Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 137
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Oct/2025 lúc 2:11pm

Thương Lắm ! Phận Đàn Bà...


Chị lấy anh họ bên ngoại nhà mình, về làm dâu một gia đình được coi là truyền thống gốc Hà Nội. Gần ba chục năm nay, mình chưa từng thấy anh chị xích mích cãi cọ to chuyện lần nào.

Anh họ mình, chồng chị, làm bảo vệ một bãi xe nhà nước. Công việc quanh năm suốt tháng không có gì biến động ngoài một vài lần anh phải đền tiền vì bị trộm nó vặt gương ô tô, và dịp lễ Tết phải mua quà biếu sếp hết gần nửa số lương tháng. Đấy có lẽ là những biến động lớn nhất của cuộc đời anh mà mình được biết. 

Chị quanh năm buôn bán vặt ở chợ. Lúc thì bán gà, hai đứa trẻ con quanh năm được ăn thịt gà. Lúc thì xoay sang đồ khô, rồi hải sản đông lạnh, rồi bán bún, và giờ thì ngày muối 20kg dưa cà. Một ngày của chị bắt đầu từ 4h sáng đến 2h chiều, rồi lại từ 4h chiều đến 7h tối, cứ thế liên tục tay thái dưa, tay rửa rau, tay muối cà, tay bán hàng cho khách. Chỉ mấy vại dưa thôi nhưng chị đã nuôi được hai con ăn học gần xong.  

Cậu lớn giờ công việc ổn định, cô em đang học liền một lúc hai khoa ở một trường đại học có tiếng. Nhờ mấy vại dưa ấy mà chị còn trả nợ vay gần một tỷ mua đất xây nhà, lại lo đủ giỗ Tết lễ lạt quanh năm. Công to việc lớn nhà chồng đều một tay chị cả.

Hôm trước lên chơi, nghe chị bảo hai vợ chồng đang chiến tranh lạnh, mình ngạc nhiên. Chị kể, cả tháng nay chị giận anh, không ngủ chung giường, không ăn chung mâm, cũng chẳng chuyện trò qua lại. Thì ra, chỉ vì một hôm chị mua rau sống về ăn bún đậu không được như ý nên anh đổ cả rổ rau sống chộn lại. Chị tức quá, bao nhiêu thương thân tủi phận bấy lâu nay vỡ oà. Hoá ra, biết bao công vun vén tần tảo sớm hôm được coi là chuyện đương nhiên đàn bà phải làm, học hành con cái tự mà phải lo, tiền nong gia đình vay nợ tự đi mà trả. Rồi đến khi rổ rau sống không vừa ý cũng có thể bạc bẽo hắt đi. 

Nghe đến đấy, những tưởng tức nước vỡ bờ thành to chuyện. Hoá ra kết cục lại là "bốn bỏ làm mười" cho ấm êm. Chỉ vì cả tháng tự mình không  làm nổi việc gì, anh bỗng đổ máu cam. Rồi bưng mặt ra chợ mếu máo với chị:  

" Tôi ốm lắm, không có mình tôi chết đến nơi rồi!". Vậy là chị lại mủi lòng, vừa buồn cười vừa tức.

Thương nhất mấy lời tâm sự sau cùng của chị: Thôi thì người ta đã có lời xin lỗi, chẳng lẽ mình lại già néo đứt dây. Chồng chị tuy chẳng đỡ đần được gì nhiều, nhưng được cái hiền lành tử tế. Lương tháng về vẫn đưa vợ. Lại không cờ bạc, rượu chè, gái gú. Vừa nói, chị lại vừa thoăn thoắt thái dưa... 

Mình cười xót xa. Tại sao đàn bà Việt lại được dạy đấy là những tiêu chuẩn mẫu mực để chọn chồng? Tại sao những điều tối thiểu lại trở thành niềm an ủi duy nhất trong những lúc cô đơn cùng cực vì gồng gánh cả những việc mà lẽ ra họ cần được san sẻ, cần được chở che? 

Rút cục, ai mới là phái yếu? 

Rút cục, ai sẽ dạy con về lý tưởng, về bản lĩnh, về trải nghiệm?  

Ai sẽ nâng bước chân con ra thế giới bao la để học thêm những tinh hoa?  

Ai sẽ cùng xây đắp một đời sống tinh thần phong phú? 

Ai? ...

Rút cục, vại dưa cà là lý tưởng sống, và thế giới là những buổi chợ thậm chí còn không ngẩng mặt lên nổi, mỗi ngày. 

Đàn bà ơi ! Phụ nữ ơi ! Vợ ơi ! Mình ơi ! Thương lắm …Thương nhiều lắm …Thương lắm thay !!!


Nguồn: FB 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Oct/2025 lúc 2:30pm
5593%201%20KyNiemMuiCuaMeNTTD
       Năm tôi 11- 12 tuổi là chị của 3 đứa em mà tôi vẫn hay làm nũng và được mẹ yêu chiều. Tôi dám chắc tuổi thơ của tôi được ăn phở nhiều hơn những đứa trẻ khác cùng thời, mỗi lần tôi ốm là mẹ mua ngay cho bát phở bò, lại thêm một chai nước xá xị con cọp cho tôi nhâm nhi trong lúc ốm đau. Đây là thuốc chữa bệnh kỳ diệu cho tôi mà khỏi cần uống thuốc tây thuốc ta gì cả.
       Thuở đó người ta không dễ dàng động chút nhức đầu sổ mũi là đi khám bác sĩ như bây giờ, mẹ tôi là “bác sĩ gia đình“ luôn, thấy tình hình tôi ốm “nặng” cụ thể rõ ràng như nóng sốt, cảm ho….thì mẹ ra tiệm thuốc tây khai bệnh và mua thuốc về, nếu loàng xoàng hoặc không kiểm chứng được như nhức đầu, đau bụng thì mẹ dùng “thuốc bổ” là tô phở và chai nước ngọt xá xị.
       Cho nên tôi thường xuyên…ốm, chơi nhảy dây với chúng bạn suốt cả buổi chiều xong, thấy đói bụng và thèm phở, tôi chạy về nhà nhăn nhó:
– Mẹ ơi con bị nhức đầu. Chắc con không ăn cơm nổi đâu.
Mẹ nhìn tôi và …chẩn bệnh:
– Nhảy nhót tung tăng cho lắm vào đầu tóc rối bù lên như tổ quạ, mặt mũi toàn mồ hôi, chứ ốm đau gì.
Tôi tiu nghỉu:
– Thế chiều nay nhà mình ăn cơm gì?
– Canh cua mồng tơi, cá nục kho.
Tôi lầu bầu:
– Con ngán canh mồng tơi, cá nục của mẹ luôn…ăn hoài à…
Mẹ mắng:
– Đừng có “Con nhà lính tính nhà quan” .
       Hôm nào tôi bị ốm thật tôi…mừng lắm vì có lý do chính đáng để được chiều chuộng, không phải quét nhà rửa bát và không làm các việc vặt khác, tôi được mẹ âu yếm cho nằm nghỉ ngơi trên giường, kéo màn gió che lại kẻo gió máy tôi sẽ bệnh thêm. Mẹ sai thằng em kế thua tôi 2 tuổi mang tô ra hàng phở của ông Hùng trong xóm mua phở về cho tôi. Tôi đang nằm “tịnh dưỡng” trên giường vẫn cố vén màn gió ngoái đầu ra dặn dò nó:
– Đợi ông ấy chan nước phở xong thì xin thêm tí nữa về chị ăn cơm nguội luôn nha.
Giọng thằng em ganh tị:
– Biết rồi, lần nào cũng xin thêm nước phở.
Rồi nó lẩm bẩm:
– Ỷ mình ốm làm tàng. Lúc ốm thì xưng “chị” ngọt ngào sai “người ta” đủ thứ, lúc thường thì toàn ăn hiếp “người ta”.
Mẹ tôi an ủi đứa này và mắng yêu đứa kia:
– Kệ chị đi con, chị đang ốm mà. Con này hễ ốm đau mà nghe đến ăn phở là tỉnh như sáo.
       Hàng phở ông Hùng trong xóm là một cái xe phở chứ có hàng quán gì đâu, người ta mua mang về hay nếu ăn tại chỗ thì ngồi ngay cái bàn kê ngoài sân với mấy cái ghế cạnh bên xe phở. Tôi không lạ gì cái xe phở ông Hùng, lâu năm nên ám khói, tô bát, ống đũa bày xung quanh cũ mèm, tất cả thành một màu…đen tối nhưng vẫn hấp dẫn với miếng thịt bò chín, bò tái, chùm hành lá treo lủng lẳng bày trong một tủ kính cũng ám khói bên cạnh thùng nước lèo nóng hổi luôn tỏa khói thơm mùi phở.
Bưng tô phở về nhà cho tôi xong mẹ lại sai thằng em:
– Con chạy sang nhà bác Chuông mua chai xá xị con cọp cho chị.
       Ăn tô phở xong tôi lấy cơm nguội trộn nước phở còn lại và..…ăn tiếp rồi mới tráng miệng từng hớp nước xá xị mẹ đã rót ra ly, mỗi lần chỉ một phần ly nho nhỏ, còn lại đậy nắp chai để dành chứ không phải một lúc uống hết cả chai xá xị đâu, có lẽ mùi xá xị thơm ngon thoảng như mùi thuốc bắc nào đó nên tôi uống vô là đỡ bệnh chăng?
       Những người mẹ trên khắp thế gian này ai cũng thương yêu con mình. Mẹ tôi cũng thế, lúc bấy giờ mẹ đã có 4 đứa con mà mẹ vẫn thương đứa con “già đầu” nhất là tôi. Nấu cơm bằng nồi gang với bếp củi, khi cơm cạn nước tắt lửa, cời than hồng đều ra, cơm chín ngon mà cơm cháy vàng đều cũng ngon, mỗi khi các con ăn cơm xong mẹ lại xới cơm cháy chia phần cho 4 đứa, tôi cũng được phần to bằng các em khỏi phải ganh tị.
       Thế là tuổi bé thơ của tôi có 3 món tôi thương yêu nhất là phở bò chín, nước ngọt xá xị và cơm cháy.
       Mẹ tôi kể rằng thuở tôi lên 8 suýt bị bắt cóc chỉ vì tôi ham đi xe Taxi. Khi ấy cha mẹ tôi sống trong một trại gia binh ở Hạnh Thông Tây, có vợ chồng nhà hàng xóm không con, chồng là binh sĩ đóng quân chốn xa thỉnh thoảng mới về nhà, người vợ ở nhà một mình vắng vẻ cô đơn rất thương yêu bé Bông là tôi, dì hay gọi tôi sang nhà dì chơi, cho ăn quà bánh, chải tóc cho tôi, nhiều khi hai dì cháu nằm nghe cải lương từ cái radio, tôi thường ngủ quên bên mấy câu đàn ca vọng cổ thắm thiết ( nên sau này tôi cũng thích nghe cải lương luôn) .
       Một hôm Dì rủ tôi có muốn đi Sài Gòn với dì không, tôi nghĩ được ngồi xe taxi đi xa là thích và đồng ý ngay, dì sang nhà xin phép cha mẹ tôi cho bé Bông đi theo dì lên Sài Gòn thăm người họ hàng sáng đi chiều về. Ai ngờ dì đi luôn một lèo 2 ngày trời làm cả nhà lo lắng không biết hỏi ai, mẹ tôi khóc sưng cả mắt cho là dì đã lừa và bắt cóc bé Bông . Đến ngày thứ ba thì Di cháu đi Taxi về, xe đậu ngay trước cửa nhà tôi, tôi chạy vào nhà trước, hí hửng ôm theo một con búp bế bằng nhựa và mấy gói bánh Sài Gòn Dì mua và họ hàng dì tặng cho tôi. Dì trả tiền Taxi xong vào sau, xin lỗi mẹ tôi, vì người họ hàng lâu lâu mới gặp đã năn nỉ níu kéo dì ở lại chơi vài ba ngày mới cho về. Có lẽ vì suýt mất tôi nên mẹ càng thương yêu tôi nhiều.
       Sống ở Mỹ lâu nay, tôi giao lưu với bạn bè trên các diễn đàn và ngạc nhiên thấy có nhiều bạn cũng như tôi, ngày xưa còn bé thích bị ốm đau lặt vặt để được mẹ chiều chuộng mua cho tô phở và uống chai xá xị con cọp. Ông Thái Quang Đáng trong diễn đàn TTH khoe ngày nhỏ thường giả bệnh để được ăn hủ tíu mì.. Tôi là “cao thủ” giả vờ ốm bệnh ăn nhiều phở thì ông Thái Quang Đáng cũng …chẳng vừa, đã từng ăn nhiều tô hủ tíu mì chẳng thua kém gì tôi.
       Lạ thật, thời ấy không có internet, không có iphone, không ai chỉ dẫn ai mà sao các bà mẹ chúng ta đều hành xử giống nhau? Chẳng lẽ tô mì, tô phở và chai xá xị con cọp đã là “công thức” là “thuốc chữa bệnh dân gian” cho đám con nít thời ấy nên ai cũng biết? và đám trẻ con chúng tôi nữa, có ai bảo ai đâu, đứa nào cũng biết khi ốm đau hoặc là giả vờ ốm đau đều được hưởng “đặc quyền” ấy.
       Thời gian đầu khi mới sang Mỹ định cư, mỗi lần đi chợ Mỹ tôi đều tò mò tìm xem có xá xị con cọp không mà chẳng thấy đâu. Một hôm chồng muốn mua bia uống, khi chúng tôi thấy mấy lon “Root Beer” thì chắc chắn đây là “Bia” rồi nên mua mấy lon về uống thử xem bia Mỹ ra sao. Nào ngờ mở lon “Root Beer” ra chẳng thấy mùi “Bia” gì cả, mà lại bất ngờ thấy mùi vị nước ngọt xá xị. Tôi reo lên:
– Tìm thấy nước ngọt xá xị rồi.
Tôi vui mừng được nếm lại mùi vị xá xị ngày xưa còn chồng nhịn vì không phải là “Bia”.
        Ở Mỹ, khu business nào của người Việt Nam cũng có những nhà hàng bán phở. Nào phở gà, phở bò chín, phở bò tái, phở bò sốt vang, phở “sang chảnh” với bò viên tái nạm gầu gân sách. Thường thì tôi vẫn chọn phở bò chín giống như tô phở mẹ vẫn mua về từ xe phở nhà ông Hùng trong xóm khi xưa. 
       Tôi có mua một cái nồi gang thỉnh thoảng tôi nấu cơm cố tình để có cháy, cơm cháy nồi gang trên bếp điện không ngon bằng cơm cháy nồi gang bếp củi của mẹ nhưng tôi ăn vẫn thấy ngon.
         Tôi tìm lại những mùi vị của phở bò chín, của nước ngọt xá xị, của miếng cơm cháy không vì thèm thuồng háo hức như thuở bé thơ mà chỉ vì tôi nghĩ đến mẹ. Đó là những mùi kỷ niệm của mẹ.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Oct/2025 lúc 2:15pm

Chồng Tôi Dạy Con

Kiểu%20cha%20mẹ%20dễ%20dạy%20con%20thành%20công%20-%20Giáo%20dục 

Nhà tôi có 3 đứa trẻ, trong đó một bạn đang tuổi dậy thì ngông nghênh và hai bạn còn lại vẫn là mầm non vừa chớm! 

Chồng vẫn thường hay nói: em cứ để anh dạy, trẻ nhỏ dễ dạy, cứ từ từ mà nói đừng có la hét, nồ con làm gì! Nghe xong mình chỉ muốn nói : " ừa, anh dạy đi, coi có tức nghẹn cổ hay không thôi".

Nghĩ là vậy, chứ tôi cũng nhẹ nhàng: dạ, anh cứ dạy các con, em sẽ không xen vào, hy vọng anh dạy các bạn ổn hơn em.

Đầu tiên, anh cho con nghĩ học thêm cả thảy...tôi phản kháng trong vô hiệu. Bọn nhỏ thì giống như được giải tỏa, như những chú chim được mở cửa bay ra khỏi cái lồng chật hẹp. Anh bắt buộc con, trên lớp cố gắng tập trung hết sức nghe thầy cô giảng bài, học phải hiểu, không được học như vẹt và phải làm luôn bài tập trên lớp. Còn nếu chưa hiểu về hỏi ngay, ba sẽ dạy. 

Sau việc học trên lớp là về nhà anh để bọn nhỏ học làm việc nhà: nấu cơm, rửa chén, phơi đồ, ủi quần áo, quét nhà, lau nhà dọn phòng. Bạn nữ lớn thì học thêm nấu ăn, cắm hoa, nấu chè với mẹ. Bạn nam thì học chà nhà vệ sinh, dọn vườn với ba.

Anh nói với các con, việc học kiến thức, chữ nghĩa là cả đời, tụi con có giờ trên lớp rồi, về nhà học kỹ năng sống, kỹ năng làm việc nhà, tập tính siêng năng, sạch sẽ, rèn luyện sức khỏe, năng lực làm việc và luyện cho đôi tay có sự khéo léo, điều này nó cũng ngang ngửa việc học.

Thời gian đầu, lo kết quả học của con sút giảm, tôi thấy thương, thấy tội khi những bàn tay nhỏ xíu phải làm việc nhà. Làm mẹ, cầm lòng không đặng. Nhưng cuối cùng, mình cũng phải chịu thua...vì ông chồng mình ổng cương quyết với mình phải để anh dạy, nếu em dạy con, chúng nó chỉ biết học và học ( học kiến thức trường lớp) rồi trở thành một trong những đứa không đụng tay tới việc gì.

Con gái thì trở thành một đứa vụng về, không biết nấu ăn, không có đức hạnh siêng năng, quán xuyến nhà cửa, gia đình, chỉ biết học thôi thì làm sao sau này con có một gia đình hạnh phúc khi không có những kỹ năng cơ bản của một người phụ nữ. Hãy để cho con được biết nhiều kiến thức đời sống hơn là trường lớp. 

Con gái anh, anh là người thương yêu nhiều hơn ai hết, anh muốn và đang rèn con trở thành một cô thiếu nữ dung mạo xinh đẹp, tính tình điềm đạm, đức hạnh siêng năng, con người sạch sẽ, ăn nói dịu dàng, cữ chỉ nhã nhặn. Trong đầu có kiến thức, vẻ ngoài có dung nhan. Là người phụ nữ có chiều sâu, đẹp, biết suy nghĩ và có bản lĩnh.

Còn về hai đứa con trai, em dạy thì chúng nó sẽ trở thành những người thô lỗ. Vì em chỉ la phạt và em không biết khích lệ, không tìm ưu điểm của con. Nếu chỉ cho con học và học thì mãi nó cũng không biết ga lăng với chị, với mẹ, với bạn bè, người thân là phái nữ. Không có năng lực giải quyết một vấn đề bất ngờ. Tay chân lóng ngóng. Và nhất là, sau này cưới vợ sẽ không biết phụ giúp đỡ người bạn đời của mình làm những công việc thường nhật. Nó không trở thành trụ cột được khi nó chỉ biết đi học mà không biết làm việc gì trong nhà. 

 Anh muốn, con trai là phải mạnh mẽ, gánh vác.

Nhưng tóm lại, anh muốn nhiều nhất chính là con được chơi nhiều hơn, các con vẫn còn nhỏ tuổi thơ qua nhanh lắm, em đừng nhồi nhét con phải học. 

Con thích mặc quần áo gì cứ kệ nó, đẹp thì gu thẩm mỹ tốt, độc lạ thì gu thẩm mỹ khác người vậy thôi. Em sao phải bực, hãy tôn trọng sở thích của con em nhé!. 

Thay vì em cấm chơi game thì hãy nói: mẹ sẽ cho các con chơi 30p vào khung giờ nào, con sẽ làm như vậy. Trẻ nhỏ dễ dạy, hãy dạy con, chỉ đường cho con đi, đừng để nó đi lung tung rồi mắng chửi.

Chúng ta đến với nhau vì tình yêu, các con cũng thế, chúng ta lao động vì trách nhiệm với các con với gia đình. Vậy nên, anh mong em nhớ, làm để kiếm tiền lo cho con. Mục đích lớn nhất là lo cho con. Lo ở đây là cơm ăn, áo mặc, học hành và điều quan trọng nhất là dạy dỗ thành người. 

Phải dạy cho con nhân sinh quan đúng đắn nó mới có đủ bản lĩnh trong cuộc sống, dù có là trai hay gái. Nên em hãy dành thời gian cho con, ăn với con, chơi với con, học cùng con như vậy mới là điều tụi nhỏ cần. Tụi nó không cần tiền, cần tình thương của chúng ta. Cha mẹ thương con, phải tính đường dài, phải có lộ trình, em và anh phải tính để con đường của con được dễ dàng một chút. Rồi tụi nó cũng sẽ dạy cho con, cháu nó giống như mình thôi. Thương như em là hại, thương phải rèn, con cái là phải dạy dỗ kỹ lưỡng, kiểm tra phẩm hạnh sát sao. 

Tập tính kỹ luật, chứ không phải là cảm tính!

Em hãy nghĩ lại đi, xem em đã đúng hay chưa....nếu sai mình sửa, sửa mình rồi mới sửa con. Một người mẹ thấu đáo, thông tuệ, bao dung, yêu thương thì những đứa con của cô ấy không thể nào dở tệ được. Anh tin điều đó.

Anh dạy con bằng cách đó từ đầu năm học đến giờ và tôi cũng không ngờ, 3 bạn thì 1 bạn học sinh xuất sắc, 2 bạn học sinh giỏi. Và thạo việc nhà, con gái khéo léo hơn, nhẹ nhàng hơn, con trai thì không còn ganh tỵ với nhau và biết nhường cho chị. 

Có lẽ, anh không chỉ dạy con....anh dạy cả tôi nữa....tôi tin với một người trụ cột như anh sẽ lái con tàu nhỏ của chúng tôi vào bờ an toàn. Tôi thấy mình may mắn


st.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Oct/2025 lúc 2:25pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Oct/2025 lúc 3:41pm

Nhà Con Một

 Nước%20Mắt%20Mẹ%20Già

Tôi nằm chèo queo trên giường bệnh vừa buồn chán vừa tủi thân, ngay lúc này tôi cần gì cũng chẳng có ai đỡ đần, gọi y tá không phải tức khắc họ có mặt ngay, mà cứ động một chút lại gọi cũng phiền, y tá bận chăm sóc nhiều bệnh nhân, hết phòng này đến phòng kia chứ có phải một mình tôi đâu.

Tôi nghĩ đến Ngọc Ngà người yêu của Đan con trai tôi, Đan đã hai lần vào cuối tuần đưa bạn gái đến bệnh viện thăm mẹ, cô gái hiền dịu có ăn học và công việc làm tốt đã chiếm cảm tình của tôi. Hai đứa yêu nhau từ lúc nào mà tới bây giờ Đan mới cho tôi biết. Tôi bỗng ao ước giá Ngọc Ngà là con dâu thì gia đình tôi có thêm người, tôi không phải cô đơn như lúc này.

Trưa nay một người bạn đã vào thăm tôi, chị Hảo chuyện trò khá lâu an ủi tôi phần nào. Năm ngoái chị Hảo cũng vào nằm bệnh viện này vì mổ ruột thừa, chị nằm mấy ngày mà chồng con rộn rịp ra vào thăm nom, ba đứa con thay phiên nhau ngủ lại để chăm mẹ. Còn tôi nhà con một, chồng tôi đã qua đời hai năm nay, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng là Đan, con tôi làm sao lo cho xuể.

Mỗi chiều đi làm về Đan hối hả chạy thẳng đến bệnh viện thăm tôi cho kịp giờ thăm rồi mới về nhà nấu cơm. Chiều qua tan làm, Đan căng thẳng mệt mỏi vì việc sở, vì kẹt đường trên highway nên không còn sức vào thăm mẹ, về nhà nghỉ ngơi rồi ngủ thiếp đi. Thương con tôi tự trách mình vô ý té ngã gãy chân phải vào bệnh viện thành kẻ vô tích sự làm phiền làm khổ lây cho con. Tôi nằm bệnh viện hai tuần Đan đã sa sút hẳn ra.

Trưa nay tâm sự với người bạn gần là chị Hảo rồi, lát nữa tôi sẽ bấm cell phone cho chị Tuyết người bạn ở xa để tâm sự tiếp cho vơi nỗi buồn.

Ngày xưa tôi luôn tự hào mình đã nghĩ đúng làm đúng khi chủ trương chỉ đẻ một đứa con. Cha mẹ sẽ có thể chăm sóc dạy dỗ con đầy đủ cả tinh thần lẫn vật chất, nhà nghèo một con cũng đỡ vất vả hơn nhà nghèo đông con, nhà giàu một con càng sung sướng cho nó hơn, bao nhiêu tài sản của cha mẹ nó hưởng trọn.

Chị Tuyết là bạn thân cùng xóm với tôi thì ngược lại thích đẻ nhiều con cho vui cửa vui nhà và sau này tha hồ nương tựa con cái. Tuyết cẩn thận… trừ hao, con có đứa ngoan đứa hư, đứa này không hợp mình thì còn đứa kia, đứa nào chẳng may mất sớm thì vẫn còn những đứa khác.

Tôi biết thế và cũng đã từng thấy bác Hưng trong xóm có 2 con, một đứa đi tắm sông chết đuối ở tuổi vị thành niên, thằng còn lại vợ chồng bác cưng quý như vàng ngọc, cho nó ăn học mong mai sau thành ông này ông nọ nhưng nó hư hỏng ăn chơi xì ke ma túy và chết vì ma túy. Tôi tin đó là phần số mỗi gia đình, nhà hai con, nhiều con hay chỉ một con cũng có may rủi, khổ đau và hạnh phúc. Thiếu gì nhà con một mà thành con đàn cháu đống vinh hoa phú quý.

Tuyết vẫn là đề tài cho tôi phê phán mỗi khi thấy bạn vất vả nuôi con.

Sau 1975 chồng đi tù “cải tạo” về, vợ chồng chị Tuyết lếch thếch với đàn con 5 đứa đi Long Khánh làm kinh tế mới. Hôm tiễn Tuyết tôi vừa tội nghiệp vừa mỉa mai trách bạn:

- Giá ngày ấy mày nghe lời tao đẻ một con thì vẫn ở thành phố cầm cự được. Thôi, hai vợ chồng cố cuốc đất trồng khoai nuôi đàn con nhé.

Còn tôi, cũng chồng đi “tù cải tạo” về, vợ chồng tôi bươn chải đủ sống nuôi con chẳng phải bán nhà đi kinh tế mới với đàn con nheo nhóc như Tuyết.

Vài năm sau vợ chồng Tuyết lên thành phố làm giấy tờ đi xuất cảnh diện HO tôi gặp lại toàn bộ gia đình họ. Hai vợ chồng vẻ khắc khổ lam lũ với 5 đứa con và đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, vậy là về vùng kinh tế mới vợ chồng Tuyết vẫn… chưa chừa, đẻ thêm đứa nữa tổng số là 6 đứa con, chúng vừa quê mùa vừa nhút nhát lại làm tôi mủi lòng tội nghiệp lần nữa.

Gia đình tôi sang Mỹ diện HO sống tại bang Kansas cùng với thân nhân, cuộc sống hai vợ chồng với 1 đứa con bao giờ cũng nhẹ gánh lo và thanh thản, Con trai tôi ngoan ngoãn học giỏi tốt nghiệp kỹ sư làm hãng Boeing vợ chồng tôi thật vui mừng mãn nguyện.

Tôi từng khuyên Đan sau này lập gia đình đẻ một con thôi, sẽ có thì giờ và tiền bạc chăm lo cho con nên người.

Gia đình Tuyết ở Ohio theo người bảo trợ. Thỉnh thoảng chúng tôi liên lạc nhau qua điện thoại, thư từ.

Ngày nay nhìn cảnh gia đình Tuyết tôi… phát thèm. Vợ chồng Tuyết có một đàn con, đâu vào đấy cả.

Vợ chồng thằng con trai lớn không được đi Mỹ cùng cha mẹ, nay làm ăn thành đạt nhờ cha mẹ gởi tiền về giúp vốn, làm chủ một tiệm sửa xe và bán xe gắn máy ở Long Khánh. Ở Mỹ 3 đứa con học hành xong và đi làm, còn 2 cô con gái lớn đều khá giả nhờ nghề nail, một đứa làm nail ở Texas, một đứa chủ tiệm nail ở Florida.

Thỉnh thoảng vợ chồng Tuyết về Việt Nam chơi và thăm con trai lớn, nàng hãnh diện sung sướng không ngờ có ngày thằng con mình nghèo khổ từ trong ruộng rẫy Long Khánh tiến ra mặt phố làm ông chủ tiệm bán buôn lớn. Con dâu biết điều, biết công ơn cha mẹ chồng, khi cha mẹ từ Mỹ về, Tuyết thích gì, thèm ăn gì con dâu đều chiều chuộng hết lòng hết dạ.

Ở Mỹ vợ chồng Tuyết khi thì đi thăm con trai khi đi thăm con gái, mỗi nơi chốn con sinh sống là mỗi chuyến du lịch thân thương. Tới mùa cây trái con gái ở Florida gởi thùng nọ thùng kia trái cây vườn nhà nhãn, mãng cầu tươi ngon biếu cha mẹ.

Hiện nay vợ chồng Tuyết ở chung với thằng út kỹ sư còn độc thân. Tôi đã nhận ra ngày xưa Tuyết suy nghĩ đơn giản và thực tế khi đẻ nhiều con thế mà hay và chí lý ít ra cho chính gia đình Tuyết. Thuở con tôi lên ba lên bốn bé Đan đã từng vòi vĩnh:

- Mẹ đẻ em bé đi, con muốn có em để chơi với nó.

Tôi chỉ đống đồ chơi và khoe:

- Mẹ mua cho con cả đống đồ chơi xịn nè. Mai mốt mẹ mua thêm nữa.

Con lắc đầu phụng phịu:

- Đồ chơi không biết nghe và không biết nói. Con muốn nói chuyện với em cơ.

Tôi phải đe dọa :

- Có em, nó sẽ giành đồ chơi, giành đồ ăn của con, nó sẽ cãi nhau với con, nó sẽ đánh nhau với con…

Bây giờ nghĩ lại thằng con tôi mới đáng tội nghiệp chứ không phải lũ con đông nhếch nhác của Tuyết, chúng có anh chị em vui vầy với nhau, còn con tôi, cả thời tuổi thơ thui thủi một mình với đống đồ chơi không cảm giác, không biết nói cười và nỗi cô độc ấy theo nó tới khi lớn lên, mọi thứ bổn phận trách nhiệm với cha mẹ lúc bình an cũng như khi hoạn nạn cũng chỉ một mình con tôi. Có anh chị em khi sa cơ hay lúc hạnh phúc vơi đầy chúng sẽ bênh vực nhau, nhờ cậy, giúp đỡ nhau, chia sẻ buồn vui cho nhau chứ người dưng nào sánh bằng.

*
***

Chiều nay đi làm về Đan vào thăm tôi, nó chưa kịp hỏi han mẹ thì tôi đã hỏi con trước:

- Con và người yêu định khi nào kết hôn?

Đan ngạc nhiên:

- Mẹ đang nằm bệnh viện mà hỏi chuyện hôn nhân của con làm gì?

- Mẹ muốn sau khi mẹ khỏi bệnh chúng con kết hôn. Nhé?

Và tôi dệt ước mơ những điều lại rất thực tế:

- Con lấy vợ và đẻ nhiều con, cho mẹ thật nhiều cháu nội Nhé?

Đan vui vẻ kể:

- Ngọc Ngà có mấy anh chị em, vui lắm mẹ. Mỗi lần đến nhà nàng con cảm thấy ấm áp tình thân từ họ, những điều mà trong đời con chưa từng có. Cô ấy và con cũng muốn sau này sẽ có vài đứa con. Nhưng mẹ từng dặn dò con là lấy vợ chỉ đẻ một đứa thôi mà.

- Mẹ sai rồi, càng ngày mẹ càng biết mình sai nhất là mấy tuần nằm bệnh viện làm con bận rộn trăm bề. Mẹ để gia tài cho con bao nhiêu cũng chẳng đáng giá bằng cho con tình thân ruột thịt anh chị em.

Đan khoe:

- Cuối tuần này Ngọc Ngà lại muốn vào thăm mẹ nữa đó.

Tôi mỉm cười vui mừng:

- Mẹ ấm lòng quá, mẹ đang tưởng tượng nhà mình có 2 người sẽ thành 3 và tương lai thêm một đàn cháu nội. Nhất định mẹ sẽ khỏi bệnh sớm để lo đám cưới cho con và cũng nhất định mẹ sẽ khỏe mạnh sống lâu để vui hưởng hạnh phúc bên con cháu.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Oct/2025 lúc 8:56am

Nỗi Đau Hạnh Phúc 

 

tranh đinhtrườngchinh


Lâu lắm tôi mới gặp lại anh chắc khoảng hơn 30 năm. Lần sau cùng là lần tôi giúp anh thông dịch giấy tờ khai sanh của ba cô con gái để làm thủ tục mua bảo hiểm trong sở làm.


Anh tên Phước, nhưng không biết cái tên đó chỉ mang lại vận xui cho anh suốt từ thời nhỏ đến ngày anh vượt biên qua Mỹ. Anh sinh ra nhà nghèo, chỉ là một anh lính thợ máy trong hải quân VNCH với đồng lương không đủ sống để nuôi một vợ và hai đứa con gái còn chưa tới tuổi đi học. Vì là thợ máy tàu nên gia đình anh được cho mấy chỗ trên chuyến ghe vượt biên năm 1980.

Tưởng là gặp may, nhưng đó lại là chuyến ghe mang đến đinh mệnh nghiệt ngã của cuộc đời. Chiếc ghe thoát khỏi VN bình yên cho đến khi vào vịnh Thái Lan thì ghe của anh gặp bọn hải tặc Thái. Những người dân đánh cá hiền lành của Thái đã trở thành những tên cướp biển hung ác và vô cùng tàn bạo. Chúng nhận ra rằng những thuyền nhân VN là những con mồi dễ làm thịt nhất khi bơ vơ trên biển, nơi mà luật lệ và lương tâm không còn có chỗ. Ghe của anh bị cướp và chúng đưa tất cả thuyền nhân vào đảo Kra để giam giữ. Tiền của, vàng bạc thì chúng lột hết và đám phụ nữ trở thành trò tiêu khiển của bọn chúng mỗi lần ghé đảo sau khi đánh cá về. Vợ anh không may như hầu hết các phụ nữ trên ghe cũng là nạn nhân của bọn chúng mà khốn nạn nhất chúng lại cưỡng hiếp chị trước mặt người chồng đang gục ngã vì đòn thù của chúng khi cố bảo vệ vợ mình.

Đến khi được Cao Ủy tị nạn cứu ,đưa vào trại thì chị tuy sống nhưng như là một cái xác không hồn. Khoảng tháng sau thì chị cứ ói mửa và khi vào bệnh viện thì oan trái quá khi biết chị đã có thai. Chắc chắn giọt máu trong bụng kia là giọt máu của bọn thú vật hải tặc Thái Lan ,vì cả mấy tháng trời anh chị đâu có dịp mà gần gũi chuyện gối chăn.

Ai cũng khuyên chị nên bỏ cái thai vì để nó sẽ trở thành nỗi khó xử cho cả gia đình chị về sau này. Cả anh và chị không đắn đo, đều tự nguyện nếu bề trên đã định cho chị phải mang giọt máu kia thì anh chị sẽ gánh. Dù gì bào thai chẳng có tội tình gì và cũng có mang dòng máu của chị. Cháu gái ra đời ở trại tị nạn và vài tháng sau gia đình anh chị đi định cư ở Mỹ.


Anh chị chọn một tiểu bang ở miền Đông Nam, xa lạ ít người Việt để làm lại cuộc đời và tránh giao thiệp với những người quen biết cũ. Chị vì không thể quên cơn nạn tai trên biển, dần mắc bệnh trầm cảm, u uất được vài năm rồi phát bệnh xong mất đi trong giấc ngủ.

Anh đưa ba cháu gái về California tránh lạnh và đến vùng tôi ở. Ngay từ lúc đầu, tôi đã thấy lạ vì thấy rõ ràng anh thương con bé út lắm. Anh hay chép miệng nói tội con bé nó mồ côi. Hai cô chị cũng tưng tiu cô em út như báu vật. Sau này thân rồi, anh mới vừa khóc vừa kể cho tôi nghe câu chuyện thương tâm của gia đình anh và lúc đó tôi mới hiểu.

Cứ tưởng tượng cảnh gà trống nuôi con, mà con lại là ba cô con gái thì biết khó khăn đến chừng nào cho một người đàn ông. Phải thấy anh hỏi các bà chung quanh cách tập thắt bím, cài nơ, kẹp tóc cho con gái hay lúc mấy cô đã đến tuổi dậy thì mới biết là anh khổ nhọc lắm. Bao nhiêu công việc làm lương cao, anh phải đành từ chối vì muốn dành hết tình thương và thời gian cho ba đứa con thơ. Anh nhất định vì các cháu nên không bước đi bước nữa dù nhiều người mai mối và anh còn rất trẻ.

Nhiều lúc tâm sự, vì quá thân tình, tôi hỏi anh có một lúc nào đó, nhìn cháu gái út có làm cho anh khó chịu hay anh bị gợi nhớ đến kỷ niệm hãi hùng của chuyến vượt biên không? Tôi còn nhớ ánh mắt và lời nói của anh đẵm đầy tình người và tình cha con: Cháu là con của hai vợ chồng tôi và là em của hai đứa chị nó, chắc đã đủ rồi phải không anh? Tôi còn nhớ, bắt tay anh thật chặt rồi nói: Đúng vậy. Thế là quá đủ rồi.


Bẵng đi một thời gian tôi không gặp anh, vì nghe nói hai cháu lớn đã vào chung một trường đại học ở tiểu bang khác. Vì không muốn xa các cháu, anh đã di chuyển hẳn tới đó để gần gũi và lo lắng cho các cháu. Thôi thế cũng mừng vì ít ra anh cũng được niềm hạnh phúc khi thấy các cháu đã có một định hướng rõ ràng cho tương lai.

Gặp lại anh hôm nay, anh rủ tôi ngồi lại kể cho tôi nghe thêm những gì đã xảy ra cho gia đình anh trong thời gian qua. Hai cháu lớn được học bổng tại những trường Ivy League nổi tiếng ở nước Mỹ. Cô lớn tốt nghiệp MBA và hiện nay là Director của một bệnh viện lớn tại California. Cô kế ra trường bác sĩ MD, cô út học xong dược sĩ, bị hai cô chị ép phải nghỉ làm, hai chị nuôi cô em trở lại trường học bác sĩ và hiện nay đang hành nghề tại Los Angeles.

Hai cô chị đã lập gia đình và hiện nay anh sống với cô út tại một khu nhà giàu nhất nhì nước Mỹ gần vùng tôi ở. Nhưng hình như nỗi đoạn trường chưa chịu buông tha gia đình anh. Vài năm trước cô chị mắc bạo bệnh ung thư máu Leukemia mà tất cả phương pháp hóa trị tân tiến nhất đã bắt đầu chịu thua. Anh kể là anh bị khủng hoảng đến cực độ khi nhìn thấy hai đứa cháu ngoại còn nhỏ mà bản án tử hình thì như đã ban ra cho cô con gái đầu. Cô em thứ nhì là Oncologist cũng gục đầu bất lực trước số trời ngoại trừ bone marrow transplant. Cả nhà đều thử coi có thể hiến tủy cứu cháu hay không… Nhưng đúng là trời thương… cô em út lại là người có tủy hợp nhất với cô chị và cuộc ghép tủy đâ thành công. Cô chị lành bệnh chính nhờ cô em út của mình. Anh chắp tay nhìn lên trời và xúc động nói: anh nghĩ coi, đó có phải là trời sắp xếp mọi sự cho gia đình tôi không anh. Ngày có con bé, tôi chỉ nghĩ đó là việc phải làm và cần làm. Tôi chỉ nghĩ đơn giản, tôi thương vợ tôi và đây là máu huyết của vợ tôi, tôi phải lo, phải gánh vác thôi. Gia đình tôi may mắn lắm anh à. Tôi được Ơn Trên soi sáng nên đã làm đúng theo lương tâm của mình. Thế mới biết Trời xanh thật là có mắt.

Đời tôi gặp nhiều loại đàn ông không ra gì, nhưng giờ mới biết trên đời này đàn ông đúng nghĩa đàn ông cũng còn nhiều lắm.

Câu chuyện trên càng làm tôi tin tưởng thêm rằng: bề trên đã an bài cho mỗi người một số phận và luật nhân quả rất công bằng. Gieo giống ngọt thì mới mong có trái ngọt.


Mong anh và các cháu hạnh phúc và gặp những điều an lành nhất.


Brian Hoàng

* Tên thật nhân vật đã được thay đổi và câu chuyện này được kể lại với sự đồng ý của nhân vật.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 24215
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 11:44am

Nghề Bẻ Cổ Thiên Hạ 


 

Đại Quan họ Đỗ, quê cha đất tổ ở Huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, một vùng núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình nhưng nghèo. Ninh Bình là vùng đất hẹp, người đông cho nên đất đai quý hơn vàng. Tổ tiên bao đời sống bằng nghề nông, đổ mồ hôi nước mắt trên vài mẫu ruộng, sống chết với ruộng đồng nhưng cuộc đời vẫn không khá. Đấy là nói về hàng trung nông, còn bần nông thì đời sống còn cơ cực gấp bội; Đã thế lại còn sai dịch, sưu thuế, đóng góp với làng nước nữa. Chỉ có tầng lớp quan lại là giàu sang, phú quý. Các quan bóc lột, bẻ đầu bẻ cổ dân ghê quá. Tới cụ cố tổ đời thứ tư, nhân có Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý, có thể cải số Trời cho nên mới nảy ra ý định thỉnh cụ về nhà để nhờ cụ để mồ để mả cho, may đâu con cháu sau này sẽ khấm khá hơn.

 Ba tháng trời sống cung phụng  “cơm gà, cá gỡ”, Cụ Tả Ao sáng xách gậy trúc đi thăm thú khắp vùng để “tầm long, tróc mạch”, chiều tối mới về. Một ngày kia cụ ngồi giữa phòng khách, nghiêm trang hỏi gia chủ:

- Thế ông bà muốn cái gì?”

Ông bà cố tổ chắp tay, khép nép đứng bên cạnh, trong thâm tâm thì muốn nói xin cụ để mồ để mả cho con cháu sau này làm quan, nhưng nói ra thì sỗ sàng quá cho nên bẽn lẽn thưa:

- Xin cụ để sao cho con cháu sau này có thể bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ.

 Dường như hiểu thâm ý chủ nhà và cũng là để đền ơn, Cụ Tả Ao nói:

- Tôi đã tìm được một mảnh đất tốt, con cháu sau này sẽ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ, tuy nhiên...

 Tới đây cụ dừng lại rồi nói tiếp, “Phúc phần đều do Trời định, kết phát hay không còn tùy thuộc vào âm phần phước trạch nữa.”

Nghe nói thế ông bà cố tổ mừng quá, run run nói: 

- Cảm ơn cụ. Thật phúc đức quá. Cụ dạy thế nào thì chúng con theo vậy.

Sau khi chọn được ngày giờ tốt, ngôi mộ của cụ cố tổ đời thứ năm, tức là thân phụ của ông tổ đời thứ tư được bốc lên rồi cải táng trên một gò đất cao, hai bên có hai hàng cây chạy dài xuống mà Cụ Tả Ao nói rằng đó là Tả Phù, Hữu Bật khiến nghề nghiệp của cháu con sau này rất bền vững cho dù thời thế có đổi thay thế nào đi nữa.

Cải táng xong và tin tưởng vào tài năng xoay chuyển quyền Tạo Hóa của Cụ Tả Ao, trong lòng đầy phấn chấn, ông bà cố tổ cho bán bớt đi hai sào ruộng để cho cậu con trai theo học một cụ Cử nổi tiếng hay chữ ở Nam Định với hy vọng con mình đỗ đạt ra làm quan. Thế nhưng sau sáu năm dùi mài kinh sử, hai lần thi Hương không đậu, ông con phẫn chí trở về quê ngậm ngùi nối nghiệp cha ông khi cụ cố tổ qua đời.

Cụ cố tổ đời thứ ba mà Đại Quan gọi là cụ, lớn lên trong một giai đọan mà đất nước đầy biến động...từ việc Vua Gia Long dẹp yên nhà Tây Sơn rồi tới Quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất cho nên bút nghiên, thi cử là điều không tưởng. Khi ông tổ đời thứ hai mà Đại Quan gọi là ông nội ra đời thì Thực Dân Pháp đã áp đặt được một nền cai trị vững vàng trên đất nước An Nam. Muốn ra làm quan lúc bấy giờ phải học Trường Hậu Bổ hoặc Trường Thông Ngôn. Nhiều nhân vật tốt nghiệp Trường Thông Ngôn đã trở thành Phụ Chính Đại Thần hoặc Thượng Thư cũng chỉ nhờ khả năng thông dịch tiếng Pháp cho quan lại Thực Dân. Cụ cũng muốn cho con lên Hà Nội theo học trường này, vì một khi tốt nghiệp, dù học thức chỉ là một anh thông dịch viên tầm thường nhưng chuyện làm quan Tổng Đốc là chuyện dễ dàng khi được quan Tây cất nhắc. Khi đó thì tha hồ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ. Thế nhưng muốn được tuyển vào học phải có sự tín cẩn và giới thiệu của các quan Thực Dân hoặc quan lại An Nam thân Tây cho nên cụ đành bỏ cuộc.

Ông nội của Đại Quan sinh được hai người con trai. Người con đầu lòng chính là thân phụ của Đại Quan, ở lại làng quê để nối nghiệp tổ tiên. Theo đuổi giấc mơ con cháu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” cho nên ông đã cho người con thứ- tức chú của Đại Quan lên Hà Nội để theo đuổi việc bút nghiên vì ông này lúc bé rất thông minh. Thế nhưng dù cố gắng hết mình, ông chú cũng chỉ đậu nổi bằng Thành Chung rồi làm thư ký cho một hãng buôn mà thôi. Nghe bố kể lại chuyện để mồ để mả năm xưa, khi Đại Quan chào đời, ông thân sinh ra Đại Quan vừa tức, vừa cay cú cho nên nhất quyết đặt cho đứa con trai một cái tên để thể hiện giấc mơ của giòng họ. Mới đầu ông định chọn cái tên Đỗ Quan Lớn nhưng sợ làng xóm chê cười - nghèo mà ham, cho nên đổi thành Đỗ Đại Quan. Đại Quan cũng là Quan Lớn, nhưng nho nhã và kín đáo hơn. Như vậy cái tên Đại Quan là cả một giấc mơ mà giòng họ đã ấp ủ bao đời nay.

Khi Đỗ Đại Quan được ba tuổi thì Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra, rồi Nhật chiếm Đông Dương, rồi Nhật đầu hàng, rồi Việt Minh cướp chính quyền, quân Lư Hán tràn vào, rồi Pháp trở lại. Việt Nam giống như một thân thể bầm nát bị đủ thứ loại ngoại bang giày xéo. Trong bối cảnh đất nước tràn đầy binh đao, khói lửa, đói kém, đủ thứ quan quyền đè đầu và bóc lột người dân thì một thị trấn nhỏ như Nho Quan, trẻ con được ê a hai chữ i, tờ đã là khá lắm rồi.

Vào năm 1953 chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh trở nên khốc liệt. Nho Quan là vùng trái độn. Nếu Pháp bình định được Nho Quan thì Liên Khu Tư của Việt Minh lâm nguy. Ngược lại nếu mất Nho Quan thì Pháp không sao giữ được Ninh Bình. Khi Ninh Bình không giữ được thì Nam Định sẽ rơi vào tay Việt Minh và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ mất. Chính vì thế mà Pháp quyết đánh chiếm Nho Quan còn Việt Minh thì quyết tử thủ tại Nho Quan. Do đó có thể nói Nho Quan là nơi hứng chịu nhiều bom đạn nhất trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Người dân ở đây một cổ hai tròng. Thanh niên lớn lên nếu không theo Việt Minh thì cũng bị Pháp bố ráp để bắt lính. Trong một gia đình, có khi người anh đi bộ đội trong khi người em lại đi lính cho Pháp và cũng là lúc Đại Quan mười bảy tuổi. Trước tình thế nguy ngập đó, ông cụ thân sinh không còn cách nào khác là cho Đại Quan lên tá túc tại nhà người em ở Hà Nội.

Nhận nuôi Đại Quan, ông chú không biết tính sao khi nhìn cháu mình đã lớn mà không nghề nghiệp, không chữ nghĩa giữa tình thế khó khăn của Hà Nội trong thời chinh chiến. Hơn thế nữa cũng không thể để Đại Quan lêu nghêu mãi. Một ngày kia ông nghiêm trang nói với Đại Quan:

-Không phải chú thím không thương cháu nhưng cháu đã lớn tuổi. Một là đi học, hai là đi làm. Đi học thì trễ quá. Làm sao cháu có thể vào trung học trong khi chưa xong bậc tiểu học? Vả lại cháu cũng không thể sống không nghề nghiệp như thế này và có thể bị Tây bắt lính bất cứ lúc nào.

Ông chú dừng lại rồi sau giây phút trầm ngâm, ông  nói tiếp:

-Chú khuyên cháu là nên đi làm. Chú có quen biết một ông chủ hiệu hớt tóc. Cháu có thể học nghề tại đó một thời gian rồi sau này chú sẽ tính kế khác.

Là một câu trai quê mới lớn, ngơ ngác giữa lòng đô thị, lại mang thân phận ăn nhờ ở đậu, Đại Quan không còn lựa chọn nào khác hơn là nghe lời ông chú. Vả lại học nghề hớt tóc cũng có cái lạ, ít ra là bớt khổ cực hơn những ngày cày sâu cuốc bẫm ở làng quê.

 Sau hai tuần lễ học cầm tông-đơ, dao, kéo tương đối đã thành thạo, ông chú bỏ tiền mua cho Đại Quan một chiếc xe đạp, một bộ đồ hớt tóc, một chiếc ghế xếp để Đại Quan vừa thực tập mà cũng vừa hành nghề hớt tóc dạo cho trẻ em ở các ngõ hẻm hoặc ở vùng ngọai ô. Dĩ nhiên trẻ em là “địa bàn” lý tưởng để các ông thợ cúp mới ra nghề thực tập. Trẻ em, nhất là bọn trẻ con nhà nghèo thì đầu tóc quá lắm chí hớt trọc hoặc húi court (1) chứ đâu có kiểu cọ như mấy công tử Hà Nội cho nên mấy ông thợ tập sự tha hồ tung hoành. Chắc chắn đã có khá nhiều chú nhóc là nạn nhân của ông thợ Đại Quan này, nhưng đó là chuyện nhỏ, nhằm nhò gì. Rủi chú nhóc nào bị cạo béng đi một mảng tóc thì chỉ biết nếu máo chứ ăn vạ ai bây giờ?

Sau ít tháng, thấy nghề nghiệp của Đại Quan tương đối thành thạo, ông chú năn nỉ một chủ nhà ở Phố Hàng Thiếc để cho phép Đại Quan đặt một chiếc ghế hớt tóc ở ngòai bờ tường, bên dưới một tàng cây hoa đại. Thế là anh chàng Đại Quan nhà ta đã có một “cơ ngơi” để hớt tóc cho thanh niên, người lớn, ông già chứ không còn là trẻ em như mấy tháng trước nữa. Kể từ giờ phút này Đại Quan rủng rỉnh đồng ra đồng vào, không còn phải xin tiền chú thím như trước.

Trong lúc lo âu, vội vã tìm cách ổn định đời sống cho Đại Quan, ông chú không để ý chi cả, thế nhưng một hôm tình cờ ghé ngang chỗ “hành nghề” của cháu mình, nhìn Đại Quan nắn đầu, bẻ cổ khách hàng trong khi hớt tóc, cạo râu, nhớ tới việc để mả năm xưa ông giật mình, mồ hôi ông vã ra. Tối hôm đó, sau bữa cơm, ông thận trọng kể lại từng chi tiết về cuộc cải táng mộ cụ tổ bốn đời cho Đại Quan nghe. Kể xong ông nói với giọng lo lắng:

-Theo lời truyền tụng, được Cụ Tả Ao để mả cho, chậm lắm là hai đời sẽ kết phát. Cũng có khi “phát dã như lôi” tức là kết phát ngay đời thứ nhất. Thế nhưng chú không hiểu sao tới đời thứ ba vẫn chưa kết phát…và tới đời thứ tư tức đời cháu thì…cháu lại làm cái nghề …bẻ hầu bẻ cổ thiên hạ như thế này! Hay dòng họ ta phúc bạc? Hoặc cũng có thể ông bà cố tổ làm Cụ Tả Ao phật ý điều gì cho nên cụ mới chơi sỏ, hoặc Cụ Tả Ao chọn lầm đất chăng? Thật tình chú không hiểu nổi.

Nghe ông chú kể lại như thế, là một thanh niên sinh ra ở thập niên 1940, Đại Quan cũng tỏ vẻ buồn nhưng không tin tưởng lắm vào việc để mồ để mả như các thế hệ trước cho nên chàng ta nói cứng:

-Việc để mồ để mả có khi chỉ là truyền thuyết, tuy nhiên cháu chỉ làm cái nghề này một thời gian rồi chuyển qua nghề khác - vừa để cải số vừa để cho vong linh các cụ khỏi tủi thân vì có thằng chắt bốn đời phải làm nghề hớt tóc.

Nghe Đại Quan nói thế ông chú dù trong lòng vẫn còn rầu rĩ, nhưng cũng yên tâm phần nào.

Thấm thoắt thời gian qua đi rất nhanh. Chiến sự chẳng những không lắng yên mà mỗi lúc mỗi trở nên ác liệt. Rồi đùng một cái Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève ra đời và đất nước chia đôi. Phân nửa người dân Hà Nội bỏ nhà bỏ cửa lên máy bay hoặc xuống Hải Phòng đáp tàu xuôi Nam. Trong tình thế hoang mang tột cùng như thế, ông chú không còn chọn lựa nào khác khi hãng buôn cũng di chuyển vào Nam. Khi gia đình chuẩn bi bán đổ bán tháo đồ đạc, giường tủ, ông chú hỏi Đại Quan là có muốn theo gia đình vào Nam hay trở về quê. Là một thanh niên mới lớn sẵn máu phiêu lưu mạo hiểm, ngòai ra cũng muốn thay đổi mệnh số, sau khi gửi thư về cho bố mẹ mà không thấy bố mẹ phản đối gì, Đại Quan quyết định vào Nam với ông chú. Để bày tỏ quyết tâm cải số, trước ngày lên máy bay, Đại Quan đem cả thùng đồ nghề hớt tóc ném xuống Hồ Tây, thề độc là sẽ không bao giờ cầm lại cái dụng cụ để  “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa.

Theo gia đình chú di cư vào Nam, tá túc ở Khu Bàn Cờ, Đại Quan choáng ngợp bởi Sài Gòn - Hòn Ngọc Của Viễn Đông. Trong lúc rảnh rỗi, chưa công ăn việc làm, Đại Quan lang thang ở các khu Chợ Vườn Chuối, Phan Đình Phùng, Trần Quý Cáp, Lê Văn Duyệt để tìm hiểu cuộc sống mới và do méo mó nghề nghiệp, chàng la cà tới mấy ông thợ hớt tóc để làm quen. Đại Quan thấy Miền Nam sao dễ thương chi lạ. Của cải thì phong phú, đời sống thì dễ dãi, tác phong thì bình dị. Khách hớt tóc không trả gía, kỳ kèo như ngòai Bắc mà còn cho tiền pour bois.(2) Buổi trưa các ông thợ cũng như các ông đạp xích-lô, tác phong như Tây, gác chân lên đọc báo nghỉ ngơi chẳng thèm làm.  Một ông thợ hớt tóc, dù tá túc ở dưới hàng hiên, một ngày kiếm năm mươi đồng dễ như chơi.

Với hy vọng tràn trề là xã hội mới, hòan cảnh mới sẽ đưa tới cuộc đời mới, từ đó giã từ cái nghề oan nghiệt “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ”. Thế nhưng mang thân phận của một kẻ di cư xa lạ, tìm kiếm một việc làm thích hợp không phải chuyện dễ dàng. Đạp xích-lô hay lái taxi thì đường xá phải thuộc làu. Phu khuân vác bến tàu thì đòi hỏi sức khỏe và vô cùng cực nhọc. Xin làm thư ký thì không đủ khả năng. Buôn bán thì phải có vốn và dù có vốn rồi nhưng biết buôn bán gì đây? Còn đi học thì lớn tuổi quá. Dù đã cố gắng hết mình và cả với sự trợ giúp của ông chú, Đại Quan cũng sao tìm ra được một nghề để mưu sinh. Thấm thoắt thế mà ba tháng đã qua. Số tiền dành dụm nhỏ nhoi nhờ làm nghề hớt tóc ở Hà Nội cũng đã cạn. Nhiều đêm trằn trọc, nghĩ tới việc kiếm tiền thỏai mái của mấy ông thợ hớt tóc, nghĩ tới lời thề độc năm xưa khi quẳng thùng tông-đơ, dao, kéo xuống Hồ Tây, mồ hôi trong người Đại Quan rịn ra. Tự ái, lo âu và bực tức giằng co dữ dội trong tâm trí khiến Đại Quan muốn phát bệnh cho đến một ngày nọ, có thể Đại Quan cũng đã muốn buông xuôi theo dòng định mệnh, cho nên rầu rĩ nói với ông chú:

-Thưa chú, thực tình cháu không muốn làm lại cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa …nhưng có lẽ cũng chẳng còn con đường nào khác. Chú có nghĩ rằng mồ mả đã kết phát như thế thì cũng chẳng thể cải số được chăng?

Tới mức này thì chính ông chú cũng bực bội với Cụ Tả Ao, với chuyện để mồ để mả năm xưa của tổ tiên. Nhưng trước thực tế khó khăn của người cháu, chính ông cũng vô kế khả thi cho nên ông đành lên tiếng an ủi Đại Quan:

-Thôi thì cháu cứ tạm quay lại với nó một thời gian rồi chú cháu mình tính sau.

Bằng sự giúp đỡ của người chú, Đại Quan một lần nữa lại đi mua sắm tông-đơ, dao cạo râu, kéo, gương, lược rồi mướn một cái chái của một căn nhà lụp xụp ở Đường Trần Quý Cáp để hành nghề. Thế rồi do chăm chỉ, cần mẫn, khéo tay, công việc làm ăn của Đại Quan mỗi lúc mỗi trở nên khấm khá và chỉ hai năm sau đã mướn được ngay căn nhà bên cạnh để mở một tiệm hớt tóc đàng hòang với cái tên rất Tây: Coiffure Đại Quan với sự phụ tá của hai người thợ. Rồi công việc mỗi ngày mỗi thịnh vượng, Đại Quan mua lại được chính căn nhà đó và năm sau thì cưới vợ, một cô gái Nam đang làm thợ dệt cho Hãng Vinatexco.

Trên đời này người ta thường hay đổ thừa cho định mệnh hay mệnh số khi một biến cố xảy đến cho đời mình. Thế nhưng thật ra tất cả đều do quyết định của chính con người. Không một chuyện gì trên đời này mà không có quyết định của con người. Và cả anh chàng Đại Quan nhà ta cũng thế. Theo dòng thời gian, mặc dù đã là chủ một tiệm hớt tóc, đời sống dễ chịu nhưng trong thâm tâm Đại Quan lúc nào cũng mặc cảm với cái nghề đang nuôi sống mình và luôn thắc mắc về bí mật của cuộc để mồ để mả năm xưa. Trong vài năm đầu, Miền Nam tương đối thanh bình nhưng sau đó chiến tranh lan rộng và mỗi lúc mỗi trở nên khốc liệt. Vào năm 1968 khỏang 500,000 quân Mỹ đã phải đổ vào để cứu nguy sự xụp đổ của Miền Nam. Sài Gòn thì truất phế, lật đổ, đảo chính, chỉnh lý, biểu dương lực lượng, giới nghiêm liên miên khiến người dân sống trong không khí ngột ngạt. Thanh niên sinh viên lớn lên không nhìn thấy tương lai - ngọai trừ tương lai động viên và nhập ngũ và không còn thứ giải trí nào khác hơn là chui đầu vào các rạp cinê hoặc các phòng trà nghe nhạc tình, nhạc ủy mị, nhạc Trịnh Công Sơn do đó phòng trà, các quán cà phê mọc lên khắp nơi. Nhìn thấy thời cơ tốt, vả lại cũng là dịp để thay đổi số mệnh, ngòai ra làm chủ một quán cà-phê nhạc trông có vẻ “nghệ sĩ” và “oai” hơn là tiệm hớt tóc cho nên Đại Quan dẹp tiệm, mở quán Café Quan. Giống như lần ở Hà Nội, chàng đem tông-đơ, dao kéo ném xuống sông Sài Gòn rồi tới Lăng Ông ở Bà Chiểu thề độc là sẽ không bao giờ cầm lại mớ dụng cụ “oan nghiệt” này nữa.

Trong khi hiu hiu ngồi nghe nhạc, ung dung với lợi tức vừa đủ của quán cà-phê,  Đại Quan có lúc mơ về tương lai. Chàng thấy trên cái cuộc đời kỳ lạ này, chẳng phải văn hay chữ tốt, bằng cấp đầy mình mới có thể làm quan. Nhỏ không học lớn lên cũng làm quan. Một ông chuyên dạy lái ô-tô cũng trở thành nghị viên Đô Thành, một bà bán hàng ở Chợ Bến Thành cũng trở thành dân biểu Quốc Hội. Rồi một ông nghĩa quân ở Gia Định cũng trở thành nghị viên Hội Đồng Tỉnh, vậy thì có gì lạ khi một ông chủ quán cà-phê trở thành một nghị viên, rồi dân biểu ? Những vị này không là quan thì là cái gì nữa? Để thực hiện giấc mơ làm quan, chàng bắt đầu tham gia vào các sinh họat của Phường, Khóm, các đám giỗ, tiệc cưới, các hội ái hữu, đăng báo phân ưu, mừng đám cưới trên các báo…để thiên hạ biết tên tuổi mình. Giấc mơ đó cứ lớn dần, sáng dần cho đến khi…đột nhiên Miền Nam xụp đổ và “Cách Mạng” tràn vào.

Hình như Sài Gòn cái gì cũng xa lạ và lạc lõng với đoàn quân dép râu, nón cối, mũ tai bèo và xe đạp thồ tràn ngập đường phố. Có lẽ đòan quân đó lạc hậu với thành phố này tới nửa thế kỷ. Vì đây là cuộc “Cách Mạng” triệt để cho nên từng núi sách vở, báo chí, băng nhạc được đem ra đốt. Phòng trà, ca nhạc, vũ trường là sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy cần phải cho đi học tập cải tạo. Chính vì thế mà Đại Quan hốt hoảng đóng cửa ngay quán nhạc, phá bỏ lớp kính màu, chạy vội lên Chợ Cũ mua ngay tông-đơ, dao, kéo để mở lại tiệm hớt tóc…nhưng không dám lấy tên cũ Coiffure Đại Quan vì cái tên này nghe Tây quá. Mà giống Tây thì có vẻ “phản động” cho nên dựng một cái bảng mới: Hớt Tóc Quan.

Đối với “Cách Mạng” dù làm chủ một tiệm hớt tóc, giai cấp tiểu tư sản nhưng nó có vẻ thuộc giai cấp công nhân và gần gũi với “Cách Mạng” hơn. Nhìn thấy cả triệu viên chức chế độ cũ phải đi tù cải tạo, Đại Quan hú hồn hú vía, thầm cám ơn cụ cố tổ đã để mồ để mả cho làm nghề hớt tóc. Chứ nếu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” thì giờ này đã đi tù “Mút Mùa Lệ Thủy”.

Mặc dù không bị đi tù về tội làm chủ một quán cà-phê nhưng chịu chung số phận với hằng triệu dân chúng Miền Nam: Ăn độn, làm thủy lợi, vùng kinh tế mới, họp phường, họp khóm, họp tổ…và đói giã họng ra mà kêu trời không thấu. Nhắm không thể sống nổi dưới chế độ này, năm 1979 lợi dụng nhà nước cho phép đi bán chính thức, Đại Quan trà trộn vào đám thương gia Chợ Lớn và chuyến vượt biên bình yên, tàu cặp bến Bi Đông, Mã Lai.

Khi đặt chân lên đảo tỵ nạn, thóat khỏi Việt Nam đầy ác mộng, Đại Quan thầm cám ơn tổ tiên, Trời, Phật và nghĩ rằng từ đây cho đến ngày nhắm mắt lìa đời sẽ không bao giờ phải làm lại cái nghề hớt tóc và bao mộng đẹp khi định cư vào Mỹ hình thành.

Thế nhưng giữa mộng và thực luôn luôn là một khỏang cách xa vời và có khi đối nghịch hẳn nhau. Vì chỉ là thường dân buôn bán, không thuộc diện con lai, làm sở Mỹ, cựu quân nhân, công chức, tù cải tạo cho nên Đại Quan và gia đình không đủ điều kiện đi Mỹ. Nói khác đi Đại Quan thuộc thành phần “ở mục đảo”. Ba tháng qua đi rất nhanh, nhìn những gia đình tới đảo sau mình đã có “danh sách rời trại” Đại Quan nóng cả ruột. Vì thời giờ quá rảnh rỗi, chàng lang thang trên đảo để tìm hiểu cuộc sống của đồng bào tỵ nạn. Người Việt mình quả là một sắc dân có sức sống mãnh liệt. Thôi thì đủ thứ sinh họat phồn tạp diễn ra trên đảo. Người thì trồng bầu trồng bí, người làm nghề thợ may, đồ thủ công, hàng lưu niệm, chụp hình, mở quán cà-phê nhạc Việt nhạc Mỹ xập xình và dĩ nhiên có cả nghề hớt tóc. Chợ “chồm hổm”mỗi buổi sáng trao đổi củi, cá, thuốc lá, mì gói, bầu bí v.v.. nhộn nhịp như một khu chợ nhỏ ở một quận lỵ nào đó ở Việt Nam. Vàng lận theo người bán đi để sinh sống đã cạn. Mỗi lần đi hớt tóc phải trả hai Mã Kim tức khoảng một đô-la Mỹ, Đại Quan thấy “đau hơn họan”. Thế rồi sáu tháng qua đi rất nhanh, vợ lại mang thai, cuộc sống tù túng trên đảo mỗi lúc mỗi trở nên khó khăn, tương lại định cư thì mù mịt. Sau một đêm suy nghĩ mà đầu muốn bạc như Ngũ Tử Tư năm xưa,  Đại Quan cắn răng quên lời thề độc, bán đi chiếc nhẫn cưới của vợ để nhờ giám thị Mã Lai mua cho một bộ đồ hớt tóc. Hôm nhận hộp đồ nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ”, nước mắt Đại Quan trào ra.

Thế nhưng có lẽ do “tổ đãi” hoặc do mồ mả kết phát, giống như ở Sài Gòn, Đại Quan bắt đầu sống thoải mái, có tiền để mua thêm đồ ăn, sắm quần áo mới, giầy dép mới, máy C***ett Radio để nghe nhạc và mua được cả vàng do dân tỵ nạn mới đến đảo bán đi để sinh sống. Cuộc sống trong khắc khỏai, lo âu vì chờ đợi nhưng thỏai mái về tài chánh so với dân tỵ nạn khác cứ như thế kéo dài ba năm.

Chính phủ Mỹ quả là một chính phủ nhân đạo. Đối với những người “ở mục đảo”, tức không đủ điều kiện đi Mỹ, cứ một hai năm họ cho mở lại hồ sơ để cứu vớt một số, đặc biệt là các gia đình có con nhỏ. Dân tỵ nạn gọi hành vi nhân đạo này một cách nôm na bằng danh từ “hốt rác”. Thế là vợ chồng Đại Quan cùng hai con nhỏ được phái đòan Mỹ “hốt rác” và cho chuyển qua Trại Sungei Besi cũng thuộc Mã Lai rồi Trại Bataan, Phi Luật Tân học Anh Văn sáu tháng để định cư.

Thật mâu thuẫn, giống như những lần ở Hà Nội và Sài Gòn trước đây, dù nghề hớt tóc đã là cái phao giúp Đại Quan vượt qua những giờ phút ngặt nghèo nhưng lúc nào Đại Quan cũng căm hận cái nghề oan trái này. Hôm rời Đảo Bi Đông, Đại Quan ra cầu tàu, quăng  bộ đồ hớt tóc xuống biển cùng với lời thề độc giống như năm xưa.

Thấm thoắt thời gian sáu tháng ở Trại Chuyển Tiếp Bataan - Phi Luật Tân qua nhanh. Ngày rời Phi định cư vào Mỹ là cả nỗi hân hoan cho gia đình và tương lai rộng mở. Do không có thân nhân ở Mỹ, Đại Quan được một hội thiện nguyện bảo lãnh. Thế rồi cũng do sự giúp đỡ của hội thiện nguyện, gia đình Đại Quan xin được welfare, food stamps rồi xin được housing tức trợ cấp nhà ở. Thời điểm bấy giờ là năm 1982, kinh tế Mỹ phồn thịnh cho nên chính phủ cho các gia đình có con nhỏ ăn welfare “mút chỉ” tới 18 tuổi mới thôi. Nếu tiếp tục sinh con đẻ cái thì lại ăn welfare tiếp…tức là có thể ăn welfare mãn đời.

Không phải loại người làm biếng chủ trương sống bám vào welfare, nhiều lần vợ chồng tính nạp đơn xin làm ***embler tức thợ lắp ráp điện tử, thế nhưng được một số vị khôn ngoan đến Mỹ trước, khuyên: “Xứ Mỹ này rất kỳ lạ; Một là thật giàu, hai là thật nghèo. Vô sản thì chính phủ lo hết. Trung trung đứng ở giữa, đi làm đóng thuế sặc máu, về già lại không có MediCal. Trên đời này không có gì sướng bằng ăn welfare, ở nhà housing và đi làm chui lãnh tiền mặt. Nhiều người có tiền, nhờ thân nhân, con cháu đứng tên mua nhà cho thuê sống sung sướng lắm ông bà ơi!”

Trong những lúc rảnh rỗi chạy qua hàng xóm láng giềng tán dóc, hoặc la cà vào các khu thương mại người Việt dò hỏi, đâu đâu người ta cũng nói như vậy. Khi được biết Đại Quan đã có thời làm thợ hớt tóc ở Việt Nam, một số bạo miệng khuyên, “Sao ông không mua bộ đồ hớt tóc về nhà làm chui? Chẳng thuế má gì cả mà cũng chẳng ảnh hưởng tới welfare. Tiền không đấy ông ơi!”

Nghe nói tới việc trở lại làm nghề hớt tóc Đại Quan choáng váng cả mặt mày. Thế nhưng nếu đi làm thì welfar, housing bị cúp, lúc đó lại phải đi thuê nhà mỗi tháng cả ngàn đô-la, về già lại không có MediCal. Còn nếu cứ ở không như thế này thì thật uổng phí. Không giống như Việt Nam, ở Mỹ “lao động là vinh quang” có làm là có ăn, thời giờ là tiền bạc.  Thế là tâm trí Đại Quan một lần nữa lại giằng co dữ dội, dữ dội hơn cả những lần còn ở Việt Nam. Thế nhưng cuối cùng tiền bạc đã thắng. Tiền bạc như một thần lực, nó thắng luôn cả tự ái lẫn những lời thề độc năm xưa. Đại Quan một lần nữa lại đi mua sắm tông-đơ, dao, kéo, gương, lược để trở lại nghề hớt tóc ngay tại nhà mình.

Giống như được “cô độ”, công việc của Đại Quan lại trở nên phát đạt. Các ông bạn hàng xóm tới với Đại Quan vừa để ủng hộ đồng hương vừa là dịp uống trà, tán dóc. Hơn thế nữa, theo phong tục không biết có từ đời nào, hớt tóc ở Mỹ không có cạo mặt, không cạo râu, không lấy ráy tai mà phải trả 10 đô-la. Tới Đại Quan chỉ phải trả 8 đô-la thôi, vừa kỹ lưỡng, lại có đủ thứ và “báo chợ” đọc chơi. Mỗi buổi sáng Đại Quan rảo qua văn phòng các bác sĩ, nha sĩ nhặt báo đem về cho bạn bè và khách hàng. Nhà của Đại Quan giống như một “business” nho nhỏ và vui vui. Thế là Đại Quan một lần nữa tiền bạc rủng rỉnh, mỗi tháng kiếm hai, ba trăm đô-la dễ như chơi và  bắt đầu có dư để gửi về Việt Nam biếu gia đình bố mẹ ở Ninh Bình và ông chú ở Sài Gòn.

* * *

Với cuộc sống tương đối ổn định, trông lên thì chẳng bằng ai nhưng trông xuống thì chẳng ai ung dung bằng mình. Trong những lúc vắng lặng, Đại Quan suy nghĩ vẩn vơ. Xã hội Mỹ trông bề ngòai phồn vinh như thế nhưng đầy rẫy bấp bênh và đổi thay như chong chóng. Có những ông, nhà cửa đáng giá bạc triệu, đi xe Mercedes, tiền để ngân hàng, chơi stock bỗng nhiên ra homeless (3) sau khi ly dị vợ. Còn kỹ sư điện tử thất nghiệp, không sao tìm được việc phải đi bỏ pizza hoặc làm bồi cho nhà hàng. Nhìn thằng con đầu lòng sinh ở Sài Gòn giờ đã lên đại học, nghĩ tới việc để mồ để mả của tổ tiên, nhìn lại đời mình Đại Quan thấy có thể Cụ Tả Ao năm xưa đã chọn lầm đất khiến con cháu thay vì  ra làm quan lại đi làm nghề hớt tóc. Định mệnh đó theo đuổi mãi dù đã chạy qua tới đất Mỹ. Liên tưởng tới ngày thằng con trai mình ra trường đậu bằng kỹ sư, lấy vợ, rồi vợ chồng bất hòa ly dị, rồi trắng tay biết đâu nó chẳng phải làm nghề hớt tóc như bố nó ngày hôm nay?  Đại Quan rầu rĩ chia xẻ ý nghĩ này với vợ:

-Bà à, sao tôi lo quá. Tôi sợ rồi đây việc để mồ để mả linh thiêng của Cụ Tả Ao sẽ lại ứng nghiệm. Biết đâu đến đời thằng con mình nó cũng lại làm cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” như tôi?

Nghe nói thế, bà vợ thay vì lên tiếng an ủi, bà “xì” một cái rồi nói:

-Trời đất ơi! Ông ở Mỹ mà cứ như còn ở Việt Nam. Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý. Cụ thương dòng họ mình và biết  chắc rằng thằng chắt năm đời sẽ lưu lạc qua đất Mỹ cho nên cụ mới để mả cho nó làm nghề hớt tóc. Nếu như cụ để mả cho anh làm quan thì năm 1975 đã đi tù “mút mùa lệ thủy” rồi, qua đây làm nghề gì để sinh sống? Bộ anh tưởng một tháng kiếm hai, ba trăm đô-la “tiền tươi” (4) dễ lắm hả? Ở Mỹ này có tiền mua tiên cũng được. Thằng con mình nó giỏi tiếng Anh, nếu nó có theo “nghiệp tổ” thì nó sẽ phát triển thành năm, ba tiệm. Khi có tiền rồi thì nó làm gì mà chẳng được. Ông không thấy một ông Việt Nam làm nghề thầu rác vừa được tổng thống bổ nhiệm làm Phụ Tá Giáo Dục Tòa Bạch Ốc sao? Có tiền đóng góp cho mấy ông ứng cử viên tổng thống. Đắc cử rồi thì ông ấy cho mình làm quan. Ở Mỹ có tiền mua tiên cũng được ông ơi!

Nghe bà vợ nói thế mặt Đại Quan xụ xuống. Sau một hồi ngồi như kẻ mất hồn, chàng ta lẩm bẩm một mình:

-Ử, con mẹ trông nhà quê thế mà nói cũng có lý. Biết đâu thằng con trai mình sau này làm nghề hớt tóc phát đạt, góp tiền tranh cử cho các ứng cử viên thống đốc, tổng thống rồi sau đó được các ông ấy bổ nhiệm làm quan, tha hồ “bẻ đầu bẻ cổ” thiên hạ. Mình lẩm cẩm quá!


Đào Văn Bình

(Trích tuyển tập truyện ngắn Mê Cung, Ananda Viet Foundation xb năm 2019, Amazon phát hành)

(1) cắt tóc ngắn

(2) tiền típ, tiền trà nước

(3 ) lang thang không cửa không nhà như gã ăn mày

(4) tiền mặt và không phải đóng thuế



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 137
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.465 seconds.