Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 146
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/May/2025 lúc 8:40am

Có Một Thời Như Thế

Sáng 30/4/75, tôi dựng xe honda ở bờ sông Sài Gòn, đứng nhìn chiếc tàu hải quân của VNCH cuối cùng rời bến. Người ta bỏ lại xe hơi, xe honda, xuống tàu thong thả như một chuyến du lịch. Trong đầu tôi không có một chút xíu nào nghĩ rằng đó là lần họ vĩnh viễn rời đất nước. Thế nhưng không hiểu sao tôi lại đứng như trời trồng, không theo họ. Làm một cuộc viễn du cũng thích thú lắm chứ. Nếu như đất nước sau nầy tốt, đối xử tử tế thì mình lại trở về, có sao đâu. Cái ân hận nầy làm cho tôi ray rứt mãi, nhất là những ngày đói khát, thất tha thất thểu ở Sài gòn…Những đêm tập trung “ngụy quân, ngụy quyền” ra phường hội họp, ngồi dưới đất nghe người thắng trận trong rừng mới ra, mang dép râu, đội nón tai bèo, xối xả chửi vào mặt người ngồi nghe là thứ bán nước, theo chân đế quốc, “ngụy” tặc. Thấm đau cho cái ngu si không biết chọn lựa của mình, để bây giờ phải lỡ khóc lỡ cười. 


Tôi lên xe honda chạy qua Khánh Hội, người ta đang mở kho vơ vét. Tôi dừng xe ngồi nhìn. Một tay thuộc loại “anh chị” khiêng bao gạo 50 kí lô trên vai hỏi tôi có cần mua không? Tôi gật đầu. Anh ta ném bao gạo trên yên sau xe honda của tôi, không cần biết tôi đưa bao nhiêu tiền, anh trở vào kho vác bao khác ra ngoài, đứng dáo dác không có ai mua, anh cho tôi thêm một bao nữa để phía trước xe mà không lấy tiền thêm. Cửa kho mở rộng, ai muốn vào lấy cũng được, tội gì phải bỏ tiền ra mua. Tôi chạy xe về nhà người bạn tôi đang ở nhờ. Yên tâm trong bụng không sợ đói. Tôi chạy qua lại tìm mua một thùng nước mắm, hàng “hôi của” nên trả bao nhiêu tiền cũng được. Như vậy, tôi vững bụng không còn sợ thiếu ăn trong những ngày sắp tới, trong những ngày tranh tối tranh sáng, vô chính phủ. Về nhà mua một lít đế, mấy miếng khô cá, tôi và thằng bạn vừa nhâm nhi, vừa mở radio nghe ông Dương Văn Minh đọc diễn văn bàn giao đất nước lại cho người thắng trận. Xem như hạ màn một cách nhanh chóng, chế độ Miền Nam cáo chung, nhường sân khấu cho cộng sản điều hành đất nước. Hòa bình mà toàn dân khao khát đang thực sự “hiện thực”. Thế nhưng lòng người tan hoang, những chính sách sắt máu ụp trên đầu dân chúng. Đốt sách, cải tạo, đánh tư sản mại bản, đổi tiền v.v… toàn những món dân Miền Nam không thể nuốt trôi, ói ra máu. Đường phố áo quần lính chất đống,người người đi trên phố khuôn mặt ngơ ngác, không ai biết được mình sẽ đi về đâu. Mấy người trai trẻ hàng xóm mà tôi biết là những người lính Miền Nam, đi ngang qua nhà nhập vào uống rượu với tụi tôi. Hết lít nầy họ chạy đi mua lít khác. Tụi tôi ngồi nhậu tới chiều. Một bữa nhậu mà không có một tiếng nói to, âm thầm uống, hồn ai nấy giữ. Xong cuộc nhậu tự động ra về, chỉ chào nhau bằng cái gật đầu nhè nhẹ. Tôi thấy mọi người đều “xanh mặt”, mệt mỏi, lo sợ, như chờ đợi một cái gì không may ụp trên đầu mình. 


Ngày hôm sau, có những người mang băng đỏ trên tay xuất hiện trong xóm và điều khiển xe cộ trên đường phố. Trong xóm tôi ở đường Minh Mạng, Phú Nhuận,có một ông ca sĩ nổi tiếng Sài Gòn, lái chiếc xe jeep của người anh trước đây là trung tá của Miền Nam đi Mỹ để lại, trên xe ông và những người mang băng đỏ chạy khắp Phú Nhuận, hò hét như các tay “cách mạng” thứ thiệt. Có lẽ thời điểm nầy tôi đã chứng kiến biết bao khuôn mặt tráo trở, họ không có một chút xíu ngượng ngùng, tiếp tay chỉ điểm, đắc lực làm tay sai. Quả thật, tụi tôi hồi đó không sợ những người cộng sản, mà sợ những thành phần nầy, họ làm bất cứ việc gì để lấy điểm. Nên tụi tôi thấy họ phải lo tránh xa. Không loại trừ thành phần nào trong xã hội Miền Nam, đâu cũng có thứ nầy. Qua Mỹ lại thấy ông ca sĩ nầy mặc đồ lính rằn ri hát những bài ca của lính. Họ thay đổi còn hơn tắc kè. Đúng là cuộc sống đầy những nhiễu nhương.


Bây giờ kể lại những chuyện nầy như kể chuyện đời xưa, nghe lại thấy tức cười. Tội nghiệp cho những con người yếu đuối, vì tìm một chỗ yên thân mà họ phải táng tận lương tâm, làm những chuyện ruồi bu. Mấy ông có người thân đi tập kết về thì dựa hơi, bắt nạt người khác, hoặc to tiếng khẳng định lập trường của mình. Trong lúc chưa có người thì người ta để yên, mượn tay các ông để răn đe người khác. Khi có đầy đủ nhân sự thì cho các ông “chầu rìa”. Lúc đó các ông mới biết cái “lố bịch” của mình đối xử với anh em thì đã muộn. Có người phải tránh mặt anh em vì khi gặp nhau ngượng ngùng mắc cỡ. Có người bắt đầu ngồi quán café chửi đổng vì bị thất sủng.


Có lẽ trong buổi giao thời, tranh tối tranh sáng, mình mới thấy được những bộ mặt “ghê tởm” nầy xuất hiện. Họ như những tên hề đứng trên sân khấu múa may mà không biết trơ trẽn, lớn tiếng chỉ trích anh em có chút máu “ngụy”, như một tay cách mạng chính hiệu. Cái trò chỉ điểm, tố cáo để kiếm điểm, tìm một chút địa vị, lúc ấy thật đáng sợ, anh em thiêm thiếp chịu trận, không dám hé răng. Cái bối cảnh lúc ấy thật nhố nhăng, thật sắt máu, nghi kỵ lẫn nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Những người lập công cho “cách mạng” kiểu nầy dần dần bị đào thải, anh em thì xa lánh. Họ thui thủi như một bóng ma. Cho đến bây giờ thời gian quá lâu, mọi chuyện đã phôi pha, trong lòng mọi người không ai muốn nhớ lại.


Những năm đầu “giải phóng” người Miền Nam không ai ra được Miền Bắc để trông thấy ngoài ấy ra sao.Tôi có một thằng bạn thuộc “gia đình cách mạng”, muốn đi một chuyến ra Bắc, thế nhưng phải năm lần bảy lượt mới đi được, phải cỡ thứ trưởng bảo lãnh mới được cấp giấy cho đi. Sau khi trở về hỏi gì nó cũng không nói chỉ lắc đầu. Một bữa tôi với nó đi uống café, nó nói nhỏ vào tai tôi là trước khi nhận giấy ra Bắc, người ta dặn không được nói với ai về cuộc sống ngoài đó, nên nó không dám nói chuyện nầy với ai. Sau mấy đêm suy nghĩ, nó tự thấy như vậy là không đúng, tại sao không nói cho thiên hạ biết “chiếc nôi” của chủ nghĩa xã hội, cái thiên đường đã đánh đổ Miền Nam để cả nước cùng tiến lên. Nó không thể nào tưởng tượng Miền Bắc nghèo đói và lạc hậu đến thế. Phố xá cũ kỹ dơ bẩn, ngoài đường áo quần chỉ mỗi một màu ô-liu, thỉnh thoảng mới thấy màu xanh đậm, hình như cho công nhân, họa hoằn lắm mới thấy chiếc áo trắng, còn xe đạp bạt ngàn, không thấy có một chiếc xe gắn máy nào, nếu có thì chắc từ Miền Nam mang ra. Hà Nội dưới mắt nó sao thấy thảm thương quá chừng. Sau đó nó nói với tôi bằng giọng mỉa mai, “Tiến lên xã hội chủ nghĩa như vậy đủ rồi, còn tiến mạnh tiến nhanh thì chắc chết quá mầy ơi”.

10 năm sau (1985),tôi có việc phải ra Miền Bắc vì mấy cái hợp đồng với thương nghiệp ngoài đó. Tôi đứng giữa Hà Nội mà lòng thấy se thắt. Mấy chục năm, người dân “văn vật” chịu đựng một cách dai dẳng mà không nổi loạn nghĩ cũng lạ thật. Áo quần nghèo nàn nhưng con gái HàNội mặt mày sáng trưng,phần đông đẹp hơn các thành phố trong Nam. Dưới con mắt tôi, cái thanh lịch chỉ còn lại trên nét mặt của người con gái Hà Nội, còn bao nhiêu cái khác, sau 30 năm xã hội chủ nghĩa đã tẩy sạch hết, tiêu tan hết.


Mấy năm trước đây, tôi gặp nhiều văn nghệ sĩ Hà Nội qua Boston theo chương trình của William Joiner. Trong lúc trà dư tửu hậu, tôi có nói với họ về chuyện ra Miền Bắc của tôi năm 1985. Họ đều cười và nói với tôi rằng có dịp bây giờ nên ra Miền Bắc một chuyến, mọi thứ đều thay đổi một cách chóng mặt. Cái chính sách xã hội chủ nghĩa chỉ còn trên lý thuyết, người dân bây giờ giàu có, không còn tiến nhanh tiến mạnh như khi xưa, mà họ chạy đua theo kịp đà tiến hóa của tư bản. Đó là một bước tiến đáng mừng cho dân chúng, để họ được hưởng những tiện nghi, những phúc lợi mà thế giới đã giành được qua những phát minh phụng sự cho con người. Đứng trên phương diện nhân bản, thật đáng mừng cho những mảnh đời tưởng rằng sẽ sống trong tăm tối mãi mãi. Bây giờ ấm no hơn, thoải mái hơn, tuy nhiên vẫn còn bị những rào cản về tự do, dân chủ còn bị siết chặt.


Tôi có dịp lên Thái Nguyên, nhìn những cánh đồng chè bạt ngàn, những người hái chè buổi sáng sớm trong sương mù thật tội nghiệp. Đồng lương công nhân của công ty chè quốc doanh không bao nhiêu, mà phải chịu cực khổ một cách nặng nề. Tôi cũng có dịp đi Quảng Ninh, trông thấy công nhân mỏ than lam lũ trong hầm mỏ. Không biết những nhà lãnh đạo của giai cấp nầy trước đây có giống như anh chị em công nhân, mặt mày lấm lem, sống trong điều kiện kham khổ như vậy không. Chứ khi ấy nhìn họ thấy không khá nổi. Còn nhiều cảnh thật tang thương cho một chế độ xã hội chủ nghĩa mà họ ca tụng như là thiên đường. Thú thật tôi vỡ mộng.


Trước đây tôi không tin những gì mà bộ máy tuyên truyền của Miền Nam nói về Miền Bắc. Tôi không tin những tác phẩm của Xuân Vũ nói về chế độ Miền Bắc. Tôi cho đây chỉ là những tuyên truyền rẻ tiền để hạ nhau, chứ thực tế không đến nỗi như vậy. Sau khi ra Hà Nội, tận mắt nhìn thấy đời sống dân chúng, chứng kiến cảnh làm việc, nhìn thấy sinh hoạt của người dân từ nông thôn đến thành thị, thấy trật tự xã hội bị đổ nhào, đạo đức văn hóa không ai cần phải giữ gìn, những cảnh trắng trợn không ai cảm thấy xấu hổ. Tàu hỏa và xe buýt là nơi bọn đầu trộm đuôi cướp hoành hành mà cơ quan công lực không làm gì được. Dân chúng bị hà hiếp không biết kêu than nơi đâu. Phải công nhận người dân Miền Bắc gặp cảnh tai trời ách nước cay nghiệt, mà họ không hề phản kháng, chỉ cắn răng chịu đựng. Mà phản ứng làm gì được khi bao tử đói meo, chỉ lo mỗi cái ăn chưa xong, hơi đâu ôm đồm chuyện khác.

Xe chạy đến huyện Kỳ Anh (tôi không nhớ thuộc tỉnh nào vì lâu quá, hình như là Hà Tĩnh). Chúng tôi vào một quán cơm bên đường, người con gái bán cơm rất đẹp, nói giọng Hà Nội. Tôi nghĩ giữa nơi đồng không mông quạnh, lại có người nho nhã, ăn nói lễ phép và đồ ăn rất ngon. 


Trong lúc đó ngay tại Hà Nội chưa có quán ăn nào vừa ý. Tôi xin nói thêm chỗ nầy, Hà Nội lúc đó tìm một quán café cũng rất khó. Đi ăn phở phải xếp hàng và trả tiền trước. Đặc biệt, khi chúng tôi xếp hàng thì người giữ trật tự mời vào ngồi bàn trước, ăn xong mới trả tiền (ưu tiên cho dân Miền Nam). Tôi hỏi người thu tiền tại sao chúng tôi được đặc ân như vậy. Thì họ trả lời là phải thu tiền trước để biết khách muốn ăn bát phở giá bao nhiêu, thì làm đúng với giá tiền, nếu không họ chỉ trả ít hơn thì mình không biết phải làm sao, hoặc ăn xong không trả tiền rồi bỏ chạy. Còn các anh ở Miền Nam đã quen với cái lối trả tiền sau, các anh nhắm mình có đủ tiền mới vào quán và nếu có bỏ chạy thì các anh không biết đường nào mà chạy thoát được. Vì vậy chúng em phải tiếp các anh như ở Sài Gòn vậy. Chính quyền cách mạng xem tụi tôi như một thứ ghẻ lở, nhưng bà con Miền Bắc thì lại xem tụi tôi rất thân tình. 


Sau khi ăn xong, tôi hỏi về gia đình. Giọng nói của cô gái khác với những người chung quanh. Cô cho biết cha mẹ cô là dân Hà Nội chính gốc, sau 54 bị tịch thu nhà cửa và đi kinh tế mới nên phải trôi giạt vào đây. Cô hiện thời là sinh viên, cuối tuần phải về để giúp đỡ cha mẹ bán cơm. Nhìn hình ảnh của cô, tôi liên tưởng đến những bà con ở Sài Gòn đi kinh tế mới. Chắc chắn họ không được may mắn như gia đình cô hiện thời, cái gốc Sài Gòn của họ rồi cũng sẽ mất. Nhà to cửa lớn của họ đã được các “quan cách mạng tiếp thu”, đổi chủ một cách hà khắc. Chưa có một cuộc sống nào người dân phải chịu đựng oan ức như trong thời “giải phóng”. Tôi nhìn ra cánh đồng xa xa, thấy những chiếc áo tơi (chầm bằng lá buông mà vào khoảng thập niên 60 không còn thấy xuất hiện tại Miền Nam), nhấp nhô trên đồng ruộng. Tôi hỏi cô gái trời nắng như vậy mà tại sao phải mặc áo tơi. Cô ta cho biết, làm gì có áo mặc để làm ruộng, họ mặc áo tơi để thay cho áo vải. Nhìn qua cánh đồng khác tôi thấy người kéo cày thay cho trâu bò. Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy cái cảnh thân hình thiếu ăn ốm o, choàng sợi dây trên vai kéo cái cày,có một đứa bé đứng phía trên,thật tội nghiệp. Những năm của Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã gặt hái những gì tốt hơn cho người dân? Cái cảnh trông thấy trước mắt mà tôi có dịp ra Miền Bắc, cho tôi một bài học là phải bằng mọi cách tìm đường ra nước ngoài, nếu không thì quá trễ, và viễn ảnh cho thấy cuộc đời sẽ khốn nạn, thê thảm, bần cùng như bà con ruột thịt Miền Bắc đang gánh chịu.


Một chuyện buồn cười. Xe của chúng tôi tới Bến Thủy, chờ lên phà để về lại trong Nam. Đoàn xe nối đuôi nhau dài cả cây số. Tôi nghĩ trong bụng ở đây chờ ít nhất phải 2 ngày trời mới tới phiên mình, vì lúc ấy chiếc “phà” chỉ chở được 4 chiếc xe vừa qua lại mất cả tiếng đồng hồ. Nói là “phà” cho nó oai vậy, chứ quả thật là mấy cái phao cột dính lại với nhau, một chiếc tàu nhỏ như ca-nô kéo đi. Tôi nghe các tài xế chạy trên đường xuyên Việt kể lại rằng trong mùa nước lũ, phà bị đứt dây trôi mất là chuyện thường. Tôi hỏi thế thì xe và người trên phà phải làm sao? May mắn thì được vớt, còn không thì chết thôi. Chuyện quan trọng như vậy mà người kể chuyện xem như thường và những cơ quan có trách nhiệm điều hành về phà qua lại trên sông,tỉnh bơ xem đó không quan trọng, không phải trách nhiệm của mình. Chiếc phà bao năm vẫn không thay đổi. Cho nên mấy chiếc phà bắt qua bắc Cần Thơ hay bắc Vàm Cống thấy rất an toàn.Đang ngồi trên xe tán chuyện với nhau, thì người phu cầm cờ đỏ chạy đến xe chúng tôi hỏi có cần phải qua phà nhanh không? Người tài xế hỏi ông giá bao nhiêu. Ông trả lời muốn đi ngay thì cho nhiều một chút, muốn qua phà chậm thì ít hơn. Người phu cầm cờ đỏ đưa 2 ngón tay (có ý là 200 đồng) chạy ngay. 200 đồng, lương công nhân thuở đó là 50 đồng một tháng. Ông ta cầm cờ đỏ giơ cao chạy trước, miệng la lớn: “Anh em Miền Nam giúp đỡ anh em Miền Bắc”. Họ xem cái chuyện đút lót nầy là bình thường, là công khai, cho những chiếc xe khác noi theo. Chiếc xe của tụi tôi ưu tiên xuống trước. Đứng trên phà qua sông, thật tình tôi ngao ngán cho một xã hội mà tôi đã chứng kiến trên Miền Bắc. Rồi đây Miền Nam của chúng tôi sẽ lăn trên vết xe của đồng bào ngoài kia đã trải qua. Bấy giờ chúng tôi đã thấy ngột ngạt khó thở, người ta đã bắt đầu áp dụng đường lối cứng rắn để uốn nắn dân Miền Nam rập khuôn Miền Bắc.


Xe chạy đến Quảng Bình,thành phố xem như bình địa vì bị bom của Mỹ rải nát, 10 năm sau vẫn còn nguyên si, không sửa chữa. Thành phố lợp tranh trên những nền nhà cũ. Nhà thờ chính Quảng Bình chỉ còn trơ lại gác chuông. Dấu tích chiến tranh vẫn chưa xóa, nhìn thành phố chúng ta đủ biết nơi đây đã nhận biết bao nhiêu bom đạn. Chúng tôi vào uống nước tại một căn nhà tranh trên quốc lộ,chủ quán là một anh thương binh trạc tuổi tôi. Lúc đầu mới vào anh nói chuyện với chúng tôi sặc mùi cộng sản. Chẳng hạn như về những năm tháng chiến tranh mà Quảng Bình nhận lãnh hậu quả nặng nề nhất. Anh nói rất tự hào: “Quảng Bình quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Người dân Quảng Bình kiên cường đứng đầu cả nước chống giặc xâm lăng Mỹ”. Tụi tôi chỉ lắng nghe anh thao thao bất tuyệt về chiến tranh, về chính sách, về con người sống thế nào cho phù hợp chế độ. Luận điệu nầy tôi đã từng nghe những người thắng trận lớn lối nói ra rả vào tai tụi tôi. Anh hỏi tôi trước khi hòa bình tôi làm gì ở Miền Nam. Tôi không trả lời ngay câu hỏi của anh, tôi vén ống quần cho anh thấy cẳng chân giả làm bằng plastic. Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn: “Tôi là người lính của Miền Nam”. Sau khi nhìn thấy sự mất mát thân thể của tôi, sau khi nghe tôi xác định một cách chắc nịch về con người thật của tôi, con người mà đứng trên chiến tuyến là đối nghịch với anh. Tôi nói không có một chút thù hận, không tranh cãi với anh, tôi chấp nhận danh phận không may mắn của tôi. Thái độ nầy tôi làm cho anh bất ngờ lúng túng. Tôi thấy anh ngồi suy tư, nhìn tôi có chút ngậm ngùi. Anh thấy những gì anh nói với tôi đều là những câu tuyên truyền không cần thiết, 10 năm “giải phóng” tôi đã hiểu rõ chân tướng của chế độ, có đánh bóng nó cách mấy cũng không thể che đậy cách trả thù hèn hạ trên đầu anh em chúng tôi. Tôi trả tiền nước rồi ra xe, anh chạy theo bắt tay tôi thật chặt, anh nói là anh cảm thấy mắc cỡ ăn nói quá nhiều hàm ý tuyên truyền, khi nhìn thân thể tôi, anh biết không dễ gì lay chuyển được tôi. Dù là người bại trận, đang sống dưới chế độ thù nghịch, tôi vẫn không tránh né về thân phận của mình.


Từ Quảng Bình về Quảng Trị con đường gập ghềnh, lởm chởm. Xe qua cầu Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử ngăn chia Nam Bắc. Chiếc cầu nhỏ nhắn, dễ thương, nó đứng giữa ranh giới chứng kiến biết bao nhiêu tai ương đổ xuống trên đầu nhân dân hai miền Nam-Bắc. Nó ngăn cách không những chế độ bên nầy, bên kia, mà nó còn ngăn cách cả lòng người, xé tan tình tự của dân tộc. Bao nhiêu năm hòa bình mà ấn tượng, đố kỵ còn nặng nề quá vẫn chưa biết làm sao nối lại được.Chiến tranh chỉ trong vòng 20 năm mà đến 35 năm sau sống trong hòa bình vẫn chưa có cách nào chung sống trong tình anh em ruột thịt.Tuy không còn cầm súng giết hại nhau, không còn ranh giới phân chia chiến tuyến, thế nhưng bức tường chắn giữa lòng người (nói theo kiểu Tưởng Năng Tiến) vẫn còn kiên cố ngăn cách đôi bên, không ai chịu phá bỏ và quên đi cái thời xa xưa nhục nhã của dân tộc.

Chút hồi ức nầy không dụng ý khơi dậy đống tro tàn, nhưng để nói lên cho chúng ta biết “có một thời như thế”, một thời mà không ai muốn nhớ lại, và rồi, cũng không thể nào quên được !!!

 

Phan Xuân Sinh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/May/2025 lúc 11:55am

Lời Giới Thiệu của KB NgụySaiGon:

Việt-cộng gọi Họ là Ngụy Quân, Ngụy Quyền. Việt-cộng cũng ra sức tuyên truyền Họ là những người tàn ác mất tính người. Ăn gan uống máu đồng loại. Họ cũng bị VC lên án là tay sai bán nước cho Mỹ. Sau ngày tan chiến, Họ bước chân vào tù không có ngày về. Bước chân đầu tiên trên đất Bắc, Họ đã được chào đón bằng những trận ném đá dữ dội từ những đồng bào Miền Bắc căm thù Ngụy. Họ là ai? Là những chiến sĩ Quân Lực VNCH hiên ngang bất khuất ngày nào. Họ, là những toán Biệt Kích đã nhảy ra Bắc, Họ là những phi công đã từng bay những phi vụ Bắc Phạt , Họ là những Thiên Thần Mũ Đỏ , Họ là những Cọp Biển, Cọp Ba Đầu Rằn, Họ là những Kỵ Binh can trường, là những chiến sĩ Bộ Binh, Pháo Binh… dũng cảm. Một trong những điều tâm niệm của người chiến binh QLVNCH là :“Làm mất lòng dân là xô dân về phía giặc cộng”. Cho nên trong hoàn cảnh nào, Họ cũng tranh thủ được nhân tâm. Dù trong tù bị ngược đãi hành hạ bị tẩy não, bị bỏ đói, bị bắt lao động khổ sai , nhưng người chiến sĩ QLVNCH vẫn giữ tư cách, ngẩng cao đầu không hàng phục, không cúi đầu trước kẻ thù. Và những người dân sống quanh trại tù kể cả những thân nhân của cai tù đã cảm mến phong cách của người chiến sĩ sa cơ. Đã gọi Họ là anh lính Cộng Hòa hoặc Người Tù Áo Hoa bởi vì họ mặc quân phục của Nhảy Dù… với chan chứa tình cảm thương mến và cảm phục.

Đại Úy Vũ Đình Lưu, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn lừng danh 2/5 Thiết Kỵ đã viết về tình quân dân như cá với nước của đồng bào Miền Bắc với những người tù từ một Miền Nam xa xôi nắng ấm. Sự giúp đỡ của những cô gái Miền Bắc đã cho thấy chính sách tuyên truyền nhằm bội lọ những người tù VNCH đã thất bại thê thảm.

Xin trân trọng cám ơn Đại úy Vũ Đình Lưu đã ghi lại một sự kiện có thật . Chính nghĩa bao giờ cũng thắng bọn hung tàn Cộng-sản. Xin trân trọng giói thiệu Quý độc giả bài viết ” XUÂN VÀ TÌNH NGƯỜI TRÊN RỪNG THIÊNG NÚI THẲM ” để nhớ, để ghi nhận một thời điểm khó khăn mà những chiến binh anh hùng QLVNCH phải chiến đấu để tồn tại khi Quân Lực của họ đã bị bức tử.

******

Câu chuyện này đã xảy ra cách nay trọn 32 năm, tại vùng rừng núi Sơn La. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa những người tù khổ sai biệt xứ và những cô sơn nữ người dân tộc Mường. Tình người, như một phép lạ không tưởng đã hiển hiện, làm rơi lệ anh em chúng tôi trên vùng cùng trời, cuối đất này.

“Nước nào độc bằng nước Sơn La. Ma nào thiêng bằng ma Hòa Bình”. Ma Hòa Bình “thiêng” ra sao, dễ sợ như thế nào thì tôi không được biết, chứ còn nước ở vùng Sơn La này độc hại vô cùng. Có những con suối uốn cong, với những thác nước, những ghềnh, thật đẹp. Cành lá sà sát mặt nước trông thật thơ mộng và quyến rũ. Nước suối trong vắt, lạnh tanh, hoàn toàn không có một sinh vật nào tồn tại được dưới làn nước này. Nước, nếu uống khi chưa được đun sôi, sau chừng nữa giờ thôi, bụng sẽ đau quặn thắt. Chân lội nước khoảng một tiếng đồng hồ, da sẽ đỏ au, ngứa, gãi đến bung máu. Một trại tù đã mọc lên nơi đây từ tháng 6 năm 1976, để “tập trung” cả ngàn Sĩ Quan QLVNCH nơi rừng thiêng, nước độc mà ngày xưa là chiến khu Việt Bắc của Việt Minh.


Bấy giờ năm 1978 sắp hết, xuân Kỷ Mùi (1979) cũng gần đến. Vùng Sơn La nầy phải công nhận có hoa đào tuyệt đẹp. Chúng tôi đã từng ngạc nhiên, trầm trồ khen ngợi hoa đào trong hai mùa Xuân đầu tiên đến miền thượng du Bắc Việt lạnh giá. Chính những bông hoa tươi thắm đã làm thay đổi hẳn màu sắc rừng núi buồn hiu. Những cây đào đã trải qua một mùa Đông lạnh buốt, bây giờ trơ trụi, không còn một chiếc lá, cành mang toàn những búp to tròn và sẵn sàng chờ nắng mùa Xuân sắp đến sẽ thi nhau khoe sắc thắm: trắng, đỏ, hồng.

Hôm nay đội thợ mộc chúng tôi xuất phát đi lao động lúc 7 giờ sáng. Hành trang lên đường bằng một vỏ lon sửa bột Guigoz bên trong đựng vài khúc sắn luộc cho buổi ăn trưa. Một ống nứa chứa chừng 1 lít nước uống, một con dao “quắm” để chặt nứa. Vì công việc gian nguy nên chúng tôi đồng chọn bộ đồ trận ngày xưa được cấp phát từ Long Giao (tháng 6-1975) để mặc vì tính bền chắc của nó. Trên lưng áo viết một chữ Tù to tướng bằng sơn trắng từ lúc chúng tôi đặt chân đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thường ngày chúng tôi ít mặc, ngoại trừ những ngày lao động như hôm nay. Theo thời gian, bộ đồ trận càng ngày càng rộng, đến nay mặc vào, ôi! sao mà rộng thùng thình, anh em chúng tôi nhìn nhau với cảm giác xót xa, buồn tủi.

Rời trại, “vệ binh” dẫn chúng tôi trực chỉ đến một ngọn đồi, bọn chỉ huy trại gọi là đồi “Pháo” vì Việt Minh đã đặt pháo phòng không để yểm trợ cho mặt trận Điện Biên Phủ. Chúng tôi đến chân núi sau một giờ, có đi ngang qua một làng Việt Nam – Tên làng này do chúng tôi đặt vì có nhiều người Kinh từ vùng đồng bằng đã lên đây lập nghiệp từ năm 1954 cũng vì “chính sách di dân vùng kinh tế mới” của Việt Minh. Thật ra, chỉ khoảng hơn mươi căn nhà xiêu vẹo, mái, vách làm bằng nứa, nằm rải rác hai bên con lộ nhỏ bé. Có một vài lần, những bậc cao niên đã có ý hờn trách rằng: “Chúng tôi nghĩ rằng các ông sẽ giải phóng miền Bắc, giải phóng kiếp sống bần cùng của chúng tôi, nào ngờ cơ sự như thế này”. Nghe sao quá đau lòng!!! Còn phần lớn cư dân địa phương là dân tộc Mường, Thái và Mèo, nhà cửa cũng cách nhau thật xa, họ sống trên những ngọn đồi cao khắp nơi trong vùng, hầu hết ở ngoài sự tổ chức của chính quyền địa phương.


Chúng tôi 20 anh em bắt đầu leo núi, ngọn đồi này thật cao, lối đi quanh co nhỏ bé lầy lội, hai bên là cây cối lẫn dây leo và đá tai mèo sắc bén. Một bên của đường mòn là vách núi cao dựng đứng, một bên là vực sâu. Sau một giờ đồng hồ chúng tôi dùng mọi cách để lên núi: đi, bò, đu dây, nhảy, người sau đẩy người trước, người trước kéo người sau thế rồi cũng đến một nơi tương đối bằng phẳng. “ Vệ binh” cho chúng tôi nghỉ mệt chừng 30 phút. Vừa ngồi nghỉ, chợt nhìn xuống chân đồi một đoàn sơn nữ người dân tộc Mường bắt đầu leo núi cũng theo con đường độc đạo này. Chúng tôi sắp tiếp tục hành trình thì các cô gái trẻ người Mường cũng đã đến, các cô cười nói vui vẻ một cách hồn nhiên và tiếp tục lên đồi. Sau một giờ đồng hồ nữa chúng tôi đến đỉnh đồi và bắt đầu công việc trại giao cho đội. Các bạn có biết cây gì đốt càng nhiều, thì càng dài không? Đó là cây tre, cây nứa. (Đốt ở đây là danh từ, không phải động từ).

Theo sự phân công của trại, chúng tôi đi chặt nứa mang về trại dựng cổng chào để mừng Xuân, vì cây nứa ở đồi này rất đặc biệt, lóng (đốt) rất đều, nứa già có màu đỏ hồng thật đẹp từ lúc còn tươi đến khi khô cứng. Khi chúng tôi gom nứa lại tại một bãi trống, là điểm tập trung mà “vệ binh”đã chỉ định trước để cột nứa thành từng bó. Ở đây, các cô gái Mường cũng đã lấy măng xong và ngồi quây quần, nói cười luôn miệng. Bên cạnh các cô là những gùi chứa đầy những mụt măng tre bụ bẩm, được ràng buộc cẩn thận. Hôm nay chúng tôi gặp một “vệ binh” trẻ người dân tộc địa phương khá dễ chịu, anh ta để mặc chúng tôi, còn anh mãi mê đi săn bắt chim rừng?


Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhìn lại “tư trang” mang theo đã được tập trung nơi đây, trước khi tản mác vào rừng để chặt nứa, chỉ còn lại chiếc lon Guigoz; còn gói lá chuối, bên trong là sắn, đã biến mất. Chiếc lon nầy bây giờ chứa đầy đọt chè xanh, sau khi chúng tôi băng qua những vườn chè bên sườn núi. Đã từ lâu, cư dân địa phương âm thầm tặng cho chúng tôi những món quà như ít chè xanh, vài ba trái ớt, vài nhánh hồ tiêu, kể cả đôi củ tỏi, gừng, nghệ. Những món quà nhỏ bé ấy, với chúng tôi bây giờ không phải một thứ gia vị; đó là những vị thuốc dân tộc quí hiếm vô cùng, dùng để chữa bệnh, nó đã cứu chúng tôi thoát được những giờ phút nguy hiểm do sơn lam chướng khí của núi rừng Hoàng Liên Sơn. Lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bên cạnh chiếc lon Guigoz có những vắt cơm nếp và ít thịt gà ram (đương nhiên là gà “đi bộ” rồi)! Ngay lúc đó các cô gái Mường tiến lại và nói với chúng tôi bằng những lời chân tình cảm động:

“Thưa các chú Lính Cộng Hòa, bọn cháu xin lỗi các chú, vì đã thay đổi khẩu phần ăn các chú mang theo. Các cháu đã dùng phần ăn đó, vì các cháu thèm sắn (hic), bây giờ các chú dùng tạm phần ăn này, các cháu sẽ bó nứa cho các chú”.


Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, rồi nói xin cảm ơn tấm lòng của các cô và cùng nhau ngồi ăn một cách ngon lành vì quá đói. Bữa cơm trưa đã xong, các cô gái Mường cũng đã cột xong những bó nứa. Chúng tôi đều thắc mắc hỏi “tại sao các cô bó phần nứa của từng cá nhân thành hai bó, làm sao chúng tôi mang xuống núi được”. Thông thường chúng tôi chỉ bó thành một bó thôi, vì một tay ôm nứa một tay còn lại xử dụng để vịn, chống, đỡ khi xuống núi để giảm phần trợt té. Các cô lại cười, những nụ cười thật trong sáng, hồn nhiên của người con gái miền thượng du và nói:

“Các cháu sẽ mang nứa xuống núi giúp các chú, các chú mang hộ gùi măng xuống núi cho các cháu”.

Chúng tôi nhìn lẫn nhau ngỡ ngàng, trong lòng xúc động, lại chỉ biết nói hai chữ cảm ơn. Nhìn qua các gùi măng có quai mang như chiếc “ba lô”của người lính trận. Nhất lên thử, khá nhẹ, trọng lượng chỉ bằng một phần tư bó nứa của chúng tôi. Bây giờ đã 2 giờ chiều, các cô bắt đầu vác hai bó nứa bằng vai đi một khoảng ngắn đến triền đồi, bèn thay đổi tư thế bằng cách kẹp nứa vào hai nách và xuống núi. Chúng tôi sửa soạn lại y phục, bỏ áo vào quần nịt thật chặc bằng dây rừng, vì biết trước rằng xuống núi sẽ khó hơn gấp bội lần. Đường xuống núi, không những chỉ đi, mà còn phải bò, lết. Chúng tôi mang gùi măng lên vai và lục đục khởi hành. Nhìn về phía trước các cô gái Mường di chuyển hết sức lẹ làng, như chạy băng qua những trở ngại đầy bất trắc.Còn chúng tôi dường như phần lớn ai cũng ngồi bệt xuống đất và lết ở những đoạn có dốc đứng, nhờ độ trơn của bùn lầy, đẩy, kéo chúng tôi về chân núi. Những chướng ngại vật như cây chắn ngang đường đi, đá tai mèo lởm chởm, với những khúc quanh nguy hiểm làm chúng tôi trợt té, ngã lăn nhiều lần.


Khoảng một giờ gian nan, vượt nhiều hiểm nguy, rồi tất cả chúng tôi cũng... mò về đến chân núi. Các cô gái Mường đã sắp những bó nứa ngay ngắn và ngồi chờ chúng tôi. Khi chúng tôi vừa đến nơi các cô đồng đứng lên. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên, vì sự không ngạc nhiên của các cô khi nhìn thấy thân hình của anh em chúng tôi bây giờ giống như những con trâu vừa ngoi lên khỏi vũng bùn lầy. Các gùi măng, mỗi gùi chỉ còn lại nhiều lắm là 3,4 mụt, có anh trao lại cho các cô chỉ một chiếc gùi trống. Những mụt măng kia đã văng xa khi chúng tôi té, bây giờ nằm đâu đó dưới vực thẳm. Các cô không ngạc nhiên, vì đây không phải là lần đầu tiên chia sẻ nhọc nhằn với chúng tôi, nhiều đội đã thay phiên nhau chặt nứa, đốn tre trên ngọn đồi này.


Lợi dụng “vệ binh” chưa về đến để đưa chúng tôi về trại, chúng tôi nói lời xin lỗi vì đã không làm tròn nhiệm vụ, và cảm ơn các cô, ghi sâu trong lòng, không bao giờ quên tấm lòng nhân nghĩa. Các cô đã giúp chúng tôi vượt được những khó khăn gian khổ dù chỉ một hai lần, đã chia sẻ những cùng cực, hiểm nguy với chúng tôi. Tri ân các cô đã nhường những phần ăn cho chúng tôi “một miếng khi đói bằng một gói khi no” thật sự quí hiếm vô ngần. Một điều làm cho anh em chúng tôi hết sức cảm động và hãnh diện là các cô đã gọi chúng tôi bằng “Chú Lính Cộng Hòa”. Đã từ lâu rồi, anh em chúng tôi không còn nghe được những từ thân thương, trìu mến đó. Mới có 2 năm, các cô đã hiểu biết được chúng tôi là những ai, những người như thế nào rồi sao?! Các cô cũng đã tâm sự rằng sắp đến mùa Xuân, Tết cận kề, biết chúng tôi bị tù đày, xa quê hương, xa gia đình, vợ con đang trông ngóng, biết chúng tôi buồn lắm, tủi thân lắm. Các cô làm những gì có thể được để chúng tôi có một niềm vui, dù rằng chỉ được những ngày giờ ngắn ngủi. Chúng tôi có hỏi tại sao các cô giúp chúng tôi? Câu trả lời của các cô gái trẻ người dân tộc Mường cho những người tù mà ngày xưa là những Sĩ quan QLVNCH, riêng cá nhân tôi sẽ không bao giờ quên vì đã hằn sâu trong tâm khảm. Câu trả lời đó là: “TÌNH NGƯỜI”.

Các cô còn bảo rằng biết đâu mai kia, mốt nọ chúng cháu sẽ không còn gặp các chú nữa với ánh mắt gợn buồn. Quả thật như vậy, cổng chào để mừng Xuân của trại chưa dựng lên. Tết cũng chưa đến, hoa Đào chưa nở rộ, chúng tôi phải đổi trại.

Ngọn đồi cũ mờ trong sương mù của núi rừng Sơn La, một thời để nhớ. Nhớ các cô gái Mường đã để lại một kỷ niệm không nguôi. Chúng tôi nhìn lại một lần cuối trước khi lên xe để về Yên Bái. Đây là đợt chuyển trại vội vàng về đồng bằng vì sắp có chiến tranh nơi biên giới Việt-Trung. Ngồi trong xe bít bùng tôi nguyện cầu cho những người ở làng Việt Nam được bình an trong những tháng năm còn lại. Các cô gái Mường gặp nhiều may mắn, gia đình các cô an vui, hạnh phúc. Cầu chúc các cô mau cảm nhận những tiếng “Kèn Nứa”(loại kèn làm bằng những ống nứa ghép lại của Dân tộc Mường) của các chàng trai thực lòng yêu thương các cô. Để mai kia, mốt nọ, các cô hân hoan cùng nhau lên đồi hái những Hoa Lau trắng về kết lại thành những chiếc gối xinh xắn gọi là lễ vật trong ngày cưới để biếu gia đình bên chồng. Một tập tục dễ thương đã có từ bao đời.


Ở Yên Bái không bao lâu, quân đội giao chúng tôi cho Bộ Nội Vụ quản lý. Và chúng tôi đến vùng trời nắng cháy: Tân Kỳ Nghệ Tỉnh để tiếp tục một quãng đời nghiệt ngã. Tiếp đến chiến tranh bùng nổ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1979, tại các tỉnh cực Bắc Việt Nam.

Nguyện cầu cho tất cả mọi người còn ở lại, sẽ ở ngoài vùng khói lửa chiến tranh sắp đến. Không chia lìa, tang tóc, đau thương như đồng bào Miền Nam đã hằng hứng chịu trong suốt chiều dài cuộc chiến. Một lần nữa xin chào tạm biệt mọi người. 


Vũ Đình Lưu

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2025 lúc 10:59am

Vẽ Ác

Hình internet

Chiếc hồ nhỏ nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo. Nước phẳng lặng, trong xanh, một thứ màu xanh lẫn lộn của nước, bầu trời tháng Tám và rừng thông mọc gần sát nước cả bốn phía, trừ phía đông, nơi có một chỗ thưa với con đường đất màu đỏ nhạt ngoằn ngoèo dẫn xuống hồ. Một vẻ đẹp thanh bình và cảm động, đến mức ông đứng ngây ra nhìn hồi lâu dù ở cái tuổi năm mươi của mình, ông đã đi nhiều và được chiêm ngưỡng nhiều cảnh sắc thiên nhiên kỳ thú. Chốc chốc, từ sau những bụi cây rậm rạp xuất hiện vài chú hươu ngơ ngác. Hươu nhà, tất nhiên, nhưng không vì thế mà giảm phần nguyên sơ hoang dã. Cách đấy không xa, cũng khuất sau những tán cây rậm, ông thấy lác đác có mấy ngôi nhà với làn khói chiều mỏng tang vấn vương trên mái. Một cảnh điền viên hiếm thấy. Khó tin rằng chỉ mấy chục cây số đâu đó phía dưới là cảnh phố phường chật hẹp, ngột ngạt với trăm nghìn cái bon chen, lo lắng.


Cãi nhau với vợ, chán nản với công việc và bạn bè, ông bỏ Hà Nội lên đây tìm nơi yên tĩnh và có vẻ như cái hồ này là chỗ lý tưởng. Ông là một họa sĩ đã đứng tuổi, có tài, học hành rất bài bản, vẽ nhiều và vẽ giỏi, đặc biệt sở trường tả thực. Tuy nhiên, khó có thể nói ông nổi tiếng trong giới. Người ta biết, nể phục nhưng chẳng bao giờ đề cao ông, có lẽ một phần vì họ không làm được cái ông làm, là vẽ rất tỉ mỉ rất giống thật. Giữa thời nhố nhăng thật giả này, ông bị coi là cổ lỗ, là “thợ nhiếp ảnh”. Hiền lành nhưng yếu bản lĩnh, có thể nói nhu nhược, ông đâm ra hận mình, hận đời, có khi đến mức độc ác. Ông thất vọng cả việc đến người thân duy nhất trong nhà là bà vợ cũng không hiểu ông nốt. Chính vì cãi nhau với bà (không phải lần đầu) mà ông lên đây.

Hôm qua vợ ông đã dùng con dao thái thịt đâm mấy nhát vào bức sơn dầu khổ lớn ông mới vẽ xong, miêu tả vua Agamênôn, thống lĩnh quân đội Hy Lạp đang tự tay cầm kiếm dí vào cổ con gái yêu của mình là Iphighênia làm vật tế thần trong cuộc chiến tranh T’roa. (Ông say mê thần thoại Hy Lạp, La Mã và vẽ nhiều tranh khai thác từ nguồn này. Đấy cũng thêm một lý do khiến người ta không thích ông - lai Tây và xa lánh cuộc sống).Thành ra, theo truyền thuyết thì các thần ở đỉnh Ôlimpơ thương tình cứu sống Iphighênia, nhưng giờ đây nàng lại bị chính tay bà vợ ông đâm chết. Đâm đúng tim. Khi đau xót nhìn kỹ, ông có cảm giác như trái tim nàng đang rỉ máu thật.

Bị căn vặn vì sao, bà vợ ông chỉ đáp:

“Kinh lắm! Tôi không chịu nổi.”

“Nhưng đây là nghệ thuật.”

“Nghệ thuật hay không thì cảnh chém giết cũng đáng kinh tởm. Ông không biết vẽ gì tử tế hơn à?”

Ông không đáp, chỉ lẳng lặng xách túi ra đi.

Quanh hồ chỉ có một xóm nhỏ độ hơn chục nóc nhà, cũng sống yên bình, lặng lẽ như quang cảnh nơi này, bằng nghề nông và gần đây thêm nghề nuôi hươu lấy nhung. Ông dễ dàng tìm được nơi ông muốn. Đó là nhà một một cặp vợ chồng già, con cái lên thành phố làm việc nên thừa một phòng trống. Họ bảo ông cứ ở đấy, bao lâu cũng được. Nếu muốn, họ nấu riêng cho ông, còn không thì “mời bác ăn với vợ chồng tôi, thêm bát thêm đũa cho vui. Chuyện tiền nong không quan trọng.”

Hai ngày đầu ông dạo lang thang quanh hồ và khu rừng lân cận. Mọi cái tuyệt vời, chẳng bị ai quấy rầy, thế mà thật lạ, sau phút choáng ngợp ban đầu, chiếc hồ và quang cảnh nên thơ nơi này chẳng làm ông thanh thản chút nào. Hình như ông còn thấy khó chịu, giận dữ một cách vô cớ. Có thể vì nó quá tương phản với tâm trạng ông chăng? Nhưng trở về Hà Nội thì ông không muốn vì ở đấy còn khó chịu hơn.

Sang ngày thứ ba ông bắt tay vào vẽ, một cách hậm hực, cay cú và giận dữ. Lại đề tài khai thác từ thần thoại Hy Lạp. Ông vẽ cảnh Prômêtê bị xiềng trên vách núi đá Côcadơ, và một con chim khổng lồ màu đen đang xé ngực moi tim chàng. Tuy nhiên, đáng lẽ vách núi dựng đứng phải ở bên bờ biển sóng vỗ dữ dội, thì không hiểu sao ông lại thay vào đó bằng chiếc hồ con yên tĩnh, thơ mộng này. Mà lại vẽ rất giống, rất chi tiết, có cả mấy con hươu, mấy hòn đá xếp thành hàng từ ngôi nhà ông đang trọ dẫn xuống hồ. Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông dành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xòe hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng. Ba giọt máu tươi rơi phía dưới. Màu đen lông chim và màu đỏ của máu thật tương phản nhau. Đôi mắt con chim tròn xoe, hau háu và hung dữ. Còn chàng Prômêtê cao thượng bị thần Dớt bắt chịu hình phạt này vì tội dám lấy trộm lửa thần mang xuống cho loài người thì chịu đựng một cách dũng cảm. Tay chân chàng bị xích vào vách núi bằng những sợi xích khổng lồ. Người chàng cuồn cuộn các bắp cơ, đôi mắt mở to kiêu hãnh, nhưng trong đấy cũng bộc lộ một nỗi đau ghê gớm. Nỗi đau của trái tim bị cái kìm nhọn mỏ chim cấu rứt từng mẩu.

Tất cả những chi tiết này được ông vẽ sinh động như thật. Chính ông cũng tự hài lòng với nghệ thuật của mình. Ông có cảm giác như nghe được hơi thở của Prômêtê, ngửi thấy mùi tanh của máu và bị đôi cánh khổng lồ của con chim chạm vào tay áo. Trong khi đấy, phía dưới lại là chiếc hồ con yên ả quen thuộc, có thật và nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo, nơi ông vẫn hàng ngày đi dạo. Tất nhiên ông biết sự trái khoáy của hai cảnh đó. Trong hội họa bố cục như vậy không chấp nhận được. Ông biết, nhưng đang bực mình, đang muốn phá phách, ông bất chấp điều ấy. Thậm chí ông còn lấy thế làm thích. Từ trong tranh con chim đen nhìn ông tán thưởng. Còn đôi mắt Prômêtê thì đầy vẻ đau đớn. Ông không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy vì hình như chúng oán trách ông. Cả chiếc hồ con cũng oán trách ông.

- Ấy chết, sao tay bác đầy máu thế? - Ông lão chủ nhà hỏi khi vào mời khách ăn trưa, cũng là lúc ông vừa thích thú ngắm bức tranh lần cuối và đang định bước ra ngoài.

- Đâu có, - ông họa sĩ cười. - Sơn vẽ đấy.

Rồi ông xòe cả hai tay cho ông lão xem. Trên các ngón tay ông quả thật máu chứ không phải sơn. Loãng hơn, tươi hơn. Ở đầu ngón trỏ tay phải có một giọt lớn sắp rơi xuống. Ông giật mình, vội chùi cả hai tay vào chiếc tạp dề trước bụng.

- Bác vẽ gì trông kinh thế này? - ông lão chủ nhà lại hỏi. - Sao để cho chim moi ruột gan người ta thế? Kinh quá!

Ông không đáp, chỉ gượng gạo cười vì vẫn chưa hết ngỡ ngàng với bàn tay dính máu.

- Bác vẽ cả chiếc hồ của chúng tôi nữa đấy à?

- Vâng. Cụ thấy có giống không?

- Có. Giống, nhưng... nhưng nó thế nào ấy. Nước ở đây bao giờ cũng trong xanh chứ không đỏ. Bác để máu rơi xuống hồ chúng tôi rồi. Tôi sợ lắm.

Ông họa sĩ lại giật mình ngạc nhiên. Chỗ nước phía dưới Prômêtê quả có màu đỏ thật, dù ông nhớ không hề vẽ như thế.

*

Chiều hôm đó ông dạo lâu hơn thường lệ, và lúc trở về do mệt, ông đi ngủ sớm. Trước khi lên giường, ông nhìn kỹ bức tranh lần nữa. Chỗ nước hồ đỏ ông vẽ lại mấy lần, cố bôi xanh thật nhiêu nhưng không hiểu sao chỉ lát sau lại hiện lên màu cũ. Prômêtê đang oán trách ông. Con chim đen trâng tráo nhìn ông với vẻ thích thú không che giấu. Nó là hiện thân Cái ác do chính ông tạo ra, thế mà giờ đây ông cảm thấy sờ sợ nó. Cảm giác sợ hãi mơ hồ ấy len cả vào giấc ngủ.

Trằn trọc mãi hồi lâu mới thiếp đi, bỗng ông chợt tỉnh vì nghe có tiếng động lạ. Tiếng phành phạch như tiếng quạt nan đập vào tường. Ông lấy làm lạ nhưng vẫn nằm yên. Hình như tiếng chim vỗ cánh, loại chim lớn, mà ngay bên cạnh. Sao lại thế được nhỉ? Chim nào vào đây và vào cách nào khi các cửa đều đóng kín? Tiếng động còn kéo dài thêm mấy giây nữa rồi im bặt, như thể con chim, nếu quả đúng đó là chim, đã bỏ bay đi.

Ông rón rén nhỏm dậy bật đèn và không tin vào mắt mình. Nơi trước đây là hình con chim đen bây giờ trơ toan trắng. Ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, lặng người không biết phải làm gì. Nỗi sợ âm ỉ suốt ngày lúc này làm đầu đầu óc ông tê cứng. Một chuyện phi lý không thể tin nổi, nhưng cái chuyện phi lý ấy đang xẩy ra trước mặt và ông không thể không tin. Ông ghé mắt nhìn lại, sờ cả tay vào lớp vải. Vâng, chỉ lớp vải trắng thô ráp. Thân hình lực lưỡng của Prômêtê bây giờ bị rách thêm một miếng to, trông càng dễ sợ. Cuối cùng, như chợt hiểu ra điều gì, ông vội lấy bút, pha màu rồi cắm cúi vẽ. Bộ ngực lực lưỡng của Prômêtê được chắp vá lại dần cho đến khi trên tranh chỉ còn lại mình chàng nguyên vẹn. Không có con chim Thần ác, không có trái tim bị xé vụn và những dòng máu đỏ. Ông cảm thấy đỡ sợ phần nào. Prômêtê nhìn ông với đôi mắt biết ơn.

Hôm sau, trời mới rạng, cả hai ông bà chủ nhà đã đến đập mạnh cửa phòng ông.

- Bác họa sĩ! Dậy đi! Bác họa sĩ! Đêm qua nhà chúng tôi mất hai con hươu.

- Việc này liên quan gì đến tôi? - Ông khó chịu nói, khi ra mở cửa cho họ. - Hay hai cụ nghi tôi ăn trộm?

- Ăn trộm thì không, nhưng liên quan thì có đấy.

- Tôi không hiểu...

- Tôi nghi con này! - ông lão bước thêm mấy bước, chỉ vào bức tranh. Con chim đen xuất hiện trở lại từ bao giờ trên chính bức tranh mới vẽ lại đêm qua.

Cố giấu ngạc nhiên, ông hoạ sĩ hỏi:

- Vì sao?

- Vì ở đây xưa nay chưa bị mất trộm cái gì. Vì đêm qua tôi nghe tiếng nó kêu, bay lượn quanh nhà. Bây giờ ngoài hồ còn sót lại ít thịt nó ăn chưa hết, in rõ móng vuốt của nó. Bác theo tôi ra xem thì biết.

Vẫn bộ quần áo ngủ nhàu nát trên người, ông họa sĩ theo họ ra hồ. Một góc hồ nước đỏ lòm vì máu của một phần ba con hươu chưa ăn hết nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

- Suốt đêm qua tôi không ngủ được, - bà già luôn im lặng, bây giờ lên tiếng. - Tim tôi đau nhói, cứ như bị ai lấy kìm rứt từng tí một...

- Cả bà cũng thế à? - ông chồng vội quay sang phụ theo. - Tôi cũng không ngủ được. Cũng bị đau ngực. Chính là do con chim đó! Chính nó!

*

Trưa hôm ấy, khi ăn xong trở lại phòng, ông họa sĩ thấy bức tranh đã bị ai lấy dao cắt nát, đúng chỗ con chim đen. Miếng vải bị cắt gấp xuống, làm thân hình nó méo mó, cổ bị chém đứt cùng chiếc mỏ sắc nhọn và đôi mắt háu đói độc ác.

Ông họa sĩ đứng im nhìn tác phẩm của mình, thờ ơ, không thương xót.

Một lúc sau ông già lại xuất hiện. Ông có vẻ bình tĩnh hơn, thậm chí hơi chút ngượng nghịu. Ông lúng túng ngồi xuống, tự tay pha ấm trà, rót vào chén đưa cho khách rồi hắng giọng hai lần, nói:

- Dân quê chúng tôi quen nói thẳng. Có gì không phải, bác bỏ quá cho. Số là... thực tình chúng tôi không muốn bác ở lại đây thêm nữa. Xin bác dọn đi nơi khác thật xa và càng sớm càng tốt. Bác biết đấy, nơi này vốn yên bình, giản dị, thế mà bác đến làm xáo trộn hết bằng những cái khủng khiếp kia. - Ông hất đầu về phía bức tranh.

- Vâng, hai cụ đã có ý thế thì tôi xin đi, tất nhiên. Tôi đi ngay bây giờ. Có điều, xin hai cụ hiểu cho, tôi là người hiền lành, chưa làm ác điều gì với ai bao giờ. Tôi chỉ là anh họa sĩ vẽ vời nhăng nhít, một việc làm thiết tưởng cũng vô hại.

Ông già trầm ngâm một chốc rồi nói, giọng buồn buồn:

- Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như làm việc ác vậy.

*

Leo ngược hết con đường quanh co màu đỏ gạch, ông dừng lại thở, đưa mắt nhìn lần cuối chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phía dưới. Nó đã lấy lại được vẻ thanh bình thơ mộng vốn có. Cạnh ngôi nhà nhỏ không xa mặt nước có hai chấm đen nhỏ. Đó là ông bà già đã cho ông ở nhờ nửa tháng qua. Có thể họ đang vẫy tay tiễn ông. Cũng có thể họ đứng đấy canh chừng có phải ông thực sự đi chưa. Rồi ông quay người, chậm chạp bước về phía đường nhựa, nơi có xe về Hà Nội. Trong đầu ông chẳng có gì ngoài nỗi buồn mơ hồ và cảm giác xấu hổ của người vừa làm điều xấu bị người khác đuổi đi. Bên tai văng vẳng câu nói chất phác mà chua cay của ông già:

“Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như làm việc ác vậy.”

Thái Bá Tân

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jun/2025 lúc 2:01pm

Người Chồng Gần 6 Thập Kỷ Chăm Vợ Bại Liệt, Vô Sinh

Ông Du Yuanfa đang chăm sóc vợ bị sốt. (Ảnh: People’s Daily Online)



Đôi khi những điều tuyệt vời nhất lại đến từ những con người bình dị nhất. Người chồng tại ngôi làng nhỏ tại Trung Quốc đã chứng minh tấm lòng tận tụy của mình khi chăm sóc người vợ bị liệt suốt 59 năm.


Đám cưới đơn giản mà tràn đầy hạnh phúc năm 1959 của ông Du Yuanfa và bà Zhou là kết quả cho một tình yêu ngọt ngào đơm hoa kết trái. Những tưởng hạnh phúc ấy sẽ là khởi đầu cho một tương lai tươi sáng, nhưng chỉ 5 tháng sau khi kết hôn, đôi vợ chồng trẻ đã phải đối mặt với một biến cố bất ngờ.

Bà Zhou, khi ấy mới 20 tuổi, mắc một căn bệnh kì lạ khiến bà bị liệt toàn thân. Ngày bà Zhou phát bệnh, ông Du lúc đó đang làm việc xa nhà ở một mỏ khai thác than của thành phố lân cận. Sau khi nhận được thư gửi từ gia đình thông báo cho ông tình hình bệnh tật của bà Zhou, ông đã sững sờ và không thể tin vào tai mình.

Ngày qua ngày, ông chăm sóc bà với một tình yêu không đổi. (Ảnh: People’s Daily Online)

 

Ông lập tức đi một chặng đường dài để trở về. Về tới nhà, ông thấy vợ nằm trên giường, không thể làm được việc gì nữa…

(Ảnh: People’s Daily Online)

Ông Du ngay lập tức xin nghỉ việc và tức tốc trở về nhà. Quyết tâm chữa trị cho vợ, ông mua một chiếc xe lăn và đưa bà đi khám ở nhiều bệnh viện. Nhưng tất cả bác sĩ đều chẩn đoán: Bà Zhou bị mất khả năng làm mẹ và sẽ nằm liệt giường suốt quãng đời còn lại. Bà mất toàn bộ cảm giác, bà thậm chí còn không thể cầm nắm được vật gì và các bác sỹ cũng không tìm ra nguyên nhân gây bệnh.

Bất hạnh đổ ập xuống đôi vợ chồng trẻ khiến họ tưởng như muốn gục ngã. Họ vừa mới bắt đầu một cuộc hôn nhân và đặt rất nhiều hy vọng cho một cuộc sống gia đình đầm ấm thì căn bệnh quái ác đã cướp đi tất cả… Bạn bè và một số người thân của ông Du khuyên ông hãy ly hôn với người vợ bệnh tật và bắt đầu một cuộc sống mới. Nhưng lương tâm của một người đàn ông có trách nhiệm và yêu thương vợ thật lòng khiến ông hoàn toàn phản đối những gì mọi người nói. Đêm hôm đó khi về nhà, ông đã nói với vợ:

“Em đừng bận tâm điều gì hết. Anh sẽ chăm sóc cho em cả cuộc đời”.

Thu nhập của gia đình hầu hết đền từ khu vườn nhỏ trước nhà. (Ảnh: People’s Daily Online)

 

Sau đó ông nghỉ công việc thợ mỏ và dành nhiều thời gian chăm sóc cho vợ. Đôi vợ chồng sống trong một ngôi nhà nhỏ, ông làm mọi thứ từ việc nhà đến nấu thuốc cho bà uống, cả thu nhập của gia đình đến từ khu vườn nhỏ trước nhà.

Ông cũng không ngừng tìm phương thuốc để chữa bệnh cho vợ. Khi có ai đó chỉ những phương thuốc mới, ông đều đi đến nếm thử để đảm bảo chúng không có độc rồi đem về cho bà uống. Tấm lòng của ông đã làm cảm động những người trong làng, họ thường cho gia đình ông những nhu yếu phẩm hằng ngày, thuốc men … Rất nhiều hội từ thiện cũng đã giúp đỡ gia đình ông khiến cuộc sống của gia đình được cải thiện nhiều hơn trước.


Hàng xóm và những tổ chức từ thiện giúp đỡ gia đình ông. (Ảnh: People’s Daily Online)

 

Đã gần 6 thập kỷ trôi qua, tình yêu của ông Du dành cho vợ vẫn ấm áp và son sắt như thuở ban đầu. Mỗi ngày, người đàn ông tần tảo ấy đều tắm rửa, bón thức ăn và xoa bóp cho vợ, và vẫn không ngừng hy vọng rằng điều kỳ diệu sẽ đến với bà, rằng một ngày nào đó bệnh tình của vợ ông sẽ được chữa khỏi… Cho dù phép màu có xảy đến với họ hay không, thì gần 60 năm đồng cam cộng khổ, chia sẻ khó nhọc ấy đã đủ khiến họ làm nên kỳ tích cho chính cuộc đời mình.

Nhiều người nghĩ tình yêu thực sự là hai người phải trải qua phong ba, sóng gió…phải ngọt ngào, phải thơ mộng mới được gọi là tình yêu. Nhưng tình yêu thực sự đôi khi chỉ là hai người cùng ở bên nhau, nương tựa vào nhau để vượt qua những bão tố của cuộc đời. Một mối quan hệ bền vững, kiên cường trước sóng gió không xuất phát từ sự chiếm hữu hay lợi ích cá nhân, nó bắt nguồn từ những trái tim quảng đại, vị tha và giàu đức hy sinh, bởi chỉ có những tâm hồn đẹp mới đem lại một tình yêu và hạnh phúc chân thành…



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jun/2025 lúc 2:15pm

“Đời Người Rốt Cuộc Đang Theo Đuổi Điều Gì”.


Gn đây mình đc được trên mng xã hi Trung Quc mt bài viết có tên gi là Đi Người Rt Cuc Đang Theo Đui Điu Gì tác gi là mt nhà văn ni tiếng trên 70 tui. đ tui 30 cng thì mình chưa có được cm nhn ging ông hoàn toàn nhưng cũng có được giác ng ít nhiu chia s li cho mi người cùng nghe nha.

Đã ngoài 70 tui ri gn đây tôi thường trăn tr mt vn đ, thng kê cho thy ch 44% người sng được đến tui như tôi, vy thì thôi còn lo lng phin mun điu gì na.

Mi sáng ăn cơm l tay làm rt nước st ra áo rơi xung đt làm V va dn va cn nhn.

y càm ràm như thế sut 50 năm tri mà nht cái đu. Nghe mà biết ci lòng dù b mng như mt đa tr con khiến trong lòng bc tc.

Nhưng nghĩ li liu còn được nghe cn nhn thêm my năm na.

Ăn ht lc thôi mà còn làm rung vãi khp nơi, b dy bo cũng đâu có sai. Bng tui tôi còn my ai nhai được lc gm ni mía na, nghĩ đến đây thôi li bt giác cười.

75 năm trên đi được mt nhiu vô k đâu, th cái gì cũng viên mãn nhưng có mt điu khiến tôi mãn nguyn, va được V chăm sóc va được nghe tiếng càm ràm mình, thc cht là phúc phn.

Tui tác con người 70 vi 60, 60 vi 50, không lúc nào là ging nhau c. 

Đng c t ra mình mnh m na, Lương Thc Thu tiên sinh đã nói: qua 50 tui cm thy mi năm sc khe mi khác, qua 60 tháng này kém hơn tháng trước, đến 70 là đi xung tng ngày. Còn qua 80 thì sinh mnh tính theo tng gi tng phút.

Sao mà nghe phũ phàng quá đi. Vy còn 90 tui ngi đàm đo cùng mi người thì sao nh? Lúc y v còn cn nhn na không. C đi theo đui rt cuc là vì điu gì.

Kỳ thc vô s người đã b qua mt chân lý nhiu vic vn dĩ chng cn có ý nghĩa, cuc sng vn là mt hành trình.

Ăn chơi hưởng lc chưa chc đã là phung phí thi gian.

Kh cc lam lũ cũng chng phi đã đáng được tán dương. 

Đi người vn là mt chui tri nghim và cm nhn không ngng.

Cuc sng là s chng cht ca vô vàn ý nghĩa ln nh, min mà bn mun bn hoàn toàn có th làm nhng vic tưởng chng như vô nghĩa, như th hn mơ màng ngm sao, ch bình minh.

Tri nghim ca bn chính là ý nghĩa ln nht, đi người không nht thiết phi làm nhng vic thế tc cho là có ý nghĩa.

Ý nghĩa là do ta t ban tng.

Cuc đi là tho nguyên mênh mông ch không phi là đường ray tàu ha.

Ch cn hin ti bn đang tn hưởng, đó mi là có ý nghĩa.

Kiếp người ngn ngi, sang năm sau chng còn bn cũng chng còn tôi.

Vt ln c đi chng mang theo được mt ht cát, chp nhn c kiếp cũng chng gi li được đôi chút hn thương.

Vy nên ta đâu có thi gian đ cãi vã, đ su mun, đ so đo tính toán.

Ta ch có thi gian đ yêu thương và tn hưởng tt c đu là phù du. Ch sng trn khonh khc hin ti mi là quan trng.

Thu nh đi hc quên mang tp bài làm coi như là tri sp.

Thi đi hc thi trượt vào trường mong ước cm giác như là ngày tn thế.

Khi yêu, xa cách người yêu thương tưởng chng như không th sng ni.

Gi nhìn li nhng khó khăn tưởng chng như không th vượt qua đu đã qua, nhng điu tưởng không chp nhn được cũng đã tr thành quá kh.

Cuc sng là chui la chn ni tiếp ch là thường tình.

Thc tế thì dù chn li đi nào con người ta cũng s hi tiếc mà thôi.

Người ta thường tô hng con đường mình đã không chn, nhưng ai ny đu biết dù thi gian có quay tr li vi tâm trí và tri nghim ngày y bn vn s la chn như thế thôi.

Ngonh đu nhìn li thuyn nh vượt muôn trùng núi hướng v phía trước con đường thì rc r Ánh Dương.

Con người chng ai ging ai c, k 20 tui đã mt mng, người 90 xuân vn sng vui, có người ra đi trong chp mt, k nm lit giường chc năm mi có th nhm mt xuôi tay.

Người hc cao vn đi chy ship, k ít ch li làm ch.

Người xinh đp t tun vn đc thân, người xu xí li sm con đàn cháu đng.

Người tài gii c năm chng v thăm cha m được đôi ln, k bình thường trn đi hưởng nim vui sum vy.

K hút thuc ung rượu đánh bài li sng th, người làm vic ct lc thì đt t tui thanh xuân.

Đâu là đúng, đâu là sai làm gì có chun mc, lòng bn chính là thước đo.

Nhng con s hin ra trước mt cht khiến ta git mình đi người sau ngn ngi đến thế.

Cuc sng không th tua li, hãy tranh th yêu thương điu đáng yêu, theo đui điu đáng quý, tn hưởng tng phút tng giây.

Nếu hi tôi ý nghĩa cuc đi là gì?

Xin thưa đi người vn là vô nghĩa.

99% người sau ba đi thi gian s xóa sch mi du vết tn ti ca bn, vy nên ý nghĩa cuc đi chính là tri nghim my chc năm ngn ngi bn đang được sng.

Đó là toàn b ý nghĩa ca sinh mnh, đng vì chút li ích nh nhen mà toan tính phin não.

Càng không nên dùng sai lm ca người khác đ trng pht chính mình.

Ngày mai và tai ương ai biết cái nào đến trước, đi người là vô thường, tnh gic là mt ngày, không tnh li được na, li là mt kiếp người.

Vic ta có th làm là dùng tâm, nếm tng miếng cơm, ngm tng đóa hoa, thưởng thc tng cnh sc, hoàn thành tng trách nhim, cm nhn tng khonh khc hnh phúc hin ti.

Hnh phúc là gì? Tht ra rt đơn gin chín ch: có nhà v, có người đi, có cơm ăn.

Cái gi là năm tháng bình yên kia thì thc ch là bát cơm nóng trên bàn, ngn đèn luôn thp sáng đi bn v.

Đi người có quá nhiu th không kp trước mt là mt ngày ngonh đu là hết năm quay lưng có khi là c mt kiếp người.

Hnh phúc mà ta theo đui sut đi không nm quá kh hay tương lai mà là giây phút hin ti.

Cnh vt trước mt ba ti trên bàn người thân bên cnh ba ba cơm bn mùa xuân h, giai nhân quây qun mnh khe bình an, đèn nhà m áp y chính là phong cnh tuyt đp nht nhân gian.

Hãy sng cho tht tt.

st.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 2:58pm

Miếng Ăn


Miếng ăn là miếng tồi tàn

Mất đi một miếng lộn gan lên đầu.

 

Câu nói dân gian trên chắc có lẽ chỉ được áp dụng tại Việt Nam hay những nước chậm tiến trong những năm tháng nghèo đói. Ăn uống là nhu cầu sống còn của con người và vì thế người ta nhiều khi phải đánh mất phẩm giá của mình để tồn tại. Tuy vậy, tôi thấy câu này vẫn có thể áp dụng tại Mỹ, đất nước giàu có nhất thế giới và đồ ăn thì dư thừa.

Trong một dịp mừng xuân tại giáo xứ nơi ba má chúng tôi ở trên Los Angeles, cộng đoàn Việt nam tổ chức ăn uống và văn nghệ trong hội trường nhà thờ sau thánh lễ.  Ngày hôm đó, mọi người được cộng đoàn đãi ăn bánh chưng cho đúng với tinh thần Tết Nguyên đán.  Một số thiện nguyện viên đứng cắt bánh chưng và bày biện chúng cũng như dưa hành, củ kiệu trên bàn để mọi người tham dự tiệc mừng xuân tới lấy ăn. Do má tôi ngồi nói chuyện vui vẻ với những bà bạn quen trong giáo xứ, ba tôi đi lên để lấy đồ ăn cho hai vợ chồng. Khi ba tôi lấy đôi đũa và gắp hai miếng bánh chưng, một cho má và một cho ba, để bỏ vào trong đĩa của mình, một bà trong ban tổ chức liền lấy đôi đũa của bà gắp một miếng bánh chưng trong đĩa của ba tôi để bỏ lại bàn và nói:

- Mỗi người chỉ được lấy một miếng!

Cái này không biết phải gọi là tình ngay lý gian hay là miếng ăn là miếng tồi tàn. Ở Mỹ, dịp tết ta, nhà nào cũng đầy bánh chưng và bánh tét. Nhìn thấy hai thứ bánh này là đã ngán tới cổ, ăn một miếng nhỏ nhiều khi nuốt không vô. Ba tôi chỉ vì lấy thêm miếng thứ hai cho má tôi mà bị bà canh bánh chưng kia đối xử như một đứa trẻ.

Hình như chuyện bị đòi lại thức ăn nó cũng bị …di truyền. Cách đây bảy năm về trước, tôi đi họp trong hãng. Buổi họp diễn ra vào lúc 12 giờ trưa cho nên hãng đãi ăn. Đồ ăn được bày ra trên một cái bàn dài trước cửa phòng để cho những người tham dự cuộc họp tự lấy đồ ăn trước khi ngồi xuống. Trước tiên là chồng dĩa, muỗng, nĩa, dao và giấy lau tay. Sau đó là khay thịt gà. Tiếp theo là khay thịt bò. Phía cuối bàn là khay cơm, rau và sau cùng là các chai và lon nước uống. Khi chúng tôi đến, cô thư ký thông báo:

- Mỗi người chỉ được lấy hai miếng thịt. Sau khi mọi người có đồ ăn, nếu còn dư, lúc đó các bạn mới được lấy thêm thịt.

Hơn mười năm về trước, khi các hãng còn nhiều tiền, mỗi khi đi họp như vầy, chúng tôi đều ăn thoải mái, chẳng bao giờ có hạn chế. Gần đây, vì để tiết kiệm tiền, đi họp được cho ăn như vầy đã là may mắn lắm rồi. Tôi vốn không ăn thịt đỏ cho nên khi đi đến khay thịt gà, tôi gắp hai miếng. Thấy vậy, cô thư ký lắc đầu không vui:

- Mỗi người chỉ được một miếng gà thôi.

Tôi vừa bỏ miếng thịt gà thứ hai xuống, vừa lầu bầu giải thích:

- Tôi không ăn thịt bò cho nên lấy hai miếng thịt gà.

Cô thư ký nhắc lại:

- Bạn có thể lấy thêm sau khi mọi người đã lấy đồ ăn.

Sau khi mọi người ngồi xuống và buổi họp diễn ra khoảng 15 phút, cô thư ký đến cạnh tôi nói nhỏ:

- Mọi người đã có đồ ăn rồi, thịt gà còn dư. Bạn có thể lấy thêm một miếng nữa.

Tôi lịch sự từ chối:

- Không sao, tôi ăn một miếng như vầy cũng đủ rồi.

Buổi họp kết thúc lúc 1 giờ trưa. Lúc tôi đi ngang qua bàn đồ ăn để về lại văn phòng, cô thư ký lại mời chào tôi lần nữa:

- Bạn muốn lấy thêm mấy miếng thịt gà nữa cũng được, còn dư nhiều lắm.

Dù thư ký tỏ vẻ ân hận, tôi vẫn dỗi và mỉm cười cảm ơn, nhất định không để miếng ăn là miếng tồi tàn và từ chối miếng thịt gà kia. Em thư ký này dám coi thường người Việt Nam mình và không biết rằng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, anh mày đã từng phải nhịn đói thiếu ăn mấy năm trời. Mấy miếng thịt gà kia thấm thía gì mà bày đặt giới hạn hai ba miếng.

Nhân chuyện này, tôi mới nhớ tới một người bạn học chung trường đại học cộng đồng khi mới qua Mỹ. Mỗi lần đám sinh viên chúng tôi rủ nhau đi ăn, bạn này không bao giờ ăn thịt gà. Khi chúng tôi hỏi lý do, bạn không trả lời. Khi tới nhà tôi chơi, bạn cũng không ăn thịt gà. Ba má tôi hỏi bạn cũng không trả lời. Mùa hè năm 1992, tôi qua Texas để trông coi tiệm tạp hóa cho bà chị họ, phòng của tôi trống, ba má tôi kêu bạn ấy tới ở. Bạn ấy chỉ có một mình ở Mỹ, ba má tôi coi bạn ấy như con trong nhà và kêu tới nhà ba má tôi ở trong lúc tôi đi Texas để cho ông bà đỡ nhớ tôi. Hơn nữa, làm như thế sẽ giúp bạn ấy tiết kiệm được hai ba tháng tiền mướn nhà. Trong mấy tháng đó, ba má tôi hỏi bạn ấy về chuyện không ăn thịt gà. Có lẽ do sống chung nhà và trở nên thân hơn, bạn ấy mới tiết lộ bí mật. Hồi bạn ấy ở bên đảo lúc vượt biên, gia đình bên cạnh bị mất con gà và đổ thừa bạn ấy ăn cắp. Vì bị oan, bạn ấy thề là sẽ không bao giờ ăn thịt gà nữa. 

Ba nhân vật trong ba trường hợp trên bị vu oan là tham ăn nhưng chẳng qua là do hiểu lầm chứ không thể áp dụng câu “Miếng ăn là miếng tồi tàn.”  Ngược lại với ba nhân vật trên khi muốn ăn mà lại bị người ta ngăn cản, nhân vật sau đây… bị ép ăn.

Tháng Mười Một vừa rồi, tôi đón con trai tan học ra và ghé vào tiệm Chipotle trên đường McFadden, góc với Harbor ở Santa Ana.  Để tập cho con trai tính tự lập, tôi bảo con phải tự gọi món ăn mình muốn. Con trai nói với nhân viên nhà hàng:

- I like a chicken burrito - Cháu muốn một cái burrito thịt gà.

Anh nhân viên nhanh nhẹn làm một cái burrito cho thằng bé. Sau khi gói xong, ra tới máy tính tiền, anh nhân viên hỏi:

- Có mua nước uống hay món gì nữa không?

Con trai lắc đầu:

-No, that’s it - Không, chỉ nhiêu đó thôi.

Anh nhân viên bấm máy:

- Vậy là $14.95.

Tôi móc thẻ tín dụng ra và quẹt vào máy tính tiền. Máy báo là không lấy được tiền.  Anh nhân viên nói:

- Try again - thử lại lần nữa.

Tôi cà thẻ lần nữa và cái máy cứng đầu không chịu lấy tiền trong nhà băng của tôi.  Anh nhân viên nhắc:

- Thử chùi thẻ vào áo rồi cà lại xem sao?

Tôi thử thêm hai lần nữa nhưng cái máy cứ nói là không lấy tiền được. Tôi kiểm tra bóp nhưng chỉ còn $2. Tôi hỏi anh nhân viên:

- Bạn có lấy Zelle không?

Anh nhân viên lắc đầu:

- Xin lỗi, chúng tôi không nhận Zelle.

Đồ ăn đã làm rồi, tôi không thể nào kêu anh nhân viên hủy món mình đã gọi. Tôi nói:

- Anh đợi tôi chút, để tôi gọi cho ngân hàng xem tại sao tôi không dùng thẻ được.

Thấy có vài khách hàng phía sau, tôi kéo thằng con qua một bên để gọi điện thoại cho nhà băng. 

- Alo, tôi đang mua đồ ăn cho con tại nhà hàng nhưng có vấn đề với thẻ nhà băng.  Bạn cho biết tại sao?

- Bạn cho tôi các thông tin cần thiết để chúng tôi biết bạn là ai.

Thế là tôi phải cho cô nhân viên ngân hàng số an sinh xã hội, địa chỉ nhà. Cô ta hỏi thêm:

- Bạn có nhớ lần sau cùng dùng thẻ, bạn trả tiền bao nhiêu không?

Con đang đói, mình đang quê vì không có tiền trả đồ ăn cho con, tôi cảm thấy bực mình dù biết rằng cô ta hỏi nhiều thứ là để bảo vệ cho mình. Suy nghĩ nát óc, tôi trả lời:

- À, tôi mới đổ xăng hôm qua hết $60.

- Bạn có nhớ cây xăng đó tên gì và ở thành phố nào không?

- Mobil ở Huntington Beach.

- Cám ơn bạn - cô nhân viên vui vẻ - Theo máy tính cho biết, có ai đó bên Á châu rút $20 ra khỏi trương mục của bạn tối hôm qua. Chúng tôi nghi đây là bọn gian lận thẻ tín dụng. Vì vậy, chúng tôi khóa trương mục của bạn. Bạn có trả tiền cho ai $20 bên Á châu hôm qua không?

Tôi nặn óc vài giây và trả lời:

- Cách đây một tháng tôi có mua một món đồ hết $35. Ngoài ra, tôi không có mua gì khác bên Á châu.

Cô nhân viên kết luận:

- Vậy đó là gian lận và thẻ của bạn bị khóa. Chúng tôi sẽ gởi cho bạn thẻ mới. Trong vòng năm ngày bạn sẽ nhận được. 

Tôi than vãn:

- Nhưng mà tôi cần trả tiền đồ ăn cho con tôi ngay lúc này.

Cô nhân viên tỏ ra thông cảm:

- Tôi xin lỗi, nhưng hệ thống máy tính đã khóa thẻ của bạn để ngăn chặn kẻ xấu lấy tiền của bạn.

Tôi nhẹ giọng:

- Tôi hiểu. Cám ơn cô.

- Chào anh.

Tôi rầu rĩ cúp điện thoại. Thế rồi trong đầu tôi lóe lên một sáng kiến. Tôi nói với anh nhân viên nhà hàng:

- Thẻ nhà băng của tôi bị khóa do có kẻ gian lận đánh cắp thông tin. Tôi sẽ băng qua bên kia đường để lấy tiền từ chợ Walmart. Anh giữ cái burrito, đừng vứt đi nhé. Chúng tôi sẽ trở lại ngay.

Anh nhân viên rất từ bi hỷ xả, cầm cái burrito lên, đưa về phía tôi và nói:

- Không cần đâu, cứ lấy cho bé ăn. Bạn không phải trả tiền.

Dù ngạc nhiên và cảm động trước cách đối xử quá đẹp của anh nhân viên, tôi từ chối:

- Không, tôi không thể nhận mà không trả tiền. Anh cho tôi vài phút, tôi sẽ quay lại. 

Chưa kịp quay đi thì tôi mới nhận ra rằng cho dù có qua Walmart bên kia đường để trả lại món đồ mua bên đó, tôi cũng không thể nào lấy được tiền mặt vì tôi đã trả cho món đồ ấy bằng cái thẻ nhà băng này. May quá, anh nhân viên ngân hàng tiếp tục… ép tôi lấy burrito:

- Bạn đừng suy nghĩ gì cả, cứ lấy cho cháu ăn mà không cần trả tiền.

Nhìn mặt con trai đang nhăn nhó vì đói và suy luận rằng nếu tôi không lấy thì nhà hàng họ cũng vứt cái burrito vào thùng rác thôi, tôi đành phải chấp nhận mình là tồi tàn vì miếng ăn:

- Ok, cám ơn nhiều lắm.  Tôi hứa ngày mai sẽ quay lại để trả tiền.

Anh nhân viên vẫn nhân từ như không thể nhân từ hơn:

- Bạn không cần trả lại tiền đâu.

Tôi ngại ngùng nhận cái burrito từ anh nhân viên:

- Cám ơn một lần nữa. 

Trên đường ra xe, tôi cảm thấy vừa quê vừa vui. Quê là vì không có tiền để trả đồ ăn cho con ăn. Vui là vì trong thế giới đảo điên, đầy hận thù này, vẫn còn có những người tốt như anh nhân viên nhà hàng kia. Qua kiếng chiếu hậu, thấy con trai đang ăn ngấu nghiến cái burrito, tôi đùa:

- Con thấy cái burrito có mùi nhang không?

Thằng con trố mắt:

- Tại sao có mùi nhang?

 

Tôi cười:

- Vì hôm nay ăn đồ chùa, không phải trả tiền.

Con trai cũng tỏ ra ngạc nhiên:

- Chú đó tốt quá daddy, cho mình burrito mà không lấy tiền.

Tôi giỡn với con trai:

- Ừ, chú đó tốt thật. Vậy từ nay, mỗi tuần mình ghé vào và nói rằng thẻ nhà băng bị khóa để chú ấy cho đồ ăn chùa.

- Con không nghĩ có lần thứ hai đâu.

Ngày hôm sau, tôi ra nhà băng gần nhà để rút tiền mặt đem đến trả cho cái burrito.  Khi đến nhà hàng, chúng tôi không thấy anh nhân viên hôm qua. Tôi hỏi thì cô nhân viên cho biết hôm nay là ngày nghỉ của anh ấy. Tôi kể chuyện hôm qua cho cô nhân viên nghe. Sau khi con trai kêu cũng cái burrito như ngày hôm trước, tôi nói với cô nhân viên:

- Bạn tính tiền hai cái vì hôm qua tôi chưa trả tiền.

Cô nhân viên hỏi lại:

- Bạn có chắc là bạn muốn trả tiền gấp đôi hôm nay không?

- Chắc chắn mà. Tôi đã hứa với anh ấy hôm nay tôi sẽ đến và trả lại tiền.

Cô nhân viên giải thích:

- Anh ấy là manager và có quyền dùng chức vụ đó để cho giảm giá hoặc cho không khách hàng. Bạn không cần trả lại đâu.

Tôi cương quyết:

- Bạn cứ tính tiền hai cái vì nếu tôi không trả cho cái burrito hôm qua, tôi cảm thấy áy náy lương tâm và sẽ không công bằng cho nhà hàng.

Cô nhân viên vui vẻ:

- Vậy thì tôi sẽ tính tiền gấp đôi và tôi sẽ nói cho anh ấy biết khi anh ấy đi làm ngày mai.

- Cám ơn bạn.

Tôi cảm thấy vui vì mình đã giữ lời hứa và không để mang tiếng “miếng ăn là miếng tồi tàn” dù cô nhân viên cứ cố thuyết phục tôi không trả tiền. Ở Mỹ, các doanh nghiệp rất quan trọng việc làm vừa lòng khách hàng vì họ muốn làm ăn lâu dài. Nếu dịch vụ khách hàng không tốt, họ sẽ mất khách trong tương lai. Sau câu chuyện tôi vừa kể, tôi có cảm tình với tiệm Chipotle hơn và hay mua thức ăn ở đó nhiều hơn trước.  Có nhiều người lợi dụng sự chiều chuộng khách hàng của các doanh nghiệp quá đáng để làm những việc không đúng lương tâm.

Một người bạn của tôi từng làm cho tiệm ăn nhanh McDonald’s ở trên khu Temple City kể rằng có hai cha con vô tiệm để mua hai cái Big Mac.  Thằng con ăn gần hết, quay qua ba nó:

- I am still hungry - Con còn đói.

Ông bố bảo thằng con:

- Mang cái miếng hamburger còn lại ra bảo nhân viên nhà hàng rằng cái hamburger không nóng đủ.

Người bạn tôi, khi nghe thằng bé nói thế, hỏi lại:

- Sao không đem nguyên cái burger sau miếng cắn đầu tiên để trả lại mà bây giờ ăn gần hết rồi mới than là không nóng.

Manager của người bạn thấy thế, nhảy vào can bạn tôi:

- Để tôi lo chuyện này.

Nói rồi anh ta lấy cho thằng bé một cái hamburger mới mà không tính tiền. Sau khi hai bố con khách hàng đó ra về, bạn tôi trách người manager:

- Tại sao bạn lại để cho họ làm như thế?

Người manager trả lời:

- Tôi biết là ông bố chơi bẩn để lấy cái hamburger thứ hai miễn phí nhưng một cái burger chẳng đáng là bao nhiêu. Tôi không muốn bị kiện cáo hay xì căng đan gây ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của nhà hàng.

Ở Mỹ còn một loại tiếp thị khá phổ biến là cho ăn thử. Nhiều người cũng lạm dụng quá đáng chuyện này để phải mang tiếng “Miếng ăn là miếng tồi tàn”. Vào cuối tuần, Costco hay có các xe để cho khách hàng ăn thử các món mà họ bán trong tiệm. Hôm đó tôi thấy có một gia đình người rất đông gồm có ông bà ngoại, hai cháu trai, hai cháu gái và bố mẹ của chúng. Tôi cảm thấy vui trước một gia đình ba thế hệ dắt nhau đi chợ.

Thế rồi cả gia đình xúm nhau ghé vào xe phát thịt gà để ăn thử. Ngoài gia đình ấy, còn rất nhiều người khác xếp hàng để chờ lấy món ăn thử. Bà nhân viên vừa bỏ lên 16 cái ly giấy nhỏ trong đó có miếng thịt gà, cả nhà nhào vào, mỗi người lấy hai cái. Thế là đám người đứng phía sau phải chờ bà nhân viên nấu đợt tiếp. Gia đình kia vừa đi vừa ăn thịt gà mới lấy được. Sau đó, họ xếp hàng trước xe phát bánh pizza.

Cũng như lần trước, khi ông nhân viên Costco vừa bỏ các cái ly có miếng pizza nhỏ xíu cho mọi người ăn thử, gia đình nhào vào lấy mỗi người hai ly. Ông nhân viên nhìn gia đình với con mắt vừa ngạc nhiên vừa khó chịu vì công trình hâm pizza của ông chỉ trong một giây tan biến như mây khói. Vừa đi vừa ăn pizza, gia đình kia hướng về xe phát bánh bao Đại Hàn.

Cũng như hai lần trước, chị nhân viên Costco vừa bỏ các cái ly chứa bánh bao lên là gia đình đó lại cuỗm luôn một lúc 16 cái, mỗi người hai cái. Giặc Mông Nguyên đi đến đâu là tiêu diệt không còn ngọn cỏ. Gia đình kia đi đến xe ăn thử nào thì đồ ăn không còn một miếng. Cứ như thế, đại gia đình dọn sạch các xe phát tacos, thịt bò, tôm tempura.

Sau khi làm sạch xe tôm, bà ngoại nhắc ông ngoại:

- Nãy giờ toàn ăn thịt, bột và tôm mà không có miếng rau nào. Ông kiếm xem có xe nào phát rau cho cả nhà ăn cho có chất sợi, không thôi mấy đứa nhỏ bị bón, ỉa ra máu.

Ông ngoại gật gù:

- Ờ, rau tốt cho sức khỏe.

Thế là ông dắt cả nhà đến cái xe phát rong biển (seaweed) để cải thiện chế độ ăn uống. Sau khi làm sạch xe rong biển, ông ngoại sảng khoái tuyên bố:

- Ăn no rồi, bây giờ mình qua xe nước uống để giải khát.

Mẹ của mấy đứa bé tán đồng:

- Ba nói đúng đó. Đồ ăn hơi mặn nên con thấy hơi khát.

Thế rồi cả gia đình đi đến khu có hai xe, một phát nước lã, một phát nước ngọt. Bà ngoại đề nghị:

- Chúng ta vào xe nước lọc nhé.

Con rể xua tay:

- Mình vào xe nước ngọt đi ngoại. Nước ngọt mắc tiền hơn. Nước lọc mình về nhà uống thiếu gì.

Bà ngoại gật gù:

- Ờ, con tính toán giỏi. Má không nghĩ ra.

Sau khi mỗi người làm hai ly nước ngọt, thằng cháu trai lớn nhất trong đám đề nghị:

- Mình ăn món chính rồi, nước uống rồi. Vậy mình kiếm món tráng miệng nha ông ngoại.

Ông ngoại gật đầu:

- Tất nhiên rồi. Nào, mình đi về phía xe bánh bông lan đi.

Xe bánh bông lan không có ai chờ đợi cho nên có rất nhiều đồ ăn. Gia đình tăng suất ăn của mỗi người từ hai ly lên ba ly. Trong tích tắc, cái xe bánh bông lan sạch sẽ như đồ chưa khui vậy. Bà nhân viên Costco xe này tỏ ra vui mừng vì được gia đình cứu ế. Thanh toán xong ba ly bánh ngọt, bà ngoại vừa ngáp vừa nói với ông ngoại:

- Ông nè, ăn uống đầy đủ rồi, giờ tôi thấy buồn ngủ. Ông dắt cả nhà ra cái khu ghế mát xa để mình đánh một giấc cho tỉnh táo.

- Ờ, tôi cũng cảm thấy buồn ngủ.

Anh con rể cũng đồng ý:

- Con đọc trên internet, các nghiên cứu nói rằng sau khi ăn trưa, nếu nhân viên ngủ 20 phút, đầu óc sẽ minh mẫn hơn và làm việc hiệu quả hơn.

Thế là cả nhà kéo nhau ra khu ghế mát xa. Có lẽ uống nước ngọt và ăn bánh bông lan nhiều đường quá cho nên cả nhà buồn ngủ. Trên đường đi đến khu ghế mát xa, anh con rể khoe với gia đình:

- Vậy là xong bữa trưa. Nếu đi ăn bên ngoài, gia đình mình 8 người cũng tốn ít nhất là $60 nếu ăn fast food. Còn ăn nhà hàng ngồi xuống thì cũng mất trên $100. Vào đây, đi ăn buffet kiểu này không tốn đồng nào mà bây giờ còn được đi mát xa nữa. Vậy là hôm nay nhà mình tiết kiệm được ít nhất $100.

Nghe đến đây tôi chịu hết nổi, tính chạy lại nói với gia đình nọ:

- Sau khi ngủ trên ghế mát xa, gia đình mình nên kéo nhau vào phòng vệ sinh để đái, ỉa và rửa ráy luôn. Về nhà không cần tốn nước hay giấy vệ sinh. Tiết kiệm thêm vài chục đô nữa.

Cũng may là tôi kìm hãm mình để không nói những lời đề nghị vô duyên đó. Nếu không, sẽ có một trong hai trường hợp xảy ra. Một là bị gia đình đó đập cho một trận nên thân nếu họ cho rằng tôi nói móc họ. Hai là, Costco sẽ sập tiệm nếu gia đình ấy cho rằng tôi thật lòng muốn giúp họ tiết kiệm.

Thấy mình hơi vô duyên khi xía vô chuyện của gia đình người ta và không muốn làm phiền giấc ngủ của họ, tôi đẩy xe đi hướng khác để tiếp tục việc mua sắm của mình.

Vì đã khá lâu không đi Costco, hôm đó tôi cần mua rất nhiều hàng hóa và vì thế tốn khá nhiều thời gian. Khi ra tính tiền thì cái hàng trả tiền dài như vô tận. Tốn khoảng 15 phút tôi mới trả tiền được. Đẩy xe hàng ra tới cửa, đi ngang qua khu food court, nơi Costco bán pizza, hot dog cho khách hàng, tôi thấy gia đình đó đang đứng sớ rớ ở trong góc.

Tôi hơi thắc mắc rằng lúc ở trong chợ, họ đã ăn uống buffet no say, sao bây giờ lại đứng trong khu bán đồ ăn. Nhìn kỹ một chút, tôi thấy bà ngoại đang nhanh tay thoăn thoắt kéo hàng loạt các giấy lau tay từ cái hộp giấy lau tay để những ai mua đồ ăn ở food court sử dụng. Khi rút tờ giấy sau cùng trong hộp đựng, bà ngoại nhắc con rể:

- Con tới bảo cái cô bán bánh rằng hết giấy lau tay rồi để họ đem thêm ra.

Cô con gái cản:

- Thôi, má lấy giấy vậy đủ rồi. Giấy này để cho những khách ăn tại đây. Mình không mua đồ ăn mà lấy hơn nửa hộp là nhiều rồi.

Bà ngoại không vừa lòng:

- Nhiêu đây chỉ đủ để nhà mình xài hai ngày. Tuần sau mình mới đi chợ nữa, làm sao có giấy xài.

Chắc thấy bà ngoại làm quá, anh con rể cũng tỏ ra lạnh cẳng:

- Hôm nay mình ăn buffet chùa và lấy giấy vệ sinh nhiêu đây giấy lau tay là đủ rồi.  Nếu hết, hai ngày nữa con chở má ra lấy thêm.

Lúc đó, tôi nhận ra trong xe của gia đình họ có hai cuộn giấy vệ sinh nhỏ hơn bình thường, không còn trong bao nylon. Thì ra họ vào nhà vệ sinh cuỗm luôn hai cuộn giấy vệ sinh để đem về. 

Nước Mỹ giàu có, đồ ăn không thiếu nhưng nhiều người vẫn để cho miếng ăn là miếng tồi tàn. Cái hamburger chẳng đáng là bao nhiêu nhưng ông bố đã làm gương xấu cho con mình dạy cho nó mánh mung để đòi nhà hàng cho một cái mới sau khi đã ăn gần hết cái bánh.

Gia đình tại Costco thì không có gì sai khi ăn buffet trong đó nhưng đồ ăn thử có nghĩa là mỗi người lấy một miếng thôi vì có những người khác cũng muốn thử. Khi gia đình nọ mỗi người lấy hai ly, mà gia đình tám người, những người đứng chờ phía sau không còn đồ ăn để mà thử. Nếu vì phải sống còn mà phải bày ra chiêu trò để có ăn thì cũng còn thông cảm được. Ngược lại, nếu có đủ điều kiện, có lẽ chúng ta nên tránh không để miếng ăn là miếng tồi tàn.

 

Hoàng Đình Minh Long

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 146
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.488 seconds.