Anh chỉ sợ rồi đây, những con sư tử sẽ già đi theo năm tháng, không còn đủ sức lực để thức giấc dậy sau giấc ngủ quá dài.

- Anh Thông!

Mai chắn lấy người tôi, hai tay vòng qua cổ tôi, nhìn thật gần vào mắt: 

- Sẽ có cơ hội và chúng ta sẽ cùng bước vào cơ hội đó. Và nếu chúng ta không thực hiện được, thì sẽ dành lại cho các con của chúng ta. Em nhớ ngày xưa chồng em đã nói với em, lúc em cằn nhằn anh ấy không chịu chiều em ở nhà thêm vài ngày sau khi hết phép: “Em của anh, làm trai nợ nước phải đền, thù nhà phải trả. Ông nội anh đã để mất đất vào tay giặc Pháp, ba anh đã bị Việt Cộng chặt đầu. Hãy ghi nhớ một điều: cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mỗi chúng ta...” Chúng ta sẽ bắt đầu nơi đất mới, em tin là chúng ta sẽ có cơ hội và khả năng để làm được cho dù đó là điều nhỏ nhất.

Mai nói với tôi với đôi mắt long lanh, đầy tin tưởng, và sau đó với một nụ hôn ngọt ngào chủ động kéo dài, nụ hôn đầu tiên từ ngày tôi gặp nàng.

Thật khuya, chúng tôi trở về nhà, trên hè phố co ro những bóng người không nơi nương tựa. Cuộc sống của chính tôi ngày nào, ai chịu trách nhiệm về cuộc sống của người dân như tiêu đề của khẩu hiệu: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, phải xót xa để nghe thấy mỗi ngày. Tôi chạy xe thật chậm bằng một tay, tay còn lại tôi nắm bàn tay của Mai đang vòng qua bụng mình, tôi nói cho chính tôi: “Cuộc sống này không phải chỉ của riêng mình”.

Chúng tôi vào nhà, gian nhà thật yên tĩnh, mọi người đang ngon giấc. Mai đưa tôi vào phòng nàng, căn phòng mà cả một thời gian dài với tôi luôn là vùng cấm địa. Trên chiếc bàn nhỏ, một lọ hoa với hai cánh hoa hồng trắng và đỏ, một chai rượu sâm banh ngâm trong sô nước đá và hai chiếc ly thủy tinh có chân. Chiếc giường ngủ đang mời gọi, tôi ôm lấy nàng siết thật mạnh, tôi hôn nàng với tất cả sự tham lam thèm khát... Nhưng Mai đã khéo léo lách ra khỏi tôi, nàng thì thầm: “Khoan đã anh, để em thấp lên cây đèn cầy, chúng ta hãy uống với nhau ly rượu hợp cẩn, chai rượu này em đã để dành nó từ ngày em lập gia đình. Đêm nay, chúng ta sẽ chính thức bước vào cuộc sống vợ chồng. Tương lai sẽ cắt nghĩa cho anh: em là người đàn bà thế nào! 

Thông dừng câu chuyện, chúng tôi bừng tĩnh, cuộc đời vẫn đẹp sau những năm tháng bị vùi dập, tan nát. Thay mặt cho bạn bè, tôi nâng ly bia: 

- Này các bạn, hãy uống cạn để chúc mừng cho Thông, bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với chị Mai, một người đàn bà tiêu biểu của gia đình quân đội. 

Đặt ly xuống bàn, một người trong chúng tôi đã lên tiếng: 

- Ông bà đã bắt tay làm được việc gì? 

- Cuộc sống mình tuy đến sau nhưng mọi việc đều đi vào ổn định. Mai đã nói với tôi: nàng là người đàn bà như thế nào và nàng đã cắt nghĩa bằng một hành động cụ thể; dành cho tôi một tình yêu nồng thắm của sự đền bù sau nhiều năm tháng mất mát; các con nàng đã có hướng đi đầy triển vọng tại học đường nhờ chuẩn bị đầy đủ vốn liếng Anh ngữ và sự thông minh vốn có. Nàng đã có một cửa hàng, nhưng nàng đã nói: phi thương bất phú, ông bà ta có dạy như vậy, nhưng với em, cửa hàng này với số tiền kiếm được sẽ giúp cho anh rộng chân hoạt động việc chung mà không phải bận tâm đời sống kinh tế... Cho nên, mình đã bước vào cuộc sống chính trị ở đây, làm một cái gì đó cho dù rất nhỏ, nhưng cũng là góp phần vào việc chung... Có khối chuyện để chúng ta tham gia và chia xẻ trong sinh hoạt chính trị của Cộng Đồng mạnh, vô cùng cần thiết cho công cuộc giải trừ bạo quyền cộng sản, bởi vì nó sẽ tác động đến tổ chức chính trị của nước mà chúng ta đang định cư về đường lối và chính sách đối với chính quyền cộng sản. Bởi điều giản dị không phải tự nhiên mà bọn lãnh đạo cộng sản thay đổi thái độ đối với khối người Việt di tản, tị nạn bỏ nước ra đi. Chúng cần đô la từ khối tình cảm quê hương của chúng ta, chúng cần chất xám, khoa học kỹ thuật. Chúng cần chúng ta để yên cho chúng tác oai tác quái trên thân thể đất nước và dân tộc... Nếu mỗi người cùng có quyết tâm, cùng dấn thân, thì chúng ta sẽ có được sức mạnh cần thiết, sẽ lôi cuốn được thêm nhiều người... Tôi đã gặp một số anh em, họ nói: mình cảm thấy ngường ngượng khi có mặt trong một tổ chức...cho nên vấn đề không hẳn cứ đổ lỗi cho việc sinh kế, không có thì giờ...Tóm lại, xin các bạn thông cảm cho mình để mình được phép nhắc lại một câu nói của một bậc đàn anh mà mình đã gặp: “Chỉ có sự mình tước bỏ cái danh vị Chiến sĩ của mình... chứ không ai có quyền bắt ta phải bỏ ngũ”.

Phạm Hoài Hương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jul/2024 lúc 9:45am

Di Cư 1954 


Ngày này cách đây 70 năm, gia đình tôi chuẩn bị di cư vào Nam. Hồi đó nhà tôi ở Đồng Hới, di cư bằng máy bay chứ không đi tàu há mồm như những người ở miền Bắc.

Trong trí nhớ của tôi, chẳng có một hình ảnh nào của chuyến bay đó vì lúc đấy tôi còn nhỏ, chỉ mới có mấy tuổi. Bay vào Quảng Trị, sau đó vào Huế rồi vào Đà Nẵng ở đó mấy chục năm.

Hồi mới lớn, tôi thấy trong tủ sách của Ba tôi có một tờ báo với một bài phóng sự của một phóng viên người Pháp, trong đó có một đoạn phỏng vấn ba tôi kèm hình chụp gia đình tôi cạnh chiếc phi cơ. Ba tôi mặc veste trắng, anh tôi và tôi đội chiếc mũ phớt, mặc áo khoác màu sáng. Mẹ tôi mặc áo dài và chị tôi mặc đầm chân mang sandale. Hình ảnh đó chứng tỏ chuyến đi được chuẩn bị rất chu đáo chứ không có gì gấp gáp.

Tôi nhớ trong ảnh mặt tôi ngu ngơ lắm, hình như là ngạc nhiên trước khung cảnh mới và chưa hết ngỡ ngàng vì lần đầu tiên được đi phi cơ. Lúc này gia đình tôi chỉ có 5 người gồm ba mạ và anh Hai, chị tôi và tôi. Đến năm 1972 có đến 10 người con không kể 4 người đã mất. Sau này nhà tôi chuyển nhà cũng là lúc tôi bắt đầu quan tâm đến tờ báo đó thì tôi không tìm thấy nữa. Chắc nó đã thất lạc khi gia đình tôi dọn dẹp để thay đổi chỗ ở.

Tôi rời quê khi tuổi còn bé, ký ức về quê nhà tôi chẳng nhớ rõ. Chỉ nhớ hồi vào ở Huế gần dốc Nam Giao, tôi ngồi trên xe đẩy bị lao xuống dốc giờ vẫn còn vết sẹo trên đầu. Mười mấy năm ở Đà Nẵng, tuổi thơ tôi lớn lên ở đó, nhiều kỷ niệm khắc ghi cũng ở đó, ký ức một thời của lứa tuổi mới lớn cũng đều ở đó nên lắm khi người ta hỏi quê quán, tôi thường trả lời là Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng thời ấy cũng có nhiều người quê Quảng Bình di cư vào. Phần đông là người Công Giáo khu Tam Tòa. Vào Đà Nẵng họ cũng gắn bó nhau và thành lập khu Tam Tòa ở Đà Nẵng.


Theo tư liệu, cuộc di cư 1954 đã có hơn một triệu người vào Nam. Đã có nhiều hình ảnh ghi lại cuộc di cư có một không hai này. Tuy nhiên, rất ít bài viết về việc này ngoài những bài viết của các nhà văn, nhà báo, nhà thơ thể hiện tâm trạng nhớ nhung về nơi chôn nhau cắt rốn mà họ đã lìa xa. Nỗi nhớ đó thành thơ, thành nhạc nhưng thiếu những bài phóng sự ghi lại cuộc di cư đặc biệt này.

Đa số người miền Bắc đều đi vào miền Nam và nhà nước non trẻ của chính phủ Ngô Đình Diệm đã bố trí cho họ vào những khu vực ven đô, một cách để ngăn ngừa sự xâm nhập của những người hoạt động Cộng Sản. Gia Kiệm, Phương Lâm, Biên Hòa...Hố Nai, Xóm Mới, khu Ông Tạ được hình thành trong giai đoạn này. Những người di cư đã mang lại cho miền Nam một luồng không khí mới trong văn học, nghệ thuật cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Ổn định được hơn triệu người di cư trong một thời gian ngắn là công lao của chế độ Đệ nhất Cộng Hòa. Và người di cư đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lãnh vực trong khoảng 20 năm từ 1954 đến 1975. Từ một triệu người, giờ đây con số của các gia đình di cư chắc đã hơn 10 triệu. Sau 1975 họ được gọi là Bắc Kỳ 9 nút để phân biệt với Bắc Kỳ 2 nút là những người miền Bắc vào Nam sau 1975.


Đã 70 năm. Ngày này bây giờ ngoài những gia đình di cư còn nhắc lại với cháu con, báo chí nhà nước không đả động tới. Đất nước đã thống nhất, con sông Bến Hải, cầu Hiền Lương không còn là nhát dao chia cắt. Nhưng sao lòng người vẫn cảm thấy chia xa. Chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:

"Ở xứ chim không di cư, người phải di cư

Lưu vong chính trên mình Tổ quốc".

Lòng bỗng xót xa.


ĐỖ DUY NGỌC



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22418
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 9:35am

Con Tôi 


Thuở ấy, đời lính của tôi nó kéo dài lê thê, “chuyện trăm năm” đôi lúc nó cũng lóe lên trong đêm tối như đóm sáng hỏa châu, rồi buồn tình tắt ngúm ngay sau đó. Mỗi lần về phép, bà cụ cứ càm ràm: “Bộ mày muốn ở vậy suốt đời sao con!” Bà cụ nói hoài, tôi mềm lòng theo lời khuyên của Mẹ. Tôi “sang sông” khoảng tháng 7 năm 1974, không nhớ ngày nào, và sau đó, vào tù cộng sản tháng 5 năm 1975. Nếu biết có ngày oan nghiệt 30 tháng Tư 75, tôi không “sang sông” làm gì cho đau khổ cả chùm.


Sau những năm tháng trong vòng rào kẽm gai của cộng sản, ở tù về, tôi mới có thằng nhóc con ra chào đời; nó ra đời mà không coi ngày. Thằng con tôi là thằng tù con, hay thằng con tù cũng vậy, dưới trời xã hội chủ nghĩa đen thui khi nó theo cha mẹ vô tù sau chuyến vượt biển bất thành. Dường như lúc sinh ra, nó không khóc. Dường như nó chờ và cam chịu phận số theo cha nó.


Ra tù “cải tạo”, tôi hiểu là chế độ này không sống được nếu tôi muốn làm một con người, sống như một con người. Và tôi quyết định ra đi. Tôi không muốn mình bị chế độ “súc vật hóa” như điều cụ nhạc sĩ Tô Hải tiết lộ trong hồi ký của ông mới đây. Tôi ra biển hàng chục lần mà không thoát; gia tài, nhà cửa không cánh mà bay hết vào tay đảng, và tôi đã đưa vợ con, các em tôi vào tù tiếp khi thằng nhóc nhỏ con tôi mới sinh không đầy 3 tháng.

Ra tù vượt biên, tôi lại đi tiếp. Tôi ở thế cùng đường không còn gì để mất, tôi bất chấp từ cái tù đến cái chết, tôi bất chấp mệnh số. Mỗi lần đi là mỗi lần thằng nhóc phải uống Phenergan, loại thuốc trị ho, dị ứng và cũng là thuốc ngủ. Nó ngủ như cọng bún trên vai tôi trong những đêm vượt rừng ra biển... Những lần sau cùng, thằng nhóc lớn dần, 3 tuổi, nó biết làm thinh khi vượt rừng ra biển ban đêm mà không cần uống thuốc ngủ. Thế nhưng, mỗi lần đi không thoát, bầu đoàn thê tử lội rừng phờ phạc trở về, thằng bé xuống xe “lam” chạy một mạch trên con đường ruộng vào nhà ông ngoại ở Phú Lâm, cách Phan Thiết khoảng 6 cây số về hướng Sài Gòn. Có người hỏi “con đi đâu về vậy?” thì nó nói tỉnh bơ: “Dạ con đi vượt biên!” Ông ngoại và mấy dì nó lại mừng vì không mất thằng nhóc. Hàng xóm chả ai thắc mắc, chả ai báo công an vì lời nói của thằng bé…


Rồi cũng tưởng như mọi lần trước đi xuyên rừng, hôm sau lại thất thểu trở về, nhưng hôm nay cả nhà sốt ruột không thấy thằng nhóc chạy trên bờ ruộng như mấy lần trước, chờ đến chiều vẫn biệt tăm, ông ngoại và mấy bà dì tất tả mò xuống xóm biển gần Bình Tú, phía Nam phi trường Phan Thiết, dò hỏi tin tức; bà con cho biết khi hôm có mấy người dùng súng cướp ghe phóng ra biển…

Ông cụ thất thần nhìn ra biển rộng mênh mông. Biển xanh biền biệt thấp thoáng bóng chim hải âu. Ông biết thằng rễ, con gái và cháu ông đã thoát được ra biển thật. Dường như hai dòng nước mắt ông ứa ra. Con ông và thằng cháu ông thương đứt ruột đã biến mất ở cuối chân trời.

Ông lặng lẽ về nhà, buổi chiều bỏ cơm, tối nhìn xuyên đêm đen về hướng đại dương sóng vỗ… Lòng ông chùng xuống, âu lo. Ông thức với ác mộng, ông ngủ với ác mộng. Công an biên phòng săn đuổi, bão tố, hải tặc, chìm ghe... cái nào cũng có thể giết chết con cháu ông như cơn lốc lặt gọn những chiếc lá trên cành cuối thu.

Mỗi đêm, ông ra sân thắp nhang, đứng giữa trời sao lồng lộng, hướng về đại dương khấn nguyện. Ông cầu xin một chút nhiệm mầu mong manh…


Cuối cùng thì tôi cũng đem vợ con thoát được qua Pulau Bidong trên một chiếc thuyền con lớn hơn chiếc ghe câu của cụ Nguyễn Khuyến một chút, tay lái ghe là một cây đòn, chỉ cần một cơn bão nhỏ cũng đủ chôn cả đám vào lòng biển! Tôi không biết là đời mình chưa tới số, Chúa, Phật chưa kêu tên, hay nhờ lời nguyện cầu của ông cụ, hay chính đời mình đã hết cái số khốn nhục dưới trời xã hội chủ nghĩa giăng giăng màu cờ đỏ trên khắp nước…


Vào giữa tháng 5/1980, bước chân lên đảo Pulau Bidong đầy nghẹt người tỵ nạn cộng sản đến trước, sống chen chúc ở khu C với những bà con, nhưng tôi thấy hạnh phúc cùng đất trời bao la, lồng lộng, không có hàng rào kẽm gai dưới đất, và dường như không có hàng rào kẽm gai cả trên trời như tôi vẫn thường nghĩ trong những ngày sa cơ trong cơn tù tội! Những ám ảnh hàng ngày về cơn ác mộng bị cộng sản “gom bi” bắt giam lại trong các trại tù không còn, giấc ngủ không vỡ từng đêm khi nghe tiếng chó sủa hay tiếng côn trùng im bặt vì nghe tiếng chân người vào ngõ ban đêm..

Được thở không khí tự do trên đảo tỵ nạn, tôi nhận dạy tiếng Anh vỡ lòng cho mấy đứa nhỏ tại Trung Tâm Sinh Ngữ, và nhờ vậy, bỗng nhiên tôi có một lũ nhóc học trò bất đắc dĩ xa lạ lần đầu tiên trong đời… Cuộc sống tái sinh cả trong giấc ngủ.

Đang tạm vui những ngày đầu tự do trên đảo vài tháng, một hôm, bà xã nôn oẹ. Cứ tưởng vì nàng ngán thịt gà Cao Ủy mà nôn, ai ngờ những ngày chỉ ăn cá, hay nhịn ăn, nàng cũng oẹ nôn như thường. Tôi đưa vợ lên bệnh viện Jetty trên đảo khám bệnh... và tôi “tá hỏa tam tinh” khi tin bệnh viện báo “vợ ông có bầu!


Lúc đầu thoạt nghe tin, tôi kêu lên một tiếng “Trời!“, không phải tôi sợ có con, mà vì tôi ngạc nhiên. Tôi tự hỏi vậy thì bà xã có bầu khi còn ở Việt Nam, có bầu khi tôi đang tổ chức các chuyến vượt thoát sinh tử mà ôm theo chỉ một thằng nhóc con cũng đã khổ lên khổ xuống, huống chi có thêm một nhóc thứ hai thì làm sao dám liều mạng. Thôi, tôi nghĩ ra rồi; thì ra, trong thời gian trước ngày vượt biên, tôi còn ở trại lao động tự giác Bình Tú, mỗi thứ Bẩy, khi công an cho phép vài anh em chia phiên về nhà nhận thực phẩm hay đi chợ, và họ bỏ trại về phố xem hát hôm sau mới lên trại, tôi đã lén ở lại đêm với vợ, và nhóc nhỏ lén xuất hiện lúc nào trong bụng mẹ mà tôi không biết.

May mà con tôi trong bụng mẹ đã bình an theo tôi suốt cuộc hải trình rủi may đến được Bidong. Tôi không muốn con tôi sinh ra trên cái đảo quá nhiều chuột núi, cắn cẳng, cạp giò khi đang ngủ, phương tiện y tế và sinh sống thiếu thốn, nên khi chính phủ Canada nhận, tôi đi ngay.


Tháng 9/1980, tôi đến Canada và định cư ở thành phố Nigara Falls. 3 tháng sau, một bé gái chào đời khi tuyết giăng giăng đổ đầy trời. Bé Minh Châu là cô bé của một gia đình tỵ nạn đầu tiên sinh tại thành phố này, và thị trưởng Niagara Falls đã gửi tặng cho bé Minh Châu một cái gối tuyệt đẹp.

Càng lớn, cô bé càng bụ bẫm, dễ thương. Có lần trong một thoáng vô tình trong cơn ác mộng vượt thoát, tôi nghĩ sự xuất hiện của Minh Châu trong bụng mẹ hoàn toàn ngoài ý muốn, và nó xuất hiện như một “tai nạn” trong cơn khổ nạn cùng đường của cha nó, một tên tù không thể sống trên chính quê hương của mình; nhưng mỗi khi ôm con vào lòng, thay tả, tắm cho con, cho con ăn, ru con ngủ, nhìn gương mặt đẹp như thiên thần của con, tôi hối hận về những ý nghĩ ban đầu chợt thoáng qua. Không! Con không phải là tai nạn! Con là niềm hạnh phúc của ba khi liều thân ra đi và đến bờ tự do! Và tôi nhận ra Minh Châu chính là món quà Thượng Đế âm thầm ban cho tôi trong chuyến vượt thoát sau cùng. Nếu lần này tôi không thoát, bị bắt sống giữa biển, cả nhà vô tù, Minh Châu sẽ chào đời trong tù, và ở tù như cu Nguyên anh nó, và chắc chắn đời nó sẽ khốn khổ, rủi ro, bất hạnh hơn nhiều. Hoặc giả ghe chìm trong cơn bão, đời tàn giữa trùng khơi, thì nào ai biết con tôi trong bụng mẹ đã theo mẹ cha vào lòng biển lạnh, không ai biết Minh Châu là ai trên cuộc đời này, dù là trong một phút giây phù du của sự sống.


Cu Nguyên lúc đó chỉ mới 3 tuổi, một hôm chở con đi chợ bằng chiếc xe đạp, tuyết thình lình đổ, trời lạnh bất ngờ, thằng bé ngồi sau xe té xuống tuyết vì lạnh cóng. Thằng này lì, ngày xưa vượt biển băng rừng, nó không khóc, nay tuyết lạnh tê người nó không la...

Tôi bỏ xe bên lề đường, cõng con và mang bao thức ăn chạy về nhà, hai tay cóng lại, cầm chiếc chìa khóa trong tay mà không làm sao mở khóa nhà, cuối cùng khi vô nhà được, hai cha con khui lổ “heat” thọc tay vào cho đỡ cóng. Tôi ôm con, nắm lấy hai tay nhỏ xíu của thằng bé mà muốn khóc... Tôi nói với con tôi: “Ba sẽ đưa con về vùng ấm Vancouver!” Lúc đó, tôi chưa biết mặt mũi thành phố Vancouver tròn méo ra sao, chỉ nghe thằng bạn bảo Vancouver đẹp và ấm, mùa đông không khắc nghiệt!


Mấy tháng sau, mùa Thu Niagara Falls ào đến với những chiếc lá vàng bắt đầu rụng theo những cơn gió chuyển mùa, tôi quyết định chuyển về Vancouver. Tiễn chúng tôi, bé Nguyên và bé Minh Châu tại sân ga Niagara Falls là hai vợ chồng bà S. Lowe, bà ngoại nuôi của Minh Châu, và những đứa nhỏ quấn quít Minh Châu. Xe hỏa lăn bánh, tôi thấy những giọt nước mắt của hai ông bà Lowe và mấy đứa nhỏ, tay vẫy chào tiễn biệt. Tôi ngậm ngùi nhìn lại thành phố thân yêu đã đùm bọc gia đình tôi gần một năm qua.

Minh Châu và Nguyên lớn lên tại thành phố đẹp nhất miền Tây Canada. Vancouver đã trở thành quê hương thứ hai của cha con tôi trong 30 năm, gần nửa tuổi đời của tôi. Tôi giữ cho con không mất tiếng Việt như giữ một gia tài, một nghĩa vụ đối với gia đình và với đất nước.

Khi Minh Châu còn học bậc tiểu học, tôi sắm cho con một cái áo dài, chụp hình con gửi về cho Nội, Ngoại xem- cả làng xóm họ hàng xúm nhau xem hình cô bé, và nó trở thành niềm vui, niềm thương nhớ của hai bên Nội Ngoại. Ai cũng mong chờ một ngày gặp Minh Châu bằng xương bằng thịt khi nó có dịp về thăm quê hương của cha mẹ, một quê hương mà nó không có một hình ảnh nào trong ký ức nhưng nó vẫn thương, vẫn thấy một cái gì ràng buộc qua cha, qua mẹ, một sự ràng buộc vô hình rất lạ lùng…

Khi Minh Châu xong bậc đại học, tôi quyết định cho con tôi về thăm Nội Ngoại trước ngày ông, bà cụ quá già hay có thể bất ngờ theo ông bà mà không nhìn mặt được cháu. Trước khi lên máy bay, tôi gọi Minh Châu và bảo:

– Ba gửi cho con 100 đô la để con cho bà Nội. Gặp Nội, con phải nói là tiền của con cho Nội, và con phải cầm tay Nội hỏi Nội có khoẻ không? Con thay Ba thăm Nội. Con nói tiếng Việt giỏi, bà Nội rất là thích. Con nhớ lời ba dặn nghe!

– Dạ con nhớ! Nhưng làm sao con biết ai là bà Nội?Ai là bà Ngoại?

– Bà Ngoại mất rồi, chỉ còn bà Nội, con về với Mẹ! Mẹ sẽ bảo cho con! Nhưng con nhớ khi gặp bà Nội, con phải ôm bà Nội thay ba nghe!Ba nhớ bà Nội lắm, nhưng ba không về được!Con nhớ nghe!

– Dạ! Con nhớ!

*******

Minh Châu và mẹ nó về thăm nhà mà không báo trước. Xe ngừng ngoài quốc lộ 1, nhà tự bên Ngoại cách lộ 2 đám ruộng. Mẹ nó chỉ:

– Con đi trước! Nhà ông ngoại ở cuối con đường ruộng này, chỗ có mấy cây dừa! Xem các Dì có nhận ra con hay không?

– Lỡ mấy Dì không nhận ra con thì sao?

– Thì Mẹ đi sau con mà!

Mấy bà Dì bên Ngoại không nhận tin báo trước, ngạc nhiên nhìn ra đường lộ, thấy một cô gái lạ đi trên bờ ruộng, dần vào sân, ngơ ngác nhìn vào căn nhà có cấu trúc xa lạ. Một cô gái lạ xinh xắn, dong dỏng cao, có nước da trắng tần ngần đứng lại trước sân nhà làm cả nhà ùa ra, định hỏi “cô là ai, tìm ai” thì đột nhiên nghe cô gái nói:

– Thưa Dì! Con là Minh Châu!

Cùng lúc thì mẹ Minh Châu xuất hiện ở bờ ruộng. Cả nhà ngạc nhiên mừng rỡ ùa ra ôm Minh Châu và đón mẹ nó. Trong phút giây ngạc nhiên, mừng rỡ bất ngờ đó có cả nước mắt và tiếng khóc của mấy bà chị. Ngoại Minh Châu mất trước khi Minh Châu chào đời, và bà cụ không hề biết cả cu Nguyên lẫn Minh Châu.

Tin Minh Châu theo mẹ về quê Ngoại lan khắp làng, và bà con hàng xóm kéo đến nhà Ngoại Minh Châu như cái hội Tết. Đêm về, cả nhà bu quanh Minh Châu hỏi đủ thứ chuyện, mà phần lớn là muốn nghe cô bé nói tiếng Việt, đúng là tiếng Việt rất chuẩn, nhưng không có âm sắc Phan Thiết hay Sài Gòn, là lạ và dễ thương.


Sau mấy ngày ở bên quê Ngoại, Minh Châu theo mẹ về thăm quê Nội. Đêm đầu tiên ở nhà Nội, nhớ lời bố, Minh Châu cứ ngồi quấn quít cạnh bà Nội. Các cô, chú nó quay quần quanh Minh Châu trong buổi sum họp gia đình hiếm hoi vì gần 20 năm bố Minh Châu vẫn không về. Minh Châu bỗng nắm lấy tay bà Nội và hỏi:

– Bà Nội khỏe không?

Nội trố mắt ngạc nhiên, chụp hai tay đứa cháu lần đầu tiên trong đời bà gặp. Cả nhà tưởng Minh Châu làm thinh vì không biết tiếng Việt, nên mấy cô chú nó nghe Minh Châu nói chuyện với Nội, cùng lúc buột miệng:

– Không ngờ Minh Châu nói tiếng Việt giỏi như vậy!

Nhưng người ngạc nhiên và hạnh phúc nhất vẫn là bà Nội. Hai tay bà vẫn nắm tay Minh Châu, bà mân mê vuốt tay cháu mà bà tưởng như trong cơn mơ. Cô bé nói tiếp:

– Con mới ra trường, chưa đi làm. Con cho Nội 100 đô la nghe Nội!

Một lần nữa, bà cụ ngạc nhiên nhìn trân trân vào mặt đứa cháu. Bà không nói một lời, bà cứ cười.. Và Minh Châu lấy tờ 100 đô la trong túi đặt vô tay bà Nội. Bà cảm động ôm cháu vào lòng.

Tôi đã xa bà, bỏ nước ra đi tính ra, đến ngày Minh Châu thay bố về thăm bà Nội, cũng xấp xỉ 20 năm. Minh Châu là máu thịt của bà, Minh Châu là hình ảnh của tôi. Tôi không đo lường được hạnh phúc và niềm vui của Mẹ tôi ra sao khi bà ôm Minh Châu vào lòng, nhưng tôi biết bà tràn đầy niềm vui.....

Sáng sớm hôm sau, khi Minh Châu còn ngủ say vì trái giờ giấc, Mẹ tôi đi khắp xóm làng, bà ghé từng nhà quen, nhà bà con, bà trò chuyện. Chuyện bà nói chỗ nào, nhà nào cũng giống nhau:

– Cháu tui là con thằng Hai, nó đẻ ở bên Mỹ, nó mới dìa thăm tui, nó cho tui 100 đô, và tụi bay biết không, nó nói tiếng Diệt rành như mấy đứa ở Sài Gòn! Tui đâu có ngờ! Tên nó là Minh Châu. Ba nó đặt tên Diệt Nam cho nó đó!

Mấy đứa em tôi phone qua cho biết Má rất vui trong mấy ngày Minh Châu ở với Nội. Trước khi vô lại Sài Gòn để về Canada, má con Minh Châu trở lại nhà Ngoại ở thêm vài hôm. Một buổi sáng, cả nhà rủ nhau đưa Minh Châu thăm Đá Ông Địa và Mũi Né. Trên đường đi, mấy bà Dì ghé chợ Phan Thiết mua nhãn bỏ theo xe ăn. Khi xuống xe, Minh Châu vẫn nắm trong tay võ và hột nhãn, không chịu bắt chước mấy đứa con bà chị vứt võ nhãn theo đường. Mấy Dì nhắc đi nhắc lại nhiều lần:

– Minh Châu! Con bỏ vỏ và hột nhãn xuống đường đi! Cầm theo tay làm chi vậy?

Cô bé vẫn làm thinh. Đi theo Mẹ và mấy bà Dì một lúc, nó thấy một thùng rác ghi trên nắp thùng bằng tiếng Việt: “thùng rác”, Minh Châu lửng thửng đạp qua đống rác vứt bừa bãi những rác đủ loại. Đến thùng rác, nó giỡ nắp thùng bỏ một nắm vỏ và hột nhãn vào, phủi tay và về chỗ mẹ nó, không nói một lời, vẫn vui vẻ trò chuyện, vui chơi. Mấy bà Dì, mấy đứa nhỏ cứ đăm đăm nhìn Minh Châu và nghĩ trong đầu: “Con nhỏ này lẩn thẩn thiệt!’

Buổi chiều về lại nhà, gia đình tiếp tục cái không khí vui vẻ như mấy hôm đầu. Mấy bà Dì khơi chuyện học hành, nghề nghiêp tương lai, và có người chợt hỏi:

– Còn mấy hôm nữa con về lại Canada, con thấy Việt Nam ra sao?

Cô bé hơi bất ngờ về câu hỏi, nó nhìn mẹ nó. Mẹ nó cũng không biết nó trả lời ra sao. Suy nghĩ vài phút, Minh Châu nói thẳng vào câu hỏi:

– Con thấy Việt Nam đẹp, Mũi Né cảnh rất là đẹp, nhưng nhìn chung thì dường như chỗ nào xứ của Mẹ cũng “disorganized”!

Mấy bà chị đồng loạt nhìn vào mẹ nó:

– Lương! Minh Châu nó nói cái gì vậy?

– Thì nó nói chỗ nào cũng mất trật tự! Tiếng Anh là như vậy, nhưng ý nó ra sao thì …. Minh Châu! Con nói rõ ý con chứ mẹ biết ý con ra sao đâu!

– Bộ mẹ không thấy hồi sáng nay con tìm thùng rác sao? Con đâu có thể vứt rác xuống đường. Hồi sáng ra Mũi Né, con thấy thùng rác, con mừng, đến gần thùng rác thì thấy rác vứt lung tung, khi giở thùng rác thì thùng rác chỉ có mấy cọng rác, trống trơn. Bên Canada đâu có chuyện này mẹ! Sao kỳ vậy? Cái này là không có vệ sinh, không có trật tự, không có tổ chức!

Cả nhà đều biết Minh Châu nói cái gì, biết nó nói đúng, nhưng hơi ngạc nhiên về cách nói thẳng và chững chạc của cô bé. Mấy bà Dì, mấy ông anh con Dì đều là thành phần giáo chức, bắt đầu nhìn Minh Châu không còn là một cô bé hời hợt từ nước ngoài mới về, không biết gì…

Chưa hết, hôm cuối cùng trước khi vô lại Sài Gòn để về Canada, sau bữa cơm chung gia đình, đủ mặt mọi người, khi thắp nhang cho ông bà Ngoại xong, một người anh con bà Dì yêu cầu Minh Châu phát biểu vài lời cùng gia đình. Cô bé nhìn mẹ, đắn đo gom một mớ tiếng Việt vào đầu sắp xếp ý tưởng để nói. Ai cũng nhìn chăm chăm vào mặt Minh Châu chờ nghe nó nói cái gì.

– Dạ, theo con thì con thấy thì mấy mươi năm trước, mẹ và anh Nguyên đã may mắn được Dad dắt ra khỏi Việt Nam. Con đã thấy Sài Gòn, con đã thấy Phan Thiết. Xứ của mẹ không sống được! Con nói thiệt!

Câu nói của Minh Châu làm cả nhà sửng sốt, mà dường như cùng lúc mấy bà chị đều có ý hỏi mẹ Minh Châu một câu giống nhau. Một bà chị hỏi:

– Lương! Bộ ở ngoải bố nó dạy Minh Châu chuyện chính trị hả?

– Trời ơi mấy bà! Mấy đứa nhỏ sinh, lớn lên và học ở nước ngoài, nó lanh và khôn lắm, tự nó quan sát, tự nó tìm hiểu, tự nó suy luận. Cái gì trong đầu nó ra sao thì nó nói như vậy! Nói thiệt ra, có lần tôi nghe ba nó nói với nó là “nếu lần đó ba dắt mẹ và anh cu Nguyên đi không thoát, có thể ba ôm anh Nguyên nhảy xuống biển chết;hay nếu ba còn sống,ba ở tù, mẹ sinh con ra ở Việt Nam, con và anh Nguyên lớn lên cơ cực, nghèo khổ, phải đi chăn bò, bán vé số hay bán khoai lang ngoài chợ... Và sau đó, có thể ba chết trong tù, bỏ con lại bơ vơ…”

Ba nó hỏi nó có hiểu ý ba nó nói hay không. Nó nói nó hiểu. “Con hiểu! Con hiểu!” Có thể từ điều đó, từ những điều ba nó nói mà nó hiểu phần nào tình trạng sống trong nước, nó hiểu vì sao ba nó bỏ nước ra đi, để rồi nó nhìn sự việc sâu đậm, cụ thể hơn trong những ngày ở Việt Nam.


Buổi sáng từ giã bà con quê Ngoại để lên xe vô Sai Gòn, cả nhà ôm Minh Châu bịn rịn không muốn rời. Sinh ở Canada chỉ có Cha, Mẹ và người anh, hôm nay cô bé chợt cảm thấy vòng tay quê Ngoại man man nồng ấm những tình cảm rất lạ trong những giây phút chia tay. Cô bé bỗng như thấy một sợi dây vô hình nào đó muốn cột cô với quê Mẹ. Câu nói của Minh Châu đêm hôm trước đã làm cho cô bé lớn hơn so với lúc mấy bà Dì gặp cô bé lần đầu... cả nhà biết Minh Châu nhìn ra thực trạng của quê hương cha mẹ, điều mà ít đứa trẻ Việt Nam nào nhận ra và dám nói thẳng thừng.

Chiếc xe đò lăn bánh hướng Sài Gòn, có những bàn tay vẫy chào từ giã, có những giọt nước mắt của người ở lại, và dường như mấy bà Dì còn văng vẳng nghe tiếng nói của Minh Châu “Xứ của Mẹ không sống được! Con nói thiệt!…”

Khi mọi người tụ lại ở nhà tự, trên gương mặt ai cũng buồn buồn sau khi chia tay má con Minh Châu, bỗng có người buột miệng như vừa khám phá ra một cái gì: “Con nhỏ này tính tình chắc giống Bố nó! Mấy mươi năm không về là không về. Nó giống Bố nó từ gương mặt tới tính tình!” 


Suốt ngày hôm Minh Châu rời quê Ngoại, căn nhà tự vẫn còn đông người, nhưng một khoảng trống vắng đã để lại đâu đó trong gia đình, trong trí nhớ của mọi người. Ánh nắng chiều vàng vọt lết qua sân nhà. Nhà dọn cơm chiều trước sân như mọi hôm, và dường như bữa cơm không còn ngon miệng và vui vẻ như hôm qua...


Hi Triu
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 96
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.383 seconds.