Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 94
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22177
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 12:31pm

Món nợ năm xưa


 

Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân tị nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại phi trường Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui:

– Vậy là vài năm nữa con gái có quốc tịch Mỹ, sẽ bảo lãnh hai vợ chồng Đức qua đoàn tụ, chắc chắn sẽ có ngày chúng mình tái ngộ ở Dallas, Đức ơi!

Hắn trả lời liền:

-Cám ơn Nàng, nhưng lần này đừng … tài lanh làm mất giỏ đồ của tui nữa nha.

– Quỷ sứ, nhớ dai quá chừng! Tui hứa danh dự, lần tái ngộ sắp tới, sẽ mua một cái giỏ mới toanh, hàng hiệu, trả lại cho bà xã ông luôn nghen.

Hắn để icon mặt cười, rồi kết luận:

– Ừa, Đức mong đến ngày nhận cái giỏ của Nàng lắm.

Chúng tôi gặp nhau tại bãi hẹn vượt biên, là bến xe Bà Hạt, Quận 10, chuẩn bị theo nhóm dẫn đường đưa lên xe đò chạy qua biên giới Mộc Hóa Long An, rồi tiến vào đất Cambodia trực chỉ thủ đô PhnomPenh. Ngồi trên xe đò, từ xa lạ cũng trở thành quen biết, cả nhóm 41 người, vì từ đây sẽ cùng chung số phận trên con đường vượt biển tìm tự do.

Tôi và 3 cô con gái, cũng mới quen trong chuyến đi, cùng vài thanh niên khác, trong đó có Đức, vì hơn kém nhau 1-2 tuổi, nên thường trò chuyện đùa giỡn với nhau.

Đức có giọng hát hay, biết chơi đàn organ, vừa tốt nghiệp trường Âm Nhạc Sài Gòn, tính tình hài hước có sẵn trong máu, hầu như ở mọi tình huống, lúc buồn lúc vui, lúc gặp hiểm nguy, Đức luôn biến thành những khoảnh khắc vui cười, khiến mọi căng thẳng và nỗi sợ tan biến.

Chỉ vài ngày đầu tiên trên đất Cambodia, đi chợ, đi dạo, đi chơi, tối về khu nhà trọ “nằm vùng” chờ lệnh lên đường đi phố biển Kongpom Som, chúng tôi đã biết khá rõ về mỗi người, gia đình ra sao, hoàn cảnh thế nào, càng thân nhau hơn trong cách xưng hô, thoải mái gọi ông gọi bà xưng tui, riêng Đức có cách gọi riêng khá dễ thương, là luôn gọi đám con gái chúng tôi là Nàng.

mon%20no%20nam%20xua

Bảo Huân

Đêm tàu ra khơi từ Cảng Kongpom Som, trời 8 giờ tối tháng 12 mù câm, gió lạnh, mọi người nằm dưới hầm như cá hộp, chật chội, chỉ có tài công và người thợ máy, cùng người dẫn đường của ban tổ chức được ở trên boong tàu. Suốt những ngày qua mệt mỏi nơi đất Cambodia, nay vừa lên tàu, mọi người bắt đầu tìm vào giấc ngủ trong tiếng máy chạy đều đều của con tàu. Dưới hầm tàu tối như hũ nút, nhưng 4 đứa con gái chúng tôi biết mình nằm cạnh nhóm của Đức, mạnh ai nấy ngủ, co ro trong hầm tàu chật chội. Bỗng nửa đêm tôi giật mình vì nghe tiếng la hét, lộn xộn, ồn ào:

– Chuyện gì vậy cà?

– Máy thoát nước của tàu bị hư, bên ngoài đang có mưa bão.

Lúc này tôi mới để ý dưới sàn tàu có nước, 3 cô bạn xung quanh tôi cũng đang dáo dác hỏi tin tức từ boong tàu đưa xuống. Tình hình không mấy khả quan, thợ máy đang sửa ống thoát nước nhưng mưa gió càng mạnh hơn, lại có sấm chớp, con tàu nghiêng ngả mỗi khi nước biển và nước mưa tràn xuống hầm tàu. Mỗi lần như vậy, đàn bà con gái trong tàu rú lên, vì lạnh và vì sợ hãi.

Lúc này, có lệnh đưa ra, các thanh niên đàn ông trong tàu phải thay nhau lên boong phụ tát nước ra ngoài, dù biết đó là việc chẳng thấm thía gì so với nước mưa như thác lũ, nhưng đúng như câu “còn nước còn tát”, chứ chẳng lẽ chịu ngồi im chờ con tàu chìm xuống đáy đại dương.

Trong bóng tối mờ mờ, lúc này trời có lúc sáng lóe lên vì sấm chớp và ánh đèn pin trên boong tàu thỉnh thoảng chiếu rọi xuống hầm tàu kêu người lên tát nước. Tôi thấy Đức ngồi ủ rũ như gà mắc mưa (mà đang mưa thiệt), tôi bảo:

– Tới phiên Đức lên tát nước kìa.

Đức uể oải đứng lên, vẫn không quên khôi hài:

– Từ hồi cha sanh mẹ đẻ chỉ biết cầm đờn, cầm micro, giờ kêu Đức cầm xô tát nước là coi như thua rồi đó, tàu có chìm đừng trách nha Nàng.

– Coi chừng cái miệng ông ăn mắm ăn muối!

Rồi thì đàn ông thanh niên kéo nhau lên boong, còn lại là những ông già bà cả, phụ nữ và con nít ở dưới hầm tàu, tiếng ồn ào không thua gì trên boong. Nhiều người bắt đầu ói mửa khi “lắc lư con tàu đi”, chúng tôi theo nhóm xúm lại đọc kinh, ai đạo gì thì đọc kinh theo đạo ấy, trong tiếng la, tiếng khóc hỗn độn của đủ thứ âm thanh.

Lại có lệnh đưa xuống, mọi người nên vứt bỏ thực phẩm và hành lý cá nhân ra ngoài biển để tàu nhẹ bớt. 4 đứa con gái chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành, tôi cũng còn kịp nhớ giữ lại chiếc phao được cuộn tròn trong cái bịch nhỏ trước khi giao giỏ xách của mình cho người ta truyền nhau lên boong để quăng xuống biển. Cô Nhạn, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhóm, đang nằm vật vờ nơi góc hầm, khều tay ra hiệu cho tôi chuyển mấy giỏ xách của cô ấy lên boong giùm, tôi mệt lắm, nhưng cũng cố làm, nhân tiện thấy một cái túi xách gần đó, tôi cũng chuyển lên boong, rồi tìm chỗ ngồi ngả lưng. Mưa có vẻ đang nhẹ dần, bão cũng bớt điên cuồng, tuy máy thoát nước chưa sửa xong nhưng con tàu đã lặng yên phần nào, Đức từ boong bước xuống hầm, đến hỏi tôi:

– Nàng có thấy cái túi xách của tui đâu không? Rõ ràng là hồi khuya tui nằm chỗ này mà.

Tôi hơi chột dạ, tỉnh hẳn người, lắp bắp:

– Có phải cái … túi da, có buộc … cái khăn bên ngoài?

– Đúng rồi, đúng rồi.

– Mình … lỡ tay đưa lên boong quăng ra ngoài biển rồi.

– Trời, ai xui ai khiến Nàng chớ!

– Thì lệnh của ban tổ chức, ai cũng phải nghe theo mà.

– Thì tui đang xuống đây để làm theo lệnh đó.

– Thì ai làm cũng vậy, làm gì dữ vậy!?

– Sao không dữ? Nàng có biết tui có 2 chỉ vàng ở trỏng không! Giời ạ!

Tôi giật mình, tá hỏa, chẳng biết phải nói gì, đây là tình huống đầu tiên Đức không hài hước. Tôi biết lỗi, nhưng vẫn cố cãi:

– Đi vượt biên thì vàng phải giấu trong người, trong áo quần đang mặc, ai lại để trong giỏ xách bao giờ.

Đức chẳng nói gì thêm nữa, đi ra phía đầu máy, nơi đó có miếng ván cao ráo, nằm xuống để ngủ bù sau một đêm mệt đừ tát nước. Tôi bước đến, lí nhí:

– Đức ơi, cho mình xin lỗi nhé, hồi khuya quay cuồng theo sóng gió con tàu, mình không được… tỉnh táo cho lắm, chỉ nghe cô Nhạn nhờ quăng giùm mấy cái giỏ, nên tiện tay gom hết luôn, ai dè …

Đức xua tay, dịu giọng:

– Thôi cho qua đi, tui ngủ chút xíu.

Biển nổi cơn thịnh nộ, rồi biển cũng trở lại dịu dàng, máy thoát nước trên tàu cũng đã sửa xong, và chiều ngày hôm sau đã thấy vết đất liền Thailand ở xa xa. Đến mờ tối, tàu nhanh chóng thả 41 người chúng tôi xuống bãi san hô giữa biển, rồi vội vã quay tàu, tăng tốc độ đi ngược ra phía biển trở lại Cambodia. Chúng tôi chơ vơ giữa bãi san hô, cũng may nhờ tôi có chiếc phao, đem ra thổi, cho 2 thanh niên trẻ bơi vào bờ, gọi ghe của dân đánh cá Thái ra cứu. Sau đó có 2 chiếc ghe chèo ra bãi san hô, nói chuyện với chúng tôi bằng Tiếng Anh “to quơ”, đại khái là mỗi nhóm tối đa 3-4 người được lên một ghe, và phải trả cho họ bằng tiền, vàng, hoặc bất kỳ trang sức nào đó như nhẫn, dây chuyền, đồng hồ. Tôi quay qua Đức:

– Chút Đức đi với mình nhe, vì Đức thì đâu còn vàng bạc gì.

Đức cười cười, liếc tôi:

– Đương nhiên rồi Nàng, còn phải hỏi!

Từng nhóm lần lượt lên 2 chiếc ghe, xong mỗi chuyến, họ quay lại đón nhóm kế tiếp, tôi và Đức cùng một cô bạn là nhóm cuối cùng trên chiếc ghe cuối cùng đi vào bờ. Ôi trời ơi, vừa bước chân xuống đất, mới biết đó là vùng đầm lầy, sình ngập qua đầu gối, nặng trịch, không nhấc chân lên nổi. Cô bạn gặp được một chú đi trước giữa bãi sình, đứng đợi rồi họ giúp nhau, tôi chỉ còn biết dựa vào Đức. Mấy ngày nay trên tàu nào có ăn được gì vì lương thực quăng ra biển hết ráo, giờ mới thấy đói khát và kiệt sức. Tôi mềm như cọng bún, ôm cổ Đức ghì chặt, chàng thư sinh nhạc viện gầy yếu cũng ráng gồng hết sức kéo tôi lê lết qua bãi sình lầy rất khó nhọc nặng nề.

Có thể nói, trên con đường vượt biên, rồi đến trại tị nạn, những người chung chuyến tàu là những người thân thương nhất, vì cùng trải qua những chặng đường sinh tử trên biển, gắn bó có nhau, qua đến trại vẫn phải dính chùm nhau mọi nơi mọi lúc. Cao Ủy chia mỗi nhóm tàu một lô nhà ở chung, thành hàng xóm của nhau. Đi lãnh gạo lãnh thực phẩm cũng đi theo lô nhà, đi làm giấy tờ trên văn phòng trại cũng phải theo lô nhà, tới ngày dọn vệ sinh khu trại cũng phải đi theo lô nhà, hỏi sao không gần gũi như người trong một đại gia đình.

Có những buổi trưa rảnh rang, hoặc chiều mưa ướt chẳng đi đâu được, nhóm tàu chúng tôi quay quần tán dóc, nhắc về chuyến vượt biển, Đức lại hí hửng khoe với mọi người:

– Cái đêm đến bờ biển Tha Luông, chính tui là người ẵm nàng Loan này vào bờ chớ ai.

Mọi người cười ha hả, tôi phải đính chính:

– Ẵm, bế hồi nào vậy cà!? Nói chính xác là kéo lê kéo lết.

– Ối, lúc đó Nàng mệt lả người, mắt nhắm mắt mở, nhớ gì chớ!

Một buổi sáng, 4 đứa con gái chúng tôi vừa thức dậy, cây kem đánh răng cứng quá, đúng lúc Đức bước qua tính xin chút kem đánh răng, tôi nói:

– Nè, nhờ Đức bóp giùm.

Đức chớp thời cơ:

– Bóp trên hay bóp dưới?

Vì miệng chưa đánh răng, mặt mũi chưa rửa, nên tôi khép nép trả lời:

– Phải bóp từ dưới lên trên, mà phải bóp từ từ, đừng bóp mạnh quá.

Mấy chị mấy cô xung quanh lô cười rần rần, tôi mới biết đang bị Đức chọc phá.

Bữa khác, buổi chiều, chúng tôi chuẩn bị đi lễ nhà thờ, đi qua nhà Đức thấy Đức vẫn ngồi ngoài cửa:

– Ủa, sao bữa nay Đức không đi lễ?

– Có cái quần Jeans tối qua thằng bạn lô kế bên mượn đi chơi với bồ chưa trả.

– Trời đất! À mà nè, mặc quần shorts đi lễ cùng được mà, Chúa đâu chấp nhất chuyện áo quần.

– Không! Đức đi lễ hoặc đi hát, thì phải nghiêm chỉnh đàng hoàng, còn không thì ở nhà.

– Ở trại tị nạn mà cũng… chảnh dữ hen?

– Ừa, tui dzậy đó!

Có lẽ, cái máu thích đùa và máu “điên” tiềm ẩn từ lâu trong tôi, đã được đánh thức từ khi gặp Đức.

Đời tị nạn vẫn trôi qua, có ngày vui xen lẫn ngày buồn, thấm thoát đã qua năm thứ 3 của đời tị nạn. Tình hình thanh lọc càng căng thẳng, chương trình cưỡng bách hồi hương thông báo sẽ bắt đầu, và thuyền nhân đã biểu tình rầm rộ. Đám đông phá hàng rào, tràn ra ngoài lộ, giương biểu ngữ chống cưỡng bách trước hàng trăm họng súng và xe cảnh sát Thái bao vây. Cả trại hoang tàn vì một số người bạo động đã phá các cửa hàng người Thái ngoài chợ, phá cửa nhà tù, khiến Bộ Nội Vụ Thái báo động khẩn cấp, các văn phòng thiện nguyện ngoại quốc đóng cửa, không dám vào trại, đại diện Cao Ủy phải đi máy bay trực thăng từ Bangkok đáp xuống bãi biểu tình để đàm phán với dân tị nạn.

Đi trong buổi chiều đầy vỡ vụn xung quanh, Đức hỏi tôi:

– Nếu rớt thanh lọc, Nàng có ghi danh hồi hương?

– Theo quy định, chúng ta được quyền xin tái thanh lọc 2 lần nếu có những giấy tờ mới bổ sung, nên mình sẽ chờ đủ 2 lần tái, rồi sau đó tính tiếp, còn Đức thì sao? Thú thiệt, thấy nhóm tàu mình có người lai rai hồi hương, đôi lúc cũng thấy nản chí, lung lay.

– Đức sẽ theo Nàng, là chờ tái đến phút chót, cho đến khi “chín” thì thôi.

Hai đứa nhìn nhau, cười buồn. Sau đợt biểu tình đó, cả trại được chuyển lên trại mới Sikiew. Tương lai định cư đối với đa số đám đông vẫn là một giấc mơ xa vời, vì nhóm tàu của chúng tôi, chỉ có 8 người may mắn được đậu thanh lọc trong đó có tôi.

Buổi tối chia tay để sáng hôm sau đi qua trại transit dành cho người đậu thanh lọc, tôi đi dạo cùng Đức. Tôi nói:

– Thế là hành trình tị nạn đang khép lại, chỉ vì cuộc thanh lọc đáng ghét mà nhóm tàu chúng ta phân chia trăm ngả, mà ngả đông nhất là hồi hương về Việt Nam, thật là buồn.

Đức trầm ngâm:

– Chẳng ai muốn trở về nơi họ đã dứt áo ra đi, mà thôi, vượt biên có số có phần. Riêng Đức sẽ nhớ mãi cái cảm giác sung sướng vỡ òa khi bước chân lên bờ biển đất Thái sau mấy ngày bão giông tơi tả. Những ngày ấy có lẽ là những ngày hạnh phúc nhất của đời tị nạn, vì chúng ta chưa nhập trại lớn, chưa biết gì về cuộc thanh lọc, 3 tuần ở trại nhỏ vui và đẹp như cõi thần tiên.

Đúng vậy, khoảng thời gian ở trại Cảnh Sát Tha Luông êm đềm xiết bao. Sáng ngủ dậy, chào cờ Thái, xong mọi người tản ra xung quanh trại nhặt rác, gọi là vệ sinh chung, rồi sau đó tự do, từng nhóm tàu nấu cơm trưa, ai rảnh rang thì tụ năm tụ ba nói chuyện tán dóc, kể chuyện cười, cho hết thời gian. Sau bữa trưa, là… ngủ trưa, rồi lại lo cơm chiều, rồi ra hồ nước kế bên trại tắm rửa giặt giũ, ôi vui còn hơn Tết. Buổi tối, mấy nhà cảnh sát Thái mở Tivi cho bà con tị nạn vào xem ké, riêng nhóm tàu chúng tôi náo động nhất trại, vì có một anh từng sinh hoạt trong Hướng Đạo, nên chúng tôi chơi trò chơi Mật Thư, hoặc sinh hoạt vòng tròn ca hát, các trò chơi tập thể. Nhiều người của các nhóm tàu khác vây quanh xem chúng tôi chơi, thậm chí ông Cảnh Sát trưởng trại cũng có lần ghé đến xem, thích thú, rồi tặng cả nhóm một thùng mì gói Mama bồi dưỡng.

Đức ngập ngừng nói tiếp:

– Và dĩ nhiên, Đức nhớ nhất cái đêm tháng 12 lạnh lẽo không trăng không sao, đã được dìu Nàng vào trong bờ đất liền, kỷ niệm đẹp quá, Đức sẽ không bao giờ quên.

Tôi cũng mơ màng theo dòng cảm xúc kỷ niệm:

– Còn Loan ư, sẽ nhớ nhất tuần đầu tiên nhóm tàu mình ở khu trại Cảnh Sát Thái, được nấu nồi chè ăn mừng đến bờ tự do, Đức đã hát bài “Yêu Một Mình”, giọng ca ngọt ngào tha thiết, đúng là dân tốt nghiệp trường Âm Nhạc.

– Bài hát đó tặng Nàng chớ ai!

– Xạo vừa thôi! Mới gặp nhau trên đường vượt biển, biết gì mà tặng. Vả lại, nhà mình ở Việt Nam có giàn hoa giấy màu đỏ, đâu phải “nhà em có hoa vàng trước ngõ, tường thật là cao có dây leo kín rào…”

– Lúc đó cũng biết nhau cả tháng rồi chớ bộ. Mà ai ngờ bài hát đó lại đúng y chang, sau này khi nhập trại Panatnikhom, là “mọi người thầm mong được đưa đón chân em…” trong khi Đức chỉ là một chàng nhạc sĩ nghèo, con bà “Phước” ở trại, nào dám ngỏ lời, nào dám mơ xa …

– Thôi, hổng nói tào lao nữa, Đức nói đùa y như nói thiệt, nhưng Loan sẽ nhớ mãi cuộc nói chuyện hôm nay, cám ơn Đức vì tất cả. Chẳng biết tụi mình có được gặp nhau nữa không, chúc Đức nhiều sức khỏe, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống tương lai.

– Nàng cũng vậy nhé, đừng bao giờ quên nhóm tàu 41 và trại tị nạn Thailand.

Chúng tôi từ biệt nhau từ đó, có ngờ đâu, hơn 30 năm sau giấc mơ tái ngộ sẽ trở thành sự thật, vấn đề chỉ là thời gian sớm muộn mà thôi. Tôi mong chờ đến ngày đó, để được thực hiện lời hứa tôi đã nói với Đức trên Facebook, là sẽ mua một cái giỏ mới, thật đẹp, tặng cho bà xã Đức, coi như “nợ nần” xưa được xóa bỏ.

Đó là món nợ vật chất, còn cái nợ tình thân, Đức dìu tôi vào bờ biển Thái năm nào, và những kỷ niệm chia ngọt sẻ bùi của nhóm tàu 41 người, làm sao trả cho hết!

Kim Loan



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Ngày hôm qua lúc 12:53pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22177
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 9:23am

Một Làn Sóng Phẫn Uất Mới Từ Miền Nam Việt Nam


Chưa bao giờ có làn sóng kỳ thị “Bên kia vĩ tuyến” mạnh mẽ như hiện nay! 

Suốt từ năm 1975 đến giờ, dân Nam đã ăn đủ mùi tráo trở, xảo quyệt, lọc lừa rồi. Họ ấm ức, họ tức tưởi, họ chán ngán quá nhiều rồi. Người dân Nam nào lên tiếng sẽ bị cho là kỳ thị.

Một người Bắc 54 lên tiếng cũng bị cho là mất gốc nên mới nói. Còn một người Bắc 75 lên tiếng thì họ cho là vào hùa với dân Nam. Tôi, một con Bắc kỳ 1985 lên tiếng thì bị cho là cố xóa vết tích Bắc kỳ, muốn chứng minh mình là thượng đẳng. 

Bác sĩ Nhàn Lê, Bắc kỳ 2000 lên tiếng bị cho là nói lấy lòng dân miền Nam.

Đến bao giờ, bao giờ người miền Bắc mới chịu nhìn nhận lại bản thân? Trên Facebook, tôi và Bs Nhàn Lê là hai người lên tiếng mạnh mẽ và thẳng thắn nhất về các thói hư tật xấu của người miền Bắc. Tại sao?

Chúng tôi đã sống ở cả hai miền, chúng tôi đã nếm trải cái khốn nạn, lưu manh của miền Bắc và sự tử tế, nhân hậu của miền Nam.


Chúng tôi thấy cần thiết phải lên tiếng. Chúng tôi cất lên tiếng nói là để mọi người biết được cái xấu của mình mà sửa. Chúng tôi là người Bắc thì tiếng nói nhất định là công tâm.

Mồ mả cha ông tôi còn ngoài Bắc, họ hàng tôi còn ở Nam Định, anh em cha bác nhà bà Nhàn còn đang xúm xít đâu đó ở một tỉnh miền núi phía Bắc, chúng tôi đâu có thần kinh mà nói xấu quê hương, đồng hương mình.

Và khi bài viết đăng lên cũng có nhiều ý kiến trái chiều. Những người đồng tình đầu tiên tất nhiên là người Nam, sau đó là Bắc 54, Bắc 75 hoặc các năm sau đó, hoặc có những người chỉ mới vào Nam mấy năm nhưng họ phải nhìn nhận đó là sự thật, vì họ đã thấy, đã trải nghiệm và hơn nữa là họ có nhận thức. 

Những người phản ứng là ai? Là những người vừa vào Nam chơi mấy hôm rồi về hoặc đa phần là những người chưa bao giờ bước chân vào miền Nam. Họ chưa chứng kiến những người đi phát đồ từ thiện cúi người cảm ơn những người đi nhận quà.

Họ chưa từng thấy một gã xăm trổ chặn đứa bé bán vé số lại chửi “đm mày, ba má mày đâu để mày lang thang vầy?” rồi mua cho nó tô mì hoành thánh, sau đó mua hết xấp vé số của nó.  

Họ chưa thấy một thằng nhóc phì phèo điếu thuốc trên cặp môi thâm sì nhưng hét vào mặt con mẹ tỉnh lẻ lên thành phố đang lớ ngớ hỏi đường “Thôi nói hoài bà cũng không biết, chạy theo sau tui đi tui dẫn tới địa chỉ đó”.


Cái mà người miền Bắc có trong đầu là gì? “Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng, Có sách mới áo hoa đây là nhờ ơn Đảng ta, Đảng là kim chỉ nam cho mọi hành động, Tình bác sáng đời ta…”

Nên trong một comment phản biện em ếch kia mới hỏi một câu hết sức thanh niên cách mạng đồng chí hội: “Chị đã kết nạp đảng chưa?”

Trong đầu thanh niên miền Bắc thì đầy những khái niệm: “Miền Nam ăn bơ thừa, sữa cặn của Mỹ, bọn Công giáo theo ông Diệm vào Nam, bọn ba sọc đu càng, không có miền Bắc thì miền Nam giờ này vẫn còn dưới ách kềm kẹp của Mỹ-Ngụy…”  

Chả vậy mà một cô sinh viên tuổi đời chưa tròn 20 mới phơi phới đòi đi giải phóng miền Nam lần nữa…! 

Chính vì vậy mà họ luôn mang tâm thế của kẻ thắng cuộc, trịch thượng, thượng đẳng. Với lối giáo dục sai lệch và bóp méo lịch sử, họ không biết phân biệt phải trái và ăn nói như những kẻ vô giáo dục.  

Đọc tất cả các status, các comment phản biện thì cảm giác chung đều là ngụy biện, lấp liếm, đổ lỗi, giận hờn, trách móc và trên tâm thế của kẻ ban ơn. Tất cả những điều đó chỉ gây cho người đọc một cảm giác khinh khi, chán ngán và nếu nhân văn, độ lượng một chút thì có thể nói rằng chỉ thấy thương cho những kẻ kém hiểu biết và tự ti mà thôi. 

Thôi thì bò đội nón ta sẽ gỡ nón cho bò, bị nhồi sọ thì ta sẽ tẩy não. Nhưng còn những người hiểu thời sự, thời cuộc thì sao? Đó là những người lớn, những dư luận viên, những người có sức ảnh hưởng…

Những người này thừa hiểu biết về thời cuộc, sự thật và lịch sử nhưng vì nhiều lẽ, tự ái có, tự ti có, cố chấp có, bẻ lái có, vì tiền cũng có, mà cố lái sự việc sang hướng khác.

Và nói chung là vì không được giáo dục tính khiêm nhường, biết nhận lỗi nên khi nghe chỉ trích là họ sửng cồ, xù lông, cố bảo vệ cái sai của mình. Và cái bế tắc trong luận điệu của họ thể hiện ở việc quay ra đổ lỗi cho nạn nhân. Tôi đã hai lần đọc status của hai phụ nữ miền Bắc chửi dân miền Nam ngu mới để mất VNCH vào tay CS.

Thú thật, tôi thấy thương các bạn vô cùng.


Khi mới giành được độc lập, Hàn Quốc không lung linh như các bạn thấy bây giờ đâu. Một đất nước hoang tàn, đổ nát, lạc hậu và ngu dốt sau chiến tranh. Nhưng họ đã dẹp bỏ tự ái nhập cả bộ sách giáo khoa của Nhật, là kẻ thù xâm lăng mà họ vừa đánh đuổi, về dịch ra để học. Và hiện nay có một Hàn Quốc với Samsung, Daewoo, Huyndai mà thế giới biết đến. 

Khi công nghệ chưa phát triển, hàng hóa của Hàn Quốc xếp trên kệ chỉ để vui mắt chứ không mang lại lợi ích kinh doanh gì. Một lần có du khách phương Tây ghé thăm quầy hàng xem qua món hàng lưu niệm thủ công rồi bỏ đi. Cô nhân viên khi ấy đã khổ sở dùng hết khả năng ngôn ngữ lẫn chân tay của mình, thậm chí là cả van lạy và nước mắt chỉ để người khách kia mua món hàng đó. Lợi nhuận món hàng có thể không phải là chuyện sống chết nhưng cô đang cố gắng giới thiệu quốc gia mình ra thế giới. 

Du khách kia ra về, có thể không hài lòng với món đồ lưu niệm thô kệch, xấu xí đó, nhưng chắc chắn ấn tượng về một cô nhân viên cầu thị, có tinh thần tự tôn dân tộc sẽ khó phai mờ, và biết đâu trong những lúc trà dư tửu hậu, gã mắt xanh mũi lõ đó không vô tình quảng bá hình ảnh người Hàn Quốc chịu thương, chịu khó, nhẫn nhục, tự tôn đó cho bạn bè năm châu. 


Tất nhiên không phải ngẫu nhiên mà có một Hàn Quốc như ngày hôm nay. Không phải ai cứ sinh ra cũng sẽ có lòng tự tôn dân tộc như cô nhân viên bán hàng kia. Tất cả là do giáo dục. Giáo dục không chỉ từ nhà trường và gia đình, mà còn từ xã hội và tự giáo dục. Tự giáo dục tức là các hình thức thay đổi bản thân thông qua quan sát, học hỏi từ sách báo, ứng xử của những người xung quanh và nhận thức. 

Trên 18 tuổi là chỉ còn tự giáo dục. Nhưng hình như thanh niên miền Bắc không có được kỹ năng này. Họ đi du lịch chỉ để chụp hình khoe Facebook chứ không phải tìm hiểu đời sống, con người, tập tục, văn hóa của một vùng đất lạ. Họ dùng internet chỉ để giải trí, Facebook của họ chỉ dùng để mua hàng online, khoe của và chat chít. Nếu không, họ đã không hớn hở đòi đi giải phóng miền Nam một lần nữa.


Làm thế nào để dư luận không đào xới thêm chuyện Bắc-Nam nữa? Rất đơn giản, các anh chị miền Bắc vốn văn hay chữ tốt, chữ nghĩa một bồ thế nào chả có cách viết. Có điều các anh chị chỉ lo chữa lửa bằng xăng vì các anh chị không biết cúi đầu.


“Bắc kỳ 1985” này cũng không thiếu chữ. Nhưng tôi đâu có đòi giải phóng miền Nam nên mắc mớ chi tôi phải viết?


Mai Thị Mùi

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 94
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.268 seconds.